Home Page by K2 Home Page by JSN PageBuilder

Kinh Tiểu Bộ – Khuddaka Nikàya

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tập 9 – Trưởng Lão Ni Kệ

-ooOoo-

Mục Lục

Phẩm 1 – Tập Một Kệ Phẩm 9 – Tập Chín Kệ
Phẩm 2 – Tập Hai Kệ Phẩm 10 – Tập Mười Kệ
Phẩm 3 – Tập Ba Kệ Phẩm 11 – Tập Mười Hai Kệ
Phẩm 4 – Tập Bốn Kệ Phẩm 12 – Tập Mười Sáu Kệ
Phẩm 5 – Tập Năm Kệ Phẩm 13 – Tập Hai Mươi Kệ
Phẩm 6 – Tập Sáu Kệ Phẩm 14 – Tập Ba Mươi Kệ
Phẩm 7 – Tập Bảy Kệ Phẩm 15 – Tập Bốn Mươi Kệ
Phẩm 8 – Tập Tám Kệ Phẩm 16 – Ðại Phẩm

***

Giới thiệu Trưởng Lão Tăng Kệ & Trưởng Lão Ni Kệ

Trưởng Lão Tăng Kệ là quyển thứ tám của Tiểu Bộ Kinh, một tập hợp 264 tích truyện trong dạng các câu kệ do các vị tỳ kheo đệ tử của Ðức Phật thuật lại về cuộc đời, công phu tu tập và tinh tấn  hành trì của quý Ngài trên đường đưa đến đạo quả A-la-hán. Trong khi đó, Trưởng Lão Ni Kệ là quyển thứ chín, gồm 73 tích truyện về cuộc đời các vị tỳ kheo ni đệ tử A-la-hán của Ðức Phật.

Qua hai quyển kinh nầy, chúng ta biết được các nỗ lực tu tập, đấu tranh nội tâm, thanh lọc tâm ý để đưa đến giác ngộ giải thoát. Cuộc đời tu hành của quý vị Tăng Ni như đã ghi lại trong hai quyển kinh là những tấm gương sáng ngời để chúng ta cùng suy gẫm và noi theo trên con đường hành đạo của mỗi người con Phật chúng ta.

Ngoài ra, các câu chuyện và vần kệ trong quyển Trưởng Lão Ni Kệ cũng là một chứng minh hùng hồn, cho thấy con đường của chư Phật mở rộng cho mọi người, không phân biệt nam hay nữ. Tấm gương dũng cảm quyết tâm tu tập để đắc đạo quả cao thượng của các vị tỳ kheo ni tiền phong trong Ni Ðoàn của Ðức Phật là một nguồn cảm hứng cho tất cả mọi người con Phật trong hơn hai ngàn năm trăm năm qua – nam cũng như nữ, già lẫn trẻ, người tại gia cũng như xuất gia. Ðạo quả A-la-hán, đạo quả giác ngộ toàn bích, mở rộng cho tất cả những ai tận lực tu học, giữ gìn giới hạnh, thanh lọc tâm ý, khai phát tuệ minh, như các vị đại đệ tử tỳ kheo và tỳ kheo ni đó.

Tỳ kheo Ariyasilo
(Bình Anson lược dịch, tháng 01-2001)

Phẩm I

-ooOoo-

Tập Một Kệ

(I) Bài Kệ Này Do Một Trưởng Lão Ni Không Biết Tên Nói Lên (Therì. 123)

  1. Hãy ngủ trong an lạc
    Hỡi nàng thân đẫy đà,
    Ðắp phủ trong tấm y,
    Chính mình tự làm lấy,
    Lòng tham, nàng lắng dịu,
    Như ghè khô trong lò!

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh trong một gia đình ở Vesàli (Tỳ-xá-ly). Vì thân hình đẫy đà, nàng được gọi là nàng đẫy đà. Nàng trở thành người vợ trung thành của một người quý tộc. Khi bậc Ðạo Sư đến Vesàli, nàng tin tưởng giáo pháp của đức Phật và trở thành một nữ cư sĩ. Khi nàng nghe Trưởng lão Ni Mahàpajàpati thuyết pháp, nàng muốn xuất gia và thưa với chồng ý nguyện của nàng. Người chồng không cho, nên nàng tiếp tục làm tròn bổn phận của nàng, suy tư đến những lời dạy dịu dàng của giáo pháp và chú tâm đến thiền quán. Rồi một ngày kia, trong khi đang ở trong bếp và nấu món ăn, một ngọn lửa mạnh bừng cháy và thiêu tất cả món ăn với những tiếng cháy xèo xèo, nàng lấy đó làm đề tài để thiền quán về tánh vô thường của sự vật, và chứng được quả Bất Lai. Rồi nàng không đeo các đồ trang sức nữa. Người chồng hỏi duyên cớ, nàng trả lời nàng không thể sống trong gia đình được nữa. Người chồng đưa nàng đến Trưởng lão Ni Mahàpajàpàti Gotami, và bằng lòng để nàng xuất gia. Mahàpajàpàti làm lễ xuất gia cho nàng và đưa nàng đến yết kiến đức Phật. Bậc Ðạo Sư giải thích về đề tài thiền quán của nàng và nói lên bài kệ này.

Khi nàng chứng quả A-la-hán, nàng lập lại bài kệ này và bài kệ trở thành bài kệ của nàng.

(II) Muttà (Therì. 123)

(Bài kệ này Thế Tôn thường nói lên để khích lệ Muttà khi nàng còn đang học tập).

  1. Hỡi này, giải thoát Ni
    Hãy giải thoát các ách,
    Như mặt trăng thoát khỏi,
    Miệng hàm của Ràhu,
    Với tâm tư giải thoát,
    Khỏi nợ nần trói buộc,
    Hãy thọ hưởng món ăn,
    Do khất thực đem lại.

Ðây là bài kệ của giới học nữ Muttà. Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh làm con gái của một Bà-la-môn, có danh vọng ỏ Sàvatthi. Ðến năm hai mươi tuổi, các điều kiện chín muồi, nàng xuất gia dưới sự hướng dẫn của Mahàpajàpati Gotami, và học tập thiền quán. Một hôm, sau khi khất thực, sau khi làm các phận sự đối với các Trưởng lão Ni xong, nàng tìm một chỗ thanh vắng để ngồi thiền, tập trung tư tưởng vào nội tâm. Rồi bậc Ðạo Sư, ngồi trong hương phòng ở tinh xá phóng ra hào quang, xuất hiện trước mặt nàng và nói lên bài kệ trên. Còn nàng, vững tin với lời giáo giới ấy, không bao lâu chứng được quả A-la-hán và khi chứng quả nói lên lại bài kệ này. Sau khi tu hành thành đạt, được đề nghị lên những hàng giáo phẩm, nàng vẫn đọc bài kệ này, khi sắp sửa mệnh chung.

(III) Punnà (Therì. 123)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh làm con một gia đình trưởng giả ở Sàvatthi và tên là Punnà. Khi nàng đến hai mươi tuổi và nghiệp duyên thành thục, nàng nghe Mahàpajàpati thuyết pháp và xuất gia. Khi trở thành một giới học nữ, nàng bắt đầu thiền quán, và bậc Ðạo Sư từ nơi hương phòng của Ngài phóng hào quang và nói lên bài kệ này:

  1. Hỡi này, thành Mãn ni,
    Hãy tràn đầy Chánh pháp,
    Như mặt trăng tròn đầy,
    Trong ngày rằm trăng tròn,
    Hãy tràn đầy trí tuệ,
    Phá tan khối si ám.

Sau khi nghe bài kệ này, thiền quán được tăng trưởng và nàng chứng quả A-la-hán. Bài kệ này nói lên lòng phấn khởi và xác chứng chánh trí của nàng.

(IV) Tissà (Therì. 123)

Bài kệ sau này là của Tissà, một giới học nữ trải qua nhiều đức Phật, nàng tích lũy các công đức, và trong đời đức Phật hiện tại, nàng được tái sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) trong gia đình quý tộc Thích-ca, được tuyển vào nội cung của vị Bồ-tát. Nàng cùng với Mahàpajàpati xuất gia và tu tập thiền quán. Bậc Ðạo Sư hiện ra trước nàng và nói lên bài kệ:

  1. Tissà hãy học tập,
    Học trong những học pháp,
    Chớ để cho các ách,
    Vượt khỏi chi phối nàng.
    Hãy sống không liên hệ,
    Mọi ách không trói buộc,
    Sống giữa thế giới này,
    Không có các lậu hoặc.

Và nàng nghe bài kệ này, được tăng trưởng thiền quán và chứng quả A-la-hán. Sau đó nàng thường đọc lên bài kệ này.

(V) Một Tissà Khác (Therì. 123)

  1. Tissà, hãy cột tâm
    Tập trung trên các pháp,
    Chớ để từng sát-na
    Uổng phí vượt khỏi nàng!
    Những sát-na đã qua
    Họ sầu muộn, đau khổ,
    Khi họ bị rơi vào
    Trong cảnh giới địa ngục.

(VI) Dhìra (Therì. 124)

  1. Dhìra, hãy cảm xúc,
    Những cảm chứng đoạn diệt,
    Tịnh chỉ các vọng tưởng,
    Là chân chánh an lạc,
    Hãy thuận hướng Niết-bàn,
    Ách an ổn, vô thường.

(VII) Một Dhìra Khác (Therì. 124)

  1. Dhìra, hãy kiên trì,
    Nắm giữ các thiện pháp,
    Hỡi này Tỷ-kheo-ni,
    Các căn được tu tập,
    Hãy mang cái thân này,
    Là cái thân cuối cùng,
    Sau khi đã chiến thắng,
    Ác ma nữ quân lực,
    Sau khi đã chiến thắng,
    Ác ma với quân lực.

(VIII) Mittà (Therì. 124)

  1. Hỡi này Mittà bạn!
    Với lòng tin xuất gia,
    Hãy tu tập rèn luyện,
    Hân hoan trong bạn lành,
    Hãy tu tập rèn luyện,
    Trong các pháp hiếu thiện,
    Cố gắng đạt cho được,
    An ổn khỏi ách nạn.

(IX) Bhadhà (Therì. 124)

  1. Hỡi Bhàdha hiền thiện,
    Với lòng tin xuất gia,
    Hãy sống vui hoan hỷ,
    Trong các pháp hiền thiện,
    Hãy tu tập rèn luyện,
    Trong các pháp chí thiện,
    Cố gắng đạt cho được,
    An ổn khỏi ách nạn.

(X) Upasanà (Therì. 124)

  1. Hỡi Upasanà
    Hãy vượt dòng nước mạnh,
    Dòng nước khó vượt qua,
    Bị thần chết chi phối,
    Hãy mang cái thân này,
    Là cái thân cuối cùng,
    Sau khi đã chiến thắng,
    Ác ma với quân lực.

Sáu Tỷ-kheo-ni này, câu chuyện giống như Tissà (VI) trừ Dhirà, được gọi là một Dhirà khác. Nàng không được bài kệ nào đọc cho nàng, nhưng nàng cảm thấy dao động khi được nghe lời Phật dạy. Dựa trên những lời này nàng tinh tấn thiền nhất quán, và khi nàng chứng được quả A-la-hán, nàng nói lên sự sung sướng của nàng. Các Tỷ-kheo-ni khác cũng có thái độ tương tự.

(XI) Muttà (Therì. 123)

Nhờ tích lũy các thiện nghiệp dưới thời các đức Phật khác, Muttà được sinh ở Kosalà, con gái của một Bà-la-môn nghèo tên là Oghàtaka. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng phải làm vợ một người Bà-la-môn còm, nhưng nàng thưa với chồng rằng nàng không thể sống trong gia đình và được chồng bằng lòng cho nàng xuất gia. Trong khi thiền quán, tâm tư vẫn chạy theo các đối tượng ở ngoài. Do vậy, nàng kiên trì tự chế ngự và đọc lên bài kệ của nàng. Nàng tinh tấn thiền quán cho đến khi nàng chứng được quả A-la-hán. Rồi hân hoan nàng lập lại bài kệ:

  1. Lành thay giải thoát Ni,
    Ta thật khéo giải thoát,
    Giải thoát ra khỏi được,
    Ba vật còm và cong,
    Thoát cối xay, cái chày,
    Thoát ông chồng lưng còm,
    Hỡi này giải thoát Ni!
    Ta thoát được sống chết,
    Những gì dẫn tái sanh,
    Ðược nhổ lên tận gốc.

(XII) Dhammadinnà (Therì. 124)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh trong một gia đình ở Ràjagaha (Vương Xá) và trở thành vợ của Visàkha, một người có địa vị trong xã hội. Một ngày kia, chồng nàng đi nghe đức Phật thuyết pháp, chứng được quả Bất lai. Khi Visàkha về, Dhammadinnà đưa tay ra đỡ chồng lên gác, nhưng người chồng không nắm tay và không nói với nàng trong bữa ăn chiều. Nàng hỏi chồng duyên cớ, người chồng nói không phải vì lỗi gì của nàng, nhưng nay vì đã hiểu được Chánh pháp nên không còn những cử chỉ như trước nữa. Người chồng trả quyền tự do cho nàng, một là ở lại gia đình người chồng, hai là lấy tiền bạc rồi về lại gia đình cha mẹ, nhưng nàng không chịu, và xin được xuất gia.Visàkha đưa nàng đến các Tỷ-kheo-ni trong một chiếc kiệu vàng. Ðược cho phép xuất gia, nàng xin sống nhập thất, không muốn sống chung đụng ồn ào và đi đến một tinh xá ở làng. Tại đấy, nhờ những thiện nghiệp quá khứ, nàng chế ngự thân, miệng, ý, chứng được quả A-la-hán, với Tứ vô ngại giải: Nghĩa vô ngại giải, pháp vô ngại giải, từ vô ngại giải, biện tài vô ngại giải. Rồi nàng đi về Ràjagaha (Vương Xá), với các Tỷ-kheo-ni. Visàkha chồng cũ của nàng đến hỏi pháp, nàng như đã được diễn tả trong kinh Tiểu Vedalla (M.i. 299), nàng trả lời rất rõ ràng đúng đắn các câu hỏi của Visàkha và được đức Phật tán thán. Nàng trở thành thuyết pháp đệ nhất trong hàng các Tỷ-kheo-ni. Chính trong khi nàng ở lại một tinh xá ở làng và nàng nói lên bài kệ này:

  1. Trong ai, lòng ước muốn,
    Ðạt được quả vô sanh,
    Ðược sanh khởi tỏa rộng,
    Ðầy tràn cả tâm ý,
    Tâm không bị trói buộc,
    Trong các dục chi phối,
    Vị ấy được tên gọi
    Là bậc vào dòng trên.

(XIII) Visàkhà (Therì. 124)

Câu chuyện của Visàkhà cũng giống như câu chuyện của Dhìra. Sau khi chứng quả A-la-hán, nàng suy tư trên lạc giải thoát và nói lên chánh trí nàng đã chứng được, để khuyến khích đồng bạn tu hành.

  1. Hãy làm, hãy thực hành
    Ðúng theo lời Phật dạy.
    Và sau khi làm xong,
    Không có lòng ăn năn,
    Hãy gấp rửa chân sạch,
    Và ngồi xuống một bên.

(XIV) Sumànà (Therì. 124)

Câu chuyện của nàng giống như chuyện của Tissà phóng hào quang, đức Phật hiện ra ngồi trước mặt nàng và nói lên bài kệ này:

  1. Sau khi thấy các giới,
    Với cái nhìn đau khổ,
    Chớ có đi trở lại,
    Vào con đường tái sanh,
    Hãy từ bỏ, xả ly
    Lòng dục trong sanh hữu,
    Sống đời sống hành trì,
    Ta mát lạnh tịch tịnh.

(XV) Uttarà (Therì. 125)

Câu chuyện của Uttarà cũng giống như câu chuyện của Tissà (IV). Và khi nàng chứng quả A-la-hán, nàng nói lên bài kệ này:

  1. Ta đã chế ngự được,
    Thân miệng và tâm tư,
    Ta chinh phục khát ái,
    Cho đến tận gốc rễ,
    Ta sống được mát lạnh,
    Trong tịch tịnh, an lặng.

(XVI) Sumànà Xuất Gia Khi Tuổi Già (Therì. 125)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Sàvatthi làm chị của vua Kosala. Sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, bắt đầu với bốn chữ: ‘Có bốn loại trẻ tuổi không nên khinh thường…’ (S. I, 68), nàng khởi lên lòng tin, thọ tam quy và ngũ giới.Vì mắc hầu hạ bà ngoại, nàng không xuất gia được. Sau khi bà ngoại mất, nàng cùng đi với vua tới tịnh xá, đem theo nhiều màn, nhiều vải cúng dường giáo hội. Nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, nàng chứng được quả Bất hoàn và xin được xuất gia và Thế Tôn thấy được sự trưởng thành trong trí tuệ của nàng nên nói lên bài kệ này:

  1. Hỡi này, lão Ni kia,
    Hãy an lạc nằm nghỉ,
    Ðắp phủ trong tấm y,
    Chính tự mình làm lấy,
    Lòng tham người an tịnh,
    Người mát lạnh tịch tịnh.

Khi đức Phật nói xong, nàng chứng được quả A-la-hán, với thấu triệt pháp, thấu triệt nghĩa. Trong sự sung sướng nội tâm, nàng lập lại những câu kệ này và chúng trở thành lời tuyên bố chánh trí của nàng. Rồi nàng được xuất gia ngay.

(XVII) Dhammà (Therì. 125)

Sau khi chất chứa công đức trong nhiều đời, nàng được sanh trong một gia đình quyền quý dưới thời đức Phật hiện tại. Sau khi lấy chồng, nàng được cảm hóa theo đạo Phật, xin xuất gia nhưng người chồng không bằng lòng. Nàng chờ cho khi chồng mất, mới xuất gia. Một hôm, sau khi khất thực, trên con đường về tinh xá, nàng mất thăng bằng bị ngã. Dùng sự kiện ấy để thiền quán, nàng chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Trong sự vui sướng, nàng nói lên bài kệ;

  1. Sau khi khất thực xong,
    Yếu sức, chống trên gậy,
    Với chân tay run rẩy,
    Ta ngã trên mặt đất,
    Thấy nguy hiểm của thân,
    Tâm ta được giải thoát.

(XVIII) Sanjhà (Therì. 125)

Ðời nàng giống như đời của Tỷ-kheo-ni Dhìra, nhưng bài kệ của nàng như sau:

  1. Bỏ gia đình, xuất gia,
    Ta từ bỏ con cái,
    Từ bỏ gia súc quý,
    Từ bỏ tham và sân,
    Còn đối với vô minh,
    Ta sống hạnh viễn ly,
    Sau khi chinh phục được,
    Tận gốc cả tham ái,
    Ta được sống mát lạnh,
    Tịch tịnh và an lặng.

Phẩm Hai

-ooOoo-

Tập Hai Kệ

(XIX) Abhirùpa Nandà (Therì. 125)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Kapilavatthu, con gái vợ chính của vua Khemaka, dòng họ Thích-ca (Sakya), tên là Nandà. Vì nàng rất đẹp nên được tên là Abhirùpa Nandà (Nandà đẹp). Ngày nàng lựa Carabhùta làm chồng, thời Carabhùta mệnh chung và cha mẹ cưỡng bức nàng xuất gia. Sau khi đã xuất gia, nàng vẫn tự kiêu với sắc đẹp của nàng, và sợ bậc Ðạo Sư quở trách, nàng lẫn tránh Ngài. Thế Tôn biết được hạnh nàng đã thuần thục nên bảo Mahàpajàpati quy tụ mọi Tỷ-kheo-ni lại để Ngài dạy bảo, nàng nhờ người khác đi thế. Ðức Phật không chấp nhận nên nàng phải đến dự. Ðức Phật hóa sanh một nữ nhân rất đẹp, nhưng dần dần bị già nua, yếu hèn và nàng bị xúc động mạnh. Rồi đức Phật nói với nàng những bài kệ như sau:

  1. Này Nandà, hãy nhìn,
    Tấm thân chỗ quy tụ,
    Nhiều bệnh hoạn, bất tịnh,
    Ðầy hôi hám thối nát,
    Tâm nàng hãy tu tập,
    Quán tri tánh bất tịnh,
    Ðạt cho được nhất tâm,
    Tâm tư khéo thiền định.
  2. Hãy tu tập vô tướng,
    Hãy bỏ mạn tùy miên,
    Do thắng tri được mạn,
    Nàng sẽ sống an tịnh.

Khi Thế Tôn nói xong, nàng chứng quả A-la-hán. Nói lại cho nàng những bài kệ này, nàng xem các bài kệ là lời tuyên bố chánh trí của nàng.

(XX) Jentì (hay Jentà) (Therì. 125)

Câu chuyện về đời sống quá khứ, về hiện tại của nàng giống như câu chuyện của Nandà đẹp. Nhưng nàng sanh ở Vesàli, tại một gia đình hoàng tộc Licchavi. Nàng chứng quả A-la-hán khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp. Và khi suy nghĩ đến sự biến đổi, trên tự thân, nàng sung sướng nói lên bài kệ này:

  1. Chính Bảy giác chi này
    Là đường đạt Niết-bàn,
    Tất cả, ta tu tập,
    Như lời đức Phật dạy.
  2. Ta thấy được Thế Tôn,
    Ðây thân tụ cuối cùng
    Vòng sanh tử đoạn tận,
    Nay không còn tái sanh.

(XXI) Mẹ Của Sumangala (Therì. 126)

Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh vào một gia đình nghèo và được gả lấy một người đan mây làm chồng. Nàng sanh được một người con trai tên Sumangala, sau trở thành bậc Trưởng lão và chứng quả A-la-hán. Nàng không được biết tên và được gọi là một Trưởng lão Ni không có tên hay mẹ của Sumangala. Nàng trở thành một Tỷ-kheo-ni và một hôm nghĩ đến sự đau khổ khi còn là cư sĩ, nàng cảm thấy xúc động và với thiền quán phát triển, nàng chứng quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ, nàng nói lên bài kệ như sau:

  1. Hỡi thiện giải thoát Ni,
    Lành thay khéo giải thoát,
    Ta được khéo giải thoát,
    Khỏi cái chày giã gạo,
    Ta không còn xấu hổ,
    Với ông chồng đan dù,
    Với soong chảo nấu ăn,
    Với nghèo đói tồi tàn.
  2. Chặt đứt được tham sân,
    Ta sống không tham sân,
    Ta đi đến gốc cây,
    Ôi, an lạc ta thiền.

(XXII) Addhakasi (Therì. 126)

Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở xứ Kàsi con của một công dân giàu có và có danh tiếng. Nhưng vì ảnh hưởng của khẩu nghiệp của đời trước nàng trở thành một kỹ nữ. Về sau nàng xuất gia và được làm lễ xuất gia với một vị đại diện đặc biệt được ghi trong tập Cùla vagga (Tiểu phẩm)

Nàng muốn đi đến Sàvatthi để được xuất gia nhưng bị dân làng ăn chơi ở Benerees chận đường không cho nàng đi. Nàng cho người đến hỏi ý kiến Thế Tôn và Thế Tôn cho phép nàng được xuất gia với một vị đại diện đặc biệt. Rồi nàng nhứt tâm quán tưởng và không bao lâu chứng quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Rồi nàng nói lên bài kệ như sau:

  1. Tiền lạc thú của ta,
    Không thua thuế Kàsi,
    Sau khi so sánh giá,
    Thôn trưởng định giá vậy.
  2. Nay ta lại nhàm chán,
    Chính sắc đẹp của ta,
    Ta chán ngấy sắc ấy,
    Ta không còn luyến tiếc.
    Ta chớ có liên tục,
    Chạy theo vòng luân hồi,
    Ba minh ta chứng được,
    Thành tựu lời Phật dạy.

(XXIII) Città (Therì. 126)

Nàng được sanh vào một gia đình ưu tú ở Ràjagaha (Vương Xá), khi đến tuổi trưởng thành, nàng nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp ở cửa thành Ràjagaha, trở thành một tín nữ và được Mahàpajàpati cho xuất gia. Sau khi nàng về già, trong khi leo núi Linh Thứu, với thiền quán được phát triển, nàng chứng quả A-la-hán. Suy nghĩ đến kết quả này, nàng nói lên bài kệ:

  1. Dầu ta có mỏi mệt,
    Bệnh hoạn quá yếu đuối,
    Dựa trên gậy ta đi,
    Ta leo lên đỉnh núi.
  2. Với đại y vắt ngang,
    Với bình bát lộn ngược,
    Ta dựa mình tảng đá,
    Phá tan khối si ám.

(XXIV) Mettikà (Therì. 126)

Nàng được sanh làm con một gia đình quyền quý Bà-la-môn ở Ràjagaha. Ðời nàng cũng giống như đời của Città chỉ khác là nàng leo một ngọn núi khác, đối diện với núi Linh Thứu. Suy tư trên quả chứng của mình, nàng nói lên bài kệ:

  1. Dầu ta có đau đớn,
    Sức yếu, tuổi trẻ qua,
    Dựa trên gậy, ta đi,
    Ta leo lên đỉnh núi.
  2. Với đại y vắt ngang,
    Với bình bát lộn ngược,
    Ta ngồi trên tảng đá,
    Tâm ta được giải thoát.
    Ba minh chứng đạt được,
    Thành tựu lời Phật dạy.

