Home Page by K2 Home Page by JSN PageBuilder

MỤC LỤC

[01] Chương XXI – Phẩm Tám Mươi Bài Kệ
533. Chuyện Tiểu Thiên Nga (Tiền Thân Cullahamasa)
534. Chuyện Đại Thiên Nga (Tiền Thân Mahàhamasa)
535. Chuyện Thực Phẩm Thiên Giới (Tiền Thân Sudhàbhojana)
[02] Chương XXI – Phẩm Tám Mươi Bài Kệ (tt)
536. Chuyện Chúa Chim Kunàla (Tiền Thân Kunàla)
537. Chuyện Đại Sutasoma (Tiền Thân Mahà-Sutasoma)
[03] Chương XXII – Đại Phẩm
538. Chuyện Vương Tử Què Câm (Tiền Thân Muga-Pakka)
539. Chuyện Đại Vương Mahàjanaka (Tiền Thân Mahà-Janaka)
[04] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
540. Chuyện Hiếu Tử Sàma (Tiền Thân Sàma)
[05] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
541. Chuyện Đại Vương Nimi (Tiền Thân Nimi)
[06] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
542. Chuyện Tế Sư Khandahàla (Tiền Thân Khandahàda)
[07] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
543. Chuyện Bậc Đại Trí Bhùridatta (Tiền Thân Bhùridatta)
[08] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
544. Chuyện Bậc Đại Trí Mahanàrada-Kassapa (Tiền Thân Mahanàrada-Kassapa)
[09] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
545. Chuyện Bậc Đại Trí Vô Song (Tiền Thân Vidhurapandita)
[10] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
546. Chuyện Đường Hầm Vĩ Đại (Tiền Thân Mahà-Ummagga)
[11] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
547. Chuyện Đại Vương Vessantara (Tiền Thân Vessantara)

Chương XXI

Phẩm Tám Mươi Bài Kệ

  1. Chuyện tiểu Thiên nga (Tiền thân Cullahamsa)

Bầy chim không để ý gì ta…,

Đây là chuyện do bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm về cách Tôn giả Ànanda đã hy sinh tính mạng.

Khi những người thiện xạ được mua chuộc để sát hại đức Như Lai và người đầu tiên được Devadatta (Đề-bà-đạt-da) phái đi làm việc này đã trở về, y nói:

– Bạch Tôn giả, con không thể đoạt mạng sống của đức Thế Tôn, vì Ngài có đủ đại thần thông lực.

Devadatta đáp:

– Thôi được, ông không cần phải sát hại Sa-môn Gotama. Ta sẽ đích thân đoạt mạng sống của vị ấy.

Thế rồi trong khi đức Như Lai đang đi dạo dưới bóng mát ngã về tây của núi Gijjhakùta (Linh Thứu), Devadatta trèo lên đỉnh núi và ném xuống một tảng đá lớn như thể từ chiếc máy lăn đá bắn ra và tự nhủ: “Với tảng đá này, ta sẽ giết Sa-môn Gotama”. Song hai đỉnh núi giao nhau chặn lấy tảng đá và một mảnh vụn văng ra đụng vào chân của đức Thế Tôn làm chảy máu, và gây đau nhức dữ dội.

Y sĩ Jìvaka lấy dao cắt rộng miệng vết thương ở chân đức Như Lai, để máu độc chảy ra và cắt bỏ chỗ thịt sưng rồi xoa thuốc vào vết thương cho lành.

Bậc Đạo Sư đi lại như trước, với các vị đại đệ tử hầu cận quanh Ngài, trong mọi dáng điệu uy nghi của một vị Phật. Vì thế, khi thấy Ngài, Devadatta nghĩ thầm: “Quả thật không có một kẻ phàm phu nào chiêm ngưỡng dung sắc tối thắng của kim thân Sa-môn Gotama lại dám tời gần vị ấy, ngoại trừ vương tượng Nàlàgiri là một mãnh thú hung dữ chẳng biết gì về các công đức của Phật, Pháp, Tăng. Nó sẽ tiêu diệt Sa-môn này”.

Thế là ông liền đi kể chuyện này với vua. Vua sẵn sàng đồng ý với đề nghị này và triệu người quản tượng vào bảo:

– Này khanh, ngày mai khanh phải làm cho Nàlàgiri say rượu đến độ điên cuồng, và lúc tảng sáng thả nó ra đường phố mà Sa-môn Gotama đi qua.

Devadatta hỏi người quản tượng ngày thường con voi này uống bao nhiêu rượu men và khi y đáp: “Tám vò”, ông bảo:

– Ngày mai hãy cho nó uống mười sáu vò rồi thả nó ra về phía con đường Sa-môn Gotama đi qua.

– Được lắm -Người quản tượng đáp.

Vua truyền đánh trống khắp kinh thành và công bố:

– Ngày mai Nàlàgiri sẽ say rượu mạnh đến điên cuồng và được thả lỏng trong kinh thành. Dân chúng trong thành phải làm mọi việc cần làm vào sáng sớm, và sau đó không ai được liều lĩnh ra đường phố.

Devadatta từ cung vua xuống tận chuồng voi và bảo đám quản tượng:

– Này ta bảo cho các ông biết, chúng ta có thể hạ nhục một người từ địa vị cao sang xuống địa vị thấp hèn và nâng một người từ địa vị thấp hèn lên địa vị cao sang. Nếu các ông muốn danh giá, thì sáng sớm ngày mai hãy cho Nàlàgiri uống mười sáu vò rượu mạnh, và đúng lúc Sa-môn Gotama đi đến lối ấy, hãy đâm con voi kia với các gậy nhọn, nó sẽ phá chuồng nổi điên, ông hãy đuổi nó ra về phía con đường Sa-môn Gotama thường đi qua và thế là tiêu diệt vị ấy.

Bọn chúng sẵn sàng làm như vậy. Tiếng đồn vang dậy khắp kinh thành. Các đệ tử tại gia thân cận Phật, Pháp, Tăng nghe tin ấy liền đến gần bậc Đạo Sư và thưa:

– Bạch Thế Tôn, Devadatta đã âm mưu với vua, ngày mai sẽ cho thả con voi Nàlàgiri ra đường mà Thế Tôn đi qua. Xin Thế Tôn ngày mai đừng vào thành khất thực, mà cứ ở lại đây. Chúng con sẽ cúng dường thực phẩm ngay tại tinh xá lên Tăng chúng với đức Phật đứng đầu.

Đức Phật không nói thẳng: “Ngày mai Ta sẽ không vào thành khất thực”, mà Ngài đáp:

– Ngày mai ta sẽ thị hiện thần thông để nhiếp phục Nàlàgiri và đánh bại tà đạo. Và vì không đi khất thực trong thành Vương Xá, ta sẽ rời thành cùng một số Tỷ-kheo hộ tống đi thẳng đến Veluvana (Trúc Lâm), rồi dân chúng ở Vương Xá sẽ đến đó mang theo nhiều bình bát thực phẩm và ngày mai họ sẽ cúng dường bữa ăn tại trai đường của tinh xá ấy.

Bằng cách này, bậc Đạo Sư đã chấp thuận lời thỉnh cầu của họ. 

Khi được tin đức Như Lai đã tán đồng nguyện vọng của họ, họ ra đi từ kinh thành, mang theo nhiều bình bát thực phẩm và bảo nhau:

– Chúng ta sẽ cúng dường lễ vật ngay tại tinh xá ấy.

Còn bậc Đạo Sư thuyết Pháp vào canh một, giải đáp các vấn đề khó khăn vào canh giữa và phần đầu canh cuối, Ngài nằm nghiêng về phía hữu như dáng sư tử, giữa canh cuối Ngài an trú trong Thánh quả, và sau cùng khi Ngài nhập định đại bi vì nhân loại khổ đau, Ngài quán sát mọi người quyến thuộc của Ngài đã đủ cơ duyên thuần thục để được giáo hóa, và nhận thấy rằng do kết quả việc nhiếp phục con voi Nàlàgiri, tám mươi bốn ngàn người sẽ được thông hiểu Pháp.

Rạng ngày hôm sau, khi đã phục vụ mọi nhu cầu thân thể, Ngài nói với Tôn giả Ànanda:

– Này Ànanda, hôm nay hãy bảo tất cả Tỷ-kheo trong mười tám tinh xá quanh thành Vương Xá đến hộ tống Ta vào trong thành ấy.

Tôn giả tuân lệnh và tất cả Tăng chúng tập hợp tại Trúc Lâm.

Bậc Đạo Sư được Tăng chúng đông đảo hộ tống đi vào Vương Xá và bọn quản tượng tiến hành công việc theo lệnh truyền, còn quần chúng tụ họp thành nhiều đám. Những người mộ đạo nghĩ thầm: “Hôm nay sẽ có cuộc đại chiến giữa đức Phật là vương tượng với con voi của thế giới phàm tục này. Chúng ta sẽ chứng kiến đức Phật đánh bại Nàlàgiri nhờ thần lực vô song của Ngài”, và họ trèo lên đứng trên các lầu thượng và mái nhà cùng nóc nhà.

Còn các đám tà đạo không tin tưởng lại suy nghĩ: “Nàlàgiri là một con dã thú hung hãn, không biết gì về công đức của chư Phật. Hôm nay nó sẽ dẫm nát hình thể vinh quang của Sa-môn Gotama và khiến vị ấy phải chết. Hôm nay ta sẽ trừ khử địch thủ của ta rồi”.

Họ cũng đứng trên các thượng lầu và các chỗ cao khác.

Còn con voi, khi nhìn thấy đức Thế Tôn đến gần, đã làm mọi người kinh hoàng bằng cách phá sập nhà cửa, giương vòi ra nghiền nát xe cộ, tai vểnh, đuôi dựng ngược hùng hổ chạy như một ngọn núi sừng sững lao về phía đức Thế Tôn.

Khi thấy nó, Tăng chúng thưa với đức Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Nàlàgiri là một dã thú hung hãn, là tên sát nhân, đang tiến đến đường này. Thật ra nó chẳng biết gì đến công đức của chư Phật. Xin đức Thế Tôn, bậc Thiện Thệ hãy lùi bước.

– Này các Tỷ-hheo, đừng sợ, Ta có đủ uy lực nhiếp phục Nàlàgiri.

Sau đó Tôn giả Sàriputta thỉnh cầu đức Phật:

– Bạch Thế Tôn, khi nào có việc gì phải phụng sự phụ thân, thì đó là trách nhiệm đặt lên vai con trưởng. Con xin nguyện nhiếp phục con vật này.

Bậc Đạo Sư lại bảo:

– Này Sàriputta, uy lực của đức Phật là một việc, còn uy lực của các đệ tử là một việc khác.

Ngài từ chối lời đề nghị của Tôn giả và bảo:

– Ông phải ở lại đây.

Đây cũng là lời thỉnh cầu của tám mươi vị Trưởng lão nhưng Ngài từ chối tất cả. Lúc ấy Tôn giả Ànanda vì lòng ái kính bậc Đạo Sư nồng nhiệt nên không thể chấp nhận việc này và kêu lớn:

– Hãy để con voi này giết con trước tiên.

Rồi Tôn giả đứng ngay trước bậc Đạo Sư, sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đức Như Lai. Vì thế bậc Đạo Sư bảo vị ấy:

– Này Ànanda, đi ra ngay, đừng đứng trước mặt Ta.

Vị Trưởng lão đáp:

– Bạch Thế Tôn, con voi này rất hung bạo và man rợ, đó là một tên sát nhân, giống như ngọn lửa ở đầu cái vòng. Xin để nó giết con trước rồi sau đó mới đến gần đức Thế Tôn.

Và mặc dù đã được bảo đến lần thứ ba, vị Trưởng lão này vẫn đứng yên tại chỗ và không đi lui. Lúc ấy đức Thế Tôn dùng thần lực đẩy vị ấy ra sau và đưa Tôn giả vào giữa Tăng chúng. Ngay lúc này một phụ nữ chợt trông thấy Nàlàgiri, quá kinh hoảng vì sợ chết, liền chạy làm rơi đứa con mà bà đang bế bên hông xuống giữa khoảng đức Như Lai và con voi rồi vội thoát thân.

Con voi đuổi theo bà, chợt đến gần đứa bé đang khóc lớn. Bậc Đạo Sư gây xúc động với lòng từ bi được trải rộng rất đặc biệt, vừa cất giọng dịu ngọt như tiếng của Phạm thiên vừa gọi con voi Nàlàgiri:

– Này Nàlàgiri, những kẻ đã làm voi điên cuồng với mười sáu vò rượu mạnh không để cho voi tấn công kẻ nào khác, mà chúng làm vậy vì nghĩ rằng voi sẽ tấn công Ta. Đừng nhọc công chạy quanh không mục đích, mà hãy đến đây.

Khi nghe giọng nói của bậc Đạo Sư, con voi mở mắt và nhìn dáng uy nghi của đức Thế Tôn, liền xúc động mãnh liệt và nhờ thần lực của đức Phật, công hiệu độc hại của rượu mạnh tan biến mất.

Vừa hạ vòi và vẫy tai, nó vừa đi đến quỳ xuống dưới chân đức Như Lai. Lúc ấy bậc Đạo Sư bảo nó:

– Này Nàlàgiri, ngươi là một con voi hung dữ ta là vương tượng đã thành Phật. Từ nay ngươiđừng hung dữ và man rợ nữa, đừng sát nhân, mà hãy tu tập tâm từ.

Nói vậy xong, Ngài đưa tay phải ra vỗ về trán voi và thuyết Pháp qua các vần kệ này:

Nếu voi dám đánh Chúa voi này,
Voi sẽ khóc than kiếp đọa đày,
Đánh Chúa voi này, ngươi phải chịu
Đọa vào khổ cảnh kiếp sau hoài.
Từ bỏ buông lung với dại cuồng,
Kẻ ngu không đạt đến thiên đường,
Nếu mong thiên lạc trong đời kế
Voi phải lo làm việc thiện lương.

Toàn thân con voi được thấm nhuần niềm hoan hỷ, và giá như nó chẳng phải là loài vật bốn chân, thì nó đã đắc Sơ quả Dự Lưu. Dân chúng chiêm ngưỡng phép thần thông này, liền reo hò vang dậy và búng ngón tay dòn dã.

Trong niềm hân hoan, họ tung lên đủ mọi trang sức phủ khắp mình voi. Từ đó Nàlàgiri được mệnh danh là Dhanapàlaka (Tài Hộ: giữ kho báu).

Bấy giờ vào dịp gặp gỡ voi Tài Hộ này, tám vạn bốn ngàn chúng sinh được uống vị ngọt của Pháp Bất tử. Và bậc Đạo Sư đã an trú voi Tài Hộ vào Ngũ giời. Nó vừa dùng vòi hất bụi bặm từ chân đức Thế Tôn rải lên đầu nó, vừa cúi mình đi lui, rồi đứng đảnh lễ đấng Thập lực cho đến khi Ngài khuất dạng, sau đó nó quay về chuồng voi.

Từ đó về sau, nó hoàn toàn thuần thục và không hại ai cả. Bấy giờ ý nguyện của bậc Đạo Sư đã thành tựu, nên Ngài quyết định rằng kho báu ấy vẫn là tài sản của những người đã ném nó lên con voi, Ngài suy nghĩ: “Hôm nay Ta đã thực hiện một đại thần thông. Nếu Ta đi khất thực trong kình thành này thì không thích hợp”.

Thế là sau khi đánh bại đám tà đạo, Ngài được các Tỷ-kheo hộ tống đi ra kinh thành như một vị tướng lãnh chiến thắng và tiến thẳng về phía Trúc Lâm. Dân chúng đem theo một số cơm nước và thức ăn loại cứng đi vào tinh xá rồi cử hành đại lễ cúng dường.

Chiều hôm ấy, trong lúc ngồi đông đủ tại Chánh Pháp đường, Tăng chúng bắt đầu thảo luận, bảo nhau:

– Tôn giả Ànanda đã thành tựu một việc hy hữu khi sẵn sàng hy sinh tính mạng để cứu đức Như Lai. Vừa trông thấy Nàlàgiri, mặc dù đã bị bậc Đạo Sư bảo ba lần không được ở lại đó, Tôn giả vẫn không chịu đi ra. Này các Hiền giả, quả thật Trưởng lão ấy đã làm một việc hy hữu.

Bậc Đạo Sư suy nghĩ: “Câu chuyện này xoay quanh vấn đề đức hạnh của Ànanda, Ta phải hiện diện ở đó mới được”.

Ngài liền bước ra khỏi Hương phòng vừa đến hỏi hội chúng:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang bàn vấn đề gì trong lúc ngồi tại đây?

Và khi Tăng chúng đáp: Về vấn đề như vầy như vầy. . .,

Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà ngày xưa nữa, ngay khi còn ở hình hài súc sinh, Ànanda cũng đã hy sinh tính mạng vì Ta.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, trong quốc độ Mahimsaka ở kinh thành Sakula, có vị vua mệnh danh Sakula cai trị vương quốc theo Chánh pháp. Thời ấy, không xa kinh thành, có một người bẫy chim ở trong ngôi làng của dân bẫy chim, kiếm sống bằng nghề đánh bẫy chim và đem ra phố bán. Gần kinh thành là một hồ sen tên là Mànusiya, chu vi mười hai dặm, phủ đầy năm loại hoa sen. Một đàn chim đủ loại thường đến đó và người thợ kia tha hồ đặt bẫy. Bấy giờ chúa loài Thiên nga là Dhatarattha có đám tùy tùng gồm chín mươi sáu ngàn Thiên nga an trú trong Kim Động trên núi Cittakùta và vị đại tướng của đàn là Sumukha (Sư-mục-kha).

Một ngày kia, một đàn Thiên nga màu vàng óng ả bay đến hồ Manusiya và sau khi gặm chồi sen thỏa thích trong vùng đất phong phú thực phẩm này, chúng bay về ngọn núi Cittakùta mỹ lệ kia và trình báo với chúa chim Dhatarattha:

– Tâu Đại vương, có hồ sen tên là Mànusiya, một vùng đất thực phẩm phong phú nằm giữa nơi cư trú của loài người. Chúng thần muốn đến nơi đó ăn uống.

Chúa chim đáp:

– Những nơi cứ trú của loài người đầy nguy hiểm. Đừng để chuyện này lôi cuốn các bạn.

Sau đó mặc dù không ưng thuận đi, ngài vẫn bị chúng nài nỉ mãi, liền bảo:

– Nếu các bạn thích chuyện ấy thì chúng ta sẽ đi.

Rồi cùng với đám hầu cận, ngài bay đến đó. Vừa đáp xuống từ trên không, ngài đã đặt chân vào dây thòng lọng ngay đúng lúc ngài chạm mặt đất. Thế là dây ấy siết chân ngài như thể cái kẹp sắt và giữ chân ngài thật chặt.

Lúc ấy ngài nghĩ cách phá cái bẫy liền giật mạnh nó, trước tiên da chân rách ra, kế đó thịt bị xé ra và cuối cùng dây gân đứt, đến khi cái bẫy chạm tới xương, máu tuôn xối xả gây đau nhức dữ dội . Ngài suy nghĩ: “Nếu ta thốt tiếng kêu bị bắt, đồng loại ta sẽ hốt hoảng và nếu không được ăn gì chúng sẽ nhịn đói bay về và do kiệt sức, chúng sẽ rơi xuống nước”.

Vì vậy ngài chịu đau cho đến khi đám thân thuộc đã ăn uống no nê và vui đùa theo kiểu thiên nga, ngài cất tiếng kêu của con chim bị nạn. Nghe vậy, cả bầy Thiên nga kinh hoảng sợ chết liền bay về phía núi Cittakùta.

Ngay khi chúng đã khuất dạng, Sumukha đại tướng loại Thiên nga, suy nghĩ: “Có thể đây là một việc khủng khiếp đã xảy ra với Đại vương chăng? Ta muốn tìm xem sao”.

Rồi bay hết tốc lực mà vẫn không nhìn thấy bậc Đại Sĩ trong phần của đoàn quân Thiên nga đang bay về, chim ấy đi tìm ngài ở đoàn chim lớn, và cũng không thấy ngài đâu cả nó tự bảo: “Chắc chắn có việc gì ghê gớm xảy ra rồi”. Khi quay lại nó liền thấy bậc Đại Sĩ bị mắc bẫy, thân đầy máu đang chịu đau đớn vô cùng và đang nằm trên đám bùn. Chim ấy hạ cánh xuốngđậu trên mặt đất, vừa cố sức an ủi bậc Đại Sĩ, vừa nói:

– Xin Đại vương chớ sợ, thần sẽ giải cứu Đại vương khỏi cái bẫy dù phải hy sinh tính mạng mình.

Lúc ấy, muốn thử lòng chim bạn, bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ đầu:

  1. Bầy chim không để ý gì ta,
    Vội vã chúng bay biến thật xa,
    Chim bị giam tìm đâu bạn hữu?
    Bay ngay, đừng ở nán đây mà
    .

Tiếp theo đây là các vần kệ đối đáp nhau:

Đại tướng:

  1. Dù có đi hay ở vời ngài,
    Ngày kia thần cũng phải lìa đời,
    Thần theo ngài thuở còn vinh hiển,
    Lúc khổ đau không thể bước rời. 
  2. Hoặc thần phải chết với quân vương,
    Hoặc sống đời hiu quạnh đoạn trường,
    Thà chết ngay đây thì thật tốt
    Còn hơn sống để khóc bi thương.
  3. Bỏ ngài không đúng nghĩa quân thần,
    Khi ở trong tình cảnh đáng buồn,
    Thần sẽ rất hài lòng mãn nguyện
    Cùng ngài chung số phận phong trần.

Nga vương:

  1. Số phận nào cho chim bị giam,
    Ngoại trừ dây nướng thịt hung tàn,
    Tự do, trí vẫn còn suy nghĩ,
    Sao có thể đành chịu bỏ thân?
  2. Có lợi gì khanh hoặc với ta
    Từ đây, khanh xét thấy, Thiên nga,
    Lợi gì quyến thuộc ta còn sống
    Nếu cả hai ta phải chết mà?
  3. Kim Nga, nghĩa cử của hiền khanh
    Sẽ bị màn đêm phủ thật nhanh,
    Hành động hy sinh này biểu lộ
    Đức gì nếu đặt dưới bình minh?

Đại tướng:

  1. Ngài không thấy, hỡi Thiên nga vương,
    Hạnh phúc theo sau việc Chánh chân?
    Chánh nghĩa được tôn sùng xứng đáng
    Dạy cho người thực chất hiền lương.
  2. Thấy Chân chánh, tất cả việc lành
    Có thể từ Chân chánh phát sinh,
    Vì đã quý yêu ngài thắm thiết,
    Thần hân hoan phóng xả thân mình.
  3. Nếu biết điều Chân chánh, chúng ta
    Không hề bỏ bạn lúc sa cơ,
    Cho dù phải cứu mình đi nữa,
    Bậc trí khuyên đây Chánh nghĩa mà.

Nga vương:

  1. Chánh nghĩa của khanh đã thực hành,
    Trong khi ta nhận thấy chân tình,
    Đi ngay, nếu thật khanh mong muốn
    Làm việc mà ta rất tán thành.
  2. Có lẽ các dây thuở đã qua
    Buộc ràng quyến thuộc dưới quyền ta
    Kịp thời chuyển đến khanh sau đó
    Với trí, tài điều khiển vượt xa.
  3. Trong khi đôi bạn quý cao này
    Trao đổi tâm tư tuyệt diệu vầy,
    Hãy ngắm, gã săn chim táo bạo
    Hiện ra trước mắt chúa tôi đây
    Khác gì Thần chết đang đi đến
    Trước kẻ liệt giường khốn khổ thay.
  4. Đôi bạn thấy kia một kẻ thù
    Nên lòng lo sợ, nặng ưu tư,
    Lặng yên đậu đó không di chuyển
    Khi gã đến gần tự nẻo xa.
  5. Thấy bầy ngỗng nọ đã bay tung
    Đây đó, biến dần giữa cõi không,
    Nơi chốn đôi chim cao thượng đậu,
    Cừu nhân vội vã tiến lên gần.
  6. Trong lúc gã đang vội bước chân,
    Đến nơi định mệnh đã dành phần,
    Thợ săn rung động vì tư tưởng,
    Kêu lớn: “Bầy chim bị bắt không?”
  7. Gã thấy một chim trong bẫy giăng,
    Và con chim nọ gã nhìn sang
    Chăm lo chim bạn đang tù hãm,
    Còn nó không xiềng xích buộc ràng.
  8. Hoang mang trí óc lẫn hoài nghi,
    Gã ngắm đôi chim cao thượng kia,
    Khôn lớn cả đôi, cùng đẹp mã,
    Gã liền cất tiếng, giọng từ bi:

Thợ săn:

  1. Đành rằng chim bị bắt trong dây
    Không thể bao giờ cất cánh bay,
    Ngươi vẫn tự do và lớn mạnh,
    Sao ngươi quyết ở với chim này?
  2. Với ngươi, chim có họ hàng gì,
    Khi cả đàn kia đã trốn di,
    Dầu được tự do, ngươi ở lại,
    Bên chim bị bắt một mình kia?

Đại tướng:

  1. Hỡi cừu nhân của đám Thiên nga,
    Ngài chính quân vương, vốn bạn mà,
    Thân thiết như đời ta chẳng khác,
    Ồ không, ta chẳng muốn bao giờ
    Bỏ ngài trong lúc ngài lâm nạn.
    Cho đến khi Thần chết gọi ta.

Thợ săn:

  1. Chim này không phát hiện hay sao
    Chiếc bẫy người giăng kín thế nào?
    Phận sự của anh hùng tướng lãnh
    Là đề phòng hiểm họa gian lao
    .

Đại tướng:

  1. Khi người sắp gặp bước suy tàn,
    Giờ Tử thần đang tiến lại gần,
    Dù bạn đến kề bên chiếc bẫy,
    Cũng không thấy bẫy sập dây giăng!

Thợ săn:

  1. Bẫy dù đủ loại, hỡi chim Thần,
    Đôi lúc đặt ra chỉ uổng công,
    Đến phút cuối cùng do định mệnh
    Con người bị bẫy kín, thương vong.

Như vậy là nhờ đối thoại với gã bẫy chim mà đại tướng Thiên nga đã xoa dịu lòng gã, và chim ấy ngâm vần kệ xin gã tha mạng cho bậc Đại Sĩ:

  1. Có phải đây là kết quả lành
    Do lời thân thiện với tôn huynh
    Xin người tha mạng đôi ta với,
    Ta được tự do giải thoát nhanh.

Người bẫy chim say mê giọng đối đáp dịu ngọt của Sumukha, liền ngâm kệ:

  1. Này chim, ngươi chẳng bị giam mình,

Hãy chạy đi, mau chạy thật nhanh,
Ta chẳng muốn thân ngươi đổ máu,
Bình an, hãy sống chuỗi ngày xanh.

Tiếp theo sau chim Sumukha ngâm bốn vần kệ:

  1. Ta không tha thiết sống riêng ta,
    Nếu bạn ta đây phải chết mà,
    Xin hãy vui lòng tha vị ấy,
    Thịt ta thay thế chúa Thiên nga.
  2. Chúng ta về tuổi tác tương đồng,
    Cùng cỡ rộng dài các cẳng chân,
    Không mất gì, dù người đổi lấy
    Mạng ta thay thế mạng quân vương.
  3. Hãy xét xem ta với cách này,
    Thỏa lòng thèm muốn với ta đây,
    Trước tiên hãy buộc ta vào bẫy,
    Rồi để chúa chim giải thoát ngay.
  4. Do đó người thành tựu ước mong,
    Và ta đạt nguyện vọng trong lòng,
    Thiên nga, Tôn giả đều hòa hợp
    Trong lúc đời trôi mãi chẳng dừng.

Vậy là nhờ nghe giảng Pháp lành, tim người thợ săn dịu lại, như thể vải được nhúng dầu và gã giao bậc Đại Sĩ cho chim ấy, khác nào giao nô lệ cho chủ nhân, rồi ngâm kệ:

  1. Xin làm chứng, các bậc hiền nhân
    Nô lệ, họ hàng, các bạn thân,
    Do chính một mình ngươi cứu giúp
    Chúa chim đượcgiải thoát giam cầm.
  2. Ít ai có được một thân bằng
    Như chính ngươi đang thật sẵn sàng
    Chia xẻ cùng nhau chung số phận
    Khi chim chúa gặp bẫy vong thân.
  3. Vậy chúa chim này, ta thả ra
    Bạn ngươi, theo gót cũng bay xa,
    Mau lên, giữa đám chim thân thuộc
    Ngươi sẽ như sao chiếu sáng lòa.

Nói vậy xong, người đánh bẫy kia với từ tâm đến gần bậc Đại Sĩ và cắt các sợi dây ra, ôm ngài trong tay, đưa ngài ra khỏi nước và đặt ngài trên đám cỏ xanh tươi bên bờ hồ, rồi hết sức dịu dàng, gã nhẹ tay nới lỏng chiếc bẫy đã trói chân ngài rồi ném nó ra xa.

Sau đó, phát sinh tình thương mến mãnh liệt đối với bậc Đại Sĩ, với tâm lòng tràn ngập niềm thân ái, gã lấy nước rửa máu ở vết thương của ngài và chùi sạch sẽ. Do năng lực của từ tâm ấy, vết thương ở chân Bồ-tát khép lại dần, gân nối liền gân, thịt liền thịt, da liền da. Da non hiện ra và lông tơ mọc phủ lên đó.

Bồ-tát vẫn giống hệt như trước kia chân không hề bị sa bẫy bao giờ và an toàn theo tư thế bình thường hoan hỷ. Lúc ấy Sumukha chiêm ngưỡng bậc Đại Sĩ hạnh phúc như vậy, tất cả đều do hành động của mình, trong niềm vui tràn trề, nó ca tụng người bẫy chim.

*

Bậc Đạo Sư ngâm vần kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Hoan hỷ nhìn chim chúa thoát thân
    Ngỗng làm vinh dự đấng minh quân,
    Và êm tai kẻ làm ân phước,
    Bằng những lời hay đẹp nhất trần:
  2. “Lạp hộ, cùng thân quyến cả nhà,
    Mong chư vị hạnh phúc chan hòa
    Như ta hạnh phúc khi nhìn thấy
    Chim chúa Thiên nga được thả ra”.

Sau khi tán thán người bẫy chim như vậy, tướng quân Sumukha nói với Bồ-tát:

– Tâu Chúa thượng, người này đã cống hiến chúng ta một công đức thật vĩ đại: ví thử y không nghe lời chúng ta, y có thể được đại phú hoặc bằng cách luyện tập chúng ta cho thuần để nuôi làm trò tiêu khiển và đem dâng các vị Đại vương nào đó hoặc giết chúng ta để bán làm thứcăn. Song y đã nghe theo lời ta mà hoàn toàn không quan tâm đến kế sinh nhai của y. Vậy ta hãy đưa y vào yết kiến quốc vương và làm cho y được hạnh phúc suốt đời.

Bậc Đại Sĩ chấp thuận việc này ngay.

Sau khi vừa đàm luận với bậc Đại Sĩ bằng ngôn ngữ riêng của loài chim xong, tướng quân Sumukha nói với kẻ bẫy chim bằng tiếng người và hỏi:

– Này hiền hữu, tại sao hiền hữu đặt bẫy?

Để kiếm lợi – Gã đáp.

Sumukha bảo:

– Nếu vậy thì hiền hữu hãy đưa chúng ta vào thành trình diện với đức vua, ta sẽ thuyết phục đức vua ban phú quý cho hiền hữu.

Và chim ấy ngâm các vần kệ:

  1. Nhanh lên, ta sẽ dạy cho người
    Phương cách tìm ra thật lắm lời,
    Khi thấy đại danh chim ngỗng chúa,
    Chẳng mang tỳ vết nhỏ nhất đời.
  2. Mau đem ta đến chốn triều đường,
    Thân thể bình an được vẹn toàn,
    Đứng ở mỗi đầu, không trói buộc,
    Phía trên đòn gánh của người mang.
  3. Rồi người hãy nói: “Tấu Minh quân,
    Thần đến mang theo cặp ngỗng hồng,
    Một chủ tướng đầu đàn ngỗng ấy,
    Còn chim kia chính Thiên nga vương”.
  4. Chúa tể loài người ấy ngắm xem
    Thiên nga vương giả, sẽ bừng lên
    Bao niềm hoan hỷ và sung sướng,
    Sẽ tặng người vô số bạc tiền.

Khi chim ấy nói xong, người bẫy chim đáp:

– Xin các vị đừng mong muốn yết kiến đức vua nữa. Vua chúa quả thật tâm tính hay thay đổi: họ sẽ bắt giữ các vị để làm trò tiêu khiển hoặc giết chết các vị đấy.

Sumukha đáp:

– Này hiền hữu, đừng sợ gì cả. Ta đã thuyết Pháp làm dịu lòng một kẻ độc ác như bạn và đã khiến bạn quy phục ta, dù người là một kẻ bẫy chim với bàn tay vấy máu đỏ. Còn các vua chúa thật ra đầy nhân từ và trí tuệ, là những người có thể phân biệt lời lẽ thiện ác. Vậy hãy mau đưa chúng ta vào yết kiến đức vua của hiền hữu.

Người bẫy chim nói:

– Thôi được, xin các vị chớ giận tôi Nếu việc này làm các vị thật sự thích thú, thì tôi sẽ đưa các vị đến yết kiến vua.

Thế rồi gã đưa đôi chim lên đòn gánh của gã và đi đến triều đình xin bệ kiến vua. Khi được vua hỏi chuyện, người bẫy chim công bố mọi sự kiện của trường hợp này.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Vội làm khi gã mới nghe xong
    Việc các chim mong tận cõi lòng,
    Đem cặp hồng nga vào bệ kiến,
    Bình an, thân thể mạnh hoàn toàn,
    Đậu kia, chẳng có gì ràng buộc,
    Trên mỗi đầu đòn gánh gã mang.
  2. Rồi người ấy nói: “Tấu Minh quân
    Thần đến mang theo cặp ngỗng hồng,
    Một chủ tướng đầu đàn ngỗng ấy,
    Còn chim kia chính Thiên nga vương .
  3. “Kìa, những chim này mạnh biết bao,
    Trở thành mồi bẫy của ngươi sao,
    Sao ngươi bò tới gần bên chúng
    Chẳng khiến chúng kinh hãi tẩu đào?”
  4. “Trong ao hồ, khải tấu Minh quân,
    Xin hãy ngắm xem bẫy lưới giăng,
    Trong mọi chốn loài chim trú ẩn,
    Bẫy thường được đặt tạo thương vong.
  5. Chính trong một bẫy kín như vầy
    Thần đã bắt chim chúa ngỗng này,
    Chim bạn tự do ngồi kế cận
    Và mong cầu chúa thoát tù đày.
  6. Chim này làm phận sự hơn xa
    Thành tựu phàm nhân đạt đến mà,
    Cương quyết tập trung toàn nỗ lực
    Làm cho chim chúa được buông tha.
  7. Chim đằng kia muốn chịu hy sinh,
    Xứng đáng hưởng thêm cuộc sống mình,
    Ví thử chúa chim này được sống,
    Chúa chim đã được bạn tôn vinh.
  8. Nghe những lời chim ấy giải bày,
    Tiểu thần liền đạt phước ân ngay,
    Hân hoan giải phóng chim tù tội,
    Ra lệnh đôi chim cất cánh bay.
  9. Hoan hỷ nhìn chim chúa thoát thân,
    Ngỗng làm vinh dự đấng minh quân,
    Và êm tai kẻ làm ân phước
    Bằng những lời hay đẹp nhất trần:
  10. “Lạp hộ, cùng thân quyến họ hàng,
    Mong chư vị hạnh phúc muôn vàn
    Như ta hạnh phúc khi nhìn thấy
    Chúa chim Thiên nga được thoát nạn,
  11. Nhanh lên, ta sẽ dạy cho người
    Phương cách tìm ra thật lắm lời,
    Khi thấy đại danh chim ngỗng chúa
    Chẳng mang tỳ vết nhỏ nhất đời.
  12. Mau đem ta đến chốn triều đường,
    Thân thể bình an được vẹn toàn,
    Đứng ở mỗi đầu, không trói buộc,
    Phía trên đòn gánh của người mang.
  13. Rồi người hãy nói: “Tấu Minh quân,
    Thần đến mang theo cặp ngỗng hồng,
    Một chủ tướng đầu đàn ngỗng ấy,
    Còn chim kia chính Thiên nga vương”.
  14. Chúa tể loài người ấy ngắm xem
    Thiên nga vương giả, sẽ bừng lên
    Bao niềm hoan hỷ và sung sướng,
    Sẽ tặng người vô số bạc tiền .
  15. Do vậy, theo lời chim bảo ban
    Thần đưa đôi ngỗng đến triều đường,
    Mặc dù chúng tự do tìm kiếm
    Nơi trú bình an ở núi ngàn.
  16. Chim kia có số phận như vầy,
    Dù thật chánh chân đến thế này
    Có thể chuyển lay lòng trắc ẩn
    Thợ săn hung bạo tựa thần đây.
  17. Thiên nga này, khải tấu Minh quân,
    Tặng vật tiểu thần đến hiến dâng,
    Giữa những chốn người săn đặt bẫy,
    Hiếm khi tìm được vật ngang bằng.

Như vậy, gã đứng đó tán dương những đức hạnh của Sumukha. Sau đó vua Sakula tặng ngỗng chúa một bảo tọa cao sang và Sumukha một kim đôn quý giá. Khi đôi chim đã an tọa, vua mới dùng bắp rang, mật ong, mật mía và các món tương tự đựng trong các chén dĩa bằng vàng. Khiđôi chim đã ăn xong, vua chấp hai tay thỉnh cầu bậc Đại Sĩ thuyết Pháp rồi ngồi xuống một kim đôn nữa.

Theo lời thỉnh cầu ấy, chúa Thiên nga đàm đạo đầy hứng thú với vua.

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ mọi việc:

  1. Giờ đây nhìn thấy đấng quân vương
    An tọa kim đôn sáng rỡ ràng,
    Chim ngỗng dùng âm thanh dịu ngọt
    Làm êm tai chúa tể trần gian
    .

Thiên nga:

  1. “Đại vương, ngọc thể có khang an,
    Vạn sự Đại vương thảy vẹn toàn,
    Quý quốc hẳn là đang thịnh vượng,
    Được ngài cai trị thật công bằng?”

Quân vương:

  1. Nga vương, trẫm vẫn được khang an,
    Vạn sự trẫm đây được vẹn toàn,
    Bổn quốc hiện giờ rất thịnh vượng,
    Hưởng nền cai trị thật công bằng.

Thiên nga:

  1. Ngài có triều thần thật chánh chân,
    Biết khuyên nhủ chúa, chẳng sai lầm,
    Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
    Vì chánh nghĩa và danh chúa công?

Quân vương:

  1. Trẫm có triều thần thật chánh chân,
    Biết khuyên nhủ trẫm, chẳng sai lầm,
    Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
    Vì chánh nghĩa và danh quả nhân.

Thiên nga:

  1. Phải chăng hoàng hậu cũng chung dòng,
    Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
    Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
    Vâng chiều mọi Thánh ý Minh quân?

Quân vương:

  1. Trẫm nay có chánh hậu chung dòng,
    Lời lẽ ôn nhu biết phục tòng,
    Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
    Vâng chiều mọi ý trẫm cầu mong.

Khi Bồ-tát đã chấm dứt những lời chào hỏi thân hữu xong, vua lại đàm đạo cùng ngài:

Quân vương:

  1. Khi vận rủi kia đưa đẩy ngài,
    Đến cừu nhân tối hiểm trên đời,
    Khi ngài gặp phải tay người ấy,
    Ngài đã chịu bao thống khổ rồi?
  2. Gã kia có chạy, gậy trong tay
    Đánh đập các ngài, nói trẫm hay?
    Với những con người gian ác ấy
    Trẫm thường nghe nói cách như vầy.

Thiên nga:

  1. Ta không hề gặp bước gian nan
    Trong lúc lòng ta vẫn nhớ ơn
    Kẻ ấy chẳng bao giờ đối xử
    Với ta như những bọn cừu nhơn.
  2. Người bẫy chim run rẫy, ngạc nhiên,
    Cầu mong hỏi chuyện của đôi chim,
    Và Sư-mục, tướng quân khôn nhất,
    Đã trả lời ngay kẻ ấy liền.
  3. Nghe những lời chim tuớng giải bày
    Người kia liền đạt phước ân ngay,
    Hân hoan giải thoát ta từ bẫy,
    Ra lệnh đôi ta cất cánh bay.
  4. Tâu Đại vương, Sư-mục ước mong
    Đến đây và yết kiến long nhan,
    Nghĩ rằng người bẫy chim thân hữu
    Sẽ kiếm ra vô số bạc vàng
    .

Quân vương:

  1. Cung nghênh các vị, đúng hoàn toàn,
    Trẫm thật hân hoan gặp bạn vàng,
    Hiền hữu bẫy chim rồi sẽ nhận
    Thỏa lòng mọi tặng vật trần gian
    .

Nói vậy xong, vua nhìn thẳng một vị cận thần và khi vị ấy hỏi:

– Tâu Đại vương, xin cho biết Thánh ý.

Vua đáp:

– Khanh hãy đưa người bẫy chim này đi tỉa gọn râu tóc và sau khi gã được tắm rửa, xoa dầu thơm, hãy cho gã phục sức xiêm y lộng lẫy và đưa gã lại đây.

Khi việc này đã xong và người bẫy chim được dẫn đến, vua ban ân cho gã một ngôi làng hằng năm sinh lợi một trăm ngàn đồng tiền và thêm một ngôi nhà đứng ở vị trí giáp hai mặt đường, một cỗ xe lộng lẫy và cả kho vàng ròng.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Quân vương rộng lượng đã truyền ban
    Người bẫy chim vô số bạc vàng,
    Sau đó hồng nga cất tiếng nói
    Âm thanh mê mẩn cả tâm can
    .

*

Sau đó bậc Đại Sĩ thuyết Pháp cho vua, và khi nghe ngài giảng giải, vua sinh tâm hoan hỷ, mong muốn bày tỏ dấu hiệu kính trọng đối với vị Pháp sư, vua liền tặng ngài chiếc lọng trắng, vừa dâng lên ngài cả quốc độ vừa ngâm các vần kệ này:

  1. Những gì trẫm có, đúng công bằng
    Những vật trẫm đòi hỏi chánh chân,
    Sẽ chuyển qua quyền ngài thọ hưởng,
    Nếu ngài nêu nguyện ước trong tâm.
  2. Dẫu ngài đem bố thí ban ân,
    Hoặc sử dụng, hay muốn hưởng phần,
    Trẫm nhượng quyền hành cùng tất cả,
    Và giao ngài cả chiếc ngai vàng.

Bậc Đại Sĩ liền trao trả chiếc lọng trắng mà vua đã tặng ngài. Rồi vua suy nghĩ: “Ta đã nghe Pháp do vị chúa hồng nga thuyết giảng, song vị tướng quân Sumukha này được gã bẫy chim tán tụng nhiệt liệt là nói năng dịu ngọt như mật rót vào tai, vậy ta cũng muốn nghe chim ấy thuyết Pháp”. Thế là vua ngâm vần kệ khác để đàm đạo với chim ấy:

  1. Trí hiền Sư-mục thật tinh thông,
    Ví thử nói ra tự nguyện lòng
    Chỉ một hai lời thôi cũng đủ
    Trẫm đây hạnh phúc bội muôn phần.

Sau đó Sumukha đáp:

  1. Xin tâu Chúa thượng, trước Minh quân,
    Đúng phép, tôi không dám nói năng
    Dù chỉ một đôi lời nhỏ mọn,
    Khác nào vương tử của Long thần.
  2. Vì chúa hồng nga hiện diện đây,
    Và ngài Đại đế tối cao vầy,
    Có quyền đòi hỏi đầy chân chánh
    Niềm kính trọng tôi phải tỏ bày.
  3. Thần tôi hèn mọn, tấu Quân vương,
    Nên chẳng dám can thiệp luận bàn,
    Khi nhị Đại vương đang nghị sự
    Bao điều quan trọng giữa triều đường.

Vua nghe chim ấy nói, lòng đầy hoan hỷ phán bảo:

– Người bẫy chim nhiệt liệt ca tụng tướng quân, chắc chắn không thể có được ai khác như khanh cả, quả thật khanh là vị thuyết Pháp êm dịu làm sao!

Vua ngâm các vần kệ này:

  1. Người bẫy chim ca tụng nhiệt tình
    Chim này trí tuệ, tuyệt thông minh,
    Tinh khôn như vậy đâu tìm thấy
    Ở kẻ trí chưa được học hành.
  2. Trong đám chim cao quý trẫm xem
    Chim này vô địch giữa đàn em,
    Tối cao đức tính chim đầy đủ
    Đệ nhất hữu tình vượt hẳn lên.
  3. Hình dáng thanh cao, giọng ngọt ngào
    Khiến lòng mê mẩn biết dường nào,
    Ước mong của trẫm là hai vị
    Ở mãi bên mình thỏa ước.

Sau đó bậc Đại Sĩ ngâm kệ ca tụng vua:

  1. Ngài đối đãi đây với chúng thần
    Như người đối với đại thân bằng,
    Này đây Chúa thượng vừa ban phát
    Hèn mọn đội chim hưởng phước ân.
  2. Song đàn chim quyến thuộc kêu than
    Xa vắng lâu ngày đã bặt tăm,
    Và có nhiều chim đầy khổ não
    Vì không còn thấy bóng Nga vương.
  3. Vậy để xua tan nỗi khổ này,
    Đại vương, xin thả chúng thần ngay,
    Cúi xin Chúa thượng nay cho phép
    Gặp lại thân bằng, cất cánh bay.
  4. Hôm nay hạnh ngộ đấng Quân vương,
    Thần thấy tâm hoan hỷ ngập tràn,
    Thần chắc từ nay toàn bạn hữu
    Chẳng còn duyên cớ để kinh hoàng.

Khi ngài nói vậy xong, vua mới chịu để hai vị giã từ. Bậc Đại Sĩ lại thuyết giảng với vua về nỗi khổ đau theo liền Ngũ ác dục và niềm hạnh phúc đi theo công đức, rồi ngài khích lệ vua:

– Xin Đại vương giữ giới luật và trị dân chân chánh cùng thu phục nhân tâm với Tứ Nhiếp pháp (Bốn pháp hòa hợp: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự)

Sau đó ngài khởi hành về núi Cittakùta.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Như vầy với chúa tể loài người,
    Chim chúa Dha-ta đã đáp lời,
    Sau đó tìm thân bằng quyến thuộc,
    Tung đôi cánh mạnh nhất lên trời.
  2. Nhìn chủ tướng chim được vạn an
    Trở về từ cõi chết nhân gian,
    Đàn chim vỗ cánh kêu ầm ĩ
    Chào đón chúa chim lại họp đàn.
  3. Vây quanh chúa tể chúng tôn sùng,
    Tin tưởng, giờ đây đám ngỗng hồng
    Kính cẩn nghiêng mình chào chúa tể
    Hân hoan vì chúa được an thân.

Trong khi hộ tống chim chúa, bầy Thiên nga hỏi ngài:

– Tâu Chúa thượng, làm thế nào ngài thoát nạn?

Bậc Đại Sĩ thuật cho chúng nghe ngài được giải thoát nhờ Sumukha giúp đỡ, và nói về hành động của vua Sakula cùng người bẫy chim.

Nghe vậy cả bầy Thiên nga hân hoan ca ngợi tất cả các vị:

-Vạn tuế tướng quân Sumukha của đàn Thiên nga, và Đại vương Sakula cùng chú bẫy chim. Cầu mong các vị an lạc hạnh phúc lâu dài.

Bậc Đạo Sư ngâm vần kệ cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Ai có từ tâm ắt đạt thành
    Việc gì các vị ấy thi hành,
    Như Thiên nga trở về bằng hữu
    Lần nữa đôi chim được trọn lành
    .

*

Đến đây bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, Ànanda cũng đã hy sinh tính mạng vì Ta.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Channa (Xa-nặc) là người bẫy chim, Sàriputta (Xá-lợi-phất)là nhà vua, Ànanda (A-nan) là Sumukha, các đệ tử đức Phật là chín mươi ngàn Thiên nga, và Ta chính là chúa Thiên nga.

-ooOoo-

  1. Chuyện đại Thiên nga (Tiền thân Mahàhamsa)

Kìa đám hồng nga cất cánh bay…,

Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm, về việc Trưởng lão Ànanda hy sinh tính mạng.

Phần duyên khởi cũng giống hệt như chuyện đã có nhưng vào dịp này, trong lúc bậc Đạo Sư kể chuyện quá khứ, đã tường thuật cổ tích sau đây.

*

Ngày xưa ở thành Ba-la-nại, một vị quốc vương mệnh danh Samyama có vị chánh hậu tên là Khemà (Thái Hòa). Thời ấy, Bồ-tát cùng đám tùy tùng chín mươi ngàn thiên nga trú trên đỉnh núi Cittakùta.

Một ngày kia vào lúc tảng sáng, hoàng hậu Khemà thấy chiêm bao: một bầy thiên nga màu vàng ánh đến đậu trên ngai vua và thuyết Pháp với giọng ngọt ngào. Trong khi hoàng hậu đang lắng tai nghe và tán thán mà chưa được trọn bài thuyết giảng, thì bình minh đã đến, bầy thiên nga liền chấm dứt Pháp thoại và bay qua cửa sổ mở rộng Hoàng hậu vội vàng thức dậy kêu to:

– Bắt lấy chúng, bắt lấy bầy thiên nga trước khi chúng thoát thân.

Và trong lúc vừa dang rộng cánh tay, bà tỉnh dậy. Nghe lời bà, đám cung nữ thưa:

– Tâu lệnh bà, bầy thiên nga ở đâu?

Và chúng cười khúc khích.

Lúc ấy, hoàng hậu biết đó chỉ là giấc mơ, và nghĩ thầm: “Ta không thể thấy một vật không có thật: chắc chắn có loài kim nga trên đời này, song nếu ta tâu đức vua: “Thiếp mong muốn nghe loài kim nga thuyết Pháp” , ngài sẽ bảo: “Ta chưa từng thấy giống kim nga nào cả, làm gì có chuyện chim kim nga thuyết Pháp”. Và ngài sẽ không quan tâm đến vấn đề đó. Song nếu ta tâu: “Thần thiếp có niềm ao ước ấy trong lúc mang thai”, ngài sẽ cho tìm chúng mọi cách và thế là ta được thỏa tâm nguyện”.

Vì vậy, vừa giả bệnh, vừa dặn dò các cung nữ xong, bà đi nằm. Khi vua đã ngự lên ngai mà không thấy bà đến yết kiến như thường lệ, liền hỏi hoàng hậu Khemà ở đâu và khi nghe bà bị bệnh, vua đến thăm bà, vừa ngồi một bên giường bà, vừa vuốt lưng và hỏi thăm bệnh tình của bà. Bà đáp:

– Tâu Chúa thượng, thần thiếp chẳng bệnh gì cả, song thiếp chợt có những mềm ao ước của một thai phụ.

– Này ái khanh, cứ nói đi, ái khanh muốn gì, trẫm sẽ tìm được cho ái khanh ngay.

– Tâu Chúa thượng, thiếp ao ước nghe chim kim nga thuyết Pháp trong lúc chim ấy ngự trên ngai vàng, có chiếc lọng che trên đầu, và thiếp mong dâng lên chim ấy nhiều tràng hoa thơm cùng các lễ vật khác để tỏ lòng cung kính tán thán của thiếp. Nếu thiếp đạt được điều này thì quý biết bao, nếu không, thiếp chẳng muốn sống nữa.

Vua liền an ủi bà và bảo:

– Nếu có vật ấy trên thế giới này thì ái khanh sẽ được toại nguyện, chớ lo buồn.

Rồi ra khỏi cung thất của hoàng hậu, vua tham vấn các vị đại thần và phán:

– Này các khanh, hãy lưu ý: hoàng hậu Khemà bảo: “Nếu thiếp nghe được chim kim nga thuyết Pháp thì thiếp sẽ sống, nếu không, thiếp sẽ chết”. Vậy hãy cho trẫm biết, có loài chim kim nga nào chăng?

Triều thần đáp:

– Tâu Chúa thượng, chúng thần chưa từng nghe hoặc thấy loài ấy.

– Thế ai biết được chuyện này?

– Tâu Chúa thượng, các Bà-la-môn.

Vua liền triệu tập các Bà-la-môn đến và hỏi:

– Có chuyện nào như việc loài chim kim nga thuyết Pháp chăng?

– Tâu Đại vương, cóTheo truyền thuyết của chúng thần, các loài cá, cua, rùa, nai, công và thiên nga đều có sắc vàng ánh. Trong số ấy, người ta bảo dòng giống Thiên nga Dhatarattha rất tinh khôn thông thái. Cộng thêm loài người nữa là bảy loài sinh vật có màu vàng ròng.

Vua vô cùng hoan hỷ, hỏi:

– Vậy loài hồng nga thông thái này cư ngụ ở đâu?

– Tâu Đại vương, chúng thần không biết.

– Thế thì ai biết chứ?

– Bọn bẫy chim – Họ đáp.

Vua liền tập hợp tất cả dân bẫy chim từ khắp nước về, và hỏi họ:

– Này các hiền hữu, các chim kim nga thuộc dòng giống Dhatarattha cư trú ở đâu?

Một người bẫy chim đáp:

– Tâu Đại vương, theo truyền thuyết từ đời nọ sang đời kia, người ta bảo chúng cư trú trong dãy Tuyết Sơn, trên đỉnh Cittakùta.

– Vậy khanh có biết làm cách nào bắt được chúng chăng?

– Tâu Đại vương, thần không biết.

Vua liền triệu tập các Bà-la-môn thông thái, sau khi cho họ biết có loài chim kim nga trên đỉnh Cittakùta, vua hỏi họ có cách nào để bẫy chúng chăng. Họ đáp:

– Tâu Đại vương, cần gì chúng thần phải bắt chim? Chúng thần sẽ bày mưu kế đưa chim về gần kinh thành và bắt chúng.

– Mưu kế gì vậy?

– Tâu Đại vương, về phía bắc kinh thành, xin Đại vương ra lệnh đào một cái hồ rộng ba dặm, một địa điểm thật an toàn, chứa đầy nước, trồng đủ loại ngũ cốc cùng năm loại hoa sen phủ mặt hồ. Rồi giao hồ cho một người bẫy chim thiện xảo chăm sóc, không cho phép ai đến gần hồ, và phân công nhiều người canh giữ bốn góc, rao truyền cho dân chúng biết đây là hồ bảo tồn chim muông. Khi nghe vậy, mọi loài chim sẽ đến đó. Sau đó các chim kim nga này nghe bọn chúng bảo nhau hồ này thật an toàn, tức nhiên sẽ đến thăm hồ và Đại vương sẽ bảo lấy thòng lọng bẫy chúng.

Vua nghe vậy, liền bảo đào hồ như họ miêu tả ở vùng họ nói, rồi triệu một người bẫy chim thiện xảo đến, ban cho gã một ngàn đồng tiền và phán:

– Từ nay ngươi hãy bỏ nghề cũ, trẫm sẽ cấp dưỡng vợ con gia đình ngươi. Cẩn thận canh giữ hồ bình an này và buộc mọi người phải tránh xa hồ, truyền rao khắp bốn phương rằng đây là hồ bảo tồn chim muông, hễ có loài chim nào lai vãng nơi đây đều là của trẫm, và khi loài chim kim nga đến, ngươi sẽ được vinh hoa phú quý.

Cùng với những lời khích lệ này, vua giao gã chăm nom hồ bảo tồn. Từ ngày ấy, gã bẫy chim làm đúng như vua truyền canh giữ nơi ấy và do gã bảo vệ hồ bơi được bình an, sẽ dần dần được mệnh danh là người bẫy chim Khemà (Bình An).

Từ đấy, mọi loài chim đến đậu nơi ấy, và vì chúng truyền tin cho nhau rằng hồ này bình an ổn định, nên nhiều loài thiên nga bay đến. Trước hết là loài thiên nga màu cỏ xanh, rồi nhờ chứng loan báo, kế đó là loài hoàng nga, và theo cách này giống thiên nga đỏ tía, thiên nga trắng và thiên nga Paka lần lượt đến.

Khi chúng đến, Khemà trình vua như vầy:

– Tâu Đại vương, năm loài thiên nga đã đến, và chúng vẫn đang tiếp tục ăn uống hồ này. Giờ đây thiên nga Paka đã đến, chỉ vài ngày nữa là loài kim nga sẽ đến. Xin Đại vương chớ lo âu nữa.

Vua nghe vậy liền truyền đánh trống lệnh công bố khắp kinh thành rằng không ai được phép đến nơi kia, bất cứ kẻ nào bất tuân sẽ chịu hình phạt chặt tay chân và tịch thu gia sản, nên từ đó không ai dám đến đó nữa.

Bấy giờ, thiên nga Paka cư trú không xa đỉnh Cittakùta trong Kim Động. Loài chim này có sức mạnh phi thường và cũng giống như thiên nga dòng họ Dhatarattha, màu sắc thân của chúng rất đặc sắc, còn con gái của Thiên nga vương Paka lại có màu vàng ánh. Vì thế vua cha nghĩ rằng nàng xứng đôi với Thiên nga vương Dhatarattha và gả nàng cho vua chim kia. Nàng rấtđược vua chim sủng ái, nhờ vậy hai dòng họ thiên nga này trở nên thân thiết nhau.

Một hôm bầy thiên nga hầu cận Bồ-tát hỏi thiên nga Paka:

– Các bạn tìm thức ăn ở đâu bây giờ?

– Chúng tôi đang kiếm ăn gần Ba-la-nại, trong một vùng nước an toàn, nhưng còn các bạn bay tận đâu?

– Đến nơi như vầy, như vầy – Chúng đáp.

– Sao các bạn không đến hồ bảo tồn chim muông? Đó là một cái hồ tuyệt đẹp, đủ các loài chim, được năm loại sen bao phủ, rất nhiều loại ngũ cốc và quả cây, cùng nhiều đàn ong đủ loại bay lượn vo ve. Tại bốn phía đều có người canh giữ công bố hồ được vĩnh viễn tránh khỏi hiểm nguy. Không ai được phép đến gần, lại càng không có việc hại nhau đâu.

Theo cách này, chúng cứ ca tụng hồ bình an mãi. Khi nghe chuyện thiên nga Paka nói, chúng trình với Sumukha (Sư-mục-kha).

– Bầy chim kia bảo chúng thần ở gần Ba-la-nại có một hồ bình an như vầy, dòng họ Paka vẫn thường đi ăn tại đóXin tướng công tâu với Đại vương Dhatarattha và nếu ngài cho phép chúng thần, thì chúng thần cũng sẽ kiếm mồi tại đó.

Sumukha trình với chúa chim, ngài suy nghĩ: “Loài người quả thật đầy mưu thần chước quỷ. Chắc chắn phải có lý do gì đây. Từ xưa tới nay không hề có hồ như vậy. Chắc hẳn bây giờ hồ đã được xây để bắt chúng ta”. Ngài liền bảo Sumukha:

– Khanh đừng tán thành việc đi đến hồ kia. Hồ này chẳng được họ xây bằng thiện ý đâu; mà nóđược xây để bắt chúng ta đó. Chắc chắn loài người đầy ác tâm và mưu mô xảo quyệt. Hãy ở lại chỗ các khanh thường kiếm mồi.

Lần thứ hai bầy kim nga thưa với tướng Sumukha rằng chúng rất nóng lòng đi đến hồ Bình An và vị ấy lại trình nguyện vọng của chúng lên chúa chim. Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Không nên để quyến thuộc ta bất mãn vì ta. Vậy chúng ta cùng đến đó”.

Vì vậy được chín mươi ngàn thiên nga hộ tống, ngài bay đến đó và gặm chồi non, vui đùa theo cung cách loài thiên nga xong rồi bay về núi Cittakùta.

Sau khi bầy chim đã ăn uống và giã từ, gã bẫy chim Khemaka đi trình vua Ba-la-nại việc chimđã đến. Vua vô cùng hoan hỷ phán:

– Này hiền hữu Khemaka, hãy gắng bắt lấy một hai thiên nga, rồi ta sẽ ban thưởng vinh hoa phú quý cho khanh.

Cùng với các lời này, vua ban bổng lộc cho gã và bảo gã ra về.

Khi trở lại hồ, người bẫy chim ngồi giấu mình trong cái thùng rỗng và ngắm các hoạt động của bầy thiên nga. Các vị Bồ-tát quả thật đã thoát ly tham dục. Vì thế bậc Đại Sĩ bắt đầu từ nơi đã hạ cánh xuống, bước đi ăn lúa một cách chừng mực từ tốn. Còn các chim kia đều bay nhảy kiếm mồi khắp nơi. Do vậy, người bẫy chim suy nghĩ: “Thiên nga này đã thoát ly tham dục:đây chính là con chim ta phải bắt lấy”.

Ngày hôm sau trước khi bầy thiên nga hạ cánh xuống hồ, gã đến một nơi gần đó giấu mình trong cái thùng rỗng, ngồi yên tại đó nhìn qua khe hở của thùng. Lúc ấy bậc Đại Sĩ được chín mươi ngàn Thiên nga hộ tống đáp xuống nơi ngài đã đến hôm trước, và đậu ngay tại chỗ ăn hôm qua, tiếp tục gặm lúa.

Người bẫy chim nhìn qua khe hở của thùng, chú ý ngay vẻ đẹp phi thường của chim này, và suy nghĩ: “Chim này lớn bằng cỗ xe, lông vàng ánh và cổ lại có ba khoang đỏ. Ba khoang này chạy từ cổ xuống dọc theo phần giữa bụng, trong khi ba khoang khác chạy xuống nổi rõ trên lưng, toàn thân tỏa sáng như một khối vàng ròng treo trên sợi dây làm bằng chỉ đỏ. Đây chắc hẳn là chim chúa và chính là con chim ta quyết bắt lấy”.

Còn chúa Thiên nga, sau khi ăn lúa trên đồng ruộng xong, lại vui đùa trong vũng nước và sau đó được đàn chim hộ tống trở về núi Cittakùta. Suốt sáu ngày liền, ngài kiếm mồi theo kiểu ấy.

Vào ngày thứ bảy, Khemakha kết một sợi dây lớn bằng lông ngựa đen và buộc dây thòng lọng trên cây sào, rồi vì biết chúa Thiên nga sẽ đáp xuống ngày mai vào chỗ cũ, gã đặt cây sào có buộc cái bẫy ở trên vào trong vũng nước.

Hôm sau, chúa Thiên nga hạ cánh xuống liền bị mắc chân vào bẫy, nó kẹp chặt chân chim như sợi dây sắt siết mạnh. Chim chúa muốn phá bẫy nên kéo lê nó đi và lấy hết sức đạp mạnh vào bẫy. Trước tiên chỗ da vàng ánh bị bầm dập, kế đó thịt màu đỏ thắm bị rách, rồi gân đứt lìa, cuối cùng đáng lẽ chân chim đã bị gãy, song nghĩ rằng thân thể tàn tật không xứng đáng với một chúa chim, nên chim không chống cự nữa. Trong khi các chỗ đau bắt đầu nhức nhối, chim suy nghĩ: “Nếu ta thốt tiếng kêu cứu quyến thuộc ta sẽ hoảng hốt và dù chưa ăn no đủ, chúng cũng sẽ chạy trốn, thì e còn đói lòng, chúng sẽ rơi xuống nước”.

Vì thế cố chịu đựng nỗi đau, chim đứng yên trong gọng kìm của chiếc bẫy, giả vờ ăn lúa. Nhưng khi đàn chim đã no nê rồi, và đang chơi đùa theo kiểu cách thiên nga, chim chúa liền thốt tiếng kêu bị nạn.

Bầy thiên nga nghe vậy bay bổng lên đi mất, như đã được tả trước đáy. Tướng quân Sumukha cũng xem xét mọi việc như đã kể, rồi bay đi tìm quanh quẩn mà không thấy bậc Đại Sĩ trong ba đàn thiên nga lớn kia, liền suy nghĩ: “Chắc hẳn đây là một chuyện khủng khiếp đã xảy ra với đức vua” và vị ấy liền quay về nói:

– Tâu Chúa thượng, xin đừng sợ, thần sẽ giải cứu Chúa thượng dù phải hy sinh tánh mạng của thần.

Rồi vừa đáp xuống vũng bùn, chim ấy an ủi vỗ về bậc Đại Sĩ. Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Chín mươi ngàn thiên nga đã bỏ ta bay đi mất, chỉ còn chim này một mình trở lại đây. Ta không biết khi người bẫy chim đến, Sumukha cũng sẽ bỏ ta mà bay đi không”. Rồi để thử lòng chim kia, ngài dựa mình đầy máu vào chiếc sào buộc cái bẫy, và ngâm ba vần kệ:

  1. Kìa đám hồng nga cất cánh bay,
    Cả bầy hốt hoảng hãi kinh đầy,
    Đi ngay, Sư-mục-kha vàng ánh,
    Khanh muốn gì chăng ở chốn này?
  2. Họ hàng ta đã bỏ rơi ta,
    Bọn chúng đều cao chạy vút xa,
    Đào tẩu ngay, không hề nghĩ ngợi,
    Sao khanh đơn độc ở đây mà?
  3. Thiên nga cao thượng, hãy bay về,
    Tù tội làm sao có bạn bè?
    Lúc được tự do, Sư-mục hỡi,
    Bay đi, đừng bỏ dịp may kề!

Nghe vậy, Sumukha nghĩ thầm: “Thiên nga vương này không biết bản tính ta; ngài tưởng ta chỉ là thứ bạn nói lời xu nịnh. Ta sẽ tỏ cho ngài thấy ta yêu quý ngài biết bao”, rồi chim ấy ngâm bốn vần kệ:

  1. Không, thần sẽ chẳng bỏ Nga vương,
    Khi đến gần tai họa thảm thương,
    Song ở lại đây, thần đã quyết
    Bên ngài, dù sống chết không màng.
  2. Không, thần sẽ bỏ Nga vương,
    Khi đến gần tai họa thảm thương,
    Chẳng dự vào hành vi hạ liệt
    Với bầy chim nọ, chẳng theo gương.
  3. Thần đồng tâm hiệp ý cùng ngài,
    Đồng bạn vui chơi thuở thiếu thời,
    Giữa đám quần thần, tâu Chúa thượng,
    Nổi danh là thủ lãnh hùng oai.
  4. Khi về với quyến thuộc thân bằng
    Thần biết làm sao để nói năng,
    Ví thử bỏ ngài cho số phận,
    Vô tình bay bổng thật nhanh chân?
    Không, thà chịu chết hơn là sống
    Khi phải đóng vai hạ liệt thần.

Khi Sumukha đã ngâm bốn vần kệ như giọng sư tử rống, bậc Đại Sĩ lên tiếng nêu rõ đức độ của bạn:

  1. Bản tính khanh, Sư-mục Tướng quân,
    Vẫn thường an trú lý Như chân,
    Không bao giờ bỏ rơi vua chúa,
    Thân hữu, hãy tìm cách thoát thân.
  2. Khi ta nhìn thấy mặt Hiền khanh,
    Trong trí ta không khỏi hãi kinh,
    Dù cảnh ngộ buồn, khanh cũng sẽ
    Tìm đường giải cứu bạn thân mình.

Trong lúc đôi chim đang đàm luận như vậy, người bẫy chim đứng trên bờ hồ thấy bầy thiên nga bay rẽ ra thành ba đàn và không biết việc này có ý nghĩa gì, gã chợt nhìn đến nơi gã đã đặt bẫy và thấy Bồ-tát dựa mình vào cây gậy có cột thòng lọng. Vô cùng mừng rỡ, gã buộc thắt lưng lại cầm gậy vội vàng đến gần và đứng trước đôi chim, như ngọn lửa ở đầu chiếc vòng,đầu gã vươn cao trên đôi chim và gót chân chôn chặt dưới bùn.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng rõ vấn đề:

  1. Đôi chim cao thượng đã trao nhau
    Tư tưởng như vầy thật quý cao,
    Hãy ngắm kẻ săn chim táo bạo
    Tay cầm chiếc gậy, bước chân mau.
  2. Thấy gã đến gần, Sư-mục-kha
    Đứng lên ngay trước chúa Thiên nga,
    Hiên ngang khích lệ quân vương ấy
    Đầy nỗi lo trong bước sẩy sa.
  3. “Nga vương cao quý, chớ kinh hoàng,
    Kinh hãi chẳng là cách Đại vương,
    Với lẽ công bằng, thần nỗ lực
    Khẩn cầu với lý luận khôn ngoan
    Bằng hành động hết lòng can đảm
    Lần nữa Chúa công được thoát nàn.

Sumuakha an ủi bậc Đại Sĩ như vầy, rồi vừa đi đến bên người bẫy chim, vừa dùng tiếng người thật êm dịu hỏi:

– Này Hiền hữu, danh tánh của bạn là gì?

Y đáp:

– Này Chúa loài kim nga, ta có tên là Khemaka.

Sumukha đáp:

– Này Hiền hữu, đừng tưởng rằng chỉ một thiên nga tầm thường đã bị bắt vào bẫy lông ngựa của hiền hữu: đó chính là Chúa công Dhatarattha, lãnh tụ của chín mươi ngàn thiên nga đang bị mắc bẫy. Ngài thật là hiền trí, đức hạnh, và đang sẵn sàng hòa giải. Ta sẽ làm bất cứ việc gì mà ngài phải làm cho hiền hữu. Ta cũng có sắc vàng ánh và ta muốn hy sinh thân mạng mình vì ngài. Nếu hiền hữu muốn nhổ lông ngài, xin hãy nhổ lông ta; hoặc nếu hiền hữu muốn làm việc gì khác với da, thịt, gân, xương ngài, xin cứ lấy ra từ thân ta. Hơn nữa, giả sử hiền hữu muốn luyện ngài thành chim thuần, xin hãy luyện ta, bán ta lúc còn sống; hoặc nếu muốn kiếm tiền, xin hãy bán ta, chứ đừng giết ngài, vì ngài là bậc đầy đủ trí tuệ và đức hạnh như thế. Nếu hiền hữu muốn giết ngài, hiền hữu sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi địa ngục hoặc đọa xứ khổ cảnh tương tự.

Sau khi đe dọa kẻ bẫy chim bằng nỗi kinh hoàng địa ngục, khiến y phải nghe lời khuyến dụ êm tai của mình, Sumukha lại đến gần đứng cạnh Bồ-tát, và an ủi ngài .

Gã bẫy chim nghe lời ấy, suy nghĩ: “Chỉ là một con chim như thế, nó lại có thể làm được những gì loài người không thể làm được. Vì loài người không chung thủy trong tình bằng hữu. Ôi đấy thật là một chim thần, đầy trí tuệ và biện tài”. Toàn thân gã rung động với nỗi hoan lạc kỳ diệu, tóc gã dựng đứng vì kinh ngạc, gã làm rơi chiếc gậy và chấp hai tay lên trước trán, như người kính lễ mặt trời, gã đứng đó tuyên dương công hạnh của Sumukha.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Người săn chim nọ đã nghe lời
    Chim ấy nói ra với biện tài,
    Tóc dựng đứng lên, tay chấp lại,
    Tôn sùng kính lễ trước chim trời.
  2. Chưa được nghe hay thấy trước giờ
    Chim dùng tiếng nói của người ta,
    Và bằng giọng lưỡi chim tuyên thuyết
    Chân lý tối cao quả thật là.
  3. Với ngươi; chim có họ hàng gì,
    Khi cả đàn cùng chạy trốn đi,
    Dù được tự do, ngươi ở lại
    Bên chim bị bắt một mình kia?

Khi nghe người bẫy chim độc ác hỏi câu này, Sumukha suy nghĩ: “Kẻ ấy đã động lòng, ta muốn bày tỏ cho y thấy đức tính của ta để y hồi tâm thêm nữa” Và chim ngâm kệ:

  1. Hỡi cừu nhân của đám thiên nga,
    Ngài chúa công, ta đại tướng mà,
    Ta chẳng bỏ ngài cho số phận,
    Bình an đào thoát một mình ta.
  2. Đừng để Thiên nga chúa đại hùng
    Nơi đây phải chết thật đơn thân,
    Bên ngài, hạnh phúc ta tìm thấy,
    Ta được ngài như đáng chúa công
    .

Khi nghe lời thuyết giáo dịu dàng về cách nhận lãnh trách nhiệm của chim kia, người bẫy chim tràn ngập hân hoan và lông tóc dựng đứng vì kinh ngạc, suy nghĩ: “Giả sử ta giết Thiên nga chúa đầy đủ đạo hạnh và mọi đức tính này, ta sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi bốn khổ hình. Vậy cứ để vua Ba-la-nại muốn làm gì ta cũng mặc, ta sẽ trao chim mắc bẫy này như quà biếu không cho Sumukha và thả chim đi”.

Gã liền ngâm kệ:

  1. Ngươi kính Điểu vương, cao quý thay,
    Vì ngươi vẫn sống vời chim này,
    Hãy bay về chốn ngươi chung sống,
    Ta thả tự do hiền chúa ngay.

Nói vậy xong, người bẫy chim đầy thiện ý đến gần bậc Đại Sĩ uốn cây sào xuống, đặt chim chúa trên bùn, và lại nhấc sào ra khỏi thòng lọng. Sau đó gã kéo chim ra khỏi hồ, vừa đặt chim trên đám cỏ Kusa non, gã vừa nhẹ tay tháo chiếc bẫy đã kẹp chân chim. Lòng gã rạt rào tình thân mến bậc Đại Sĩ , và với từ tâm, gã lấy nước rửa sạch máu rồi chùi đi chùi lại nhiều lần.

Nhờ uy lực của từ tâm ấy, gân dính liền gân, thịt liền thịt, da liền da, chân chim lại lành như trước, chẳng còn gì khác với chân kia, và Bồ-tát ngồi đó hân hoan thư thái như xưa.

Sumukha thấy chim chúa hạnh phúc dường nào nhờ hành động của mình, nên vô cùng hoan hỷ nghĩ thầm: “Người này đã đem lại lợi ích cho ta, nhưng ta chưa làm gì cho y cả. Nếu y bắt ta cho các triều thần và giao ta cho họ, y sẽ được một số tiền lớn, và nếu y bắt ta cho chính y, y sẽ bán ra rồi thu lợi lớn. Ta muốn hỏi y đôi điều”. Như vậy do lòng mong ước làm ích lợi cho gã, chim ngâm kệ hỏi:

  1. Nếu vì mục đích của riêng tây,
    Ông đã bắt ta, đặt bẫy này,
    Ta được tự do ông trả lại,
    Lòng không lo lắng, nghĩ suy đầy.
  2. Song bằng không, quả thật to gan,
    Người bẫy chim tha mạng điểu vương
    Mà chẳng vì ân vua phép nước,
    Hiển nhiên trộm cướp chẳng gì hơn.

Người bẫy chim nghe vậy bảo:

– Ta không bắt chim cho ta đâu, ta được vua Samyama ở Ba-la-nại sai làm.

Rồi gã kể cho chim nghe toàn thể câu chuyện, từ lúc đầu hoàng hậu nằm mộng cho đến khi vua nghe có loài thiên nga đến, và phán: “Này hiền hữu Khemaka, hãy cố bắt một hai thiên nga, rồi trẫm sẽ ban đại phú quý cho khanh”, và cấp lương thực cho gã lên đường.

Khi nghe vậy, Sumukha suy nghĩ: “Người bẫy chim này không kể gì đến kế sinh nhai của riêng mình, khi thả chúng ta ra là gây khó khăn cho y, song nếu từ đây, ta trở về Cittakùta, thì trí tuệ siêu phàm của điểu vương Dhatarattha cũng như hành động vì tình bằng hữu của ta đều không được biểu lộ, người bẫy chim cũng sẽ không hưởng đại phú quý, nhà vua cũng không được an trú vào Ngũ giới và ước nguyện của hoàng hậu cũng không thành tựu”. Vì thế, chim ấy đáp:

– Này hiền hữu, nếu quả thật như vậy, thì ông không thể để cho chúng ta đi. Hãy đưa chúng ta đến yết kiến vua và ngài sẽ đối xử với chúng ta tùy thích.

Chim ấy lại ngâm vần kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Ông là tôi tớ của quân vương,
    Ý nguyện ngài, ông phải vẹn toàn,
    Tùy thích vua Sa-mya định đoạt
    Với ta, đối xử hợp tâm can.

Nghe vầy, người bẫy chim nói:

– Thưa các ngài, các vị không nên mong ước diện kiến đức vua. Vua chúa quả thật là những người vô cùng nguy hiểm. Họ sẽ luyện các vị thành chim thuần thuần tính hoặc giết đi.

Sumukha liền đáp:

– Này hiền hữu bẫy chim, đừng bận lòng vì chúng ta. Nhờ thuyết Pháp, ta đã khiến cho một người độc ác như ông phát khởi từ tâm. Vậy sao ta không làm việc này với vua? Vua chúa đủ trí tuệ để hiểu lời chân thiện. Hãy mau đưa ta đến yết kiến vua. Ông đừng đem chúng ta đi như đôi chim mắc bẫy, mà hãy đặt ta vào chiếc lồng hoa và đưa đi như vậy. Hãy làm chiếc lồng lớn phủ sen trắng cho điểu vương Dhatarattha và lồng nhỏ hơn phủ sen đỏ cho ta, đặt ngài phía trước, ta phía sau, hơi thấp hơn một chút, rồi khẩn cấp đưa ta đi yết kiến vua.

Khi nghe lời Sumukha, người bẫy chim suy nghĩ: “Sumukha đến yết kiến đức vua chắc hẳn mong ta được đại vinh hiển”. Lòng vô cùng hoan hỷ, gã làm đôi lồng bằng các cành liễu mềm phủ hoa sen, xong liền lên đường cùng với đôi chim theo cách miêu tả.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Người săn chim nắm cả hai tay
    Trong lúc được nghe nói thế này,
    Liền đặt vào lồng đôi ngỗng đỏ
    Sắc da vàng ánh đẹp như vầy.
  2. Bộ lông ngời sáng, chúa Thiên nga
    Càng đẹp mắt trông, với Mục-kha,
    Yên ổn trong lồng người đặt bẫy
    Cầm lên cùng với ngỗng đi ra.

*

Ngay khi người bẫy chim lên đường cùng với đôi ngỗng, chim chúa Dhatarattha chợt nhớ đến vương hậu của mình là công chúa của Thiên nga vương Paka, do lòng tham ái chi phối, chim chúa than thở như vầy với Sumukha.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Nga vương vừa mới được mang ra,
    Liền nói như vầy vời Mục-kha:
    “Vương hậu diễm kiều đầy quý tướng
    Bây giờ đang khổ não vì ta.
    Nếu nàng nghe nói rằng ta chết,
    Ta sợ đời nàng cũng phải sa.
  2. Như cò hương khóc bạn tình lang,
    Đơn độc bên bờ vắng đại dương,
    Rực rỡ, Su-he (*) da óng ả
    Sẽ còn thương tiếc mãi quân vương.

(*) Suhemà: tên hoàng hậu Thiên nga

*

Nghe vầy, Sumukha suy nghĩ: “Thiên nga này, dù luôn sẵn sàng khuyến giáo kẻ khác, lại bị tham dục chi phối, tất cả chỉ vì chim mái, nên cứ lảm nhảm như nước đang sôi sùng sục, hoặc chẳng khác tiếng bầy chim từ bến bờ vụt lên rồi sà xuống mổ lúa trên ruộng! Hay ta phải cố dùng trí tuệ nêu rõ cho ngài thấy những thói xấu của nữ giới và làm ngài tỉnh táo lại chăng?”, và chim này ngâm kệ:

  1. Thiên nga vĩ đại, trí vô song,
    Lãnh đạo anh minh của giống dòng,
    Sao phải ưu phiền vì nữ giới,
    Tỏ bày bao nhược điểm trong lòng.
  2. Như gió mang đi đủ thứ mùi
    Dù là thơm ngát hoặc tanh hôi,
    Tham lam như trẻ thành mù quáng
    Ăn thức còn tươi hoặc chín rồi.
  3. Không xét suy chân chánh việc làm
    Mê mờ, ngài chẳng thấy trên đàng
    Việc gì cần tránh, gì làm được,
    Trong lúc sa cơ, gặp hiểm nàn.
  4. Hóa dại, ngài ca tụng má hồng
    Có đầy vẻ diễm lệ say lòng;
    Tầm thường, tuy vậy, là đa số,
    Chẳng khác trà đình của túy ông.
  5. Ưu phiền, bệnh tật với tai ương,
    Như xích xiềng, gông, cực bạo tàn,
    Ảo ảnh, dối gian và cạm bẫy
    Tử thần cất kín tận tâm can.
    Nữ nhân đều thế, ai tin chúng
    Hạ liệt quả là nhất thế gian!

Lúc ấy chúa chim Dhatarattha đang say mê nữ giới, liền bảo:

– Hiền hữu không biết các đức tính của phái nữ, nhưng các bậc hiền trí biết rõ, nữ giới khôngđáng bị chỉ trích đâu.

Rồi ngài giải thích qua các vần kệ:

  1. Bậc trí nhìn chân lý rõ rành,
    Còn ai khiển trách, dám phê bình?
    Nữ nhân sinh ở trong trần thế
    Để hưởng đặc quyền với đại danh.
  2. Nhi nữ sinh ra để cợt đùa,
    Tình yêu lạc thú được ban cho,
    Hạt mầm nảy nở trong nhi nữ,
    Nguồn gốc đời ta được hộ phò,
    Từ đó nam nhân bừng nhịp thở,
    Khó lòng khinh thị đám quần thoa.
  3. Riêng khanh, Sư-mục, có tinh thông
    Cung cách dung nghi đám má hồng,
    Xúc động hãi kinh, khanh có thấy
    Trí này sáng suốt muộn màng không?
  4. Khi một nam nhân gặp bất an,
    Giữa tai biến, chịu đựng can cường,
    Trong cơn khủng hoảng bao hiền trí
    Cố sức cho ta được thoát nàn.
  5. Quân vương muốn gặp bậc anh hùng
    Để có người khuyên nhủ hộ phòng
    Chống nỗi kinh hoàng do nghịch cảnh,
    Giải bày thích đáng, cứu nguy vong.
  6. Ta mong đầu bếp của hoàng gia
    Đừng nướng thân ta đã xác xơ,
    Như trái cây tre thường giết mẹ
    Bộ lông vàng cũng giết đời ta.
  7. Tự do, khanh chẳng muốn bay đi,
    Tự nguyện giam cầm để cứu nguy,
    Giờ phút hiểm nghèo, đừng nói nữa,
    Hãy hoàn thành sứ mạng nam nhi.

Bằng cách tán tụng nữ giới, bậc Đại Sĩ đã làm cho Sumukha phải im lặng, nhưng khi thấy vị ấy buồn bực biết bao, giờ đây ngài muốn hòa giải với bạn, liền ngâm kệ này:

  1. Gắng sức làm sao thật đúng thời,
    Với công bằng biện hộ như lời,
    Anh hùng hành động, xin hiền hữu
    Đem lại cho ta cả cuộc đời
    .

Lúc ấy Sumukha suy nghĩ: “Ngài hết sức kinh hãi vì sợ chết; ngài không biết uy lực của ta. Sau khi yết kiến vua Ba-la-nại và đàm đạo đôi điều với vua, ta sẽ biết cách hành động. Lúc này ta muốn an ủi đại vương của ta”, và vị ấy ngâm vần kệ:

  1. Nga vương cao quý, chờ kinh hoàng,
    Kinh hãi chẳng là cách Đại vương,
    Với lẽ công bằng, thần nỗ lực
    Khẩn cầu vời lý luận khôn ngoan,
    Bằng hành động hết lòng can đảm
    Lần nữa chúa công được thoát nàn.

Trong lúc hai vị đang nói chuyện với nhau bằng tiếng chim như vậy, người bẫy chim chẳng hiểu lời nào chim nói cả, cứ mang đôi chim trên đôi gánh đi vào thành Ba-la-nại, gã được một đám đông theo sau vì tràn đầy thích thú kinh ngạc trước cảnh kỳ dị kia, họ đưa hai tay lên trời với dáng điệu nguyện cầu. Khi đến hoàng môn, người bẫy chim nhờ trình vua về việc gã đến chầu.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Người săn chim đến cổng hoàng gia,
    Tiến lại gần cùng gánh nặng kia,
    “Trình tấu Đại vương, thần yết kiến,
    Thưa rằng đây chính hiệu hồng nga”.

Người canh cổng đi vào trình y đã đến. Vua vô cùng hoan hỷ, phán:

– Cho phép y vào chầu tức thì.

Rồi được một đám triều thần vây quanh, vua ngự lên ngai vàng có lọng trắng che trên đầu, thấy Khemaka bước lên bệ với gánh nặng trên vai, vừa khi nhìn đôi Thiên nga sắc vàng óng ả, vua phán:

– Ước nguyện của ta đã thành tựu.

Rồi vua truyền lệnh cho quần thần làm mọi việc xứng đáng đền đáp lại người bẫy chim.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Nhìn thấy đôi chim dáng Thánh thần,
    Tràn đầy quý tướng đẹp vô ngần,
    Vua Sa-mya ấy liền lên tiếng
    Cùng với lời trao đám cận thần:
  2. “Ban gã săn chim thức uống ăn,
    Loại mềm, y phục đẹp oai hùng,
    Vàng ròng cả khối màu hồng đỏ
    Ban thật nhiều như dạ ước mong”
    .

*

Lòng vô cùng hân hoan, vua muốn bày tỏ nỗi thích thú của mình liền phán:

– Hãy đi trang điểm cho người bẫy chim rồi đưa y đến đây.

Thế là đám triều thần đưa gã ra khỏi cung, truyền tỉa râu tóc gã, sau khi y đã tắm rửa, xoa đầu thơm và mặc y phục lộng lẫy, họ đưa y vào yết kiến vua. Lúc đó vua ban cho y hai thôn làng hưởng lợi tức hàng năm một trăm ngàn đồng tiền, một cỗ xe do bầy ngựa thuần chủng kéo, một ngôi nhà rộng rãi đầy đủ tiện nghi cùng đại phú quý vinh hiển.

Khi nhận được đại danh vọng như vậy, người bẫy chim tâu trình để giải thích những việc y đã làm:

– Tâu Đại vương, thần không dâng Đại vương loại thiên nga bình thường đâu; đây chính là chúa tể của cả đàn chín mươi ngàn thiên nga, mệnh danh Dhatarattha và đây là đại tướng Sumukha.

Sau đó, vua hỏi:

– Này hiền hữu, làm sao khanh bắt được đôi chim ấy?

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:

  1. Đại vương nhìn thấy kẻ đi săn,
    Đẹp ý hân hoan, mới phán rằng:
    “Hồ ấy, Khe-ma, đàn ngỗng đến
    Hàng ngàn con để kiếm đồ ăn.
  2. Giữa cả đàn chim một giống dòng,
    Làm sao khanh cố sức thi công
    Chọn ra chim chúa này kiều diễm,
    Và bắt Thiên nga vẫn sống chăng?”

Người săn chim đáp lời vua:
45. Bảy ngày ròng rã, dạ âu lo
Thần đã hoài công đánh dấu hồ,
Tìm vết Thiên nga này tuyệt đẹp,
Ẩn mình trong một cái lu to.

  1. Hôm nay thần thấy bãi chim ăn
    Mà chính Thiên nga đã đến gần;
    Lập tức chỗ kia thần đặt bẫy,
    Thiên nga phút chốc bị sa chân.

Khi nghe vậy, vua suy nghĩ: “Kẻ này lúc đứng ở cổng chỉ kể chuyện chim chúa Dhatarattha bay đến, và bây giờ y cũng chỉ nói về chim này thôi. Thế việc này có ý nghĩa gì?”. Và vua ngâm vần kệ:

  1. Thợ săn trình chỉ một chim thôi,
    Nhưng trẫm thấy đầy đủ cả đôi,
    Nhầm lẫn gì chăng, khanh đến tặng
    Trẫm đây thêm một chú chim trời?

Lúc ấy người bẫy chim đáp:

– Tâu Đại vương, không có gì thay đổi trong ý định của thần, và thần cũng không muốn dâng Thiên nga thứ hai này cho ai cả. Hơn nữa, thần chỉ bắt được một con trong bầy thôi.

Rồi y nói tiếp để giải thích:

  1. Thiên nga có những sọc vàng hồng
    Tất cả đều vòng xuống dưới thân,
    Đã bị bắt vào trong chiếc bẫy,
    Thần dâng đây đúng lệnh Minh quân.
  2. Chim tuyệt đẹp này được tự do
    Vẫn ngồi bên cạnh bạn sa cơ,
    Dùng lời lẽ thế nhân êm dịu
    Cố sức làm cho bạn khỏi lo.

Theo cách này y tuyên dương đức hạnh của Sumukha:

– Ngay khi biết Thiên nga Dhatarattha bị bắt, chim ấy ở lại an ủi bạn và khi thần đến gần, nó liền bay đến gặp thần, đứng giữa không gian vừa đàm luận vui vẻ với thần bằng tiếng người, vừa nói rõ mọi đức hạnh của chim Dhatarattha. Và sau khi đã làm cho lòng thần dịu lại như vậy, nó liền đến đứng trước bạn mình lần nữa. Tâu Đại vương, khi nghe tài hùng biện của Sumukha, thần đã được cảm hóa và thả chim Dhatarattha. Do vậy, việc thả chim Dhatarattha khỏi bẫy và việc thần đến đây với đôi ngỗng này đều nhờ công Sumukha cả.

Khi nghe vậy, vua nóng lòng nghe Sumukha thuyết giáo, và trong khi người bẫy chim vẫn đang cung kính đảnh lễ vua, thì mặt trời vừa lặn, đèn đuốc được thắp sáng, một đám tướng lãnh và nhiều người khác tụ họp lại. Hoàng hậu Khemà được đoàn nữ nhạc hộ tống đến ngự bên phải vua; ngay lúc ấy vua muốn thuyết phục Sumukha cất tiếng nói, liền ngâm kệ:

  1. Sao ngươi im tiếng, hỡi Thiên nga,
    Ta đoán phải chăng bởi sợ ta,
    Đến trước quân vương, ngươi diện kiến,
    Mà sao chẳng thốt một lời ra?

Nghe vậy, Sumukha đáp để chứng tỏ mình không sợ gì cả:

  1. Ta chẳng sợ gì, tấu Đại vương,
    Khi trao lời giữa chốn triều đường,
    Nếu cơ hội tốt nào đi đến,
    Ta quyết sẽ không tránh luận bàn.

Nghe vậy, vua mong ước làm chim ấy nói nhiều hơn, liền ngâm kệ chê bai vị tướng chim:

  1. Chẳng bầy xạ thủ mặc quân bào,
    Chẳng mão, chẳng da bảo hộ nào,
    Không có tùy tùng người hoặc ngựa,
    Cũng không xa, pháo để theo hầu.
  2. Chẳng thấy vàng đâu, chẳng thị thành,
    Chẳng lâu đài tráng lệ quang vinh,
    Tháp canh không có, phòng xâm phạm
    Với lũy hào bao bọc bản doanh
    Do tướng Mục-kha xây dựng vậy,
    Không gì đáng sợ ở bên mình.

Khi vua dùng cách này hỏi chim tại sao không kinh hãi, Sumukha liền đáp kệ:

  1. Chẳng ai bảo vệ, hoặc quân canh,
    Chẳng muốn kim ngân hoặc thị thành,
    Giữa chốn không gian, ta kiếm lối
    Vân du khắp cả cõi trời xanh.
  2. Nếu ngài an trú lý Như chân,
    Ta ước mong tuyến thuyết, Đại vương,
    Bài học giúp cho ngài lợi lạc,
    Bằng lời tinh tế lại khôn ngoan.
  3. Song nếu Đại vương chỉ dối gian,
    Một người tâm tính thật tồi tàn,
    Lời người đặt bẫy này hùng biện
    Chẳng ích gì cầu khẩn Đại vương.

Nghe vậy, vua liền đáp:

– Tại sao ngươi dám bảo trẫm lừa dối tồi tàn? Thế trẫm đã làm gì chăng?

Sumukha liền đáp:

– Vậy Đại vương hãy nghe đây.

Và chim nói như sau:

  1. Nghe lời các vị Bà-la-môn,
    Ngài dựng hồ lạc lẫy lừng,
    Và đã truyền rao khắp thập hướng:
    An toàn đây chỗ của chim muông.
  2. Trong chốn hồ này thật tịnh thanh,
    Các dòng nước phẳng lặng, trong xanh,
    Chim muông thấy thức ăn phong phú
    Sống cuộc đời an ổn trọn lành.
  3. Nghe tiếng đồn này vọng thật xa,
    Chúng ta thăm cảnh đẹp hoàng gia,
    Than ôi! Mắc bẫy, ta tìm thấy
    Lời hứa Quân vương hóa phỉnh phờ.
  4. Song lời dối trá khéo bao che
    Hành động tham lam tội lỗi kia
    Chẳng tái sinh thiên, người thế tục,
    Thẳng đường địa ngục sẽ đưa về.

Như vậy ngay giữa đám triều thần, chim đã làm vua phải hổ thẹn. Sau đó vua phán:

– Này Sumukha, trẫm không bắt ngươi để giết và ăn thịt đâu; song nghe tiếng ngươi thông tuệ biết bao, nên trẫm muốn tận tai nghe ngươi hùng biện đấy thôi.

Rồi vua ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Mục-kha, trẫm chẳng phạm sai lầm,
    Trẫm chẳng bắt chim bởi dục tâm,
    Đây chính nguyên nhân gây việc ấy:
    Danh ngươi thông tuệ, trí cao thâm.
  2. “Nơi đây chắc hẳn chúng nêu ra
    Chân thật, những lời ích lợi ta”,
    Nên kẻ bẫy chim, ta hạ lệnh,
    Đem ngươi về đó, hỡi Thiên nga.

Nghe thế , Sumukha đáp:

– Tâu Đại vương, ngài đã hành động sai lầm.

Và chim ngâm các vần kệ sau:

  1. Ta chẳng thể tuyên thuyết thật chân,
    Khi ta kinh hãi chết kề gần,
    Cũng không hít thở hơi từ giã
    Hấp hối phút giây của tử thần.
  2. Ai muốn lấy chim để bẫy mồi,
    Săn mồi bằng thú dữ tìm tòi,
    Pháp sư đánh bẫy bằng bài giảng,
    Kẻ ấy không sao khỏi đọa rồi.
  3. Ai buông lời lẽ thật cao sang,
    Dự định hành vi hạ liệt tràn,
    Thì ở đời này, đời kế nữa,
    Sa từ hạnh phúc đều đau buồn.
  4. Đừng say sưa quá phút vinh quang,
    Cũng chớ khổ đau lúc hiểm nàn,
    Hãy sửa lỗi lầm thành tốt đẹp,
    Hết lòng phấn đấu trước tai ương.
  5. Bậc trí đến khi cuối cuộc đời,
    Đã nhìn thấy đích tử thần rồi,
    Sống trên trần đúng đường chân chánh,
    Theo hướng đi lên đến cõi trời.
  6. Nghe những lời này, giữ chánh chân,
    Mau mau giải phóng, hỡi Minh quân,
    Dha-ta-ra ấy là chim chúa
    Tuyệt thế Thiên nga giữa cả đàn.

Nghe vậy, vua phán:

  1. Mau hãy đi tìm nước rửa chân,
    Đem vào đây cả chiếc kim đôn,
    Hãy nhìn trẫm thả từ lồng ấy
    Tối thượng Thiên nga ở cõi trần.
  2. Cùng bậc anh hùng đại tướng quân,
    Thật là tài giỏi lại tinh thông,
    Dầu khi hoạn nạn hay vinh hiển
    Đều dạy thiết thân với chúa công.
  3. Bậc chân chánh ấy xứng uy danh
    Theo bước chúa công suốt lộ trình,
    Vì đã sẵn sàng trang bị đủ
    Với vua chia xẻ tử cùng sinh.

Nghe lời vua phán, quan hầu đem bảo tọa đến mời đôi chim. Hai vị đậu ở đó rửa chân với nước hoa và xoa dầu thơm đã được lọc cả trăm lần.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:

  1. Chim chúa ngự trên một chiếc ngai,
    Tám chân ngời chói, đặc vàng thoi
    Bên ngoài có lụa Kà-si phủ,
    Quang cảnh này trông thật tuyệt vời.
  2. Sư-mục ngồi bên cạnh Điểu vương,
    Tướng công trung tín lại can cường,
    Ở trên bảo tọa trùm da hổ,
    Tất cả đều nguyên cả khối vàng.
  3. Nhiều chúa Kà-si đựng chén vàng
    Chọn đầy thực phẩm đủ cao lương,
    Mang vào mời cặp Thiên nga ấy
    Tặng vật cúng dâng của Đại vương.

*

Khi thực phẩm được đem thiết đãi hai vị như thế, vua Kàsi muốn đích thân đón tiếp hai vị, liền tự tay lấy chén vàng mời khách, hai vị thưởng thức mật ong, gạo rang và uống rượu đường. Sau đó Bậc Đại Sĩ nhận thấy cung cách vua thiết đãi thật ân cần như vậy liền đàm đạo thân mật với vua.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Nghĩ thầm? “Lễ vật thật cao sang
    Chúa tể Kà-si đã cúng dường,
    Thông hiểu triều nghi nên ngỗng chúa
    Như vầy cất tiếng hỏi quân vương.

