Home Page by K2 Home Page by JSN PageBuilder

Kinh Tiểu Bộ – Khuddaka Nikàya

Giáo sư Trần Phương Lan dịch Việt

Tập 7 – Ngạ Quỷ Sự

-ooOoo-

Mục Lục

 

Phẩm I – Phẩm Con Rắn
1. Chuyện – Thí Dụ Phước Ðiền (Khettùpamà)
2. Chuyện – Con Lợn Rừng (Sùkara)
3. Chuyện Ngạ Quỷ Có Mồm Hôi Thối (Pùtimukkha)
4. Chuyện Hình Nhân Bằng Bột (Pitthadhìtalika)
5. Chuyện Ngạ Quỷ Ngoại Bức Tường (Tirokuddapeta)
6. Chuyện Ngạ Quỷ Ăn Thịt Năm Ðứa Bé (Pàncaputtakhadaka)
7. Chuyện Ngạ Quỷ Ăn Thịt Bẩy Ðứa Bé (Sattaputtakhadaka)
8. Chuyện Con Bò (Gona)
9. Chuyện Ông Chủ Thợ Dệt (Mahàpesakàra)
10. Chuyện Nữ Nhân Sói Ðầu (Khallàtiya)
11. Chuyện Con Voi (Nàga)
12. Chuyện Con Rắn (Uraga)
Phẩm II – Phẩm Ubbarì
1. (13) Chuyện Người Tìm Giải Thát Vòng Luân Hồi (Samsàramocaka)
2. (14) Chuyện Mẹ Của Trưởng Lão Sàriputta (Sàriputtatheramàtu)
3. (15) Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Mattà (Mattàpetì)
4. (16) Chuyện Nữ Ngã Quỷ Nandà (Nandàpetì)
5. (17) Chuyện Mattakundalì (Mattakundalì)
6. (18) Chuyện Ðại Vương Kanha (Kanha)
7. (19) Chuyện Ngạ Quỷ Dhanapàla (Dhanapàlapeta)
8. (20) Chuyện Tiểu Chủ Ngân Khố (Cùlasetthi)
9. (21) Chuyện Ankura (Ankura)
10. (22) Chuyện Mẹ Của Uttara (Uttaramatù)
11. (23) Chuyện Cuốn Chỉ (Sutta)
12. (24) Chuyện Nữ Quỷ Ở Hồ Kannamunda (Kannamundapetì)
13. (25) Chuyện Hoàng Hậu Ubbarìi (Ubbarì)
Phẩm III -Tiểu Phẩm
1. (26) Chuyện Không Chìm Trong Nước (Abhijjamana)
2. (27) Chuyện Ngạ Quỷ Núi Sànuvàsin (Sànuvàsinpeta)
3. (28) Chuyện Nữ Quỷ Hồ Ràthakàrà (Ràthakàràpetì)
4. (29) Chuyện Rơm Trấu (Bhusa)
5. (30) Chuyện Chàng Trai (Kumàra)
6. (31) Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Serinì (Serinì)
7. (32) Chuyện Người Săn Nai (Migaludda)
8. (33) Chuyện Người Săn Nai Thứ Hai (Dutiyamigaludda)
9. (34) Chuyện Những Phán Quyết Gian Dối (Kùtavinicchayika)
10. (35) Chuyện Khinh Xá Lợi (Dhàtuvivanna)
Phẩm IV – Ðại Phẩm
1. (36) Chuyện Vua Ambasakkhara (Ambasakkhara)
2. (37) Chuyện Serìsaka (Serìsaka)
3. (38) Chuyện Quỷ Thần Nandaka (Nandakapeta)
4. (39) Chuyện Ngạ Quỷ Revatì
5. (40) Chuyện Cây Mía (Ucchu)
6. (41) Chuyện Các Vương Tử (Kumara)
7. (42) Chuyện Vị Vương Tử (Rajaputta)
8. (43) Chuyện Những Ngạ Quỷ Ăn Phân (Gùthakhadaka)
9. (44) Chuyện Thứ Hai Về Các Ngạ Quỷ Ăn Phân (Gùthakhadaka)
10. (45) Chuyện Bầy Ngạ Quỷ (Ganapeta)
11. (46) Chuyện Ngạ Quỷ Thành Pàtaliputta (Pataliputtapeta)
12. (47) Chuyện Các Trái Xoài (Amba)
13. (48) Chuyện Trục Xe và Cây Gỗ (Akkharukkha)
14. (49) Chuyện Thu Góp Tài Sản (Bhogasamharan)
15. (50) Chuyện Các Nam Tử Của Nhà Triệu Phú (Setthiputta)
16. (51) Chuyện Sáu Vạn Cái Búa (Satthikùtasahassa)

***

Giới thiệu tập 7 – Ngạ Quỷ Sự

Gs. Trần Phương Lan

Chuyện Ngạ quỷ (Petavatthu) là tập kinh song hành với tập chuyện Thiên cung, miêu tả cảnh giới đau khổ của những người đã tạo ác nghiệp từ Tăng chúng cho đến giới cư sĩ tại gia. Các loài quỷ (Peta) trong các chuyện này gồm hai loại: một loại Ngạ quỷ hoàn toàn chịu khổ đau mọi mặt, và một loại quỷ thần được hưởng một phần hạnh phúc do một số thiện nghiệp đã làm và một phần khổ đau do ác nghiệp đời trước.

Tuy nhiên một số quỷ này được hưởng phước báo khi may mắn gặp thân nhân hay một vị Tỷ kheo thương xót nhận làm các thiện sự, bố thí, cúng dường v.v… rồi hồi hướng công đức về chúng để mong chúng được thoát khổ cảnh. Ở đây ta gặp những vần kệ miêu tả sự tương phản giữa hai cảnh giới ngạ quỷ và thần tiên của các loài quỷ.

Phẩm I – Phẩm Con Rắn

  1. Chuyện Thí Dụ Phước Ðiền (Khettùpamà)

Ðức Thế Tôn kể chuyện này trong lúc đang trú tại chỗ nuôi sóc ở Veluvana (Trúc Lâm) gần Ràjagaha (Vương Xá).

Thời ấy, ở Vương Xá có một người chủ ngân khố giàu sang vô cùng và chỉ được biết qua danh hiệu Ðại phú ông (Mahàdhanasetthi). Ông có một con trai độc nhất rất khả ái và xinh đẹp. Khi cậu đến tuổi trưởng thành, cha mẹ cậu suy nghĩ như vầy: ‘Nếu con ta chi tiêu một ngàn đồng mỗi ngày, thì dù cả trăm năm nữa số lượng tài sản này cũng sẽ không hết’.

Họ chẳng dạy cậu một nghề gì cả, vì suy nghĩ: ‘Việc học nghề sẽ tốn nhiều công sức mệt nhọc, cứ để nó an nhàn thân tâm hưởng thọ giàu sang thỏa thích’.

Thay vì dạy nghề, khi cậu đến tuổi mười sáu, họ cưới cho cậu một cô dâu kiều diễm, nhưng hoàn toàn thiếu đạo hạnh. Cùng với cô vợ, cậu đổ hết thời giờ vào việc hưởng thụ, thích thú tầm cầu dục lạc.

Khi cha mẹ mất, cậu phung phí tiền của vào đám vũ nữ, ca nhân và các đám vui chơi khác; sau khi tiêu hết tài sản, cậu trở nên nghèo khó, phải cố xoay xở để sống bằng cách vay nợ. Nhưng khi cậu không còn có thể vay được nữa và bị các chủ nợ thúc bách, cậu đưa hết ruộng vườn, trang trại, nhà cửa cùng các gia sản khác rồi trở thành kẻ hành khất, sống trong nhà tế bần của thành phố ấy.

Bấy giờ, một hôm, bọn cướp gặp cậu và bảo:

– Này chú, xem đây, chú làm sao ra khỏi cuộc sống khốn khổ này, chú còn trẻ và có năng lực. Hãy đi theo bọn ta và sống đầy đủ thoải mái bằng cách trộm cắp. Bọn ta sẽ tập luyện cho chú.

Cậu đồng ý và đi theo chúng. Bọn trộm cướp cho cậu một cây gậy lớn; và trong khi chúng đột nhập vào một cái nhà mà bọn chúng đã đục thủng một lỗ lớn, chúng đặt cậu ở chỗ ra vào và nói:

– Nếu có ai đến, hãy đánh chết nó đi.

Cậu vốn tâm trí đần độn, không phân biệt bạn thù, liền đứng đó và chỉ chờ đợi người khác đi đến.

Bấy giờ, người trong nhà trở dậy, chạy đi thật nhanh, nhìn đây đó, chợt thấy cậu đứng ở lỗ thủng ấy. Họ vừa nói:

– Chúng đây rồi, quân khốn kiếp, lũ trộm cướp, họ vừa chụp lấy cậu đưa đến nhà vua, trình:

– Tâu Ðại vương, tên trộm này bị bắt lúc đang phá nhà.

Vua ra lệnh cho đám quân giữ thành:

– Chặt đầu nó đi.

Bọn này giam cậu vào ngục và đưa đến nơi hành hình, chúng đánh cậu bằng roi trong lúc cậu đi theo tiếng trống xử tội. Cùng lúc quần chúng la lớn:

– Tên cướp phá hoại này đã bị bắt ở thành này.

Bấy giờ ở trong thành ấy, có nàng hoa khôi tên là Sulasà đang đứng bên cửa sổ. Nàng thấy cậu bị dẫn đi ngang, và vì nàng đã quen biết cậu từ thời trước nên nàng có cảm tình với cậu vốn là người từng đạt đại phú quí trong thành này, nàng liền cho gửi mứt bánh và nước uống, lại nhờ người nhắn với bọn giữ thành:

– Cầu mong các tôn ông đợi cho đến lúc người này ăn xong mứt bánh và uống nước.

Cùng lúc ấy trong thành này, Tôn giả Mahà-Moggallàna đang quán sát bằng thiên nhãn và thấy tình cảnh nguy khốn của kẻ này, Tôn giả động lòng bi mẫn và suy nghĩ: ‘Vì kẻ này chưa hề làm công đức gì, mà chỉ tạo ác nghiệp, y sẽ bị tái sanh vào địa ngục. Nay nếu ta đi ra và y cho ta mứt bánh và nước uống, y sẽ được tái sanh vào hội chúng các địa thần. Ta phải giúp đỡ kẻ này’.

Vì vậy Tôn giả liền xuất hiện trước tội nhân ngay khi mứt bánh và nước được mang đến. Khi cậu thấy vị Trưởng lão, tâm cậu được an lạc và cậu suy nghĩ: ‘Ta có lợi ích gì nhờ ăn mứt bánh này nếu ta phải chết? Giờ đây, chúng sẽ làm hành trang cho ta lên đường đi đến thế giới bên kia’.

Thế là cậu nhờ đưa bánh mứt và nước uống đi cúng vị Trưởng lão. Khi Tôn giả Moggallàna thấy nỗi thống khổ của cậu đã trở thành hoan hỷ, Tôn giả ngồi xuống và ăn uống xong rồi đứng dậy đi lên đường.

Còn người ấy bị các đao phủ đưa đến nơi xử tội và chém đầu. Nhờ hành động tín thành đối với Trưởng lão Moggallàna, phước điền vô thượng ở đời, kẻ ấy xứng đáng được tái sanh vào thiên giới cao cả. Nhưng vì niềm luyến ái phát ra đối với Sulasà khi cậu suy nghĩ: ‘Ta tạo được lễ cúng dường này là nhờ nàng’, nên ngay lúc lâm chung, tâm cậu trở thành bất tịnh và cậu tái sanh vào cảnh giới thấp hơn, làm vị thần ở trong cây chuối lớn có tàn lá rậm rạp trong rừng hoang.

Bấy giờ tình cờ vị thần thấy Sulasà trong vườn của nàng liền mang nàng đến nơi cư trú của vị ấy. Mẹ nàng than khóc, bảo vị ấy sau một tuần phải đem nàng trở lại. Bà mẹ kể chuyện cho mọi người nghe, khi họ hỏi bà sự việc đã xảy ra, và họ tràn đầy kinh ngạc bảo nhau:

– Các bậc A-la-hán quả thật là phước điền vô thượng ở đời, ngay một hành động từ bi nhỏ bé đối với chư vị cũng làm cho con người tái sanh vào cõi chư Thiên.

Chư Tăng thuật chuyện này lên đức Thế Tôn, Ngài bèn ngâm các vần kệ này để giải thích sự việc:

  1. Bậc Thánh ví như các ruộng đồng,
    Người cho là chính các nhà nông,
    Hạt gieo là vật đem dâng cúng,
    Kết quả từ đây được hưởng phần.
  2. Hạt giống đây và đám ruộng đồng
    Dành cho ngạ quỷ lẫn người trồng,
    Nơi nầy ngạ quỷ thường an hưởng,
    Thí chủ tín thành phước đức tăng.
  3. Vì hành thiện nghiệp ở trên đời,
    Cúng lễ các ma quỷ đói mồi,
    Sẽ đến cõi thiên làm trú xứ,
    Nhờ người đã tạo nghiệp an vui.

Khi pháp thoại chấm dứt, tám vạn bốn ngàn người được đắc Pháp nhãn.

  1. Chuyện Con Lợn Rừng (Sukàra)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại chỗ nuôi sóc ở Veluvana (Trúc Lâm) gần Ràjagaha (Vương Xá).

Tương truyền ngày xưa khi đức Thế Tôn Kassapa (Ca-diếp) thuyết Pháp, một Tỷ-kheo đã điều phục tự thân, nhưng thiếu phòng hộ ngôn ngữ, nên đã mạ ly các Tỷ-kheo khác. Lúc từ trần, vị ấy tái sanh vào địa ngục. Sau khi đã bị thiêu đốt tại đó cả một kiếp, vị ấy rời cõi ấy và trong kiếp này tái sanh gần thành Ràjagaha, dưới chân núi Gijjhakùta (Linh Thứu), vị ấy luôn bị đói khát giày vò. Thân thể vị ấy có màu vàng ròng, nhưng miệng lại giống mõm lợn rừng.

Vào thời ấy, Tôn giả Nàrada đang trú tại núi Linh Thứu. Vừa cầm y bát, vị ấy khởi hành từ sáng sớm để khất thực. Trong lộ trình đến Ràjagaha, vị ấy thấy ngạ quỷ kia trên đường. Khi hỏi về hạnh nghiệp mà ngạ quỷ kia đã tạo, vị ấy đã ngâm các vần kệ sau:

  1. Nhà ngươi vàng rực khắp toàn thân,
    Chiếu ánh sáng ra khắp mọi vùng,
    Song miệng ngươi như mồm lợn đực,
    Nghiệp gì ngươi tạo kiếp xưa chăng?

Ngạ quỷ đáp lời:

  1. Xưa con điều phục khéo về thân,
    Nhưng khẩu con không được hộ phòng,
    Vì thế hình hài con vậy đó,
    Nà-ra-da thấy rõ con cùng.

Ngạ quỷ ấy còn nói lời khuyên này với Trưởng lão:

  1. Nà-ra-da, vậy hãy xem đây,
    Con muốn trình Tôn giả việc này:
    Ðừng phạm ác tà về khẩu nghiệp,
    E ngài sẽ hóa mõm heo vầy!

Thế rồi Tôn giả Nàrada, sau khi đã đi khất thực trong thành Vương Xá và sau buổi ngọ trai, trở về trình sự việc này với bậc Ðạo Sư, Ngài dùng đó làm đề tài thuyết pháp.

  1. Chuyện Ngạ Quỷ Có Mồm Hôi Thối (Pùtimukkha)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại chỗ nuôi sóc ở Veluvana (Trúc Lâm).

Ngày xưa vào thời đức Thế Tôn Kassapa (Ca-diếp) có hai thiện gia nam tử theo lời giáo huấn của Ngài, đã xuất gia bỏ đời thế tục. Thực hành đầy đủ giới luật và sống khổ hạnh khắc nghiệt, hai vị an trú hòa hợp với nhau ở một nơi kia trong làng.

Sau đó một Tỷ-kheo có ác tính, thích mạ ly, đã đến trú xứ của hai vị. Hai Trưởng lão này ân cần nhận vị ấy và qua ngày thứ hai lại cùng vị ấy đi khất thực.

Dân chúng tích cực tuân lời dạy của chư vị và cúng dường chư vị đủ cháo, gạo, cơm và nhiều thực phẩm khác. Vị kia suy nghĩ: ‘Làng này thật là nơi ở tốt để khất thực và dân chúng đầy đủ tín tâm cúng dường thực phẩm ngon lành. Ðây lại có bóng mát và nước. Ta có thể sống sung sướng ở đây nhưng chẳng thể được bao lâu hai Tỷ-kheo này cũng trú cùng nơi này. Ðược rồi, vậy thì ta sẽ làm sao cho họ không đến đây ở nữa’. Thế là vị ấy phỉ báng người nọ với người kia. Hai vị dần dần sinh ra hoài nghi và suy nghĩ: ‘Dẫu sao cũng có thể như vậy’, và mất lòng tin, chư vị tránh mặt nhau, rồi không ai bảo ai, mỗi người ra đi tìm một nơi dễ chịu hơn.

Dân chúng hỏi vị Tỷ-kheo phỉ báng:

– Bạch Tôn giả, chư vị Trưởng lão đi đâu rồi?

Vị ấy đáp:

– Suốt đêm hai vị tranh cãi nhau; hai vị ra đi chẳng để ý đến lời ta bảo: ‘Xin đừng tranh cãi, hãy hòa hợp’, và còn nhiều chuyện khác nữa, ta nói thêm: ‘Những người nào có tính như vậy thường thích đánh nhau to’. Sau đó quần chúng van nài:

– Cứ để chư vị Trưởng lão đi, tuy nhiên vì chúng đệ tử, xin Tôn giả ở lại đây và đừng hối tiếc gì cả.

Vị ấy đồng ý đáp:

– Ðược lắm.

Trong khi ở đó vài ngày, vị ấy suy xét: ‘Do tham muốn trú xứ, ta đã ly gián hai Tỷ-kheo này. Ôi! Ta đã quyết tâm tạo nhiều ác nghiệp’. Bị lòng hối hận sâu xa giày vò và ngã bệnh vì tinh thần dao động, chẳng bao lâu vị ấy từ trần và tái sanh vào địa ngục Avìci (Vô gián hay A-tỳ).

Về sau vị ấy tái sanh vào kiếp này làm một ngạ quỷ có mồm hôi thối ở không xa thành Ràjagaha. Thân thể vị ấy có màu vàng ánh, nhưng sâu bọ lúc nhúc bò ra từ mồm vị ấy cấu xé mãi khiến mồm vị ấy bốc mùi hôi thối. Thời ấy Tôn giả Nàrada từ đỉnh Linh Thứu đi xuống, thấy ngạ quỷ kia, bèn ngâm vần kệ hỏi về hạnh nghiệp của vị ấy:

  1. Ngươi có màu da sáng đẹp sao,
    Như chư Thiên ở cõi trời cao,
    Ngươi đang lơ lửng trong không khí,
    Song miệng ngươi hôi thối biết bao,
    Vì đám bọ sâu đang cắn xé,
    Kiếp xưa ngươi tạo ác hành nào?

Ngạ quỷ đáp:

  1. Là một Tỷ-kheo có ác ngôn,
    Dù con giữ khổ hạnh vuông tròn,
    Con không chế ngự về ngôn ngữ,
    Con được màu da sáng tựa vàng
    Nhờ khổ hạnh xưa, song miệng thối
    Vì lời phỉ báng của mồm con.
  2. Chính Ngài đã thấy việc này rồi
    Ai giới đức và thương xót đời,
    Sẽ bảo: ‘Ngươi đừng nên phỉ báng
    Cũng không dối trá, nói sai lời,
    Về sau hóa Dạ-xoa thần lực,
    Hưởng thọ thú vui như ý ngươi.
  3. Chuyện Hình Nhân Bằng Bột (Pitthadhìtalika)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Sàvatthi (Xá-vệ) trong Jetavana (Kỳ-viên).

Thời ấy người nhũ mẫu đem cho cháu gái của ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) một hình tượng bằng bột để làm đồ chơi.

Một hôm cô bé làm rơi hình tượng ấy vỡ tan. Nó kêu lên: ‘Con gái ta đã chết rồi!’, và khóc mãi, đám gia nhân không ai dỗ dành được.

Bấy giờ bậc Ðạo Sư đang ở trong nhà ông Cấp Cô Ðộc, vị này đang ngồi gần Ngài. Bà nhũ mẫu đem cô bé đến bên ông chủ. Ông hỏi:

– Tại sao con bé khóc?

Rồi vừa ôm cháu vào lòng, ông vừa dỗ dành nó và bảo:

– Ông sẽ cho cháu một đứa con gái khác để làm tặng vật.

Rồi ông thưa trình bậc Ðạo Sư:

– Bạch Thế Tôn, vì cháu nội của con khóc về chuyện hình tượng bằng bột, con ước mong dâng lễ vật cúng dường. Xin Thế Tôn chấp thuận đến nhà con ngày mai cùng với năm trăm Tỷ-kheo.

Ðức Thế Tôn nhận lời. Như vậy đức Thế Tôn đã đến và sau buổi ngọ trai, Ngài nói lời tùy hỷ công đức và ngâm các vần kệ này:

  1. Với mọi quan tâm, kẻ có lòng
    Phải dâng lễ cúng các gia tông,
    Các vong linh những người thân thuộc,
    Cùng với chư Thiên lẫn thổ thần.
  2. Trì Quốc, Ða Văn, Quảng Mục vương,
    Thiên vương Tăng Trưởng giữ trần gian,
    Tứ Thiên vương được người tôn kính,
    Thí chủ không mất quả phước phần.
  3. Bởi vì kêu khóc hoặc sầu bi,
    Thương tiếc than van chẳng ích gì,
    Không lợi gì cho người quá cố,
    Khi thân nhân giữ thói lề kia.
  4. Song lễ vậy này được cúng dâng
    Khéo đem an trú ở chư Tăng,
    Quả này hiện tại và sau nữa
    Lợi lạc lâu dài với cổ nhân.

Ðức Thế Tôn đã thuyết pháp như vậy rồi ra đi. Bà vợ và gia quyến vị Ðại phú ông theo gương vị ấy. Do vậy họ làm lễ đại cúng dường suốt một tháng. Rồi vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) nghe tin này cũng dâng lễ vật dồi dào lên Tăng chúng. Khi dân chúng thấy vậy, họ lần lượt làm theo nhà vua và làm lễ đại cúng dường suốt cả tháng, một lễ đại cúng dường có nguồn gốc từ hình tượng bằng bột ấy.

  1. Chuyện Ngạ Quỷ Ngoại Bức Tường (Tirokuddapeta)

Bậc Ðạo sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Ràjagaha (Vương Xá).

Chín mươi hai kiếp về trước, có một kinh thành tên là Kàsipuri. Vua Jayasena ngự trị nơi ấy có chánh hậu là Sirimà, vương tử Phussa chứng đắc Vô Thường Chánh Ðẳng Giác, tức là đức Cổ Phật thứ mười tám sau đức Phật Dipankara (Nhiên Ðăng).

Bấy giờ Ðại Vương Jayasena sinh tâm ngã mạn, suy nghĩ: ‘Vì vương tử của ta sinh ra đời làm đức Phật, đã thành tựu đại sự xuất thế, chỉ riêng ta có Phật, chỉ riêng ta có Pháp, chỉ riêng ta có Tăng chúng’. Do đó nhà vua luôn luôn hầu cận bên đức Phật và không dành cơ hội cho kẻ khác.

Ba hoàng đệ của đức Thế Tôn ấy do bà mẹ khác sinh ra, bèn suy nghĩ: ‘Quả thật chư Phật ra đời vì lợi ích của quần sinh khắp thế gian này, chứ không phải vì riêng một ai. Nay phụ vương ta không dành cơ hội cho người khác. Làm thế nào ta có thể phụng sự đức Thế Tôn và Tăng chúng? Nào chúng ta hãy thi hành một chiến thuật’.

Thế là chư vị gây rối tại vùng biên địa. Sau đó khi nhà vua nghe tin về vụ rối loạn này, liền phái ba vương tử đi bình định biên thùy. Ba vị tuân lệnh và khi trở về, nhà vua hài lòng ban chư vị một điều ước, phán bảo:

– Hãy chọn thứ gì các vương nhi muốn.

Ba vị tâu:

– Chúng thần nhi ước mong hầu cận đức Thế Tôn.

Nhà vua từ chối, phán:

– Hãy chọn thứ khác.

Ba vị tâu:

– Chúng thần nhi không màng thứ gì khác cả.

Nhà vua lại phán:

– Thôi được, các vương nhi có quyền chọn theo ý muốn.

Ba vị đến gần đức Thế Tôn và thưa:

– Bạch Thế Tôn, chúng đệ tử ước mong phụng sự đức Thế Tôn ba tháng. Xin đức Thế Tôn hoan hỷ an cư ba tháng mưa với chúng đệ tử.

Ðức Thế Tôn chấp thuận. Ba vị hoàng tử tự thân hành gửi một thông điệp đến cho người được chỉ định trông coi tỉnh nọ, bảo: ‘Trong suốt ba tháng này, chúng ta cần phục vụ đức Thế Tôn, bắt đầu bằng cách xây một tinh xá, và cung cấp đủ mọi thứ cần thiết’.

Sau đó chư vị hết lòng cung kính phục vụ đức Thế Tôn cùng Tăng chúng. Khi các viên quan cai trị tỉnh này đã cúng dường tinh xá xong, các vị chấp hành việc an cư mùa mưa ấy. Một vị thủ kho hàng gia, con trai một gia chủ, là người mộ đạo cùng với vợ đã tìm được niềm tin, vị ấy trân trọng cúng dường Tăng chúng với đức Phật làm thượng thủ. Người được chỉ định cai quản tỉnh này theo gương vị kia cùng với mười một ngàn dân đem các vật đến cúng dường với tất cả lòng thành kính.

Vào dịp ấy, có một số người bất mãn trong lòng, sau khi ngăn cản những vật đóng góp, chính họ lại ăn các phẩm vật và nổi lửa đốt trai đường.

Sau khi ba vương tử cùng đoàn tùy tùng đã cúng dường đức Thế Tôn và từ giã Ngài xong, ba vị đi thẳng đến phụ vương.

Khi trở về, đức Thế Tôn đắc Niết-bàn vô dư y, ba vương tử và người cai quản tỉnh ấy, vị thủ kho báu hoàng gia dần dần theo thời gian đều từ trần và cùng với quần chúng ở đó được tái sanh thiên giới, còn số người bất mãn trong tâm bị tái sanh địa ngục.

Chín mươi hai kiếp trôi qua như vậy, trong lúc hai hạng người trên cứ lần lượt tái sanh từ thiên giới này đến thiên giới khác và từ địa ngục này đến địa ngục khác. Rồi đến hiền kiếp này, vào thời đức Thế Tôn Kassapa, đám người bất mãn trong tâm tái sanh vào loài ngạ quỷ.

Vào thời ấy, loài người thường cúng dường vì lợi ích của đám quyến thuộc quá cố của họ và nêu rõ: ‘Lễ vật này xin dành cho quyến thuộc của chúng tôi’. Do đó, các vong linh được an lạc. Thế rồi, chính các vong linh ấy cũng nhận biết điều này, nên sau khi đến gần đức Phật Kassapa, các vị ấy hỏi:

– Bạch Thế Tôn, giờ đây làm thế nào chúng con có thể đạt được an lạc như vầy’?

Ðức Thế Tôn đáp:

– Hiện nay chư vị chưa có thể đạt được an lạc ấy, nhưng thời gian về sau, sẽ có một đức Phật ở thế gian tên gọi là Gotama. Vào thời của đức Thế Tôn ấy, sẽ có một vị vua tên là Bimbisàra, trong chín mươi hai kiếp nữa kể từ đây sẽ là quyến thuộc của chư vị. Vua ấy sẽ dâng lễ cúng dường đức Phật và sẽ hồi hướng công đức ấy đến chư vị, sau đó chư vị sẽ được an lạc.

Thời bấy giờ, khi điều này được phát biểu, thì cũng như thể ta nói với các vong linh ấy: ‘Ngày mai chư vị sẽ được an lạc’.

Về sau, khi thời kỳ có đức Phật này đã qua, đức Thế Tôn (Gotama) giáng sanh vào cõi đời, ba vương tử cùng với một ngàn người từ thiên giới tái sanh vào quốc độ Magadha (Ma-kiệt-đà) trong các gia đình Bà-la-môn.

Theo thời gian, sau khi từ giã đời thế tục, ba vị trở thành các nhà khổ hạnh bện tóc, trú tại đỉnh núi Gayà, người trước kia cai quản tỉnh thành ấy trở thành vua Bimbisàra; người thủ khố hoàng gia, con của vị gia chủ, trở thành đại phú trưởng nghiệp đoàn có tên Visàkha; vợ vị ấy trở thành con gái của một vị đại phú trưởng nghiệp đoàn và được đặt tên Dhammadinnà, còn đám quần chúng được tái sanh làm các vị cận thần của vua.

Bấy giờ đức Thế Tôn Gotama giáng sanh cõi trần, sau bảy tuần Giác Ngộ, Ngài đến Benares (Ba-la-nại) chuyển Pháp luân. Ngài giáo hóa ba vị đạo sĩ bện tóc, sau khi Ngài đã khởi đầu giáo hóa năm vị khổ hạnh, và thâu nhận cả ngàn đệ tử. Sau đó Ngài đi đến Ràjagaha và an trú vua Bimbisàra vào Sơ quả Dự Lưu cùng với hơn một vạn Bà-la-môn và cư sĩ ỏ tại xứ Anga (Ưng-già) và Magadha.

Tuy nhiên các ngạ quỷ ở quanh cung vua suy nghĩ: ‘Giờ đây nhà vua sẽ làm lễ cúng tế cho chúng ta được hưởng phước’. Trong lúc nhà vua làm tế lễ, nhà vua suy nghĩ: ‘Ta không biết bây giờ đức Thế Tôn đang trú ở đâu?’. Do vậy, nhà vua không hồi hướng công đức đến ai cả. Vì các ngạ quỷ không nhận được thí vật nào cả, chúng rất thất vọng thốt tiếng kêu thảm thiết mỗi đêm ở hoàng cung.

Rạng ngày, nhà vua hoảng sợ trình đức Thế Tôn về chuyện đã xảy ra và hỏi:

– Bạch Thế Tôn, Ngài đã nghe tiếng nào như vậy chưa? Con băn khoăn không biết việc gì xảy ra với con.

Ðức Thế Tôn đáp:

– Thưa Ðại vương, xin đừng sợ, không có gì bất thường xảy ra với Ðại vương đâu, mà thịnh vượng sẽ đến với Ðại vương thôi. Giờ đây, quả thật là quyến thuộc của Ðại vương đã tái sanh vào loài ngạ quỷ. Trong suốt một kiếp, chúng đã lang thang khắp nơi và chỉ mong ước điều này: ‘Nhà vua sẽ làm lễ cúng dường đức Phật và hồi hướng công đức ấy cho chúng ta’. Hôm qua, khi Ðại vương dâng lễ, Ðại vương đã không hồi hướng công đức. Do đó, chúng mất hết hy vọng và thốt tiếng kêu la.

Nhà vua hỏi:

– Bạch Thế Tôn, bây giờ làm sao chúng có thể nhận được thí vật?

Ðức Phật đáp:

– Thưa Ðại vương, quả thật chúng có thể nhận.

Nhà vua nói:

– Bạch Thế Tôn, vậy Thế Tôn hãy nhận lời thỉnh cầu của con vào ngày mai, con sẽ hồi hướng công đức lễ vật ấy cho chúng.

Ðức Thế Tôn nhận lời.

Sau đó, nhà vua ra lệnh chuẩn bị lễ cúng dường hào phóng, và thông báo thời giờ lên đức Thế Tôn, Ngài liền đến Hoàng cung. Bầy ngạ quỷ cũng đến và suy nghĩ: ‘Hôm nay chúng ta sẽ hưởng được món gì đó’, rồi đứng bên ngoài các bức tường và hàng rào.

Sau đó đức Thế Tôn làm cho mỗi ngạ quỷ đều hiện hình trước nhà vua. Trong khi vua dâng nước rửa, vua hồi hướng công đức ấy cho chúng với những lời này: ‘Mong công đức này dành cho quyến thuộc ta’. Lập tức xuất hiện các ao sen đầy sen súng cho bọn ngạ quỷ. Chúng tắm rửa và uống nước ở đó, được giảm nhẹ nỗi thống khổ của chúng vì bất hạnh, lao nhọc và khát nước, nên da chúng trở nên vàng ánh.

Nhà vua dâng lễ cúng dường cháo gạo và các thức ăn đủ loại cứng mềm rồi hồi hướng công đứng lễ vật ấy cho chúng. Trong chốc lát liền xuất hiện cho chúng các thực phẩm khác, thậm chí cả thực phẩm thiên giới, khiến chúng hân hoan hưởng thọ.

Nhà vua lại cúng dường y phục và sàng tọa, tinh xá rồi hồi hướng công đức lễ vật ấy. Sau đó liền xuất hiện cho chung các thiên y, thiên cung, sàng tọa, khăn phủ và đồ trang sức. Ðức Thế Tôn quyết định làm cho tất cả hạnh phúc tuyệt vời này của họ được hiển lộ trước vua; khi nhìn thấy vậy, vua vô cùng hoan hỷ.

Rồi đức Thế Tôn, sau khi thọ thực xong, và được thỉnh cầu, Ngài kể chuyện ngạ quỷ ngoài bức tường thay lời tùy hỷ công đức.

  1. Bọn chúng đứng kia, ngoài bức tường,
    Những nơi trống trải, ngã tư đường,
    Chúng đang đứng ở ngoài song cửa,
    Khi đã về nhà tại cố hương.
  2. Dù tràn trề ẩm thực liên miên
    Ðủ loại cứng mềm được dọn lên,
    Cũng chẳng có ai cần bọn chúng,
    Bởi vì nghiệp chúng đã gây nên.
  3. Những người lân mẫn, lắm tình thương
    Ðúng lúc đem cho đám họ hàng
    Các thức cao lương, đồ ẩm thực
    Với lời cầu nguyện: ‘Ðể dành phần
    Lễ này cho đám người thân thuộc,
    Mong các họ hàng được phước ân’.
  4. Và các đám này đã đến đây,
    Các vong linh của họ hàng này,
    Thảy đều tụ tập đồng vui hưởng
    Các thực phẩm đều phong phú thay.
  5. Chúng cầu: ‘Trường thọ các người thân,
    Nhờ các vị, ta được hưởng ân,
    Lòng quý trọng ta đà biểu lộ,
    Người cho chẳng thiếu quả dành phần’.
  6. Chốn kia không có cấy cày đâu,
    Cũng chẳng hề nuôi súc vật nào,
    Buôn bán như đây đều chẳng có,
    Cũng không đổi vật lấy vàng trao.
  7. Bên kia thế giới các vong linh
    Nhờ vật cúng dường để dưỡng sinh,
    Như nước đổ từ trên núi xuống
    Cúng dường nuôi ngạ quỷ thân tình.
  8. Giống như tất cả các dòng sông
    Chảy xuống đổ đầy cả đại dương,
    Cũng vậy những gì người bố thí
    Từ đây nuôi sống các vong nhân.
  9. Những thân bằng quyến thuộc trong nhà
    Trước đã cho ta, giúp đỡ ta;
    Mong mọi người ban phần ngạ quỷ,
    Nhớ công họ tạo thuở xưa xa.
  10. Bởi vì kêu khóc hoặc sầu bi,
    Thương tiếc, than van chẳng ích gì,
    Không lợi gì cho người quá cố,
    Khi thân nhân giữ thói lề kia.
  11. Song lễ vật này được cúng dâng
    Khéo đem an trú ở chư Tăng,
    Quả này hiện tại và sau nữa
    Lợi lạc lâu dài với cổ nhân.
  12. Ðây là nghĩa vụ của thân nhân
    Tôn trọng vong linh, đã cúng dâng,
    Tăng chúng được thêm nhiều dõng lực,
    Người làm công đức lớn vô ngần.

Khi pháp thoại chấm dứt, tám vạn bốn ngàn người đã đắc Pháp nhãn do tri kiến sanh khởi từ sự kiện tái sanh vào cảnh giới ngạ quỷ. Tâm họ đầy xúc động vì được tán thán và họ càng nỗ lực tinh cần. Ngày hôm sau đức Thế Tôn cũng dạy chư Thiên và loài Người bài kinh ‘Ngoài Bức Tường’ ấy. Do vậy suốt bảy ngày đều diễn ra sự đắc Pháp nhãn như trên.

  1. Chuyện Ngạ Quỷ Ăn Thịt Năm Ðứa Bé (Pàncaputtakhadaka)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Sàvatthi (Xá-vệ).

Trong làng nọ không xa Sàvatthi, có một người vợ địa chủ không sinh con. Quyến thuộc của ông nói: ‘Ðể ta kiếm một cô gái khác cho ông’. Nhưng ông không muốn, do lòng yêu thương vợ. Về sau, khi nghe chuyện này, bà vợ giục chồng đi cưới vợ khác để khỏi tuyệt dòng giống.

Nhưng khi cô vợ mới có thai, người vợ vô sinh, lòng đầy ganh tỵ, đem thức ăn uống đãi một vị du sĩ và nhờ ông ấy thực hiện việc phá thai. Cô vợ kể chuyện với mẹ, bà liền triệu tập gia quyến đến bảo người vợ vô sinh:

– Chị đã làm chết con nó còn ở trong bụng.

Người ấy đáp:

– Tôi vô tội.