(XXV) Mittà (Therì. 127)

Nàng được sinh ra trong gia đình công chúa Sakya (Thích-ca) ở Kapilavatthu, từ bỏ gia đình xuất gia cùng với Mahàpajàpati, rồi sau những năm tháng tu hành cần mẫn, nàng chứng được quả A-la-hán nghĩ đến thành quả của mình, nàng vui vẻ nói lên những bài kệ này:

  1. Ngày mười bốn, ngày rằm,
    Ngày mồng tám giữa tháng,
    Ngày thần túc nguyệt phần,
    Ta thọ trì tám giới.
  2. Ta gìn giữ trai giới,
    Khiến chư Thiên hoan hỷ,
    Mỗi ngày ăn một bữa,
    Cạo đầu đắp đại y,
    Ta đâu muốn thiên giới,
    Ta nhiếp phục tâm khổ.

(XXVI) Mẹ Của Abhayà (Therì. 127)

Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh là một hoa khôi ở Ujjenì, tên là Badumavati. Vua Bimbisàra ở Magadha nghe tiếng và muốn gặp nàng. Với sự giúp đỡ của vị giáo sĩ của vua, vua được gặp nàng và nàng có thai với vua. Vua bảo khi nào nó lớn thì đưa vào cung. Nàng sinh được một đứa con trai, đặt tên là Abhaya (Vô Úy). Khi được bảy tuổi, nàng gửi con trai đến vua Bimbisàra và vua thương yêu nó và nuôi dưỡng nó với các người con khác của vua. Sau này đứa trẻ lớn lên tin theo đạo Phật, xuất gia, như đã được tường trình trong Trưởng lão Tăng Kệ. Về sau, mẹ của Abhaya nghe Abhaya thuyết pháp, cũng xin xuất gia và sau một thời gian tu hành, chứng được quả A-la-hán, với pháp tín thọ, với nghĩa tín thọ. Nàng nhớ lại những câu kệ do con nàng giảng cho nàng và thêm vào những bài kệ của chính nàng:

  1. Hỡi thân mẫu thân yêu!
    Từ bàn chân trở lên,
    Từ đầu tóc trở xuống,
    Hãy quán sát thân này,
    Thân này thật bất tịnh,
    Thật hôi hám thối tha.
  2. Ta an trú như vậy,
    Mọi tham dục nhổ sạch,
    Nhiệt não được đoạn trừ,
    Ta mát lạnh, tịch tịnh.

(XXVII) Abhaya (Therì. 127)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Ujenni, tại một gia đình quyền quý và trở thành bạn thân với mẹ của Abhaya. Khi nghe mẹ của Abhaya xuất gia, Abhaya vì thương mẹ của nàng nên cùng xuất gia theo. Cùng ở tại Ràjagaha (Vương Xá), một hôm nàng đi đến một khu vườn để quán bất tịnh. Bậc Ðạo Sư tại hương phòng, Ngài hiện cho nàng thấy đối tượng nàng muốn thiền quán. Thấy hình ảnh ấy, nàng hốt hoảng. Bậc Ðạo Sư phóng hào quang hiện ra như ngồi trước mặt nàng và nói lên bài kệ:

  1. Hỡi này vô úy Ni!
    Thân này thật mỏng manh,
    Chính ở đây phàm phu,
    Ưa thích, thường tham đắm.
    Ta sẽ bỏ thân này,
    Tỉnh giác và chánh niệm
    Chú tâm không phóng dật,
    Ta gắng thoát pháp khổ,
    Ái diệt, ta chứng đạt,
    Thành tựu lời Phật dạy.

Khi bậc Ðạo Sư nói xong, nàng chứng quả A-la-hán, hoan hỷ, nàng hướng các bài kệ về nội tâm như là những bài kệ nói lên cho mình.

(XXVIII) Sàmà (Therì. 127)

Do làm các thiện sự trong các đời trước, trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Kosambi, trong một gia đình có danh vọng. Khi Samàvati, bạn thân của nàng chết, vì quá đau khổ, nàng xuất gia. Nhưng vì không nhiếp phục được đau khổ đối với bạn của nàng, nàng không nắm được con đường Thánh đạo. Một thời, khi ngồi nghe Tôn giả Ananda thuyết pháp, nàng chứng được Pháp nhãn và bảy ngày sau nàng chứng quả A-la-hán, với pháp tín thọ, với nghĩa tín thọ.

Suy tư đến quả chứng của mình, nàng nói lên những bài kệ này:

  1. Bốn lần và năm lần,
    Ta ra khỏi tinh xá,
    Nhưng tâm không an tịnh,
    Không nhiếp phục được tâm.
  2. Nhưng đến đêm mồng tám,
    Ái được ta nhổ sạch
    Chú tâm không phóng dật,
    Ta gắng thoát pháp khổ,
    Ái diệt, ta chứng đạt,
    Thành tựu lời Phật dạy.

Phẩm Ba

-ooOoo-

Tập Ba Kệ

(XXIX) Một Sàmà Khác (Therì. 127)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh trong một gia đình quý tộc ở Kosambi, nàng cũng trở thành người bạn của Sàmàvati, khi Sàmàvati chết đi, vì quá đau khổ, nàng xuất gia. Trong hai mươi lăm năm nàng không nhiếp phục được tâm nàng, cho đến khi trở về già, nàng nghe được một bài thuyết pháp, tu tập thiền quán, chứng quả A-la-hán với nghĩa tín thọ, pháp tín thọ. Suy tư đến quả chứng này, nàng nói lên bài kệ:

  1. Ðã được hăm lăm năm,
    Từ khi ta xuất gia.
  2. Ta không thắng tri tâm,
    Không được tâm thăng bằng,
    Tâm không được an tịnh,
    Không nhiếp phục được tâm
    Do vậy ta dao động,
    Nhớ đến lời Phật dạy.
  3. Chú tâm không phóng dật
    Ta gắng thoát pháp khổ,
    Ái diệt, ta chứng đạt,
    Thành tựu lời Phật dạy
    Hôm nay đêm mồng bảy,
    Khái ái được khô cạn.

(XXX) Uttama (Therì. 128)

Sau nhiều đời làm việc lành, nàng được sanh trong nhà một triệu phú ở Sàvatthi, trong thời đức Phật hiện tại. Khi nàng lớn tuổi, nàng nghe Patàcàrà thuyết pháp và xin xuất gia. Nhưng nàng chưa chứng được quả vị thiền quán. Patàcàrà biết được tâm trạng của nàng, nên thuyết giảng cho nàng và nhờ vậy nàng chứng quả A-la-hán với nghĩa tín thọ, pháp tín thọ. Suy tư trên quả chứng, nàng nói lên sự sung sướng của nàng.

  1. Bốn lần và năm lần,
    Ta ra khỏi tinh xá.
    Nhưng tâm không an tịnh,
    Không nhiếp phục được tâm.
  2. Ta đến Tỷ-kheo -ni,
    Với ta đồng tín nữ,
    Nàng thuyết pháp cho ta,
    Với uẩn, xứ và giới.
  3. Nghe xong pháp nàng thuyết,
    Như nàng đã dạy ta,
    Bảy ngày ngồi kiết-già,
    Ta thọ hưởng hỷ lạc,
    Mồng tám ta duỗi chân,
    Phá tan khối si ám.

Bài kệ trở thành lời tuyên bố về chánh trí của nàng.

(XXXI) Một Uttarà Khác

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh vào gia đình Bà-la-môn có danh tiếng ở Kosala. Ðến tuổi trưởng thành khi đang đi ở làng quê, nàng nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, nàng xuất gia, chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Suy tư trên quả chứng, nàng nói lên bài kệ:

  1. Bảy pháp giác chi này,
    Con đường đạt Niết-bàn,
    Tất cả ta tu tập,
    Như lời đức Phật dạy.
  2. Do quán không vô tướng
    Ta đạt quả mong muốn,
    Ta thành con gái Phật,
    Sanh ra từ miệng Ngài,
    Luôn luôn ta hoan hỷ.
  3. Trong an lạc Niết-bàn,
    Mọi dục được đoạn diệt,
    Dục trời và dục người,
    Vòng sanh hữu đoạn tận,
    Nay không còn tái sanh.

(XXXII) Dantikà

Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi trong gia đình vị giáo sĩ nhà vua. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng trở thành tín nữ ở Jetavana (Kỳ Viên) và về sau xuất gia, dưới sự chỉ đạo của Mahàpajàpati. Một thời khi đang ở Ràjagaha (Vương Xá), nàng leo lên núi Linh Thứu; và sau buổi ăn, khi đang còn ngồi nghỉ, nàng thấy một người nài điều khiển một con voi; và nhờ vậy nàng chứng quả A-la-hán; với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Về sau, vô cùng hân hoan với quả chứng của mình, nàng nói lên bài kệ như sau:

  1. Ra khỏi ngôi tinh xá,
    Ðể nghỉ trưa ban ngày,
    Trên đỉnh núi Linh Thứu,
    Ta thấy một con voi,
    Dầm nước xong đi lên,
    Trên bờ một con sông.
  2. Một người cầm cái móc,
    Yêu cầu đưa chân lên,
    Con voi duỗi chân ra,
    Và người leo lên voi.
  3. Thấy kẻ chưa nhiếp phục,
    Ði đến được nhiếp phục,
    Ta thấy nó vâng chịu,
    Theo quyền lực của người.
    Như vậy, ta định tâm,
    Ði vào trong rừng ấy.

(XXXIII) Ubirì

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình khá giả quyền quí. Nàng rất đẹp và sanh được người con gái rất đẹp, đặt tên là Jivà. Vua thấy đứa con gái rất lấy làm hài lòng và đưa nàng lên làm hoàng hậu. Nhưng rồi đứa con gái Jivà bị chết, và bà mẹ ngày nào cũng đi đến nghĩa địa để than khóc. Một hôm nàng đi đến yết kiến bậc Ðạo Sư, nhưng rồi nàng đi ra bên sông Aciravàti và đứng than khóc. Bậc Ðạo Sư thấy vậy liền đến với nàng và hỏi:

– Tại sao nàng khóc?

Nàng đáp:

– Bạch Thế Tôn, con khóc đứa con gái của con.

Thế Tôn nói:

– Tại nghĩa địa này có đến tám vạn bốn ngàn con gái của nàng bị thiêu. Vậy nàng khóc than cho ai!.

Rồi chỉ cho nàng thấy chỗ đất các người bị chết, Thế Tôn nói lên bài kệ:

  1. Hỡi nàng Ubirì,
    Nàng khóc trong rừng sâu,
    Khóc than ôi Jivà,
    Con gái thân của tôi,
    Hãy tự mình hồi tỉnh,
    Hỡi này Ubirì!
    Trong bãi đốt thân này
    Tất cả tám vạn tư,
    Người đồng tên Jivà
    Nàng khóc Jivà nào?

Nàng suy tư với trí tuệ, trên pháp bậc Ðạo Sư dạy. Nhờ thiền quán tác động, nhưng lời dạy tốt đẹp của bậc Ðạo Sư, và với tự mình đạt được những điều kiện cần thiết nàng chứng được quả cao nhất, cho đến quả A-la-hán, và trình bày quả vị tối thượng nàng đạt được, nàng nói lên nửa bài kệ sau:

  1. Mũi tên khó nhìn thấy,
    Ðâm dính nơi tâm ta,
    Chắc chắn đã được Ngài,
    Nhổ lên khỏi tâm ta,
    Sầu muộn vì con gái,
    Ðã được chấm dứt hẳn.
  2. Nay mũi tên được nhổ,
    Mọi ham muốn lắng dịu,
    Ta đi đến quy y
    Bậc Mâu-ni ẩn sĩ,
    Quy y Ba ngôi báu
    Phật, Pháp và chúng Tăng.

(XXXIV) Sukkà (Therì. 129)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh vào một gia đình quyền quí ở Ràjagaha (Vương Xá) và được đặt tên là Sukkà (Sáng Suốt). Khi đến tuổi trưởng thành, nàng phát tâm tin Phật ở trong gia đình của nàng và trở thành một tín nữ. Về sau nàng được nghe Dhammadinnà thuyết pháp và quá cảm xúc bởi bài thuyết pháp, nàng xuất gia với Dhammadinnà. Sau khi tu thiền quán, nàng chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ.

Ðược năm trăm Tỷ-kheo-ni đoanh vây, nàng trở thành một vị thuyết pháp giỏi. Một ngày kia, sau khi đi vào Vương Xá khất thực, ăn xong, toàn thể Ni chúng trở về tinh xá của Tỷ-kheo-ni. Tại đấy Sukkà thuyết pháp cho toàn thể Ni chúng, thuyết hay cho đến nỗi các Tỷ-kheo-ni như cảm thấy được nhận từ nàng, những đường mật ngọt ngào, thấm nhuần với nước bất tử. Tất cả đều ngồi nghe, hoàn toàn im lặng nhiệt tâm tín thành. Rồi một vị thần cây, đứng ở cuối sân nghe pháp, quá xúc động bởi lời thuyết giảng, nên đi ra khỏi Vương Xá, vừa đi vừa tán thán hạnh thuyết pháp tuyệt diệu của nàng và nói như sau:

  1. Hỡi này người Vương Xá,
    Các người đã làm gì?
    Giống như người nằm mê,
    Bị say vì uống mật!
    Các người không hầu hạ,
    Sukkà thuyết lời Phật.
  2. Chúng tôi nghĩ bậc trí,
    Uống được nước cam lồ,
    Dòng nước thật thuần tinh,
    Không gì chướng ngại nổi
    Chẳng khác kẻ đi đường,
    Ðón nhận nước trời mưa.

Khi nghe thần cây nói vậy, dân chúng rất lấy làm phấn khởi và đi đến chăm chú nghe nàng thuyết pháp. Sau một thời gian, vào cuối cuộc đời khi nàng đang sửa soạn để từ giã cuộc đời. Nàng muốn nói lên pháp môn nàng dạy đưa đến giải thoát như thế nào, nàng tuyên bố như sau về chánh trí của nàng.

  1. Hỡi này nàng Sukkà!
    Người con của ánh sáng!
    Ðược ly tham định tĩnh,
    Nhờ ánh sáng Chánh pháp,
    Hãy mang thân cuối cùng,
    Sau khi thấy ma quân.

(XXXV) Sielà

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh làm công chúa con vua nước Alavì, tên là Sielà. Nàng cũng được biết với tên là Alavika (người nước Alavì). Khi đến tuổi trưởng thành, bậc Ðạo Sư cảm hóa được vua cha, làm lễ xuất gia cho vua và cùng đi đến Alavì. Sielà chưa lập gia đình, cùng đi với phụ vương nghe thuyết pháp và trở thành một tín nữ. Về sau nàng xuất gia, chuyên tu thiền quán và cuối cùng nhờ thiện duyên tốt đẹp, nhờ trí tuệ được triển khai, nàng nhiếp phục được thân hành, khẩu hành, ý hành và chứng được quả A-la-hán.

Về sau trở thành một Trưởng lão Ni, nàng ở Sàvatthi. Một hôm, nàng đi ra khỏi Sàvatthi để nghỉ ban ngày tại Andhavana và ngồi dưới một gốc cây. Ác ma muốn phá sự an tịnh độc cư của nàng, dưới hình thức là một người lạ mặt, đến với nàng và nói như sau:

  1. Nàng sẽ không thoát khỏi,
    Thoát ly khỏi đời này,
    Như vậy hạnh viễn ly,
    Nàng dùng để làm gì?
    Hãy thọ hưởng dục lạc,
    Chớ bứt rứt về sau.

Rồi nàng suy nghĩ: ‘Ðây là Ác ma muốn ngăn chận ta không được hưởng Niết-bàn. Nó không biết ta đã chứng quả A-la-hán. Vậy nay ta hãy làm cho nó mở mắt và nàng nói lên bài kệ’:

  1. Các dục giống gươm giáo,
    Chém nát các uẩn ta,
    Những dục mà ngươi gọi,
    Là lạc thú cuộc đời.
  2. Ngày nay dục lạc ấy,
    Với ta không hấp dẫn,
    Ở tất cả mọi nơi,
    Hỷ lạc được đoạn tận,
    Khối tối tăm mù ám,
    Ðã bị làm tan nát,
    Hỡi này kẻ Ác ma,
    Ngươi hãy biết như vậy,
    Ngươi chính là Ác ma
    Ngươi đã bị bại trận.

(XXXVI) Somà (Therì. 129)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sinh ra là con gái vị giáo sĩ của vua Bimbisàra. (Bình Sa Vương) và được đặt tên là Somà. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng trở thành một tín nữ, và về sau nàng xuất gia và nhờ triển khai thiền quán, nàng chứng được quả A-la-hán với nghĩa tín thọ, pháp tín thọ.

Ở tại Sàvatthi, một ngày kia nàng đi vào rừng Andhavana để nghỉ ban ngày và ngồi dưới một gốc cây. Ác ma đến và muốn phá sự an tịnh cô độc của nàng tàng hình không cho nàng thấy và nói lên như sau:

  1. Ðịa vị khó chứng đạt,
    Chỉ thánh nhân chứng đạt,
    Trí nữ nhân hai ngón,
    Sao hy vọng chứng đạt.

Rồi nàng cự lại Ác ma:

61-62. Nữ tánh chướng ngại gì,
Khi tâm khéo thiền định,
Khi trí tuệ triển khai,
Chánh quán pháp vi diệu,
Ở tất cả mọi nơi,
Hỷ lạc được đoạn tận,
Khối tối tăm mù mịt,
Ðã bị làm tan nát.
Hỡi này kẻ Ác ma,
Ngươi hãy biết như vậy,
Ngươi chính là Ác ma,
Ngươi đã bị bại trận.

Phẩm Bốn

-ooOoo-

Tập Bốn Kệ

(XXXVII) Bhaddà Thuộc Dòng Họ Kapllà. (Therì. 130)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh vào một gia đình Bà-la-môn dòng họ Kosiya ở Sàgala. Ðược sống trong giàu sang, nàng được gả làm vợ một nhà quý tộc tên là Pippali ở làng Mahàtittha. Khi người chồng xuất gia, nàng giao lại tài sản cho các người bà con để nàng được xuất gia. Nàng sống năm năm tại Titthiyàràma, sau đó nàng được Mahàpajàpati cho thọ đại giới, nhờ triển khai thiền quán, nàng chứng được quả A-la-hán. Sau nàng trở thành một vị có biệt tài về các đời quá khứ nhờ hạnh nguyện trong đời quá khứ. Nàng được đức Phật xem là người biệt tài đệ nhất về đời sống quá khứ, khi bậc Ðạo Sư ở Jetavana (Kỳ Viên) ngồi phân loại các Tỷ-kheo-ni. Một ngày kia nàng nói lên những bài kệ, nói đến những kinh nghiệm quá khứ và tán thán hạnh của Trưởng lão Kassapa:

  1. Con được thừa tự Phật,
    Ca-diếp khéo thiền định.
    Biết được đời quá khứ,
    Thấy cõi trời đọa xứ.
  2. ẩn sĩ đoạt diệt sanh,
    Thắng trí được thành tựu
    Cùng với Ba minh này,
    Là Phạm chí Ba minh.
  3. Cũng vậy nàng Bhaddà
    Người xứ Kapila,
    Nàng là bậc Ba minh,
    Ðã đoạn được sự chết,
    Mang thân này cuối cùng,
    Sau khi thắng ma quân.
  4. Thấy nguy hại ở đời,
    Hai chúng tôi xuất gia.
    Chúng tôi được chế ngự,
    Ðoạn tận các lậu hoặc,
    Cảm xúc thành mát lạnh,
    Ðược tịch tịnh giải thoát.

Phẩm V

-ooOoo-

Tập Năm Kệ

(XXXVIII) Một Tỷ Kheo Ni Vô Danh (Therì. 130)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Devadaha và trở thành người nữ điều dưỡng cho Mahàpajàpati. Nàng tên là Vàddhesi nhưng tên gia tộc nàng không được biết đến khi chủ nàng xuất gia, nàng cũng xin xuất gia theo. Nhưng trong hai mươi lăm năm nàng bị các dục chi phối ám ảnh, không được thiền định dầu cho đến một sát-na. Nàng than van tình trạng của nàng cho đến khi nàng được nghe Dhammadinnà thưyết pháp. Rồi tâm nàng xa lánh các dục, nàng tu tập thiền định và cuối cùng nàng chứng được sáu thắng trí. Suy tư trên quả chứng của mình, nàng nói lên bài kệ:

  1. Ðã được hai lăm năm,
    Từ khi ta xuất gia,
    Cho đến búng ngón tay,
    Tâm ta không lắng dịu.
  2. Tâm không được an tịnh,
    Vì đầy ứ dục tham,
    Ta giơ tay khóc than,
    Ta đi vào tinh xá.
  3. Ta đến vị Ni ấy,
    Ðồng tín nữ với ta,
    Nàng thuyết pháp cho ta,
    Về uẩn, xứ và giới.
  4. Nghe pháp nàng giảng dạy,
    Ta ngồi vào một bên,
    Ta hết đời quá khứ,
    Thiên nhãn được thanh tịnh,
    Với trí biết tâm người,
    Lỗ tai được thanh tịnh.
  5. Ta chứng thần túc thông,
    Ta đạt được lậu tận,
    Sáu thắng trí ta chứng,
    Lời Phật dạy đã làm.

(XXXIX) Vimala, Xưa Làm Một Kỹ Nữ (Therì. 131)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Vesàli làm con gái một người bán sắc đẹp sinh sống. Nàng được đặt tên là Vimalà. Khi nàng lớn lên, và suy tư với những tư tưởng uế nhiễm, nàng thấy Tôn giả Mahà Moggallàna đang đi khất thực ở Vesàli, nàng cảm thấy thương yêu Tôn giả và đi theo về tinh xá để cám dỗ. Có người nói nàng được các ngoại đạo xúi dục nên làm như vậy. Tôn giả chỉ trích hành động không tốt đẹp của nàng và thuyết pháp cho nàng, như đã được ghi trong Trưởng lão Tăng Kệ. (Therà. 1150-57), nàng cảm thấy xấu hổ và trở thành một tín nữ. Về sau cùng nàng xuất gia, tinh tấn tu tập, và không bao lâu chứng quả A-la-hán, nghĩ đến quả chứng của mình, nàng phấn khởi nói lên bài kệ:

  1. Say mê với giai cấp,
    Với dung sắc tuổi xuân,
    Với danh xưng, danh vọng,
    Ta ỷ lại tuổi trẻ,
    Ðối với những người khác,
    Ta khinh bỉ khinh thường.
  2. Thân này ta trang điểm,
    Ta khêu gợi kẻ ngu,
    Ta đứng trong khung cửa,
    Tại cửa hàng buôn sắc,
    Như thợ săn, ác độc,
    Ðang gieo đặt bẫy mồi.
  3. Ta khoa trương trang sức,
    Phô bày nhiều chỗ kín,
    Ðể châm biếm nhiều người,
    Ta làm nhiều ảo thuật,
    Hôm nay ta khất thực,
    Ðầu trọc, đắc đại y,
    Ta ngồi dưới gốc cây,
    Ta chứng định không tầm.
  4. Mọi khổ ách đoạn tận,
    Cả cõi trời, cõi người,
    Quăng bỏ mọi lậu hoặc,
    Ta mát lạnh tịch tịnh.

(VL) Sìha (Therì. 131)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Vesàli, con gái của một người chị võ tướng Sìha. Do vậy, nàng được đặt tên là Sìha, như tên của người cậu của nàng. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp cho người cậu, Sìha trở thành một tín nữ và được phép cha mẹ cho xuất gia. Khi nàng tu tập thiền quán, nàng không thể chận đứng tâm tư nàng chạy theo những ngoại vật khả ý. Bảy năm bị dày vò, nàng kết luận: ‘Làm sao ta thoát khỏi nếp sống uế nhiễm này. Ta hãy chết, tốt hơn’. Rồi nàng cột sợi dây trên cây, đút cổ vào thòng lọng để thắt cổ chết. Trong giây phút cuối cùng với sự cố gắng tinh thần chất chứa từ trước cho đến nay, nàng cố gắng triển khai thiền quán. Ðối với nàng đời sống hiện tại thật sự là đời sống cuối cùng, trong giờ phút cuối cùng, trí tuệ nàng được viên mãn, và với nội tâm thiền quán nàng chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Mở thòng lọng ra nàng trở về lại tinh xá. Ðược thành một vị A-la-hán, nàng sung sướng phấn khởi nói lên bài kệ;

  1. Không như lý tác ý,
    Bị dục tham ám ảnh,
    Ta trước bị dao động
    Không chế ngự được tâm.
  2. Bị phiền não chi phối,
    Lạc tưởng ngự trị ta
    Tâm ta không thăng bằng,
    Bị tham tâm chi phối.
  3. Bảy năm sống ốm yếu,
    Vàng da, dung sắc xấu
    Ðêm ngày không an lạc
    Ta sống chịu khổ đau.
  4. Do vậy ta lấy dây,
    Ði vào giữa khu rừng,
    Tốt hơn ta treo cổ,
    Còn hơn sống hạ liệt.
  5. Làm chắc dây thòng lọng,
    Ta cột ở cành cây,
    Quàng thòng lọng quanh cổ,
    Tâm ta liền giải thoát.