Thiên nga:

  1. “Đại vương, ngọc thể có khang an,
    Vạn sự Đại vương thảy vẹn toàn,
    Quý quốc hẳn là đang thịnh vượng,
    Được ngài cai trị thật công bằng?”

Quân vương:

  1. Nga vương, trẫm vẫn được khang an,
    Vạn sự trẫm đây được vẹn toàn,
    Bổn quốc hiện giờ rất thịnh vượng,
    Hưởng nền cai trị thật công bằng.

Thiên nga:

  1. Ngài có triều thần thật chánh chân,
    Biết khuyên nhủ chúa, chẳng sai lầm,
    Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
    Vì chánh nghĩa và danh chúa công?

Quân vương:

  1. Trẫm có triều thần thật chánh chân,
    Biết khuyên nhủ trẫm, chẳng sai lầm,
    Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
    Vì chánh nghĩa và danh quả nhân.

Thiên nga:

  1. Phải chăng hoàng hậu cũng chung dòng,
    Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
    Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
    Vâng chìu mọi Thánh ý Minh quân?

Quân vương.

  1. Trẫm nay có chánh hậu chung dòng,
    Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
    Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
    Vâng chìu mọi ý trẫm cầu mong.

Thiên nga:

  1. Và nay quốc độ lạc an chăng,
    Thoát được bao đàn áp bạo tàn,
    Chẳng chịu độc tài, chuyên chế trị,
    Hưởng nền cai trị thật công bằng?

Quân vương:

  1. Ngày nay vương quốc trẫm bình an
    Thoát được bao đàn áp bạo tàn,
    Chẳng chịu độc tài, chuyên chế trị,
    Hưởng nền cai trị thật công bằng.

Thiên nga:

  1. Có xua ác đảng khỏi giang san
    Đưa các thiện nhân đến vẻ vang,
    Ngài có tránh xa điều chánh trực,
    Hoặc theo đường lối bọn tà gian?

Quân vương:

  1. Trẫm xua ác đảng khỏi giang san,
    Đưa các thiện nhân đến vẻ vang,
    Trẫm quyết tránh xa bao ác hạnh,
    Và theo đường lối bậc hiền lương.

Thiên nga:

  1. Đại vương có thấy quãng đời mình
    Đã vụt trôi qua thật quá nhanh,
    Hãy mãi say sưa vì vọng tưởng
    Nhìn thấy đời sau chẳng hãi kinh?

Quân vương:

  1. Thiên nga, trẫm thấy quãng đời mình
    Đã vụt trôi qua thật quá nhanh,
    Nên vẫn hành trì Mười giới hạnh
    Chẳng hề kinh hãi cõi lai sinh.
  2. Bố thí, ăn năn, trí chánh chân,
    Ôn nhu, hiền dịu, chuộng bình an,
    Từ bi, nhẫn nhục, đầy thân ái,
    Đạo đức không ô nhiễm bụi trần.
  3. Những điều đức hạnh tận tâm can
    Vững chắc vươn lên, thấy rõ ràng,
    Từ đó nảy sinh nguồn hạnh phúc,
    Hân hoan cho trẫm quý muôn vàn.
  4. Song dù Sư-mục chẳng hề hay
    Tội ác trẫm đâu có phạm này,
    Vẫn cứ vô tình tuôn xối xả
    Những lời thô lỗ, giọng nồng cay.
  5. Ta chẳng biết chi các việc này,
    Chim kia đổ trách nhiệm lầm đây,
    Nói năng thô lỗ. Nên ta nghĩ:
    Trí tuệ yếu non đã hiển bày.

Khi nghe vậy, Sumukha suy nghĩ: “Vị vua đức hạnh này đang phẫn nộ vì ta đã khiển trách ngài. Rồi ta sẽ xin ngài tha thứ’’. Rồi chim ấy ngâm kệ:

  1. Thần đã lỗi lầm với Đại vương,
    Nói năng bừa bãi thật điên cuồng,
    Song khi chim chúa này lâm nạn,
    Lòng của hạ thần tựa nát tan.
  2. Như đất chứa đầy mọi chúng sinh,
    Như người cha đối với con mình,
    Đại vương, xin rộng lòng tha thứ
    Lỗi chúng thần đây phạm đã đành.

Lúc ấy, vua liền nâng chim lên, ôm vào lòng và đặt chim trên một kim đôn, vua chấp nhận lời thú nhận lỗi lầm kia và phán:

  1. Trẫm cám ơn Sư-mục tướng quân,
    Khanh không hề dấu tính chơn thuần,
    Khanh làm nhụt chí ta cương quyết
    Trẫm thấy khanh cương trực, thật chân.

Cùng với những lời này, vua hết sức hoan hỷ về bài thuyết Pháp của Bậc Đại Sĩ và lời lẽ cương trực của Sumukha, liền suy nghĩ: “Khi ta hoan hỷ, ta phải hành động để bày tỏ mềm hoan hỷ của ta”.

Rồi muốn nhường cảnh vinh hiển của mình cho đôi chim, vua phán:

  1. Những gì châu báu với kim, ngân,
    Bảo vật, ngọc trai, hoặc ngọc hồng
    Ở tại Kà-si thành của trẫm,
    Trữ trong kho báu chốn hoàng cung.
  2. Đồng, sắt, vỏ sò, với ngọc trai,
    Bảo châu vô số, đám ngà voi
    Gỗ chiên-đàn quý màu vàng ánh,
    Y phục cao sang, da hổ, nai,
    Tất cả kho tàng, quyền trị nước,
    Trẫm xin ban tặng hết cho ngài.

Cùng với những lời trên, vua làm vinh dự đôi chim bằng chiếc lọng trắng vào trao vương quốc cho đôi chim.

Sau đó Bậc Đại Sĩ ngâm kệ đàm đạo với vua:

  1. Ngài muốn làm vinh dự chúng thần,
    Xin hãy vui lòng, tấu Đại quân,
    Làm Đạo sư cho thần học hỏi
    Mười điều vương pháp để an dân.
  2. Rồi nếu chúng thần được Đại vương
    Chuẩn phê đồng ý, lạc an tràn,
    Chúng thần xin phép ngài từ biệt,
    Và trở về thăm viếng họ hàng.

Vua cho phép đôi chim ra đi, và trong khi Bồ-tát còn đang thuyết Pháp, mặt trời đã mọc.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:

  1. Kà-si chúa tể, suốt đêm thâu,
    Chìm đắm trong tư tưởng thật sâu,
    Sau đó vua bằng lòng chấp thuận
    Theo lời vương điểu ấy yêu cầu.

*

Khi đã được vua cho phép từ giã, Bồ-tát lại nói:

– Xin Đại vương tỉnh giác và trị nước chân chánh.

Và ngài an trú vua vào Ngũ giới.

Vua ban hai vị bắp rang với mật ong và nước đường trong dĩa vàng, khi hai vị đã dùng bữa ăn xong, vua cung kính dâng hai vị các hoa thơm và nhiều lễ vật khác, rồi tự tay nâng Bồ-tát lên trong chiếc lồng vàng, và hoàng hậu Khemà nâng Sumukha lên. Khi mặt trời mới mọc vua và hoàng hậu mở cửa sổ và nói:

– Xin các Tôn giả hãy ra đi.

Rồi hai vị tháo lồng thả đôi chim ra.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:

  1. Cũng vừa lúc ấy mặt trời lên,
    Ngày tỏa sáng dần mất bóng đêm,
    Phút chốc đôi chim vừa khuất bóng
    Trong vùng sâu thẳm của thanh thiên.

*

Bậc Đại Sĩ là một trong đôi chim bay ra khỏi lồng vàng đứng trên không và bảo:

– Xin Đại vương chớ lo âu, phải luôn tỉnh giáo và an trú vào giáo Pháp của ta.

Ngài an ủi vua như vậy rồi cùng Sumukha bay về thẳng núi Citakùta. Chín mươi ngàn thiên nga kia cất cánh bay ra khỏi Kim Động tụ tập trên cao nguyên và khi thấy hai vị đến, chúng ra nghênh tiếp và hộ tống hai vị về nhà. Như vậy hai vị được cả đoàn quyến thuộc đưa về tận cao nguyên Cittakùta.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Nhìn chủ tướng chim được vạn an
    Trở về từ cõi chết nhân gian.,
    Đàn chim vỗ cánh kêu ầm ĩ
    Chào đón chúa chim lại họp đàn.
  2. Vây quanh chúa tể chúng tôn sùng,
    Tin tưởng, giờ đây đám ngỗng hồng
    Kính cẩn nghiêng mình chào chúa tể,
    Hân hoan vì chúa được an thân.

*

Trong khi hộ tống chúa chim, bầy thiên nga hỏi ngài:

– Tâu Đại vương, làm thế nào ngài thoát nạn?

Bậc Đại Sĩ kể cho chúng nghe ngài thoát nạn nhờ Sumukha giúp đỡ, và các hành động của vua Samyama cùng triều thần.

Nghe vậy, bầy thiên nga hân hoan ca ngợi các vị:

– Vạn tuế Đại tướng Sumukha của chúng ta, vạn tuế Đại vương và người bẫy chim. Cầu mong các vị được hạnh phúc và thoát khỏi khổ đau.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ và sáng tỏ vấn đề:

  1. Ai có từ tâm ắt đạt thành .
    Việc gì các vị ấy thi hành,
    Như Thiên nga trở về bằng hữu
    Lần nữa đôi chim được trọn lành.

Chuyện này đã được kể đầy đủ trong số 533. Tiền thân Cullahamsa.

*

Đến đây, bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, người bẫy chim là Channa (Xa-nặc), Hoàng hậu Khemà là Tỷ-kheo-ni Khemà (Thái Hòa), vua là Sàriputta (Xá-lợi-phất), đoàn tùy tùng của vua là các đệ tử Phật, Sumukha là Ànanda (A-nan) và Chúa Thiên nga chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện thực phẩm Thiên giới (Tiền thân Sudhàbhojana)

Ta không phải kẻ bán buôn rong…,

Chuyện này được bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) liên hệ đến một Tỷ-kheo có tâm bố thí hào phóng.

Tương truyền vị ấy là một người thuộc dòng dõi quý tộc ở tại Sàvathi (Xá-vệ) sau khi nghe bậc Đạo Sư thuyết Pháp, đã xin quy y và sống đời tu hành. Khi đã viên mãn mọi giới đức và đầy đủ các đạo hạnh của người xuất gia có lòng tràn ngập thân ái đối với các bạn đồng tu, mỗi ngày ba lần ông nhiệt tâm phụng sự Phật, Pháp, Tăng và tỏ ra gương mẫu trong đức hạnh và chuyên cần bố thí.

Muốn thành tựu giới bổn về tình thân ái, bất cứ vật gì vị ấy nhận được, ông đều bố thí cả, bao lâu còn người nhận, cho đến khi ông chẳng còn gì để ăn. Tính hào phóng và tình thân ái của ông được đồn đại khắp Tăng chúng. Vì vậy một hôm, câu chuyện bắt đầu trong Chánh pháp đường, về một Tỷ-kheo có tâm hào phóng và chuyện bố thí đến độ dù ông chỉ nhận được nước uống vừa đủ trong lòng bàn tay, ông cũng đem cho các bạn đồng tu với tâm ly tham. Ý nguyện của vị ấy chẳng khác gì một vị Bồ-tát.

Với thiên nhĩ thông, bậc Đạo Sư nghe được chuyện Tăng chúng đang nói, liền bước ra khỏi Hương phòng của Ngài, đến gần và hỏi Tăng chúng đang bàn luận gì. Khi các vị đáp chuyện như vầy như vầy Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa, vị Tỷ-kheo này không hề hào phóng, trái lại ông keo kiệt đến độ không thể cho một giọt dầu trên ngọn cỏ. Vì vậy, ta đã giáo hóa ông khiến ông biết hy sinh bản thân và bằng cách tán thán các công đức bố thí, Ta đã an trú ông vào hạnh bố thí. Cho nên khi nhận được nước chỉ vừa đủ trong lòng bàn tay, ông cũng nói: “Ta không muốn uống một giọt nào mà không cho bớt đôi chút”. Rồi ông nhận được một điều ước ta ban cho, và kết quả việc bố thí kia là ông có tâm hào phóng và chuyên bố thí.

Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, có một gia chủ giàu tiền đến tám trăm triệu đồng và vua ban cho ông chức giữ Ngân khố. Được vua ban vinh hiển như thế và được dân chúng vô cùng trọng vọng, một hôm ông suy xét về cảnh thịnh vượng của đời mình, liền suy nghĩ: “Cảnh vinh quang này ta đạt được không phải do lười biếng hay các ác nghiệp trong đời trước, mà là do thành tựu các công đức; vậy ta cần phải lo liệu cuộc sống tương lai thật vững chắc”.

Vì thế ông đến yết kiến vua và thưa;

– Tâu Đại vương, trong nhà hạ thần có kho báu trị giá tám trăm triệu đồng, xin Đại vương nhận lấy từ hạ thần.

Vua đáp:

Trẫm không cần tài sản của khanh, Trẫm đã có nhiều tài sản rồi, vậy cứ lấy của cải làm việc gì tùy thích.

Ông thưa:

– Tâu Đại vương, hạ thần có thể đem tiền để bố thí chăng?

Vua phán:

– Cứ làm như khanh muốn.

Ông liền ra lệnh xây sáu bố thí đường mỗi ngôi ở mỗi cổng thành, một ngôi ở giữa thành phố, và một ngôi ở cổng nhà mình, rồi mỗi ngày đem chi tiêu sáu trăm ngàn đồng tiền, ông bắt đầu làm đại sự bố thí; trong lúc sinh thời, ông chuyên bố thí và dạy bảo các con:

– Hãy cố chăm lo để đừng gián đoạn truyền thống bố thí này của cha.

Đến lúc mạng chung, ông tái sinh làm Sakka Thiên chủ (Đế Thích).

Con trai ông cũng bố thí như vậy và tái sinh làm Canda (Nguyệt thần), con của Canda là Suriya (Nhật thần), con của Suriya là Màtali (Quản xa thần) và con của Màtali là Pañcasikha (Ngũ kế Nhạc thần).

Bấy giờ con trai của Pañcasikha, cháu thứ sáu trong dòng ấy, là người Thủ kho tên là Maccharikosiya (Triệu phú keo kiệt) vẫn còn cả tám trăm triệu nhưng ông nghĩ: “Tổ tiên ta thật khờ dại. Các vị ấy đã ném bỏ tài sản do công khó góp nhặt, còn ta sẽ giữ gìn kho báu. Ta quyết không cho ma nào một xu nhỏ”.

Ông liền phá hủy và đốt rụi các bố thí đường rồi trở thành kẻ keo kiệt kinh niên. Vì thế đám hành khất tụ tập trước cổng nhà ông chìa tay ra và kêu lớn:

– Thưa Đại quan thủ kho, xin ngài đừng bỏ tục cổ truyền của tổ tiên, mà ngài hãy bố thí.

Khi nghe vậy, dân chúng khiển trách ông, và bảo:

– Vị triệu phú biển lận này đã bỏ truyền thống gia đình.

Ông hổ thẹn, bảo canh giữ để ngăn đám hành khất đứng ở cổng nhà ông, vì thế họ vô cùng khốn đốn cơ cực, không còn để mắt vào cổng ấy nữa. Từ đó, ông tiếp tục cuốn tiền lại để cất, chứ không hưởng thụ phần mình cũng không chia với vợ con.

Ông sống bằng cơm gạo đỏ, dọn với tương chua, mặc áo quần vải thô, chỉ gồm toàn sợi lấy từ rễ và thân cây dâu, che đầu bằng dù lá đi chiếc xe cũ ọp ẹp do đôi bò tồi tàn kéo. Như vậy tất cả tiền bạc của con người độc ác này chẳng khác gì con chó nhặt được quả dừa.

Một hôm, khi sắp vào chầu vua, ông nghĩ nên đưa vị Phó thủ kho đi cùng, và khi đến gần nhà vị kia, ông thấy vị Phó thủ kho đang ngồi giữa vợ con ăn cháo gạo với đường mịn, nấu với bơ tươi. Khi thấy Maccharikosiya, vị ấy đứng dậy bảo:

– Xin mời Đại quan thủ kho vào ngồi trên tọa sàng này và ăn cháo gạo cùng tiểu đệ.

Vừa trông thấy cháo gạo, miệng ông đã chảy nước miếng và muốn ăn ngay, nhưng ông chợt suy nghĩ: “Nếu ta ăn một chút cháo, thì khi vị Phó thủ kho đến nhà, ta phải đáp lại lòng hiếu khách của y và như vậy là sẽ tiêu phí tiền của. Ta những muốn ăn đâu”.

Sau đó bị nài ép mãi, ông vẫn từ chối, bảo:

– Ta đã ăn rồi, ta no lắm.

Song suốt buổi vị Phó thủ kho ăn cháo, ông cứ ngồi nhìn và chảy nước miếng, rồi khi xong bữa, ông cùng vị ấy vào cung.

Khi về nhà, lòng ông tràn ngập nỗi thèm ăn cháo gạo, nhưng lại nghĩ: “Nếu ta nói ta muốn ăn cháo gạo, nhiều người cũng sẽ muốn ăn theo và sẽ tiêu phí một số gạo giã trắng. Thôi ta chẳng muốn nói một lời với ai”.

Vì thế suốt đêm ngày, ông cứ miên man suy nghĩ không gì khác ngoài cháo, nhưng vì sợ tốn tiền nên không nói với ai mà chỉ giữ cơn thèm trong lòng. Tuy thế không thể nào chịu đựng mãi được chuyện ấy, ông dần trở nên xanh xao, và do sợ tiêu phí của cải, ông không nói thèm ăn với ai và dần dần ông kiệt sức phải nằm liệt giường.

Lúc ấy, vợ ông đến thăm, lấy tay vỗ vào lưng ông và hỏi:

– Phu quân có bệnh chăng?

Ông kêu to:

– Bà bệnh ấy chứ, ta khỏe lắm mà!

– Phu quân xanh xao lắm. Phu quân có điều gì lo nghĩ? Đức vua không đẹp ý hay các con đối xử bất kính với chàng? Hay chàng thèm muốn vật gì chăng?

– Phải, ta đang thèm muốn.

– Phu quân nói cho thiếp biết với.

– Bà có giữ kín miệng được chăng?

– Được lắm, thiếp sẽ giữ kín mọi điều thèm muốn cần được giữ kín.

Nhưng dù vậy, do sợ tiêu phí của cải, ông không có can đảm nói với vợ, sau bị bà thúc giục mãi, ông đáp:

– Này bà, hôm kia ta thấy vị Phó thủ kho ăn cháo gạo nấu với đường mịn, bơ tươi và mật ong, từ đấy, ta cứ thèm ăn loại cháo như vậy.

– Thiếp sẽ nấu cháo gạo cho cả dân thành phố Ba-la-nại ăn mà.

Lúc ấy, ông cảm thấy như bị ai đánh cái gậy vào đầu, ông nổi cơn thịnh nộ với vợ và nói:

– Ta dư biết bà giàu có lắm. Nếu ở nhà bà thì bà tha hồ nấu cháo và cho cả thành phố ăn.

– Được thiếp sẽ nấu vừa đủ cho dân cả một khu phố ăn thôi.

– Bà có liên hệ gì với chúng cơ chứ? Mặc chúng ăn thứ gì chúng có.

– Thế thì thiếp sẽ nấu đủ cho bảy gia đình chọn rải rác đâu đó.

– Chúng là gì của bà vậy?

– Thế thì thiếp chỉ nấu cho gia nhân trong nhà này thôi.

– Chúng là gì của bà vậy?

– Thế thì thiếp chỉ nấu cho gia đình ta thôi.

– Chúng là gì của bà vậy?

– Thế thì thiếp chỉ nấu cho phu quân và thiếp thôi.

– Ôi kìa, bà là ai chớ? Trường hợp bà cũng không được đâu.

– Vậy thiếp chỉ nấu cho một mình phu quân thôi.

– Xin bà đừng nấu cho ta. Nếu bà nấu trong nhà, nhiều người sẽ thấy. Chỉ cần cho ta một đấu gạo giã trắng, một góc tư lít sữa, một cân đường, một hũ mật ong, và một cái nồi, ta sẽ đi vào rừng nấu cháo và ăn.

Bà vợ làm như vậy, bảo một gia nô đem tất cả những thứ ấy và ông ra lệnh gia nô đến đứng ở nơi kia. Sau đó bảo gia nô đi khuất, một mình ông trùm kín người giả dạng đi đến đó và cạnh bờ sông dưới một góc cây, ông bảo làm cái lò, đem củi và nước cho ông rồi dặn kẻ gia nô:

– Đi ra đứng ở đường kia, nếu chú thấy ai, hãy ra hiệu cho ta, và khi ta gọi, chú hãy đến.

Bảo tên gia nô đi xong, ông nhóm lửa và nấu cháo. Lúc ấy Sakka Thiên chủ đang chiêm ngưỡng kinh thành tráng lệ của chư Thiên, rộng mười ngàn dặm, con đường lát vàng dài sáu mươi dặm, Tối thắng điện Vejayanta cao một ngàn dặm, Thiện pháp đường bao quát năm trăm dặm, chiếc ngai hoàng thạch rộng sáu mươi dặm, chiếc lọng trắng với cành hoa vàng chu vi năm dặm, và bản thân ngài được một đoàn tùy tùng thật huy hoàng gồm hai mươi lăm triệu Thiên nữ.

Vừa chiêm ngưỡng mọi cảnh vinh quang này, ngài vừa suy nghĩ: “Ta đã có khả năng làm gì để đạt đến vinh quang này?”. Rồi với thiên nhãn, ngài thấy hạnh bố thí mà ngài đã tạo nên trong thời làm quan Đại thủ kho tại Ba-la-nại, và ngài suy nghĩ: “Thế nay các con cháu ta tái sinh cõi nào?”, vừa xem xét vấn đề ấy ngài vừa nói: “Con trai Canda của ta tái sinh làm Thiên tử, và con trai nó là Suriya”. Khi để ý đến việc tái sinh của tất cả con cháu, ngài kêu lên: “Thế số phận con trai của Pañcasikha thì sao? Quan sát kỹ, ngài thấy truyền thống dòng dõi đã bị phá hủy, và ý tưởng này chợt đến với ngài: “Tên hà tiện độc ác này chẳng hưởng tài sản cũng chẳng cho ai cả. Truyền thống gia tộc đã bị nó phá hoại. Khi chết, nó sẽ tái sinh địa ngục. Bằng cách thuyết giáo cho nó và tái lập truyền thống gia đình, ta sẽ chỉ cho nó con đường tái sinh thiên giới”.

Vì thế ngài triệu tập Canda và các vị kia rồi bảo:

– Này, ta sẽ giáng trần: truyền thống gia đình ta đã bị Maccharikosiya phá hủy, các bố thí đường đã bị đốt sạch và nó chẳng hưởng thụ tài sản cũng chẳng cho ai cả, song giờ đây nó đang thèm ăn cháo gạo và suy nghĩ: “Nếu nấu cháo trong nhà, thì cháo phải được đem cho người khác”, nên nó vào rừng và nấu cháo một mình. Chúng ta sẽ đi giáo hóa nó và dạy nó hiểu kết quả của bố thí. Song nếu tất cả chúng ta đồng thời xin nó cho cháo gạo, nó sẽ ngã lăn đùng ra chết tại chỗ. Vậy ta sẽ đi trước và khi ta đã xin nó cháo rồi ngồi xuống, các khanh hãy đến, lần lượt từng vị giả dạng Bà-la-môn xin cháo.

Nói vậy xong, chính ngài giả dạng một Bà-la-môn đến gần người triệu phú và kêu to:

– Này, đường nào đi đến Ba-la-nại?

Maccharikosiya đáp:

– Lão có mất trí không đấy? Lão không biết cả con đường đến Ba-la-nại ư? Tại sao lão đến đường này? Hãy từ đây mà đi ra.

Sakka giả vờ không nghe ông nói, cứ tiến gần ông, hỏi ông nói gì. Thế rồi ông hét lên:

– Này, Bà-la-môn điếc đặc kia, ta bảo tại sao lão đến đường này? Hãy đi ra đường kia.

Sakka đáp lại:

– Tại sao ông hét to thế? Ta thấy đây có khói và lửa, cháo gạo lại đang sôi, chắc là dịp thiết đãi các Bà-la-môn đấy mà. Khi các Bà-la-môn được mời ăn, ta cũng muốn hưởng đôi chút. Tại sao ông xua ta đi?

– Ở đây chẳng đãi tiệc Bà-la-môn nào cả. Lão hãy cút đi.

– Thế tại sao ông nổi giận như vậy? Khi ông dùng bữa, tôi muốn xin một chút.

Ông đáp:

– Ta chẳng muốn cho lão dù chỉ một miếng cháo. Món ăn hiếm hoi này chỉ vừa đủ nuôi sống ta thôi, và đây cũng do ta đi xin. Lão hãy đi kiếm đồ ăn nơi khác.

Ông nói vậy là muốn nhắc đến việc đã xin vợ phần gạo ấy. Và ông ngâm kệ:

  1. Ta không phải kẻ bán buôn rong,
    Không của cho vay hoặc biếu không,
    Chút cháo thí này rất khó kiếm,
    Chẳng vừa dọn đủ cả ta, ông!

Nghe vậy, Sakka Thiên chủ đáp:

– Ta cũng sẽ lấy giọng ngọt như mật ngâm kệ đáp lễ ông đây, hãy lắng nghe ta.

Rồi ông cố ngăn ngài và bảo:

– Ta không muốn nghe kệ của lão.

Thiên chủ Sakka vẫn ngâm đôi vần kệ:

  1. Của ít cũng nên bố thí mà,
    Của vừa cũng phải lấy cho vừa,
    Của nhiều càng phải cho nhiều nữa,
    Không thí, vấn đề chẳng đặt ra.
  2. Ko-si, ta nói một đôi lời:
    Bố thí của ông một chút thôi,
    Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
    Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
    Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
    Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.

Khi nghe lời ngài, ông đáp:

– Này Bà-la-môn, đây là một lời nói nhân từ của lão, thôi để khi cháo chín, lão sẽ được ăn một chút. Hãy ngồi xuống đây.

Sakka ngồi xuống một bên. Khi ngài vừa ngồi, Canda theo cách này đến gần và bắt đầu nói chuyện như thế, dù Maccharikosiya cố ngăn chặn, vị này vẫn ngâm đôi vần kệ:

  1. Nào có ích chi lễ tế thần,
    Hoài công ước vọng ở trong tâm,
    Nếu ông ăn cháo và không muốn
    Cho thực khách đây một ít phần.
  2. Ko-si, ta nói một đôi lời:
    Bố thí của ông một chút thôi,
    Ông chớ một mình ăn thực phẩm
    Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
    Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
    Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.

Khi nghe lời vị ấy, kẻ hà tiện miễn cưỡng bảo:

– Thôi được, hãy ngồi xuống, ông cũng sẽ được một ít cháo.

Vị ấy liền đến ngồi cạnh Sakka. Sau đó Suriya cũng theo cách trên đến gần và bắt đầu nói chuyện theo cách trên, mặc dù kẻ hà tiện cố ngăn chặn, vị ấy vẫn ngâm đôi vần kệ:

  1. Chân thật ông dâng lễ tế thần,
    Chẳng hoài công ước nguyện trong tâm,
    Nếu ông không một mình ăn cháo,
    Mà biếu khách đây một ít phần.
  2. Ko-si, ta nói một đôi lời:
    Bố thí của ông một chút thôi,
    Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
    Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
    Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
    Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.

Nghe lời này, kẻ hà tiện lại càng thêm miễn cưỡng bảo:

– Thôi được, cứ ngồi xuống và lão sẽ được một ít cháo.

Suriya đến ngồi cạnh Canda. Sau đó Màtali theo cách trên cũng đến gần và bắt đầu nói chuyện, mặc dù kẻ hà tiện cố ngăn chặn, vị này vẫn ngâm hai vần kệ:

  1. Hồ, lạch Ga-yà chảy xiết dòng,
    Ai đem dâng lễ cúng chư thần,
    Đến Tim-ba hoặc Do-na ấy
    Sóng nước trôi nhanh lớp chập chùng,
    Hưởng kết quả do dâng lễ vật,
    Đạt thành ước nguyện ở trong lòng,
    Nếu không ngồi một mình ăn cháo,
    Mà biếu khách đây một ít phần.
  2. Ko-si, ta nói một đôi lời:
    Bố thí của ông một chút thôi,
    Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
    Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
    Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
    Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.

Nghe lời này, ông bối rối như thể có đỉnh núi đè nặng lên, ông miễn cưỡng nói:

– Thôi được, cứ ngồi xuống, lão sẽ được một ít.

Màtali đến ngồi cạnh Suriya. Sau đó Pañcasikha cũng theo cách trên đến gần và bắt đầu nói chuyện, dù kẻ hà tiện cố ngăn chặn, vị này vẫn ngâm đôi vần kệ:

  1. Như cá tham ăn vội nuốt mau
    Miếng mồi buộc ở chiếc cần câu,
    Người ngồi riêng biệt và ăn cháo
    Khi có khách này kế cận sao?
  2. Ko-si, ta nói một đôi lời:
    Bố thí của ông một chút thôi,
    Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
    Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
    Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
    Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.

Maccharikosiya nghe vậy, gắng gượng một cách mệt nhọc, rên to lên:

– Thôi được, cứ ngồi xuống, lão sẽ được ăn một chút.

Pañcasikha liền đến ngồi cạnh Màtali. Khi năm vị Bà-la-môn đều an tọa, cháo cũng đã chín. Kosiya nhấc cháo ra khỏi lò, bảo các vị Bà-la-môn đem lá tới. Vẫn ngồi tại chỗ, năm vị vươn tay ra đưa các ngọn lá cây leo hái từ Tuyết Sơn. Kosiya thấy vậy bảo:

– Ta không thể cho cháo vào các ngọn lá to như thế của các vị đâu. Hãy lấy lá cây keo hay các cây tương tự.

Các vị đi lượm lá ấy, mỗi lá lớn bằng cái mộc của chiến sĩ. Ông lấy muỗng múc một ít cháo cho tất cả các vị. Vào lúc ông đã múc xong cho vị cuối cùng, vẫn còn nhiều cháo trong nồi. Sau khi mời các vị Bà-la-môn xong, chính ông ngồi xuống cầm cái nồi.

Ngay lúc ấy, Pañcasikha đứng lên, biến hình thành con chó đến đứng trước các vị và tiểu tiện. Mỗi vị Bà-la-môn đều lấy một ngọn lá che cháo. Một giọt nước tiểu của chó rơi vào lưng bàn tay của Kosiya. Các vị Bà-la-môn lấy nước trong bình ra trộn với cháo giả vờ ăn. Kosiya nói:

– Cho ta một chút nước, rửa tay xong ta mới ăn cháo.

Các vị bảo:

– Hãy đi kiếm nước cho mình và rửa tay.

– Ta đã cho các vị cháo thì nay hãy cho ta một chút nước.

– Chúng ta không làm việc trao đổi thí vật.

– Thế thì giữ dùm ta nồi cháo, khi rửa tay xong, ta sẽ trở về.

Và ông xuống bờ sông. Lúc ấy con chó tiểu tiện đầy nồi. Kosiya thấy chó tiểu tiện liền lấy gậy lớn và đến gần hăm dọa nó. Bấy giờ con chó biến thành con ngựa thuần chủng và trong khi nóđuổi theo ông, nó biến hóa đủ màu. Khi thì chó màu đen, khi thì trắng, khi thì vàng, khi thì lốm đốm. Dáng nó khi thì cao, khi thì thấp. Nó hiện ra đủ hình dáng khác nhau như vậy và rượt theo Kosiya khiến ông sợ chết khiếp, chạy đến gần các Bà-la-môn trong khi các vị bay lên đứng trên không. Khi thấy thần lực các vị, ông ngâm kệ:

  1. Các ngài Thánh giả Bà-la-môn
    Đang đứng trên cao giữa cõi không,
    Con chó các ngài sao lạ vậy
    Thay hình đổi dạng cả ngàn lần,
    Dầu là chỉ một mình con chó,
    Các vị là ai, nói thật chân.

Nghe vậy, Sakka Thiên chủ đáp:
13. Kìa! Can-da với Su-ri-ya,
Và nọ, Mà-ta-li quản xa,
Thiên chủ là ta đây, Đế Thích
Ở trên Thiên giới Ba-mươi ba,
Pañ-ca-si chính là Thần nhạc
Ngũ Kế đuổi ngươi chạy đấy mà.

*

Và Sakka ngâm kệ ca ngợi danh vọng của Pañcasikha:

  1. Trống to, trống nhỏ thảy vang lừng
    Đánh thức thần dây khỏi giấc nồng,
    Khi tỉnh, nhạc hân hoan trổi khúc
    Làm tim chàng rộn rã vui mừng.

Nghe lời ngài, Kosiya hỏi:

– Nhờ hành động gì, con người đạt vinh quang thiên giới đến như vậy?

– Những người không thực hành bố thí, những kẻ tạo ác nghiệp và keo kiệt không thể lên thiên giới, mà tái sinh địa ngục.

Sakka ngâm kệ nêu rõ điều này:

  1. Sinh ra keo kiệt, kẻ xan tham
    Khinh bỉ Bà-la-môn, đạo nhân,
    Khi chết, bỏ thân phàm tục ấy,
    Phải vào địa ngục trú thân tàn.

Và ngài ngâm các kệ sau để chứng tỏ những người hiền trí theo chánh hạnh sẽ đạt thiên giới:

  1. Kiên trì chánh hạnh, đạt thiên đàng,
    Bố thí, điền thân, tránh lỗi lầm,
    Khi chết, bỏ thân phàm tục ấy,
    Sẽ lên thiên giới sống bình an.

Sau đó, Sakka lại bảo:

– Này Kosiya, chúng ta không đến đây để xin ăn cháo đây nhưng vì lòng thương xót ngươi mà chúng ta đến.

Và ngài ngâm kệ nêu rõ việc ấy cho y:

  1. Dù trong đời trước có thân tình,
    Ngươi hận sân, keo kiệt, ác hành,
    Nên chính vì ngươi, ta giáng thế,
    Ngăn ngươi khỏi địa ngục lai sinh.

Nghe vậy, Kosiya suy nghĩ: “Các ngài nói các ngài có thiện chí đối với ta, muốn ta khỏi đọa đày địa ngục và an trú vào Thiên giới, và ông vô cùng hoan hỷ ngâm kệ:

  1. Như vầy ngài thuyết giảng cho ta,
    Chắc chắn ngài mong lợi lạc mà,
    Ta sẽ theo lời ngài khuyến giáo,
    Như ta hiểu được ý sâu xa.
  2. Từ nay ta bỏ thói xan tham,
    Kiêng kỵ việc hung ác bạo tàn,
    Bố thí gia tài, cho tất cả,
    Dù là chén nước cũng chia phần.
  3. Sak-ka, bố thí mãi như vầy,
    Tài sản nhà ta giảm sút ngay,
    Ta quyết sẽ tu hành xuất thế,
    Tham dục loại nào cũng chạy bay
    .

Sau khi cảm hóa Kosiya, Sakka Thiên chủ lại dạy ông các quả báo của hạnh bố thí, làm cho ông biết hy sinh quên mình, và nhờ thuyết Pháp, ngài đã an trú ông vào Ngũ giới xong, liền cùng các vị Thiên hầu cận trở về trời.

Phần Kosiya cũng vào thành Ba-la-nại, sau khi xin phép vua, ông bảo gia nhân đi lấy tất cả nồi chảo mà họ có được, đổ đầy vàng bạc từ kho báu đem cho hành khất. Bấy giở, ông khởi hành từ vùng Tuyết Sơn bên phía hữu, và ở một nơi giữa sông Hằng và một hồ thiên nhiên, ông xây một am thất bằng lá, trở thành ẩn sĩ khổ hạnh sống toàn củ quả rừng. Vị ẩn sĩ sống ở đó một thời gian cho đến tuổi già.

Thời ấy Sakka Thiên chủ có bốn ái nữ: Hy Vọng, Tín Thành, Vinh Quang và Danh Dự. Các nàng đem theo nhiều tràng hoa trời thơm ngát đến hồ Anotatta, chơi đùa trong nước, và sau khi đã thỏa thích ở đó, lại an tọa trên đỉnh Manosilà.

Ngay lúc ấy, ẩn sĩ Bà-la-môn Nàrada lên cung đình cõi trời Ba mươi ba nghỉ ngơi tránh cơn nắng gắt ban ngày, và dựng một chỗ an trú ngay dưới khóm cây Cittakùta trong Thiên lạc Viên Nandana. Cầm một đóa san hô trong tay để làm lọng che nắng, ông về Kim Động, nơi ông an trú trên đỉnh Manosilà. Các Thiên nữ thấy đóa hoa trong tay ông liền xin ông cho hoa.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Trên đỉnh Hương Sơn, chúa núi rừng,
    Sak-ka ái nữ, các tiên nương
    Hân hoan nhìn Thánh nhân lừng lẫy,
    Bước đến cầm hoa đẹp dị thường.
  2. Cành hoa trong sáng ngát mùi hương
    Xứng với Thiên tiên, các Thánh thần,
    Chẳng quỷ ma hay người thế tục
    Dám đòi hoa quý giá vô ngần.
  3. Tín Thành, Hy Vọng, với Vinh Quang,
    Danh Dự, màu da sáng tựa vàng
    Giữa các tiên nương là tuyệt sắc,
    Đứng lên nói với Bà-la-môn:
  4. Cho đóa san hô, hỡi Thánh nhân,
    Nếu cho hoa ấy thuộc oai thần,
    Chúng con kính lễ như Thiên chủ,
    Ngài sẽ được ban mọi phước phần.
  5. Na-ra-da thấy chúng mong cầu
    Liền khởi ngay tranh chấp lớn lao:
    – Ta chẳng cần hoa, ai muốn được,
    Phải là vương hậu các nàng bầu.

Bốn Thiên nữ nghe vậy liền ngâm kệ:

  1. Nà-ra-da, tối thượng là ngài,
    Ngài muốn ban ai ước nguyện này,
    Ai được ngài ban quà tặng ấy
    Sẽ là tiên đẹp nhất trong bầy!

Nàrada nghe vậy liền bảo:

  1. Tiên nương, lời ấy chẳng như chân,
    Tu hành nào dấy cuộc tranh phân?
    Hãy tìm lập tức ngài Tiên chúa,
    Sẽ biết ai dung sắc tuyệt trần
    .

*

Lúc ấy bậc Đạo Sư ngâm kệ này:

  1. Kiêu ngạo về sắc đẹp, phát cuồng,
    Nóng lòng vì bậc trí tinh khôn,
    Chúng đi đến Sak-ka Thiên chủ
    Để biết ai xinh đẹp nhất đàn.

*

Các nàng vừa đứng, vừa hỏi câu này:

  1. Bầy tiên hăm hở vội đi tìm,
    Đế Thích đầy tôn trọng, phán liền:
    “Tất cả tiên nương đều tuyệt sắc
    Vậy ai phá hoại sự bình yên?” .
    Nghe ngài hỏi vậy, các nàng đáp:
  2. Nà-ra-da, bậc đại hiền nhân
    Nhẹ bước du hành giữa cõi không,
    Chân lý uyên thâm, chuyên chánh hạnh,
    Như vấy, đã nói ở Hương Sơn:
    “Hãy tìm Thiên chủ Sak-ka ấy
    Để biết ai ưu, liệt giữa đàn”.

Nghe thế, Sakka Thiên chủ suy nghĩ: “Nếu ta bảo ai trong bốn ái nữ của ta đức hạnh vượt lên các nàng kia, chúng sẽ nổi giận. Trường hợp này ta không thể quyết định được. Ta sẽ đưa chúng đến Kosiya, vị ẩn sĩ tại Tuyết Sơn, vị ấy phải quyết định vấn đề này cho chúng”. Vì thế ngài bảo:

– Ta không thể quyết định trường hợp các con được. Trên vùng Tuyết Sơn có vị ẩn sĩ tên là Kosiya. Ta muốn gửi một chén tiên thực tặng vị ấy. Vị ấy chẳng ăn gì mà không chia cho kẻ khác, và trong lúc cho, vị ấy biểu lộ sự xét đoán bằng cách tặng kẻ nào đức hạnh. Ai trong các con nhận được thực phẩm từ tay vị kia là nàng tiên tối thắng giữa cả đàn.

Vừa nói vậy, ngài vừa ngâm kệ:

  1. Hiền nhân trú ở khóm rừng xa,
    Chẳng đụng thức ăn chưa phát ra;
    Vừa tặng quà, Ko-si xét đoán
    Ai là đệ nhất đám tiên nga.

Rồi ngài triệu tập Màtali và bảo vị ấy đi đến ẩn sĩ kia; khi truyền lệnh, ngài ngâm kệ sau:

  1. Trên sườn núi Tuyết, chỗ Hằng Hà
    Xuôi phía Nam, hiền Thánh ẩn cư;
    Tiên thực, Mà-ta-li, đến tặng,
    Ngài đang thiếu ẩm thực đây mà
    .

*

Lúc ấy bậc Đạo Sư ngâm kệ:

  1. Mà-ta-li nhận lệnh trời ban,
    Lái chiếc thiên xa ngựa cả ngàn,
    Thoắt đứng dấu mình am ẩn sĩ,
    Và dâng tiên thực tặng hiền nhân.

*

Kosiya nhận lấy và ngay khi đang đứng, ông ngâm hai vần kệ:

  1. Khi lửa tế đàn, lão đốt lên
    Ngợi ca vầng nhật đuổi đêm đen,
    Sak-ka ngự trị trên Thiên giới,
    Ai khác? – trao tay thực phẩm tiên.
  2. Như hạt ngọc trai, trắng tuyệt trần,
    Ngát hương, thanh tịnh, đẹp vô ngần,
    Mắt ta từ trước chưa hề thấy
    Ai đặt vào tay thực phẩm thần?

Màtali liền đáp:

  1. Ta đến, Sak-ka hạ lệnh truyền,
    Vội vàng mang thực phẩm thần tiên,
    Cao lương thượng vị, đừng lo sợ,
    Xin hãy ăn đi, hỡi bậc hiền,
    Ngài thấy Mà-ta-li trước mắt,
    Quản xa thần ở cõi chư Thiên.
  2. Do thọ dụng đây thực phẩm thần,
    Mười hai ác nghiệp thảy tiêu dần:
    Đói cơm, khát nước, buồn, đau, mệt,
    Nóng, lạnh, đấu tranh, với hận sân,
    Lười biếng, nộ cuồng, mồm phỉ báng,
    Mời ngài tiên thực, chớ phân vân.

Nghe vậy, Kosiya ngâm kệ giải thích rằng ông đã có lời phát nguyện xưa:

38a. Ăn một mình, ta thấy thật sai,
Nên xưa ta đã nguyện thành lời:
Ta không đụng đến thức ăn nữa,
Nếu chẳng cho ai bớt một vài.

  1. Ăn một mình không được tán thành
    Bởi người có trí tuệ cao minh,
    Ai không san sẻ cho người khác,
    Hạnh phúc làm sao đến với mình?

Khi Màtali hỏi vị này:

– Thưa Thánh giả, ngài thấy điều gì sai trái khi ăn mà chẳng chia phần cho kẻ khác, nên ngài phát nguyện này?

Ông đáp:

  1. Những người nào phạm tội tà dâm,
    Hoặc bọn người tàn sát nữ nhân,
    Phỉ báng, rủa nguyền bao Thánh giả,
    Hoặc người phản bội các thân bằng,
    Hoặc tồi tệ nhất: người keo kiệt,
    Ta chẳng hề mong xếp hạng chung;
    Nước uống cho dù là một giọt,
    Ta không đụng nếu chẳng chia phần.
  2. Vật ta đem tặng mãi tuôn tràn
    Cùng khắp nam nhân lẫn nữ nhân,
    Bậc trí sẽ tuyên dương những kẻ
    Phát ban của cải để thi ân;
    Những ai hào phóng trên trần giới
    Và tránh xan tham đủ mọi đàng
    Sẽ được mọi người đồng tán thán,
    Quý yêu như thiện hữu, chân nhân.

Nghe nói vậy, Màtali xuất hiện nguyên hình trước vị này! Vừa lúc ấy, bốn Thiên nữ đứng ở bốn phương: Vinh Quang ở phía Đông, Hy Vọng ở phía Nam, Tín Thành ở phía Tây, và Danh Vọng ở phía Bắc.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Cả bốn tiên nương sắc tựa vàng,
    Tên là Hy Vọng với Vinh Quang,
    Tín Thành, Danh Dự, tuân Thiên mệnh,
    Bước đến Ko-si-ya ẩn am.
  2. Thiên nữ hình dung rực lửa hồng,
    Mỗi phương đến đứng một cô nàng,
    Trước Ma-ta quản xa Thiên tử,
    Bậc trí vui mừng vội hỏi han:
  3. “Là ai, Thiên nữ tựa sao mai,
    Chiếu sáng trời Đông khắp mọi nơi,
    Mình khoác xiêm y vàng chói lọi,
    Tên gì cho biết, gái nhà trời?”
  4. “Vinh Quang, bạn quý của người đời,
    Ta bảo vệ người trong sạch thôi,
    Ta đến đây mong cầu thực phẩm,
    Xin làm toại nguyện, Thánh nhân ôi!
  5. Ta ban hạnh phúc đến người nào
    Ta muốn tâm cầu thỏa ước ao,
    Tên gọi Vinh Quang, thưa Thánh giả,
    Xin đem tiên thực tặng ta nào!

Nghe vầy, Kosiya đáp:

  1. Những người tài, đức, lại tinh thông,
    Xuất chúng mọi điều trí ước mong,
    Song bởi thiếu nàng nên thất bại;
    Việc này, ta trách ác phần nàng.
  2. Kẻ kia tham dục lại chây lười,
    Dị tướng, con dòng hạ liệt thôi,
    Song được nàng ban cho phú quý,
    Khiến người quý tộc hóa nô tài.
  3. Ta thấy nàng hư dối, độn đần,
    Cuốn lôi bọn ngốc, thật liều thân,
    Lại còn đánh bại bao người trí;
    Không có quyền đòi nước, tọa sàng,
    Nói gì thực phẩm thần tiên ấy,
    Đi gấp, ta không chút thích nàng!

Thế là nàng tiên liền biến mất ngay lập tức. Sau đó ông nói chuyện với nàng Hy Vọng:

  1. Nàng là ai, hỡi tiên nga,
    Trong sáng, hàm răng trắng mượt mà,
    Sáng chói vòng vàng, khuyên lấp lánh,
    Xiêm y rực rỡ gợn thu ba,
    Đầu cài thoa đỏ như màu lửa
    Được đốt bằng chùm cỏ Ku-sa?
  2. Trông nàng như một chị nai rừng
    Chạm nhẹ mũi tên của thợ săn,
    Thơ thẩn mắt nhìn quanh hốt hoảng
    Khác nào con vật bị kinh hoàng;
    Hỡi nàng Thiên nữ mắt hiền dịu,
    Nàng có bạn nào ở đấy chăng,
    Vì thế lạc đường không sợ hãi
    Một mình phiêu bạt giữa rừng hoang?

Nàng đáp vần kệ này:

  1. Ta chẳng có đây bạn chí thân,
    Từ Sak-ka điện, chốn Thiên cung,
    Ma-sak-ka ấy là tên gọi,
    Ta chính là Thiên nữ giáng trần,
    Hy Vọng giờ đây đang xuất hiện
    Để mong cầu thực phẩm thiên thần,
    Xin ngài nghe kỹ, thưa Tôn giả,
    Và tặng ta điều vẫn ước mong.

Nghe vậy, Kosiya bảo:

– Người đời vẫn nói với ta rằng bất cứ ai làm nàng hài lòng, nàng liền ban hy vọng cho kẻ ấy bằng cách hoàn thành kết quả của niềm hy vọng, còn ai không làm nàng vui lòng, thì nàng không ban cho kẻ ấy. Như thế, thành công không đến với kẻ ấy là do nàng, mà nàng lại tạo ra thất bại kia.

Để chứng minh điều này, ông ngâm kệ:

  1. Lái buôn hy vọng kiếm kho tàng
    Ra biển lên tàu vượt đại dương,
    Đôi lúc chìm tàu đâu thấy nữa,
    Mất vàng, thoát chết cũng kêu than.
  2. Nông gia cày ruộng vẫn cầu mong
    Gieo hạt, cố làm hết khả năng,
    Song gặp tai ương hay hạn hán,
    Mất mùa gặt hái để bù công.
  3. Kẻ thích giàu, hy vọng hết lòng
    Vì vua chiến đấu thật anh hùng,
    Ngã nhào, địch siết vòng vây hãm,
    Chiến đấu vì vua phải thiệt thân.
  4. Để vàng, kho lúa tặng bà con,
    Vì lạc thiên đường vẫn ước mong,
    Chịu đựng lâu ngày bao khổ hạnh,
    Do tà pháp dẫn đến đau buồn.
  5. Lừa dối thế nhân, ước hão huyền,
    Hãy lìa hư vọng thỏa tâm nguyền,
    Không quyền đòi hỏi ngay sàng tọa
    Bình nước, nói gì thực phẩm tiên!
    Ta chẳng thích nàng, Hy Vọng hỡi,
    Biến đi, nàng hãy biến đi liền!

Nàng Thiên nữ ấy cũng bị khước từ, liền biến mất dạng ngay lập tức. Sau đó vị ấy lại ngâm kệ trò chuyện với Thiên nữ Tín Thành:

  1. Lừng danh Thiên nữ sắc huy hoàng
    Đứng phía trời Tây tướng bất trường,
    Mình khoát xiêm y vàng rực rỡ,
    Tên gì cho biết, hỡi tiên nương.

Nàng liền ngâm kệ đáp:

  1. Tín Thành, bạn quý của người đời,
    Ta bảo vệ người trong sạch thôi,
    Ta đến đây cầu mong thực phẩm,
    Xin làm toại nguyện, Thánh nhân ôi!

Kosiya bảo:

– Những người nào vì tin tưởng từ lời này đến lời khác vẫn hay làm các chuyện nọ chuyện kia, thường làm những việc không nên làm hơn là những việc nên làm, và thực sự tất cả đều do nàng.

Và vị ấy ngâm các vần kệ:

  1. Bố thí rộng tay bởi tín tâm,
    Cử kiêng, điều phục, hộ phòng thân;
    Vì nàng, có lúc mất ân phước,
    Trộm cắp, vu oan, lại vọng ngôn.
  2. Với vợ hiền, cao quý, thục đoan,
    Đàn ông thường thận trọng, khôn ngoan,
    Dục tình chế ngự đầy chu đáo,
    Song đặt lòng tin ả bán hương!
  3. Vì nàng, lan rộng thói tà dâm,
    Nàng bỏ thiện lương, sống lỗi lầm.
    Không có quyền đòi bình nước uống,
    Cũng chẳng đòi đâu được tọa sàng,
    Nói gì thực phẩm từ thiên giới;
    Đi gấp, ta không chút thích nàng!

Nàng Thiên nữ cũng biến ngay lập tức. Nhưng Kosiya lại trò chuyện với nàng Danh Dự khi nàng đang đứng ở phương Bắc, và ngâm hai vần kệ:

  1. Bình minh viền rực bóng đêm tàn,
    Như chóa mắt ta, sắc đẹp nàng,
    Thiên nữ hình dung, ôi tuyệt mỹ,
    Nàng là ai, hãy nói danh xưng.
  2. Như một cây mềm, dễ mọc ngang
    Trên vùng đất lửa đốt lan tràn,
    Lá hồng theo gió mùa hè rụng,
    Sao cứ nhìn ta dáng thẹn thuồng
    Như thể có điều gì muốn nói,
    Nhưng yên lặng đứng đó, cô nàng?

Lúc ấy nàng ngâm kệ đáp:

  1. Danh Dự là ta, bạn chí thân
    Vẫn thường giúp đỡ các chân nhân,
    Đến đây ta muốn xin tiên thực,
    Song ước mơ nào dám nào năng,
    Cầu khẩn đáng là điều hổ thẹn,
    Nhất là đối với gái hồng quần.

Nghe vầy, vị ẩn sĩ ngâm hai vần kệ:

  1. Nàng chẳng cần đòi hỏi khẩn van,
    Nhận sao cho hợp với quyền nàng,
    Ta ban điều dám đâu mơ tưởng,
    Hãy nhận món này thỏa ước mong.
  2. Hôm nay dùng tiệc ở trong am,
    Xin hạ cố, Thiên nữ sắc vàng,
    Ta thiết đãi nàng bao thượng vị,
    Món ăn thiên giới cũng chia nàng.

*

Những vần kệ sau đây phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật:

  1. Danh Dự, tiên nương thật vẻ vang,
    Được mời làm khách ở trong am,
    Ko-si-ya có nhiều hoa quả,
    Khe suối quanh năm chảy ngập tràn,
    Lại thấy từng đoàn hiền Thánh giả
    Vẫn thường lui tới các thôn làng.
  2. Rập rạp khóm cây đang trổ hoa,
    Pi-yal, xoài, mít cạnh Ju-da,
    Sà-la, đào đỏ tươi tô điểm,
    Hùng vĩ, sung, bàng đổ bóng xa.
  3. Theo gió, nhiều hoa tỏa ngát hương,
    Đậu kê, gạo đủ thứ, kìa trông,
    Nơi nơi buồng chuối trồng phong phú,
    Tre, sậy chen nhau rập nhất vùng.
  4. Ở về phía Bắc, được viền quanh
    Bờ bến phẳng phiu, mát dịu lành,
    Khe suối trong ngần tuôn chảy mãi,
    Hãy nhìn hồ nước dáng uy linh.
  5. Đàn cá tung tăng hạnh phúc tràn
    Tự do nô giỡn thật bình an,
    Giữa bao thực phẩm đầy phong phú
    Hưởng thọ sao cho thỏa ước mong.
  6. Bầy chim hạnh phúc chốn an bình
    Thưởng thức cao lương thật thỏa tình,
    Thiên nga, ưng, hạc, chim công quý,
    Cu gáy, ngỗng hồng với trĩ xanh.
  7. Cọp, beo, sư tử đến từng bầy
    Làm dịu ngay cơn khát chốn này,
    Gấu, chó, sói rừng thường lảng vảng,
    Đấy là nguồn nước uống tràn đầy.
  8. Trâu nghé, tây ngưu cũng đến đây,
    Linh dương, nai đỏ, lợn từng bầy,
    Hươu rừng rất lớn và nhiều loại
    Xuất hiện mèo tai thỏ lắm thay!
  9. Các sườn núi rực rỡ muôn hoa
    Tươi thắm bao màu sắc điểm tô,
    Vang dội tiếng chim muông ríu rít,
    Lượn bay khắp cả chốn rừng thưa.

Đức Thế Tôn đã ca tụng vùng thảo am của Kosiya như vậy. Bây giờ để miêu tả cung cách Thiên nữ Danh Dự đi vào am, Ngài ngâm kệ:

  1. Nàng Thiên nữ dựa một cây cành
    Bao phủ quanh bằng tán lá xanh,
    Như chớp từ vầng mây sấm sét
    Sáng lòe lên giữa cảnh am tranh.
  2. Tọa sàng thanh lịch soạn cho nàng
    Ở phía trên đầu, nệm thật sang
    Bằng cỏ Ku-sa thơm sực nức,
    Phủ ngoài da quý của linh dương.
  3. Vị Thánh ẩn cư lại bảo ban
    Cùng nàng Danh Dự, vị tiên nương:
    “Tọa sàng đã soạn cho nàng hưởng,
    Xin hãy an tâm nhận tọa sàng”.
  4. Ẩn sĩ lấy ra nước suối trong
    Đựng vào lá mới hái, nhanh chân,
    Biết điều thầm kín nàng mơ ước,
    Hoan hỷ, người trao thực phẩm thần.
  5. Tay ôm tặng vật, dạ vui mừng
    Thiên nữ hân hoan bảo Thánh nhân:
    “Thờ phụng ta rồi ngài thắng lợi
    Giờ ta tìm lại cảnh thiên đường”.
  6. Thiên nữ say kiêu hãnh vẻ vang
    Với ân huệ yết kiến Thiên hoàng:
    “Hãy nhìn, Thiên đế ngàn con mắt,
    Tiên thực đây. Phần thưởng hãy ban”.
  7. Sak-ka cùng với chúng Thiên thần
    Kính lễ nàng Thiên nữ tuyệt luân,
    Trong lúc nàng ngồi trên bảo tọa,
    Thiên nhân đồng ái mộ dung nhan.

Trong lúc tôn vinh nàng như vậy, ý tưởng này chợt đến với Thiên chủ Sakka: “Vì duyên cớ gì Kosiya từ chối ban tặng vật cho các nàng kia, lại ban thực phẩm thần tiên cho nàng này thôi?”. Để xác định lý do này, ngài lại triệu Màtali đến.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Sak-ka Thiên chủ cõi Băm ba
    Phán lệnh Mà-ta-li quản xa,
    Truyền: “Đến bảo hiền nhân giải thích
    Cớ gì Danh Dự được ban quà?

Tuân lệnh ngài, Màtali cỡi thiên xa Vejayanta (Tối thắng xa của Đế Thích) khởi hành đến nơi kia.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:

  1. Vì vậy, Mà-ta-li vội vàng
    Phóng xe du lịch giữa không gian,
    Phụ tùng mọi thứ đều cân xứng
    Trong vẻ vinh quang đẹp dị thường,
    Càng đúc bằng vàng tinh luyện kỹ,
    Khung xe đóng khéo được trang hoàng
    Cầu kỳ, đủ các hình tô điểm,
    Tất cả xe đều chạm trổ vàng.
  2. Trên vàng được phát họa chim công
    Khéo tạo thành con số thật đông,
    Bò, ngựa, hổ, voi và báo nữa,
    Linh dương, nhung lộc sắp tranh hùng,
    Ở trong bảo ngọc này đều khắc
    Đàn cưỡng cùng chim khác lượn vòng.
  3. Xe được thắng thiên mã cả ngàn,
    Mạnh như voi trẻ, sắc kim hoàng,
    Cảnh này xem thực vinh quang quá,
    Ngực chúng đều bao mạng lưới vàng
    Cùng các tràng hoa treo lủng lẳng,
    Được buông lơi lỏng sợi dây cương,
    Vừa khi nghe một lời ra lệnh,
    Chúng lướt nhanh như gió nhẹ nhàng.
  4. Ngay lúc Mà-ta nhảy vụt nhanh
    Cỡi thiên xa ấy, giữa thiên thanh,
    Âm thanh mười hướng đồng vang dội
    Qua giữa không gian đã tốc hành,
    Thiên tử làm trần gian chấn động:
    Biển, trời, đất với núi rừng xanh.
  5. Chẳng bao lâu đến thảo am kia
    Mong ước tỏ lòng tôn kính ra,
    Để một vai trần chào Thánh giả,
    Mà-ta-li lại bắt đầu thưa
    Với vị Bà-la-môn trí tuệ
    Tinh thông Thánh điển thật cao xa.
  6. Nghe đây, Tôn giả Ko-si-ya,
    Lời nói của Thiên chủ Sak-ka
    Về việc ngài đang mong muốn biết,
    Kìa xem, sứ mạng được giao ta:
    “Trong khi Tôn giả không công nhận
    Quyền của Tín Thành, Hy Vọng và
    Vinh Quang, xin hỏi sao Danh Dự
    Riêng nhận từ tay ấy thưởng quà?”

Khi nghe những lời này, vị ẩn sĩ khổ hạnh ngâm vần kệ:

  1. Mà-ta-li hỡi, nàng Vinh Quang
    Là ngọc nữ không được vẹn toàn,
    Trong lúc Tín Thành tâm bất định,
    Hỡi ngài, Thiên tử quản xa thần,
    Nàng Hy Vọng vẫn thường lừa dối
    Thích phản bội lời hứa của nàng,
    Danh Dự riêng mình theo đức hạnh,
    Trú thân trong Thánh đạo bình an.

Bây giờ vị ấy lại ngâm kệ ca ngợi đức hạnh của nàng:

  1. Sống ở gia môn, gái má hồng
    Vẫn luôn được bảo vệ, canh phòng,
    Nữ nhân đã quá thời xuân sắc,
    Và những kẻ đang sống với chồng,
    Ví thử có khi nào nhục dục
    Bỗng nhiên phát khởi ở trong lòng,
    Nghe lời nói của nàng Danh Dự,
    Chế ngự dục tâm hạ xuống dần.
  2. Khi các dáo, tên ở chiến trường
    Phóng nhanh rào rạt tựa mưa tuôn,
    Trong cơn trốn chạy, bao đồng đội
    Ngã xuống hay đào tẩu loạn cuồng,
    Nghe được lời nàng Danh Dự nói,
    Nhiều người dừng chạy, dẫu nguy nan,
    Và dầu đang ngập tràn kinh hoảng,
    Lần nữa xông ra chốn kiếm thương.
  3. Giống như bờ biển vẫn thường ngăn
    Những đợt ba đào giữa đại dương,
    Danh Dự cũng thường hay trấn áp
    Con đường của những bọn tà gian;
    Mà-ta-li hỡi, mau về gặp
    Thiên chủ In-dra, nói rõ ràng:
    Bậc Thánh khắp nơi trên thế giới
    Thảy đều tôn trọng đại danh nàng.

Nghe vậy, Màtali ngâm vần kệ:

  1. Ko-si-ya, kẻ ấy là ai
    Đã gợi ý kia đến với ngài,
    Có phải là In-dra Đại đế,
    Phạm thiên, đầy tạo hóa cao vời?
    Nàng Danh Dự ấy, thưa Tôn giả,
    Phải biết được sinh bởi ý trời
    Thiên chủ In-dra, trên thượng giới,
    Riêng nàng đức hạnh tối cao ngôi
    .

Trong lúc vị Thiên tử nói, ngay chính thời khắc ấy, Kosiya sắp phải tái sinh. Màtali liền bảo:

– Này Kosiya, thân ngũ uẩn đang lìa Tôn giả. Việc thực hành hạnh bố thí đã viên mãn. Tôn giả còn có gì liên hệ với nhân thế nữa đâu? Chúng ta sẽ cũng lên thiên giới bây giờ.

Vừa quyết định đưa vị ấy lên trời, Thiên tử vừa ngâm kệ:

  1. Thánh nhân, hãy bước đến bây giờ,
    Lập tức lên xe quý của ta,
    Ta sẽ dẫn ngài về thượng giới,
    Cung đình ngự trị cõi Băm ba
    In-dra đang đợi chờ Tôn giả,
    Quyến thuộc ln-dra quả thực là.
    Thiên đạo hôm nay lên cộng trú
    Ngài thành đạt với chúa In-dra
    .

Trong lúc Màtali đang nói, Kosiya từ trần và hóa sinh vào hàng Thiên chúng mà không cần qua trung gian cha mẹ, rồi bước lên đứng trên thiên xa. Sau đó Màtali đưa vị ấy đến yết kiến Sakka. Khi thấy vị ấy, Thiên chủ Sakka rất đẹp ý và thưởng Thiên nữ Danh dự cho vị ấy đưa về làm vương hậu chánh cung, lại ban cho vị ấy vương quyền cai trì một miền rộng bao la nữa.

*

Trong khi nhận xét thực trạng các pháp, bậc Đạo Sư bảo:

– Chính công đức của một số hiền nhân được thanh tịnh theo cách ấy.

Và Ngài ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Chính hành động của Thánh hiền nhân
    Đưa đến đời sau quả phước ân,
    Kết quả thiện hành an trú mãi.
    Người nhìn thực phẩm của Thiên thần
    Được đem trao tặng nàng Danh Dự,
    Thân hoại, trú an với Ngọc hoàng.

*

Đến đây bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại với những lời này:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngày xưa nữa, Ta cũng đã giáo hóa kẻ xan tham này vốn là gã keo kiệt cố hữu.

Nói xong, Ngài nhận diện Tiền thân?

-Thời ấy Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) là Thiên nữ Danh Dự, vị Tỷ-kheo có tâm bố thí hào phóng là Kosiya, Anuruddha (A-na-luật-đà) là Màtali, Kassapa (Ca-diếp) là Suriya, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Canda, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Nàrada, và Ta chính là Sakka Thiên chủ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chúa Chim Kunàla (Tiền thân Kunàla)

Câu chuyện này do bậc Đạo Sư kể trong lúc trú gần hồ Kùnàla, liên hệ đến năm trăm vị Tỷ-kheo bị tâm bất mãn chi phối. Câu chuyện diễn tiến theo trình tự sau đây.

Hai bộ tộc Sàkiya (Thích-ca) và Koliya (Câu-ly) có con sông Rohini chảy giữa hai thành phố Kapilavatthu (Ca-tỳ-vệ) và Koliya, sông này được ngăn bằng một con đê duy nhất, nhờ đó dân chúng cày bừa gặt hái. Trong tháng Jetthamùla (tháng năm và sáu), khi lúa bắt đầu trổ bông và rủ xuống, nông dân cư trú ở hai thành này tụ họp lại. Rồi dân chúng Koliya nói:

-Nếu cả hai bên cùng kéo nước, thì nước sẽ không đủ cho cả hai thành phố chúng ta. Song dân chúng tôi sẽ được mùa to nếu chỉ một bên chúng tôi kéo nước, vậy hãy cho chúng tôi nước sông này.

Dân chúng thành Kapilavatthu đáp:

– Khi các ông đã chất thóc đầy vựa thì chúng tôi không dám cả gan đem vàng ròng, ngọc bích, tiền đồng, thúng giỏ trong tay lai vãng trước cửa nhà các ông đâu. Chúng tôi cũng sẽ được mùa to nếu chỉ riêng chúng tôi lấy nước, vậy hãy cho chúng tôi lấy nước đi.

– Ta không muốn cho – Đám người này đáp.

– Ta cũng không muốn – Đám người kia trả lại.

Trong lúc lời qua tiếng lại ồn ào như vậy, một người trong bọn họ đứng lên đấm vào một kẻ khác, đến lượt người ấy đấm trả một kẻ thứ ba và cứ thế họ đấm đá nhau và hằn học đụng chạm vào nguồn gốc hoàng tộc của nhau, làm tăng dần cảnh huyên náo ấy. Các nông gia Koliya bảo:

– Các người Kapilavatthu hãy cút ngay đi, chúng bây là loài cẩu trệ, lang sói, ăn ở với chị em gái của mình như súc vật kia. Voi, ngựa, giáo khiên của chúng chống lại ta có lợi ích gì?

Các nông gia Sakiya đáp:

– Này lũ người cùi khốn nạn, hãy cút đi mau với con cháu của bây, một lũ tồi tàn, thân phận hèn hạ, chẳng khác bầy dã thú sống trong bông cây táo. Voi, ngựa, giáo, khiên của chúng chống lại ta có ích lợi gì?

Vì thế họ đi kể chuyện với các viên chức trong hội đồng phụ trách công việc ấy và các vị này lại báo cáo với các vị trưởng tộc hoàng gia. Sau đó, các vị trưởng tộc Sakiya (Thích-ca) bảo:

– Phe ta sẽ cho chúng thấy đám người ăn ở với chị em gái của mình hùng dũng như thế nào.

Rồi họ xông ra, sẵn sàng chiến đấu. Còn bộ tộc Koliya (Câu-ly) bảo:

– Phe ta sẽ cho chúng thấy những người sống trong bộng cây táo hùng dũng ra sao.

Và họ cũng xông tới, sẵn sàng chiến đấu.

Nhưng một số đạo sư khác lại kể chuyện như vầy:

“Khi các nữ tỳ của bộ tộc Sakiya (Thích-ca) và bộ tộc Koliya (Câu-ly) ra sông để lấy nước, vừa ném xuống đất các vành khăn họ đội trên đầu, vừa ngồi xuống chuyện trò vui vẻ, thì một người cầm nhầm khăn của người khác vì tưởng đó là khăn của mình, và khi có tranh cãi do việc này gây ra, mỗi người đều bảo khăn kia của mình, dần dần dân chúng của hai kinh thành cả nô lệ, nông dân, tùy tùng, thủ lãnh, quan chức, phó vương đều xông ra sẵn sàng chiến đấu.

Tuy thế, bản kinh trước được tìm thấy trong nhiều tập Sớ giải và được xem là hợp lý, đáng chấp nhận hơn bản sau.

Bấy giờ vào buổi xế chiều, dân chúng đã xông ra sẵn sàng lâm trận. Thời ấy, đức Thế Tôn đang trú tại Sàvatthi, lúc rạng đông, trong khi đang quán sát thế gian, Ngài thấy họ khởi hành ra trận, Ngài tự hỏi nếu Ngài đến đó, trận chiến có chấm dứt chăng, và Ngài quyết định: “Ta quyết đến đó và để dập tắt cuộc tử chiến này, ta sẽ kể ba chuyện Tiền thân, để chứng minh lợi lạc của tình đoàn kết, ta sẽ dạy họ Kinh Attadanta: Bạo lực (Sutta Nipàta: Kinh Tập IV, 15) và sau khi nghe ta thuyết giảng, dân chúng hai thành này sẽ đưa đến diện kiến ta mỗi bên hai trăm năm mươi thanh niên, ta sẽ nhận họ vào Giáo đoàn và Hội chúng càng thêm đông đảo”.

Vì thế, sau khi đã tắm rửa, Ngài đến thành Sàvatthi khất thực. Lúc trở về, sau buổi thọ trai, vào xế chiều, Ngài bước ra từ Hương phòng, không báo cho ai một lời, Ngài cầm y bát và một mình ra đi và ngồi kiết-già trên không giữa hai đám người ấy.

Thấy rằng đây là cơ hội làm quần chúng kinh ngạc, Ngài ngồi đấy tỏa ra các tia sáng xanh đậm từ tóc Ngài khiến bầu trời đen tối. Rồi khi tâm họ lo âu, Ngài liền xuất hiện và tỏa ra ánh sáng ngũ sắc.

Dân chúng Kapilavatthu thấy đức Thế Tôn liền suy nghĩ: “Đức Thế Tôn, vị thân tộc cao quý của ta, đã đến. Có thể Ngài đã thấy phận sự chiến đấu đặt trên phe ta chăng? Nay bậc Đạo Sư đã đến, ta không thể lao vũ khí chống kẻ thù nào nữa?”. Rồi họ hạ vũ khí xuống và nói:

– Dân Koliya cứ giết chết hay thiêu sống ta đi.

Dân Koliya cũng làm giống như vậy.

Lúc ấy đức Thế Tôn giáng lâm, và ngự trên bảo tọa của đức Phật đặt ở một nơi tuyệt đẹp trên bãi cát, và Ngài chiếu hào quang vô thượng của một bậc Giác Ngộ.

Các vị vua đảnh lễ đức Thế Tôn và an tọa. Sau đó bậc Đạo Sư hỏi, mặc dù Ngài đã biết rõ sự việc:

– Thưa các Đại vương, tại sao các vị đến đây?

– Bạch Thế Tôn, chúng con đến đây không phải để ngắm dòng sông hay vui chơi, mà để chiến đấu.

– Các Đại vương có tranh chấp về việc gì?

– Về nước sông.

– Thế nước sông đáng giá bao nhiêu?

– Bạch Thế Tôn, rất ít.

– Thế đất đai đáng giá bao nhiêu?

– Đất vô giá.

– Thế các vị Tướng quân đáng giá bao nhiêu?

– Họ cũng vô giá.

– Thế tại sao chỉ vì một chút nước chẳng ra gì mà các vị phải hủy diệt các tướng quân cao quý? Quả thật, cuộc tranh chấp này không có gì đền bù được cả song vì một cuộc tử chiến giữa một vị thần cây và một sư tử đen nên một mối thù truyền kiếp đã được tạo ra và kéo dài đến tận hiện kiếp này.

Cùng với những lời trên, Ngài kể cho họ nghe Tiền thân Phandana (số 475, Tập V). Sau đó Ngài bảo?

– Không nên đi theo nhau một cách mù quáng thế này. Một đoàn súc vật bốn chân ở vùng Tuyết Sơn trải dài ba ngàn dặm, đã theo lời một con thỏ, lần lượt đâm đầu xuống biển cả. Do đó, không nên theo nhau cách này.

Nói vậy xong, Ngài kể Tiền thân Daddabha (số 322, Tập III)

Hơn nữa, Ngài lại bảo:

– Đôi khi kẻ yếu nhìn thấy nhược điểm của người mạnh; khi khác, kẻ mạnh thấy nhược điểm của người yếu, nên có lần một con chim cút mái đã giết một vương tượng. Và Ngài kể Tiền thân Latukika (số 357, Tập III).

Như vậy để làm dịu cuộc tranh chấp, Ngài đã kể ba chuyện Tiền thân. Và để chứng minh hiệu quả của sự đoàn kết, Ngài kể hai chuyện Tiền thân:

– Trong trường hợp những sinh vật sống chung đoàn kết, không ai tìm ra kẽ hở để tấn công cả.

Nói vậy xong, Ngài kể Tiền thân Rukkhadhamma (số 74, Tập I)

Ngài lại nói:

– Đối với những sinh vật đoàn kết, không ai có thể tìm ra lỗ hổng để tấn công cả, nhưng khi chúng đã tranh chấp lẫn nhau, thì một kẻ đi săn nào đó cũng tàn phá chúng và tiêu diệt chúng. Quả thật không có phần thưởng gì trong cuộc tranh chấp cả.

Cùng với những lời này, Ngài kể Tiền thân Vattaka (số 33, Tập I).

*

Sau khi đã kể năm chuyện Tiền thân như vậy, Ngài chấm dứt bằng cách tụng kinh Attadanta. Khi đã trở thành những kẻ mộ đạo, các vị vua nói:

– Nếu bậc Đạo Sư không đến, chúng ta đã tàn sát lẫn nhau làm máu chảy thành sông. Chính nhờ bậc Đạo Sư mà chúng ta còn sống. Nhưng ví thử trước kia bậc Đạo Sư sống đời thế tục, thì giang sơn gồm bốn đại châu lục cùng với hai ngàn đảo nhỏ nữa hẳn đã vào tay Ngài và hẳn Ngài đã có hơn một ngàn vương tử. Hơn nữa, chắc hẳn Ngài đã có một đoàn tùy tùng gồm các tướng lãnh quý tộc. Song từ bỏ mọi vinh quang này, Ngài xuất thế và đạt Trí tuệ Tối thắng. Bây giờ ta hãy tiễn Ngài lên đường cùng một đoàn tùy tùng tướng lãnh quý tộc.

Thế là dân chúng hai thành mỗi bên tặng Ngài hai trăm năm mươi vị quý tộc. Sau khi truyền giới xuất gia cho họ, Ngài đi về một khu rừng lớn.

Từ ngày hôm sau, được đệ tử hộ tống Ngài đi khất thực ở hai thành, khi thì vào Kapilavatthu, lúc khác lại vào Koliya, dân chúng cả hai thành đều hết sức kính trọng Ngài.

Giữa đám vương gia quý tộc này là những vị thọ giới không do hoan hỷ mà vì kính trọng bậcĐạo Sư nỗi bất mãn trong tâm liền sinh. Những người vợ cũ của họ muốn khơi dậy niềm bất mãn của họ, cứ gửi đi những lời nhắn tin này nọ, khiến họ lại càng trở nên nản lòng thối chí hơn nữa.

Khi quán sát, bậc Đạo Sư nhận thấy tâm họ đã bất mãn như thế nào, liền suy nghĩ: “Các Tỷ-kheo này, dù sống với một vị Giác Ngộ như Ta, vẫn sinh tâm bất mãn. Ta thử xem cách thuyết giảng nào sẽ ích lợi cho họ”, và Ngài nghĩ đến Pháp thoại Kunàla. Rồi ý tưởng này chợt nảy ra trong trí Ngài: “Ta sẽ đưa các Tỷ-kheo này đến vùng Tuyết Sơn và sau khi chứng minh các ác dục liên hệ đến nữ giới qua chuyện Kunàla và xóa tan nỗi bất mãn của họ, ta sẽ cho họ đạt Sơ quả trong Thánh đạo.

Vì thế sáng sớm Ngài đắp y trong và cầm y bát đi khất thực ở thành Kapilavatthu, sau khi trở về và dùng ngọ trai đã xong, Ngài bảo năm trăm vị Tỷ-kheo:

– Các ông đã từng thấy vùng Tuyết Sơn đầy lạc thú chưa?

– Bạch Thế Tôn, chưa – Các vị đáp.

– Thế các ông có muốn đi chiêm bái Tuyết Sơn chăng?

– Bạch Thế Tôn, chúng con không có thần thông lực làm sao chúng con đi được?

– Song giả sử có ai đó đưa các ông cùng đi, các ông có muốn đi chăng?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Bậc Đạo Sư liền dùng thần lực đưa tất cả các vị lên không gian và du hành đến vùng Tuyết Sơn, vừa trụ trên không, Ngài vừa chỉ cho Hội chúng xem một dãy Tuyết Sơn kỳ diệu với nhiềuđỉnh núi như Kim Sơn, Ngọc Sơn, Hồng Sơn, Ngân Sơn, Bình Địa Sơn, Thủy Tinh Sơn, với năm sông lớn và các hồ Kannamundaka, Rathakàra, Sihappapàta, Chaddanda, Tiyaggala, Anotatta và Kunàla, tất cả bảy hồ.

Tuyết Sơn là một vùng mênh mông, cao năm trăm dặm, rộng ba ngàn dặm. Ngài đã dùng thần thông lực chỉ cho Hội chúng thấy cảnh tuyệt mỹ của vùng này, cùng các nơi cư trú được xây tại đó, và các loại súc vật như từng đoàn sư tử, cọp, voi… Ngài đều chỉ rõ từ nơi này: các vùng đất thiêng và nhiều lạc viên khác đầy hoa quả sum sê, từng đàn chim đủ loại và các cây hoa mọc trên đất lẫn dưới nước, bên sườn Đông của Tuyết Sơn là một bình nguyên đất vàng và bên sườn Tây là một bình nguyên đất đỏ.

Thoạt nhìn thấy những vùng kỳ vĩ này, nỗi lòng mong nhớ khát khao của các Tỷ-kheo đối với các bà vợ cũ tiêu tan mất. Sau đó, bậc Đạo Sư cùng các Tỷ-kheo từ không trung hạ xuống sườn Tây của Tuyết Sơn trên một cao nguyên rộng sáu mươi dặm, trong thung lũng đỏ dài ba dặm, dưới gốc cây Sà-la bao phủ cả bảy dặm và trường thọ suốt một kiếp, bậc Đạo Sư được Tăng chúng vây quanh, tỏa hào quang lục sắc và an tọa, làm chấn động cả lòng đại dương và chiếu sáng như mặt trời, Ngài nói với các Tỷ-kheo bằng một giọng ngọt như mật:

– Này các Tỷ-kheo, hãy hỏi Ta về các kỳ quan mà các ông chưa từng thấy ở vùng Tuyết Sơn này.

Lúc ấy, hai chim cu cườm ngậm một khúc cây ở hai đầu, và ở giữa có đặt chim chúa. Tám chim cu ở trước và tám con ở sau, tám con bên phải và tám con bên trái, tám con ở dưới và tám con ở trên, cứ thế che bóng trên chim chúa trong khi vừa hộ tống chim chúa vừa bay qua không gian.

Khi thấy đàn chim này, các Tỷ-kheo hỏi bậc Đạo Sư:

– Bạch Thế Tôn, bầy chim này có ý nghĩa gì chăng?

– Này các Tỷ-kheo, đây là một tục lệ cổ của gia tộc ta, một truyền thống do Ta tạo ra, thời xưa chúng hộ tống Ta như vậy. Thuở bấy giờ có cả một đàn chim lớn. Ba ngàn năm trăm chim mái son trẻ đã hộ tống Ta. Dần dần chúng tản mát, và đàn chim còn lại như các ông thấy đó.

– Bạch Thế Tôn, chúng đã hộ tống Thế Tôn trong rừng nào?

Bậc Đạo Sư bảo.

– Này các Tỷ-kheo, hãy nghe đây.

Vừa hồi tưởng chuyện cũ, Ngài vừa kể một chuyện quá khứ và giáo hóa các vị như vầy.

*

Đây là chuyện tương truyền và danh tiếng phát ra từ đó:

Một vùng đất kia có đủ loại cây cỏ mọc lên, được phủ với nhiều khóm hoa, nhiều dã thú lai vãng như voi, gayal, trâu, nai, trâu rừng (yak), hươu sao, tê giác, nai lớn, sư tử, hổ, báo, gấu, sói, linh cẩu, rái cá, linh dương kadalì, mèo rừng, thỏ tai dài, vô số đàn voi đủ loại trú ngụ, đủ loại hươu nai lui tới, là nơi nương náu của bầy yakkha (dạ-xoa) mặt ngựa, yêu tinh, ma quỷ…

Vùng ấy lại được một khóm cây rậm rạp che phủ, nở hoa ở trên ngọn, thân mảnh mai cao, không có lỏi bên trong, vang dội tiếng chim líu lo, sung sướng như điên cuồng, nào là chim ưng, gà gô, chim voi, công trĩ, cu gáy; vùng ấy lại được tô điểm với hàng trăm khoáng chất như thủy ngân, thạch tín trắng, thạch tín vàng, son đỏ, vàng và bạc. Chính trong khu rừng kỳ thú này có con chim Kunàla (một loại sơn ca), màu sắc rực rỡ với bộ lông sáng chói. Chim Kunàla này có ba ngàn năm trăm chim mái theo hầu. Thời ấy hai con chim ngậm một khúc cây trong mỏ đặt chim Kunàla ở giữa và bay lên, vì sợ rằng nỗi gian lao trong quãng đường xa sẽ làm chim này nhích ra khỏi chỗ đậu và rơi xuống.

Năm trăm chim mái bay phía dưới và chúng suy nghĩ: “Nếu chúa Kunàla này rơi xuống khỏi chỗ đậu, thì chúng ta sẽ giữ lấy ngài trong đôi cánh của ta”.

Năm trăm chim khác bay phía trên, vì sợ rằng sức nóng làm cháy da chim Kunàla.

Năm trăm chim khác bay mỗi bên ngai, để cản nóng, lạnh, cỏ cây, bụi bặm, gió, sương đụng vào ngài.

Năm trăm chim bay phía trước vì sợ rằng bọn chăn trâu bò, cắt cỏ, lượm củi, tiều phu, kiểm lâm đánh chim Kunàla bằng que củi, hay mảnh sành, nắm tay hay hòn đất, cây gậy hay con dao, hòn sỏi, hoặc lo rằng chim Kunàla sẽ va chạm vào bụi cây, dây leo, hay cây lớn, cột trụ, tảng đá hoặc một con chim lớn nào đó.

Năm trăm chim bay phía sau, nói với Ngài những lời dịu dàng, thân ái bằng những âm điệu du dương, ngọt ngào vì e rằng chim Kunàla mệt mỏi trong khi đậu tại đó.

Năm trăm chim bay lượn vòng quanh đây đó, mang về đủ loại trái cây khác nhau vì sợ rằng chim Kunàla phải chịu đói khổ.

Thời ấy bầy chim nhanh nhẹn đưa chim Kunàla đi du ngoạn từ lạc viên này đến lạc viên khác, khu vườn này đến khu vườn khác, bờ sông này đến bờ sông khác, đỉnh núi này đến đỉnh núi khác, vườn xoài này đến vườn xoài khác, vườn hồng đào này đến vườn hồng đào khác, vườn mít này đến vườn mít khác, rừng dừa này đến rừng dừa khác. Cứ thế ngày nọ sang ngày kia, chim Kunàla được bầy chim này hộ tống như vậy, lại trách mắng chúng:

– Này lũ xấu xa kia, chết đi, chết tiệt cả đi, chúng bây là quân trộm cắp, lừa đảo, vô tâm, phù phiếm, bạc nghĩa vong ân, như gió cuốn đi bất cứ nơi nào chúng bây muốn.

*

Sau những lời này, bậc Đạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, hiển nhiên là ngay khi Ta còn ở đời sống súc sinh, ta đã hiểu rõ tính tình vô ơn, độc ác, vô luân của nữ giới, và ngay thời ấy, Ta đã không rơi vào uy lực của họ và Ta đãđặt họ dưới uy lực của Ta.

Khi Ngài đã xóa tan nỗi bất mãn trong tâm Tăng chúng, Ngài lại giữ im lặng.

Vào lúc này, hai chim cu màu đen đến nơi đây, nâng niu chúa lên cao trên khúc cây ấy, trong khi bốn chim khác bay phía dưới và mỗi bên. Thấy chúng, các Tỷ-kheo lại hỏi bậc Đạo Sư về bầy chim và Ngài đáp:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa Ta có bạn là một chim sơn ca chúa tên là Punnamukha, và truyền thống trong gia tộc chim ấy là như vầy.

Để đáp lại câu hỏi của các Tỷ-kheo như trước, Ngài bảo:

*

Trên sườn Đông của dãy Tuyết Sơn, chúa tể của núi đồi, là những dòng suối xanh biếc, bắt nguồn từ những sườn núi thoai thoải, trong một vùng thơm ngát, mê hồn, sáng tươi, diễm lệ với hoa sen nở rộ đủ màu xanh, trắng, sen bách diệp, súng trắng và cây hoa thần tiên, một miền bát ngát mỹ miều với đủ loại kỳ hoa dị thảo, cây leo, vang vọng tiếng thiên nga, vịt, ngỗng, có từng đoàn ẩn sĩ khổ hạnh, những vị có đủ thần thông biến hóa, lại có các thần linh, ma quỷ, dạ-xoa, yêu quái, nhạc thần, tiên nữ và mãng xà.

Chính trong một khu rừng kỳ ảo như vậy sơn ca chúa Punnamukha đã cư trú. Giọng sơn ca thật du dương êm ái, chính đôi mắt tươi vui ấy là đôi mắt của con chim say sưa với nhiều hoan lạc. Ba ngàn năm trăm chim mái theo hộ tống chim sơn ca Punnamukha này. Cũng vậy, có hai con chim vừa ngậm khúc cây trong mỏ và đặt Punnamukha ở giữa vừa bay lên không gian, vì sợ chim chúa phải chịu mệt nhọc…

Thuở ấy chim Punnamukha được đàn chim này hộ tống ban ngày, đã ca ngợi chúng như vầy:

– Các hiền muội thật đáng tuyên dương, hành động này của các hiền muội rất phù hợp với các mệnh phụ cao sang, vì các hiền muội đã phụng sự chúa công mình.

Lúc ấy, thực ra sơn ca Punnamukha đến gần nơi chim Kunàla đang đậu, và đàn chim hầu cận chim Kunàla đã thấy chim kia, trong khi chim ấy còn ở đằng xa, chúng kéo lại gần chim Punnamukha và cầu thân như vầy:

– Này Hiền hữu Punnamukha, chim Kunàla là một con chim hung bạo với giọng lưỡi thô tục. Có lẽ nhờ hiền hữu giúp đỡ, chúng tôi may ra mới nghe được lời nói tử tế của vị ấy.

– Thưa các quý nương, có lẽ chúng ta làm được việc ấy.

Nói vậy xong, chim ấy đến gần Kunàla, sau lời chào hỏi ân cần, chim ấy cung kính đậu một bên và nói với Kunàla như vầy:

– Này Hiền hữu Kunàla, tại sao Hiền hữu đối xử tàn tệ với các quý nương này mặc dù họ giữ phẩm hạnh tốt đẹp? Hiền hữu Kunàla, ta nên nói lời dịu ngọt ngay cả với các nữ nhân có lời lẽ thiếu tao nhã, huống hồ đối với các quý nương thanh cao thế này.

Khi chim ấy nói vậy xong, Kunàla liền phỉ báng Punnamukha như sau:

– Này quân khốn nạn kia, hãy chết đi, chết tiệt cả đi. Ai lại giống như ngươi cứ mềm lòng trước lời van xin của nữ giới?

Khi bị khiển trách như vậy, chim Punnamukha liền bỏ đi. Rồi chẳng bao lâu sau đó, Punnamukha lâm bệnh nặng, và chịu đau đớn kịch liệt vì chứng xuất huyết, làm chim gần chết. Bầy chim hầu cận sơn ca Punnamukha liền suy nghĩ: “Sơn ca này bị bệnh nặng, chắc là phảiđược vực dậy từ căn bệnh này”.

Nghĩ vậy, chúng liền rời bỏ chim ấy một mình và kéo đến gần chim Kunàla.

Kunàla nhìn chúng bay lại từ xa, khi thấy chúng liền hỏi:

– Lũ khốn nạn kia, chúa của bây đâu?

– Hiền hữu Kunàla, chim Punnamukha bị bệnh. Có lẽ chim ấy phải được vực dậy từ cơn bệnh này.

Khi chúng nói vậy xong, chim Kunàla nguyền rủa chúng:

– Hãy chết đi, lũ khốn nạn kia, chết tiệt đi, chúng bây là lũ trộm cắp, lừa đảo, vô tâm, phù phiếm, bạc nghĩa vong ân như gió cuốn đi nơi nào bây muốn.

Nói vậy xong, chim ấy đến gần nơi sơn ca Punnamukha nằm và nói như sau:

– Chào Hiền hữu Punnamukha.

– Chào Hiền hữu Kunàla – Chim kia đáp.

Sau đó, chim Kunàla dùng đôi cánh và mỏ ôm lấy Punnamukha và vừa nâng bạn lên, vừa cho uống đủ thứ thuốc. Nhờ thế, bệnh tình của sơn ca đã thuyên giảm. Khi chim Punnamukha đã khoẻ mạnh, bầy chim bay trở về và Kunàla cho chim Punnamukha ăn quả rừng trong vài ngày,đến khi bạn đã hồi sức, chim chúa bảo:

– Này Hiền hữu, nay đã bình phục, hãy tiếp tục sống với đàn chim hộ tống bạn, còn ta sẽ trở về nơi cư trú của ta.

Lúc ấy Punnamukha bảo bạn:

– Chúng đã bỏ ta khi ta lâm trọng bệnh và bay đi nơi khác. Ta không cần bọn lừa đảo ấy nữa.

Nghe vậy, Bậc Đại Sĩ đáp:

– Này Hiền hữu, ta sẽ kể cho bạn nghe về tính độc ác của nữ giới.

Rồi ngài ôm lấy Punnamukha và đưa đến Thung Lũng Đỏ trên sườn Tuyết Sơn, đậu trên một tảng hồng thạch tín dưới gốc cây Sàla tỏa rộng bảy dặm đường, trong lúc Punnamukha và đám tùy tùng đậu bên cạnh. Khắp cả vùng Tuyết Sơn vang lên lời bố cáo của chư Thiên:

– Hôm nay điểu vương Kunàla an tọa trên phiến hồng thạch ở Tuyết Sơn sẽ thuyết Pháp với vẻ kỳ diệu của một vị Phật. Xin các vị lắng tai nghe ngài.

Nhờ bố cáo như vậy, lần lượt chư Thiên ở sáu tầng trời Dục giới đều nghe và tụ họp lại nhiều sơn thần, rắn thần, kim sí điểu (chim thần cánh vàng), kên kên cũng loan báo sự kiện trên. Thời ấy thứu vương Ànanda cùng với đoàn tùy tùng mười ngàn kên kên trú ngụ tại đỉnh Thứu Sơn. Khi nghe tin chấn động này, chim ấy suy nghĩ: “Ta sẽ đi nghe thuyết Pháp”. Rồi cùng đàn chim hộ tống đến đậu riêng một nơi.

Ẩn sĩ Ànanda đã đắc năm Thắng trí đang ở vùng Tuyết Sơn cùng đoàn đệ tử gồm mười ngàn ẩn sĩ, khi nghe tin chư Thiên loan truyền, liền suy nghĩ: “Chúng bảo nhau hiền hữu Kunàla sẽ nói về các lỗi lầm của nữ giới, ta cũng phải đi nghe bạn thuyết giảng”. Rồi được một ngàn vị khổ hạnh hộ tống, vị ấy dùng thần thông du hành đến đó và ngồi riêng một nơi. Thế là đã có một hội chúng họp lại đông như vậy để nghe Phật pháp.

Lúc ấy Bậc Đại Sĩ, với trí kiến của một vị nhớ lại cái tiền thân của mình, lấy Punnamukha làm nhân chứng, kể lại một trường hợp trong tiền kiếp liên hệ với lỗi lầm của nữ giới.

*

Bậc Đạo Sư nói để làm sáng tỏ vấn đề:

Thời ấy chim Kunàla nói với sơn ca Punnamukha, vừa mới được vực dậy từ giường bệnh:

– Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã thấy Kanhà, một nữ nhân có hai cha và năm chồng, lại còn luyến ái một nam nhi thứ sáu là một gã lùn có đầu thụt vào cổ và què chân nữa.

Ở đây chúng ta cũng có thêm một vần kệ:

  1. Chuyện cổ, Kan-hà, được kể rằng:
    Cả năm hoàng tử gả cho nàng,
    Tham lam, nàng vẫn còn ham muốn
    Một gã gù lưng, gái điếm đàng!

– Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã thấy trường hợp một nữ ẩn sĩ khổ hạnh tên Saccatapàvì sống trong nghĩa địa và bỏ cả buổi ăn thứ tư, song lại phạm tội lỗi với một thợ vàng.

– Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã chứng kiến trường hợp nàng Kàkàti, vợ của vua Venateyya, sống giữa biển cả, tuy thế đã phạm tội lỗi với nhạc công Natakuvera (Tiền thân số 327, tập III).

– Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã thấy nàng tóc vàng Kurangavì, mặc dù yêu Elakamàra, lại phạm tội lỗi với Chalangakumara và Dhanantevàsì.

Ta cũng biết chuyện mẹ của Brahmadatta đã bỏ vua Kosala và phạm tội lỗi với Pancàlacanda ra sao.

Các người này cùng nhiều nữ nhân khác đã theo tà dục, ta không nên đặt lòng tin vào họ hoặc ca ngợi họ. Ví như quả đất có khuynh hướng vô tư đối với toàn thế giới, đem lại tài sản cho mọi loài, cung cấp mái ấm cho mọi người (tốt cũng như xấu) chịu đựng tất cả, không hề rung động, không gì lay chuyển, đối với nữ giới cũng phải như vậy. Đàn ông không nên tin tưởng họ.

  1. Sư tử sống bằng máu thịt tươi,
    Dùng năm móng sắc xé con mồi,
    Tìm vui trong nỗi đau loài khác
    Cẩn thận! Nữ nhân cũng một nòi!

– Này Hiền hữu Punnamukha. Thực vậy, bọn súc sinh này không chỉ là bọn gái giang hồ, điếm đàng, đầu đường xó chợ, chúng không lẳng lơ đĩ thỏa cho bằng sát nhân. Ta muốn nói đến bọ gái đứng đường buôn hương bán phấn này. Chúng giống như quân cường đạo với cuộn tóc vàng kết lại, chúng như thuốc độc, như lũ lái buôn tự khoe mình, quanh co như sừng dê, miệng lưỡi độc địa như loài rắn, như cái hố có nắp đậy, tham lam vô tận như địa ngục, khó làm thỏa mãn như quỷ cái, ngốn ngấu mọi loài như Diêm vương, tàn phá mọi sự như ngọn lửa, cuốn trôi mọi vật ở trước nó như dòng sông; như cơn gió thổi tới nơi nào nó muốn, không biết phân biệt gì như đỉnh núi Neru, kết trái quanh năm như loài cây độc.

Ở đây lại có thêm một vần kệ nữa:

  1. Như độc dược, quân cướp bạo tàn,
    Quanh co như gạc của sơn dương,
    Mãnh xà hai lưỡi là loại chúng,
    Chực sẵn khoe khoang tựa lái buôn.
  2. Giết hại như là hố đậy che,
    Như mồm địa ngục, thỏa không hề,
    Như loài quỷ dữ tham vô độ,
    Thần chết mang theo mọi vật kia.
  3. Ngốn ngấu khác đâu ngọn lửa nồng,
    Mạnh như hồng thủy hoặc cuồng phong,
    Như Ne-ru đỉnh màu vàng chói
    Thiện ác không hề biết biệt phân.
  4. Não hại như cây độc sát nhân,
    Chúng luôn tàn phá cả năm phần,
    Gia tài sự nghiệp đều tiêu tán,
    Phung phí bạc vàng, mọi bảo trân.

*

Chuyện công chúa Kanhà

Truyền thuyết kể rằng thời xưa, vua Brahmadatta ở xứ Kàsi nhờ có quân hùng tướng mạnh chiếm quốc độ Kosala, giết vua kia và cướp vị chánh hậu lúc ấy đang có thai, đưa về Ba-la-nại và phong bà làm vương phi. Về sau bà sinh một gái, và vì vua này không có con trai hay gái gì cùng huyết thống với mình, nên vô cùng hoan hỷ và phán:

– Này mỹ hậu, hãy chọn một điều ước trẫm ban tặng ái khanh.

Bà nhận điều ước nhưng chưa lựa chọn. Bấy giờ họ đặt tên công chúa là Kanhà.

Vừa khi nàng lớn lên, mẫu hậu bảo:

– Này con yêu quý, phụ vương đã ban mẹ một điều ước, mẹ đã nhận song còn trì hoãn sự lựa chọn. Nay con hãy chọn điều gì con thích.

Do dục tình phát triển quá độ phá tan nỗi e thẹn của một thiếu nữ, nàng nói với mẹ:

– Con không thiếu thứ gì cả. Xin phụ vương hãy triệu tập một đại hội để kén phò mã cho con.

Mẫu hậu kể lại chuyện này với vua. Vua phán:

– Hãy cho công chúa thứ gì nàng muốn.

Và vua ban lệnh truyền mở hội kén phò mã. Trong sân chầu, một đám nam nhi tụ tập phục sức cực kỳ lộng lẫy. Kanhà cầm một giỏ hoa trong tay, đứng nhìn từ cánh cửa lầu thượng và không hài lòng về một chàng trai nào cả.