Họ bảo:

– Nếu chị vô tội, vậy hãy thề đi.

Người ấy bèn thề độc, thách thức tai họa xảy đến nếu bà có tội. Không lâu sau đó, người ấy từ trần và tái sanh làm một nữ ngạ quỷ xấu xí ở không xa thành phố này. Cùng thời ấy, có tám Tỷ-kheo đang an cư mùa mưa trong tỉnh đi đến Sàvatthi để yết kiến bậc Ðạo Sư, vừa vào một nơi trong rừng có bóng mát và nước chảy không xa làng ấy. Sau đó nữ ngạ quỷ hiện hình trước các vị Trưởng lão, một vị trong số ấy liền hỏi:

  1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
    Ngươi thở mùi hôi thối nặc nồng,
    Bao phủ toàn thân đầy bọ nhặng,
    Ngươi là ai đứng ở đây chăng?

Nữ ngạ quỷ đáp:

  1. Tôn giả, con là ngạ quỷ nương,
    Thần dân khốn khổ của Diêm vương,
    Vì con đã phạm hành vi ác,
    Con đến cõi ma đói ẩn thân.
  2. Sáng ngày năm đứa bé con sinh,
    Chiều tối năm trai lại hiện hình,
    Tất cả, con đều xâu xé hết,
    Nhưng không vừa đủ để nuôi mình.
  3. Lòng con đang nóng cháy như rang,
    Bốc khói vì cơn đói bạo tàn,
    Con chẳng tìm đâu ra nước uống,
    Hãy nhìn tai họa giáng đầu con.

Khi nghe xong chuyện này, vị Trưởng lão hỏi:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hành gì
    Do khẩu, ý, thân đã thực thi,
    Nay phải đền bù vào tội lỗi,
    Ngươi xâu xé thịt lũ hài nhi?

Sau đó nữ ngạ quỷ kể cho vị Trưởng lão về những việc đã làm:

  1. Vợ bé chồng con đang có thai,
    Con mưu việc ác chống nàng hoài,
    Chính con với trí tâm điên đảo
    Ðã khiến nàng kia sẩy bé trai.
  2. Thai chừng hai tháng máu tuôn tràn,
    Bà mẹ giận đưa các họ hàng,
    Bà ấy bảo con thề độc hại,
    Và con bị phỉ báng muôn vàn.
  3. Chính con đã nhận lấy lời thề
    Khủng khiếp, tràn đầy giả dối kia:
    ‘Nếu việc ấy do tôi tự tạo,
    Thì tôi ăn thịt đám hài nhi’.
  4. Do kết quả hành nghiệp của mình
    Cùng lời thề độc ác gian manh,
    Con xấu xé thịt bầy con trẻ,
    Vì quá khứ, con vấy máu tanh.

Chư vị Trưởng lão xúc động xót thương nữ ngạ quỷ, bèn đến nhà vị địa chủ kia bảo ông hồi hướng đến ngạ quỷ công đức buổi thọ trai mà ông cúng dường chư vị. Lập tức nữ ngạ quỷ thoát khỏi cảnh khốn khổ kia, nhận được nhiều ân phước và hiện hình ban đêm cho người chồng thấy. Sau đó chư Trưởng lão đến Sàvatthi đúng thời và trình lên đức Thế Tôn vấn đề ấy.

  1. Chuyện Ngạ Quỷ Ăn Thịt Bảy Ðứa Bé (Sattaputtakhadaka)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Sàvatthi (Xá-vệ).

Trong một làng nọ không xa Sàvatthi, một đệ tử tại gia có hai con trai xinh đẹp, đủ tài năng đức độ. Vì thế, mẹ chúng khinh thường chồng bà. Chán cảnh bị vợ khinh thường, ông đem về một cô vợ khác còn trẻ lại chóng có thai. Bà vợ cả sinh lòng ganh tỵ, thuyết phục một y sĩ bằng cách trả một số tiền, để làm cho tình địch phải trụy thai.

Thời ấy nhiều vị Trưởng lão, đã an cư mùa mưa ở một nơi trong làng, đang đi đến Săavatthi để yết kiến đức Thế Tôn. Nhân dịp này, chư vị ở lại đêm gần làng ấy. Sau đó nữ ngạ quỷ này xuất hiện trước chư Trưởng lão. Vị trưởng đoàn hỏi ngạ quỷ qua vần kệ:

  1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
    Ngươi thở mùi hôi thối nặc nồng,
    Bao phủ toàn thân đầy bọ nhặng,
    Nguơi là ai đứng ở đây chăng?

Nữ ngạ quỷ đáp:

  1. Tôn giả, con là ngạ quỷ nương,
    Thần dân khốn khổ của Diêm vương,
    Vì con đã phạm hành vi ác,
    Con đến cõi ma đói ẩn thân.
  2. Sáng ngày bảy đứa trẻ con sinh,
    Chiều tối bảy trai lại hiện hình,
    Tất cả, con đều xâu xé hết,
    Song không vừa đủ để nuôi mình.
  3. Lòng con đang cháy nóng như rang,
    Bốc khói, vì cơn đói bạo tàn,
    Con chẳng được tâm hồn lắng dịu,
    Khác nào lửa đốt, khổ muôn vàn.

Vị trưởng đoàn lại hỏi:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hạnh gì,
    Từ khẩu, ý, thân đã thực thi,
    Vì phạm lỗi lầm nào quá khứ,
    Mà ngươi ăn thịt đám hài nhi?

Nữ ngạ quỷ đáp:

  1. Ngày xưa con có được hai trai,
    Bọn chúng trưởng thành đủ cả hai,
    Khi đã thấy con mình lớn mạnh,
    Con thường khinh bỉ lão chồng tồi.
  2. Sau đó chồng con nổi hận sân,
    Cưới về thêm một ả hồng quần,
    Khi nàng kia đã mang thai nghén,
    Con nảy sinh tâm ác hại nhân.
  3. Con có tâm gian xảo, ác tà
    Khiến cho nàng phải bị thai sa,
    Máu tuôn khủng khiếp và ghê rợn,
    Việc ấy xảy vào tháng thứ ba.
  4. Khi ấy mẹ nàng nổi hận sân,
    Liền đưa con đến đám thân nhân,
    Bà truyền con nói lời thề độc,
    Và bảo mọi người phỉ báng con.
  5. Chính con đã nhận thấy lời thề,
    Khủng khiếp tràn đầy giả dối kia:
    ‘Nếu việc ấy do tôi tự tạo,
    Thì tôi ăn thịt đám hài nhi’.
  6. Do kết quả hành nghiệp của mình,
    Cùng lời thề độc ác gian manh,
    Con xấu xé thịt bầy con trẻ,
    Vì quá khứ, con vấy máu tanh. 

8. Chuyện Con Bò (Gona)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên).

Thuở đó ở Sàvatthi (Xá-vệ), người cha của một gia chủ nọ qua đời. Người con bị nỗi ưu phiền hành hạ và cứ khóc than mãi. Trong khi kẻ ấy đi lang thang như một người điên, ông thường hỏi bất cứ kẻ nào ông gặp: ‘Thế người có thấy cha tôi chăng?’ Không ai có thể xua tan nỗi ưu phiền của ông cả.

Nhưng trong lòng ông, như một ngọn đèn ở trong cái chai, đang bừng lên một khả năng đột xuất hướng về Nhập lưu đạo.

Trong lúc bậc Ðạo Sư đang quán sát thế gian vào buổi sáng, Ngài thấy điều kiện chắc chắn này và suy nghĩ: ‘Ðưa đến cho người này quả Dự Lưu thật là thích hợp sau khi kẻ ấy đã kể lại sự việc quá khứ và dẹp bỏ sầu bi’.

Vì thế ngày hôm sau, Ngài đi khất thực về, liền cùng một Tỷ-kheo trẻ đến cửa nhà vị kia. Khi nghe bậc Ðạo Sư đã đến, người ấy bước ra đón Ngài. Khi bậc Ðạo Sư đã an tọa, vị gia chủ nói:

– Bạch Thế Tôn, Ngài biết cha con đã đi về đâu rồi.

Bậc Ðạo Sư hỏi vị ấy:

– Này cư sĩ, ông hỏi về cha ông ở đời này hay đời trước?

Khi nghe những lời này, nỗi buồn của vị ấy dịu bớt: ‘Ta có rất nhiều cha trong quá khứ’ và vị ấy đã lấy lại được đôi chút thanh thản. Rồi bậc Ðạo Sư thuyết một bài giảng ngắn và ra đi về nơi cư trú của Ngài. Sau đó chư Tỷ-kheo bắt đầu pháp thoại về chuyện này.

Khi vừa đến nơi, bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này chư Tỷ-kheo, chư vị đang bàn luận gì khi ngồi tụ tập ở đây?

Chư vị kể lại vấn đề. Ngài đáp:

– Không phải chỉ giờ đây Ta mới xua tan nỗi ưu phiền của người kia, trong đời quá khứ nỗi ưu phiền của kẻ ấy cũng đã được tiêu trừ’. Và theo lời thỉnh cầu của chư vị, Ngài kể câu chuyện đã xảy ra thời trước.

Thuở xưa tại thành Benares (Ba-la-nại), người cha của một gia chủ từ trần. Bị sầu bi trấn áp, vị ấy đập ngực than khóc và cung kính đi quanh dàn hỏa thiêu. Con trai vị ấy là Sujàta, một nam tử thông minh lanh lợi, đầy đủ trí tuệ tối thượng, đang suy xét một phương cách xua tan nỗi ưu phiền của cha, chợt thấy ngoài kinh thành một con bò chết, chàng liền đặt phía trước nó một ít nước và cỏ chàng vừa đem tới nơi. Chàng đưa con bò một nắm cỏ, vừa ra lệnh như thể con bò đang sống, vừa đứng cạnh đó, chàng nói: ‘Ăn đi, ăn đi, uống đi, uống đi!’.

Khi người qua đường thấy chàng, họ nói:

– Này Sujàta, chú có điên không mà đưa cỏ với nước cho con bò chết?

Nhưng chàng không hề đáp lại lời nào. Vì thế dân chúng tìm đến cha chàng và bảo ông:

– Con trai ông đã nổi điên nên đưa cỏ và nước cho một con bò chết.

Khi vị gia chủ nghe việc này, nỗi ưu phiền về thân phụ liền mất đi. Lòng lo âu, vị ấy vội vàng đến trách cậu con trai:

– Con chẳng còn là Sujàta thông minh, lanh lợi và có trí tuệ nữa ư? Tại sao con lại đưa cỏ và nước cho một con bò chết?

Vị ấy ngâm hai vần kệ về việc này:

  1. Sao con có vẻ giống người khùng,
    Con cắt cỏ non, lại nói thầm
    Cùng với bò già vừa mới chết,
    Luôn môm bảo nó: ‘Hãy ăn, ăn!’
  2. Chẳng phải nhờ ăn uống, dỗ dành
    Mà con bò chết sẽ hồi sinh,
    Con tôi khờ dại ngây ngô quá
    Quả giống người đâu đó, thật tình.

Sujàta ngâm các vần kệ sau đáp lời:

  1. Bốn chân này với chiếc đầu này,
    Với cái đuôi và thân thể đây,
    Ðôi mắt là đây còn đủ cả,
    Con bò phải đứng dậy lên ngay!
  2. Song đôi tay với cả đôi chân,
    Thân thể và đầu tóc của ông,
    Nay chúng ở đâu, nào chẳng thấy,
    Khóc than đống đất, phải cha khùng?

Người cha đáp:

  1. Lòng ta quả thực nóng bừng
    Giống như sữa lạc đổ trong lửa đào,
    Nay vừa được tưới nước vào,
    Và làm tiêu tán biết bao khổ sầu.
  2. Quả con nhổ mũi tên đau
    Nỗi sầu kia đã cắm sâu vào lòng,
    Con xua mọi nỗi đau buồn
    Vì cha thương tiếc phụ thân của mình.
  3. Tâm ta đã được an bình,
    Nỗi buồn dứt bỏ trong mình từ nay,
    Ta không khóc nữa giờ đây,
    Sau khi nghe những lời này, con thân.
  4. Vậy là các bậc trí nhân,
    Ðầy lòng lân mẫn ân cần thiết tha
    Xua tan sầu não cho ta
    Như Su-jà với cha già giờ đây.

Rồi người cha đi gội đầu, ăn uống và tham gia công việc của mình. Khi từ trần, vị ấy tái sanh Thiên giới.

Như vậy Sujàta đã trở thành vị Bảo hộ thế giới.

  1. Chuyện Ông Chủ Thợ Dệt (Mahàpesakàra)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Sàvatthi (Xá-vệ).

Lúc ấy chừng mười Tỷ-kheo, sau khi nhận được đề tài thực hành thiền quán từ bậc Ðạo Sư, đang tìm một nơi cư trú. Vì thời kỳ an cư mùa mưa gần kề, chư vị thấy một chỗ tốt đẹp vừa ý ở trong rừng với bóng mát và nước chảy, và chỉ xa làng một khoảng thuận tiện để đi khất thực. Chư vị ngủ qua đêm tại đó và hôm sau vào làng khất thực.

Dân chúng đón mừng chư Tỷ-kheo và cầu xin chư vị vào đây cư trú mùa mưa. Sau đó vị trưởng nghiệp đoàn thợ dệt cung kính cúng dường hai Tỷ-kheo đủ tứ sự cần thiết, trong khi số đoàn viên thợ dệt khác phục vụ từng vị Tỷ-kheo.

Bấy giờ vợ người chủ thợ dệt không mộ đạo, không có lòng tin, theo tà kiến và tham lam, không phụng sự Tăng chúng. Sau đó người chủ này cưới cô em gái bà và cho làm bà chủ nhà. Nàng có lòng tin và nhiệt thành phục vụ chư Tăng.

Tất cả những thợ dệt này cũng tặng mỗi người một chiếc y cho mỗi Tỷ-kheo đang thực hành an cư mùa mưa ở đó.

Thế rồi, người vợ ích kỷ của chủ nghiệp đoàn thợ dệt,với ác tâm buông lời mạ lỵ chồng: ‘Mong mọi thức uống ăn mà ông cúng các Tỷ-kheo đệ tử chân chánh của đức Phật sẽ trở thành phân dơ và y phục sẽ thành những tấm sắt nóng bỏng trong kiếp sau’.

Khi từ trần, vị chủ nghiệp đoàn thợ dệt tái sanh ở rừng Vindhya làm một vị thần đầy vẻ huy hoàng. Người vợ xan tham ấy tái sanh làm nữ ngạ quỷ ở không xa nơi ông ở. Nữ ngạ quỷ trần truồng xấu xí, bị đói khát giày vò,và khi đến gần vị địa thần này, nó nói:

– Thưa phu quân, thiếp trần truồng đi lang thang bị đói khát hành hạ vô cùng khổ cực, xin hãy cho thiếp y phục và thức ăn uống.

Vị thần liền cho nó một số thực phẩm thần tiên của mình, nhưng khi ngạ quỷ vừa cầm lấy, các thứ này lập tức biến thành phân dơ và y phục nó vừa mặc vào liền hóa ra tấm sắt nóng cháy. Ngạ quỷ vừa nôn mửa vừa kêu khóc và đi lang thang trong nỗi thống khổ cùng cực.

Vào thời ấy, một Tỷ-kheo đang đi đến yết kiến bậc Ðạo Sư, cùng với một đoàn lữ hành đông đảo vào rừng Vindhya. Sau khi đã du hành ban đêm, đến sáng đoàn lữ hành thấy một nơi đầy bóng mát và nước chảy, họ liền thả đàn bò ra và ngừng lại để nghỉ chân.

Sau đó, vị Tỷ-kheo muốn ở riêng một mình nên đã đi xa một đoạn ngắn, trải chiếc y lên thảm cỏ dày dưới gốc cây và nằm xuống. Thân thể mệt nhọc vì cuộc hành trình ban đêm, vị ấy liền ngủ thiếp đi.

Sau khi đoàn lữ hành đã nghỉ ngơi xong, họ lên đường, nhưng vị Tỷ-kheo ấy chưa dậy. Mãi đến chiều tối vị ấy thức giấc và vì mất bạn đồng hành, vị ấy theo đường nhỏ đi mãi cuối cùng đến tận nơi cư ngụ của vị thần nói trên.

Khi vị thần thấy vị Tỷ-kheo, liền hóa ra hình người và chào đón vị ấy, đưa vị ấy vào lâu đài của mình và sau khi đã cúng dường dầu xoa chân cùng các lễ vật khác, vị thần đảnh lễ và ngồi xuống. Vừa lúc ấy nữ ngạ quỷ cũng đến và nói:

– Thưa phu quân, xin hãy cho thiếp thức ăn uống và y phục.

Vị thần cho nó đủ các thứ này, nhưng ngay lúc nó cầm chúng, thì chúng vẫn biến thành phân dơ và tấm sắt nóng cháy như cũ. Khi vị Tỷ-kheo thấy thế, lòng hết sức xúc động và hỏi vị thần qua hai vần kệ:

  1. Phân dơ máu mủ hiện lên đầy
    Cho nó, vì sao có quả này?
    Hạnh nghiệp gì người này đã tạo
    Mà nay ăn máu mủ như vầy?
  2. Y phục sáng tươi, trắng, mịn màng
    Mới cho ngạ quỷ, dệt bằng lông,
    Tức thì chúng hóa thành sắt nóng,
    Ðã tạo nghiệp gì, ngạ quỷ nương?

Vị thần đáp:

  1. Tôn giả, đây là vợ của con,
    Bà không bố thí, tính xan tham,
    Khi con cúng các Sa-môn ấy,
    Bà phỉ báng con với ác ngôn:
  2. ‘Mong ông ăn uống đám phân dơ,
    Nước tiểu, máu tanh, mủ thối tha,
    Ðây số phận ông về kiếp khác,
    Áo quần sẽ hóa sắt nung lò’.
    Bởi vì ác nghiệp ngày bà tạo,
    Bà phải ăn phân mãi đến giờ.

– Giờ đây có phương tiện gì giải thoát bà khỏi cảnh giới ngạ quỷ?

Tỷ-kheo đáp:

– Nếu ta dâng cúng đức Phật và Thánh chúng hay chỉ một Tỷ-kheo và hồi hướng công đức đến nữ ngạ quỷ, nó sẽ hưởng được phước phần và theo cách ấy nó sẽ thoát khỏi khổ đau.

Khi nghe vậy, vị thần liền cúng vị Tỷ-kheo thực phẩm và hồi hướng công đức cúng dường cho nữ ngạ quỷ. Tức thì nó được đầy đủ, tâm hân hoan hưởng thọ các thực phẩm thần tiên. Sau đó vị thần trao tận tay vị Tỷ-kheo ấy một đôi thiên y dâng cúng đức Thế Tôn và hồi hướng công đức ấy đến nữ ngạ quỷ. Ngay sau đó, ngạ quỷ được mặc y phục thần tiên, được cung cấp đủ mọi thứ nó ước mong tương tự như một Thiên nữ cõi trời.

Ngoài ra, vị Tỷ-kheo, nhờ thần lực của vị thần kia, ngay hôm ấy đã đến Sàvatthi.

  1. Chuyện Nữ Nhân Sói Ðầu (Khallàtiya)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Sàvatthi (Xá-vệ).

Thời xưa tại Benares (Ba-la-nại), có một nữ nhân sống nhờ sắc đẹp của mình. Bấy giờ tóc nàng thật dài đen nhánh, mịn màng, mềm mại và óng ả, cuộn lại rất đẹp. Các bím tóc nàng được kết thành hai nắm tay, mỗi khi buông lơi, chúng xuống tận thắt lưng nàng.

Lúc đó một số nữ nhân ganh tỵ bàn luận cùng nhau và sau khi mua chuộc nữ tỳ của nàng, lại gửi cho cô ả một thứ thuốc sẽ hủy hoại mái tóc nàng. Bấy giờ nữ tỳ pha thuốc ấy vào bột tắm và đưa cho chủ nhân vào lúc nàng đi tắm ở sông Hằng. Nàng dùng thứ thuốc pha ấy tẩm vào tóc thật kỹ đến tận gốc và nhảy vào dòng nước. Ngay khi nàng vừa ngâm mình vào nước, tóc nàng liền rụng ra tận gốc, sạch trơn tru và đầu nàng trông giống trái mướp đắng.

Sau đó, trông xấu xí như chim bồ câu bị vặt hết lông, nàng hổ thẹn không dám vào thành nữa, phải choàng khăn phủ đầu và cư trú ngoại thành. Khi nỗi hổ thẹn đã qua đi và đã biết ép hạt mè, nàng sinh sống bằng nghề bán dầu và rượu mạnh.

Một hôm, khi hai ba người đàn ông say rượu đã ngủ mê man, nàng lấy trộm tất cả y phục của họ đang treo lủng lẳng. Rồi một ngày nọ, nàng thấy một vị Thánh Tăng đi khất thực, sau khi mời vị ấy vào, nàng cúng dường một chiếc bánh làm bằng hạt dẻ trộn dầu mè. Vì thương xót nàng, vị ấy nhận bánh và ăn.

Nàng đứng đó với tâm hoan hỷ, che lên trên vị ấy một chiếc lọng. Vị Trưởng lão xúc động, nó lời tùy hỷ công đức và ra đi.

Bấy giờ nàng phát nguyện: ‘Ước mong ta sẽ được mái tóc đen mịn màng óng ả, mềm mại như tơ cuốn lên thật đẹp’.

Về sau nàng từ trần, và nhờ kết quả thiện nghiệp của nàng, nàng được tái sanh giữa đại dương một mình trong một lâu đài bằng vàng, tóc nàng được phục hồi như nàng đã ước nguyện, song vì nàng đã lấy trộm y phục của đám đàn ông, nay nàng phải bị trần truồng. Nàng cứ tái sanh mãi trong lâu đài bằng vàng kia và phải chịu sống trần truồng một kiếp tại đó.

Rồi về sau, đức Thế Tôn Gotama giáng thế, và trong lúc Ngài trú tại Sàvatthi, một trăm thương nhân có nhà ở đó lên thuyền đến xứ Suvannabhùmi (Kim Ðịa). Thuyền của họ bị bão tố trôi giạt đến bờ kia. Lúc ấy nữ quỷ cùng lâu đài hiện ra trước mặt họ. Khi vị trưởng đoàn thương nhân thấy nữ quỷ, liền hỏi:

  1. Nàng là ai trú ở lâu đài,
    Xin hỏi, sao không đến phía ngoài?
    Mau bước ra đây, này nữ chủ,
    Cho ta chiêm ngưỡng lực hùng oai.

Nữ quỷ đáp:

  1. Ta đây khốn khổ lại trần truồng,
    Không dám bước ra bởi thẹn thưồng
    Che tấm thân mình bằng mái tóc,
    Vì ta ít tạo nghiệp hiền lương.

Thương nhân:

  1. Ta sẽ đem y phục tặng nàng,
    Mặc vào che kín, hỡi hồng nhan,
    Bước ra, nữ chủ, ta mong muốn
    Nhìn ngắm nàng mang đủ lực thần.

Nữ quỷ:

  1. Những vật gì chư vị tặng ta
    Cũng không giúp ích được ta mà.
    Song đây có một người đồ đệ
    Ðầy đủ lòng tin đức Phật đà.
  2. Sau khi đem áo tặng người này,
    Hồi hướng cho ta phước đức vầy,
    Ta sẽ được ban nhiều hạnh phúc,
    Mọi nguồn lạc thú sẽ tràn đầy.

Sau khi nghe nàng nói, các thương nhân tắm rửa và thoa dầu thơm lên người đệ tử tại gia kia và khoác lên chàng một bộ y phục.

Chư vị kết tập Kinh điển ngâm ba vần kệ để giải thích việc này:

  1. Khi đã tắm chàng, đám phú thương
    Cho chàng cư sĩ tẩm dầu hương,
    Và cho chàng được mang y phục,
    Nữ quỷ hưởng công đức cúng dường.

7-8. Kết quả này do việc cúng dường:
Tràn đầy y phục với đồ ăn.
Xiêm y thanh lịch, nàng trong trắng
Khoác lụa Ba-la-nại tuyệt trần,
Vừa mỉm miệng cười, nàng mỹ nữ
Bước ra lầu ấy, lại thưa rằng:
‘Ðây là kết quả từ công đức
Lễ vật các ngài đã hiến dâng’.

Thương nhân:

  1. Lâu đài lắm kiểu cách cao sang
    Khả ái, tươi vui, sáng rỡ ràng,
    Thần nữ nói cho đoàn lữ khách
    Nghiệp gì đây kết quả cho nàng?

Nữ thần:

  1. Gặp người khất sĩ bước du hành,
    Chân chánh Tỷ-kheo, dạ tín thành,
    Ta đến cúng dường người bánh dẻ
    Trộn dầu mè với chính tay mình.
  2. Vì thiện nghiệp này ta hưởng đây
    Trong lâu đài đã biết bao ngày
    Như là kết quả phần công đức,
    Song chẳng còn lâu ở chốn này.
  3. Sau bốn tháng nay sắp đến gần,
    Rồi ta sẽ gặp Dạ-ma thần,
    Xuống miền địa ngục đầy tàn khốc,
    Ta sẽ đọa kinh khủng tột cùng.
  4. Ngục bốn góc và bốn cửa vào,
    Ðược chia phần nhỏ thật cân sao,
    Chung quanh tường sắt đều bao bọc,
    Và sắt che trên đỉnh mái cao.
  5. Nền bằng sắt rực lửa bừng bừng,
    Nóng bỏng, chói lòa khắp mọi phương,
    Ðịa ngục muôn đời còn đứng mãi,
    Trải dài luôn cả trăm do-tuần.
  6. Nơi kia ta chịu khổ lâu dài
    Thọ quả do tà nghiệp chín muồi,
    Vì thế ta thường than khóc mãi,
    Chuyện này quả thật chẳng hề nguôi.

Tâm vị đệ tử tại gia đầy xúc động thương cảm, chàng nói:

– Này nữ thần, do năng lực của lễ vật nàng cúng dường ta, nàng đã thành tựu mọi ước nguyện một cách sung mãn. Nhưng giờ đây, do cúng dường các đệ tử tại gia này và ghi nhớ mọi đức hạnh của bậc Ðạo Sư, nàng sẽ thoát khỏi tái sanh vào địa ngục.

Nữ thần vô cùng hạnh phúc, thiết đãi chư vị đầy đủ các loại ẩm thực, y phục, châu báu thần tiên và đưa tận tay chư vị một bộ y dâng đức Thế Tôn. Nàng cung kính đảnh lễ và nói:

– Xin hãy đến Sàvatthi và đảnh lễ đức Thế Tôn cùng các lời này của ta nhắn gởi: ‘Bạch đức Thế Tôn, có một nữ quỷ kia khấu đầu đảnh lễ chân đức Thế Tôn’.

Sau đó nhờ thần lực của mình, nàng đưa chiếc thuyền đến cảng cùng ngày hôm đó. Các thương nhân ấy đúng thời đến dâng lễ vật lên đức Thế Tôn và kể lại toàn thể câu chuyện trên.

  1. Chuyện Con Voi (Nàga)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên).

Tôn giả Samkicca vào lúc bảy tuổi đã đắc quả A-la-hán ngay tại phòng cạo tóc, và khi còn làm Sa-di, trú trong rừng với ba mươi Tỷ-kheo, vị ấy đã cứu chư vị thoát chết bởi tay của năm trăm tên cướp. Sau khi đã giáo hóa cả bọn đạo tặc kia và khuyến dụ chúng vào đời tu hành xuất gia, vị ấy cùng Tăng chúng này đến yết kiến bậc Ðạo Sư ở Benares (Ba-la-nại) và trú tại Isipatana (Trú xứ của Chư Tiên).

Thời ấy tại Benares, một Bà-la-môn theo tà đạo có hai trai một gái. Ba người con này gia nhập đoàn cư sĩ tại gia đảnh lễ cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn, mặc dù cha mẹ họ không có lòng tôn kính ấy.

Bấy giờ do một cơn bão, cả năm người ấy bị đè bẹp và chết vì ngôi nhà cũ kỹ ọp ẹp của họ sụp đổ. Sau đó vị Bà-la-môn và vợ tái sanh làm ngạ quỷ, còn hai trai và cô gái được làm các địa thần.

Lúc ấy một cháu trai của Bà-la-môn kia là đệ tử của Tôn giả Samkicca, đến tham kiến theo lời thầy và trong lúc vị ấy đứng đó, nhờ thần lực của thầy mình, vị ấy thấy hai địa thần cùng cô em cỡi xe đến tham dự lễ hội các thần Dạ-xoa và cũng thấy luôn cả hai ngạ quỷ theo sau họ, bèn bảo các ngạ quỷ này:

  1. Một thần cỡi bạch tượng đưa đường,
    Ở giữa, xe la kéo một chàng,
    Phía cuối, một nàng ngồi chiếc cáng
    Chiếu đầy ánh sáng khắp mười phương.
  2. Song hai ngươi nắm búa trong tay,
    Tan nát toàn thân lẫn mặt mày,
    Ác nghiệp nào xưa ngươi đã tạo,
    Sao ngươi uống máu của nhau vầy?

Hai ngạ quỷ:

  1. Thần ngồi phía trước dẫn đưa đường
    Trên bạch tượng kia, vật bốn chân,
    Ðó chính là con ta, trưởng tử,
    Cúng dường, nay được hưởng hồng ân.
  2. Còn thần ngồi giữa ở trên xe
    Có bốn con la kéo bốn bề,
    Xe chạy thật nhanh, là quý tử,
    Thanh cao thí chủ, sáng ngời kia.
  3. Cô gái ngồi sau chiếc cáng dài,
    Nữ thần thông tuệ cặp mắt nai
    Dịu hiền, cô út nhà ta đó,
    Nàng hưởng nửa phần hạnh phúc thôi.
  4. Những thần này với trí khinh an,
    Kiếp trước đã dâng lễ cúng dường
    Lên các Bà-la-môn, ẩn sĩ,
    Còn ta keo kiệt lại xan tham
    Ðã từng phỉ báng nhiều tu sĩ.
    Vì chúng ngày xưa đã phát ban,
    Nay chúng thong dong đi khắp chốn,
    Ta khô như sậy bị cưa ngang.

Khi đã nêu ra ác nghiệp, chúng còn giải thích như vầy:

– Chúng ta là anh và chị dâu của mẹ ngươi.

Nghe vậy người cháu đau lòng hỏi:

  1. Hai vị thường ăn thực phẩm nào?
    Loại giường của các vị ra sao?
    Cách nào nuôi sống, người sai phạm
    Trọng tội, khi đầy đủ biết bao
    Thực phẩm dồi dào, nhưng bất hạnh
    Và nay đang chịu quả thương đau?

Hai ngạ quỷ:

  1. Ta đánh nhau và uống máu nhau,
    Dù uống đã nhiều, vẫn khát khao,
    Chẳng được thức gì ăn để sống,
    Chúng ta không thỏa mãn đâu nào.
  2. Như những người không biết cúng dường
    Mạng chung, vào cõi Dạ-ma-vương,
    Sau khi nhận thấy phần ăn uống,
    Chẳng hưởng được gì lợi lạc thân.
  3. Chịu đói khát nhiều ở cõi âm,
    Lâu dài ngạ quỷ phải than thân,
    Bởi vì chúng bị luôn hành hạ
    Do chúng tạo bao nghiệp ác gian,
    Chúng thường nhận lãnh nhiều đau khổ
    Như là quả báo đắng cay tràn.
  4. Tài sản giàu sang chẳng vững vàng,
    Ðời người trên thế giới vô thường,
    Từ vô thường biết vô thường ấy,
    Người trí đi tìm chốn trú an.
  5. Những người biết Ðạo pháp bình yên,
    Nếu có trí vầy chớ lãng quên
    Dâng lễ cúng dường khi đã học
    Lời chư La-hán, chúng Tăng hiền.
  6. Chuyện Con Rắn (Uraga)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên).

Thuở ấy tại Sàvatthi (Xá-vệ) tương truyền con trai một vị đệ tử tại gia từ trần. Người cha đắm mình vào nỗi sầu khổ khóc than, không bước ra ngoài; vị ấy không thể làm gì được nên chỉ ở trong nhà.

Lúc ấy, Bậc Ðạo Sư vừa xuất định Ðại bi từ sáng sớm đang quán sát cõi trần với Phật nhãn, sau khi thấy người đệ tử tại gia kia, Ngài cầm y bát và đến đứng ngay tại cửa nhà vị ấy.

Vị đệ tử ấy vội vã đi ra tiếp đón Ngài, đỡ lấy bình bát và mời Ngài vào trong. Ðức Thế Tôn nói với vị ấy:

– Này cư sĩ, sao ông có vẻ mang nặng sầu tư?

Vị ấy đáp:

– Bạch Thế Tôn, quả thật con trai yêu quý của con vừa qua đời, nên con mang nặng sầu tư.

Sau đó, đức Thế Tôn, bậc ly sầu, kể cho vị ấy nghe chuyện Tiền Thân Con Rắn (Kinh Bổn Sanh số 354).

Thuở xưa trong quốc độ Kàsi, ở Ba-la-nại có một gia đình Bà-la-môn được mệnh danh Dhammapala (Hộ pháp). Trong nhà này, vị Bà-la-môn, bà vợ, con trai, con gái, con dâu, nữ tỳ, tất cả mọi người đều hân hoan thích thú hướng tâm niệm về cái chết. Bất cứ ai rời khỏi nhà đều nói cho những người khác biết và ra đi không hề bị ai để ý gì cả.

Rồi một hôm, vị Bà-la-môn cùng con trai ra đồng và cày ruộng, trong khi cậu trai nhóm lửa để sấy khô cây cỏ. Tức thì một con rắn hổ mun sợ hãi bò ra khỏi lỗ cây và cắn cậu trai vị Bà-la-môn. Cậu từ trần và hóa sanh làm Sakka Thiên chủ.

Còn vị Bà-la-môn, sau khi tắm rửa thật sạch sẽ và xoa dầu thơm cho mình xong, được đám người hộ tống vây quanh, vị ấy đặt thi thể con lên dàn hỏa và châm lửa giống như thể vị ấy đang đốt một đống củi vậy. Vị ấy cứ đứng đó, không sầu não cũng chẳng tự hành hạ mình, sau khi đã chú tâm vào niệm vô thường.

Bấy giờ con trai vị Bà-la-môn đã hóa sanh làm Sakka Thiên chủ chính là Bồ-tát. Sau khi suy xét thiện nghiệp đã làm ở kiếp trước và đầy lòng thương xót cha Ngài cùng quyến thuộc, Ngài liền đến chỗ ấy, giả dạng một Bà-la-môn.

Khi Ngài thấy mọi người không than khóc, liền bảo:

– Này, chư vị đang nướng thịt súc vật à, cho ta một ít; ta đang đói đây.

– Này Bà-la-môn, không phải là con vật đâu, con người đấy.

Bồ-tát hỏi:

– Thế đó là kẻ thù của chư vị chăng?

Người cha đáp:

– Chẳng phải kẻ thù đâu, mà là đứa con được bảo dưỡng trong lòng chúng tôi đấy, chính đứa con trai yêu quý đầy đủ các đức tính ưu tú của chúng tôi đấy.

Bồ-tát lại hỏi:

– Thế tại sao ông không khóc con?

Vị Bà-la-môn đáp:

  1. Như con rắn trút bỏ da tàn,
    Ðạt đến trưởng thành chính bản thân,
    Cũng vậy, khi thân không hưởng lạc,
    Ðúng thời, người chết phải từ trần.
  2. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng
    Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương,
    Cho nên tôi chẳng hề than khóc,
    Nó đã đi theo đúng bước đường.

Sau đó Sakka Thiên chủ hỏi bà mẹ:

– Bà ơi, người chết ấy là gì của bà?

Bà đáp:

– Thưa Ngài, tôi đã cưu mang nó mười tháng trong bụng, tôi cho nó bú mớm, tôi dẫn dắt tay chân nó, nó là con trai tôi đã khôn lớn rồi.

Thiên chủ hỏi:

– Cho dù cha là đàn ông thường không khóc chứ lòng mẹ chắc chắn là mềm yếu. Tại sao bà không khóc?

Nghe vậy, bà đáp:

  1. Không gọi, từ đâu nó đến đây,
    Chẳng ai cho phép, nó đi ngay,
    Nó đi, nó đến đều như vậy,
    Sao phải khóc than nó chốn này?
  2. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng
    Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương,
    Cho nên tôi chẳng hề than khóc,
    Nó đã đi theo đúng bước đường.

Sau đó, Ngài hỏi người chị:

– Này cô, người ấy là gì của cô?

– Thưa Ngài, đó là anh trai của con.

– Này cô, chị em gái thường rất yêu mến anh em trai. Tại sao cô không khóc?

Cô chị giải thích:

  1. Nếu con khóc, sẽ phải gầy mòn,
    Bù đắp, có gì trả lại con?
    Còn phát sinh ra nhiều bất lợi
    Cho bà con, quyến thuộc, thân bằng.
  2. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng
    Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương,
    Cho nên con chẳng hề than khóc,
    Kẻ đã đi theo đúng bước đường.

Sau đó, Ngài lại hỏi người quả phụ:

– Người đó là gì đối với chị?

– Thưa Ngài, đó là chồng của con.

– Này chị, các người vợ thường rất yêu thương chồng mình. Tại sao chị không khóc?

Nàng liền giải thích:

  1. Giống như đứa trẻ nọ kêu than
    Khi mặt trăng kia cứ lặn dần,
    Làm chính việc này đâu có khác
    Người nào thương khóc kẻ từ trần.
  2. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng
    Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương,
    Cho nên con chẳng hề than khóc,
    Kẻ đã đi theo đúng bước đường.