(XLI) Sundarì Nandà (Therì. 132)

Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh trong một gia đình quý tộc thuộc dòng họ Thích-ca. Ðược tên là Nandà. Nàng có danh là Nandà hoa khôi. Khi bậc Thế Tôn giác ngộ, đi đến Kapilavatthu và độ cho Nandà và Rahula xuất gia. Khi vua Suddhodana (Tịnh Phạn) mệnh chung và bà Mahàpajàpati xuất gia, nàng Nandà tự nghĩ: ‘Anh trưởng của ta đã chối từ không thừa tự quốc độ, xuất gia và trở thành đấng Thế Tôn, một bậc siêu nhân. Con của Ngài là Rahula cũng xuất gia, anh của ta vua Nandà cũng xuất gia. Mẹ của ta Mahàpajàpati, chị của ta, mẹ Rahula cũng xuất gia. Vậy ta ở nhà làm gì? Ta hãy xuất gia’. Như vậy nàng xuất gia không phải vì lòng tin, mà chính vì lòng thương yêu bà con trong gia đình. Nàng xuất gia như vậy sau khi từ bỏ gia đình, nàng vẫn tự kiêu với sắc đẹp của mình và không chịu đến yết kiến đức Phật, sợ đức Phật quở trách nàng. Nhưng trường hợp của nàng cũng giống như trường hợp với Tỷ-kheo-ni Abhirùpa Nandà (xem kệ XIX) với sự sai khác nhau: khi nàng thấy hóa thân của một nữ nhân do đức Phật hiện ra, nữ nhân ấy dần dần trở thành già xấu, tâm của nàng dựa trên tánh vô thường và đau khổ, hướng đến thiền định.

Rồi đức Phật thuyết pháp cho nàng như sau:

  1. Nandà, hãy nhìn thân,
    Bệnh bất tịnh, hôi thúi,
    Hãy tu tâm bất tịnh,
    Nhứt tâm khéo định tỉnh.
  2. Như thân này thân ấy,
    Như thân ấy thân này,
    Hôi thối và rữa nát,
    Chỉ kẻ ngu thích thú.
  3. Như vậy quán thân này,
    Ngày đêm không mệt mỏi,
    Với trí tuệ của con,
    Do vậy hãy thoát ly,
    Với trí tuệ của con,
    Thoát khỏi kiêu sắc đẹp,
    Và người si nhìn thấy,
    Với cái nhìn như thật.

Rồi nàng nghe theo lời dạy, với trí tuệ an trú vững chắc trên quả thứ nhất. Muốn giúp nàng đạt được những quả vị cao hơn, Thế Tôn dạy thêm cho nàng: Này Nandà, trong cái thân này không có một chút gì là tinh túy, chỉ là một đống xương và thịt bị già, chết chi phối. Như đã được nói trong tập Pháp cú:

  1. Thành này làm bằng xương,
    Quét tô bằng máu thịt,
    Ở đây già và chết,
    Mạn, lừa đảo chất chứa.
    (Pháp Cú. 150)

Khi đức Phật nói xong, nàng liền chứng quả A-la-hán. Và nghĩ đến sự chiến thắng của mình, nàng sung sướng với lời dạy của đức Bổn Sư và nói thêm:

  1. Với tâm không phóng dật,
    Như lý, quán thân ấy,
    Tánh như thật thân này,
    Ðược thấy trong và ngoài.
    Ta nhàm chán thân thể,
    Nội tâm được ly tham,
    Không phóng dật ly hệ,
    Ta an bình tịch tịnh.

(XLII) Manduttara (Therì. 132)

Trong đời đức Phật hiện tại, nàng sanh trong một gia đình Bà-la-môn, nước Kuru thành Kammàsadamma. Sau khi học hỏi ngoại đạo, nàng xuất gia theo phái Ni-kiền-tử và vì nàng thuyết pháp giỏi, nàng cầm cành cây diêm phù và đi khắp xứ Ấn Ðộ như nàng Bhaddà (XLVI). Nàng gặp Tôn giả Mahà-Moggallàna và bị ngài chiến thắng trong cuộc tranh luận. Nàng nghe theo lời dạy của Tôn giả Moggallàna, xuất gia trong giáo pháp đức Bổn Sư và không bao lâu chứng quả A-la-hán với nghĩa tín thọ, pháp tín thọ. Suy tư trên chiến thắng của mình, nàng sung sướng nói lên bài kệ:

  1. Trước ta đảnh lễ lửa,
    Trăng, mặt trời chư thiên
    Ta đi đến bến sông,
    Ta xuống nước, lê tắm.
  2. Chấp nhận nhiều giới cấm
    Ta chỉ cạo nửa đầu
    Ta nằm ngủ dưới đất,
    Cơm tối ta không ăn.
  3. Thích trang điểm trang sức,
    Ưa tắm rửa, xoa bóp,
    Thân này ta cung dưỡng,
    Thỏa mãn các dục tham,
  4. Từ khi được lòng tin
    Không nhà ta xuất gia,
    Ta thấy thân như Phật,
    Nhờ sạch các dục tham.
  5. Mọi sanh hữu chặt đứt,
    Cả ham muốn hy cầu,
    Mọi ách nạn giải tỏa,
    Ta đạt tâm an tịnh.

(XLIII) Mittakali (Therì. 132)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh trong một gia đình Bà-la-môn, ở xứ dân chúng Kuru, tại thành Kammàsadamma. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng được nghe giảng về Bốn niệm xứ và xuất gia làm Tỷ-kheo-ni. Trong bảy năm nàng ưa thích được cúng dường, được trọng vọng và thường hay gây lộn cãi vã về sau nàng biết như lý tác ý, triển khai thiền quán và chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Nghĩ đến sự chiến thắng của mình, nàng nói lên sự phấn khởi của nàng.

  1. Vì lòng tin, xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Ta sống tâm hướng mạnh,
    Theo lợi dưỡng cung kính.
  2. Từ bỏ đích tối thượng,
    Phục vụ đích hạ liệt,
    Bị phiền não ngự trị,
    Bỏ đích Sa-môn hạnh.
  3. Ngồi trong phòng tinh xá,
    Ta cảm bị dao động
    Ta đi vào tà đạo,
    Khát ái ngự trị ta.
  4. Ngắn ngủi sinh mạng ta,
    Già, bệnh đang đè nặng,
    Trước khi thân hủy diệt,
    Giờ phóng dật không còn.
  5. Như thật ta quán sát,
    Sinh diệt của các uẩn,
    Tâm giải thoát, ta chứng,
    Lời Phật dạy làm xong.

(XLIV) Sakulà (Therì. 133)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh làm Bà-la-môn, ở Sàvatthi, tên là Sakulà. Khi đức Phật nhận tinh xá Jetavana, nàng trở thành người tín nữ, và về sau được nghe một vị A-la-hán thuyết pháp, nàng phát nguyện xuất gia, tinh cần triển khai thiền quán và cuối cùng chứng quả A-la-hán. Về sau tùy theo lời phát nguyện, nàng được Thế Tôn tán thán là Thiên nhãn đệ nhất. Sau khi suy tư đến kết quả chứng của mình, nàng phấn khởi hoan hỷ và nói lên bài kệ:

  1. Khi sống ở gia đình,
    Nghe Tỷ kheo thuyết pháp,
    Ta thấy pháp vô uế,
    Ðạo Niết-bàn bất tử.
  2. Từ bỏ con trai, gái,
    Cả tài sản lúa gạo,
    Cạo tóc ta xuất gia
    Sống đời sống không nhà.
  3. Ta làm người học nữ,
    Tu tập con đường chánh,
    Ðoạn tận tham và sân,
    Ðoạn từng lậu hoặc một.
  4. Thọ giới Tỷ-kheo-ni,
    Ta nhớ đời quá khứ,
    Thiên nhãn ta thanh tịnh,
    Không uế, khéo tu tập.
  5. Thấy các hàng ngoại diện,
    Do nhân sanh biến hoại,
    Ta đoạn mọi lậu hoặc,
    Mát lạnh ta tịch tịnh.

(XLV) Sonà (Therì. 133)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh trong một gia đình quý tộc ở Sàvatthi. Sau khi lập gia đình, nàng sanh được mười người con trai, con gái và được biệt danh là ‘người nhiều con’. Khi người chồng xuất gia nàng giao lại cho các con trai, con gái cai quản gia đình và giao cả gia sản cho các con trai, không giữ gì cho thân mình. Các con trai và con dâu nuôi dưỡng nàng, không bao lâu trở mặt khinh rẻ nàng. Nàng buồn cho thái độ các dâu con, xuất gia trở thành Tỷ-kheo-ni. Nàng suy nghĩ, nàng đã lớn tuổi mới xuất gia, nên hết sức tinh cần,tinh tấn. Trong khi hầu hạ các Trưởng lão Ni, nàng thức đêm tu học, nàng kiên trì học tập, không biếng nhác, không xao nhãng, như người chụp nắm các cột trong mái hiên, hay chụp nắm cành cây trong đêm tối để tránh đầu khỏi va chạm. Hạnh tinh tấn của nàng được mọi người biết, và bậc Ðạo Sư biết được trí tuệ của nàng đã chín muồi, nên phóng hào quang, hóa hiện trước mặt nàng và nói lên bài kệ:

Ai sống một trăm năm,
Không thấy câu bất tử,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được câu bất tử.
(Pháp cú. 114)

Khi đức Phật nói câu này xong, nàng chứng được quả A-la-hán. Thế Tôn tán thán là ‘Tỷ-kheo-ni tinh tấn đệ nhất’. Một hôm, suy tư đến quả chứng của mình, nàng phấn khởi nói lên những bài kệ:

  1. Ta sanh được mười con,
    Trong thân chất chứa này,
    Do vậy ta già yếu,
    Ta đến Tỷ-kheo-ni.
  2. Nàng thuyết pháp cho ta,
    Về uẩn xứ và giới,
    Nghe pháp nàng thuyết giảng.
    Cắt tóc ta xuất gia.
  3. Ta học lời nàng dạy,
    Thiên nhãn ta thanh tịnh,
    Ta biết các đời trước,
    Chỗ ta sống đời trước.
  4. Ta tu pháp vô tướng,
    Nhất tâm khéo thiền tịnh,
    Tức thời ta giải thoát,
    Không chấp thủ tịch tịnh.
  5. Năm uẩn được liễu tri,
    Ðứng lại, gốc bị cắt,
    Tham dục, ta không có,
    Căn cứ địa kiên trì?
    Từ nay ta không còn
    Vấn đề phải tái sanh.

(XLVI) Bhadda Kundalakess (Therì. 134)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ra ở Rajagaha (Vương Xá), trong gia đình vị thủ khố của nhà vua, và được tên là Bhaddà. Lớn lên và luôn luôn có người hầu hạ, nàng thấy ngang qua khe cửa, Satthuka, con vị giáo sĩ của vua, một kẻ cướp bị dẫn đi hành hình, theo lệnh của vua. Nàng bỗng yêu Satthuka và nằm trên giường nàng nói: ‘Nếu ta không được chàng, ta sẽ chết’. Người cha vì thương nàng, nên hối lộ cho những người lính và đưa Satthuka đến gặp nàng. Satthuka khởi lòng tham đồ trang sức của nàng nên nói với nàng là khi bị dẫn đến ‘hòn núi của kẻ trộm’, chàng có phát nguyện: Nếu chàng được tha, chàng sẽ làm lễ cúng tạ ơn và nhờ nàng sửa soạn lễ tạ. Muốn được chàng bằng lòng, nàng vâng theo ý muốn của Satthuka, tự trang điểm với các đồ trang sức, lên xe đi với chàng và cùng đi đến ‘hòn núi của kẻ trộm’ Satthuka không cho người hầu hạ đi theo, lấy đồ trang sức cúng dường, và leo lên núi một mình với nàng, nhưng không nói lời thân ái với nàng. Do thái độ của chàng, nàng tìm ra được mưu kế của chàng. Rồi Satthuka bảo nàng cởi áo ngoài ra, dùng áo gói đồ trang sức nàng đang mang theo, Nàng hỏi chàng nàng có làm điều gì sái quấy chăng, và chàng trả lời: ‘Nàng thật ngu si ta đến đây có phải để làm lễ cúng dường đâu! Ta chỉ đến đây để lấy đồ trang sức của nàng’. Nàng nói: ‘Này chàng thân yêu, các đồ trang sức này của ai, và đồ trang sức nào thuộc của em’. Chàng nói: ‘Ta không biết gì về sự phân chia này’. Nàng nói: ‘Thôi được, chàng thân yêu, nhưng chàng cho em một sở nguyện, cho em mang đồ trang sức và được hôn chàng! Satthuka bằng lòng và nàng ôm hôn chàng đàng trước, rồi ôm chàng hôn đàng sau, và trong khi ấy xô chàng ngã xuống vực núi. Một Thiên nhân ở trên núi, thấy nàng làm vậy liền khen rằng:

Không phải là lúc nào,
Ðàn ông cũng khôn hơn!
Nữ nhân khi lanh lẹ,
Cũng tỏ khôn ngoan hơn,
Không phải là lúc nào,
Ðàn ông cũng khôn hơn!
Nữ nhân cũng khôn ngoan,
Chỉ nghĩ một phút giây!

Rồi Bhaddà suy nghĩ: ‘Nay ta không thể về nhà được khi sự việc đã xảy ra như vậy. Vậy từ đây ta sẽ xuất gia’. Rồi nàng xuất gia theo phái Ni-kiền Tử. Họ hỏi nàng: ‘Nàng ưng xuất gia đến mức độ nào?’ Nàng trả lời: ‘Tôi muốn xuất gia vào hạng tối thượng!’ Rồi họ nhổ tóc của nàng và khi tóc nàng dài và quăn lại, nàng được gọi là Bhaddà tóc quăn. Nhưng trong khi nàng tập sự học hỏi giáo lý của phái Ni-kiền Tử, nàng biết rằng giáo lý ấy không có gì đặc biệt. Nàng từ giã chúng Ni-kiền Tử, tìm học những bậc minh sư có danh tiếng và cuối cùng không ai có thể tranh luận với nàng. Nàng vun lên một đống cát gần cửa đi vào làng, trồng lên một nhánh cây diêm phù, bảo mấy đứa con nít xem ai nhổ lên nhánh cây ấy. Sau một tuần không có ai nhổ lên cành cây, nàng liền đem cành cây ấy đi một nơi khác.

Thế Tôn trong khi đi thuyết giảng, đến tinh xá Jetavana gần Sàvatthi, đúng lúc Bhaddà tóc quăn trồng nhánh cây ấy tại cửa thành Sàvatthi. Tôn giả Sàriputta vào thành, thấy cành cây ấy, muốn nhiếp phục nàng, bảo các đứa con nít dẫm lên cành cây ấy, để mở đầu cuộc tranh luận, nàng nghĩ rằng cuộc tranh luận sẽ không có kết quả nếu không có quần chúng đỡ đầu. Vì vậy nàng quy tụ một số đông quần chúng đến chứng kiến cuộc tranh luận giữa nàng và Tôn giả Sàriputta. Trước hết Tôn giả Sàriputta để cho nàng hỏi và Tôn giả trả lời, cho đến khi nàng không còn gì để hỏi nữa và ngồi im lặng.

Rồi Tôn giả hỏi nàng: ‘Thế nào gọi là một?’ Nàng Bhaddà tóc quăn thú nhận không thể trả lời được. Tôn giả nói, một chút như vậy mà nàng không trả lời được, thì nàng có thể biết thêm được gì? Rồi Tôn giả giáo giới cho nàng và nàng xin quy y Tôn giả.Tôn giả Sàriputta khuyên nên quy y Thế Tôn, bậc Ðạo Sư loài Người và Trời. Nàng vâng lời, chiều lại đi đến yết kiến Thế Tôn khi ngài đang thuyết pháp. Sau khi đảnh lễ nàng đứng một bên, Thế Tôn thấy căn cơ nàng đã thuần thục liền nói:

Dầu nói ngàn câu kệ,
Nhưng không chút lợi ích,
Tốt hơn nói một câu,
Nghe xong được tịnh lạc.
(Pháp cú 101)

Khi đức Phật nói xong bài kệ này, nàng chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ.

Nàng xuất gia, thọ giới với quả A-la-hán và chính đức Phật trao đại giới cho nàng. Rồi nàng đi đến tinh xá Tỷ-kheo-ni, sống an lạc hạnh phúc. Nàng sung sướng phấn khởi nói lên những bài kệ:

  1. Trước ta sống một y,
    Tóc cạo, thân mang bùn,
    Không lỗi xem có lỗi,
    Có lỗi xem là không.
  2. Ban ngày rời tinh xá,
    Trên ngọn núi Linh Thứu,
    Ta thấy Phật vô uế,
    Dẫn đầu chúng Tỷ-kheo.
  3. Quỳ gối ta đảnh lễ,
    Ðối diện ta chắp tay,
    Hãy đến này Bhaddà,
    Ta được thọ đại giới.
  4. Ta đi khắp Angà,
    Mogadhà, Vajjì,
    Quốc độ Kosala,
    Mười lăm năm không nợ,
    Ăn đồ ăn quốc độ.
  5. Làm được nhiều công đức,
    Tín nam này có tuệ,
    Cho Bhaddà chiếc y,
    Thoát khỏi mọi triền phược.

(XLVII) Patàcàrà (Therì. 134)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh trong gia đình vị thủ ngân khố nhà vua ở Sàvatthi. Khi đến tuổi trưởng thành nàng giao du với một người đầy tớ trong nhà. Khi cha mẹ nàng định ngày gả nàng cho một chàng trai xứng đôi, nàng trốn đi với người tình nhân và sống tại một ngôi làng nhỏ. Khi nàng sắp sanh, nàng bảo chồng đưa nàng về nhà cha mẹ, vì ở đây không có ai săn sóc nàng, nhưng chồng nàng cứ hẹn lần hẹn hồi cho đến khi nàng biết chồng nàng không muốn đi về. Nàng liền chờ chồng đi vắng, sắp đặt công việc, tin cho người láng giềng biết rồi nàng bỏ về nhà cha mẹ. Khi người chồng về, người chồng liền đuổi theo, sợ nàng không có người săn sóc. Chồng nàng bắt gặp nàng và giữa đường nàng sinh được người con, rồi hai vợ chồng lại đi trở về làng. Ðến kỳ sinh nở thứ hai, sự việc xảy ra như lần trước, nhưng có điểm khác biệt như sau: giữa đường mưa to gió lớn nổi lên, người chồng tìm lá và cây làm cái chòi cho nàng tránh mưa, nhưng bị con rắn từ gò mối bò ra cắn chồng nàng chết tại chỗ. Trong cơn đau khổ chờ đợi chồng nàng, nàng bồng đứa con trên ngực và giữa mưa to gió lớn nàng nằm phục xuống đất để che chở cho hai đứa con trải qua một đêm như vậy cho đến sáng. Ðến sáng, nàng đi tìm chồng và thấy chồng bị rắn cắn chết rồi. Nàng khóc than suốt đêm. Vì mưa to, nước sông dâng lên đến đầu gối, nàng lại quá yếu nên không thể bồng hai đứa con lội qua sông. Nàng để đứa lớn ở bờ bên này và bồng đứa nhỏ lội qua sông. Rồi nàng đặt đứa nhỏ nằm trên khăn trùm đầu, dùng cành cây che lại để nó trên bờ, còn nàng lội qua sông lại để đem đứa lớn qua. Nhưng đến giữa dòng, quay mình trở lại thời thấy một con diều hâu, tưởng đứa con nít là một miếng thịt, nên bay xuống tha đứa nhỏ đi. Dầu cho người mẹ có xua đuổi và la lên nhưng vì quá xa nên không làm gì được. Còn đứa lớn bên bờ bên này, nghe tiếng mẹ la tưởng là mẹ kêu liền lội xuống nước đi qua và bị nước cuốn trôi. Thế là hai đứa con và cả người chồng bị chết. Nàng vừa khóc vừa đi về thành Sàvatthi, lại được tin hồi hôm mưa to gió lớn làm sụp đổ căn nhà của cha mẹ nàng, giết chết cả cha mẹ và em nàng vừa làm lễ hỏa táng xong. Trong cơn đau khổ khủng khiếp chồng chất, nàng hóa điên dại, ăn mặc hở hang, nàng vừa khóc vừa than:

Hai con ta đã chết,
Chồng ta cũng chết luôn,
Rồi trên giàn hỏa táng,
Cha ta và mẹ ta,
Cùng đứa em trai ta,
Vừa làm lễ thiêu đốt.

Rồi nàng đi lang thang đây đó, khóc than nỗi đau khổ của nàng, và vì nàng mang xiêm áo tả tơi, nàng được gọi là Patacàra (kẻ mang xiêm áo). Người đi đường thấy nàng gọi nàng là người điên, có kẻ ném đá, có người thì quăng đồ nhớp bụi bặm trên nàng. Bậc Ðạo Sư ở Jetavana đang thuyết pháp, thấy nàng đi lang thang như vậy và biết căn cơ trí tuệ của nàng đã chín muồi, ngăn cản không cho người ta xua đuổi nàng và cho phép lại gần, khiến nàng hồi tỉnh lại, và cảm thấy xấu hổ với cách ăn mặc của mình, nàng nằm phục xuống đất. Một người quăng cho nàng một tấm y, nàng quấn y vào mình và thỉnh Phật cứu độ cho nàng và nàng kể lại thân phận của nàng: ‘Thế Tôn hãy cứu độ cho con. Một đứa con bị chim diều hâu mang đi; một đứa con bị nước cuốn trôi; còn chồng con bị rắn cắn chết; cha mẹ và em con bị căn nhà sụp đổ giết chết và bị hỏa táng. Ðức Phật nói: ‘Này Patacàra, đừng nghĩ rằng nàng đến với một người có thể cứu độ cho nàng. Như nay nàng than khóc vì con chết, vì chồng chết, cha mẹ chết. Cũng vậy, nàng đã khóc than kiếp luân hồi của nàng vì rằng con, chồng và cha mẹ bị chết của nàng còn nhiều hơn nước sông bốn biển’.

Nước bốn biển ít hơn,
Nước mắt của loài Người,
Khóc than vì đau khổ,
Vậy sao nàng hủy hoại,
Sanh mạng của chính mình,
Trong khóc than sầu khổ!

Nghe Thế Tôn dạy về con đường không thể diệt khổ, nỗi đau khổ của nàng được nhẹ dần. Rồi đức Phật khuyên thêm: ‘Ôi Patàcàrà, một người mệnh chung, thì con cháu, bà con không có thể làm chỗ nương tựa. Cho đến hiện tại, họ cũng không giúp đỡ được gì. Do vậy, người có trí sống đời sống giới đức thanh tịnh, thành tựu con đường hướng đến Niết-bàn. Rồi đức Phật dạy:

Các con, cha, bà con,
Không phải chỗ nương tựa,
Khi thân hoại mạng chung,
Bà con huyết thống nàng,
Không thể che chở nàng!
Thấy được sự thật này.
Kẻ trí sống giới đức,
Và mau chóng thành tựu,
Con đường hướng Niết-bàn.

Khi bậc Ðạo Sư nói xong, nàng chứng được quả Dự Lưu và xin được xuất gia. Ðức Phật đưa nàng đến chúng Tỷ-kheo-ni và cho phép nàng được xuất gia.

Rồi nàng tinh tấn tu hành, cố gắng thành đạt những quả vị cao hơn. Một hôm lấy nước trong bát rửa chân, khi nàng đổ nước, thời nước chảy đến một khoảng đường ngắn rồi biến mất. Nàng đổ thêm nước, và con đường nước chảy dài hơn, và lần thứ ba, nàng lại đổ nuớc và con đường nước chảy còn dài hơn trước khi biến mất. Dựa trên sự kiện này làm nền tảng suy tư, nàng nghĩ: ‘Cũng vậy là loài Người, chết trẻ, chết nửa chừng và chết già’. Và đức Phật ở tại hương phòng của Ngài phóng hào quang, hiện lên trước mặt nàng và dạy rằng: ‘Hỡi nàng Patàcàrà, như vậy là cuộc sống của loài Người, cuối cùng cũng phải mạng chung. Vậy tốt hơn là sống như thế nào để thấy sự sanh diệt của năm uẩn, dầu cho chỉ thấy được một ngày, hay chỉ một sát-na, còn hơn sống một trăm năm mà không thấy được sự thật ấy:

Người sống một trăm năm,
Không thấy pháp sanh diệt,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp sanh diệt.
(Pháp cú. 113)

Khi Thế Tôn nói xong, Patàcàrà chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Suy tư đến quả chứng của mình, khi còn là một học nữ, nàng tán thán sự kiện đã giúp nàng chứng được quả vị cao hơn, và nàng nói lên bài kệ:

  1. Với cây, cày ruộng đất,
    Gieo hột giống trên đất,
    Loài Người được tài sản,
    Nuôi dưỡng vợ và con.
  2. Sao ta, giới đầy đủ
    Làm theo Ðạo Sư dạy,
    Lại không chứng Niết-bàn,
    Không nhác, không dao động.
  3. Khi ta đang rửa chân,
    Làm cho dòng nước chảy,
    Thấy được nước rửa chân
    Từ cao chảy xuống thấp,
    Nhờ vậy, tâm được định,
    Như ngựa hiền khéo luyện.
  4. Rồi ta cầm cây đèn,
    Bước vào ngôi tinh xá,
    Nằm trên chiếc giường nhỏ,
    Ta nhìn quán ngọn đèn.
  5. Rồi lấy cây kim nhỏ,
    Dìm tim đèn xuống dần,
    Thấy cây đèn Niết-bàn,
    Tâm ta được giải thoát.