Lúc ấy Ajjuna, Nakula, Bhìmasena, Yudhitthila, Sahadeva, thuộc dòng vua Pàndu, là năm hoàng tử của vua này, sau khi học tập đủ các học thuật tại Takkasilà với một vị giáo sư lừng danh thế giới, đang lãng du đây đó với ý định tìm hiểu thông suốt các phong tục địa phương, và vừa đến Ba-la-nại.

Khi nghe tin loan báo vang dậy khắp kinh thành, và hỏi thăm để biết chuyện gì đang xảy ra, họ liền đến đứng cả năm người thành một hàng, trông hình dáng như năm pho tượng bằng vàng. Thoạt nhìn thấy họ, Kanhà say mê luôn cả năm, liền ném vòng hoa lên đầu của năm chàng trai khi họ đứng trước mặt nàng và bảo:

– Tâu mẫu hậu, con xin chọn cả năm chàng.

Hoàng hậu trình việc này với vua. Vì vua đã ban cho nàng điều ước, nên không thể nói: “Con không được làm việc này”, nhưng lòng vua vô cùng phiền muộn. Tuy thế, sau khi hỏi nguồn gốc năm chàng là con ai, và khi biết đó là con vua Pàndu, vua nghênh tiếp năm chàng vô cùng trọng thể và gả công chúa làm vợ cả năm chàng.

Nhờ mãnh lực của dục tình nồng nhiệt, nàng chiếm được tình yêu của năm chàng vương tử trong cung điện bảy tầng của nàng.

Bấy giờ nàng có một kẻ hầu cận vừa gù, vừa què và dù nàng đã chiếm trọn con tim của năm vương tử, ngay khi năm chàng đã ra khỏi cung đình, nàng tìm được cơ hội và bị lửa dục nung nấu, nên đã phạm tội lỗi với gã nô lệ lưng gù kia.

Trong khi trò chuyện với gã, nàng nói:

– Không có ai được ta yêu quý bằng chàng. Ta sẽ giết năm vương tử này và lấy máu từ cổ họ xoa vào đôi chân chàng.

Khi nàng bầu bạn với vị thái tử trong năm vị kia, nàng thường bảo:

– Chàng thân yêu đối với thiếp hơn bốn chàng kia. Vì chàng, thiếp sẽ hy sinh cả đến tính mạng mình. Khi phụ vương băng hà, thiếp sẽ trao quốc độ cho riêng chàng.

Nhưng khi bầu bạn với các chàng kia, nàng cũng làm y hệt như vậy. Các chàng vô cùng đẹp lòng vì nàng, và suy nghĩ: “Nàng thương yêu chúng ta và nhờ đó vương vị này sẽ thuộc về ta”.

Một hôm nàng bị bệnh, họ tụ tập quanh nàng, một người xoa đầu, kẻ xoa tay chân, trong khi gã nô lệ ngồi dưới chân nàng. Với vị thái tử Ajjuna đang xoa đầu nàng, nàng lấy đầu ra hiệu ngầm bảo: “Không ai được thiếp thương yêu hơn chàng. Bao lâu thiếp còn sống, thiếp sẽ sống vì chàng và khi phụ vương từ trần, thiếp sẽ trao vương quốc cho chàng”, và thế là nàng chiếm trọn tim chàng.

Đới với các người kia, nàng cũng làm dấu bằng tay chân với ý nghĩa như vậy. Nhưng đối với gã gù lưng, nàng làm dấu bằng lưỡi với ngụ ý: “Chỉ có chàng là người duy nhất được ta yêu quý. Ta chỉ sống vì chàng”.

Nhờ những điều nàng đã nói trước kia, tất cả bọn họ đều hiểu các dấu hiệu này có ý nghĩa gì. Nhưng trong khi mỗi người nhận ra dấu hiệu dành riêng cho mình, vương tử Ajjuna vừa thấy các dấu hiệu tay, chân và lưỡi ấy liền suy nghĩ: “Trong trường hợp ta cũng như với các người khác, chắc phải có điều gì đó nàng muốn chứng tỏ bằng dấu hiệu kia, vậy đối với gã lưng gù này hẳn cũng có một thân tình nào đây”.

Thế rồi vừa đi ra ngoài với các em, chàng hỏi:

– Các hoàng đệ có thấy công chúa năm chồng này làm dấu với ta bằng đầu nàng chăng?

– Thưa vâng, có thấy.

– Các em có hiểu ý nghĩa của nó chăng?

– Thưa không.

– Ý nghĩa của nó là như vầy, như vầy. Thế các em có biết ý nghĩa dấu hiệu bằng tay chân của nàng với các em chăng?

– Thưa vâng, chúng em có biết.

– Nàng cũng làm dấu cho ta như vậy. Thế các em có biết ý nghĩa dấu hiệu nàng bảo gã lưng gù bằng lưỡi chăng?

– Chúng em không biết.

Chàng liền bảo họ:

– Nàng cũng phạm tội với gã đó.

Vì họ không tin chàng, chàng bảo gã lưng gù đến và hỏi gã, gã liền kể cho chàng mọi chuyện. Khi họ nghe gã nói, họ đều mất hết lòng say mê đối với nàng và bảo nhau:

– Ôi rõ ràng giống đàn bà thật xấu xa tội lỗi. Vừa rời khỏi các nam nhi như chúng ta vốn quý tộc cao sang và đầy đủ phúc phận, nàng đã phạm tà hạnh với một gã lưng gù gớm ghiếc, đáng ghê tởm như thế này. Ai có trí tuệ lại ham thích kết duyên với đám nữ nhi vô sĩ gian tà như vậy?

Sau khi lần lượt phỉ báng nữ nhân như trên, năm vương tử suy nghĩ: “Chúng ta đã chán chê đời sống vợ chồng rồi”. Các vị lui về ở ẩn tại vùng Tuyết Sơn, và sau khi đã thành tựu pháp Thiền quán Kasina, lúc mạng chung, các vị đi theo nghiệp của mình.

Chim chúa Kunàla là vương tử Ajjuna, chính vì lý do ấy, khi nêu ra điều gì bản thân đã thấy, chim ấy đều bắt đầu câu chuyện với lời: “Ta đã thấy”. Khi kể lại những việc khác mà chim ấy đã thấy thời xưa, chim ấy cũng dùng những lời ấy.

Sau đây là phần giải thích một sự việc được nêu ra ở chuyện khởi đầu.

*

Chuyện nữ khổ hạnh Saccatapàvì

Ngày xưa, tương truyền có một nữ khổ hạnh bạch y tên là Saccatapàvì xây một thảo am ở một nghĩa địa gần Ba-la-nại. Trong lúc sống ở đây, nàng nhịn luôn bốn bữa ăn trong số năm bữa, khắp kinh thành, danh vọng nàng sáng chói gần xa chẳng khác nào đôi vầng nhật nguyệt. Dân chúng thành Ba-la-nại nếu có hắt hơi hay vấp ngã đều bảo: “Cầu phúc cho Saccatapàvì!”

Bấy giờ vào ngày đầu một lễ hội, một số thợ vàng dựng lều tại một nơi dân chúng tụ tập, vàđem theo cá thịt rượu mạnh, dầu thơm, tràng hoa, v.v. rồi bắt đầu tiệc rượu say sưa.

Lúc ấy một gã thợ rèn nghiện rượu đang lúc nôn tháo, đã kêu lên “Cầu phúc cho Saccatapàvì!”

Có người khôn ngoan trong bọn họ bảo:

– Ôi thật là điên rồ mù quáng, chú đang tôn trọng một nữ nhân tính khí thay đổi bất thường. Chú thật là đồ điên!

Gã đáp:

– Này bạn, đừng nói vậy, nếu không sẽ phạm tội đọa vào địa ngục đấy.

Người khôn ngoan liền bảo:

– Đồ điên, hãy câm mồm lại. Hãy đánh cuộc với ta một ngàn đồng vàng, trong bảy ngày kể từ nay, cứ ngồi tại chính nơi đây, ta sẽ giao tận tay chú nàng Saccatapàvì phục sức diễm lệ cùng liên hoan rượu mạnh và ta cũng sẽ say sưa đánh chén với nàng. Bọn nữ nhi đều tính tình bấtđịnh như thế.

Gã kia đáp:

– Bạn không thể có khả năng làm việc ấy đâu.

Và gã đánh cuộc một ngàn đồng vàng.

Thế rồi thông báo với đám thợ vàng kia xong, sáng sớm hôm sau chàng trai giả dạng một vị khổ hạnh tiến vào nghĩa địa, không xa nơi nàng cư ngụ và đứng chiêm bái mặt trời. Nàng thấy chàng lúc bắt đầu đi khất thực, và suy nghĩ: “Chắc chắn đây là một vị khổ hạnh có thần thông. Ta ở một bên nghĩa địa, còn Ngài ở ngay chính giữa: tâm Ngài chắc hẳn thuần tịnh như bậc Thánh. Ta muốn tỏ lòng ngưỡng mộ Ngài”.

Thế là nàng đến gần chàng đảnh lễ, nhưng chàng không nhìn cũng không nói gì. Ngày hôm sau chàng cũng cứ làm vậy. Nhưng qua ngày thứ ba, khi nàng đảnh lễ, chàng nhìn xuống và bảo:

– Hãy đi ngay.

Qua ngày thứ tư, chàng ân cần nói với nàng:

– Nàng đi khất thực có mệt nhọc chăng?

Nàng nghĩ thầm: “Ta đã được chào hỏi ân cần rồi” và hoan hỷ ra đi.

Ngày thứ năm nàng lại nhận được một lời chào hỏi ân cần hơn và sau khi ngồi nghỉ chốc lát, nàng đảnh lễ chàng và ra đi.

Nhưng vào ngày thứ sáu, nàng lại đến đảnh lễ chàng khi chàng ngồi đó. Chàng nói:

– Này hiền muội, có tiếng gì ồn ào ca nhạc vang lừng ở Ba-la-nại hôm nay thế?

Nàng đáp:

– Bạch Thánh giả, Ngài không biết có mở lễ hội trong thành và đây là tiếng những người đang liên hoan tại đó ư?

Giả vờ không biết, chàng bảo:

– Phải, chắc đây là tiếng ồn ta nghe được.

Rồi chàng lại hỏi:

– Này hiền muội, nàng nhịn ăn bao nhiêu bữa?

– Bạch Thánh giả, bốn. Còn Thánh giả nhịn bao nhiêu bữa? Nàng hỏi.

– Này hiền muội, bảy.

Nhưng đó là chàng nói dối, vì chàng thường ăn suốt ngày đêm. Rồi chàng lại hỏi:

– Nàng đã thọ giới bao nhiêu năm?

Nàng nói:

– Mười hai năm, thế Thánh giả xuất gia bao lâu?

– Đây là năm thứ sáu – Chàng đáp.

Rồi chàng lại hỏi:

– Này hiền muội, nàng đã đạt đến thanh tịnh của bậc Thánh chưa?

– Bạch Thánh giả, chưa, còn Thánh giả?

– Chúng ta đều chưa đạt cả – Chàng đáp.

– Này hiền muội, chúng ta không hưởng thọ dục lạc cũng không thành tựu viễn ly lạc. Vậy thì địa ngục nóng bỏng có nghĩa gì với ta chứ? Chúng ta hãy theo con đường của đại chúng đi: ta sẽ trở thành gia chủ và vì ta có sẵn tài sản của mẹ ta, ta sẽ chẳng thiệt hại gì cả.

Khi nghe chàng nói và do thiếu tịnh tín bất động, nàng đem lòng say mê chàng, liền nói:

– Thưa ngài, tiện nữ cũng thấy tâm bất mãn, nếu ngài không từ chối, thiếp xin theo về ở nhà cùng chàng.

Chàng đáp ngay:

– Ta không từ chối nàng đâu, nàng sẽ là vợ ta.

Sau đó chàng đưa nàng về thành và sống chung với nàng. Khi cùng nàng đến tửu quán, chính chàng uống rượu mạnh và giao nàng vào tay đám bạn để chè chén say sưa tồi tệ hơn nữa. Vì thế gã trai kia thua cuộc mất một ngàn tiền vàng, còn nàng được chàng thợ vàng này ban cho vô số con trai con gái. Thời ấy chim Kunàla là người thợ vàng và khi kể chuyện này, chim bắt đầu bằng những lời: “Ta biết”.

Chuyện thứ hai là một cổ tích được kể đầy đủ trong Tiền Thân Kàkati (số 327, chương IV, tập III). Vào thời ấy, Kunàla là chim Garuda (Kim sí điểu), và vì lý do này, khi chứng minh điều gì thấy tận mắt, chim ấy bắt đầu bằng lời: “Ta biết”.

*

Chuyện công chúa Kurangavi

Trong chuyện thứ ba, một thuở nọ, vua Brahmadatta giết vua Kosala và chiếm quốc độ. Cướp mất hoàng hậu đang có thai, vua trở về Ba-la-nại, và dù biết rõ tình trạng của bà, vua vẫn phong bà làm hoàng hậu. Đến kỳ khai hoa nở phụng, bà sinh một hoàng nam giống như một bức tượng vàng ròng.

Bà suy nghĩ: “Khi con ta lớn lên, vua Ba-la-nại sẽ bảo: “Nó là con trai của kẻ thù ta. Nó có nghĩa gì với ta đâu? Và sẽ giết nó. Nhưng không, ta không thể để con ta chết vì tay kẻ thù”. Vì thế bà bảo nhũ mẫu:

– Này chị, hãy lấy vải thô quấn hài nhi này và đi quẳng vào nhà xác.

Nhũ mẫu làm theo lời bà, và sau khi tắm rửa xong, liền về nhà.

Còn vua Kosala, sau khi từ trần, tái sinh làm vị thần hộ mạng hài nhi ấy, và do thần lực xui khiến, một con dê cái của một mục tử đang nuôi đàn dê ở vùng này, thấy đứa bé liền đem lòng thương yêu, cho nó bú sữa xong, đi quanh quẩn một lát rồi trở về hai, ba hoặc cả bốn lần để cho nó bú.

Người chăn dê thấy con dê đi quanh đó, liền đến nơi, thấy đứa bé cũng đem lòng thương yêu và ẫm nó về cho vợ. Bấy giờ bà vợ không có con nên không có sữa cho nó bú. Vì thế con dê cái tiếp tục cho nó bú.

Từ hôm ấy, cứ mỗi ngày đều có hai ba con dê chết. Người chăn dê suy nghĩ: “Nếu đứa bé này được ta tiếp tục chăm sóc thì tất cả đàn dê đều chết. Nó có nghĩa gì với ta chứ?” Sau đó y đặt nó vào một nồi đất, đậy lên một cái nắp và xoa lên mặt nó đầy bột đậu không thừa một kẽ hở nào, rồi thả nó xuống sông.

Đứa bé do dòng nước cuốn trôi đến bờ thấp gần cung vua thì được một kẻ vá đồ cũ hạ đẳng trông thấy khi đang đứng rửa mặt với vợ. Y vội vàng chạy đến kéo cái nồi ra khỏi nước và đặt trên bờ. Y suy nghĩ: “Ta lấy được cái gì đây?”. Vừa mở nồi ra, y vội thấy đứa bé. Vợ y cũng không có con nên sinh lòng thương yêu nó. Vì thế bà đem nó về nhà săn sóc.

Khi đứa bé lên bảy tám tuổi, cha mẹ nó thường đem nó theo mỗi khi đến cung vua. Lúc được mười sáu tuổi, chàng trai thường đến cung vua để vá đồ cũ. Vua và hoàng hậu có một công chúa tên Kurangavì là một cô gái nhan sắc phi thường. Từ lúc nàng trông thấy chàng trai, nàng đem ra luyến ái chàng và không còn để ý đến ai nữa, nàng thường đi đến nơi chàng làm việc. Do thường xuyên gặp gỡ nhau, họ say mê lẫn nhau và lén lút phạm tà hạnh trong ngự viên. Dần dần bọn thị tỳ tâu lên vua cha chuyện ấy.

Vua nổi trận lôi đình triệu tập các cận thần lại phán:

– Tên hạ đẳng này đã phạm các tội như vầy như vầy. Các khanh xem phải làm gì để trị nó đi.

Các cận thần tâu:

– Tội nó nặng lắm, sau khi buộc nó chịu mọi hình phạt, ta phải xử tử nó.

Thuở ấy, cha của chàng trai là vua Kosala đã trở thành vị thần hộ mạng của chàng, liền nhập vào thân mẹ chàng, nên nhờ thần lực ấy, bà đến gần vua và thưa:

– Tâu Đại vương, chàng trai này không phải là kẻ hạ đẳng đâu. Nó là con trai thiếp sinh ra với vua Kosala. Thiếp đã nói dối Đại vương khi bảo rằng con thiếp đã chết. Vì biết rằng nó là con trai của kẻ thù Đại vương, nên thiếp đã sai một nhũ mẫu đem nó bỏ vào nhà xác. Sau đó một người chăn dê chăm sóc nó, nhưng khi cả bầy dê bắt đầu chết, y đã thả nó xuống sông và do dòng nước cuốn đến đây, nó được kẻ hạ đẳng vá đồ cũ trong cung này tìm thấy và nuôi nấng. Nếu Đại vương không tin thiếp, xin cứ gọi những kẻ này vào và hỏi họ.

Vua triệu đám người ấy vào, bắt đầu với nhũ mẫu; khi chất vấn, biết rõ các sự kiện do bà kể, vua rất hân hoan thấy chàng trai thuộc dòng quý tộc, liền ra lệnh cho chàng đi tắm rửa, trang điểm thật lộng lẫy và gả công chúa cho chàng. Thuở ấy, do việc chàng đã gây ra cái chết củađàn dê, chàng được đặt tên Elakamàra (Bả thuốc giết dê).

Sau đó, vua giao cho chàng xe cộ, một đạo quân và bảo chàng lên đường:

– Hãy đi làm chủ quốc độ của phụ vương con ngày trước.

Vì thế chàng ra đi cùng với Kurangavì và được tôn lên ngôi báu. Lúc ấy vua Ba-la-nại suy nghĩ: “Con ta chẳng được học hành gì cả”, nên truyền Chalangakumara đến làm thầy dạy chàng các môn học thuật. Khi nhận vị này làm sư trưởng, chàng lại phong ông chức đại tướng. Dần dà, Kurangavì thông gian với ông. Vị đại tướng có một quan hầu cận tên Dhanantevàsì và ông nhờ kẻ ấy trao các món y phục cùng nữ trang khác cho Kurangavì, nàng cũng thông gian với kẻ ấy. Bọn ác nhân thật là hư hỏng vô đạo như vậy nên ta không thể tán dương họ. Bậc Đại Sĩ dạy điều này khi ngài kể một chuyện quá khứ, vì thuở ấy ngài là Chalangakumàra, do đó sự kiện ngài kể là một việc chính mắt ngài thấy.

*

Chuyện vương hậu Kosala.

Trong chuyện thứ năm này có một thời vua Kosala chiếm quốc độ Ba-la-nại và phong bà chánh hậu đang có thai của vua ấy lên ngôi chánh cung rồi trở về kinh đô của mình. Về sau, bà sinh ra một vương tử. Vì không có con riêng của mình, vua rất yêu quý hài nhi và truyền dạy bảo chàng mọi môn học thuật.

Khi chàng trưởng thành, vua cha truyền chàng đi làm chủ quốc độ thuộc quyền cha chàng thuở trước. Chàng ra đi ngự trị xứ ấy.

Sau đó mẫu hậu chàng bảo bà nhớ con trai liền xin phép vua Kosala khởi hành đến Ba-la-nại cùng một đoàn hộ tống đông đúc và trú chân ở một thị trấn giữa hai nước. Tại đây có một thanh niên Bà-la-môn tuấn tú tên gọi Pañcàlacanda đem dâng hoàng hậu một tặng vật. Vừa thấy kẻ ấy, bà liền say mê và phạm tà dục với y.

Sau khi ở lại đó vài ngày, bà đến Ba-la-nại thăm hoàng tử. Lúc trở về, bà lại trú chân ở tại thị trấn nọ và sau nhiều ngày thông gian với tình nhân, bà trở về thành Kosala. Chẳng bao lâu sau, bà lấy cớ này cớ nọ để đi thăm con, bà xin phép vua và đến ở nửa tháng trong thị trấn kia để thông gian với tình nhân. Bọn nữ nhi đầy tội lỗi và giả dối như vậy đó.

Trong khi kể chuyện quá khứ này, ngài bắt đầu với những lời: “Chuyện này cũng có ý nghĩa ấy.”

Về sau với nhiều cách biểu lộ sự khéo léo trong khi thuyết Pháp, ngài nói:

– Này hiền hữu Punnamukha, có bốn thứ tỏ ra tai hại khi gặp hoàn cảnh; ta bảo bốn thứ này không được đặt vào nhà láng giềng, đó là: bò đực, bò cái, cỗ xe và vợ. Một người có trí phải tránh xa việc này ra khỏi nhà mình:

7- 8. Chớ cho hàng xóm mượn bò xe,
Chớ gửi vợ ta đến bạn bè,
Bò đực chết vì làm quá độ,
Phá xe vì chúng thiếu tay nghề,
Sữa bò cái vắt cho khô cạn,
Vợ đến bà con hỏng thói lề!

Này hiền hữu Punnamukha, có sáu điều tỏ ra tai hại khi gặp hoàn cảnh: một cái cung thiếu dây, một cô vợ ở gia đình bà con, một chiếc thuyền (không lái), một chiếc xe gãy trục, một bạn thân vắng mặt, một bạn đường độc ác, đôi khi thật tai hại.

Này hiền hữu Punnamukha, thật vậy, có tám duyên cớ khiến đàn bà khinh bỉ chồng: đó là do nghèo khó bệnh tật, già cả, nghiện rượu, ngu đần, phóng túng, bôn ba đủ mọi thứ việc, xao lãng bổn phận đối với vợ. Thật vậy, đàn bà khinh bỉ chồng mình vì tám duyên cớ ấy.

Ở đây lại thêm vần kệ này:

  1. Bệnh, nghèo, già, nghiện rượu, buông lung,
    Việc quá bôn ba, hoặc độn đần,
    Hoặc thấy chồng không lo bổn phận,
    Vợ thường chẳng trọng đấng phu quân.

Thật vậy, do chín nguyên nhân này, một nữ nhân phạm lỗi lầm: giả sử nàng thích lui tới các công viên, vườn hoa, bờ sông, thích thăm viếng nhà bà con hoặc người xa lạ, ham mê trangđiểm y phục của hạng quý phái, hoặc nàng nghiện rượu mạnh, ưa nhìn quanh quẩn bên mình, hoặc đứng tựa cửa, thì này ta bảo, do chín duyên cớ này, một nữ nhân phạm lỗi lầm.

Ở đây lại thêm vần kệ này:

  1. Đàn bà ưa mặc áo quần sang,
    Nghiện rượu, rong chơi, dạ vẫn ham
    Vườn cảnh, công viên, trên bến nước,
    Đến nhà người lạ hoặc thân bằng.
    Nàng thường đến đứng bên khung cửa,
    Lơ đãng nhìn quanh quẩn mặt đàng,
    Theo chín cách này hư hỏng sớm,
    Lạc xa đường đức hạnh hiền lương
    .

Thật vậy, này hiền hữu Punnamukha, nữ nhân làm xiêu lòng nam nhi bằng bốn mươi cách khác nhau: Nàng uốn người lên, nàng cong người xuống, nàng nhảy tung tăng, nàng làm vẻ e thẹn, nàng bóp chặt các đầu ngón tay, nàng đặt chân này lên chân kia, nàng lấy que cào mặt đất, nàng tung chàng trai lên rồi hạ xuống, nàng nô đùa và khiến chàng trai nô đùa, nàng hôn chàng và bảo chàng hôn nàng, nàng ăn và cho chàng ăn, nàng trao tặng hoặc cầu xin vật gì đó, nàng nhại lại những gì chàng làm, nàng nói với giọng lúc bổng lúc trầm, nàng cất tiếng khi rõ ràng khi khó hiểu, nàng lôi cuốn chàng bằng múa ca đàn địch, bằng những giọt nước mắt hay cách làm dáng, hoặc với áo quần lộng lẫy, nàng cười cợt hay trừng mắt, nàng rủ áo hay vén xiêm, khoe đùi ra hoặc che đùi lại, nàng khoe ngực khoe nách, khoe rốn, nàng nhắm mắt, nàng nhướng mày, nàng mím môi, nàng lè lưỡi, nàng thả lỏng hay kéo sát xiêm y, nàng buông lơi hay quấn chặt khăn trùm đầu. Quả thật nàng lôi cuốn nam nhi bằng bốn mươi cách này.

Thật vậy này hiền hữu Punnamukha, một nữ nhân hư đốn được biết rõ qua hai mươi lăm cách khác nhau: nàng ca ngợi việc chồng nàng vắng mặt, nàng chẳng thích chồng trở về, nàng chê bai chồng, nàng không lên tiếng khen chồng, nàng làm thương tổn chồng, và không làm lợi ích chồng, nàng làm những việc có hại cho chồng chứ không muốn làm gì giúp đỡ chồng, nàng mặc cả xiêm y lúc đi ngủ và nằm ngoảnh mặt làm ngơ chồng, nàng lăn lóc qua lại, gây chuyện ầm ĩ, thở dài sườn sượt, kêu đau nhức mình mẩy, thường hay đi tiểu tiện, xử sự mất nết, hễ nghe tiếng người lạ, nàng chổng tai chăm chú, nàng phung phí tài sản của chồng, nàng giao du thân mật với bạn hàng xóm, nàng hay đi lang thang ra ngoài, thơ thẩn dạo phố, nàng phạm tội ngoại tình, vì khinh bỉ chồng, nàng có nhiều tư tưởng xấu xa trong lòng.

Quả thật, này hiền hữu Punnamukha, một nữ nhân hư hỏng được biết qua hai mươi lăm cách này.

Và đây lại thêm các vần kệ cảm thán:

  1. Đồng tình sự vắng mặt phu quân
    Chàng bước ra đi, chẳng não lòng,
    Dạ chẳng vui mừng chàng trở lại,
    Chẳng bao giờ tán thán công chồng,
    Đây là dấu hiệu nêu cho rõ
    Lề thói thông thường ác nữ nhân.
  2. Bất tuân, tính kế hại phu quân,
    Làm việc không nên, bỏ lợi chồng.
    Mặt ngoảnh đi, nàng nằm xuống ngủ
    Bên chàng, xiêm áo phủ hoàn toàn,
    Đây là dấu hiệu nàng hư đốn
    Chắc chắn lộ ra thật rõ ràng.
  3. Trằn trọc, chẳng nằm một lát yên,
    Thở dài sườn sượt, lại kêu rên,
    Hoặc nàng cứ giả vờ đau bụng,
    Như muốn tiểu, nàng vẫn đứng lên,
    Các dấu hiệu này người thấy rõ
    Tính tình của phụ nữ hư hèn.
  4. Độc ác trong hành động của nàng,
    Nàng làm những việc phải can ngăn,
    Nghe lời người lạ cầu ân huệ,
    Tài sản chồng, nàng thật phí hoang
    Để được ngoại tình, là dấu hiệu
    Mọi người thấy rõ tính tà gian.
  5. Bạc vàng góp nhặt bởi công chồng,
    Đồ đạc chất đầy thật khổ thân,
    Nàng phí phạm nhanh, cùng lối xóm
    Nàng thân mật quá độ dần dần,
    Chính nhờ dấu hiệu này ta biết
    Tính nết gian tà của nữ nhân.
  6. Hãy ngắm nàng đi dạo phố phường,
    Phủ phàng đối xử với phu quân
    Khinh khi thô lỗ nhất trần thế,
    Chẳng ngớt ngoại tình, loạn trí tâm.
    Nhờ dấu hiệu này, ta thấy rõ
    Bọn hồng quần quả thật tà gian.
  7. Nàng vẫn đứng ngay trước cửa nàng
    Coi thường mọi phép tắc đoan trang,
    Khoe thân trơ trẽn cho hành khách,
    Buồn bực nhìn quanh quẩn mọi phương,
    Các dấu hiệu này cho thấy rõ
    Thói tà gian của bọn hồng quần.
  8. Như rừng cây được gỗ làm thành,
    Như các dòng sông chảy uốn quanh,
    Vậy cứ tạo thời cơ thuận tiện,
    Nữ nhân đều lạc lối vô minh.
  9. Tạo nơi kín đáo, hợp thời cơ,
    Con đường đức hạnh phải rời xa,
    Nữ nhân tất cả đều hư đốn
    Nếu có chốn nơi, lại đúng giờ
    Ví các tình nhân kia chẳng đến,
    Chúng liền phạm tội với tên gù.
  10. Đàn bà phục vụ thú đàn ông,
    Chớ một ai tin bọn nữ nhân,
    Lòng dạ chúng thường thay đổi mãi,
    Dục tham chúng lại cứ buông lung.
    Nữ nhân xứng gọi người cầu lạc
    Hèn mạt nhất trong đám hạ tầng,
    Chúng vẫn giống như là bến tắm
    Thường chung chạ với mọi nam nhân.
    Hơn nữa, Ngài lại kể:

*

Chuyện vương hậu Kinnarà

Ngày xưa tại Ba-la-nại, có vị vua tên là Kandan rất khôi ngô tuấn tú, hằng ngày các cận thần đem đến dâng một ngàn hộp nước hoa. Với nước hoa này, họ làm cho cung điện thật cao sang thanh lịch. Sau đó họ chẻ các hộp ấy nhóm lửa thơm ngát và nấu thức ăn với lửa ấy.

Bấy giờ vương hậu là một nữ nhân diễm lệ có tên Kinnarà và vị tế sư của vua là Pañncalacanda, cùng tuổi với vua và rất thông tuệ. Phía trong bức tường cạnh cung vua có một cây hồng đào, cành lá sà xuống tận bức tường và một tên què dị dạng gớm ghiếc sống ở dưới bóng cây ấy.

Một hôm vương hậu Kinnarà nhìn ra cửa sổ thấy gã, liền đem lòng say mê gã. Ban đêm, sau khi đã chiếm được sự sủng ái của vua nhờ các tài quyến rũ của bà, vừa khi vua ngủ say, và thường rón rén đứng dậy sắp đặt mọi thứ cao lương mỹ vị vào một cái bát bằng vàng và đeo nó bên hông, bà hoàng đu mình qua cửa sổ nhờ một sợi dây vải, trèo lên cây hồng đào và buông mình xuống bằng một nhánh cây, bà đưa cao lương mỹ vị cho gã què ăn rồi giao hoan với gã, xong bà lại trèo lên cung điện theo cách bà đã đi xuống. Sau khi tắm gội toàn thân bằng nước hương, bà liền nằm xuống bên cạnh vua.

Theo cách này, bà thường xuyên phạm tà hạnh với gã què và vua không biết tý gì cả.

Một ngày kia, sau một lễ hội oai nghi diễu quanh kinh thành, vua đi vào cung chợt thấy tên què kia, một sinh vật đáng thương đang nằm dưới bóng cây hồng đào, và vua bảo vị tế sư:

– Khanh hãy nhìn con ma trên đất này.

– Tâu Đại vương, truyền việc gì chăng?

– Này hiền hữu, có thể nào một nữ nhân bị dục tình kích động lại muốn đến gần một sinh vật đáng ghê tởm như thế này chăng?

Nghe lời vua phán, gã què tràn đầy kiêu mạn suy nghĩ: “Vua này nói gì thế? Có lẽ vua không biết tý nào về việc hoàng hậu đến thăm ta”. Rồi chắp hai tay về phía cây hồng đào, gã la to:

– Tâu vị thần hộ mạng cây này, trừ ngài ra, không ai biết chuyện ấy cả.

Vị tế sư thấy hành vi của gã, nghĩ thầm: “Chắc chắn chánh hậu của vua nhờ cây này giúp đi xuống phạm tà hạnh với gã”.

Vì thế vị ấy tâu với vua:

– Tâu Đại vương, ban đêm Đại vương tiếp xúc với thân thể chánh hậu thì thấy như thế nào?

– Ta không nhận thấy gì cả – Vua đáp – Song vào canh giữa thân thể bà lạnh lắm.

– Thế thì tâu Đại vương, dù trường hợp các nữ nhân khác ra sao đi nữa, chánh hậu Kinnarà cũng đã thông gian với gã kia.

– Hiền hữu nói gì thế này? Lẽ nào một nữ nhân diễm lệ thế kia lại hành lạc cùng với con vật gớm ghiếc này ư?

– Vậy thì tâu Đại vương, ta thử tìm chứng cớ chuyện này.

– Trẫm chấp thuận – Nhà vua bảo.

Và sau buổi cơm tối, vua nằm xuống cạnh bà để thử việc kia. Vào giờ ngủ như thường lệ, vua giả vờ ngủ say và bà cũng hành động như trước. Vua muốn theo dõi bước chân bà, liền đứng nấp trong bóng cây hồng đào. Tên què đang giận dữ với bà hoàng và bảo:

– Tối nay nàng đến chậm quá.

Rồi gã lấy tay đánh vào chiếc vòng tai của bà, vì thế bà đáp:

– Xin lang quân chớ giận. Thiếp phải chờ nhà vua ngủ say đã chứ.

Nói vậy xong, bà làm mọi việc như thể đóng vai một người vợ trong nhà gã què. Nhưng khi gãđánh bà, chiếc vòng tai có hình đầu sư tử, rời khỏi tai bà rớt xuống chân vua. Nhà vua nghĩ thầm: “Chính cái này sẽ là vật tuyệt diệu cho ta”. Rồi vua lượm chiếc vòng dấu đi.

Sau khi phạm tà dục với tình nhân, bà trở về như trước và đi vào nằm cạnh vua. Nhà vua khước từ mọi điệu bộ gợi tình của bà và ngày hôm sau, vua truyền lệnh:

– Hoàng hậu Kinarà phải đến chầu và mang theo mọi món trang sức trẫm đã ban.

Bà đáp:

– Món nữ trang có hình đầu sư tử của ta đang để ở tiệm vàng.

Và bà từ chối đi diện kiến.

Khi lệnh vua ban ra lần thứ hai, bà đến với một chiếc hoa tai độc nhất.

Nhà vua hỏi:

– Hoa tai kia của khanh đâu?

– Ở tiệm vàng.

Vua truyền người thợ vàng đến, phán:

– Tại sao ngươi không để hoàng hậu đeo hoa tai?

– Tâu Đại vương, hạ thần không giữ hoa tai ấy.

Nhà vua nổi cơn thịnh nộ, bảo:

– Này con tiện tỳ hư đốn kia, gã thợ vàng của ngươi chắc hẳn là một người giống như ta.

Nói vậy xong, vua ném chiếc hoa tai ấy xuống trước mặt bà và bảo vị tế sư:

– Này hiền hữu, khanh đã nói đúng, hãy đi bảo chém đầu nó ngay.

Vị ấy liền đem bà giấu ở một nơi an toàn trong cung, và đến tâu trình vua:

– Tâu Đại vương, xin chớ giận hoàng hậu Kinnarà, mọi nữ nhân đều như vậy cả. Nếu Đại vương muốn thấy bọn nữ nhân vô đạo ra sao, hạ thần sẽ chỉ cho Đại vương thấy tính gian tà và lừa dối của chúng. Thôi, ta hãy cải trang và vi hành xuống thôn quê.

Nhà vua sẵn sàng chấp thuận, giao vương quốc cho mẫu hậu rồi lên đường ngao du với vị tế sư.

Khi hai vị đã đi một dặm đường và ngồi bên đường cái, thì một phú gia nọ đang mở hội đám rước dâu cho con trai, đã đặt cô dâu ngồi vào một cỗ xe đóng kín và hộ tống nàng với mộtđoàn tùy tùng rầm rộ. Khi thấy đám này, vị tế sư nói:

– Nếu Đại vương muốn, ngài có thể làm cho cô gái này thông gian với ngài.

– Này hiền hữu, khanh nói gì thế? Với cả đoàn tùy tùng rầm rộ này, làm sao có chuyện ấy được?

– Vậy thì xin Đại vương hãy nhìn đây.

Rồi tiến lên phía trước, ông dựng lên một bức màn giống như một túp lều không xa đường cái, để vua ở trong màn, còn chính ông ngồi bên đường khóc lóc. Lúc ấy vị phú ông thấy vậy liền hỏi:

– Tại sao hiền hữu khóc?

Ông đáp:

– Tiện nội đang thai nghén nặng nề nên tiểu đệ lên đường đưa nàng về nhà mẹ, đang lúc đi đường nàng lên cơn đau đớn khổ sở trong bức màn kia, và nàng lại không có người phụ nữ nào ở bên nàng, còn tiểu đệ thì không thể vào đó với nàng được. Tiểu đệ không biết việc sẽ ra sao nữa.

– Nàng phải có một người đàn bà ở bên cạnh. Thôi đừng khóc nữa. Ở đây có nhiều đàn bà lắm. Một người trong bọn sẽ đến với nàng.

– Vậy thì xin để tiểu thư này vào. Đây sẽ là điềm lành cho tiểu thư.

Phú ông nghĩ thầm: “Người kia nói đúng đấy. Đây sẽ là việc lành cho con dâu ta. Nó sẽ được phước sinh ra vô số con trai con gái”. Rồi ông đưa nàng vào trong đó.

Vừa bước vào màn, thoạt trông thấy vua, nàng đã say mê và phạm tà hạnh với vua, rồi vua tặng nàng một chiếc nhẫn có dấu hiệu riêng của mình.

Khi việc ấy đã xong và nàng bước ra khỏi liều, chúng bạn hỏi:

– Bà ấy sinh con gì thế?

– Một cậu trai sắc vàng óng!

Thế rồi vị phú ông đem nàng đi mất. Vị tế sư đến gặp nhà vua và nói:

– Tâu Đại vương, ngài vừa thấy ngay cả một thiếu nữ cũng đã hư hỏng như vậy. Còn nói gì các nữ nhân khác càng hư hỏng đến đâu? Xin Đại vương cho biết ngài có ban nàng vật gì không?

– Có ta ban nàng chiếc nhẫn có tín hiệu riêng của ta.

– Hạ thần quyết không cho nàng giữ vật ấy đâu.

Ông liền vội vã chạy theo bắt kịp chiếc xe và khi bọn họ hỏi:

– Thế này là nghĩa lý gì?

Ông đáp:

– Cô tiểu thư này ra đi với chiếc nhẫn mà tiện nội Bà-la-môn đặt trên gối của nàng, vậy tiểu thư hãy trả chiếc nhẫn lại đi.

Khi trao nhẫn lại, nàng cào tay vị Bà-la-môn và nói:

– Hãy cầm lấy, quân đểu giả!

Như vậy vị Bà-la-môn này dùng đủ mọi cách nêu cho vua thấy nhiều nữ nhân khác cũng phạm tà dâm rồi nói:

– Tâu Đại vương, thế này là đủ rồi. Chúng ta sẽ đi nơi khác thôi.

Vua đi khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Độ) và hai vị bảo nhau:

– Tất cả nữ nhân đều giống hệt nhau. Chúng có nghĩa gì với ta đâu? Thôi ta hãy quay về đi.

Thế rồi hai vị đi thẳng về nhà ở Bà-la-nại. Vị tế sư nói:

– Tâu Đại vương, mọi nữ nhân đều như thế cả; bản chất của chúng đều gian tà. Xin ngài tha tội cho chánh hậu Kinnarà.

Thể theo lời khẩn cầu của vị tế sư, vua tha tội cho bà, song truyền đuổi bà ra khỏi cung. Khi vua đã tống bà ra khỏi cung rồi, vua chọn một vương hậu khác và truyền lệnh đuổi luôn tên què cùng chặt nhánh cây hồng đào bỏ đi.

Vào thời ấy chúa chim Kunàla là Pañcàlacanda. Vì thế khi kể lại chuyện ngài đã chứng kiến tận mắt, ngài ngâm kệ để chứng minh:

  1. Từ chuyện Kin-na, Kan-da vương
    Có nhiều việc tỏ lộ ra rằng:
    Nữ nhân tất cả đều không thấy
    Thích thú trong nhà chúng trú an;
    Người vợ bỏ rơi chồng cách ấy,
    Dù chồng thắm thiết lại hùng cường,
    Vẫn thường đi với đàn ông khác,
    Ngay với gã què cũng lạc đường.

*

Chuyện vương hậu Pañcapàpà

Đây là một chuyện khác nữa: Ngày xưa vị vua Bà-la-nại mệnh danh là Baka cai trị vương quốc đúng chánh pháp. Thời ấy một người đàn ông nghèo khổ sống ở Đông môn thành Ba-la-nại sinh được một gái đặt tên là Pañcapàpà. Chuyện kể rằng trong một đời quá khứ nàng làm con gái nhà nghèo nhào trộn đất sét để đắp tường. Lúc ấy một vị Độc Giác Phật suy nghĩ: “Ta phải tìm đất sét ở đâu để đắp hang núi này cho sạch sẽ gọn gàng? Có thể ta tìm được ở Ba-la-nại”.

Vị ấy liền đắp y, cầm bình bát trong tay đi vào kinh thành và đứng không xa nữ nhân này. Nàng tức giận nhìn vị ấy, nghĩ thầm: “Trong tâm địa xấu xa của y chắc đang cầu xin cả đất sét lẫn thức ăn”. Vị Độc Giác Phật vẫn đứng bất động. Vì thế khi nàng thấy vị ấy đứng yên, nàng hồi tâm, nhìn vị ấy một lần nữa và nói:

– Bạnh Tôn giả, ngài chưa có đất sét.

Rồi nàng lấy một cục đất lớn đặt vào bình bát và với cục đất sét này, vị ấy làm cho một vật trong hang được gọn gàng. Và phần thưởng dành cho cục đất sét ấy là thân thể nàng trở nên êm dịu lúc tiếp xúc, nhưng hậu quả của nét mặt giận dữ kia là tay chân, mồm, mắt, mũi nàng trở nên xấu xí dị dạng, vì thế quần chúng biết nàng qua biệt hiệu Pañcapapà (Ngũ ác tật).

Bấy giờ vua Ba-la-nại có dịp du hành quanh kinh thành ban đêm và khi đi đến chốn này, nàng đang nô đùa với các thôn nữ khác, và vì không biết đó là vua, nàng nắm lấy tay vua. Kết quả việc xúc chạm với nàng là vua mất hết tự chủ và như thể bị rúng động vì xúc chạm với thần tiên, lòng rạo rực dục tình, vua nắm lấy tay nàng mặc dù nàng trông thật xấu xí dị dạng, và hỏi nàng là con gái nhà ai. Nàng đáp:

– Con gái một người cư ngụ bên cổng thành.

Và nghe nàng chưa có chồng, vua bảo:

– Ta sẽ là chồng nàng. Hãy đi xin phép cha mẹ chấp thuận.

Nàng đến gặp cha mẹ và nói:

– Có một anh chàng muốn cưới con làm vợ.

Khi cha mẹ đồng ý và bảo:

– Chắc người kia cũng nghèo khó tội nghiệp lắm mới muốn cưới cô gái như con.

Nàng đến báo tin cho nhà vua biết cha mẹ nàng đã bằng lòng.

Thế rồi vua ở chung với nàng ngay trong chính nhà ấy, và tảng sáng hôm sau lại tìm về cung. Tứ hôm ấy, vua thường cải trang đến đó và không còn quan tâm nhiều đến bất cứ nữ nhân nào khác.

Bấy giờ một hôm cha nàng mắc bệnh lên máu. Liều thuốc chữa bệnh cho là thường xuyên cung cấp cháo nấu với sữa, lạc, mật ong và đường. Song vì nhà nghèo, họ không thể kiếm đâu ra món ấy. Sau đó bà mẹ bảo con gái:

– Này con, chồng con có thể kiếm cho ta một ít cháo này chăng?

Nàng đáp:

– Mẹ ơi, chồng con chắc còn nghèo hơn ta nữa, song dù vậy, con cũng sẽ hỏi chàng, mẹ đừng lo gì.

Nói thế xong, vào lúc vua trở về, nàng ngồi xuống như thể đang buồn bực. Khi vua đến hỏi tại sao nàng buồn như vậy và nghe chuyện ấy, vua bảo:

– Này hiền thê, thế khi nào ta sẽ phải đem về món thuốc công hiệu này?

Rồi vua suy nghĩ: “Ta không thể tiếp tục đến đây bằng cách này mãi được, ta phải xem xét nỗi hiểm nguy vì cứ đi lui đi tới thế này. Song nếu ta đưa nàng về triều, quần thần không biết nàng có được làn da xúc chạm êm dịu, họ sẽ chế nhạo ta và nói: “Đức vua đem về một con quỷ cái”. Còn nếu ta để cho cả kinh thành biết được xúc giác êm dịu ấy của nàng thì ta sẽ gạt bỏ hết mọi lời chê bai chống đối ta”Vì thế vua bảo nàng:

– Này ái thê, thôi đừng buồn bực nữa. Ta sẽ đem cho cha nàng một ít cháo ấy.

Nói xong, sau khi hưởng lạc thú cùng nàng, vua trở về cung. Hôm sau vua bảo nấu món cháo như nàng đã tả và lấy lá kết thành hai cái giỏ, một giỏ đựng cháo gạo và trong giỏ kia vua đặt một vương miện bằng ngọc rồi buộc chặt chúng lại.

Ban đêm vua đến bảo nàng:

– Này ái thê, chúng ta nghèo lắm. Phải khó khăn vất vả lắm ta mới kiếm được cháo này. Nàng phải dặn cha nàng: “Hôm nay ăn cháo trong giỏ này; ngày mai giỏ kia”.

Nàng làm theo lời dặn. Còn cha nàng, sau khi ăn một ít cháo đã thấy thỏa mãn ngay nhờ các chất bổ dưỡng tăng dần sinh lực, phần còn lại nàng đưa cho mẹ và chính nàng cũng ăn một phần, nên cả ba đều cảm thấy vô cùng sung sướng, còn cái giỏ đựng vương miện bảo ngọc ấy, họ để dành cho nhu cầu hôm sau.

Khi về cung thất, vua rửa mặt và bảo:

– Hãy đem vương niệm của trẫm đến đây.

Quần hầu đáp:

– Chúng thần không tìm ra vương miện.

Vua phán:

– Hãy đi tìm khắp kinh thành.

Họ đi tìm nhưng vẫn không thấy đâu cả. Vua phán:

– Thôi được, hãy đi tìm trong các nhà nghèo ngoại thành, bắt đầu từ các giỏ lá đựng thức ăn.

Họ đi tìm và thấy vương miện bảo châu trong nhà này, liền la lên:

– Cha mẹ của cô nàng này là bọn trộm!

Họ trói cả hai và đem đến trình vua. Lúc ấy cha nàng thưa:

– Tâu Chúa thượng, chúng thần không phải bọn trộm, có một ngươi đã mang cho chúng thần bảo vật này.

– Ai thế? Vua hỏi.

– Con rể của thần – Lão đáp.

Khi được hỏi người ấy ở đâu, lão đáp:

– Tiện nữ biết.

Rồi lão nói chuyện với nàng:

– Này con, con biết chồng con là ai chứ?

– Con không biết.

– Nếu vậy thì chúng ta tiêu đời rồi!

– Thưa cha, chàng đến lúc trời tối và đi trước khi trời sáng, vì vậy con không biết hình dáng chàng, nhưng con có thể nhận ra chàng bằng cách nắm tay chàng.

Cha nàng kể việc này với các quan và họ tâu trình vua. Vua giả vờ không biết gì về việc này và phán:

– Được hãy để nữ nhân này ở trong bức màn ở sân chầu, và đục một lỗ trên màn lớn bằng bàn tay đàn ông rồi gọi dân chúng đến đây để tìm cho ra tên trộm bằng cách chạm vào tay nó.

Quần thần làm theo lệnh vua. Khi đến gặp nàng và thấy nàng như vậy, họ đều ghê tởm bảo nhau:

– Nó là con quỷ cái.

Trong nỗi ghê tởm, họ không dám đụng vào nàng. Nhưng họ cũng đưa nàng đặt vào trong bức màn ở sân chầu và tập họp dân chúng lại. Khi cầm tay mỗi người đến dang qua lỗ hỏng, nàng bảo:

– Không phải người này.

Dân chúng đều say mê vì sự xúc chạm thần tiên của nàng nên không thể bỏ đi được. Họ suy nghĩ: “Nếu nàng ấy đáng bị trừng phạt thì dù chúng ta phải lấy gậy đánh nàng, chúng ta cũng sẵn sàng chịu đựng mọi việc phục dịch của bọn tôi đòi vì nàng và rước nàng về nhà làm vợ chánh”.

Sau đó quân hầu của vua đánh đuổi bọn họ đi thì tất cả quần chúng bắt đầu từ vị phó vương đều làm như lũ người điên. Lúc ấy vua bảo:

– Thế trẫm có thể là người ấy chăng?

Rồi vua dang tay ra. Người đàn bà ấy nắm lấy tay vua và la to:

– Ta đã bắt được tên trộm?

Vua hỏi quần thần:

– Khi tay các khanh được nàng ấy nắm, các khanh nghĩ sao?

Họ tâu vua giống hệt cảm giác họ đã nhận được. Vì thế vua phán:

– Do duyên cớ này trẫm đã bảo chúng đưa nàng về cung. Nếu dân chúng không biết gì về xúc giác của nàng, họ sẽ khinh chê trẫm. Này các khanh đã biết mọi sự thật nhờ trẫm, vậy hãy nói ra nàng ấy nên ở nhà ai để làm vợ?

Quần thần đáp:

– Tâu Ðại vương, ở cung của Ðại vương.

Thế rồi cử hành lễ quán đảnh, vua phong nàng làm chánh hậu và ban cho cha mẹ nàng quyền cao chức trọng. Từ đó về sau, vì say mê nàng, vua không bảo tiến hành điều tra về nàng, cũng chẳng ngó ngàng đến nữ nhân nào khác. Các vương phi kia tìm cách khám phá điều bí mật liên quan đến nàng.

Một hôm, nàng nằm mộng thấy điềm nàng làm chánh hậu của hai vị vua, liền kể giấc mộng ấy với vua. Vua triệu các người giải mộng đến hỏi:

– Giấc mộng chánh hậu thấy như vậy có nghĩa gì?

Bấy giờ bọn họ đã nhận hối lộ từ các vương phi kia, liền thưa:

– Việc chánh hậu ngồi trên lưng voi toàn trắng là dấu hiệu Ðại vương băng hà, và việc lệnh bà sờ mặt trăng trong khi cỡi trên lưng voi là dấu hiệu bà đưa một vị địch vương đến chống Ðại vương.

– Vậy phải làm gì bây giời? Vua hỏi.

– Ðại vương không thể xử tử bà, nhưng Ðại vương phải đặt bà lên chiếc thuyền và đẩy xuống cho trôi sông.

Ban đêm, vua sai đặt nàng lên thuyền cùng thức ăn, áo quần và đồ nữ trang rồi đẩy nàng trôi theo dòng. Trong khi nàng được dòng nước cuốn đi trên thuyền, nàng đến diện kiến vua Pàvàriya, lúc ấy đang du hí trong dòng nước.

Vị đại tướng của vua thấy chiếc thuyền liền hỏi:

– Chiếc thuyền này thuộc về ta.

Vua bảo:

– Hàng hóa trên thuyền thuộc về trẫm.

Khi chiếc thuyền đến gần, hai vị thấy nữ nhân kia và vua hỏi:

– Ngươi là ai mà giống như quỷ cái thế?

Nàng mỉm cười đáp nàng là chánh hậu của vua Baka rồi kể cho vua nghe tất cả chuyện đời nàng, rằng nàng lừng danh khắp cõi Diêm-phù-đề với biệt hiệu Ngũ ác tật. Lúc ấy vua nắm tay nàng nhấc ra khỏi thuyền, vừa cầm bàn tay nàng, vua liền thấy rạo rực say mê vì sự xúc chạm ấy, bởi thế các cung tần mỹ nữ của vua chẳng còn được xem là xứng đáng với danh hiệu nữ nhân nữa, vua liền tôn nàng lên địa vị chánh hậu và nàng được vua sủng ái như chính bản thân của vua vậy.

Khi vua Baka nghe mọi chuyện đã xảy ra liền bảo:

– Ta không cho phép vua ấy phong nàng làm chánh hậu đâu.

Rồi truyền triệu tập quân sĩ, vua đến đóng quân ở một cảng đối diện bên kia sông, gửi thôngđiệp với mục đích là bảo vua Pàvàriya hoặc phải giao trả vị chánh hậu của mình hoặc ứng chiến.

Vị địch vương kia sẵn sàng lâm trận, nhưng các quân sư của cả hai vua đều nói:

– Không cần phải chết vì một nữ nhân. Bà ấy thuộc về vua Baka vì đó là phu quân đầu tiên của bà, song bà ấy lại thuộc về vua Pàvàriya vì vua này đã cứu bà ra khỏi chiếc thuyền. Do vậy hãy để bà ấy ở trong khoảng thời gian bảy ngày tại cung của mỗi vị vua.

Sau khi bàn luận kỹ lưỡng, họ thuyết phục hai vị vua đồng ý quan điểm này và cả hai đều vô cùng hoan hỷ, bảo xây kinh thành ở hai bờ đối diện của sông ấy và ngự đến ở đó, còn nữ nhân ấy nhận địa vị chánh hậu của cả hai vua, và cả hai đều say mê nàng.

Bấy giờ nàng ở bảy ngày cùng một vị vua, rồi nàng lên thuyền qua sông đến cung của vị kia, và lúc ở giữa dòng, nàng lại phạm tà hạnh với tên lái thuyền là một lão già vừa hói vừa què.

Thời ấy chúa chim Kunàla là vua Ba ka, nên ngài kể chuyện này như việc do chính mắt ngài trông thấy, và ngài ngâm kệ để chứng minh điều này:

  1. Pà-và chánh hậu, Ba-ka vương,
    Tham dục hai vua thật khó lường,
    Tuy thế, nàng kia còn phạm tội
    Với tên nô lệ của chồng nàng.
    Vậy còn tên hạ tiện nào khác
    Nàng lại không mong thuốn phạm gian?

*

Chuyện vương hậu Pingiyànĩ.

Tuy nhiên còn một chuyện khác nữa:

Ngày xưa, vương hậu của vua Brahamadata, mệnh danh là Pingiyànĩ, mở cửa sổ nhìn ra và thấy một người giữ ngựa của hoàng gia. Ðến khi vua đã ngủ say, nàng trèo xuống qua cửa sổ, phạm tà dục với y rồi lại trèo lên cung điện, tắm rửa toàn thân với đủ loại nước hoa và nằm xuống cạnh vua. Bấy giờ một hôm, vua suy nghĩ: “Ta không biết vì sao vào lúc nửa đêm, thân thể hoàng hậu luôn giá lạnh, ta muốn xem xét vấn đề này”.

Vì thế một ngày kia, vua giả vờ ngủ rồi trở dậy đi theo nàng và thấy nàng phạm tà hạnh với gã giữ ngựa. Vua trở về bước lên nội cung và nàng cũng vậy, sau khi phạm tội ngoại tình, liền trở vào nằm trên chiếc giường đẩy.

Hôm sau, trước mặt quần thần, vua triệu nàng vào chầu rồi công bố tà hạnh của nàng và phán:

– Tất cả đàn bà đều tội lỗi như thế cả.

Rồi mặc dù tội ấy đáng hành hình, tù đày, xẻo thịt, hoặc phanh thây, vua vẫn tha tội cho nàng, nhưng vua lại truất phế nàng khỏi ngôi cao và phong một nữ nhân khác làm chánh hậu.

Vào thời ấy chúa chim Kunàla là vua Brahmadatta, vì thế chính ngài kể chuyện này như một việc ngài đã thấy tận mắt và ngài ngâm kệ để chứng minh:

  1. Kiều nữ Ping-ya, ái hậu vua
    Brah-ma-dat ngự trị sơn hà,
    Tuy nhiên, nàng với tên nô lệ,
    Của đấng quân vương phạm dục tà,
    Do bởi hoang dâm, nàng mất hết
    Cả quân vương lẫn gã gia nô.

Sau khi kể tội lỗi của nữ giới trong các chuyện đời xưa, ngài lại nói về tà hạnh của họ bằng cách khác nữa:

  1. Hèn hạ, đổi thay ấy nữ nhân,
    Chúng còn bội nghĩa với vong ân
    Nam nhân, ví thử không si ám,
    Chẳng hạ cố tin chúng nói năng.
  2. Chúng ít quan tâm bổn phận mình,
    Hoặc lời kêu gọi của ân tình,
    Vô tâm trước tấm lòng cha mẹ,
    Hoặc mối buộc ràng của đệ huynh.
    Chúng đóng vai người không hổ thẹn
    Khi vi phạm luật lệ công bình,
    Mọi hành vi chúng đều tuân phục
    Ước vọng trong tâm của chính mình.
  3. Dù ở với chàng bao tháng năm,
    Dù chàng yêu dấu lại ân cần,
    Nồng nàn trong dạ và thân thiết
    Như chính đời chàng quả thật chân,
    Trong lúc gian lao và khốn khổ,
    Chúng đành lòng bỏ đức phu quân.
    Về phần ta chẳng bao giờ nữa
    Còn đặt lòng tin bọn nữ nhân.
  4. Tâm nữ nhân thường thấy đổi thay
    Như là loài vượn khỉ leo cây,
    Hoặc như tàn lá cây soi bóng
    Trên đỉnh non cao, vực thẳm dày.
    Chủ đích ở trong lòng nữ giới
    Sao cũng chập chờn cứ chuyển lay
    Như thể bánh xe lăn vút mãi
    Không hề có lúc nghỉ ngừng quay.
  5. Khi đã nghĩ suy thật kỹ càng,
    Chúng nhìn quanh quẩn kiếm tìm đàng
    Ðể đi bắt một người giàu có,
    Biến gã thành mồi của chúng săn,
    Những bọn dại khờ như vậy đó,
    Chúng dùng lời mặt ngọt chiêu hàng,
    Như chàng giữ ngựa miền Cam-bốt
    Dùng cỏ thơm câu ngựa dã man.
  6. Song nếu nhìn quanh thật kỹ càng
    Mà không tìm thấy được con đường
    Ðể mong chiếm đoạt phần tài sản
    Biến gã thành mồi của chúng săn,
    Chúng đuổi gã ngay như một kẻ
    Ðã lên bờ nọ lúc sang ngang,
    Tức thì bỏ mặc thuyền trôi dạt,
    Thuyền ấy từ đây chúng chẳng màng.
  7. Như ngọn lửa thiêu đốt bạo hung
    Chúng ôm ghì gã chặt trong lòng,
    Hoặc là đẩy gã như dòng nước
    Lũ lụt chảy cuồn cuộn tứ tung!
    Chúng tán tỉnh chàng nào chúng ghét
    Cũng nhiều như kẻ chúng tôn sùng,
    Như con thuyền vẫn thường kề sát
    Cả bến bờ xa lẫn bến gần!
  8. Chúng chẳng thuộc về một hoặc hai,
    Chúng như hàng quán mở ra mời;
    Người dùng lưới bắt nhanh làn gió,
    Như nữ nhân cầm giữ bọn trai.
  9. Như quán nước, sông suối, mặt đường,
    Hoặc như nhà trọ, sảnh công đường,
    Nữ nhân buông thả cùng tất cả,
    Tội chúng làm sao có thể lường!
  10. Ðộc hại như đầu rắn hổ đen,
    Tham mồi như ngọn lửa vừa nhen,
    Như bò lựa cỏ ngon lành nhất,
    Chúng muốn tình lang lắm của tiền!
  11. Tránh loài voi, rắn hổ đen mun,
    Ngọn lửa tưới bằng lạc cháy bùng,
    Người được phong vương và quán đảnh,
    Bọn hồng quần, phải chạy nhanh chân.
    Những ai biết sống luôn phòng hộ
    Xem các thứ này tựa địch quân.
    Quả thật chính là tâm địa chúng
    Làm sao biết rõ, khó vô cùng!
  12. Má hồng tài trì thật thông minh,
    Hay có hình dung tuyệt đẹp xinh,
    Và đám mày râu thường ái mộ,
    Bọn này ta phải tránh cho nhanh;
    Vợ người hàng xóm, cô nàng kiếm
    Một phú ông loan phượng hợp thành,
    Năm hạng nữ nhi này tất cả,
    Nam nhân không được kết ân tình!
  13. Dù một nam nhân chứa bạc vàng
    Cả trần gian để tặng riêng nàng
    Mà tim chàng vẫn yêu thương nhất,
    Nàng cũng làm ô nhục đến chàng,
    Nếu có thời cơ nào thuận tiện.
    Vậy nên cẩn thận kẻo e rằng
    Bạn sẽ rơi vào tay độc ác
    Của bọn người hèn hạ dối gian!
  14. Chàng phô dáng khỏe mạnh hùng cường,
    Không phạm lỗi lầm của thế gian,
    Chàng đến cầu hôn cô thiếu nữ,
    Chàng vừa tuấn tú lại yêu thương.
    Gặp cơn hoạn nạn và đau khổ,
    Nàng sẽ rời xa, sẽ bỏ chàng.
    Ta chẳng bao giờ tin tưởng chúng,
    Phần ta đối với bọn hồng nhan!
  15. Chàng chớ tin vì cứ nghĩ rằng:
    “Nàng yêu ta đó, đúng rồi chăng?”
    Chàng đừng tin lẽ thường nhi nữ
    Trước mặt chàng tuôn lệ ướt đầm!
  16. Chớ tin cái ổ lót cành khô
    Cùng các lá cây tự thuở xưa
    Người bạn ngày xưa, đừng tín nhiệm,
    Ngày nay có thể hóa người thù,
    Chớ tin vua chúa vì suy nghĩ:
    “Người ấy, bạn ta thuở trước giờ”
    Và chớ tin vào người phụ nữ
    Dù sinh cho bạn chục con thơ!
  17. Cầu lạc chính là bọn nữ nhân,
    Dục tham sao cứ mãi buông lung,
    Lũ người vi phạm nền luân lý,
    Bọn chúng, bạn đừng có cậy trông.
    Vợ cứ giả vờ trò luyến ái
    Bao la, vô hạn trước ông chồng,
    Chớ tin nàng ấy,vì nhi nữ
    Chung chạ như bao bến tắm sông!

41 . Sẵn sàng chém giết hoặc phân thây,
Không có việc gì chẳng nhúng tay,
Khi đã diễn xong trò cắt cổ,
Chúng còn uống máu của chàng ngay!
Bọn mày râu chớ say mê chúng,
Một lũ dục tham hạ liệt đầy,
Phóng đãng và còn chung chạ nữa
Như là bến tắm sông Hằng vầy!

  1. Lời nói chúng thường chẳng biệt phân
    Giữa điều chân thật với tà gian,
    Như bò lựa cỏ ngon lành nhất,
    Chúng kiếm tình nhân lắm bạc vàng.
  2. Dụ một chàng bằng mắt, nụ cười,
    Chàng kia bằng cách bước đi chơi,
    Giả trang lôi cuốn vài chàng nữa
    Ðám khác bằng câu chuyện ngọt bùi!
  3. Hung bạo, nhẫn tâm, lại bất lương,
    Song lời lẽ chúng ngọt như đường,
    Không gì bọn nữ nhi không biết
    Ðể gạt chàng nào chúng kết hôn!
  4. Quả thật đàn bà thảy ác gian,
    Việc ô nhục của chúng vô lường,
    Chúng đều tham đắm và liều lĩnh
    Thiêu đốt nhanh như ngọn lửa bừng.
  5. Nữ nhân chẳng phải được sinh ra
    Ðể thích người này, ghét kẻ kia,
    Chúng tán chàng nào mà chúng ghét
    Cũng nhiều như kẻ chúng tôn thờ,
    Như con thuyền vẫn thường kề sát
    Cả bến bờ gần lẫn bến bờ xa.
  6. Vì phải đâu là chuyện ghét thương
    Mà ta thường thấy ở hồng quần,
    Ðàn ông chúng bám vì vàng bạc
    Như bám vào cây, đám bọ trùng!
  7. Kẻ làm nghề đốt xác người ta,
    Hoặc quét hoa khô khỏi điện thờ,
    Hoặc gã giữ voi hay giữ ngựa,
    Ðến cùng là đứa giữ trâu bò,
    Tuy nhiên vì bạc tiền, nhi nữ
    Vẫn chạy theo phường hạ đẳng kia.
  8. Bỏ rơi quý tộc nếu nghèo nàn,
    Nhưng chính tên vô loại, hạ tầng,
    Ðối với tên này, như xác thối,
    Nếu giàu, chúng cũng chạy nhanh chân.

Như vậy, Ànanda, vị thứu vương, dựa theo những sự việc do chính ngài biết, đã nói về những tính xấu của nữ giới, rồi giữ im lặng. Còn Nàrada, sau khi nghe những gì Ngài cần phải nói, cũng dựa theo những việc chính mình biết, liền kể ra những tính xấu của họ.

Ðể chứng minh điều này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Thật vậy, lúc ấy Nàrada, khi nghe kể đoạn khởi đầu, đoạn giữa và đoạn cuối của câu chuyệnmà Ànanda, thứu vương cần phải nói ra, đến đây, liền ngâm các vần kệ này:

  1. Bốn vật chẳng hề biết thỏa thuê,
    Những lời ta nói, lắng tai nghe:
    Ðại dương, đạo sĩ và vua chúa,
    Hỡi Ðiểu vương, và bọn nữ nhi.
  2. Mọi dòng trong đất gặp quê hương
    Cũng chẳng làm đầy đủ đại dương,
    Vẫn có cái gì còn thiếu thốn,
    Dù cùng nước biển thảy hòa tan.
  3. Bà-la-môn thuộc các kinh thơ,
    Tri kiến theo truyền thuyết thuở xưa,
    Thánh kiến, tuy nhiên, còn thiếu thốn
    Và khao khát mãi, mãi chưa vừa.
  4. Vị vua chinh phục cõi trần ai,
    Tất cả núi đồi, các biển khơi,
    Có thể gọi kho tàng bất tận
    Chứa đầy tài sản của mình thôi,
    Vẫn mơ thế giới bên kia biển
    Vì nghĩ bên này quá nhỏ nhoi!
  5. Nhi nữ kết duyên với tám chồng
    Sẵn sàng tuân phục ý riêng nàng,
    Anh hùng gan dạ đầy tài giỏi
    Nhiệm vụ tình quân thảy vẹn toàn;
    Tuy vậy nàng yêu chàng thứ chín
    Bởi vì còn thiếu thốn trong lòng!
  6. Ðàn bà như lửa nuốt con mồi,
    Như nước lũ tuôn thảy cuốn trôi,
    Tai họa, gai đâm là bọn chúng,
    Chúng thường đi lạc kiếm vàng thôi!
  7. Chàng kia dùng lưới đón xuân phong,
    Hoặc chỉ một mình tát biển đông,
    Vỗ với một tay, xưa lại dám
    Ðể tâm tư hướng đến giai nhân!
  8. Ðối với quần thoa có trí tài,
    Thật chân là của quý trên đời,
    Tính tình phức tạp như tơ rối,
    Như thói các đàn cá biển khơi.
  9. Nói năng dịu ngọt, khó vừa lòng,
    Như thể khó đầy các lạch sông,
    Chúng lắng chìm dần, dần xuống mãi,
    Biết hồng quần, phải chạy nhanh chân!
  10. Hồng nhan phản bội khiến mê say,
    Ðệ nhất tịnh nhân phải đọa đày;
    Chúng cứ chìm dần, dần xuống mãi,
    Những ai biết chúng, phải xa bay!
  11. Bất kỳ chúng phục vụ đàn ông
    Vì bạc vàng, tham dục thỏa lòng,
    Chúng đốt gã như nhiên liệu cháy
    Ðược thả vào trong ngọn lửa hồng!

Khi Nàrada đã nêu ra các tội lỗi của nữ nhân như vậy, bậc Ðại Sĩ một lần nữa dùng những thí dụ đặc biệt chứng minh các tính xấu của họ.

*

Ðể làm sáng tỏ việc này, bậc Ðạo Sư nói:

– Thật vậy, chim chúa Kunàla, sau khi biết phần đầu, phần giữa và phần kết thúc câu chuyện Nàrada kể, đến đây liền ngâm các vần kệ sau:

  1. Người khôn dám nói một đôi lời
    Với quỷ cầm gươm sắc mới mài,
    Ðánh đập hung xà, song chớ bạo
    Chuyện trò với gái một mình thôi!
  2. Nữ sắc làm mờ trí tục nhân,
    Nói, cười, ca, múa, cánh tay trần
    Gây phiền lụy những tâm dao động,
    Như quỷ dữ xưa giết lái buôn.
  3. Ðắm say rượu thịt, cố hoài công
    Kiềm chế cơn thèm, nén dục tâm
    Như quái vật xưa trong biển cả
    Nuốt trôi tài sản của nam nhân.
  4. Chúng chiếm riêng tham dục ngũ phần,
    Buông lung kiêu mạn cứ tuôn tràn,
    Như sông tìm đại dương đi tới,
    Bọn phóng dật làm mồi nữ nhân.
  5. Trai tráng được nhi nữ thích ham,
    Ðộng tâm bởi nhục dục tham lam,
    Kẻ kia nung nấu vì cuồng vọng,
    Chúng đốt sạch trơn tựa lửa than!
  6. Kẻ nào nếu chúng biết giàu sang,
    Nhào đến cướp đi, trọn bạc vàng,
    Tay quấn chặt chàng bừng lửa dục,
    Như dây leo quấn chặt cành Sàl.
  7. Như trái vim-ba, miệng đỏ tươi,
    Dùng nhiều mưu kế hại con người,
    Khi thì cười lớn, khi cười nụ,
    Như quỷ sam-va, chúa bẫy mồi!
  8. Nữ nhi trang điểm đủ kim hoàn
    Ðược họ nhà trai đón thật sang,
    Cho dẫu được canh phòng cẩn mật,
    Vẫn thường phạm tội phản phu quân,
    Như nàng kiều nữ ngày xưa ấy
    Ðã được mang trong bụng quỷ nhân.
  9. Người có trí và thật nổi danh
    Ðược tôn sùng dưới mắt quần sinh,
    Tuy nhiên sa dưới quyền nhi nữ
    Sẽ không còn tươi sáng hiển vinh,
    Như cả vầng trăng vừa bị nuốt
    Bởi La-hầu đại lực yêu tinh.
  10. Cừu nhân trút hận xuống cừu nhân,
    Hay bạo chúa phô nỗi hận sân,
    Số phận còn đau hơn thế nữa
    Che mờ tất cả, bởi nguồn căn
    Dục tham, nên phải đành sa đọa
    Ở dưới quyền uy của nữ nhân.
  11. Bị hăm cào cấu khắp thân hình,
    Hoặc nắm tóc lôi kéo khỏi mình,
    Dọa quất bằng roi, hay gậy gộc,
    Hoặc là đấm đá khắp chung quanh,
    Nữ nhi vẫn chạy đi tìm kiếm
    Một gã cùng đinh kết bạn tình,
    Vì thấy lạc hoan trong gã ấy
    Như loài ruồi kiếm xác ương sình!
  12. Tránh bọn nữ nhân ở giữa đường,
    Hoặc kinh thành hoặc ở công trường
    Của vua, thị trấn, thôn làng nhỏ,
    Bậc có trí hiền sẽ lạc an,
    Tránh được bẫy đang giăng vậy đó
    Bởi Na-mu-ci, chính Ma vương.
  13. Kẻ nào buông lỏng luật Sa-môn,
    Tập những thói đê tiện, hạ tầng,
    Kẻ khốn ngu si đành đổi lấy
    Ngục sâu thay thế cảnh thiên đường,
    Giống như những kẻ nào đem đổi
    Ngọc có tỳ thay ngọc vẹn toàn.
  14. Ðời này, đời kế đáng khinh khi
    Là kẻ cố tâm khổ lụy vì
    Bọn ác nữ nhân, đi lảo đảo,
    Ngã nhào liều lĩnh, thật ê chề
    Như con lừa dữ cuồng điên chạy
    Với chiếc xe lăn lóc mọi bề.
  15. Hoặc vào rừng lụa lắm gươm dao,
    Hoặc ngục Pa-ta phải đọa vào,
    Ðội lốt thú rùng đi lãng vãng,
    Chốn ma đói chẳng thoát thân nào.
  16. Trong vườn Hỷ lạc thú vui chơi
    Của các Thiên tiên ở cõi trời,
    Quyền đại đế vương trên mặt đất
    Tiêu vong vì nữ giới, than ôi!
    Thói phường phóng dật buông lung ấy
    Ði đến sầu bi đọa xứ thôi.
  17. Khó đâu thành đạt thú thiên đường,
    Cũng chẳng khó quyền lực đế vương
    Trải rộng khắp nơi trên cõi đất,
    Các nàng Thiên nữ ở lầu vàng
    Ðã thành tựu các điều như vậy,
    Ðoạn diệt từ lâu ác dục tham.
  18. Từ Dục giới này được hóa thân
    Ði vào Sắc giới đủ quyền năng
    Tái sinh vào cõi A-la-hán,
    Những vị đã trừ diệt dục tâm.
  19. Cực lạc vượt qua mọi khổ đau,
    Không duyên sinh, bất động, thâm sâu,
    Ðạt thành bởi những người thanh tịnh
    Ðắc Niết-bàn, ly dục đã lâu.

*

Như vậy bậc Ðại Sĩ chấm dứt Pháp thoại sau khi làm cho hội chúng đắc Ðại Niết-bàn bất diệt. Các loài yêu quỷ mãnh xà và đồng loại ở vùng Tuyết Sơn cùng các vị thần đứng trên không gian, đều reo mừng tán thán:

– Lành thay! Thật là khéo nói với đầy đủ vẻ nhiệm màu của một bậc Giác Ngộ!

Ànanda, thứu vương, Nàrada, vị thần Ba-la-môn, Punnamukha, chim sơn ca chúa, và bậc Ðại Sĩ đều trở về trú xứ của mình. Song các vị kia thỉnh thoảng còn trở lại nhận lời chỉ giáo từ đôi bàn tay của bậc Ðại Sĩ và do tuân thủ giáo pháp của ngài nên được tái sinh vào cõi Thiên.

*

Ðến đây, bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giảng và ngâm vần kệ cuối cùng để nhận diện Tiền thân:

  1. U-dà-yi ấy chúa Sơn ca,
    Linh thứu vương là À-nan-da,
    Nà-ra-da là Xá-lợi-phất,
    Ku-nà-la hót chính là Ta.

Các vị phải hiểu Tiền thân này như vậy.

Bấy giờ các Tỷ-kheo này, khi đến đây, đã đến bằng thần thông của bậc Ðạo Sư, còn khi về, lại về bằng chính uy lực thần thông của mình. Và ở trong Ðại Lâm, bậc Ðạo Sư đã trình bày cho các vi thấy phương tiện để đạt được chánh định, nên ngay hôm ấy các vị đắc quả A-la-hán. Có một số đông chư Thiên tụ họp nơi ấy nên đức Thế Tôn tuyên thuyết cho các vị nghe Kinh Ðại Hội (Mahàsamaya Sutta).

-ooOoo-

  1. Chuyện đại Sutasoma (Tiền thân Mahà-Sutasoma)

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về Trưởng lão Angulimàla (Người đeo vòng ngón tay).

Cách vị ấy tái sinh và gia nhập Giáo hội phải được hiểu như đã được miêu tả đầy đủ trong kinh Angulimàla (Trung Bộ II).

Bấy giờ từ khi nhờ phát nguyện một hành động nói lời Chân thật, ông cứu sống một người đàn bà sinh khó, rồi ông kiếm được thực phẩm cúng dường thật dễ dàng. Sau đó nhờ tu tập hạnh viễn ly, ông chứng đắc quả A-la-hán và được công nhận là một trong tám mươi Ðại Trưởng lão.

Bấy giờ Tăng chúng bắt đầu nói về đề tài này, bảo nhau:

– Này các Hiền giả, thật vi diệu thay là phép thần thông do đức Thế Tôn thị hiện để giáo hóa nhẹ nhàng như vậy và không cần dùng chút bạo lực nào, Ngài đã điều phục một tướng cướp hung bạo khát máu như Angulimàla! Ôi quả thật chư Phật đã thành tựu những việc hy hữu thay!

Bậc Ðạo Sư ngồi trong Hương phòng, với thiện nhĩ thông, hiểu được chuyện đang nói, và biết rằng hôm nay Ngài đến đó sẽ rất lợi ích và sẽ thuyết giảng một đại kinh nên với oai nghi tối thắng của một bậc Giác Ngộ, Ngài đi đến Chánh Pháp đường, ngồi trên sàng tọa dành cho Ngài và hỏi hội chúng đang thảo luận đề tài gì. Khi vị trình Ngài chuyện ấy, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, thật không kỳ diệu gì việc Ta giáo hóa vị ấy ngày nay, khi Ta đã chứng đắc Vô thương Chánh giác. Ta cũng đã điều phục vị ấy khi ta còn sống trong một đời trước với một trình độ tri kiến hạn hẹp mà thôi.

Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, vua Koravya cai trị rất đúng pháp tại thành Indapatta, trong quốc độ Kuru (Câu-lâu). Bồ-tát ra đời làm con của vị chánh hậu, và do ngài thích nước ép trái soma, nên được đặt tên Sutasoma. Khi ngài đến tuổi trưởng thành, vua gửi ngài đến Takkasilà để thọ giáo với một vị danh sư lẫy lừng khắp thế giới. Thế là khi nhận lãnh học phí để trả cho thầy, ngài lên đường đến đó.

Tại Ba-la-nại, vương tử Brahmadatta con vua Kàsi cũng được cha gửi đến đó cùng mục đích như trên và cùng lên đường theo hướng ấy. Trong lúc du hành, Sutasoma ngồi nghỉ trên ghế dài trong một sảnh đường cạnh cổng thành. Vương tử Brahmadatta cùng đến ngồi xuống cạnh ngài trên ghế đó. Sau khi chào thân hữu xong, Sutasoma hỏi bạn:

– Này Hiền hữu, bạn đã mệt mỏi vì cuộc hành trình rồi đó. Bạn từ đâu đến?

Khi vị kia đáp:

– Từ Ba-la-nại.

Ngài lại hỏi vị kia là con của ai.

– Con vua Brahmadatta.

– Quý danh là gì?

– Vương tử Brahmadatta.

– Hiền hữu đến đây có mục đích gì?

– Ðể được dạy các môn học thuật.

Sau đó vương tử Brahmadatta bảo:

– Hiền hữu cũng mệt mỏi vì chuyến đi này rồi.

Và hỏi thăm ngài tương tự như trên, Sutasoma kể cho bạn nghe mọi chuyện về mình.

Cả hai vị đều suy nghĩ: “Chúng ta đều là các vương tử đi thọ giáo các môn học thuật từ tay cùng một vị thầy”, liền kết bạn với nhau.

Khi vào thành, hai vị đến nhà giáo sư, đảnh lễ thầy, và sau khi nêu rõ lai lịch danh tánh, hai vị nói đến đây để xin thọ giáo các môn học thuật. Vị thầy sẵn sàng nhận lời thỉnh cầu ấy.

Sau khi trao học phí xong, hai vị bắt đầu học tập và không chỉ hai vị, mà còn nhiều vương tử khác ở xứ Diêm-phù-đề thời ấy, lên đến hơn một trăm vị, xin thọ giáo với vị thầy này.

Sutasoma là đệ tử lớn chẳng bao lâu đạt đến tài năng giảng dạy, nhưng không muốn thăm hỏi các bạn kia, ngài suy nghĩ: “Ðây là thân hữu của ta”, ngài chỉ đến với vương tử Brahmadatta mà thôi, và trở thành thầy riêng của bạn, ngài giáo huấn bạn, trong lúc các vị kia phải từ từ thu thập kiến thức cho mình.

Các vị ấy sau thời gian tinh cần học tập cũng từ giã sư phụ, và tập họp thành một đoàn tùy tùng theo Sutasoma lên đường hồi hương. Sau đó, Sutasoma đứng trước đám đông để từ giã họ, bảo:

– Sau khi các vị chứng tỏ tài học của mình trước phụ vương, các vị sẽ ổn định đời mỗi người trong vương quốc của mình. Khi ổn định xong, xin nhớ tuân theo lời giáo huấn của ta.

– Thưa Tôn sư, đó là những gì?

– Vào những ngày trăng non và trăng tròn, phải giữ Bố-tát giới và cử sát sinh.

Chúng bạn đều đồng ý tuân lời dặn ấy. Bồ-tát nhờ thần lực tiên tri theo tướng mạo mỗi người, biết rằng đại nạn sẽ xảy đến với vương tử Ba-la-nại trong tương lai, và sau khi giảng dạy đầy đủ như vậy, ngài cho họ ra đi.

Các vị ấy đều trở về xứ sở, và sau khi trình bày việc học hành của mình trước các phụ vương, các vị ấy lên nối ngôi trong vương quốc của mình. Rồi để thông báo việc này cùng việc tiếp tục tuân thủ lời dạy của ngài, các vị vua ấy gửi thư cùng tặng vật đến Sutasoma.

Khi biết được tình hình mọi việc, bậc Ðại Sĩ liền trả lời các thư kia cùng dặn các vị giữ vững niềm tin. Một trong các vị ấy là vua Ba-la-nại, vốn chưa bao giờ ăn cơm mà không có thịt, vì thế, để giữ ngày trai giới quần hầu thường lấy thịt cất riêng một nơi.

Bấy giờ, một hôm thịt được cất riêng như vậy, do người đầu bếp bất cẩn, bầy chó khéo nuôi của hoàng cung ăn hết. Người đầu bếp không tìm ra thịt vội cầm một nắm tiền đi quanh quẩn vẫn không mua được thịt gì cả, tự nhủ: “Nếu ta dọn cơm không có thịt, ta sẽ chết mất. Ta phải làm gì đây?” Nhưng lại nghĩ: “Còn có một cách”. Ðến chiều tối, y ra nghĩa địa phơi đầy xác chết, lấy một ít thịt đùi của một người mới chết, y nướng thịt thật chín và dọn lên làm thức ăn.

Khi một lát thịt vừa chạm vào đầu lưỡi vua thì nó gây rung động khắp bảy ngàn dây thần kinh vị giác và tiếp tục tạo ra sự xáo trộn cả toàn thân. Tại sao vậy? Ðó là do trước kia, vua đã từng dùng thịt này rồi. Vì truyện kể rằng trong đời sống ngay trước đời này, vua đã là một quỷ Dạ-xoa (Yakkha) từng ăn nhiều thịt người nên nó hợp khẩu vị vua. Vua suy nghĩ: “Nếu ta giữ im lặng mà ăn thịt này, y sẽ không nói cho ta biết đó là thịt gì”. Vì thế, khi nhổ ra, vua để rơi một miếng thịt xuống đất. Người đầu bếp thưa:

– Tâu Ðại vương, xin ngài dùng thịt này, không sao cả đâu.

Vua ra lệnh mọi quân hầu lui ra và bảo:

– Trẫm biết rõ lắm nhưng đó là thịt gì?

– Ðó là thứ thịt Ðại vương đã thưởng thức các lần trước.

– Chắc chắn các lần khác thịt không có mùi thơm này.

– Tâu Ðại vương, hôm nay thịt được nấu kỹ lắm ạ.

– Chắc chắn trước kia ngươi cũng nấu giống thế này chăng?

Rồi khi thấy y im lặng, vua phán:

– Hoặc là phải nói thật với trẫm hoặc ngươi phải chết.

Thế là y cầu khẩn vua cam đoan không trừng phạt và kể đúng sự thật. Vua bảo:

– Ðừng nói gì việc ấy nữa. Ngươi sẽ phải ăn thịt nướng thường lệ và chỉ nấu thịt người cho trẫm.

– Tâu Ðại vương, chắc chắn việc này khó lắm ạ.

– Ðừng sợ, chẳng có gì khó cả.

– Thế tiểu thần kiếm đâu ra thường xuyên thứ thịt ấy?

– Chả có bọn tù nhân trong ngục đó sao?

Từ đó, y làm theo lời vua dặn. Dần dần, khi thiếu tù nhân, y trình:

– Tiểu nhân phải làm gì bây giờ?

Vua phán:

– Hãy ném xuống đường cái một gói có ngàn đồng tiền rồi bắt lấy kẻ nào lượm gói ấy như kẻ trộm và xử tử nó đi.

Y tuân lệnh. Dần dần, không tìm ra kẻ nào có ý nhìn đến gói tiền ấy nữa, gã thưa:

– Tiểu thần phải làm sao đây?

– Vào lúc trống điểm canh khuya, kinh thành thật đông người. Vậy ngươi hãy xuống vào trong một chỗ nứt ở tường nhà hay ở ngã tư, hạ thủ một người và cắt đi vài miếng thịt.

Từ đó, y thường trở về với một ít thịt mỡ và nhiều nơi trong kinh thành phát hiện nhiều xác chết. Tiếng than khóc vang lên: “Tôi đã mất cha, mất mẹ, mất anh em rồi”.

Dân trong thành kinh hoàng bảo nhau:

– Chắc chắn sư tử, cọp beo hay quỷ dữ đã ăn thịt các người này.

Khi quan sát các tử thi, họ thấy có chỗ giống vết thương hở miệng liền nói:

– Kìa, ắt hẳn một người nào đó ăn thịt chúng đấy.

Dân chúng tụ tập ở sân chầu và kêu than. Nhà vua hỏi:

– Này các hiền hữu, có chuyện gì thế?

– Tâu đại vương, trong kinh thành này có kẻ cướp ăn thịt người. Xin ngài ra lệnh bắt nó.

– Làm sao trẫm biết đó là ai được? Trẫm phải đi quanh quẩn kinh thành này mà canh giữ chăng?

Dân chúng bảo nhau:

– Nhà vua không quan tâm đến kinh thành. Chúng ta sẽ báo cáo việc này lên vị đại tướng Kàlahatthi.

Họ đến trình vị tướng ấy việc này và nói:

– Xin Ðại tướng tìm cho ra tên cướp này.

Vị ấy đáp:

– Hãy đợi bảy ngày ta sẽ tìm ra tên cướp và giao cho các vị.

Khi giải tán quần chúng xong, ông ra lệnh cho các tướng lãnh:

– Này các hiền hữu, dân chúng bảo có tên cướp ăn thịt người trong thành này. Các hiền hữu, hãy mai phục ở nhiều nơi và bắt nó.

– Ðược lắm – Họ đáp.

Từ ngày ấy họ vây quanh toàn thành. Bấy giờ người đầu bếp đang ẩn mình trong cái lỗ ở tường nhà kia đã giết một phụ nữ và bắt đầu nhét đầy thịt này vô giỏ của y. Vì thế đám tướng lãnh chụp y, đấm đánh túi bụi và vừa trói y ra sau, vừa la lớn:

– Chúng ta đã bắt được tên trộm ăn thịt người rồi!

Một đám đông vây quanh họ. Rồi vừa đánh đập y một trận mê tơi vừa buộc giỏ thịt trên cổ y, họ đem y đến trước vị đại tướng. Khi thấy y, vị ấy suy nghĩ : “Có thể là kẻ này ăn thịt người hay trộn nó với các thứ thịt khác rồi đem bán, hoặc y giết người theo lệnh ai khác chăng?” và để hỏi vấn đề này, ông ngâm vần kệ đầu:

  1. Hỡi người sành các món cao lương,
    Ðòi hỏi gì sao thật khẩn trương
    Ðã giục ngươi làm điều khủng khiếp?
    Chỉ vì thực phẩm hoặc tiền vàng
    Ngươi tàn sát những người này vậy,
    Hỡi kẻ khốn kia lạc bước đàng?

Ðầu bếp:

  1. Chẳng vì thê tử hoặc thân bằng,
    Quyến thuộc, bản thân hoặc bạc vàng,
    Thần giết bà này vì Chúa thượng,
    Vì vua ngự trị cả giang san
    Vẫn ăn thịt ấy, thần gây tội
    Chính là do lệnh của vua ban
    .

Tướng quân:

  1. Nếu do mua chuộc để chìu lòng
    Thèm khát tham tàn của Chúa công,
    Ngươi đã phạm hành vi khủng khiếp,
    Vậy ngày mai đến lúc hừng đông,
    Chúng ta tìm Chúa công tham kiến,
    Ðưa cáo trạng ra trước mặt rồng.

Ðầu bếp:

  1. Kà-la đại tướng đáng tôn sùng,
    Thần sẽ tuân lời của tướng công,
    Ðến rạng đông thần tìm Chúa thượng
    Và đưa cáo trạng trước sân rồng.

Thế rồi vị đại tướng bảo đặt y xuống, trói thật chặt và rạng ngày mai, ông bàn bạc với tướng lãnh xong, và khi tất cả đều đồng ý, liền cho đóng quân canh mọi hướng. Khi đã kiểm soát kinh thành thật kỹ, ông buộc giỏ thịt vào cổ người đầu bếp và đưa y đến cung điện, còn cả kinh thành náo động lên.

Vua đã dùng điểm tâm ngày hôm trước, nhưng đã bỏ cơm tối và suốt đêm cứ ngồi mãi, chờ đợi người đầu bếp từng giây phút. Vua suy nghĩ: “Hôm nay nữa, gã đầu bếp cũng không đến, và ta nghe tiếng náo động khắp kinh thành. Chuyện gì sắp xảy ra chăng?” Vừa nhìn ra cửa sổ, vua thấy người ấy bị kéo đến đây như đã tả trên, và nghĩ rằng mọi sự đã bị phát giác, vua thu hết can đảm đi đến ngồi trên ngai. Khi tướng quân Kàlahatthi đến gần hỏi chuyện, vua đáp lời.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Vầng nhật vừa lên, mới rạng đông,
    Ðem theo đầu bếp đến sân rồng,
    Kà-la tiến lại gần thiên tử,
    Tâu những lời này với chúa công:

6.”Hỏa đầu quân, có đúng vậy chăng
Ðưa lệnh vua ra tận phố phường,
Tàn sát nam nhi cùng phụ nữ,
Ðể dâng chúa thượng món cao lương

7.”Ðiều này thật đúng đấy, Kà-la,
Việc ấy được làm bởi lệnh ta,
Sao khiển trách tên đầu bếp nọ,
Vì làm theo lệnh của ta mà?”.

Khi nghe vầy, đại tướng suy nghĩ: “Chính miệng nhà vua thú nhận việc ấy, ôi thật là con người hung bạo! Bấy lâu nay vua đã và đang ăn thịt người. Ta phải ngăn chặn việc này mới được” và ông đáp :

– Tâu Chúa thượng, chớ làm việc này, xin chớ ăn thịt người!

– Này Kàlahatthi, khanh nói gì thế? Trẫm không thể ngừng được.

– Tâu Chúa thượng, nếu ngài không ngừng việc này lại, ngài sẽ hủy diệt cả mạng rồng cùng giang san này đấy.

– Cho dù vương quốc ta bị tiêu diệt, ta cũng không thể ngừng việc ấy được đâu.

Lúc ấy vị đại tướng muốn làm vua tỉnh trí hơn, liền kể một chuyện quá khứ để chứng minh.

*

Chuyện Thủy quái Ànanda

Ngày xưa có sáu thủy quái sống ở đại dương. Trong số đó có Ànanda, Timanda, Aijhohàra, ba con này dài năm trăm dặm; và Titimiti, Mingala, Timivapingala, ba con này dài một ngàn dặm; cả bọn chúng tự nuôi sống bằng rong biển sevala mọc trên da.

Trong bọn có Ànanda sống ở một phía đại dương và được nhiều loài thuỷ tộc đến viếng. Một hôm chúng suy nghĩ: “Các loài vật hai chân và bốn chân đều có vua, nhưng chúng ta không có. Vậy ta muốn tôn thủy quái này làm vua”. Thế là chúng đồng lòng tôn Ànanda lên làm vua, từ đó sáng chiều chúng đều đến bày tỏ lòng tôn kính vua mình.

Bấy giờ một hôm, Ànanda ở trên núi nọ ăn rong sevàla và vô ý ăn nhằm một con cá, vì tưởng đó là rong. Thịt nó thật ngon miệng nên thủy quái tự hỏi thứ gì mà ngọt ngào như vậy, liền lấy ra khỏi mồm, và nhìn thấy đó là một miếng cá. Nó suy nghĩ: “Bấy lâu nay ta không hề biết nên chẳng ăn thứ này, mọi sáng chiều loài cá vẫn thường đến để bày tỏ lòng tôn kính ta, ta sẽ ăn một hai con thôi, vì nếu khi chúng đang bị ta ăn và ta lộ rõ mọi việc cho chúng biết, thì không có con nào dám bén mảng đến gần ta, bọn chúng sẽ chuồn hết cả”.

Thế rồi nằm ẩn mình, thủy quái chụp những con cá nào đang bơi lùi lại phía sau và ăn thịt chúng. Khi số cá giảm dần, chúng suy nghĩ: “Hiểm họa này đe dọa chúng ta từ phía nào đây?”

Rồi một con cá tinh khôn trong bọn suy nghĩ: “Ta không hài lòng với việc Ànanda đang làm. Ta muốn tìm hiểu rõ vị ấy sắp làm gì đây”. Khi bầy cá đến kính lễ Ànanda, con cá tinh khôn kia ẩn mình trong lỗ tay Ànanda. Lúc bảo đàn cá quay về, Ànanda vồ lấy những con nào bơi lùi phía sau. Con cá khôn ngoan thấy việc này, thuật lại cho bọn kia, chúng đều kinh hoảng chạy trốn hết.

Từ ngày ấy, Ànanda thèm mùi cá không chịu ăn các thứ khác. Khi phát bệnh vì đói, nó suy nghĩ: “Ðàn cá đi đâu cả trên đời này? Trong lúc tìm chúng, nó thấy một ngọn núi và suy nghĩ: “Vì sợ ta, chắc đàn em đang sống trong núi này. Ta sẽ bao vây núi và canh chừng thật kỹ”. Thế là vừa vây quanh núi với đầu đuôi cuộn tròn cả hai phía, nó suy nghĩ: “Nếu chúng ở đây, chúng sẽ trốn thoát”.

Khi nhìn thấy chính đuôi nó cuộn tròn quanh núi, nó lại nghĩ: “Con cá này sống gần núi vàđang cố tránh ta”. Trong cơn cuồng nộ, nó chụp lấy đuôi mình dài năm mươi dặm mà tưởng là bắt được cá, nó ngấu nghiến kêu ken két, do đó phải chịu đau đớn hành hạ khủng khiếp.

Khi ngửi mùi máu, đàn cá tụ tập cùng nhau kéo từng mảnh đuôi của Ànanda ra ăn hết cho đến tận đầu. Vì thân xác khổng lồ như vậy, nó không thể nào trở mình được nên phải mạng chung. Rồi ở đó có một đống xương cao như núi.

Các vị nam nhi Thánh giả khổ hạnh khi du hành qua không gian, trông thấy đống xương, liền kể cho dân chúng nghe nên dân chúng khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) đều biết chuyện ấy. Kàlahatthi kể chuyện này để chứng minh và ngâm kệ:

  1. A-nan ăn cá biết bao loài,
    Lúc đám tùy tùng trốn thoát rồi,
    Nó cắn đuôi mình nhai ngấu nghiến
    Ðến khi thủy quái phải lìa đời.
  2. Nô lệ dục tham, chẳng biết gì
    Thú vui nào khác, kẻ ngu si
    Ðui mù, phóng dật, gây đau khổ
    Hủy diệt họ hàng, cả thiếu nhi,
    Rồi biến thân thành mồi béo bở
    Cho lòng tham quái ác ly kỳ.
  3. Nghe lời thần nói, tấu Quân vương,
    Món thịt người, xin chúa chờ ăn,
    Việc ác kiêng làm, e ngại phải
    Cùng chung số phận thật kinh hoàng
    Của con thủy quái và đành để
    Ðất nước Chúa công phải mạt tàn.

Khi nghe vậy, vua bảo:

– Này Kàlahatthi, ta cũng biết một ví dụ như khanh. Rồi kể một chuyện cổ làm ví dụ chứng minh tính thèm thịt người của mình, vua ngâm kệ:

  1. Nam nhi thừa kế Su-jà-ta
    Ðòi quả hồng đào, cứ hét la,
    Cậu bé buồn phiền vì mất chúng,
    Phải đành thiệt mạng, hóa ra ma.
  2. Vậy xưa nay trẫm vẫn ăn luôn
    Những món, Kà-la hỡi, cực sang,
    Thiếu món thịt người, e có lẽ
    Không còn đời sống để lo toan
    .

*

Chuyện Nam tử của phú ông Sujàta

Tương truyền ngày xưa một vị địa chủ trưởng giả có tên Sujàta ở Ba-la-nại làm chỗ cư trú trong hoa viên của mình và cung phụng năm trăm vị ẩn sĩ đến đấy từ vùng Tuyết Sơn để tìm muối và dấm. Trong nhà ông luôn có thực phẩm dọn sẵn mời các vị ấy, nhưng các vị thỉnh thoảng vẫn đi khất thực trong vùng quê và đem về những miếng hồng đào lớn để ăn.

Trong lúc các vị ấy đang ăn hồng đào đã đem về, Sujàta nghĩ thầm: “Hôm nay là ngày thứ ba hay thứ tư rồi mà các Thánh giả này chưa đến nhà ta đây. Không biết các ngài đã đi đâu trên đời này?” Thế rồi bảo cậu con trai cầm tay mình, ông đi đến đó trong lúc các vị ấy đang dùng bữa ăn. Lúc ấy một chú tiểu đang đưa nước để các vị trưởng lão súc miệng và chú đang ăn một miếng đào đỏ. Sujàta đảnh lễ các ẩn sĩ và khi đã an tọa, liền hỏi:

– Thưa các Tôn giả, các ngài đang dùng gì thế?