Sau đó Ngài hỏi cô nữ tỳ:

– Này cô, người ấy là gì của cô?

– Thưa Ngài, đó là cậu chủ con.

– Nếu vậy, chắc có lẽ cậu ấy đã đánh đập cô, và cô sắp làm quản gia rồi, bởi thế cô không than khóc, vì suy nghĩ: ‘Ta rất sung sướng được thoát khỏi người đã chết này’.

Nữ tỳ đáp:

– Thưa Ngài, xin đừng nói như vậy với con. Ðiều ấy không đúng. Cậu chủ nhà đối với con đầy kiên nhẫn, thân ái, ân cần, cư xử đúng mực chân chánh như một thanh niên trưởng thành được nuôi dạy chu đáo.

– Thế tại sao cô không khóc?

Nàng đáp:

  1. Giống như trường hợp Bà-la-môn
    Có một chiếc bình đã vỡ toang
    Không thể phục hồi, và cũng vậy,
    Hoài công thương khóc kẻ từ trần.
  2. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng
    Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương,
    Cho nên con chẳng hề than khóc,
    Kẻ đã đi theo đúng bước đường.

Khi Sakka Thiên chủ đã nghe pháp thoại của cả nhà ấy xong, Ngài hân hoan nói:

– Chư vị đã chân chánh tu tập niệm chết. Từ nay về sau chư vị không cần cày bừa lao động gì nữa cả.

Ngài liền hóa hiện ra bảy thứ báu vật tràn đầy nhà họ và khuyên nhủ với họ với những lời này:

– Hãy chuyên tâm bố thí, hành trì Ngũ giới và giữ ngày Trai giới (Bố-tát).

Sau đó Ngài xuất lộ nguyên hình trước mặt họ và trở về cõi của Ngài. Còn vị Bà-la-môn và gia đình luôn bố thí, thực hành mọi thiện sự khác và sau khi sống đời trường thọ, liền được tái sanh lên thiên giới.

Phẩm II – Phẩm Ubbarì

  1. (13) Chuyện Người Tìm Giải Thoát Vòng Luân Hồi (Samsàmocaka)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm)

Thuở ấy, trong làng Itthakàvati ở nước Magadha và làng Dìgharàji có nhiều người mang nặng tà kiến, muốn tìm giải thoát vòng luân hồi sanh tử. Trước đó có một nữ nhân được tái sanh và một gia đình như vậy. Vì giết hại nhiều gián, dế và châu chấu, khi từ trần, bà tái sanh làm ngạ quỷ, chịu mọi nỗi khổ đói khát giày vò suốt năm trăm năm.

Thời đức Thế Tôn Gotama đang ở tại Ràjagaha, nữ nhân ấy một lần nữa tái sanh vào cùng gia đình như trước kia tại Itthakàvati. Một hôm, khi nàng đang chơi đùa cùng các cô gái khác trên đường cái gần cổng làng, thì Tôn giả Sàriputta cùng mười hai Tỷ-kheo khác đi ngang qua và các cô gái kia vội vàng đảnh lễ. Nhưng cô này vẫn đứng yên tại chỗ một cách vô lễ. Sau đó vị Trưởng lão suy xét quá khứ và tương lai của cô, động lòng thương xót, phê bình thái độ của cô với các cô kia. Họ liền nắm tay cô và kéo cô đến đảnh lễ chư vị.

Về sau, cô gái từ trần lúc sanh con và lại tái sanh giữa loài ngạ quỷ. Ban đêm, nữ ngạ quỷ ấy xuất hiện trước Tôn giả Sàriputta, vị ấy thấy nó liền hỏi:

1.Trần truồng và xấu xí hình dung,
Gầy guộc và thân thể nổi gân,
Ngươi yếu ớt, xương sườn lộ rõ,
Người là ai, hiện đến đây chăng?

Nữ ngạ quỷ đáp:

  1. Tôn giả, con là ngạ quỷ nương,
    Thần dân khốn khổ của Diêm Vương,
    Vì con đã phạm hành vi ác,
    Con đến cõi ma đói ẩn thân.

Tôn giả Sàriputta:

  1. Ngày xưa ngươi phạm ác gì
    Do thân, khẩu, ý thân đã thực thi,
    Vì hạnh nghiệp nào, ngươi đã đọa
    Từ đây đến cảnh giới âm ty?

Nữ ngạ quỷ:

  1. Tôn giả, con không có họ hàng,
    Mẹ cha, quyến thuộc để khuyên lơn:
    ‘Này con, hãy có tâm thành kính
    Với các Sa-môn, hãy cúng dường’.
  2. Ngũ bách niên từ đó đến đây,
    Con lang thang với tấm thân này,
    Trần truồng, đói khát luôn hành hạ,
    Ðây quả do nhiều ác nghiệp gây.
  3. Kính bái hiền nhân với tín tâm
    Bạch ngài đại lực, xót thương con,
    Cúng dường lấy đức cho con hưởng,
    Giải thoát con từ cảnh khổ thân.

Chư vị kết tập Kinh điển kể tiếp chuyện này:

  1. Chấp thuận với lời: ‘Ðược lắm thay!’
    Vì lòng bi mẫn cõi đời này,
    Cúng dường Tăng chúng phần cơm nhỏ,
    Một mảnh y cùng chén nước đầy,
    Xá-lợi-phất Tôn nhân phát nguyện
    Dành cho ngạ quỷ phước phần này.
  2. Lập tức ngay sau lễ cúng dâng,
    Phước phần hồi hướng đến vong nhân,
    Ðây là kết quả từ công đức:
    Thức uống, thức ăn, lẫn áo quần.
  3. Sáng ngời, y phục thật thanh tân,
    Tơ lụa Ba-la-nại tuyệt trần,
    Mang đủ nữ trang và kiểu áo,
    Ðến gần Xá-lợi-phất Tôn nhân.

Tôn giả Sàriputta hỏi:

  1. Hỡi nàng Thiên nữ, dáng siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương sáng rỡ ràng,
    Thiên nữ, sắc nàng trông chói lọi,
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Dung sắc này do nghiệp quả nào,
    Phước phần nàng hưởng bởi vì sao,
    Bất kỳ lạc thú nào yêu chuộng
    Trong dạ, nàng đều thỏa ước ao?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Vẻ huy hoàng chiếu khắp mười phương?

Nữ ngạ quỷ đáp:

  1. Trước con hình vóc chỉ trơ xương,
    Gầy guộc, đói cơm, lại ở truồng,
    Da dẻ nhăn nheo, nhờ Giác giả
    Từ bi nhìn cảnh ngộ đau thương.
  2. Khi ngài ban tặng chủng hiền Tăng
    Một mảnh y vàng, một miếng ăn,
    Và chén nước kia, ngài đã chuyển
    Phước phần công đức đến cho con.
  3. Hãy nhìn kết quả của phần ăn:
    Lạc thú mà con vẫn ước mong,
    Con được cả ngàn năm thọ hưởng
    Thức ăn đầy đủ các mùi hương.
  4. Hãy nhìn kết quả phát sinh ra
    Từ một mảnh trong chiếc áo kia:
    Y phục giờ đây đầy đủ loại
    Khác nào quốc độ chúa Nan-da.
  5. Tôn giả, nay con có biết bao
    Áo quần, mền đắp thật dồi dào,
    Bằng tơ lụa với lông loài vật,
    Ðủ loại vải dày mỏng đẹp sao.
  6. Sung mãn và cao quý tuyệt vời,
    Chúng treo lơ lửng ở trên trời,
    Con mang tùy ý, thưa Tôn giả,
    Bất cứ loại nào thích thú thôi.
  7. Hãy nhìn kết quả tạo nên phần
    Từ chén nước trong đã cúng dâng:
    Có bốn hồ sen sâu thẳm thẳm
    Ðược xây dựng khéo léo vô ngần.
  8. Bến bờ xinh đẹp, nước trong xanh,
    Nhè nhẹ hương thơm, dịu mát lành,
    Bao phủ toàn sen xanh, đỏ thắm,
    Tràn đầy ngó súng mọc chung quanh.
  9. Phần con an hưởng thú vui chơi,
    Chẳng sợ gì đâu bốn góc trời,
    Tôn giả, nay con về cõi đất
    Ðể con đảnh lễ đấng thương đời. 

2. (14) Chuyện Mẹ Của Trưởng Lão Sàriputta (Sàriputtatheramàtu)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm).

Một hôm, các Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất), Mahà-Moggallàna (Ðại Mục-kiền-liên), Anurudha (A-na-luật-đà) và Kapppina (Kiếp-tân-na) đang trú tại một nơi trong khu rừng không xa thành Ràjagaha (Vương Xá).

Bấy giờ ở Benares (Ba-la-nại) có một Bà-la-môn đại phú gia, vốn là một giếng nước đầy đối với các Sa-môn, Bà-la-môn, đám dân nghèo, du sĩ, lữ khách, hành khất; vị ấy cúng dường bố thí thực phẩm, y phục, sàng tọa và nhiều vật dụng khác.

Vị ấy điều hành sinh hoạt của mình và bố thí tùy theo cơ hội phù hợp với các khách vãng lai, đủ mọi vật cần thiết cho tuyến đường trường. Vị ấy thường dặn bà vợ:

– Này bà, đừng quên việc bố thí này, bà phải chuyên tâm chăm lo bố thí như đã được định đoạt.

Bà vợ đồng ý, nhưng khi ông ra đi, bà liền cắt giảm tục lệ cúng dường chư Tăng. Hơn nữa, đối với đám lữ khách đến xin cư trú, bà chỉ vào túp lều xiêu vẹo bị bỏ phế đằng sau nhà và bảo họ:

– Hãy ở lại đó.

Khi đám du sĩ đến xin thực phẩm nước uống và các thức khác, bà thường buông lời nguyền rủa, kể ra cho từng người bất cứ vật gì ô uế đáng ghê tởm và bảo:

– Hãy ăn phân đi! Hãy uống nước tiểu đi! Hãy uống máu đi! Hãy ăn óc mẹ ngươi đi!

Do nghiệp lực trói buộc, lúc từ trần, bà tái sanh làm nữ ngạ quỷ chịu nỗi khốn cùng phù hợp với ác hạnh của bà. Khi nhớ lại đám quyến thuộc trong tiền kiếp, bà ước mong đến gần Tôn giả Sàriputta, và bà liền đến nơi ngài cư trú.

Các vị thổ thần trong nhà ngài không chấp nhận cho nữ quỷ vào. Do đó nữ quỷ nói như sau:

– Trong kiếp thứ năm kể về trước, ta là mẹ của Tôn giả Trưởng lão Sàriputta, hãy cho phép ta vào cửa để thăm ngài.

Vừa nghe vậy, chư thần liền cho phép nữ quỷ.

Khi nữ quỷ vào trong, nữ quỷ đứng cuối am thất và thấy ngài. Chợt trông thấy nữ quỷ, ngài động lòng từ bi liền hỏi nữ quỷ:

  1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
    Gầy guộc và thân thể nổi gân,
    Ngươi yếu ớt, xương sườn lộ rõ,
    Người là ai, hiện đến đây chăng?

Nữ ngạ quỷ đáp:

  1. Tôn giả, xưa ta mẹ của ngài,
    Trong nhiều kiếp trước ở trên đời,
    Tái sanh cảnh giới loài ma quỷ,
    Ðói khát giày vò mãi chẳng thôi.
  2. Những thứ gì nôn tháo, bọt mồm,
    Nước mũi tuôn ra, nước dãi đờm,
    Chất mỡ rỉ ra từ xác chết
    Bị thiêu, máu sản phụ lâm bồn.
  3. Máu chảy ra từ các vết thương,
    Hoặc từ đầu, mũi bị cưa ngang,
    Những gì cấu uế trong nam nữ,
    Ðói lả, ta đều phải lấy ăn.
  4. Máu mủ ta ăn của các loài,
    Và luôn máu mủ của con người,
    Không nơi cư trú, không nhà cửa,
    Nằm chiếc giường đen nghĩa địa hoài.
  5. Tôn giả, xin Tôn giả cúng dường,
    Vì ta, ngài bố thí ban ân,
    Ðể cho ta hưởng phần công đức,
    Giải thoát ta từ máu, mủ, phân.

Ngày hôm sau, Tôn giả Sàriputta cùng ba vị Tỷ-kheo kia khất thực trong thành Vương Xá, đến tận cung Ðại vương Bimbisàra (Tần-bà-sa).

Nhà vua hỏi:

– Chư Tôn giả, tại sao chư vị đến đây?

Tôn giả Mahà-Moggallàna trình vua những việc đã xảy ra. Nhà vua phán:

– Chư Tôn giả, trẫm chấp thuận việc ấy.

Nhà vua bảo chư vị ra đi, triệu vị cận thần vào và truyền lệnh:

– Hãy xây trong khu rừng của thành này bốn am thất được cung cấp đủ bóng mát và nước chảy.

Khi các am thất đã được hoàn tất, nhà vua đem chúng cùng các vật dụng cần thiết trong cuộc sống cúng dường Trưởng lão Sàriputta. Sau đó vị ấy dâng tặng lễ vật này lên Tăng chúng khắp thế gian do đức Phật làm thượng thủ và hồi hướng công đức ấy đến nữ ngạ quỷ kia.

Nữ ngạ quỷ hưởng các lợi lạc này liền được tái sanh lên thiên giới. Bấy giờ đầy đủ mọi thứ cần dùng, một hôm Thiên nữ đến gần Tôn giả Mahà-Moggallàna và kể cho vị ấy nghe tất cả mọi chi tiết trong hai kiếp tái sinh làm ngạ quỷ và Thiên nữ.

Do đó, chuyện kể rằng:

  1. Khi nghe mẹ đã nói gần xa,
    Thương xót, ngài U-pa-tis-sa,
    Triệu tập Mục-kiền-liên đại lực,
    Cùng A-na-luật, Kiếp-tân-na.
  2. Khi đã làm xong bốn cái am,
    Ngài dâng lễ cúng tứ phương Tăng,
    Am tranh, thực phẩm và hồi hướng
    Công đức về cho mẹ hưởng phần.
  3. Lập tức ngay sau lễ cúng dâng,
    Phước phần hồi hướng đến vong nhân,
    Ðây là kết quả từ công đức:
    Thức uống, thức ăn, lẫn áo quần.
  4. Xiêm y thanh lịch hiện dần ra,
    Ðệ nhất Ba-la-nại lụa là,
    Tô điểm ngọc vàng, nhiều kiểu áo,
    Ðến gần Tôn giả Ko-li-ta.

Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi:

  1. Hỡi nàng Thiên nữ, dáng siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương sáng rỡ ràng,
    Thiên nữ, sắc nàng trông chói lọi,
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Dung sắc này do nghiệp quả nào,
    Phước phần nàng hưởng bởi vì sao,
    Bất kỳ lạc thú nào yêu chuộng
    Trong dạ, nàng đều thỏa ước ao?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Vẻ huy hoàng chiếu khắp mười phương?

Thiên nữ đáp:

  1. Xá-lợi-phất Tôn giả cúng dường,
    Nhờ đây, con hạnh phúc hân hoan,
    Bốn phương con chẳng hề kinh hãi,
    Tôn giả chính là bậc xót thương
    Khắp cõi trần gian, thưa Giác giả,
    Con về đây kính lễ tôn nhan. 

3. (15) Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Mattà (Mattà)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên).

Thuở ấy tại Sàvatthi (Xá-vệ) có một vị địa chủ đầy tín tâm và đạo hạnh. Tuy thế, bà vợ Mattà lại không có lòng tin, không mộ đạo, bản tính hay nóng giận và không có con.

Sau đó, ông sợ dòng họ bị tuyệt tự, đã cưới một phụ nữ khác tên là Tissà. Nàng có lòng tin, mộ đạo và làm đẹp lòng chồng, nàng sinh một con trai được đặt tên là Bhùta. Là bà chủ nhà, nàng kính cẩn phục vụ bốn Tỷ-kheo thọ trai.

Không thể chịu đựng mãi tình địch, khi đã quét nhà xong, Mattà đổ rác lên đầu Tissà. Về sau Mattà từ trần và tái sanh làm nữ ngạ quỷ, phải chịu nỗi khốn khổ năm phần vì nghiệp lực của mình.

Nỗi thống khổ của bà được thấy rõ trong bài kinh này. Rồi một hôm, nữ ngạ quỷ nhớ lại quá khứ, liền hiện hình trước Tissà lúc ấy đang tắm rửa sau nhà. Khi thấy ngạ quỷ, Tissà hỏi:

  1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
    Gầy guộc và thân thể nổi gân,
    Ngươi yếu ớt, xương sườn lộ rõ,
    Ngươi là ai hiện đến đây chăng?

Mattà:

  1. Mat-tà là chị, hỡi Tis-sà,
    Chị lấy chồng chung một kiếp xưa,
    Do chị đã gây nên ác nghiệp,
    Từ đây đọa đến cõi yêu ma.

Tissà:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hạnh gì
    Do khẩu, ý, thân chị thực thi,
    Vì hạnh nghiệp nào nên đã đọa
    Từ đây đến cảnh giới âm ty?

Mattà:

  1. Xưa chị ác tâm, lắm hận sân,
    Xan tham, dối trá, lại ghen hờn,
    Vì dùng ác ngữ làm thương tổn,
    Chị đoạ từ đây đến cõi âm.

Tissà:

  1. Em còn nhớ mọi chuyện ngày xưa,
    Chị thật hung hăng thuở bấy giờ,
    Song có việc này em muốn hỏi:
    Tại sao mình chị phủ đồ dơ?

Mattà:

  1. Một buổi em vừa tắm gội xong,
    Áo quần sạch sẽ mới vừa mang,
    Chị đây, quả thật, còn hơn thế,
    Chị điểm tô nhiều món nữ trang.
  2. Khi điểm trang vầy, chị ngó qua
    Em đang nói chuyện với chồng ta,
    Chính vì việc ấy, niềm ganh tỵ,
    Cuồng nộ trong lòng bộc phát ra.
  3. Rồi chị cầm đồ rác bụi lên,
    Ðúng là chị đã rải đầu em,
    Vì do kết quả hành vi ấy,
    Chị phải giờ đây chịu lấm lem.

Tissà:

  1. Thật em biết mọi chuyện ngày xưa,
    Chị rảy lên em lắm bụi dơ,
    Nhưng có việc này em muốn hỏi:
    Tại sao chị ngứa ngáy giày vò?

Mattà:

  1. Tìm dược thảo, xưa hai chúng ta
    Cùng đi vào tận chốn rừng già,
    Em tìm các cỏ cây làm thuốc,
    Chị hái quả cây Ka-pi-ka.
  2. Lúc ấy em không biết chút nào,
    Giường em, chị rải chúng nhiều sao,
    Vì do kết quả hành vi ấy,
    Chị bị giày vò, ngứa biết bao!

Tissà:

  1. Thật ra, em biết rõ hoàn toàn
    Chị rải trái kia khắp cả giường,
    Song có việc này em muốn hỏi:
    Tại sao chị phải chịu trần truồng?

Mattà:

  1. Ngày kia có cuộc họp thân bằng,
    Tụ tập họ hàng lại thật đông,
    Em đã được mời đi dự lễ
    Cùng chồng ta đó, chị thì không.
  2. Thế rồi em chẳng biết hoàn toàn,
    Chị lấy cất đi mọi áo quần,
    Do chính việc này sinh kết quả,
    Giờ đây chị phải chịu trần truồng.

Tissà:

  1. Thật ra em biết chuyện kia mà,
    Chị lấy áo quần em quẳng xa,
    Song có việc này em muốn hỏi:
    Sao mùi xú uế chị xông ra?

Mattà:

  1. Vòng hoa, hương liệu, với trầm hương
    Chị lấy của em vứt hố phân,
    Do quả chị làm ra ác nghiệp,
    Chị xông mùi xú uế vô cùng.

Tissà:

  1. Ðúng là em biết rõ điều này,
    Ác nghiệp kia do chị đã gây,
    Song có việc này em muốn hỏi:
    Tại sao chị khốn khổ như vầy?

Mattà:

  1. Tài sản trong nhà của chúng ta
    Thuộc về cả chị lẫn em mà,
    Cúng dường bố thí là công đức,
    Song chị không hề tự tạo ra
    Một chỗ trú an, nay khốn khổ,
    Là do kết quả lỗi lầm xưa.
  2. Em thường bảo chị chính lời này:
    Chị cả đang hành ác nghiệp đây,
    Song nếu không làm điều tổn đức,
    Về sau sẽ hưởng phước tràn đầy’.

Tissà:

  1. Thái độ hận sân, chị đến gần
    Bên em, chị tật đố ghen hờn,
    Hãy nhìn quy luật điều chân lý:
    Kết quả hành vi ác đã làm.
  2. Chị lắm gia nhân ở tại nhà,
    Nữ trang đầy đủ thật xa hoa,
    Ngày nay chúng được người ngoài hưởng,
    Lạc thú ở đời chỉ thoảng qua.
  3. Giờ đây, cha của bé Bhù-ta
    Từ chợ sắp quay trở lại nhà,
    Ông sẽ tặng quà cho chị đó,
    Ðừng đi, hãy đợi lát giây mà.

Mattà:

  1. Trần truồng, dị tướng, quá hao gầy,
    Mình mẩy đường gân nổi rõ đầy,
    Ðây chiếc khố che phần hạ thể,
    Ðừng cho bố trẻ thấy ta vầy.

Tissà:

  1. Này, chị muốn em tặng thứ nào,
    Làm gì giúp đỡ chị hay sao,
    Ðể cho chị được nhiều an lạc,
    Hạnh phúc mọi điều thỏa ước ao?

Mattà:

  1. Ðây bốn Tỷ-kheo của chúng Tăng,
    Và thêm vào đó bốn Sa-môn,
    Cúng dường tám vị và hồi hướng
    Công đức cho ta được hưởng phần,
    Sau đó, ta tràn đầy hạnh phúc,
    Thỏa lòng ao ước được hồng ân.

Chuyện kể tiếp:

  1. ‘Ðược lắm!’, nàng vừa nói vậy xong,
    Liền đem dâng cúng tám Sa-môn
    Phạn trai, cùng với nhiều y phục,
    Hồi hướng phước phần đến cổ nhân.
  2. Lập tức ngay sau lễ cúng dâng,
    Phước phần hồi hướng đến vong nhân,
    Ðây là kết quả từ công đức:
    Thức uống, thức ăn, lẫn áo quần.
  3. Sáng ngời, y phục thật thanh tân,
    Tơ lụa Ba-la-nại tuyệt trần,
    Mang đủ nữ trang và kiểu áo,
    Ðến gần vợ kế của phu nhân.

Tissà:

  1. Hỡi nàng Thiên nữ, dáng siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương sáng rỡ ràng,
    Thiên nữ, sắc nàng trông chói lọi,
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Dung sắc này do nghiệp quả nào,
    Phước phần nàng hưởng bởi vì sao,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, nàng đều thỏa ước ao?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Vẻ huy hoàng chiếu khắp mười phương?

Mattà:

  1. Mat-tà là chị, hỡi Tis-sà,
    Chị lấy chung chồng một kiếp qua,
    Do chị đã gây nên ác nghiệp,
    Từ đây đọa tới cõi yêu ma,
    Nhờ em dâng lễ, nay an hưởng.
    Chị chẳng sợ gì mọi hướng xa.
  2. Mong em trường thọ với thân nhân!
    Em hỡi, mong em hưởng phước ân
    Ðạt cảnh ly sầu bi, dục vọng,
    Cõi trời của Hóa Lạc Thiên thần.
  3. Em sống đời sùng đạo, cúng dường,
    Tại đây bố thí, hỡi hồng nhan,
    Ðoạn trừ gốc rễ xan tham ấy,
    Em đến cõi thiên, phước nghiệp tràn. 

4. (16) Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Nandà (Nandàpeti)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên).

Ở một làng nọ không xa Sàvatthi (Xá-vệ) có một đệ tử tại gia đầy lòng tin và mộ đạo. Tuy thế, vợ vị ấy tên là Nandà lại không có lòng tin, không mộ đạo, xan tham, dễ nóng giận, ác ngữ, thường tỏ ra bất kính và bất tuân lời chồng. Bà thường la mắng ồn ào như trống nổi và say mê phỉ báng mạ lỵ.

Khi từ trần và tái sanh làm nữ ngạ quỷ, bà cư trú gần làng ấy. Rồi một hôm, bà xuất hiện trước mặt cư sĩ Nandasena đang đi trên đường. Khi thấy nữ ngạ quỷ, chàng ngâm kệ hỏi:

  1. Ðen đủi và hình tướng dữ dằn,
    Thân mình xương xẩu thật kinh hoàng,
    Nhà ngươi mắt đỏ, răng vành chạch,
    Ta chắc ngươi không phải thế nhân.

Nữ ngạ quỷ:

  1. Nan-dà là thiếp, hỡi Nan-da,
    Thiếp chính vợ chàng một kiếp xưa,
    Vì đã dùng ngôn từ phỉ báng,
    Từ đây đọa đến cảnh yêu ma.

Nandasena:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hạnh gì
    Do khẩu, ý, thân đã thực thi,
    Vì hạnh nghiệp nào nên đã đọa
    Từ đây đến cảnh giới âm ty?

Nữ ngạ quỷ:

  1. Xưa thiếp ác ngôn, lắm hận sân,
    Thiếp thường không kính trọng phu quân,
    Vì dùng lời lẽ gây thương tổn,
    Thiếp đọa từ đây tới cõi âm.

Nandasena:

  1. Ta tặng nàng đây chiếc áo choàng,
    Áo này nàng hãy lấy mà mang,
    Sau khi nàng đã choàng xong áo,
    Ta sẽ dẫn nàng đến cố hương.
  2. Nàng sẽ được ta tặng áo quần,
    Về nhà đủ thức uống, đồ ăn,
    Rồi nàng sẽ ngắm đôi nam tử,
    Dâu của nàng là một ác nhân.

Nữ ngạ quỷ:

  1. Những gì chàng tặng, dẫu trao tay,
    Cũng chẳng giúp cho thiếp thật hay,
    Song với Tỷ-kheo đầy giới đức,
    Ða văn, ly dục ở đời này,
  2. Cúng dường chư vị đủ cao lương,
    Hồi hướng về cho thiếp phước ân,
    Thiếp sẽ được ban nhiều hạnh phúc,
    Ðạt thành mọi nguyện ước toàn phần.

Ba vần kệ tiếp theo được chư vị kết tập Kinh điển ngâm:

  1. ‘Ðược lắm!’, chàng vừa hứa hẹn xong,
    Cúng dường hào phóng lễ chàng dâng
    Dồi dào thực phẩm mềm và cứng,
    Y phục, dù, hương liệu, tọa sàng,
    Ðủ loại dép giày, hoa kết chuỗi,
    Sau khi dâng cúng các hiền Tăng
    Ly tham, đạo hạnh, đa văn đủ,
    Chàng chuyển phước phần đến cổ nhân.
  2. Lập tức ngay sau lễ cúng dâng,
    Phước phần hồi hướng đến vong nhân,
    Ðây là kết quả phần công đức,
    Thức uống, thức ăn lẫn áo quần.
  3. Sáng ngời, y phục thật thanh tân,
    Tơ lụa Ba-la-nại tuyệt trần,
    Mang đủ nữ trang và kiểu áo,
    Nàng liền tiến đến vị phu quân.

Nandasena:

  1. Hỡi nàng Thiên nữ dáng siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương sáng rỡ ràng,
    Thiên nữ, sắc nàng trông chói lọi
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Dung sắc này do nghiệp quả nào,
    Phước phần nàng hưởng bởi vì sao?
    Bất kỳ lực thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, nàng đều thỏa ước ao?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Vẻ huy hoàng chiếu khắp mười phương?

Thiên nữ:

  1. Nan-dà là thiếp, hỡi Nan-da,
    Thiếp chính vợ chàng một kiếp qua,
    Do đã phạm vào bất thiện nghiệp,
    Từ đây đọa tới cõi yêu ma,
    Nhờ chàng dâng lễ, nay an hưởng,
    Thiếp chẳng sợ gì mọi hướng xa.
  2. Mong chàng trường thọ với thân nhân,
    Gia chủ, mong chàng hưởng phước ân,
    Ðạt cảnh ly sầu bi, dục vọng,
    Cõi trời của Hóa Lạc Thiên thần.
  3. Chàng sống đời sùng đạo, cúng dâng,
    Tại đây, bố thí, hỡi phu quân,
    Ðoạn trừ gốc rễ xan tham ấy,
    Chàng đến cõi thiên chẳng lỗi lầm. 

5. (17) Chuyện Mattakundalì (Mattakundalì)

Chuyện này đã được kể ở Tập “Chuyện Thiên Cung”, Phẩm II, số 9: Thiên tử Ðeo Vòng Tai.

  1. (18) Chuyện Ðại Vương Kanha (Kanha)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana.

Ở thành Sàvatthi, con trai của một vị đệ tử tại gia từ trần. Người cha đau buồn không thể tắm rửa ăn uống hay quan tâm đến công việc của mình, mà cũng không đi phụng sự đức Phật. Vị ấy thường nói lảm nhảm:

– Con yêu quý của ta đã bỏ đi đâu rồi! Tại sao nó ra đi trước ta?

Trong lúc bậc Ðạo Sư đang quán sát thế gian vào lúc rạng đông. Ngài thấy người kia có đủ cơ duyên đắc đạo quả. Ngày hôm sau, được chúng Tỷ-kheo vây quanh, Ngài đi vào Sàvatthi để khất thực. Sau khi thọ trai, Ngài cùng thị giả Ananda đến cửa nhà người ấy. Lập tức các gia nhân báo cho vị đệ tử cư sĩ kia và đưa vị ấy đến tiếp kiến bậc Ðạo Sư.

Khi Ngài thấy vị ấy ngồi một bên, Ngài bảo:

– Này cư sĩ, ông đang phiền muộn điều gì chăng?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

– Này cư sĩ, các bậc trí nhân ngày xưa không còn than khóc đứa con yêu từ trần sau khi đã nghe chuyện của các bậc Hiền trí.

Rồi theo lời thỉnh cầu của người gia chủ, Ngài kể chuyện cổ tích này.

Thời xưa trong thành Dvàravati, có mười huynh đệ hoàng gia: Vàsudeva, Baladeva, Candadeva, Suriyadeva, Aggideva, Varunadeva, Ajjuna, Pajjuna, Ghatapandita và Ankura. Trong số này, có con trai của Ðại Vương Vàsudeva từ trần.

Vị vua ấy tràn ngập nỗi sầu bi, xao lãng mọi phận sự quân vương, cứ nằm dài trên giường, chắp tay lên đầu và nói lảm nhảm. Lúc ấy Ghatapandita (Trí giả Ghata) suy nghĩ: ‘Không ai ngoài ta có thể xua tan nỗi ưu phiền của Hoàng huynh. Ta sẽ dùng mưu kế dẹp bỏ nỗi sầu của Hoàng huynh’.

Vì thế vị ấy làm ra vẻ điên khùng vừa nhìn lên trời, vừa lang thang khắp kinh thành, bảo:

– Cho ta con thỏ! Cho ta con thỏ!

Lúc ấy dân chúng toàn thành suy nghĩ: ‘Ghatapandita đã phát điên rồi!’.

Lúc ấy vị quốc sư tên là Rohineyya đi đến Ðại vương Vàsudeva và mở đầu câu chuyện với vần kệ này:

  1. Ðứng lên! Tâu Ðại đến Kan-ha,
    Sao Ðại đế nằm mãi thế kia?
    Ích lợi gì khi ngài ngủ thiếp?
    Chàng là bào đệ của ngài mà,
    Là tim, mắt phải ngài yêu quý,
    Gió cuốn Gha-ta hóa dại khờ!

Bậc Ðạo Sư tiếp tục câu chuyện với vần kệ này:

  1. Khi nghe lời của Ro-hi-ya,
    Ðại đế Ke-sa, dáng xót xa,
    Nặng trĩu sầu tư, liền đứng dậy
    Chỉ vì bào đệ của nhà vua.

Sau đó nhà vua từ lầu thượng bước xuống và đi đến gặp Ghatapandita. Nhà vua ôm chặt bào đệ với đôi tay và nói chuyện với chàng:

  1. Sao dáng điên rồ, đệ thẩn thơ
    Khắp kinh thành đất nước Dvà-ra,
    Thì thầm: ‘Thỏ! Thỏ!’ luôn mồm ấy,
    Loại thỏ gì kia đệ ước mơ?
  2. Thỏ dầu bằng ngọc hoặc vàng ròng,
    Hoặc bạc hay là loại thỏ đồng,
    Bảo ngọc, san hô, loài đá quý,
    Ta làm cho đệ thỏa cầu mong.
  3. Còn có nhiều loài thỏ biết bao
    Vẫn thường chạy nhảy chốn rừng sâu,
    Loại này ta cũng mang cho đệ,
    Loại thỏ nào đâu đệ ước ao?

Ghatapandita đáp:

  1. Những loại thỏ này đệ chẳng ham,
    Những loài cư trú khắp trần gian,
    Ke-sa-va, hãy mau đem xuống
    Cho đệ thỏ kia chốn Quảng Hàn!

Khi nghe chàng nói, nhà vua đau buồn suy nghĩ: ‘Chắc chắn em ta đã hóa điên rồi’, và bảo:

  1. Bào đệ, chắc em sẽ bỏ đời,
    Vì em mơ ước chuyện xa vời,
    Chuyện mà không có ai mơ ước:
    Con thỏ cung trăng ở cõi trời!

Khi đã nghe những lời của nhà vua xong, Ghatapandita đứng yên và đáp:

– Này Hoàng huynh, Hoàng huynh cũng đã hủy hoại cuộc đời của mình nhưng không đạt được con thỏ trên cung trăng mà Hoàng huynh mơ ước.

Rồi vị ấy ngâm vần kệ này:

  1. Nếu Kan-ha quả thật trí cao
    Dạy cho người khác khỏi ưu sầu,
    Giờ đây sao vẫn còn than khóc
    Nam tử từ trần đã bấy lâu?

Trong khi đang đứng giữa đường cái, vị ấy nói như sau:

– Quả thật đệ ước mơ một điều rõ ràng, có thể hiểu được, nhưng Hoàng huynh lại than khóc về một điều không thể hiểu được như thế kia.

Rồi vị ấy ngâm kệ thuyết pháp với nhà vua:

  1. Mong con ta sống chẳng từ trần!
    Không một người hay một vị thần
    Có thể đạt điều không thể đạt,
    Sao điều không thể lại cầu mong?
  2. Không có bùa thiêng hoặc thuốc thang,
    Chẳng loài dược thảo hoặc tiền vàng
    Ðủ công năng để làm hồi phục
    Người chết Hoàng huynh vẫn khóc than.
  3. Chính đám phú gia lắm bạc vàng,
    Quốc vương, quý tộc có giang san,
    Những người phong phú bao tiền của
    Cũng chẳng thoát tay lão tử thần.
  4. Sát-ly, Sa-môn với Thủ-đà,
    Puk-ku-sa, Vệ-xá, Chiên-đà,
    Những người này với toàn gia tộc
    Cũng chẳng thoát tay lão-tử ma.
  5. Những kẻ chuyên trì tụng chú thần
    Sáu phần sáng tạo bởi La-môn,
    Bọn này, bọn khác dùng tà thuật
    Cũng chẳng thoát tay lão-tử vong.
  6. Ngay các trí nhân thật chánh chân,
    Các nhà khổ hạnh đã điều thân,
    Sa-môn, ẩn sĩ, dù tu luyện,
    Ðến đúng thời cơ cũng mạng vong.
  7. Những bậc suốt đời tu tập tâm,
    Những người phận sự đã làm xong,
    Những người giải thoát, ly tham dục,
    Ðoạn thiện ác hành, cũng bỏ thân.

Như vậy Ghatapandita thuyết pháp với nhà vua. Khi nhà vua đã nghe xong, nỗi đau buồn liền tan biến và tâm trí trở nên thanh thản. Nhà vua ngâm kệ để tán thán Ghatapandita:

  1. Lòng ta quả thực nóng bừng,
    Khác nào sữa lạc đổ trong lửa đào,
    Em vừa tưới nước lạnh vào,
    Giờ đây ta dứt hết bao khổ sầu.
  2. Quả em nhổ mũi tên đau
    Nỗi ưu phiền đã cắm sâu vào lòng,
    Xua tan mọi nỗi thương tâm,
    Sầu tư nặng trĩu, khóc thầm vì con.
  3. Giờ đây trút bỏ đau buồn,
    Lòng ta lắng dịu, trí thường khinh an,
    Ta không còn phải khóc than,
    Từ khi nghe những lời vàng của em.
  4. Vậy là những bậc trí hiền,
    Ðầy lòng bi mẫn, ưu phiền xóa ngay,
    Như Gha-ta tiểu đệ này
    Ðã làm huynh trưởng từ rày an tâm.
  5. Kẻ nào bầu bạn hiền nhân
    Vẫn thường hầu cận thiết thân bên mình,
    Với lời khuyên nhủ chí tình
    Như Gha-ta với trưởng huynh của chàng.

Bậc Ðạo Sư thuyết pháp thoại này và bảo:

– Như vậy, này cư sĩ, những người trí tuệ ngày xưa dứt bỏ ưu phiền vì con sau khi đã nghe chuyện của các bậc hiền nhân.

Sau đó vừa thuyết giảng các Thánh đế, Ngài vừa đưa chuyện Tiền thân này vào cơ hội trên. Khi pháp thoại chấm dứt, vị cư sĩ ấy đã được an trú vào quả vị Dự Lưu.