(XLVIII) 30 Tỷ Kheo Ni Tuyên Bố Về Chánh Trí Dưới Sự Lãnh Ðạo Của Patàcàrà (Therì. 135)

Trong thời đức Phật hiện tại, chúng sanh trong nhiều gia đình sai khác, được nghe Patàcàrà thuyết pháp, trở thành tín nữ và cuối cùng xuất gia. Trong khi họ làm trọn những phận sự của mình, và sống đầy đủ giới hạnh, nàng thuyết cho họ lời giáo huấn như sau:

  1. Loài Người trong tuổi trẻ,
    Cầm chày giã lúa gạo,
    Loài Người được tài sản,
    Nuôi dưỡng vợ và con.
  2. Hãy hành lời Phật dạy,
    Không làm gì nhiệt não,
    Rửa chân thật mau lẹ,
    Hãy ngồi xuống một bên,
    Chú tâm tu tâm chỉ,
    Làm theo lời Phật dạy.

Rồi các Tỷ-kheo-ni ấy, nghe theo lời dạy của Patàcàrà, an trú trên thiền quán, tu tập trí tuệ cho đến khi căn cơ thuần thục, chứng được quả A-la-hán, với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Rồi suy nghĩ trên quả chứng, họ phấn khởi sung sướng và họ thêm vào các bài kệ của Patàcàrà với những bài kệ của mình:

  1. Sau khi nghe lời dạy,
    Lời Patàcàrà,
    Sau khi rửa chân xong,
    Họ vào ngồi một bên,
    Chú tâm tu tâm chỉ,
    Làm theo lời Phật dạy.
  2. Trong đêm canh thứ nhất,
    Họ nhớ đời quá khứ
    Trong đêm canh chặng giữa,
    Thiên nhãn được thanh tịnh,
    Trong đêm canh cuối cùng,
    Khối si ám phá tan.
  3. Ðứng dậy họ lễ chân,
    Vị giáo giới cho họ,
    Như Chư Thiên ba mươi
    Ðảnh lễ vị Sakka,
    Vị không bị đánh bại,
    Ở lại chỗ chiến trường,
    Ðặt Patàcàrà,
    Vào hàng bậc lãnh đạo,
    Chúng tôi sẽ được sống,
    Ba minh, không lậu hoặc.

(XLIX) Candà (Therì. 135)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng làm con một vị Bà-la-môn, ít được người biết đến, tại một làng Bà-la-môn. Từ lúc nhỏ, gia đình bị mất hết tài sản, và nàng lớn lên trong điều kiện rất thiếu thốn.

Trong gia đình, một bệnh thời khí phát ra giết hại cả nhà, và nàng phải đi xin nhà này qua nhà khác với một cái bát vỡ. Một ngày kia, nàng đến chỗ Tỷ-kheo-ni Patàcàrà khi vị này vừa ăn xong. Các Tỷ-kheo-ni thấy nàng trong tình cảnh đáng thương hại, tiếp nàng với lòng từ mẫn và cho nàng ăn. Sung sướng được thấy hạnh phúc tốt đẹp của các Tỷ-kheo-ni, nàng đến gần Patàcàrà, đảnh lễ, nàng ngồi xuống một bên để nghe pháp. Nàng nghe với tâm hồn phấn khởi, và lo lắng vì kiếp sống luân hồi, nàng xuất gia. Nàng theo lời giáo giới của vị Tỷ-kheo-ni, nàng an trú thiền quán, nhiệt tâm tinh cần. Rồi với nghị lực và lời phát nguyện và sự chín muồi của trí tuệ, không bao lâu nàng chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Suy tư đến quả chứng của mình, nàng phấn khởi nói lên bài kệ:

  1. Trước ta sống bất hạnh,
    Không chồng và không con,
    Không bè bạn, bà con,
    Không có cơm, có áo.
  2. Ta cầm gậy bình bát
    Ði ăn xin từng nhà,
    Bị lạnh nóng đày đọa,
    Bảy năm ta sống vậy.
  3. Thấy được Tỷ-kheo-ni,
    Ta nhận đồ ăn uống,
    Sau khi đến, ta xin,
    Ðược xuất gia không nhà.
  4. Nàng Patàcàarà,
    Thương ta, cho xuất gia,
    Rồi giảng dạy cho ta,
    Hướng dẫn đến chân đế.
  5. Nghe xong lời nàng giảng.
    Ta làm theo lời dạy,
    Lời giảng bậc tôn Ni,
    Không phải lời trống không,
    Ta chứng được Ba minh,
    Ta không còn lậu hoặc.

Phẩm VI

-ooOoo-

Tập Sáu Kệ

(L) Năm Trăm Patàcàrà (Therì. 136)

Trong thời đức Phật hiện tại, chúng sanh trong những gia đình khá giả, tại nhiều chỗ khác nhau, lấy chồng, có con, sống lo việc bếp nước trong gia đình. Họ đều chịu sự đau khổ khi con của họ bị chết. Rồi họ đi tìm đến Patàcàrà, đảnh lễ nàng, ngồi xuống một bên nàng và nói cho nàng biết nỗi đau khổ của họ. Patàcàrà, làm cho họ vơi bớt sự đau khổ, nói lên những bài kệ như sau:

  1. Ông không biết con đường
    Nó đến hay nó đi,
    Từ đâu con trai đến,
    Ông lại khóc: ‘Con tôi’.
  2. Ông đâu biết con đường,
    Nó đến hay nó đi,
    Ông khóc nó làm gì?
    Pháp hữu tình là vậy.
  3. Không có ai yêu cầu,
    Từ chỗ kia, nó đến,
    Không có ai cho phép,
    Từ chỗ này, nó đi,
    Từ đâu, nó đến đây!
    Ðược sống bấy nhiêu ngày.
  4. Từ chỗ này nó đến,
    Từ chỗ kia, nó đi,
    Nó đến một con đường!
    Nó đi một con đường,
    Mệnh chung, hình sắc người,
    Luân hồi, nó sẽ đi!
    Ðến vậy, đi như kia,
    Ở đây, khóc than gì?

Sau khi nghe nàng giảng, họ đều cảm thấy dao động và xin xuất gia, dưới sự hướng dẫn của Patàcàrà. Sau khi tinh cần triển khai thiền quán, chứng đạt được quả A-la-hán, với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Suy tư trên quả chứng của mình, các vị ấy lập lại bài kệ giáo hóa của Patàcàrà và cộng thêm những bài kệ của chính mình như sau:

  1. Cây tên, khó thấy được,
    Từ tim ta, nhổ lên:
    Nàng diệt sầu vì con,
    Sầu ấy ám ảnh ta.
  2. Nay cây tên được nhổ
    Không dục cầu, tịch tịnh
    Ta quy y ẩn sĩ,
    Phật, Pháp và chúng Tăng.

Về sau Tỷ-kheo-ni này rất giỏi về lời dạy của Patàcàrà, nên chúng được gọi là: tùy thuộc của Patàcàrà.

(LI) Vàsitthi (Therì. 136)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh làm con một nhà quyền quý ở Vesàli. Khi nàng lớn, nàng được gả cho một người chồng tương xứng và nàng sống vui vẻ với người chồng. Khi có được đứa con, mới tập chạy, nó chết đi và nàng quá đau khổ vì đứa con chết. Khi các người bà con chữa bệnh cho chồng, nàng bỏ trốn và lang thang khắp đó đây cho đến khi nàng đến Mithìlà. Tại đây, nàng thấy đức Phật đang đi trên đường, tự tại, tự chế, làm chủ các căn. Khi thấy bậc Ðạo Sư và nhờ Phật lực nàng lấy lại được sự bình tĩnh. Rồi bậc Ðạo Sư thuyết pháp vắn tắt cho nàng, và nàng xin được xuất gia và bậc Ðạo Sư chấp nhận. Làm tất cả các bổn phận của mình, nàng an trú vào thiền quán, và với sự cố gắng vượt bực, với trí tuệ chín muồi, nàng chứng quả A-la-hán, vói pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Suy tư trên quả chứng của mình, nàng sung sướng nói lên niềm hân hoan của mình:

  1. Ta sầu muộn vì con
    Khổ, tâm cuồng tưởng loạn,
    Lõa thể, tóc rối ren,
    Ðời sống vậy, ta sống.
  2. Lang thang đường, đống rác,
    Nghĩa địa, đường xe đi,
    Ba năm ta đã sống,
    Kham khổ, chịu đói khát.
  3. Rồi ta thấy Thiện Thệ,
    Ðến thành Mi-thi-la,
    Ðiều ngự kẻ chưa điều,
    Bậc Giác Ngộ, vô úy.
  4. Lấy lui tâm bình tĩnh,
    Ta đảnh lễ đến gần.
    Thương ta, Gotama,
    Ngài thuyết pháp cho ta.
  5. Nghe Ngài thuyết pháp xong,
    Ta xuất gia, không nhà,
    Tùy hành lời Ðạo Sư,
    Ta chứng đạo an ổn.
  6. Mọi sầu muộn chặt đứt,
    Ðoạn tận, được chấm dứt,
    Ta liễu tri nền gốc,
    Từ đấy sầu muộn sanh.

(LII) Khemà (Therì. 137)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh nước Magadha (Ma-kiệt-đà) ở Sàgala, thuộc gia đình hoàng tộc, tên là Khemà. Nhan sắc đẹp đẽ, với da như vàng, nàng trở thành hoàng hậu Vua Bimbisàra. Khi Thế Tôn ở tại Veluvana (Trúc Lâm), nàng không đi đến yết kiến đức Phật vì sợ Thế Tôn chỉ trích lỗi của mình. Vua muốn nàng đi thăm Trúc Lâm, nên nhờ người tán thán ngôi vườn này, và cuối cùng nàng bằng lòng cùng vua đi đến tinh xá, không thấy Thế Tôn, nhưng muốn nàng thấy cho được Thế Tôn, dầu phải bắt nàng ở lại. Khi nàng sắp sửa từ giã tinh xá nhưng không gặp được Thế Tôn, các người hầu cận giữ nàng ở lại và đưa nàng đến gặp đức Thế Tôn một cách miễn cưỡng. Ðức Thế Tôn dùng thần lực hóa hiện một tiên nữ rất đẹp đang đứng quạt cho Ngài, sắc đẹp thắng xa sắc đẹp của nàng rất nhiều. Rồi trước mắt nàng, như nhân được hóa hiện ấy lớn lên trở thành già yếu răng rụng, tóc bạc, da nhăn và ngồi ngã xuống đất với chiếc quạt. Khemà thấy vậy, tự hỏi không biết thân mình có chịu hoàn cảnh tương tự hay không. Thế Tôn biết được tâm trạng của nàng bèn nói lên bài kệ:

Người đắm say các dục,
Tự lao mình xuống dòng,
Như nhện sa lưới dệt,
Người trí cắt trừ nó,
Bỏ mọi kệ không màng.
(Pháp cú, 347)

Tập Sớ ghi chép, khi bậc Ðạo Sư nói xong, nàng chứng quả A-la-hán với pháp tín thọ. Nhưng theo tập Apadàna, nàng chỉ mới chứng quả, Dự lưu và sau khi được phép vua cho xuất gia, nàng xuất gia và trở thành A-la-hán.

Sau đó, nàng tu tập thiền quán, có danh tiếng về môn tu này, và đức Phật khi ở Jetavana (Kỳ Viên) đã đặt nàng vào hạng thiền quán đệ nhất.

Một ngày kia, nàng ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây, Ác ma hiện lên, dưới hình thức một thanh niên và cám dỗ nàng với lòng dục như sau:

  1. Nàng vừa trẻ vừa đẹp,
    Ta vừa trẻ vừa xuân,
    Với cung đàn năm điệu,
    Hãy vui hưởng, Khemà.

Nàng trả lời:

  1. Với thân hôi thối này,
    Bệnh hoạn và mong manh,
    Ta nhàm chán ghét bỏ,
    Dục ái đã nhổ lên.
  2. Dục ví như gươm giáo,
    Các uẩn đoạn đầu đài,
    Ðiều người nói dục lạc,
    Nay ta đã xa lìa.
  3. Mọi nơi, hỷ duyệt đoạn,
    Khối si ám tan tành,
    Hãy biết vậy, Ác ma!
    Ngươi bị hại, Ma vương.
  4. Ngươi đánh lễ vầng sao!
    Ngươi thờ lửa rừng sâu,
    Ngươi không biết như thật,
    Kẻ ngu nghĩ rằng tịnh.
  5. Còn ta, ta đảnh lễ,
    Bậc Giác ngộ, Thượng nhân,
    Giải thoát mọi khổ đau,
    Hành lời Ðạo Sư dạy.

(LIII) Sujàtà (Therì. 137)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Sàketa trong gia đình thủ khố nhà vua. Ðược gả chồng với con vị thủ khố tương xứng với gia đình, nàng sống hạnh phúc với chồng. Một hôm, trong khi đi dự lễ các Sao (Nakkhatakìlam), nàng đi về với những người hầu hạ, và nàng thấy bậc Ðạo Sư ở vườn Anjana. Nàng cảm thấy bị hấp dẫn, đến gần đảnh lễ ngài và nghe ngài thuyết pháp. Bậc Ðạo Sư biết căn cơ nàng đã chín muồi, nên đặc biệt thuyết pháp cho nàng, và thuyết pháp xong, nàng chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, với nghĩa tín thọ. Ðảnh lễ bậc Ðạo Sư, về nhà được chồng và cha mẹ chấp thuận và với sự đồng ý của bậc Ðạo Sư, nàng được xuất gia làm Tỷ-kheo-ni. Suy tư đến quả chứng của mình, nàng sung sướng nói lên như sau:

  1. Trang sức, mặc áo đẹp
    Vòng hoa, xức chiên đàn,
    Ðeo mọi loại nữ trang
    Cầm đầu chúng nữ tỳ.
  2. Mang theo đồ ăn uống,
    Nhiều món ăn cứng mềm,
    Từ nhà ta đi ra,
    Ði đến vườn thưởng ngoạn.
  3. Tại đây ta vui chơi,
    Rồi ta đi về nhà,
    Ta thấy ngôi tinh xá,
    Khi ta bước vào rừng,
    Rừng tên Anjanà,
    Tại xứ Sàketa.
  4. Thấy hào quang thế giới,
    Ðảnh lễ, ta tới gần,
    Thương ta, bậc Pháp nhãn,
    Ngài thuyết pháp cho ta.
  5. Nghe xong bậc Ðại tiên,
    Ta thể nhập chân lý,
    Tại đấy ta chứng pháp,
    Ly trần tạo bất tử.
  6. Do liễu tri diệu pháp,
    Ta xuất gia, không nhà,
    Ba minh ta đạt được,
    Không trống rỗng lời Phật.

(LIV) Anopanà (Therì. 138)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Sàketa, trong gia đình vị thủ kho Majjha. Vì nàng rất đẹp, nàng được tên là Anopanà (không ai sánh nổi). Khi nàng đến tuổi trưởng thành, nhiều con nhà giàu, các quan chức nhà vua, các hoàng tử, cử các sứ giả đến xin cưới nàng. Nghe tin vậy, nàng có tâm nguyện khác, nàng muốn sống đời sống không có gì hết. Nên nàng tìm đến bậc Ðạo Sư nghe ngài thuyết pháp, nhờ trí tuệ chín muồi, nhờ nhớ đến lời dạy, nhờ nhiệt tâm thiền quán, nàng chứng được quả thứ ba, quả Bất lai. Xin phép bậc Ðạo Sư cho xuất gia, nàng được nhận làm Tỷ-kheo-ni. Và đến ngày thứ bảy, nàng chứng được quả A-la-hán. Suy tư trên quả chứng, nàng sung sướng nói lên sự phấn khởi của mình:

  1. Sanh gia đình cao quý,
    Nhiều châu báu, tài sản,
    Ðầy đủ dung sắc đẹp,
    Con gái cưng Majjha.
  2. Ðược con vua cầu hôn,
    Con phú gia xin cưới,
    Sứ giả đến cha ta,
    Cho tôi Anopham.
  3. Công chúa con gái ngài,
    Cân nặng như thế nào
    Tôi sẽ tặng tám lần
    Bằng vàng ròng châu báu.
  4. Ta thấy đấng Giác ngộ,
    Bậc Thế Tôn vô thượng,
    Ta đảnh lễ chân Ngài,
    Ðến gần, ngồi một bên.
  5. Thương ta, Gotama,
    Ngài thuyết pháp cho ta.
    Ngay tại chỗ ngồi ấy,
    Ta chứng quả thứ ba.
  6. Rồi ta cạo bỏ tóc,
    Xuất gia, sống không nhà,
    Hôm nay, đêm thứ bảy,
    Khát ái được gột sạch.

(LV) Mahàpajàpatì Gotamì (Therì. 138)

Trước khi bậc Ðạo Sư ra đời, nàng được sanh ở Devadaha, trong gia đình Mahà-Suppabuddha. Tên gia đình của nàng là Gotama, và nàng là em gái của Mahàmàyà. Các thầy đoán tướng tiên đoán rằng các người con của hai chị em sẽ là vị chuyển luân vương. Vua Suddhodana, khi đến tuổi trưởng thành, cưới cả hai chị em. Sau đó, bậc Ðạo Sư đản sanh, và trong khi chuyển pháp luân, ngài đi đến Vesàli, và phụ vương được quả A-la-hán mệnh chung.

Rồi Mahàpajàpati muốn xuất gia, xin phép bậc Ðạo Sư nhưng không được chấp nhận. Rồi nàng cắt tóc, đắp y, và sau thời gỉảng kinh về tinh cần nỗ lực, nàng ra đi với năm trăm Thích-ca nữ mà các người chồng đã xuất gia, đi đến Vesàli, và xin bậc Ðạo Sư cho xuất gia, với sự can thiệp của Tôn giả Ananda. Bậc Ðạo Sư chấp nhận và dạy Tám kỉnh pháp cho các Tỷ-kheo-ni.

Sau khi xuất gia, Mahàpajàpati đến yết kiến đức Phật và đứng một bên Ngài thuyết pháp cho nàng, và nàng tinh cần tinh tấn chứng được quả A-la-hán với trí tuệ trực giác và phân tích năm trăm Tỷ-kheo-ni, sau khi nghe Nandaka giáo giới, chứng được sáu thắng trí.

Một ngày kia, khi bậc Ðạo Sư ngồi giữa thánh chúng tại tinh xá Jetavana (Kỳ Viên), Ngài xác nhận Mahàpajàpati là vị có kinh nghiệm đệ nhất, sống hưởng thọ hạnh phúc giải thoát, Niết-bàn. Ðể nói lên lòng biết ơn của mình, Mahàpajàpati tuyên bố chánh trí của mình trước mặt Thế Tôn, tán thán hạnh đức của Ngài đã giúp đỡ hộ trì cho nàng mà trước đây nàng không được gặp:

  1. Bậc Giác ngộ anh hùng!
    Con xin đảnh lễ Ngài,
    Ngài là bậc Tối thượng,
    Giữa mọi loài chúng sanh,
    Ngài giải khổ cho con,
    Cùng rất nhiều người khác.
  2. Liễu tri mọi đau khổ,
    Gột sạch nhân khát ái,
    Con đường Thánh tám ngành,
    Ðoạn diệt, ta chứng ngộ.
  3. Trước ta sống là mẹ,
    Là con, là cha, anh,
    Là ông nội, ông ngoại,
    Ðời sống trước là vậy,
    Không rõ biết như thật,
    Luân hồi, tìm không gặp.
  4. Nay ta thấy Thế Tôn,
    Thân này thân tối hậu,
    Sanh tử được đoạn tận,
    Nay không còn tái sanh.
    Siêng, tinh cần nỗ lực,
    Thường, kiên trì tinh tấn,
    Hãy thắng đệ tử Phật,
    Hòa hợp, đảnh lễ Ngài.
    Vì hạnh phúc nhiều người,
    Ma-yà sanh Cù-đàm,
    Giải tỏa nhóm khổ đau
    Cho người bị bệnh chết?

(LVI) Guttà (Therì. 139)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn và tên là Guttà. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng nhàm chán đời sống gia đình và được phép gia đình cho xuất gia, dưới sự lãnh đạo của Mahàpajàpati. Sau đó dầu nàng hành trì với tín tâm, nhưng tâm của nàng cứ chạy theo ngoại cảnh và do vậy nàng không thiền định được. Rồi bậc Ðạo Sư muốn khích lệ nàng, phóng hào quang và hiện ra trước mặt nàng và nói lên bài kệ như sau:

  1. Vì mục đích tối thượng,
    Guttà, người xuất gia,
    Từ bỏ cả con cái,
    Cho đến bản thân mình,
    Hãy nhiệt tâm hành trì,
    Chớ để tâm chi phối.
  2. Tâm lừa đảo chúng sanh,
    Ưa ác ma lãnh vực,
    Luân hồi nhiều đời sống,
    Chúng dong ruổi, si mê.
  3. Dục vọng và sân hận,
    Kể cả với thân kiến,
    Cộng thêm giới cấm thủ
    Với nghi hoặc thứ năm.
  4. Hỡi này, Tỷ-kheo-ni,
    Từ bỏ kiết sử này,
    Là hạ phần kiết sử,
    Ngươi hết lại đời này.
  5. Hãy tránh xa tham mạn,
    Vô minh và trạo cử,
    Chặt đứt kiến sử xong,
    Ngươi sẽ dứt đau khổ.
  6. Quảng bỏ vòng sanh tử,
    Liễu tri sự tái sanh,
    Hiện tại không ước vọng,
    Ngươi sẽ sống an tịnh.

(LVII) Vijjayà (Therì. 139)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Ràjagaha (Vương Xá) trong một gia đình thường dân, khi lớn lên nàng trở thành bạn của Khemà, đưa nàng trở thành Trưởng lão Ni, khi ấy còn là nữ cư sĩ. Khi nghe Khemà xuất gia, nàng nói: ‘Khemà là hoàng hậu còn xuất gia được, huống nữa là ta’. Nàng đi đến Khemà, và Khemà biết tâm nguyện căn cơ của nàng nên thuyết pháp, khiến nàng suy tư đến sanh lão bệnh tử và tìm được an ổn trong đạo pháp. Rồi Khemà cho nàng xuất gia, nàng hầu hạ, học hỏi làm tròn bổn phận của mình, tu tập thiền quán và khi trí tuệ thuần, nàng chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Rồi suy tư trên quả chứng của mình nàng nói lên sự sung sướng phấn khởi của nàng:

  1. Bốn lần và năm lần
    Ta ra khỏi tinh xá,
    Tâm không được an tịnh,
    Không chế ngự được tâm.
  2. Ta đến Tỷ-kheo-ni,
    Ta hỏi, đàm luận pháp,
    Nàng thuyết pháp cho ta,
    Về giới và về xứ.
  3. Bốn sự thật bậc Thánh
    Về các căn, các lực,
    Giác chi, tám đường chánh,
    Ðạt đạo tối thượng nghĩa.
  4. Nghe lời vị ấy dạy,
    Ta làm theo giáo huấn,
    Trong đêm canh thứ nhất,
    Ta nhớ đến đời trước.
  5. Trong đêm canh chặng giữa
    Thiên nhãn được thanh tịnh,
    Trong đêm canh cuối cùng,
    Khối si ám tan tành.
  6. Từ đấy ta được sống,
    Biến mãn thân hỷ lạc,
    Ðêm thứ bảy, duỗi chân,
    Khối si ám tan tành.