– Thưa gia chủ, những miếng đào đỏ lớn đấy.

Cậu bé nghe vậy cảm thấy thèm, vì thế vị trưởng chúng ẩn sĩ bảo cho cậu một miếng nhỏ. Cậu bé ăn đào và quá say mê mùi vị thơm ngon ấy nên cứ nằn nì đòi các vị cho thêm miếng nữa. Ông phú hộ đang nghe Pháp, liền bảo:

– Thôi đừng khóc, khi về nhà, con sẽ được ăn một miếng.

Ông đánh lừa cậu bé như vậy vì sợ các Thánh giả kia sẽ mệt nhọc bởi tiếng kêu khóc của con. An ủi cậu bé xong, ông từ giã hội chúng ẩn sĩ và về nhà. Từ lúc đến nhà, cậu bé cứ lãi nhải kêu to:

– Cho con một miếng.

Còn các ẩn sĩ lại bảo:

– Chúng ta đã ở đây lâu ngày rồi.

Và họ ra đi về vùng Tuyết Sơn. Vì không thấy cậu bé trong hoa viên, các ẩn sĩ gửi cho cậu một món quà gồm nhiều miếng xoài, đào, mít, chuối và vài trái cây khác nữa, tất cả trộn chung với đường mịn. Món trái cây trộn đường vừa đặt lên đầu lưỡi cậu bé liền gây tác dụng như một thứ thuốc độc giết người. Suốt bảy ngày cậu không ăn gì được và chết sau đó.

Vua kể chuyện này như một cách tự chứng minh. Lúc ấy Kàlahatthi nghĩ thầm: “Ông vua này thật quá tham ăn của ngon vật lạ. Ta sẽ kể nhiều ví dụ khác nữa”, và nói:

– Tâu Ðại vương, xin chừa món này đi.

– Không thể được. – Vua đáp.

– Nếu ngài không chừa được, ngài sẽ bị gia tộc từ bỏ dần và tước mất hết vương quyền vinh hiển. Xin hãy nghe đây.

*

Chuyện Nam tử Bà-la-môn.

Ngày xưa cũng tại chính trong kinh thành Ba-la-nại này có một gia đình Bà-la-môn tuân hành Ngũ giới. Nhà này chỉ sinh được một con trai độc nhất nên được cha mẹ yêu quý và là niềm vui của hai thân, một cậu trai thông minh, am hiểu thấu suốt ba tập Vệ-đà.

Cậu thường đi chu du cùng đám thanh niên đồng tuổi với cậu. Các người kia trong đám ấy thường ăn cá thịt cùng các thức tương tự và uống rượu mạnh. Còn cậu trai này không ăn thịt cũng không uống rượu mạnh. Chúng bạn chợt suy nghĩ: “Thằng bé này vì không uống rượu mạnh nên không phải trả tiền, ta phải lập mưu bắt nó uống mới được”.

Thế rồi bọn chúng tụ tập nhau lại, bảo:

– Này hiền hữu, chúng ta hãy tổ chức đám hội.

Cậu đáp:

– Các bạn uống rượu mạnh nhưng ta thì không, vậy các bạn cứ đi mà không có ta.

– Này hiền hữu, ta sẽ lấy sữa để bạn uống.

Cậu đồng ý nói:

– Ðược rồi.

Bọn trai lêu lổng ấy ra vườn lấy một ít rượu mạnh buộc vào một ngọn lá làm thành cái chén và đặt nó giữa đám lá sen. Thế rồi khi họ bắt đầu uống, họ cho cậu trai một ít sữa. Một tên ranh mãnh trong bọn kêu lớn:

– Hãy đem cho ta một ít mật hoa sen.

Sau khi đã bảo đem mật ấy vào, y đục một lỗ dưới đáy ngọn lá nằm giữa đám sen kia và đưa lên miệng hút vào. Bọn kia cũng bảo đem một ít cho họ uống. Cậu trai hỏi đó là thức gì, và uống một ít rượu mạnh cứ tưởng đó là mật hoa sen.

Sau đó họ lại đưa cho cậu một ít thịt hầm và cậu cũng ăn luôn.

Khi cậu đã say vì uống nhiều ngụm rượu liên tiếp họ bảo cậu:

– Ðây không phải mật hoa sen đâu. Rượu mạnh đấy.

Cậu đáp:

– Bấy lâu nay ta chưa hề biết vị ngọt là thế nào cả. Này ta bảo, hãy đem cho ta thêm rượu mạnh nữa đi!

Họ mang rượu đến và một lần nữa trao cho cậu vì cậu rất thèm khát. Sau đó khi cậu đòi thêm nữa, họ bảo cậu hết sạch rượu rồi.

Cậu nói:

– Mau lên, ta bảo kiếm thêm cho ta nữa đi.

Và cậu đưa cho họ chiếc nhẫn có tín hiệu của cậu.

Sau khi uống với họ suốt ngày, cậu say túy lúy, mắt đỏ ngầu như máu, người run rẩy, nói lảm nhảm, cậu về nhà nằm vật xuống. Lúc ấy cha cậu nhận thấy cậu đã uống rượu, đến khi hiệu lực của rượu đã qua hẳn, ông bảo cậu:

– Này con, con đã làm một việc rất sai lầm, là người trong gia tộc Bà-la-môn mà con uống rượu mạnh, từ nay đừng bao giờ làm vậy nữa.

– Cha bảo sao? Suốt đời con, chưa bao giờ con nếm được vị gì ngon ngọt đến thế.

Vị Bà-la-môn cứ nài nỉ con chừa rượu. Cậu đáp:

– Con không thể bỏ được.

Sau đó vị Bà-la-môn suy nghĩ: “Nếu như vậy thì truyền thống gia tộc ta sẽ bị hủy hoại và tài sản ta cũng tiêu tan”. ông liền ngâm kệ này.

  1. Nam tử La-môn tộc quý cao,
    Là trai khả ái, lại thanh tao,
    Con đừng uống vật đầy ghê tởm
    Không một La-môn hưởng thụ nào.
    Sau những lời này, ông lại bảo:

– Này con yêu, phải chừa rượu đi, nếu không cha sẽ tống con ra khỏi nhà và xin vua đuổi con khỏi vương quốc này.

Cậu trai đáp:

– Cho dù vậy, con cũng không thể bỏ rượu mạnh.

Và cậu ngâm hai vần kệ:

  1. Bởi vì cha muốn cản ngăn con,
    Uống thứ này hương vị tuyệt ngon,
    Con sẽ đi xa bất kể số,
    Tìm nơi đâu rượu vẫn trường tồn!
  2. Con sẽ ra đi vội bước chân,
    Chẳng còn ở lại với song thân,
    Vì nay thấy mặt con, e hẳn
    Cha ghét con cay đắng bội phần!

Cậu lại còn nói thêm:

– Con quyết sẽ không chừa rượu đâu. Cha cứ làm gì tùy ý.

Lúc ấy vị Bà-la-môn đáp:

– Ðược rồi, nếu con từ bỏ cha mẹ thì cha mẹ cũng từ bỏ con luôn.

Và ông ngâm vần kệ này:

  1. Ta sẽ tìm vài cậu thiếu niên
    Ðể cho thừa kế mọi kim tiền,
    Cút đi, đồ khốn, nơi ta chẳng
    Nghe thấy tên ngươi đáng rủa nguyền!

Sau đó, đem cậu con ra tòa án, ông truất quyền thừa kế của cậu và sai đuổi chàng ra khỏi nhà. Cậu trai về sau làm kẻ khốn khổ cùng bần, mặc áo quần vải thô, cầm bát khất thực trong tay đi lang thang xin ăn rồi dựa vào một bức tường và chết.

Kàlahatthi kể chuyện này để làm bài học răn vua, và bảo:

– Tâu Ðại vương, nếu ngài từ chối nghe lời chúng thần, thì họ sẽ sai người đuổi ngài ra khỏi quốc độ này.

Nói vậy xong, ông ngâm kệ:

  1. Vậy lắng nghe này, tấu Ðại vương,
    Tuân theo lời dặn của ngu thần,
    Nếu không sẽ giống chàng say rượu
    Ngài bị đuổi ra khỏi thổ cương.

Ngay sau ví dụ được Kàlahatthi dẫn chứng như vậy vua cũng không thể từ bỏ thói quen của mình, và kể một chuyện khác để chứng minh:

  1. Ðồ đệ của chư Ðại Thánh hiền,
    Su-jà ta, cổ tích lưu truyền,
    Nhịn luôn thực phẩm cùng đồ uống,
    Vì đã đắm say một nữ tiên.
  2. Như đầu ngọn cỏ đọng hơi sương
    So với mọi nguồn nước đại dương,
    Cũng vậy tình người đem sánh với
    Ái tình dâng tặng một tiên nương.
  3. Vậy xưa nay trẫm vẫn ăn luôn
    Những món, Kà-la hỡi, cực sang,
    Thiếu món thịt người, e có lý
    Không còn đời sống để lo toan.

*

Chuyện Phú ông Sujàta.

Chuyện này cũng giống như chuyện đã kể trên.

Tương truyền phú ông Sujàta này thấy rằng các vị ẩn sĩ kia không trở về vào thời các vị đang ăn những miếng hồng đào lớn, liền nghĩ thầm: “Ta không biết tại sao các vị ấy không trở về. Nếu các vị đi nơi khác, ta sẽ đi tìm cho ra, hơn nữa, ta lại muốn nghe các vị thuyết Pháp”.

Thế rồi ông ra hoa viên nghe vị Trưởng hội chúng ấy thuyết Pháp, và khi mặt trời lặn, dù ông được bảo ra về, ông vẫn nói:

– Ðệ tử muốn ở lại đây hôm nay.

Và đảnh lễ hội chứng hiền nhân xong, ông vào am tranh của mình nằm xuống. Ban đêm, Sakka Thiên chủ được cả đoàn thiên nhân hộ tống, cùng với các thị nữ của ngài, đến đảnh lễ đám Thánh nhân kia khiến cả vùng thảo am sáng rực lên.

Sujàta không biết chuyện gì, đứng dậy nhìn qua khe hở của am tranh, nhìn thấy Sakka đến đảnh lễ hội chúng Thánh nhân và được cả đám tùy tùng tiên nữ Apsarasas hộ tống. Vừa thấy các nàng tiên lòng ông đã bùng lên dục vọng như lửa đốt. Thiên chủ Sakka an tọa và sau khi nghe thuyết Pháp xong, trở về cõi của ngài.

Hôm sau vị địa chủ đến đảnh lễ các ẩn sĩ và hỏi:

– Bạch các Tôn giả, vị nào đêm qua đến đảnh lễ các vị?

– Thưa tôn ông, đó là Sakka Thiên chủ.

– Thế các vị vây quanh ngài là ai?

– Ðó là các tiên nữ Apsarasas.

Sau khi đảnh lễ các vị khổ hạnh, ông về nhà và từ lúc đó, ông cứ điên cuồng kêu gào: “Cho ta một nàng tiên Apsaras”.

Ðám quyến thuộc vây quanh ông, tự hỏi không biết ông có bị quỷ ám chăng, và họ búng tay.

Ông bảo:

– Không phải ta nói đến chuyện búng tay này đâu mà chuyện các nàng tiên Apsaras kia.

Khi họ mặc y phục chỉnh tề và đưa vào cho ông một bà vợ hay thậm chí một kỹ nữ sang trọng và nói:

– Ðây là một nàng tiên Apsaras.

Ông đáp:

– Ðây không phải là tiên Apsaras, mà là con quỷ cái!

Rồi ông cứ lảm nhảm la hét điên cuồng.

– Cho ta một nàng tiên Apsaras!

Sau đó không chịu ăn uống gì cả, ông chết đi.

Khi nghe vậy, Kàlahatthi tự nhủ: “Ông vua này thật là kẻ đại tham của lạ. Ta quyết làm cho vua tỉnh trí hơn lên”. Rồi ông nói:

– Những chim kim nga bay qua không gian cũng chết vì ăn thịt đồng loại của chúng.

Và để chứng minh việc này, ông ngâm hai vần kệ:

  1. Như các thiên nga có sắc vàng
    Du hành qua giữa cõi không gian,
    Thảy đều phải chết vì sinh sống
    Bằng thực phẩm kia trái lẽ thường.
  2. Cũng vậy, xin ngài hỡi Ðại vương,
    Lắng nghe thần nói thật tinh tường;
    Vì ăn thực phẩm này phi pháp
    Dân sẽ đuổi ngài khỏi thổ cương.

*

Chuyện đàn Kim Nga.

Tương truyền ngày xưa chín mươi ngàn thiên nga sống ở Kim động trên đỉnh núi Cittakùta. Suốt bốn tháng mùa mưa, chúng không di chuyển ra ngoài. Nếu chúng làm vậy, đôi cánh chúng sẽ ướt sũng nước, chúng sẽ không thể bay xa và sẽ rơi xuống biển. Do đó chúng không đi ra ngoài. Nhưng khi mùa mưa đến, chúng nhặt thóc lúa hoang ở một cái hồ thiên nhiên đem về chất đầy hang và sống bằng thóc lúa.

Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi không vào hang, thì một con nhện unnanabhi to bằng cái bánh xe ở cửa hang vẫn thường giăng tơ hằng tháng, mỗi sợi tơ của nó to bằng sợi dây thừng bò. Ðàn thiên nga cho một thiên nga còn trẻ hai phần thức ăn vì nghĩ rằng nó có thể phá thủng màn nhện kia.

Khi trời trở nên quang đãng, con thiên nga trẻ này đứng trước chúng phá hủy màn nhện và cả đoàn thoát ra bằng cách này.

Bấy giờ có một mùa mưa kéo dài năm tháng nên lương thực của đàn thiên nga cạn dần, chúng hỏi ý kiến nhau phải làm gì, rồi nói:

– Nếu muốn sống, chúng ta phải lấy trứng.

Trước hết, chúng ăn trứng, rồi đến lượt ngỗng con và kế đó là ngỗng già. Sau năm tháng mùa mưa chấm dứt, con nhện đã giăng năm màn lưới to tướng, còn đàn thiên nga, vì ăn thịt đồng loại chúng, đã trở nên yếu đuối. Con ngỗng trẻ kia đã nhận phần ăn gấp đôi, cố phá vỡ được bốn màn nhện, nhưng không thể phá nổi màn thứ năm và bị dính chân vào đó. Thế rồi con nhện cắt đầu nó và hút máu. Hết ngỗng đầu rồi đến lượt ngỗng thứ hai đến phá màn nhện, con nhện suy nghĩ: “Ðây lại thêm một con ngỗng nữa dính vào chỗ ấy”, và hút máu cả bầy, thời bấy giờ dòng giống thiên nga dhatarattha phải tuyệt diệt, tương truyền như vậy.

*

Vua nôn nóng kể thêm một chuyện chứng minh, nhưng đám thị dân đứng lên nói:

– Thưa Ðại tướng, ngài đề nghị phải làm gì? Ngài sẽ tiến hành ra sao vì nay ngài đã bắt được tên ăn thịt người dã man ấy? Nếu y không từ bỏ việc ấy, hãy sai người đuổi y ra khỏi vương quốc này.

Và quần chúng không chịu để cho vua nói lời nào nữa. Khi nghe câu chuyện chung của quần chúng, vua kinh hoảng không nói gì thêm, và một lần nữa vị đại tướng hỏi vua:

– Tâu Ðại vương, ngài có thể từ bỏ việc ấy chăng?

– Không thể được. – Vua đáp.

Thế rồi vị đại tướng sắp vào một phía tất cả hậu cung của vua, gồm các vương tử và công chúa trang sức thật lộng lẫy và nói:

– Tâu Ðại vương, hãy ngắm vòng quyến thuộc, đám cận thận và cảnh huy hoàng vương giả của ngài, xin đừng để ngài phải tiêu tan tất cả, mà xin ngài hãy ngừng ăn thịt người.

Vua đáp:

– Tất cả mọi thứ này không còn thân thiết với ta hơn món thịt người.

– Vậy xin Ðại vương hãy ra đi khỏi kinh thành và quốc độ này.

– Kàlahatthi, – vua đáp – ta không cần quốc độ, ta sẵn lòng ra đi nhưng hãy cho ta một ân huệ: hãy cho ta lấy thanh kiếm và người đầu bếp của ta.

Do đó, họ cho vua lấy một cây kiếm, một cái nồi để nấu thịt người, và một cái thùng cùng người đầu bếp, họ đuổi vua ra khỏi xứ sở.

Ðem theo người đầu bếp, vua ra khỏi kinh thành, đi vào rừng làm chỗ cư trú dưới gốc cây đa. Khi sống ở đó vua thường đứng trên con đường đưa vào rừng, và giết người, đem xác về đưa cho người đầu bếp, y nấu thịt, dọn lên và cả hai đều sống theo cách ấy.

Mỗi khi vua xông ra, hét lớn: “Ta đây là tên cướp ăn thịt người!” không ai đứng vững được nữa, họ đều ngã xuống đất, người nào vua thích thì vua cứ tóm lấy, xách chổng ngược chân lên trời hay không đều có thể cả, rồi đưa cho người đầu bếp.

Một hôm, vua không tìm ra người nào trong rừng cả khi về nhà, người đầu bếp hỏi:

– Tâu Ðại vương, thế nào đây?

Vua bảo y đặt nồi lên lò lửa.

– Nhưng thịt đâu, tâu Ðại vương?

– Ồ ta sẽ tìm ra thịt mà. – Vua đáp.

Người đầu bếp suy nghĩ : “Thôi chết ta rồi? ” và vừa run rẩy, y vừa nhóm bếp và đặt nồi lên lò. Sau đó kẻ ăn thịt người giết y với một nhát kiếm và nấu thịt ăn. Từ đó vua hoàn toàn cô độc và phải nấu ăn cho mình.

Tiếng đồn vang dậy khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ): “Kẻ ăn thịt người kia giết hại khách qua đường”. Thời ấy có một vị Bà-la-môn giàu đang đi buôn với năm trăm cỗ xe hàng hóa từ Ðông sang Tây và suy nghĩ: “Dân chúng đồn rằng kẻ ăn thịt người ấy giết người trên xa lộ. Ta sẽ đi xuyên qua rừng này bằng cách trả tiền mãi lộ”.

Thế là ông trả một ngàn đồng tiền cho đám dân sống ở lối đi vào rừng, dặn họ chở ông an toàn qua khu rừng rồi lên đường cùng với họ. Ông đặt cả đoàn xe đi trước và sau khi tắm gội, xoa dầu thơm và phục sức lộng lẫy, ông ngồi vào chiếc xe êm ái do đôi bò trắng kéo, và được cả đoàn hộ tống, ông khởi hành cuối cùng.

Kẻ ăn thịt người trèo lên cây ngồi rình đợi người, nhưng dù y không cảm thấy thèm ăn bất cứ người nào trong đoàn xe, vừa chợt thấy vị Bà-la-môn thì nước miếng trong mồm y nhỏ ra vì thèm ăn thịt vị ấy. Khi vị Bà-la-môn đến gần, y xưng danh hiệu thét lớn:

– Ta là tên cướp ăn thịt người đây?

Vừa vung kiếm lên giống như một người tung cát mù mắt kẻ khác, y nhào tới đoàn người và không ai có khả năng chống cự lại y, mà tất cả đều ngã sống soài xuống đất.

Vừa chụp lấy chân vị Bà-la-môn đang ngồi trên chiếc xe êm ái kia, tên cướp ném ông lên lưng mình, đầu dốc ngược xuống đất, đập mạnh vào gót chân y trong khi kéo ông đi xa. Ðám người kia đứng dậy kêu nhau:

– Này bạn hãy dậy mau lên. Ta đã nhận một ngàn đồng tiền từ tay vị Bà-la-môn. Ai trong bọn ta ra dáng nam nhi đây? Cả bọn ta dù mạnh hay yếu, đều phải đuổi theo nó một đoạn đường.

Họ đuổi theo y và kẻ ăn thịt người dừng lại nhìn lui khi không thấy ai, lại tiếp tục đi chầm chầm. Lúc ấy một người bạo gan chạy hết tốc lực bắt kịp y. Khi thấy gã kia, kẻ cướp nhảy lên một hàng rào, dẫm nhầm một mảnh gỗ cây keo nhô ra ở đầu bàn chân khiến y bị thương, phải lê bước trong khi máu rỉ ra từ vết thương.

Lúc ấy người đuổi theo thấy vậy liền nói:

– Chắc chắn ta đã làm y bị thương, các bạn cứ bám sát theo, ta sẽ bắt được y.

Họ thấy y yếu sức quá liền họp sức đuổi bắt y. Khi thấy mình bị đuổi theo y, kẻ cướp thả vị Bà-la-môn và tìm cách thoát thân.

Ðám người hộ tống vị Bà-la-môn suy nghĩ ngay khi cứu được ông: “Chúng ta phải làm gì với kẻ cướp này nữa?”, rồi quay về.

Còn kẻ ăn thịt người đi đến gốc đa, nằm xuống giữa đám cây con và khấn vái thần cây này:

– Lạy nữ thần cây, nếu trong bảy ngày bà có thể làm lành vết thương của ta, thì ta nguyện sẽ tẩm thân cây bằng máu lấy từ cổ họng của một trăm lẻ một vương tử khắp cõi Diêm-phù-đề, và treo ruột gan chúng quanh thân cây rồi dâng lễ tế đàn bằng năm loại thịt ngon ngọt.

Bấy giờ do y không có gì để ăn uống, thân thể y hao mòn dần và trong bảy ngày, vết thương đã lành. Y nhận thấy y lành bệnh là nhờ nữ thần cây đa, và chỉ trong vài ngày, y phục hồi sức mạnh bằng cách ăn thịt người, nên y suy nghĩ: “Vị thần đã giúp đỡ ta rất nhiều. Ta phải thực hiện lời thề nguyện ấy”.

Y cầm kiếm xông ra từ gốc cây và lên đường với mục đích đem về các vương tử.

Bấy giờ, một thần Dạ-xoa, đã từng làm bạn đường cùng đi đây đó với y và cùng ăn thịt người, vì trong một tiền kiếp, y cũng đã là một Dạ-xoa, chợt trông thấy y và biết rằng trong một tiền kiếp y chính là bạn mình, liền hỏi:

– Này bạn có nhận biết ta chăng?

– Ta không biết.

Sau đó Dạ-xoa kể cho kẻ cướp nghe một việc mà cả hai đã cùng làm trong đời trước, kẻ ăn thịt người nhận ra bạn và chào hỏi ân cần. Khi được hỏi tái sinh thời nào, ở đâu, y kể cho bạn nghe nơi sinh trưởng của mình, trước kia đã bị đuổi ra khỏi vương quốc ra sao và hiện đang ở đâu. Y còn kể thêm cho bạn nghe y đã bị thương vì mảnh gỗ như thế nào và bây giờ y đang viễn du để giải lời thề với vị nữ thần cây.

– Ta sẽ phải vượt qua nỗi gian khổ này nhờ sự trợ giúp của bạn: này bạn, chúng ta hãy cùng đi. – Y nói.

– Ta không đi được, nhưng có việc này ta có thể giúp bạn. Ta biết chắc chắn một lá bùa đặc biệt có lời quý vô giá. Nó giữ vững sức mạnh, tốc độ của đôi chân và tăng cường uy lực. Hãy học bùa chú này.

Y đồng ý ngay và vị quỷ thần trao bùa cho y rồi ra đi. Kẻ ăn thịt người học thuộc lòng thần chú ấy, từ đó y đi nhanh như gió và rất gan dạ. Trong vòng bảy ngày y tìm được một trăm lẻ một vị vua đang đi trên đường tới ngự viên và nhiều nơi khác, y chồm lên các vị ấy nhanh như gió cuốn, xưng danh hiệu xong, y nhảy quanh và hét lớn khiến họ kinh hoảng. Rồi y nắm lấy chân họ, dốc ngược đầu xuống đất, mang đi thật nhanh như gió cuốn.

Kế đó, y đục lỗ trong lòng bàn chân họ và treo họ lên bằng dây trên cây đa, gió đánh lên họ khi họ vừa chạm đầu ngón chân xuống đất, họ treo lủng lẳng trên cây, quay cuồng như chuỗi hoa héo trong giỏ.

Nhưng kẻ ăn thịt người lại suy nghĩ: “Sutasoma là thầy giáo riêng của ta. Ðừng để cho toàn cõi Diêm-phù-đề phải suy tàn”. Vì thế y không mang vị ấy về.

Khi có ý định dâng lễ tế thần cây, y nhóm lửa và ngồi xuống mài cọc nhọn. Vị nữ thần cây suy nghĩ: “Y chuẩn bị dâng lễ tế đàn cho ta, nhưng không phải chính ta đã chữa lành vết thương của y. Nay y sắp làm một việc sát sinh trọng đại. Phải làm gì đây? Ta không đủ khả năng ngăn cản y”.

Vì thế bà vội đi kể với Tứ Ðại Thiên vương về sự việc này và xin các vị ngăn cản y. Khi các vị đáp không thể làm việc ấy, bà đến yết kiến Sakka Thiên chủ, kể cho ngài toàn thể câu chuyện và xin ngài ngăn cản y. Ngài nói:

– Ta không thể làm việc ấy, nhưng ta sẽ chỉ cho ngươi một người có thể làm được.

– Ðó là ai? Bà hỏi.

– Trong thế giới chư Thiên và loài người, không có ai khác ngoại trừ Sutasoma, vương tử xứ Kuru ở trong kinh thành Indapatta. Ngài sẽ giáo hóa cho y thuần thục, sẽ điều phục y để cứu mạng các vua kia, chữa cho y khỏi bệnh ăn thịt người và tưới nước cam lồ khắp cõi Diêm-phù-đề. Nếu ngươi muốn cứu mạng các vua kia, hãy bảo y trước tiên phải đem Sutasoma đến rồi dâng lễ tế đàn lên cây.

– Thật chí lý. – Vị thần đáp.

Rồi bà vội vàng ra đi, giả dạng một ẩn sĩ đến gần kẻ ăn thịt người. Nghe tiếng chân, y nghĩ thầm: “Một vua nào đó đã trốn thoát được chăng?” Vừa nhìn lên thấy ẩn sĩ, y lại nghĩ: “Các ẩn sĩ chắc chắn đều là Sát-đế-lỵ (quý tộc). Nếu ta bắt được nó, ta sẽ làm tròn con số một trăm lẻ một vua và dâng lễ”.

Y đứng lên mang kiếm trong tay đuổi theo ẩn sĩ nhưng dù y đã săn lùng vị ấy suốt ba dặm đường, y vẫn không bắt kịp vị ấy và mồ hôi đổ ròng ròng khắp tứ chi. Y nghĩ thần: “Trước kia ta từng đuổi theo và bắt được voi, ngựa hoặc xe chạy hết tốc lực, nhưng hôm nay dù ta đã chạy hết sức mình cũng không thể bắt được vị ẩn sĩ này vẫn đang đi thật tự nhiên. Vì lý do gì vậy?” Rồi y lại nghĩ: “Các ẩn sĩ thường có thói quen vâng lời: nếu ta bảo vị ấy dừng lại và vị ấy làm theo, ta sẽ bắt lấy”. Y liền kêu lớn:

– Thánh giả, hãy đứng lại:

– Ta đang đứng đây. – Vị ấy đáp – Ngươi cũng thử đứng lại nào.

Y đáp:

– Ô kìa, các ẩn sĩ dù có phải cứu mạng mình cũng không nói dối, nhưng ngài lại nói dối đấy.

Và y ngâm kệ:

  1. Mặc dù ta bảo đứng yên ngay,
    Ngài vẫn phóng mình tựa gió bay,
    Ngài lại thét: “Này! Ta đứng đó!”
    Chắc là ngài nói dối ta đây.
    Chuyện này quả thật không phù hợp.
    Ẩn sĩ ôi! Mang lấy kiếm này,
    Ngài phải giả làm tên bất hại
    Ðiểm lông chim hạc trắng, con mây.

Kế đó nữ thần đáp đôi vần kệ:

  1. Ta vẫn lòng theo đạo chánh chân,
    Chẳng thay tên họ hoặc thân nhân,
    Cường gian đây sống đời phù phiếm,
    Phút chốc đọa vào ngục khổ thân.
  2. Can đảm lên đi, hỡi Chúa công,
    Bắt So-ma vĩ đại anh hùng,
    Ðem về đây để ngài dâng lễ
    Sẽ đạt thiên đường, có biết không?

Cùng với những lời này, nữ thần cởi lớp áo giả dạng ẩn sĩ và xuất lộ nguyên hình, chói sáng giữa bầu trời như vầng nhật. Kẻ ăn thịt người nghe bà nói và ngắm hình dung bà, liền hỏi bà là ai. Khi nghe bà đáp bà ra đời làm vị thần cây này, y thích thú nghĩ thầm: “Ta đã trông cậy thần hộ mạng của ta rồi” và nói:

– Thưa nữ thần tiên, xin đừng lo ngại về Sutasoma, mà xin ngài hãy nhập vào thân cây lần nữa.

Vị thần nhập vào thân cây ngay trước mắt y. Vừa lúc ấy mặt trời lặn và mặt trăng lên. Kẻ ăn thịt người vốn tinh thông các kinh Vệ-đà và các sách bổ sung vào kinh ấy, lại quen với cách vận hành của các thiên thế, nên khi nhìn lên trời, y suy nghĩ: “Ngày mai sẽ có chòm sao Phussa xuất hiện, Sutasoma sẽ đến tắm ở ngự viên và ta sẽ ra tay với vua ấy”. Nhưng vì vua ấy có một vệ sĩ lực lưỡng và dân chúng khắp cõi Diêm-phù-đề sẽ đến hộ vệ vua trong vòng ba dặm, vậy vào canh một trước khi vệ sĩ đóng quân, ta sẽ đến ngự viên Migàcira, xuống hồ hoàng gia và đứng đó”.

Thế rồi y xuống hồ và đứng đó, che đầu bằng ngọn lá sen. Do uy lực vĩ đại của y, các loài cá, rùa đều lùi lại phía sau và bơi quanh từng đàn lớn bên bờ nước. Ta có thể hỏi: Do đâu y lại có cảnh vinh quang này? Ðó là do lòng mộ đạo của y trong đời trước.

Vào thời đức Phật Kassapa (Ca-diếp), y bắt đầu phân phát sữa theo phiếu. Nhờ vậy, y trở thành người rất có thế lực, và sau khi bảo Tăng chúng dựng sảnh đường để đốt lửa chống mùa lạnh, y cúng dường lửa, củi và cái rìu chẻ củi. Do kết quả việc này, y rất nổi tiếng. Vì thế bây giờ, khi y vào ngự viên, trời chỉ vừa rạng đông, quân sĩ đã canh phòng suốt ba dặm đường chung quanh, còn vua Sutasoma, sau buổi điểm tâm lúc sáng sớm, đã ngự lên mình voi được tô điểm yên cương thật lộng lẫy, với bốn đội quân hùng hậu hộ giá tiến ra khỏi kinh thành.

Ngay lúc ấy, một Bà-la-môn tên Nanda đi từ Takkasilà, mang theo bốn vần kệ, mỗi vần đáng giá một trăm đồng tiền, vừa đến kinh thành sau cuộc hành trình, dài một trăm hai mươi dặm, và trú ngụ ở một vùng ngoại ô.

Vừa rạng đông, vị ấy vào thành thấy vua đang ngự xa giá đi qua đông môn, liền giơ tay lên hô lớn: “Vạn tuế Ðại vương!” Bấy giờ vua bị viễn thị, trong khi đang cỡi voi, vua thấy cánh tay giơ lên của vị Bà-la-môn đang đứng trên một mô đất cao, liền tiến đến gần trên mình voi vừa ngâm kệ vừa hỏi như sau:

  1. Trẫm hỏi ngài sinh ở xứ nào,
    Ðến đây, Ðạo sĩ hỡi, vì sao?
    Nói rồi, nay trẫm liền ban tặng
    Bất cứ điều chi đấy nguyện cầu.
    Kế đó vị Bà-la-môn đáp lời vua:
  2. Bốn vần thi kệ, tấu Quân vương,
    Ý nghĩa sâu xa tựa hải dương,
    Mang đến đây, xin nghe thật kỹ
    Cao siêu huyền bí thảy am tường.

Vị ấy tiếp:

– Tâu Ðại vương, bốn vần thi kệ này do đức Phật Kassapa dạy tiểu thần, mỗi vần đáng giá một trăm đồng tiền. Sau khi nghe xong, nếu Ðại vương muốn dâng tế lễ nước trái cây soma, tiểu thần sẽ đến chỉ dẫn Ðại vương.

Vua vô cùng hân hoan phán:

– Này Tôn sư, ngài khéo làm việc này lắm, nhưng hôm nay trẫm không trở về triều được. Hôm nay là ngày giao hội của chòm sao Phussa, là ngày trẫm đi gội đầu. Khi trở về, trẫm sẽ nghe lời ngài. Xin đừng phật ý vì trẫm.

Cùng với những lời này, vua ra lệnh đám quần thần:

– Các khanh đến nhà một Bà-la-môn nào đó chuẩn bị một sàng tọa và sắp đặt một nơi ăn dưới mái hiên.

Xong vua đi vào ngự viên. Khu vườn được bao bọc bởi một tường thành cao mười tám cubit (1 cubit: 45cm) và được bầy voi canh phòng chung quanh đứng kề sát nhau. Kế tiếp là bầy ngựa, đoàn xe, cuối cùng là đám xạ thủ và các bộ binh khác; thật giống như cả đại dương dậy sóng làđạo quân được di chuyển đến đây.

Sau khi đã trút bỏ các vật trang sức nặng nề và được cạo râu, gội đầu với dầu thơm rồi, vua đi tắm hồ sen trong dáng diện uy nghi cao quý, và khi bước ra khỏi nước, vua đứng đó trong bộ áo tắm, quân hầu liền đem vòng hoa thơm ngát đến trang điểm cho ngài.

Kẻ ăn thịt người suy nghĩ: “Khi đã phục sức đầy đủ, nhà vua hẳn sẽ nặng lắm. Ta muốn bắt lấy vua khi còn nhẹ để mang đi”. Thế rồi vừa thét lớn vừa nhảy quanh và vung kiếm trên đầu nhanh như chớp, y xưng danh hiệu xong liền nói to:

– Này, ta đây là kẻ cướp ăn thịt người.

Rồi đặt ngón tay trên trán vua, y bước ra khỏi nước.

Ngay khi nghe tiếng thét, các quản tượng cùng đàn voi, các kỵ mã cùng đàn ngựa, các quản xe cùng đàn xe đều ngã xuống đất, cả đoàn quân sĩ đều thả vũ khí đang cầm và nằm sát xuống bụng.

Kẻ ăn thịt người chụp lấy Sutasoma dựng ngài thẳng đứng lên. Tất cả đám vương tử trước kia, y đều bắt lấy từ bàn chân và dốc ngược đầu xuống đất, rồi kéo lê họ đi khiến đầu họ đập vào gót chân y, nhưng nay đến gần Bồ-tát, y cúi xuống nhắc ngài lên và đặt trên vai mình.

Nghĩ rằng có lối đi quanh qua cổng thành, y nhảy lên bức thành cao mười tám cubit, ngay tạiđiểm đối diện con đường ấy, y vừa tiến lên vừa dẫm chân lên trán bầy voi làm rỉ ra chất dịch, lật nhào chúng xuống như thể các đỉnh núi. Kế đó y dẫm chân lên lưng bầy ngựa, dù thường ngày chúng nhanh như gió và quý vô cùng, rồi cũng đạp chúng ngã xuống đất.

Sau đó, y bước lên mặt trước của các cỗ xe lộng lẫy chẳng khác gì người quay con vụ (con cù), hay như thể người dẫm nát cây phalaka xanh biếc hay đám lá bàng, và thoắt một cái, y đã chạy xa ba dặm.

Rồi muốn biết có ai chạy theo để cứu Sutasoma không, y nhìn lên và thấy không ai, y lại đi chầm chậm. Khi nhận ra những giọt nước rơi xuống mình từ tóc Sutasoma, y nghĩ thầm: “Không ai sống mà khỏi sợ chết. Chắc có lẽ Sutasoma cũng đang khóc vì sợ đấy”, và y ngâm kệ:

  1. Những bậc uyên thâm, các trí nhân
    Tư duy cao cả phát sinh luôn,
    Chẳng bao giờ khóc, tìm an trú
    Bậc Thánh xua tan nỗi khổ buồn.
  2. Có phải vợ con hoặc họ hàng,
    Bản thân, kho thóc, bạc hay vàng,
    Ðã làm lệ chảy, So-ma hỡi,
    Ðại đế Ku-ru, đáp rõ ràng.

Sutasoma đáp:

  1. Không khóc gì cho chính bản thân,
    Vợ con, đất nước hoặc kho tàng,
    Thánh hạnh ngày xưa ta vẫn giữ,
    Khóc vì lời hứa chẳng chu toàn.
  2. Trước một La-môn, đã hứa lời,
    Khi ta trị nước với quyền oai,
    Lời kia ta ước mong gìn giữ
    Danh dự cứu xong, trở lại ngài!

Kẻ ăn thịt người đáp lại:
32. Ta chẳng tin rằng có thế nhân
Vận may thoát móng tử ma thần,
Trở về nộp mạng cho cừu địch,
Nếu để ngài đi, chẳng phục hoàn.

  1. Thoát kè sát nhân ác, trở về
    Hoàng cung, mộng ước đẹp tràn trề,
    Cuộc đời thân thiết đầy lôi cuốn
    Hồi phục cho ngài phải đắm mê.
    Vì lý do gì trên thế giới
    Mà ngài trở lại với ta hề?

Khi nghe lời này, bậc Ðại Sĩ vẫn gan dạ như sư tử, đáp:

  1. Vô tội, con người thích chết hơn
    Sống mang đầy tội đáng khinh nhờn,
    Nếu vì cứu mạng, buông lời dối
    Người chẳng thoát đâu ngục khổ buồn.
  2. Gió có thể lay chuyển núi cao,
    Trời, trăng rụng xuống cõi trần lao,
    Thưa ngài, và mọi dòng sông cạn,
    Nhưng vọng ngôn, ta chẳng phạm vào.

Dù Ngài nói vậy, kẻ ăn thịt người vẫn không tin ngài. Do đó, Bồ-tát suy nghĩ: “Kẻ này không tin ta; ta quyết làm cho y tin bằng một lời thề”, và bảo:

– Thưa Tôn giả ăn thịt người, xin hãy thả ta xuống khỏi lưng, ta sẽ thề nguyền khiến ngài tin ta.

Sau những lời này, ngài được kẻ ăn thịt người đưa xuống, đặt trên mặt đất và ngài phát nguyện:

  1. Này! Khi ta chạm kiếm, đao này,
    Thề nguyện trang nghiêm trước mặt ngài,
    Hãy thả ta và ta thoát nợ,
    Cứu xong danh dự, trở về đây.

Lúc ấy kẻ ăn thịt người nghĩ thầm: “Vua Sutasoma này thề chịu hình phạt nếu vi phạm luật lệ dòng Khattiya (Sát-đế-lỵ, võ tướng). Ta còn muốn gì với vị ấy nửa? À, ta cũng là một vua Sát-đế-lỵ. Ta sẽ lấy máu từ chính cánh tay mình và tế lễ thần cây. Ðây thật là một chàng trai rất nhát gan”. Rồi y ngâm kệ:

  1. Trước một La-môn, đã hứa lời,
    Khi ngài trị nước với quyền oai,
    Lời kia, ta phải bắt ngài giữ,
    Danh dự cứu rồi, trở lại thôi.

Sau đó bậc Ðại Sĩ nói:

-Này Hiền hữu, xin chớ phật lòng. Sau khi ta đã nghe bốn vần kệ kia, mỗi vần đáng giá một trăm đồng tiền, và dâng lễ cúng dường vị Pháp sư xong, ta sẽ trở lại vào lúc rạng đông.

Và ngài ngâm kệ này:

  1. Trước một La-môn đã hứa lời,
    Khi ta trị nước với quyền oai,
    Lời kia ta ước mong gìn giữ,
    Danh dự cứu xong, trở lại ngài.

Kẻ ăn thịt người đáp:

– Ngài đã thề chịu hình phạt nếu vi phạm phong tục của dòng Sát-đế-lỵ. Ngài hãy cẩn thận hành động cho đúng phép.

Ngài nói:

– Này hiền hữu ăn thịt người, ngài đã biết ta từ bé: trước kia ta chưa bao giờ nói dối dù để đùa chơi, còn nay ta đã được lên ngai vàng và biết điều phải trái thì sao ta nói dối được? Hãy tin ta, ta sẽ dâng lễ vật tế đàn cho hiền hữu.

Ðược thúc giục phải tin tưởng ngài, y đáp:

– Thôi được, Ðại vương hãy ra đi, và nếu Ðại vương không trở lại thì sẽ không có tế lễ và thần cây cũng không chấp nhận lễ nếu không có Ðại vương. Vậy đừng làm trở ngại việc dâng lễ của ta.

Rồi y để bậc Ðại Sĩ ra đi.

Giống như mặt trăng thoát khỏi móng vuốt của thần Rahu (La-hầu) và với sức mạnh của một chú voi còn trẻ, ngài nhanh chân về đến kinh thành.

Còn đám quân sĩ của ngài suy nghĩ: “Ðại vương Sutasoma là bậc hiền trí và là vị Pháp sư tuyệt hảo. Nếu Ngài có thể nói một hai lời với y, ngài sẽ cảm hóa y và trở về như con voi dũng mãnh thoát khỏi mồm sư tử”. Rồi họ lại nghĩ: “Dân chúng sẽ khiển trách chúng ta và nói: Sau khi bỏ mặc đức vua của các ông cho kẻ ăn thịt người, các ông còn trở lại với bọn này ư?”

Vì thế họ cắm trại ngoài kinh thành và khi chợt thấy ngài từ xa đi đến, họ bước ra đón ngài,đảnh lễ ân cần và thưa:

– Tâu Ðại vương, ngài không khiếp sợ kẻ ăn thịt người ấy ư?

Ngài đáp:

– Kẻ ăn thịt người ấy đã làm một việc khó khăn hơn bất cứ việc gì song thân ta đã làm. Là một kẻ hung tàn bạo ngược như vậy mà sau khi nghe ta thuyết Pháp, y đã để ta đi.

Sau đó, quân hầu trang điểm xiêm y cho ngài xong, đưa ngài lên lưng voi và hộ tống ngài về kinh. Khi thấy ngài, dân chúng hân hoan, và do lòng nhiệt thành của ngài đối với Pháp, ngài không đi viếng song thân mà lại nghĩ: “Ta sẽ thăm cha mẹ sau”, và ngài vào cung điện ngự lên ngôi báu.

Rồi ngài triệu vị Bà-la-môn đến, ra lệnh cạo râu cho ông, sau khi râu tóc được tỉa xong, ông được tắm rửa, xoa dầu thơm và phụ sức xiêm y lộng lẫy và họ đưa ông đến trước ngôi vua.

Khi vị Bà-la-môn đã được đưa vào yết kiến, chính vua Sutasoma cũng đi tắm gội, sau đó và ra lệnh đem ngự thiện của ngài dâng vị Bà-la-môn. Ðến khi vị Bà-la-môn đã thọ thực xong, chính vua mới dùng phần ngự thiện ấy.

Sau đó, ngài đặt vị Bà-la-môn lên một bảo tọa và để tỏ lòng tôn kính, ngài cúng dường vị ấy các tràng hoa thơm cùng các lễ vật tương tự, rồi chính ngài ngự trên một bảo tọa thấp và thỉnh cầu vị kia:

– Thưa Tôn sư, chúng ta muốn nghe các vần kệ mà Tôn sư đã đem đến cho chúng ta.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Thoát tay tàn bạo, giết nhân dân,
    Ðến Ðạo sĩ, người bạn thiết thân,
    Ngài bảo: “Chúng ta đều ước muốn
    Nghe bài thi kệ giá trăm đồng,
    Nếu ngài chiếu cố ban lời dạy,
    Lợi lạc chúng ta được hưởng phần”.

*

Khi Bồ-tát thỉnh cầu, vị Bà-la-môn liền rửa tay với nước hoa rồi rút ra một quyển sách đẹp từ túi xách, cầm sách cả hai tay và nói :

– Tâu Ðại vương, xin hãy nghe bốn vần kệ của tiểu thần, mỗi vần đáng giá một trăm đồng tiền. Chúng đã được đức Phật Kassapa dạy cho tiểu thần. Chúng có đặc tính hủy diệt tham đắm, kiêu mạn và các ác hạnh tương tự, chúng tạo cho con người khả năng tiêu trừ dục vọng, an tịnh các căn, thậm chí đưa đến Niết-bàn có uy lực vĩnh cửu, đoạn diệt khát ái, chặt đứt vòng luân hồi và nhổ tận gốc chấp thủ.

Cùng với những lời này, ông nhìn vào sách và ngâm các vần kệ sau:

  1. Hãy hòa hợp với Thánh hiền nhân,
    Này hỡi So-ma, chỉ một lần,
    Và chớ bao giờ thân kẻ ác,
    Bình an tràn ngập khắp toàn thân
    .
  2. Thường xuyên giao kết với hiền nhân,
    Chỉ nhận hiền nhân chính bạn thân,
    Học chánh lý từ bao bậc Thánh,
    Mỗi ngày tu tập tốt thêm dần.
  3. Như các xe vua khéo điểm trang
    Cũng thành mờ nhạt, sẽ tan hoang,
    Thân ta yếu đuối càng mòn mỏi,
    Và phải chịu nhanh chóng lụi tàn.
    Song Ðạo Thánh hiền nhân vĩnh cửu,
    Chẳng hề tàn tạ với thời gian,
    Thiên nhân tuyên thuyết cùng người thiện
    Qua các thời chưa được bảo ban.
  4. Bầu trời giăng rộng rãi bao la,
    Quả đất trải dài ở dưới ta,
    Lãnh thổ bên kia bờ đại hải,
    Chúng ta đều biết thật là xa.
    Song còn vĩ đại hơn muôn vật,
    Tầm mức ấy càng tỏa rộng ra
    Là Ðạo lý về điều thiện, ác
    Người hiền, kẻ ác dạy cho ta.

*

Như vậy vị Bà-la-môn đã dạy ngài bốn vần kệ, mỗi vần trị giá một trăm đồng, đúng như trước kia đã được đức Phật Kassapa thuyết giảng, rồi ông ngồi yên lặng. Bậc Ðại Sĩ rất hoan hỷ nghe kệ và bảo:

– Chuyến đi của ta về đây không phải là không được phần thưởng xứng đáng.

Rồi ngài suy nghĩ: “Những vần kệ này không phải chỉ là lời của một đệ tử hay một Thánh nhân, cũng không phải là tác phẩm của một thi sĩ, mà đó chính là do một đấng Toàn Tri Kiến nói ra; ta không biết chúng đáng giá ra sao. Dù ta có dâng toàn thế giới trải dài lên tận cõi trời Phạm thiên, sau khi chất đầy cả thế giới ấy với bảy báu vật, ta cũng không thể đền đáp xứng đáng những vần kệ này. Chắc chắn ta có thể trao vương quyền cho vị ấy tại kinh thành Indapatta rộng bảy dặm trong đất nước Kuru trải dài hơn ba trăm dặm này. Dĩ nhiên số phần vị ấy xứng đáng làm vua”.

Nhưng khi nhìn ông với khả năng tiên đoán tương lai của một người theo hình dáng bề ngoài, ngài không thấy các dấu hiệu như thế. Rồi ngài lại nghĩ đến ông với chức vụ đại tướng quân hay những chức vụ tương tự, nhưng cũng không thấy ông có tướng cầm đầu dù chỉ một ngôi làng nhỏ.

Kế đó, khi xem xét trường hợp hưởng thọ tài sản, bắt đầu từ mười triệu đồng, ngài thấy vị ấy đáng được hưởng bốn ngàn đồng, và nghĩ cách làm vinh dự vị ấy với chỉ số tiền này thôi, ngài ban tặng vị ấy bốn cái túi, một túi đựng một ngàn đồng tiền và bảo:

– Thưa Tôn sư, khi ngài dạy các vương tử khác những vần kệ này, ngài nhận được bao nhiêu?

-Tâu Ðại vương, mỗi vần một trăm đồng vậy chúng chỉ đáng giá một trăm thôi.

Bậc Ðại Sĩ bảo:

– Thưa Tôn sư, ngài không biết tính chất vô giá của món hàng mà ngài đem bán đâu. Từ nay phải xem là chúng đáng giá một ngàn đồng tiền.

Nói vậy xong, ngài ngâm kệ này:

  1. Các kệ này không chỉ bốn trăm,
    Ðúng hơn, phải nói giá hàng ngàn,
    Bốn ngàn đây, Ðạo Sư, cầm lấy,
    Ðem chúng đi ngay, hãy vội vàng.

Sau đó ngài đưa vị ấy đến một cỗ xe êm ái và ra lệnh cho quan hầu:

– Hãy đưa vị Bà-la-môn này về nhà an toàn.

Rồi ngài bảo ông đi về. Lúc này có tiếng tung hô tán thán nổi lên cùng tiếng kêu lớn:

– Hoan hô! Hoan hô! Ðại vương Sutasoma đã tôn vinh các vần kệ này rất trọng thể, khi nghĩ rằng mỗi vần kệ đáng giá một ngàn đồng tiền mà trước kia chỉ đáng giá một trăm.

Song thân của vua nghe tiếng ồn, hỏi chuyện gì, và khi nghe sự thật của việc ấy, do lòng tham lam, hai vị nổi giận với bậc Ðại Sĩ. Còn ngài, sau khi cho vị Bà-la-môn ra về, liền đến thăm song thân và đảnh lễ hai vị. Sau đó, phụ vương bảo:

– Này vương nhi, con đã thoát khỏi tay của kẻ được xem là tướp cướp hung bạo.

Rồi thay vì lộ vẻ vui mừng khi thấy ngài, do lòng tham tiền, vua cha hỏi:

– Có thật chúng nói con ban bốn ngàn đồng tiền vì nghe bốn vần kệ chăng?

Khi nghe ngài thú nhận là đúng, vua cha ngâm kệ này:

  1. Kệ thường mỗi khúc tám mươi đồng,
    Hoặc đến một trăm, giá tận cùng,
    Song hởi So-ma, nên tự chủ,
    Một ngàn là giá kệ chưa từng!

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ muốn thúc giục vua cha nhìn sự vật theo cách khác, liền nói:

– Tâu phụ vương, chính là con không muốn tăng thêm tài sản, mà tăng thêm kiến thức thôi.

Và ngài ngâm các kệ này:

  1. Con mong Thánh kiến cứ tăng dần,
    Bầu bạn thiết thân với Thánh nhân,
    Chẳng có sông nào đầy biển cả,
    Thiện ngôn con học mãi không cùng.
  2. Như lửa khát khao réo củi rơm,
    Biển đòi sông, lạch đổ nhiều hơn,
    Hiền nhân cũng vậy, tâu Hoàng thượng,
    Khao khát nghe lời nói thiện chơn.
  3. Từ miệng nô tỳ, nếu được nghe
    Tối cao ý nghĩa kệ tràn trề,
    Lời kia con nhận đầy cung kính,
    Ðạo lý thiện chân thỏa chẳng hề.

Sau khi nói vậy xong, ngài bảo:

– Xin phụ vương đừng chỉ vì tiền mà trách móc con. Con đã về đây, sau khi thề nguyền rằng con sẽ trở lại đó khi đã nghe Pháp xong. Nay con sẽ trở lại với quái nhân kia, xin phụ vương nhận lấy vương quyền.

Ngài trao chủ quyền cho phụ vương và ngâm kệ:

  1. Ðất nước của cha lắm bạc vàng,
    Cân đai, quốc phục, lạc vô ngàn,
    Sao còn khiển trách khi con bỏ
    Dục lạc, chết vào tay sát nhân?

Lúc này tim vua cha nóng rực lên và ngài bảo:

– Này, vương nhi Sutasoma yêu quý, con nói gì thế? Cha sẽ đi cùng tất cả bốn đạo quân và sẽ bắt được kẻ cướp ấy.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Dũng sĩ đến đây bảo vệ ta!
    Kẻ thì cỡi tượng, kẻ lên xa,
    Bộ binh, kỵ mã đầy cung tiễn,
    Thống lãnh đạo quân, giết địch nhà!

Lúc ấy phụ vương mẫu hậu ngài, mắt đẫm lệ, năn nỉ ngài:

– Này vương nhi, chớ đi, con không thể đi được.

Rồi mười sáu ngàn cung nữ ca múa cùng đám cận thần than khóc:

– Tâu Ðại vương, sao Ðại vương nở đến đó, bỏ chúng thần bơ vơ?

Và khắp kinh thành, không ai giữ được niềm xúc động, họ bảo nhau:

– Người ta nói ngài đã trở về đây sau khi đã hứa lời với kẻ ăn thịt người; giờ đây ngài đã nghe bốn vần kệ, mỗi vần đáng giá một trăm đồng, và đã bày tỏ lòng cung kính trọng thể đối với vị Pháp sư, cùng từ giã song thân, ngài sẽ quay lại lần nữa với kẻ ăn thịt người ấy.

Rồi cả kinh thành náo động dữ dội. Còn ngài khi nghe cha mẹ bảo thế, liền ngâm kệ này:

  1. Hành động cừu nhân ăn thịt người
    Bắt con, rồi thả, thật cao vời,
    Khắc ghi thuở trước tình bằng hữu,
    Ðã hứa, làm sao con nuốt lời?

Ngài lại an ủi song thân:

– Phụ vương và mẫu hậu yêu quý, xin đứng lo âu vì con. Con đã làm một việc công đức, nên việc điều phục ngũ dục tham không phải là vấn đề khó khăn gì đâu.

Vừa từ giã song thân, ngài vừa khuyến giáo quần chúng và ra đi.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Lời khéo khuyên, từ biệt lão thân,
    Chân thành nhắn nhủ cả quân, dân,
    Giữ lời thệ ước, không lừa dối,
    Vội trở về bên kẻ sát nhân.

*

Lúc ấy kẻ ăn thịt người suy nghĩ: “Nếu hiền hữu Sutasoma của ta muốn trở về, thì cứ để bạn trở về, không thể khác được, và mặc vị thần cây muốn làm gì tùy ý, còn ta sẽ giết các vương tử này và dâng tế lễ tế đàn bằng thịt của chúng với năm món ngon ngọt nữa”.

Thế rồi kẻ ấy chất đống củi hỏa thiêu và châm lửa, nghĩ rằng phải đợi cho đến khi than nóng đỏ lên. Trong lúc y ngồi mài cái xiên thịt thì Sutasoma đến.

Vừa thấy ngài, kẻ ăn thịt người vui mừng trong lòng, liền hỏi:

– Này Hiền hữu, bạn đã đi làm được những gì bạn muốn rồi chứ?

Bậc Ðại Sĩ đáp:

– Thưa vâng, này Ðại vương, ta đã nghe những vầng kệ do đức Phật Kassapa dạy vị Bà-la-môn kia, ta đã tỏ lòng tôn kính trọng thể đối với vị Pháp Sư và vì thế ta đã trở lại sau khi làm xong việc ta cần làm.

Ðể chứng minh điều này, ngài ngâm kệ:

  1. Trước một La-môn đã hứa lời,
    Khi ta trị nước với quyền oai,
    Nay ta đã trọn lời thề ước,
    Danh dự cứu xong, trở lại rồi.
    Vậy hãy giết ta và tế lễ
    Dâng thần cây gỗ của nhà ngài,
    Hay là thỏa mãn lòng tham muốn
    Ðộc ác bạo hung với thịt người!

Nghe lời vầy, kẻ ăn thịt người suy nghĩ: “Vua này không sợ, vị ấy nói lên với lòng đã xua tan mọi nỗi kinh hoàng chết chóc. Ta muốn biết uy lực này phát xuất từ đâu. Không thể có gì khác được. Vị ấy nói: “Ta đã nghe các vần kệ mà đức Phật Kassapa dạy bảo. Chắc hẳn uy lực siêu phàm này phát xuất từ đây. Ta sẽ bảo vị ấy ngâm kệ này cho ta nghe và do đó ta cũng sẽ thoát bất cứ nỗi sợ hãi nào”.

Khi đã quyết định như vậy xong, y ngâm kệ này:

  1. Dù ta trì hoãn một hai ngày,
    Lửa vẫn còn làm khói tỏa bay,
    Chẳng mất quyền ăn mồi thịt ấy,
    Thịt quay than nóng thật ngon thay!
    Các vần kệ giá trăm đồng chẵn
    Ngài hãy mau lên, đọc kệ ngay!

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Kẻ ăn thịt người này là kẻ phạm tội ác. Ta sẽ khiển trách y đôi lời và làm y biết ô nhục vì những lời của ta”. Ngài liền bảo:

  1. Kẻ ăn đồng loại, bạo tàn thay,
    Thèm thịt, đã rơi khỏi chiếc ngai,
    Vần kệ dạy cho ta Chánh lý,
    Chánh, Tà phải kết hợp sau đây?
  2. Với kẻ cướp hung ác bạo tàn,
    Bàn tay đã nhúng máu đầy tràn,
    Lợi gì Thánh kiến này đem đến,
    Phát xuất từ đâu lẽ Chánh Chân

Cho dù được nghe nói các lời này, kẻ ăn thịt người cũng không tức giận. Vì sao vậy? Ðó là do uy lực từ tâm của bậc Ðại Sĩ. Vì thế y nói:

– Này Hiền hữu Sutasoma, chỉ một mình ta là bất chánh thôi sao?

Và y ngâm kệ:

  1. Kẻ nọ đi săn bắt thú rừng
    Ðể làm thành món thịt thơm lừng,
    Và người kia giết người đồng loại
    Lấy thịt bà con để nấu ăn,
    Khi chết, cả hai đồng tội lỗi,
    Sao riêng ta bị trách cùng hung?

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ ngâm kệ này để phá tan tà kiến ấy:

  1. Trong ngũ thú, loài có móng, răng,
    Khôn ngoan, vương tử cứ dùng ăn,
    Còn ngài ăn thịt đà kiêng kỵ,
    Này Ðại vương ôi, thật bạo hung!

Khi nghe lời khiển trách trên, y thấy không còn đường nào thoát được cả, liền cố tìm cánh che dấu tội lỗi của mình và ngâm kệ:

  1. Thoát kẻ bạo hung nuốt thịt người,
    Về cung, đầy mộng ước xinh tươi,
    Sao còn nộp mạng cho cừu địch,
    Ngài chắc tinh thông đạo lý trời?

Lúc ấy, bậc Ðại Sĩ đáp:

– Này hiền hữu, một người như ta chắc hẳn phải thông thạo kiến thức truyền thống Khattiya (Sát-đế-lỵ: võ tướng, quý tộc). Ta hiểu rõ lắm chứ, nhưng ta không hướng dẫn hành động của ta theo đó.

Và ngài ngâm kệ:

  1. Ai thông đạo Khat-ti-ya vầy,
    Ðều xuống ngục sâu sống đọa đày,
    Ta vốn ghét căm truyền thống ấy,
    Theo lời đã hứa, trở về đây.
    Hãy làm tế lễ và ăn thịt
    Ta trọn, Ðại vương khủng khiếp này
    .

Kẻ ăn thịt người hỏi:

  1. Ðất rộng, cung đình, bò, ngựa, trâu,
    Hương thơm, áo đẹp, lắm nàng hầu,
    Ðại vương đầy đủ bao điều ấy,
    Chánh pháp ngài tìm hạnh phúc đâu?

Bồ-tát đáp lại:

  1. Mọi lạc thú mà cõi thế gian
    Tặng ta, chẳng có thú nào hơn
    Niềm vui Chánh pháp ta tìm thấy:
    Ẩn sĩ, La-môn vẫn trú an
    Trong đạo Chánh chân và giải thoát
    Tử sinh, bờ nọ đến an toàn.

Như vậy bậc Ðại Sĩ đã thuyết giảng cho kẻ ấy về hạnh phúc trong Chánh pháp. Lúc ấy kẻ ăn thịt người, nhìn vào mặt ngài sáng rực rỡ như đóa sen nở hay vầng trăng tròn đầy, lại suy nghĩ: “Vua Sutasoma này thấy ta đang sửa soạn một đống than hồng và mài nhọn cái xiêng nướng thịt, tuy nhiên không hề tỏ ra chút mảy may sợ hãi. Có thể đây là thần lực của các vần kệ đáng giá một trăm đồng kia hay là nó phát xuất từ một chân lý nào khác? Ta sẽ hỏi vị ấy”. Và y ngâm kệ theo hình thức câu hỏi:

  1. Thoát kẻ bạo hung nuốt thịt người
    Về cung, tràn mộng ước xin tươi,
    Sao còn trở lại thăm thù địch?
    Vương tử chắc không sợ chết rồi,
    Ðể giữ trọn lời ngài đã hứa,
    Bỏ qua dục lạc ở trên đời.

Bậc Ðại Sĩ đáp lại:

  1. Ta phát nguyện làm muôn ngàn công đức,
    Lễ dồi dào được danh tiếng lừng vang,
    Ðến đời sau, ta giữ thẳng con đường,
    Ai sợ chết khi trú an Chánh pháp?
  2. Ta phát nguyện làm muôn ngàn công đức,
    Lễ dồi dào được danh vọng vẻ vang,
    Không ăn năn, ta tiến đến thiên đàng,
    Hãy tế lễ và xé mồi ăn thịt.
  3. Song thân, ta đã thương yêu khắng khít,
    Ta được khen cai trị tuyệt công bình,
    Ðến đời sau ta chọn lối quang vinh,
    Ai sợ chết khi trú an Ðạo giáo?
  4. Song thân, ta đã phụng thờ chu đáo,
    Ta được khen cai trị tuyệt công bình,
    Không ăn năn, ta tiến đến thiên đình,
    Hãy tế lễ và xé mồi ngon ngọt.
  5. Ta phục vụ đám thân bằng quyến thuộc,
    Cai trị công bình được mọi người khen,
    Không ăn năn, ta chọn lối thăng thiên,
    Hãy tế lễ và xé mồi ăn gấp.
  6. Biết bao người, ta cúng dường cung cấp:
    Bà-la-môn, đạo sĩ, thảy hân hoan
    Ðến đời sau, ta chọn lối thiên đàng,
    Ai sợ chết khi trú an Chánh pháp?
  7. Biết bao người, ta cúng dường cung cấp,
    Bà-la-môn, đạo sĩ, thảy hân hoan,
    Không ăn năn, ta tiến tới thiên đàng,
    Hãy tế lễ và xé mồi ăn thịt.

Nghe vậy, kẻ ăn thịt người suy nghĩ: “Vua Sutasoma này là bậc thiện nhân tài trí: giả sử ta ăn thịt vị ấy, sọ đầu ta sẽ vỡ ra bảy mảnh, hoặc quả đất sẽ há miệng nuốt ta mất”, và y hoảng sợ nói:

– Này Hiền hữu, bạn không phải hạng người mà ta phải ăn thịt đâu.

Và y ngâm kệ:

  1. Thuốc độc kẻ nào uống chủ tâm,
    Ðộc xà hung bạo, lấy tay cầm,
    Tan thành bảy mảnh ngay đầu nó,
    Người chẳng dối lời, lại dám ăn!

Y nói với bậc Ðại Sĩ như vầy:

– Ta chắc bạn như thể là thứ thuốc độc chết người, ai dám ăn bạn chứ?

Và nóng lòng muốn nghe các vần kệ, y van xin ngài ngâm kệ cho y. Nhưng khi muốn tỏ lòng cung kính cao trọng đối với đạo Thánh hiền, lời thỉnh cầu của y bị bậc Ðại Sĩ từ chối vì lý do rằng y không phải là kẻ xứng đáng nhận vần kệ đầy đạo đức vẹn toàn như vậy, y tự nhủ: “Khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) không có vị hiền nhân nào như thế này, vì khi vị ấy thoát được tay ta, vị ấy đi về nghe kệ, và sau khi bày tỏ lòng cung kính trọng thể đối với vị Pháp sư, vị ấy trở lại đây với dấu hiệu thần chết in trên trán. Các vần kệ này chắc hẳn có giá trị siêu phàm”. Lòng y vẫn tràn đầy ước vọng cung kính nghe kệ ấy, y van xin bậc Ðại Sĩ và ngâm kệ này:

  1. Những người nghe giáo lý như chân,
    Thiện, ác sẽ mau chóng biệt phân,
    Có lẽ nếu nghe vần kệ ấy,
    Tâm ta sẽ hỷ lạc vô ngần
    .

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Nay kẻ ăn thịt người mong muốn nghe kệ: ta sẽ ngâm kệ cho y”, và ngài nói:

– Thôi được, này hiền hữu, hãy lắng nghe thật kỹ.

Sau khi đã làm kia chú ý, ngài ngâm nga các vần kệ đúng như ngài đã được Bà-la-môn Nanda thuyết giáo, trong lúc chư Thiên thần ở sáu cõi trời Dục giới đều đồng thanh hô lớn và Thiên chúng đều hoan nghênh tán thán, bậc Ðại Sĩ thuyết Pháp cho kẻ ăn thịt người như vầy:

  1. Hãy hòa hợp với Thánh hiền nhân,
    Này hỡi So-ma, chỉ một lần,
    Và chớ bao giờ thân kẻ ác,
    Bình an tràn ngập khắp toàn thân.
  2. Thường xuyên giao kết với hiền nhân,
    Chỉ nhận hiền nhân chính bạn thân,
    Học chánh lý từ bao bậc Thánh,
    Mỗi ngày tu tập tốt thêm dần.
  3. Như các xe vua khéo điểm trang
    Cũng thành mờ nhạt, sẽ tan hoang,
    Thân ta yếu đuối càng mòn mỏi,
    Và phải chịu nhanh chóng lụi tàn.
    Song Ðạo Thánh hiền nhân vĩnh cửu,
    Chẳng hề tàn tạ với thời gian,
    Thiên nhân tuyên thuyết cùng người thiện
    Qua các thời chưa được bảo ban.
  4. Bầu trời giăng rộng rãi bao la,
    Quả đất trải dài ở dưới ta,
    Lãnh thổ bên kia bờ đại hải
    Chúng ta đều biết thật là xa.
    Song còn vĩ đại hơn muôn vật,
    Tầm mức ấy càng tỏa rộng ra
    Là Ðạo lý về điều thiện, ác
    Người hiền, kẻ ác dạy cho ta.

Nhờ các vần kệ được bậc Ðại Sĩ khéo ca tụng và cũng chính vì kẻ ăn thịt người có trí khôn ngoan, y nghĩ thầm: “Quả thật các vần kệ này là lời của đức Phật Toàn Tri kiến”. Và toàn thân y rúng động vì năm thứ hỷ lạc, y cảm thấy một niềm từ ái đối với Bồ-tát và nhìn ngài theo cách một người cha sẵn sàng ban chiếc lọng trắng của hoàng gia cho con mình. Rồi y lại nghĩ: “Ta không có tặng vật bằng vàng ròng để tặng Sutasoma, nhưng ta sẽ ban một điều ước cho mỗi vần kệ ấy”. Và y ngâm kệ:

  1. Ý nghĩa chứa chan, giọng sáng trong,
    Lọt tai, vương tử, các chân ngôn,
    Tâm ta hoan hỷ, ta thích thú,
    Muốn tặng bạn hiền bốn đặc ân
    .

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ lại quở trách y:

– Này quả thật còn điều ước nào bạn muốn ban cho ta nữa ư?

Và ngài ngâm kệ:

  1. Người chẳng biết gì phận bản thân,
    Ðiều lành, điều ác chẳng hề phân,
    Chẳng phân địa ngục cùng thiên giới,
    Nô lệ cho lòng dục hám ăn,
    Sao kẻ đê hèn như bạn vậy
    Biết ban ân huệ đến tha nhân?
  2. Nếu bảo:”Cho ta ân huệ này”,
    Rồi ngài lấy lại lời thề ngay,
    Ai khôn ngoan muốn đành lòng chịu
    Liều lĩnh phân tranh vậy hỡi ngài?

Kẻ ăn thịt người tự nhủ: “Vị ấy không tin ta. Ta muốn làm vị ấy tin”, rồi y ngâm kệ:

  1. Chẳng ai đòi tặng một hồng ân,
    Rồi lại nuốt lời hứa, giả nhân,
    Bạo dạn chọn hồng ân, hỡi bạn,
    Dù ta mất mạng, vẫn ban phần.

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Kẻ này nói như một vị anh hùng và hứa làm những gì ta nói, ta sẽ nhận lời đề nghị của y. Nhưng nếu ta chọn ngay điều ước đầu tiên là y phải chừa ăn thịt người, chắc y sẽ đau lòng lắm. Vậy trước hết ta sẽ chọn ba điều ước khác, sau đó sẽ chọn điều này”, và ngài ngâm kệ:

  1. Ai kẻ sống cùng một Thánh nhân,
    Thường xuyên đối diện với đồng tâm,
    Vậy là người trí luôn tin chắc
    Làm đẹp ý lòng bậc trí chân
    Ta nguyện cầu ngài luôn tráng kiện,
    Sống lâu đến cả một trăm năm,
    Ðây lời cầu nguyện đầu tiên vậy,
    Ta muốn ngài ban tặng đặc ân.

Kẻ ăn thịt người nghe vậy, suy nghĩ: “Người này, dù ta đã đẩy ra khỏi vương quyền, nay vẫn cầu chúc trường thọ cho ta, một kẻ cướp lừng danh thèm khát thịt người và muốn làm hại vị ấy. Ôi! Thật là một người đầy thiện ý đối với ta”. Y thấy lòng hân hoan, mà không biết rằng lời ước này được chọn để đánh lừa y và sẽ có lợi cho ngài, y liền ngâm kệ ban lời ước:

  1. Ai kẻ sống cùng một Thánh nhân,
    Thường xuyên đối diện với đồng tâm,
    Vậy là người trí luôn tin chắc
    Làm đẹp ý lòng bậc trí chân.
    Ngài nguyện cầu ta luôn tráng kiện
    Sống lâu đến cả một trăm năm,
    Trước lời cầu nguyện đầu tiên ấy
    Hoan hỷ ta ban tặng đặc ân.
    Tiếp theo, Bồ-tát nói:
  2. Các vua bị bắt dưới tay ngài
    Nhiều nước phong vương, quán đảnh rồi,
    Những vị vua hùng trên cõi đất
    Chớ nên ăn thịt, Ðại vương ôi!
    Ðây là điều kế ta cầu khẩn
    Như một lời nguyền ước thứ hai
    .

Như vậy trong khi lựa chọn đặc ân thứ hai ngài đã đạt ước nguyện đem lại mạng sống cho hơn một trăm vị vua Sát-đế-lỵ, và kẻ ăn thịt người ngâm kệ ban ngài điều ước ấy:

  1. Các vua bị bắt dưới tay ta
    Nhiều nước phong vương, quán đảnh xưa,
    Những vua hùng mạnh, ta thề nguyện,
    Ta sẽ không ăn thịt nữa mà.
    Ước thứ hai này ta cũng tặng
    Thể theo lời bạn nguyện cầu ta.

Như thể các vị vua ấy có nghe được những gì hai vị này nới chăng? Họ chẳng nghe được gì cả vì khi kẻ ăn thịt người châm lửa, và sợ khói lửa làm hại cây, y bước lùi một khoảng xa cây ấy. Bậc Ðại Sĩ đàm luận với y, ngồi ở khoảng giữa cây và đống lửa, cho nên các vua không nghe mọi chuyện hai vị nói, mà chỉ nghe một phần và an ủi lẫn nhau:

– Thôi đừng sợ hãi, nay Sutasoma đang cải hóa kẻ ăn thịt người.

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ ngâm kệ:

  1. Hơn trăm vua ấy bị ngài giam
    Ðều bị trói tay, lại khóc than,
    Xin trả mỗi người về cố quốc,
    Ðệ tam ân huệ, ước ngài ban.

Như vậy trong khi chọn điều ước thứ ba, bậc Ðại Sĩ xin cho các vị vua được phục hồi quê quán, mỗi vị về vương quốc mình. Tại sao vậy? – Bởi vì kẻ ăn thịt người kia, giả sử không ăn thịt họ, nhưng vì sợ các vua thù oán y, sẽ giam cầm họ lại và bắt họ ở trong rừng hoặc giết họ rồi phơi thây, hoặc đem họ ra vùng biên địa bán làm nô lệ. Do đó ngài chọn điều ước cho các vua phục hồi cố quốc, và kẻ ăn thịt người ngâm kệ chấp thuận lời thỉnh cầu này:

  1. Hơn trăm vua ấy bị ta giam,
    Ðều bị trói tay, lại khóc than,
    Ta sẽ phục hồi về cố quốc,
    Ðệ tam ân huệ được ta ban.

Bấy giờ Bồ-tát ngâm kệ chọn điều thứ tư:

  1. Vương quốc hãi kinh, hóa dại cuồng,
    Trốn ngài, dân chúng ẩn trong hang,
    Thịt người, Chúa thượng, xin kiêng ky,
    Ấy nguyện thứ tư, ước được ban.

Khi ngài nói vậy xong, kẻ ăn thịt người vỗ tay cười lớn:

– Này Hiền hữu Sutasoma, quả thật đây là điều bạn muốn nói không? Làm sao ta có thể ban cho bạn đặc ân này chứ? Nếu bạn muốn nhận một đặc ân khác, thì hãy chọn một điều nữa đi.

Rồi y ngâm kệ này:

  1. Ta thấy món này, hợp vị ta,
    Nếu ta ẩn náu chốn rừng già,
    Làm sao lạc thú ta kiêng kỵ,
    Nguyện ước thứ tư, chọn lại mà!

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ nói:

– Vì ngài thích thịt người nên ngài nói: “Ta không thể từ bỏ nó được”. Người nào làm ác chỉ vì thú vui thì thật là kẻ ngu si.

Và ngài ngâm kệ:

  1. Vua chúa như ngài chẳng được chơi,
    Hy sinh cuộc sống chỉ vì vui.
    Hãy tìm ý nghĩa cao siêu nhất
    Cuộc sống tặng ban quý tuyệt vời
    Lạc thú vị lai đời kế tiếp
    Rồi ngài hưởng phước đức này thôi.

Khi những lời này được bậc Ðại Sĩ nói xong, kẻ ăn thịt người bị nỗi kinh hoàng trấn áp và suy nghĩ: “Ta không thể từ chối lời ước mà Sutasoma lựa chọn, cũng không thể chừa ăn thịt người. Vậy ta phải làm gì đây?”

Với đôi mắt đẫm lệ, y ngâm kệ này:

  1. Ngài biết ta yêu thích thịt người,
    Su-ta Ðại Sĩ, thế này thôi,
    Ta không bỏ nó bao giờ nữa,
    Suy nghĩ, chọn điều khác, bạn ôi!

Bồ-tát lại đáp:

  1. Người nào luôn hưởng thú vui chơi,
    Hủy diệt cuộc đời để được vui,
    Như kẻ say dùng liều thuốc độc,
    Về sau phải chịu khổ không nguôi.
  2. Người quyết tâm chừa lạc thú đời,
    Con đường phận sự khó theo hoài,
    Như người đau uống liều điều trị,
    Sống lại đời sau cực lạc thôi.

Sau khi ngài nói vậy xong, kẻ ăn thịt người đau đớn khóc than, ngâm vần kệ:

  1. Ngũ lạc phát sinh tự giác quan,
    Ta đều từ bỏ cả song thân,
    Ta vào rừng ở vì nhân ấy,
    Lời bạn ước sao có thể ban?

Bậc Ðại Sĩ ngâm kệ đáp:

  1. Trí nhân không thể nói hai lời,
    Ta biết thiện nhân đúng ước thôi:
    “Hiền hữu chọn đi vài nguyện ước”
    Là điều ngài đã bảo ta rồi,
    Giờ đây những chuyện ngài đang nói
    Khó hợp điều này, Chúa thượng ôi!

Một lần nữa, kẻ ăn thịt người vừa khóc vừa ngâm kệ:

  1. Tổn đức, ô danh, khổ nhục tràn,
    Tham lam, tà hạnh, tội muôn vàn,
    Ta đều phạm, để ăn đồng loại,
    Lời bạn ước, sao ta phải ban?

Bậc Ðại Sĩ lại nói:

  1. “Không ai đòi tự nguyện ban ân,
    Rồi lấy lại lời, kẻ giả nhân,
    Bạo dạn chọn ân này, bạn hỡi,
    Dù ta mất mạng, cũng ban phần.

Khi ngài đã đưa ra vần kệ do chính kẻ ăn thịt người cảm khái thốt lên trong giai đoạn đầu, ngài lại ngâm kệ để khích lệ y can đảm ban điều ước ấy:

  1. Thiện nhân đành mất cả dòng đời
    Song giữ lời xưa, dẫu thiệt thòi,
    Chúa thượng, nếu ngài ban ước nguyện,
    Làm ngay chuyện ấy trọn công ngài.
  2. Ai đem tài sản cứu tay chân,
    Sẽ bỏ tay chân cứu lấy thân,
    Tài sản, tứ chi, thân sẽ mất,
    Chỉ còn Chân lý khẩn cầu ân.

Như vậy bậc Ðại Sĩ dùng nhiều phương tiện an trú kẻ ăn thịt người vào Chánh pháp, và bây giờ ngài ngâm kệ để giải thích việc cần phải tôn trọng danh hiệu của ngài:

  1. Miệng kẻ nào minh chứng Thật chân,
    Ðoạn nghi nhờ các bậc hiền nhân,
    Kẻ ấy chính là nơi ẩn trú,
    Chính là điểm tựa, chốn nương thân.
    Lòng hiền nhân mến thương người ấy
    Sẽ chẳng bao giờ phải diệt vong
    .

Sau khi ngâm kệ xong, ngài bảo:

– Này Hiền hữu ăn thịt người, nếu bạn vi phạm lời dạy của một bậc Ðạo Sư Tối thắng như vậy, thì thật không hợp lẽ phải, và hơn nữa, khi bạn còn trẻ, ta đã làm vị trợ giáo cho bạn, đã chỉ bảo bạn nhiều rồi, nay ta dùng uy lực của một bậc Giác Ngộ ngâm cho bạn nghe các vần kệ trị giá mỗi vần một trăm đồng: vậy bạn hãy vâng lời ta.

Khi nghe vậy, kẻ ăn thịt người suy nghĩ: “Sutasoma đã là thầy dạy ta, vừa là bậc đa văn uyên bác và ta đã ban cho vị ấy chọn điều ước. Ta phải làm gì đây? Cái chết quả thật là một sự dĩ nhiên trong cuộc đời mỗi người. Vậy ta sẽ không ăn thịt người nữa nhưng phải ban ân huệ mà ngài yêu cầu”.

Với dòng lệ tuôn tràn từ đôi mắt, y đứng lên và quỳ xuống chân Sutasoma, ngâm kệ ban ân:

  1. Thực phẩm ngọt ngon, thú vị thay,
    Vì duyên cớ ấy, ẩn rừng cây,
    Nhưng nay bạn bảo ta làm vậy,
    Ta tặng bạn – thầy ân huệ đây.

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ nói:

– Này Hiền hữu, mong được như vậy. Ðối với người đã đứng vững vàng trong giới hạnh, thì ngay cái chết cũng là một ân huệ. Thưa Ðại vương, ta xin nhận đặc ân mà ngài đã ban ta. Ngay từ hôm nay, ngài được an trú trong con đường của một bậc Ðạo Sư hướng dẫn, và vì vậy, ta xin ngài một đặc ân này nữa: nếu ngài có lòng thương mến ta, xin ngài chấp nhận Ngũ giới.

Y đáp:

– Tốt lành thay, xin Hiền hữu dạy ta Ngũ giới.

– Xin Ðại vương học Ngũ giới từ ta.

Thế rồi y đảnh lễ bậc Ðại Sĩ với năm phần thân thể sát đất và ngồi xuống một bên, và bậc Ðại Sĩ an trú y vào Ngũ giới.

Lúc ấy các địa thần tụ họp lại, bảo nhau:

– Không ai từ các chúng sinh trong địa ngục Avìci (A-tỳ: Vô gián) đến chư Thiên tối cao trong các cõi Vô sắc mà vì lòng thương mến đối với bậc Ðại Sĩ, có thể làm cho kẻ ăn thịt người này từ bỏ việc sát nhân ấy. Ôi! Sutasoma đã thị hiện một phép thần thông vị diệu thay?

Các vị hoan nghênh làm rừng cây vang dội với những tiếng reo hò lớn, và khi nghe huyên náo, Tứ Ðại Thiên vương cũng reo lớn như vậy toàn thế giới vang rền tiếng tán thán đến tận cõi Phạm thiên.

Các vị vua bị treo trên cành cây nghe tiếng náo động reo mừng của chư Thần, và nữ thần cây vẫn còn đứng ở nơi trú ẩn cũng thốt ra âm thanh hưởng ứng. Như vậy người ta nghe tiếng reo hò của các vị Thần, nhưng không thể thấy được hình dáng các vị.

Khi nghe tiếng reo lớn hoan nghênh của chư Thần, các vị vua suy nghĩ: “Nhờ Sutasoma chúng ta được cứu mạng, Sutasoma đã thị hiện phép thần thông để giáo hóa kẻ ăn thịt người ấy”, và các vị cũng dâng lên lời tán tụng Bồ-tát.

Còn kẻ ăn thịt người đứng sang một bên sau khi đảnh lễ dưới chân Bồ-tát. Bậc Ðại Sĩ bảo y:

– Này Hiền hữu, hãy thả các vương tử này.

Y suy nghĩ: “Ta là kẻ thù của họ. Nếu họ được ta thả ra, họ sẽ nói: “Hãy bắt y, y là kẻ thù của chúng ta”, và sẽ làm hại ta. Nhưng dù có mất mạng sống, ta cũng không thể phạm vào giới hạnh mà ta đã nhận từ tay Sutasoma. Ta sẽ đi cùng ngài và thả họ ra, như thế ta sẽ được bình an”. Rồi vừa đảnh lễ Bồ-tát, y vừa nói:

– Này Sutasoma, chúng ta hãy cùng đi thả các vương tử.

Và y ngâm kệ:

  1. Ngài là thầy giáo của riêng ta,
    Cùng với bạn thân, chỉ một mà.
    Hãy ngắm, thưa ngài, lời bạn bảo
    Ta vừa mới thực hiện bây giờ.
    Lượt ngài thực hiện lời ta bảo:
    Ta sẽ đi cùng thả các vua.

Bồ-tát đáp:

  1. Ta là thầy giáo của ngày xưa
    Cùng với bạn thân, chỉ một mà.
    Quả thật, thưa ngài, lời dạy bảo
    Ngài vừa mới thực hiện bây giờ.
    Lượt ta thực hiện lời ngài bảo:
    Ta sẽ cùng đi thả các vua.

Khi đến gần các vua kia, ngài nói:

  1. Các ngài bị trói trên cây này,
    Nước mắt chảy tuôn đã ngập đầy,
    Vì ác quỷ này làm hại vậy,
    Song ta vẫn muốn các ngài hay
    Một lời ước hẹn cùng vua ấy
    Chẳng có bao giờ đụng ngón tay.

Các vị vua đáp liền:

  1. Khóc than vì bị trói trên cây,
    Ác quỷ hại người, đáng ghét thay,
    Tuy thế, chúng ta long trọng hứa:
    Nếu còn sống, chẳng hại người này.

Lúc ấy Bồ-tát nói:

– Tốt lành thay, xin hãy hứa lời này với ta.

Và ngài ngâm kệ:

  1. Như với bầy con, bậc mẹ cha
    Tỏ tình yêu thắm thiết, bao la,
    Ước mong vua ấy luôn minh chứng
    Là một người cha đúng nghĩa mà.
    Mong ước các ngài như lũ trẻ
    Thương yêu vua ấy thật sâu xa
    .

Các vị vua cũng đều đồng ý việc này và ngâm kệ:

  1. Như với bầy con, bậc mẹ cha
    Tỏ tình yêu thắm thiết, bao la,
    Ước mong vua ấy luôn minh chứng
    Là một người cha đúng nghĩa mà.
    Mong ước chúng ta như lũ trẻ
    Thương yêu vua ấy thật sâu xa
    .

Như vậy bậc Ðại Sĩ đã đòi các vị ấy thề ước xong, ngài gọi kẻ ăn thịt người đến và bảo:

– Hãy đến thả các vương tử này ra.

Kẻ ăn thịt người cầm kiếm cắt dây trói một vua trong số đó. Vì vua này đã nhịn ăn suốt bảy ngày cùng chịu đau khổ đến điên cuồng, nên vừa được cắt dây thả ra, vị ấy ngã nhào xuống đất. Bậc Ðại Sĩ thấy vậy động lòng từ bi, liền nói:

– Này Hiền hữu ăn thịt người, đừng cắt dây thả họ xuống như vậy.

Rồi ôm lấy một vị vua thật chặt trong đôi tay, ngài ôm sát vị ấy vào ngực mình và nói:

– Bây giờ hãy cắt dây đi.

Như vậy, kẻ ăn thịt người cắt dây trói họ với thanh kiếm và bậc Ðại Sĩ, nhờ có sức mạnh phi thường, liền ôm mỗi vị vua vào ngực, và đưa xuống nhẹ nhàng như thể đó là con mình, rồi đặt vị ấy nằm sát xuống đất. Cứ vậy ngài đặt tất cả các vị vua xuống đất và sau khi rửa các vết thương, ngài nhẹ nhàng kéo các dây trói khỏi tay họ, giống như thể sợi dây ở tai trẻ con, ngài chùi sạch máu đông, làm cho các vết thương không nhiễm độc. Rồi ngài bảo kẻ ăn thịt người:

– Này Hiền hữu, hãy giã một ít vỏ cây kia trên hòn đá rồi mang đến cho ta.

Sau khi ngài bảo y đi tìm vỏ cây về, ngài thực hiện một lời Thề Chân lý và chà xát lòng bàn tay các vua ấy, thì các vết thương lành lặn ngay lập tức.

Kẻ ăn thịt người lấy một ít gạo đã chà vỏ, nấu thành một thứ thuốc phòng bệnh, rồi hai vị đưa cho một trăm lẻ một vương tử Sát-đế-lỵ uống như thuốc phòng bệnh, vì vậy mọi người đều hân hoan vừa lúc mặt trời lặn.

Hôm sau, vào lúc rạng đông, giữa trưa và xế chiều, hai vị đều cho họ uống nước cháo, nhưng ngày thứ ba, hai vị cho họ ăn cháo gạo và cơm chín, cứ thế cho đến khi họ bình phục. Sau đó bậc Ðại Sĩ hỏi xem họ đủ mạnh hẳn đề về nhà chưa và khi họ đáp họ có thể lên đường, ngài bảo:

– Này, Hiền hữu ăn thịt người, chúng ta cùng đi về vương quốc của mình.

Nhưng y vừa khóc, vừa quỳ xuống chân bậc Ðại Sĩ và kêu to:

– Xin Hiền hữu đem các vua này ra đi, còn ta sẽ tiếp tục ở đây sống bằng củ quả rừng.

– Này Hiền hữu, bạn muốn làm gì ở đây thế?

Vương quốc bạn là nơi đầy lạc thú. Hãy đi về cai trị ở Ba-la-nại.

– Này Hiền hữu nói gì thế? Ta không thể về đó được. Toàn dân kinh thành đều là kẻ thù của ta. Họ sẽ phỉ báng ta và nói: “Kẻ này đã ăn thịt mẹ, cha ta, hãy bắt tên cướp này”, và họ sẽ lấy hònđất đoạt mạng sống ta, nhưng còn ta đã quyết nhờ Hiền hữu an trú vào Ngũ giới, ta không thể giết ai được cả, cho dù để cứu mạng mình. Ta không muốn đi đâu. Vì ta từ bỏ thói ăn thịt người, ta sẽ sống bao lâu nữa đây? Và giờ đây ta cũng sẽ không còn thấy Hiền hữu nữa.

Kẻ ấy vừa khóc vừa nói:

– Thôi bạn hãy ra đi.

Bậc Ðại Sĩ vỗ lưng y và bảo:

– Này Hiền hữu, ta tên là Sutasoma: trước đây ta vừa cải hóa một người độc ác như bạn, và nếu bạn hỏi bạn sẽ phải kể chuyện gì ở Ba-la-nại, tại sao ta muốn an trú bạn ở đó, hoặc chia đôi vương quốc của ta, thì ta sẽ giao bạn một nửa đất nước ấy.

– Trong kinh thành của bạn cũng có những kẻ thù của ta. – Y đáp.

Sutasoma nghĩ thầm: “Khi vâng lời ta, người này đã hoàn thành một nhiệm vụ thật khó khăn. Vậy ta phải dùng phương tiện nào đó đưa y về cảnh vinh quang ngày trước”.

Và để chiêu dụ y, ngài ca tụng cảnh huy hoàng vĩ đại trong kinh thành của y như sau:

  1. Thú vật, chim muông, đủ mọi nơi,
    Ngày xưa thịt của chúng ngài xơi
    Do đầu bếp khéo tài đun nấu,
    Thật đúng cao lương vị tuyệt vời
    Tạo nỗi hân hoan như Đế Thích
    Hưởng bao tiên thực ở trên trời.
    Tại sao ngài bỏ rơi tất cả,
    Tìm lạc thú rừng vắng lẻ loi?
  2. Cung nữ cao sang, dáng mảnh mai,
    Xiêm y lộng lẫy khoác hình hài,
    Chung quanh Chúa thượng ngày xưa ấy,
    Cả đám vây quanh chật ních người,
    Như Ðế Thích trong Thiên chúng nọ,
    Ngài đi, lòng hạnh phúc vui tươi,
    Sao ngài lìa bỏ đời như vậy,
    Tìm lạc thú rừng vắng lẻ loi?
  3. Giữa vương sàng rộng rãi mênh mông,
    Ngài ngự, ngày xưa, hỡi Chúa công,
    Nhiều lớp chăn màn lông thú quý,
    Chất lên cao phủ cả mình rồng,
    Dưới đầu ngài gối màu hồng thắm,
    Giường nệm sạch tinh, trắng tựa bông,
    Sao lại giã từ tất cả vậy,
    Tìm vui đơn độc ở trong rừng?
  4. Nơi kia nhiều lúc giữa đêm thanh,
    Ngài vẫn thường nghe tiếng trống canh,
    Và những âm thanh siêu thế tục
    Vẫn thường vang dội đến tai mình,
    Lời ca, tiếng nhạc đồng hòa điệu,
    Khơi dậy tâm tư rộn rã tình.
    Sao lại giã từ tất cả vậy,
    Tìm vui đơn độc giữa rừng xanh
  5. Ngài có hoa viên đẹp đắm say,
    Nơi kia phong phú cỏ hoa đầy,
    Mi-gà vốn đã từng danh tiếng
    Là chốn ngự viên, đô thị này,
    Xa pháo dập dìu vô số kể,
    Ngựa, voi lũ lượt đứng từng bầy,
    Sao ngài lại bỏ rơi tất cả,
    Tìm thú rừng hoang cô độc vầy.

Bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Có lẽ khi người này nhớ lại hương vị các món cao lương mà y đã thưởng thức ngày xưa, y sẽ mong muốn trở về với ta”. Vì thế ngài chiêu dụ y trước tiên bằng thức ăn, kế đó là lôi cuốn các sắc dục của y, thứ ba là ý nghĩ về sàng tọa, thứ tư là ca múa nhạc, thứ năm là gợi lại ngự viên và kinh thành.

Ngài làm cho kẻ ấy mê mẩn với những ý tưởng trên rồi nói:

– Thưa Ðại vương, ta sẽ đi cùng ngài về Ba-la-nại và ổn định ngài tại đó xong, ta mới trở về vương quốc ta. Nhưng nếu chúng ta thất bại trong việc ổn định vương quốc Ba-la-nại, thì ta sẽ tặng bạn một nữa giang sơn của ta. Ngài còn làm gì với cuộc sống ở rừng nữa chứ” Chỉ cần làm theo lời ta dặn ngài là được.

Sau khi nghe lời ngài, kẻ ăn thịt người nôn nóng đi với ngài và suy nghĩ: “Sutasoma mong muốn ta an lạc quả thật là người đầy nhân từ. Trước tiên ngài đã an trú ta trong giới đức, nay lại bảo sẽ phục hồi vinh quang cũ cho ta và ngài có khả năng làm việc đó. Ta cần phải đi với ngài. Ta còn làm gì với rừng hoang nữa chứ?”

Lòng đầy hoan hỷ, y ước mong ca ngợi Sutasoma về đức hạnh của ngài, liền nói:

– Này Hiền hữu Sutasoma, không gì tốt đẹp hơn kết giao với bạn hiền, không gì xấu xa hơn kết giao với bạn ác.

  1. Giống như trong nửa tháng đêm đen,
    Mặt nguyệt mỗi ngày một khuyết thêm,
    Cũng vậy kết giao cùng kẻ ác
    Chịu bao hủy hoại, hỡi vua hiền!
  2. Như ta kết bạn hỏa đầu quân,
    Kẻ tối liệt trong bọn hạ tầng,
    Ta đã phạm vào bao ác nghiệp
    Kịp thời xuống địa ngục đày thân.
  3. Ví như trong nửa tháng trời quang,
    Mặt nguyệt ngày thêm một sáng dần,
    Cũng vậy, kết giao cùng bậc thiện,
    Ðại vương ôi, sẽ chẳng suy tàn.
  4. Như với bạn, ta được kết đôi,
    Này Su-ta, phải biết ngay thôi:
    Sau khi thành tựu điều chân chánh,
    Tất cả an vui đến cõi trời.
  5. Như lũ lụt tràn mặt đất khô,
    Thấy thường tạm bợ, chóng trôi qua,
    Cũng vầy kết bạn cùng người ác
    Là việc phù du, nước nổi mà.
  6. Song nước lụt tràn khắp hải dương
    Thấy bền lâu ấy chuyện bình thường
    Cũng như giao kết cùng người thiện,
    Là chuyện lâu dài, hỡi Ðại vương.
  7. Giao kết thiện nhân chẳng chóng qua,
    Tình huynh đệ vững suốt đời ta,
    Kết giao kẻ ác mau tàn lụi,
    Kẻ ác thường đi lạc hướng tà.

Như vậy kẻ ăn thịt người ca tụng bậc Ðại Sĩ qua bảy vần kệ trên. Còn ngài đem kẻ ấy và các vua kia đi đến một làng biên địa. Khi thấy bậc Ðại Sĩ, quần chúng vào kinh thành thông báo việc ấy. Quần thần của vua đi cùng một đạo quân hộ tống bậc Ðại Sĩ và ngài cùng đoàn tùy tùng này vào vương quốc Ba-la-nại.

Trên đường đi, dân chúng mang quà đến tháp tùng ngài, thế rồi cả đám đại chúng theo ngàiđến Ba-la-nại.

Thời ấy vương tử của kẻ ăn thịt người đang làm vua và Kàlahatthi vẫn là đại tướng quân, nên dân kinh thành đến trình vua việc này:

– Tâu Ðại vương, nhiều người kể với chúng thần rằng vua Sutasoma đã giáo hóa kẻ ăn thịt người và đang đến đây với y, chúng thần không muốn cho phép y vào kinh thành đâu.

Họ vội vàng đóng cổng thành và đứng đó với binh khí trong tay. Khi thấy cổng thành đã đóng, bậc Ðại Sĩ để kẻ ăn thịt người và một trăm lẻ một vua kia ở lại rồi cùng với vài cận thần đi kêu lớn:

– Ta là vua Sutasoma, hãy mở cổng ngay.

Các tướng lãnh đi tâu trình vua và vua ra lệnh mở cổng thành lập tức để bậc Ðại Sĩ vào thành. Vua cùng vị đại tướng Kàlahatthi ra nghênh tiếp ngài và đưa ngài cùng lên thượng lầu của cung điện.

Bậc Ðại Sĩ an tọa trên ngai vàng, triệu tập bà chánh hậu của kẻ ăn thịt người cùng cả đám cận thần đến, rồi ngài bảo Kàlahatthi:

– Này Kàlahatthi, tại sao khanh không cho vua ấy vào thành?

Vị này đáp:

– Ðó là một kẻ cùng hung cực ác, trong khi làm vua cai trì kinh thành này, đã ăn thịt nhiều người, làm điều phi pháp đối với các vị vua Sát-đế-lỵ và làm tan nát toàn cõi Diêm-phù-đề: đó là lý do khiến chúng thần hành động như vậy.

Ngài đáp:

– Các khanh chớ nghĩ rằng bây giờ kẻ ấy còn hành động như thế nữa. Ta đã giáo hóa y và an trú y vào giới đức. Y sẽ không làm tổn hại ai cho dù để cứu mạng mình đi nữa. Các khanh không còn gì nguy hiểm do y gây ra cả, vậy các khanh đừng hành động như thế. Thực ra các con phải chăm sóc cha mẹ: ai yêu quý cha mẹ sẽ lên thiên giới, còn các người khác sẽ xuốngđịa ngục.

Ngài khuyên răn vương tử như thế, trong lúc vị ấy ngồi trên một bảo tọa thấp bên cạnh ngài. Rồi ngài giáo huấn vị đại tướng:

– Này Kàlahatthi, khanh là bạn thân cũng là tùy tướng của vua, ngày trước khanh đã được vua phong quyền cao chức trọng, vậy khanh cũng phải hành động vì quyền lợi của vua.