  1. (19) Chuyện Ngạ Quỷ Dhanapàla (Dhanapàlapeta)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana.

Trước khi đức Phật đản sinh, trong quốc độ Dasanna, tại kinh thành Erakaccha, có một vị chủ ngân khố tên là Dhanapàla (Tài Hộ), là một người không có lòng tin, không mộ đạo, keo kiệt và đầy tà kiến. Những công việc của vị này có thể hiểu được qua Kinh điển Pàli. Lúc từ trần, vị ấy tái sanh làm ngạ quỷ trong một vùng sa mạc hoang vắng. Ngạ quỷ đi lang thang khắp nơi, bị đói khát giày vò hành hạ.

Thời ấy, một số thương nhân sống ở Sàvatthi chất đầy hàng hóa lên năm trăm cỗ xe và khi đã đến Uttarapatha, họ bán các hàng ấy. Sau đó, họ lại chất đầy hàng hóa lên xe để trở về.

Họ khởi hành lên đường về nhà lúc chiều tối họ đến tại một gốc cây. Ở đấy họ tháo cương bỏ bầy bò ra và tạm trú qua đêm. Thế rồi ngạ quỷ kia bị cơn khát nước giày vò liền đến nơi ấy kiếm thứ gì để uống, nhưng không được giọt nào, nó liền thốt tiếng kêu. Khi thấy nó, các thương nhân hỏi:

  1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
    Gầy guộc và thân thể nổi gân,
    Ngươi yếu ớt, xương sườn lộ rõ,
    Ngươi là ai đấy, hỡi vong nhân?

Ngạ quỷ đáp:

  1. Tôn giả, ta là ngạ quỷ nhân,
    Thần dân xấu số của Diêm vương,
    Vì ta đã phạm hành vi ác,
    Ta đến nơi ma đói ẩn thân.

Ðám thương nhân:

  1. Ngày xưa ngươi phạm ác hành gì,
    Do khẩu, ý, thân đã thực thi,
    Vì hạnh nghiệp nào ngươi đã đọa
    Từ đây đến cảnh giới âm ty?

Ngạ quỷ:

  1. Kinh thành bộ tộc Da-san-na,
    Danh vọng lẫy lừng E-ra-ka,
    Thuở trước ta là nhà triệu phú,
    Với tên Tài Hộ tặng cho ta.
  2. Tám mươi ngàn chẵn cỗ xe lừa
    Chất chứa vàng ròng sở hữu ta,
    Thuở đó ta nhiều vàng bạc lắm,
    Ngọc trai, ngọc mắt báo đầy nhà.
  3. Như vậy ta là đại phú ông,
    Nhưng ta lại chẳng muốn cho không,
    Khi ta ăn uống, ta cài cửa
    Ðể bọn ăn mày chẳng ngóng trông.
  4. Xưa ta không mộ đạo, xan tham,
    Keo kiệt, dùng lời nói hại nhân,
    Ta cản nhiều người chuyên bố thí,
    Những người làm phận sự chuyên cần.
  5. Ta nói: ‘Không sao có phước phần
    Dành cho việc bố đức thi ân,
    Tu thân đâu có đem thành quả?’
    Ta phá bao nguồn nước vệ đường,
    Ao giếng, hồ sen, vườn cảnh đẹp,
    Lối đi hiểm trở khó băng ngang.
  6. Như vậy ta không tạo phước ân,
    Làm người gây ác nghiệp từ trần,
    Tái sanh vào xứ loài ma quỷ,
    Ðói khát luôn hành hạ khổ thân,
    Từ đấy đến nay ta tạ thế
    Tính ra vừa đủ năm lăm năm.
  7. Ẩm thực ta không được hưởng phần,
    Do không có bố đức thi ân,
    Thì điều tai hại là như vậy,
    Vì ngạ quỷ luôn hiểu biết rằng:
    ‘Nếu chẳng muốn thi ân bố đức,
    Thì điều tai hại cũng ngang bằng’.
  8. Thuở trước ta không muốn phát ban,
    Ta không bố thí các kho tàng,
    Mặc dù bố thí là công đức,
    Ta chẳng tạo nên chốn trú an.
  9. Ngày nay ta hối hận ăn năn,
    Nặng trĩu trong lòng bởi phải mang
    Hậu quả việc làm bao ác nghiệp,
    Và sau bốn tháng sẽ từ trần.
  10. Ðọa miền địa ngục hãi hùng sao,
    Có bốn góc và bốn cửa vào,
    Ngục được chia phần theo kích thước,
    Xung quanh bao bọc với tường rào
    Làm bằng sắt nóng và trên mái
    Cũng có sắt che tận đỉnh cao.
  11. Nền bằng sắt rực lửa bừng bừng,
    Nóng bỏng, chói lòa khắp mọi phương,
    Ðịa ngục muôn đời còn đứng mãi,
    Trải dài luôn cả trăm do-tuần.
  12. Nơi kia ta chịu khổ lâu dài,
    Thọ quả do tà nghiệp chín muồi,
    Vì thế ta thường ân hận mãi,
    Khóc than thực tế chẳng hề nguôi.
  13. Bởi vậy ta đem chuyện thật hay
    Nói cùng chư vị họp nơi đây,
    Ðừng bao giờ phạm hành vi ác,
    Dù giấu kín hay được tỏ bày.
  14. Nếu ngươi đang phạm việc sai lầm,
    Hoặc sắp phạm, thì nỗi khổ tâm
    Sẽ chẳng rời ngươi, dù trốn tránh,
    Bay lên trời đến giữa hư không.
  15. Hãy luôn tôn kính mẹ cùng cha,
    Quý trọng bậc niên trưởng tại nhà,
    Quy ngưỡng Bà-la-môn, đạo sĩ,
    Do vầy, thiên giới sẽ chờ ta.
  16. Không giữa trời hay giữa biển thanh
    Dẫu đi vào kẽ núi non xanh,
    Cũng không tìm được trong trần thế
    Nơi chốn thoát thân khỏi ác hành.

Các thương nhân thương xót ngạ quỷ liền rảy nước vào mồm nó. Nhưng vì ác nghiệp của ngạ quỷ kia, nó không thể nuốt được. Họ hỏi nó:

– Thế giờ đây ngươi không thể nào dịu bớt đôi chút khổ đau?

Ngạ quỷ đáp:

– Có thể được khi ác nghiệp này đã được tiêu trừ. Nếu giờ đây có lễ vật cúng dường đức Như Lai hoặc chư đệ tử của Ngài và công đức lễ cúng dường ấy được hồi hướng đến ta, thì ta sẽ được giải thoát ra khỏi kiếp sống ngạ quỷ này.

Khi các thương nhân đã nghe chuyện ngạ quỷ xong, họ trở về Sàvatthi, trình lên đức Thế Tôn, rồi suốt bảy ngày làm đại lễ cúng dường Tăng chúng có đức Phật làm thượng thủ và hồi hướng công đức ấy đến ngạ quỷ.

  1. (20) Chuyện Tiểu Chủ Ngân Khố (Cùlasetthi)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm).

Ở Benares (Ba-la-nại) có gia chủ Cùlasetthi (Tiểu chủ ngân khố) là người không có lòng tin, không mộ đạo, keo kiệt, không bố thí và khinh thường các thiện sự công đức. Lúc từ trần vị ấy tái sanh giữa loài ngạ quỷ.

Bấy giờ con gái vị ấy là Anulà đang sống tại nhà chồng ở Andhakavinda. Nàng mong muốn cúng dường các Bà-la-môn để lấy phước đức cho cha nên đã chuẩn bị cơm và các thực phẩm khác làm lễ vật.

Khi ngạ quỷ biết tin này, lòng đầy hy vọng liền bay qua không gian hướng về nơi kia và đến Ràjagaha (Vương Xá).

Thời ấy vua Ajatasattu (A-xà-thế) theo sự xúi giục của Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) đã giết hại phụ vương. Vì lòng hối hận giày vò và gặp cơn ác mộng, nhà vua không ngủ được. Trong lúc đang đi dạo quanh quẩn trên thượng lầu, nhà vua thấy ngạ quỷ kia đang bay qua không gian, liền hỏi:

  1. Ngươi là vị khổ hạnh trần truồng,
    Gầy guộc, ban đêm vượt dặm đường.
    Vì lý do gì, cho trẫm biết,
    Trẫm ban ngươi mọi vật giàu sang.

Ngạ quỷ đáp:

  1. Thành Ba-la-nại tiếng vang lừng,
    Nơi ấy ta là một phú ông
    Không bố thí và ham hưởng lạc,
    Vì làm ác, đọa cảnh Diêm công.
  2. Ðói khổ làm ta kiệt quệ dần,
    Ta đau như thể bị kim châm,
    Vì gây ác nghiệp, cho nên phải
    Ði đến bà con để kiếm ăn,
    Song những kẻ nào tâm biển lận
    Vẫn không tin tưởng chuyện cho rằng
    Thi ân bố đức đem thành quả
    Xuất hiện đời sau giữa thế nhân.
  3. Con gái ta thường nói với ta:
    ‘Con mong dâng cúng các ông cha’.
    Bà-la-môn muốn cho người khác
    Ði dự tiệc bằng cách nói ra:
    ‘Ta sắp được mời ăn thịnh soạn
    Tại nơi kia ở An-dha-ka’.

Chuyện kể tiếp:

  1. Vua truyền: ‘Khi đã nhận xong phần,
    Ngươi trở lại đây vội bước chân,
    Trẫm muốn ban ngươi nhiều phước lộc,
    Nếu nhà ngươi có một nguyên nhân,
    Trình cho trẫm biết ngay duyên cớ,
    Trẫm sẽ nghe điêù xứng tín tâm.
  2. ‘Mong vậy!’, quỷ vừa mới nói ra,
    Liền bay đi đến phố An-dha.
    Nơi kia chúng hưởng đồ dâng cúng,
    Song hội chúng không xứng đáng mà,
    Sau đó về thành Vương Xá ấy,
    Một lần nữa yết kiến nhà vua.
  3. Khi vua nhìn ngạ quỷ quay về,
    Liền bảo: ‘Nay ta phải cúng gì?
    Hãy nói thế nào là cách thức
    Khiến ngươi hưởng lạc thú tràn trề?’

Ngạ quỷ đáp:

  1. Phục vụ Tỷ-kheo với Phật-đà,
    Thức ăn, đồ uống, áo cà-sa,
    Cúng dường lấy phước cho ta hưởng,
    Ta sẽ hân hoan trọn kiếp mà.
  2. Tức thì vua bước xuống hoàng cung,
    Dâng lễ tự tay đến chúng Tăng,
    Trình đức Như Lai về việc ấy,
    Rồi đem công đức tặng vong nhân.
  3. Chói lòa ánh sáng, được tôn vinh,
    Trước mặt quân vương, quỷ hiện hình:
    ‘Ta đã trở thành thần đại lực,
    Không người nào sánh kịp uy danh.
  4. Hãy nhìn ta hưởng đại vinh quang
    Do Ðại vương vừa mới phát ban,
    Khi đã cúng Tăng-già đại lễ,
    Từ đây ta được mãi hân hoan,
    Vì có biết bao nhiêu phước lộc,
    Ta đầy hỷ lạc, hỡi quân vương’. 

9. (21) Chuyện Ankura (Ankura)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Sàvatthi (Xá-vệ).

Trong trường hợp này, Ankura không phải là ngạ quỷ, nhưng vì có liên hệ với ngạ quỷ, nên chuyện được gọi là chuyện ngạ quỷ Ankura.

Trong thị trấn Asitanjana, ở vùng Kamsabhoga, tỉnh Uttaràpatha, có vị vương tử của vua Mahàsàgara, chúa tể xứ Uttaramadhura, tên là Upasàgara cùng vương phi Devagabbhà, công chúa của vua Mahà-kamsaka, sinh được bầy con này: Anjanadevì, Vàsudeva, Baladeva, Candadeva, Suriyadeva, Aggideva, Varunadeva, Ajjuna, Pajjuna, Ghatapandita và Ankura.

Vasudeva và các huynh đệ khởi binh từ kinh thành Asitanjana và theo thời gian tận diệt tất cả mọi vua chúa trong sáu mươi ba ngàn kinh thành thuộc toàn quốc Hồng Ðào (Ấn Ðộ), rồi dừng chân ở thành Dvàravatì và định cư tại đó.

Về sau họ chia vương quốc ra làm mười phần, nhưng họ lại quên phần chị là công chúa Anjanadevì. Khi họ nhớ đến bà, một vương tử đưa ý kiến:

– Chúng ta hãy chia làm mười một phần.

Lập tức tiểu vương tử Ankura nói:

– Hãy đưa phần tiểu đệ cho vương tỷ; tiểu đệ sẽ sống bằng nghề thương mãi, chư vương huynh gửi tiền thuế của tiểu đệ đến vương tỷ, mỗi người từ quốc độ của mình.

Họ chấp thuận và sau khi đã gửi phần trợ cấp của người em cho chị, chín vua kia đều sống tại Dvàravatì.

Tuy thế, Ankura lại theo nghề thương mãi và thường xuyên bố thí rộng rãi. Bấy giờ vị ấy có một người nô lệ làm thủ kho vốn rất quan tâm đến phúc lợi của chủ.

Ankura cưới cho người này một thiếu nữ có gia thế đàng hoàng về làm vợ. Vì người nô lệ chết sớm, Ankura cho con trai người này hưởng tiền lương đã được trả cho cha nó lúc trước.

Khi đứa bé này đến tuổi khôn lớn, trong triều vua có lời bàn xì xào rằng kẻ nô lệ ấy không phải là một nô lệ.

Khi công chúa Anjanadevì nghe chuyện này, bà dùng ví dụ con bò sữa và giải phóng cậu trai ra khỏi tình trạng nô lệ, rồi nói:

– Một bà mẹ được tự do không có gì thua kém một đứa con trai được tự do.

Song nỗi hổ thẹn khiến cậu con trai bỏ ra đi đến kinh thành Bheruva, tại đó cậu cưới con gái của một người thợ may và sinh sống bằng nghề thợ may.

Thời ấy trong thành Bheruva có một vị chủ nghiệp đoàn đại phú tên là Asayha vẫn cúng dường bố thí hào phóng cho các Sa-môn, Bà-la-môn, du đãng, lữ hành, cùng đám ăn mày, khất sĩ. Người thợ may hân hoan thích thú về việc này, thường chỉ cho những người không biết chỗ ấy, đến tận dinh cơ của gia tộc Asayha với lời dặn:

– Hãy đi đến đó và nhận được nhiều tặng vật xứng đáng.

Hành động của vị này được đề cập trong Kinh tạng Pàli. Khi từ trần, vị ấy tái sanh làm một địa thần trong vùng sa mạc, ở một cây đa kia, tại đó tay phải vị thần thường ban phát các đồ vật đem lại lạc thú.

Bấy giờ cũng trong thành Bheruva ấy có một người tham dự vào việc bố thí hào phóng của Asayha, nhưng vì kẻ ấy không có lòng tin, không mộ đạo, đầy tà kiến và tỏ ra bất kính đối với các thiện sự công đức, nên khi từ trần, kẻ ấy tái sanh làm ngạ quỷ ở gần nơi cư trú của vị thần kia. Hạnh nghiệp của vị ấy cũng được tìm thấy trong Kinh tạng Pàli.

Lúc ấy Asayha đã từ trần và cộng trú với Sakka Thiên chủ ở cõi trời Ba mươi ba. Một thời gian sau đó, Ankura chất đầy hàng hóa lên năm trăm cỗ xe, trong khi một Bà-la-môn khác cũng làm như vậy. Hai người này cùng cả ngàn cỗ xe đi vào một sa mạc hiểm trở và lạc đường.

Trong khi họ lang thang quanh quẩn nơi ấy, thì cỏ, nước và thực phẩm cạn dần. Ankura phái đám hầu cận đi tìm nước. Lúc ấy thần Dạ-xoa kia đang ban phát các đồ vật đem lại lạc thú, chợt thấy tình cảnh nguy khốn của họ, và nhớ đến công ơn mà Ankura đã làm cho mình đời trước, liền chỉ cho vị này cây đa mà thần đang cư trú, và suy nghĩ: ‘Bây giờ đây ta phải giúp đỡ người này’.

Thời ấy, cây đa này đầy cành lá rậm ráp, rủ bóng che dày đặc và có hàng ngàn chồi non. Cây trải dài, cao và rộng cả một do-tuần. Khi thấy cây đa, Ankura rất hân hoan thích thú bảo cắm lều ngay tại đó. Thần Dạ-xoa đưa tay phải ra và lập tức cung cấp nước uống.

Sau khi đám người này được cung cấp đủ mọi nhu cầu theo nguyện vọng, và đã nghỉ ngơi sau cuộc hành trình, vị Bà-la-môn thương nhân nảy lên ý tưởng ngu si này: ‘Sau khi đã đi từ đây đến Kamboja để kiếm tài sản, thì chúng ta sẽ làm được việc gì? Chi bằng ta hãy tìm cách bắt lấy thần Dạ-xoa đưa lên xe. Rồi sau đó cùng thần ấy đi thẳng về kinh thành của ta’.

Với ý tưởng này trong trí, vị Bà-la-môn nói kế hoạch của mình cùng Ankura:

  1. Ðích ta tìm ở Kam-bo-ja
    Thành tựu khi ta gặp Dạ-xoa,
    Thần ấy cho ta bao ước muốn,
    Bắt thần cùng ở với đoàn ta.
  2. Hãy bắt lấy ngay Ðại lực thần,
    Cho dù cưỡng bách hoặc bằng lòng,
    Hãy đưa thần ấy lên xe gấp,
    Trở lại Dvà-ra vội bước chân.

Khi vị Bà-la-môn đã nói vậy xong, Ankura liền đề cập pháp thực hành của các thiện nhân, vừa phản đối vị kia:

  1. Với cây rủ bóng, ngẫu nhiên ngồi,
    Nằm nghỉ, ta không bẻ nhánh chơi,
    Vì kẻ nào hay làm phản bạn,
    Là người gây ác nghiệp trên đời.

Vị Bà-la-môn đáp lời, theo quan niệm khôn ngoan thông thường chủ trương rằng căn bản của sự thành công là loại bỏ đạo đức giả:

  1. Với cây cao bóng mát tình cờ
    Ta đến nằm, ngồi thật tự do,
    Có thể đốn cây ngay tận gốc,
    Nếu điều này có lợi cho ta.

Ankura:

  1. Với cây rủ bóng ngẫu nhiên ngồi,
    Nằm nghỉ, ta không hái lá chơi,
    Vì kẻ nào hay làm phản bạn,
    Là người gây ác nghiệp trên đời.

Bà-la-môn:

  1. Với cây cao bóng mát tình cờ
    Ta đến nằm ngồi thật tự do,
    Có thể nhổ cây luôn cả rễ,
    Nếu điều này có lợi cho ta.

Ankura:

  1. Tình cờ ta ở lại nhà ai,
    Dù chỉ một đêm đến sáng mai,
    Ta được người kia mời ẩm thực,
    Ta không nghĩ kế hại cho người,
    Tri ân là một điều cần thiết
    Ðược các thiện nhân tán thán hoài.
  2. Tình cờ ta trú ngụ nhà ai,
    Cho dẫu một đêm, chỉ một thôi,
    Và được người kia mời ẩm thực,
    Không nên nghĩ việc ác cho người,
    Kẻ nào tay chẳng gây tai hại
    Cũng chấm dứt mưu phản bạn đời.
  3. Ngày trước nếu ai có thiện hành,
    Về sau phạm tội ác vào mình,
    Bàn tay trong sạch người kia thiếu,
    Sẽ chẳng gặp đâu phận tốt lành.

Lúc ấy vị Bà-la-môn trở nên yên lặng. Tuy nhiên thần Dạ-xoa đã nghe cả hai người nói chuyện, liền nổi giận với vị Bà-la-môn và nói:

– Hãy cho gã Bà-la-môn độc ác này lãnh phần xứng đáng với gã.

Rồi để chứng tỏ rằng thần không dễ bị bất cứ ai khuất phục, thần bảo:

  1. Ta đâu dễ bị một Thiên thần
    Khuất phục, hay vua chúa, thế nhân,
    Ta chính Dạ-xoa, thần đại lực,
    Phi nhanh như chớp giữa hư không,
    Và ta thọ hưởng hình dung đẹp,
    Phúc phận cho ta đủ lực hùng.

Ankura:

  1. Bàn tay ngài chói sáng vàng ròng,
    Có mật rỉ và các suối trong
    Ðầy tặng vật tuôn từ mọi ngón,
    Nước cây trái ngọt nhỏ thành dòng,
    Nên ta tin chắc ngài oai lực
    Là chính Pu-rin-da hiện thân.

Thần Dạ-xoa:

  1. Ta chẳng là tiên, chẳng Thát-bà,
    Chẳng Sak-ka hiệu Pu-rin-da,
    An-ku-ra hỡi, ta là quỷ
    Ðã đến đây từ Bhe-ru-na.

Ankura:

  1. Xưa ngài có tính cách ra sao,
    Ðời trước ngài theo nếp sống nào,
    Vì Thánh hạnh gì, tay ấy vẫn
    Hoàn thành thiện sự biết là bao?

Thần Dạ-xoa:

  1. Kiếp trước ta là một thợ may,
    Suốt đời cùng khổ sống qua ngày,
    Ở Bhe-ru phố, ta không có
    Phương tiện gì ban phát tự tay.
  2. Thuở ấy, tiệm ta ở cạnh nhà
    Của người mộ đạo A-say-ha,
    Chuyên gia bố thí đầy hào phóng,
    Khiêm tốn làm bao thiện sự mà.
  3. Các đám ăn mày đến chỗ kia,
    Cùng đinh thập loại hỏi thăm ta:
    ‘Chúc ông may mắn! Xin cho biết
    Ði đến nơi đâu được phát quà?’
  4. Khi các tiện dân đến hỏi ta,
    Ta cho biết chỗ A-say-ha,
    Vừa đưa tay phải ra, vừa bảo:
    ‘Chúc bạn gặp may, đến chốn kia,
    Nhà của A-say-ha ở đó
    Tặng vật dồi dào được phát ra’.
  5. Do vậy tay ta nay phát phân
    Những gì chư vị đến cầu mong,
    Nhờ nguyên nhân ấy, tay ta đó
    Ðang nhỏ mật ngon ngọt cả dòng,
    Vì Thánh hạnh xưa, ta tiếp tục
    Hoàn thành thiện sự với tay không.

Ankura:

  1. Như thế xưa ngài chẳng tặng ai
    Vật gì đâu với chính tay ngài,
    Nhưng vì thích thú nhìn người khác
    Bố thí, nên tay phải trải dài.
  2. Do vậy tay ngài nay biếu không
    Những gì cần thiết với tha nhân,
    Nhờ nguyên nhân ấy, tay ngài đó
    Ðang nhỏ mật ngon ngọt cả dòng,
    Vì Thánh hạnh xưa, ngài tiếp tục
    Hoàn thành thiện sự với tay thần.
  3. Ngài hỡi, người kia có tín tâm
    Dùng đôi tay lấy của cho không,
    Sau khi đã bỏ thân phàm tục,
    Người ấy đi đâu, hãy nói cùng.

Thần Dạ-xoa:

  1. Ta chẳng biết gì thuở đã qua,
    Chuyện sanh tử của An-gi-ra,
    Người thành tựu việc không hề có,
    Song đã nghe từ Ves-sa-va,
    Người ấy sanh Thiên và cộng trú
    Cùng chư Thiên hội chúng Sak-ka.

Ankura:

  1. Bố thí, làm lành đúng khả năng
    Quả nhiên đầy đủ lợi vô ngần,
    Khi nhìn kẻ khác ban ân phước,
    Ai chẳng muốn làm thiện sự chăng?
  2. Từ đây đến xứ Dva-ra-ka
    Quả thật khi về đất nước xưa,
    Ta sẽ phân chia nhiều tặng vật,
    Việc này đem hạnh phúc cho ta.
  3. Ta sẽ tặng nhiều thức uống ăn,
    Áo quần, sàng tọa, chỗ nương thân,
    Lối đi qua các nơi nguy hiểm,
    Ðào giếng, và ao nước vệ đường.

Vừa lúc ấy, một ngạ quỷ xuất hiện, Ankura liền hỏi:

  1. Sao tay ngươi các ngón cong queo,
    Và miệng của ngươi lệch một chiều,
    Ðôi mắt ngươi tuôn trào nước mãi,
    Nhà ngươi đã tạo ác hành nào?

Ngạ quỷ:

  1. Với người mộ đạo An-gi-ra,
    Gia chủ làm công đức tại nhà,
    Tôi đã liên quan về thiện sự,
    Xưa tôi giám sát việc chia quà.
  2. Nơi kia, khi thấy bọn xin ăn,
    Những kẻ thèm cơm nước phát phân,
    Ðã đến, tôi liền qua phía khác,
    Và tôi làm bộ mặt mày nhăn.
  3. Nên tay tôi các ngón cong queo,
    Và miệng của tôi lệch một chiều,
    Ðôi mắt tôi tuôn trào nước mãi,
    Ngày xưa tôi tạo ác hành nhiều.

Ankura:

  1. Kẻ khốn khổ kia, thật đúng là
    Miệng ngươi méo lệch bởi ngày xưa
    Ngươi nhăn mày mặt khi nhìn thấy
    Người khác phân chia các món quà.
  2. Vì sao ta có thể phát phân
    Y phục, tọa sàng, thức uống ăn,
    Mà lại mong nhờ tay kẻ khác
    Giúp ta phục vụ các tha nhân?
  3. Từ đây đến xứ Dvà-ra-ka,
    Quả thật khi về đất nước xưa,
    Ta sẽ phân chia nhiều tặng vật,
    Việc này đem lại hạnh phúc cho ta.
  4. Ta sẽ tặng nhiều thức uống ăn,
    Áo quần, sàng tọa, chỗ nương thân,
    Lối đi qua các nơi nguy hiểm,
    Ðào giếng, và ao nước vệ đường.

Chư vị kết tập Kinh điển tiếp tục câu chuyện qua các vần kệ:

  1. Sau khi trở về Dvà-ra-ka,
    Vị ấy vừa quay bước đến nhà,
    Liền thiết lập công trình bố thí,
    Việc này đem hạnh phúc chan hòa.
  2. Với tâm thanh thản, vị này ban
    Y phục, thức ăn uống, tọa sàng,
    Nơi chốn cho bao người tạm trú,
    Ðào ao và giếng nước bên đàng.
  3. Ai muốn áo choàng, thức uống ăn?
    Ngựa bò ai mỏi mệt hay chăng?
    Từ nơi đây họ đem dây buộc
    Bò ngựa vào xe để chở hàng,
    Ai muốn nước hoa, dù đỡ nắng,
    Ai cần giày dép hoặc hoa tràng?
  4. Như vầy bọn chúng cứ kêu la,
    Bọn hớt tóc và bán nước hoa,
    Ðầu bếp, không ngừng từ sáng tối
    Ở ngôi nhà của An-ku-ra.

Tiếp theo đó là câu chuyện giữa Ankura và Sindhaka, một chàng trai được chỉ định trông coi việc bố thí của vị ấy.

Ankura:

  1. Các bọn người kia vẫn nghĩ rằng:
    ‘An-ku-ra ngủ thật bình an’,
    Sin-dha-ka hỡi, ta trằn trọc,
    Vì chẳng thấy đâu bọn cái bang.
  2. Chắc các người kia nghĩ đến mình:
    ‘An-ku-ra ngủ thật ngon lành’.
    Sin-dha-ka hỡi, ta trằn trọc
    Vì chẳng thấy đâu đám lữ hành.

Sindhaka:

  1. Nếu Sak-ka, chúa cõi Băm-ba,
    Ban tặng cho ngài một ước mơ,
    Ngài sẽ chọn gì trong thế giới,
    Mong ngài bày tỏ, An-ku-ra?

Ankura:

  1. Nếu Sak-ka, chúa cõi Băm-ba,
    Ðem một điều mong ước tặng ta,
    Ta sẽ cầu xin từ buổi sáng
    Khi vừa thức giấc sớm tinh mơ,
    Món ăn thiên giới luôn đầy đủ,
    Hành khất tín thành cũng hiện ra.
  2. Mong ước khi ta đang phát ban,
    Công năng bố thí chẳng tiêu tan,
    Sau khi bố thí, không ân hận,
    Ta ước tâm ta được lạc an,
    Trong lúc ta thi ấn bố đức,
    Ấy điều ta ước tự Thiên Hoàng.

Như vậy, Ankura đã tuyên bố nguyện vọng của mình. Lúc ấy tại nơi kia, một người đang ngồi mang tên Sonaka, có phẩm hạnh tốt. Người ấy muốn khuyên can vị này đừng bố trí quá nhiều, liền bảo:

  1. Chớ nên cho tất cả gia tài,
    Ngài phải hộ phòng sản nghiệp thôi,
    Vì thế, bạc vàng là chắc chắn
    Có giá trị hơn bố thí hoài,
    Bố thí quá nhiều sinh kết quả
    Gia đình không thể sống lâu dài.
  2. Bậc hiền không chấp nhận xan tham,
    Cũng chẳng tán đồng quá phát ban,
    Vì thế, ngài nhìn xem của cải
    Tốt hơn là bố thí tràn lan;
    Người nào có quyết tâm chân chánh,
    Sẽ chọn đường trung đạo lạc an.

Ankura:

  1. Ông nói điều này quả thật hay,
    Phần ta muốn bố thí từ đây,
    Và cầu mong những người lương thiện,
    Mộ đạo mau chân đến chốn này;
    Như đám mây tràn đầy vực thẳm,
    Ta mong bồi dưỡng hạng ăn mày.
  2. Nếu ta tâm trí được bình an,
    Khi thấy bọn hành khất hỏi han
    Hoan hỷ vì thi ân bố đức,
    Ðấy là hạnh phúc giữa nhân gian.
  3. Nếu trí tâm ta được lặng yên,
    Khi nhìn hành khất đến cầu xin,
    Hân hoan vì việc ban ân huệ,
    Như vậy là thành tựu phước điền.
  4. Trước khi bố thí, phải hân hoan,
    Tâm trí hân hoan lúc phát ban,
    Hoan hỷ sau khi ta bố thí,
    Thế là thành đạt phước nhân gian.

Chư vị kết tập Kinh tạng Pàli tiếp tục kể chuyện này:

  1. Sáu mươi ngàn chẵn chuyến xe bò
    Thực phẩm hằng ngày được phát cho
    Các đám người trong nhà thí chủ
    Nguyện làm thiện sự An-ku-ra.
  2. Ðầu bếp ba ngàn sống tại gia
    Của người thí chủ An-ku-ra,
    Ðiểm trang vàng ngọc, hoa tai đủ,
    Tận tụy nhiệt tâm phát tặng quà.
  3. Thanh niên trai tráng sáu mươi ngàn
    Ðeo đủ hoa tai với ngọc vàng,
    Ðang bổ củi trong nhà thí chủ
    Cử hành đại bố thí nhân gian.
  4. Nữ nhi một vạn sáu như hoa
    Tô điểm đồ trang sức ngọc ngà,
    Nhào bột thành bao hình bánh ngọt,
    Cử hành đại bố thí toàn gia.
  5. Mười sáu ngàn kìa đám nữ nhân
    Xiêm y đủ mọi vẻ thanh tân,
    Tay cầm muỗng tại nhà gia chủ
    Phục vụ đại công đức phát phân.
  6. Phát ban nhiều tới biết bao người,
    Người quý cao thay cống hiến hoài,
    Bố thí ân cần, tay chỉ bảo,
    Quan tâm chăm sóc mãi không thôi.
  7. Nhiều tuần trăng, tháng tháng trôi qua,
    Chẳng biết bao năm với bốn mùa,
    Suốt một thời gian dài đăng đẵng,
    Không ngừng bố thí, An-ku-ra.
  8. An-ku-ra bố thí lâu dài,
    Cống hiến phát ban suốt cả đời,
    Ðến lúc từ trần, lìa bỏ xác,
    Ði lên thiên giới, cõi Ba mươi.

Khi vị ấy đã được tái sanh ở đó và đang hưởng thiên lạc, thì vào thời đức Thế Tôn Gotama, một thanh niên có tên Indaka đầy nhiệt tâm cúng dường một phần thực phẩm lên Tôn giả Trưởng lão Anuruddha (A-na-luật-đà) trong lúc vị này đang đi khất thực.

Khi Indaka từ trần, và nhờ năng lực công đức đã trở thành phước điền, vị ấy tái sanh lên cõi Ba mươi ba. Vì thế chuyện kể tiếp:

  1. Lấy cơm đầy muỗng, In-da-ka
    Dâng Trưởng lão A-na-luật-đà,
    Khi xả báo thân phàm tục ấy,
    Chàng lên cộng trú cõi Băm-ba.

58-59. Trong mười phương diện, In-da-ka
Vượt trội An-ku-ra thật xa:
Khả ái sắc, thanh, hương, vị, xúc,
Trường tồn thọ mạng, đẹp màu da,
Phước phần, danh vọng và quyền lực,
Chàng đều vượt hẳn An-ku-ra.

  1. Ở trong thiên giới, cõi Băm-ba,
    Bậc Tối thượng nhân, đức Phật-đà,
    Ðang ngự trên ngai Hoàng bảo thạch,
    Dưới chân của đại thọ San-hô.
  2. Khi chư Thiên tụ tập mười phương,
    Ðảnh lễ đấng Toàn Giác Thế Tôn
    Vừa đến cõi thiên, đang trú ngụ
    Ở trên thượng đỉnh của Cao Sơn.
  3. Không một thần tiên ở cõi trời
    Sánh bằng đức Phật vẻ hùng oai,
    Vượt lên tất cả chư Thiên ấy,
    Duy nhất Thế Tôn chiếu rạng ngời.
  4. Ðồng thời có mặt An-ku-ra
    Cách đó mười hai dặm phía xa,
    Nhưng ở không xa đức Phật mấy,
    In-da-ka vượt An-ku-ra.
  5. Khi đức Phật vừa chợt ngó qua
    An-ku-ra với In-da-ka,
    Muốn làm hai vị tăng công đức,
    Ðức Phật bèn cất tiếng nói ra:
  6. ‘Lâu dài bố thí, An-ku-ra,
    Xưa phát phân nhiều để lợi tha,
    Nay vẫn đang ngồi xa cách quá,
    Ðến nơi này ở phía gần ta’.
  7. Ðược đấng Toàn tri kiến bảo ban,
    An-ku-ra vội nói lên rằng:
    ‘Lợi gì bố thí thời xưa ấy,
    Vì thiếu người tương xứng cúng dường?
  8. In-da-ka hiện ở nơi đây,
    Dù đã cúng dường ít ỏi thay,
    Chàng vẫn sáng ngời hơn tất cả,
    Như trăng vượt các đám sao dày’.

Ðức Phật liền dạy bảo:

  1. Ví như trong đám ruộng khô cằn
    Hạt giống dù vô số được trồng,
    Chúng vẫn không đem nhiều kết quả,
    Và không làm đẹp ý nhà nông.
  2. Cũng vậy đem nhiều của phát ban
    Cho người độc ác hoặc tà gian,
    Sẽ không tạo quả lành phong phú,
    Và chẳng làm vui kẻ cúng dường.
  3. Nhưng khi ít hạt được gieo trồng
    Trong chỗ đất tươi tốt ruộng đồng,
    Lại có nhiều mưa hòa gió thuận,
    Ðược mùa làm đẹp ý nhà nông.
  4. Cũng vậy, khi tôn kính chánh nhân,
    Những người đạo hạnh giữa nhân quần,
    Thiện hành dù chỉ là nho nhỏ,
    Cũng tạo công năng đại phước phần.
    Chư vị kết tập Kinh điển tiếp tục kể chuyện:
  5. Vậy phải biết phân biệt cúng dường
    Ðem về phước báo lớn vô lường,
    Cúng dường có chú tâm suy xét,
    Thí chủ lên thiên giới trú an.
  6. Ta phải cúng dâng lễ tín thành
    Lên người xứng đáng giữa quần sanh,
    Lễ dâng như vậy đem thành quả
    Phong phú như gieo hạt đất lành. 

10. (22) Chuyện Mẹ Của Uttara (Uttaramàtu)

Sau khi bậc Ðạo Sư diệt độ, vào thời Ðại hội kết tập Kinh điển đầu tiên đang diễn tiến, Tôn giả Mahà-Kaccayàna (Ðại Ca-chiên-diên) cùng mười hai Tỷ-kheo đang cư trú trong ngôi rừng nọ gần Kosambi (Kiều-thưởng-di).

Thời ấy Uttara, vị nam tử thừa kế của vị quốc sư triều vua Udena, đang cùng đám thợ mộc đi tìm gỗ để sửa nhà, và được Trưởng lão này thuyết pháp.

Về sau Uttara thường cúng dường vị ấy thực phẩm và xây tặng vị ấy một thảo am.

Song bà mẹ của Uttara căm hận những việc cúng dường ấy. Bà bảo:

– Ta mong bất cứ thức ăn uống nào con cúng các Sa-môn mà ta không đồng ý đều trở thành máu cho con uống ở đời sau.

Tuy thế, vào ngày cúng dường am thất, bà cho phép tặng một bó lông đuôi công. Khi từ trần, bà tái sanh làm nữ ngạ quỷ và do đã cúng dường một bó lông đuôi công ấy, nữ ngạ quỷ có mái tóc đen thật dài, uốn lượn óng ả rất đẹp và dài tha thướt.