Phẩm VII

-ooOoo-

Tập Bảy Kệ

(LVIII) Uttarà (Therì. 140)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình thường dân, tên là Uttarà. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng nghe Patàcàrà thuyết pháp, trở thành một tín nữ, xuất gia và trở thành vị A-la-hán. Rồi suy tư trên quả chứng của mình, nàng phấn khởi nói lên bài kệ:

  1. Loài Người trong tuổi trẻ,
    Cầm chày giã lúa gạo,
    Tuổi trẻ được tài sản,
    Nuôi dưỡng vợ và con.
  2. Hãy hành lời Phật dạy,
    Không làm gì nhiệt não,
    Rửa chân thật mau lẹ,
    Hãy ngồi xuống một bên.
  3. Sau khi an trú tâm,
    Nhứt tâm, khéo định tĩnh,
    Hãy quán sát các hành,
    Thuộc ngoại, không thuộc ngã.
  4. Ta nghe lời giáo huấn,
    Lời Patàcàrà;
    Sau khi ta rửa chân,
    Bước vào, ngồi một bên.
  5. Trong đêm canh thứ nhất,
    Ta nhớ đời quá khứ,
    Trong đêm canh chặng giữa
    Thiên nhãn được thanh tịnh.
  6. Trong đêm canh cuối cùng,
    Khỏi si ám tan tành,
    Từ ba minh, đứng dậy
    Giáo huấn Ngài, làm xong.
  7. Như Thiên chủ Sakka,
    Ở cõi trời Ba mươi,
    Không bao giờ bại trận,
    Ở tại các chiến trường,
    Ta sống, tôn xưng Ngài,
    Là bậc Thầy lãnh đạo,
    Ta chứng được ba minh,
    Ta không còn lậu hoặc.

Một hôm nàng tu tập thiền quán dưới sự hướng dẫn của Patàcàrà, ngồi trong phòng của nàng, nàng suy nghĩ: ‘Ta sẽ không ngồi dậy nếu tâm ta không giải thoát khỏi các lậu hoặc’. Quyết định như vậy, nàng triển khai trí tuệ, thiền quán, chứng được quả A-la-hán, với sức mạnh trực giác và triệt quán Chánh pháp. Sau khi tiếp tục quán mười chín đề tài với ý thức ‘không biết ta có làm đủ những điều cần phải làm chăng’, nàng nói lên sự sung sướng của nàng với những bài kệ ghi ở trên và nàng duỗi chân ra. Khi trời rạng đông và đêm đã sáng, nàng tìm gặp vị Tỷ-kheo-ni và lập lại những bài kệ của nàng.

(LIX) Calà (Therì. 141)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Magadha, tại làng Nàlaka, con của một nữ Bà-la-môn tên là Surùpasàrì. Khi đến tuổi đặt tên, nàng được gọi là Càlà. Em gái nàng tên là Upacàlà và em nhỏ nhất tên là Sìsùpacàlà và cả ba là em của Tôn giả Sàriputta. Khi ba đứa em nghe người anh xuất gia trở thành vị Tỷ-kheo chúng suy nghĩ: ‘Ðây không phải là một giáo pháp thường tình, một sự xuất gia thường tình, vì một người anh như người anh chúng ta đã quyết tâm tu hành theo; ba nàng cũng xuất gia, dầu gia đình than khóc. Với sự tinh tấn, tinh cần, cả ba tu hành, chứng quả A-la-hán và sống an lạc giải thoát.

Rồi Tỷ-kheo-ni Càlà, sau khi đi khất thực, đi vào rừng Andho để nghỉ trưa và tại đấy Ác ma hiện ra để cám dỗ nàng. Trong kinh, có đề cập đến vấn đề này.

Tỷ-kheo-ni Càlà, sau khi đi khất thực ở Sàvatthi, đi vào trong rừng an lạc để nghỉ trưa. Ði vào rừng Andho, nàng ngồi xuống một gốc cây, Ác ma đến để lung lạc nàng và hỏi nàng những câu trong các bài kệ của nàng. Sau khi nàng nói lên những đức hạnh của vị Ðạo Sư, và sức mạnh của Chánh pháp, nàng làm cho Ác ma thấy rõ sự vô ích của mình muốn cám dỗ nàng và Ác ma thất vọng biến mất. Rồi nàng nói lên sự sung sướng phấn khởi của nàng và câu chuyện với Ác ma như sau:

  1. Sau khi an trú niệm,
    Tỷ-kheo-ni luyện căn,
    Thể nhập đạo an tịnh,
    An lạc tịnh các hành.

Ác ma:

  1. Vì ai, ngươi đầu trọc,
    Hiện tướng, Sa-môn ni?
    Không theo hệ phái nào,
    Sao sống si mê vậy?

Càlà:

  1. Các hệ phái ngoại đạo
    Nương tựa trên tà kiến,
    Họ không hiểu Chánh pháp
    Họ không thuần thục pháp.
  2. Sanh gia tộc Thích-ca,
    Ðức Phật, bậc vô tỷ
    Ngài thuyết pháp cho ta,
    Vượt qua các tà kiến.
  3. Ngài thuyết Tám thánh đạo,
    Về khổ, nguyên nhân khổ,
    Về vượt qua đau khổ
    Và con đường khổ diệt.
  4. Ta nghe lời Phật dạy,
    Sống vui thích giáo pháp,
    Ba minh đã đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.
  5. Mọi nơi, hỷ duyệt đoạn,
    Khỏi si ám tan tành!
    Hãy biết vậy, Ác ma!
    Người bị hại, Ma vương.

(LX) Upacàlà (Therì. 141)

Câu chuyện giống như Tỷ-kheo-ni Càlà. Như Càlà, nàng chứng quả A-la-hán, và bị Ác ma cám dỗ nhưng Ác ma đã thất bại:

  1. Trú niệm có pháp nhãn
    Tỷ-kheo-ni luyện căn,
    Thể nhập đạo an tịnh,
    Bậc thượng nhân hành trì.

Ác ma:

  1. Sao ngươi không thích sanh,
    Có sanh mới hưởng dục,
    Hãy hưởng thọ dục lạc,
    Chớ hối tiếc về sau.

Upacàlà:

  1. Ðã sanh, thời bị chết,
    Tay chân bị đứt đoạn,
    Bị giết, trói, phiền não.
    Sau đưa đến khổ đau.
  2. Sanh gia bậc Thích-ca
    Ðức Phật không chiến bại.
    Ngài thuyết pháp cho ta,
    Vượt qua khỏi sự sanh.
  3. Ngài thuyết Tám thánh đạo,
    Về khổ, nguyên nhân khổ,
    Về vượt qua đau khổ,
    Và con đường khổ diệt.
  4. Ta nghe lời Ngài dạy,
    Sống vui thích giáo pháp,
    Ba minh đã đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.
  5. Mọi nơi, hỷ duyệt đoạn,
    Khỏi si ám tan tành,
    Hãy biết vậy, Ác ma!
    Ngươi bị hại, Ma vương.

Phẩm VIII

-ooOoo-

Tập Tám Kệ

(LXI) Sìsupacàlà (Therì. 142)

Câu chuyện giống như hai câu chuyện trước. Nàng theo gương người anh, xuất gia và chứng quả A-la-hán. Hưởng thọ sự an lạc, nàng suy tư đến quả chứng, đã làm những điều cần làm và nói lên sự sung sướng của nàng:

  1. Tỷ-kheo-ni giữ giới,
    Khéo hộ trì các căn,
    Ðạt được đạo an tịnh,
    Nước cam lồ thuần tịnh.

Ác ma:

  1. Chư Thiên cõi Ba mươi,
    Dạ-ma và Ðâu-suất,
    Chư Thiên trời Hóa Lạc,
    Chư Thiên cõi Tự Tại.
    Hãy hướng tâm chỗ ấy,
    Chỗ xưa kia nàng sống.

Khi Trưởng lão ni nghe vậy, liền nói: ‘Hãy dừng lại, Ác ma! Dục giới mà ngươi nói đến, cho đến cả thế giới vũ trụ đều bị lửa tham, lửa sân, lửa si đốt cháy. Tại chỗ ấy, người có trí không ưa thích’. Nêu rõ cho Ác ma thấy tâm của mình đã xa lìa Ma giới, nàng trách mắng Ác ma như sau:

  1. Chư Thiên cõi Ba mươi,
    Dạ-ma và Ðâu-suất,
    Chư Thiên trời Hóa Lạc,
    Chư Thiên cõi Tự Tại.
  2. Thời này đến thời khác,
    Hữu này đến hữu khác,
    Chúng đều bị thân kiến,
    Lãnh đạo và chi phối,
    Chúng không vượt thân kiến,
    Luân chuyển vòng sanh tử,
  3. Toàn thế giới bốc cháy
    Toàn thế giới đồng cháy,
    Toàn thế giới bừng cháy,
    Toàn thế giới rung động.
  4. Phật thuyết pháp cho ta,
    Pháp bất động vô tỷ,
    Ðược bậc không phàm phu,
    Phục vụ và nhiệt hành,
    Chỗ ấy, tâm ý ta,
    Hân hoan và ưa thích.
  5. Ta nghe lời vị ấy,
    Sống vui trong giáo pháp,
    Ba minh đã đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.
  6. Mọi chỗ, hỷ diệt đoạn,
    Khỏi si ám tan tành,
    Hãy biết vậy, Ác ma!
    Người bị bại, Ma Vương.

Phẩm IX

-ooOoo-

Tập Chín Kệ

(LXII) Mẹ Của Vaddha

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở thành phố Bhàrukaccha, trong một gia đình thường dân. Sau khi lập gia đình, nàng sanh được một người con, đặt tên là Vaddha và nàng được biết là mẹ Vaddha. Nghe một Tỷ-kheo thuyết pháp, nàng trở thành một tín nữ, và giao lại con cho bà con. Nàng đi đến các Tỷ-kheo-ni và xuất gia. Vaddha đi thăm mẹ, đi một mình vào tinh xá Tỷ-kheo-ni và bị mẹ khiển trách như sau:

  1. Vaddha, chớ bao giờ,
    Rơi vào cõi tham dục,
    Này con, chớ chia phần,
    Trong đau khổ liên tục.
  2. Hạnh phúc là ẩn sĩ,
    Không tham, nghi đoạn tận,
    Sống mát lạnh, chế ngự,
    Không còn các lậu hoặc.
  3. ẩn sĩ ấy hành trì,
    Con đường đạt chánh kiến,
    Chấm dứt sự khổ đau,
    Vaddha! Hãy tiến tu.

Rồi Vaddha suy nghĩ: ‘Mẹ ta chắc đã chứng quả A-la-hán’, nên nói như sau:

  1. Với tự tín mẹ nói,
    Mục đích này cho con,
    Mẹ thân! Con nghĩ rằng,
    Mẹ không còn tham dục.

Rồi vị Trưởng lão Ni trả lời, nêu rõ trách nhiệm của mình đã làm xong:

  1. Vaddha! Phàm hành gì,
    Thấp, cao hay bậc trung,
    Một tí nhỏ tham dục,
    Không có ở nơi ta.
  2. Ta đoạn mọi lậu hoặc,
    Không phóng dật, thiền tu,
    Ba minh đã đạt được,
    Làm xong lời dạy.

Người con dùng lời khuyên của mẹ để tự sách tấn đi vào tinh xá, ngồi trên chỗ mình thường ngồi, triển khai thiền quán và chứng quả A-la-hán. Suy tư trên hạnh phúc về quả chứng của mình, Vaddha đi đến mẹ và nói lên chánh trí của mình:

  1. Vi diệu thay, mẹ ta,
    Khích lệ, thúc đẩy ta,
    Những kệ thuộc chân đế,
    Với lòng từ thương tưởng.
  2. Ta nghe lời mẹ dạy,
    Lời giáo giới mẹ hiền,
    Ta hành pháp cảm kích,
    Ðạt an ổn khổ ách.
  3. Ta tinh tấn tinh cần,
    Ngày đêm không biếng nhác,
    Ðược mẹ khéo khích lệ,
    Ta chứng tịnh tối tượng.

Phẩm X

-ooOoo-

Tập Mười Kệ

(LXIII) Kisà Gotamì (Therì. 143)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình nghèo khổ, tên là Gota mì, vì nàng yếu đuối nên được gọi là Kisà Gotamì (Gotamì ốm yếu). Khi lập gia đình, nàng bị khinh thường và được gọi là con gái một người không có gì. Nhưng khi nàng có con, nàng được kính trọng. Khi người con lớn lên và có thể chạy được, nó chết, và nàng cảm thấy đau khổ, và nhớ đến sự đối xử với mình được thay đổi khi đẻ đứa con, nàng nghĩ: ‘Chúng sẽ giữ lấy con ta và đem bỏ vào nghĩa địa’. Nàng ôm đứa con chết vào lòng và đi vào từng nhà xin: ‘Hãy cho con tôi thuốc’. Và được trả lời: ‘Nay thuốc còn gì dùng nữa’. Nhưng nàng không hiểu. Có người thương xót khuyên nàng đến đức Phật để xin thuốc, Nàng đi đến tinh xá và xin đức Phật: ‘Hãy cho con tôi thuốc’. Bậc Ðạo Sư thấy được hy vọng tu chứng nơi nàng bèn nói: ‘Hãy đi đến nhà nào không có người chết, và đem lại một hột cải!’ Nàng vâng lời, đi vào nhà đầu tiên và yêu cầu như vậy, nhưng bị từ chối, vì trong nhà có người chết. Nàng đi vào nhiều nhà khác, được trả lời như vậy và nàng nghĩ: ‘Ðây có thể là bậc Ðạo Sư dạy khéo cho ta’, nên nàng đem dặt con nàng ở nghĩa địa và nói:

Pháp này không riêng làng,
Không riêng thành, gia tộc,
Không riêng cho một ai,
Cho đến toàn thế giới,
Kể cả các chư Thiên,
Ở tại mọi từng trời,
Pháp nhĩ là như vậy.
Tất cả là vô thường.

Rồi nàng đi đến bậc Ðạo Sư, và khi ngài hỏi có tìm được hột cải không, nàng trả lời: ‘Việc làm đã làm xong về hột cải. Hãy xác nhận cho con’.

Thế Tôn nói:

Tâm còn bị đắm say,
Con cái và súc vật,
Tử thần bắt người ấy,
Như lụt trôi làng ngủ
(Pháp cú, 287)

Khi đức Phật nói xong, nàng chứng được Sơ quả (quả Dự lưu) và xin được xuất gia. Ðức Phật chấp nhận và nàng được các Tỷ-kheo-ni cho thọ giới. Sau đó, không bao lâu nàng nghiên cứu về nguyên nhân của sự vật và khiến thiền quán tăng trưởng. Rồi bậc Ðạo Sư nói lên bài kệ:

Người sống một trăm năm,
Không thấy pháp sanh diệt,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp sanh diệt.
(Pháp Cú 113)

Khi đức Phật nói xong, nàng chứng quả A-la-hán. Vì nàng đặc biệt tu hạnh khắc khổ nên nàng mặc thô y, và đức Phật ngồi tại tinh xá Kỳ Viên đặt nàng vào hạnh mặc thô y đệ nhứt. Suy tư trên quả chứng của mình, nàng nói lên những bài kệ này trước mặt Thế Tôn, những bài kệ tán thán sự thân cận với các bậc Hiền Thánh:

  1. Bạn lành được ẩn sĩ,
    Khắp thế giới, ngợi khen,
    Thân cận với bạn lành,
    Kẻ ngu thành người trí.
  2. Hãy thân bậc chân nhân,
    Thân vậy, trí tăng trưởng,
    Thân cận bậc chân nhân,
    Mọi khổ đau được thoát.
  3. Hãy biết, Bốn thánh đế,
    Khổ và khổ tập khởi,
    Biết về đau khổ diệt,
    Và đoạn Thánh tám ngành.
  4. Khổ thay phận nữ nhân,
    Chính Ngài đã nói lên,
    Bậc đánh xe điều ngự,
    Những ai đáng điều ngự,
    Khổ thay phận chồng chung,
    Nhiều người một lần sanh.
  5. Trong đau khổ đâm họng,
    Mẹ yếu uống thuốc độc,
    Trường hợp gặp bào thai,
    Bị chết khi đang sanh,
    Cả hai mẹ và con,
    Ðều cùng gặp tai nạn.
  6. Khi mang thai đi về,
    Ta thấy chồng chết đường,
    Và khi ta sanh đẻ,
    Ta không về đến nhà.
  7. Hai con đều bị chết,
    Chồng nữ nhân khốn khổ,
    Lại bị chết giữa đường;
    Mẹ, cha và cả anh,
    Ðều cùng bị thiêu đốt,
    Dồn chung trên đống lửa.
  8. Ôi, nữ nhân khốn khổ,
    Sanh gia cảnh khốn cùng,
    Người phải chịu khổ đau,
    Vô lượng, không kể xiết.
    Nước mắt người đã khóc,
    Trải nhiều ngàn lần sanh.
  9. Ta thấy giữa nghĩa trang,
    Thịt con ta bị ăn,
    Gia đình bị tàn hại,
    Bị mọi người khinh bỉ,
    Tuy vậy, người chết chồng.
    Ðạt được sự bất tử.
  10. Ta tu tập Thánh đạo,
    Ðường tám ngành, bất tử,
    Ta chứng được Niết-bàn,
    Thấy được gương Chánh pháp.
  11. Trên ta, mũi tên đâm,
    Ðã được rút ra khỏi,
    Gánh nặng đã đặt xuống,
    Việc nên làm đã làm,
    Ta là Trưởng lão Ni,
    Kisà-Gotamì,
    Với tâm khéo giải thoát,
    Ta nói lên đời này.

Phẩm XI

-ooOoo-

Tập Mười Hai Kệ

(LXIV) Uppalavanna

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi, con gái của vị trưởng kho bạc. Vì da nàng màu tim của sen xanh, nàng được gọi là Uppalavannà. Khi nàng đến tuổi trưởng thành, vua và thường dân dành nhau đến cưới nàng. Vị trưởng kho bạc, không thể làm cho mọi người bằng lòng, nghĩ đến một kế để giải quyết. Ông cho gọi Uppalavannà và yêu cầu nàng xuất gia. Và vì căn cơ đã thuần thục, nàng nhận lời ngay, và được đưa đến tinh xá Tỷ-kheo-ni để xuất gia.

Sau một thời gian, khi nàng phụ trách công việc dọn dẹp phòng làm lễ Bố-tát, nàng thắp ngọn đèn quét phòng. Rồi lấy ngọn đèn làm tướng để thiền quán, không bao lâu nàng chứng được quả A-la-hán. Nàng trở thành vị thần thông đệ nhất.

Và bậc Ðạo Sư, ngồi giữa đại chúng ở Jetavana ấn chứng cho nàng là thần thông đệ nhất. Nàng suy tư trên quả an lạc của thiền và thánh quả, nói lên một số bài kệ. Ðây là những lời thốt ra tà miệng một bà mẹ trở thành tình địch với con gái của mình, đối với một người mà sau này trở thành vị Tỷ-kheo tên là Tỷ-kheo ở trên bờ sông Hằng. Những bài kệ này nói lên sự nguy hiểm, sự hạ liệt và sự uế nhiễm của các dục:

I

  1. Hai, mẹ và con gái,
    Chúng tôi sống một chồng,
    Lời nàng đã nói lên
    Làm ta xúc động mạnh,
    Cảnh ngộ thật hy hữu,
    Làm tóc lông dựng ngược.
  2. Ðáng ngán thay các dục,
    Bất tịnh, hôi, nhiều gai,
    Ở đây, mẹ, con gái,
    Chúng tôi lấy một chồng.
  3. Thấy nguy hiểm trong dục,
    Viễn ly an ổn vững
    Nàng xuất gia Vương Xá,
    Bỏ nhà, sống không nhà.

II

Sung sướng nàng nói lên quả chứng của mình.

  1. Ta biết các đời trước,
    Thiên nhãn được thanh tịnh,
    Trí biết được tâm người,
    Nhĩ giới được trong sạch.
  2. Ta chứng được thần thông,
    Lậu tận ta đạt được,
    Ta chứng sáu thắng trí,
    Lời Phật dạy, làm xong.

III

Nàng hiện lên một thần thông với sự chấp thuận của bậc Ðạo Sư và ghi như sau:

  1. Do hiện hóa thần thông,
    Ta đến xe bốn ngựa,
    Ta đảnh lễ chân Phật,
    Thế giới chủ, quang vinh.

IV

Nàng bị Ác ma đến quấy phá, tại rừng cây Sàla và trách móc Ác ma.

Ác ma:

  1. Nàng đi đến gốc cây,
    Ðang nở hoa tuyệt đẹp,
    Nàng đến, đứng một mình,
    Dưới gốc cây có hoa!
    Nàng đến chỉ một mình;
    Này kẻ dại khờ kia,
    Sao nàng lại không sợ,
    Có kẻ cám dỗ nàng!

Nàng:

  1. Trăm ngàn người cám dỗ,
    Có đến đây như ngươi,
    Mảy lông ta không động,
    Ta không gì hoảng hốt,
    Ác ma, làm gì ta,
    Khi ngươi đến một mình.
  2. Ta có thể biến mất,
    Hay vào bụng nhà ngươi,
    Ta đứng giữa hàng mi,
    Ngươi không thấy ta đứng.
  3. Với tâm khéo nhiếp phục,
    Thần túc khéo tu trì,
    Sáu thắng trí, ta chứng,
    Lời Phật dạy, làm xong.
  4. Các dục giống gươm giáo,
    Chém nát các uẩn ta,
    Những dục mà ngươi gọi,
    Là lạc thú cuộc đời.
    Ngày nay, dục lạc ấy.
    Với ta, không hấp dẫn.
  5. Ở tất cả mọi nơi,
    Hỷ lạc được đoạn tận,
    Khối tối tăm mù ám,
    Ðã bị làm tan nát,
    Hỡi này kẻ Ác ma,
    Ngươi hãy biết như vậy,
    Ngươi chính là Ác ma,
    Ngươi đã bị bại trận.

Phẩm XII

-ooOoo-

Tập Mười Sáu Kệ

(LXV) Punnà hay Punnikà (Therì. 146)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi, trong gia đình ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) con gái của một người nô lệ. Nàng chứng được quả Dự lưu khi nghe kinh Sư tử hống (Trung Bộ Kinh, kinh số 11 hay 12). Về sau, sau khi nàng hóa độ được một Bà-la-môn tin tưởng nhờ nước làm cho thanh tịnh và được cảm tình của ông chủ, nàng được thoát ly khỏi giới nô lệ, và với sự bằng lòng của ông chủ, nàng được xuất gia. Và nhờ triển khai thiền quán, nàng chứng quả A-la-hán với hiểu pháp và hiểu nghĩa. Suy tư trên quả chứng của mình, nàng nói lên những bài kệ như sau:

  1. Mùa đông ta mang nước,
    Luôn luôn xuống dòng nước,
    Ta sợ các hình phạt,
    Lời trách móc các bà.
  2. Hỡi này Bà-la-môn,
    Ngươi sợ hãi vì ai?
    Luôn luôn xuống dòng nước,
    Tay chân run cầm cập.
    Ngươi phải chịu cảm thọ,
    Rét lạnh quá độ vậy?
  3. Và nàng có biết chăng
    Hỡi này Punnikà?
    Sao nàng lại đến hỏi
    Vị làm các nghiệp lành,
    Vị đã chận đứng lại,
    Các nghiệp ác bất thiện.
  4. Vị ấy già hay trẻ,
    Làm các nghiệp ác độc,
    Người ấy nhờ rảy nước,
    Ðược giải thoát ác nghiệp.
  5. Ai nói với ngươi vậy,
    Kẻ ngu với kẻ ngu,
    Người tin nhờ rảy nước,
    Ðược giải thoát ác nghiệp.
  6. Tất cả những ếch, rùa,
    Sẽ được lên cõi trời,
    Cùng các rắn cá sấu,
    Và các thủy vậy khác.
  7. Kẻ giết bò giết heo,
    Kẻ đánh cá sanh thú,
    Các kẻ cướp giết người,
    Các người làm ác khác,
    Họ nhờ có rảy nước,
    Có thể thoát ác nghiệp.
  8. Nếu những con sông này,
    Có thể làm trôi mất,
    Ác nghiệp xưa ngươi làm,
    Chúng cũng làm trôi luôn,
    Các thiện nghiệp ngươi làm,
    Khiến ngươi thành rỗng không.
  9. Phạm chí vì cái gì,
    Ngươi sợ phải xuống nước,
    Cái ấy chớ có làm,
    Chớ để lạnh hại da.
  10. Ta đi theo tà đạo,
    Nàng hướng ta Thánh đạo,
    Thưa nàng ta cho nàng,
    Cái áo thấm nước này.
  11. Ngươi giữ cái áo lại,
    Ta không muốn cái áo!
    Nếu ngươi sợ đau khổ,
    Nếu ngươi không thích khổ.
  12. Chớ làm các điều ác,
    Công khai hay kín đáo,
    Nếu ngươi làm sẽ làm,
    Làm các điều ác nghiệp.
  13. Ngươi không thoát đau khổ,
    Dầu thấy đến, ngươi chạy,
    Nếu ngươi sợ đau khổ,
    Không ưa thích đau khổ.
  14. Hãy đến quy y Phật,
    Quy y Pháp và Tăng,
    Hãy chấp nhận Giới luật,
    Ngươi sẽ được lợi ích.
  15. Ta đến quy y Phật,
    Quy y Pháp và Tăng,
    Ta chấp nhận Giới luật,
    Ta sẽ được lợi ích,
  16. Trước ta là bà con,
    Với tộc họ Phạm thiên,
    Nay ta là Phạm chí,
    Chân thật là như vậy,
    Ta chứng ngộ Ba minh,
    Ðầy đủ trí Vệ-đà,
    An ổn đến với ta,
    Tâm tư được gột sạch.