Ngài lại khuyến giáo vương hậu:

– Này vương hậu, bà xuất thân dòng quý tộc và tự tay vua bà đã đạt ngôi vị chánh hậu, lại đầy đủ con trai con gái với vua ấy. Vậy bà cũng phải hành động vì quyền lợi của vua.

Rồi ngài thuyết giảng Chánh pháp để đưa vấn đề này lên hàng đầu:

  1. Không vua nào được quyền chinh phục
    Người chẳng nên xâm phạm suốt đời;
    Không bạn nào nên lừa dối bạn
    Bằng hành vi bội bạc tình người.
  2. Nàng nào có ý sợ phu quân,
    Ta bảo chẳng là vợ chánh chân;
    Khi phụ thân già không cấp dưỡng,
    Làm con chẳng đúng với danh xưng.
  3. Chẳng phải là nơi chốn hội trường,
    Nếu hiền nhân chẳng vãng lai luôn,
    Những ai không giảng bày Chân lý
    Rộng khắp, chẳng là bậc trí nhân.
  4. Những bậc ly tham dục, hận sân,
    Si mê, là những Thánh hiền nhân
    Chẳng hề quên giảng bày Chân lý
    Cho các thế nhân khắp mọi vùng.
  5. Bậc hiền ở giữa đám ngu đần,
    Nếu lặng thinh, ai biết trí nhân,
    Vị ấy nói lên thì tất cả
    Nhận ra Thầy dạy Pháp như chân.
  6. Thuyết giảng, tôn vinh Pháp chánh chân,
    Giương cao cờ hiệu của hiền nhân,
    Thánh nhân biểu tượng là lời thiện,
    Ngài phất ngọn cờ Chánh pháp luôn.

Vua và vị đại tướng nghe ngài thuyết Chánh pháp đều rất hoan hỷ, liền nói:

– Chúng ta hãy đi rước Ðại vương về đây.

Sau khi truyền đánh trống báo cáo khắp kinh thành, hai vị triệu tập dân chúng lại và bảo:

– Ðừng sợ nữa, chúng ta nghe tin đức vua đã được an trú vào Chánh pháp. Chúng ta hãy đi đón ngài về đây.

Thế rồi hai vị cùng quần chúng được bậc Ðại Sĩ dẫn đầu đi đảnh lễ vua kia. Họ đưa các thợ cạo đến và khi tóc râu được cạo sạch xong, vua ấy tắm rửa, mặc xiêm y sang trọng vào, họ đặt vua ngồi trên một đống bảo ngọc, làm lễ quán đảnh (rảy nước phong vương), rồi rước vua vào thành.

Vị vua ăn thịt người làm lễ cung kính chào một trăm lẻ một vua Sát-đế-lỵ và bậc Ðại Sĩ. Khắp nước Diêm-phù-đề chấn động vì tin loan truyền rằng Sutasoma, chúa thượng của loài người,đã giáo hóa kẻ ăn thịt người kia và phục hồi vương vị cho y.

Còn dân chúng thành Indapatta dâng sớ cầu xin vua trở về. Bậc Ðại Sĩ ở lại đó đúng một tháng và thuyết giáo vua kia:

– Này Hiền hữu, chúng ta sắp ra đi, hãy chăm lo tinh cần làm thiện pháp và truyền xây năm bố thí đường ở các cổng thành và tại cung vua, tuân hành Thập vương pháp (mười đức tính của vua hiền) và tránh xa ác đạo.

Rồi tứ một trăm lẻ một kinh thành, các đạo quân đông đảo tụ tập lại, cùng với đoàn hộ tống này, ngài lên đường về Ba-la-nại. Vị vua ăn thịt người cũng tiễn đưa ngài đến nửa đường thì dừng lại. Bậc Ðại Sĩ tặng ngựa cho những ai không có ngựa để cỡi rồi cho phép tất cả ra đi. Họ trao đổi những lời từ giã thân tình với ngài và sau các nghi lễ ôm nhau thắm thiết, họ trở về xứ sở riêng của mỗi người.

Bậc Ðại Sĩ cũng đến thành Indapatta trong cảnh uy nghi trọng thể, kinh thành ấy được dân chúng trang hoàng giống như kinh thành của chư Thiên. Sau khi cung kính đảnh lễ song thân, và bày tỏ nỗi hân hoan được gặp lại cha mẹ, ngài đi lên thượng lầu của hoàng cung.

Trong thời gian thực hành nền cai trị chân chánh tại vương quốc, tư tưởng này chợt nảy ra trong trí ngài: “Vị thần cây thật ích lợi cho ta; ta muốn vị ấy được cúng dường lễ vật”.

Vì thế ngài truyền xây một hồ nước rộng ở gần cây đa và di chuyển nhiều gia đình đến đó dựng một ngôi làng. Chẳng bao lâu nó trở thành một vùng rộng lớn có được tám mươi ngàn tiệm buôn.

Và bắt đầu từ mút xa nhất của các cành cây, ngài bảo san bằng mặt đất quanh gốc cây và xây một hành lang bao bọc có các cửa vòng cung và cổng ra vào thế là thần cây được lợi lộc.

Chính nhờ việc thiết lập ngôi làng trên địa điểm quỷ ăn thịt người được giáo hóa, vùng ấy trở thành thị trấn với tên là Kammàsadamma (Kiềm-ma-sắc-đàm: Nơi có quỷ ăn thịt người).

Còn các vị vua kia tuân theo lời giáo huấn của bậc Ðại Sĩ, thực hành các thiện sự như bố thí và nhiều việc khác, nên về sau được lên thiên giới.

*

Ðến đây, bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ Ta mới cải hóa Angulimàla, mà ngày xưa nữa, vị ấy cũng được ta cải hóa.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy vị vua ăn thịt người là Angulimàla (Người đeo vòng ngón tay), đại tướng Kàlahatthi là Sàriputta (Xá-lợi-phất), Bà-la-môn Nanda là Ànanda (A-nan), thần cây là Kassapa (Ca-diếp), Sakka Thiên chủ là Anuruddha (A-na-luật-đà), quần thần của các vua là hội chúng của đức Phật, song thân của vua là các vị trong hoàng gia của Ðại vương, và vua Sutasoma trong chuyện chính là Ta.

-ooOoo-

Chương XXII

Đại Phẩm

  1. Chuyện Vương tử què câm (Tiền thân Mùga-Pakka)

Con ơi đừng lộ trí thông minh…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Jetavana (Kỳ Viên) về Ðại sự Xuất thế của Ngài.

Một ngày nọ, các Tỷ-kheo ngồi tại Chánh pháp đường tán thán công hạnh xuất gia cao cả của đức Thế Tôn. Khi đức Thế Tôn đến hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi bàn luận đề tài gì, và khi được biết đề tài ấy, Ngài bảo:

– Không đâu, này các Tỷ-kheo, việc xuất thế của ta ngày nay, sau khi từ bỏ ngai vàng, không có gì kỳ diệu, khi Ta đã thành tựu đầy đủ Thập Ba-la-mật (Mười Hạnh Viên mãn của Bồ-tát). Vì trước kia, ngay khi trí Ta chưa thành tựu và Ta đang tinh tấn đạt đến các Hạnh Viên mãn, Ta đã rời bỏ ngai vàng và xuất thế.

Rồi theo lời thỉnh cầu của các Tỷ-kheo, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa có một vị vua tên là Kàsiràja trị vì quốc độ rất đúng pháp tại Ba-la-nại. Ngài có mười sáu ngàn phi tần, nhưng không bà nào có con cả. Quần thần họp lại (như trong Tiền thân Kusa) bảo nhau:

– Chúa thượng không có con trai nối dõi.

Rồi họ xin nhà vua cầu tự. Nhà vua ra lệnh cho mười sáu ngàn phi tần cầu tự, nhưng dù họ thờ phượng và cầu tự thần mặt trăng và nhiều thần linh khác, họ vẫn không có con.

Lúc bấy giờ Chánh cung vương hậu Candà, con gái nhà vua thuộc dòng họ Madda, vốn chuyên tâm làm các việc thiện, vua liền bảo bà cũng phải cầu tự. Thế là vào một ngày rằm trăng tròn, bà thọ giới Uposatha (Bố-tát giới) và trong khi nằm trên chiếc giường nhỏ, suy gẫm về cuộc đời đức hạnh của bà, bà thực hiện một lời cầu nguyện Chân lý như sau:

– Nếu ta chưa bao giờ phạm các giới luật thì hãy vì lòng thành của lời cầu nguyện này, xin ban cho ta một đứa con trai.

Vì uy lực của lòng thành này, cung thất của Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) nóng rực lên. Thiên chủ Sakka, sau khi xem xét và xác định rõ nguyên cớ xong, liền bảo:

– Vương hậu Candà đang cầu tự, ta sẽ cho bà thỏa nguyện.

Vì thế trong khi Thiên chủ tìm một đứa con xứng đáng cho bà, chợt trông thấy Bồ-tát.

Lúc bấy giờ Bồ-tát, sau khi trị vì hai mươi năm tại Ba-la-nại, đã tái sinh vào ngục Ussada và chịu đọa đày trong tám vạn năm, rồi lại hóa sinh vào cõi trời Ba mươi ba.

Sau khi kỳ hạn ở đó đã mãn, ngài mạng chung và ước mong lên các thiên giới cao hơn. Thiên chủ Sakka đến bảo ngài:

– Này Hiền giả, nếu Hiền giả sinh vào thế giới loài người, Hiền giả sẽ thành tựu đầy đủ các hạnh Ba-la-mật và sẽ làm lợi lạc quần sinh. Hiện nay chánh hậu Candà đang cầu tự, xin hãy nhập mẫu thai của bà.

Ngài bằng lòng và được năm trăm vị Thiên tử hộ tống, ngài nhập mẫu thai của chánh hậu, còn năm trăm vị Thiên tử được cưu mang trong lòng các phu nhân của các quan đại thần. Tử cung của chánh hậu như chúa đầy kim cương. Khi nhận thấy thế, bà liền tâu chuyện với vua. Ngài ra lệnh chăm sóc thật chu đáo cho hài nhi sắp chào đời được mọi sự bình an, và cuối cùng bà hạ sinh một hoàng nam đầy đủ mọi tướng tốt lành. Cùng ngày ấy, năm trăm hài nhi quý tộc ra đời trong dinh các quan. Vào lúc đó, nhà vua ngự trên bệ rồng, quần thần vây quanh thì có kẻ trình lên:

– Tâu Ðại vương, một vương tử vừa ra đời.

Vua nghe vậy, tình phụ tử khởi lên, xuyên suốt da thịt ngài đến tận xương tủy, lòng ngài rộn rã niềm vui, ngài thấy như trẻ lại. Ngài hỏi quần thần:

– Các khanh có hoan hỷ khi nghe vương tử được sinh không?

Quần thần đều đáp:

– Sao Ðại vương lại bảo thế? Trước đây chúng thần thật bơ vơ, nay đã có nơi nương tựa, chúng thần đã có một vị chúa tể.

Vua ra lệnh cho vị tể tướng:

– Hãy chuẩn bị một đám hầu cận cho con ta, hãy xem số hài nhi công tử vừa ra đời hôm nay là bao nhiêu?

Vị này xem thấy đủ năm trăm, liền trình lên. Vua ban năm trăm vương bào danh dự cho năm trăm công tử ấy cùng năm trăm nhũ mẫu.

Ngài lại ban sáu mươi bốn nhũ mẫu cho Bồ-tát, những người này không được có khuyết điểm nào như quá cao, quá gầy v.v… Ngực không xệ xuống, và phải đầy sữa ngọt. Nếu một hài nhi bú sữa trong lòng một nhũ mẫu quá cao, thì cổ hài nhi sẽ bị dài ra, nếu bú sửa trong lòng một nhũ mẫu quá thấp thì xương vai hài nhi sẽ bị co lại. Nếu nhũ mẫu quá gầy thì đùi hài nhi sẽđau nhức, nếu quá thô kệch thì hài nhi sẽ bị chân cong; cơ thể của một nhũ mẫu da đen sẽ quá lạnh; thân của nhũ mẫu da trắng sẽ quá nóng; hài nhi nào bú sữa của một nhũ mẫu ngực cao quá sẽ bị đầu mũi tẹt; một số nhũ mẫu lại có sữa chua, sữa đắng, v.v…

Vì vậy để tránh mọi khuyết điểm trên, vua gởi đến sáu mươi nhũ mẫu có sữa ngọt và không bị khuyết điểm nào; và sau khi ngợi khen Bồ-tát với đủ lời tán tụng, ngài cũng ban cho vương hậu một điều ước. Bà thọ lãnh ân huệ đó và ghi nhớ trong lòng.

Ðến ngày đặt tên cho hài nhi, triều thần ca ngợi các vị Bà-la-môn đã thấy được những điềm lành khác nhau, cùng hỏi xem họ có thấy điềm bất tường nào chăng. Các Bà-la-môn chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của thân tướng ngài, đồng nói:

– Tâu Hoàng thượng, thái tử có đầy đủ mọi tướng mạo của phúc phận mai sau, ngài sẽ có tài cai trị không những một châu mà cả bốn châu thiên hạ, ngoài ra không có điềm bất tường nào khác.

Vua đầy hoan hỷ, đặt tên con là Temiya-Kumàro vì ngày sinh ra vương tử, trời mưa khắp cả vương quốc Kàsi và vương tử sinh ra đã bị ướt đầm.

Khi vương tử đầy tháng, ngài được chưng diện thật đẹp và đem vào yết kiến vua. Nhìn đứa con yêu, vua liền ôm vào lòng chơi đùa với con. Cùng lúc ấy, có bốn tên cướp được đưa đến trước mặt vua; một trong bốn tên đó bị ngài xử phạt một ngàn roi quấn gai nhọn, một tên khác phải bị gông cùm xiềng xích, một tên nữa phải bị đâm bằng giáo, và tên cuối cùng bị đâm cọc xuyên suốt toàn thân. Bồ-tát nghe vua cha nói, kinh hãi nghĩ thầm: “Ôi cha ta vì làm vua mà mang lấy những ác nghiệp khiến cho người phải đọa địa ngục”.

Ngày hôm sau ngài được đặt nằm trên một chiếc giường lộng lẫy che lọng trắng. Khi ngài tỉnh dậy sau một giấc ngủ ngắn, mở mắt nhìn lên lọng trắng cùng vẻ nguy nga của hoàng cung, nỗi kinh hãi càng tăng lên, ngài tự hỏi: “Từ đâu ta lại đến cung này?”, và hồi tưởng lại các đời trước, ngài nhớ ra rằng xưa kia ngài đã đi từ thế giới chư Thiên và đã chịu đọa đày ở địa ngục, rồi ngài cũng đã làm vua trong chính kinh thành này.

Trong lúc ấy, ngài suy nghĩ: “Ta đã làm vua hai mươi năm, rồi chịu đọa đày tám vạn năm ở ngục Ussada, bây giờ ta lại sinh vào ngôi nhà có trộm cướp này, và cha ta, khi thấy bốn tên cướp được đưa vào, đã thốt ra những lời ác độc khiến người phải đọa địa ngục. Nếu ta làm vua, ta cũng sẽ lại bị đọa vào địa ngục và chịu khổ hình”.

Ngài vô cùng kinh hãi, thân thể vàng óng của ngài tái nhợt đi và héo úa như đóa sen bị giày vò trong tay, ngài nằm suy nghĩ tìm cách thoát khỏi ngôi nhà đầy kẻ cướp này.

Lúc ấy vị nữ thần trong chiếc lọng, ở một kiếp xa xưa nào đó đã là mẹ của ngài, hiện ra an ủi ngài:

– Này con Temiya của ta, con đừng sợ hãi, nếu con thật sự muốn thoát khỏi đây, con cứ giả vở què dù con không thực què, cứ giả điếc dù con không thực sự điếc, cứ giả vờ câm dù con không thực sự câm. Cứ khoác lên mình những dị tật đó, đừng lộ chút dấu hiệu thông minh nào cả.

Rồi bà ngâm vần kệ thứ nhất:

  1. Con ơi, đừng lộ trí thông minh,
    Cứ giả ngu đần trước chúng sinh,
    Hãy chịu khinh khi từ tất cả,
    Cuối cùng con đạt đến quang minh.

Ðược lời an ủi của bà, ngài ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Con sẽ làm theo ý nữ thần,
    Những lời mẹ dạy quý vô ngần,
    Mẹ hiền ước muốn con an lạc,
    Mẹ chỉ mong con hưởng phước ân.

Vì thế ngài thực hiện ngay ba ác tật trên. Vua muốn con trai khỏi buồn, liền bảo đem năm trăm công tử đến bên ngài. Những hài nhi này bắt đầu khóc đòi bú, nhưng Bồ-tát vì sợ đọa địa ngục, nghĩ rằng thà chết khát còn hơn làm vua, nên không khóc. Các nhũ mẫu tâu chuyện đó với vương hậu, và lại tâu lên vua, vua liền cho mời các Bà-la-môn giỏi tướng số đến hỏi ý. Họ đáp:

– Tâu Ðại vương, xin ngài hãy cho vương tử bú sau thời hạn qui định, vương tử sẽ khóc rồi ngậm chặt vú để bú tùy thích.

Thế rồi họ cho vương tử bú sau một thời hạn qui định, có khi họ để thời hạn qui định quá một lần, có khi cả ngày họ không cho ngài bú sữa. Nhưng ngài sợ đọa địa ngục nên dù khát cũng không khóc đòi bú. Thế rồi mẹ ngài cùng các nhũ mẫu cứ cho ngài bú, dù ngài không khóc, họ bảo:

– Hài nhi đói lả rồi.

Các hài nhi khác khóc la khi chưa bú, nhưng ngài không khóc, không ngủ, cũng không co duỗi tay chân, cũng không tỏ ra nghe được tiếng động nào. Thế là các nhũ mẫu suy nghĩ: “Tay chân người què không giống thế này, hình dáng quai hàm người câm không giống thế này, hình dáng tai kẻ điếc cũng không phải thế này, chắc phải có lý do gì đây, chúng ta phải xem kỹ ra sao”.

Vì vậy họ quyết định lấy sữa thử ngài, cả ngày họ không cho ngài bú, nhưng dù khát khô cổ họng, ngài vẫn không thốt một tiếng kêu đòi bú. Sau đó mẹ ngài nói:

– Con ta đói lả rồi. Hãy cho nó bú.

Và bà bảo họ cho ngài bú. Như vậy thỉnh thoảng họ cho ngài bú để thử ngài suốt năm trường nhưng vẫn không khám phá ra chỗ yếu của ngài. Rồi họ bảo nhau:

– Trẻ con thường thích bánh kẹo và của ngon vật lạ ta hãy đem ra thử hài nhi này xem.

Họ đặt năm trăm ấu nhi cạnh ngài , đem đủ cao lương mỹ vị đến, bảo các ấu nhi lựa món ăn tùy thích rồi họ lánh mặt đi. Các trẻ kia gây gỗ đánh nhau rồi chụp giựt bánh kẹo ăn, nhưng Bồ-tát tự nhủ: “Này Temiya, cứ ăn bánh kẹo cùng cao lương mỹ vị đó nếu ngươi muốn xuống địa ngục”. Rồi vì sợ đọa địa ngục, ngài không muốn nhìn các thức ăn nữa. Và cứ thế dù họđem kẹo bánh, cao lương mỹ vị ra thử ngài cả năm ròng, họ cũng không khám phá chỗ yếu của ngài.

Sau đó họ lại bảo:

– Trẻ con thường thích đủ loại trái cây.

Và họ đem đủ thứ trái cây ra thử ngài. Các trẻ kia đòi ăn trái cây nhưng ngài không buồn nhìn chúng và cứ thế suốt năm ròng họ đem trái cây đủ loại ra thử ngài. Rồi họ lại bảo:

– Trẻ con thích đồ chơi.

Thế là họ đem đồ chơi bằng vàng, các hình voi ngựa v.v… đến gần ngài. Các trẻ kia giành nhau như thể đoạt chiến lợi phẩm, nhưng Bồ-tát không buồn nhìn đến chúng và cứ thế suốt cả năm ròng họ đem đồ chơi ra thử ngài. Rồi họ lại bảo nhau:

– Có một thức ăn đặt biệt đối với một trẻ lên bốn, ta thử xem sao.

Thế là họ đem ra đủ loại thức ăn, các trẻ kia bẻ chúng ra từng miếng ăn ngay, nhưng Bồ-tát tự nhủ: “Này Temiya, trong quá khứ đã có vô số kiếp mà ngươi chẳng được ăn uống gì cả”. Và vì sợ đọa địa ngục ngài chẳng nhìn các món ăn, cho đến khi lòng mẹ ngài muốn tan nát ra vì đau khổ, chính tay bà phải cho ngài ăn.

Sau đó họ bảo nhau:

– Trẻ con năm tuổi thường sợ lửa, ta hãy thử xem sao.

Rồi họ bảo làm một ngôi nhà lớn có nhiều cửa, che bằng lá cây tala (cọ dừa), họ đặt ngài giữađám trẻ con rồi nổi lửa lên. Ðám trẻ la hét chạy trốn, nhưng Bồ-tát tự nhủ thế này còn hơn các khổ hình ở địa ngục. Vì vậy ngài hoàn toàn ngồi yên như thể vô tri giác nên khi lửa đến gần, họ đành mang ngài đi nơi khác.

Sau đó họ bảo nhau:

– Trẻ con sáu tuổi thường sợ voi lung.

Thế là họ bảo luyện một con voi cho thuần tính, rồi họ để Bồ-tát ngồi cùng đám trẻ trong sân rồng và thả voi ra. Voi rống to, lấy vòi dậm đất thình thịch khiến ai nấy khiếp đảm. Ðám trẻ chạy tứ tán vì sợ nguy đến tính mạng. Riêng Bồ-tát vì sợ địa ngục, vẫn ngồi yên. Con voi đã được huấn luyện kỹ, nhấc ngài lên rồi đặt xuống và bỏ đi chứ không hại ngài.

Ðến khi ngài được bảy tuổi, lúc ngồi chơi có đám bạn ngồi vây quanh ngài, họ thả ra bầy rắnđã bị nhổ hết răng và buột miệng chặt lại, bọn trẻ la hét bỏ chạy, nhưng Bồ-tát nhớ lại những nỗi kinh hoàng ở địa ngục, nên vẫn ngồi yên, tự nhủ: “Thà chết vì miệng rắn độc còn tốt hơn”. Rồi bầy rắn vây quanh thân ngài và cuộn vòng tròn trên đầu ngài nhưng ngài vẫn ngồi bấtđộng. Cứ thế họ thử ngài mãi nhưng vẫn không khám phá ra chỗ yếu của ngài. Sau đó họ bảo nhau:

– Thiếu nhi thường thích hội hè.

Thế là họ đem ngài vào sân rồng cùng năm trăm trẻ kia và cho một bầy hề họp lại làm trò. Lũ trẻ thấy bầy hề liền la hét cổ võ và cười đùa vang dội, nhưng Bồ-tát tự nhủ thầm, nếu ngài thác sinh vào địa ngục sẽ không bao giờ được một phút cười vui, nên ngài vẫn ngồi yên, suy nghĩđến địa ngục và không hề để mắt đến đám hề nhảy múa. Họ cứ thử ngài như thế mãi, vẫn không tìm ra chỗ yếu của ngài. Rồi họ bảo nhau:

– Ta hãy lấy kiếm ra thử xem sao.

Thế là họ đặt ngài ngồi giữa sân rồng trong khi đám trẻ đang chơi đùa, bỗng một người đàn ông chạy vụt qua bọn chúng, vung kiếm sáng loáng như gương vừa nhảy vừa la to:

– Con quỷ của vua Kàsi đâu rồi, ta sẽ cắt đầu nó đây.

Ðám trẻ thấy vậy kinh hãi chạy trốn, la hét ầm ỹ. Nhưng Bồ-tát đã suy nghĩ nhiều về những nỗi kinh hoàng ở địa ngục, nên vẫn ngồi yên bất động như thể vô tri giác, dù người đó cọ xát thanh kiếm trên đầu ngài và dọa cắt cổ, cũng không làm ngài kinh hoàng, nên cuối cùng gã phải bỏ đi. Thế là dù thử ngài nhiều lần như thế, họ vẫn không tìm ra điểm yếu của ngài.

Khi ngài lên mười tuổi, họ muốn thử xem ngài có điếc thật không, liền treo một cái màn quanh giường, có đục lỗ bốn phía và đặt ống thổi hơi bằng vỏ ốc dưới đó mà không cho ngài biết. Họ đồng loạt thổi qua vỏ ốc bật ra một tiếng vang ầm ỹ, nhưng đám quần thần dù đứng cả bốn phía nhìn xuyên qua những lỗ trên màn suốt ngày vẫn không tìm ra được một dấu hiệu ngài bị rối trí hay cựa quậy tay chân, ngay cả một cái giật mình cũng không có.

Một năm ròng trôi qua như vậy, rồi họ lấy trống thử một năm nữa vẫn không khám phá ra điểm yếu của ngài.

Sau đó họ bảo:

– Ta lấy đèn ra thử xem.

Thế là để thử xem trong đêm tối ngài có cử động tay chân không, họ thắp đèn trong các bình thủy tinh sau khi đã tắt hết mọi đèn khác. Họ dấu các đèn thủy tinh trong bóng tối một lát rồi thình lình giơ cao các ngọn đèn ấy lên, tạo ra một luồng sáng lòa đồng loạt để xem cử chỉ ngài ra sao. Nhưng dù họ thử ngài như vậy cả năm trời, họ vẫn không thấy ngài giật mình lần nào cả.

Thế rồi họ bảo nhau:

– Ta lấy mật mía thử xem sao.

Và họ bôi mật mía khắp thân ngài, đặt ngài vào một nơi đầy ruồi nhặng rồi xua chúng ra. Chúng bu đặc trên thân ngài và chích ngài như kim châm nhưng ngài vẫn nằm như thể vô tri giác. Cứ thế suốt năm ròng họ thử ngài nhưng vẫn không khám phá ra nhược điểm nào.

Ðến năm ngài lên mười bốn tuổi, họ bảo nhau:

– Bây giờ đã lớn rồi, thiếu niên này chỉ thích sạch sẽ và ghét dơ bẩn, vậy ta lấy đồ dơ ra thử xem.

Thế là từ đó họ không cho ngài tắm rửa, súc miệng hay tẩy uế thân thể cho đến khi ngài bị đẩy vào một tình cảnh vô cùng khốn khổ như tên tù giam lỏng.

Khi ngài nằm mình mẩy đầy ruồi nhặng, mọi người vây quanh nhạo báng ngài:

– Này Temiya, cậu đã lớn rồi, còn ai hầu hạ cậu nữa, cậu không hổ thẹn sao cứ nằm đó mãi, dậy và tắm rửa cho sạch sẽ”.

Nhưng ngài nhớ lại những nỗi thống khổ đọa đày ở địa ngục Gù tha (Phân dơ) nên ngài vẫn nằm bất động trong tình trạng dơ bẩn khổ sở đó. Suốt năm trường họ vẫn không tìm ra nhược điểm nơi ngài.

Sau đó họ đặt những chảo lửa dưới giường ngài, và bảo nhau:

– Khi vương tử bị lửa nóng hành hạ, sẽ không chịu nổi và sẽ tỏ dấu hiệu đau đớn quằn quại.

Những vết bỏng dường như muốn nứt ra trên người ngài, nhưng ngài vẫn nhẫn nhục tự nhủ: “Lửa ở địa ngục Avìci (A-tỳ hay Vô gián) tỏa lan ra cả trăm dặm, chứ ngọn lửa này còn dễ chịu hơn trăm, ngàn lần”. Vì thế ngài nằm bất động. Vua cha và vương hậu lòng đau như cắt, bảo đám cận thần trở lại đem ngài ra khỏi lửa và năn nỉ ngài:

– Này Temiya, ta biết con sinh ra không què quặt vì người què không thể có tay chân mặt mày như con được. Ta đã sinh được con sau bao năm cầu tự, vậy con đừng làm tuyệt dòng họ ta, hãy tránh cho ta khỏi bị sự chê trách của các vua trong cõi Jambudìpa (Diêm-phù-đề, Ấn- Độ).

Nhưng dù họ van xin thế nào đi nữa ngài vẫn nằm im bất động như không nghe thấy gì. Thế là phụ vương và mẫu hậu đành khóc lóc và bỏ đi.

Thỉnh thoảng phụ vương hay mẫu hậu trở lại một mình van xin ngài như thế cả năm ròng nhưng vẫn không khám phá ra nhược điểm của ngài.

Ðến khi ngài lên mười sáu tuổi, họ suy nghĩ: “Dù què quặt câm điếc đi nữa, không ai lớn lên lại không thích hưởng lạc, ghét điều bất lạc. Chuyện này đến thời hạn thì cũng tự nhiên như hoa nở đó thôi. Vậy ta sẽ bảo đóng tuồng cho con ta xem thử sao”. Vì thế họ triệu tập một số nữ nhân thật đẹp như tiên và giao hẹn rằng nàng nào làm được cho vương tử cười to hay gây cho ngài tư tưởng dục vọng thì sẽ được tôn làm chánh hậu. Rồi họ tắm cho ngài bằng nước thơm và trang điểm cho ngài thật đẹp như thiên thần, đặt ngài nằm trên long sàng ở trong một dãy cung thất trang hoàng như các động tiên. Nội thất của ngài được xông sực nức đủ mùi hương hoa, thuốc cao, trầm, linh tửu đủ loại . . . và họ rút lui.

Trong lúc đó, đám nữ nhân cứ vây quanh ngài tìm cánh làm vui lòng ngài với tiếng ca, điệu múa cùng những lời lẽ êm dịu ngọt ngào, nhưng ngài nhìn chúng bằng trí tuệ tối thắng và bế hết hơi thở vô ra vì sợ chúng đụng vào thân ngài, vì thế là cơ thể ngài thành cứng đờ. Chúng không thế nào đụng vào ngài được, liền tâu với vua cha:

– Cơ thể vương tử cứng đờ, ngài không phải là người, mà có lẽ là quỉ dữ.

Như vậy, cha mẹ ngài, dù trong mười sáu năm liền thử thách ngài bằng mười sáu cách ghê rợn, cùng nhiều lối thử lặt vặt khác, cũng không thể nào khám phá chỗ yếu của ngài. Thế là vua chađầy phẫn nộ, cho triệu tập đám thầy tướng số đến bảo:

– Khi vương tử ra đời, các ngươi đã bảo là vương tử tốt số có đủ mọi điềm lành và không có dấu hiệu bất tường nào. Nhưng vương tử sinh ra đã què, câm, điếc. Thế là lời các ngươi khôngđúng sự thật.

Họ đồng đáp:

– Tâu Ðại vương, không có gì các đạo sư của ngài không thấy cả, nhưng chúng thần biết ngài sẽ buồn khổ ghê gớm ra sao nếu chúng thần nói rằng hoàng nam do cả triều cầu tự này lại bạc phước, vì thế chúng thần không nói ra điều đó.

– Vậy phải làm thế nào đây?

– Tâu Ðại vương, nếu vương tử ở lại trong cung sẽ có ba mối hiểm họa đe dọa tính mệnh của Ðại vương hoặc ngôi báu của ngài hoặc cho Chánh hậu. Vậy thì thượng sách là xin cho vài con ngựa yếu hèn buộc vào một cỗ xe thật xui xẻo rồi đặt vương tử lên đó, đưa qua cửa Tây vàđem chôn vương tử trong nghĩa địa.

Vua đồng ý, vì sợ các hiểm họa sẽ xảy ra. Khi vương hậu hay tin, và vội đến gặp vua:

– Tâu Chúa thượng, Chúa thượng đã ban cho thần thiếp một lời ước và thần thiếp vẫn chưa thỉnh nguyện, vậy giờ đây xin ban cho thiếp ân huệ đó.

– Ái hậu cứ thỉnh cầu.

– Xin Chúa thượng hãy trao ngôi báu cho con thiếp.

– Không thể được, này ái hậu, con trai của khanh quá bạc phước.

– Nếu Chúa thượng không ban cho con trai thiếp cả đời, thì hãy cho con trai thiếp làm vua trong bảy năm.

– Không thể được đâu, ái khanh.

– Vậy thì trong sáu, năm, bốn, ba, hai, một năm hoặc bảy tháng, sáu, năm, bốn, ba, hai, một tháng hoặc nửa tháng.

– Không thể được, ái khanh.

– Thế thì bảy ngày vậy.

– Thôi được rồi, ái hậu nhận lấy ân huệ này.

Thế là vương hậu ra lệnh cho các cung nữ trang điểm vương tử thật lộng lẫy và cả kinh thành phải chưng bày thật đẹp mắt. Rồi một lệnh được truyền đi cùng với tiếng trống vang dội:

– Ðây là triều đại của thái tử Temiya.

Và ngài được đặt trên mình voi đi ngất ngưỡng khắp kinh thành với chiếc lọng trắng trên đầu. Khi trở về, ngài được đặt trên long sàng, vương hậu lại van xin suốt đêm:

– Vương tử Temiya con ơi, vì con trong mười sáu năm qua mẹ đã khóc than và không hề ngủ được. Mắt mẹ đã khô ráo hẳn, lòng mẹ đã tan nát vì buồn phiền. Mẹ biết, con không thật què quặt câm điếc gì, đừng làm mẹ khốn khổ tuyệt vọng nữa.

Cứ thế bà van xin ngài hết ngày này qua ngày khác trong năm hôm liền. Qua ngày thứ sáu, vua triệu người quản xa Sunanda đến bảo:

– Sáng sớm mai ngươi hãy cột vài con ngựa thật xấu xa vào một cỗ xe thật xui xẻo, bỏ vương tử vào, đem ra cửa tây và đào một hố có bốn góc trong nghĩa địa, ném nó vào, lấy xẻng đập đầu nó và giết chết nó đi, rồi lấp đất lên thành một đống cao, xong tắm rửa sạch sẽ rồi trở về đây.

Ðêm thứ sáu đó, vương hậu lại van xin:

– Con ơi , vua Kàsi đã ra lệnh ngày mai đem chôn con vào nghĩa địa, ngày mai chắc con phải chết rồi con ạ.

Khi Bồ-tát nghe nói vậy, ngài nghĩ thầm rằng: “Này Temiya, hoạn nạn của ngươi trong mười sáu năm đã mãn”, và ngài vui mừng lắm nhưng lòng mẹ ngài dường như tan nát thành hai mảnh. Tuy thế ngài không muốn gì với bà, sợ rằng ước nguyện của ngài không thành tựu. Hết đêm đó, mới sáng tinh sương người quản xa Sunanda đã lái cỗ xe đến trước cổng thành, vào hoàng cung tâu:

– Xin Vương hậu chớ giận dữ, đây là lệnh của Ðại vương.

Nói xong trong khi vương hậu đang ôm con trong lòng, gã lấy tay đẩy bà ra, nhấc hoàng tử lên nhẹ như một đóa hoa và ra khỏi cung. Hoàng hậu còn lại trong phòng đấm ngực than khóc thảm thiết.

Khi đó Bồ-tát nhìn mẹ và nghĩ: “Nếu ta không nói mẹ ta sẽ chết vì buồn phiền”. Nhưng dù ngài định nói, ngài lại suy nghĩ: “Nếu ta nói thì công phu của ta trong mười sáu năm sẽ trở thành tro bụi, còn nếu ta không nói thì ta sẽ cứu được chính ta và cả cha mẹ ta nữa”.

Sau đó người quản xa nhấc ngài lên xe và bảo:

– Ta sẽ lái xe qua cửa tây.

Nhưng gã lại lái xe qua cửa đông, và bánh xe lăn chạm mạnh vào bậc thềm. Bồ-tát nghe tiếng động nhủ thầm: ” Ước nguyện của ta đã đạt rồi”. Lòng ngài càng hoan hỷ lên.

Khi xe ra khỏi kinh thành, nó đã đi được chừng ba dặm nhờ các thần trợ lực, thì đến khoảng cuối một khu rừng mà người lái xe tưởng như là nghĩa địa. Vì thế gã nghĩ rằng đây là chỗ thích hợp, gã liền quay xe ra khỏi đường cái, dừng bên đường, bước xuống, lấy hết đồ trang hoàng của Bồ-tát cột thành một bó, đặt xuống đất rồi lấy xẻng ra bắt đầu đào hố.

Lúc đó Bồ-tát nghĩ: “Ðây là lúc ta phải vận dụng tận lực, mười sáu năm qua ta không hề cử động tay chân, không biết nay ta có điều khiển chúng được chăng? Thế là ngài đứng dậy, chà xát tay phải với tay trái, tay trái với tay phải, chà hai tay vào hai chân rồi quyết định bước ra khỏi xe. Khi chân ngài chạm đất, đất dội lên như cái túi da đầy khí và ngài sờ đuôi xe. Sau khi xuống xe, đi lui đi tới vài vòng ngài cảm thấy đã dư sức đi như thế này trong một trăm dặm một ngày.

Rồi ngài lại nghĩ: “Nếu gã lái xe chống đối ta, ta có đủ sức chống lại gã chăng?”. Vì thế ngài cầm lấy đuôi xe, nhấc nó lên như đồ chơi trẻ con và ngài tự nhủ: “Ta đủ sức chống lại gã”. Khi ngài nhận thức điều này, lòng ngài khởi lên một ước muốn được trang hoàng cho thật đẹp. Vào lúc ấy, cung Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) nóng rực lên. Thiên chủ Sakka tìm ra duyên cớ, liền bảo:

– Ước nguyện của Vương tử Temiya đã thành tựu rồi, ngài muốn được trang hoàng cho đẹp. Ngài có cần gì đồ trang sức của hạ giới?”.

Vì thế Thiên chủ truyền Thiên thần Vissakamma đem đồ trang sức thiên giới ra tô điểm cho con trai vua Kàsi. Vị này quấn lên mình vương tử cả vạn tấm vải vóc tua tỏ và trang điểm ngài bằng đủ loại trang sức của thiên đình lẫn hạ giới, chẳng khác nào Thiên chủ Sakka. Vương tử được điểm tô đủ mọi oai nghi lộng lẫy của một vị Thiên chủ, đi đến bên bờ hố mà người lái xe đang đào, vừa đứng vừa ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Sao chú lái xe lại vội vàng
    Bới đào hố nọ ở bên đàng,
    Trả lời câu hỏi ta thành thật:
    Ngươi muốn làm gì hố ấy chăng?

Người lái xe vẫn tiếp tục đào hố không ngước mắt lên nhìn và ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Chúa thượng của ta thấy thiếu nhi
    Bi què, câm, điếc, thật ngu si,
    Nên ta được lệnh đi đào hố
    Chôn bỏ chàng cho rảnh mắt đi.

Bồ-tát đáp lời:

  1. Hiền hữu, ta không bị điếc câm,
    Và ta cũng chẳng bị què chân,
    Nếu chôn ta ở trong rừng rậm,
    Ngươi sẽ phạm vào tội sát nhân.
  2. Hãy ngắm tay chân đây của ta,
    Và nghe giọng nói thốt lời ra:
    Ngươi sẽ, hôm nay, mang trọng tội
    Nếu chôn ta ở chốn rừng già
    .

Lúc đó người lái xe hỏi:

– Ai đấy? Chỉ từ lúc ta tới đây người mới lộ nguyên hình như người tả.

Vì thế gã dừng đào hố, ngước mắt lên chiêm ngưỡng dung mạo sáng ngời của ngài, gã không biết ngài là người hay thần thánh liền ngâm kệ:

  1. Chàng là nhạc sĩ hoặc Thiên thần,
    Hay chính Sak-ka Thiên chủ chăng?
    Xin nói là con ai đấy nhỉ,
    Tên gì ta sẽ gọi danh xưng?

Lúc ấy, Bồ-tát vừa lộ diện vừa thuyết Pháp và ngâm kệ:

  1. Chẳng là nhạc sĩ hoặc Thiên thần,
    Cũng chẳng Sak-ka, đấng Ngọc hoàng,
    Ta chính Kà-si vương tử ấy
    Ngươi đem chôn sống thật hung tàn.
  2. Ta chính con vua triều đại này
    Ngươi đang phục vụ hiển. vinh thay,
    Nếu đem ta đến đây chôn sống,
    Ngươi sẽ phạm vào trọng tội ngay.
  3. Nếu dưới gốc cây, ta nghỉ chân,
    Tàn cây đổ bóng để che thân,
    Ta không bẻ một cành dù nhỏ,
    Chỉ kẻ ác làm hại bạn thân.
  4. Cây che chỗ ấy chính là vua,
    Ta chính là cành lá tỏa ra,
    Ngươi lái xe là người lữ khách
    Nằm ngồi ở dưới bóng cây mà.
    Tội to giáng xuống đầu ngươi đó,
    Nếu ở rừng này chôn sống ta.

Nhưng dù Bồ-tát nói vậy, gã này vẫn không tin ngài. Vì thế Bồ-tát quyết định thuyết phục gã, nên ngài làm cho cả khu rừng vang dậy tiếng nói của ngài và lời tán thán của chư Thiên, trong khi ngài bắt đầu ngâm mười vần kệ này để tôn vinh tình bằng hữu:

  1. Một kẻ trung thành với bạn thân,
    Dù đi phiêu bạt khắp xa gần,
    Nhiều người hoan hỷ đem cung phụng
    Thực phẩm tất nhiên được hiến dâng.
  2. Dù đất nước nào phiêu bạt qua,
    Kinh thành, thị trấn khắp gần xa,
    Kẻ nào chung thủy cùng bằng hữu
    Cũng được vinh quang danh vọng mà.
  3. Không đạo tặc nào dám tổn thương,
    Cũng không võ tướng dám khinh nhờn,
    Người nào trung tín cùng bằng hữu
    Sẽ thoát khỏi bao kẻ oán hờn.
  4. Người ấy hoàn hương, thảy đón chào,
    Lòng không mòn mỏi với ưu sầu;
    Kẻ nào chung thủy cùng bằng hữu
    Giữa đám bà con, đệ nhất cao.
  5. Tôn vinh người, lại được tôn vinh,
    Ðược kính trọng và đáp thịnh tình.
    Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
    Nhận phần vinh hiển khắp quần sinh.
  6. Người nào biết quý trọng người đời,
    Sẽ được mọi người quý trọng thôi;
    Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
    Phần mình được tiếng tốt cao vời.
  7. Kẻ ấy giống như lửa cháy bừng
    Tỏa ra ánh sáng tựa Thiên thần,
    Người nào trung tín cùng bằng hữu
    Chiếu ánh huy hoàng rực rỡ luôn.
  8. Trâu bò tăng trưởng thật là nhanh,
    Hạt giống thường xuyên mọc tốt lành;
    Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
    Tất nhiên gặt hái mọi công thành.
    20. Nếu bị rơi từ đỉnh núi cao,
    Hoặc từ cây cối hoặc hang hào,
    Người nào chung thủy cùng bằng hữu
    Cũng thấy đất bằng vững chắc sao.
  9. Cây đa thách đố mọi cuồng phong
    Cành lá mọc quanh gốc rễ chung,
    Kẻ biết trung thành cùng bạn hữu,
    Oán hờn cừu địch thảy tiêu vong.

Dù ngài đã thuyết Pháp như vậy, gã Sunanda vẫn không nhận ra ngài và cứ hỏi ngài là ai. Nhưng rồi gã đến gần xe và trước khi thấy rõ chiếc xe cùng mọi thứ trang sức mà vương tử mang trên người ngài, gã đã nhận ra ngài trong lúc nhìn ngài, liền quỳ xuống chắp tay lại, ngâm kệ:

  1. Ðến đây, này hỡi vị Vương gia,
    Tôi sẽ xin đưa trở lại nhà,
    Ngài ngự ngai vàng và trị nước,
    Sao còn thơ thẩn chốn rừng già?

Bậc Ðại Sĩ đáp:

  1. Ta không màng của cải, ngai vàng,
    Chẳng thiết bạn thân hoặc họ hàng,
    Vì chính ngôi vua ta đã đạt
    Là do những ác nghiệp ta làm.

Người lái xe nói:

  1. Chén rượu đón mừng, Thái tử ôi,
    Ðược người chuẩn bị để chờ ngài,
    Phụ vương, mẫu hậu đầy hoan hỷ
    Sẽ tặng nhiều quà cho chính tôi.
  2. Cung phi, mỹ nữ các vương gia,
    Vệ xá, Bà-la-môn, mọi nhà,
    Trong nỗi hân hoan đầy trọn vẹn,
    Sẽ cho tôi hưởng thật nhiều quà.
  3. Các vị cỡi voi, cỡi mã xa,
    Bộ binh, vệ sĩ của hoàng gia
    Sẽ cho tôi hưởng nhiều quà tặng
    Khi Thái tử quay trở lại nhà.
  4. Thần dân thành thị đến thôn quê
    Tụ tập mừng vui, mở hội hè,
    Sẽ tặng cho tôi nhiều lễ vật,
    Khi nhìn Thái tử đã quay về.

Bậc Ðại Sĩ đáp:

  1. Ta bị bỏ rơi bởi mẹ cha,
    Kinh thành, thị trấn ờ gần xa,
    Vương tôn bỏ mặc ta đành phận,
    Ta chẳng có nhà của chính ta.
  2. Mẫu hậu của ta cho phép đi,
    Phụ vương cũng bỏ mặc hoàng nhi,
    Trong rừng hoang vắng này đơn độc,
    Ẩn sĩ ta nguyền hạnh xuất ly.

Ðang khi nhớ lại các công hạnh của mình, một nỗi hoan hỷ khởi lên trong lòng ngài, và trong niềm hạnh phúc cao độ ngài thốt lên khúc đạo ca toàn thắng:

  1. Cũng giống những ai chẳng vội vàng
    Ðạt thành nguyện ước của tâm can,
    Quản xa hãy biết, hôm nay nhé,
    Thánh hạnh ta thành đạt vẹn toàn.
  2. Cũng giống những ai chẳng bước nhanh,
    Tối cao cứu cánh được viên thành,
    Ta đi, đầy đủ tâm thanh tịnh
    Hoàn thiện, sợ gì giữa chúng sinh.

Người lái xe đáp lại:

  1. Những lời ngài nói thật êm tai,
    Chân thật, sáng trong, lý lẽ ngài,
    Tại sao thuở trước đành câm lặng
    Khi thấy song thân ở cạnh hoài?

Bậc Ðại Sĩ bảo:

  1. Ta chẳng què vì thiếu khớp xương,
    Cũng không điếc bởi thiếu tai thường,
    Cũng không câm lặng vì không lưỡi,
    Như dáng ta nay hiện rõ ràng.
  2. Ta vẫn nhờ rành một kiếp xưa,
    Trong tiền thân ấy được làm vua
    Nhưng từ ngôi báu, ta rơi xuống
    Ta thấy mình trong chốn ngục tù.
  3. Hai mươi năm sống cảnh xa hoa
    Trên chiếc ngai vàng chỉ thoáng qua,
    Nhưng tám mươi ngàn năm địa ngục,
    Ta đền tội ác đã gây ra.
  4. Dư vị hoàng gia thuở đã qua
    Làm kinh hãi ngập cả tâm ta,
    Cho nên ta phải đành câm lặng
    Dù thấy gần bên cạnh mẹ cha.
  5. Phụ vương bồng bế trẻ vào lòng,
    Nhưng giữa lúc đùa giỡn thiết thân,
    Nghe lệnh vua ban đầy khắc nghiệt:
    “Tức thì giết kẻ đại cường gian,
    Hãy cưa xẻ nó ra từng mảnh,
    Ðóng cọc tên kia chờ muộn màng”.
  6. Nghe lời hăm dọa thật kinh hồn,
    Ta cố làm què lại điếc câm,
    Lăn lóc trong bùn nhơ khốn khổ,
    Làm người ngu dại cũng đành phần.
  7. Biết rõ cuộc đời ngắn ngủi thay,
    Sầu bi khổ não lại tràn đầy,
    Ai vì đời sống mà khơi dậy
    Sân hận cho người khác khổ lây?
  8. Ai vì đời sống hại tha nhân,
    Ðể mặc cho mình trút hận sân,
    Vì muốn dành quyền cầm chánh lý
    Và mù quáng trước lẽ công bằng?

Lúc đó gã Sunanda suy nghĩ: “Vương tử này từ bỏ vàng son cung điện như thể bỏ thây ma, nay vào rừng cương quyết sống đời ẩn sĩ, thế thì ta còn làm gì với cuộc đời khốn nạn này nữa? Thôi ta cũng muốn làm ẩn sĩ như ngài cho rồi”. Gã liền ngâm kệ:

  1. Tôi cũng ước mong chọn cuộc đời
    Của người khổ hạnh ở cùng ngài,
    Xin ngài hãy gọi tôi, Vương tử,
    Ẩn sĩ, như ngài muốn vậy thôi.

Khi nghe gã thỉnh cầu, bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Nếu ta nhận ngay gã này làm ẩn sĩ, thì cha mẹ ta không đến đây được và như thế sĩ chịu thiệt thòi, rồi ngựa xe và các vật trang sức này sẽ bị huỷ hoại. Ta sẽ bị buộc tội vì người đời sẽ bảo: “Hắn là quỷ dữ đã nuốt sống người lái xe”. Vì thế muốn tránh tiếng xấu cho mình và đem lại an lạc cho cha mẹ, ngài giao ngựa xe và các thứ trang sức lại cho gã rồi ngâm kệ:

  1. Trước tiên đem trả lại vương xa,
    Ngươi chẳng phải người được tự do,
    Trả nợ trước tiên, đời vẫn bảo,
    Rồi sau nguyền khổ hạnh ly gia.

Người lái xe nghĩ thầm: “Nếu ta về kinh thành trong lúc ngài bỏ đi nơi khác, rồi khi cha mẹ ngài hay tin ngài còn sống, sẽ cùng đến đây với ta để gặp ngài mà không tìm thấy ngài, họ sẽ trừng phạt ta. Thôi ta phải nói rõ hoàn cảnh này của ta cho ngài biết và xin ngài hứa ở lại đây”.

Vì thế gã ngâm hai vần kệ:

  1. Vì lẽ tôi theo lệnh của ngài,
    Thỉnh cầu Vương tử hãy nghe tôi,
    Xin ngài hãy rộng lòng hoan hỷ
    Làm những việc tôi sẽ mở lời:
  2. Xin hãy làm ơn nán lại chờ
    Ðến khi tôi thỉnh được vương gia,
    Phụ vương sẽ ngập tràn hoan hỷ
    Nhìn thấy dung nhan Vương tử mà.

Bậc Ðại Sĩ đáp:

  1. Mong được như ngươi nói, quản xa,
    Ta đây hoan hỷ gặp vua cha,
    Mau đi chào hỏi toàn gia tộc,
    Ðặc biệt vấn an cha mẹ ta.

Người lái xe tuân lệnh.

  1. Rồi gã quản xa dậm bước chân
    Tỏ lòng cung kính thật ân cần,
    Bắt đầu công cuộc hành trình ấy
    Như mệnh lệnh ban của chủ nhân
    .

Vào lúc ấy Vương hậu Candà mở cửa, bà đang bồn chồn đợi tin con, cứ nhìn ra phía conđường người lái xe trở về, nên khi thấy gã về một mình, bà thét lên than khóc.

*

Bậc Đạo Sư tả cảnh ấy như sau:

  1. Khi thấy một mình gã quản xa,
    Chiếc xe trống vắng, chợt nhìn ra,
    Tâm hồn tràn ngập niềm lo sợ,
    Mắt mẹ hiền dâng lệ ướt nhòa:
  2. Người quản xa kia mới trở về,
    Con ta bị giết ở đằng kia,
    Rừng hoang hiu quạnh con nằm đó,
    Ðất lại hòa cùng đất phủ che.

49-50. Cừu nhân cực ác sẽ hân hoan
Thấy kẻ sát nhân được vạn an,
Câm điếc, lại què chân, thử hỏi,
Làm sao con cất tiếng kêu van,
Nằm trên nền đất bơ vơ quá,
Con chiến đấu sao với sức tàn?

  1. Tay chân con chẳng đủ công năng
    Xô đẩy ngươi ra để thoát thân,
    Trong lúc nằm trên nền đất lạnh,
    Mặc dù câm điếc lại què chân?

Người lái xe tâu:

  1. Lệnh bà, xin thứ tội cho tôi,
    Xin để cho tôi được mở lời,
    Tôi sẽ kể bà nghe tất cả
    Những gì tôi đã thấy nghe rồi.

Vương hậu đáp:

  1. Ta nay hứa thứ tội cho ngươi,
    Ta để cho ngươi được mở lời,
    Hãy kể cho ta nghe tất cả
    Những gì ngươi đã thấy nghe rồi.

Người lái xe liền tâu:

  1. Ngài không câm điếc, chẳng què chân,
    Giọng nói ngài trôi chảy, sáng trong,
    Ngài đóng vai trò kia giả dạng
    Bởi vì ngài sợ chốn vương cung.
  2. Ngài vẫn nhờ rành một kiếp xưa,
    Trong tiền thân ấy được làm vua,
    Nhưng từ ngôi báu, ngài rơi xuống
    Ngài thấy mình trong chốn ngục tù.
  3. Hai mươi năm sống cảnh xa hoa
    Trên chiếc ngai vàng chỉ thoáng qua,
    Nhưng tám mươi ngàn năm địa ngục
    Ngài đền tội ác đã gây ra.
  4. Dư vị hoàng gia một thuở xưa
    Làm ngài kinh hãi ngập tâm tư,
    Cho nên ngài phải đành câm lặng
    Dù thấy gần bên cạnh mẹ cha.
  5. Thân thể ngài nay được kiện toàn,
    Cao sang tuyệt mỹ, dáng hùng cường,
    Giọng ngài trong sáng, tâm minh mẫn,
    Ngài chọn đời thanh tịnh bước đường.
  6. Nếu lệnh bà mong muốn gặp con,
    Tức thì hãy đến đó cùng thần,
    Ngắm nhìn Vương tử Te-my ấy
    An tịnh, thong dong thật vẹn toàn.

Nhưng khi vương tử cho người lái xe đi rồi, ngài muốn thực hiện ngay lời nguyền khổ hạnh. Biết được ước nguyện đó, Thiên chủ Sakka truyền gọi Vissakàmma (Thần xây dựng) và bảo:

– Vương tử Temiya nguyền khổ hạnh, vậy khanh hãy dựng cho ngài một túp lều lá với đủ vật dụng cần thiết của một ẩn sĩ.

Vì thế vị ấy vội ra đi, và đến một khu rừng rộng chừng ba dặm, vị ấy dựng một am ẩn sĩ có một gian dành để ở ban đêm và một gian để ở ban ngày, có một hồ nước, một cái giếng, nhiều cây ăn trái và chuẩn bị đầy đủ mọi vật dụng cần thiết cho một vị tu khổ hạnh rồi ra về.

Khi Bồ-tát thấy cảnh này, ngài biết đây là lễ vật cúng dường của Thiên chủ Sakka. Vì thế ngài bước vào lều, cởi trang phục của mình ra, mặc vào bộ y bằng vỏ cây màu đỏ, cả y trên lẫn y dưới và đắp tấm da hươu đen một bên vai, buộc mới tóc được bện chặt của ngài lại, rồi mang đòn gánh lên vai kia, cầm cây gậy và bước ra khỏi lều. Ngài đi quanh quẩn trong bộ y khổ hạnh ấy và đắc thắng nói to:

– Ôi cực lạc! Ôi cực lạc!

Rồi trở về lều, ngồi kiết-già trên tấm thảm vải, ngài chứng đắc Năm Thắng trí (Năm Thần thông).

Buổi chiều ngài bước ra lượm vài lá cây kàra gần đó, nhúng vào bình bát nước của Thiên chủ Sakka cúng dường ngài, không có tý muối, chút bơ hay gia vị gì cả. Ngài ăn lá cây như thể ăn cao lương mỹ vị, rồi trong khi ngài quán sát Tứ Vô lượng tâm (Từ, bi, hỷ, xả), ngài quyết định an trú ở đó.

Trong lúc ấy vua Kàsi nghe lời gã Sunanda tâu, liền triệu tập vị tể tướng vào, ra lệnh thu xếp cuộc hành trình, vua phán:

  1. Thắng đủ ngựa vào các cỗ xe,
    Buộc cân đai cả đám voi kia,
    Tù và, trống nhỏ khua vang khắp,
    Ðánh dậy trống to cả tứ bề!
  2. Trống cao ầm ỹ tận không gian,
    Trống nhỏ âm vang thật dịu dàng,
    Tất cả kinh thành theo gót trẫm,
    Ta đi lần nữa đón hoàng nam.
  3. Các vương phi, tất cả hoàng gia,
    Vệ-xá, Bà-la-môn trẻ, già,
    Hết thảy thắng cương xe ngựa sẵn,
    Ta đi đón Thái tử về nhà.
  4. Các vị cởi voi, cỡi mã xa,
    Bộ binh, vệ sĩ của hoàng gia,
    Mọi người chuẩn bị lên đường gấp,
    Ta đến đón Vương tử lại nhà.
  5. Thần dân thành thị đến thôn quê,
    Khắp nẻo đường đông đảo tựu tề,
    Tất cả sẵn sàng theo gót trẫm,
    Ta đi đón Thái tử quay về
    .

Thế rồi đám quản xa ra lệnh thắng yên cương ngựa xong, đem xa giá đến trước cung môn, rồi thông báo để vua biết.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh này như sau:

  1. Ngựa Sindh dòng giống tuyệt cao sang
    Nai nịt yên cương trước ngọ môn,
    Các quản xa trình tin tức đến:
    “Cả đoàn chờ yết kiến long nhan”.

Nhà vua phán:

  1. “Bầy ngựa bất kham hãy loại ra,
    Ðừng đem ngựa yếu đến xe ta”.
    Lệnh vua như vậy vừa ban xuống,
    Tuân phục tức thì đám quản xa.

Quần hầu bảo đám quản xa:

– Ðừng đem theo các loại ngựa như thế.

Trước khi đi đón con, vua triệu tập bốn đẳng cấp trong triều, mười tám hội đoàn và toàn quânđội cũng tập họp trong ba ngày. Vào ngày thứ tư, sau khi đã đem tất cả đoàn tùy tùng lênđường, vua ngự giá đến thảo am ẩn sĩ. Ngài được Vương tử đón tiếp tại đó và đáp lễ con theo đúng nghi thức.

*

Bậc Đạo Sư tả cảnh này như sau:

  1. Lúc ấy vương xa đã sẵn sàng,
    Không còn trì hoãn, đấng quân vương
    Bước lên, gọi các bà phi hậu:
    “Tất cả cùng ta tiến bước đường”.
  2. Với quạt đuôi trâu, mão đội đầu,
    Lọng vua màu trắng ở trên cao,
    Ngài lên ngự giá vương xa ấy,
    Trang điểm ngọc vàng tuyệt mỹ sao.
  3. Rồi nhà vua lập tức đăng trình
    Cùng gã quản xa ở cạnh mình,
    Vội vã ngài đi ngay đến chốn
    Te-mi-ya trú thật thanh bình.
  4. Vương tử Te-mi thấy phụ vương
    Ðến đây, lộng lẫy, đại huy hoàng,
    Quanh mình chiến sĩ đoàn hầu cận,
    Vì vậy ngài lên tiếng nói rằng:
  5. “- Phụ vương, con chắc được an bình,
    Cha có đủ tin tức tốt lành,
    Con chắc các vương phi, mẫu hậu
    Thảy đều khang kiện ở triều đình?”
  6. “- Này con, cha vẫn được an bình,
    Cha có đủ tin tức tốt lành,
    Tất cả các vương phi, mẫu hậu,
    Quả đều khang kiện ở triều đình”.
  7. “- Con chắc cha không uống rượu men,
    Rượu nồng các loại thảy đều kiêng,
    Trí tâm cha vẫn luôn thành khẩn
    Bố thí và hành động chính chuyên?”
  8. “- Thật vậy, cha không đụng rượu men,
    Rượu nồng các loại thảy đều kiêng,
    Trí tâm cha vẫn luôn thành khẩn
    Bố thí và hành động chính chuyên.
  9. “-Bầy ngựa và voi của phụ vương,
    Con mong đều mạnh khỏe hùng cường,
    Không con nào phải mang thân bệnh,
    Không có yếu hèn hoặc bất tường”.
  10. “-Vâng, các bầy voi của phụ vương,
    Và bầy ngựa mạnh khỏe, hùng cường,
    Không con nào phải mang thân bệnh
    Không có yếu hèn hoặc bất tường”.
  11. “- Biên thùy cùng địa phận trung ương,
    Tất cả đều trù mật, lạc an,
    Xin hỏi các nơi này có đủ
    Các ngân khố với các kho tàng?
  12. Phụ vương, nay trẻ đón chào mừng,
    Hạnh ngộ giờ đây với phụ thân,
    Hãy đặt vương sàng ra tại chỗ
    Ðể ngài an tọa, hỡi ba quân!”

Nhà vua vì tỏ lòng cung kính đối với bậc Ðại Sĩ nên không muốn ngự trên long sàng. Bậc Ðại Sĩ liền nói:

– Nếu phụ vương không muốn ngự long sàng, hãy đem tọa sàng kết bằng lá trải cho ngài.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Xin hãy ngự trên thảm lá này,
    Trải cho đẹp ý phụ vương đây,
    Quân hầu lấy nước nơi này đến
    Ðể rửa tay chân Chúa thượng ngay.

Nhưng nhà vua vì lòng cung kính con ngài nên không chịu ngồi trên giường lá, chỉ ngồi dưới đất. Lúc ấy Bồ-tát vào thảo am lấy ra cây kàra, vừa mời vua cha, vừa ngâm kệ:

  1. Con không có muối, lá cây này
    Là thực phẩm con sống mỗi ngày,
    Cha đã đến đây làm khách quý,
    Xin vui lòng nhận thức ăn vầy
    .

Vua cha đáp:

  1. Lá cây không phải món cha ăn,
    Ðem đến cho cha chén gạo trong,
    Nấu với thịt hầm thơm dịu ngọt
    Ðể làm thành một món canh ngon
    .

Ngay lúc ấy, vương hậu Candàdevì được các vương phi hộ tống vừa đến nơi liền ôm chân con đảnh lễ, ngồi xuống một bên, đầm đìa nước mắt. Nhà vua bảo bà:

– Này ái hậu, hãy xem thức ăn của vương nhi.

Và vua đặt vài ngọn lá trong tay bà cùng các vương phi kia. Các bà này cầm lá và kêu:

– Ôi vương tử, ngài ăn uống như thế kia sao, ngài chịu khổ hạnh biết dường nào.

Rồi họ ngồi xuống, lúc ấy nhà vua bảo:

– Ôi vương nhi thật kỳ diệu thay!

Và vua ngâm kệ:

  1. Quả thật diệu kỳ đối với ta
    Vương nhi cô độc phải lìa nhà,
    Sống bằng thực phẩm nghèo hèn vậy,
    Tuy thế con không đổi sắc da.

Vương tử đáp:

  1. Trên thảm lá này được trải ra,
    Con nằm cô độc ở rừng già,
    Tọa sàng quả thật đầy an lạc,
    Vì thế con không đổi sắc da.
  2. Không đoàn vệ sĩ ác canh phòng
    Bao bọc chung quanh với kiếm trần,
    Sàng tọa thật là an lạc quá,
    Nên màu da trẻ vẫn tươi hồng.
  3. Con chẳng tiếc thương gì quá khứ,
    Cũng không than khóc chuyện tương lai,
    Con chờ hiện tại đang đi tới,
    Nên sắc da con giữ được hoài.
  4. Khóc than quá khứ đã qua rồi,
    Còn chuyện tương lai bất định thôi,
    Việc ấy làm khô sinh lực trẻ,
    Như khi người cắt cỏ xanh tươi.

Nhà vua nghĩ thầm: “Thôi để ta tấn phong cho vương nhi rồi đem con về triều với ta”. Vì thế ngài ngâm kệ mời vương tử về chung hưởng ngai vàng:

  1. Con hỡi, các bầy tượng, mã, xa,
    Bộ binh, kỵ sĩ của hoàng gia,
    Lâu đài cung điện đầy hoan lạc,
    Cha sẽ cho con tất cả mà.
  2. Và các hậu cung, cha cũng ban
    Với bao vinh hiển, mọi cao sang,
    Con là vua ở ngôi duy nhất
    Ngự trị, không ai ở cạnh con.
  3. Mỹ nhân tài giỏi múa, đàn, ca,
    Ðiêu luyện bao cung cách thướt tha
    Ru cõi lòng con vào khoái lạc,
    Sao còn thơ thẩn mãi rừng già?
  4. Con gái của bao vị địch quân,
    Tự hào hầu hạ cạnh con luôn,
    Ðến khi sinh được nhiều vương tử,
    Con hãy làm tu sĩ ẩn thân.
  5. Con đầu lòng, kế vị cha đây,
    Trong tuổi đầu xuân rực rỡ vầy,
    Hãy tận hưởng ngai vàng trọn vẹn,
    Con làm gì ở thảo am này?

Bồ-tát đáp lại:

  1. Không, trẻ muốn từ giã thế gian,
    Tránh bao phù phiếm ở phàm trần,
    Cuộc đời khổ hạnh con yêu nhất,
    Khuyên nhủ như vầy mọi trí nhân.
  2. Không, con trẻ muốn xuất trần gian,
    Ẩn sĩ đơn thân ở thảo am,
    Con sẽ đi theo đời khổ hạnh,
    Con không thiết phú quý, ngai vàng.
  3. Con ngắm bé trai, miệng trẻ thơ
    Vừa kêu bập bẹ “mẹ” cùng “cha”,
    Lớn lên thành một chàng trai tráng,
    Rồi cũng già nua, phải chết mà.
  4. Cũng vầy, thiếu nữ độ hoa cười,
    Vui vẻ, đẹp xinh trước mọi người,
    Phút chốc úa tàn vì lưỡi hái
    Tử thần cắt bỏ tựa măng tươi.
  5. Mọi người nam nữ dẫu còn xuân,
    Phút chốc úa tàn, vậy thế nhân
    Ai đặt lòng tin vào cuộc sống
    Bị lừa phỉnh bởi tuổi xuân hồng?
  6. Ðêm tàn, nhường chỗ ánh bình minh,
    Phút chốc cũng thu ngắn lộ trình,
    Như cá ở vùng khô cạn nước,
    Nghĩa gì tuổi trẻ của nhân sinh?
  7. Ðời này bị đánh ngã, đau thương,
    Luôn bị canh phòng bởi địch quân,
    “Chúng” mãi đi qua đầy ác ý,
    Sao còn nói mão miện, ngai vàng?
  8. Ai đánh ngã đời sống thế gian?
    Nào ai canh giữ thật hung tàn?
    Nào ai ác ý đi qua mãi?
    Hãy nói chuyện huyền bí rõ ràng.
  9. – Thần chết đánh tan thế giới này,
    Tuổi già canh giữ cửa ta đây,
    Chính đêm tối vẫn trôi qua mãi,
    Ðạt thành mục đích chóng hay chầy.
  10. Như khi bà nọ bên khung cửi
    Ngồi dệt vải trong suốt cả ngày,
    Công việc của bà dần ít lại,
    Ðời ta tàn lụi cũng như vầy.
  11. Như thể dòng sông cuồn cuộn trôi
    Vẫn luôn trôi chảy chẳng hề lui,
    Dòng đời thế tục là như vậy,
    Cũng cứ luôn đi tới mãi thôi.
  12. Như thể dòng sông cuốn thật xa
    Những cây bật gốc ở đôi bờ,
    Con người cũng chịu lao đầu tới
    Hủy hoại do thần chết, tuổi già.

Khi nghe lời thuyết giảng của bậc Ðại Sĩ, vua sinh nhàm chán cuộc sống thế tục, chỉ muốn xuất gia, liền bảo:

– Ta không muốn trở về kinh thành nữa, ta sẽ sống đời tu hành tại đây, nếu con ta chịu về thành ta sẽ truyền trao cho cây lọng trắng này.

Vì thế vua cố thử mời mọc lần nữa để vương tử trở lại ngai vàng:

  1. Con hỡi, các bầy tượng, mã, xa,
    Bộ binh, ky sĩ của hoàng gia,
    Lâu đài cung điện đầy hoan lạc,
    Cha sẽ cho con tất cả mà.
  2. Và các hậu cung, cha cũng ban
    Với bao vinh hiển, mọi cao sang,
    Con là vua ở ngôi duy nhất
    Ngự trị, không ai ở cạnh con.
  3. Mỹ nhân tài giỏi múa, đàn, ca,
    Ðiêu luyện bao cung cách thướt tha,
    Ru cõi lòng con vào khoái lạc,
    Sao còn thơ thẩn mãi rừng già?
  4. Con gái của bao vị địch quân
    Tự hào hầu hạ cạnh con luôn,
    Ðến khi sinh được nhiều vương tử,
    Con hãy làm tu sĩ ẩn thân.
  5. Công khố và kho báu của cha,
    Bộ binh, ky mã của hoàng gia,
    Ðền đài cung điện đầy hoan lạc,
    Cha sẽ cho con tất cả mà.
  6. Nô lệ từng bầy phụng sự luôn,
    Vương phi, mỹ hậu để yêu thương,
    Ngai vàng tận hưởng, đầy khang kiện,
    Sao ở mãi đây chốn thảo đường?

Nhưng bậc Ðại Sĩ tỏ ra không chút gì ham thích ngai vàng:

  1. Sao kiếm giàu sang chẳng vững bền,
    Sao mong cầu vợ cũng quy tiên,
    Sao suy nghĩ mãi về xuân sắc,
    Thoáng chốc xuân xanh sẽ hết liền?
    Còn lại tuổi già hăm dọa đó
    Bao giờ cũng đứng cạnh triền miên.
  2. Ðâu lạc thú đem đến cuộc đời,
    Ðẹp giàu, ngự thiện, thú vui chơi,
    Thê nhi có nghĩa gì con nữa?
    Xiềng xích con nay giải thoát rồi.
  3. Ðiều con biết: mọi chốn đi đường
    Số phận luôn canh giữ chẳng ngừng,
    Lạc thú sang giàu đâu ích lợi
    Cho người thấy móng vuốt ma thần?
  4. Hôm nay làm việc bạn cần làm,
    Ai chắc ngày mai có ánh quang?
    Thần chết chính là viên đại tướng
    Không cho ai bảo đảm an toàn.
  5. Trộn luôn rình rập lấy kho tàng,
    Con đã thoát bao mối buộc ràng,
    Cha hãy trở về vương vị cũ,
    Con màng gì nữa với giang san?

Khi Bậc Ðại Sĩ chấm dứt bài giảng đầy thực tiễn của ngài, không những chỉ nhà vua và vương hậu nghe theo ngài, mà cả mười sáu ngàn cung phi cũng muốn sống đời tu hành. Rồi vua ban lệnh đi khắp kinh thành, cùng với tiếng trống vang dậy rằng ai muốn làm ẩn sĩ đều được đi tu với vương tử ngài.

Vua bảo mở cửa kho báu ra, truyền viết chiếu chỉ trên một chiếc dĩa vàng, dựng trên một cột tre, ban lệnh rằng các bình châu báu của vua sẽ được đem chưng bày ra nhiều nơi và kẻ nào muốn lấy cũng được.

Dân chúng bỏ nhà mở hết mọi cửa ngõ, như mở hội chợ, và ra đường vây quanh nhà vua. Vua cùng đám dân chúng ấy đều thề nguyền sống khổ hạnh trước Bậc Ðại Sĩ. Am ẩn sĩ được Thiên chủ Sakka cho dựng lên suốt ba dặm đường. Bậc Ðại Sĩ bước qua các túp lều làm bằng lá cành cây này, chỉ định các lều ở giữa dành cho đám phụ nữ vì họ bản tánh rụt rè. Còn những lều bên ngoài dành cho phái nam. Vào ngày Trai giới, họ đều đứng ở vùng đất ấy, tụ tập lại, ăn trái cây do Vissakamma trồng trước đây, và họ giữ giới luật tu hành. Bậc Ðại Sĩ biết rõ tâm mỗi người nào đang chìm đắm vào dục tưởng, sân tưởng hay hại tưởng, liền ngồi trên không mà thuyết Pháp cho từng người, và trong khi nghe Pháp, họ chóng tăng trưởng các Thắng trí và các Thiền chứng.

Một vị vua láng giềng hay tin vua Kàsi đã trở thành vị khổ hạnh, liền quyết định lập vương quốc của mình tại Bàlani. Vì thế vua ấy vào kinh thành, thấy khắp nơi trang hoàng rực rỡ. Vua bước vào cung chiêm ngưỡng đồ thất bảo và nghĩ thầm chắc phải có chuyện nguy hiểm gì đó quanh ngôi báu này. Vua bảo đi triệu vào vài kẻ đang say rượu và hỏi họ vị vua trước đây rời cung điện bằng cung môn nào.

Họ tâu lên:

– Bằng đông môn.

Vì thế vua thân hành ra cổng thành ấy và đi thẳng tới dọc theo bờ sông. Bậc Ðại Sĩ biết vua ấyđến, bước ra đón vua và ngồi trên không thuyết Pháp. Rồi lúc đó vị vua định chiếm nước này lại nguyện xuất gia cùng với hội chúng của mình. Và việc này lại xảy ra một lần nữa cho một vị vua khác.

Như vậy có cả ba quốc độ không người cai trị, voi ngựa được thả đi lang thang khắp các khu rừng. Xe ngựa gãy tan tành vứt trong rừng, tiền bạc trong các kho báu nhiều như cát bụi, tung vãi quanh vùng am ẩn sĩ. Các cư dân tại đó chứng đắc tám Thiền chứng và lúc mạng chungđều được sinh lên Phạm thiên giới. Ngoài ra, ngay cả ngựa voi có tâm được an tịnh nhờ chiêm ngưỡng các bậc Hiền trì, cuối cùng được tái sinh vào sáu cõi thiên ở dục giới.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã thuyết Pháp thoại này xong, Ngài bảo:

– Không phải chỉ ngày nay, mà ngày xưa kia ta cũng đã từ bỏ ngai vàng và xuất gia sống đời khổ hạnh.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Nữ thần trong chiếc lọng là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), người lái xe là Sàriputta (Xá-lợi-phất), cha mẹ ta là vương tộc ngày nay, triều đình là hội chúng của đức Phật và Hiền giả què câm Mùgapakka chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Đại vương Mahàjanaka (Tiền thân Mahà-Janaka)

Chàng là ai chiến đấu anh hùng…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang ở tại Jetavana (Kỳ Viên) về Ðại sự xuất thế cao cả của Ngài.

Một ngày kia, các Tỷ-kheo ngồi tại Chánh pháp đường bàn luận về việc xuất thế của đức Như Lai. Bậc Ðạo Sư đến và thấy vấn đề này, Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên Như Lai thực hành Ðại sự Xuất thế, trước kia Như Lai cũngđã làm như vậy.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa có một vị vua tên là Mahàjanaka trị vì ở Mithilà trong quốc độ Videha. Ngài có hai con trai là Aritthajanaka và Polajanaka. Ngài phong thái tử làm vua kế nghiệp và vương tử thứ hai làm Ðại tướng quân. Sau đó, khi vua Mahàjanaka qua đời, Aritthajanaka lên ngôi vua và lại phong vương đệ làm vị kế nghiệp.

Một ngày kia có một nô lệ vào tâu vua rằng vương đệ muốn giết ngài. Nhà vua nghe tâu chuyện đó nhiều lần, đâm ra nghi ngờ, ra lệnh cầm tù Polajanaka trong gông cùm và canh giữ chàng kỹ ở một nơi không xa hoàng cung. Vương tử phát nguyện:

– Nếu ta là kẻ thù của anh ta, thì cứ cho các xiềng xích và cửa ngõ không ai mở ra được; nếu không, thì xin các xiềng xích cửa ngõ hãy mở ra hết.

Lập tức các xiềng xích đứt ra từng mảnh và cửa ngõ bật tung. Vương tử liền thoát ra, đi đến một làng ở biên thùy và sống ở đó.

Dân chúng nhận ra vương tử, liền đến hầu hạ chàng, vì thế nhà vua không thể nào ra lệnh bắt chàng được. Dần dà chàng trở thành người cai trị xóm làng ở biên địa ấy. Với đám tùy tùng đông đảo, chàng nghĩ thầm: “Ngày trước ta không phải là kẻ thù của anh ta, nhưng nay ta lại là kẻ thù của anh ta rồi”. Thế rồi chàng trở lại Mithilà với đám hầu cận đông đảo đóng quân phía ngoài kinh thành.

Dân chúng hay tin vương tử trở về, liền đem voi ngựa đến đón chàng, và dân chúng các thành thị khác cũng đến tụ tập quanh vương tử. Sau đó chàng gửi một thông điệp cho anh của chàng: “Ngày xưa ta không phải là kẻ thù của ngươi, nhưng nay ta chính là kẻ thù của ngươi đó. Hãy trao lại ta cây lọng trắng của vua, không thì ta gây chiến”.

Khi vua sắp ra chiến trường, ngài giã từ chánh hậu:

– Này ái khanh, không ai biết trước được thắng bại ở sa trưởng. Nếu ta có mệnh hệ nào, ái khanh phải bảo vệ vương nhi trong bụng thật cẩn thận.

Rồi ngài ra đi và binh lính của vương tử Polajallaka đã sớm kết liễu đời ngài trong chiến địa. Tin nhà vua tử trận gây đại hỗn loạn khắp kinh thành. Vương hậu hay tin dữ vội thu góp tư trang quý giá nhất vào trong một chiếc giỏ, trải khăn và gạo trên mặt, ăn mặc dơ bẩn và cải trang, đội giỏ lên đầu và trốn đi vào lúc bất ngờ không ai hay biết.

Bà đi ra cửa bắc nhưng bà không biết đường, vì bà chưa hề đi đâu cả, lại không biết nhắm hướng địa bàn. Trước kia bà có nghe nói đến kinh thành Kàlacampà, nên bà ngồi chờ hỏi thăm xem có ai đi đến đến Kàlacampà không.

Lúc bấy giờ hài nhi trong bụng bà không phải đứa trẻ tầm thường, mà đó là Bậc Ðại Sĩ tái thế, sau khi đã thành tựu các công hạnh Viên mãn (Ba-la-mật), nên Thiên giới Sakka rúng động vì uy lực của vị ấy. Thiên chủ Sakka xem xét duyên cớ và nghĩ rằng có lẽ một Bậc Ðại Sĩ tài đức đang được cưu mang trong bụng chánh hậu, nên ngài phải đi xem sao. Thế là ngài làm phép hiện ra một chiếc xe có phủ trần và đặt một chiếc giường lên, rồi đứng đợi trước cửa ngôi nhà vương hậu đang ngồi, giả dạng làm một lão già lái xe ngựa và hỏi có ai muốn đi đến Kàlacampà không.

– Cha ơi, con muốn đi đến đó.

– Thế thì leo lên mà ngồi, thưa bà.

– Cha ơi, con có thai gần ngày nên không leo được con muốn ngồi đằng sau, cho con chỗ để chiếc giỏ này của con thôi.

– Bà mẹ ơi, nói gì vậy? Không ai biết lái xe như lão đâu đứng sợ, cứ leo lên và ngồi xuống.

Nhờ thần lực của Thiên chủ, mặt đất trồi lên cao đưa bà leo lên đến tận phía sau xe. Khi nằm trên giường, bà đoán biết đây phải là một vị thần. Vừa đặt mình xuống chiếc giường thần, bà liền ngủ ngay. Sau chừng ba mươi dặm đường, Sakka Thiên chủ đến một con sông, đánh thức bà dậy, bảo:

– Bà mẹ ơi, hãy dậy mà tắm sông, đầu giường có một cái áo choàng, cứ mặc vào, trong xe có bánh, cứ ăn nhé.

Bà làm theo lời Thiên chủ rồi lại lên giường nằm đến chiều tối. Khi đến Campà, bà thấy cổng thành, tháp chuông và thành lũy, bà hỏi thành này tên gì, Thiên chủ đáp:

– Thành Campà đó, bà mẹ ơi?

– Cha nói gì thế, từ kinh thành của con đến Campà không phải sáu mươi dặm đường đó sao?

– Ðúng vậy, bà mẹ ơi, nhưng lão biết đường tắt.

Thế rồi ngài để bà xuống xe ở cổng nam.

– Bà mẹ ơi, làng của lão ở đằng kia kìa, bà mẹ cứ vào kinh thành đó.

Nói xong Thiên chủ Sakka biến đi, trở lại cõi trời.

Vương hậu ngồi xuống một thềm nhà bên đường. Lúc bấy giờ có một Bà-la-môn dạy kinh Vệ-đà, ở tại thành Campà, đang cùng năm trăm đệ tử đi tắm, chợt thấy vương hậu ngồi đó, dáng điệu xinh đẹp và thanh lịch. Và nhờ thần lực của Bậc Ðại Sĩ trong bụng bà, nên người này thấy mến yêu bà ngay như đối với một cô em gái, liền bảo các đồ đệ đợi bên ngoài, một mình đi vào thềm nhà, hỏi bà:

– Này cô em, cô ở xóm làng nào?

Bà đáp:

– Ta là Chánh hậu của vua Aritthajanaka ở kinh thành Mithilà.

– Tại sao bà đến đây?

– Vua mới bị em ngài giết chết, ta sợ quá phải đến đây để cứu mạng đứa con sắp ra đời.

– Thế bà có họ hàng tại đây không?

– Không ai cả, cha à.

– Ðừng lo gì cả, ta là một Bà-la-môn miền Bắc thuộc gia đình có thân thế lớn, ta là một đại sư danh tiếng khắp xa gần, ta sẽ chăm sóc bà như em gái ta vậy, hãy gọi ta là anh và ôm chân ta mà la khóc to lên nào!

Bà liền khóc lóc thảm thiết, gục dưới chân ông ta, và họ an ủi lẫn nhau. Các đệ tử của ông thầy chạy đến hỏi cớ sự ra sao.

– Ðây là em gái út của ta, cô ấy sinh ra lúc ta đã đi xa nhà.

– Ồ sư phụ đừng buồn, bây giờ sư phụ đã gặp lại sư muội rồi.

Ông thầy liền bảo đem lại một xe lớn có mui trên, mời bà lên ngồi và đưa về nhà mình, dặn họ bảo bà vợ ông ta rằng đây là em gái mình và phải đón tiếp tử tế. Bà vợ vị Bà-la-môn này đem nước ấm cho bà tắm xong, dọn giường cho bà nằm. Người Bà-la-môn đi tắm về, vào giờ cơm ông cho gọi cô em gái ra cùng ăn và chăm sóc bà chu đáo trong nhà ông.

Chẳng bao lâu bà hạ sinh một con trai, họ đặt tên hài nhi theo tên tổ phụ là vương tử Mahàjanaka. Khi lớn lên, cậu bé thường chơi đùa với các thiếu niên khác, và khi chúng trêu ghẹo cậu để khoe dòng dõi chính thống quý tộc (Khattiya) của chúng, cậu thường đánh lại chúng bằng sức mạnh siêu đẳng và lòng dũng cảm của mình.

Khi chúng kêu khóc và được hỏi ai đánh chúng, chúng thường trả lời:

– Con bà góa.

Vương tử suy nghĩ: “Chúng cứ gọi ta là con bà góa mãi, ta sẽ hỏi mẹ xem sao”.

Một hôm cậu hỏi mẹ:

– Mẹ ơi, con là con của ai?

Bà nói dối cậu, bảo rằng vị Bà-ba-môn là cha cậu. Khi cậu đánh chúng bạn, chúng lại gọi cậu là con bà góa, cậu trả lời vị Bà-la-môn là cha của cậu, chúng vặn lại:

– Vị Bà-la-môn là gì của bạn?

Cậu suy nghĩ: “Mấy tên này bảo ta: Vị Bà-la-môn là gì của ta. Mẹ ta không muốn giải thích việc này cho ta, bà không muốn nói thật vì danh dự của bà, thôi ta phải xin bà nói sự thật cho ta rõ”.

Thế rồi khi bú sữa mẹ, cậu cắn vú bà và bảo:

– Mẹ hãy cho con biết cha con là ai, nếu không con sẽ cắn đứt vú mẹ đấy.

Bà không thể dối cậu được nữa, đành đáp:

– Con ơi, con là con vua Aritthajanaka ở thành Mithila đó, cha con bị chú Polajanaka giết, mẹ phải đem con đến đây để cứu mạng con; vị Bà-la-môn này xem mẹ như em gái và săn sóc mẹ chu đáo.

Từ đó cậu không tức giận khi ai gọi cậu là con bà góa nữa. Trước năm mười sáu tuổi, cậu đã thuộc ba tập kinh Vệ-đà và nhiều môn học khác. Khi đến mười sáu tuổi, cậu rất khôi ngô tuấn tú. Cậu nghĩ thầm: “Ta sẽ chiếm lại ngai vàng của cha ta”. Thế rồi cậu hỏi mẹ:

– Mẹ có tiền không mẹ? Nếu không, con sẽ đi buôn kiếm tiền và dành lại ngai vàng của cha con.

– Con ơi, mẹ đến đây không phải hai tay trắng đâu, mẹ có để dành ngọc ngà châu báu kim cương đủ để chiếm lại ngai vàng. Hãy đem chúng đi giành lại ngôi vua, đừng tính đi buôn nữa.

– Thưa mẹ, hãy cho con một nửa số châu báu đó, con sẽ đi đến Suvannabhùmi (Xứ vàng) và làm giàu tại đó xong mới đi lấy lại ngai vàng.

Cậu xin bà một nửa số châu báu và cùng với số vốn liếng đi buôn của cậu, cậu đem theo chiếc tàu buôn một số thương nhân đi đến Suvannabhùmi. Cậu từ giã mẹ và nói cho bà biết nơi cậu sắp đến.

– Con ơi, đi biển may ít rủi nhiều, con đừng đi. Con có đủ vàng bạc để chiếm lại ngôi báu mà.

Nhưng cậu nói với mẹ rằng cậu muốn đi, nên cậu từ giã bà và lên tàu ra khơi. Cùng ngày ấy, vua Polajanaka phát trọng bệnh không ngồi dậy được. Còn chiếc tàu buôn chở cả bảy đoàn lữ hành cùng đám gia súc của họ, trong bảy ngày đi được bảy trăm dặm đường. Nhưng vì quá nặng nề không thể chịu đựng được nữa, ván tàu nứt ra, nước ùa vào mỗi lúc một cao thêm. Tàu bắt đầu chìm giữa biển cả trong lúc các thủy thủ la khóc thảm thiết và cầu cứu các thần linh.

Riêng bậc Ðại Sĩ không hề kêu khóc cầu cứu gì cả. Biết rằng con tàu đã tận số, ngài trộnđường với bơ tươi ăn thật no nê, rồi bôi dầu vào áo quần sạch, thắt chặt đồ đạc quanh mình cậu và đứng dựa cột buồm. Khi con tàu chìm, chiếc cột buồm vẫn đứng thẳng. Người vật trên tàu đều làm mồi cho cá và rùa trạnh. Nước biển nhuộm màu máu cả một vùng.

Nhưng bậc Ðại Sĩ đứng trên cột buồm, định hướng thành Mithilà, rồi bay bổng lên từ đỉnh cột buồm, vận dụng hết sức mạnh băng qua bầy cá rùa biển ấy và rơi xuống cách con tàu chừng khoảng một trăm bốn mươi cubit (1 cubit: 45cm). Cũng vào ngày đó vua Polajanaka từ trần.

Sau đó, bậc Ðại Sĩ vượt dòng sóng biếc, rẽ sóng như một khối vàng ròng. Một tuần trôi qua như chỉ một ngày. Khi đã thấy bờ, ngài liền súc miệng và nhịn ăn. Lúc bấy giờ tiên nữ Mammekhalà (Ngọc Ðới) được Bốn vị Thiên vương cai quản thế gian phong làm thần giữ biển. Các vị ấy bảo nàng:

– Những con người có đạo hạnh như hiếu thảo với mẹ không đáng bị chết chìm dưới biển. Hãy tìm thử và cứu họ.

Nhưng trong bảy ngày liền, nàng chẳng nhìn ra biển và có người cho là tâm trí nàng đã ngẩn ngơ vì ham hưởng lạc thú thiên giới. Có người lại cho là nàng bận đi dự hội ở thiên đình. Tuy thế, đến ngày thứ bảy nàng cũng nhìn ra biển và tự nhủ: “Hôm nay là ngày thứ bảy rồi ta không nhìn ra biển, ai đang tiến tới kia?” Khi thấy Bậc Ðại Sĩ , nàng nghĩ thầm: “Nếu vương tử Mahàjanaka đã chết chìm dưới biển thì lẽ ra ta đã phải đi dự hội tại thiên đình rồi”.

Vì thế này hóa hình thật lộng lẫy đứng trên không gần chỗ Bồ-tát và ngâm vần kệ thứ nhất để thử năng lực của ngài:

  1. Chàng là ai chiến đấu anh hùng
    Giữa đại dương xa hẳn đất bằng,
    Bạn hữu là ai chàng tín nhiệm
    Ðến bên chàng giúp một tay cùng?

Bồ-tát đáp lời:

– Ðây là ngày thứ bảy ta ở trên đại dương, ngoài ta ra không có bóng người thứ hai nào cả. Aiđang nói với ta vậy kìa?

Rồi nhìn lên không trung, ngài ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Biết phận sự ta ở cõi trần,
    Khi ta nỗ lực, hỡi Thiên thần,
    Nơi đây giữa đại dương xa đất,
    Ta đấng nam nhi gắng hết lòng.

Vì muốn nghe Pháp lành, nữ thần liền ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Ðây giữa biển sâu rộng chẳng cùng,
    Bến bờ xa tít mắt vời trông,
    Sức chàng tận dụng thành mây khói,
    Giữa đại dương, chàng gặp tử thần
    .

Bồ-tát trả lời:

– Tại sao nàng nói như vậy? Nếu ta mất lòng trong lúc ta gắng hết sức mình thì dẫu sao đi nữa ta cũng không còn bị ai chê trách.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Ai làm gắng hết sức nam nhân,
    Ðối với người thân, chẳng lỗi lầm,
    Thiên đế cũng không đòi trả nợ,
    Chẳng hề ân hận ở trong lòng.

Kế đó nữ thần ngâm kệ:

  1. Chiến đấu như vầy ích lợi sao,
    Phí công vô ích được gì nào?
    Báo đền không có gì thành đạt,
    Chỉ có tử thần đổi khổ đau.

Thế là Bồ-tát ngâm các vần kệ sau để cho nữ thần thấy nàng nhận xét thiếu sáng suốt:

  1. Ai nghĩ không gì để đấu tranh,
    Và không chiến đấu hết lòng mình,
    Bại vong là lỗi cần chê trách,
    Vì chính lòng hèn yếu bất thành.
  2. Con người dự định việc trên đời,
    Làm việc mình xem tốt tuyệt vời,
    Dự định thành công hay thất bại,
    Tương lai chỉ rõ cuối cùng thôi.
  3. Nữ thần chẳng thấy đó hay chăng,
    Chính việc ta nay quyết định phần:
    Bao kẻ chết chìm, ta được sống,
    Và nàng đang đứng cạnh trên không.
  4. Vậy ta chiến đấu hết sức ta
    Qua giữa đại dương thẳng đến bờ,
    Trong lúc sức tàn, ta vẫn gắng,
    Quyết không lùi đến lúc nguy cơ.

Nữ thần nghe những lời lẽ anh dũng đó, liền ngâm vần kệ tán thán ngài:

  1. Chàng đang chiến đấu thật hùng cường,
    Giữa biển mênh mông thật bạo tàn,
    Chẳng thối lui, chối từ nhiệm vụ,
    Gắng công nơi phận sự chờ chàng,
    Hãy đi đến chốn lòng chàng muốn,
    Ðứng để gian nan cản bước đường.

Sau đó nữ thần hỏi ngài muốn đưa đi đâu, ngài đáp:

– Tới kinh thành Mithilà.

Nàng liền tung ngài lên không như một tràng hoa, rồi ôm ngài vào lòng như đứa con thân yêu, và vụt lên giữa không gian. Bồ-tát ngủ suốt bảy ngày, thân thể ướt đầm nước muối và rúng động vì sự tiếp xúc với thần tiên này. Rồi nữ thần mang ngài đến Mithilà, đặt ngài nằm nghiêng bên hữu trên bệ đá dùng để tế lễ trong một vườn xoài, giao cho các nữ thần trong ngôi vườn phò trợ ngài rồi trở về nơi cũ.

Lúc bấy giờ vua Polajanaka không có vương tử, chỉ có một công chúa thông thái và hiền đức, tên là Sìvalidevì. Quần thần hỏi nhà vua khi ngài sắp băng hà:

– Tâu Ðại vương, chúng thần sẽ trao ngôi báu cho kẻ nào khi Ðại vương về chầu trời?

Nhà vua bảo:

– Hãy giao lại cho kẻ nào làm đẹp lòng công chúa Sìvalì, hoặc người nào biết được đâu là phía đầu của chiếc ngự sàng hình vuông, hoặc người nào giương được chiếc cung cần sức mạnh của cả ngàn người, hoặc người nào tìm ra được mười sáu kho báu.

– Tâu Ðại vương, xin cho chúng thần biết danh sách mười sáu kho báu ấy.

Nhà vua liền lập lại danh sách ấy:

  1. Kho báu mặt trời mọc buổi mai,
    Kho tàng kia lại ở phương đoài,
    Kho tàng trong với kho ngoài ấy,
    Kho báu không trong cũng chẳng ngoài.
  2. Kho ở nơi lên xuống của ta,
    Ở nơi có bốn trụ sà-la,
    Ở đầu răng với đầu đuôi ấy,
    Và ở vòng dây yo-ja-na,
    Ở các đầu cành cây cổ thụ,
    Ở trứng nước lạnh ke-bu-ka.
  3. Mười sáu kho châu báu ngọc vàng,
    Phải tìm nơi để các kho tàng,
    Chiếc cung cần một ngàn nam tử,
    Làm đẹp lòng công chúa, ngự sàng.

Ngoài các kho báu trên, vua còn nêu danh sách các kho báu khác. Sau khi vua từ trần, các đại thần làm lễ tống táng xong, vào ngày thứ bảy, họ hội họp lại và quyết định:

– Ðại vương ban lệnh chúng ta giao ngôi báu cho kẻ nào làm đẹp lòng con gái ngài, nhưng ai là kẻ có khả năng làm vừa ý công chúa đây?

Họ đồng đáp:

– Viên đại tướng là một kẻ được vua sủng ái.

Thế rồi họ cho triệu vị này đến. Vị này liền đến trước cung môn và báo cho công chúa biết ông ta đã đến chầu. Công chúa hiểu duyên cớ gì ông ta đến và để thử xem ông ta có đủ tài trí xứng đáng với chiếc lọng của hoàng gia không, nàng cho triệu ông ta vào. Nghe lệnh công chúa và ước mong làm đẹp lòng nàng, ông liền chạy lên bệ rồng và đứng cạnh nàng. Muốn thử ông, nàng bảo:

– Chạy ra ngoài sân, nhanh lên!

Ông ta vùng lên chạy, tưởng là công chúa hài lòng lắm. Công chúa lại bảo:

– Ðến đây.

Ông ta vội chạy đến. Công chúa thấy ông ta thiếu hẳn tài trí, nàng nói:

– Ðến xoa chân ta.

Ông ta liền ngồi xuống xoa chân công chúa cho nàng hài lòng. Thế là nàng đá vào ngực ông ta té lăn rồi bảo đám thị nữ:

– Ðánh tên khùng mù quáng ngu ngốc này và lôi cổ nó ra.

Chúng dạ vang tuân lệnh. Rồi chúng nói với ông:

– Thưa Ðại tướng. . .

Ông ta đáp:

– Thôi đừng nói nữa, nàng ấy không phải là người.

Sau đó viên quan giữ kho tàng đến, nàng cũng làm nhục ông ta như vậy. Lần lượt các viên quan giữ kho, giữ lọng, giữ kiếm đều bị nàng hạ nhục.

Thế rồi quần thần quyết định:

– Không kẻ nào làm đẹp lòng công chúa, vậy hãy gả nàng cho kẻ nào giương được cây cung cần sức mạnh của cả ngàn người.

Nhưng không ai giương cung nổi cả. Sau đó họ bảo:

– Hãy gả nàng cho người nào biết được đâu là đầu của chiếc ngự sàng hình vuông.

Nhưng không một ai biết cả.

– Vậy thì gả nàng cho kẻ nào tìm được mười sáu kho tàng.

Nhưng rồi cũng chẳng ai tìm ra. Sau đó quần thần họp lại bảo nhau:

– Ngôi báu không thể nào không có vua trị, vậy phải làm gì bây giờ?

Lúc đó vị tế sư của hoàng gia bảo họ:

– Ðừng lo, ta phải đem ra một chiếc xe hoa, hễ vị nào được xe hoa rước về là sẽ có đủ uy lực cai trị cõi Diêm-phù-đề.

Họ chấp thuận, ra lệnh cả kinh thành trang hoàng thật lộng lẫy, cho bốn con ngựa màu đỏ tía buộc vào chiếc xe hoa, phủ kín màn vải lên chúng, gắn năm phù hiệu của hoàng gia vào và một đám tùy tùng vây quanh bốn phía xe. Bấy giờ tiếng kèn khua vang dội trước xe, chỉ có một người lái xe, ngoài ra không có ai ở trong xe cả. Sau đó, vị tế sư ra lệnh khua chiêng trốngđằng sau, và sau khi rảy nước trong chiếc bình bằng vàng lên dây cương và roi ngựa, vị này ra lệnh cho xe đi tìm vị vua đủ tài đức cai trị quốc độ.