Bất cứ khi nào nữ ngạ quỷ bước xuống tự nhủ: ‘Ta sẽ uống nước sông Hằng’ thì dòng sông trở thành máu đỏ. Sau khi đã đi lang thang suốt năm mươi năm bị đói khát giày vò, ngày kia nữ ngạ quỷ chợt thấy Trưởng lão Kankhàrevata (Kankhà Ly-bà-la) ngồi nghỉ trưa bên bờ sông Hằng:

Cuộc đối thoại này tiếp theo sau hai vần kệ đầu của chư vị kết tập Kinh điển:

  1. Khi một Tỷ-kheo đến nghỉ trưa
    Và ngồi trên bến nước Hằng hà,
    Gần người, nữ quỷ hình ghê rợn,
    Dáng điệu rụt rè, tiến bước ra.
  2. Mái tóc quỷ nương ấy thật dài
    Thả ra chấm đất, được buông lơi,
    Che thân bằng các chùm tóc ấy,
    Nữ quỷ thưa Tôn giả chuyện đời:

Nữ ngạ quỷ:

  1. Năm mươi năm đã giã từ trần,
    Con chẳng biết gì thức uống ăn.
    Tôn giả, cho con xin chút nước,
    Hiện con đang khát nước muôn phần.

Tỷ-kheo:

  1. Ðây dòng nước mát của sông Hằng
    Chảy xuống từ miền núi Tuyết Sơn,
    Hãy lấy nước kia và uống gấp,
    Sao ngươi xin nước ở trên dòng?

Nữ ngạ quỷ:

  1. Tôn giả, xin thưa, nếu chính con
    Tự tay lấy nước ở dòng sông,
    Nước liền thành máu, và vì thế
    Con khẩn cầu ngài chút nước trong.

Tỷ-kheo:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hành nào
    Do khẩu, ý, thân đã phạm vào,
    Từ nghiệp quả gì tay ấy chạm
    Nước sông Hằng hóa máu, vì sao?

Nữ ngạ quỷ:

  1. Nam tử của con, Ut-ta-ra,
    Xưa vốn là cư sĩ tại gia
    Ðem cúng các Sa-môn thực phẩm,
    Tọa sàng, dược liệu, áo cà-sa.
  2. Lòng con sôi động bởi xan tham
    Thúc giục, nên con phỉ báng chàng:
    ‘Bất cứ vật gì ta chẳng muốn
    Ngươi đem dâng cúng các Sa-môn,
  3. ‘Ut-ta-ra, thứ ấy, ta cầu
    Thành máu cho ngươi ở kiếp sau’.
    Do nghiệp quả này, tay chạm phải
    Nước sông Hằng hóa máu từ lâu’.

Khi ấy Tôn giả Revata cúng dường nước lên Tăng chúng và hồi hướng công đức cho nữ ngạ quỷ. Sau đó Tôn giả đi khất thực và khi đã nhận được thức ăn Tôn giả cúng dường chư Tăng. Rồi Tôn giả lấy một ít giẻ rách từ đống rác, rửa sạch, phơi khô xong, Tôn giả may thành y và cúng dường Tăng chúng.

Nhờ vậy nữ ngạ quỷ thọ hưởng thiên lạc, liền trình với vị Trưởng lão sự việc cùng bày tỏ niềm hạnh phúc thần tiên mà nó đã đạt được.

  1. (23) Chuyện Cuộn Chỉ (Sutta)

Trong một làng kia gần Sàvatthi, bảy trăm năm trước khi bậc Ðạo Sư xuất hiện, có một nam tử phục vụ một vị Ðộc Giác Phật. Chàng trai ấy bị rắn cắn, từ trần vào ngày cưới vợ. Trong khi phục vụ, chàng đã tạo nhiều phước nghiệp nhưng vì chàng luyến ái vị tân nương, nên chàng tái sanh làm một quỷ thần trong lâu đài có đầy đủ quyền lực và vinh quang.

Do ước muốn đưa tân nương về lâu đài của mình, khi thấy một vị Ðộc Giác Phật đang may áo, vị thần hiện hình người lại gần Ðộc Giác Phật và hỏi:

– Thưa Tôn giả, Ngài có cần chỉ không?

Vị ấy đáp:

– Này cư sĩ, ta đang bận may áo.

Vị thần chỉ tay về phía nhà cô dâu vừa góa bụa ấy và bảo:

– Tôn giả có thể xin chỉ ở nhà kia.

Vị ấy làm như vậy và được cô gái tặng một cuộn chỉ.

Còn vị thần vẫn mang hình người đến xin phép bà mẹ cô gái cho vị ấy ở lại vài ngày, rồi đổ đầy tiền vào các nồi niêu trong nhà ấy. Sau đó vị ấy ra đi cùng cô gái về lâu đài của mình

Bà mẹ đem nhiều tiền cho họ hàng và đám lữ hành nghèo khổ. Khi từ trần, bà dặn:

– Nếu con gái ta trở về, hãy chỉ cho nó số tiền này.

Bảy trăm năm sau, bậc Ðạo Sư giáng sinh ở đời và đến Sàvatthi. Thời ấy, nữ nhân kia vẫn còn sống với vị quỷ thần và xin vị ấy đưa nàng về nhà cũ, nàng bảo:

  1. Thiếp đem dâng cúng thuở xưa xa
    Lên một Tỷ-kheo đã xuất gia
    Vừa bước đến gần, xin ít chỉ.
    Việc xưa đem kết quả nay là
    Phước phần thiếp hưởng luôn phong phú,
    Vô số thiên y cứ hiện ra.
  2. Muôn hoa bao phủ cả lâu đài,
    Gia bộc, nô tỳ đủ gái trai,
    Tô điểm lâu đài trăm vẻ đẹp;
    Thiếp nay tận hưởng thú vui chơi
    Và mang đủ loại thiên y báu,
    Tài sản dồi dào chẳng thể vơi.
  3. Phước báo này do một nghiệp xưa,
    Hân hoan, hạnh phúc hưởng bây giờ;
    Khi nào thiếp trở về nhân thế,
    Thiếp sẽ thực hành việc lợi tha.
    Chàng hãy đưa đường xưa lối cũ,
    Phu quân hỡi, thiếp muốn về nhà.

Khi nghe nàng nói, vị thần không muốn đi, vì lòng thương xót người vợ yêu quý, vị ấy bảo:

  1. Ðã bảy trăm năm nàng đến đây,
    Về kia già yếu khổ thân ngay.
    Nay ta nói thật cho nàng biết:
    Tất cả họ hàng đã bỏ thây.
    Nàng sẽ làm gì nơi chốn ấy
    Khi nàng đã giã biệt nơi này?
    Nàng ấy không tin, lại nói nữa:
  2. Chỉ cách bảy năm thiếp đến đây,
    Hưởng bao thiên lạc bấy lâu nay,
    Khi nào thiếp trở về nhân thế,
    Thiếp sẽ thực hành thiện sự ngay.
    Chàng hãy đưa đường xưa lối cũ,
    Phu quân hỡi, thiếp muốn chia tay.
  3. Thế rồi lập tức nắm tay chàng,
    Thần dẫn nàng về chốn cố hương,
    Nay hóa bà già đi khập khểnh,
    Bảo bà: ‘Dặn với các thân nhân
    Ðến nơi kia: Hãy làm điều thiện,
    Hạnh phúc đời sau được hưởng phần’.

Khi bà già ấy đến nơi cư trú của đám họ hàng, bà tự xưng danh cho họ biết. Rồi bà đem số tiền họ trả lại bà đi cúng dường phẩm vật lên các Sa-môn, Bà-la-môn và khuyên bảo đám người thường lui tới với bà:

  1. Chính mắt ta trông thấy rõ ràng
    Các loài ngạ quỷ gặp đau buồn
    Bởi vì không biết làm điều thiện,
    Cũng vậy loài người giữa thế gian.
    Hành thiện tạo nên nhiều phúc lạc,
    Thiên thần, nhân loại mãi hân hoan. 

12. (24) Chuyện Nữ Quỷ Ở Hakannamunda (Kannamundapetì)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Sàvatthi.

Tương truyền rằng thuở xưa vào thời đức Phật Kassapa, ở xứ Kimbilà có một đệ tử tại gia đã thọ Tam quy, cùng chung niềm tín ngưỡng với năm trăm cư sĩ khác chuyên tâm thực hành các thiện sự như trồng hoa viên, xây cầu cống, làm đường sá, và các việc công ích khác.

Vị ấy đã xây một tinh xá cúng dường giáo hội Tỷ-kheo và thỉnh thoảng cùng đến nơi ấy với các cư sĩ kia. Các bà vợ của hội chúng này cũng rất hòa hợp với nhau, thường cùng đi đến tinh xá cúng dường vòng hoa, hương liệu, dầu xoa và trên đường đi vẫn nghỉ ngơi tại các hoa viên và nhà trọ.

Rồi một ngày kia, một số kẻ bất lương đang tụ tập với nhau trong nhà trọ của một bà chủ kia, trông thấy nhan sắc diễm lệ của các nữ nhân khi họ đến nghỉ ngơi tại đó, liền đem lòng say mê.

Biết đám nữ nhân này lương thiện, chúng bắt đầu bàn tán với nhau:

– Ai có khả năng thực hiện việc phá giới hạnh với một nữ nhân trong đám này?

Lập tức một gã đáp:

– Tôi đây.

Bọn chúng liền bảo:

– Chúng ta hãy đánh cuộc với hắn một ngàn đồng tiền.

Chúng đánh cuộc như thế và thêm:

– Nếu bạn thành công, chúng tôi sẽ đưa cho bạn một ngàn đồng; nếu không thì bạn phải đưa số ấy cho bọn ta.

Vì ước mong thắng cuộc và sợ mất tiền, gã bày đủ mưu kế trong lúc đám nữ nhân nghỉ chân tại đó. Vừa chơi đàn thất huyền cầm du dương vừa hát tình ca êm ái, gã dụ dỗ được một nàng trong đám ấy phá giới hạnh, khiến bọn bất lương kia phải mất một ngàn đồng tiền.

Bị gã này đánh bại, bọn chúng bèn đem chuyện ấy kể cho chồng nàng nghe. Vị này không tin, nhưng cũng hỏi nàng:

– Nàng có phải là hạng người như các kẻ kia vừa nói chăng?

Nàng phủ nhận ngay:

– Thiếp không biết những chuyện như vậy.

Vì chàng không tin nàng, nàng liền chỉ con chó đang đứng gần đó và thề độc;

– Nếu thiếp làm ác hạnh như vậy thì mong con chó đen tai cụt này xé xác thiếp ra khi thiếp tái sanh kiếp sau.

Ngoài ra, khi đám nữ nhân biết rõ nàng đã phá giới hạnh, được chất vấn:

– Nữ nhân này đã phạm tà hạnh kia hay là không phạm?

Họ cũng thề dối trá:

– Nếu chúng tôi biết thì mong chúng tôi trở thành nô tỳ của bà ấy ở kiếp tái sanh.

Về sau người gian phụ kia bị hối hận vì tội lỗi cũ giày vò, nên héo mòn dần và qua đời. Nàng được tái sanh làm một nữ quỷ trong một lâu đài bên bờ hồ Kannamunda (Tai cụt) là một trong bảy hồ lớn ở vùng Himalaya (Tuyết Sơn), chúa tể của núi đồi.

Hơn nữa, chung quanh mọi phía của lâu đài xuất hiện một hồ sen để vui chơi thỏa thích. Khi đám nữ nhân kia từ trần, do hậu quả lời thề dối trá mà họ đã nói ra, họ liền trở thành bầy nô tỳ của nàng.

Trong lâu đài ấy, nhờ các thiện nghiệp nàng đã thực hiện trong kiếp trước, nàng hưởng thọ lạc thú thần tiên suốt ngày, nhưng đến nửa đêm, do động lực của ác hạnh xưa thúc giục, nàng thức dậy từ tọa sàng và đi đến hồ sen, rồi bị một con chó ngao cắn xé tan thân tại chỗ.

Ngay sau đó nàng lập tức biến hình trở lại với dung sắc kiều diễm như cũ và bước lên lâu đài của nàng, nằm xuống tọa sàng.

Tuy nhiên, đám nô tỳ kia lại phải chịu vất vả nhọc nhằn hầu hạ nàng liên tục ngày đêm. Cứ thế năm trăm năm trôi qua, và bởi vì bọn nữ quỷ nhân hưởng lạc thú thần tiên mà thiếu vắng các đức lang quân, nên chúng bắt đầu mong nhớ họ.

Bấy giờ tại nơi ấy có một con sông phát xuất từ hồ Kannamunda và do một kẽ nứt trong núi, đã chảy xuống tận sông Hằng. Gần con sông ấy có một vườn xoài sanh trái tiên, cùng với các loại cây mít và nhiều cây khác. Do vậy bọn chúng suy nghĩ: ‘Bây giờ đây, chúng ta sẽ ném các trái xoài này vào dòng sông; như thế khi đã thấy các trái cây trôi bồng bềnh xuống dưới nước, một số nam nhân có thể đến đây để tìm xoài. Sau đó chúng ta sẽ hưởng lạc thú với họ’.

Bọn chúng đều làm như vậy. Bấy giờ khi các trái xoài bị thả trôi giạt, đám đạo sĩ khổ hạnh lượm được một ít, các sơn nhân tiều phu tìm được số khác, còn một số nữa tấp vào bờ. Tuy thế, có một quả xoài trôi vào dòng sông Hằng và theo thời gian đến tận Ba-la-nại.

Thuở ấy, vua Ba-la-nại đang tắm trên sông Hằng và được một tấm lưới đồng bao bọc. Thế rồi trái xoài kia đã được dòng nước cuốn đi theo hướng ấy và mắc vào lưới đồng.

Khi các cận vệ của vua nhìn thấy trái xoài tiên to lớn tuyệt hảo về màu sắc lẫn hương vị, họ liền đem dâng vua. Ðể thử xoài, nhà vua cắt một lát và đưa cho một tên cướp khét tiếng đã bị giam vào ngục. Khi ăn xong, tên cướp trình:

– Tâu Ðại vương, tiểu tử chưa bao giờ ăn được thứ xoài như vậy. Có lẽ đây là xoài tiên.

Nhà vua cho gã một lát nữa. Sau khi ăn xong, làn da nhăn nheo và râu tóc hoa râm của gã biến mất; gã trở thành một chàng trai tuấn tú và có thể nói gã đã hồi xuân.

Khi thấy vậy, nhà vua tràn đầy kinh ngạc, ăn ngay trái xoài và cũng nhận được sự kỳ diệu hy hữu trong cơ thể. Nhà vua liền hỏi:

– Các trái xoài này kiếm được ở đâu?

Ðám cận thần đáp:

– Tâu Hoàng thượng, chúng thần nghe nói ở vùng Tuyết Sơn, chúa tể của núi đồi.

– Vậy có thể tìm ra chúng chăng?

– Tâu Hoàng thượng, đám thợ rừng có thể biết việc ấy.

Nhà vua truyền đưa đám thợ rừng vào, ban một ngàn đồng tiền cho một người thợ nghèo và bảo gã ra đi:

– Này, hãy đi mang xoài tiên về cho trẫm ngay.

Kẻ ấy đi lên thượng lưu sông Hằng đến tận hồ Kannamunda. Khi gã đã đi quá xa con đường của mọi người, gã gặp liên tiếp ba vị ẩn sĩ khổ hạnh chỉ đường, vị thứ ba khuyên gã:

– Hãy rời bỏ sông Hằng lớn này, đi theo dòng sông nhỏ kia và cứ lên mãi cho đến khi chú thấy một kẽ nứt trong núi đá. Rồi chú phải vào sâu trong đó ban đêm với ngọn đèn. Vì con sông này không chảy ban đêm, nên chú có thể du hành cách ấy.

Gã làm theo lời dặn, và vào lúc rạng đông, gã đến một vùng có chính vườn xoài tuyệt diệu ấy. Khu rừng vang dội tiếng hót du dương của nhiều đàn chim đủ loại và được tô điểm thêm vẻ đẹp bằng những khóm cây xanh sum suê vươn những cành lá trĩu xuống dưới sức nặng của các chùm trái. Cả vùng rực rỡ trong làn ánh sáng tỏa ra từ vô số châu ngọc. (Hai câu này được bổ sung từ tập Sớ giải của Dhammapala).

Thế rồi, khi các nữ nhân vắng chồng đã lâu, nay thấy gã đi đến từ xa, vội chạy tới bảo nhau:

– Người này thuộc về ta! Người này thuộc về ta!

Thuở ấy, gã chưa từng làm các thiện nghiệp xứng đáng hưởng thọ lạc thú thần tiên với hội chúng này trong tiên cảnh. Vì thế chỉ thoạt trông thấy chúng, gã đã kinh hoàng vừa chạy vừa thét lớn. Khi về tới Ba-la-nại, gã trình nhà vua mọi sự đã xảy ra.

Khi nghe việc này, trong tâm nhà vua khởi lên một ước muốn gặp các nữ quỷ thần kia và hưởng thú ăn xoài tiên. Vì thế nhà vua liền giao quốc độ cho các vị cận thần, và lấy cớ đi săn, nhà vua đem cung tên và kiếm cùng vài thị vệ khởi hành về vùng ấy như lời người thợ rừng dặn.

Sau khi đi được vài do-tuần, nhà vua giã từ đám cận vệ và tiếp tục đi với người thợ rừng. Sau một khoảng đường nữa, nhà vua lại bảo gã trở về. Vào lúc rạng đông, nhà vua đã đến vườn xoài trong tiên cảnh.

Thuở ấy, khi các nữ quỷ thần thấy nhà vua hồi xuân như một tiên đồng giáng thế, liền ra nghênh tiếp và khi biết ngài là một quân vương, chúng liền đưa vào lâu đài, dâng các thứ tiên thực và phục vụ ngài như ý.

Thế rồi sau một trăm năm mươi năm trôi qua, một hôm nhà vua thức dậy nửa đêm và thấy nữ quỷ đã phạm giới kia đi ra phía bờ hồ sen. Ðộng lòng hiếu kỳ, ngài đi theo nữ quỷ. Sau đó ngài thấy nữ quỷ bị một con chó lớn vồ xé xác ngay khi vừa mới tới nơi. Suốt ba ngày liền ngài suy xét, không làm sao có thể hiểu được ý nghĩa việc này. Hôm sau này cầm mũi tên nhọn bắn con chó kia bỏ mạng và vừa khi nữ quỷ đã nhảy vào hồ sen, lập tức ngài thấy nàng xuất hiện với dung sắc phục hồi như trước.

Ngài liền ngâm kệ hỏi nàng những sự việc đã xảy ra:

  1. Ðây vàng ròng đúc các cầu thang
    Nằm dựa lên trên dải cát vàng,
    Diễm lệ, ngát hương hoa súng trắng,
    Gây niềm lạc thú tận tâm can.
  2. Bao cây làm thảm phủ trên hồ,
    Theo gió đủ mùi hương thoảng đưa,
    Hồ mọc tràn đầy sen đỏ thắm
    Ðiểm tô sen trắng nỏn cành tơ.
  3. Lay động theo làn gió nhẹ nhàng
    Mặt hồ kỳ thú tỏa hương lan,
    Âm vang với tiếng thiên nga, hạc,
    Văng vẳng hồng nga hót gọi đàn.
  4. Ðây các bầy chim đủ mọi loài,
    Ngân nga bao tiếng hót êm tai,
    Cây trồng sanh quả tiên phong phú,
    Rừng mọc kỳ hoa ở khắp nơi.

5-6. Thành phố như đây thật tuyệt vời
Khó tìm thấy ở cõi người đời.
Nàng nhiều cung điện bằng vàng bạc,
Lấp lánh bốn phương chiếu sáng ngời.
Lại có năm trăm tỳ nữ ấy
Sẵn sàng phục vụ lệnh nàng thôi.

  1. Bọn chúng mang vòng ốc, vỏ trai,
    Ðiểm trang y phục dệt vàng tươi,
    Nàng nhiều sàng tọa bằng vàng bạc
    Ðưọc trải da dê quý phía ngoài.
  2. Tất cả đều chu đáo sẵn sàng,
    Bên trong được phủ với chăn màn
    Dệt bằng lông thú, khi nằm xuống,
    Nàng thọ hưởng bao nỗi lạc hoan.
  3. Tuy nhiên, khi đến nửa đêm khuya,
    Nàng thức dậy và cất bước ra
    Ði tới hoa viên đầy lạc thú
    Bao quanh hồ nước phủ liên hoa.
  4. Bên bờ nàng đứng lại soi mình,
    Tiên nữ ở trên thảm cỏ xanh,
    Bỗng một chó ngao tai cắt cụt
    Vồ nàng xé xác đến tan tành.
  5. Khi nàng đã bị nát toàn thân,
    Và đã biến thành một bộ xương,
    Nàng vội nhảy vào hồ nước biếc,
    Hình hài trở lại đẹp muôn phần.
  6. Thân thể nàng nay đã vẹn toàn,
    Cực kỳ diễm lệ, đóa hồng nhan,
    Ðiểm trang đủ thứ thiên y đẹp,
    Nàng đến cho ta diện kiến nàng.
  7. Ngày xưa nàng phạm ác hành nào
    Do khẩu, ý, thân đã phạm vào,
    Con chó cụt tai nay xé xác
    Bởi vì quả báo tội gì sao?

Khi được nhà vua hỏi như vậy, nữ quỷ liền kể chuyện đời này:

  1. Ngày xưa ở xứ Kim-bi-la,
    Có một nam cư sĩ tại gia,
    Ðệ tử với tâm thành mộ đạo,
    Thiếp là ác phụ nghiệp gian tà.
  2. Bởi vì thiếp phạm tội dâm loàn,
    Chồng của thiếp lên tiếng hỏi han:
    ‘Nàng đã tạo ra điều bất xứng
    Là không tiết hạnh với chồng nàng’.
  3. Thế rồi thiếp phải nói lời thề
    Giả dối tràn đầy khủng khiếp kia:
    ‘Thiếp chẳng dám lừa chàng việc ấy,
    Dù thân hay ý cũng chưa hề.
  4. Song nếu thiếp vi phạm việc này
    Dù thân hay ý bấy lâu rày,
    Thì mong con chó ngao tai cụt
    Cắn xé thiếp tan nát cả thây’.
  5. Thiếp từng chịu đựng bảy trăm năm
    Quả báo do tà hạnh, dối gian,
    Từ ấy, chó ngao tai cắt cụt
    Xé thân từng mảnh thật kinh hoàng.

Nàng nói như vậy xong rồi lại ngâm hai vần kệ ca ngợi đặc ân mà nhà vua đã ban cho nàng:

  1. Quân vương thần lực thật cao cường,
    Ngài đã đến đây cứu quỷ nương,
    Ðược thoát chó ngao tai cụt ấy,
    Thiếp không còn sợ hãi, đau buồn.
  2. Quân vương, thiếp kính cẩn tôn sùng
    Ðảnh lễ cầu xin đấng chúa công
    Hãy thọ hưởng thần tiên lạc thú,
    Quân vương và thiếp hãy vui chung.

Ngay lúc ấy bỗng nhiên nhà vua cảm thấy chán sống ở cảnh tiên kia, liền nói ý định giã từ cho nàng biết và ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Ta đã hưởng bao thú cõi tiên,
    Cùng nàng hoan lạc thật vô biên,
    Giờ đây, tiên nữ, ta mong ước,
    Mau hãy đem ta trở lại liền.

Khi đã nghe lời của nhà vua, nữ quỷ thần ở lâu đài ấy không chịu nổi sự biệt ly. Lòng nàng rối bời vì đau khổ ưu phiền và toàn thân nàng run lên xúc động. Song dù nàng đã dùng đủ cách khẩn cầu nhà vua, nàng cũng không thể thuyết phục ngài ở lại được nữa.

Nàng đành đưa ngài về kinh đô cùng nhiều châu báu và rước ngài vào cung điện. Sau đó nàng than khóc bi thảm và trở về trú xứ của nàng ngay. Khi nhà vua thấy vậy, lòng ngài xúc động vô cùng. Từ đó về sau ngài thực hành nhiều thiện sự như bố thí cùng các phương tiện khác và được sanh lên cõi thiên.

Thế rồi khi đức Thế Tôn Gotama giáng sanh ở cõi đời, và theo thời gian đã đến cư trú tại thành Sàvatth, một hôm Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành vào vùng núi này trông thấy nữ thần cùng đoàn tùy tùng của nàng, bèn hỏi về hạnh nghiệp mà nàng đã tạo trước kia. Nàng kể với Tôn giả mọi sự và Tôn giả trình bày câu chuyện ấy lên đức Thế Tôn.

  1. (25) Chuyện Hoàng Hậu Ubbarì (Ubbarì)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana.

Ở Sàvatthi, người chồng của một nữ đệ tử tại gia vừa từ trần. Nàng ưu phiền đi đến nghĩa địa khóc than. Khi đức Thế Tôn nhận thấy nàng đã đạt thành các đức tính đưa đến quả Dự Lưu, ngài động lòng bi mẫn, đi đến nhà nàng và hỏi tại sao nàng khóc. Nàng đáp:

– Bạch đức Thế Tôn, quả con đang đau buồn vì xa cách một người thân của con.

Sau đó đức Thế Tôn kể một chuyện quá khứ.

Thuở xưa trong quốc độ Pancala ở thành Kapila có một vị vua mệnh danh Cùlani Brahmadatta chuyên tâm làm phước nghiệp sự lợi ích cho thần dân và không hề phạm Thập Vương pháp.

Một hôm mong muốn nghe thần dân bàn tán việc gì trong xứ sở của mình, ngài bèn cải trang làm một thợ may và rời kinh thành mà không có ai hầu cận.

Trong lúc ngài du hành từ làng này sang làng khác, quận này sang quận khác, ngài nhận thấy toàn quốc không có trộm cướp và bất công đàn áp, dân chúng sống thân thiện với nhau và có thể là an trú trong mọi nhà cửa mở toang.

Lòng vui mừng hớn hở, ngài khởi hành quay về kinh và đi đến một thị trấn nọ, ngài vào nhà một góa phụ nghèo khó. Khi thấy ngài, bà ấy hỏi:

– Này Tôn ông là ai? Tôn ông từ đâu đến đây?

Ngài đáp:

– Này hiền phụ, ta là một thợ may; ta đang đi quanh quẩn may thuê vá mướn để kiếm tiền. Nếu bà có vật gì cần may, bà hãy đưa cho ta, cả quần áo lẫn khăn đội đầu, ta sẽ may cho bà.

Bà liền nói:

– Chúng tôi không có việc gì cần làm về quần áo hoặc khăn đội đầu cả. Ông đi làm cho các người khác nhé.

Trong khi ngài ở vùng đó vài ngày, ngài thấy con gái bà có đủ tướng mạo tốt lành của phúc phận và đức hạnh, ngày sau ngài liền bảo bà mẹ:

– Nếu con gái bà chưa gả cho ai, thì xin bà hãy gả cho tôi. Tôi có đủ khả năng tìm kế sinh nhai để mẹ con bà no ấm.

Bà ấy gả con gái cho ngài. Sau khi đã ở lại với nàng vài ngày, ngài đưa cho nàng một ngàn đồng tiền vàng Kahàpana và nói:

– Ta sẽ trở lại trong vòng vài ngày thôi. Hiền thê chớ lo buồn gì cả.

Ngay sau đó ngài trở về kinh thành. Khi đã truyền lệnh đắp đường thật bằng phẳng giữa kinh đô và làng ấy cùng trang hoàng mọi sự xong xuôi, ngài đi đến nơi kia trong cảnh huy hoàng rực rỡ. Sau khi đã chất một đống tiền vàng lớn trên thân cô thiếu nữ và truyền đem nàng đi tắm rửa trong các chậu bằng vàng bạc, ngài đặt tên nàng là Ubbarì và phong nàng ngôi hoàng hậu.

Ngài ban cho quyến thuộc nàng ngôi làng ấy và sau đó đưa nàng về kinh trong cảnh oai nghi lộng lẫy. Ngài sống đời hạnh phúc với nàng, trị nước phồn vinh và sau đó băng hà.

Nỗi ưu phiền của Ubbarì được các vị kết tập Kinh điển kể lại như vầy:

  1. Brah-ma-dat, đại đế ngày xưa,
    Chúa tể của dòng Pan-ca-la,
    Sau khoảng ngày đêm cai trị nước,
    Mạng chung, đại đế đã băng hà.
  2. Hoàng hậu Ub-ba-rì khóc hoài,
    Lên đàn tế lễ hỏa thiêu ngài,
    Dù không còn thấy hình tiên đế,
    Bà vẫn gào: ‘Brah-ma-dat ôi!
  3. Ðến nơi kia một vị hiền nhân,
    Bậc Thánh đầy đức hạnh chánh chân,
    Vào dịp lễ tang, ngài muốn hỏi
    Những người đang tụ tập quây quần:
  4. ‘Dàn hỏa táng ai chết thế này?
    Các vòng hoa tỏa ngát hương bay,
    Vợ ai đang khóc chồng nàng vậy?
    Người ấy là ai quá vãng đây?
    Dù chẳng thấy đâu người đã khuất,
    Nàng gào: ‘Brah-ma-dat thương thay!’
  5. Những người đang ở đó thưa liền:
    ‘Hoàng hậu là đây, chính vợ hiền;
    Cầu phúc phần ngài, thưa Thánh giả,
    Cầu vua Brah-ma-dat thăng Thiên’.
  6. Ðây là dàn hỏa táng thi hài
    Tỏa ngát hương bay khắp mọi nơi.
    Hoàng hậu là đây đang khóc lóc
    Tiên vương vừa khuất bóng trên đời,
    Dù không còn thấy ngài đâu nữa,
    Bà khóc: ‘Brah-ma-dat hỡi ôi!’

Vị khổ hạnh liền bảo hoàng hậu Ubbarì:

  1. ‘Tám vạn sáu ngàn người bấy lâu
    Tên Brah-ma-dat cũng như nhau,
    Ðược thiêu trong nghĩa trang này vậy;
    Vì kẻ nào nàng phải khổ đau?’

Ubbarì:

  1. Tôn giả, con thương tiếc chúa công
    Cù-la-ni đế, chính con dòng,
    Làm vua bộ tộc Pan-ca ấy,
    Người đã ban con mọi ước mong.

Vị khổ hạnh:

  1. Tất cả những ai được gọi là
    Brah-ma-dat cũng đã làm vua,
    Ðều là con của Cù-la đế,
    Chúa tể của dòng Pan-ca-la.
  2. Sanh tử dòng kia cứ chuyển vần,
    Nàng làm hoàng hậu đã bao lần,
    Sao nàng quên lãng bao chồng cũ,
    Và chỉ tiếc thương vị cuối cùng?

Ubbarì:

  1. Chính vì con có phận hồng nhan,
    Tôn giả, từ xưa, vậy phải chăng
    Mọi việc theo dòng đời tiếp diễn,
    Mà ngài cất tiếng để khuyên răn?

Vị khổ hạnh:

  1. Nàng đã từng làm một nữ nhân,
    Nam nhi, thú vật, biết bao lần,
    Ðiều này chẳng thấy đâu biên giới
    Với việc tái sanh ở cõi trần.

Ubbarì:

  1. Lòng con quả thật nóng bừng
    Như là sữa lạc đổ trong lửa đào,
    Ngài vừa tưới nước lạnh vào
    Giờ đây con dứt biết bao khổ sầu.
  2. Chính ngài nhổ mũi tên đau
    Nỗi ưu phiền đã cắm sâu vào lòng.
    Xua tan mọi nỗi thương tâm
    Sầu tư nặng trĩu, khóc thầm quân vương.
  3. Giờ đây trút bỏ đau buồn,
    Lòng con lắng dịu, trí thường bình an,
    Con không còn phải khóc than
    Sau khi nghe những lời vàng ngài răn.

Ðể phát họa sự chứng đắc của Ubbarì, bậc Ðạo Sư ngâm bốn vần kệ:

  1. Khi nàng nghe được các lời ca
    Ðáng cảm phục từ bậc xuất gia,
    Nàng đắp chiếc y, cầm lấy bát,
    Ra đi theo cuộc sống không nhà.
  2. Khi giã từ nhà, cất bước lên
    Ði vào cuộc sống giữa thiên nhiên,
    Nàng liền tu tập tâm từ ái,
    Ðể được tái sanh cõi Phạm thiên.
  3. Nàng đã viễn du mọi xóm làng,
    Kinh thành, thị trấn, các hoàng cung,
    Ưu-lâu-tần ấy là tên gọi
    Thôn xóm nàng thân hoại mạng chung.
  4. Khi nàng đã phát triển từ tâm
    Ðể được tái sanh ở Phạm cung,
    Nàng đã đoạn trừ tâm nữ giới,
    Trở thành một vị Phạm thiên thần.

Phẩm III – Tiểu Phẩm

  1. (26) Chuyện Không Chìm Trong Nước (Abhijjamàna)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm)

Về phía Tây Benares (Ba-la-nại) bên kia sông Hằng, khi ta đi qua thị trấn Vàsabha, trong thôn làng tên gọi Cundatthilà có một người thợ săn.

Y giết hươu nai trong rừng, nấu loại thịt ngon nhất trên than hồng và khi ăn xong, y buộc những thứ còn lại trong cái thúng bằng lá, mang trên đòn gánh đi vào làng.

Khi đám trẻ con thấy y ở cổng thị trấn, chúng chìa tay ra, chạy tới xin:

– Cho tôi miếng thịt! Cho tôi miếng thịt!

Vì thế y cho mỗi đứa trẻ một miếng thịt nhỏ. Một hôm y chỉ mang hoa và cho mỗi đứa một chùm. Khi từ trần, y tái sanh làm ngạ quỷ. Vừa đói vừa khát, y bước đi trên sông Hằng mà không bị chìm, mong tìm về quê làng cùng bà con thân thuộc.

Vị đại thần của vua Bimbisàra (Tần-bà-sa) sau khi đi dẹp quân phiến loạn xong, trở về bằng thuyền xuống dòng sông, trông thấy ngạ quỷ kia đang đi xuôi dòng, bèn hỏi:

  1. Ngươi chẳng bị chìm xuống nước sông,
    Ngươi đi trên mặt nước sông Hằng,
    Thân mình trần trụi, và tuy thế,
    Người đội vòng hoa khéo điểm trang,
    Như thể thoát ly thân phận quỷ,
    Ngươi đi đâu đó, ở đâu chăng?

Bấy giờ những chuyện do ngạ quỷ và đại thần Kiliya nói được các vị kết tập Kinh điển kể lại qua các vần kệ sau:

  1. Ngạ quỷ đáp lời: ‘Tôi sẽ đi
    Về thôn làng cũ Cun-dat-thi,
    Giữa nơi đây với Và-sa phố,
    Kế cận Ba-la-nại sá gì!
  2. Khi ấy, đại thần nổi tiếng kia,
    Người mang danh hiệu Ko-li-ya,
    Ðem cho ngạ quỷ phần cơm chín,
    Một bộ áo và bánh mạch nha.
  3. Ngừng chiếc thuyền kia, vị đại thần
    Bảo tìm người hớt tóc cúng dâng,
    Khi người hớt tóc dùng đồ cúng,
    Ngạ quỷ hưởng ngay quả phước ân.
  4. Tức thì quỷ phục sức cao sang
    Mang đủ vòng hoa khéo điểm trang,
    Ngạ quỷ đứng nơi kia hưởng thọ
    Lễ dâng cúng tạo phước ân tràn,
    Vì duyên cớ ấy ta nên cúng
    Cho ngạ quỷ vì biết xót thương.

Như vậy vị đại thần Koliya cảm thấy xót thương ngạ quỷ ấy và làm lễ bố thí cho nó theo cách được nói trên. Vị ấy tiếp tục xuôi dòng và đến Ba-la-nại lúc rạng đông.

Ðức Thế Tôn du hành qua không gian để đón mừng hội chúng và đứng trên bờ.

Ðại thần Koliya vô cùng hoan hỷ, thỉnh cầu đức Thế Tôn thọ trai tại nhà vị ấy. Ðức Thế Tôn im lặng nhận lời.

Với tâm thanh thản, đại thần Koliya cúng dường thực phẩm lên đức Phật và chúng Tăng. Sau đó, khi một đám đông dân chúng tụ họp lại, đức Thế Tôn vì lòng lân mẫn chúng sanh đã làm phép mầu khiến cho một số ngạ quỷ xuất hiện trước quần chúng và kể chuyện chúng đã đọa lạc như vậy bằng cách nào.

Chư vị kết tập Kinh điển diễn tả như sau:

  1. Một bọn mang đầy giẻ rách bung,
    Bọn kia lấy tóc để che thân,
    Cả bầy ngạ quỷ tìm lương thực,
    Lang bạt đi quanh quẩn khắp vùng.
  2. Ra đi tìm kiếm xứ xa xôi,
    Song chẳng nhận đâu được miếng mồi,
    Ðói khát trở về nằm bất tỉnh,
    Ngã nhào xuống đất trốn đi thôi.
  3. Một bọn ngã nằm xuống đất dơ,
    Chúng không làm thiện nghiệp ngày xưa,
    Chúng trông như thể đang thiêu đốt
    Vì lửa hạ và cất tiếng thưa:

9-10. ‘Xưa là ác phụ mẫu trong nhà,
Chẳng tạo nơi an trú chúng ta
Qua các việc thi ân bố đức,
Dù nhiều thực phẩm được quăng xa,
Chúng ta đã chẳng đem phân phát
Cho những đoàn du sĩ xuất gia.