Vị Bà-la-môn quy y và thọ năm giới. Về sau được nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp trở thành một thiện nam và xuất gia. Nhờ tinh cần tu tập không bao lâu chứng được Ba minh, và nghĩ đến quả chứng của mình, nói lên bài kệ này. Và vị Tỷ-kheo-ni, lập lại bài kệ ấy trở thành bài kệ của mình.

Phẩm XIII

-ooOoo-

Tập Hai Mươi Kệ

(LXVI) Ambapàlì (Therì. 147)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh dưới một gốc cây xoài trong vườn vua Vesàli và được gọi là Ambapàli. Nàng rất đẹp nên đến khi lớn lên nhiều vương tôn công tử cạnh tranh để chiếm đoạt nàng. Về sau để tránh những cạnh tranh ấy và cũng do nghiệp lực của nàng, nàng trở thành một kỹ nữ. Vì lòng tin đối với bậc Bổn Sư, nàng xây dựng một tinh xá trong ngôi vườn của nàng và cúng cho đức Phật và chúng Tăng. Khi nàng nghe con nàng, tức là Trưởng lão Vimalakondanna thuyết pháp, nàng triển khai thiền quán về lý vô thường, như thân nàng, chứng Tam minh và nàng nói lên những bài kệ sau đây:

  1. Ðen như sắc con ong,
    Tóc dài ta khéo uốn,
    Nay biến đổi vì già,
    Như vải gai, vỏ cây,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  2. Thơm như hộp ướp hương,
    Ðầu ta đầy những hoa,
    Nay biến đổi vì già,
    Hôi như lông con thỏ,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  3. Như rừng khéo vun trồng,
    Lược kim tu chói sáng,
    Nay biến đổi vì già,
    Tóc lơ thơ rơi rụng,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật
  4. Trang điểm với bện tóc,
    Sáng chói nữ trang vàng,
    Tóc mềm mại êm dịu,
    Thơm ngát với mùi hương,
    Nay biến đổi vì già,
    Rơi rụng đầu sói trọc,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  5. Trước lông mày của ta,
    Chói sáng khéo tô vẽ,
    Nay biến đổi vì già,
    Nhăn nheo, rơi suy sụp,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  6. Mắt ta xanh và dài,
    Sáng đẹp như châu báu,
    Nay biến đổi vì già,
    Hư hại không chói sáng,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  7. Lỗ mũi mềm và thon,
    Sáng chói và trẻ măng,
    Nay biến đổi vì già,
    Héo khô và tàn tạ,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  8. Trước tai ta sáng chói,
    Như vàng vòng khéo làm,
    Nay biến đổi vì già,
    Nhăn nhiu chảy xệ xuống,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  9. Trước răng ta sáng chói,
    Như búp nụ chuối hoa,
    Nay biến đổi vì già,
    Bể gãy vàng như lúa,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  10. Ngọt là giọng nói ta,
    Như chim cu hót rừng,
    Nay biến đổi vì già,
    Tiếng bể bị đứt đoạn,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  11. Trước cổ ta chói sáng,
    Mềm đầy đặn nhu nhuyến,
    Nay biến đổi vì già,
    Nhiều ngấn và khô cằn,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  12. Trước cánh tay của ta,
    Sáng như hai cột tròn,
    Nay biến đổi vì già,
    Như hoa kèn yết ớt,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  13. Trước bàn tay của ta,
    Mềm mại như cành hoa,
    Sáng như nữ trang vàng,
    Nay biến đổi vì già,
    Như rễ cây khô cằn,
    Nhăn nhiu và thô nhám,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  14. Trước vú ta sáng chói,
    Căng thẳng và tròn đầy,
    Nay biến đổi vì già,
    Trống rỗng treo lủng lẳng,
    Như da không có nước,
    Trống không, không căng tròn,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  15. Trước thân ta chói sáng,
    Như giáp vàng đánh bóng,
    Nay biến đổi vì già,
    Ðầy vết nhăn nhỏ xíu,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  16. Trước bắp vế của ta,
    Sáng chói như vòi voi,
    Nay biến đổi vì già,
    Giống như những ống tre,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  17. Trước ống chân của ta,
    Mềm mại như vòng vàng,
    Nay biến đổi vì già,
    Chẳng khác gậy cây mè,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  18. Trước chân ta chói sáng,
    Với lông mềm như bông,
    Nay biến đổi vì già,
    Nứt nẻ đầy đường nhăn,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  19. Thân này là như vậy,
    Nay già chứa nhiều khổ,
    Ngôi nhà đã cũ kỹ,
    Vôi trét tường rơi xuống,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.

Và vị trưởng lão Ni, thấy được những hình tướng vô thường trên thân của mình, nhận thức được tánh vô thường của ba giới: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới, tâm tư quán triệt tánh Vô thường, Khổ, Vô ngã, và phát triển tuệ quán trên con đường tu tập chứng được quả A-la-hán.

(LXVII) Rohinì (Therì. 150)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Vesali trong nhà một phú gia Bà-la-môn và được đặt tên là Rohinì (con bò đỏ, nâu). Ðến tuổi trưởng thành, khi đức Phật còn ở Vesali, nàng đến nghe pháp, chứng được quả Dự lưu. Rồi nàng giảng pháp cho cha mẹ, cha mẹ chấp nhận pháp và cho phép nàng xuất gia. Nàng khai triển thiền quán và không bao lâu chứng quả A-la-hán với hiểu biết về nghĩa và về pháp.

Suy tư đến một cuộc đàm thoại về pháp với phụ thân, khi nàng mới chứng quả Dự lưu, nàng nói lên sự phấn khởi của nàng với những bài kệ sau đây về nội dung cuộc đàm thoại:

  1. Nàng chỉ cho ta thấy,
    Ðây là một Sa-môn,
    Nàng thức ta tỉnh dậy,
    Ðây là một Sa-môn,
    Nàng khen tặng Sa-môn,
    Muốn thành nữ Sa-môn.
  2. Nàng tìm cho Sa-môn
    Rất nhiều đồ ăn uống,
    Này hỡi, Rô-hi-ni,
    Sao nàng quý Sa-môn?
  3. Họ nhác không thích làm,
    Sống với đồ người cho,
    Họ ham lợi thích ngọt,
    Sao nàng quý Sa-môn?
  4. Cha thân đã lâu rồi,
    Cha hỏi về Sa-môn,
    Con sẽ tán thán họ
    Tuệ giới hạnh tinh cần.
  5. Họ thích làm không nhác,
    Họ làm việc tối thắng,
    Họ trừ bỏ tham sân,
    Vì vậy con quý họ.
  6. Ba cội gốc điều ác,
    Họ quét sạch thanh tịnh,
    Mọi điều ác đoạn tận,
    Vì vậy con quý họ.
  7. Thân nghiệp họ trong sạch,
    Khẩu nghiệp họ cũng vậy,
    Ý nghiệp họ trong sạch,
    Do vậy con quý họ.
  8. Không cấu uế giải thoát,
    Như vỏ ốc trong sạch,
    Trong sạch cả bên trong,
    Trong sạch cả bên ngoài,
    Công đức họ trắng tinh,
    Do vậy con quý họ.
  9. Nghe nhiều thọ trì pháp,
    Mạng sống đúng Chánh pháp,
    Họ thuyết nghĩa thuyết pháp,
    Do vậy con quý họ.

280-281. Nghe nhiều thọ trì pháp,
Mạng sống đúng Chánh pháp,
Nhứt tâm giữ chánh niệm,
Lời sáng suốt khiêm nhường
Họ chấm dứt đau khổ,
Do vậy con quý họ.

  1. Từ làng họ ra đi,
    Không nhìn ngó vật gì,
    Họ đi không mong chờ,
    Do vậy con quý họ.
  2. Không tìm cầu kho tàng,
    Không kho chứa, kho cất,
    Họ tầm cầu cứu cánh,
    Do vậy con quý họ.
  3. Họ không nắm giữ tiền,
    Không nắm vàng, nắm bạc,
    Họ sống với hiện tại,
    Do vậy con quý họ.
  4. Từ gia đình quốc độ,
    Họ xuất gia khác nhau,
    Nhưng họ thương kính nhau,
    Do vậy con quý họ.
  5. Hỡi này Rô-hi-ni,
    Nàng sanh trong gia đình,
    Nàng đem lại hạnh phúc,
    Cho gia đình chúng tôi,
    Nàng tin Phật, Pháp, Tăng,
    Lòng tín kính sắc bén.
  6. Nàng biết rõ cái này,
    Là ruộng phước vô thượng,
    Chúng tôi cùng tín kính,
    Các vị Sa-môn này,
    Tế đàn thiết lập đây,
    Ðối với tôi rất lớn.
  7. Nếu cha sợ đau khổ,
    Nếu cha không thích khổ,
    Hãy quy y Phật-đà,
    Quy y Pháp và Tăng,
    Hãy chấp nhận giới đức,
    Cha sẽ được hạnh phúc.
  8. Tôi quy y Phật-đà,
    Quy y Pháp và Tăng,
    Tôi chấp nhận giới luật,
    Tôi sẽ được hạnh phúc.
  9. Lúc trước ta chỉ là,
    Bà con của Phạm thiên,
    Nay ta thật chính là,
    Một vị Bà-la-môn,
    Ta chứng đạt Ba minh,
    Ðược an toàn yên ổn,
    Ba Vệ-đà chứng ngộ,
    Ta tắm rửa thật sạch.

Và vị Bà-la-môn sau khi thọ quy y và các giới, xin xuất gia và chứng quả A-la-hán. Nghĩ đến sự chứng quả của mình, vị này nói lên những câu kệ cuối cùng để tỏ lộ sung sướng của mình.

(LXVIII) Càpà (Therì. 151)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở xứ Vankahàra, trong làng những người thợ săn đặt bẫy mồi, con người chủ thợ săn và được đặt tên là Càpà. Trong lúc ấy, Upaka một ẩn sĩ khổ hạnh, gặp đức Bổn Sư khi Ngài đi từ Bồ đề đạo tràng đến Ba-la-nại để chuyển pháp luân và hỏi ngài: ‘Này Ngài, hình như Ngài được dồi dào sức khỏe. Da của Ngài thật trong sáng. Này Ngài, Ngài từ ai xuất gia? Vị Ðạo Sư của Ngài là ai? Hay ngài tin tưởng giáo lý gì?’ Và bậc Ðạo Sư trả lời như sau:

Ta chinh phục tất cả,
Mọi sự việc, Ta biết,
Sống giữa vật không nhiễm,
Ta từ bỏ tất cả,
Mệnh chung, ác đoạn tận
Kiến thâm sâu, Ta chứng,
Ta chỉ ai cho ông,
Ta không có Bổn Sư,
Trên đời đứng một mình,
Không ai sánh bằng Ta.
Nay Ta đang đi đến,
Thành phố Ba-la-nại,
Ðể vận chuyển Pháp luân,
Quay bánh xe Chánh pháp
Thức tỉnh và hướng dẫn,
Quần chúng đang mê muội,
Ðánh tiếng trống bất tử,
Rưới cam lồ giải thoát.

Vị ẩn sĩ, biết được sự giác ngộ và sứ mệnh của Ngài nên nói: ‘Này Ngài, mong rằng sự việc sẽ như Ngài nói, Ngài xứng đáng là bậc chiến thắng bất diệt’. Rồi Upaka đi con đường tắt đến Vankahara, và sống gần chỗ các người thợ săn. Người chủ thợ săn lo cung phụng cho Upaka. Một hôm, người chủ đoàn thợ săn đi bắn xa với các con trai và anh em, bảo Càpà lo cúng dường cho Upaka. Nhưng Càpà rất đẹp và khi Upaka đến tại nhà để khất thực, Upaka mê say sắc đẹp của nàng, đến nỗi ăn không được, phải đem thức ăn về nhà và nguyện thà chịu chết nếu không lấy được Càpà. Sau bảy ngày, người chủ thợ săn trở về hỏi vị A-la-hán của mình ở đâu, và được biết Upaka chỉ đến nhà mình một lần đầu rồi thôi không đến nữa. Người thợ săn tìm kiếm đến Upaka và Upaka than khóc thú nhận sự đắm say của mình. Người thợ săn hỏi Upaka có biết nghề gì không, Upaka trả lời là không và chịu đi lượm các loài chim thú bị bắt được và đem bán. Người thợ săn bằng lòng cho Upaka một cái áo khoác ngoài đưa về nhà và gả Càpà cho. Sau một thời gian Càpà sanh được một người con trai và đặt tên là Subhadda. Khi đứa con khóc, Càpà liền hát lên như sau để chế nhạo chồng mình; ‘Con của Upaka! Con của vị ẩn sĩ! Con kẻ bán đồ săn! Chớ khóc, chớ khóc này con’. Cuối cùng Upaka tức quá trả lời: ‘Này Càpà, đừng nghĩ rằng không có ai che chở cho ta! Ta có một người bạn, một vị chiến thắng bất diệt, ta sẽ đến với người bạn ấy’. Càpà biết chồng mình tức giận, nhưng vẫn trêu chọc chồng mình, cho đến một hôm Upaka cương quyết ra đi. Nàng cố cản ngăn nhưng không được và cuối cùng Upaka ra đi để gặp Thế Tôn ở Sàvatthi. Thế Tôn dặn các Tỷ-kheo khi nào có ai đến hỏi: ‘Vị chiến thắng bất diệt ở đâu?’ thời đưa người ấy vào gặp đức Phật. Khi Upaka đến tịnh xá và hỏi: ‘Vị chiến thắng bất diệt ấy ở đâu?’ Các Tỷ-kheo đưa Upaka đến gặp đức Phật. Ðức Phật cho Upaka xuất gia và cuối cùng Upaka chứng được quả Bất lai. Sau khi mạng chung Upaka được sanh lên cõi Trời Aviha, và khi tái sanh, Upaka chứng được quả A-la-hán.

Còn Càpà, đau buồn vì chồng bỏ đi, giao con lại cho ông ngoại đi theo Upaka, xin được xuất gia và chứng được quả A-la-hán và lấy bài kệ của Upaka, hợp chung với bài kệ của mình, nàng nói lên sự phấn khởi của mình:

Upaka nói:

  1. Ta trước tay cầm gậy,
    Nay ta thành thợ săn,
    Sa lầy đầm khốn cùng,
    Ta không đến bờ kia.
  2. Càpà chọc đứa con,
    Mỉa mai ta say đắm,
    Chặt trói buộc Càpà,
    Ta nay đã xuất gia.

Càpà nói:

  1. Chớ có tức giận em,
    Hỡi bậc đại chiến thắng,
    Chớ có tức giận em,
    Hỡi bậc đại ẩn sĩ,
    Kẻ bị giận chi phối,
    Khổ hạnh khó thanh tịnh.
  2. Ta sẽ rời Nàlà!
    Ai ở lại Nàlà,
    Khi nếp sống đúng pháp,
    Tại đấy vị Sa-môn,
    Bị sắc đẹp nữ nhân,
    Trói buộc vào quyến rũ.
  3. Hãy trở lui thưa chàng,
    Chàng mắt đen của thiếp,
    Hãy hưởng thọ dục lạc,
    Như trước chàng đã hưởng,
    Thiếp xin phục tùng chàng,
    Lại còn bà con thiếp.
  4. Này Càpà phần tư,
    Ðiều nàng đã nói lên,
    Ðôi kẻ say mê nàng,
    Có thể thành lớn mạnh.
  5. Chàng mắt đen của thiếp,
    Thiếp chẳng đẹp hay sao,
    Như cây lựu nẩy mầm,
    Nở hoa trên đầu núi,
    Như giây leo giăng hoa,
    Hay như bông thổi kèn,
    Trong nội địa hoang đảo,
    Hãy nhìn sắc đẹp thiếp.
  6. Ướp thơm với mùi hương,
    Hương chiên đàn đỏ thắm,
    Thiếp mang lụa Kàsi,
    Lụa Kàsi tối thượng,
    Thiếp đẹp như thế này,
    Sao chàng bỏ rơi thiếp.
  7. Như thợ săn bắt chim,
    Muốn dùng mồi bắt chim,
    Dầu bủa giăng sắc đẹp,
    Nàng không trí ta được!
  8. Còn quả con trai này,
    Do chàng sanh ra thiếp,
    Chàng mắt đen của thiếp,
    Sao chàng lại từ bỏ,
    Ðứa con trai của thiếp,
    Ðứa con trai của chàng.
  9. Bậc trí bỏ con trai,
    Bỏ bà con, tài sản,
    Bậc đại hùng xuất gia,
    Như voi biết trói buộc.
  10. Con trai này của chàng,
    Nay thiếp dùng gậy dao,
    Ðánh ngã nó trên đất,
    Hãy tự cứu cho chàng,
    Vì sầu muộn đứa con,
    Chàng không thể bỏ đi.
  11. Nếu nàng quăng con trai
    Cho chó sói, loài chó,
    Kẻ sanh con trai ta,
    Không động lòng trắc ẩn,
    Nàng sẽ không làm được,
    Khiến ta trở lui lại.
  12. Nay mong chàng tốt lành,
    Chàng mắt đen của thiếp!
    Chàng sẽ đi đến đâu?
    Làng nào, thị trấn nào,
    Chàng đi thành phố nào?
    Chàng đi kinh đô nào?
  13. Xưa đời sống chúng tôi,
    Tổ chức thành đồ chúng!
    Không phải là Sa-môn,
    Chúng tôi tưởng Sa-môn!
    Chúng tôi sống bộ hành,
    Làng này qua làng khác,
    Sống trong những thành phố,
    Cũng như tại thủ đô.
  14. Nay thật Thế Tôn này,
    Dọc bờ sông Ni-liên,
    Ngài thuyết giảng Chánh pháp,
    Cho các loài hữu tình,
    Ðoạn tận mọi khổ đau,
    Ta nay đi đến Ngài,
    Ngài sẽ là Ðạo Sư,
    Ðạo Sư của chúng ta.
  15. Nay chàng đi đảnh lễ,
    Bậc Thế Tôn vô thượng!
    Ði hữu nhiễu quanh Ngài!
    Dâng Ngài lòng cung kính.
  16. Càpà, như nàng nói!
    Lợi ích cả hai ta!
    Nay ta thay mặt nàng,
    Lễ Thế Tôn vô thượng,
    Ði hữu nhiễu quanh Ngài,
    Ta dâng lòng cung kính.
  17. Rời Kàla ra đi,
    Dọc sông Ni-liên-thiền,
    Thấy bậc Chánh Ðẳng giác,
    Thuyết pháp đạo bất tử.
  18. Thuyết khổ, khổ tập khởi!
    Vượt qua sự dau khổ,
    Thuyết đường Thánh tám ngành,
    Ðưa đến khổ tịnh chỉ.
  19. Ðảnh lễ chân Ngài xong,
    Hữu nhiễu quanh Ngài xong,
    Trình lên lời ước nguyện,
    Của Càpà vợ chàng!
    Rồi chàng xin xuất gia,
    Sống đời không gia đình,
    Chứng đạt được Ba minh,
    Làm xong lời Phật dạy.

(LXIX) Sundàrì (Therì. 153)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Benares (Ba-la-nại), con cái của Sujata, một Bà-la-môn. Vì thân nàng đẹp đẽ, nàng được gọi là Sundarì, khi nàng lớn, em trai nàng chết. Cha nàng quá đau khổ đi lang thang và gặp Trưởng lão Ni Vasitthi. Khi Trưởng lão Ni hỏi cha nàng bị đau khổ gì, cha nàng trả lời bằng hai câu kệ đầu. Ðể làm nhẹ bớt đau khổ, Trưởng lão Ni nói hai câu kệ tiếp, và nói lên tâm trạng giải thoát khỏi đau khổ của nàng. Vị Bà-la-môn hỏi làm sao Trưởng lão Ni lại được giải thoát khỏi đau khổ như vậy. Vị Trưởng lão Ni trả lời về Ba ngôi báu và quy y. Khi được biết bậc Ðạo Sư nay ở Mithilà, vị Bà-la-môn đánh xe đến Mithilà, yết kiến đức Phật. Ðức Phật thuyết pháp, vị Bà-la-môn khởi lòng tin, xin xuất gia, vào ngày thứ ba chứng quả A-la-hán, sau khi tinh tấn, tinh cần phát triển thiền quán.

Người đánh xe, đánh xe về nhà Bà-la-môn và nói cho nữ Bà-la-môn sự việc đã xảy ra. Sundarì nghe vậy, nàng xin mẹ xuất gia. Bà mẹ nói nay toàn thể tài sản đều thuộc của nàng, hãy thọ hưởng tài sản ấy. Sundarì nói tài sản không có nghĩa gì đối với nàng, nàng chỉ muốn xuất gia. Sau khi được bà mẹ bằng lòng, nàng bỏ cả tài sản như những vật vô giá trị. Nhờ tinh cần tinh tấn, nhờ chủng tử tốt lành, nhờ trí tuệ chín muồi, không bao lâu nàng chứng quả A-la-hán, với hiểu biết về nghĩa và về pháp.

Sống trong sự an lạc giải thoát, nàng nghĩ: ‘Ta sẽ rống lên tiếng rống con sư tử trước mặt bậc Ðạo Sư!’. Sau khi xin phép bậc thầy của mình nàng rời khỏi Benares, với một số đông Tỷ-kheo-ni, và cuối cùng đến Sàvatthi, yết kiến đức Phật, đảnh lễ Ngài rồi đứng một bên. Nàng nói lên chánh trí của nàng, xem nàng như là con gái sanh ra từ miệng đức Bổn Sư. Và tất cả bà con nàng, bắt đầu từ mẹ nàng và các người hầu cận đều xuất gia. Suy nghĩ đến quả chứng của mình và dùng lời tuyên bố của người cha, nàng nói lên sự phấn khởi của nàng như sau:

Sujàta:

  1. Hỡi nữ Bà-la-môn,
    Những con nàng đã chết,
    Trong thời gian quá khứ,
    Thần chết ăn nghiến chúng,
    Cả ngày và cả đêm
    Khổ đau nung nấu nàng.
  2. Nay có đến bảy con
    Bị thần chết vồ lấy,
    Nhưng này Vàsitthi
    Chính vì lý do gì?
    Nàng không bị đau khổ,
    Não hại và nung nấu?

Vàsitthi:

  1. Nhiều trăm con trai ta
    Hàng trăm chúng bà con,
    Ðã bị thần chết ăn,
    Của ta và của ngươi!
  2. Ta biết đường giải thoát,
    Khỏi sanh và khỏi chết,
    Ta không sầu, không khóc,
    Ta không bị nung nấu.

Sujàta:

  1. Hỡi nàng Vàsitthi
    Vi diệu thay, lời người!
    Nàng biết pháp của ai,
    Nàng nói được như vậy?

Vàsitthi:

  1. Hỡi này, Bà-la-môn,
    Bậc Chánh Ðẳng Giác này,
    Ở thành Mithìla,
    Ngài thuyết cho hữu tình,
    Chánh pháp thật vi diệu,
    Ðoạn tận mọi khổ đau!
  2. Hỡi này Bà-la-môn,
    Ta nghe La-hán ấy,
    Thuyết pháp không sanh y,
    Ở đây nhờ hiểu rõ
    Ta biết pháp vi diệu
    Sầu vì con quét sạch.

Sujàta:

  1. Con sẽ đi ngay đến
    Thành phố Mithìla!
    Mong bậc Thế Tôn ấy,
    Giúp con thoát mọi khổ,
    Bà-la-môn thấy Phật,
    Bậc giải thoát mọi khổ.
  2. Bà-la-môn thấy Phật,
    Bậc giải thoát vô sanh
    Bậc Mâu-ni, vượt khổ
    Thuyết pháp cho vị ấy.
  3. Thuyết khổ, khổ tập khởi,
    Vượt qua sự đau khổ,
    Thuyết Thánh đạo tám ngành,
    Con đường lắng dịu khổ.
  4. Ở đây, hiểu Diệu pháp,
    Hoan hỷ chọn xuất gia,
    Sujàta ba đêm,
    Chứng đạt được Ba minh.
  5. Hãy đi, người đánh xe,
    Ðánh xe này về nhà,
    Chức nữ Bà-la-môn,
    Ðược sức khỏe, không bệnh,
    Và nói vị Phạm chí
    Nay đã xuất gia rồi,
    Sujàta ba đêm,
    Chứng đạt được Ba minh.
  6. Người đánh xe lấy xe,
    Cùng với ngàn đồng tiền,
    Chức nữ Bà-la-môn,
    Ðược sức khỏe, không bệnh
    Và nói vị Phạm chí,
    Nay đã xuất gia rồi,
    Sujàta ba đêm
    Chứng đạt được Ba minh.