Chiếc xe hoa oai vệ đi quanh hoàng cung rồi tiến ra đường cái. Vị đại tướng cùng nhiều viên quan trong triều đều tưởng rằng xe đang đi tới phía nhà mình. Nhưng rồi xe cứ đi thẳng ngang qua mọi phố phường trang nghiêm diễn hành quanh kinh thành, ra khỏi đông môn và tiến tới ngự viên. Khi ấy xe đi quá nhanh, đám hầu cận bảo xe dừng lại, nhưng vị tế sư bảo:

– Đừng dừng lại, cứ để nó đi một trăm dặm tùy thích.

Xe tiến vào ngự viên, trịnh trọng đi vòng quanh bệ đá và dừng lại như thể sẵn sàng cho người bước lên. Vị tế sư ngắm Bồ-tát đang nằm đó và bảo các vị đại thần:

– Thưa các ngài, ta thấy có người nằm đó, ta không biết người đó có đủ tài trí xứng đáng với chiếc lọng trắng của hoàng gia không. Nếu vị này là người có tài thánh thì sẽ không thèm nhìn ta đâu, nhưng nếu đó là một kẻ hạ tiện thì sẽ giật mình khiếp sợ khi nhìn thấy ta, vậy hãy đánh chiếng trống lên cả nào.

Vì thế họ khua dậy hàng trăm thứ trống kèn chẳng khác nào tiếng gầm thét của biển cả. Bậc Ðại Sĩ lúc đó thức giấc vì nghe tiếng ồn ào, mở khăn che đầu ra nhìn quanh, thấy đám đông rầm rộ. Ngài nghĩ có lẽ chiếc lọng trắng đã đến tay ngài nên lại che đầu và quay sang nằm phía bên tả. Vị tế sư mở chân ngài ra xem, ngắm các tướng mạo của ngài và bảo:

– Ðừng nói một châu thiên hạ mà làm gì, vị này có đủ uy lực cai trị cả bốn châu.

Thế là ông ta ra lệnh đáng chiêng trống lại lần nữa.

Bồ-tát mở khăn trùm mặt ra, quay người sang bên hữu và nhìn đám đông. Vị tế sư trấn an mọi người xong, chắp hai tay lại, cúi xuống trước ngài cung kính nói:

– Xin Ðại vương đứng dậy, vương quốc này thuộc quyền ngài rồi.

Bồ-tát trả lời:

– Thế đức vua đâu?

– Vua đã băng hà.

– Ngài không có vương tử, vương đệ gì sao?

– Tâu Ðại vương, không.

– Thôi được, thế thì ta nhận ngai vàng.

Rồi ngài đứng dậy, ngồi xếp bằng trên bệ đá. Quần thần làm lễ quán đảnh (rảy nước thánh lênđầu để phong vương) cho ngài tại đó và thế là ngài trở thành vua Mahàjanaka. Rồi ngài bước lên xe về thành với vẻ uy nghi lẫm liệt của bậc đế vương. Ngài vào cung, bước lên ngai vàng, ban chức tước cho vị đại thần và các quan lại khác.

Lúc bấy giờ công chúa muốn thử tài của ngài qua cách xử sự đầu tiên, liền cho gọi một thị vệđến bảo:

– Ngươi hãy tâu với Ðại vương là công chúa Sìvalì muốn mời ngài đến lập tức.

Vị vua tài trí này làm như không nghe lời gã, cứ tiếp tục phát họa cung điện:

– Phải thế này mới được.

Biết không thể nào làm nhà vua chú ý tới mình, gã trở lại tâu công chúa:

– Tâu công chúa, Ðại vương nghe công chúa nói vậy mà cứ tiếp tục phát họa sơ đồ hoàng cung thôi, ngài chẳng quan tâm gì đến công chúa cả.

Công chúa tự nhủ: “Ðây phải là người có tâm hồn cao cả lắm”. Và nàng cho một sứ giả thứ hai rồi thứ ba đến nữa. Sau cùng vua vào cung, dáng điệu thong dong thư thái, ngáp dài dáng như sư tử. Khi ngài đến gần, công chúa không thể nào đứng yên được trước vẻ uy nghi của ngài, liền bước lên đưa tay ra cho ngài vịn. Ngài cầm lấy tay nàng đi lên bệ vàng và sau khi ngự trên vương sàng, dưới cây lọng trắng, ngài hỏi các đại thần:

– Khi tiên đế thăng hà, ngài có chỉ dạy các ngươi điều gì không?

Họ đáp:

– Vương quốc phải được giao cho kẻ nào có thể làm đẹp lòng công chúa.

– Thế công chúa đã đưa tay cho ta vịn khi ta đến gần nàng, như vậy ta đã làm đẹp lòng nàng rồi, còn điều gì khác nữa?

– Tiên đế bảo vương quốc phải được trao lại cho kẻ biết được phía đầu của ngự sàng hình vuông này.

Vua đáp:

– Ðiều này khó nói thật, nhưng cũng có thể biết được nhờ sáng kiến.

Thế là ngài rút ra một cây kim vàng trên đầu ngài và đưa đưa cho công chúa, bảo:

– Đặt cái này vào cho đúng chỗ.

Nàng cầm lấy kim đặt vào đầu của chiếc ngự sàng.

Thấy vậy, họ đưa ra câu tục ngữ:

– Nàng trao tặng chàng thanh kiếm.

Nhờ dấu hiệu này, ngài biết đâu là phía đầu ngự sàng, nhưng cứ vờ làm như ngài không nghe họ nói. Ngài hỏi họ nói gì, và khi họ lập lại câu đó. Ngài bảo:

– Biết đầu chiếc ngự sàng cũng không kỳ diệu gì.

Rồi ngài hỏi:

– Còn gì để thử tài nữa.

Họ đáp:

– Tâu Ðại vương, tiên đế ra lệnh trao ngôi báu cho người nào giương được cây cung cần sức mạnh của cả ngàn người.

Khi họ đem cây cung đến theo lệnh ngài. Ngài giương nó lên ngay lúc đang ngồi trên long sàng như thể đó là cái khung xe chỉ của đàn bà.

– Cái gì nữa cứ nói đi – Ngài bảo.

– Tiên đế ra lệnh trao vương quốc cho kẻ nào tìm ra được mười sáu kho tàng.

– Danh sách đâu?

Các đại thần kể lại danh sách đã nói trên. Trong lúc nghe họ nói, ngài thấy ý nghĩa dần dần sáng tỏ ra như thể trăng hiện lên trên bầu trời.

– Hôm nay chưa phải lúc, để ngày mai ta sẽ đi lấy các kho báu.

Ngày hôm sau ngài họp quần thần lại và hỏi:

– Tiên đế trước đây có cúng dường các vị Ðộc Giác Phật không?

Khi nghe họ bảo có, ngài nghĩ thầm: “Mặt trời ở đây không phải là mặt trời thật, mà các vị Ðộc Giác Phật thường được gọi là mặt trời vì hình dáng tương tự như thế; vậy kho tàng phải ở nơi tiên đế thường đến gặp các vị này”. Rồi ngài bảo họ:

– Khi các vị Ðộc Giác Phật đến, tiên đế thường gặp các Ngài ở đâu?

Họ tâu lại nơi này nơi nọ. Ngài ra lệnh đào chỗ đó lên và tìm ra kho tàng.

– Thế khi tiên đế tiễn các vị Ðộc Giác Phật ra về, tiên đế đứng ở đâu để tạ từ?

Họ tâu lại và ngài ra lệnh đào chỗ đó lên. Quần thần reo hò vang dậy tỏ lòng hân hoan đồng nói:

– Khi nghe nói chỗ mặt trời mọc, dân chúng trước kia đã quanh quẩn đào đất về phía mặt trời mọc thật, rồi khi nghe phía mặt trời lặn, họ lại đào đất phía đó, nhưng đây mới đúng là kho tàng châu báu, thật là kỳ diệu!

Khi họ bảo:

– Kho tàng bên trong.

Ngài liền cho đào lên kho tàng ở bậc thềm nhà bên trong đại môn của hoàng cung.

– Kho tàng bên ngoài.

Ngài liền cho đào kho tàng ở bên ngoài thềm.

– Không ở trong cũng không ở ngoài.

Ngài cho đào kho tàng ở dưới thềm.

– Ở nơi bước lên.

Ngài cho đào kho tàng ở nơi đặt chiếc thang bằng vàng để nhà vua ngự lên vương tượng.

– Ở nơi bước xuống.

Ngài cho lấy ra kho tàng ở nơi nhà vua ngự xuống từ vương tượng.

– Ở bốn cột trụ lớn bằng gỗ sàla.

Có bốn chân chống lớn dưới vương sàng, làm bằng gỗ sàla, nơi triều thần phủ phục trên sân chầu, từ đó ngài cho lấy ra bốn bình đầy châu báu.

– Vòng dây cương yojana.

Lúc bấy giờ yojana là vòng dây cương xe ngựa, thế là ngài cho đào quanh long sàng cỡ bằng một vòng dây cương ngựa, rồi lấy ra các bình châu báu.

– Kho tàng ở đầu răng.

Ở nơi vương tượng đứng, ngài lấy ra hai bình châu báu ngay trước hai ngà voi.

– Ở mút đuôi.

Từ nơi vương mã đứng, ngài lấy ra những bình châu báu nằm chỗ đối diện với cái đuôi của vương mã.

Trong nước kebuka.

Lúc bấy giờ, nước được gọi là kebuka, thế là ngài cho tát hết nước trong hồ của hoàng cung và lấy lên kho báu.

– Kho báu ở ngọn cây.

Ngài lấy ra các bình báu vật chôn trong khoảng tàng cây sàla che bóng trưa giữa vườn ngự uyển. Như vậy ngài đã lấy ra đủ mười sáu kho báu và hỏi xem còn nữa không, họ đồng đáp:

– Không còn.

Dân chúng vô cùng hoan hỷ. Nhà vua lại bảo:

– Ta sẽ đem châu báu này ra bố thí.

Thế là ngài bảo dựng lên năm sảnh đường bố thí giữa kinh thành và tại các cung môn rồi ban lệnh đại chẩn tế. Sau đó ngài truyền đi mời mẹ ngài và người Bà-la-môn từ Kalacampà về tuyên dương tán thán công đức của hai vị.

Trong những ngày đầu tiên trị nước, vua Mahàjanaka, con trai của vua Aritthajanaka, cai trị khắp mọi quốc độ ở Videha. Dân chúng bảo nhau:

– Hoàng đế thật tài đức, chúng ta muốn yết kiến long nhan.

Thế là cả kinh thành xôn xao muốn yết kiến tân vương, đem đến kinh đô đủ lễ vật từ khắp nơi. Họ chuẩn bị đại lễ tại kinh đô, phủ lên hào lũy cả hoàng cung một lớp hồ vữa in dấu tay của họ, treo đầy hương liệu và tràng hoa, tung vãi ngũ cốc rang, hoa, hương trầm mù mịt cả bầu trời và soạn sẵn đủ thức ăn uống. Khi mang lễ vật vào dâng lên vua, họ đứng vây quanh với đủ loại phẩm vật cứng, mềm, mọi thức uống, trái cây.

Ðám đại thần ngồi một bên, một bên là các Bà-la-môn, một phía nữa là các thương nhân giàu có, một phía nữa là các vũ nữ xinh đẹp, các Bà-la-môn danh ca có tài về lễ nhạc, hát vang những khúc hoan ca, với hàng trẫm nhạc cụ được khua động, cho nên hoàng cung vang dậy lên một âm thanh ầm ỹ như giữa lòng đại dương Yugandhara. Khi vua nhìn quanh mọi nơi, hết thảy đều rúng động.

Bồ-tát ngồi dưới cây lọng trắng, ngắm cảnh huy hoàng rực rỡ chẳng khác nào cung của Sakka Thiên chủ, và ngài hồi tưởng những chiến đấu gian nan của ngài trên đại dương. “Dũng cảm làđiều chính đáng cần phải biểu dương, nếu ta không biểu lộ lòng dũng cảm trên đại dương thì làm sao ta được huy hoàng như ngày nay?” Một nỗi hoan hỷ khởi lên trong lòng ngài trong lúc hồi tưởng quá khứ, khiến ngài lập tức bật lên một tiếng kêu to đắc thắng.

Sau đó ngài hoàn thành Thập vương pháp (mười nhiệm vụ của một anh quân), cai trị rất đúng pháp và thường cúng dường các vị Ðộc Giác Phật. Cùng với thời gian này, hoàng hậu Sìvalì hạ sinh một hoàng nam đầy đủ các tướng tốt lành và được đặt tên là Dìghàvu-Kumàra (Vương tử Trường Thọ).

Khi hoàng tử lớn lên, nhà vua phong con làm kẻ phó vương.

Một ngày kia, người giữ vườn ngự uyển đem dâng vua đủ loại hoa quả. Vua rất đẹp ý và muốn làm vinh dự cho gã, ngài bảo gã trang hoàng ngôi vườn ngự uyển rồi ngài sẽ đến viếng. Người làm vườn vâng lời ngài dạy, xong tâu vua. Ngài liền ngự vương tượng có đám cận thần theo hầu, đi vào cổng ngự viên.

Bấy giờ gần đó có hai cây xoài xanh tươi, một cây không trái, còn một cây đầy trái rất ngon ngọt. Trước đây vua chưa nếm trái nào nên không ai dám hái cả. Ngay khi nhà vua đi ngang qua trên mình voi ngài hái một trái ăn thử. Lúc quả xoài đụng đầu lưỡi ngài một mùi hương cao quý xông lên khiến ngài nghĩ thầm: “Khi trở về, ta sẽ hái thêm nhiều trái nữa”. Nhưng khi được biết vua đã nếm trái đầu tiên rồi thì mọi người từ thái tử đến các người quản tượng đều tụ tập lại ăn xoài, còn những người không ăn trái thì lại lấy gậy phá cây, ngắt lá cho đến lúc cây tơi tả, xơ xác trong lúc cây kia vẫn đứng sững tươi đẹp như một ngọn núi ngọc bích. Khi ra khỏi ngự viên, thấy vậy vua liền hỏi các đại thần. Họ tâu:

– Khi đám người này thấy Hoàng thượng đã “ngự” trái đầu tiên rồi, thì họ phá cây.

– Nhưng cây kia không mất một ngọn lá nào.

– Nó không thiệt hại gì vì nó không có quả.

Vua vô cùng xúc động: “Cây này giữ được màu xanh tươi vì nó không có quả, trong lúc cây bạn nó bị tan tành vì có quả. Vương quốc này cũng như cây có quả kia, còn đời người tu hành chẳng khác nào cây không trái. Chính người có của cải mới sợ hãi, chứ kẻ mình trần thân trụi thì chẳng phải sợ gì. Ta sẽ giống như cây không trái kia, chứ chẳng giống cây có trái nọ tý nào. Ta quyết sẽ từ bỏ tất cả cảnh huy hoàng lại, từ bỏ thế gian và trở thành vị khổ hạnh”. Quyếtđịnh vậy xong, ngài mới vào thành, đứng ở cửa cung, cho mới vị đại tướng vào bảo:

– Này Tướng quân, từ hôm nay đừng cho ai yết kiến ta, trừ một thị giả đem cơm cho ta và một thị giả khác đem nước và bàn chải cho ta súc miệng. Còn khanh hãy cùng các Chánh phán quan lão thần trong triều lo cai trị nước. Từ nay ta sẽ sống tu hành như một ẩn sĩ đệ tử Phật trên tháp hoàng cung.

Nói xong, ngài đi lên đỉnh tháp hoàng cung một mình và sống đời tu sĩ theo đạo Phật.

Thời gian qua, dân chúng tụ tập trong sân chầu mà không yết kiến Bồ-tát được, họ bảo nhau:

– Ngài chẳng giống Ðại vương của ta ngày trước.

Rồi họ ngâm kệ:

  1. Chúa thượng, Ðại vương cõi thế gian,
    Ðổi thay thật khác trước hoàn toàn,
    Hoan ca, ngài chẳng lưu tâm đến,
    Vũ nữ, ngài không thiết ngó ngàng.
  2. Hươu nai, ngự uyển, đám thiên nga
    Chẳng quyến rũ đôi mắt hững hờ,
    Tĩnh tọa, ngài thành câm lặng quá,
    Ðể bao việc nước cứ trôi qua.

Họ lại hỏi thị giả và người hầu cận của vua:

– Ðại vương có bao giờ nới chuyện với quý vị không?

– Không bao giờ cả – Họ đáp.

Rồi họ kể lại chuyện đức vua với tâm trí luôn luôn trầm mặc, xa rời mọi dục lạc. Ngài nhớ lại các bậc hiền hữu của ngài, các vị Ðộc Giác Phật, và tự nhủ: “Ai có thể chỉ cho ta biết nơi an trú của các Hiền nhân đã giải thoát mọi tham ái và đầy đủ mọi công đức này?” .

Rồi ngài cảm khái ngâm lớn ba vần kệ:

  1. Tránh ngoại cảnh, chuyên chú lạc tâm,
    Thoát ràng buộc, sợ hãi phàm trần,
    Ðâu vườn tiên giới, già cùng trẻ,
    Ðồng trú bao Hiền Thánh trí nhân?
  2. Bỏ lại đằng sau mọi dục tham,
    Ta tôn sùng các Thánh vinh quang,
    Giữa đời điên đảo vì cuồng vọng,
    Chư vị ly tham, bước tịnh an.
  3. Các Ngài phá hết lưới ma thần,
    Cạm bẫy kẻ lừa dối đã giăng,
    Thoát mọi buộc ràng, thanh thản bước,
    Ai đưa ta đến chỗ Ngài chăng?

Ngài sống đời ẩn sĩ tu hành trong cung vua được bốn tháng, cuối cùng ngài quyết tâm từ bỏ đời thế tục. Ngài thấy cung vua chẳng khác nào một tầng địa ngục ở giữa các thế gian, và ba cõi sinh hữu (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) đang bốc cháy. Trong tâm trạng ấy, ngài bỗng phát họa cảnh kinh thành Mithilà cùng với ý tưởng: “Bao giờ thì đến lúc ta từ giã kinh thành Mithilà huy hoàng rực rỡ như cung trời Sakka (Ðế Thích) này để đi vào rừng Himavat (Tuyết Sơn) khoác áo khổ hạnh?”

  1. Khi nào rời bỏ Mi-thi-là,
    Lộng lẫy nguy nga quả thật là,
    Bao kiến trúc sư đà tạo dựng
    Công trình đồ sộ đẹp lòng ta.
  2. Chiến lũy, cung môn, các dãy thành,
    Phố phường giăng trải khắp chung quanh,
    Ngựa, bò, xe chạy từng đoàn lũ,
    Hồ nước, vườn hoa thật đẹp xinh.
  3. Kinh thành danh vọng khắp xa gần,
    Rộn rịp bao binh sĩ, tướng quân,
    Mình khoác chiến bào da hổ báo,
    Vẫy cờ, khí giới sáng tưng bừng.
  4. Bà-la-môn mặc lụa Kà-si
    Sực nức trầm hương, điểm ngọc chi,
    Cung điện và cung phi mỹ nữ
    Mang đầy mão miện, đủ hoàng y.
  5. Bao giờ ta bỏ chúng, đi ra
    Tìm cực lạc đơn độc xuất gia,
    Mang phấn tảo y, bình nước uống,
    Bắt đầu đời hạnh phúc riêng ta?
  6. Bao giờ ta lạc bước vào rừng,
    Ăn trái cây hoang dã đón mừng,
    Hòa điệu lòng ta vào độc trú
    Như người hòa điệu thất huyền cầm?
  7. Tâm ta giải thoát khỏi mong cầu
    Lợi lạc đời này hoặc kiếp sau,
    Như thể thợ giày làm guốc gỗ
    Bào mòn các cạnh láng trơn mau.

Lúc bấy giờ ngài sinh vào thời kỳ con người thọ đến muôn tuổi. Vì vậy sau khi trị nước bảy ngàn năm, ngài làm ẩn sĩ, ngài còn ba ngàn năm nữa và lúc bắt đầu sống đời khổ hạnh, ngài vẫn còn ở hoàng cung bốn tháng kể tử ngày thấy cây xoài, nhưng rồi ngài tự nhủ ở am ẩn sĩ tốt hơn ở hoàng cung.

Thế là ngài bí mật bảo người hầu cận tìm cho ngài vài chiếc y vàng và một bình bát bằng đất bán ở chợ. Ngài cho mời người hớt tóc vào cạo bỏ râu tóc ngài, xong mặc một y vàng bên trong, một y vàng bên ngoài, đắp một y nữa lên vai. Rồi cầm chiếc gậy, ngài đi lui tới nhiều lần trên gác hoàng cung với những bước chân ngất ngưỡng của một vị Ðộc Giác Phật. Ngày hôm ấy ngài còn ở đây, nhưng sáng sớm hôm sau, ngài bắt đầu đi xuống.

Hoàng hậu Sìvalì cho gọi bảy trăm cung nữ được sủng ái vào bảo:

– Ðã lâu lắm rồi, cả bốn tháng tròn kể từ khi chúng ta gặp Thánh thượng lần cuối, hôm nay chúng ta sẽ giáp được mặt rồng. Vậy các nàng hãy trang điểm mình thật đẹp, làm sao cố mê hoặc Thánh thượng để ngài tham đắm dục lạc không thoát ra nổi.

Ðược các cung nữ trang sức lộng lẫy hộ tống, hoàng hậu bước lên hoàng cung để yết kiến vua. Nhưng dù thấy ngài đi xuống, bà không nhận ra ngài, cứ tưởng đó là một vị Ðộc Giác Phật đến giáo hóa vua. Bà đảnh lễ và đứng qua một bên; rồi Bồ-tát bước xuống khỏi hoàng cung. Nhưng hoàng hậu, khi lên lầu ngắm các lọn tóc của vua màu ong nghệ rớt trên long sàng, cùng các vật dụng tắm rửa của ngài, liền thét lên:

– Ðó không phải vị Ðộc Giác Phật đâu, có lẽ đó là Thánh thượng tôn quý của ta rồi. Thôi ta phải van xin ngài trở lại.

Thế là từ gác hoàng cung đi xuống sân rồng, hoàng hậu cùng các cung phi xõa tóc ra rũ rượi trên lưng, đấm ngực đi theo nhà vua than khóc thảm thiết:

– Ôi Ðại vương, sao ngài nỡ làm vậy?

Cả kinh thành náo động lên, dân chúng ùa theo đức vua khóc lóc:

– Thánh thượng đã làm ẩn sĩ rồi, ta còn tìm đâu ra một vị anh quân như vậy nữa?

*

Lúc ấy bậc Ðạo Sư tả cảnh các cung phi khóc lóc và nhà vua cứ bỏ mặc họ mà đi, đã ngâm kệ này:

  1. Kìa đứng bảy trăm vị thứ phi
    Dang tay cầu khẩn, dáng sầu bi,
    Ðiểm trang đầy ngọc vàng châu báu:
    “Ðại đế sao ngài nỡ bỏ đi?”
  2. Giã từ tất cả bảy trăm nàng
    Xinh đẹp, thanh tao, lại dịu dàng,
    Ðại đế đi theo lời ước nguyện
    Với lòng kiên định quyết không sờn.
  3. Giã từ chén rượu lễ đăng quang,
    Dấu xưa vương giả cảnh huy hoàng,
    Hôm nay ngài lấy bình bằng đất,
    Sự nghiệp mới đang phải khởi đường.

Hoàng hậu Sìvalì thấy khóc than không thể cản bước vua được, liền nghĩ một cách khác. Bà cho triệu viên đại tướng quân đến ra lệnh đốt lửa trước mặt vua, giữa đám nhà hoang phế, nằm trên hướng vua đi tới chất cao cỏ rác thành từng đống, khói tỏa mịt mù khắp nơi. Vị này tuân lệnh. Rồi bà chạy đến chân vua, quỳ xuống chân ngài, tâu rằng kinh thành Mithilà đang bốc cháy qua hai vần kệ này:

  1. Thật là khủng khiếp, lửa hoành hành,
    Kho báu, kho hàng cháy thật nhanh,
    Vàng, bạc, ngọc, sò lần lượt cháy,
    Thảy đều tiêu hủy đến tan tành.
  2. Xiêm y lộng lẫy, ngà, da, đồng,
    Tất cả gặp chung phận phủ phàng,
    Tâu Chúa thượng, xin mau trở lại
    Cứu tài sản trước lúc tiêu vong.

Bồ-tát trả lời:

– Ô hay, hoàng hậu nói gì vậy? Kẻ nào có của cải mới lo bị đốt cháy, chứ ta có gì đâu?

  1. Ta chẳng có đâu của cải gì,
    Sống không lo lắng hoặc sầu bi,
    Mi-thi-la có nguy cơ cháy,
    Ta cũng chẳng còn cháy vật chi!

Nói xong ngài đi ra phía bắc môn, các cung phi cũng theo sau. Hoàng hậu Sìvali ra lệnh bảo họ chỉ cho ngài xem các làng mạc bị tàn phá, đất bị bỏ hoang và họ lại chỉ cho ngài thấy nhiều người mang khí giới chạy đi cướp bóc khắp nơi, trong khi một số người khác được phết sơn đỏ lên người và khiêng đi trên các tấm ván như thể bị thương hay đã chết rồi. Dân chúng la hét lên:

– Tâu Ðại vương, trong khi ngài gìn giữ giang sơn chúng phá phách giết hại đồng bào như vậyđó.

Thế là hoàng hậu ngâm vần kệ van xin vua trở về:

  1. Bọn giữ rừng đang bỏ đất hoang,
    Xin ngài về cứu độ toàn dân,
    Giang sơn đừng để ngài không trị,
    Ðành sụp đổ vô vọng nát tan.

Nhà vua suy nghĩ: “Khi ta đang cai trị, không có cướp bóc nào nổi lên phá hoại đất nước cả, chắc đây là trò bịa đặt của hoàng hậu Sìvalì”. Vì vậy ngài ngâm các vần kệ này như thể ngài không biết bà nói gì:

  1. Ta chẳng có đâu của cải gì,
    Sống không lo lắng hoặc sầu bi,
    Giang sơn có thể nằm hoang vắng,
    Nhưng chính ta không thiệt hại chi.
  2. Chúng ta không có của gì riêng,
    Sống chẳng lo âu, chẳng muộn phiền,
    Thọ hưởng niềm vui trong cực lạc
    Khác gì một vị Quang âm Thiên.

Dù ngài nói vậy, dân chúng vẫn đi theo ngài, ngài tự nhủ: “Họ không muốn trở về, vậy ta phải buộc họ trở về”. Rồi khi ngài đi được chừng nửa dặm, ngài quay lui hỏi vị Ðại thần:

– Ðất nước này của ai đây?

– Tâu Ðại vương, đất nước của Ðại vương.

– Vậy thì hãy trừng phạt kẻ nào vượt khỏi ranh giới này.

Nói xong ngài vạch một lằn ranh bằng cây gậy của ngài. Không một kẻ nào dám vi phạm ranh giới này cho nên dân chúng đứng sau lằn ranh la khóc ầm ỹ. Hoàng hậu cũng không thể vượt lằn ranh, chỉ biết nhìn theo nhà vua đang đi xa dần, quay lưng về phía bà. Rồi bà không ngăn được sầu khổ, đấm ngực khóc lóc, ngã xuống, cố vượt qua khỏi lằn ranh. Dân chúng la to:

– Quân canh giữ đã phá lằn ranh rồi.

Thế là họ theo gương hoàng hậu bước qua.

Bậc Ðại Sĩ đi về phía bắc rừng Himavat (Tuyết Sơn), hoàng hậu cũng đi theo ngài, kéo theo cả binh sĩ cùng đoàn voi ngựa để cỡi. Vua không ngăn chặn họ được nên cứ tiếp tục cuộc hành trình chừng sáu mươi dặm nữa.

Lức bấy giờ có một ẩn sĩ tên gọi Nàrada ở trong Kim cốc núi Himavat đã chứng được năm Thắng trì. Sau bảy ngày nhập định, vị ấy xuất Thiền và đắc thắng reo lên:

– Ôi cực lạc! Ôi cực lạc!

Rồi trong khi vị ấy dùng thiên nhãn nhìn xem có ai trong cõi Diêm-phù-đề này đang đi tìm cực lạc như vậy không, chợt vị ấy thấy Bồ-tát Mahàjanaka. Vị ấy nghĩ: “Ông vua này đã làm đại sự xuất thế, nhưng lại không ngăn được đám đông dân chúng do hoàng hậu Sìvalì dẫn đường; chúng có thể gây cản trở cho ngài. Vậy ta phải khích lệ sao cho nhà vua giữ chí nguyện vững vàng hơn nữa”.

Rồi vị ấy dùng thần lực đứng trên không trước mặt vua ngâm kệ để giúp tăng cường quyết tâm của ngài:

  1. Do đâu huyên náo ở đằng kia
    Như thể là đình đám hội hè,
    Sao đám đông này đang tụ tập,
    Xin ngài ẩn sĩ nói cho nghe?

Vua liền đáp:

  1. Ta đã vượt ranh giới, xuất gia,
    Cho nên dân chúng đến đây mà,
    Ta xa đời với lòng an lạc,
    Người đã biết rồi, sao hỏi ta?

Vị ẩn sĩ ngâm vần kệ để xác nhận ý chí của vua:

  1. Ðừng nghĩ rằng ngài đã vượt ranh ,
    Vẫn còn dao động ở trong mình,
    Vẫn còn cừu địch ngay đằng trước,
    Chiến thắng ngài chưa thể đạt thành.

Bậc Ðại Sĩ lớn tiếng tuyên bố:

  1. Không dục lạc dầu thuộc loại nào
    Làm sờn ý chí vững bền đâu,
    Cừu nhân nào cản đường ta được,
    Trong lúc ta đang tới đích mau?

Sau đó ẩn sĩ ngâm vần kệ nêu rõ các chướng ngại:

  1. Hôn trầm, phóng dật theo tham dục,
    Mê đắm, tâm bất mãn, hận sân,
    Thân đón bọn này như khách quý,
    Tất nhiều chướng ngại phải đa mang.

Bậc Ðại Sĩ liền khen ngợi vị ấy qua vần kệ:

  1. Ðạo sĩ, lời khuyên đáng bậc hiền,
    Cám ơn người đã nói lời trên,
    Trả lời ta hỏi như người muốn:
    Xin nói là ai đó, họ tên?

Ẩn sĩ đáp:

  1. Ta đây danh hiệu Na-ra-da,
    Từ chốn ẩn cư tiên giới ta,
    Vừa đến, nói điều này với bạn:
    Kết giao bậc trí tối ưu mà.
  2. Thực hành bốn pháp tối cao thay,
    Tìm cực lạc trong Thánh đạo này,
    Dù thiếu thứ gì, ngài cũng mặc,
    Sống bằng nhẫn nhục, tịnh an đầy.
  3. Ngã tưởng dù là thấp hoặc cao
    Ðều không xứng với bậc hiền đâu,
    Hãy xem giới luật và tri kiến
    Pháp bảo hộ cho cuộc Thánh cầu.

Rồi Nàrada bay về cõi an trú của mình. Sau đó một ẩn sĩ khác tên Migàjina, vừa mới xuất Thiền định, đang chiêm ngưỡng bậc Ðại Sĩ và quyết định khuyến khích ngài bảo đám dân chúng ra về, nên vị này hiện ra trên không trước mặt ngài và ngâm các vần kệ sau:

  1. Các đám ngựa voi, các cỗ xe,
    Thần dân thành thị lẫn thôn quê,
    Ja-na-ka đã lìa xa chúng,
    Bình bát đất làm ngài thỏa thuê.
  2. Hãy nói, phải chăng các đại thần,
    Chư hầu, quyến thuộc hoặc thân bằng,
    Làm ngài thương tổn vì lừa phản,
    Ngài chọn đây làm chỗ trú chân?

Bồ-tát đáp:

  1. Hiền nhân, không thể có khi nào,
    Bất cứ nơi nào, hoặc cớ sao
    Ta đã làm sai cho chúng bạn,
    Hoặc là bạn khiến ta buồn đau.
  2. Thấy đời tan nát bởi đau thương,
    Tăm tối vì lầm lỗi, khổ buồn,
    Thấy nạn nhân gông xiềng, giết chết,
    Bơ vơ trong lưới khổ khôn lường,
    Ta tìm lời dạy cho mình vậy,
    Khổ hạnh từ đây khởi bước đường.
    Vị khổ hạnh muốn nghe thêm nữa, liền hỏi ngài:
  3. Không ai muốn khổ hạnh lang thang
    Nếu chẳng đạo sư chỉ lối đường,
    Dù cách thực hành hay lý thuyết,
    Ai là sư phụ nói cho tường.

Bậc Ðại Sĩ đáp:

  1. Hiền giả, chưa hề trước đến giờ
    Ta nghe lời nói động tâm ta
    Từ môi đạo sĩ hay du sĩ
    Khuyên bảo ta làm khổ hạnh gia.

Bồ-tát nói cho vị ấy đầy đủ chi tiết lý do ngài xuất thế:

  1. Ta đã nhàn du chốn ngự viên,
    Một ngày mùa hạ đại trang nghiêm
    Với bao ca khúc và đàn địch
    Tràn ngập không gian khắp mọi miền.
  2. Nơi kia ta thấy một cây xoài
    Ðứng cạnh bức tường gốc rễ phơi
    Vì bọn phàm nhân tìm hái trái,
    Toàn thân xơ xác, lá tơi bời.
  3. Giật mình rời cảnh tượng oai hùng,
    Dừng bước ngắm cây, mắt lạ lùng
    So sánh cây xoài này có trái
    Với cây không trái mọc kề gần.
  4. Cây có trái kia đứng lụi tàn,
    Mọi cành trơ trụi, lá tan hoang,
    Cây không trái đứng xanh, cường tráng,
    Tàn lá vẫy trong gió nhẹ nhàng.
  5. Cây đầy trái cũng giống như vua,
    Lắm địch thủ mong giết hại ta,
    Và cướp của ta bao trái ngọt
    Trong thời gian ngắn phô bày ra.
  6. Voi bị giết vì chính bộ ngà,
    Cọp beo bị giết bởi vì da,
    Bơ vơ, không cửa nhà, bằng hữu,
    Người đại phú sau rốt hiểu ra:
    Tài sản chính là tai họa lớn;
    Hai cây xoài ấy chính thầy ta,
    Từ hai cây ấy ta tìm được
    Bài học dạy ta sống xuất gia
    .

Ẩn sĩ Migàjina nghe lời vua nói thế, liền khuyên nhủ ngài nên nhất tâm, rồi trở về nơi trú của mình.

Khi ẩn sĩ đi rồi, hoàng hậu Sìvalì liền quỳ xuống chân vua và tâu:

  1. Ở trên vương tượng hoặc vương xa,
    Kỵ mã, bộ binh khắp mọi nhà,
    Tất cả thần dân đều khóc lớn:
    “Ðại vương đã xuất thế ly gia!”
  2. Xin trấn an lòng chúng trĩu buồn,
    Hoàng nhi ngài hãy đợi phong vương,
    Rồi xa trần thế như ngài muốn
    Khổ hạnh đơn thân tiến bước đường.

Bồ-tát đáp:

  1. Ta bỏ đằng sau đám cận thần,
    Thân bằng, quyến thuộc khắp non sông,
    Nhưng còn vương tộc Vi-đề ấy
    Huấn luyện Di-ghà để trị dân
    Hoàng hậu Mi-thi-là chớ sợ,
    Quần thần sẽ hỗ trợ kề gần.

Hoàng hậu kêu lên:

– Tâu Ðại vương, Ðại vương đã làm ẩn sĩ, vậy thần thiếp phải làm gì bây giờ?

Nhà vua liền bảo:

– Ta khuyên hoàng hậu thế này, hãy gắng thực hiện lời ta.

Rồi ngài nói với bà như sau:

  1. Nếu dạy hoàng nhi lúc trị dân
    Sai lầm trong ý tưởng, lời, thân,
    Sau bà sẽ gặp nhiều đau khổ,
    Vận mạng này đây đã định phần.
    Vật bố thí dành cho khất sĩ
    Bậc Hiền bảo đấy chúng ta cần.

Ngài khuyên nhủ hoàng hậu như thế xong, cùng đàm đạo với bà trên đường đi cho đến khi mặt trời lặn.

Hoàng hậu cho cắm trại vào một nơi thích hợp, còn nhà vua đến một gốc cây ngủ quá đêm. Ngày hôm sau, khi tắm rửa xong, ngài lại tiếp tục ra đi. Hoàng hậu ra lệnh cho binh lính phải đi theo và bà cũng theo ngài.

Vào giờ khất thực, họ đến kinh thành Thùna. Lúc đó có một người đàn ông mua một miếng thịt lớn ở hàng thịt xong đem nướng chín trên vĩ và đặt trên một tấm thớt chờ nguội. Nhưng trong khi gã bận rộn việc khác thì một con chó đến tha thịt đi mất. Người ấy đuổi theo đến cửa Nam kinh thành, nhưng vì mệt quá phải dừng lại.

Vua và hoàng hậu đang đi đến trước mặt con chó, nó hoảng sợ khi thấy hai vị nên làm rơi miếng thịt và chạy mất. Bậc Ðại Sĩ thấy vậy, liền nghĩ: “Nó đã làm rớt miếng thịt và chạy trốn, không màng đến thịt nữa, mà chủ nhân thì chả biết là ai, thật không có của bố thí nào tốt hơn cái này, ta phải ăn mới được”.

Thế rồi ngài lấy bình bát đất ra, cầm miếng thịt, phủi bụi dơ, đặt vào bình bát, tìm một nơi dễ chịu mát mẻ, có nước chảy rồi ăn thịt.

Hoàng hậu nghĩ thầm: “Nếu đức vua xứng đáng ngồi trên ngai vàng thì ngài đã không ăn vật thừa đầy bụi bặm của chó, thật bây giờ ngài không còn là quân vương của ta nữa”. Rồi bà nói to:

– Ðại vương ôi! Ngài ăn miếng thịt ghê tởm như vậy sao?

– Ấy chính sự ngu dại mù quáng của bà làm cho bà không thấy được giá trị đặc biệt của vật bố thí này.

Rồi ngài thận trọng quan sát chỗ miếng thịt đã rơi xuống và ăn thịt ngon lành như thể cao lương mỹ vị của thần tiên xong rửa miệng và tay chân.

Lúc ấy hoàng hậu nói giọng khiển trách ngài:

  1. Tứ thời ăn cứ đến xoay vần,
    Nếu nhịn ăn, người phải bỏ thân,
    Tuy thế, một người dòng quý tộc
    Sẽ không nếm vật bẩn kinh hồn!
  2. Ngài đã làm đây việc trái sai,
    Ðại vương ôi, đáng thẹn cho ngài,
    Lấy ăn đồ vật thừa từ chó
    Việc bất xứng kia đã phạm rồi!

Bậc Ðại Sĩ đáp:

  1. Vật thừa từ chó hoặc từ người
    Ta chắc chẳng là của cấm ai,
    Nếu được vật kia theo đúng pháp,
    Thức ăn hợp lý, sạch mà thôi!

Ðang lúc nói chuyện, vua và hoàng hậu đi đến cổng thành. Trẻ con đang chơi đùa ở đó, một cô bé đang sảy cát trong một cái sàn sảy thóc nhỏ. Trên tay cô bé có một chiếc vòng không gây tiếng động nào, còn tay kia có hai chiếc vòng kêu reng reng. Nhà vua thấy vậy nghĩ thầm: “Sìvalì cứ đi theo ta mãi, kẻ khổ hạnh còn có vợ thật là tai hại, người đời sẽ chê trách ta và bảo rằng ngay cả khi ta đã xa lìa thế tục mà ta lại không xa vợ được. Vậy nếu cô gái này khôn ngoan, cô bé có thể nói cho Sìvalì hiểu tại sao nàng phải quay về và xa lìa ta cho rồi. Ta sẽ nghe chuyện cô này và bảo Sìvalì phải đi ngay”. Rồi ngài bảo:

  1. Cô bé nép mình dưới mẹ hiền,
    Với vòng nho nhỏ ấy đeo trên,
    Vì sao chỉ một tay rung nhạc,
    Trong lúc tay kia mãi lặng yên
    ?

Cô bé đáp:

  1. Hai vòng đeo ở cánh tay tôi,
    Chẳng phải một vòng, khất sĩ ôi!
    Vì xúc phạm nhau gây tiếng động,
    Việc này do chính chiếc vòng đôi.
  2. Nhưng chú ý xem tay phía này,
    Chiếc vòng độc nhất nó đeo vầy
    Ðứng yên tại chỗ, không lên tiếng,
    Im lặng chỉ vì chẳng có hai.
  3. Chính chiếc vòng đôi tạo tiếng ồn,
    Một vòng độc nhất ấy thì không,
    Ngài tìm hạnh phúc? Nên đơn độc:
    Hạnh phúc chỉ người sống độc thân.
    Nghe lời cô gái, ngài hiểu ý và bảo hoàng hậu:
  4. Hãy nghe lời nói của cô này,
    Cô gái làm ta hổ thẹn đầy,
    Ví thử nghe lời bà thỉnh nguyện:
    Lỗi lầm chính kẻ thứ hai gây.
  5. Ðây hai đường: chọn một cho bà;
    Còn lối kia, ta chọn chính ta,
    Ðừng gọi ta là chồng vậy nữa,
    Bà không còn vợ: hãy chia xa!

Hoàng hậu nghe ngài nói thế, liền xin ngài đi rẽ về phía tay phải tốt hơn, còn bà đi về phía trái. Nhưng chỉ đi được một đoạn, bà không ngăn chặn được sầu khổ, liền trở lại với ngài và cùng ngài đi vào thành.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích chuyện này và nói như sau:

Cùng với những lời này trên môi, hai vị đi vào thành Thùna.

Sau khi đã vào thành, Bồ-tát tiếp tục đi khất thực, đến cửa nhà một người làm cung tên, trong khi đó hoàng hậu đứng một bên. Bấy giờ người thợ đang nung đỏ mũi tên trên một lò than rồi nhúng ướt tên đó trong một ít bột hồ chua, nheo một mắt lại, còn mắt kia nhắm mũi tên cho thẳng. Bồ-tát nghĩ: “Nếu người này khôn ngoan thì có thể giải thích cho ta rõ chuyện này. Ðể ta hỏi gã thứ xem”. Rồi ngài đến gần gã.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh này qua vần kệ:

  1. Ðến nhà khất thực kẻ làm tên,
    Người ấy nheo con mắt đứng lên,
    Và với mắt kia nhìn một hướng
    Ðể làm cho thẳng mũi tên rèn.

Lúc ấy Bậc Ðại Sĩ bảo gã:

  1. Một mắt sao ngươi cứ nhắm hoài,
    Chỉ nhìn một mắt chẳng hề sai?
    Xin ngươi giải thích hành vi ấy:
    Ngươi nghĩ nó hoàn thiện mắt ngươi?

Gã đáp lại:

  1. Tầm mắt hai tròng mở rộng ra
    Chỉ làm lạc hướng nhãn quan ta,
    Nếu ngài duy nhất nhìn đường thẳng,
    Ðích xác định, ngài nhắm đúng mà.
  2. Ðiều gây rối loạn chính hai tròng,
    Chỉ một tròng thôi thì lại không,
    Muốn hạnh phúc? Ngài cần đơn độc,
    Người đơn độc hạnh phúc vô song!
    Sau mấy lời khuyên nhủ này, gã yên lặng.

Bậc Ðại Sĩ lại tiếp tục đi khất thực, khi đã thọ lãnh đủ loại thức ăn, liền đi ra khỏi thành tìm chỗ mát mẻ có nước chảy ngồi xuống. Khi đã ăn uống xong xuôi, ngài cất bình bát vào chiếc bị và bảo Sìvalì:

  1. Bà nghe lời gã nhắm tên vầy
    Chẳng khác gì cô gái trước đây,
    Gã sẽ làm cho ta rối trí
    Với bao hổ thẹn ngập đầu này.
    Nếu ta nhượng bộ bà cầu thỉnh:
    Gây lỗi chính là kẻ thứ hai.
  2. Ðây hai đường: chọn một cho bà,
    Còn lối kia ta chọn chính ta,
    Ðừng gọi ta là chồng vậy nữa,
    Ta không có vợ: giã từ bà!

Dù nghe lời ngài nói vậy, hoàng hậu vẫn đi theo ngài, nhưng bà hiểu bà không thể nào thuyết phức vua quay trở về được nữa, còn đám dân chúng cũng cứ tiếp tục theo sau bà. Lúc bấy giờ có một khu rừng không xa đó mấy, bậc Ðại Sĩ thấy bóng cây đổ xuống tối mờ, ngài muốn bảo hoàng hậu quay về, nên khi thấy cỏ mùnja mọc bên lề đường, ngài ngắt một cọng cỏ, bảo bà:

– Này Sìvalì, thân cây cỏ này không thể nối lại được nữa, vậy từ nay mối liên lạc giữa ta và bà cũng không bao giờ nối lại được nữa đâu.

Rồi ngài ngâm lớn nửa vần kệ:

  1. Như cỏ mun-ja đã lớn này,
    Sì-va-lì, độc trú từ đây …

Khi hoàng hậu nghe thế, bà nói:

– Từ nay ta cũng không liên lạc gì với vua Mahàjanaka nữa.

Rồi không thể ngăn được sầu khổ, bà đấm ngực la khóc và ngất xỉu bên vệ đường. Bồ-tát thấy bà đã bất tỉnh mê man rồi, lập tức đi sâu vào rừng, cẩn thận xóa mờ dấu chân của ngài. Các quan đại thần chạy đến rảy nước vào thân thể hoàng hậu, xoa bóp tay chân của bà một lát thì bà hồi tỉnh. Bà hỏi:

– Ðại vương đâu rồi?

– Thế Hoàng hậu không biết sao? Họ tâu.

– Ði tìm Hoàng thượng ngay – Hoàng hậu bảo họ.

Nhưng dù họ đi quanh quẩn khắp nơi, họ cũng không tìm thấy ngài đâu. Vì thế bà than khóc thảm thiết, và sau khi bảo dựng đền thờ nơi ngài đứng trước kia, bà cúng dường hương hoa rồi trở về.

Bồ-tát trong núi Himavat, trong bảy ngày ngài chứng đắc năm Thắng trí và tám Thiền chứng, rồi ngài không trở lại cõi đời này nữa. Hoàng hậu bảo dựng đền thờ ở các nơi ngài đã đến và nói chuyện với người thợ làm tên, với cô bé gái, nơi ngài đã ăn miếng thịt, nơi ngài nói chuyện với hai ẩn sĩ Migàjina và Nàrada; xong bà làm lễ cúng dường hương hoa.

Rồi được binh lính hộ tống, bà vào thành Mithilà cử hành lễ phong vương cho hoàng tử trong vườn xoài, và ra lệnh đem hoàng tử cùng binh lính vào thành. Còn phần bà, sau khi chọn đời khổ hạnh của một nữ ẩn sĩ, bà sống ở trong vườn xoài và hành trì các pháp môn đưa đến Thiền định cho đến khi bà chứng đắc Thiền định và được sinh vào cảnh giới Phạm thiên.

*

Sau khi kể Pháp thoại xong, Bậc Ðạo Sư nói với các Tỷ-kheo:

– Ðây không phải lần đầu tiên Như Lai làm Ðại sự Xuất thế, mà xưa kia Như Lai cũng đã làm như vậy.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Lúc ấy vị nữ hải thần là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), Hiền giả Nàrada là Sàriputta (Xá-lợi-phất), Hiền giả Migàjina là Moggalàna (Mục-kiền-liên), cô gái là công chúa Khemà, người làm tên là Ànanda (A-nan), hoàng hậu Sìvalì là mẹ của Ràhula (Ràhulamàtà), hoàng tử Dìghàvu là Ràhula (La-hầu-la). Cha mẹ của Bồ-tát là hai vị trong vương tộc ngày nay và vua Mahà janaka chính là Ta.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN HIẾU TỬ SÀMA  (Tiền thân Sàma)

Ai đó đang mai phục bắn mình…,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Tỷ- kheo phụng dưỡng mẹ.

Chuyện kể rằng có một thương nhân giàu có tại thành Xá-vệ, của cải lên đến một trăm tám mươi triệu, người này có một cậu con trai rất được yêu quý. Một ngày nọ, cậu trai đi lên lầu, mở cửa nhìn xuống đường, khi thấy đám đông dân chúng đang đi đến Kỳ Viên, tay cầm hương hoa cúng dường để nghe thuyết Pháp, cậu bảo rằng cậu cũng muốn đi. Cậu truyền đem hương hoa lại, rồi cậu đi đến tịnh xá cúng dường y phục, dược phẩm, cùng các thức ăn uống cho chúng Tỷ-kheo ở đó và đảnh lễ đức Thế Tôn với hương hoa, rồi ngồi xuống một bên…

Sau khi nghe thuyết Pháp, cậu nhận thức được các quả ác do tham dục gây ra và những quả phúc do đời sống tu hành mang lại. Rồi khi hội chúng ra về, cậu xin đức Thế Tôn cho cậu thọ giới. Nhưng đức Như Lai bảo cậu rằng ngài không truyền giới cho ai chưa xin phép cha mẹ. Vì thế cậu ra về, nhịn ăn một tuần, cuối cùng được cha mẹ chấp thuận, cậu trở lại và xin thọ giới. Thế Tôn bảo một Tỷ-kheo làm lễ xuất gia cho cậu.

Sau đó vị Tỷ-kheo mới này được tán thán và đạt nhiều công hạnh, được sự ái mộ của các vị sư trưởng và giáo thọ và khi đã thọ đại giới, ông tinh thông Giáo pháp trong vòng năm năm. Rồi vị Tỷ-kheo này nghĩ: “Ta sống viễn ly ở chốn này thật không hợp với ta”. Và ông nóng lòng đạt cứu cánh của Thiền định. Thế là sau khi nghe lời dạy của vị giáo sư về Thiền định, ông đi đến một làng ở biên giới, sống trong rừng sâu hành trì phép Thiền định, nhưng không đạt được ý niệm nào đặc biệt, dù ông đã tinh cần tu tập trong mười hai năm liền mà tâm không được định tĩnh.

Cũng trong thời gian này, cha mẹ của Tỷ-kheo này trở nên nghèo túng vì những người thuê đất hay bán hàng cho nhà này thấy trong nhà không có con em gì đến buộc họ trả nợ, cho nên đãđoạt hết của cải nào rơi vào tay họ và tha hồ chạy trốn; gia nhân tôi tớ trong nhà lại trộm vàng bạc trốn đi. Vì thế cuối cùng hai người lâm vào cảnh khốn cùng, không còn đến cái bìnhđựng nước nữa, phải bán nhà đi lang thang hết sức cùng cực, phải đi ăn xin, mặc áo rách rưới và mang chiếc bình mẻ trong tay.

Lúc bấy giờ có một trưởng lão Tỷ-kheo từ Kỳ Viên đến nơi cư trú của người con trai ấy, ông tiếp đón ân cần vị khách kia xong, ngồi yên lặng hỏi thăm khách từ đâu đến. Khi được biết từ Kỳ Viên, ông hỏi thăm sức khỏe của bậc Đạo Sư cùng các đại đệ tử của ngài, xong rồi hỏi thăm tin tức cha mẹ mình.

– Thưa Tôn giả, xin Tôn giả cho biết tình cảnh của một gia đình thương nhân ở Xá-vệ.

– Này hiền hữu, đừng hỏi thăm tin tức gia đình ấy nữa.

– Tại sao thế, thưa Tôn giả?

– Người ta nói gia đình ấy có một cậu con trai, nhưng cậu ta đã đi tu theo đạo pháp, và từ khi cậu ấy xuất gia thì gia đình cậu bị sạt nghiệp, lúc này cả hai ông bà lão đang lâm vào tình cảnh rất thê thảm và phải đi ăn xin.

Khi ông nghe khách nói xong, không thể nào cầm lòng được, nước mắt cứ ràn rụa và khi khách hỏi tại sao lại khóc, ông đáp:

– Thưa Tôn giả, đó chính là cha mẹ tôi, tôi là con của các vị ấy.

– Này Hiền hữu, cha mẹ bạn đã sạt nghiệp vì bạn,vậy hãy về phụng dưỡng các vị.

Ông liền nghĩ: “Trong mười hai năm liền ta tinh cần tu tập mà không thể nào đạt đạo hay đắc quả, có lẽ ta vô tài trí. Vậy ta có làm gì được với đời sống Phạm hạnh này? Chi bằng ta trở về làm một gia chủ phụng dưỡng cha mẹ già và bố thí của cải. Như vậy cuối cùng ta cũng được sinh lên thiên giới”. Quyết định xong ông nhường chỗ cư trú của mình trong rừng cho vị Trưởng lão kia.

Hôm sau ông ra đi, qua nhiều chặng đường thì tới tinh xá phía sau Kỳ Viên không xa thành Xá-vệ mấy. Tại đó ông thấy hai con đường, một đường dẫn đến Kỳ Viên, một đường dẫn đến Xá-vệ. Khi đứng đó, vị Tỷ-kheo này suy nghĩ: “Ta đến viếng cha mẹ ta trước hay đức Phật trước? Rồi ông tự nhủ: “Ngày xưa ta gặp cha mẹ ta luôn, từ đây ta sẽ ít có dịp yết kiến đức Phật; vậy ta hãy yết kiến bậc Chánh Đẳng Giác ngày hôm nay và nghe thuyết Pháp, rồi ngày mai ta sẽ đi thăm cha mẹ”.

Thế là ông bỏ con đường đi Xá-vệ và đi đến Kỳ Viên lúc chiều tối. Vào ngày đó, lúc tảng sáng, bậc Đạo Sư nhìn xuống trần gian, đã thấy được tiềm lực ngộ đạo của vị này, nên khi ông đến yết kiến Thế Tôn, ngài tán thán công đức của cha mẹ theo kinh Màtiposaka (voi hiếu dưỡng mẹ-Tiền thân số 455). Trong khi đứng cuối hội chúng Tỷ-kheo và nghe thuyết Pháp, ông nghĩ: “Nếu ta trở thành người gia chủ, ta có thể phụng dưỡng cha mẹ ta”, nhưng bậc Đạo Sư cũng dạy: “Một người con đi xuất gia vẫn có thể giúp đỡ cha mẹ mình”. Trước kia ta rời thế tục mà không đến yết kiến đức Thế Tôn, và ta đã thất bại trong sự thọ giới không trọn vẹn như vậy. Bây giờ ta muốn phụng dưỡng cha mẹ ta mà vẫn duy trì đời sống tu hành chứ không làm một người gia chủ”. Vì vậy ông cầm lấy thẻ cùng các vật thực phát theo thẻ và cháo của mình và cảm thấy như thể mình đã phạm trọng tội đáng bị khai trừ sau mười hai năm độc cư trong rừng.

Sáng hôm sau ông đi đến Xá-vệ và nghĩ thầm: “Ta nên đi lấy cháo trước hay thăm cha mẹ ta trước đây?”. Ông nghĩ lại và thấy rằng đi thăm cha mẹ trong lúc cha mẹ nghèo khổ mà không có gì trong tay để biếu thì thật là không phải đạo. Vì thế ông đi lấy cháo trước rồi đến cửa nhà cũ. Vừa thấy cha mẹ ngồi cạnh bức tường đối diện, sau khi đã đi một vòng khất thực được cháo lòng, ông đứng không cách xa họ mấy và bỗng thấy nỗi sầu thương nổi lên, mắt đẫm lệ. Còn họ thấy ông nhưng không nhận ra, rồi bà mẹ tưởng rằng đó là một kẻ đang chờ của bố thí, liền nói:

– Chúng ta không có gì để bố thí cho người cả, người chịu khó đi nơi khác.

Nghe bà mẹ nói vậy, ông cố nén nỗi buồn đang tràn đầy trong lòng, đứng yên mắt đẫm lệ, và khi được bảo lần thứ hai, thứ ba, ông vẫn đứng yên. Cuối cùng ông cha bảo bà mẹ:

– Bà đến xem thử có phải con trai bà đó không?.

Bà vùng dậy chạy đến nhìn ra con, gục xuống chân mà than khóc, ông cha cũng khóc theo, bao nỗi sầu khổ đều tuôn ra hết. Thấy lại cha mẹ, ông không thể nén được lòng mình, cũng bật khóc. Sau cơn xúc động, ông nói:

– Đừng buồn nữa cha mẹ ôi, con sẽ phụng dưỡng cha mẹ.

Thế là sau khi an ủi cha mẹ và cho họ húp nước cháo rồi ngồi xuống bên đường, ông lại ra đi khất thực đem về cho cha mẹ dùng, sau đó mới đi khất thực cho chính mình. Xong bữa ăn, ông liền đi tìm nơi trú chân không xa đó mấy. “Từ ngày ấy về sau ông chăm sóc cha mẹ bằng cách này; ông đem cho cha mẹ đồ khất thực dành cho mình, luôn cả những vật dụng bố thí hằng nửa tháng một lần, và ông đi khất thực nhiều lần để thọ dụng. Còn những vật thực dành cho mùa mưa cũng đều đem cho cha mẹ dùng, trong khi ông đem áo quần rách của cha mẹ về đóng cửa kín mà nhuộm lại để mặc. Nhưng rất ít ngày ông đi khất thực được đồ dùng, phần nhiều là chẳng được gì cả, nên y trong cũng như y ngoài đều tả tơi cả. Trong thời gian chăm sóc cha mẹ như thế, ông dần dần trở nên xanh xao gầy ốm, bạn hữu thấy vậy bảo:

– Da dẻ bạn trước đây tươi sáng, nhưng nay bạn xanh xao quá, hẳn có bệnh gì?

Ông đáp:

– Ta không có bệnh gì cả, nhưng ta đang gặp một chướng ngại.

Rồi ông kể cho họ nghe câu chuyện nhà. Họ đáp:

– Thưa hiền giả, bậc Đạo Sư không cho phép ta phí phạm lễ vật cúng dường của các thí chủ, bạn đã làm việc trái phép khi đem lễ vật cúng dường của thí chủ cho người thế tục.

Nghe nói vậy, ông hổ thẹn cúi gầm mặt xuống, nhưng vẫn chưa thỏa dạ, họ đem chuyện kể với bậc Đạo Sư:

– Bạch Thế Tôn, người này đã phí phạm lễ vật cúng dường và đem cho người thế tục.

Bậc Đạo Sư cho gọi vị Tỷ-kheo trẻ ấy đến và hỏi:

– Có phải ông đã xuất gia mà còn lấy vật cúng dường của thí chủ đem cho người thế tục không?

Ông thú nhận là có. Rồi bậc Đạo Sư muốn ngợi khen việc làm của ông và nói về một việc cũ của Ngài, liền hỏi:

– Thế ông phụng dưỡng người thế tục nào đó?

– Bạch Thế Tôn, chính cha mẹ của con.- Ông đáp.

Lúc đó Thế Tôn muốn khuyến khích việc làm của ông hơn nữa, Ngài bảo ba lần:

– Tốt lành thay! Tốt lành thay! Ông đang đi con đường ngày xưa Ta đã đi qua, ngày xưa khi đi khất thực Ta cũng phụng dưỡng cha mẹ Ta.

Như thế vị Tỷ-kheo được Ngài khích lệ vì việc đó. Rồi theo lời thỉnh cầu của chúng Tỷ-kheo, bậc Đạo Sư kể chuyện quá khứ để cho biết các nghiệp đời trước của Ngài.

*

Ngày xưa, không xa thành Ba-la-nại, ở phía bên này sông, có một làng thợ săn và một làng nữa ở bên kia sông, mỗi làng có chừng năm trăm gia đình cư trú. Lúc bấy giờ có hai nhà thiện xạ trong hai làng đó là đôi bạn thân thích, họ giao ước với nhau từ trẻ rằng nếu đôi bên sinh con trai và con gái thì sẽ gả con cho nhau. Theo thời gian trôi, một cậu trai được hạ sinh trong nhà thiện xạ bên này sông và một cô gái sinh vào nhà thiện xạ kia. Cậu bé được đạt tên Dukùlaka vì khi sinh ra đời cậu được quấn trong lớp tã lót thật đẹp, còn cô gái được đặt tên là Parikà, vì cô sinh ra bên kia sông. Cả hai đều xinh đẹp với làn da óng ả như vàng và mặc dù được sinh ra trong làng săn bắn, chúng không hề sát sinh hại mạng. Khi cậu bé lên mười sáu tuổi, cha mẹ cậu bảo:

– Này con, cha mẹ sẽ cưới vợ cho con.

Nhưng cậu là một người thanh tịnh từ Phạm thiên giới mới xuống đây, cho nên cậu bịt tai lại bảo:

– Con không muốn ở trong nhà, đừng nói chuyện ấy với con.

Rồi mặc dù cha mẹ cậu nói chuyện đó ba lần, cậu không tỏ ý ham thích chút nào. Còn nàng Parikà cũng vậy, khi cha mẹ nàng bảo:

– Con trai của ông bạn nhà ta thật khôi ngô với làn da óng ả như vàng, cha mẹ định gả con cho cậu ấy đấy.

Nàng cũng bịt tai lại và trả lời như chàng trai kia.Vì chính nàng cũng xuống đây từ Phạm thiên giới. Cậu Dukùlaka bí mật gửi cho cô gái một lời nhắn nhủ: “Nếu nàng muốn sống đời vợ chồng thì hãy tìm đến một gia đình khác, vì ta không muốn như vậy”. Và nàng cũng gửi cậu một lời nhắn nhủ tương tự như thế. Nhưng dù họ không đồng ý, cha mẹ họ vẫn cử hành hôn lễ. Thế là cả hai người sống riêng lẻ như các vị Phạm thiên, không hề sa vào bể ái dục. Dakùlaka không hề giết cá hay nai hươu, cũng không hề bán các thứ cá mà người khác mang đến cho cậu. Cuối cùng cha mẹ cậu bảo:

– Con sinh ra trong gia đình săn bắn mà con lại không thích sống trong nhà, cũng không sát sinh hại vật, vậy con muốn gì?.

Cậu đáp:

– Nếu cha mẹ cho phép, con xin làm ẩn sĩ ngay ngày hôm nay.

Cha mẹ họ đều cho phép họ ngay lập tức. Thế là họ từ giã cha mẹ, ra đi dọc theo bờ sông Hằng, rồi rời bỏ sông Hằng, họ đi lên núi dọc theo sông Migasammatà. Lúc bấy giờ cung của Sakka Thiên chủ bỗng nóng rực lên. Thiên chủ Sakka, sau khi xác định duyên cớ, liền bảo thần Vissakamma:

– Này Vissakamma, có hai bậc Đại nhân đã xuất thế và đang đi vào núi Himavat, chúng ta phải tìm nơi trú ẩn cho họ, vậy hãy đi dựng am lá và cung cấp mọi vật dụng cần thiết cho cuộc đời tu hành của họ ở một nơi cách sông Migasammatà chừng một phần tư dặm đường, xong rồi trở lại đây.

Thế là vị này đi chuẩn bị đủ mọi vật dụng giống như được mô tả trong Tiền thân Mùgapakkha, rồi trở về nhà; sau khi đã xua hết mọi súc vật có thể gây ồn ào khó chịu trong rừng và mở một con đường mòn gần đó. Hai vị ẩn sĩ thấy có đường mòn liền theo đó đến am. Khi Dukùlaka bước vào trong am, thấy đủ mọi vật dụng cần thiết liền kêu lên:

– Đây chính là lễ vật của Thiên chủ Sakka cúng dường ta.

Thế rồi Dukùlaka cởi áo ngoài ra, mặc vào chiếc y màu vỏ dà, đắp tấm da hươu qua một bên vai, cột túm tóc lại ra dáng một vị khổ hạnh, rồi cũng làm lễ truyền giới cho Parikà như vậy, xong rồi họ sống ở đó, tu tập lòng Từ thuộc về cõi Dục. Nhờ ảnh hưởng lòng Từ của họ đối với mọi vật, chim muông và thú rừng cũng khởi lên lòng từ ái đối với nhau, chứ không hề làm hại lẫn nhau.

Parikà lo kiếm nước và thức ăn, quét dọn am, làm đủ mọi việc cần thiết, rồi cả hai người đi kiếm đủ loại trái cây về ăn. Sau đó họ ở vào trong thảo am riêng của mình hành trì đủ mọi giới luật của đời Phạm hạnh. Thiên chủ Sakka cung cấp đủ mọi nhu cầu của họ.

Một ngày kia, ngài tiên tri được một hiểm họa sắp xảy ra cho họ: “Họ sẽ mất thị giác”. Vì thế ngài tìm đến Dukùlaka, đảnh lễ xong, ngồi xuống một bên, ngài bảo:

– Thưa Tôn giả, ta thấy trước một hiểm họa sắp đe dọa các Tôn giả, vậy các Tôn giả phải sinh một đứa con trai để phụng dưỡng các vị sau này, hãy đi theo đường lối của thế gian.

– Thưa Thiên chủ, tại sao ngài lại bảo vậy? Ngay cả khi chúng con còn ở chung một nhà trước kia, chúng con cũng đã chán ghét ái dục, giờ đây làm sao chúng con thực hiện điều ấy được khi chúng con đã vào rừng sống đời Phạm hạnh của kẻ xuất gia.

– Được rồi, nếu Tôn giả không muốn làm như ta nói, thì đợi đến lúc thuận tiện hãy lấy tay sờ rốn của Parikà.

Dukùlaka ưng thuận làm theo. Thiên chủ Sakka từ giã ra về. Bậc Đại Sĩ kể chuyện ấy với Parikà và đến lúc thời cơ thuận lợi, lấy tay sờ vào rốn Parikà. Ngay lúc ấy Bồ-tát từ Thiên giới xuống nhập vào bụng bà và bà mang thai từ đó. Sau mười tháng, bà hạ sinh một hài nhi da vàng óng, vì thế nên họ đặt tên là Suvannasàma (Hoàng Kim).

Lúc bấy giờ các nữ thần Kinnara (Khẩn-na-la: Ca thần của Sakka) ở núi bên kia đến chăm sóc Parikà lúc bà lâm bồn. Đôi cha mẹ này tắm rửa hài nhi xong đặt vào chòi lá và đi kiếm đủ loại trái cây. Trong khi họ ra ngoài, các nữ thần Kinnara đem hài nhi vào động của họ tắm rửa vàđem lên đỉnh núi trang hoàng cho hài nhi đủ loại hoa, lấy chất sơn vàng đỏ xanh làm dấu đặc biệt trên thân thể, rồi đem về để lại trên giường trong chòi lá, sau đó Parikà về chòi cho con bú.

Họ yêu quý con, nâng niu chăm sóc con cho đến năm mười sáu tuổi, họ thường để con ở trong chòi rồi đi vào rừng kiếm củ và trái cây. Bồ-tát suy nghĩ: “Mối hiểm họa một ngày kia sẽ xảy ra”. Ngài thường canh chừng con đường cha mẹ ngài đi ra.

Một ngày kia họ trở về lúc chiều tối sau khi đã nhặt củ và trái cây. Vừa đến gần chòi thì một đám mây lớn kéo tới. Họ vội ẩn mình dưới gốc cây trên một ổ kiến. Trong ổ kiến này có một con rắn độc. Lúc bấy giờ nước trên thân họ nhỏ giọt xuống mang theo mùi mồ hôi đến mũi con rắn làm nó tức giận, thổi phà hơi độc lúc họ đứng đó để tấn công họ, khiến cho cả hai đều bị mù không nhìn thấy nhau được nữa. Dukùlaka gọi lớn Parikà:

– Mắt ta mù rồi, ta không thấy nàng nữa.

Họ bảo nhau trong khi quờ quạng đi quanh, khóc lóc và không sao tìm được lối về.” Đời trước ta đã phạm tội gì?” Họ nhủ thầm như vậy. Thuở tiền kiếp, họ sinh vào gia đình một y sĩ. Vị y sĩđó chữa bệnh mắt cho một người giàu có, nhưng người này không chịu trả y phí, vị y sĩ tức giận nói với vợ:

– Ta phải làm sao đây?

Bà vợ cũng tức giận bảo:

– Ta không cần tiền của nó, cứ chế ra một thứ thuốc rồi bảo đó là thuốc chữa bệnh và ta làm mù mắt nó đi.

Vị y sĩ đồng ý làm theo lời vợ và chính vì tội này mà giờ đây cả hai đều bị mù lòa.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Trước đây cha mẹ ta thường về vào giờ này, ta chẳng biết chuyện gì xảy ra cho cha mẹ ta, ta phải đi tìm mới được”. Vì thế ngài ra đi tìm họ và gây nên một tiếngđộng. Họ nhận ra tiếng động ấy nên cũng làm một tiếng động đáp lại và vì lòng thương con, họ bảo con:

– Sàma ơi, ở đây nguy hiểm lắm, đừng tới gần. Vì thế ngài đưa cho cha mẹ một cây dài, bảo họ cầm lấy đầu cây gậy rồi đi lần về phía ngài. Ngài bảo với họ:

– Cha mẹ bị mù mắt vì duyên cớ gì?

– Khi trời mưa ta núp dưới gốc cây trên một tổ kiến, thế là ta bị mù mắt.

Nghe thế ngài biết ngay sự việc đã xảy ra. “Có lẽ ở đó có rắn độc, đang lúc nổi giận, nó phun nọc độc ra đấy”. Khi ngài nhìn cha mẹ, ngài bật khóc rồi lại bật cười. Cha mẹ ngài hỏi tại sao, ngài đáp:

– Con khóc vì cha mẹ bị mù lúc còn trẻ, nhưng con lại cười vì từ đây con sẽ phụng dưỡng cha mẹ, cha mẹ đừng buồn, con sẽ chăm nom cha mẹ chu đáo.

Thế rồi ngài dẫn họ về chòi, buộc dây thừng tứ phía phân chia các gian để ở ban ngày và banđêm, các trai phòng và các phòng khác nữa. Từ ngày ấy ngài bảo cha mẹ ở nhà, còn ngài đi kiếm củ và trái rừng. Buổi sáng dọn dẹp nhà cửa, đi lấy nước sông Migasammatà về, nấu thức ăn và nước, rồi lấy nước rửa mặt đánh răng cho cha mẹ, đem đến cho cha mẹ đủ trái cây ngon ngọt. Khi cha mẹ súc miệng xong, ngài mới dùng. Ăn xong ngài chào cha mẹ, rồi được một đàn nai hộ tống, ngài vào rừng hái quả.

Sau khi hái quả cùng với đám nữ thần Kinnara trên núi, ngài trở về lúc chiều tối, nấu nước nóng tắm rửa chân tay cho cha mẹ rồi mang lại một mẻ chậu than hồng hơ ấm tay chân cha mẹ. Ngài đem đủ loại trái cây cho cha mẹ dùng. Cuối cùng ngài mới ăn phần mình và cất dọn các thứ còn lại. Cứ thế ngài chăm sóc cha mẹ mỗi ngày.

Lúc ấy có một vị vua tên Pilliyakkha trị vì tại Ba-la-nại. Vị này rất thích thịt thú rừng nên đã giao việc triều chính cho mẹ rồi nai nịt năm loại vũ khí đi vào núi Himavat săn bắn hươu nai để ăn thịt, tiến lần đến con sông Migasammatà và cuối cùng tới nơi Sàma thường xuống múc nước. Thấy có vết chân hươu nai, vua dựng chỗ trú ẩn dưới các bụi cây màu ngọc bích, lấy tên tẩm thuốc độc vào, sẵn sàng giương lên và nằm mai phục.

Buổi chiều bậc Đại Sĩ đã hái trái cây xong, đem về lều, chào hỏi cha mẹ rồi nói:

– Con sẽ đi tắm và múc ít nước.

Ngài cầm bình, cả một đoàn nai vây quanh, ngài chỉ chọn ra hai con, buộc bình vào lưng chúng, rồi dẫn chúng đến nơi tắm sông. Nhà vua thấy ngài đến gần tự nhủ: “Suốt thời gian ta đi quanh quẩn nơi đây, ta chưa hề thấy bóng người nào cả, vậy đó là Thiên thần hay rắn thần? Bây giờ nếu ta đến gần hỏi nó ắt nó sẽ bay lên trời nếu đó là Thiên thần, hoặc sẽ độn thổ nếu đó là rắn thần. Nhưng ta có ở núi Himavat này mãi đâu, một ngày kia ta sẽ trở về Ba-la-nại. Lúc đó các quan đại thần sẽ hỏi ta có thấy được việc gì kỳ lạ trong thời gian ta lang bạt ở đây không. Nếu ta bảo họ ta có thấy một người như vầy như vầy, họ sẽ gạn hỏi ta tên nó là gì, nếu ta trả lời không biết thì họ sẽ chê trách ta; vậy thì ta cứ bắn nó cho bị thương, rồi hỏi nó sau”.

Vừa lúc ấy, bầy nai đi xuống trước để uống nước rồi bước lên khỏi chỗ tắm. Sau đó Bồ-tát chầm chậm bước xuống nước như thể một vị đại Trưởng lão đầy đủ giới luật uy nghi đang chuyên tâm đạt đại định, khoác bộ áo bằng vỏ cây và đắp tấm y bằng da nai qua một bên vai, nhấc bình lên múc đầy nước, rồi đặt trên vai trái. Ngay lúc này, vua thấy rằng đã đến thời, liền bắn mũi tên tẩm thuốc độc, làm bậc Đại Sĩ bị thương ở sườn bên phải, rồi mũi tên xuyên qua sườn bên trái.

Bầy nai thấy ngài bị thương kinh hoàng chạy trốn, nhưng Suvannasàma, mặc dù bị thương nặng, vẫn hết sức giữ bình nước cho vững và cố định thần, ngài chầm chậm bước ra khỏi nước. Ngài đào cát chất lên một ụ cao, kê đầu lên hướng về phía chòi của cha mẹ, và ngài nằm xuống chẳng khác nào một bức tượng vàng trên bãi cát màu sáng bạc. Rồi hồi tưởng lại, ngài suy xét mọi việc đã xảy ra: “Ta không có kẻ thù nào trong vùng núi Himavat này, ta cũng không thù oán ai cả”. Khi ngài nói như vậy, máu từ miệng ngài tuôn ra và vì không nhìn thấy vua, ngài liền ngâm kệ:

  1. Ai đó đang mai phục bắn mình,
    Khi ta đã múc nước đầy bình,
    Bà-la-môn, quý tộc, nô lệ,
    Ai ám hại ta chẳng biết danh?

Rồi ngài ngâm thêm một vần kệ cho biết thịt của ngài vô dụng, không làm thức ăn được:

  1. Người chẳng thể nào ăn thịt ta,
    Cũng không thể sử dụng bao da,
    Sao người nghĩ lấy ta làm đích,
    Người đã tưởng đâu thắng lợi mà?

Ngài lại ngâm thêm một vần kệ khác hỏi họ tên của vua:

  1. Người là ai, hãy nói con ai,
    Là gì ta sẽ gọi tên người,
    Tại sao người lại nằm mai phục?
    Thành thật xin người hãy trả lời.

Khi nghe vậy, vua tự nhủ: “Mặc dù kẻ này đã bị ta bắn trọng thương bằng tên độc, vẫn không mạ lỵ ta, oán trách ta, lại còn nói năng dịu dàng như thể ru lòng ta vậy. Thôi ta đến xem sao”. Thế là vua đến gần bên ngài và ngâm kệ:

  1. Chúa tể Kà-si quốc chính ta,
    Đại vương danh hiệu Pi-yak-kha,
    Ta rời ngôi báu vì thèm thịt,
    Thơ thẩn tìm nai rừng núi xa. 
  2. Tài thiện xạ ta thật khéo thay,
    Tâm ta can đảm chẳng lung lay,
    Chẳng rồng rắn thoát tên ta được
    Khi nó đã vào tầm bắn đây.

Sau khi tự khen ngợi tài năng mình như vậy, vua hỏi gia thế của ngài:

  1. Ngươi là ai đó vậy, con ai,
    Là gì ta sẽ gọi tên ngươi?
    Và tên thân phụ cùng gia tộc,
    Tên của nhà ngươi, hãy trả lời.

Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Nếu ta bảo rằng ta là Thiên thần hay dòng dõi các nữ thần Kinnara (Khẩn-la-na), hoặc bảo ta là một Sát-đế-lỵ hay thuộc một quý tộc tương tự, vị này sẽ tin ngay, nhưng ta phải nói sự thật”. Vì thế ngài nói:

  1. Lúc ta sinh được gọi Sà-ma,
    Con thợ săn cùng khổ chính ta,
    Nay ở đây nằm trên đất lạnh,
    Người nhìn ta đã gặp nguy cơ.
  2. Tên độc của người bắn trọng thương,
    Ta nằm đơn độc tựa linh dương,
    Nạn nhân người giết nhờ tài nghệ,
    Lăn lóc ta nay nhuộm máu hường.
  3. Tên của người xuyên suốt thịt da,
    Theo từng hơi thở máu trào ra,
    Ngất ngư, ta vẫn còn than hỏi:
    Sao muốn giết người mai phục ta?
  4. Ngươi chẳng thể nào ăn thịt ta,
    Cũng không thể sử dụng bao da,
    Sao người nghĩ lấy ta làm đích,
    Người đã tưởng đâu thắng lợi mà?

Khi vua nghe vậy, biết rằng không thể nói thật được, liền bịa một câu chuyện như sau:

  1. Một nai đã đến đúng vừa tầm,
    Ta nghĩ rằng ta sắp hưởng phần,
    Nhưng thấy ngươi, nai kinh hoảng chạy,
    Với ngươi, ta chẳng có lòng sân.

Bậc Đại Sĩ đáp:

– Tại sao Đại vương nói vậy được? Cả vùng núi Himavat này không có nai nào thấy ta mà bỏ chạy:

  1. Từ khi ta mới biết suy tư,
    Nhớ lại thời xưa mãi đến giờ,
    Không thú mồi hay nai chạy trốn,
    Kinh hoàng khi gặp bước ta qua.
  2. Từ lúc ta mang áo vỏ cây,
    Bỏ đằng sau chuỗi ngày thơ ngây,
    Không nai hay thú mồi đào tẩu,
    Khi thấy ta qua các lối này.
  3. Các thú hoang kia chính bạn mình,
    Cùng ta phiêu bạt khắp rừng xanh,
    Nai này sao lại, như người nói,
    Khi thấy ta liền chạy hãi kinh
    ?

Khi vua nghe nói, liền nghĩ thầm: “Ta đã làm trọng thương con người vô tội này và lại còn nói dối, thôi ta phải thú tội mới được”. Nghĩ vậy, vua nói:

  1. Chẳng có nai nào thấy Sà-ma,
    Sao ta nói dối quá dư thừa?
    Lòng ta tràn ngập niềm tham, hận,
    Và bắn đầu tên đó ấy, chính ta.

Rồi vua nghĩ: “Suvanna không thể sống một mình trong rừng được, chắc phải có thân thích ở đây, để ta thử hỏi xem”. Vì thế vua ngâm kệ:

  1. Sáng sớm từ đâu đến, bạn lành,
    Ai người bảo bạn phải cầm bình,
    Đổ đầy nước múc bờ sông ấy,
    Mang gánh nặng lui bước lộ trình?

Nghe vậy, bậc Đại Sĩ cảm thấy một nỗi đau đớn vô cùng và ngâm vần kệ trong khi máu trào ra từ miệng:

  1. Cha mẹ sống rừng vắng phía xa,
    Mù lòa chỉ lệ thuộc con thơ,
    Vì hai thân, đến bên bờ nước,
    Ta đổ đầy bình nước của ta.

Rồi ngài tiếp tục than khóc số phận của cha mẹ:

  1. Đời sống chỉ như lửa chập chờn,
    Một tuần thực phẩm trữ không hơn
    Nếu không có nước ta đem lại,
    Yếu đuối, mù lòa chết thảm thương.
  2. Ta chẳng sợ đau khổ tử vong,
    Ấy là số phận mọi loài chung,
    Sống không còn được nhìn thân phụ,
    Điều ấy khiến tâm trí hãi hùng.
  3. Thời khắc lê thê nặng khổ buồn,
    Mẹ ta ấp ủ nỗi sầu thương,
    Nửa đêm và cả khi trời sáng,
    Dòng lệ chảy như suối nước tuôn.
  4. Thời khắc lê thê nặng khổ buồn.
    Cha ta ấp ủ nỗi sầu thương,
    Nửa đêm và cả khi trời sáng.
    Dòng lệ chảy như suối nước tuôn.
  5. Họ lang thang khắp chốn rừng hoang,
    Than vãn con đi quá muộn màng,
    Chờ đợi hoài công nghe tiếng bước,
    Hay chờ ta vuốt tấm thân tàn.
  6. Ý tưởng này, tên độc thứ hai,
    Đâm sâu hơn trước nữa, than ôi!
    Vì ta nằm tại đây chờ chết
    Không thể nhìn cha mẹ nữa rồi!

Nhà vua nghe ngài than khóc, nghĩ thầm: “Người này phụng dưỡng cha mẹ hết lòng hiếu thảo tận tụy, ngay bây giờ đang lúc đau đớn mà cũng chỉ nghĩ đến cha mẹ, thật ta đã gây tội ác với một thánh nhân như vậy, làm sao ta an ủi được người đây? Khi ta đọa xuống địa ngục rồi thì ngai vàng có ích gì cho ta? Thôi ta nguyện phụng dưỡng cha mẹ người như người đã phụng dưỡng họ. Như thế cái chết của người không ảnh hưởng mấy đến họ”. Liền sau đó vua nói lên quyết tâm của mình qua các vần kệ sau:

  1. Này hỡi Sà-ma dáng cát tường,
    Chớ nên tuyệt vọng ngập tâm hồn,
    Vì ta phụng dưỡng hai thân lão
    Trong cảnh cô đơn nặng khổ buồn.
  2. Ta nay thành thạo với cây cung,
    Lời hứa ta cương quyết thủy chung,
    Ta sẽ thay người và phụng dưỡng
    Mẹ cha người sống ở trong rừng.
  3. Ta sẽ đi tìm miếng thịt nai,
    Đủ dùng củ rễ, trái cây tươi,
    Rồi ta hầu hạ hai thân lão,
    Ta chính gia nô của các ngài.
  4. Hiện nay hai vị ở rừng nào?
    Này hởi Sa-ma, hãy nói mau,
    Ta thề bảo vệ, nuôi hai vị
    Như chính người làm tự bấy lâu.

Bậc Đại Sĩ đáp:

– Thế thì tốt quá, xin Đại vương nuôi nấng cha mẹ ta dùm.

Rồi ngài chỉ đường cho vua:

  1. Nơi chốn đầu ta đặt ở đây,
    Hai trăm tầm chạy giữa rừng cây,
    Con đường dẫn đến lều cha mẹ,
    Xin đến, làm ơn phụng dưỡng thay.

Sau khi chỉ đường và kiên nhẫn chịu đựng đau đớn khủng khiếp vì lòng thương yêu cha mẹ, ngài kính cẩn chấp tay lại, thỉnh cầu vua một lần cuối hãy nuôi dưỡng cha mẹ thay mình:

  1. Cung kính lễ ngài, bậc Đại vương,
    Ngài đi như vậy đúng con đường,
    Mù lòa, cha mẹ ta đơn độc,
    Xin bảo vệ, nuôi dưỡng, đoái thương.
  2. Kính lễ Kà-si Chúa thượng ôi,
    Hai tay ta chắp khẩn cầu ngài,
    Nhân danh ta gửi về cha mẹ
    Lời nhắn nhủ ta đã nói rồi.

Vua nhận lời ủy thác và bậc Đại Sĩ, sau khi nói xong lời nhắn nhủ cuối cùng, liền bất tỉnh.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Sà-ma với vẻ mặt hiền lương,
    Đã nói lời này với Đại vương,
    Rồi ngất lịm dần vì thuốc độc,
    Nằm mê man tựa bỏ thân tàn.

*

Từ trước đến giờ ngài cố gắng thốt ra những lời lẽ trên như thể người bị hụt hơi, nhưng đến đây tiếng nói đã đứt quãng vì toàn thân, tim óc, sinh lực của ngài đều lần lượt chịu tác động dữ dội của thuốc độc, nên miệng và mắt ngài khép lại, tay chân cứng đờ, toàn thân đẫm máu. Vua kêu lên:

– Người này đang nói với ta cho đến giờ phút này, bỗng dưng tại sao lại hết thở vô ra rồi kìa? Các cơ quan đã ngưng hoạt động, thân thể đã cứng đờ, chắc chắn Sà-ma đã chết rồi,

Và không thể nào ngăn được sầu thương, vua đấm vào đầu than khóc thảm thiết.

*

Đến đây bậc Đạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Đau đớn nhà vua đã khóc than:
    – Trước kia chưa xảy đến tai nạn,
    Ta không hề biết già rồi chết,
    Trời hỡi, giờ ta biết rõ ràng!
  2. Nay thấy mọi người phải chết thôi,
    Chính Sà-ma cũng chết, than ôi!
    Chàng vừa khuyên nhủ, lời trăn trối,
    Khi hấp hối từ giã cõi đời.
  3. Địa ngục đày, ta đọa hiển nhiên,
    Thánh nhân bị giết đó, nằm yên,
    Mọi người thôn xóm nào ta gặp,
    Sẽ nói đồng thanh tội lỗi trên.
  4. Sống ở rừng hoang vắng vẻ này,
    Họ tên ta có kẻ nào hay?
    Đây miền hiu quạnh không người ở,
    Ai sẽ nhắc ta mối nhục này?

*

Lúc bấy giờ có một nữ thần tên gọi Bahusodarì ở tại núi Gandhamàdana (Hương Sơn) đã là mẹ của Bồ-tát cách đây bảy đời trước của ngài, vẫn thường tưởng nhớ đến ngài với tình mẹ thương con; nhưng ngày hôm đó vì ham tưởng lạc thú thiên giới nên bà không nhớ đến ngài như thường lệ. Các bằng hữu của bà lại bảo bà đã đi dự hội họp trên thiên giới cho nên đã im hơi lặng tiếng.

Bỗng nhiên bà nghĩ đến ngài đúng lúc ngài đang bất tỉnh. Bà tự nhủ: “Việc gì đã xảy ra cho con ta?” và bà nhìn thấy vua Piliyakkha đã giết ngài bằng mũi tên tẩm thuốc độc bên bờ sông Migasammatà, ngài đang nằm trên bờ cát, còn nhà vua đang than khóc thảm thiết. “Nếu ta không đến đó thì con ta sẽ chết, vua sẽ đau đớn lắm, còn cha mẹ Sà-ma sẽ chết đói, chết khát. Nhưng nếu ta đến, thì vua sẽ mang bình nước lại cho cha mẹ của con ta. Sau khi nghe họ nói, vua sẽ dẫn họ đến gặp con, rồi ta và họ sẽ cùng thành tâm thực hiện lời nguyền trang nghiêmđể đánh tan chất độc trong thân thể Sàma cho con ta sống lại. Cha mẹ của con ta lại được sáng mắt ra và sau đó khi đã nghe Sàma thuyết giảng, vua sẽ làm bố thí lớn và được tái sinh lên cõi trời, vậy ta phải đi liền”. Thế rồi bà đến bờ sông Migasammatà, và tàng hình đứng trên không, thuyết Pháp cho vua nghe.

*

Đến đây bậc Đạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Thần nữ ẩn mình giữa cõi không,
    Ở trên thượng đỉnh của Hương Sơn,
    Rót vài câu kệ vào tai nọ,
    Vì bởi xót thương vị chúa công:

37.- Ngài đã tạo ra một ác hành,
Tội kia đè nặng ở trên mình,
Mẹ, cha, con thảy đều vô tội,
Mũi tên ngài giết cả gia đình.

  1. Đến đây ta bảo với ngài nào:
    Tìm chỗ trú an nương tựa vào,
    Cấp dưỡng người mù rừng vắng nọ,
    Tâm ngài sẽ hạnh phúc dường bao!

Nghe nữ thần dạy bảo, vua tin lời bà ngay rằng nếu đi phụng dưỡng hai kẻ mù lòa đó, vua sẽ được lên thiên giới. Vì thế vua quyết định: “Ta còn cần gì ngai vàng nữa, ta sẽ bỏ đi và hết lòng phụng dưỡng họ”. Sau một hồi tuôn trào lời than khóc, vua cố nén nỗi sầu bi vì cho rằng Sàma đã chết thật rồi, vua làm lễ cung kính thi thể ngài với đủ loại hoa thơm, vẩy nước lên thi thể ngài, đi diễu quanh ba vòng, thân phía bên hữu hướng về thi thể và lễ bái khắp bốn phương. Rồi vua cầm bình nước đã được giao và đi về hướng nam, lòng nặng trĩu u sầu.

Đến đây, bậc Đạo Sư giải thích thêm qua vần kệ:

  1. Sau một hồi tuôn lệ khóc than,
    Thương chàng xấu số nửa chừng xuân,
    Vua liền tiến lại cầm bình nước,
    Và hướng mặt đi đến phía nam
    .

*

Nhà vua vốn là người mạnh khỏe, nên cầm bình nước cương quyết băng rừng đến am ẩn sĩ và cuối cùng cũng đến trước cửa am hiền giả. Hiền giả đang ngồi trong am, nghe tiếng chân người đến gần, phân vân không biết là ai, liền thốt lên lời kệ:

  1. Ta đang nghe các bước chân này,
    Một kẻ nào đi đến lối đây,
    Không phải tiếng chân Sàma bước,
    Xin nói, thưa ngài, cho lão hay.

Vua nghe nói liền suy nghĩ: “Nếu ta bảo thật cho ông lão biết ta đã giết con ông và không nói rõ ta là vua thì họ sẽ phẫn nộ và mắng chửi ta, và lòng sân hận của ta sẽ nổi lên khiến ta xúc phạm đến họ, lại càng gây thêm tội ác; nhưng thường tình ai gặp vua mà lại không kinh sợ, vậy ta phải nói cho họ biết”. Vì thế vua đặt bình vào đúng chỗ, rồi đứng trước cửa am nói to:

  1. Kà-si Chúa tể chính là ta,
    Tên được gọi là Pi-yak-kha,
    Từ giã ngôi vì thèm món thịt,
    Săn nai, phiêu bạt chốn rừng già.
  2. Có tài thiện xạ chính ta đây,
    Cương quyết lòng ta chẳng chuyển lay,
    Chẳng rắn thần nào hòng thoát khỏi,
    Một khi đã đến trong tầm tay!

Lão hiền nhân chào mừng vua với tình thân hữu, và đáp lời:

  1. Kính mừng vạn tuế Đấng Quân vương!
    Hạnh ngộ ngài đi lạc bước đường,
    Chúa thượng vinh quang và vĩ đại,
    Sứ mạng gì xin được tỏ tường?
  2. Tin-dook, pi-yal, các lá cây,
    Kà-su-mà trái ngọt ngào thay,
    Dù còn chỉ ít oi đôi chút,
    Chọn thứ thiệt ngon có sẵn đây.
  3. Nước mát này từ dưới động sâu,
    Ẩn mình trên một ngọn đồi cao,
    Kính mời Chúa thượng, xin ngài ngự,
    Cầm lấy, uống vào thỏa ước ao.

Vua nghe lời tung hô nọ liền nghĩ: “Nếu ta nói ngay với ông lão rằng ta vừa giết chết con lão thì thật là thất sách. Vậy ta phải khởi đầu câu chuyện như ta chẳng biết gì cả, rồi sẽ nói sau”. Vì thế vua hỏi:

  1. Sao ngươi mù lẩn quẩn rừng hoang,
    Các trái này đây ai đã mang?
    Người ấy phải là người sáng mắt,
    Hái nhiều loại tích trữ kho hàng
    .

Lão hiền nhân ngâm hai vần kệ sau cho biết hai vợ chồng lão không đi hái trái mà con trai đã mang về:

  1. Sà-ma, con trẻ tuổi hoa niên,
    Tầm thước, đẹp sao mắt ngắm xem,
    Tóc dài, đen nhánh quanh đầu nọ,
    Cứ cuộn tròn trông thật tự nhiên.
  2. Đem trái cây rồi lại bước ra,
    Vội đi đổ nước đầy bình ta,
    Sẽ quay trở lại tức thì đó,
    Đường đến bờ sông cũng chẳng xa.

Vua đáp lời:

  1. Sà-ma hiếu tử của hai người,
    Người tả đẹp sao, tốt tuyệt vời,
    Ta đã giết chàng nằm ở đó,
    Tóc đen kia nhuộm máu hồng rồi!

Chòi lá của Parikà gần đó, trong lúc bà ngồi nghe giọng nói của vua, bà lo ngại không biết việc gì đã xảy ra và khi đi đến gần men theo sợi dây thừng, bà kêu lên:

  1. Cho biết là ai, Du-kù-la,
    Nói rằng con bị giết, Sà-ma,
    “Sà-ma đã chết”, đây tin dữ,
    Như xẻ làm đôi tim của ta!
  2. Như thể chồi cây sung trẻ non,
    Bị cơn gió mạnh xé lìa tan,
    “Sà-ma đã chết”, nghe tin ấy,
    Đau khổ làm ta nát ruột gan.

Lão nhân khuyên nhủ bà:

  1. Đây là Chúa tể nước Kà-si,
    Cung ác của ngài đã giết đi,
    Con của chúng ta bên bến nước,
    Song ta đừng có rủa nguyền gì.

Parikà đáp lại:

  1. Chỗ dựa, con yêu, độc nhất đời,
    Trông mong, chờ đợi mãi không thôi,
    Sao tâm chứa đủ niềm căm hận,
    Với kẻ ra tay giết hại người?

Lão nhân nói lớn:

  1. Chỗ dựa, con yêu độc nhất đời,
    Trông mong, chờ đợi mãi không thôi,
    Nhưng hiền nhân cấm ta căm hận,
    Với kẻ ra tay giết hại người!

Rồi cả hai ông bà đều lớn tiếng khóc than đấm ngực tán thán công đức của Bồ-tát. Lúc đó vua cố hết sức an ủi hai vị:

  1. Thôi đừng khóc nữa, ta van người,
    Vì trẻ Sà-ma bạc phận rồi,
    Ta sẽ phụng thờ hai vị mãi,
    Đừng buồn như thể quá đơn côi.
  2. Ta đây thành thạo với cây cung,
    Lời hứa ta cương quyết thủy chung,
    Ta sẽ hầu bên hai vị mãi.
    Và nuôi hai vị ở trong rừng.
  3. Ta sẽ đi tìm miếng thịt nai,
    Đủ dùng củ, rễ, trái cây tươi,
    Rồi ta hầu hạ bên hai vị,
    Ta chính gia nô của các người,

Hai ông bà lão liền phản đối vua:

  1. Chuyện này chẳng phải đạo, Quân vương,
    Chẳng thích hợp đâu, trái lẽ thường,
    Ngài chính là Quân vương hợp pháp,
    Chúng thần xin đảnh lễ đôi chân.

Khi nghe vậy vua rất hoan hỷ nghĩ thầm: “Thật kỳ diệu thay! Họ đã không mở lời hung hăng trách mắng ta là kẻ gây tội lỗi, lại còn tiếp đón ta thật ân cần”. Rồi vua ngâm kệ:

  1. Sơn nhân tuyên bố lẽ công bằng,
    Tiếp đón như vầy thật chí thân,
    Ngài chính từ đây cha của trẫm,
    Và bà là mẹ của thần dân.

Cả hai ông bà đều cung kính giơ tay lên trời thỉnh cầu vua.

– Chúng tôi không dám nhờ Đại vương phụng dưỡng, chỉ mong Đại vương cầm đầu cây gậy dẫn chúng tôi đến chỗ Sà-ma nằm.

Rồi họ ngâm hai vần kệ:

  1. Kà-si Chúa tể thật huy hoàng!
    Ngài sẽ làm dân tộc phú cường,
    Xin hãy đưa ta đi đến chỗ,
    Sà-ma yêu quý của ta nằm.
  2. Tại đó, ta quỳ xuống dưới chân,
    Chúng ta sờ mắt, mũi, toàn thân,
    Chúng ta quyết đợi chờ thần chết,
    Kiên nhẫn bên con mãi đến cùng.

Trong lúc họ đang nói chuyện thì mặt trời lặn. Vua nghĩ thầm: “Bây giờ nếu ta đưa họ đến đó, họ sẽ tan nát cõi lòng trước cảnh đau thương và nếu ba mạng người chết vì ta, thì chắc chắn ta sẽ đọa vào địa ngục. Thôi ta đừng dẫn họ đến đó nữa”. Thế rồi vua ngâm ba vần kệ này:

  1. Một vùng đầy dã thú săn mồi.
    Như tận cùng biên giới cõi đời,
    Chính chỗ Sà-ma nằm hiện tại,
    Như vầng trăng rụng xuống trần rồi.
  2. Một vùng đầy dã thú săn mồi.
    Như tận cùng biên giới cõi đời,
    Chính chỗ Sà-ma nằm hiện tại,
    Như vầng duong rụng xuống trần rồi.
  3. Ở chốn tận cùng của thế gian,
    Chàng nằm, bụi, máu, phủ lên chàng,
    Vậy nên ở lại trong am thất,
    Đừng mạo hiểm trong chốn núi ngàn.

Hai ông bà đáp lời chứng tỏ lòng gan dạ của họ:

  1. Mặc loài dã thú phá tan hoang,
    Hàng vạn triệu con cứ ngập tràn,
    Ta chẳng sợ đâu bầy dã thú,
    Chúng không thể hại đến thân tàn.

Như thế vua không thể ngăn cản họ được, đành phải cầm tay dắt họ đến đó.

Khi đến nơi, vua bảo:

– Con trai của hai vị nằm đây rồi.