  1. Trong lúc muốn làm việc ác gian,
    Biếng lười, bướng bỉnh, lại tham ăn,
    Chúng ta cho chút phần thừa thải
    Và phỉ báng người được phát ban.
  2. Nô tỳ và sản nghiệp toàn gia,
    Ngay cả đồ trang sức ngọc ngà,
    Giờ đây phục vụ bao người khác,
    Ðau buồn giành lại số phần ta.
  3. Những người đan giỏ đáng chê bai,
    Những kẻ đóng xe bị đọa đày,
    Những bọn tắm thuê cho kẻ khác,
    Chiên-đàn hạ đẳng, đám ăn mày.

14-15. Trong nhà hạ liệt, bọn cùng đinh
Như vậy, bọn này được tái sanh,
Ấy phận dành cho người biển lận;
Còn người xưa tạo nghiệp an lành,
Là người bố thí, tay hào phóng,
Chiếu sáng vườn Thiên lạc hiển vinh.

  1. Hưởng thọ bao hoan lạc cõi trời,
    Họ làm chúa tể các lâu đài,
    Từ đây họ tái sanh cao quý,
    Giữa các phú gia ở cõi người.
  2. Trong nhà nóc nhọn có nhiều tầng,
    Ngay cả hoàng cung, với tọa sàng
    Bao phủ chăn màn lông thú quý,
    Những người đã nhiếp phục điều thân,
    Tái sanh vào các nhà lương thiện,
    Ðầy đủ tiện nghi giữa thế nhân,
    Tay của mỗi người cầm chiếc quạt
    Ðược làm bằng các sợi lông công.
  3. Bất cứ nơi nào họ bước ra,
    Họ đều điểm ngọc với cài hoa;
    Gia nhân hộ tống ngay bên cạnh,
    Tìm đủ thú vui sáng tối mà.
  4. Nan-da-ra, Hỷ lạc Viên này
    Không phải để dành cho những ai
    Chẳng tạo tác nên nhiều phước nghiệp,
    Mà dành riêng biệt để cho người
    Ðã hoàn thành được nhiều công đức,
    Là Ðại Lâm Viên của cõi trời
    Tam thập tam thiên đầy lạc thú,
    Không vì phiền não, mãi vui tươi.
  5. Chẳng đời này hoặc cõi đời sau
    Hạnh phúc dành cho những kẻ nào
    Không tạo tác nên nhiều phước nghiệp,
    Song đời này lẫn cõi đời sau
    Ðể dành hạnh phúc cho bao kẻ
    Làm các thiện hành phước nghiệp cao.
  6. Vậy những ai mong chúng bạn hiền,
    Phải hoàn thành thiện nghiệp tinh chuyên,
    Bởi vì người tạo nhiều công đức
    Hưởng lạc thú nhiều ở cõi thiên. 

2. (27) Chuyện Ngạ Qu​ỷ Núi Sànuvàsin (Sànuvàsinpeta)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm).

Ngày xưa ở thành Ba-la-nại, vương tử của vua Kitava, trong lúc dạo chơi từ vườn ngự uyển về, thấy một vị Ðộc Giác Phật tên là Sunetta đang đi khất thực, bèn buông lời thô lỗ phỉ báng Ngài. Ngay khi vương tử tiến bước lên thì cảm thấy cơ thể nóng bừng như thiêu đốt trong lửa địa ngục.

Vì bệnh này vị ấy từ trần và tái sanh vào địa ngục Avìci (A-tỳ hay Vô gián). Sau đó vị ấy mạng chung và tái sanh làm ngạ quỷ và kế tiếp trong thời kỳ có đức Thế Tôn Gotama xuất hiện, vị ấy tái sanh vào một làng chài lưới gần thị trấn Kundi.

Vì nhớ lại các kiếp trước, vị ấy không đi đánh cá cùng các người khác và thường quăng cá trở ra biển khi họ mang về. Quyến thuộc trong gia đình đuổi vị ấy ra khỏi nhà, nhưng một người em trai vẫn thương mến vị ấy.

Rồi Trưởng lão Ananda khuyến giáo vị ấy xuất gia làm Tỷ-kheo; về sau đắc quả A-la-hán, vị ấy cư trú cùng nhóm mười hai Tỷ-kheo trên núi Sànuvàsin.

Còn quyến thuộc vị ấy tái sanh làm ngạ quỷ. Bấy giờ cha mẹ vị ấy hổ thẹn vì suy nghĩ: ‘Kiếp trước ta đã đuổi con ra khỏi nhà’, nên không đến gần vị ấy, nhưng bảo người em trai xưa kia thương yêu vị ấy ra đi.

Khi quỷ nhân này đã vào làng của vị Trưởng lão đang đi khất thực, nó quỳ xuống đất với đầu gối bên phải, xuất hiện nguyên hình với dáng điệu đảnh lễ tôn kính và ngâm vần kệ:

– Kính thưa Tôn giả, mẹ và cha….

Song năm vần kệ đầu do chư vị kết tập Kinh điển đưa vào đây để làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Có vì Trưởng lão ở Kun-di,
    Trú tại núi Sà-nu-và-si,
    Ðiều phục các căn, người khổ hạnh,
    Pot-tha-pà ấy chính danh kia.
  2. Em trai, cùng với mẹ và cha,
    Khốn khổ thần dân cõi Dạ-ma,
    Vì tạo ác hành trong kiếp trước,
    Từ đời này đã hóa ra ma.
  3. Ở nơi đọa xứ, ốm trơ xương
    Như chiếc kim, lao nhọc, ở truồng,
    Hốc hác, lo âu, đầy sợ hãi,
    Chúng không còn có vẻ hung tàn.
  4. Có chú em kia vội bước chân,
    Cô thân trên nẻo vắng, mình trần,
    Quỳ tay chân xuống như thùng nước
    Trước Trưởng lão này, quỷ hiện thân.
  5. Bấy giờ Trưởng lão chẳng quan tâm,
    Lặng lẽ người đi, cất bước chân,
    Song ngạ quỷ liền cho Trưởng lão
    Biết ngay sự việc, vội thưa rằng:
    ‘Tôi là em của ngài tiền kiếp,
    Ðã đọa vào loài quỷ đói ăn.
  6. Kính thưa Tôn giả, mẹ cùng cha
    Khốn khổ, thần dân cõi Dạ-ma.
    Vì tạo ác hành trong kiếp trước,
    Từ đời này đã hóa ra ma.
  7. Ở nơi đọa xứ ốm trơ xương
    Như chiếc kim, lao nhọc, ở truồng,
    Hốc hác, lo âu, đầy sợ hãi,
    Chúng không còn có vẻ hung tàn.
  8. Xin hãy từ bi, hãy xót thương,
    Cúng dường hồi hướng đến vong nhân.
    Phước phần nhờ lễ ngài dâng cúng
    Những kẻ hung tàn được miếng ăn’.
  9. Khi Trưởng lão này với chúng Tăng
    Mười hai vị khất thực quanh vùng,
    Thế rồi tụ tập cùng nơi chốn,
    Mục đích là chiêu đãi bữa ăn.
  10. Tỷ-kheo bèn nói với chư Tăng:
    ‘Xin hãy cho tôi tất cả phần
    Ðã nhận, để tôi dâng Giáo hội,
    Vì thương xót quyến thuộc thân nhân’.
  11. Chúng Tăng giao thực phẩm cho người,
    Trưởng lão dâng trai phạn thỉnh mời,
    Trong lúc cúng dường phần thực phẩm,
    Người đem công đức hướng về nơi
    Song thân, tiểu đệ và cầu nguyện:
    ‘Mong quyến thuộc nay hưởng phước trời’.
  12. Lập tức sau khi chuyển phước phần,
    Cao lương liền xuất hiện dần dần
    Ngon lành, thịnh soạn, đầy hương vị,
    Sau đó chú em của Thánh Tăng
    Ðã trở thành chàng trai tuấn tú,
    Tráng cường, hạnh phúc, lại thưa rằng:
  13. ‘Tôn giả, xin thưa, các thức ăn
    Giờ đây phong phú, hãy nhìn trông,
    Chúng tôi trần trụi, xin cầu nguyện
    Mong ước sao cho đủ áo quần’.
  14. Khi giẻ rách người đã lượm xong
    Từ trong đống rác ở bên đường,
    Người may giẻ rách thành y phục
    Dâng cúng Tỷ-kheo khắp bốn phương.
  15. Trong lúc người làm lễ cúng dâng,
    Tỷ-kheo hồi hướng đến thân nhân
    Phước phần lễ vật này mang đến
    Cha mẹ, chú em, ước nguyện rằng:
    ‘Mong lễ vật này cho quyến thuộc
    Họ hàng được hưởng trọn hồng ân’.
  16. Lập tức sau khi chuyển phước phần,
    Xiêm y liền xuất hiện dần dần;
    Thế rồi phục sức xiêm y đẹp,
    Chàng hiện nguyên hình trước Thánh Tăng:
  17. ‘Xin thưa, ở quốc độ Nan-da,
    Các thứ mền chăn quả thực là
    Phong phú, song còn hơn thế nữa,
    Áo quần, màn phủ ở quanh ta.
  18. Chúng làm bằng lụa hoặc bằng lông,
    Bằng vải dày hay các sợi bông,
    Chúng thật dồi dào và quý báu,
    Ðang treo lơ lửng giữa hư không.
  19. Y phục chúng tôi nay cứ mang
    Thứ gì yêu quý tận tâm can,
    Kính thưa Tôn giả, xin cầu nguyện
    Cho chúng tôi nhà để trú an’.
  20. Trưởng lão liền xây một thảo am
    Cúng dường lên cả tứ phương Tăng,
    Ngay khi dâng lễ, người cầu nguyện
    Công đức chuyển cho cả họ hàng.
  21. Lập tức sau khi chuyển phước phần,
    Cửa nhà liền xuất hiện dần dần,
    Có nhiều tòa lớn xây lầu các,
    Thiết kế đầy cân xứng mọi tầng.

Ngạ quỷ thưa:

  1. ‘Nhân giới không sao có loại nhà
    Cao sang tốt đẹp giống như ta,
    Những lâu đài thấy trên thiên giới
    Cũng giống nhà ta có đấy mà!
  2. Rực rỡ huy hoàng khắp mọi nơi
    Lâu đài chiếu sáng bốn phương trời;
    Giờ đây, Tôn giả, xin cầu nguyện
    Cho chúng tôi đầy nước uống thôi’.
  3. Trí giả đổ đầy thùng nước trong,
    Rồi đem dâng cúng tứ phương Tăng,
    Ngay khi làm lễ, người cầu nguyện
    Công đức chuyển cho các họ hàng.
  4. Lập tức sau khi chuyển phước phần,
    Nước trong liền xuất hiện dần dần,
    Có bốn hồ sen sâu thăm thẳm
    Xây dựng đầy cân xứng tuyệt trần.
    26. Nước hồ trong vắt đến bên bờ
    Mát lạnh mùi hương nhẹ thoảng đưa,
    Bao phủ toàn sen xanh, đỏ thắm,
    Tràn đầy hoa súng với cành tơ.
  5. Sau khi tắm rửa, uống vừa xong,
    Chúng lại hiện lên trước Thánh Tăng:
    ‘Tôn giả, chúng tôi nhiều nước lắm,
    Song chân cẳng lại bị đau rần.
  6. Trong lúc quẩn quanh ở mọi nơi,
    Ngã nhào trên sỏi đá, cây gai,
    Kính thưa Tôn giả, xin cầu nguyện
    Cho được chiếc xe chở chúng tôi’.
  7. Trưởng lão cầm lên một chiếc hài
    Cúng dâng Giáo hội bốn phương trời,
    Trong khi làm lễ người cầu nguyện
    ‘Mong quyến thuộc nay được thảnh thơi’.
  8. Lập tức sau khi chuyển phước lành,
    Cả bầy ngạ quỷ hiện nguyên hình
    Trên xe tiến đến đồng thanh nói:
    ‘Tôn giả từ bi với chúng sanh.
  9. Nhận được xiêm y thực phẩm rồi
    Ngôi nhà, nước uống, chiếc xe ngồi,
    Tôn giả, chúng tôi xin kính lễ
    Bậc Thánh từ bi giữa cõi đời’.

Vị Trưởng lão kể sự kiện trên với đức Thế Tôn, Ngài lấy chuyện làm đề tài thuyết pháp.

  1. (28) Chuyện Nữ Quỷ Hồ Ràthakàrà (Rathakàràpeti)

Trong lúc đang trú tại Sàvatthi (Xá-vệ), bậc Ðạo Sư kể chuyện này liên hệ đến một nữ quỷ thần.

Thuở xưa vào thời đức Thế Tôn Kassapa, có một nữ nhân kia thực hành nhiều công đức thiện sự và cúng dường Tăng chúng một tinh xá tốt đẹp, rồi từ trần, và do một ác nghiệp khác, nàng tái sanh làm nữ quỷ thần trong một lâu đài ở vùng Tuyết Sơn, chúa tể của núi non, gần hồ Ratthakàra.

Nhờ các công đức thiện sự, nơi đó hiện ra cho nàng một lâu đài tuyệt mỹ làm toàn bằng ngọc báu, khắp nơi đều đầy lạc thú hấp dẫn, lại có một hồ sen, giống như vườn thiên giới Nandana (Hoan lạc Viên).

Toàn thân nàng có màu vàng ròng, yêu kiều diễm lệ, được khéo điểm trang rất khả ái. Nàng cư trú tại lâu đài ấy không có nam nhân nào cả. Tuy thế, trong lòng nàng lại khởi lên ước vọng bầu bạn với nam nhân.

Thế rồi nàng thả vài quả xoài xuống dòng sông, suy nghĩ: ‘Ðây là một mưu kế’. Tất cả đều được hiểu như trong chuyện Hồ Kannamunda (Chuyện 12, phẩm II).

Trong trường hợp này, có một thanh niên sống ở Ba-la-nại thấy trên sông Hằng một quả xoài và muốn biết nguồn gốc của nó. Vì vậy, đi theo dòng chàng tìm kiếm được đối tượng của mình ở tận nơi cư trú của nàng.

Nàng hân hoan đón tiếp chàng vào nhà nàng và khi chàng đã nhìn thấy mọi vẻ nguy nga lộng lẫy của nó, chàng ngâm kệ hỏi nàng:

  1. Nàng đi lên đến một lâu đài
    Có cột trụ xanh biếc sáng ngời
    Kiểu cách muôn màu, phong phú quá,
    Ở đây tiên nữ thật hùng oai,
    Trông nàng chẳng khác vầng trăng sáng
    Vằng vặc tròn quay ở giữa trời.
  2. Da nàng quả thật giống vàng ròng,
    Hình dáng huy hoàng đẹp mắt trông,
    An tọa trên ngai cao tột đỉnh,
    Cô đơn vì thiếu bóng lang quân.
  3. Chung quanh nàng có đủ hồ sen,
    Nhiều loại hoa sen trắng mọc chen,
    Cát phủ đáy hồ, quanh bến nước
    Bằng vàng, chẳng thấy lấm bùn đen.
  4. Thiên nga xinh đẹp thỏa lòng mơ,
    Bơi lội chung quanh mặt nước hồ;
    Khi tụ họp, kêu ầm ỷ quá,
    Vui tai như tiếng trống rung to.
  5. Huy hoàng rực rỡ bóng thuyền quyên,
    Nàng dựa mình trên một chiếc thuyền,
    Mí mắt vòng cung đang tỏa sáng,
    Giọng cười, tiếng nói thật êm đềm,
    Tứ chi nàng thập phần thanh lịch,
    Nàng rạng ngời trong vẻ diệu huyền.
  6. Lầu các nàng không chút bụi trần,
    Có vườn tiên lạc thú vô ngần,
    Hiện thân hạnh phúc gia tăng mãi,
    Ðang đứng ở trên khoảng đất bằng,
    Tiên nữ có dung nhan tối thắng,
    Ta mong hưởng lạc thú cùng nàng.

Nàng ngâm kệ đáp lời:

  1. Làm nghiệp nào mang quả đến đây,
    Trí chàng hãy hướng đến nơi này,
    Hoàn thành những nghiệp nào sanh quả
    Có thể nhận ra ở chốn này.
    Nhờ cách ấy, sau chàng sẽ được
    Thiếp là tiên nữ thích vui vầy.

Khi chàng trai nghe xong lời của nàng quỷ thần, chàng trở về cõi người. Tại đó chàng quyết tâm quán tưởng đến nơi kia và do kết quả ấy, chàng thực hành nhiều thiện nghiệp. Chẳng bao lâu chàng từ trần và tái sanh tại nơi ấy gần bên nàng.

Các vị kết tập Kinh điển ghi vần kệ cuối cùng kể lại chuyện chàng cộng trú cùng nàng:

  1. ‘Mong vậy!’ Chàng trai vội đáp lời,
    Rồi chàng tạo các nghiệp trên đời
    Phát sinh kết quả về nơi nọ,
    Khi đã làm xong phước nghiệp rồi,
    Chàng được tái sanh vào chốn ấy
    Cùng nàng bầu bạn cảnh bồng lai. 

4. (29) Chuyện Rơm Trấu (Bhusa)

Trong lúc đang trú tại Sàvatthi (Xá-vệ), bậc Ðạo Sư kể chuyện này liên hệ đến bốn ngạ quỷ.

Trong một ngôi làng nọ không xa Sàvatthi, một gian thương kiếm kế sinh nhai bằng cách đong lường dối trá và các phương pháp bất lương khác như pha trộn tạp chất vào lúa gạo. Vợ, con trai, con dâu kẻ ấy cũng gian ác như các vần kệ kể lại.

Khi tái sanh làm ngạ quỷ ở rừng Vindhya, nỗi thống khổ của chúng đều được nói ra đây.

Bấy giờ Tôn giả Mahà-Moggallàna đang đi du hành qua vùng núi đồi, một hôm đến tận nơi ấy, thấy chúng, liền hỏi chúng đã tạo các ác nghiệp nào:

  1. Tên này ăn trấu, nọ ăn rơm,
    Trong lúc ngươi ăn phẩn đáng nhờm,
    Còn nữ quỷ này ăn thịt nó,
    Quả gì nghiệp ấy thật kinh hồn?

Ðể đáp lời Trưởng lão, vợ kẻ gian thương giải thích các hạnh nghiệp do chúng đã tạo nên:

  1. Tên này đánh mẹ thuở xưa xa,
    Tên nọ bán buôn chẳng thật thà,
    Còn nữ quỷ này ăn thịt nó,
    Ðánh lừa với vọng ngữ gian tà.
  2. Khi được làm người giữa chúng sanh,
    Tôi là người vợ, chủ gia đình,
    Ðem tài sản giấu người chân chánh,
    Cũng chẳng hề cho chút để dành.
    Tôi đã giấu che bao của cải,
    Còn buông lời dối trá gian manh:
    ‘Nếu tôi cất giấu gì trong đó,
    Thì phẩn là lương thực của mình’.
  3. Do kết quả từ việc trước đây,
    Cùng lời dối trá của tôi vầy,
    Bữa cơm tôi có mùi ngon ngọt
    Ðã hóa thành phân thối thế này.
  4. Hành nghiệp nào đều có quả mang,
    Vì hành nghiệp chẳng tự tiêu tan,
    Nên tôi ăn uống phân dơ bẩn
    Giòi bọ hôi tanh thật đáng nhàm.

Khi đã nghe xong lời của nữ ngạ quỷ, Trưởng lão liền kể lại chuyện lên đức Thế Tôn, Ngài lấy đó làm đề tài thuyết pháp.

  1. (30) Chuyện Chàng Trai (Kumàra)

Tại Sàvatthi (Xá-vệ), nhiều đệ tử tại gia trở thành hội chúng nghe pháp, xây dựng trong thành phố này một ngôi đình lớn rồi cúng dường thực phẩm lên bậc Ðạo Sư và Tăng chúng.

Một người phản đối những gì đem dâng cúng các ‘Sa-môn trọc đầu’. Mẹ y xin sám hối với đức Thế Tôn và cúng dường cháo gạo suốt một tuần. Con trai bà từ trần chẳng bao lâu sau đó và tái sanh làm con một kỹ nữ sang trọng.

Khi nàng biết đó là một nam nhi, nàng cho người đem nó quăng ra nghĩa địa. Tại đó hài nhi được công năng thiện nghiệp của chính nó bảo vệ nên không bị ai phá hại, cứ nằm ngủ ngon lành như trong lòng mẹ.

Chuyện kể rằng chư thần linh đã chăm sóc nó. Thế rồi khi đức Thế Tôn với lòng đại bi, thức dậy từ sáng sớm, dùng Phật nhãn quán sát thế gian, Ngài thấy bé trai này và đi đến nghĩa địa.

Nhiều người tụ tập lại, bảo nhau:

– Bậc Ðạo Sư đã đến đây chắc phải vì một duyên cớ nào đó ở chốn này.

Rồi họ thưa Ngài:

– Bạch Thế Tôn, đứa bé này đã làm nghiệp gì trong đời trước?

Ðức Phật liền kể chuyện cho họ nghe.

Sau đó một đại phú gia nhận nuôi đứa bé và nói:

– Trước sự hiện diện của chính đức Thế Tôn, con xin nhận đứa trẻ này làm con.

Ðức Thế Tôn trở về tinh xá với lời sau:

– Ðứa bé này đã được phú gia kia bảo hộ và sẽ làm lợi ích cho nhiều người.

Sau khi người ấy từ trần, chàng trai thừa hưởng gia tài và thích thú các việc bố thí cùng nhiều thiện sự khác.

Chư vị kết tập Kinh điển nên vấn đề này qua sáu vần kệ sau:

  1. Kỳ diệu thay tri kiến Phật-đà,
    Cách Ngài tiên đoán nghiệp người ta,
    Bao người đã tạo nên công lớn,
    Lắm kẻ ít gây thiện nghiệp mà.
  2. Cậu bé bị quăng bỏ nghĩa trang,
    Bú tay, sống sót cả đêm trường,
    Không thần hay rắn làm thương tổn,
    Vì phước nghiệp từ kiếp trước mang.
    Bầy chó liếm đôi chân cậu bé,
    Quạ diều, sơn cẩu chỉ đi ngang.
  3. Ðàn chim đã tẩy sạch đồ dơ,
    Bầy quạ lau đôi mắt trẻ thơ,
    Chẳng có người chăm lo bảo hộ,
    Cũng không hương cải, thuốc đem cho.
  4. Chúng chẳng biết đâu đến mặt trăng
    Kết giao với nguyệt điện, cung Hằng,
    Cũng không rải hạt cầu may mắn
    Cho trẻ đọa trong cảnh khốn cùng,
    Ðã bị mang đi đêm tối nọ,
    Quăng vào nghĩa địa ở trong rừng.
  5. Hài nhi ấy được cả chư thần
    Ðảnh lễ, cùng bên các thế nhân
    Thấy trẻ cựa mình như một đống
    Sanh tô, trong cảnh ngộ nguy nan,
    Chỉ còn sức sống thêm đôi chút
    Khi Ðại Trí Nhân thấy, bảo rằng:
    ‘Ðứa trẻ này nhờ tài sản lớn
    Sẽ thành đại phú hộ trong vùng’.

Các đệ tử tại gia hỏi:

  1. Hạnh nguyện nào đây của trẻ thơ?
    Tu hành gì cuộc sống bây giờ?
    Vì sao thiện nghiệp này sanh quả,
    Khi họa như vầy đã xảy ra
    Cho trẻ, rồi ngày sau hưởng thọ
    Uy quyền đầy phú quý vinh hoa?

Bấy giờ cách đức Thế Tôn tuyên thuyết khi nghe các đệ tử tại gia hỏi, được các vị kết tập Kinh điển trình bày như sau:

  1. Những người kia đã cúng Tăng-già,
    Với thượng thủ là đức Phật-đà,
    Dịp ấy, trẻ không đồng ý kiến
    Buông lời thô lỗ, chẳng ôn hòa.
  2. Từ khi xua đuổi ý như trên,
    Hỷ lạc về sau, trí thản nhiên,
    Dâng cúng suốt tuần phần cháo gạo
    Ðức Như Lai trú tại Kỳ Viên.
  3. Ấy nguyện đời xưa của trẻ thơ,
    Còn đời tu tập chính bây giờ,
    Thiện hành kia đã mang thành quả,
    Khi họa như vầy đã xảy ra
    Cho trẻ, rồi về sau hưởng thọ
    Uy quyền đầy phú quý vinh hoa.
  4. Chàng sống đời trường thọ bách niên,
    Hưởng bao niềm lạc thú vô biên,
    Ðến khi hủy hoại thân phàm tục,
    Ðược tái sanh đồng trú cõi thiên.

6 (31) Chuyện Ngạ Quỷ Serinì (Serinì)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên).

Tương truyền ở quốc độ Kuru (Câu-lâu) tại thành phố Hatthinipura có một gái giang hồ tên là Serinì. Khi dân trong thành chào đón chư Tăng đến thuyết pháp, họ thúc giục nàng:

– Nàng hãy đến cúng dường chư Tăng để tạ ân.

Nàng từ chối đáp:

– Sao tôi lại phải cúng dường lễ vật cho các Sa-môn trọc đầu này chứ? Sao tôi lại phải từ bỏ một thứ gì đó vì con người vô dụng ấy?

Khi từ trần, nàng tái sanh làm một nữ ngạ quỷ ở sau hào lũy của một tường thành nơi biên địa. Thế rồi một cư sĩ tại gia từ thành Hatthinipura đến vùng thành lũy này để buôn bán, vào lúc rạng đông đi ngang hào lũy để điều hành công việc, trông thấy nữ ngạ quỷ liền hỏi, qua vần kệ:

  1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
    Hốc hác, và thân thể nổi gân
    Người ốm yếu, xương sườn lộ rõ,
    Ngươi là ai hiện đến đây chăng?

Nữ ngạ quỷ đáp:

  1. Tôn giả, con là ngạ quỷ nương,
    Thần dân khốn khổ của Diêm Vương,
    Vì con đã phạm hành vi ác,
    Con đến cõi ma đói ẩn thân.

Vị cư sĩ ngâm kệ hỏi:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hành gì
    Do khẩu, ý, thân đã thực thi?
    Vì hạnh nghiệp nào ngươi đã tạo
    Từ đây tới cảnh giới âm ty?

Nữ ngạ quỷ đáp lại vần kệ:

  1. Con đã đi quanh bến tắm công,
    Lang thang suốt cả nửa tuần trăng.
    Mặc dù bố thí là công đức,
    Con chẳng cho mình chỗ trú thân.
  2. Khi con khát nước, đến dòng sông,
    Sông nước trở thành bãi trống không;
    Những lúc nắng, con ngồi bóng mát,
    Tàng cây lại hóa nóng bừng bừng.
  3. Cơn gió như thiêu đốt, lửa hồng,
    Thổi ào lên khắp cả thân con,
    Nhưng con xứng đáng nhiều đau khổ
    Hơn thế này, Tôn giả đoái thương.
  4. Xin Tôn giả đến Hat-pu-ra,
    Và kể chuyện ngay với mẹ già:
    ‘Ta đã thấy con bà thuở trước,
    Thần dân khốn khổ cõi Diêm-la.
    Vì nàng đã phạm hành vi ác,
    Từ cõi đời đi đến cõi ma’.
  5. Giờ đây con có món tư trang
    Ðể dành lên đến bốn trăm ngàn,
    Con không hề nói cho ai biết,
    Con đã giấu ngay dưới tọa sàng.
  6. Xin mẹ con dâng lễ cúng dường,
    Phước phần hồi hướng đến tên con,
    Chúc bà được sống đời trường thọ;
    Khi mẹ con dâng lễ cúng dường,
    Hồi hướng về con phần phước đức,
    Thỏa nguyền, con hạnh phúc hân hoan’.

Trong lúc nữ ngạ quỷ kể chuyện này, vị ấy chú ý lắng nghe lời nói, và về sau, khi đã làm xong công việc, vị ấy đến kể chuyện kia cho bà mẹ nó.

Các vị kết tập Kinh điển ghi lại các vần kệ sau:

  1. Người ấy thuận lòng, vội nói ra:
    ‘Ðược rồi!’ và đến Hat-pu-ra,
    Nói: ‘Ta đã thấy con bà đó,
    Khốn khổ, thần dân cõi Dạ-ma.
    Vì đã tạo nên điều ác nghiệp
    Từ đời này đến cõi tà ma’.
  2. Dịp kia, nàng đã bảo cùng ta:
    ‘Xin kể chuyện ngay với mẹ già:
    Ta đã thấy con bà thuở trước
    Thần dân khốn khổ cõi Diêm-la.
    Vì nàng đã phạm hành vi ác,
    Từ cõi đời đi đến cõi ma’.
  3. Giờ đây nàng có món tư trang
    Ðể dành lên đến bốn trăm ngàn,
    Nàng không hề nói cho ai biết
    Nàng đã giấu ngay dưới tọa sàng.
  4. Xin mẹ nàng dâng lễ cúng dường,
    Phước phần hồi hướng đến cho nàng,
    Chúc bà được sống đời trường thọ;
    Khi mẹ nàng dâng lễ cúng dường,
    Hồi hướng về nàng phần phước đức,
    Thỏa nguyền, nàng hạnh phúc hân hoan’.
  5. Do vậy, bà dâng lễ cúng dường
    Phước phần hồi hướng đến tên nàng,
    Tức thì nữ quỷ liền an lạc,
    Hạnh phúc, dung nhan đẹp lạ thường!

Khi mẹ nàng nghe chuyện này, bà liền cúng dường Tăng chúng như nàng ước nguyện và hồi hướng công đức về nàng.

  1. (32) Chuyện Người Săn Nai (Migaludda)

Ðức Thế Tôn kể chuyện này trong lúc đang trú tại Trúc Lâm.

Ở thành Ràjagaha (Vương Xá) có người thợ săn kia sống bằng cách săn bắn và giết hươu nai suốt ngày đêm. Tuy nhiên, y lại có một bạn thân là cư sĩ tại gia thường khuyên răn y, nhưng y chỉ nghe theo một phần. Do đó, y tái sanh làm quỷ thần ở trong lâu đài.

Tôn giả Trưởng lão Narada thấy quỷ và ngâm kệ hỏi:

  1. Chàng nay là một đấng nam nhi,
    Hầu cận đủ nô bộc, nữ tỳ,
    Ðêm tối, sáng ngời bao dục lạc,
    Ban ngày phải chịu lắm sầu bi,
    Như vầy do ở trong tiền kiếp
    Chàng đã tạo nên các nghiệp gì?
    Quỷ này giải thích các nghiệp đã làm:
  2. Trong thành Vương Xá, nước non xinh,
    Xưa tại Ða Sơn, cảnh hữu tình,
    Tôi kẻ săn nai, lòng độc ác
    Với bàn tay vấy máu vì mình.
  3. Giữa loài vô hại ở trong rừng
    Tôi quẩn quanh với trí bạo hung,
    Luôn thấy lạc hoan khi giết hại
    Những con vật ấy, thật buông lung.
  4. Mặc dù tôi bản tính như vầy,
    Tôi có bạn thân thiết lắm thay,
    Cư sĩ tại gia lòng mộ đạo
    Tín thành, lân mẫn với tôi đây,
    Cản ngăn tôi, đã nhiều lần nói:
    ‘Ðừng tạo hành vi ác thế này’.
  5. ‘Bạn hỡi, đừng nên tạo ác hành,
    Sợ rằng sẽ gặp cảnh không lành,
    Nếu mong hạnh phúc khi thân hoại,
    Ðừng thích thú vì việc sát sanh’.
  6. Mặc dù nghe lý lẽ khuyên can
    Của chính người đây, một bạn vàng
    Thương xót, mong tôi nhiều hạnh phúc,
    Tôi không tuân Giáo pháp hoàn toàn,
    Vì từ lâu đã tìm vui thú
    Việc ác, nên không có trí quang.
  7. Lần nữa, chính là bậc trí nhân
    Xót thương, dạy bảo phải điều thân:
    ‘Ban ngày nếu sát sanh’, chàng dặn,
    Ðêm tối, phải điều phục phát tâm!’.
  8. Vì vậy ban ngày tôi sát sanh,
    Về đêm, tôi chế ngự thân mình,
    Giờ đây, dạo bước trong đêm tối,
    Nhưng sáng ngày tôi chịu khổ hình.
  9. Nhờ thiện hành, tôi hưởng một đêm
    Với bao lạc thú của thần tiên;
    Ban ngày bầy chó ngao ùa tới,
    Nhảy vọt khắp nơi xé xác liền!
  10. Những người nào nhất mực tinh cần,
    Lời Thiện Thệ tuân thủ quyết tâm,
    Sẽ đạt vẹn toàn Bất tử giới,
    Niết-bàn, là trạng thái siêu nhân. 

8. (33) Chuyện Người Săn Nai Thứ Hai (Dutiyaludda)

Ðức Thế Tôn kể thêm chuyện này nữa trong lúc đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm).

Tương truyền tại Ràjagaha một người thợ săn trẻ tuổi kia, mặc dù giàu có, vẫn rời bỏ mọi lạc thú giàu sang và đi săn hươu nai suốt ngày đêm. Kẻ ấy cũng theo lời khuyên của một vị Trưởng lão khi có người bạn cư sĩ khẩn cầu, và từ bỏ việc đi săn ban đêm, nên nhận quả báo ở đời sau giống như chuyện trên.

Trưởng lão Nàrada hỏi quỷ ấy qua các vần kệ sau:

  1. Trong tòa cao ốc, một lâu đài,
    Trên tọa sàng, lông thú phủ ngoài,
    Năm thứ đàn tơ đang nhẹ trổi,
    Lòng chàng thích thú nhạc êm tai.

2-3. Ban ngày vào lúc mới hừng đông,
Chàng bị đuổi ra tận nghĩa trang,
Và phải chịu bao điều thống khổ,
Nghiệp nào đã tạo ác về thân,
Về lời, hay ý trong tiền kiếp,
Nay chịu khổ này có phải chăng?
Sau đó quỷ liền kể chuyện sau:

  1. Trong thành Vương Xá thật xinh tươi,
    Cổ lũy Ða Sơn cảnh tuyệt vời,
    Tôi chính thợ săn trong kiếp trước,
    Buông lung, tôi thích thú vui chơi.
  2. Mặc dù tôi bản tính hung tàn,
    Tôi có bạn thân, cận sự nam,
    Mộ đạo, tín thành, thường đón tiếp
    Tỷ-kheo, đệ tử đức Cồ-đàm,
    Viếng thăm gia quyến; chàng thương xót
    Ngăn cản tôi, và vẫn bảo ban:

6-10. (Giống các vần kệ 5-10 ở chuyện trước).

  1. (34) Chuyện Những Phán Quyết Gian Dối (Kùtavinicchayika)

Trong lúc bậc Ðạo Sư đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm), ngài kể chuyện này liên quan đến những phán quyết gian dối.

Thời ấy, vua Bimbisàra (Tần-bà-sa) hành trì Trai giới (Bồ-tát giới) sáu ngày mỗi tháng. Nhiều người theo gương vua giữ giới. Nhà vua thường hỏi những người thỉnh thoảng vào triều kiến:

– Này, khanh có hành trì ngày trai giới hay không hành trì?

Thế rồi có một người kia đã được bổ nhiệm làm phán quan, một kẻ lừa dối, bất lương, thường nhận hối lộ và hung bạo nhưng lại sợ nói ra: ‘Tôi không phải là người giữ giới’. Vì vậy, y nói:

– Tâu Ðại vương, hạ thần có giữ giới.

Khi đã ra về sau buổi triều kiến vua, một người bạn hỏi y:

– Này hiền hữu, hiền hữu có giữ giới gì hôm nay chăng?

Y đáp:

– Này hiền hữu, vì sợ hãi nên tôi đã nói thế lúc yết kiến đức vua, chứ tôi không giữ giới.

Sau đó người bạn bảo y:

– Nếu chỉ còn nửa ngày trai giới thì hôm nay bạn hãy giữ như vậy. Hãy phát nguyện giữ giới đi.

Y đồng ý, trở về nhà, rửa mặt và chuyên tâm giữ giới. Ðêm ấy y vừa về đến nhà thì mạng sống bị gián đoạn vì một cây cột đổ xuống từ ngôi nhà ọp ẹp của y trong một cơn gió mạnh.

Ngay sau khi chết, y tái sanh làm một quỷ thần trong lâu đài ở vực sâu dưới núi. Dù y chỉ giữ nửa ngày trai giới trong một đêm thôi, y vẫn được phước báo với một đoàn tùy tùng gồm mười ngàn tiên nữ hộ tống và hưởng lạc thú thần tiên, nhưng do quả báo từ các phán quyết gian dối và nói láo kia, y tự lấy tay móc thịt trên lưng mình và xé ra ăn.

Khi Tôn giả Nàrada từ đỉnh núi Linh Thứu đi xuống, thấy y, liền hỏi qua bốn vần kệ:

  1. Ngươi đội tràng hoa, miện, vòng vàng,
    Tứ chi ngươi tẩm ướt chiên-đàn,
    Trông ngươi có dáng đầy thanh thản,
    Ngươi giống mặt trời rực ánh quang.

2-3. Ðoàn thị nữ này hộ tống ngươi,
Mười ngàn tiên nữ rất xinh tươi
Ðeo vòng vỏ ốc và trang điểm
Tấm lưới vàng kia lấp lánh hoài,
Hình dáng ngươi gây niềm cảm phục,
Ngươi đầy quyền lực thật hùng oai.