Mẹ của Sundarì:

  1. Hỡi này người đánh xe,
    Xe ngựa, ngàn tiền này,
    Khi nghe vị Phạm chí
    Ðã đạt được Ba minh,
    Ta cho người đầy bát
    Cả xe và ngàn tiền.
  2. Hỡi nữ Bà-la-môn!
    Hãy giữ lại cho người,
    Xe ngựa và ngàn tiền,
    Tôi sẽ đi xuất gia,
    Sống thân cận gần gũi
    Bậc trí tuệ tối thắng.
  3. Voi, trâu bò và ngựa,
    Châu báu và vòng vàng,
    Những gì làm gia tài,
    Trở nên giàu có này,
    Cha con đã xuất gia,
    Ðã bỏ lại tất cả….
    Này con Sundarì,
    Con thừa tự gia đình,
    Hãy thọ hưởng tài sản,
    Của đại gia đình này,
  4. Voi, trâu bò và ngựa,
    Châu báu và vòng vàng,
    Những gì làm gia tài,
    Trở nên cám dỗ nàng;
    Sầu khổ vì đứa con,
    Cha con đã xuất gia,
    Ðã từ bỏ tất cả
    Gia sản sự nghiệp này,
    Con nay sẽ xuất gia,
    Sầu khổ vì anh con
  5. Hỡi này Sundarì
    Nếu đấy ước nguyện con,
    Mong rằng tâm tư ấy,
    Ðược thành tựu viên mãn;
    Nuôi sống bằng đồ ăn,
    Tích lũy nhờ khất thực,
    Y áo được tác thành,
    Với miếng vải lượm lặt,
    Những nếp sống như vậy,
    Ðược thành tựu viên mãn,
    Khiến lậu hoặc đoạn tận,
    Trong thế giới đời sau.

Sundarì:

  1. Kính thưa Trưởng lão Ni,
    Con đã học, tu tập,
    Thiên nhãn được thanh tịnh,
    Con biết các đời trước,
    Tại chỗ con được sống,
    Trước kia như thế nào.
  2. Nhờ Ni sư, con được
    Ôi, bạn lành của con!
    Bậc sáng chói tốt đẹp,
    Trong chúng Trưởng lão Ni!
    Ba minh đã chứng đạt,
    Lời Phật dạy, làm xong.
  3. Ni sư hãy cho phép
    Con đi đến Xá Vệ!
    Con sẽ rống vang lên,
    Tiếng rống con sư tử!
    Trước mặt bậc Giác ngộ,
    Phật-đà, bậc tối thượng.
  4. Hỡi này Sundarì,
    Nàng thấy bậc Ðạo Sư,
    Màu da, sắc màu vàng,
    Như vàng ròng sáng chói!
    Bậc Chánh Ðẳng, Chánh giác,
    Không điều gì sợ hãi,
    Bậc đã điều phục được,
    Kẻ chưa được điều phục.
  5. Ðang đi đến trước Ngài,
    Ngài thấy Sundarì!
    Ly tham không hệ lụy,
    Giải thoát, không sanh y,
    Ðã làm việc phải làm,
    Không còn các lậu hoặc.

335.Từ thành Ba-la-nại!
Con đã bước ra đi!
Con đến bậc Ðại hùng.
Con là Sundarì,
Con chính đệ tử Ngài!
Con đảnh lễ chân Ngài.

  1. Ngài là bậc Giác ngộ!
    Ngài là bậc Ðạo Sư!
    Con là con gái Ngài
    Ôi bậc Bà-la-môn!
    Con sanh từ miệng Ngài!
    Ðã làm việc phải làm,
    Không còn có lậu hoặc,
    Con là Sundarì
  2. Hiền nữ, Ta mừng con
    Ðường còn lại, không xa!
    Như vậy, bậc Tự điều,
    Ðảnh lễ chân Ðạo Sư!
    Bậc ly tham, ly hệ,
    Không hệ lụy trói buộc,
    Ðã làm việc phải làm,
    Không còn các lậu hoặc.

(LXX) Subhà, Con Người Thợ Vàng (Therì. 156)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con gái một người thợ vàng. Vì nàng rất đẹp, nên được gọi là Subhà. Khi nàng đến tuổi trưởng thành, khi đức Phật còn ở tại Ràjagaha, nàng đến yết kiến Ngài, khởi lòng tin tưởng, đảnh lễ ngài rồi ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư biết được căn cơ tâm tư thuần thục của nàng, tùy theo ý nguyện của nàng, Ngài thuyết pháp cho nàng về ly Bốn sự thật và nàng chứng được quả Dự lưu. Về sau, nàng nhận thấy sự khó khăn sống trong gia đình, xin xuất gia dưới sự hướng dẫn của bà Mahàpajàpati Gotamì, hướng tâm đến con đường siêu thoát. Thỉnh thoảng, các bà con của nàng mời nàng trở lại với đời, nói lên sự hấp dẫn của đời. Một hôm nàng thuyết pháp cho bà con của nàng, nói lên những nguy hiểm của đời sống cư sĩ, và ở đời thuyết pháp cho họ với hai mươi bốn bài kệ như sau và chữa cho họ thoát khỏi bệnh tham vọng. Rồi nàng phát triển thiền quán, gột sạch các căn cuối cùng nàng chứng được quả A-la-hán. Khi đã chứng quả A-la-hán, nàng nói như sau:

  1. Ta trước mặc áo trắng,
    Ðược nghe giảng Chánh pháp,
    Do ta không phóng dật,
    Chứng tri được chân lý.
  2. Nhờ vậy đối mọi dục,
    Không còn tham muốn lớn,
    Thấy sợ hãi thân kiến,
    Ta mong muốn viễn ly.
  3. Ta bỏ chúng bà con,
    Bỏ lao công, nô tỳ,
    Làng ruộng đất phì nhiêu,
    Khiến người thích hân hoan,
    Từ bỏ, ta xuất gia,
    Gia sản đâu có ít.
  4. Nhờ diệu pháp khéo thuyết,
    Ra đi, với lòng tin,
    Ta không thể hy cầu
    Vật gì thuận gia sản
    Vàng bạc ta đã bỏ,
    Sao lại đi đến chúng?
  5. Vàng bạc không giác ngộ,
    Không làm người an tịnh,
    Không hợp hạnh Sa-môn,
    Không phải tài sản thánh.
  6. Chính vàng hay bạc này
    Làm tham ái, đắm say,
    Làm con người ngu si,
    Làm tăng trưởng bụi trần,
    Nguy hiểm nhiều ưu não,
    Ðây, không gì trường cửu.
  7. Ðây, loài Người tham đắm,
    Phóng dật, tâm uế nhiễm,
    Chống đối thù địch nhau
    Rộng đường đấu tranh nhau.
  8. Giết hại, trói, tra tấn,
    Hao tài sầu, ưu tư
    Những ai chìm trong dục,
    Gặp phải nhiều tai họa.
  9. Vì sao bà con ta
    Giống như kẻ thù ta,
    Lại trói buộc ta vào,
    Trong vòng các dục lạc,
    Hãy biết ta xuất gia,
    Vì thấy dục đáng sợ.
  10. Bạc, vàng không có thể
    Ðoạn được các lậu hoặc,
    Các dục là thù địch,
    Sát nhân, chuyên giết hại,
    Chúng là kẻ oán thù,
    Là mũi tên, dây trói.
  11. Vì sao bà con ta
    Giống như kẻ thù ta,
    Lại trói buộc ta vào
    Trong vòng các dục lạc,
    Hãy biết ta xuất gia,
    Cạo tóc đắp đại y.
  12. Nuôi sống bằng đồ ăn,
    Tích lũy nhờ khất thực,
    Y áo được tác thành
    Với miếng vải lượm lặt
    Sống vậy, thích hợp ta,
    Cơ bản, sống không nhà.
  13. Dục đại sĩ từ bỏ
    Dục loài Trời, loài Người,
    Trú an ổn, giải thoát
    Không dao động an lạc.
  14. Chớ để ta đến dục,
    Trong dục, không an toàn,
    Dục, thù địch sát nhân
    Gây khổ, dụ đống lửa.
  15. Ðường hiểm, đầy sợ hãi,
    Ðầy khổ hoạn, gai góc,
    Tham ái đường gập ghềnh,
    Hoang si mê rộng lớn.
  16. Tai họa đầy hãi hùng,
    Các dục dụ đầu rắn,
    Kẻ ngu thích thú dục,
    Kẻ mù lòa phàm phu.
  17. Chúng sanh chìm bùn đục,
    Những kẻ không thấy đời,
    Họ không có rõ biết,
    Sự chấm dứt sanh tử.
  18. Loài Người vì nhân dục,
    Con đường đến ác thú,
    Phần nhiều đi đường ấy,
    Khiến tự ngã bệnh hoạn.
  19. Như vậy dục sanh thù,
    Nung nấu, làm uế nhiễm,
    Dục thuộc về thể vật,
    Trói người vào tử vong.
  20. Dục làm cho diên cuồng,
    Loạn ngôn tâm thác loạn,
    Làm uế nhiễm chúng sanh,
    Sắp rơi bẫy Ác ma.
  21. Dục nguy hiểm không cùng,
    Nhiều khổ, thuốc độc lớn,
    Ngọt ít, tạo đấu tranh,
    Héo tàn ngày tươi sáng.
  22. Ta quyết định như vậy,
    Không trở lui dục nhân,
    Tác thành điều bất hạnh,
    Luôn vui hưởng Niết-bàn.
  23. Quyết đấu tranh với dục,
    Chờ đợi, mát, lắng dịu,
    Sẽ sống không phóng dật,
    Ðoạn diệt kiết sử dục.
  24. Ta đi theo đường ấy
    Ðường đại sĩ đi qua,
    Không sầu, không cấu uế,
    An ổn, thẳng, Tám ngành.
  25. Hãy xem Subhà này,
    An trú trên Chánh pháp,
    Con gái một thợ vàng,
    Ðạt được không tham dục,
    Ngồi hành trì thiền định,
    Ở dưới một gốc cây.
  26. Hôm nay, ngày mồng tám
    Từ khi nàng xuất gia,
    Với lòng đầy tin tưởng,
    Sáng chói chân Diệu pháp,
    Up-pa-la-van-na,
    Huấn luyện giảng dạy nàng,
    Nàng chứng được Ba minh,
    Vượt qua được thần chết.
  27. Nàng tự mình giải thoát,
    Không còn có nợ nần.
    Là vị Tỷ-kheo-ni,
    Các căn được tu tập,
    Ly hệ mọi khổ ách,
    Việc cần làm làm xong,
    Ðối với các lậu hoặc,
    Nàng đoạn diệt hoàn toàn.
  28. Sakka đến với nàng,
    Cùng với chúng chư Thiên,
    Với thần thông diệu dụng,
    Chúng đảnh lễ Subhà,
    Nàng chỉ là con gái,
    Con một người thợ vàng,
    Nhưng nay là hội chủ,
    Của mọi loài chúng sanh.

Vào ngày thứ tám, khi nàng đã thọ giới, nàng chứng quả A-la-hán. Thế Tôn ngồi dưới một cành cây, nói lên bài kệ (362-364) để tán dương nàng và chỉ nàng cho các Tỷ-kheo biết. Câu kệ cuối cùng do các Tỷ-kheo thêm vào để tán dương Sakka đã đến đảnh lễ nàng.

Phẩm XIV

-ooOoo-

Tập Ba Mươi Kệ

(LXXI) Subhà ở Rừng Xoài của Jivaka (Therì. 150)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), trong gia đình một Bà-la-môn nổi tiếng. Nàng được đặt tên là Subhà và thân nàng rất tuyệt đẹp, nhất là về tay chân. Do vậy nàng được gọi là Subhà (người đẹp). Khi bậc Ðạo Sư ở Ràjagaha (Vương Xá), nàng khởi được lòng tin và trở thành một nữ cư sĩ. Về sau, nàng lo nghĩ đến kiếp người, thấy sự nguy hiểm các dục lạc, và thấy được sự an tịnh trong nếp sống viễn ly. Nàng xuất gia với sự hướng dẫn của bà Mahàpajàpati, và phát triển thiền quán, nàng chứng được quả Bất lai.

Một hôm, một thanh niên ăn chơi ở Ràjagaha, trong khi còn trẻ tuổi, đứng ở nơi vườn xoài ở Jivaka và thấy nàng đi vào rừng để nghỉ trưa. Nó chận đường nàng lại và xin thỏa mãn dục lạc. Nàng dạy cho nó biết, với nhiều bài kệ, sự nguy hiểm của dục lạc và sự lựa chọn của nàng về đời sống viễn ly, thuyết pháp cho chàng thanh niên ấy. Nhưng chàng thanh niên không có nghe nàng và vẫn đòi thỏa mãn các dục lạc. Vị Trưởng lão Ni, không có dùng những lời khuyên nhủ của mình, thấy chàng ấy mê say con mắt của nàng, liền móc một con mắt của nàng và đưa con mắt ấy cho chàng và nói: ‘Ðây là con mắt có tội của nàng’. Chàng thanh niên hoảng sợ, khủng khiếp và xin lỗi nàng. Nàng đi đến trước mặt vị Ðạo Sư, và khi thấy Ngài, con mắt của nàng được chữa lành như cũ. Do vậy, trước mặt Thế Tôn, nàng cảm xúc rung động, hoan hỷ sung sướng. Bậc Ðạo Sư biết được tâm trạng của nàng, dạy nàng và giúp nàng đạt được quả vị cao nhất. Dằn lòng sự vui sướng của nàng, nàng phát triển thiền quán, chứng được quả A-la-hán, với hiểu biết ý nghĩa và hiểu về pháp. Sau đó, an trú trong an lạc Niết bàn, nàng nghĩ đến những gì nàng chứng được và nói lên câu chuyện của nàng với chàng thanh niên ăn chơi bằng những câu kệ như sau:

  1. Trong rừng xoài tươi đẹp,
    Của ông Jivaka,
    Tỷ-kheo-ni Subhà,
    Ðang bộ hành đi tới,
    Có chàng trẻ ăn chơi
    Ngăn chặn Subhà lại
    Nàng nói lên người ấy
    Những lời nói như sau.
  2. Ta đã xúc phạm gì,
    Ðể chàng đứng chận tôi?
    Thật là không xứng đáng
    Ðể một người đàn ông
    Xúc phạm nữ xuất gia,
    Hỡi Hiền giả, hiểu cho.
  3. Bậc Tôn sư ta dạy,
    Chính học pháp như vậy,
    Ðược bậc Thiện Thệ thuyết,
    Là con đường thanh tịnh,
    Không có cấu uế nào.
    Sao chàng đứng chận ta.
  4. Tâm ta thật thanh tịnh,
    Tâm người không thanh tịnh,
    Tâm người đầy tham ái,
    Ta không tham, không uế,
    Mọi nơi, ý giải thoát
    Sao chàng đứng chận ta?
  5. Nàng trẻ, không ác pháp,
    Nàng xuất gia làm gì?
    Hãy bỏ áo Cà sa!
    Ðến, lạc hưởng rừng hoa.
  6. Toàn hoa tỏa hương ngạt,
    Cây rưới bụi muôn hoa,
    Xem tuổi xuân tuổi trẻ,
    Là thời tiết hạnh phúc,
    Hãy đến thọ hưởng lạc
    Trong rừng nở trăm hoa.
  7. Con đường dưới vòm hoa,
    Xào xạc gió lay động,
    Nàng được lạc thú gì,
    Khi một mình vào rừng.
  8. Trú xứ chúng thú dữ,
    Vang tiếng voi rống dục,
    Rừng lớn trống không người,
    Nhiều hiện tượng hãi hùng,
    Nàng lại muốn đi vào,
    Không một ai bạn đường?
  9. Như búp bê vàng chói,
    Giống tiên nữ vườn trời,
    Nàng đắp vải Kàsi,
    Ðẹp mịn, sáng chói nàng.
  10. Ta sống nô lệ nàng,
    Nếu nàng sống ở rừng,
    Không một sanh loại nào,
    Mà ta yêu hơn nàng,
    Hỡi nàng mắt dịu hiền,
    Như mắt Kin-na-rì.
  11. Nếu nàng theo lời ta,
    Nàng sẽ được hạnh phúc,
    Hạnh phúc sống gia đình,
    Sống lâu đài che gió,
    Sống có các nữ nhân,
    Hầu hạ phục vụ nàng.
  12. Mang lụa mịn Kàsi,
    Dùng vòng hoa, sáp đỏ,
    Ta làm nhiều trang sức,
    Vàng châu báu ngọc ngà.
  13. Nàng leo lên giường quý,
    Gỗ chiên đàn, lỏi thơm,
    Che màn đẹp tinh sạch,
    Trải nệm mới lông dài.
  14. Như sen vươn từ nước,
    Phục vụ cho phi nhân,
    Như vậy nàng Phạm hạnh,
    Sống toàn hảo đến già.
  15. Ở đây là cái gì,
    Chàng xem là tuyệt diệu,
    Trong nghĩa địa ứ đầy,
    Tràn đầy những thân xác,
    Chàng được thấy cái gì,
    Trong thân xác hủy hoại,
    Khi chàng thốt ra lời,
    Si mê, vô ý thức?
  16. Chính mắt như sơn dương,
    Như Kinri giữa rừng,
    Ta thấy con mắt nàng,
    Dục lạc liền tăng trưởng.
  17. Trong gương mặt không uế,
    Sáng chói như vàng ròng,
    Chẳng khác gì hoa sen,
    Ðặt chính giữa đài sen,
    Thấy con mắt của nàng,
    Lòng dục liền tăng trưởng.
  18. Tuy xa ta vẫn nhớ,
    Lông mi dài tuyệt đẹp,
    Không gì ta yêu hơn,
    Mắt Kinri của nàng.
  19. Chàng muốn dùng phi đạo,
    Tìm mặt trăng mà chơi,
    Muốn nhảy qua Mê-ru,
    Muốn tìm đến con Phật.
  20. Trên đời này, cõi trời,
    Ta nay không tham ái.
    Ta không biết người ấy,
    Người ấy như thế nào,
    Ðường đạo đã giết sạch,
    Giết hại tận gốc rễ.
  21. Quăng đi như hố than,
    Than hừng đang cháy đỏ,
    Ðánh giá như thuốc độc,
    Ðang xâm nhập đến thân,
    Ta không biết người ấy,
    Người ấy như thế nào,
    Ðường đạo đã giết sạch,
    Giết hại đến gốc rễ.
    387. Hãy cám dỗ nữ nhân,
    Không có biết quán sát,
    Hay Ðạo Sư người ấy,
    Ðang còn phải học tập,
    Chàng mê hoặc người ấy,
    Làm hại được người ấy.
  22. Còn ta đã chánh niệm,
    Ðối khen chê lạc khổ,
    Biết hữu vi bất tịnh,
    Bám chặt tư tưởng ấy.
  23. Ta là đệ tử Ni,
    Của bậc đại Thiện Thệ,
    Ta đã dấn thân bước
    Trên đường đạo tám ngành,
    Mũi tên đã nhổ lên
    Không còn các lậu hoặc,
    Ta đi đến nhà trống,
    Tâm tư ta hoan hỷ.
  24. Ta đã được thấy nó,
    Một búp bê khéo vẽ,
    Với trục quay gỗ mới,
    Khéo cột với dây que,
    Búp bê ấy nhảy múa,
    Nhiều điệu múa khác nhau.
  25. Dây que ấy được rút,
    Mở lòng rời phân tán,
    Thành trống không, miếng nhỏ,
    Chỗ nào ý say đắm.
  26. Thân ta ví dụ vậy,
    Không bộ phận không động.
    Không bộ phận, không động.
    Chỗ này ý say đắm.
  27. Như thấy một bức vẽ,
    Tô màu đỏ trên tường,
    Cái thấy chàng đảo lộn,
    Vì trí người thiếu sót.
  28. ảo thuật xem tối thượng,
    Như cây vàng trong mộng,
    Mù lòa ngươi chạy theo,
    Cái trống không, không thực,
    Như cái trò múa rối,
    Ðược xem giữa quần chúng.
  29. Mắt nàng như hòn bi,
    Ðặt lỗ trống của cây,
    Như những bong bóng nước,
    Ðầy dẫy những nước mát,
    Những con người đa dạng,
    Sanh ra những mủ ghèn.
  30. Thiếu nữ đẹp tuyệt ấy,
    Với tâm không chấp trước,
    Bóc một con mắt nàng.
    Trao liền cho người ấy,
    Và nói hãy cầm lấy,
    Con mắt này của người.
  31. Khi ấy tham liền diệt,
    Chàng khẩn cầu xin lỗi,
    Mong rằng Phạm hạnh ni,
    Ðược an ổn trở lại,
    Tôi sẽ không còn dám,
    Xâm phạm thế này nữa.
  32. Hai hạng người thế này,
    Chẳng khác ôm lửa hừng,
    Tôi như nắm rắn độc,
    Mong an ổn tha thứ.
  33. Thoát khỏi bị xúc phạm,
    Vị Tỷ-kheo-ni ấy,
    Từ đấy đi đến gần
    Bậc Giác ngộ thù thắng,
    Thấy được tướng công đức,
    Tốt đẹp và thù thắng,
    Mắt của nàng hồi phục,
    Ðược trở lại như xưa.

Phẩm XV

-ooOoo-

Tập Bốn Mươi Kệ

(LXXII) Isidàsi (Therì. 162)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Ujjeni, con gái một thương gia có giới đức, được kính trọng, và giàu có và đặt tên là Isidàsi. Khi nàng đến tuổi trưởng thành, cha nàng gả nàng cho con trai một người thương gia, xứng đôi vừa lứa. Trong một tháng, nàng sống với chồng như một người vợ trung thành. Nhưng vì nghiệp đời trước của nàng, chồng nàng trở thành lạnh nhạt đối với nàng và đuổi nàng ra khỏi nhà. Mọi sự việc này được ghi rõ trong nguyên bản Pàli. Vì nàng tự tỏ không xứng đáng đối với người chồng này và chồng khác, nàng trở thành dao động, và được cha cho phép, nàng xuất gia với sự hướng dẫn của Trưởng lão Ni Jinadattà. Sau khi tu học thiền quán, không bao lâu nàng chứng quả A-la-hán với sự hiểu biết về pháp và về nghĩa.