Ông lão liền ấp đầu vào lòng con và bà mẹ gục đầu xuống chân con khóc lóc thảm thiết.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ này để làm sáng tỏ vấn đề;

  1. Lấm bụi và tan nát ruột gan,
    Vừa nhìn cảnh tượng Sà-ma nằm,
    Họ quỳ xuống giống như nhìn thấy,
    Vầng nhật nguyệt rơi rụng xuống trần;
    Cha mẹ giơ cao đôi tay họ,
    Khóc than thật thống thiết muôn phần.
  2. -Phải chăng con ngủ hỡi Sà-ma,
    Con giận hờn, quên cả mẹ cha?
    Hãy nói việc gì làm mệt trí,
    Khiến con nằm chẳng trả lời ta?
  3. Ai sẽ, bây giờ, kết tóc ta,
    Rồi ai sẽ phủi bụi trong nhà,
    Khi Sà-ma chẳng còn đây nữa
    ,
    Ở lại chỉ hai kẻ mắt lòa?
  4. Ai sẽ quét sàn cho chúng ta,
    Ai đem nước nóng, lạnh bây giờ,
    Ai tìm củ, quả rừng về nữa,
    Cô độc, già, mù cả mẹ cha?

Bà mẹ than khóc đấm ngực hồi lâu, rồi suy xét kỹ nỗi sầu thương của mình, bà tự nhủ: “Tất cả chuyện đau thương này là do con ta bị hôn mê vì chất độc quá mạnh, vậy ta phải thành khẩn thề nguyền để giải độc cho con”. Vì thế bà thực hiện một lời thề Chân lý qua các vần kệ sau:

  1. Nếu quả thật là thuở trước đây,
    Sà-ma luôn sống chánh chân đầy,
    Cầu mong thuốc độc trong dòng máu,
    Mất hết hiệu năng, vô hại ngay.
  2. Nếu thuở trước con nói thật chân,
    Ngày đêm lo phụng dưỡng song thân,
    Cầu mong thuốc độc trong dòng máu,
    Mất hết công năng, hạ xuống dần.
  3. Công đức ngày xưa đã tạo ra,
    Chính ta và cả lão thân gia,
    Cầu mong giải độc cho tan hết,
    Con trẻ quý yêu được tỉnh ra.

Sau khi bà trang nghiêm thề nguyền như vậy, Sàma bỗng nghiêng mình và khi ông cha cũng thành khẩn thề nguyền như vậy thì Sàma xoay người sang phía bên kia. Sau đó nữ thần cũng lập lại lời thề nguyền trang nghiêm như vậy.

Bậc Đạo Sư giải thích thêm qua các vần kệ:

  1. Thần nữ ẩn mình giữa cõi không,
    Ở trên thượng đỉnh của Hương Sơn,
    Thực hành lời nguyện cầu chân lý,
    Vì với Sà-ma, dạ xót thương. 
  2. -Ở đây trên thượng đỉnh Hương Sơn
    Ta đã chọn đời sống độc đơn,
    Trong chốn rừng sâu thăm thẳm ấy
    Mọi loài hoa tỏa ngát hương thơm.
  3. Không có một ai giữa thế nhân,
    Còn thân thiết đối với ta hơn,
    Vì đây quả thật là chân chánh,
    Mong chất độc trong máu thoát dần.
  4. Trong khi thương xót họ thay phiên,
    Chứng thực trang nghiêm, họ phát nguyền,
    Kìa thấy Sà-ma vùng đứng dậy,
    Xinh tươi, cường tráng, thật hồn nhiên.

Thế là bậc Đại Sĩ đã phục hồi khỏi vết trọng thương, cha mẹ ngài lại phục hồi thị giác, bình minh cũng vừa xuất hiện. Các phép lạ ấy xảy ra cùng một lúc tại chốn am tranh nhờ thần lực của tiên nữ. Đôi cha mẹ vui mừng không sao kể xiết khi thấy mình sáng mắt ra và con trai họ đã phục sinh . Lúc ấy Sà-ma ngâm kệ này:

  1. Con chính Sà-ma được vạn an,
    Nhìn con trước mặt, hãy hân hoan,
    Hãy lau khô hết đôi dòng lệ,
    Và đón chào con, hạnh phúc tràn.
  2. Vạn tuế, cầu mong bậc Đại vương,
    Phước phần phục vụ lệnh ngài luôn,
    Ngài là chúa tể thần dân đó,
    Ước nguyện gì xin hãy tỏ tường.
  3. Tin-duk, pi-yal, ma-dhuk tươi,
    Trái cây quý hiếm nhất, xin mời,
    Dâng lên thượng khách, ngon như mật.
    Ngài ngự dùng cho thỏa ý ngài
  4. Nước mắt đây từ dưới động sâu
    Ẩn mình trên một ngọn đồi cao,
    Suối trong làm dịu ngay cơn khát,
    Ngài ngự dùng cho thỏa khát khao.

Vua nhìn cảnh tượng kỳ dịu này liền nói to:

  1. Ta lạ lùng kinh ngạc biết bao,
    Ta không thể nói hướng phương nào,
    Một giờ trước thấy chàng nằm chết,
    Nay sống dậy đây thật nhiệm mầu!

Sà-ma nghĩ thầm: “Vua tưởng ta đã chết, vậy ta phải giải thích rõ là ta vẫn còn sống” và ngài nói:

  1. Một người đầy đủ các công năng,
    Tình cảm, tâm tư chẳng thoát thân,
    Vì bất tỉnh là ngưng hoạt động,
    Người ngoài tưởng kẻ ấy từ trần.

Rồi muốn cho hiểu rõ ý nghĩa thật sự của chuyện này, ngài ngâm kệ thuyết pháp:

  1. Các thế nhân theo Pháp chánh chân,
    Chăm nuôi cha mẹ lúc gian truân,

    Chư thiên nhìn thấy lòng con hiếu,
    Và đến chữa lành các bệnh luôn.
  2. Các thế nhân theo Pháp chánh chân,
    Chăm nuôi cha mẹ lúc gian truân,
    Chư thiên thế giới này ca tụng,
    Đời kế cõi thiên hưởng phước phần.

Vua nghe vậy nghĩ thầm: “Thật kỳ diệu thay, ngay cả các thiên thần cũng xuống trần chữa lành bệnh cho người phụng thờ cha mẹ, khi kẻ này bị bệnh hoạn, chàng Sà-ma này thật vinh quang vượt bậc”.

Rồi vua ngâm kệ:

  1. Ta lạ lùng kinh ngạc biết bao,
    Ta không thể thấy hướng phương nào,
    Sà-ma, ta đến nhờ chàng giúp,
    Chàng chính là nơi ta trú vào.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ nói:

– Tâu Đại vương, nếu Đại vương muốn lên thiên giới và hưởng an lạc ở đó, thì Đại vương phải thực hành Mười phận sự như sau:

Rồi ngài ngâm kệ về vấn đề này:

  1. Trước tiên là đối với song thân,
    Ngài phải làm tròn phận sự luôn,
    Phận sự hoàn thành trên cõi đất,
    Sẽ đưa ngài đến cõi Thiên nhân.
  2. Đối với vương phi, với các con,
    Phải làm tròn phận sự, Quân vương,
    Phận sự hoàn thành trên cõi đất,
    Sẽ đưa ngài đến cõi Thiên nhân.
  3. Với thân bằng và các triều thần,
    Binh sĩ trong tất cả đạo quân,
    Với các thôn làng và thị trấn,
    Giang sơn ngài với mọi tùy tùng.
  4. Với người thanh tịnh, Bà-la-môn,
    Ẩn sĩ, thú, chim, hỡi Chúa công,
    Phận sự hoàn thành trên cõi đất,
    Sẽ đưa ngài đến cõi thiên thần.
  5. Phận sự tròn đem lại phước ân,
    Phạm thiên, Đế Thích, các thiên thần,
    Nhờ làm phận sự đầy an lạc,
    Vậy phải hoàn thành phận thế nhân.

Sau khi thuyết giảng Thập vương pháp cho vua xong, bậc Đại sĩ còn thuyết giảng thêm nhiều pháp nữa và dạy vua giữ Năm giới. Vua cuối đầu tín thọ lời thuyết giảng và sau khi cung kính từ tạ ra về, liền trở lại Ba-la-nại thực hành đại bố thí cùng nhiều công đức khác, rồi đi theo nghiệp của mình cùng với triều thần gia nhập hội chúng thiên giới. Còn Bồ-tát cùng với cha mẹ ngài đều đạt các Thắng trí và nhiều cấp độ Thiền chứng khác nhau, rồi đi lên cõi Phạm thiên.

*

Sau khi thuyết giảng xong, bậc Đạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, người hiền phụng dưỡng cha mẹ là một phong tục tối cổ.

Rồi ngài tuyên thuyết các Sự Thật (sau đó vị Tỷ-kheo đắc quả Dự-Lưu) và nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, vua là Ànanda (A-nan), nữ thần là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), Thiên chủ Sakka là Anuruddha (A-na-luật-đà), người cha là Kassapa (Ca-diếp), người mẹ là Bhaddakàpilàni và Sàma chính là Ta.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN ĐẠI VƯƠNG NIMI  (Tiền thân Nimi)

Kìa tóc bạc trên đầu hiện ra…,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong khi trú tại vườn xoài của vua Makhàdeva gần thành Mithilà, về một nụ cười.

Một buổi chiều nọ, bậc Đạo Sư cùng hội chúng đông đảo Tỷ- kheo đang dạo chơi trong vườn xoài, Ngài chợt thấy một nơi hợp ý Ngài. Vì muốn kể lại hành nghiệp của Ngài ở thời quá khứ, ngài liền để lộ một nụ cười trên khuôn mặt cho hội chúng chiêm ngưỡng. Khi Tôn giả Ànanda hỏi tại sao ngài mỉm cười, Ngài đáp:

– Này Ànanda, ở chỗ kia, ngày xưa Ta đã nhập Thiền định vào thời vua Makhàdeva.

Rồi theo lời thỉnh cầu của Tôn giả, đức Thế-tôn ngồi xuống nơi Tôn giả mời Ngài, và kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, ở quốc độ Videha, trong kinh thành Mithilà có một vị vua tên là Makhàdeva. Khi còn thanh xuân, vua hưởng dục lạc trong khoảng tám mươi bốn ngàn năm, kế đó Ngài làm thái tử trong tám mươi bốn ngàn năm rồi Ngài lên làm vua trong tám mươi bốn ngàn năm nữa.

Lúc bấy giờ Ngài bảo người thợ hớt tóc phải báo cho ngài biết ngay khi gã thấy sợi tóc bạc đầu tiên trên đầu Ngài. Thời gian qua, khi người ấy thấy sợi tóc bạc liền tâu với vua, vua bảo gã lấy nhíp nhổ ra để lên tay Ngài, Ngài thấy như thể thần chết đang bám vào trán Ngài vậy. Ngài nghĩ thầm: “Bây giờ đã đến lúc ta phải rời thế tục”. Vì thế Ngài cho phép người hớt tóc lựa chọn một làng theo ý gã, còn ngài cho triệu thái tử đến giao việc triều chính cho thái tử, vì là Ngài sẽ xuất gia.

– Tâu phụ vương, tại sao vậy? Thái tử hỏi.

Ngài đáp:

  1. Kìa tóc bạc trên đầu hiện ra,
    Cướp dần đời sống tháng năm qua,
    Chúng là thiên sứ nhắc ta nhớ,
    Nay đến thời ta phải xuất gia.

Cùng với những lời này, Ngài phong vương cho con theo nghi lễ quán đảnh (rảy nước thánh trên đầu), huấn dạy tân vương phép trị nước, rồi Ngài rời kinh thành, sống theo đời của một sa-môn. Suốt tám mươi bốn ngàn năm ngài tu tập Tứ Vô lượng Tâm (bốn phạm trú: Từ, bi, hỷ, xả), rồi Ngài được sinh lên Phạm thiên giới.

Con của Ngài cũng theo gương cha, xuất thế và được sinh lên Phạm thiên giới. Các hoàng tử về sau cũng vậy, cứ lần lượt xuất gia bốn mươi tám ngàn vị thiếu hai. Khi thấy sợi tóc bạc đầu tiên xuất hiện, vị ấy liền ẩn cư trong vườn xoài, hành trì Tứ Vô lượng Tâm và được sinh lên Phạm thiên giới.

Là vị vua đầu tiên trong hoàng tộc được sinh cõi này, vua Makhàdeva đứng trên Phạm thiên giới nhìn xuống số phận của hoàng tộc, Ngài rất hoan hỷ khi thấy gần tám mươi bốn hoàng tửđã xuất gia. Ngài suy nghĩ: “Sẽ có Niết-bàn bây giờ hay không?” Ngài thấy là không thể cóđược, nên Ngài quyết định chính Ngài chứ không ai khác nữa phải kế tục sự nghiệp hoàng gia. Vì thế Ngài từ thiên giới xuống nhập mẫu thai hoàng hậu của vị vua thành Mithilà.

Vào ngày đặt tên, các nhà tiên tri nhìn các tướng mạo của hài nhi, đồng tâu:

– Tâu Đại vương, vương tử này ra đời để kế tục sự nghiệp hoàng gia. Sẽ không có vị nào trong hoàng tộc làm ẩn sĩ nữa.

Nghe vậy, vua bảo:

– Hài nhi này ra đời để nối nghiệp hoàng gia như thể chiếc vành bánh xe vậy.

Vì thế Ngài đặt tên con là: Nimi-kumàra hay vương tử A Luân.

Từ thuở ấu thơ, vương tử này đã chuyên tâm bố thí, làm công đức, giữ giới luật Bồ-tát. Khi vua cha theo lệ thường, trông thấy sợi tóc bạc đầu tiên, liền ban một ngôi làng cho người hớt tóc, phong vương cho con rồi trở thành ẩn sĩ trong vườn xoài và được sinh lên Phạm thiên giới.

Còn vua Nimi chuyên tâm bố thí, nên đã lập năm bố thí đường tại bốn cổng thành và ngay chính giữa thành để thực hành đại bố thí. Trong mỗi bố thí đường, Ngài ban phát một trăm ngàn đồng tiền, thế là Ngài phát ra năm trăm ngàn đồng tiền mỗi ngày. Ngài thường xuyên giữ Ngũ giới, vào các ngày rằm Ngài giữ giới hạnh Bố-tát. Ngài khuyến khích dân chúng bố thí và làm công đức, Ngài chỉ dạy cho họ con đường đi lên thiên giới, khiến họ thấy kinh sợ thần chết. Rồi Ngài thuyết pháp cho họ nghe.

Dân chúng tin theo lời thuyết giảng của Ngài, bố thí, làm lành, nên khi từ trần đều lần lượt được sinh lên thiên giới, vì thế thiên giới trở nên đông đảo, còn địa ngục như thể trống vắng.

Lúc ấy ở cõi trời Ba mươi ba, chư Thiên đang tụ họp tại Thiện Pháp đường (Sudhammà) đồng thanh hô to:

– Hoan nghênh bậc sư trưởng của chúng ta, Đại vương Nimi vạn tuế! Chính nhờ Ngài hành thiện nghiệp, nhờ tri kiến Phật của Ngài mà chúng ta đã đạt được an lạc vô biên ở thiên giới này.

Như thế họ tán thán công đức của bậc Đại Sĩ. Ngay trong cõi nhân gian tiếng tán thán cũng lan tràn khắp nơi như dầu loang trên mặt biển cả.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này cho hội chúng Tỷ-kheo qua các vần kệ sau:

  1. Quả thật diệu kỳ ở thế gian,
    Các hiền nhân đã được vinh thăng,
    Vào thời minh chúa Ni-mi ấy,
    Thánh giả, hiền nhân đã ngập tràn.
  2. Vi-đề-ha, đại đế ngày xưa,
    Bậc chiến thắng bao kẻ địch thù,
    Trong lúc ngài thi hành bố thí,
    Vẫn thường sinh khởi mối suy tư:
    “Điều gì đem lại nhiều thành quả,
    Bố thí? Tu hành? Ai bảo cho?

Lúc ấy cung của Sakka Thiên chủ (Đế Thích) bỗng nóng rực lên. Thiên chủ tìm hiểu lý do, thấy vua đang suy nghĩ như vậy, ngài nói:

– Ta sẽ giải quyết vấn đề này.

Rồi ngài ra đi, bỗng chốc đã biến hoàng cung thành một vùng sáng lòa, ngài bước vào điện sừng sững tỏa hào quang rực rỡ và theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài làm sáng tỏ mọi sự.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Đại đế chư thiên, đấng vạn năng,
    Là ngài ngàn mắt [*] tỏa hào quang,
    Nhận ra tư tưởng trong vua ấy,
    Trước ánh sáng ngài, bóng tối tan.

[*] Sahassakkka: Sakka có ngàn mắt.

Đại đế Nimi tâu Thiên chủ Vàsava (tức Sakka), trong lúc toàn thân rợn thịt da:

  1. Ngài là ai, có phải Thiên thần,
    Hay chính Sak-ka Thiên chủ chăng?
    Vì trẫm chưa từng nghe hoặc thấy,
    Hào quang như vậy ở trên trần.

Sau đó Thiên chủ Vàsava nói với vua Nimi, vì biết vua đang rợn cả thịt da:

  1. Ta chính Sak-ka Thiên chủ đây,
    Đến thăm ngài chính ở nơi này,
    Hỏi điều ngài muốn, kìa Hoàng thượng,
    Chớ rợn thịt da sợ hãi vầy!

Rồi vua Nimi hỏi Thiên chủ Vàsava, khi nghe lời mời này:

  1. Sak-ka Thiên chủ đấng toàn năng,
    Giải quyết cho ta nỗi khó khăn:
    Bố thí hay tu hành Thánh hạnh,
    Việc gì đem kết quả nhiều hơn?
  2. Rồi Và-sa lại bảo Ni-mi
    Giải quyết cho vua chính vấn đề,
    Nói quả tu hành đời Thánh hạnh,
    Với nhà vua ấy vẫn vô tri:
  3. Người sinh làm một Khat-ti-ya,
    Kẻ sống đời thanh tịnh bậc ba,
    Một vị Thiên thần vào bậc giữa,
    Thánh hiền bậc nhất đạt tinh hoa.
  4. Nhờ bố thí thôi khó đạt thành,
    Như vầy những quả vị an lành,
    Những gì bậc Thánh nhân xuất thế
    Chứng đắc nhờ tu tập khổ hành.

Qua các vần kệ này, Ngài làm sáng tỏ thành quả vĩ đại của đời tu hành, rồi Ngài đọc các bài kệ khác, nêu tên các vị vua trong quá khứ đã không thể vượt qua Dục giới nhờ thực hành đại bố thí, đó là các vị vua:

  1. Du-dì-pa, Sà-ga-ra, Se-la,
    Mu-ca-lin-da, Bhagì-ra-sa,
    U-sì-na-ra và At-tha-ka,
    As-sa-ka và Pu-thuj-ja-na.
  2. Các vua, giáo sĩ, Khat-ti-ya,
    Và biết bao nhiêu kẻ đã qua,
    Vì chỉ chuyên thi hành tế lễ,
    Không ai vượt khỏi cảnh Pe-ta.

Sau khi giải thích thành quả của đời sống tu hành cao hơn hẳn thành quả của bố thí. Như vậy ngài nêu rõ những vị ẩn sĩ nhờ sống đời Thánh hạnh đã vượt qua thế giới Peta (ma quỷ) và được sinh lên Phạm thiên giới, rồi ngài nói:

  1. Và đây bảy ẩn sĩ hiền nhân,
    Những vị đã siêu thoát cõi trần:
    Yà-ma-ha-nu, So-ma-yà-ga,
    Ma-no-ja-va, Sa-mud-da,
    Mà-gha, Bha-ra-ta, Kà-li-ka-ra.
    Còn có bốn hiền nhân khác nữa:
    Kas-sa-pa, An-gì-ra-sa,
    A-kit-ti, Ki-sa-vac-cha,
    Thảy đều lên cõi Phạm thiên thần.

Từ trước đến giờ ngài theo truyền thuyết mô tả thành quả vĩ đại của đời Thánh hạnh, bây giờ ngài tiếp tục tuyên bố những gì chính ngài đã thấy:

  1. Sì-dà phương bắc, một trường giang,
    Sâu thẳm, thuyền bè khó vượt ngang,
    Quanh nó, giống như rừng lửa sậy,
    Sáng ngời các dốc núi màu vàng.
  2. Cát đằng bao phủ ở quanh vùng,
    Thơm ngát cây trên núi dưới sông,
    Ở đó mười ngàn nhà ẩn sĩ.
    Một thời đã trú ngụ tu thân.
  3. Ta giữ lời nguyền của Thánh nhân,
    Chuyên tâm tiết dục, tự điều thân,
    Thực hành bố thí, đời đơn độc,
    Chăm sóc tâm từng bước vững vàng.
  4. Bất cứ ở trong đẳng cấp nào,
    Phải tìm bậc Thánh để theo hầu,
    Vì con người thảy đều ràng buộc,
    Do chính mọi hành nghiệp bấy lâu.
  5. Xa chánh đạo, tất phải đọa thân,
    Vào miền địa ngục mọi giai tầng,
    Mọi giai tầng trở thành thanh tịnh,
    Nếu tạo thiện hành, sống chánh chân.

Sau đó ngài bảo:

– Tuy nhiên, này Đại vương, mặc dù đời tu hành đạt kết quả cao hơn bố thí nhiều, các bậc đại nhân đều phải lưu tâm đến cả hai việc này: Bố thí và giữ giới hạnh.

Với lời nhủ này, Thiên chủ trở về cảnh giới của ngài.

Lúc ấy hội chúng chư Thiên giới liền hỏi ngài:

– Tâu Thiên chủ, lâu nay chúng con không được yết kiến Thiên chủ, chẳng hay ngài ở đâu vậy?

– Này các hiền giả, vua Nimi ở thành Mithilà đang có mối hoài nghi trong lòng nên ta phải đi giải quyết vấn đề để vua khỏi nghi ngờ nữa.

Rồi ngài tả sự việc qua các vần kệ:

  1. Này chư Thiên hãy lắng nghe ta,
    Tất cả đây tề tựu nảy giờ:
    Các bậc chánh nhân đều khác hẳn,
    Cả về đẳng cấp lẫn tài hoa.
  2. Ni-mi chúa tể ở phàm trần,
    Là bậc trí hiền đức, chánh chân,
    Vua nước Vi-đề, chuyên bố thí,
    Là người chiến thắng các cừu nhân.
  3. Trong lúc ngài ban phát rộng tay,
    Khởi sinh trong trí mối nghi này:
    “Điều gì kết quả nhiều hơn hẳn,
    Bố thí? Tu hành? Ai có hay?”.

Sau đó Ngài kể các đức tính của vua, không sót điều gì khiến chư Thiên mong ước được gặp vua, liền nói:

– Tâu Thiên chủ, vua Nimi là bậc sư trưởng của chúng con, nhờ lời dạy bảo của Ngài, cùng các phương tiện của Ngài, chúng con đã đạt được niềm an lạc trên Thiên giới. Chúng con ao ướcđược gặp Ngài. Vậy xin Thiên chủ hãy cho mời Ngài đến để chúng con được bái yết Ngài.

Thiên chủ Sakka chấp thuận, truyền gọi thần Màtali đến:

– Này hiền hữu, hãy buộc ngựa vào xa giá của ta, rồi xuống kinh thành Mithilà, rước vua Nimi lên thiên xa và đem Ngài về đây.

Thần Màtali vâng lệnh ra đi. Trong khi Thiên chủ Sakka đàm đạo với chư Thiên và ra lệnh cho Màtali đem xe xuống trần, tính ra đã một tháng trôi qua hạ giới.

Lúc đó đúng ngày trai giới trăng tròn, vua Nimi mở cửa sổ hướng đông ra, ngồi trên lầu, các triều thần vây quanh, suy ngẫm đến công hạnh của mình. Vừa lúc trăng lên ở hướng đông thì thiên xa xuất hiện. Dân chúng đã ăn cơm tối xong, đang cùng nhau trò chuyện thong dong trước cửa:

– Ô kìa! Sao hôm nay, lại có đến hai vầng trăng thế? Họ kêu lên.

Trong lúc họ đang bàn tán thì chiếc xe lộ rõ dần:

– Ồ không phải vầng trăng, mà là chiếc xe ngựa.

Lúc đó đoàn tuấn mã cả ngàn con của thần Màtali cùng xe của Thiên chủ Sakka xuất hiện, dân chúng tự hỏi: “Xe này dành cho ai đây? Phải rồi, vị vua của họ thật anh minh, chắc Thiên chủ Sakka dành xe này cho vị vua của họ rồi, chắc Thiên chủ muốn gặp vua”.

Vì thế họ hoan hỷ reo hò:

  1. Một việc diệu kỳ ở thế gian,
    Làm ta rợn gáy bởi hân hoan:
    Vì Vi-đề Đại vương vinh hiển,
    Nên chiếc thiên xa xuống cõi phàm.

Trong lúc dân chúng đang bàn tán mải mê như vậy thì nhanh như gió, Màtali quay xe lại, dừng xe bên song cửa hoàng cung, mời vua lên xe.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Mà-ta-li, đại-lực Thiên thần,
    Điều ngự thiên xa của Ngọc hoàng,
    Đến thỉnh Vi-đề-ha Chúa tể,
    Ở Mi-thi điện: “Tấu minh quân,
    Chúa công dưới thế, lên xa giá,
    Thiên chủ In-dra với các thần,
    Ở cõi Băm ba, cung Thiện pháp,
    Đang chờ để yết kiến tôn nhan”.

*

Vua suy nghĩ: “Ta sắp viếng cõi trời mà ta chưa từng biết, vậy ta phải tỏ lòng tri ân đối với thần Màtali”. Thế rồi ngài bảo các cung phi cùng thần dân:

– Chẳng bao lâu ta sẽ trở về trần thế, vậy các người phải chuyên tâm làm việc thiện và bố thí.

Rồi Ngài lên xe.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Khi ấy Vi-đề-ha Đại quân,
    Vội vàng tiến đến chiếc xe thần,
    Bước vào, khi Đại vương an tọa,
    Thần lái thiên xa lại hỏi rằng:
    – Thánh chúa, đường nào ngài muốn chọn,
    Nơi người ác ở hoặc hiền nhân?

*

Nghe nói vậy, vua liền nghĩ: “Cả hai chốn này ta đều chưa hề thấy bao giờ cả, vậy ta muốn xem cả hai”. Ngài đáp lại:

  1. Mà-ta-li, hỡi quản xa thần,
    Hai chỗ, ta đều muốn ngắm trông,
    Nơi chốn bậc hiền nhân trú ngụ,
    Và nơi kẻ ác đọa đày thân.

Màtali suy nghĩ: “Không thể đi xem cả hai nơi cùng một lúc được, vậy ta phải hỏi lại vua xem sao”. Rồi thần ngâm kệ:

  1. Chỗ nào đi trước, Đại minh quân,
    Nơi trước tiên ngài muốn ngắm trông,
    Nơi chốn bậc hiền nhân trú ngụ,
    Hay nơi kẻ ác đọa đày thân?

Vua suy nghĩ thế nào ngài cũng sẽ lên Thiên giới và ngài lại ước mong thấy địa ngục, nên ngài ngâm kệ:

  1. Ta muốn xem nơi của tội nhân,
    Hãy đưa ta đến ngục sau cùng,
    Nơi người đã phạm hành vi ác,
    Nơi kẻ ác nay đang trú thân.

Lúc ấy Màtali chỉ cho vua thấy dòng sông ở địa ngục, tên gọi Vetarani.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này:

  1. Thần lái thiên xa chỉ chúa công,
    Dòng sông hôi thối Ve-ta-ran,
    Chứa đầy chất nước đang thiêu hủy,
    Nóng bỏng, phủ toàn lửa cháy bừng.

Vua kinh hoàng khi nhìn thấy những tội nhân bị hành hạ đau đớn trong dòng sông Vetarani, ngài liền hỏi Màtali họ đã mắc những tội gì, Màtali liền kể lại:

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Vua Ni-mi thấy tội nhân sa xuống,
    Dòng sông sâu, liền hỏi Mà-ta-li :
    “Ta kinh hoàng thấy cảnh tượng đằng kia,
    Những kẻ này phạm tội gì, xin nói,
    Mà ngày nay bị sa vào sông thối?”.
  2. Thần đáp, nêu tội chín, quả liền sinh:
    – Ai trong đời ỷ sức mạnh riêng mình,
    Lại ức hiếp kẻ nghèo hèn, yếu đuối,
    Kẻ ác kia đã gây bao tội lỗi,
    Bị thả vào dòng nước Ve-ta-ran.

Màtali đáp lời vua như vậy. Khi vua đã thấy địa ngục Vetarani rồi, Màtali liền làm cho cảnh này biến mất, rồi lái xe đến xem nơi tội nhân bị các loài chó và ác thú khác xâu xé. Thần Màtali đáp lời vua hỏi như sau.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này :

  1. Bầy chó đen, đàn kên kên cùng quạ,
    Đang đợi mồi kinh khủng, lúc ta trông,
    Mà-ta-li, ta kinh hãi trong lòng,
    Tội lỗi gì họ gây ra, xin nói,
    Quạ rình ai? Mà-ta-li đáp lại:
  2. Nếu tội chín muồi và quả phải mang;
    – Những kẻ xan tham, sân hận, nói sàm,
    Làm tổn hại Bà-la-môn, ẩn sĩ,
    Những kẻ ác đã gây bao tội thế,
    Nay làm mồi cho diều quạ, ngài xem!

*

Những câu hỏi khác của vua cũng đều được thần Màtali đáp lại tương tự như trên.

  1. Mình rực lửa khi họ nằm phủ phục,
    Đống than hồng vùi dập, lúc ta trông,
    Mà-ta-li, ta hoảng sợ trong lòng.
    Tội lỗi gì các kẻ này phạm phải,
    Thần quản xa, nói cho ta biết với,
    Nay nằm vùi dập dưới đống than hồng?
  2. Mà-ta-li, thần điều ngự, tỏ tường,
    Nêu tội lỗi chín muồi mang kết quả:
    – Những kẻ này trên đời đầy gian trá
    Hành hạ người vô tội, tạo đau thương,
    Cả nữ nhi cùng với bọn nam nhân,
    Những kẻ ác đã gây tạo tội lỗi,
    Nay nằm vùi dưới đống than đỏ ối.
  3. Những người kia nằm hố than vật vã,
    Gầm thét lên, thân cháy. Lúc ta trông,
    Mà-ta-li, ta hoảng sợ trong lòng,
    Bọn này phạm tội gì, cho ta rõ,
    Ai nằm vẫy vùng trong hầm lửa đỏ?
  4. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
    Nêu quả mang khi tội đã chín muồi:
    – Những người trước đám đông dân chúng,
    Làm chứng nhân sai, nợ nần lật lọng,
    Làm hại người như vậy, tấu Anh quân,
    Những ác nhân này phạm tội bất nhân,
    Nay nằm đó vẫy vùng trong hố lửa.
  5. Khói lửa rực trời một hầm than đỏ,
    Ta thấy kìa chảo sắt lớn gớm ghê,
    Khi ta nhìn, lòng sợ hãi tràn trề,
    Mà-ta-li, nói cho ta biết với,
    Tội lỗi gì các kẻ này mắc phải,
    Nay bị thả vào chảo sắt khổng lồ?
  6. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp vua:
    Nêu tội lỗi chín muồi mang kết quả:
    – Kẻ làm hại Bà-la-môn, hiền giả,
    Kẻ xấu xa làm hại các thiện nhân,
    Những ác nhân mang ác nghiệp vào thân,
    Nay phải chịu rơi đầu vào chảo sắt.
  7. Cổ bị tóm thả vào trong chảo sắt,
    Đầy nước sôi sùng sục thật kinh hồn,
    Mà-ta-li, ta sợ hãi từng cơn,
    Tội lỗi nào những kẻ này mắc phải,
    Giờ đây đầu nát tan nằm chịu tội?
  8. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp vua :
    Nêu tội chín muồi nên quả sinh ra;
    – Đó là những ác nhân trên hạ giới,
    Bắt chim muông, rồi lại còn sát hại,
    Và sát sinh như vậy, hỡi Quân vương,
    Do ác hành gây tội lỗi đau thương,
    Nay nằm đó với cổ đầu siết chặt.
  9. Dòng sông kia sâu thẳm, bờ nông cạn,
    Dễ đi qua bờ bên ấy, thế nhân,
    Nóng như thiêu, liền uống, nhưng vừa dùng,
    Nước thành trấu lửa, khi ta nhìn thấy,
    Mà-ta-li, lòng ta đầy kinh hãi,
    Nói cho ta, tội lỗi của thế nhân,
    Sao uống vào, nước hóa trấu cháy bừng?
  10. Mà-ta-li, thần quản xa, đáp lại,
    Nêu tội chín muồi và nay mang trái:
    – Đây những người trộn gạo với trấu tro,
    Đem bán gian cho những kẻ đi mua,
    Nên giờ phải chịu khát thiêu cổ họng,
    Nhưng uống vào, nước hóa ra trấu nóng.
  11. Bao gươm giáo cung tên đâm xuyên thủng,
    Hai bên sườn những kẻ nọ thét gào,
    Mà-ta-li,ta kinh hãi, nói mau,
    Tội lỗi gì các kẻ kia đã tạo,
    Nên ngày nay chịu biết bao gươm giáo,
    Phải nằm kia hứng lấy mọi cung tên?
  12. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp liền,
    Tả tội chín muồi và nay mang quả;
    – Kìa những thế nhân lòng đầy gian trá,
    Đã lấy của người để sống giàu sang,
    Trâu, dê, cừu, ngựa, thóc, lúa, bạc, vàng,
    Những ác nhân này gieo trồng tội báo,
    Nên giờ đây nằm hứng bao gươm giáo.
  13. Những kẻ này bị cột cổ là ai,
    Kẻ xé thịt, người chặt xương từng mảng,
    Mà-ta-li, lòng ta đầy kinh hoảng,
    Nói cho ta tội tạo bởi chúng sinh,
    Đang nằm kia thân bị xé tan tành?
  14. Mà-ta-li, thần quản xa, đáp lại,
    N êu tội chín muồi và nay mang trái:
    – Dân chài, hàng thịt, săn bắn hươu nai,
    Kẻ giết trâu dê đem bán ở đời,
    Những ác nhân đã gây bao tội ác,
    Nay nằm kia với tấm thân tan nát.
  15. Hồ hôi đầy phân bẩn ở đằng kia,
    Mùi thối xông lên, bao người chết đói,
    Ăn đồ dơ! Lòng ta đầy kinh hãi,
    Khi ta nhìn, hãy nói, Mà-ta-li,
    Các thế nhân kia mắc tội lỗi gì,
    Nay ta thấy ăn toàn đồ dơ thối?
  16. Mà-ta-li, thần quản xa, đáp lại,
    Nếu tội chín muồi nay quả phải mang:
    – Những kẻ tinh ma ích kỷ hại nhân,
    Sống với bạn mà đem lòng hại bạn,
    Những ác nhân này đã gây nghiệp chướng,
    Nay ăn đồ dơ bẩn tội tình thay.
  17. Hồ đằng kia đầy máu đỏ hôi tanh,
    Mùi thối xông lên, kìa đám sinh linh,
    Khát thiêu họng, uống vào! Ta kinh hãi,
    Khi ta nhìn, Mà-ta-li, hãy nói
    Bọn người kia đã tạo lỗi lầm gì,
    Nên bây giờ phải uống dòng máu kia?
  18. Mà-ta-li, thần quản xa, đáp lại,
    Nêu tội chín muồi và nay mang trái:
    – Những kẻ này đã giết mẹ hoặc cha,
    Chúng phải tôn sùng, tội ngỗ nghịch mà,
    Bọn ác này đã tạo ra trọng tội,
    Chúng đang uống đằng kia dòng máu thối.
  19. Kìa lưỡi xuyên ngang bằng cái móc câu,
    Như trăm mũi gai trên gỗ cắm vào,
    Ai vẫy vùng như cá nằm trên cạn?
    Khi thấy người đang thét gào lảm nhảm,
    Ta kinh hoàng, hãy nói, Mà-ta-li,
    Tội lỗi gì phạm bởi đám người kia,
    Nay nằm đó nuốt móc câu như vậy?
  20. Mà-ta-li, thần lái xe, đáp lại,
    Nêu tội chín muồi và quả phải mang:
    – Những thế nhân kia buôn bán chợ hàng,
    Tranh giành mua rẻ vì tham tư lợi,
    Tưởng đâu che được bao trò gian dối,
    Như người câu cá. Nhưng kẻ dối đời,
    Phải lâm nguy, bởi nghiệp cũ theo hoài,
    Bọn gian ác này đã gây tội ấy,
    Đang nằm kia, nuốt móc câu như vậy.
  21. Những nữ nhân, tơi tả, đứng giơ tay,
    Gào thét lên, khốn khổ, máu bôi đầy,
    Như thú trong lò. Thân vùi đến ngực,
    Còn nửa người trên lửa thiêu rừng rực!
    Ta kinh hoàng cho biết, Mà-ta-li,
    Đám nữ nhân kia phạm tội ác gì,
    Nay phải đứng chôn vùi trên mặt đất,
    Nửa người trên lửa đang thiêu hừng hực,
    Phần nằm sâu dưới đất đến nửa người?
  22. Mà-ta-li, khi ấy vội đáp lời,
    Nêu tội chín muồi và nay mang trái:
    – Những kẻ kia cao sang trên thế giới,
    Đời sống dâm ô, gây nghiệp bất nhân,
    Phản bội, trốn chồng làm việc vô luân,
    Để thoả mãn những tấm lòng tham dục,
    Họ phung phí cuộc đời trong trụy lạc;
    Giờ đây mình rực lửa đứng chôn thân.
  23. Sao những kẻ kia bị người lôi cẳng,
    Và thả vào dòng nước Na-ra-ka?
    Lòng kinh hoàng, Mà-ta-li, nói ra,
    Tội lỗi gì những thế nhân tạo vậy,
    Nên ngày nay trôi vào dòng sông ấy?
  24. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
    Nêu nghiệp nhân mang quả đã chín muồi:
    – Những kẻ kia trên thế gian độc ác,
    Trộm báu vật, tư thông vợ người khác,
    Nên giờ đây bị thả xuống dòng sông,
    Chịu khổ hình trong địa ngục muôn năm,
    Không an lạc cho người gây tội lỗi,
    Vì nó luôn bị nghiệp mình theo dõi.
    Những ác nhân này gây tạo lỗi lầm,
    Nên ngày nay bị thả xuống dòng sông.

Nói xong, Màtali làm cho cảnh địa ngục biến mất rồi tiếp tục lái xe tiến lên, chỉ cho vua xemđịa ngục hành hình kẻ theo tà giáo. Theo lời vua yêu cầu, thần Màtali giải thích:

  1. Ta chứng kiến bao nghiệp nhân gây quả,
    Thật kinh hoàng trong địa ngục, khi trồng,
    Mà-ta-li, ta sợ hãi trong lòng,
    Tội lỗi gì những thế nhân phạm phải,
    Nên ngày nay bị trầm luân khổ ải,
    Rất đau thương, thống thiết, khó vượt qua?
  2. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp vua,
    Nêu tội chín muồi và nay mang trái:
    Bọn ác tà kiến kia trên thế giới,
    Đặt lòng tin vào vọng tưởng hư danh,
    Buộc tha nhân phải tín ngưỡng theo mình.
    Vì tà kiến đã gây bao tội lỗi,
    Nên ngày nay phải chịu bao khổ ải,
    Rất đau thương, thống thiết, khó vượt qua.

Bấy giờ trên thiên giới, chư Thiên đang tụ tập tại Sudhamma (Thiện pháp đường) chờ đợi nhà vua đến. Thiên chủ Sakka nghĩ thầm: “Màtali đã đi lâu lắm rồi” và khi xét thấy lý do, ngài bảo:

Màtali đang đi vòng quanh làm vị hướng dẫn, chỉ các cảnh giới địa ngục cho nhà vua xem và giải thích các tội lỗi đã đưa đường đến mỗi địa ngục ấy.

Rồi cho gọi một vị Thiên đồng trẻ tuổi nhanh nhẹn, ngài bảo vị này:

– Hãy đi bảo Màtali mang nhà vua đến đây ngay. Vị ấy đang tiêu phí hết cuộc đời của nhà vuađấy, không nên đi quanh các địa ngục quá lâu như vậy.

Lập tức vị Thiên đồng ra đi, truyền lệnh của Thiên chủ cho Màtali. Nghe xong Màtali đáp:

– Chúng tôi không dám chậm trễ nữa.

Rồi trong một thoáng nhanh như chớp, thần chỉ tất cả mọi cảnh giới địa ngục rộng lớn cho vua xem khắp bốn phương và ngâm kệ sau:

  1. Giờ Đại vương đã chứng kiến nhiều nơi,
    Của thế nhân mắc tội lỗi trên đời,
    Nên đọa đày và đây Minh quân hỡi,
    Nhanh lên thăm Đại đế của cõi trời.

Nói xong thần quay xe lên thiên giới. Khi ấy vua thấy trên không tòa lâu đài của một thiên nữ, tên là Bìrani, với các đỉnh tháp đầy ngọc vàng, được trang hoàng thật lộng lẫy, có hoa viên và hồ hoa sen súng cùng những cây quý bao quanh xứng đáng với cảnh đẹp ấy. Thiên nữ này ngồi trên đó tọa sàng trong căn phòng có đỉnh tháp hướng ra phía trước và được cả ngàn tiên nữ hầu hạ chung quanh, bà đang nhìn ra cửa sổ. Vua liền hỏi Màtali nữ thần ấy là ai và Màtali giải thích như sau:

  1. Ngắm lâu đài kia với năm đỉnh tháp,
    Đầy tràn hoa tô điểm, ngự tọa sàng,
    Một nữ thần thật diễm lệ huy hoàng,
    Muôn vẻ uy nghi, muôn phần kỳ lực,
    Mà-ta-li, lòng ta vui náo nức,
    Nói ta nghe những thiện nghiệp của nàng,
    Khiến nàng nay hạnh phúc ở thiên đàng.
  2. Mà-ta-li, thần quản xa, đáp lại :
    Nêu thiện nghiệp chín muồi nay mang trái:
    Ngài nghe chăng ở xứ Bì-ra-ni,
    Một Bà-la-môn có một nô tỳ,
    Tiếp một khách đúng thời, lòng niềm nở
    Như mẹ đón con mình, nên từ đó,
    Cao sang, trong sạch, sống hưởng lâu đài.

Nói xong, Màtali lái xe tiến lên và chỉ vua xem bảy lâu đài bằng vàng của Thiên thần Sonadanna. Vua thấy cảnh tượng huy hoàng của Thiên thần này, liền xin Màtali giải thích:

  1. Kia bảy lâu đài sáng ngời chói lọi,
    Một thiên nhân đang ngự trị huy hoàng,
    Cùng các vợ tiên trú ngự thiên đường.
    Ta hoan hỷ nhìn, Mà-ta-li hỡi,
    Thiện nghiệp nào thế nhân kia vun xới,
    Mà bây giờ lạc trú cảnh thiên đình?
  2. Mà-ta-li, thần điều ngự, lại trình,
    Tuyên thiện nghiệp chín muồi và mang quả:
    – So-na-din-na trước làm vua đã,
    Đem cúng dường với đại lượng quân vương,
    Bảy am tu cùng tất cả đồ dùng,
    Cung cấp đủ tâm thành và vật thực:
    Sàng tọa, đèn, hương, cùng nhiều y phục,
    Hoan hỷ, tam hòa với các chánh nhân,
    Ngài giữ ngày trai giới, mỗi hai tuần:
    Mồng tám, mười tư, ngày rằm trăng sáng,
    Thanh tịnh bước đường, điều thân, độ lượng,
    Nên bây giờ tận hưởng lạc thiên cung.

Màtali kể rõ các thiện nghiệp của vua Sonadinna xong, liền lái xe tiến tới nữa. Rồi thần lại chỉ một lâu đài bằng pha lê, cao ngất đến hai mươi lăm dặm, có hàng trăm cột trụ làm bằng thất bảo, hằng trăm đỉnh tháp, rải rác các rèm treo và chuông nhỏ. Một chiếc cờ bằng bạc và vàngđang phất phới, cạnh đó là một công viên đầy hoa lá tốt tươi, một hồ thả hoa súng xinh xinh, các nữ thần yêu kiều ca hát muôn điệu nhạc. Khi vua thấy cảnh này liền hỏi các nữ thần này đã tạo những thiện nghiệp gì, Màtali đáp:

  1. Kìa cung pha lê sáng ngời, rực rỡ,
    Các đỉnh cao chất ngất đến tầng mây,
    Thức uống, đồ ăn la liệt đủ đầy,
    Thiên nữ kỳ tài cả đoàn tuyệt sắc,
    Đang trình diễn múa ca cùng tiếng hát.
    Ta hân hoan, hãy nói, Màtali,
    Các nữ nhân này đã tạo nghiệp gì,
    Nay an trú lâu đài đầy hoan lạc?
  2. Mà-ta-li, thần quản xa, liền đáp,
    Tả những thiện duyên mang lại quả lành;
    – Các nữ nhân này Thánh hạnh tu hành,
    Tín nữ tại gia giữ ngày Bố-tát,
    Rộng lượng, điều thân, tịnh tâm, tịnh giác,
    Nên giờ đây hạnh phúc ở Thiên cung,
    Mà Đại vương đã tận mắt ngắm trông.

Rồi thần lái xe tiến lên, chỉ một lâu đài bằng ngọc bích, sừng sững trên một nơi bằng phẳng, hùng vĩ như ngọn núi ngọc bích sáng ngời, các Thiên tử đang nô đùa ca hát khúc nhạc thiên đường. Thấy cảnh này, vua liền hỏi về các thiện nghiệp của các Thiên tử này và vị kia đáp lại:

  1. Lâu đài ngọc kia tỏa đầy ánh sáng,
    Cảnh nguy nga, tráng lệ, thật huy hoàng,
    Nhạc du dương đang trổi khúc thiên đường,
    Đàn ca trống âm vang theo vũ khúc,
    Ta chưa từng nhìn cảnh nào ngoạn mục,
    Âm thanh kia êm dịu chẳng hề nghe,
    Lòng hân hoan, hãy nói, Mà-ta-li,
    Nghiệp lành nào những vị này tạo tác,
    Nay hạnh phúc trong thiên cung hoan lạc?
  2. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
    Nêu thiện duyên nay đem quả chín muồi:
    – Đây các vị tại gia trong đời trước,
    Bố thí nhiều vườn cây và giếng nước,
    Kéo nước và thành tín cúng Thánh nhân:
    Y phục, thức ăn, tọa cụ, vật cần,
    Lòng hoan hỷ cùng chân nhân chính trực,
    Cứ mỗi hai tuần giữ ngày Bố-tát:
    Mùng tám, mười tư cùng với ngày rằm,
    Rộng lượng, điều thân, theo bước Thánh nhân,
    Nay an trú trong lâu đài hoan lạc.

Như vậy, khi đã nêu các thiện nghiệp của các vị Thiên thần kia, Màtali liền lái xe đến một lâu đài pha lê khác, với nhiều đỉnh tháp, hoa thơm cỏ lạ và cây xinh đẹp mọc khắp nơi, vang dội muôn tiếng chim ca, bên cạnh một dòng sông trong vắt. Đó là nơi cư ngụ của một thiện nhân, có cả một đoàn tiên nữ hầu hạ quanh mình. Thấy cảnh tượng này, nhà vua lại hỏi Màtali về các nghiệp quả của vị ấy và được giải thích như sau:

  1. Kìa cung pha lê chói ngời ánh sáng,
    Các đỉnh cao chất ngất đến từng mây,
    Thức uống đồ ăn la liệt, cả bầy,
    Thiên nữ diễm kiều đủ tài múa hát;
    Bao hoa lá viền đôi bờ sông mát.
    Ta hân hoan, hãy nói, Mà-ta-li,
    Nam nhân này đã tạo nghiệp lành gì?
    Nay thọ hưởng lâu đài đầy thiên lạc?
  2. Mà-ta-li, thần lái xe, liền đáp,
    Nêu nghiệp lành, nay quả tốt sinh ra:
    – Một chủ nhà ở tại Kim-bi-là,
    Hào phóng cúng các vườn cây, giếng nước,
    Kéo nước dâng Thánh nhân lòng thành thực:
    Y phục, thức ăn, tọa cụ, vật cần,
    Lòng hân hoan cùng các bậc chánh nhân,
    Ngày Bố-tát giữ hai lần nửa tháng:
    Mùng tám, mười tư, ngày rằm trăng sáng,
    Điều thân, rộng lượng, theo bước Thánh hành,
    Nay trú an trong lạc thú thiên đình.

Như vậy, sau khi tả nghiệp lành của Thiện nhân này xong, thần lái xe đi nữa, rồi thần chỉ cho vua một lâu đài pha lê khác: Lâu đài này lại còn nhiều cỏ cây hoa trái muôn màu bao quanh hơn các lâu đài trước nữa. Thấy vậy vua liền hỏi các thiện nghiệp của vị Thiên thần đầy diễm phúc kia và Màtali liền đáp:

  1. Kìa ngọc cung đang tỏa đầy ánh sáng,
    Các đỉnh cao chất ngất đến từng mây,
    Thức uống đồ ăn bày la liệt, cả bầy,
    Thiện nữ diễm kiều đủ tài múa hát,
    Bao hoa lá viền đôi bờ sông mát:
    Sà-la, xoài, tượng, vương giả cây cao,
    Pi-yal, tin-duk, đào đỏ ngọt ngào,
    Vườn cây trái mọi nơi sinh quả quý.
    Mà-ta-li, nói đi, ta hoan hỷ,
    Thiên nhân này đã tạo nghiệp lành gì,
    Nay hưởng lâu đài thiên lạc tràn trề?
  2. Mà-ta-li, thần lái xe, đáp lại,
    Nêu thiện nghiệp chín muồi và mang trái:
    – Một chủ nhà ở tại Mi-thi-là,
    Hào phóng, đem cho giếng nước, vườn hoa,
    Kéo nước, cúng Thánh nhân, lòng ngưỡng mộ:
    Y phục, thức uống ăn và tọa cụ,
    Mọi nhu cầu, hòa hợp với chánh nhân,
    Người giữ ngày trai giới mỗi hai tuần,
    Mồng tám, mười tư, ngày rằm trăng sáng,
    Thanh tịnh bước đường, điều thân, độ lượng,
    Nên giờ đây an trú lạc thiên cung.

Tả xong thiện nghiệp của vị này như vậy, thần tiếp tục lái xe đi đến một lâu đài bằng ngọc, giống lâu đài đầu tiên, và vua lại yêu cầu thần kể các hành nghiệp của vị Thiên thần đang hưởng lạc tại đây:

  1. Kìa ngọc cung đang chiếu đầy ánh sáng,
    Cảnh nguy nga tráng lệ thật huy hoàng,
    Nhạc du dương đang trổi khúc thiên đường,
    Đàn ca trống âm vang theo vũ khúc,
    Ta chưa từng thấy cảnh nào ngoạn mục,
    Âm thanh êm dịu quá chẳng hề nghe.
    Lòng hân hoan, hãy nói, Mà-ta-li,
    Các nghiệp lành những vị này tạo tác,
    Nay hạnh phúc trong thiên cung hoan lạc?
  2. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
    Nêu thiện duyên nay mang quả chín muồi:
    – Một vị tại gia ở thành Bê-na-rét,
    Bố thí nhiều vườn cây cùng giếng nước,
    Kéo nước và dâng cúng Thánh nhân:
    Y phục, thức ăn, tọa cụ, vật cần,
    Lòng hòa hợp cùng thiện nhân chánh trực,
    Mỗi tháng hai lần giữ ngày Bố-tát,
    Mồng tám, mười tư, cùng với ngày rằm,
    Rộng lượng, điều thân, theo bước Thánh nhân,
    Nay an trú trong lâu đài an lạc.

Vừa lái thiên xa tiến lên, thần vừa chỉ một lâu đài bằng vàng, như mặt trời đang tỏa ánh sáng và theo lời thỉnh cầu của nhà vua, thần kể các thiện nghiệp của vị Thiên nhân đang an trú ở đấy:

  1. Ngắm lâu đài kia sáng ngời ánh lửa,
    Đỏ như mặt trời đang lúc lên cao,
    Mà-ta-li, long hoan hỷ, nói mau,
    Thiện nghiệp gì thế nhân này vun xới,
    Nay an trú hưởng lâu đài trên thiên giới?
  2. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
    Nêu thiện duyên nay mang quả chín muồi:
    – Một chủ nhà xưa ở thành Xá-vệ,
    Giếng nước, vườn cây, rộng lòng bố thí,
    Kéo nước, dâng các Thánh với tín tâm:
    Thức uống ăn và y phục, tọa sàng,
    Vật cần thiết, tâm hòa người chánh trực,
    Mỗi tháng hai lần giữ ngày Bố- tát,
    Mùng tám, mười tư, cùng với ngày rằm,
    Rộng lượng, điều thân, theo bước Thánh nhân,
    Nay an trú lâu đài đầy hoan lạc.

Trong khi thần Màtali tả cảnh tám lâu đài này, Sakka Thiên chủ, Đại đế của chư Thiên, tưởng rằng Màtali còn lâu lắm mới trở về, nên đã phái một Thiên tử nhanh chân khác đi đưa tin triệu hồi. Màtali nghe lệnh, thấy không thể nào trì hoãn được nữa, liền trong một thoáng nhanh như chớp, thần chỉ một lượt nhiều lâu đài và nêu cho vua thấy những thiện nghiệp của các Thiên nhân ở trong đó:

  1. Nhìn những lâu đài rực sáng trên không,
    Như tia chớp xuyên qua đám mây hồng.
    Lòng hoan hỷ, Mà-ta-li, hãy nói,
    Thiện nghiệp gì các vị này vun xới,
    Nên bây giờ an hưởng cảnh thiên đường?
  2. Mà-ta-li đáp lại đấng quân vương,
    Nêu thiện nghiệp chín muồi và mang quả:
    – Sống hướng thiện, tín thành và thức giả,
    Thi hành những lời dạy của Đạo Sư,
    Nhờ sống như Phật Đại Giác dạy cho,
    Nay lên các thiên cung ngài đang ngắm!

Sau khi đã chỉ cho nhà vua các lâu đài trên không, thần lên đường trở về yết kiến Sakka Thiên chủ với những lời này:

  1. Ngài đã thấy cảnh người lành, kẻ dữ,
    Giờ ta mau bái yết đấng Thiên hoàng.

Nói xong, thần tiếp tục lái xe đi và chỉ cho nhà vua xem bảy ngọn đồi bao quanh núi Sineru (Tu-di) làm thành một vòng tròn, rồi để giải thích cách vua hỏi Màtali khi thấy cảnh này, bậc Đạo Sư nói:

  1. Khi Đại vương du hành lên thiên giới,
    Ngự thiện xa ngàn thiên mã kéo đi
    Thấy những đỉnh non cao ngất đằng kia,
    Trên biển cả Si-dà, ngài liền hỏi:
    – Núi đồi này là gì xin hãy nói,
    Nghe vua Nimi hỏi, thần Màtali đáp:
  2. Núi hùng vĩ Sudassara, Karavìka,
    Ìsadhara, Yugandhaka,
    Nemindhara, Yinatara Assakanna,
    Những đồi này ở Sìdantara,
    Theo lớp hàng đồi núi đứng gần xa,
    Cao sừng sững giữa không gian chất ngất,

    Mà Đại vương đang ngắm nhìn tận mắt.

Rồi thần chỉ thiên giới của Tứ đại Thiên vương và tiếp tục đi cho đến lúc thấy các tượng thần Indra đứng sừng sững quanh Đại Thiên môn Cittakùta ở cõi trời Ba mươi ba.

Thấy cảnh tượng này, vua liền hỏi và Màtali đáp lại:

  1. Cảnh đẹp tinh vi, tráng lệ, huy hoàng,
    Tượng thần Indra sừng sững thiên môn,
    Như thần hổ đứng canh, ta nhìn kỹ,
    Mà-ta-li, lòng ta đầy hoan hỷ,
    Nói cho ta tên cảnh đẹp tuyệt vời.
  2. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
    Nêu thiện nghiệp chín muồi nay mang trái:
    – Ci-ta-kù-ta, nơi ngài chiêm bái,
    Cổng đi vào cung Đại đế Thiên hoàng,
    Đây Đại môn quan của ngọn Mỹ Sơn,
    Diễm lệ, huy hoàng, bao quanh sừng sững,
    Với tượng Indra như bầy hổ đứng.
    Mời Hiền vương vào chốn thanh tịnh này.

Nói xong Màtali dẫn vua vào trong, và việc ấy được tả lại như sau:

83.Khi Đại vương ngự giá chiếc thiên xa,
Được cả ngàn tuấn mã kéo đi qua,
Nhà vua ngắm nơi chư Thiên hội họp.

Trong khi Ngài đi ngang qua, ngắm nơi chư Thiên hội họp tại Thiện pháp đường Sudhammà, Ngài liền hỏi và Màtali đáp lại:

  1. Như mùa thu, trời cả một màu xanh,
    Tòa lâu đài ngọc bích hiện nguyên hình,
    Lòng hoan hỷ, Mà-ta-li, hãy nói,
    Tên lâu đài mà ta đang chiêm bái?
  2. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
    Nêu thiện duyên đem quả tốt chín muồi:
    – Đây Thiện pháp đường chư Thiên tụ tập,
    Trụ đứng nguy nga, công trình mỹ thuật,
    Tám bề xây bằng ngọc bích, bảo trân,
    Tam thập tam thiên với đấng Ngọc hoàng,
    Đại đế In-dra cầu mong lạc phước,
    Cho trời, người; mời Đại vương hãy bước,
    Chốn diễm kiều, nơi trú ngụ chư Thiên.

Các vị Thiên lúc ấy đang ngồi đợi vua đến. Khi nghe tin, họ bước ra đón ngài với hoa hương cõi trời thơm tỏa ngào ngạt đến tận cổng Cittakùta ấy và mời ngài vào Thiện pháp đường. Vua xuống xe vào sảnh đường, chư Thiên mời ngài ngồi và Sakka Thiên chủ cũng ban tặng ngài đủ mọi hoan lạc của thiên giới.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Chư Thiên ngắm đức vua vừa mới đến,
    Đồng chào mừng vị quý khách Minh quân:
    – Cung nghênh ngài! Thiên chủ rất hân hoan,
    Được diện kiến! Bên Sak-ka Thiên chủ,
    Chúng Thiên đồng kính mời Minh quân ngự.
  2. Thiên chủ mời Đại đế Vi-đề-ha,
    Vị Minh quân ngự trị Mi-thi-là,
    Và-sa-va liền tặng ngài tất cả,
    Thiên lạc và thỉnh Minh quân an tọa.
  3. – Giữa các quân vương cai trị cõi đời,
    Xin cung nghênh chúa tể đến cung trời,
    An trú với chư Thiên, này Chúa tể,
    Ngài sẽ được mọi ước nguyền như ý,
    Hưởng trường xuân nơi Tam thập tam thiên.

Như vậy Thiên chủ Sakka ban ngài các thiên lạc, nhưng vua từ chối khéo và đáp lại:

89.- Như khi ta được ngự giá xe tiên,
Hay được tặng phỉ nguyền bao phúc lạc,
Chính là hưởng đặc ân từ kẻ khác.

  1. Ta không màng những phúc lạc đặc ân,
    Nhận từ tay do kẻ khác phát phân,
    Các thiện nghiệp đều của ta duy nhất,
    Trên các nghiệp riêng, ta luôn vững chắc.
  2. Ta sẽ đi làm thiện nghiệp cho người,
    Bố thí cúng dường ở khắp mọi nơi,
    Ta sẽ bước theo con đường giới đức,
    Tập phòng hộ và tự thân điều phục,
    Người thực hành như vậy sẽ hân hoan,
    Không còn lo phải gặp lúc ăn năn.

Như vậy bậc Đại sĩ thuyết Pháp cho chư Thiên với âm thanh ngọt như mật. Ngài ở lại đó bảy ngày theo ước tính của loài người, đem đến niềm hân hoan cho Thiên chúng. Rồi đứng giữa các vị Thiên thần, ngài nêu rõ công đức của Màtali:

  1. Mà-ta-li, thần quản xa thiên giới,
    Là vị thần đặc biệt đã ban ân,
    Vị ấy chỉ cho ta thấy rõ ràng
    Nơi kẻ dữ, người lành đang cư trú.

Rồi vua từ giã Thiên chủ Sakka, nói rằng ngài muốn trở về hạ giới. Sau đó Thiên chủ bảo:

– Này hiền hữu Màtali, hãy rước Đại vương Nimi về thành Mithilà ngay lập tức.

Xa giá đã sẵn sàng và vua đáp lại những lời chúc tụng thân hữu của chư Thiên rồi tạ từ lên xe. Màtali lái xe về hướng đông, đến thành Mithilà. Dân chúng thấy thiên xa, hoan hỷ biết vua đã trở về. Một đám người vây quanh vua và hỏi ngài cảnh Thiên giới. Ngài tả cho họ nghe cảnh an lạc của chư Thiên và Thiên chủ Sakka, rồi khuyến dụ họ làm lành, bố thí để được tái sinh lên cõi trời.

Sau đó khi người thợ hớt tóc thấy sợi tóc bạc đầu tiên và bảo cho ngài hay, ngài liền bảo gã cất sợi tóc bạc ấy, rồi ban cho gã một ngôi làng. Ngài muốn rời thế tục nên phong vương cho con ngài. Khi được hỏi tại sao ngài muốn xuất thế, ngài đọc câu kệ:

Kìa tóc bạc trên đầu hiện ra …

Và cũng như các vua trước, ngài xuất gia, vào sống trong vườn xoài, tu tập Tứ Vô lượng tâm, rồi được sinh lên cõi Phạm thiên .

Việc xuất gia của ngài được các bậc Đạo Sư tả trong vần kệ cuối cùng:

  1. Ni-mi, Chúa tể Mi-thi-là,
    Khi đã làm Đạo Sự xuất gia,
    Ngài bước vào con đường Thánh hạnh.
    Bản thân chế ngự với Thiền na.

Và con ngài, vua Kalàra-Janaka, cũng xuất gia, chấm dứt cả triều đại của ngài.

*

Khi bậc Đạo Sư thuyết giảng xong, Ngài nói:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên Như Lai xuất thế, mà Như Lai đã xuất thế trong đời trước.

Rồi ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ Sakka là Anuruddha (A-na-luật-đà), Màtali là Ànanda (A-nan), tám mươi bốn vị vua là đệ tử đức Phật và vua Nimi chính là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN TẾ SƯ KHANDAHÀLA (Tiền thân Khandahàla)

Ngày xưa có một vị hôn quân…,

Trong lúc trú tại núi Gijjhakùta (Linh Thứu), bậc Đạo Sư đã kể câu chuyện này liên quan đến Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) .

Nội dung câu chuyện của Ngài nói đến tội phá hòa hợp Tăng (gây chia rẽ trong Giáo hội) đã được Tăng chúng biết rõ qua việc nghiên cứu tư cách đạo đức của Như Lai từ khi Ngài xuất gia tu hành cho đến việc mưu sát vua Bimbisàra. Ngay sau khi ông đã lập mưu sát hại vua này, ông liền đi tìm vua Ajàtasattu (A-xà-thế) và nói:

– Tâu Đại vương, ý nguyện của ngài đã thành, nhưng ý nguyện của ta chưa thành.

Vua trả lời:

– Ngài muốn gì?

– Ta muốn cho người giết đấng Thập Lực và ta làm đức Phật.

– Vậy thì ta phải làm sao đây?

– Ta phải tập họp một số thiện xạ tại đây.

Vua chấp thuận, truyền triệu tập năm trăm thiện xạ có thể bắn cung nhanh như chớp, trong số đó chỉ lựa ra ba mươi mốt người, đưa họ đến hầu cận Đề-bà-đạt-đa và bảo họ phải tuân lệnh ông.

Ông gọi người trưởng đoàn ra dặn:

– Này Hiền hữu, Sa-môn Gotama đang sống trên núi Linh Thứu, hằng ngày Ngài thường kinh hành trong tịnh thất của Ngài vào một thời điểm nào đó; vậy bạn hãy đến đó bắn Ngài với tên tẩm thuốc độc, khi đã giết hại Ngài xong, hãy trở về đường này.

Rồi ông lại cho hai người thiện xạ đi theo con đường kia, bảo họ:

– Các vị sẽ gặp một người trên đường đi, vậy hãy giết nó và hãy trở về bằng đường này.

Ông lại cho bốn người thiện xạ đi đường kia với lời dặn dò như vậy. Sau đó ông lại dặn thêm tám người, rồi mười sáu người thiện xạ như trên. Tại sao ông làm như vậy? Chính là để che giấu lòng thâm độc của mình.

Thế rồi người trưởng đoàn thiện xạ buộc kiếm bên sườn trái, bao đựng tên bên lưng, cầm lấy chiếc cung làm bằng sừng dê và đi đến chỗ đức Như Lai trú ngụ; nhưng sau khi gã giương cung lên và nhắm mũi tên để bắn Ngài, gã lại không thể thả dây cung được. Toàn thân gã cứng đờ, như thể bị đè bẹp. Gã cứ đứng đó kinh hoàng với nỗi sợ chết.

Khi bậc Đạo Sư thấy gã, Ngài liền nói với giọng dịu dàng:

– Đừng sợ, hãy đến đây.

Gã lập tức ném vũ khí và vừa nói vừa sụp người xuống đảnh lễ chân Thế Tôn:

– Bạch đức Thế Tôn, tội lỗi đã trấn áp con như một đứa trẻ, một tên khùng hoặc một tên tội nhân. Trước đây con không biết công hạnh của Ngài, con đã đến theo lệnh của lão già điên rồ mù quáng Đề-bà-đạt-đa để lấy mạng của Ngài, con xin Ngài tha mạng cho.

Gã lại cầu xin tha tội và ngồi qua một bên. Lúc ấy bậc Đạo Sư tuyên thuyết Các Sự thật cho gã nghe khiến gã chứng quả Dự Lưu. Ngài bảo gã trở về bằng con đường khác với con đường màĐề-bà-đạt-đa đã dặn gã. Còn chính Ngài bước ra khỏi lối đi có mái che của Ngài và ngồi xuống một gốc cây.

Trong khi người bắn cung thứ nhất chưa trở về, hai người kia đi trên con đường dự đinh gặp gã kia và băn khoăn không hiểu sao gã lại chậm trễ như vậy, cuối cùng họ thấy đức Phật. Khi đến đảnh lễ đức Phật xong, họ ngồi xuống bên Ngài. Ngài lại tuyên thuyết Các Sự thật cho họ nghe khiến cả hai gã cùng chứng quả Dự Lưu. Rồi Ngài bảo họ trở về bằng con đường khác với con đường mà Đề-bà-đạt-đa đã ra lệnh. Cứ như thế những tay thiện xạ kia lần lượt đi đến, ngồi xuống nghe Ngài thuyết Pháp, được an trú vào quả Dự Lưu và được Ngài bảo đi về bằng một con đường khác.

Rồi khi người thiện xạ đầu tiên trở về gặp Đề-bà-đạt-đa, gã nói:

– Bạch Sư trưởng, tôi không thể nào giết bậc Toàn Giác được, Ngài là đấng Toàn Năng, đức Thế Tôn đầy đủ mọi uy lực siêu phàm.

Như vậy cả đám thiện xạ nhận ra là họ đã thoát chết nhờ bậc Toàn Giác nên họ xuất gia sống đời tu hành theo Ngài và trở thành các bậc A-la-hán. Sự kiện này được cả hội chúng Tỷ -kheo biết và một ngày kia họ bắt đầu nói đến chuyện này trong Chánh pháp đường:

– Này các Tỷ-kheo, các vị có nghe chuyện Đề-bà-đạt-đa, vì thù ghét một người là đức Thế Tôn, mà đã quyết tâm làm thiệt mạng nhiều người và rồi các người này lại được chính đức Thế Tôn cứu mạng như thế nào không?

Lúc ấy bậc Đạo Sư bước vào hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang ngồi nói chuyện gì đấy?

Khi chúng Tỷ-kheo đáp lại, Ngài bảo:

– Đây không phải là lần đầu tiên, mà trước đây kẻ ấy cũng đã quyết hại nhiều mạng người chỉ vì thù ghét Ta.

Rồi Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa thành Bà-la-nại có tên là Pupphavati. Thái tử của vua Vasavatti lên ngôi trị vì tại đó tên là Ekaràja và con của vua là Candakumàra làm phó vương. Một Bà-la-môn tên gọi Khandahàla là vị tế sư của vương tộc. Ông làm cố vấn cho vua trong mọi vấn đề thế sự cũng như thánh sự và vua rất tôn trọng tài trí của ông nên để ông làm phán quan. Nhưng ông lại thích hối lộ, thường nhận của đút lót và tước đoạt tài sản của nhiều người trao cho người khác làm chủ.

Một ngày kia có người thua kiện, bước ra khỏi tòa án lớn tiếng than phiền, khi thấy Candakumarà đi ngang qua để bái yết vua cha, gã liền quỳ xuống. Vương tử hỏi sự tình, gãđáp :

– Tâu Chúa công, Khandahàla bóc lột các kẻ thưa kiện khi ông ta xử án, thần đã thua kiện mặc dù thần đã hối lộ ông ta rồi.

Vương tử bảo gã đừng sợ, rồi khi dẫn gã đến tòa án, chàng trả lại quyền sở hữu về các tài sản bị tranh tụng cho gã. Dân chúng reo hò hoan nghênh vang dội. Khi vua nghe được, hỏi lý do, họ đáp:

– Vương tử đã xử án phân minh một vụ kiện mà ông Khandahàla đã xử sai, vì thế có tiếng reo hò như vậy.

Khi vương tử đến chúc tụng, vua bảo:

– Này vương nhi, dân chúng bảo con vừa xử án phân minh?

– Tâu phụ vương, chính phải .

Vua liền trao tòa án cho vương tử và dặn vương tử từ nay được quyền xử án. Lợi lộc của Khadahàla giảm sút dần, từ đó ông sinh lòng thù ghét vương tử và rình rập cố tìm lỗi lầm của chàng.

Lúc bấy giờ vua rất ít tu tập nội tâm. Một buổi sáng kia, khi gần thức dậy, vua mơ thấy cõi trời Ba mươi ba với mái đình trang hoàng lộng lẫy, đường xá lót vàng cao cả ngàn dặm, được điểm tô bằng cung Vejayanta và nhiều cung khác cùng với tất cả vẻ huy hoàng của Lạc Viên Nandana và nhiều cánh rừng khác, với hồ Nanda và nhiều hồ khác nữa, khắp nơi đông đảo chư Thiên. Vua muốn lên cõi trời và nghĩ thầm: “Khi Sư trưởng Khandahàla đến, ta sẽ hỏi ngài conđường lên thiên giới, và sẽ lên đó nhờ con đường ngài chỉ dẫn”.

Sáng sớm hôm ấy Khandahàla vào cung và vấn an vua xem ngài có được hưởng một đêm đầy mộng đẹp chăng? Vua liền truyền đem cẩm đôn cho ông ngồi, rồi hỏi ngay ông vấn đề ấy.

*

Bậc Đạo Sư kể lại như sau:

  1. Ngày xưa có một vị hôn quân,
    Ở xứ Pup-pha, gặp lúc cần,
    Liền hỏi tế sư hèn hạ ấy,
    Nghiệp tà, danh chánh Bà-la-môn:

2.- Ngài là bậc trí, mọi người đồn,
Thánh điển am tường đủ mọi môn,
Hãy nói công năng gì dẫn lối,
Đưa đường hành giả đến thiên cung?

Đây là câu hỏi mà trừ đức Phật Đại Giác hoặc các đệ tử của Ngài ra, ta phải hỏi một vị Bồ-tát, nhưng ở đây, vua đã đem ra hỏi Khandahàla, chẳng khác nào một người lạc đường bảy ngày lại đi hỏi đường một kẻ đi lạc đã nửa tháng. Thế là ông tự nhủ: “Đã đến lúc ta trừ khử được kẻ thù của ta rồi, ta sẽ giết Candakumàra, thế là toại nguyện”.

Ông liền nói với vua:

  1. Hãy dâng nhiều lễ vật đầy tràn,
    Giết những ai không đáng chết oan,
    Nhờ vậy đạt công đức vĩ đại,
    Người ta sẽ hưởng lạc thiên đàng.

Vua lại hỏi:

  1. Những gì là lễ vật đầy tràn,
    Những kẻ nào không đáng chết oan?
    Ta sẽ giết người, dâng tế lễ,
    Nếu ngài nói ý nghĩa cho tường.

Sau đó ông giải thích ý nghĩa này:

  1. Đem vợ con làm vật tế thần,
    Phú thương quý tộc cũng tiêu vong.
    Ngựa trâu tuyệt hảo, nòi cao quí,
    Bốn loại tội đồ phải cúng dâng.

Như vậy khi vua hỏi đường lên Thiên giới, ông lại chỉ đường xuống địa ngục. Ông tự nhủ: “Nếu ta chỉ chọn một mình Candakumàra, mọi người sẽ nghĩ rằng ta làm thế vì thù ghét nó”. Cho nên ông đặt chàng vào chung với một số người khác. Khi vấn đề này được đem ra bàn tán, các vương phi nghe tin lòng đầy kinh hãi, đồng cất tiếng khóc than.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích việc này như sau:

  1. Cung phi mỹ nữ biết tin này:
    “Vương tử, vương phi phải đọa đày”,
    Khóc thét bỗng nhiên vì sợ hãi,
    Vang rền mọi phía tận trời mây.

Cả vương cung náo loạn như thể rừng cây Sàla bị gió bão rung chuyển vào giờ tận thế, khiến lão Bà-la môn phải hỏi vua xem ngài có thể thực hiện được việc tế lễ ấy không.

– Sao ngài lại hỏi thế này Sư trưởng? Nếu ta dâng tế lễ, ta sẽ được lên thiên đàng mà.

– Tâu đại vương, những kẻ nào yếu hèn, không quyết chí thì không thể nào tế lễ kiểu này được. Xin Đại vương triệu chúng về đây cả rồi bần đạo sẽ dâng lễ vật ở huyệt tế thần.

Thế rồi ông đem đủ lực lượng cần thiết ra khỏi thành, bảo họ đào huyệt tế lễ với đáy bằng, có hàng rào bao quanh, vì các Bà-la-môn từ thời xưa đã ra lệnh phải làm hàng rào quanh đàn tế kẻo sợ các vị chân tu có thể đến ngăn cản buổi lễ. Vua cũng ban lệnh cho quân thần:

– Ta sẽ được lên thiên giới bằng cách đem hết vợ con ra cúng tế, vậy các khanh hãy đi báo tin cho chúng rõ rồi mang chúng về đây.

Lập tức vua ra lệnh đem các vương tử đến:

  1. Báo Can-da, kế Su-ri-ya,
    Lần lượt Bhad-da, biết ý ta,
    Rồi đến Sù-ra, Và-ma nữa,
    Chúng đều phải chết: ý vua cha.

Trước hết bọn họ đi tìm Candakumàra và nói:

– Tâu điện hạ, phụ vương muốn đem tế ngài để được lên thiên giới, nên ra lệnh cho chúng thần đi triệu ngài về.

– Phụ vương ra lệnh bắt ta theo lời khuyến dụ của ai thế?

– Tâu điện hạ, theo lệnh của Khandahàla.

– Ngài muốn bắt một mình ta hay còn ai khác nữa?

– Tâu điện hạ, còn nhiều người khác vì ngài muốn dâng lễ tế đủ bốn loại lễ vật.

Vương tử nghĩ thầm: “Lão ấy không thù oán với những người kia, nhưng lão định cho họ chết chỉ vì thù oán ta đã ngăn chặn lão phạm tội ăn hối lộ qua việc xử án bất công của lão, vậy ta có phận sự phải đi yết kiến vua cha xin ngài thả các người kia ra mới được”. Rồi chàng bảo họ:

– Các ngươi cứ thi hành lệnh phụ vương.

Họ liền đem chàng đến sân chầu ngồi một mình tại đó, xong lại đem các người kia đến để gần chàng rồi tâu với vua. Sau đó vua ra lệnh đem các công chúa đặt bên các người kia:

  1. Up-pa-se-ni, Ko-li-ta,
    Lần lượt Mu-di-ta, Nan-da,
    Bảo các công nương đều phải chết,
    Thật là kiên định, ý vua cha!

Vì thế họ liền đi đem các công chúa đang kêu gào đến đặt cạnh các vương tử. Rồi vua lại ngâm kệ ra lệnh bắt các vương phi:

  1. Trước tiên vương hậu Vi-ja- yà,
    Kế tiếp Ke-si-ni, Nan-dà,
    Với mọi sắc hương đầy diễm lệ,
    Chúng đều phải chết: ý nguyện ta.

Họ liền đem các vương phi đang gào khóc đến đặt cạnh các vương tử. Rồi vua lại ngâm kệ ra lệnh bắt bốn phú thương của hoàng gia:

  1. Pun-na-muk-kha, Bhad-di-ya,
    Lần lượt Sin-ga-la, Vad-dha,
    Bảo các phú thương nghe thượng lệnh:
    Chúng đều phải chết: ý nguyện ta!

Đám thị vệ tuân lệnh ra đi. Khi các vương tử và vương phi bị bắt, dân chúng không nói gì, nhưng các phú thương có rất đông đảo quyến thuộc, nên cả kinh thành náo động khi họ bị bắt và dân chúng la ó phản kháng việc đem họ ra tế lễ, nên họ cùng quyến thuộc kéo đến yết kiến vua . Lúc ấy các phú thương được đám quyến thuộc vây quanh xin nhà vua tha mạng.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Các phú thương kêu khóc não nùng,
    Được vây quanh bởi các thân nhân :
    Đầu này xin cạo làm nô lệ,
    Nhưng hãy tha cho mạng chúng thần!

*

Nhưng dù họ van xin đến mức nào đi nữa, họ cũng không được vua thương xót. Các thị vệ của vua cuối cùng bắt đám quyến thuộc lui ra để kéo các phú thương đến cạnh các vương tử. Sau đó vua ra lệnh đem voi ngựa và trâu dê đến:

  1. Đem cả đàn vương tượng đến đây,
    Sức voi vô địch, quý cao thay,
    Ngựa, lừa chọn giống nòi ưu thắng,
    Tất cả cùng dâng tế lễ này.
  2. Hãy chọn ngưu vương loại đứng đầu,
    Chúng là tặng vật quý dường bao,
    Các thầy tế tự sắp hành lễ,
    Sẽ có vật dâng cúng tối cao.
  3. Hãy chuẩn bị cho tế lễ này,
    Sẵn sàng ngay trước lễ ngày mai;
    Bảo vương nhi đãi đằng như ý,
    Thọ hưởng cuộc đời buổi tối nay.

Lúc bấy giờ thái thượng hoàng và hoàng thái hậu vẫn còn sống, nên dân chúng kéo đến tâu cho hai vị biết việc tế lễ dự định của vua. Hai vị xiết bao kinh hoàng vội đến khóc lóc với vua:

– Vương nhi hỡi, có thật con định làm một cuộc tế lễ như vậy chăng?

*

Bậc Đạo Sư giải thích như sau:

  1. Mẫu hậu vội rời khỏi nội cung:
    Việc kỳ quái vậy nghĩa gì chăng?
    Bốn vương tôn thảy đều đem giết,
    Cho đủ lễ dâng hiến bạo tàn?

Vua đáp lại:.

  1. Khi mất Can-da, mất hết rồi,
    Nhưng con chịu mất chúng mà thôi,

    Vì nhờ tế lễ này cao trọng,
    Con sẽ được an trú cõi trời.

Mẫu hậu bảo:

  1. Đem cúng tế vương tử, hỡi con,
    Chẳng bao giờ hưởng lạc thiên đường,
    Đừng nghe lời dối dang như vậy,
    Đây chính đường vào địa ngục môn.
  2. Con nên chọn đúng đạo minh quân,
    Đem bố thí tất cả bạc vàng,
    Đừng giết chúng sinh trên hạ giới,
    Đây đường chắc chắn đến thiên đàng.

Vua đáp lại:

  1. Con phải vâng lời vị tế sư,
    Than ôi, đành phải giết con thơ,
    Chia lìa chúng thật đầy đau đớn,
    Song được cõi trời lợi lạc to!

Thế là hoàng thái hậu đành bỏ đi về, không thuyết phục được vua. Lúc ấy thái thượng hoàng hay tin vội đến phản đối vua.

*

Bậc Đạo Sư tả rõ mọi việc xảy ra như sau:

  1. Đến lượt Va-sa-va phụ vương:
    – Hung tin làm hoảng hốt tâm can!
    Bốn vương tôn thảy đều đem giết,
    Cho đủ lễ dâng hiến bạo tàn?

Cuộc đối thoại lại diễn ra như trên và cuối cùng vua cha già không lay chuyển nổi con, đành bỏ đi với lời từ biệt:

  1. Nên đem cho hết khả năng mình,
    Đừng cố ý tàn hại hữu tình,
    Để các vương tôn làm bảo vệ,
    Hộ phòng đất nước khỏi điêu linh.

*

Lúc ấy Candakumàra nghĩ thầm: “Thảm họa xảy đến cho nhiều người cũng chỉ vì ta, vậy ta hãy van xin phụ vương cho họ khỏi tội chết mới được”. Vì thế chàng tâu với vua cha:

  1. Xin làm nô lệ của Khan-da,
    Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,
    Con sẽ canh bầy voi, lũ ngựa,
    Mang xiềng làm việc, thỏa lòng sư.
  2. Xin làm nô lệ của Khan-da,
    Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,
    Con sẽ quét sân, chuồng của lão,
    Mang xiềng làm việc thỏa lòng sư.
  3. Hoặc bắt làm nô lệ tặng ai,
    Chúng con tùy thánh ý an bài,
    Hoặc đày tất cả ra ngoài nước,
    Cầu thực tha phương ở xứ người.

Vua nghe chàng than khóc lòng đau đớn vô cùng, nước mắt chứa chan, nên vua ra lệnh tha hết vợ con. Vua bảo:

– Không ai giết được các con ta, ta không cần thiên giới nữa.

  1. Những lời này tội nghiệp xin tha,
    Làm trái tim ta tan nát ra,
    Thả các vương nhi, cho chúng thoát,
    Thôi đừng tế lễ nữa vì ta!

Khi nghe vua nói vậy, đám thị vệ liền thả hết tội nhân ra, khởi đầu là các vương tử và sau cùng là bầy chim chóc. Lão Khandahàla đang bận rộn chuẩn bị việc đào huyệt tế lễ, có người đến mách lão:

– Này lão Khandàhàla hung dữ kia, đức vua đã thả hết tất cả các vương tử rồi, vậy lão hãy đi giết hết lũ con lão mà lấy máu đem ra tế thần.

– Sao nhà vua làm gì vậy kìa?

Lão kêu lên và vội chạy đến tâu vua:

  1. Ta đã bảo ngài tế lễ này,
    Thật là vất vả khó khăn thay,
    Sao ngài can thiệp đòi đình chỉ,
    Khi khởi đầu đang tốt đẹp vầy?
  2. Những kẻ nào dâng lễ sát sinh,
    Đi đường chắc chắn đến thiên đình,
    Hoặc người ủng hộ đầy nồng nhiệt,
    Khi thấy việc kia được thực hành.

Vua mù quáng, nghe lời của lão bà-la-môn đầy sân hận kia và tâm trí vua đã bị ám ảnh bởi vấn đề đạo giáo liền ra lệnh bắt vợ con lại. Lúc ấy Candakumàra đem hết lẽ phải trái tâu với vua cha:

  1. Sao lúc sinh ra lũ chúng con,
    Hão huyền chúc tụng Bà-la-môn,
    Khi phần con trẻ là đành chết,
    Vô tội nạn nhân của oán hờn?
  2. Sao cha tha mạng thuở thơ ngây,
    Nhỏ dại biết đâu bất hạnh này?
    Con trẻ hôm nay đành phải chết,
    Giờ đang vui hưởng tuổi xuân đầy?
  3. Nghĩ lúc chúng con mặc giáp bào,
    Trên voi ngựa, chiến trận xông vào,
    Nay làm lễ vật dâng đàn tế,
    Chẳng lẽ việc này hợp lý sao?
  4. Ở trong chiến địa hoặc rừng hoang,
    Chống lại loạn thần, lũ chúng con,
    Phục vụ thường xuyên, nay bảo giết,
    Mà không lý lẽ hoặc nguyên nhân.
  5. Nhìn chim xây tổ ấm trên cây,
    Ca hót líu lo suốt cả ngày,
    Yêu dấu chim non chăm sóc kỹ,
    Còn cha đem giết lũ con vầy?

33.Cha đừng tưởng lão Bà-la-môn,
Phản bạn tha cha lúc vắng con,
Đến lượt cha theo con kế tiếp,
Chúng con không chỉ chết cô đơn!

  1. Vua thường ban đạo sĩ thôn làng,
    Thành thị tối ưu chính đặc ân,
    Trên mọi gia đình đều hưởng lợi,
    Tạo nên tài sản thật cao sang.
  2. Chính bọn này đây, tâu phụ thân,
    Sẵn sàng phản bội các ân nhân,
    Bà-la-môn tộc, cha nên nhớ,
    Là giống bất trung, lũ bội ân.

Vua nghe lời con oán trách, liền kêu to:

  1. Những lời này tội nghiệp xin tha,
    Làm trái tim ta tan nát ra,
    Thả các vương nhi, cho chúng thoát,
    Thôi đừng tế lễ nữa vì ta!

Khandahàla liền vội chạy đến và cũng phản đối vua như trước, khiến vương tử lại phải lý luận với vua cha lần nữa:

  1. Nếu kẻ đem con trẻ tế đàn,
    Đến khi chết, thảy được vinh quang,
    Bà-la-môn hãy dâng con trước,
    Vua chúa noi gương kẻ dẫn đường.
  2. Nếu kẻ đem con trẻ tế thần,
    Thẳng lên thiên giới lúc lìa trần,
    Tế sư sao chẳng hy sinh trước,
    Và cả toàn gia tộc lão luôn?
  3. Đúng hơn, kẻ cúng tế như vầy,
    Sẽ thẳng đường vào địa ngục ngay,
    Những kẻ dám đồng tình ủng hộ,
    Hành vi ấy, cũng đọa sau này.

Vương tử nói xong, thấy rằng không thể thuyết phục nổi cha, liền quay qua đám dân chúng đang vây quanh vua và bảo họ:

  1. Làm sao các bậc mẹ cha này,
    Đứng lặng yên nhìn, chẳng có ai,
    Dù quý yêu con mình đến thế,
    Cả ngăn vua giết các con ngài.
  2. Ta ao ước vương phụ vạn an,
    Ta mong tâm các bạn hân hoan,
    Nhưng không tìm được người nào để
    Phản đối nên lời trước phụ vương?

Nhưng vẫn không ai thốt một lời nào. Vương tử liền bảo các vương phi đến van xin vua tỏ lòng thương xót con :

  1. Này các vương phi hãy nguyện cầu,
    Van xin Sư trưởng, phụ vương mau,
    Để tha vương tử này vô tội,
    Khéo trổ tài chinh chiến biết bao.
  2. Hãy xin sư trưởng với Minh quân,
    Tha mạng vương nhi chẳng lỗi lầm,
    Danh tánh đã vang lừng thế giới,
    Là niềm vinh dự của non sông.

Bọn họ liền đến van xin vua tỏ lòng thương xót con nhưng vua chẳng chút quan tâm, lúc ấy vương tử quá tuyệt vọng nên bắt đầu than khóc:

  1. Nếu không sinh trưởng chốn triều đường,
    Ở dưới mái tranh kẻ khốn cùng,
    Hoặc thợ giầy hay người quét rác,
    Thì ta sẽ sống thật an toàn,
    Đến tròn tuổi thọ, không vong mạng,
    Làm nạn nhân vua chúa bất thường!

Rồi chàng nói to:

  1. Đi mau tất cả các vương phi,
    Đến trước Khan-da, hãy lạy quỳ,
    Bảo các nàng không làm hại lão,
    Các nàng chẳng có tội tình gì!

*

Và đây là lời của bậc Đạo Sư:

  1. Se-la khóc, thấy các anh nàng,
    Bị kết tội oan bởi phụ vương:
    – Người bảo đây là đàn tế lễ,
    Vì cha ta muốn đến thiên đường.

Nhưng vua cũng không quan tâm đến nàng. Đến lượt Vàsula, con của vương tử, thấy cha quá sầu thảm liền nói :

– Con sẽ cầu xin thái thượng hoàng tha mạng cho cha.

Cậu bé quỳ xuống chân vua than khóc:

*

Bậc Đạo Sư tả sự việc như sau :

  1. Chập chững Va-su-la bước chân,
    Trên đường đi đến chiếc ngai vàng,
    Xin tha mạng của cha con trẻ,
    Đừng để chúng con mất phụ thân.

Vua nghe cậu bé than khóc, lòng đau như cắt, liền ôm cháu vào lòng, ràn rụa nước mắt và bảo:

– Vương tôn hãy an tâm, ta sẽ trả phụ thân lại cho cháu đó.

Rồi vua ra lệnh:

  1. Này cha con đó, Và-su-la,
    Lời của trẻ thơ cảm hóa ta,
    Tha các vương nhi, cho chúng thoát,
    Thôi đừng tế lễ nữa vì cha!

Một lần nữa lão Khandahàla vội đến phản đối vua và vị vua mù quáng lại nhượng bộ lão, ra lệnh bắt các vương tử như cũ.

Lúc ấy Khandahàla tự nhủ: “Nhà vua này lòng quá mềm yếu, khi thì đòi bắt các con, khi thì lại thả ra hết, bây giờ lại nghe theo lời con trẻ đòi thả chúng ra, thôi ta phải dẫn vua đến huyệt tế thần mới được”.

Lão liền ngâm kệ thúc giục vua:

  1. Đàn tế lễ nay đã sẵn sàng,
    Kho tàng lễ vật tuyệt cao sang,
    Đại vương, mau hãy đi dâng lễ,
    Rồi hưởng thiên cung cực lạc tràn.

Khi họ đem Bồ Tát đi đến huyệt tế thần, các cung phi theo sau thành một đoàn dài.

*

Bậc Đạo Sư tả cảnh ấy như sau:

  1. Bảy trăm cung nữ của Can-da,
    Rực rỡ yêu kiều giữa tuổi hoa,
    Tóc xõa tơi bời, mắt đẫm lệ,
    Theo anh hùng tận số đi xa.
  2. Nhiều phu nhân nhập bọn tùy tùng
    Trông dáng như tiên nữ giáng trần,
    Với tóc tơi bời, mắt đẫm lệ,
    Đi theo nối gót vị anh hùng.

Thế rồi bọn họ đồng cất tiếng khóc than:

  1. Lô hội, hoa tai với giáng hương,
    Lụa Kà-si khoác tuyệt cao sang,
    Nhìn Can-da với S u-ri ấy,
    Làm nạn nhân đưa đến tế đàn.
  2. Lòng mẹ dường như bị cắt dao,
    Lòng dân tràn ngập nỗi u sầu,
    Nhìn Can-da với Su-ri ấy,
    Làm nạn nhân đày đọa khổ đau.
  3. Được tẩm đầy huơng các loại hoa,
    Lụa Kà-si khoác trắng như ngà,
    Nhìn Can-da với Su-ri ấy,
    Làm nạn nhân theo lệnh của cha.
  4. Xưa ngự trên mình các thớt voi,
    Oai phong lẫm liệt trước muôn người,
    Nhìn Can-da-với Su-ri ấy,
    Đang bước lê chân cõi chết rồi.
  5. Xưa ngự xe vua, cởi ngựa, la,
    Điểm trang vàng ngọc, với cài hoa,
    Nhìn Can-da-với Su-ri ấy,
    Lê chân chờ chết buổi chiều tà.

*

Trong lúc các vương phi đang khóc như vậy thì đám thị vệ đem Bồ-tát ra khỏi kinh thành. Dân chúng cả kinh thành đều đi theo ngài trong cảnh đại hỗn loạn. Nhưng vì đám người quá đông đảo, cổng thành không đủ rộng cho họ đi ra, nên lão Bà-la-môn sợ chuyện bất trắc có thể xảy ra, liền ra lệnh đóng cửa thành lại. Vì thế đám đông không thể đi ra được, nhưng có một khu vuờn hoa gần cổng phía nội thành, họ tụ tập tại đó lớn tiếng khóc than số phận thảm thương của vương tử, khiến một bầy chim nghe tiếng liền bay đến tụ tập trên trời rất đông. Dân chúng cùng cất tiếng kêu gào với đàn chim:

  1. Chim hỡi, chim ăn thịt sống chăng?
    Hãy bay đi đến phía đông môn,
    Hôn quân đang lập đàn dâng lễ,
    Cả bốn vương nhi bởi hận sân.
  2. Chim hỡi, chim ăn thịt sống chăng?
    Hãy bay đi đến phía đông môn,
    Hôn quân đang lập đàn dâng lễ,
    Cả bốn công nương bởi hận sân.

Cứ thế đám dân chúng than khóc mãi trong hoa viên. Rồi họ đi đến cung của Bồ-tát, vừa trang nghiêm đi diễu quanh nhiều vòng vừa cất tiếng khóc than trong khi họ ngắm các hậu cung của các vương phi, các đỉnh tháp và hoa viên, các khóm cây và hồ nước cùng chuồng coi ngựa:

  1. Làng xóm từ nay chẳng bóng người,
    Trở thành rừng vắng vẻ xa xôi,
    Kinh thành ta sẽ nằm hoang lạnh,
    Khi các vương nhi đổ máu rồi!

Vì không có cách nào ra khỏi thành được, họ đành lang thang quanh quẩn trong thành khóc lóc tỉ tê.

Trong lúc ấy Bồ-tát được đưa đến đàn tế. Mẹ ngài, hoàng hậu Gotami, quỳ dưới chân vua, khóc lóc van xin vua tha mạng cho con:

  1. Thiếp sẽ khổ đau hóa dại khờ,
    Đầy mình phủ bụi lấm bơ phờ,
    Nếu Can-da bị dâng thần chết,
    Thiếp thở nghẹn ngào khóc trẻ thơ.

Khi thấy vua không trả lời, bà ôm lấy bốn vương phi của vương tử và bảo họ:

– Vương nhi phải đau đớn chia lìa các nàng. Sao các nàng không năn nỉ vương nhi ở lại?

  1. Sao chẳng nói năng hỡi các nàng,
    Đứng đây, bày tỏ mến yêu chàng,
    Quanh chàng, ca múa đầy vui thú,
    Vừa nắm tay nhau vỗ nhịp nhàng.
  2. Cho đến khi chàng hết muộn phiền,
    An vui theo lệnh các nàng tiên,
    Vì ai có đủ tài ca múa,
    Như vậy dù tìm khắp mọi miền?

Rồi thấy rằng không làm gì hơn được nữa, bà ngừng than khóc với các vương phi và bắt đầu nguyền rủa lão Khandahàla:

  1. Ta mong mẹ ác tế sư này,
    Phải chịu bao đau khổ đắng cay,
    Đang xé tim ta khi thấy cảnh,
    Can-da yêu quí chết hôm nay.
  2. Ta mong vợ ác tế sư này,
    Phải chịu bao đau khổ đắng cay,
    Đang xé hồn ta khi thấy cảnh,
    Can-da yêu quý chết hôm nay.
  3. Ta mong nó thấy cả chồng con,
    Bị giết, vì nguơi, ác đạo nhân,
    Muốn giết người vô can dũng cảm,
    Là niềm vinh dự của phàm trần.

Sau đó Bồ tát van xin vua cha trong đàn tế:

  1. Một số nữ nhân vẫn ước mong,
    Cầu xin để có thật nhiều con,
    Họ thường phát nguyện và dâng lễ,
    Trời đất, mong con cháu nội đông,
    Nhưng không được một con nào cả,
    Để cả nhà vui sướng thỏa lòng.
  2. Đừng giết chúng con quá bạo tàn,
    Dầu con cầu tự được trời ban,
    Đừng đem bầy trẻ dâng đàn tế,
    Bất kể công lao của mẫu thân.

Khi chàng không thấy vua trả lời, chàng liền quỳ xuống than khóc dưới chân mẹ:

  1. Số phận mẹ nay quá hẩm hiu,
    Nuôi con, cho bú mớm nâng niu,
    Con quỳ xuống dưới chân thiêng mẹ,
    Mong ước cha ân phước thật nhiều.
  2. Cho con ôm mẹ để hôn chân,
    Lần nữa ôm con thật thiết thân,
    Trước lúc phân ly, giờ tử biệt,
    Mẹ đau thống thiết cả tâm hồn.

Rồi mẫu hậu ngâm kệ khóc than:

  1. Quý tử trên đầu hãy buộc lên,
    Vòng vương miện kết lá hoa sen,
    Và hoa cam-pak này tương xứng,
    Vẻ đẹp oai hùng tuổi tráng niên.
  2. Lần cuối cùng con hãy tẩm hương,
    Loại dầu thơm ngát thật cao sang,
    Ngày xưa những lúc chầu vương phụ,
    Yến tiệc cung đình con điểm trang.
  3. Lần cuồi cùng con khoác cẩm bào,
    Lụa Kà-si rực rỡ dường nào,
    Hãy mang vàng ngọc và trân bảo,
    Con vẫn mang ngày lễ hội sao.

Đến lượt chánh phi của chàng tên là Candà, quỳ xuống chân chàng than khóc thảm thiết:

  1. Đại vương, chúa tể của giang sơn,
    Ý của ngài ban khắp nước non,
    Ngài chẳng còn tình yêu phụ tử,
    Với người duy nhất kế ngai vàng.