  1. Tay ngươi móc thịt ở lưng ăn,
    Ác nghiệp nào do khẩu, ý, thân
    Ðã tạo? Giờ đây ngươi cấu xé
    Thịt lưng mình bởi nghiệp nào chăng?
    Quỷ này kể chuyện mình qua bốn vần kệ:
  2. Tôi hành động giữa cõi phàm trần
    Ðem tổn hại cho chính bản thân
    Bằng cách vu oan và vọng ngữ,
    Dối lừa và phỉ báng tha nhân.
  3. Tại đó, xưa tôi họp việc chung
    Ðến khi tôi phải nói chân ngôn,
    Thì tôi bài bác điều công chánh,
    Và lại quay về việc dối gian.
  4. Vậy người nào phỉ báng tha nhân
    Sẽ phải tự mình xé nát thân,
    Như chính hôm nay tôi phải chịu
    Tự mình lấy thịt ở lưng ăn.
  5. Nà-ra-da đã thấy điều này:
    Bi mẫn là người nói thẳng ngay.
    Ðứng phỉ báng, buông lời dối trá,
    E ngài sẽ xẻ thịt lưng vầy! 

10. (35) Chuyện Khinh Khi Xá Lợi (Dhàtuvivanna)

Khi đức Thế Tôn diệt độ tại Kusinara (Câu-thi-na), ở Lâm Viên Upavattana trong rừng Sàla song thọ, và sau khi việc phân chia xá lợi đã hoàn thành, vua Ajàtasattu (A-xà-thế) nhận phần của mình xong, liền làm lễ cúng dường suốt bảy năm bảy tháng bảy ngày.

Nhưng có tám vạn sáu ngàn người, vì không có lòng tin và đầy tà kiến từ lâu, đã mê lầm và có nhiều vọng tưởng điên đảo, cho nên dù đã sống trong một hoàn cảnh an lành, cũng tái sanh vào loài ngạ quỷ.

Chính trong thành Vương Xá này, có bà vợ, con gái, con dâu của một phú gia kia với tâm thành tín đem hương liệu, vòng hoa và nhiều lễ vật khác khởi hành đi đến bảo Tháp xá-lợi, bảo nhau:

– Chúng ta muốn đi cúng dường xá-lợi.

Người gia chủ phỉ báng việc cúng dường này với những lời mạ lỵ:

– Cúng dường đống xương thì có ý nghĩa gì chứ?

Song họ không quan tâm đến lời nói của kẻ ấy và ra đi. Khi từ trần họ tái sanh lên thiên giới, còn kẻ ấy tái sanh làm ngạ quỷ.

Thế rồi một hôm, Tôn giả Mahà-Kassapa vì lòng bi mẫn đứng tại khuôn viên bảo Tháp, ngâm ba vần kệ hỏi ngạ quỷ đã khinh thường xá-lợi:

  1. Ngươi đang lơ lửng giữa hư không,
    Ngươi thở mùi hôi thối nặc nồng,
    Sâu bọ đang đua nhau cấu xé
    Mặt người rách nát thối vô cùng.
  2. Ngày xưa ngươi phạm ác hành nào,
    Nay chúng cầm gươm mãi chém vào,
    Chúng rảy cường toan khắp cả mặt,
    Thân ngươi, rồi cắt mãi, vì sao?
  3. Ngươi đã làm nên ác nghiệp gì
    Do từ thân, khẩu, ý tư duy?
    Hành vi nào kiếp xưa gây tạo,
    Nay phải chịu đau khổ cực kỳ?

Ngạ quỷ đáp lại như sau:

  1. Trong thành Vương Xá thật xinh tươi,
    Cổ lũy Ða Sơn, cảnh tuyệt vời,
    Tôn giả, tôi là người đại phú
    Bạc vàng thóc lúa khắp nơi nơi.
  2. Vợ tôi, con gái, vợ con trai
    Ðem đủ sen xanh, các đóa lài,
    Cùng với dầu thơm dâng bảo Tháp,
    Tôi ngăn cản họ mãi không thôi.
    Ðó là ác nghiệp ngày xưa ấy
    Ðã được tạo ra bởi chính tôi.
  3. Tám vạn sáu ngàn bọn chúng tôi
    Chịu bao đau khổ chẳng riêng ai,
    Vì tôi khinh việc người dâng cúng
    Bảo Tháp, nay tôi chịu khổ hoài.
  4. Vậy người nào lộ vẻ hung tàn,
    Khi Thánh lễ đang được cúng dường
    Lên bảo Tháp tôn vinh xá-lợi,
    Xin Tôn giả cất tiếng khuyên can.
  5. Tôn giả nhìn kìa đám mỹ nương
    Ðeo vòng hoa đẹp khéo trang hoàng,
    Hưởng nhiều phước báo vì dâng lễ,
    Phú quý vinh hoa thật rỡ ràng.
  6. Khi các trí nhân thấy việc này
    Gây niềm cảm xúc, diệu kỳ thay,
    Họ liền sùng bái và tôn kính
    Bậc đại hiền nhân ấy chính ngài.
  7. Khi tôi rời cảnh ngộ thương đau,
    Và được làm người ở kiếp sau,
    Tôi sẽ tinh cần dâng lễ bái
    Cúng dường Tháp xá-lợi dài lâu.

Phẩm IV – Ðại Phẩm

  1. (36) Chuyện Vua Ambasakkhara (Ambasakkhara)

Trong lúc đức Thế Tôn đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên) một vị vua dòng họ Licchavi mệnh danh Ambasakkhara, là một người không mộ đạo, có tà kiến, đang trị vì ở Vesàli (Tỳ-xá-ly).

Tại đó lại có một thương nhân chánh trực đã bắc cầu bằng những thanh gỗ chiên-đàn qua một đầm lầy. Trái lại, cháu trai vị ấy đã lấy trộm hàng hóa đem đến tiệm của chú, nên bị xử hình phạt đóng thân vào cọc. Người chú bị chặt đầu và hóa thành một địa thần cỡi ngựa thuần bạch, vào nửa đêm lại đến thăm cháu đang bị đóng cọc và bảo: ‘Hãy cố sống thì hơn’.

Bấy giờ vua Ambasakkhara muốn chiếm vợ của một thần dân, liền sai người ấy đi lấy đất đỏ và hoa súng đỏ ở một hồ sen cách xa kinh thành ba do-tuần, và buộc y phải trở về trước khi trời tối nếu không sẽ bị giết. Ðồng thời vua ra lệnh đóng cổng thành trước khi trời tối. Nhờ chư thần giúp đỡ, người kia đem đất đỏ và hoa súng đỏ về kịp trước khi trời tối, nhưng gọi cổng thành không được, y phải nhờ sự làm chứng của vị quỷ thần ấy. Sau đó vua đích thân đi gặp vị quỷ thần để tìm hiểu sự việc. (Bổ sung Tập Sớ).

Các vần kệ này kể lại chuyện trên. Vần kệ đầu do các vị kết tập Kinh điển đưa vào:

  1. Kinh thành dân chúng xứ Vaj-ji,
    Tên gọi là thành Tỳ-xá-ly,
    Tại đó có vì vua ngự trị,
    Am-ba-sa, tộc Lic-cha-vi,
    Khi nhìn thấy quỷ ngoài thành ấy,
    Vua muốn biết, nên hỏi tức thì:
  2. ‘Kẻ này không có chỗ nằm ngồi,
    Cùng chẳng hề đi tới, bước lui,
    Không thức uống ăn, quần áo mặc,
    Cũng không tỳ nữ, một mình thôi.
  3. Quyến thuộc thân bằng thuở đã qua
    Có lòng thương xót nó bây giờ,
    Song không có khả năng nhìn nó,
    Họ đã bỏ rơi nó thật mà.
  4. Kẻ nào sa sút chẳng thân bằng,
    Bạn bỏ rơi khi thấy khốn cùng,
    Hễ thấy phồn vinh, vây lấy bạn,
    Người đang hưng thịnh, lắm thân nhân.
  5. Khi hưởng thụ xong hết bạc vàng,
    Gia tài chắc đã phải tan hoang,
    Thân hình vấy máu đang rời rã
    Như hạt sương treo, đến số tàn.
  6. Với người đang chịu cảnh đau thương,
    Khủng khiếp trên cây cọc gỗ mun,
    Vua hỏi: ‘Quỷ kia, sao lại nói:
    Ngươi cần phải sống, sống thì hơn?’

Quỷ thần:

  1. Người này trên cọc chính thân nhân,
    Tôi nhớ kiếp xưa ở cõi trần,
    Nên đã xót thương khi thấy nó
    Phải vào địa ngục bởi tà tâm.
  2. Lic-cha-vi chúa thượng, từ đây
    Kẻ đã tạo ra ác nghiệp này
    Vào ngục tái sanh đầy khủng khiếp,
    Nóng bừng, gay gắt, hãi kinh thay.
  3. Ngay cái cọc kia đủ mọi phần,
    Tốt hơn địa ngục biết bao lần,
    Ước mong nó chẳng sa vào ngục
    Gay gắt, kinh hoàng, thật khổ thân.
  4. Nếu kẻ ấy nghe tôi nói vầy,
    Nó đầy sầu khổ, tắt hơi ngay,
    Cho nên trước nó tôi không nói,
    E chỉ vì tôi nó bỏ thây.

Quân vương:

  1. Vụ án người này ta biết qua,
    Song ta muốn hỏi chuyện thêm mà;
    Nếu ngươi cho phép, ta xin hỏi,
    Song chớ giận hờn với chúng ta.

Quỷ thần:

  1. Việc ấy tôi xin hứa thật lời,
    Chuyện này không kể với người đời
    Không có tín tâm vào Ðạo pháp,
    Dù tôi không muốn, hãy tin tôi;
    Hỏi ngay những việc gì ngài muốn,
    Tôi sẽ đáp tùy sức đó thôi.

Quân vương:

  1. Những gì ta thấy tận mắt ta,
    Ước mong ta đủ tín tâm mà,
    Nếu không tin dẫu khi ta thấy,
    Ấy việc riêng ta, hỡi Dạ-xoa!

Quỷ thần:

  1. Tôi đã được ngài hứa thủy chung,
    Khi ngài nghe pháp hãy thành tâm,
    Ði tìm tri kiến cao hơn nữa,
    Với trí chẳng ô nhiễm, sáng trong.
    Những pháp ngài chưa nghe hoặc đã,
    Tôi đều muốn nói hết cho thông.

Quân vương:

  1. Trên ngựa trang hoàng, ngươi đến đây
    Tìm người bị đóng cọc phanh thây,
    Ðây là phong cách ngươi đi lại,
    Kỳ diệu và cao quý hiển bày.
    Do bởi nghiệp nào xưa đã tạo
    Mà nay được phước báo như vầy?

Quỷ thần:

  1. Chính giữa kinh thành Tỳ-xá-ly,
    Xuyên qua đầm ở khoảng đường đi,
    Có nơi nọ cực kỳ nguy hiểm,
    Với dạ tín thành, một bữa kia,
    Tôi lấy gỗ chiên-đàn trắng bạch
    Bắc qua chỗ ấy có nề chi.
  2. Sau đó chúng tôi đặt bước chân,
    Chúng tôi và những kẻ qua đường,
    Ðây là phương tiện rất kỳ diệu,
    Xứng đáng được chiêm ngưỡng giữa trần,
    Do chính nghiệp ngày xưa đã tạo,
    Giờ đây đem phước báo cho thân.

Quân vương:

  1. Hình dáng ngươi soi sáng mọi phương,
    Khắp nơi đều phảng phất mùi hương.
    Nhà ngươi có cả thần thông lực
    Của một Dạ-xoa lực dị thường.
    Nhưng việc gì xưa đem kết quả
    Nhà ngươi nay phải chịu trần truồng?

Quỷ thần:

  1. Luôn giữ tín tâm thoát hận sân,
    Nói lời từ tốn với tha nhân
    Việc xưa kia đã đem thành quả
    Hình dáng thần tiên mãi sáng bừng.
  2. Khi tôi lưu ý đến thanh danh
    Của những người an trú Pháp hành,
    Tôi trịnh trọng trình bày việc ấy,
    Việc xưa đem kết quả cho mình:
    Mùi hương tiên giới trên thân thể
    Liên tục thoảng đưa thật dịu lành.
  3. Khi các bạn tôi tắm bến sông,
    Tôi đem quần áo giấu quanh vùng,
    Tôi không ác ý, thích đùa giỡn,
    Nay chịu trần truồng thật khổ thân.

Quân vương:

  1. Nếu ai làm ác để đùa nhau,
    Người bảo đây là quả kiếp sau;
    Song nếu ai làm không bỡn cợt,
    Thì người bảo kết quả nào đâu?

Quỷ thần:

  1. Bất cứ ai làm ác cố tâm
    Ngôn từ, hành động quá buông lung,
    Phải vào địa ngục sâu tăm tối,
    Chắc chắn khi thân hoại mạng chung.
  2. Kẻ nào mong thế giới quang vinh,
    Tìm thích thú trong các thiện hành,
    Bố thí, bản thân luôn chế ngự,
    Mạng chung vào thế giới thanh minh.

Khi quỷ thần đã phân tích sơ lược các nghiệp quả, nhà vua không tin, bèn ngâm kệ:

  1. Tại sao ta phải tin điều này
    Là quả thiện hành, ác nghiệp đây?
    Việc đã thấy ta cần tín ngưỡng?
    Người nào thuyết phục được ta vầy?

Quỷ thần:

  1. Khi ngài đã mắt thấy tai nghe,
    Ngài hãy tin vào nghiệp quả kia,
    Nếu thiện ác đều không hiện hữu,
    Sao người hạnh phúc, kẻ ê chề?
  2. Nếu chúng sanh không tạo thiện hành,
    Và gây ác nghiệp giữa nhân sanh,
    Thì nhân quần, dẫu cao hay thấp,
    Chẳng có tai ương, hoặc phước lành.
  3. Nhưng bởi chúng sanh tạo thiện hành,
    Và gây ác nghiệp giữa nhân sanh,
    Nên nhân quần, dẫu cao hay thấp,
    Ðều gặp tai ương hoặc phước lành.
  4. Có hai loại nghiệp báo trên đời,
    Ta phải hiểu ngay: Một hạng người
    Ðược hạnh phúc, và người chịu khổ.
    Chư Thiên hưởng lạc thú trên trời,
    Song người ngu bị nhiều hành hạ
    Khi thấy quả hai mặt chín muồi.

Khi được nhà vua hỏi:

– Như vầy ngươi đã tin vào nghiệp quả, tại sao ngươi lại phải chịu cảnh khốn khổ này?

Quỷ thần đáp:

  1. Không ai làm việc thiện vì tôi,
    Hồi hướng về tôi, chẳng có người,
    Dâng cúng áo, giường, đồ ẩm thực,
    Nên tôi trần trụi, khổ trên đời!

Khi nghe quỷ thần ước muốn nhận đủ áo quần và nhiều vật dụng khác, nhà vua bảo:

  1. Quả thật giờ đây có cách nào
    Nhà ngươi được áo mặc hay sao?
    Nói cho ta biết về nguồn gốc,
    Ta sẽ nghe lời tín nhiệm mau.

Quỷ thần đáp:

  1. Có vị Tỷ-kheo ở tại đây
    Kap-pi-ta ấy chính danh này,
    Ngài chuyên Thiền định, và cao đạo,
    Giải thoát, điều thân, ứng cúng thay.
    Sống chế ngự mình bằng giới luật,
    An nhiên, đạt trí tối cao vầy.
  2. Ngài vốn nói năng thật dịu hiền,
    Ôn tồn, nhỏ nhẹ, giọng êm đềm,
    Ðón chào niềm nở đầy chân thật,
    An tịnh trú trong giới luật nghiêm,
    Xứng đáng cúng dường nhiều lễ vật
    Từ loài người đến cả chư Thiên.
  3. Thanh thản đoạn trừ lưới ác tâm,
    Chánh chân, vô ngã, lại ly tham,
    Ngài không có ước mong gì nữa,
    Chẳng có sanh y ở thế gian,
    Nên ngài giải thoát, tâm an tịnh,
    Tam minh chứng đắc thật vinh quang.
  4. Mặc dù quần chúng thấy hình ngài,
    Ngài chẳng tiếng tăm, quen biết ai;
    Dân chúng Bạt-kỳ thường vẫn gọi
    Ngài là bậc trí tuệ cao vời.
    Thiên thần biết rõ ngài ly dục,
    Người có tín tâm sống ở đời.
  5. Nếu chúa thượng dâng lễ cúng ngài
    Và đem công đức hướng về tôi,
    Một, hai bộ áo do ngài nhận
    Cũng đủ cho tôi có mặc rồi.

Quân vương:

  1. Bậc ẩn sĩ kia đang ở đâu?
    Chúng ta yết kiến ở phương nào?
    Hôm nay ngài đánh tan nghi hoặc,
    Tà kiến giăng đầy tự bấy lâu.

Quỷ thần:

  1. Ở Kap-pi-na, ngài tọa thiền,
    Ðược bao quanh bởi các thần tiên,
    Ngài đang thuyết pháp, ly sân hận,
    Chân chánh như danh tiếng đã truyền.

Quân vương:

  1. Ta đi làm việc ấy giờ đây,
    Ta sẽ dâng y ẩn sĩ này
    Khi bộ y kia ngài đã nhận,
    Thì ngươi sẽ có áo quần ngay.

Rồi cả hai cùng đi đến chỗ ấy và quỷ thần nói:

  1. Với người xuất thế, bản thân tôi
    Không yết kiến khi chẳng đúng thời.
    Chúa thượng, giờ đây không thích hợp.
    Ðúng thời, hãy viếng chỗ ngài ngồi.

Các vần kệ sau do chư vị kết tập Kinh điển ghi:

  1. Khi quỷ thần vừa nói vậy xong,
    Nhà vua được cả đám tùy tùng
    Ðưa về lại chốn kinh thành ấy,
    Tư thất của vua ở hậu cung.
  2. Từ đó, thực hành giới tại gia,
    Nhà vua tắm gội, chọn từ nhà
    Xiêm y tám bộ và đi cúng,
    Ðược đám tùy tùng hộ tống ra.
  3. Khi nhà vua đến tận nơi này,
    Thấy ẩn sĩ tâm thanh tịnh đầy
    Ðã trở về sau thời khất thực,
    An nhiên, tĩnh tọa dưới gốc cây.
  4. Ðúng lúc vua đi yết kiến ngài,
    Vấn an sức khoẻ, sống an vui;
    ‘Lic-cha-vi ấy là thân tộc,
    Tỳ-xá-ly thành, đất nước tôi,
    Tôi chính Am-ba-sa, tộc trưởng,
    Mong ngài hoan hỷ, kính thăm ngài.
  5. Tôn giả, xin ngài hãy nhận ngay
    Tám y tốt đẹp cúng dâng này,
    Ðể tôi có thể đầy an lạc,
    Vì mục đích này tôi đến đây.

Ẩn sĩ:

  1. Sa-môn ẩn sĩ, dẫu từ xa,
    Ðều phải tránh cung điện của vua,
    Nơi đó, bao nhiêu bình bát vỡ,
    Thầy tu bị xé áo cà-sa!
  2. Nhiều người khác đấm đá kinh sao,
    Như búa, Tỷ-kheo phải ngã nhào,
    Ẩn sĩ xuất gia mang tổn hại,
    Chính tay ngài đã biết là bao!

48-49. Dầu mè, đệm cỏ chẳng hề ban,
Chẳng chỉ dùm ai lạc bước đàng,
Từ một người mù, ngài lấy gậy
Ngài vừa phóng dật, lại xan tham;
Bây giờ vì lý do nào vậy,
Bằng cách nào ngài muốn phát ban?

Quân vương:

  1. Tôn giả, tôi công nhận thật ngôn,
    Tôi làm thương tổn các Sa-môn,
    Tôi mong đùa giỡn, không tà ý,
    Việc phạm lỗi xưa thật bạo tàn.
  2. Kẻ kia làm ác để bông lơn,
    Hạnh phúc nó không được vẹn toàn,
    Nó nhận khổ đau, dầu trẻ tuổi,
    Số phần nó phải chịu trần truồng,
    Còn gì khốn đốn hơn cho nó
    Chính việc này đây có phải không?
  3. Tôi thấy nó mang nặng lỗi lầm,
    Nên tôi dâng lễ vật, Tôn nhân,
    Xin ngài nhận tám y tôi cúng
    Hồi hướng về cho vị quỷ thần.

Ẩn sĩ:

  1. Bố thí, dĩ nhiên được nhận mà,
    Ước công vô lượng với nhà vua,
    Nay tôi nhận tám y ngài tặng,
    Mong lễ vật hồi hướng Dạ-xoa.
  2. Rồi vua nhấp nước tự bàn tay
    Ðể tẩy trần và dâng cúng ngay
    Tám bộ y lên ngài Trưởng lão:
    ‘Ước mong y được nhận như vầy!
    Và hãy nhìn xem thần đại lực
    Mặc nhiều quần áo thỏa lòng thay!
  3. Tức thì vua thấy chính thần nhân
    Tẩm ướt dầu tinh chất gỗ trầm,
    Hình dáng cao sang, dòng quý tộc,
    Cỡi trên lưng tuấn mã oai hùng,
    Ðiểm trang y phục huy hoàng quá,
    Ðược hộ tống và đạt lực thần.
  4. Với niềm vui sướng, dạ hân hoan,
    Khuôn mặt vui tươi, hạnh phúc tràn,
    Vì thấy nghiệp mình đem quả lớn,
    Vua vừa nhìn tận mắt hoàn toàn.
  5. Vua bước lên và nói với thần:
    ‘Từ nay ta cúng các Sa-môn,
    Ta không có vật gì không cúng,
    Ðại quỷ, ngài là bậc cứu nhân’.

Quỷ thần:

  1. Chúa thượng cho tôi hưởng phước ân
    Cúng dường đâu có phải hoài công,
    Phần tôi sẽ tạo tình bằng hữu
    Giữa một phi nhân với thế nhân.

Quân vương:

  1. Ngài là quyến thuộc lẫn thân bằng,
    Chánh đạo, nơi nương tựa, hộ thần!
    Ta khẩn cầu ngài và đảnh lễ,
    Ta mong được tái ngộ thần nhân.

Quỷ thần:

  1. Ví thử ngài làm mất tín tâm,
    Thích nhiều tà kiến, hóa xan tham,
    Và trong trạng thái tà tâm ấy
    Ngài được gặp tôi để vấn an,
    Tôi sẽ chẳng cùng ngài nói chuyện,
    Dẫu tôi thấy mặt, hỡi quân vương!
  2. Còn nếu ngài tôn trọng Pháp chân,
    Hân hoan bố thí, tự điều thân,
    Là nguồn cung cấp cho tu sĩ,
    Nếu có duyên may gặp quỷ nhân,
    Và nếu tôi đây nhìn thấy mặt,
    Thì tôi sẽ đáp lễ ân cần.
  3. Mau thả người ra khỏi cọc này,
    Vì ta thân thiết chính nhờ đây,
    Tôi đang nghĩ đến người đau khổ,
    Nay đã kết giao tại chốn này.
  4. Và nếu người này được thoát thân,
    Sẽ làm thiện nghiệp rất tinh cần,
    Ngày sau thoát ngục sâu tăm tối,
    Thiện nghiệp đều mang lại phước phần.
  5. Chúa công tham kiến Kap-pi-ta,
    Ðúng lúc cúng dường bậc xuất gia,
    Ðến trước mặt ngài, ngồi thỉnh ý,
    Và ngài sẽ nói vấn đề ra.
  6. Gặp Tỷ-kheo kia, thỉnh ý ngài,
    Tạo nhiều công đức, trí cao vời,
    Tùy theo tri kiến, ngài phân giải
    Các pháp chưa nghe giữa mọi người,
    Ngài sẽ thuyết về tất cả pháp
    Ðưa đường đến cảnh giới vui tươi.
  7. Khi vua đã nói chuyện tư riêng
    Cùng vị phi nhân, kết bạn hiền,
    Vua đến Lic-cha-vi bộ tộc,
    Nói cùng đại hội họp theo phiên:
  8. ‘Các người xin hãy lắng nghe lời,
    Ta sẽ tìm đường lối tốt thôi.
    Kẻ ác bị treo vào cọc ấy
    Bị trừng phạt nặng, khổ tơi bời.
  9. Hai mươi đêm ấy khoảng thời gian
    Nó đã bị ràng buộc tấm thân,
    Nó chẳng biết đâu là sống chết,
    Ta xin đại hội thả tù nhân!’.

Ðại hội:

  1. ‘Mau thả luôn hai kẻ ấy ngay,
    Nào ai từ chối việc như vầy?
    Xin làm những việc ngài thông hiểu,
    Ðại hội tuân theo ý chỉ này’.
  2. Nơi kia, vua vội vã ra đi,
    Phóng thích người trên cọc tức thì,
    Rồi bảo: ‘Bạn này, đừng sợ hãi’,
    Và giao cho các vị lương y.
  3. Rồi vua yết kiến Kap-pi-ta,
    Ðúng lúc cúng dường bậc xuất gia,
    Ðến trước mặt ngài, ngồi thỉnh ý
    Và tìm các lý lẽ nêu ra.

Quân vương:

  1. Kẻ ác bị treo ở cọc kia
    Chịu nhiều trừng phạt, khổ ê chề,
    Hai mươi đêm tấm thân ràng buộc,
    Nó chẳng sống còn hoặc chết đi.
  2. Bây giờ tôi đã đến buông tha
    Cứu nó theo lời quỷ Dạ-xoa,
    Xin hỏi, phải chăng còn có cách,
    Làm cho nó thoát ngục Diêm-la?
  3. Tôn giả, bảo tôi biết cách gì,
    Chúng tôi tin tưởng lắng tai nghe,
    Phải chăng không thể tiêu trừ nghiệp,
    Cho dẫu ta không hiểu chuyện kia?

Ẩn sĩ:

  1. Nếu ngày đêm nỗ lực tinh cần
    Nó thực hiện nhiều thiện nghiệp nhân,
    Nó sẽ thoát ra từ ngục tối,
    Thiện nghiệp phải đem lại phước phần.

Quân vương:

  1. Nay tôi hiểu rõ chuyện này rồi,
    Tôn giả, giờ đây thương xót tôi,
    Bậc trí dạy cho tôi Giáo pháp
    Ðể tôi khỏi đọa ngục Diêm đài.

Ẩn sĩ:

  1. Ngay tự hôm nay với tín tâm
    Ngài qui y Phật, Pháp,Tăng nhân;
    Ðồng thời, thân thực hành năm giới
    Trọn vẹn và không có lỗi lầm.

78-79. Từ nay ngài bỏ giết muôn loài,
Không lấy vật chi chẳng tặng ngài,
Không uống rượu nồng, không nói dối,
Hãy bằng lòng với vợ ngài thôi.
Trang nghiêm lãnh tám công thù thắng
Ðưa đến nhiều thành quả đẹp tươi.

  1. Với tâm thanh thản, hãy đem dâng
    Các bậc chánh chân những vật cần,
    Y phục, đồ ăn bình khất thực,
    Nơi an trú với chỗ ngồi nằm,
    Thức ăn đủ loại mềm và cứng,
    Thức uống và nơi chốn nghỉ chân.
  2. Thiết đãi Tỷ-kheo thức uống ăn,
    Những người có giới hạnh siêu quần,
    Ða văn và thoát ly tham dục,
    Công đức vẫn luôn phát triển dần.
  3. Thực hành Chánh pháp thật tinh chuyên
    Với nhiệt tình luôn ngày lẫn đêm,
    Ngài tự cứu mình từ địa ngục,
    Thiện hành mang phước báo nhân thiên.

Quân vương:

  1. Ngay tự hôm nay với tín tâm
    Tôi quy y Phật, Pháp, Tăng nhân;
    Ðồng thời, thân thực hành năm giới
    Trọn vẹn và không có lỗi lầm.

84-85. Từ nay tôi bỏ giết muôn loài,
Không lấy vật gì chẳng tặng tôi,
Không uống rượu nồng, không nói dối,
Biết bằng lòng với vợ mình thôi.
Trang nghiêm lãnh tám công thù thắng
Ðưa đến nhiều thành quả đẹp tươi.

  1. Với các vị cao đạo, Thánh Tăng,
    Thoát ly tham dục, lại đa văn,
    Dâng y, thực phẩm trong bình bát,
    Sàng tọa và nơi chốn nghỉ chân,
    Ðủ loại thức ăn mềm hoặc cứng,
    Cùng nhiều thức uống, chỗ ngồi nằm.
    Tìm trong Phật pháp niềm an lạc,
    Tôi quyết không dao động bản thân.
  2. Am-ba-sa, vị Líc-cha-vi,
    Kẻ tại gia thành Tỳ-xá-ly,
    Ðã trở nên người như vậy đó,
    Ðầy tâm thành tín, tính nhu mì,
    Nhiệt tình thực hiện nhiều công hạnh,
    Với chúng Tỷ-kheo, quyết hộ trì.
  3. Khi người trên cọc đã bình an,
    Tự nguyện, người từ giã thế gian,
    Ðến với Kap-pi-ta ẩn sĩ,
    Rồi hai người đắc quả Sa-môn.
  4. Ðây chính cách hầu cận Thánh Tăng,
    Quả nhiều cho các thiện hiền nhân,
    Người trên cọc đạt phần ưu thắng,
    Trong lúc Am-ba quả nhỏ hơn.

Sau đó Tôn giả Mahàkappitaka đi đến Sàvatthi đảnh lễ bậc Ðạo Sư và trình lên Ngài vấn đề đã được vị quỷ thần kể cho nhà vua nghe. Bậc Ðạo Sư lấy đó làm đề tài thuyết pháp cho hội chúng đang hiện diện.

  1. (37) Chuyện Serìssaka

(Chuyện này giống như Chuyện 10, Phẩm VII ở tập Chuyện Thiên Cung).

  1. (38) Chuyện Quỷ Thần Nandaka (Nandakapeta)

Khoảng hai trăm năm sau khi bậc Ðạo Sư diệt độ, có vua Pingala ngự trị Surattha (Vương quốc an lạc). Vị tướng cầm đầu quân đội nhà vua là Nandaka đầy tà kiến.

Chư vị kết tập Kinh điển kể lại chuyện những người này:

  1. Tương truyền lãnh chúa Pin-ga-la
    Ngự trị thần dân Su-rat-tha,
    Khi đã đi chầu triều Khổng tước,
    Trên đường vua trở lại quê nhà.
  2. Trong cơn nóng bức giữa ban ngày,
    Vua đến một nơi có vũng lầy,
    Nhìn thấy một con đường khả ái,
    Là nơi trú ngụ quỷ ma đầy.
  3. Vua ấy bảo ngay vị quản xa:
    ‘Con đường này khả ái cho ta,
    An toàn, yên tĩnh, đầy may mắn,
    Theo lối này đi, hỡi quản xa’.
  4. Vua xứ Su-ra tự chốn đây
    Tiến lên cùng với đội quân ngài,
    Bốn đoàn hộ tống đều đi trước,
    Hướng dẫn thần dân xứ sở này.
  5. Với dáng lo âu, một lão gia
    Nói như vầy với chúa Su-ra:
    ‘Chúng ta đi lạc đường rồi đó,
    Thật đáng hãi kinh, rợn tóc da.
  6. Mặt tiền ta thấy một con đường,
    Song phía sau không thấy hướng phương,
    Tất cả chúng ta đang lạc bước
    Ðến gần quân của Diệm-ma vương.
  7. Có một mùi ma quỷ bốc ra,
    Tiếng ồn khủng khiếp được nghe qua’.
    Su-ra lãnh chúa liền kinh hoảng
    Vội nói như vầy với quản xa:
  8. ‘Nay chúng ta đang lạc bước đường,
    Thật là lạnh gáy, đáng kinh hoàng,
    Mặt tiền thấy một con đường nọ,
    Song phía sau không thấy có hướng phương.
  9. Nay chúng ta đang lạc bước đường
    Ðến gần quân của Diệm-ma vương,
    Một mùi ma quỷ đang xông khắp,
    Khủng khiếp tai nghe một tiếng ồn!’
  10. Nhà vua đang ngự ở lưng voi
    Ngơ ngác nhìn quanh bốn hướng trời,
    Chợt thấy một cây đa rợp bóng,
    Sum suê cành lá thật xanh tươi.
  11. Cây có màu xanh xám tựa mây,
    Ðỉnh cây có sắc của sương dày,
    Nhà vua hỏi vị quan điều ngự:
    ‘Ta thấy vật chi lớn thế này,
    Như đám mây xanh màu xám ngắt,
    Ðỉnh cây có sắc tựa sương bay?’.

Quan điều ngự:

  1. Chúa công, đó chính một cây đa,
    Cành lá sum suê tỏa bóng ra,
    Cây có màu mây xanh xám ngắt,
    Ðỉnh cây có sắc tựa sương sa.
  2. Su-ra chúa tể lại lên đường,
    Về hướng cây cao lớn dị thường,
    Sắc tựa đám mây xanh xám ngắt,
    Ðỉnh cây lại có một màu sương.
  3. Nhà vua bước xuống tự lưng voi,
    Ði đến gần cây nọ một hồi,
    Cùng với quần thần và cận vệ,
    Ở ngay gốc rễ, chúa công ngồi.
  4. Vua thấy bánh và hủ nước trong,
    Một ngươi có dáng điệu Thiên thần,
    Ðiểm tô đủ loại đồ trang sức,
    Ði đến ngỏ lời với chúa công:
  5. ‘Chúa công! Hân hạnh được chào mừng,
    Chư vị đến đây thế cũng gần,
    Chúa thượng, xin mời ngài uống nước
    Và dùng bánh, hỡi vị anh hùng!’

17-18. Nhà vua cùng với đám quần thần,
Cận vệ bên mình uống nước trong,
Ăn bánh rồi vua cất tiếng hỏi:
‘Xin cho biết, có phải Thiên nhân,
Thác-bà, hạy chính là Thiên chủ
Pu-rín-dà-da ấy phải chăng?
Không biết ngài nên ta muốn hỏi,
Làm sao ta biết được tôn ông?

Quỷ thần:

  1. Tôi đây không phải một Thiên nhân,
    Chẳng phải Sak-ka, chẳng Nhạc thần,
    Tôi chính quỷ nhân, tâu chúa thượng,
    Từ Su-ra đến ở ma cung.

Quân vương:

  1. Ngày trước ngài công đức thế nào,
    Ở Su-ra xử thế ra sao,
    Ngài theo Phạm hạnh nào từ trước,
    Nay hưởng cảnh vinh hiển biết bao?

Quỷ thần:

  1. Xin hãy lắng nghe, hỡi chúa công,
    Là người khai quốc, vị anh hùng,
    Quốc sư tế lễ nghe tôi nói,
    Cùng các quân nhân, các đại thần.
  2. Chúa công, tôi đến tự Su-ra,
    Thuở trước tính tình thật xấu xa,
    Tà kiến mang đầy cùng ác ý,
    Xan tham, hay mạ ly người ta.
  3. Tôi ngăn lắm kẻ thật nhân từ
    Hành thiện sự nhiều để lợi tha,
    Tôi cản bước chân bao kẻ khác
    Sẵn lòng lấy của cải đem cho.
  4. Bảo: ‘Bố thí không tạo phước phần
    Ðâu là kết quả tự điều thân?
    Không hề có đạo sư nào cả,
    Ai sẽ phạt người không hiến dâng?
  5. Giữa các hữu tình đồng đẳng nhau,
    Tại sao kính trọng vị niên cao,
    Có đâu nỗ lực và tinh tấn,
    Nói đến tinh cần bởi cớ sao?
  6. Bố thí không mang quả phước phần,
    Cũng không trừ diệt một cừu nhân;
    Mỗi người được những gì cần có,
    Và nhận những gì phải đến thân.
  7. Chẳng có mẹ cha, huynh đệ đâu,
    Không đời này cũng chẳng đời sau,
    Cũng không bố thí, không dâng cúng,
    Không có gì bền vững được lâu.
  8. Hễ ai đánh đập một người nào,
    Hoặc có đem người khác chặt đầu,
    Cũng chẳng làm gì gây tổn hại
    Giữa muôn loài vật sống bên nhau.
  9. Mỗi mạng sống đều bất khả phân,
    Dầu hình bát giác hoặc cầu lăn,
    Nó cao đến cả năm trăm dặm,
    Ai có thể tiêu diệt nó chăng?
  10. Cũng giống cuộn dây được ném ra
    Từ người thả nó, chạy lăn xa,
    Như vầy là mạng người đang sống
    Thoát được những ai thả nó mà.
  11. Như người từ giã một ngôi làng
    Vào một làng kia, phải thấy đường,
    Cũng vậy, một con người tận số
    Bước vào thân xác mới tha phương.
  12. Như người từ giã một ngôi nhà,
    Và bước vào nơi trú ngụ kia,
    Cũng vậy, là con người tận số
    Ði vào một cảnh giới phương xa.
  13. Sau khi qua hết nẻo luân hồi
    Tám triệu bốn trăm ngàn kiếp trôi,
    Tất cả kẻ ngu cùng bậc trí
    Thảy đều chấm dứt khổ đau rồi.
    Lạc, ưu đo được bằng thùng, giỏ
    Người chiến thắng thông hiểu sự đời,
    Kẻ khác đều là phường xuẩn ngốc’,
    Tôi mang tà kiến cả đời tôi.
  14. Xưa kia tôi lầm lạc, lắm mê si,
    Tà kiến, tôi không đạo hạnh gì,
    Tôi lại xan tham, hay phỉ báng,
    Không đầy sáu tháng, sẽ ra đi.

35-36. Ðọa vào ngục hãi kinh sao,
Có bốn góc, và bốn cửa vào,
Ngục được chia phần theo kích thước,
Xung quanh bao bọc với tường rào,
Làm bằng sắt nóng và trên mái
Cũng có sắt che tận đỉnh cao.