Sống trong sự an lạc Niết-bàn, một hôm sau khi đi khất thực và ăn xong, trong thành Patna, nàng ngồi bên bờ cát sông Hằng và đáp lời hỏi của Trưởng lão Ni Bodhi, nàng nói lên kinh nghiệm tu tập của nàng ngang qua những bài kệ này. Và để cho có sự liên hệ giữa các câu trả lời trước và sau có bài kệ được các nhà kiết tập về sau thêm vào:

  1. Trong thành được đặt tên,
    Tên chỉ một đóa hoa,
    ‘Pàtaliputta’,
    ‘Con của đóa bông kèn’,
    Sống hai Tỷ-kheo-ni,
    Có giới hạnh tốt đẹp,
    Thuộc gia đình Thích-ca,
    Gia đình cao quyền quý.
  2. Một I-xi-đa-xi,
    Thứ hai tên Bô-dhi,
    Cả hai có giới hạnh,
    Ưa thích tu thiền định,
    Ðược nghe kinh điển nhiều,
    Kiết sử được trừ bỏ.
  3. Họ đi khất thực xong,
    Ăn xong, bát rửa sạch,
    Ngồi hưởng lạc viễn ly,
    Nói lên những lời này.
  4. Hỡi I-xi-đa-xi,
    Căn nàng thật thoải mái,
    Tuổi thọ chưa tổn giảm;
    Nàng thấy khuyết điểm gì,
    Khiến tâm chú trọng nhiều,
    Ðến hạnh nguyện xuất ly.
  5. Như vậy sống viễn ly,
    Thiện xảo về thuyết pháp,
    I-xi-da-xi thuyết,
    Lời nói như thế này,
    Hãy nghe, này Bô-đi,
    Ta xuất gia thế nào.
  6. Tại thành phố thù thắng
    Ðặt tên Uj-jê-ni,
    Cha ta là triệu phú
    Có đức độ giới hạnh,
    Ta là con gái một,
    Ðược cha thương, yêu quý.
  7. Từ thành Xê-kê-ta,
    Một người dạm hỏi đến,
    Một gia đình quyền quý,
    Hỏi ta cho con trai
    Triệu phú bèn gả ta,
    Làm dâu người giàu ấy.
  8. Sáng và chiều, ta đến
    Ðảnh lễ cha, mẹ chồng,
    Cúi đầu đảnh lễ chân,
    Như ta được dạy bảo.
  9. Với chị, với em anh,
    Với bà con chồng ta,
    Thấy một người bước vào,
    Ta e sợ mời ngồi.
  10. Về đồ ăn, uống, nhai,
    Ðược cất giữ có chỗ,
    Ta thiết đãi cho ăn,
    Thích hợp từng người một.
  11. Ta thức dậy đúng thời,
    Ði vòng quanh khắp nhà,
    Rồi chà rửa chân tay,
    Ta đến lễ chồng ta.
  12. Cầm theo lược trang liệu
    Thuốc xoa mắt gương nhỏ,
    Ta trang điểm chồng ta,
    Như thị tỳ hầu hạ.
  13. Ta tự nấu dọn cơm,
    Ta tự rửa chén bát,
    Như mẹ đối với con,
    Ta hầu chồng như vậy.
  14. Như vậy phục vụ chồng,
    Với phục vụ tối thượng
    Dậy sớm không biếng nhác,
    Với tâm tư khiêm tốn,
    Với giới hạnh tốt đẹp,
    Nhưng chồng ác cảm ta.
  15. Chồng ta nói mẹ cha,
    Xin phép con sẽ đi,
    Với I-xi-đa-xi,
    Con không thể sống chung,
    Cùng dưới một mái nhà,
    Con không thể cùng ở.
  16. Chớ nói vậy, này con!
    Vợ con người có trí,
    Thông minh, biết dậy sớm,
    Sao con không hoan hỷ.
  17. Nàng không hại gì con,
    Nhưng con không bao giờ
    Có thể sống chung được
    Với I-xi-đa-xi
    Con ghét cay chán ngấy
    Xin phép, con sẽ đi.
  18. Ðược nghe lời chồng nói,
    Cha mẹ chồng hỏi con.
    Làm gì xúc phạm chồng?
    Hãy thẳng thắn nói thật.
  19. Con không xúc phạm gì!
    Không hại, không mưu tính.
    Với lời nói khó chịu,
    Có thể làm gì được?
    Tuy vậy chồng của con,
    Lợi ác cảm chống con.
  20. Họ đưa ta về nhà,
    Nhà thân phụ của ta,
    Với tâm tư khổ não,
    Sửng sốt và bối rối
    Không muốn mất con trai,
    Họ muốn bảo vệ nó.
    Ôi, chúng ta bại trận,
    Bởi nữ thần may rủi.
  21. Cha ta lại gả ta,
    Cho gia đình thứ hai,
    Một gia đình giàu có,
    Bằng lòng nửa số tiền
    Là tiền gả bán ta.
  22. Ta chỉ sống một tháng,
    Trong gia đình vị ấy,
    Vị ấy trả lui ta,
    Dầu ta tận tụy làm,
    Chẳng khác người nô lệ,
    Không lỗi lầm có đức.
  23. Cha ta nói khất sĩ,
    Sống điều phục chế ngự,
    Ngươi hãy làm rể ta,
    Bỏ áo rách ghè bình.
  24. Vị ấy sống nửa tháng,
    Rồi nói với cha ta,
    Hãy trả lui áo rách,
    Ghè bình và bình bát,
    Con nay muốn sống lại,
    Nghề khất sĩ của con.
  25. Cha, mẹ, toàn bà con,
    Liền nói với vị ấy:
    Ở đây có cái gì,
    Làm con không bằng lòng?
    Hãy nói gấp cái gì,
    Làm con không vừa ý.
  26. Ðược nói vậy, vị ấy,
    Liền trả lời như sau:
    Nếu đối với tự ngã,
    Con có thể bằng lòng,
    Nhưng con không chung sống,
    Với I-xi-đa-xi!
  27. Từ giã vị ấy đi,
    Một mình, ta suy nghĩ:
    Ta đến để xin phép,
    Hoặc chết hay xuất gia.
  28. Rồi Ji-na-đat-ta.
    Vị ni sư ấy đến,
    Trong khi đi khất thực,
    Ðến gia đình cha ta,
    Vị thọ trì giới luật,
    Nghe nhiều, có giới hạnh.
  29. Thấy Ni sư, chúng tôi,
    Ðều đứng lên kính cẩn,
    Và ta liền sửa soạn,
    Chỗ ngồi cho Ni sư,
    Ngồi xuống, ta đảnh lễ,
    Dưới chân bậc Ni sư,
    Lễ xong, ta cúng dường,
    Các đồ ăn đồ uống.
  30. Các món ăn, uống, nhai,
    Tại đấy, được dự trữ,
    Làm Ni sư thỏa mãn,
    Ta thưa với Ni sư,
    Nay ta muốn xuất gia,
    Sống đời không gia đình,
    Cha ta nói với ta:
    ‘Này con hãy ở đây’.
  31. Hành trì đúng Chánh pháp,
    Với đồ ăn đồ uống,
    Hãy làm cho thỏa mãn,
    Sa-môn, hai lần sanh.
  32. Vừa nói, ta khóc lóc,
    Chấp tay vái cha ta;
    Với điều ác con làm,
    Con sễ tiêu nghiệp ấy.
  33. Cha ta nói với ta:
    Hãy chứng ngộ Bồ-đề.
    Và Chánh pháp tối thượng!
    Hãy chứng đắc Niết-bàn,
    Ðã được Lưỡng Túc Tôn,
    Thành tựu và chứng đạt.
  34. Ta đảnh lễ mẹ cha,
    Cùng tất cả bà con,
    Sau bảy ngày xuất gia,
    Ta chứng được Ba minh.
    434. Ta biết bảy đời trước,
    Quả gì nay thành thục,
    Ta sẽ nói cho bạn,
    Hãy nhất trí lắng nghe.
  35. Tại thành phố đặt tên,
    Ê-ra-ka-kac-chê,
    Ta sống là thợ vàng,
    Tài sản thật phong phú.
  36. Say đắm với tuổi trẻ,
    Ta xâm phạm vợ người,
    Do vậy, sau khi chết,
    Trong cảnh giới địa ngục,
    Ta bị đốt, nung nấu
    Trong một thời gian dài,
    Thoát khỏi sự nung đốt
    Ta sanh trong bụng khỉ.
  37. Bảy ngày từ khi sanh,
    Ta bị khỉ chúa thiến,
    Ðây là quả của nghiệp,
    Do đi đến vợ người.
  38. Từ đây ta chết đi,
    Mệnh chung rừng Xin-đa,
    Sanh trong bụng con dê,
    Một mắt và què quặt.
  39. Mười hai năm bị thiến,
    Mang nặng những đứa con,
    Sán trùng ăn vô dụng,
    Do đi đến vợ người.
  40. Từ đấy ta chết đi,
    Sanh làm con bò cái,
    Của một lái buôn bò,
    Con nghé màu đỏ sẫm,
    Khi được mười hai tháng.
    Lại bị người ta thiến.
  41. Rồi ta lại kéo cày,
    Kéo xe cho chúng nó,
    Mù, lo lắng, vô dụng,
    Do đi lại vợ người.
  42. Từ đấy chết được sanh,
    Nhà nữ tỳ gần đường,
    Không là nữ không nam,
    Do đi lại vợ người.
  43. Ðến tuổi ba mươi năm,
    Bị chết, ta được sanh
    Sanh làm người con gái,
    Gia đình người đánh xe,
    Nghèo khổ ít tài sản,
    Rơi vào tay vay lãi,
    Do tiền nợ tăng trưởng,
    Chủ lữ đoàn bắt ta.
  44. Kéo ta, dầu ta khóc,
    Lôi ta ra khỏi nhà.
  45. Khi ta mười sáu tuổi,
    Lớn lên thành thiếu nữ,
    Con trai thương gia ấy,
    Bắt ta lấy làmvợ.
  46. Nhưng nó có vợ khác,
    Có giới đức danh xưng,
    Lại biết thương mến chồng,
    Chính ta tạo thù hằn.
  47. Do quả của nghiệp này,
    Họ khinh ghét chống ta,
    Dầu ta như nô tỳ,
    Hầu hạ phục vụ họ,
    Nhưng nay ta chấm dứt,
    Mọi sự việc như trên.

Phẩm XVI

-ooOoo-

Ðại Phẩm

(LXXIII) Sumedhà (Therì. 167)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở thành Mantàvatì con gái vua Konca và được đặt tên là Sumedhà. Khi nàng đến tuổi trưởng thành, cha mẹ nàng bằng lòng để Anikaratta, vua Vàranavati xem mắt nàng. Nhưng từ lúc nhỏ, nàng quen cùng đi với các công chúa lứa tuổi nàng, và những người hầu hạ tại tinh xá Tỷ-kheo-ni để nghe các vị này thuyết pháp, và trong một thời gian dài, vì chí nguyện lúc còn nhỏ, nên nàng sợ hãi sự sanh tử luân hồi, tâm tư thiên về đời sống xuất gia, không ưa thích các dục lạc.

Khi nghe quyết định của cha mẹ và bà con, nàng nói: ‘Bổn phận của tôi không phải trong đời sống gia đình, tôi sẽ xin xuất gia’, cha mẹ và các bà con không thể khuyên nàng từ bỏ quyết định của nàng. Nàng suy nghĩ: ‘Như vậy, ta sẽ được phép xuất gia’, và cương quyết theo chí nguyện của mình nàng cắt tóc, và dùng tóc ấy, theo phương pháp cảc Tỷ-kheo-ni thường dùng, nàng chú tâm vào tánh bất tịnh của sắc đẹp thân xác và chứng được Sơ thiền, Khi nàng ở trong định Sơ thiền cha mẹ và bà con nàng đến phòng nàng để nói chuyện gả chồng cho nàng. Nhưng nàng khiến mọi người kể cả người hầu cận của vua đến để rước nàng về, cũng tin vào đạo pháp rồi nàng từ bỏ gia đình, đi đến tịnh xá Tỷ-kheo-ni để xuất gia.

Sau khi tu tập thiền quán, và giải thoát được chín muồi, nàng chứng quả A-la-hán với hiểu biết về nghĩa và về pháp. Rồi nghĩ đến sự thắng trận của nàng, nàng nói lên sự phấn khởi, sung sướng của nàng:

  1. Con gái vua Konca,
    Với hoàng hậu chánh ngôi,
    Tại Matavatì,
    Ðược sanh Sumedha,
    Hân hoan gắng thực hành,
    Lời dạy bậc Ðạo Sư.
  2. Giới hạnh thuyết giảng khéo,
    Nghe nhiều khéo huấn luyện,
    Theo lời đức Phật dạy,
    Nàng đến cha mẹ nàng,
    Nói rằng: ‘Thưa mẹ cha,
    Cả hai, hãy nghe con!’.
  3. Con hân hoan Niết-bàn,
    Dầu sanh hữu Chư Thiên,
    Sanh hữu ấy vô thường,
    Giá trị gì các dục,
    Trống không, vị ngọt ít,
    Còn tàn hại thời nhiều.
  4. Các dục thật cay đắng,
    Ví như nọc rắn độc,
    Kẻ ngu mới tham đắm,
    Trong các loại dục ấy.
    Những ai thọ hưởng dục,
    Trong một thời gian dài,
    Bị khổ đau địa ngục,
    Hành hạ và tàn hại.
  5. Những kẻ làm nghiệp ác,
    Những kẻ tâm trí ác,
    Bị đau đớn sầu khổ,
    Trong cảnh giới đọa xứ.
    Kẻ ngu thường không nhiếp,
    Chế ngự thân, khẩu, ý.
  6. Kẻ ngu có liệt tuệ,
    Không tư duy quyết định,
    Không ngăn chặn khổ tập,
    Khi có thời thuyết pháp,
    Không biết lo học hỏi,
    Không giác tri Thánh đế.
  7. Những sự thật, thưa mẹ,
    Phật thù thắng thuyết giảng,
    Phần lớn chúng quần sanh,
    Không hiểu sự thật ấy;
    Họ hoan hỷ tái sanh,
    Ước muốn sanh thiên giới.
  8. Sanh thiên không thường trú,
    Sanh hữu là vô thường,
    Kẻ ngu không sợ hãi,
    Luôn luôn phải tái sanh.
  9. Bị sanh bốn đọa xứ,
    Ðược sanh Thiên, Nhân giới
    Ðược chúng khó khăn thay,
    Những ai rơi đọa xứ,
    Trong cảnh giới địa ngục,
    Không có sự xuất gia.
  10. Mong cả hai cha mẹ,
    Cho con được xuất gia,
    Trong giáo pháp thuyết giảng,
    Của bậc chứng Mười lực,
    Sống thong dong nhàn hạ,
    Nỗ lực đoạn sanh tử.
  11. Sao con ưa tái sanh,
    Với thân tội lỗi này,
    Thân trống rỗng, không lõi,
    Vì mục đích đoạn diệt,
    Tham ái được tái sanh,
    Xin cho con xuất gia.
  12. Nay thời, Phật ra đời,
    Phi thời đã từ bỏ,
    Thời cơ nay đã đến,
    Cho đến trọn đời con,
    Con không làm tổn thương,
    Giới luật và Phạm hạnh.
  13. Sumedha nói vậy,
    Nàng lại thưa mẹ cha.
    Con nguyện không ăn uống,
    Khi còn là cư sĩ,
    Ở đây con sẵn sàng,
    Chờ chết đến với con.
  14. Mẹ sầu khổ, khóc than!
    Cha hoàn toàn sửng sốt,
    Họ gắng thuyết phục ta,
    Nằm dưới đất lâu dài.
  15. Này con hãy đứng dậy!
    Có gì là sầu khổ,
    Khi con được cả nước,
    Varanavati,
    Anikarata,
    Ðẹp trai, xứng đôi con.
  16. Con sẽ là hoàng hậu,
    Vợ chính Anika!
    Này con, thật khó thay!
    Ðời sống vị xuất gia,
    Giữ gìn các giới luật,
    Sống đời sống Phạm hạnh.
  17. Uy lực của vị vua,
    Tiền của và quyền thế,
    Sản nghiệp và hạnh phúc,
    Với tuổi trẻ thanh xuân!
    Hãy thọ hưởng dục lạc,
    Hãy nhận lời lấy chồng.
  18. Sumedha thưa rằng:
    Thôi đừng, sự việc ấy,
    Họ đi đến tái sanh,
    Họ trống không, không lõi,
    Hoặc xuất gia, hoặc chết,
    Con chỉ cưới như vậy.
  19. Sá gì thân hôi nhớp,
    Phát mùi, gây sợ hãi,
    Bao da đựng xác chết,
    Rỉ chảy đồ bất tịnh.
  20. Sá gì thân ta biết,
    Ghê tởm, lấm máu thịt,
    Chỗ chứa đựng loài sâu,
    Mồi ăn cho chim chóc,
    Thân xác này là vậy,
    Nay đem đến cho ai?
  21. Thân thể bỏ nghĩa địa,
    Không lâu, mất thức tri,
    Như khúc gỗ quăng bỏ,
    Bà con đều ghê tởm.
  22. Thân ấy quăng nghĩa địa,
    Làm mồi ăn kẻ khác,
    Trước chúng tắm rửa sạch,
    Nay chúng sinh ghê tởm,
    Cha mẹ còn như vậy,
    Nói gì chung quần chúng.
  23. Họ mê thân không lõi,
    Ràng buộc bởi gân xương,
    Ðầy nước miếng, nước mắt,
    Ðầy phân tiểu hôi hám.
  24. Nếu thân được mổ xẻ,
    Lội nội phần ra ngoài,
    Chính mẹ phải ghê tởm,
    Không chịu nổi mùi hôi.
  25. Chính do uẩn, xứ, giới,
    Tác thành các thân này,
    Gốc tái sanh, đau khổ;
    Họ như lý nói lên,
    Hoàn toàn không vui thích.
    Vậy ai, tôi muốn cưới?
  26. Từng ngày trăm ngọn giáo,
    Luôn luôn mới đâm thân,
    Dầu bị hại trăm năm,
    Như vậy còn tốt hơn,
    Vì khổ ấy cuối cùng,
    Rồi cũng được tiêu diệt.
  27. Kẻ trí quyết bằng lòng
    Sự giết hại như trên,
    Bậc Ðạo Sư dạy rằng:
    Họ luân hồi dài dà,
    Với tâm tư giết hại,
    Liên tục nối tiếp nhau.
  28. Trong cảnh giới Trời, Người,
    Bàng sanh, a-tu-la,
    Ngạ quỷ và Ðịa ngục,
    Chịu giết hại vô lượng.
  29. Trong địa ngục, rất nhiều,
    Kẻ tâm uế, đọa lạc,
    Chỗ trú ẩn Thiên giới,
    Không có lạc Niết-bàn.
  30. Những ai đạt Niết-bàn,
    Họ liên hệ mật thiết,
    Với những lời thuyết dạy,
    Của bậc đủ Mười lực,
    Thong dong không rộn ràng,
    Nỗ lực đoạn sanh tử.
  31. Thưa cha ngày hôm nay
    Con quyết tâm ra đi,
    Những tài sản rỗng không,
    Không có giá trị gì,
    Con ghê tởm các dục,
    Con chán ngấy các dục,
    Họ đã được tách thành,
    Như thân cây Ta-la.
  32. Nàng trả lời phụ thân,
    Với lời nói như vậy.
    Anikaratta
    Ðược hứa gả công chúa,
    Ði đến gần xin cưới,
    Theo như giờ hẹn định.
  33. Mái tóc đen, dày mịn,
    Với gươm, nàng cắt ngang,
    Cửa lầu được đóng lại,
    Nàng chứng được Sơ thiền.
  34. Nàng sống trong cảnh thiền,
    A-ni-ka đến thành,
    Sumedha trong cung,
    Tu tập tưởng vô thường.
  35. Trong khi nàng tác ý,
    Vua bước lên tam cấp,
    Trang sức vàng châu báu,
    Chấp tay cầu xin nàng.
  36. Hãy trị vì quốc độ,
    Với tiền của uy quyền,
    Với tài sản, hạnh phúc,
    Với tuổi trẻ thanh xuân,
    Hãy thọ hưởng các dục,
    Thật khó kiếm ở đời.
  37. Ta giao nàng vương quốc,
    Hưởng tài sản, bố thí,
    Nàng chớ có buồn nản,
    Khiến mẹ cha khổ đau.
    Sumedha trả lời,
    Với vua, từng vấn đề;
    Ðối với nàng, các dục,
    Không cầu không si mê,
    Chớ hoan hỷ các dục,
    Hãy thấy dục nguy hiểm.
  38. Mandhatà là vua,
    Chúa bốn châu hưởng dục,
    Dục lạc ấy tối thượng,
    Tưy vậy khi vua chết,
    Cũng chưa được thỏa mãn,
    Ước vọng chưa đầy đủ.
  39. Dầu có mười bảy báu,
    Khắp mười phương đầy tràn,
    Không có dục thỏa mãn,
    Người chết, chưa thỏa mãn.
  40. Các dục ví gươm giáo,
    Các dục ví đầu rắn,
    Ví như bó đuốc cháy
    Giống xương gậm trơn tru.
  41. Các dục không thường còn,
    Cũng không có thường hằng,
    Khổ nhiều, thuốc độc lớn,
    Như hòn đạn cháy đỏ,
    Nguồn gốc của bất hạnh,
    Kết quả là đau khổ.
  42. Dục như trái của cây,
    Như miếng thịt, khổ lụy,
    Giống như mộng như huyễn,
    Dục như của vay mượn.
  43. Dục như gươm, như cọc,
    Bệnh tật và cục bướu,
    Bất hạnh và dao động,
    Ví như hố than hừng,
    Nguồn gốc của bất hạnh,
    Sợ hãi và tàn sát.
  44. Như vậy, dục nhiều khổ,
    Ðược gọi chứng ngại pháp,
    Hãy đi, từ bỏ tôi,
    Khi tôi còn tái sanh,
    Thời đối với tự ngã,
    Tôi không có lòng tin.
  45. Ai giúp gì tôi được,
    Khi đầu tôi đang cháy,
    Khi già chết bám sát,
    Tôi cần phải nỗ lực,
    Ðối với tàn hại ấy!
  46. Không đi đến gần cửa,
    Nàng thấy mẹ và cha,
    Và vua Anika,
    Ngồi dưới đất khóc than,
    Thấy vậy nàng tỏ lời,
    Thưa mọi người như sau:
  47. Kẻ ngu, đã lâu rồi,
    Khóc luân hồi nói tiếp,
    Từ vô thỉ đến nay,
    Khóc phải bị mệnh chung,
    Khóc anh em bị giết,
    Khóc tự mình bị giết.
  48. Hãy nhớ từ vô thỉ,
    Nước mắt, sữa và máu,
    Tuôn chảy theo luân hồi,
    Không bao giờ dừng nghỉ,
    Hãy nhớ các chúng sanh,
    Luân hồi xương chất đống.
  49. Hãy nhớ tràn bốn biển,
    Ðầy nước mắt, sữa, máu,
    Hãy nhớ xương một kiếp,
    Cao bằng Vi-pu-la.
  50. Hãy nhớ từ vô thỉ,
    Không đủ để làm thành,
    Cả đất nước Diêm Phù,
    Những nấm mồ hột táo,
    Của mẹ cha luân hồi.
  51. Hãy nhớ từ vô thỉ,
    Những cỏ cây cành lá,
    Không đủ để chứa đựng,
    Những ghè bốn ngón tay,
    Chứa người cha, luân hồi.
  52. Hãy nhớ tới hình ảnh,
    Con rùa mù biển đông,
    Cho đầu nó lọt vào,
    Lỗ hổng khúc cây trôi,
    Ðể nói lên ví dụ,
    Ðược làm người khó vậy.
  53. Hãy nhớ thân sắc người,
    Ðược ví bong bóng nước,
    Ðầy cả những bất hạnh,
    Trống không không có lõi,
    Hãy thấy uẩn vô thường!
    Nhớ địa ngục nhiều họa.
  54. Hãy nhớ nghĩa địa lớn,
    Nhờ tái sanh tiếp tục,
    Nhờ sợ hãi thuồng luồng,
    Hãy nhớ Bốn sự thật.
  55. Nước bất tử có đây,
    Sao người uống trăm đắng,
    Tất cả các dục lạc,
    Thật trăm cay ngàn đắng.
  56. Nước bất tử có đây!
    Sao người ưa dục não!
    Mọi dục lạc đốt cháy
    Sôi sùng sục nung nấu.
  57. Ðây không có kẻ thù!
    Sao thích dục thù địch?
    Vua lửa, trộm, nước, oán,
    Thù chung thật là nhiều.
  58. Ở đây có giải thoát!
    Sao để dục giết trói,
    Trong dục có giết trói!
    Mê dục nhiều khổ đau.
  59. Ðuốc cỏ đang cháy rực,
    Nắm, không thả, bị đốt,
    Dục ví như bó đuốc,
    Ðốt cháy ai không thoát.
  60. Chớ nhận dục lạc nhỏ,
    Bỏ lạc lớn rộng rãi,
    Chớ như cá nuốt câu,
    Sau phải chịu hoạn nạn.
  61. Hãy nhiếp dục trong dục,
    Như chó bị dây cột,
    Chớ để dục ăn ngươi,
    Như dân đói ăn chó.
  62. Khổ thật là vô lượng,
    Khiến tâm nhiều ưu tư,
    Ngươi hệ lụy với dục,
    Hãy bỏ dục vô thường.
  63. Ở đây, không có già!
    Sao theo dục bị già?
    Mọi sanh ở khắp nơi,
    Bị bệnh chết chi phối,
  64. Ðây không già, không chết.
    Ðây con đường không già,
    Không chết, không sầu não,
    Không thù địch trói buộc,
    Không vấp ngã sợ hãi,
    Không nung nấu đọa đầy.
  65. Ðích này, nhiều người đạt,
    Ðích này là bất tử,
    Nay cần phải chứng được,
    Ai như lý chú tâm,
    Nếu không có nỗ lực,
    Không sao chứng đạt được.
    Sumedhà nói vậy,
    Không thích đi đến hành
    Nàng thuyết phục được vua,
    Với tóc quăng trên đất.
  66. Ðứng dậy A-ni-ka
    Chắp tay xin cha nàng,
    Hãy cho Su-me-dha,
    Ðược xuất gia tu học,
    Ðể nàng thấy cho được,
    Giải thoát và chân lý.
  67. Mẹ cha cho xuất gia,
    Thoát sầu, sợ, khiếp đảm,
    Sáu thắng trí chứng đạt.
  68. Chứng luôn quả tối thượng.
    Dầu còn là học nữ.
  69. Thật vi diệu hy hữu!
    Một công chúa con vua,
    Lại đạt được Niết-bàn!
    Nàng nói lên như sau,
    Thời trước đời cuối cùng.
  70. Trong thời đức Thế Tôn,
    Konàgamana!
    Trong trú xứ mới làm,
    Tại cảnh Tăng già lam,
    Với bạn là ba người,
    Chúng tôi cúng tịnh xá.
  71. Mười lần, một trăm lần,
    Mười trăm, trăm trăm lần,
    Chúng tôi sanh chư Thiên,
    Còn nói gì, làm người.
  72. Giữa chư Thiên chúng tôi,
    Có được thân lực lớn,
    Còn nói gì chúng tôi,
    Khi được làm thân người,
    Ta hoàng hậu, bảy báu!
    Ta chính là nữ báu.
  73. Ðây là nhân, là nguồn
    Ðây chính là căn gốc,
    Kham nhẫn lời Ðạo Sư!
    Ðây dây chuyền thứ nhất
    Ðấy chính là Niết-bàn,
    Nếu chúng ta mến pháp.
  74. Như vậy với lòng tin,
    Họ thuyết rõ nên lời
    Lời nói đầy trí tuệ,
    Thù thắng và tối thượng
    Họ chán ghét tái sanh,
    Do chán ghét, tham diệt.

Lịch sự kiện trong tháng

Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5 Thứ 6 thứ 7 Chủ nhật
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31

Tủ sách Bảo Anh Lạc

Thư viện

Pháp âm