  1. Nền sắt ánh lên lửa nóng bừng,
    Sáng ngời mọi phía trăm do-tuần,
    Trăm ngàn năm đã trôi qua mất,
    Lập tức một âm thanh chuyển rung.
    Những kẻ tà tâm và ác tính
    Ðã từng phỉ báng các chân nhân
    Bị hành địa ngục vô lượng kiếp,
    Chốn ấy sẽ đau khổ chẳng ngừng.
  2. Cho nên tôi thống thiết than van
    Kết quả ác hành kia phải mang,
    Xin lắng nghe tôi, tâu chúa thượng,
    Anh hùng khai quốc, chúc an khang!
    Nguyên tôi có một cô con gái,
    Tên gọi Ut-ta-ra thật ngoan.
  3. Nàng hành thiện sự thấy an vui
    Giữ Bát quan trai giới đúng thời,
    Nàng sống điều thân, ham bố thí,
    Nhân từ, khôn khéo lúc trao lời.
  4. Nhất mực tuân theo giáo pháp nhà,
    Nàng làm dâu quý tộc danh gia,
    Nàng là đệ tử Ngài Viên Giác,
    Bậc trí vinh quang, tộc Thích-ca.
  5. Một Tỷ-kheo cao đạo khác thường,
    Ra đi khất thực, bước vào làng,
    Mắt người cúi xuống, thân điều phục,
    Chánh niệm và phòng hộ các căn
    Trong lúc đi từng nhà khất thực,
    Dần dần người đến tận nhà nàng.
  6. Ut-ta-ra lúc ấy nhìn người,
    Chúc chúa công luôn hưởng phước trời!
    Nàng đã dâng người bình nước uống
    Cùng nhiều bánh bột, lại thưa lời:
  7. ‘Tôn giả, cha con đã mất rồi,
    Mong sao lễ mọn giúp cho người’.
    Không lâu sự việc nàng vừa thấy,
    Kết quả tức thì đến với tôi.
  8. Tôi hưởng thức ăn, lạc thú tràn,
    Khác nào Thiên đế Tỳ-sa-môn,
    Hỡi anh hùng mở mang bờ cõi,
    Xin lắng nghe đây, tấu chúa công.
  9. Phật-đà được gọi đấng siêu nhân
    Giữa các Thiên, nhân ở cõi trần,
    Hãy đến quy y vào đức Phật,
    Cùng đàn thê tử, hỡi anh hùng.
  10. Nhiều người đạt bất tử, vô sanh,
    Do chính Ðạo kia có tám ngành,
    Cùng vợ con đi tìm Giáo pháp
    Ðể quy y, hỡi bậc hùng anh!
  11. Cùng bước đi trên bốn Ðạo này,
    Trú trong bốn Quả quý cao thay,
    Chư Tăng trực hạnh và tu luyện
    Giới đức trang nghiêm, trí tuệ đầy.
  12. Hỡi bậc anh hùng, xin hãy đi
    Cùng đàn thê tử thọ Tam quy,
    Mau mau bỏ giết loài sanh vật,
    Không lấy trộm cho dẫu vật gì,
    Không uống rượu nồng, không nói dối,
    Hãy bằng lòng với vị vương phi.

Quân vương:

  1. Ngài muốn ta an lạc, Dạ-xoa,
    Ngài mong lợi ích với hoàng gia,
    Phần ta thực hiện lời ngài dạy,
    Ngài chính là sư phụ của ta.

50-51. Ta đến quy y đấng Phật-đà,
Tối cao Giáo pháp, với Tăng-già,
Ta mau bỏ hết điều sanh sát,
Không lấy vật gì chẳng tặng ta,
Không uống rượu nồng, không nói dối,
Biết bằng lòng với vợ trong nhà.

  1. Ta bỏ khoe khoang với xảo ngôn,
    Nhanh như thể đổ xuống dòng sông,
    Ta nôn ra hết bao tà kiến,
    Thích thú tuân lời dạy Thế Tôn.
  2. Nói vầy xong, chúa tể Su-ra
    Từ bỏ ngay quan điểm ác tà,
    Ðảnh lễ Thế Tôn, rồi chúa thượng
    Hướng về đông ngự giá vương xa.

Nhờ thần lực của vị quỷ nhân, nhà vua về kinh thành kịp ngày hôm ấy. Về sau, đúng thời, vua tường thuật chuyện ấy với chư Tỷ-kheo và chư vị này lại trình vấn đề với chư Trưởng lão biên soạn Giáo pháp để đưa câu chuyện vào Hội đồng kết tập Kinh tạng thứ ba. (Bổ sung từ Tập Sớ).

  1. (39) Chuyện Ngạ Quỷ Revatì

(Chuyện này giống chuyện số 2 Phẩm V của Chuyện Thiên Cung).

  1. (40) Chuyện Cây Mía (Ucchu)

Trong khi đức Thế Tôn đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm), một người đang chở mía, cầm một khúc mía, vừa đi vừa ăn. Các vần kệ này kể lại câu chuyện trên.

Một hôm, Tôn giả Mahà-Moggallàna (Ðại Mục-kiền-liên) đang đi khất thực vào Vương Xá, gặp một ngạ quỷ thưa trình như sau:

  1. Một rừng mía lớn hiện bên mình,
    Bát ngát, mùa phong phú tốt lành,
    Song nó không cho tôi chút ít,
    Kính thưa Tôn giả đại uy danh,
    Nghiệp gì gây quả này như vậy,
    Tôn giả cho tôi biết sự tình?
  2. Tôi đang thống khổ, bị hành thân,
    Tôi cố gắng tìm chút để ăn,
    Tôi phấn đấu hoài bên khóm mía,
    Sắp tàn hơi thở, chết kề gần,
    Tôi than khóc tấm thân đày đọa,
    Do nghiệp gì đem quả ấy chăng?
  3. Thất bại, tôi nhào xuống đất ngay,
    Lăn tròn trong lửa đốt thiêu này
    Như con cá nọ, tôi than khóc,
    Nước mắt nhỏ ra cả mặt mày,
    Tôn giả, xin ngài cho biết rõ,
    Nghiệp gì đem kết quả như vầy?
  4. Tôi đói khát và kiệt sức tàn,
    Kinh hoàng, tôi chẳng biết bi hoan,
    Chúc ngài hưởng phước, tôi xin hỏi,
    Làm thế nào tôi được mía ăn?

Tôn giả Moggallàna:

  1. Khi làm người ở một thời xưa,
    Ngươi đã tạo nên một nghiệp tà,
    Ta nói cho ngươi nghe việc ấy,
    Khi nghe, ngươi biết chuyện vừa qua.
  2. Ngươi bước trên đường, lấy mía ăn,
    Một Tỳ-kheo đến tự sau lưng,
    Bảo ngươi rằng muốn xin đôi chút,
    Ngươi chẳng đáp lời, chẳng hé răng.
  3. Cho dẫu ngươi không muốn nói năng,
    Người kia vẫn nói, giọng xin van:
    ‘Cho tôi khúc mía, thưa ông chủ’,
    Sau đó ngươi cho một ít phần
    Từ phía sau lưng và kết quả
    Nghiệp kia ngươi đã lãnh vào thân.
  4. Nhìn đây! Cầm mía ở sau mình,
    Hãy lấy mía ăn thật thỏa tình,
    Do chính việc này, ngươi sẽ được
    Hân hoan, thích thú, hưởng ân lành!
  5. Nó đi cầm mía tự sau mình,
    Khi đã cầm, ăn thật thỏa tình,
    Do chính cách này, nên nó được
    Hân hoan, thích thú, hưởng ân lành.

Ngạ quỷ ấy bèn cầm một bó mía cúng dường vị Trưởng lão và vị này đem dâng đức Phật ở Trúc Lâm. Ðức Thế Tôn cùng hội chúng Tỷ-kheo dùng mía ấy rồi nói lời tùy hỷ công đức.

Từ đó về sau ngạ quỷ ấy có thể ăn mía thỏa thích.

Theo thời gian, ngạ quỷ được tái sanh giữa hội chúng cõi trời Ba mươi ba.

  1. (41) Chuyện Các Vương Tử (Kumara)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Jevatana (Kỳ Viên)

Tương truyền Ðại Vương nước Kosala (Kiều-tát-la) trị vì tại Sàvatthi (Xá-vệ) có hai vương tử khả ái đang độ hoa niên. Trong nỗi đam mê dục vọng của tuổi trẻ không được kềm chế, hai vị đã phạm tội tà dâm nên sau khi từ trần hai vị tái sanh làm ngạ quỷ bị đè bẹp trong một ống cống.

Suốt đêm, ngạ quỷ thường than khóc với những tiếng kêu la khủng khiếp. Dân chúng nghe vậy rất kinh hãi.

Do sự việc này, dân chúng cúng dường đại lễ lên Giáo hội do đức Phật cầm đầu và bảo nhau:

– Ðiềm xấu này phải chấm dứt.

Sau đó họ trình lên đức Thế Tôn những việc đang xảy ra. Ngài bảo:

– Này chư đệ tử, chư vị không thể chấm dứt tiếng kêu la này được đâu.

Rồi Ngài nói rõ nguyên nhân sự việc này cho hội chúng qua các vần kệ sau:

  1. Có một kinh thành tên Xá-vệ,
    Ở trên sườn núi Tuyết, cao sơn,
    Tôi nghe vầy: Có đôi vương tử
    Là các con trai bậc đế vương.
  2. Phóng dật buông lung các dục tham,
    Tìm nguồn lạc thú ở trần gian,
    Chúng không suy xét tương lai chúng,
    Tận hưởng thú vui hiện tại tràn.
  3. Khi chúng bỏ thân xác thế nhân
    Ði sang thế giới khác người trần,
    Dù không ai thấy, thường kêu khóc
    Về ác nghiệp xưa chúng đã làm
  4. ‘Quả thật nhiều người đáng cúng dâng
    Với nhiều lễ vật’, chúng than van,
    ‘Xưa ta chẳng tạo nên công đức
    Ðem đến cho mình chỗ trú an’.
  5. ‘Ác nghiệp nào đời trước tạo ra,
    Do vầy từ giã chốn hoàng gia,
    Tái sanh vào cõi loài ma đói,
    Chịu đói khát giày xéo chúng ta?
  6. Những kẻ làm vua cõi thế nhân
    Sẽ không làm chúa tể âm cung,
    Sang, hèn, hai loại đều quanh quẩn
    Bị đói khát hành hạ khổ thân.
  7. Biết rằng đau khổ có nguồn căn
    Vua chúa buông lung phóng dật tâm,
    Nam tử bỏ vương quyền ngã mạn,
    Do vầy, thành một vị Thiên nhân,
    Sau khi xả báo thân phàm tục,
    Bậc trí tái sanh cõi sáng bừng’.

Như vậy, bậc Ðạo Sư kể lại số phận của các ngạ quỷ xong, liền hồi hướng về chúng công đức do đám người này cúng dường lễ vật và thuyết pháp theo ý Ngài.

  1. (42) Chuyện Vợ Vương Tử (Ràjaputta)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Jevatana (Kỳ Viên).

Thuở xưa có một nam tử của vua mệnh danh là Kitava làm tổn thương một vị Ðộc Giác Phật. Chàng phải đọa vào địa ngục nhiều ngàn năm, và chính vì lỗi lầm kia, chàng bị tái sanh vào loài ngạ quỷ. Chuyện của chàng đã được kể đầy đủ chi tiết trong sự tích các ngạ quỷ ở Sànuvàsi (Số 27, phẩm III)

Bấy giờ trong khi kể cho một vị Trưởng lão nghe số phận đám quyến thuộc quá vãng của ngạ quỷ kia, bậc Ðạo Sư bảo:

– Quả thật không phải chỉ quyến thuộc của ông, mà cả ông nữa, lúc trở thành ngạ quỷ trong đời trước, sau khi từ giã thế giới này, cũng đã chịu nỗi thống khổ khốc liệt.

Rồi do lời thỉnh cầu của vị Trưởng lão, Ngài kể chuyện này:

  1. Quả do các nghiệp tạo ngày xưa
    Có thể làm dao động trí ta
    Liên hệ sắc, thanh, hương, vị, xúc,
    Những gì đem lạc thú say sưa.
  2. Ông hoàng đã hưởng thú cao sang,
    Ðàn địch, ái ân thật ngập tràn,
    Sau lúc nhàn du quanh thượng uyển,
    Chàng đi vào cổ lũy Ða Sơn.
  3. Chốn kia chàng thấy Su-net-ta,
    Thanh tịnh, điều thân, một Phật gia,
    Thiểu dục, khiêm cung và biết đủ
    Với bình khất thực kiếm từng nhà.
  4. Hoàng nam bước xuống tự lưng voi,
    Và đến Hiền nhân ấy, thốt lời:
    ‘Tôn giả, xin chào!’ rồi lập tức
    Chàng cầm bình bát ném lên trời.
  5. Ném vỡ chiếc bình xuống đất kia,
    Vừa cười vừa nói lúc đi xa:
    ‘Ta là vương tử Ki-ta chúa,
    Ðạo sĩ có làm ích lợi ta?’
  6. Quả báo cho hành động bất nhân
    Thật là khắc nghiệt, khổ muôn phần,
    Tương truyền vương tử về sau đó
    Phải đọa vào trong ngục tối tăm.
  7. Hơn năm mươi vạn năm đày thân
    Trong ngục tối đau khổ tận cùng
    Vì tội lỗi mà chàng đã tạo,
    Bị nhiều hình phạt đến xoay vần.
  8. Chàng cứ nằm, đưa mặt xuống sàn
    Xoay quanh phải, trái, biết bao lần,
    Ðôi chân chổng ngược lên cao mãi;
    Rồi đứng thẳng, người ngốc khổ thân.

9-10. Qua mấy ngàn năm, mấy vạn năm,
Bị hành địa ngục khổ vô ngần,
Chính vì tội lỗi chàng gây tạo,
Quả khắc nghiệt kia phải lãnh phần
Bởi những người đưa tay phá hại
Bậc Hiến trí giải thoát mê lầm.

  1. Sau khi đã trải biết bao năm
    Trong ngục khổ đau thật hãi hùng,
    Chàng phải mạng chung vì đói khát,
    Trở thành một ngạ quỷ mình trần.
  2. Như vầy, khi thấy cảnh đau thương
    Do vị vua buông thả kỷ cương,
    Ta chẳng làm vua buông thả nữa,
    Mà nên hướng đến tính khiêm nhường.
  3. Ngay cả trong đời sống hiện thời,
    Người tôn trọng Phật đáng khen hoài,
    Có đầy trí tuệ, khi thân hoại,
    Ðược tái sanh vào cõi sáng tươi. 

8. (43) Chuyện Những Ngạ Quỷ Ăn Phân (Gùthakhàdaka)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên).

Tương truyền trong một thị trấn nọ không xa Sàvatthi, có một gia chủ ra lệnh xây một tinh xá cúng dường vị Tỷ-kheo vốn là bạn thân của mình. Về sau nhiều Tỷ-kheo từ khắp nơi đến cư trú tại đó.

Khi thấy chư Tăng, dân chúng liền cung cấp đủ mọi thứ cần dùng. Bấy giờ vị Tỷ-kheo thân tín của chủ nhà không chịu được cảnh này và lòng đầy ganh tỵ (như các vần kệ kể lại).

Về sau Tôn giả Mahà-Moggallàna thấy vị ấy và hỏi:

  1. Ngươi chính là ai, khốn khổ thân,
    Ðứng kia, vừa đến tự hầm phân,
    Nói cho ta biết hành vi ác
    Ngươi đã làm trong quá khứ chăng?

Ngạ quỷ:

  1. Tôn giả, tôi là ngạ quỷ nhân,
    Thần dân khốn khổ Dạ-ma quân,
    Vì tôi đã phạm hành vi ác,
    Từ cõi đời, tôi đến cõi âm.

Trưởng lão:

  1. Thời xưa đã phạm ác hành gì
    Do khẩu, ý, thân đã thực thi?
    Vì nghiệp quả nào ngươi đã tạo
    Giờ ngươi phải chịu cảnh sầu bi?

Ngạ quỷ:

  1. Nhà tôi thường trú một Tỳ-kheo,
    Tật đố và ganh tỵ đủ điều,
    Ở tại nhà tôi, ham dục lạc,
    Vị này phỉ báng, xan tham nhiều.
  2. Tôi đã nghe lời của ác nhân,
    Và tôi khiển trách các Sa-môn;
    Bởi vì tôi phạm hành vi ấy,
    Từ cõi đời, tôi đến cõi âm.

Trưởng lão:

  1. Bạn thiết của ngươi chính kẻ thù
    Giả danh bạn đấy, hỡi người ngu,
    Ðến khi thân hoại, đi nơi khác,
    Số phận nào cho kẻ giả tu?

Ngạ quỷ:

  1. Nay tôi đang đứng ở trên đầu
    Của phạm nhân này tự bấy lâu,
    Nó đã đọa vào miền ngạ quỷ,
    Chỉ mình tôi, nó phải theo hầu
  2. Vật nào người khác trút cho vơi
    Liền trở thành đồ ăn của tôi,
    Và nó, đến phiên mình, kiếm sống
    Những gì tôi tống khứ ra ngoài!

Tôn giả Mahà-Moggallàna tường thuật sự việc này lên đức Thế Tôn, Ngài liền giải thích ý nghĩa của nó và nêu rõ mối nguy hiểm của sự chỉ trích người khác.

  1. (44) Chuyện Thứ Hai Về Các Ngạ Quỷ Ăn Phân (Gùthakhàdaka)

Trong lúc đang trú tại Jetavana, bậc Ðạo Sư kể chuyện này giống như chuyện trên. Ở đây, một nữ cư sĩ xây tinh xá và bị tái sanh làm nữ ngạ quỷ.

Các vần kệ đều giống nhau.

  1. (45) Chuyện Bầy Ngạ Quỷ (Ganapeta)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana.

Tương truyền tại Sàvatthi, có một đám người không mộ đạo, không có lòng tin và có tật xan tham, keo kiệt. Họ thường thờ ơ đối với những ý tưởng họ đã chấp nhận cùng nhiều vấn đề khác trong cuộc đời.

Sau khi đã sống một thời gian dài, họ từ trần và tái sanh làm ngạ quỷ gần kinh thành. Rồi một hôm, Tôn giả Mahà-Moggallàna đi đến Sàvatthi để khất thực, Tôn giả thấy bầy ngạ quỷ trên đường, bèn hỏi chúng:

  1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
    Hốc hác, khắp thân thể nổi gân,
    Gầy guộc, các xương sườn lộ rõ,
    Vậy là ai đó, các tôn ông?

Bầy ngạ quỷ:

  1. Tôn giả, chúng con chính quỷ nhân,
    Thần dân khốn khổ Dạ-ma quân,
    Chúng con đã phạm hành vi ác,
    Từ cõi đời, đi đến cõi âm.

Trưởng lão:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hành gì
    Do khẩu, ý, thân đã thực thi?
    Vì nghiệp quả nào nên đã đọa
    Từ đây tới cảnh giới âm ty?

Bầy ngạ quỷ:

  1. Cả bọn đi quanh bến tắm công,
    Lang thang suốt cả nửa tuần trăng;
    Chúng con chẳng tạo nơi an trú
    Bằng cách đem tài vật cúng dâng.
  2. Chúng con kinh hãi đến dòng sông,
    Sông nước trở thành bãi trống không;
    Ngày nắng chúng con vào bóng mát,
    Tàn cây lại hóa nóng bừng bừng.
  3. Cơn gió như thiêu đốt, lửa hồng
    Thổi ào lên khắp cả toàn thân,
    Chúng con xứng đáng nhiều đau khổ
    Hơn thế này, Tôn giả biết chăng?
  4. Ðói khát mong cầu thức uống ăn,
    Chúng con đi cả mấy do-tuần,
    Trở về không được gì đâu cả,
    Cơ khổ! Chúng con ít phước phần.
  5. Ðói lả và bất tỉnh ngã lăn
    Chúng con gục xuống đất khô cằn,
    Tấm thân sóng sượt nằm co quắp,
    Ðầu ngã lộn nhào xuống dưới chân.
  6. Do vậy chúng con phải ngã liền
    Xuống nền đất lạnh khổ triền miên;
    Chúng con đấm ngực và đầu tóc,
    Cơ khổ! Chúng con ít phước duyên.
  7. Tôn giả, chúng con xứng lãnh phần
    Khổ đau này nữa thật nhiều lần.
    Chúng con chẳng tạo nơi an trú
    Cho chính mình bằng cách cúng dâng.
  8. Quả thật, khi từ biệt cõi này,
    Tái sanh nhân thế kiếp sau đây,
    Chúng con nguyện hết lòng hào phóng,
    Tu tập giới, hành thiện sự ngay.

Vị Trưởng lão trình đức Thế Tôn toàn thể sự việc này.

  1. (46) Chuyện Ngạ Quỷ Thành Pàtaliputta (Pàtaliputtapeta)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Jetavana.

Tương truyền một số đông thương nhân từ Sàvatthi và Pàtaliputta đi thuyền đến Suvannabhumì (Xứ vàng). Ở đó có một người trong bọn họ là một đệ tử tại gia luyến ái một nữ nhân, mắc bệnh và từ trần.

Mặc dù vị ấy đã làm nhiều thiện sự, vị ấy vẫn không được sanh lên thiên giới; nhưng vì luyến ái người yêu, vị ấy tái sanh làm một quỷ thần trong lâu đài giữa đại dương. Ở đấy quỷ thần vẫn giữ tình yêu đối với nữ nhân kia.

Riêng phần nàng đã lên thuyền du hành đến Xứ vàng ấy. Bấy giờ vị quỷ thần muốn chiếm nàng, liền chận đường đi của chiếc thuyền. Lúc ấy các thương nhân suy nghĩ trong trí: ‘Này, thế nào đây? Thuyền không đi được nữa!’.

Vì thế họ rút thăm để quyết định số phận mỗi người. Do thần lực, chiếc thăm rớt xuống ba lần trên không ai khác hơn nữ nhân mà quỷ thần đang mong ước.

Chẳng bao lâu sau khi nàng bị thả xuống biển thì chiếc thuyền nhanh chóng tiến lên về hướng Xứ vàng kia. Thế rồi vị phi nhân đem nàng vào lâu đài của mình và hưởng hạnh phúc bên nàng.

Một năm sau, nàng sinh ra bất mãn và cầu xin vị quỷ thần:

– Bao lâu em còn sống ở đây, em sẽ không thể tìm được các cảnh giới khác. Xin tôn ông đưa em về thành Pàtaliputta.

Ðáp lời khẩn cầu này, quỷ thần bảo:

  1. Nàng đã thấy bao địa ngục rồi,
    Các miền súc vật, quỷ và người,
    A-tu-la với Thiên thần nữa,
    Nàng đã nhận ra nghiệp chín muồi,
    Ta sẽ đưa nàng về phố cũ
    Bình an, hành thiện sự trên đời.

Nàng hoan hỷ đáp lại:

  1. Chàng muốn em an lạc, Dạ-xoa,
    Chàng mong em lợi ích sâu xa,
    Em xin thực hiện lời chàng dạy,
    Chàng đối với em chính đạo sư,
    Em đã thấy bao miền địa ngục,
    Các miền súc vật, quỷ, người ta,
    A-tu-la với Thiên thần nữa,
    Em đã nhìn xem nghiệp báo mà.
    Em nguyện thi hành nhiều thiện sự
    Ngay khi vừa đến chốn quê nhà.

Sau đó vị quỷ thần đem nàng ấy cùng du hành qua không gian; rồi đặt nàng xuống ngay giữa thành Pàtaliputta, và đi về đường cũ. Lập tức thân bằng quyến thuộc của nàng cùng nhiều người khác trông thấy nàng, họ vô cùng hân hoan và nhận xét:

– Chúng ta nghe trước kia nàng đã bị thả xuống biển cả và chết rồi. Thật phước đức quá! Không ngờ nàng được trở về bình an!

Vì thế họ hỏi nàng về mọi chuyện phiêu lưu mạo hiểm kia. Nàng liền kể cho họ nghe tất cả.

Khi trở về, các thương nhân ấy đến Sàvatthi trình sự việc lên bậc Ðạo Sư.

  1. (47) Chuyện Các Trái Xoài (Amba)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Sàvatthi.

Ở Sàvatthi có một gia chủ đã khánh kiệt tài sản. Khi vợ từ trần, vị ấy để con gái duy nhất lại cho một người bạn, rồi vay một số tiền, mua hàng hóa lên đến một trăm đồng Kahàpana và đi buôn bán theo một đoàn lữ hành.

Chẳng bao lâu vị ấy trở lại kinh thành và kiếm thêm năm trăm đồng nữa. Sau đó vị ấy đi về nhà nhưng liền bị bọn cướp tấn công. Các thương nhân chạy trốn đây đó, còn gia chủ này ném các đồng tiền vào bụi cây rồi ẩn mình.

Tuy nhiên bọn đạo tặc kia tìm ra vị ấy và giết đi. Do lòng tham luyến của cải, vị ấy tái sanh làm một ngạ quỷ ngay tại chỗ kia.

Cô con gái nhớ đến người cha quá cố liền cúng cháo gạo trong một cái bình bằng đồng và một số trái xoài dâng đức Thế Tôn, thỉnh cầu Ngài nhận lễ vật như thể do cha nàng cúng vậy. Từ đó ngạ quỷ kia hưởng thọ một lâu đài mỹ lệ.

Về sau, đám thương nhân ấy lại du hành và dừng chân ban đêm ngay đúng chỗ kia, trông thấy vị quỷ thần liền hỏi:

  1. Hồ sen ngài có diệu kỳ thay,
    Bến nước làm ta phải đắm say
    Bờ thật phẳng lì, nhiều nước mát,
    Trang hoàng hoa đủ loại như vầy,
    Một bầy ong điểm tô đây đó,
    Sao ngài được cảnh mỹ hồ này?
  2. Ðây ngài lại có một vườn xoài
    Tuyệt mỹ và sinh quả mọi thời,
    Vườn được trang hoàng hoa nở rộ,
    Bầy ong điểm xuyết khắp nơi nơi,
    Làm sao ngài được lâu đài ấy
    Xin nói cho ta biết hỡi ngài?

Quỷ thần:

  1. Con gái ta làm lễ cúng dâng
    Cháo hoa, xoài chín, nước trong ngần,
    Chính vì việc ấy nên ta được
    Hưởng bóng cây êm mát tuyệt trần.

Sau đó vị quỷ thần đưa cho họ năm trăm đồng tiền Kahàpana ấy và bảo:

– Hãy lấy một nửa số tiền đây và sau khi giải thích phần tiền kiếm được này của tôi, hãy giao nó cho con gái tôi rồi dặn: ‘Hãy sống cho đầy đủ sung sướng’.

Ðúng thời, đám thương nhân trở lại Sàvatthi, kể chuyện này với cô gái ấy, rồi đặt vào tay nàng đầy đủ số tiền mà cha nàng đã cho nàng. Nàng bèn đưa số tiền ấy giao cha nuôi. Nhưng ông trả lại hết cho nàng và bảo:

– Số tiền này không thuộc về ai cả trừ con.

Rồi ông cưới nàng về làm vợ người con trai trưởng của ông. Theo thời gian, nàng sinh được một trai và nàng thường hát ru con với bài ca này:

  1. Nhìn phước báo ngay ở cõi trần
    Do dâng lễ vật, tự điều thân.
    Xưa ta tỳ nữ nhà danh giá,
    Nay được làm dâu, nữ chủ nhân.

Rồi một hôm, bậc Ðạo Sư nhận xét nàng đã thuần thục trong tri thức, liền phóng một hình ảnh đầy đủ hào quang ngay trước mặt nàng và xuất hiện toàn thân.

Vào dịp này, Ngài ngâm vần kệ:

  1. Các bậc chánh chân thường nhiếp phục
    Những điều bất lạc bằng hân hoan,
    Những điều thù oán bằng từ ái,
    Nhiếp phục khổ đau với lạc an. 

13. (48) Chuyện Trục Xe và Cây Gỗ (Akkharukkha)

Trong khi bậc Ðạo Sư đang trú tại Sàvatthi, một đệ tử tại gia chất đầy hàng hóa lên xe và đi Videha (Vi-đề-ha) để buôn bán.

Khi đã đặt hàng xuống đó, vị ấy chất đầy đoàn xe số hàng hóa mới đem về và lên đường trở lại Sàvatthi.

Trong khi đang đi giữa rừng, cái trục của một chiếc xe bị gãy. Bấy giờ có một người đang muốn tìm cây gỗ, liền đem rìu lớn, rìu nhỏ đi ra khỏi làng. Khi đang đi quanh trong rừng, kẻ ấy đến nơi kia và thấy vị đệ tử tại gia đang buồn khổ vì trục xe bị gãy. Y thấy thương xót người này, liền đi đẵn cây xuống, và sau khi làm xong một trục xe vững chắc, y ráp cái trục vào xe ấy mà không lấy từ kẻ kia tiền phí tổn gì cả.

Nhưng về sau, y từ trần và tái sanh ngay chỗ này trong khi rừng làm một địa thần.

Khi suy xét hạnh nghiệp của mình, vị địa thần đến nhà người đệ tử tại gia ấy vào ban đêm, đứng ngay cửa lớn và ngâm kệ này:

Vật gì mà kẻ ấy đem cho,
Không chỉ trở thành như vật xưa,
Vậy hãy cứ phân chia tặng vật,
Nhờ đem cho, kẻ ấy đi qua
Cả hai thế giới, và do đó
Kẻ ấy đi lên. Hãy tiến tu!

Khi trở lại Sàvatthi,vị thương nhân trình chuyện này lên bậc Ðạo Sư.

  1. (49) Chuyện Thu Góp Tài Sản (Bhogasamharana)

Trong lúc đức Thế Tôn đang trú tại Trúc Lâm, bốn nữ nhân tại Vương Xá dùng nhiều phương tiện gian dối buôn bán sữa lạc, mật ong, dầu mè, ngũ cốc và nhiều thực phẩm khác.

Suốt đời họ chỉ lo thu góp của cải một cách ngu si, và vì vậy sau khi chết, họ tái sanh làm bầy nữ ngạ quỷ trong ống cống ngoại thành.

Ban đêm bầy ngạ quỷ chịu mọi thống khổ ngập tràn, thường đi quanh quẩn vừa thét lên những tiếng khủng khiếp vang dậy, vừa than khóc:

  1. Ta đã góp thu lắm bạc vàng
    Công bằng cùng với chẳng công bằng
    Khi người khác hưởng bao tài vật,
    Phần chúng ta nay thật thảm thương.

Khi dân chúng nghe chuyện này, họ vô cùng kinh hoảng và sáng hôm sau liền đem nhiều lễ vật cúng dường đến hầu cận đức Thế Tôn rồi trình lên Ngài những tiếng hét kia. Ngài lại ngâm vần kệ của bầy ngạ quỷ và kể chuyện chúng đã sống đời trước ra sao.

  1. (50) Chuyện Các Nam Tử Của Nhà Triệu Phú (Setthiputta)

Bấy giờ đức Thế Tôn đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên) ở Sàvatthi (Xá-vệ).

Thời ấy, một hôm Ðại vương Pasenadi (Ba-tư-nặc) của nước Kosala (Kiều-tát-la) phục sức lộng lẫy ngự trên mình voi với vẻ oai nghi đầy quyền lực. Nhà vua thấy trên thượng lầu của một nhà kia có một nữ nhân đang nhìn xuống, trông diễm lệ như một Thiên nữ.

Lòng nhà vua đâm ra mê mẩn vì trí nhà vua vốn buông lung khó kiềm chế được. Vì thế nhà vua ra hiệu cho một người ngồi kế sau mình. Và mọi việc được thực hiện giống như trong Chuyện Ngạ Quỷ Ambasakkhara, nhưng có điểm khác biệt này.

Ở đây, người đàn ông ấy thực ra đã đến nơi trước khi hoàng hôn, nhưng cổng thành đã đóng. Vì thế, y buộc vào cột trụ của cổng thành gói đất đỏ và bó sen xanh mà y đã mang về và đi vào Kỳ Viên.

Bấy giờ trong lúc đang an giấc, giữa canh khuya, nhà vua nghe bốn vần này: ‘Sa, na, du và so’ được thét vang một cách đau đớn.

Tương truyền đây là bốn vần đầu của bốn câu kệ do bốn con trai một vị triệu phú thành Xá-vệ thốt ra. Vào thời hoa niên họ đã tham đắm dục lạc và đi với vợ nhiều người khác, tạo nên điều thất đức. Khi từ trần, họ tái sanh vào Ðịa ngục Chảo sắt gần kinh thành ấy.

Nhà vua vô cùng kinh hãi, và rạng ngày hôm sau liền kể cho vị tế sư nghe sự việc đã xảy ra. Vị ấy đang mong kiếm một số lợi nhuận, bèn thưa:

– Tâu Ðại vương, than ôi, một đại họa xảy ra. Xin Ðại vương cử hành tế lễ đầy đủ bốn phần.

Nhà vua truyền lệnh thi hành việc này.

Khi hoàng hậu Mallikà (Mạt-lợi) nghe chuyện, liền thưa với nhà vua:

– Tâu Ðại vương, tại sao vì nghe lời của một Bà-la-môn, Ðại vương lại muốn làm một việc gây tổn thương và sát hại nhiều sanh vật như vậy? Nay Ðại vương nên tham kiến đức Thế Tôn là bậc Minh Hạnh vô song và khi Ngài giải thích ra sao thì Ðại vương phải làm theo như vậy.

Sau đó vị Ðại vương đến tham kiến bậc Ðạo Sư và trình Ngài sự việc trên. Ðức Thế Tôn bảo:

– Thưa Ðại vương, Ðại vương sẽ không gặp nguy hiểm nào vì việc ấy cả.

Rồi Ngài kể chuyện ngay từ đầu về tiếng thét của những người tái sanh vào địa ngục Lohakumbhi (Chảo sắt). Sau đó Ngài đọc cho nhà vua nghe đầy đủ các vần kệ mà chúng đã bắt đầu thốt ra:

1-2. Với người trong ngục bị hành thân
Suốt cả thời gian sáu vạn năm,
Việc ấy khi nào thì chấm dứt?
– Sẽ không chấm dứt. Chẳng sau cùng.
Bao giờ chấm dứt? – Không nhìn thấy,
Quả bạn và ta phạm lỗi lầm.

  1. Chúng ta đang phải sống đau thương
    Vì chúng ta không biết cúng dường
    Những vật cần cho khi có sẵn,
    Ta không tạo chỗ trú an toàn.
  2. Quả thật khi từ biệt chốn đây
    Ðược làm người ở cõi đời này,
    Ta nguyền hào phóng, chuyên trì giới,
    Ta quyết làm nhiều thiện sự ngay.

Khi bậc Ðạo Sư ngâm các vần kệ xong, Ngài thuyết pháp đầy đủ chi tiết. Lúc kết thúc bài giảng, người đàn ông đã đi tìm đất đỏ và hoa sen ấy được an trú vào Sơ quả Dự Lưu. Còn nhà vua, lòng đầy xúc động, liền bỏ tham đắm vợ người khác và hài lòng với vợ của mình.

  1. (51) Chuyện Sáu Vạn Cái Búa (Satthikùtasahassa)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Trúc Lâm.

Ngày xưa trong thành Ba-la-nại, có một người què giỏi nghề ném đá. Chuyện này là Chuyện Tiền Thân Sàlittaka số 107, phần chính được kể qua các vần kệ.

Thế rồi một hôm Tôn giả Mahà-Moggallàna đang đi xuống từ núi Linh Thứu, Tôn giả nhìn thấy ngạ quỷ này và hỏi:

  1. Tại sao ngươi cứ chạy xoay vần
    Như chú nai đi lạc phát cuồng,
    Chắc chắn ngày xưa gây ác nghiệp
    Ngươi nghĩ thế nào việc ấy chăng?

Ngạ quỷ đáp:

  1. Tôn giả, con là ngạ quỷ nhân,
    Thần dân khốn khổ Dạ-ma quân,
    Vì con đã phạm hành vi ác,
    Con đến cõi ma đói ẩn thân.
  2. Sáu mươi ngàn chiếc búa vừa tròn
    Bổ xuống đầu con, chẻ sọ con.

Trưởng lão hỏi tiếp:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hành gì
    Do khẩu, ý, thân đã thực thi,
    Vì nghiệp quả nào ngươi đã tạo,
    Từ đời này đến cõi âm ty?
  2. Sáu mươi ngàn chiếc búa liên hồi
    Bổ xuống đầu ngươi, chẻ sọ ngươi!

Ngạ quỷ:

  1. Ngày xưa con thấy Su-net-ta,
    Hoàn thiện các căn, một Phật gia,
    Vừa đến gốc cây ngồi tĩnh tọa,
    An nhiên thiền định, chẳng âu lo.
  2. Con ném ngài bằng cục đá vôi
    Làm tan vỡ cả chiếc đầu ngài,
    Vì hành vi ấy ngày xưa phạm,
    Con phải chịu đau khổ thật dài.
  3. Sáu mươi ngàn chiếc búa vừa tròn
    Bổ xuống đầu con, chẻ sọ con.

Khi nghe vầy, vị Trưởng lão giải thích:

  1. Vì Chánh pháp, này hỡi ác nhân,
    Sáu mươi ngàn chiếc búa xoay vần
    Giờ đây đánh xuống đầu ngươi mãi,
    Chẻ nát đầu ngươi sáu vạn lần.

Lịch sự kiện trong tháng

Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5 Thứ 6 thứ 7 Chủ nhật
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31

Tủ sách Bảo Anh Lạc

Thư viện

Pháp âm