Vua nghe vậy liền đáp:

  1. Ta thương mến tất cả ông hoàng,
    Ta cũng quý yêu chính bản thân,
    Vương hậu các nàng thân thiết cả,
    Ta đem con tế lễ đăng đàn,
    Bởi vì ta muốn lên thiên giới,
    Chẳng muốn đi vào địa ngục môn!

Nàng Candà kêu to:

  1. Chúa thượng giết con trước, đoái thương,
    Kẻo niềm thống khổ xé tâm can,
    Vương nhi được kết vòng hoa ấy,
    Mọi vẻ chàng nay thật vẹn toàn.
  2. Giết chúng con trong hố tế đàn,
    Nơi Can-da đến, thiếp theo chàng,
    Đại vương sẽ được công vô lượng,
    Hồn trẻ lên thiên giới trú an.

Vua đáp lời:

  1. Nàng chớ ước mong chết trước thời,
    Các vương đệ dũng cảm bao người,
    Sẽ an ủi đấy, hồng nhan hỡi,
    Khi mất chồng yêu quý ấy rồi!

Nàng nghe vậy đấm ngực than khóc, hăm dọa sẽ uống độc dược tự vẫn, và cuối cùng nàng lại kêu gào thảm thiết:

78-79. Cố vấn, thân bằng cạnh quốc vương,
Không ai dám nói để can ngăn,
Triều thần trung tín không ai cả,
Dám thuyết phục vua chớ giết con.

  1. Còn có các vương tử khác kia,
    Thảy đều đầy đủ mọi oai nghi,
    Hãy đem các vị lên đàn tế,
    Và để Can-da được thoát đi
  2. Hãy xẻ thịt con để cúng dâng,
    Nhưng tha thái tử, bậc anh hùng
    ,
    Người trên thế giới đồng cung kính,
    Chàng dũng sĩ giao chiến tuyệt luân.

Sau khi đã than khóc giải bày mọi nỗi niềm đoạn trường mà vẫn không có gì an ủi được nàng, nàng liền bước lên cạnh Bồ-tát, đứng khóc lóc mãi cho đến khi Bồ-tát bảo nàng:

– Này Candà, suốt đời ta đã biết bao lần tặng nàng ngọc ngà trân bảo trong các dịp yến tiệc hội hè, nay ta chỉ còn món báu vật cuối cùng trên mình ta để tặng nàng, xin nàng hãy nhận lấy. Nàng Candà lại bật khóc và ngâm các vần kệ sau:

  1. Ngày xưa vai ấy rực hoa tươi,
    Lủng lẳng treo như mũ miện cài,
    Thanh kiếm sắt nay tàn ác quá,
    Bao trùm bóng tối cả đôi vai.
  2. Phút chốc kiếm kia đến tận nơi,
    Cổ chàng vô tội lướt qua rồi,
    Ôi, đem dây sắt mau ràng buộc
    Kẻo trái tim ta sắp vỡ đôi!
  3. Lô hội điểm tô với giáng hương,
    Lụa là rực rỡ, lắm vòng vàng,
    Kìa Can-da, bước lên đàn tế,
    Lễ vật xứng danh với quốc vương.
  4. Lô hội điểm tô với giáng hương,
    Và nhiều áo lụa, ngọc cao sang,
    Kìa Can-da bước lên đàn tế,
    Lễ vật xứng danh của đại vương.
  5. Được tẩm hương dâng lễ tế thần,
    Đợi chờ thảm họa đến dần dần,
    Kìa Can-da bước lên đàn tế,
    Tràn ngập lòng dân nỗi khổ buồn.

Trong khi nàng than khóc như vậy, mọi người chuẩn bị nghi lễ đã xong xuôi trên huyệt tế thần. Họ đưa vương tử đến đặt vào một chỗ ngồi thích hợp với chiếc cổ vươn ra trước. Lão Khanda cầm chén vàng lại gần chàng, đưa kiếm lên, đứng thẳng người và nói:

– Ta sẽ cắt cổ nó.

Khi vương phi thấy vậy, nàng nghĩ thầm: “Ta không còn nơi nào để nương tựa, vậy ta sẽ cầu xin phước lành cho phu quân bằng sức mạnh của chân lý”. Rồi nàng chắp tay lên đi giữa đám người hành lễ, trang nghiêm thực hiện lời Nguyện cầu Chân lý.

*

Bậc Đạo Sư tả cảnh này như sau:

  1. Khi sửa soạn xong lễ tế đàn,
    Can-da ngồi đó đợi tai nàn,
    Pañca công chúa đi vào giữa,
    Quần chúng khắp nơi, phát nguyện vang:

88.- Quả nhiên đây vị Bà-la-môn,
Làm độc kế do tính dối dang,
Mong ước phu quân yêu dấu ấy,
Chẳng bao lâu nữa được an toàn
.

  1. Mong các thần, tiên, quỷ chốn đây,
    Hãy nghe lời nói của con vầy,
    Thực hành nhiệm vụ con giao phó,
    Tái hợp con cùng thái tử này.
  2. Tất cả thần tiên ở chốn này,
    Con xin quỳ xuống dưới chân ngài,
    Hộ phù con trẻ không người giúp,
    Thương xót nghe con cầu cứu đây.

Sakka Thiên chủ nghe lời cầu xin của nàng và xem thấy sự tình xảy ra như vậy, liền cầm một khối sắt sang lòa hăm dọa nhà vua và đuổi tan đám đông dự lễ ấy.

*

Bậc Đạo Sư tả cảnh này như sau:

  1. Thiên thần nghe tiếng nọ kêu than,
    Muốn giúp chánh nhân, vội giáng phàm,
    Vung khối sắt lên, lòe ánh sáng,
    Làm tâm bạo chúa phải kinh hoàng.
  2. – Bạo chúa biết ta, Thiên đế chăng?
    Hãy nhìn xem vũ khí ta mang,
    Đừng làm hại trưởng nam vô tội,
    Sư tử chúa trong bãi chiến trường.
  3. Tội ác này ai thấy chốn nào,
    Vợ con bị giết cả nhà sao,
    Cùng thần dân quý nhất thiên hạ,
    Xứng đáng lên thiên giới tối cao?
  4. Bạo chúa vội cùng vị tế sư,
    Thả người vô tội, nạn nhân ra,
    Đám đông lấy đá và cây gậy,
    Cuồng nhiệt say sưa, họ hét la,
    Đánh chết Khan-da ngay tại chỗ,
    Đền bù bao tội ác gian tà.

Khi họ đã giết lão quốc sư xong, họ tìm cách bắt vua phải chết, nhưng Thiên chủ Sakka ôm vua lại không cho đám dân chúng giết vua. Khi ấy đám đông mới tha mạng vua, nhưng họ nghĩ: “Ta không thể để vua này cai trị hay ở tại kinh thành nữa, ta phải bắt vua ra khỏi thành và ở một nơi do ta định đoạt”.

Thế là họ lột hết cẩm bào của vua, bắt vua mặc áo vàng, trùm khăn vàng lên đầu làm một kẻ khốn cùng và bắt vua phải ở khu vực dành cho hạng khốn cùng. Còn tất cả những kẻ nào nhúng tay vào việc tế lễ này hay đồng tình ủng hộ đều bị trừng trị đích đáng và khi chết phải đọa địa ngục đúng theo số phần của họ.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ sau:

  1. Ai đã tạo nên tội ác vầy,
    Thẳng đường vào địa ngục kia ngay,
    Không ai được tái sinh Thiên giới,
    Khi đã mang lầm lỗi thế này.

*

Sau khi đã trừ bỏ đươc hai quái vật độc ác ấy, dân chúng liền mang lễ vật đến làm lễ đăng quang rảy nước thánh lên đầu Thái tử Canda để chàng lên ngôi vua.

  1. Khi các tù nhân đã được tha,
    Đám đông quần chúng đổ xô ra,
    Cử hành đại lễ đầy vinh hiển,
    Quán đảnh Can-da kế vị vua.
  2. Đông đảo chư thần với thế nhân,
    Vẫy khăn, cờ xí, hát chào mừng,
    Khởi đầu triều mới đầy hoan lạc,
    Hạnh phúc, bình an với thịnh hưng.
  3. Thiên thần, phụ nữ cạnh nam nhi,
    Gia nhập cùng nhau mở hội hè,
    An lạc đầy nhà niềm hạnh phúc.
    Khi tù nhân thảy được tha về.

Bồ-tát ra lệnh cung cấp mọi nhu cầu cho cha được đầy đủ, nhưng phế vương không được phép vào kinh thành và khi nào tiền cấp dưỡng đã cạn, ông thường tìm gặp Bồ-tát vào những dịp ngài dự hội hè ở công viên hay những nơi công cộng khác. Vào những lúc ấy, phế vương không chắp tay kính chào con mình vì ông nghĩ: “Ta mới thật là Đại vương!” nên ông chào ngài:

– Vạn tuế chúa công!

Và khi Bồ-tát hỏi ông cần gì, ông nói rõ vật ấy, rồi Bồ-tát ra lệnh đem tiền bạc lại cho cha.

*

Khi bậc Đạo Sư chấm dứt pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) tìm cách giết hại nhiều người chỉ vì Ta, mà trước kia kẻ ấy đã làm như vậy.

– Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) là Khanda, mẫu hậu Mahàmàỳa là hoàng hậu Gotamì, mẹ của Ràhula (La-hầu-la) là Candà, La-hầu-la là Vàsula, Uppalavannà (Liên sắc hoa ) là Selà, Ca-diếp (Kassapa) thuộc dòng họ Vàma là Surà, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Candasena, Sàriputta (Xà-lợi-phất) là vương tử Suriya và vua Canda chính là Ta.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN BẬC ĐẠI TRÍ BHÙRIDATTA (Tiền thân Bhùridatta)

Bất kỳ mọi bảo ngọc kim ngân…,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong khi Ngài trú tại thành Xá Vệ, về việc các cư sĩ hành trì trai giới.

Vào ngày trai giới, họ thức dậy thật sớm, phát nguyện hành trì giới luật, bố thí và sau khi thọ trai, hộ đem hương hoa đến tinh xá Kỳ-Viên, gặp thời thuyết Pháp họ đều ngồi xuống một bên nghe giảng.

Bậc Đạo Sư đến tại Chánh Pháp đường ngồi xuống sàng tọa được trang hoàng dành cho đức Phật xong, liền nhìn xuống hội chúng Tỷ-kheo.

Lúc bấy giờ đức Như Lai thường muốn đàm đạo với một vài vị này hay vị kia trong hội chúng, khi bài thuyết giảng có liên quan đến họ, vì thế vào dịp này, Ngài biết rằng bài Pháp thoại liên quan đến các bậc Đạo Sư ngày xưa sắp được thuyết giảng cho các cư sĩ, nên trong khi đàmđạo với họ, Ngài hỏi:

– Này các cư sĩ, các ông có hành trì trai giới chăng?

Khi các cư sĩ đồng thanh đáp có, Ngài bảo:

– Tốt lành thay! Tốt lành thay! Này các cư sĩ, tuy nhiên ngày nay các ông có một vị Phật làm Đạo Sư như Ta và hành trì trai giới thì không phải là chuyện lạ gì, vì các bậc hiền trí ngày xưa, chưa có bậc Đạo Sư nào, cũng đã từ bỏ mọi vinh quang thế tục và giữ ngày trai giới.

Nói xong, theo lời thỉnh cầu của các cư sĩ, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

I .- THÁI TỬ BRAHMADATTA VÀ LONG NỮ

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì thành Ba-la-nại, ngài phong cho con làm phó vương. Nhưng khi ngài thấy thái tử đạt vinh quang lừng lẫy, ngài lại đâm ra hoài nghi một ngày kia thái tử sẽ chiếm trọn giang sơn. Vì thế ngài bảo con:

– Vương nhi hãy ra đi tìm chỗ cư trú nào mà vương nhi thấy hợp ý trong lúc này, khi ta băng hà hãy về đây kế thừa vương nghiệp.

Thái tử vâng lệnh, giã từ vương phụ ra đi đến vùng núi Yamunà dựng một túp chòi lá nằm giữa dòng sông giáp bờ biển và sống bằng rau quả qua ngày.

Lúc bấy giờ có một long nữ dòng giống Nàga ở dưới biển, mới mất chồng, lòng khao khát dục tình khi nhìn thấy các long nữ khác an vui cảnh chồng con, nên bỏ nơi địa giới, đi lang thang trên bờ biển, chợt thấy dấu chân của thái tử liền theo lối mòn đi đến chòi lá. Lúc ấy thái tử đã đi ra ngoài kiếm trái cây. Long nữ bước vào chòi, thấy chiếc giường gỗ và đồ đạc trong chòi, nhủ thầm: “Đây là nơi cư trú của một ẩn sĩ, để ta thử xem vị này có thật là một vị chân tu không. Nếu vị đó là bậc chân tu, sống khắc kỷ, vị ấy sẽ không chịu nhận chiếc giường trang hoàng lộng lẫy của ta; còn nếu đó là người với tâm tư mê đắm dục lạc, không phải là bậc chân tu tịnh tín thì vị đó sẽ nằm trên chiếc giường của ta, rồi ta sẽ lấy vị đó làm chồng và ở lại đây”.

Vì thế long nữ vội trở về cõi mình góp nhặt hương hoa thần tiên trang hoàng một sàng tọa toàn bằng hoa và sau khi làm lễ cúng hương hoa, rắc phấn hương khắp chòi và trang hoàng cái chòi thật đẹp, nàng đi về cõi mình trú ngụ. Buổi chiều khi thái tử trở về, chàng vào chòi thấy mọi vật như thế liền nói:

– Ai đã sắm sửa tọa sàng này?

Khi chàng ăn đủ loại trái cây xong, chàng lại kêu lên:

– Ôi, hoa thơm ngạt ngào, toạ sang này êm ái quá!

Lòng chàng đầy hân hoan, vì thật tâm chàng không phải là bậc chân tu khổ hạnh, chàng liền nằm xuống giường hoa và ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau chàng thức dậy và cũng đi kiếm trái cây, chẳng nhớ quét dọn chòi lá. Vào lúc ấy long nữ Nàga xuất hiện thấy hoa héo úa cả liền hiểu ngay: “Kẻ này còn tham dục lạc, không phải là bậc chân tu, ta có thể bắt lấy được rồi”. Thế là nàng lượm hết hoa cũ, đem hoa khác đến trải lên tọa sàng thật đẹp, trang hoàng túp chòi lá, rải hương hoa như trước trên thềm nhà, rồi trở về cõi mình cư ngụ. Thái tử lại ngủ một đêm nữa trên giường hoa và sáng hôm sau chàng tự nghĩ: “Ai đã trang hoàng chiếc chòi này?”

Vì thế chàng không đi hái trái nữa, chàng đứng ẩn mình không xa túp liều. Long nữ Nàga thu lượm hoa xong đi đến lều của chàng. Vương tử chiêm ngưỡng dung nhan cực kỳ lộng lẫy của long nữ Nàga, liền say mê nàng ngay và chàng lẳng lặng đi vào chòi trong khi nàng đang trang hoàng tọa sàng và hỏi nàng là ai.

– Tâu đức ông, tiện thiếp là long nữ Nàga.

– Chẳng hay nàng đã có gia thất chưa?

– Tiện thiếp là sương phụ không có chồng, chẳng hay chàng ở đâu?

– Ta là thái tử Brahmadatta, con vua tại thành Ba-la-nại; nhưng còn nàng, tại sao lại đi phiêu bạt rời bỏ xứ sở của dòng giống Nàga?

– Tâu đức ông, chỉ vì tiện thiếp trông thấy hạnh phúc của các nàng Nàga yên bề gia thất nên lòng chưa thỏa mãn về đường tình duyên đứt gánh, phải lang bạt đó đây tìm bóng tùng quân để nương tựa tấm thân bồ liễu.

– Ta cũng không phải là vị chân tu, mà ta đến trú ngụ nơi đây chỉ vì cha ta đuổi ta đi; vậy nếu nàng không chê ta, ta xin nguyện cùng nàng làm đôi vợ chồng sống hòa hợp nơi đây.

Tức thì long nữ bằng lòng và từ đó họ chung sống rất hoà hợp trong rừng ấy. Nhờ thần lực của long nữ, nàng biến hóa ra một ngôi nhà sang trọng có sàng tọa quý giá trong khuê phòng lộng lẫy. Từ đó chàng không còn phải ăn hoa quả nữa, nhưng được hưởng toàn cao lương mỹ vị của thần tiên. Sau một thời gian nàng thụ thai và sinh được một con trai, họ đặt tên là Sàgara-Brahmadatta. Khi ấu nhi đã chập chững biết đi, nàng lại hạ sinh được một gái trên bờ biển nênđược đặt tên là Samuddajà.

Lúc bấy giờ một sơn nhân trú tại thành Ba-la-nại tình cờ đến nơi đây gặp vương tử, chào hỏi xong thì nhận ra chàng, nên sau khi ở lại đó vài ngày, gã nói:

– Tâu vương tử, tiểu thần xin về thông báo với vương tộc biết ngài đang cư trú nơi đây.

Thế rồi gã ra về kinh thành. Lúc ấy vua vừa băng hà, các đại thần làm lễ tang vua xong, liền hội họp nhau lại sau đó bảy ngày, rồi họ quyết định:

– Đất nước không thể một ngày không có vua, nay ta chẳng biết vương tử trú ngụ phương nào: còn sống hay chăng, để chúng ta bảo vương xa đến đón ngài về làm vua.

Vừa khi ấy gã sơn nhân về thành, hay tin đó vội đến tìm các đại thần báo cho họ biết: trước khi đến đây, gã đã ở gần vương tử mấy ngày. Các đại thần rất trọng đãi gã, rồi cùng đi theo lời gã chỉ dẫn đến gặp vương tử. Sau khi chào hỏi thân tình xong, họ báo cho vương tử biết vua vừa băng hà và mời chàng về kế vị, chàng nghĩ thầm: “Ta muốn biết long nữ Nàga tính sao đây?”.Chàng liền bảo vợ:

– Này hiền thê, vua cha ta vừa băng hà, các đại thần đã đến giương chiếc lộng hoàng gia lên cho ta, vậy đôi ta cùng đi về trị vì Ba-la-nại, rộng muời hai đặm, nàng sẽ thành chánh hậu trong đám mười sáu ngàn cung phi ấy.

– Phu quân ôi, thiếp không thể nào đi theo chàng được.

– Tại sao vậy? Dòng giống thiếp có thứ độc dược giết người và tánh khí lại dễ nóng giận vì chuyện không đâu, huống chi là việc hờn ghen trong cung cấm là chuyện hệ trọng, nếu thiếp gặp việc gì bất bình và chỉ cần đưa mắt giận dữ nhìn, tức thì tia mắt bắn ra như nắm trấu, vì thế thiếp không thể nào ra đi theo chàng được.

Ngày hôm sau vương tử lại bảo nàng cùng đi, nàng đáp:

– Thiếp không thể nào đi được, nhưng các con của thiếp lại không phải thuộc nòi giống rồng Nàga, chúng là con của chàng, thuộc giống người; nếu chàng còn thương thiếp xin hãy chăm sóc lấy chúng. Nhưng vì chúng quen thói ở nước, rất yếu đuối, chúng sẽ chết nếu đi đường chịu dãi dầu nắng gió, vì vậy thiếp xin làm một con thuyền đổ nước vào để chúng chơi đùa trong nước và khi đến kinh thành, xin chàng cho lệnh đào một hồ nước cạnh hoàng cung cho chúng, như thế chúng mới khỏi khổ được.

Nói xong, nàng cung kính chào giã từ vương tử, đi vòng quanh chàng một cách kính cẩn, ôm các con vào lòng hôn đầu chúng và giao con cho chàng, khóc lóc một hồi và biến đi về cảnh giới của rồng Nàga. Vương tử cũng nặng trĩu u sầu, ràn rụa nước mắt, liền đến gặp các đại thần. Tức thì họ rảy nước thánh lên đầu chàng làm lễ phong vương và thưa:

– Tâu Đại vương, xin Đại vương trở về thành.

Chàng ra lệnh cho họ đóng thuyền xong đặt lên xe và đổ nước vào.

– Hãy rảy hương hoa đủ màu sắc trên mặt nước vì các con ta tính ưa nước, thích vui đùa trong nước.

Các đại thần tuân lệnh. Khi tân vương đến thành Ba-la-nại, ngài vào thấy thành trang hoàng rực rỡ, liền bước lên lầu an nghỉ, có mười sáu ngàn mỹ nữ ca múa vây quanh cùng các cận thần. Ngài cho mở đại yến trong bảy ngày xong, ra lệnh đào hồ nước cho các vương tử để các vương tử chơi đùa suốt ngày.

Nhưng một ngày kia, khi nước được dẫn vào hồ, một con rùa trôi vào theo, rồi không tìm thấy lối ra, nó lội trên mặt nước. Trong khi các vương tử nô đùa, rùa hiện ra, thò đầu nhìn đám trẻ rồi lại lặn xuống nước. Đám trẻ thấy rùa, sợ hãi chạy đi báo với vua cha:

– Phụ vương ôi, một con rùa trong hồ làm chúng con sợ quá.

Vua ra lệnh bắt con rùa và một người thả lưới xuống bắt được rùa đem lại trình vua. Khi các vương tử trông thấy rùa liền la to:

– Phụ vương ôi, nó là con quỷ.

Vì vua thương yêu con nên nổi giận với con rùa, ra lệnh cho quân hầu trừng trị nó. Một người bảo:

– Nó là quân thù của Đại vương, vậy phải bảo nó vào cối mà giã nát ra thành cám.

Kẻ khác nói:

– Đem nấu nhừ ra mà ăn.

Kẻ khác nữa lại bảo:

– Đem nó nướng than đi.

Hoặc:

– Bỏ nó vào nồi và đốt lò.

Nhưng có một đại thần rất sợ nước bảo:

– Ném nó xuống vực xoáy của sông Yamunà, nó sẽ bị tiêu hủy hoàn toàn, không còn hình phạt nào nặng hơn nữa.

Rùa nghe thế liền rụt cổ lại bảo:

– Này hiền hữu, ta đã phạm tội gì khiến ông nói đến một hình phạt nặng nề như vậy dành cho ta? Các hình phạt kia ta còn chịu được, chứ hình phạt này thật vô cùng tàn bạo, xin ông đừng nhắc đến nữa.

Khi vua nghe được, ngài bảo:

– Phải hành hình nó như thế.

Và ngài ra lệnh ném nó vào vực xoáy của sông Yamunà, nơi đây nó tìm ra dòng nước đưa nó đến động rồng Nàga. Lúc bấy giờ có vài tiểu long Nàga thuộc dòng vua rồng Dhatarattha đang nô đùa trên dòng nước, thấy rùa liền bảo nhau:

– Bắt lấy tên tiểu nô kia.

Rùa nghĩ thầm: “Ta vừa thoát khỏi tay vua Ba-la-nại, lại rơi vào tay bọn quỉ Nàga hung ác này, làm sao thoát được đây?” Nó liền nghĩ ra một kế, bịa ra một chuyện và bảo chúng:

– Tai sao các long tử thuộc dòng dõi triều đình vua Dhatarattha lại nói năng như vậy? Ta là linh quy tên Cittacùla, sứ giả của vua Ba-la-nại đến yết kiến vua Dhatarattha, đức vua của ta muốn gả công chúa của ngài cho long vương Dhatarattha, vậy hãy cho ta được bái yết ngài.

Chúng bằng lòng dẫn rùa đến, nhưng khi thấy rùa, vua không đẹp ý, bảo:

– Những kẻ có hình thù tồi tàn như vậy không thể nào làm sứ giả được.

Rùa nghe vậy liền đáp lại, nêu rõ các đức tính của nó cho vua hay:

– Tại sao Đại vương lại cần sứ giả cao như cây dừa làm gì? Hình dạng nhỏ bé hay cao lớn đâu có gì quan trọng? Điều tối quan trọng là tài đức để thi hành sứ mạng được giao phó. Tâu Đại vương,vua của chúng thần có rất nhiều sứ giả. Con người thì làm việc trên đất liền, chim chóc thì làm việc trên không, tiểu thần thì ở dưới nước, vì tiểu thần là kẻ được đức vua sủng ái tên gọi là Cittacùla, tiểu thần giữ một chức vụ đặc biệt, xin đừng nhạo báng tiểu thần.

Sau đó vua Dhatarattha hỏi rùa tại sao được vua bảo đến đây, nó liền đáp:

– Đức vua của tiểu thần muốn bày tỏ tình thân hữu với mọi đức vua trên cõi Diêm-phù-đề và nay ngài muốn gả công chúa Samuddajà để tỏ tình thân hữu với long vương Nàga, vậy xin Đại vương chớ chậm trễ, hãy lập tức gửi sứ giả đi cùng tiểu thần định ngày hôn lễ và đón công chúa về.

Vua rồng vô cùng đẹp ý, tán tụng rùa hết lời và ra lệnh cho bốn long tử Nagà cùng đi với rùa định ngày hôn lễ sau khi gặp vua kia rồi trở về xứ. Bốn chàng tiểu long cùng rùa từ giã động chúa rồng Nàga. Rùa trông thấy một hồ sen giữa sông Yamunà và kinh thành Ba-la-nại, muốn trốn đi, liền bày kế nói:

– Này các long tử, đức vua cùng vương hậu, vương tử của ta đã thấy ta xuất hiện trên mặt nước khi ta đến cung vua, nên các ngài bảo ta dâng lên vài hoa sen và củ sen, vậy ta phải đi hái đã, các long tử để ta đi một lát, hễ không thấy ta về thì cứ đi thẳng vào xin yết kiến đức vua, ta sẽ đến đó để gặp các chàng sau.

Họ tin lời để rùa ra đi, nó liền trốn biệt. Các chàng tiểu long không thấy rùa trở lại tưởng rằng nó đã đến chầu vua, liền đi đến hoàng cung giả dạng các thanh niên. Đức vua tiếp đãi ân cần và hỏi họ từ đâu đến. Họ bảo:

– Tâu chúa thượng, từ Dhatarattha.

– Các công tử có việc gì chăng?

– Tâu chúa thượng chúng thần là sứ giả của Long vương Dhatarattha, xin kính chúc chúa thượng ngọc thể an khang và đức vua của chúng thần xin kính tặng chúa thượng bất cứ bảo vật nào chúa thượng đẹp ý. Đức vua của chúng thần cũng cầu xin Chúa thượng gả công chúa Samuddajà để làm vương hậu của ngài.

Rồi họ ngâm vần kệ thứ nhất để giải thích việc này:

  1. Bất kỳ mọi bảo ngọc kim ngân,
    Tích trữ trong cung điện chúng thần,
    Đều của Đại vương tùy thánh ý,
    Xin trao công chúa đến long quân.

Vua nghe vậy, liền đáp vần kệ thứ hai:

  1. Từ trước chẳng hề có thế nhân,
    Kết duyên con gái với long quân,
    Sánh đôi vậy thật không tương xứng,
    Sao trẫm nghĩ ra chuyện lạ lùng?

Các chàng tiểu long bảo:

– Ví như việc thông gia với Đại vương không làm đẹp ý thánh thượng,vậy tại sao thánh thượng lại sai sứ thần linh qui Cittacùla đến yết kiến Đại vương của chúng thần và ngõ lời muốn gả công chúa Samuddajà? Sau khi đã gửi sứ giả đi như vậy, Thánh thượng lại tỏ ra khinh mạn Đại vương của chúng thần. Nay chúng thần sẽ biết cách đối phó xứng đáng với thái độ khinh mạn ấy.

Nói xong họ ngâm hai vần kệ để hăm dọa:

  1. Ngài sẽ bỏ thân, hỡi Đại vương,
    Ngài và đất nước nghĩa gì chăng?
    Trước cơn thịnh nộ từ long chúa,
    Vinh hiển thế nhân sẽ úa tàn.
  2. Ngài kẻ yếu hèn, một thế nhân,
    Phải suy tàn bởi tính kiêu căng,
    Dám khinh thái tử Ya-mu ấy,
    Con của Va-ru-na Đại vương.

Vua liền đáp hai vần kệ:

  1. Ta chẳng hề khinh bỉ Đại vương,
    Dha-ta-ra hiển hách danh lừng,
    Là vua bộ tộc Nà-ga ấy,
    Thừa hưởng vương quyền đúng lẽ chân.
  2. Song dù ngài vĩ đại cao sang,
    Sát- đế- ly dòng dõi xuất thân,
    Chính thống Vi-đề-ha quý tộc,
    Ngài đừng mơ tưởng đến công nương.

Mặc dầu các chàng tiểu long Nàga muốn giết vua ngay lập tức bằng một luồng khí độc, họ kịp suy nghĩ lại rằng họ được phái đi đến đây định ngày hôn lễ, cho nên giết vua rồi bỏ đi thì thật không phải lẽ, vì thế họ bảo:

– Chúng thần xin từ tạ để về tâu lại Đại vương của chúng thần rõ.

Rồi họ biến mất. Khi về, vua hỏi xem họ đã rước công chúa được chưa, họ giận dữ đáp:

– Tâu Đại vương, tại sao Đại vương lại phái chúng thần đến đó mà chẳng có duyên cớ gì cả.Ví dụ Đại vương muốn giết chúng thần, xin giết ngay tại đây cho thỏa dạ. Vua nước ấy mạ lỵ, phỉ bàng Đại vương, tôn con gái mình lên tột đỉnh và kiêu mạn về dòng dõi vương gia.

Cứ thế họ thêu dệt thêm câu chuyện khiến vua nổi giận, ban lệnh họp quần thần binh lính lại, bảo:

  1. Này As-sa với Kam-ba-la,
    Triệu tập mọi dân chúng mãng xà,
    Tiến đến Ba-la thành tụ họp,
    Song đừng làm hại trẻ hay già.

Các chúa Nàga hỏi:

– Nếu không cần phải hại ai cả thì chúng thần đến đó để làm gì?

Vua liền ngâm kệ bảo họ phải làm như sau:

  1. Ở trên hồ nước, các hoàng thành,
    Đường xá và trên các ngọn ngành,
    Trên các cung môn, cần kết dải,
    Đong đưa theo gió nhẹ, treo mình.
  2. Mào trắng và thân trắng mãng xà,
    Bao quanh thành thị của nhà vua,
    Vòng vây ta xiết dần dần chặt,
    Dân xứ Kà-si sẽ sợ ta.

Binh lính Nàga tuân lệnh.

*

Bậc Đạo Sư tả quang cảnh xảy ra:

  1. Nhìn đám mãng xà ở khắp nơi,
    Đàn bà run rẩy, đám đông người,
    Trong khi quái vật giương mào dậy,
    Dân chúng thảy la hét rụng rời.
  2. Dân xứ Ba-la-nại vội nằm,
    Trước đoàn dã thú đến xâm lăng,
    Giơ tay khẩn thiết đồng cầu nguyện:
    – Xin gả công nương với chúa rồng!

*

Trong lúc vua đang ngự trên long sàng, ngài nghe tiếng kêu khóc của các vương phi cùng nhiều thần dân khác và chính ngài cũng sợ chết vì những lời hăm dọa của bốn tiểu long kia, nên ngài kêu to ba lần:

– Ta sẽ gả công chúa Samuddajà cho vua Dhatarattha.

Khi các chúa rồng Nàga nghe được lời ấy liền rút quân lùi lại cách một dặm đường, và cắm trại tại đó, xây dựng lên một kinh thành giống cảnh của chư Thiên, rồi cho người mang lễ vật cầu hôn đến nhà vua:

– Xin hoàng thượng gả công chúa như đã hứa.

Vua nhận lễ vật xong, ra lệnh cho các người đem lễ vật ấy lui về và ngài bảo:

– Các ngươi hãy ra về, trẫm sẽ cho các đại thần đem công chúa đến.

Rồi ngài triệu công chúa lại, đem nàng lên thượng lầu,mở cửa sổ ra bảo nàng:

– Này công chúa, con hãy ngắm kinh thành tráng lệ kia, vua nọ cầu hôn con về làm chánh hậu tại đó; kinh thành đó ấy không xa mấy, bao giờ con thấy nhớ nhà cứ về thăm cha, nhưng bây giờ con phải vu qui.

Sau đó vua ra lệnh các cung nữ gội đầu, trang điểm cho công chúa đủ ngọc ngà trân bảo rồiđưa nàng lên loan xa che kín, có các đại thần hộ tống. Các vua chúa Nàga ngự ra đón nàng theo lễ nghi rất trọng thể. Các đại thần vào thành, tiễn biệt công chúa và ra về được tặng vô số ngọc vàng. Công chúa được đưa vào hoàng cung đặt nằm trên tọa sàng tráng lệ như cảnh tiên, và các thiếu nữ Nàga có lưng gù cùng những dị tật khác hầu hạ quanh nàng như thể thị nữ ở cõi nhân gian vậy. Khi công chúa vừa đặt lưng xuống tọa sàng thần tiên này, nàng cảm thấy êm dịu lạ lùng và ngủ thiếp đi. Vua Dhatarattha sau khi đã tiếp đón nàng xong, liền biến đi cùng với hội chúng của mình về cảnh giới của loài rồng Nàga.

Khi công chúa thức dậy và thấy tọa sàng thần tiên trong cung điện xây bằng ngọc vàng châu báu cùng các hoa viên và hồ nước trong cảnh giới Nàga chẳng khác nào kinh thành tráng lệ của thiên giới, nàng hỏi các thị nữ gù lưng quanh nàng:

– Kinh thành này thật tuyệt diệu, chẳng giống kinh thành của ta, vậy nó là của ai thế?

– Tâu lệnh bà, đó là kinh thành thuộc quyền Chúa thượng của lệnh bà, những kẻ thiếu đức không thể nào hưởng được cảnh vinh quang như thế này. Lệnh bà đã được vinh quang như vậy là nhờ công đức cao trọng của lệnh bà.

– Sau đó vua Dhatarattha ra lệnh đánh chiêng trống khắp hoàng thành rộng năm trăm dặm bố cáo với thần dân rằng kẻ nào để lộ tướng rồng tinh cho công chúa Samuddajà thấy sẽ bị trừng trị ngay; Vì thế không ai dám xuất hiện nguyên hình trước mặt nàng. Cho nên nàng hưởng cuộc sống rất êm ấm hòa hợp với nhà vua vì tưởng rằng đấy là cảnh giới nhân gian.

II.- BẬC ĐẠI TRÍ DATTA

Theo thời gian vương hậu Dhatarattha thụ thai và sinh hạ một vương tử có dung mạo khôi ngô nên được đặt tên là Sudassana, sau đó bà lại sinh hạ vương tử thứ hai đặt tên là Datta; đó chính là Bồ-tát. Rồi bà lại sinh vương tử thứ ba đặt tên là Subhaga và vương tử thứ tư tên Arittha. Dù đã sinh hạ bốn vương tử, bà vẫn chưa hề biết đây là cảnh giới của rồng Nàga. Nhưng một ngày kia, có người bảo Arittha:

– Vương hậu là giống người chứ không phải giống Nàga.

Arittha tự nhủ: “Để ta thử mẹ xem sao”. Một ngày kia trong lúc đang bú sữa mẹ, vương tử xuất lộ nguyên hình rắn rồng, lấy đuôi ve lưng bàn chân mẹ. Khi hoàng hậu thấy rồng, kinh hãi thét lên ném con xuống đất, lấy móng tay cào vào mắt con đến chảy máu ra. Vua nghe tiếng thét hỏi lý do và khi vua nghe chuyện Arittha làm ra, ngài bước đến hăm dọa:

– Đem tên tiểu nô này giết đi.

Công chúa biết bản tính nóng nảy của vua, liền lên tiếng bênh vực con:

– Tâu chúa thượng, thần thiếp đã đánh vào mắt vương nhi rồi, xin Chúa thượng tha tội cho nó.

Vua nghe vương hậu nói vậy liền tha:

– Thôi trẫm còn làm sao được nữa?

Rồi vua tha thứ cho con. Từ ngày đó hoàng hậu mới biết đây là xứ rồng Nàga và cũng từ đó Arittha được gọi là Độc nhãn Arittha (Kànàrittha) .

Bấy giờ các vương tử đã đến tuổi trưởng thành. Vua cha giao cho mỗi vị một vương quốc rộng chừng một trăm dặm vuông, vinh quang lừng lẫy và mỗi vị có mười sáu ngàn long nữ Nàga hầu hạ trong cung đình. Vương quốc của vua cha cũng chỉ một trăm dặm vuông. Các vương tử hằng tháng đều đến vấn an đức vua cùng hoàng hậu. Nhưng Bồ-tát cứ nửa tháng lại yết kiến cha mẹ một lần, ngài vẫn thường đưa ra một số vấn đề xảy ra cảnh giới Nàga và vẫn thường cùng vua cha đến yết kiến Đại Thiên vương Virùpakkha (Quảng Mục) đàm đạo các vấn đề ấy.

Một ngày kia, Đại vương Virùpakkha cùng với hội chúng Nàga lên cảnh giới chư Thiên để chầu Thiên chủ Sakka, một vấn đề được đưa ra đàm dạo nhưng không có ai trong chư Thiên giải đáp được trừ bậc Đại Sĩ lúc ấy đang ngồi trên bảo tọa. Thế rồi Thiên Đế tỏ lòng hâm mộ ngài, đem tặng hoa quả của cõi trời và bảo ngài:

– Này Hiền giả Datta, ngài có đại trí lớn như quả địa cầu, từ nay ta xin gọi ngài là Bhùridatta (bậc Đại trí Datta) .

Và Thiên chủ ban ngài danh hiệu ấy. Sau đó bậc Đại Sĩ bái yết Thiên chủ Sakka để tỏ lòng sùng kính và khi ngài ngắm vẻ huy hoàng tột đỉnh của thiên triều cùng các tiên nữ, ngài mơ ước được lên thiên giới: “Ta còn làm gì được với tướng rồng rắn chuyên ăn ếch nhái này nữa? Thôi ta nguyện trở về thế giới rồng rắn hành trì trai giới, tu tập công hạnh để được sinh lên cõi chư Thiên”.

Suy nghĩ như vậy xong, ngài liền xin cha mẹ khi trở về xứ rồng Nàga:

– Tâu phụ vương cùng mẫu hậu, con nguyện hành trì trai giới.

– Này vương nhi, con cứ hành trì cho thỏa nguyện, nhưng trong lúc trì giới con chớ ra ngoài, chỉ ở nội trong cung điện trống vắng của loài Nàga vì người trần thế rất kinh sợ rồng Nàga.

Nói xong ngài cuộn mình trên tổ kiến và nói to:

– Kẻ nào muốn cứ đến lấy máu thịt xương da ta đi.

Rồi ngài trì giới gồm bốn phép, nằm đó với thân tướng chỉ gồm có đầu đuôi mà thôi. Đến rạng ngày hôm sau, các long nữ Nàga đến và làm theo lệnh ngài đã ban, đưa ngài về lại cảnh giới Nàga như cũ và cứ thế ngài trì giới trong suốt một thời gian dài.

III.- HAI CHA CON BÀ-LA-MÔN SĂN THÚ

Lúc bấy giờ có một người Bà-la-môn sống ở một làng gần cổng thành Ba-la-nại thường cùng con trai tên gọi Somadatta vào rừng đặt bẫy chông bắt thú rừng rồi gánh thịt đi bán để sinh nhai. Một ngày kia, gã chẳng bắt được con thú nào dù chỉ một tắc kè nhỏ, gã bảo con:

– Nếu ta về nhà tay không, mẹ con sẽ giận dữ, vậy ta cứ bắt lấy con gì cũng được.

Thế là gã đi về phía tổ kiến nơi Bồ-tát đang tĩnh tọa và quan sát dấu chân nai thường xuống dòng sông Yamunà để uống nước, gã bảo :

– Này con, đây là hang nai, con hãy về đợi trong lúc cha bắt nai đến uống nước.

Và gã giương cung đứng dưới gốc cây chờ nai đến. Vào buổi chiều, một con nai đến uống nước liền bị bắn trọng thương, tuy nhiên nó chưa ngã xuống ngay mà vì mũi tên làm tuôn máu xối xả, nó liền chạy trốn. Hai cha con đuổi theo tận nơi nó ngã xuống, bắt lấy rồi ra khỏi rừng đến gốc cây đa thì mặt trời vừa lặn.

– Lúc này đi xa thì bất tiện lắm, thôi ta ở lại đây.

Nói xong họ đặt con nai qua một bên rồi trèo lên cây nằm trên cành. Gã Bà-la-môn thức giấc lúc rạng đông, cố nghe ngóng tiếng động của nai, vừa lúc đó các thị nữ Nàga đến dâng tọa sáng hương hoa cho Bồ-tát. Ngài đã bỏ xác rồng và hiện hình Thiên thần mang đủ bảo vật trang nghiêm ngồi trên tọa sàng sực nức hương hoa trong dáng điệu uy nghi của một Thiên đế Sakka.

Các thị nữ Nàga thành kính cúng dường ngài vô số hương hoa rồi trỗi khúc nhạc thiên đường, đồng thanh ca múa. Khi gã Bà-la-môn nghe tiếng nhạc gã tự hỏi: “Ai đây, ta phải xem sao mới được”. Gã liền gọi con trai nhưng cậu bé vẫn cứ ngủ say. Gã tự nhủ: “Thôi để nó ngủ. Nó còn mệt thì ta đi một mình vậy”. Gã leo xuống đất tiến đến gần ngài . Các thị nữ Nàga thấy gã liền độn thổ ngay cùng các nhạc khí, trở về cảnh giới Nàga, chỉ còn Bồ-tát ngồi lại một mình. Gã Bà-la-môn đứng gần ngài ngâm hai vần kệ hỏi ngài:

  1. Hồng nhãn thiếu sinh được thấy đây,
    Là ai, tỏa rộng đôi bờ vai,
    Mười nàng xuân nữ vây quanh nọ,
    Đeo xuyến vàng, xiêm áo đẹp thay.
  2. Chàng là ai ở giữa rừng xanh,
    Như lửa thêm dầu mỡ mới tinh,
    Có phải Sak-ka, thần đại lực,
    Hay là rồng chúa đại oai danh?

Bậc Đại Sĩ nghe vậy thầm nghĩ: “Nếu ta bảo là một vị Sakka (Đế Thích), gã sẽ tin ngay vì gã là một Bà-la-môn, nhưng ta phải nói sự thật: Thế là ngài nói về nòi giống Nàga của ngài:

  1. Ta chúa Nàga, lực đại hùng,
    Với luồng khí độc mạnh vô song,
    Đất nước phồn vinh, dân lớn bé,
    Ta đây nổi giận giết tiêu vong.
  2. Mẫu thân ta chính Sa-mud-da,
    Chúa tể Dha-ta, thân phụ ta,
    Em của Su-das-san thái tử,
    Tên ta là Đại trí Dat-ta.

Nhưng khi bậc Đại Sĩ nói xong, ngài liền nghĩ: “Bà-la-môn này hung ác, gã có thể phản ta, và tiết lộ ta với người bắt rắn và thế là cản trở việc trì giới của ta.Vậy ta đưa gã về vương quốc Nàga, tiếp đãi gã trọng thể tại đó, như thế ta vẫn không gián đoạn việc hành trì giới luật”. Thế là ngài bảo gã:

– Này Hiền hữu Bà-la-môn, ta muốn tiếp đãi ông thật trọng thể, vậy hãy theo ta đến xứ sở Nàga đầy lạc thú bây giờ. Tâu chúa thượng, hạ thần còn một con trai, nếu hạ thần có đi, xin cho con trẻ đi cùng.

Bồ-tát đáp:

– Hiền hữu cứ đi tìm hiền điệt lại đây.

Rồi ngài tả nơi cư ngụ của ngài cho gã biết:

  1. Hồ kia u tối thật kinh hoàng,
    Sóng nước không ngừng bão tố dâng,
    Nhà của ta thần dân trú ngụ,
    Còn ai dám trái lệnh ta ban.
  2. Hãy lặng chìm trong làn sóng xanh,
    Đàn công, đàn hạc gọi đồng thanh:
    – Xuống đây tận hưởng niềm hoan lạc
    Dành sẵn cho ai giữ giới hành.

Gã Bà-la-môn đi tìm con kể chuyện cho con nghe rồi đem con trở lại và bậc Đại Sĩ liền đưa họ đến bên bờ sông Yamunà. Khi đứng đó, ngài bảo:

  1. Hiền hữu cùng con chớ ngại ngùng,
    Theo lời ta bảo, sống ung dung,
    Vinh quang hạnh phúc trong cung điện,
    Lạc thú ta ban đủ mọi phần.

Nói xong, bậc Đại Sĩ dùng thần lực đưa hai cha con đến cảnh giới Nàga, nơi đây họ hưởng cuộc sống thần tiên. Ngài ban cho họ phúc lạc của tiên giới, mỗi người có đến bốn trăm thiếu nữ Nàga hầu hạ, vinh hoa phú quý thật không sao kể xiết. Bồ-tát vẫn tinh tấn hành trì giới luật, cứ nửa tháng ngài đi bái yết phụ vương, mẫu hậu và thuyết Pháp; còn khi đến thăm gã Bà-la-môn, ngài thường vấn an gã và bảo:

– Hiền hữu cần gì cứ nói cho ta biết, xin cứ hưởng lạc thú, đừng để bất toại điều gì.

Rồi sau khi chào hỏi Somadatta ân cần, ngài trở về tu thất của ngài.

Gã Bà-la-môn, sau khi sống trong cảnh giới Nàga được một năm, do thiếu tu tập công đức trước đây, dần dần cảm thấy không toại ý, chỉ muốn trở về nhân gian. Cảnh giới Nàga đối với gã chẳng khác nào địa ngục. Cung điện được trang hoàng lộng lẫy chỉ giống như nhà tù, các cung nữ Nàga được điểm trang vàng ngọc cũng tựa bầy quỉ cái. Gã nghĩ thầm: “Ta chán lắm rồi, để ta hỏi thử xem Somadatta nghĩ sao?”.Gã tìm con trai và hỏi:

– Con có được toại nguyện chăng?

– Làm sao con lại bất mãn được? Cha con ta không nên nghĩ như vậy.Còn thân phụ không toại nguyện chăng?

– Đúng vậy.

– Tại sao thế?

– Vì ta không gặp được mẹ con cùng anh em con, thôi ta cùng đi về xứ.

Người con bảo không muốn đi về, nhưng vì bị cha nài mãi, nên cuối cùng cũng thuận. Gã Bà-la-môn nghĩ thầm: “Con ta đã ưng thuận ra đi, nhưng nếu ta bảo với hoàng tử Bhùridatta rằng ta không toại nguyện, hoàng tử sẽ ban cho ta thật nhiều ân huệ khác nữa và thế là ta không thể đi về. Mục đích của ta chỉ đạt được bằng một cách này thôi: Ta sẽ tả cảnh huy hoàng của ngài rồi hỏi ngài: “Tại sao ngài rời bỏ mọi vinh quang để lên nhân thế hành trì trai giới?”. Khi ngài đáp: “Để được lên thiên giới”, ta sẽ bảo ngài: “Chúng thần lại càng phải nên tu tập như thế hơn nữa, vì chúng thần đã sống bằng nghề sát sinh hại mạng. Thần cũng muốn trở lại trần thế để thăm quyến thuộc xong rồi sẽ xuất gia sống đời khổ hạnh.Thế là ngài sẽ phải để ta đi”.

Sau khi quyết định xong, một ngày kia Bồ-tát đến hỏi thăm gã xem có gì chưa toại ý chăng, gã liền vội trấn an ngài rằng không có điều gì gã mơ ước mà ngài không ban cho gã, rồi không hề nói gì đến ý định ra đi, trước tiên gã chỉ ngâm kệ tả cảnh phồn vinh thịnh vượng của xứ ngài:

  1. Đất bằng trải rộng khắp nơi nơi,
    Hoa trắng Ta-ga nở rợp trời,
    Tổ bọ yên chi màu đỏ thắm,
    Rừng xanh rực rỡ phủ nền tươi.
  2. Đền đài linh hiển khắp trong rừng,
    Hồ lắm thiên nga đắm mắt trần,
    Tô điểm lá sen tàn rải rác,
    Khác nào các tấm thảm đang nằm.
  3. Cung đình ngàn cột trụ nguy nga,
    Tiên nữ bao nàng rộn múa ca,
    Cột trụ dát toàn châu ngọc quý,
    Tứ bề phản chiếu ánh trời xa.
  4. Ngài có cung đình thật hiển vinh,
    Chính nhờ công đức đã hoàn thành,
    Mọi niềm ước nguyện đều viên mãn,
    Ngay khi nguyện ước mới thành hình.
  5. Ngài chẳng ước mơ điện Ngọc hoàng,
    Thiên triều tráng lệ sánh sao ngang?
    Cung ngài vinh hiển còn hơn thế,
    Với cảnh huy hoàng chiếu ánh quang.

Bậc Đại Sĩ đáp:

– Này hiền hữu Bà-la-môn, đừng nói thế, cảnh vinh quang của ta so với Thiên chủ Sakka chỉ như hạt cải bên cạnh núi Tu-di (Meru). Chúng ta không bằng được quần thần của ngài nữa.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Ý dẫu tối cao chẳng dám mơ.
    Vinh quang ngôi vị của Sakka,
    Bốn Thiên vương ở trong triều đại,
    Mỗi vị một miền được định ra.

Khi ngài nghe gã lập lại: “Cung điện của ngài chẳng khác nào cung Sakka Thiên chủ, ngài đáp:

– Ta đã nghĩ đến chuyện này từ lâu, chính vì ta muốn lên điện Vejayanta (Tối thắng ở cõi thiên) mà ta thực hành sự tu tập trai giới.

Rồi ngài ngâm kệ tả rõ tâm nguyện mình:

  1. Ta mong tha thiết cảnh cao đường,
    Của các bậc tiên thánh vĩnh hằng,
    Vì thế ta ngồi trên tổ kiến,
    Hành trì giới hạnh mãi không ngừng.

Gã Bà-la-môn nghe vậy thầm nghĩ: “Nay ta đã có cơ hội rồi đây”, và với lòng hân hoan, gã ngâm kệ xin phép ngài ra đi:

  1. Thần đã cùng con trẻ bắt hươu,
    Ngày xưa bôn tẩu chốn rừng sâu,
    Bạn bè để lại nhà không biết,
    Sống chết thần nay hiện ở đâu.
  2. Đại-trí Dạt-ta, thần muốn đi,
    Hỡi ngài Minh chúa tộc Kà-si,
    Chúng thần cất bước thăm lần nữa,
    Quyến thuộc thân bằng ở chốn quê.

Bồ-tát đáp:

  1. Ta muốn các ngài ở chốn đây,
    Cùng ta hưởng hạnh phúc bao ngày,
    Nơi nào trên chốn nhân gian ấy,
    Ngài thấy bình an giống cảnh này?
  2. Nhưng nếu ngài mong ở chốn kia,
    Thì ngài hãy hưởng lạc tràn trề,
    Rồi sau sẽ giã từ đi nhé,
    Hạnh phúc ngài mong gặp bạn bè.

Rồi ngài suy nghĩ: “Nếu gã nhờ ta mà có được hạnh phúc chắc gã sẽ không tiếc lộ ta với aiđâu, ta sẽ cho gã viên ngọc như ý (ban mọi điều ước). Ngài liền tặng gã viên ngọc rồi bảo:

  1. Kẻ được mang viên bảo ngọc thần,
    Ngắm đàn con cháu với gia trang,
    La- môn, lấy ngọc và đi nhé,
    Chẳng có bao giờ gặp bất an.

Gã Bà-la-môn đáp:

  1. Hạ thần hiểu rõ những lời ngài,
    Ngài thấy thần nay đã lão lai,
    Thần sẽ đi theo đời khổ hạnh,
    Nghĩa gì lạc thú ở trên đời?

Bồ-tát nói:

  1. Nếu ngài chẳng giữ trọn lời thề,
    Tìm thú thế nhân lần nữa kia,
    Thì hãy đến tìm ta lại nhé,
    Ta ban ngài lạc thú tràn trề.

Gã Bà-la-môn đáp:

  1. Dat-ta Đại-trí, tạ muôn vàn,
    Ân huệ mà ngài đã phát ban,
    Ví thử thần tìm cơ hội tốt,
    Sẽ về mong được hưởng hồng ân.

Bậc Đại Sĩ thấy rằng gã không còn muốn ở lại đây nữa, nên ngài ra lệnh bốn đồng tử Nàga dẫn gã trở lại cõi trần.

*

Bậc Đạo Sư tả mọi việc như sau:

  1. Dat-ta Đại trí lệnh truyền ban,
    Bốn tiểu long thần: -Hãy bước chân,
    Đem vị La-môn ta uỷ thác,
    Dẫn người trở lại chốn người mong.
  2. Nghe lời xong, các vị long thần,
    Lập tức lệnh ngài được phục tuân,
    Họ dẫn Bà-la-môn đến chốn,
    Rồi đi để lại gã đơn thân.

Trên đường về lão Bà-la-môn bảo con:

– Này Soma, ta sẽ giết được con nai chỗ này và con lợn chỗ kia.

Rồi thấy một hồ nước, gã kêu lên:

– Này Soma, xuống tắm đi.

Thế là cả hai cha con cởi hết áo quần thần tiên ra cuộn thành một bó đặt trên bờ, xuống hồ tắm. Lập tức áo quần biến mất về cảnh giới Nàga chỉ còn bộ áo quần nghèo khổ màu vàng xưa kia của họ mang lên người cùng với cung tên giáo hiện ra như ngày xưa ấy.

– Cha ơi, cơ nghiệp tiêu tan hết rồi. Somadatta kêu gào lên thế.

Nhưng cha cậu vội an ủi:

– Đừng lo gì, hễ còn hươu nai trong rừng là ta còn có kế sinh nhai.

Mẹ Somadatta nghe họ về, vội chạy ra đón vào nhà, thiết đãi cơm rượu thỏa thuê. Khi gã Bà-la-môn đã ăn xong và đi ngủ, người mẹ hỏi con:

– Lâu nay hai cha con đi đâu thế?

– Thưa mẹ, cha con và con được vua Nàga là Bhuridatta mang đến xứ Nàga thần tiên, nhưng vẫn không toại nguyện nên nay lại trở về.

– Thế con có mang về được món châu báu nào không?

– Thưa mẹ không.

– Thế vị vua đó không cho con món châu báu nào sao?

– Thưa mẹ, vua Bhùridatta đã tặng cho cha con một viên ngọc ban mọi điều ước, nhưng cha con từ chối.

– Vì cớ sao?

– Cha con bảo là muốn làm ẩn sĩ tu hành.

– Sao lâu nay đã vứt lại cho ta cả một gánh nặng con cái và đi ở xứ Nàga, bây giờ lão đòi làm ẩn sĩ à?

Thế là bà nổi cơn thịnh nộ, đập vào lưng gã bằng chiếc thìa lâu nay vẫn dùng nó chiên cơm rồi mắng gã xối xả:

– Ông thật là thứ Bà-la-môn ác độc, tại sao ông bảo là sắp đi tu làm ẩn sĩ và từ chối báu vật? Rồi tại sao ông còn vát mặt về nhà mà không thực hiện nguyện ước tu hành? Hãy cút ra khỏi nhà ta ngay.

Nhưng gã bảo vợ:

– Này hiền thê, xin nàng chớ vội thịnh nộ, hễ còn hươu nai trong rừng là ta còn cấp dưỡng mẹ con nàng.

Thế là ngày hôm sau, gã cùng con trai vào rừng tiếp tục sinh nhai bằng nghề cũ.

IV.- VIÊN NGỌC THẦN VÀ GÃ BẮT RẮN

Lúc bấy giờ có một con chim Kim sí điểu (chim thần cánh vàng) Garula sống trong cây bông vải trong vùng núi Himavat (Tuyết Sơn) gần đại dương miền Nam, bay lượn trên mặt nước rồi sà xuống vùng núi Himavat chụp lấy đầu của một chúa rồng Nàga. Đây là thời kỳ chim Garula chưa biết cách bắt rồng Nàga (chúng đã biết cách bắt rồng này trong chuyện Tiền thân Pandara, số 518). Vì thế, dù đã chụp được đầu rồng mà không làm bắn nước tung tóe, nó lại mang rồng tòn teng đến đỉnh núi Himavat.

Một Bà-la-môn trước đây là dân xứ Kà-si, sống ẩn dật trên núi này trong một chòi lá, và cuối lối đi có mái che là một cây đa lớn nên ban ngày ông vẫn cư ngụ dưới gốc cây. Chim Garula mang rồng Nàga đến ngọn cây đa, và rồng Nàga cố thoát ra, nên cuộn đuôi quanh một cành.Chim Garula không biết việc này, lấy toàn lực bay vụt lên trời mang theo luôn cây đa bật khỏi gốc. Chim thần mang rồng Nàga đến cây bông vải, dùng mỏ phanh bụng rồng ra, ăn hết mỡ, rồi ném xác xuống biển.

Cây đa rớt xuống đánh ầm, chim thần không biết gì vì sao có tiếng động lớn như vậy, liền nhìn xuống, thấy cây đa, nó tự hỏi: “Cây này ta mang từ đâu lại?” Rồi nhận ra đó là cây đa ở cuối lối đi có mái che của ẩn sĩ kia, nó suy nghĩ: “Cây đa rất ích lợi cho vị ấy, không biết có tai họa giáng xuống cho ta chăng? Ta thử đi hỏi ông xem sao”.

Rồi nó giả dạng làm một tiểu sinh đến gặp ẩn sĩ trong lúc ông đang đập đất cho bằng phẳng lại. Thế là vương điểu đảnh lễ ẩn sĩ xong, ngồi qua một bên, hỏi thăm sự tình như thể nó không biết gì những việc đã xảy ra:

– Cây gì đã mọc chỗ ấy?

Vị ẩn sĩ đáp:

– Một con chim Garula mang một con rồng Nàga đi ăn thịt, con rồng quấn đuôi quanh một cành cây để cố trốn thoát, nhưng con chim mạnh quá bay vút lên không làm cây bật gốc theo và đây là nơi cây đã bật ra.

– Thế con chim mắc phải tội gì?

-`Nếu nó không biết việc nó làm, thì đó chỉ là vô ý thức, không phải tội lỗi.

– Thế còn trường hợp của rồng Nàga thì sao?

– Nó không cuộn vào cây với ý định làm hư hại cây, cho nên nó cũng không có tội.

Chim chúa Garula hài lòng với lời giải thích của ẩn sĩ liền nói:

– Này hiền hữu, ta chính là vương điểu Garula, ta rất hài lòng với lời giải thích vấn đề của ông. Nay ông sống trong rừng này và ta lại biết thần chú Àlambàyana quý vô giá. Ta sẽ tặng nó cho ông để đền đáp công ơn ông đã giải thích cho ta, mong ông nhận nó.

– Ta cũng đã biết nhiều thần chú lắm, hiền hữu cứ an tâm ra đi.

Nhưng chim chúa cứ nài ép mãi cuối cùng cũng năn nỉ được vị ẩn sĩ nhận lời, nên nó trao bùa và chỉ những dược thảo cần thiết rồi tạ từ.

Lúc bấy giờ ở Ba-la-nại có một Bà-la-môn nghèo khổ nợ nần tứ tung và bị các chủ nợ giày vò mãi, gã tự nhủ: “Sao ta lại cứ sống mãi như thế này? Ta thà vào rừng mà chết còn hơn”. Thế là gã bỏ nhà đi nhiều chuyến phiêu bạt vào rừng cho đến khi gã thấy lều ẩn sĩ. Gã vào xin ở lại vàđược ẩn sĩ vui lòng nhận vì gã siêng năng làm mọi phận sự. Vị ẩn sĩ tự nhủ: “Gã Bà-la-môn này giúp đỡ ta rất nhiều, vậy ta sẽ cho gã chú thiêng mà chim chúa đã cho ta”.

Vì thế ông bảo gã:

– Này hiền hữu Bà-la-môn, ta biết thần chú Àlambàyana, ta sẽ cho ông, mong ông nhận lấy.

Gã đáp:

– Hiền hữu hãy an tâm, ta chẳng cần bùa chú gì cả.

Nhưng vị ẩn sĩ nài ép mãi, cuối cùng cũng thuyết phục gã kia lấy bùa, rồi chỉ bảo cho gã những loại cây thuốc cần thiết và mọi cách sử dụng bùa.

Gã Bà-la-môn tự nhủ: “Ta đã có kế sinh nhai rồi”. Thế là sau khi ở lại thêm vài ngày, gã lấy cớ bị chứng phong thấp và sau khi xin vị ẩn sĩ thứ lỗi, gã kính cẩn từ giã và đi khỏi khu rừng, qua nhiều chặn đường, gã đến bờ sông Yamunà, đi dọc theo đường cái, miệng lầm thầm câu thần chú.

Ngay lúc bấy giờ cả ngàn tiểu đồng Nàga, vốn là thị giả của Bhruridatta đang mang viên bảo châu như ý ấy. Họ đã ra khỏi cảnh giới Nàga, ngồi nghỉ chân và đặt bảo ngọc trên một đụn cát, rồi sau khi nô đùa suốt đêm dưới làn nước nhờ ánh sáng tỏa ra từ viên bảo châu ấy, họ mang hết mọi món trang sức lên mình lúc trời mới tảng sáng, thâu hào quang của bảo châu lại và ngồi canh chừng.

Gã Bà-la-môn đến đó ngay lúc gã đang lầm thầm câu thần chú, đám tiểu đồng nghe thần chú hoảng sợ vì tưởng đó là vương điểu Garula, liền độn thổ về cảnh giới Nàga mà quên lấy viên bảo ngọc. Gã Bà-la-môn thấy bảo ngọc liền kêu to:

– Thần chú của ta đã linh nghiệm tức thì.

Gã vui mừng lượm bảo ngọc ra đi. Ngay lúc ấy gã Bà-la-môn hạ đẳng đang cùng con săn nai, chợt thấy viên bảo ngọc trong tay gã kia, liền bảo con:

– Đó phải chăng chính là viên bảo ngọc mà Bhùridatta cho ta?

Người con đáp:

– Vâng, chính phải.

– Được thế thì ta sẽ nói cho gã kia biết những tính tai hại của viên ngọc rồi đánh lừa gã để dành viên ngọc cho ta.

– Thưa cha, trước kia cha đã không lấy viên bảo ngọc khi vua Bhùridatta tặng cha, nay vị Bà-la-môn này chắc chắn sẽ dối gạt được cha cho mà xem. Cha nên yên lặng thì hơn.

– Cứ thế, con sẽ thấy ai dối gạt được ai hay nhất, gã ấy hay cha.

Rồi gã tiến đến gần Àlambàyana và bảo gã kia:

  1. Từ đâu ông có bảo châu này,
    Mang hạnh phúc nhiều, đẹp mắt thay,
    Song có bức tường chi triệu đấy,
    Là điều ta đã nhận ra ngay.

Àlambàyana đáp vần kệ sau:

  1. Sáng nay ta rảo bước trên đưởng,
    Ta thấy ngọc ngay chỗ nó nằm,
    Vệ sĩ mắt hồng ngàn đứa chạy,
    Để cho ta được miếng mồi ngon.

Gã Bà-la-môn hạ đẳng muốn đánh lừa gã kia, liền nói thêm ba vần kệ kể những tai hại của viên bảo ngọc, vì muốn dành phần cho mình:

  1. Nếu được nâng niu, quý trọng nhiều,
    Để dành cẩn thận, hoặc thường đeo,
    Ngọc làm toại nguyện cho người chủ,
    Dù lớn bao nhiêu đủ mọi điều.
  2. Nhưng nếu tỏ bất kính ngọc thần,
    Người đeo hoặc giữ chẳng quan tâm,
    Thì người sẽ phải ăn năn mãi,
    Ngọc chỉ mang cho nỗi khốn cùng.
  3. Nay ông chẳng có việc cần dùng,
    Cũng chẳng có tài giữ bảo châu,
    Vậy hãy đưa ta và đổi lấy,
    Vàng ròng đây chẵn một trăm cân.

Àlambàyana liền đáp kệ:

  1. Ta sẽ không đem bán bảo châu,
    Dù bò hay ngọc quý ông trao,
    Các điềm của nó ta tường tận,
    Nó chẳng bao giờ bán được đâu.

Gã Bà-la-môn nói:

  1. Nếu ngọc hay bò chẳng thể mua,
    Ngọc kia ông có được bây giờ,
    Giá nào ông bán ra viên ngọc,
    Hãy nói ta nghe rõ thật thà.

Àlambàyana đáp:

  1. Ai bảo cho ta biết chốn nào,
    Tìm ra rồng chúa đại anh hào,
    Ta cho người ấy ngay viên ngọc,

    Tỏa sáng bốn bề rực rỡ sao!

Gã Bà-la-môn hỏi :

  1. Có lẽ nào đây chính Điểu vương,
    Hôm này giả dạng Bà-la-môn,
    Đi tìm dấu vết săn mồi thịt,
    Để bắt Long vương lấy món ngon?

Àlambàyana đáp:

  1. Ta quả thật không phải Điểu vương,
    Mắt ta chẳng thấy bóng chim thần,
    Danh y, Đạo Sĩ là ta đấy,
    Nọc rắn rồng là việc sở trường.

Gã Bà-la-môn nói:

  1. Phải chăng ông có lực thần nào,
    Hay đã học hành kỹ thuật cao,
    Việc ấy khiến ông không nhiễm độc,
    Khi cầm nọc rắn giết người sao?

Gã đáp, miêu tả năng lực của mình như sau:

  1. Ko-sy ẩn sĩ chốn rừng hoang,
    Khổ hạnh dài lâu giữ vững vàng,
    Chim chúa sau cùng đem tiết lộ,
    Cho ngài bùa chú bắt Long thần.
  2. Bậc Thánh tối cao sống ẩn thân,
    Trên sườn núi nọ thật cô đơn,
    Nhiệt tình hầu hạ ngài, ta đã,
    Phụng sự ngày đêm chẳng nhọc nhằn.
  3. Vì vậy, cuối cùng để thưởng công,
    Cho ta hầu hạ những năm ròng,
    Đạo Sư khả kính ta tôn quý,
    Tiết lộ cho ta mật chú thần.
  4. Tin vào chú thuật vạn quyền năng,
    Ta chẳng sợ rồng rắn cực hung,
    Những nọc giết người, ta giải hết,
    Ta là bậc trí giả À-lam.

Trong khi nghe gã này nói, gã Bà-la-môn hạ đẳng kia nghĩ thầm: “Gã Àlambàyana này sẵn sàng trao bảo ngọc cho kẻ nào chỉ chỗ chúa rồng Nàga, vậy ta chỉ chỗ của Long vương Bhùridatta cho gã rồi lấy bảo ngọc”. Thế là gã ngâm kệ hỏi ý kiến con trai:

  1. Con hỡi, ta tranh lấy bảo châu,
    So-ma, ta hãy vội đi mau,

    Đừng làm lỡ vận như người dại,
    Đập dĩa cơm bằng gậy bấy lâu.

Somadatta đáp:

  1. Mọi hiển vinh ngài đã phát ban,
    Khi cha đi đến ở tha phương,
    Nay cha trở mặt và ăn cướp,
    Như vậy là đền nghĩa đáp ân?
  2. Vì dù cha muốn được giàu sang,
    Đi tìm như trước ở Long vương,
    Xin ngài, ngài sẽ vui lòng tặng,
    Mọi thứ cha mong ước thỏa lòng.

Gã Bà-la-môn đáp:

  1. Những thứ được do bởi vận may,
    Chén cơm nằm sẵn ở trong tay,
    Ăn ngay đừng hỏi gì thêm nữa,
    Con sẽ mất phần tặng thưởng này.

Somadatta nói:

  1. Đất này đang há miệng chờ trông,
    Lửa địa ngục nung nấu cực nồng,
    Chờ đợi sau cùng người phản bội,
    Hay cơn đói lã xé tan lòng,
    Sống tàn, chết dở, con người ấy,
    Kẻ dối lừa ngay bạn chí thân.
  2. Hãy cầu bậc Đại trí Dat-ta,
    Nếu muốn giàu sang, ngài sẽ cho,
    Điều nguyện ước hằng mong thỏa mãn,
    Song cha gây tội lỗi này ra,
    Con e tội ấy không lâu sẽ,
    Phát lộ cha ngay, thật đấy mà.

Gã Bà-la-môn đáp:

  1. Song nhờ tế lễ thật cao sang.
    Tội ác La-môn có thể mang,
    Tuy thế, về sau đều rửa sạch,
    Chúng ta dâng đại lễ đăng đàn,
    Như vầy sẽ được làm thanh tịnh,
    Giải thoát tội kia thật dễ dàng!

Somadatta nói:

  1. Cha hãy ngưng lời nói xấu xa,
    Con không ở lại nữa bây giờ,
    Lúc này chính lúc con từ biệt,
    Con chẳng cùng cha bước nữa mà,
    Vì sự đê hèn này cấu xé,
    Đang làm thối nát trái tim cha.

Nói xong chàng trai hiền đức kia bác bỏ lời cha dụ dỗ, thét vang lên bằng giọng sang sảng làm chấn động cả chư thần quanh vùng ấy:

– Ta không thể đồng hành với một kẻ tội lỗi như thế được.

Rồi chàng bỏ đi ngay trong khi người cha đứng lặng nhìn theo, sau đó chàng đi sâu vào rừng núi Himavat, trở thành một ẩn sĩ, tu tập rồi chứng đắc các Thắng trí cùng các Thiền chứng, sau được sinh lên Phạm thiên giới.

*

Gã hạ đẳng Bà-la-môn nghĩ thầm: “Soma đi đâu nếu không phải là về nhà?”. Rồi khi thấy Àlambàyana hơi phật ý, gã vội bảo:

– Này Àlambàyana đừng ngại gì, ta sẽ đưa ông đến chỗ Bhùridatta Long vương.

Thế là gã đem Àlambàyana đến nơi chúa rồng đang trì giới và khi gã thấy ngài đang nằm cuộn tròn trên tổ kiến đầu thu lại, gã đứng tránh sang một bên, đưa tay chỉ ngài và đọc kệ sau:

  1. Bắt chúa rồng nơi chốn nó nằm,
    Chụp ngay viên ngọc quý muôn vàn,
    Hào quang đỏ rực màu tươi sáng,
    Như mão miệng trên chóp phượng hoàng.
  2. Hãy nhìn tổ kiến ở đằng xa,
    Rồng chúa nằm kia, trải rộng ra,
    Không có ý gì lo sợ cả,
    Giăng mình như một đống bông tơ;
    Nơi kia bắt lấy ngay rồng ấy,
    Trước lúc nó hay bạn đến mà.

Bậc Đại Sĩ mở mắt ra nhìn gã hạ đẳng kia, ngài suy nghĩ: “Ta đã đem gã ấy đến cung thất Nàga rồi cho gã hưởng vinh hoa tột bực, nhưng gã không nhận viên bảo ngọc ta ban cho, thế mà giờđây gã trở lại với người bắt rắn. Tuy nhiên nếu ta phẫn nộ gã vì việc làm phản trắc này thì côngđức của ta bị suy giảm. Giờ đây bổn phận tối cao của ta là giữ ngày trai giới đủ bốn phép, không được vi phạm cho nên ví dù gã Àlambàyana kia có phân thân ta ra từng mảnh hay đem ta nấu chín hoặc lấy xiêng đâm ta và nướng đi ta cũng không được căm hận gã về mọi việc ấy”.

Thế rồi ngài nhắm mắt lại, quyết giữ nhất tâm cao độ, ngài đặt đầu giữa đám mào rồi nằm hoàn toàn bất động.

V.- BẬC ĐẠI TRÍ DATTA BỊ BẮT

Lúc ấy gã Bà-la-môn hạ đẳng kia kêu lên:

– Này Àlambàyana, ông hãy bắt rồng Nàga này ngay rồi trao viên ngọc cho ta.

Gã Àlambàyana quá sung sướng khi nhìn thấy rồng chúa Nàga, nên không chút lưu tâm đến viên bảo ngọc nữa, gã ném ngọc vào tay gã kia bảo:

– Này hiền hữu Bà-la-môn, lấy ngọc đi.

Nhưng viên ngọc tuột ra khỏi tay gã và khi vừa rớt xuống đất liền biến mất vào cảnh giới Nàga. Gã Bà-la-môn thấy mình mất hết cả ba thứ: viên bảo châu, tình thân hữu của Bhùridatta và cả con trai nữa và gã vừa đi về nhà vừa lớn tiếng khóc than:

– Ta mất hết cả rồi, ta đã không nghe lời con ta.

Còn gã Àlambàyana trước hết bôi khắp thân mình gã các loại thuốc thần, ăn uống lấy sức rồi đọc thần chú và đến cạnh Bồ-tát, nắm lấy đuôi thật chặt, mở miệng ngài ra, phun vào một viên thuốc mà gã đã ngậm sẵn.

Rồng chúa Nàga bản tính thuần tịnh không để cho mình nổi sân hận vì sợ vi phạm giới luật công hạnh, nên mặc dù ngài mở mắt, ngài không giương to mắt ra.

Sau khi gã nhét đầy thuốc thần vào miệng chúa trồng, gã nắm đuôi rồng, đầu dốc ngược, lắt mạnh cho rồng phun những thức ăn đã nuốt vào, gã căng rồng nằm dài trên mặt đất, rồi lấy tay đè mạnh thân rồng như thể đè chiếc gối, gã chà sát cả bộ xương ngài, nắm đuôi, nện ngài như thể đập tấm vải. Bậc Đại Sĩ không phẫn nộ mặc dù ngài đang chịu đau đớn như vậy.

*

Bậc Đạo Sư tả việc này qua kệ sau:

  1. Nhờ các thuốc men đủ lực thần,
    Đọc thần chú có ác công năng,
    Gã cầm rồng chúa không kinh hãi,
    Và bắt buộc ngài phải phục tuân.

*

Sau khi làm bậc Đại Sĩ tơi tả như vậy, gã sửa soạn một cái giỏ đựng cây leo bỏ ngài vào, lúc đầu thân mình đồ sộ của ngài không vào lọt trong giỏ, nhưng sau khi đá vài cái, gã cố nhét ngài vào. Rồi đến một làng kia, gã đặt giỏ giữa làng rao to:

– Ai muốn xem rồng chúa thì ra mà xem.

Cả làng đổ xô ra vây quanh. Gã liền gọi chúa Nàga ra. Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Tốt hơn hết là ta nên múa để làm hài lòng dân chúng hôm nay, có lẽ gã kiếm được nhiều tiền sẽ thả ta ra; thôi gã bảo ta làm gì ta cũng làm cả”. Thế là khi gã Àlambàyana đem ngài ra khỏi giỏ, bảo ngài phình ra, ngài liền phình lớn thân, khi gã bảo ngài thu nhỏ hay cuộn tròn thành một đống như mô đất, hoặc hiện ra một mào, hai mào, hay ba, bốn, năm, mười, hai mươi hoặc cả trăm mào, hoặc hiện mình cao thấp, hữu hình, vô hình, hoặc biến thành xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, hoặc phun nước hay phun khói cùng nước, ngài điều hiện đủ mọi hình dáng như gã ra lệnh và biểu diễnđủ tài nhảy múa.

Người đứng xem không ai cầm được nước mắt và dân chúng đem tiền, vàng bạc, áo quần, đồ trang sức đủ loại như thế, nên chỉ trong làng ấy gã đã kiếm được cả trăm ngàn đồng tiền.

Lúc bấy giờ, thoạt đầu mới bắt được bậc Đại Sĩ, gã có ý định thả ngài ra sau khi đã kiếm được một ngàn đồng tiền, nhưng khi đã kiếm được nhiều như thế, gã lại nói:

– Chỉ trong một ngôi làng nhỏ mà ta đã kiếm được chừng này huống hồ đến một kinh thành ta còn kiếm được bao nhiêu nữa.

Thế là sau khi để gia quyến ở lại đó, gã trang hoàng một cái giỏ bằng ngọc vàng thật đẹp, ném bậc Đại Sĩ vào trong, gã lên một chiếc xe ngựa sang trọng cùng một đoàn tuy tùng rầm rộ. Cứđến mỗi làng mạc, thị trấn, gã đều bắt ngài nhảy múa, sau cùng họ đến thành Ba-la-nại. Gã cho rồng chúa ăn mật và hạt ngũ cốc rang, lại giết ếch nhái cho ngài ăn, nhưng ngài không ăn, vì sợ gã không chịu thả ngài ra. Nhưng dù ngài không ăn gì, gã vẫn bắt ngài diễn trò, bắt đầu tại bốn làng gần cổng thành, họ ở lại cả tháng ròng.

Rồi vào ngày rằm trai giới, gã tâu trình vua rằng gã sẽ cho biểu diễn tài múa rồng hầu vua ngự lãm. Vì thế vua ban lệnh bằng một hồi trống cho dân chúng tụ tập lại đông đủ và những tầng ghế sân khấu được dựng lên trước sân chầu.

VI.- BẬC ĐẠI TRÍ DATTA ĐƯỢC GIẢI CỨU

Nhưng vào ngày Bồ-tát bị Àlambàyana bắt, mẹ của Bồ-tát nằm mơ thấy một người da đen mắt đỏ vung kiếm cắt tay bà mang đi, máu chảy ròng ròng. Bà kinh hoàng tỉnh giấc, sờ tay phải mới biết mình nằm mơ. Rồi bà suy nghĩ: “Ta đã thấy một giấc mơ hãi hùng, nó báo trước một tai họa nào đó sắp xảy ra hoặc cho bốn con ta, hoặc Đại vương Dhurì-datta, hoặc cho chính ta”.

Nhưng lập tức bà liên tưởng ngay đến Bồ-tát: “Hiện nay tất cả các con đều ở cảnh giới Nàga trừ Bhùridatta lên cõi nhân gian quyết tâm hành trì giới luật với lời nguyện giữ ngày trai giới, nên ta lo lắng không biết có kẻ bắt rắn hay chim Garula nào bắt con ta chăng”.

Bà cứ băn khoăn mãi về ngài như thế, cuối cùng sau nửa tháng bà hết sức u sầu, tự nhủ: “Con ta không thể nào sống xa ta trong nửa tháng được, chắc có tai nạn gì xảy ra cho con ta rồi”. Một tháng trôi qua không biết bao nhiêu lệ sầu đã tuôn ra từ mắt bà trong cơn đau buồn ấy, bà cứ ngồi nhìn con đường ngài thường trở về nhà, nói không ngớt:

– Chắc chắn bây giờ con ta phải về nhà, chắc chắn bây giờ con ta phải về nhà. Lúc ấy thái tử Sudassana cùng một đám tùy tùng đông đảo đến yết kiến phụ vương và mẫu hậu sau một tháng xa cách. Sau khi để đám tùy tùng đứng ngoài điện, chàng bước lên nội cung đảnh lễ mẹ xong, đứng sang một bên nhưng vì đang lo buồn chuyện Bhùridatta, bà không nói với chàng một lời nào cả. Chàng nghĩ thầm: “Bất cứ khi nào ta về thăm mẹ trước kia, mẹ ta đều vui mừng tiếp đón ân cần niềm nở, thế sao hôm nay mẹ ta lại buồn thảm quá như vậy, vì cớ gì?”

Thế là chàng hỏi mẹ:

  1. Mẹ thấy con về, đủ chiến công,
    Mọi đều ước nguyện đã vuông tròn,
    Tuy nhiên chẳng tỏ bày vui vẻ,
    Khuôn mặt mẹ đầy vẻ tối sầm.
  2. Như hoa sen được hái thô sơ,
    Rũ xuống trong tay, chóng héo khô,
    Có phải đây là cách mẹ đón,
    Khi con trở lại tự phương xa?

Chàng ngâm kệ khác hỏi mẹ thêm:

  1. Có kẻ nào la mắng mẹ không,
    Hay là mẹ khổ não trong lòng,
    Khiến cho mẹ mặt mày u ám,
    Khi mẹ thấy con trở lại chăng?

Bà mẹ đáp như sau:

  1. Mẹ đã thấy cơn ác mộng vầy:
    Cách đây một tháng đúng hôm nay,
    Một người đến cắt lìa tay phải,
    Khi mẹ nằm sàng tọa ngủ say,
    Rồi nó kéo đi tay vấy máu,
    Lệ ta chẳng cản được người này.
  2. Tràn ngập lòng ta nỗi hãi hùng,
    Từ khi thấy cảnh tượng hung tàn,
    Đêm ngày ta chẳng hề hay biết,
    Một phút mừng vui hoặc lạc an.

Nói xong bà lớn tiếng khóc than:

– Ta không biết con yêu quý của ta giờ đây ở đâu, chắc lại có tai họa gì xảy ra cho em con rồi.

Và bà nói to lên:

  1. Vương nhi, bao mỹ nữ thanh xuân,
    Ngày trước thường kiêu hãnh kế gần,
    Trang điểm lưới vàng, tóc óng ả,
    Dat-ta con hỡi, vắng Long quân!
  2. Quanh chàng bao chiến sĩ oai hùng,
    Lẫm liệt tuốt gươm, đám hạ thần,
    Như khóm Ka-ni hoa chói sáng,
    Ôi! Ta tìm kiếm đã hoài công!
  3. Ta phải đi theo dấu vết chân,
    Tìm nơi chàng đã định nương thân,
    Hoàn thành nguyện ước đời tu sĩ,
    Và tự biết chàng có vạn an.

Nói xong bà cùng đám thị vệ của chàng và các cung nữ của bà đi ra ngoài.

Lúc bấy giờ các vương phi của Bồ-tát chưa biết lo âu khi họ không thấy ngài trên tổ kiến, vì họ bảo là ngài chắc chắn đã đi về cung thăm mẹ, nhưng khi được tin bà đang khóc lóc vì không thấy con đâu, họ đều chạy ra đón bà và quỳ xuống chân bà đồng lớn tiếng kêu than:

– Ôi mẫu hậu, cả tháng này chúng thần thiếp chưa gặp đức phu quân.

*

Bậc Đạo Sư tả lại cảnh ấy như sau:

  1. Các vương phi của vị Long vương,
    Nhìn mẫu hậu đang bước đến gần,
    Họ khóc than vô cùng thảm thiết,
    Và dang tay trước mặt bà hoàng:
  2. “Long quân, bậc Đại trí Dat-ta,
    Đi vắng nơi đâu một tháng qua,
    Sống thác, chúng thần không thể biết,
    Trong lòng tuyệt vọng, nói sao giờ?”

*

Mẫu hậu cùng các vương phi than khóc ở giữa đường, rồi cùng nhau bước vào cung; nỗi sầu khổ của bà tuôn ra không nguôi được khi bà nhìn thấy tọa sàng của con.

  1. Giống như chim mẹ quá đơn côi,
    Nhìn tổ vắng, con bị giết rồi,
    Cũng vậy, sầu dâng tràn dạ mẹ,
    Khi tìm con trẻ đã hoài hơi.
  2. Thẳm sâu trong dạ, nỗi sầu bi,
    Thiêu đốt bừng lên ngọn lửa kia,
    Như thể lò rèn mà chú thợ,
    Mang theo nơi gã được mời đi.

Trong lúc bà than khóc như vậy,cung thất của Bhùridatta như vang dội một âm hưởng dài lê thê khác nào tiếng sóng gầm vi vu của biển cả. Không một ai khỏi xúc động và cả cung thất như rừng cây Sàla bị rung chuyển trong cơn bão táp của ngày tận thế.

*

Bậc Đạo Sư tả quang cảnh như sau:

  1. Như Sà-la ngã dưới cơn dông,
    Cành lá gãy lìa, rễ bật tung,
    Cũng vậy, vợ con và mẹ nữa,
    Nằm trong nhà vắng vẻ tang hoang.

*

Các hoàng huynh Aritha và Subhaga đến yết kiến mẹ, nghe tiếng ồn ào vội chạy vào cung hết sức trấn an mẫu thân:

*

Bậc Đạo Sư tả cảnh ấy như sau:

  1. A-rit-tha với Su-bha-ga,
    Nôn nóng đến an ủi mẹ già,
    Nghe tiếng khóc than rền thảm thiết,
    Trong nhà bậc Đại trí Dat-ta:
  2. – Xin mẹ an lòng, dứt khóc than,
    Đây là số phận của trần gian,
    Mọi loài đều phải qua sinh tử,
    Quy luật vô thường vạn vật mang.

Samuddajà, mẫu hậu đáp:

  1. Con ơi, mẹ biết luật rành rành,
    Đây số phận muôn loại chúng sinh,
    Nhưng mẹ mất con không hợp lý,
    Bơ vơ, mẹ chỉ biết buồn tênh.
  2. Quả thật, nếu không thấy được con,
    Bảo châu đem hỷ lạc tâm hồn,
    Dat-ta Đại trí, thì ta sẽ,
    Kết liễu đêm nay cuộc sống buồn!

Các vương tử vội bảo:

  1. Đừng quá sầu bi, hỡi mẹ hiền,
    Hãy làm dịu bớt nỗi u phiền,
    Chúng con sẽ đón về vương đệ;
    Xuyên suốt qua toàn cõi đất liền,
    Ở khắp mọi nơi và mọi hướng,
    Chúng con theo dõi vết chân em.
  2. Băng qua đồi núi hoặc đồng bằng,
    Thị trấn, và khắp các xóm làng,
    Cho đến khi tìm ra tiểu đệ,
    Chỉ trong độ khoảng mươi ngày đàng,
    Chúng con xin hứa cùng hiền mẫu,
    Đem tiểu đệ về được vạn an.

Lúc đó Sudassana suy nghĩ: “Nếu cả ba anh em ta cùng đi về một hướng e rằng chậm trễ mất, vậy chúng ta phải đi về ba xứ khác nhau: Một em lên cõi Thiên thần, một em đến núi Himavat, một em nữa lên cõi nhân gian, em ta sẽ đốt hết làng xóm, thị trấn nào mà em ta tìm ra được Bhùridatta vì em ta là bản tính độc ác, không nên để em ta lên đó”.

Thế là chàng bảo em:

– Vương đệ, hãy lên cõi Thiên thần, xem có phải chăng Thiên chủ triệu vương đệ Bhùridatta để thuyết Pháp cho các ngài, thì hãy đưa vương đệ trở về .

Chàng lại bảo Subhaga:

– Hãy lên núi Himavat tìm Bhùridatta trong cả năm con sông và đem về đây.

Còn chàng quyết định phần mình lên cõi nhân gian. Chàng suy nghĩ: “Nếu ta giả dạng kimđồng, dân chúng sẽ phỉ báng ta, thôi ta phải giả dạng một ẩn sĩ, vì các vị khổ hạnh thườngđược người đời quý trọng niềm nở chào đón”. Thế là chàng cải trang làm một vị ẩn sĩ khổ hạnh, từ giã mẹ ra đi.

Lúc bấy giờ Bồ-tát có một cô em gái khác mẹ, tên gọi Accimukhì, rất yêu thương Bồ-tát. Khi nàng thấy Sudassana ra đi, nàng bảo:

– Vương huynh ôi, em rất lo ngại, cho em đi với.

Chàng đáp:

– Hiền muội, hiền muội không thể đi với ta được vì ta đã cải trang làm ẩn sĩ rồi.

– Thế thì tiểu muội xin biến thành con ếch nhỏ đậu trên đám tóc bện lại của vương huynh.

Chàng ưng thuận, thế là nàng biến thành nhái con nằm trong đám tóc bện lại của chàng. Sudassana quyết đi tìm em ngay từ lúc bước khởi đầu, cho nên chàng hỏi vương phi xem vương đệ hành trì trai giới ở đâu để đi ngay đến đó. Khi chàng thấy vết máu ở nơi Bồ-tát bị Àlambàna bắt và nơi Àlambàna đã làm giỏ cây leo để đựng ngài, chàng chắc chắn rằng Bồ-tát đã bị người bắt rắn mang đi, nên lòng chàng nặng trĩu u sầu, mắt đẫm lệ đi theo dấu chân Àlambàna.

Khi chàng đến ngôi làng đầu tiên Bồ-tát biểu diễn tài múa, chàng hỏi dân chúng xem có phải một người bắt rắn đã diễn trò với một con rồng như vầy chăng.

– Đúng vậy, cách đây một tháng, Àlambàna đã diễn trò như vậy.

– Thế gã có kiếm được gì lợi chăng?

– Gã kiếm được một trăm ngàn đồng tiền chỉ nội nơi này.

– Thế bây giờ gã đi đâu?

– Gã đã đi đến làng nọ rồi.

Chàng lại ra đi, vừa đi vừa hỏi đường, cuối cùng chàng đến cung môn. Ngay lúc ấy Àlambàna đã đến nơi, tắm rửa, xức dầu thơm xong, mặc áo dài sang trọng, rồi bảo tên hầu mang giỏ đựng rồng được trang hoàng vàng ngọc ấy ra, dân chúng tụ tập rất đông, một chiếc cẩm đôn đặt sẵn dành cho vua và trong khi còn ở trong cung, vua đã truyền lệnh:

– Trẫm sắp ngự triều, hãy bảo Long vương diễn trò đi.

Lúc ấy gã Àlambàna đặt cái giỏ đính châu ngọc ấy trên một tấm thảm sặc sỡ đủ màu, ra dấu hiệu bảo:

– Rồng chúa, ra đây.

Sudassana đang đứng ở cạnh đám đông trong lúc bậc Đại Sĩ ngẩng đầu lên nhìn quanh dân chúng. Thời bấy giờ loài rồng Nàga nhìn đám người vây quanh vì hai lý do: Một là để xem có chim Garula nào, hay là có người diễn trò nào không. Nếu thấy chim Garula thì chúng sẽ không múa vì sợ hãi, còn nếu có người diễn trò nào thì chúng lại không múa vì hổ thẹn.

Trong lúc nhìn quanh như thế, bậc Đại Sĩ thấy anh mình trong đám đông, liền cố ngăn dòng lệ đang tràn ra mắt và bò ra khỏi giỏ, tiến đến anh mình. Đám đông thấy ngài đến gần, hoảng sợ bỏ chạy, chỉ còn lại một mình Sudassana, vì thế ngài đến gần anh, đặt đầu lên chân anh và khóc, Sudassana cũng khóc theo. Sau cùng bậc Đại Sĩ nín khóc và bò vào giỏ như cũ.

Àlambàna nhủ thầm: “Chắc rồng Nàga này đã cắn ẩn sĩ kia, vậy ta phải an ủi vị đó mới được”. Gã đến gần chàng và bảo:

  1. Rồng vừa tuột khỏi bàn tay,
    Chụp lấy chân ngài thật mạnh thay,
    Nó cắn ngài chưa?Xin chớ sợ,
    Không gì độc hại nọc rồng này.

Sudassana muốn nói chuyện với gã, vì vậy chàng đáp:

  1. Rồng của ngài không thể hại ta,
    Ta đây xứng hợp với rồng mà,
    Hãy tìm khắp chốn, ngài không thấy,
    Một kẻ nhử rồng rắn giống ta.

Àlambàna không biết chàng là ai, vì vậy gã nổi giận nói:

  1. Gã này giả dạng Bà-la-môn,
    Thử thách lão đòi chuyện thiệt hơn,
    Tất cả đám đông nghe lão nói,
    Xử cho hai phía thật công bằng.

Sudassana liền đáp kệ:

  1. Vô địch của ta chính nhái con,
    Rồng kia vô địch của tôn ông,
    Hãy đem đánh cuộc năm ngàn chẵn,
    Để bọn chúng ta trợ lực hùng.

Àlambàna bắt bẻ:

  1. Ta giàu phương tiện thật cao sang,
    Mạt vận ông quê kệch xó làng,
    Ai người làm chứng phe ông đó,
    Và số tiền đâu đặt xuống bàn?
  2. Có phần bảo đảm của ta đây,
    Tiền cuộc, nếu ta mất vận may,
    Năm ngàn đồng sẽ nêu uy lực,
    Việc thử thách kia, đáp ứng ngay.

Sudassana nghe vậy liền bảo:

– Nào ta thử trổ tài để được năm ngàn đồng tiền.

Và chàng không nao núng bước vào cung vua, yết kiến đức vua, tức là cửu phụ của chàng, và ngâm kệ:

  1. Muôn tâu chúa thương, nghe lời thần,
    Đừng bỏ dịp may, hưởng phước phần,
    Mong Chúa thượng vì thần bảo chứng,
    Đem ra đánh cuộc giá năm ngàn!

Vua nghĩ thầm: “Ẩn sĩ này đòi một số tiền quá lớn, thế là nghĩa gì?”.Vì thế ngài liền đáp:

  1. Thân phụ ngài trao lại nợ đời,
    Hay là món nợ của riêng ngài,
    Khiến ngài phải đến đây đòi trẫm,
    Một món nợ nghe thật lạ tai!

Sudassana ngâm hai vần kệ:

  1. À-lam muốn cuộc với Long vương,
    Đánh bại hạ thần lập chiến công,
    Thần chỉ có đây con nhái bén,
    Phá tan kiêu mạn Bà-la-môn.
  2. Chúa thượng, xin ngài hãy giáng lâm,
    Ngự du cùng với đám tùy tùng,
    Và nhìn chiến cuộc nơi này nhé,
    Đang đợi gã kia đấu với thần.

Vua ưng thuận ra đi cùng với ẩn sĩ. Khi Àlambàna thấy vua, gã liền nghĩ: “Ẩn sĩ này kéo được nhà vua vào phe mình, chắc phải là thân hữu của vương gia rồi”. Gã bỗng sinh ra sợ hãi, vội chạy theo chàng và nói:

  1. Ta chẳng muốn đâu hạ nhục ngài,
    Ta không một chút muốn khoe tài,
    Nhưng ngài khinh thị rồng này quá,
    Kiêu mạn sẽ làm thất bại thôi.

Sudassana đáp hai vần kệ:

  1. Ta chẳng cầu mong hạ nhục ngươi,
    Cũng không khinh kẻ muốn khoe tài,
    Nhưng sao ngươi phỉnh phờ dân chúng,
    Bằng loại rắn không giết hại ai?
  2. Ví thử người ta biết tướng chân,
    Như ta thấy nó rõ ràng ràng,
    Nói gì đến chuyện vàng hay bạc,
    Ngươi chỉ được ăn một bữa xoàng!

Àlambàna nổi giận đáp:

  1. Nhà ngươi khất thực khoác da lừa,
    Dơ bẩn và trông vẻ xác xơ,
    Ngươi dám khinh khi rồng của lão,
    Nói rồng không biết cắn bao giờ!
  2. Đến đây và thử việc rồng làm,
    Học hỏi bằng kinh nghiệm nếu cần,
    Ta bảo đảm dù không độc hại,
    Nọc rồng sẽ biến bạn thành than!

Sudassana liền ngâm kệ chế nhạo gã:

  1. Chuột hay rắn nước cắn người nào,
    Chọc giận nó phun nọc độc sao,
    Rồng đỏ đầu này không có hại,
    Nó không cắn, dẫu biết phun cao!

Àlambàna đáp hai vần kệ:

  1. Ta đã được bao vị Thánh nhân,
    Thực hành pháp khổ hạnh không ngừng,
    Bảo người bố thí trong đời sống,
    Sẽ đến cõi thiên lúc mạng chung.
  2. Ta khuyên ngươi bố thí ngay liền,
    Nếu thực ngươi còn chút của tiền,
    Rồng sẽ biến ngươi thành cát bụi,
    Ngươi không có thể sống lâu bền!

Sudassana lại nói:

  1. Ta cũng nghe từ các Thánh nhân,
    Người bố thí đến thiên cung,
    Vậy mau bố thí khi còn sống,
    Nếu có vật gì để phát phân.
  2. Nhái của ta không phải loại thường,
    Sẽ làm ngươi hạ giọng kiêu căng,
    Là công chúa của Long vương đó,
    Nàng ấy là bào muội chính tông,
    Mồm của Ac-ci phun ngọn lửa,
    Hơi nàng cực độc, tiếng vang lừng.

Rồi chàng đứng giữa đám đông gọi to:

– Này hiền muội Accimukhì, em hãy ra khỏi tóc ta và đứng trên tay ta.

Chàng đưa tay ra, và khi nàng nghe chàng bảo, liền thốt lên tiếng kêu ba lần như loài ếch nhái lúc còn nằm trên tóc chàng, rồi nàng nhảy ra vai chàng, phun ra ba giọt nọc độc trên lòng bàn tay chàng rồi trở lại mái tóc chàng như cũ. Sudassana đứng cầm nọc rắn ấy thốt lên ba lần:

– Xứ này sẽ bị thiêu rụi.

Âm vang rền khắp Ba-la-nại đến mười hai dặm đường. Vua hỏi vật gì có thể hủy được nọc này.

– Tâu Đại vương, thần chẳng thấy chỗ nào có thể thả nọc này xuống được.

– Đất này rộng lắm, cứ thả xuống đi.

– Không thể được.

Chàng đáp bằng vần kệ sau:

  1. Nếu thần thả nó xuống đồng bằng,
    Tâu Đại vương, nghe kỹ hạ thần,
    Đám cỏ, cây leo và dược thảo,
    Thảy đều tiêu diệt cháy khô cằn.

– Vậy thì hãy ném lên trời.

– Cũng không được.

Chàng đáp bằng vần kệ sau:

  1. Nếu hạ thần nghe lệnh Đại vương,
    Ném tung độc ấy giữa không gian,
    Sẽ không mưa, tuyết trời rơi xuống,
    Cho đến bảy năm phải lụi tàn.

– Vậy thì hãy ném xuống nước.

– Cũng không được.

Chàng đáp bằng vần kệ sau:

  1. Nếu vào trong nước, nọc này rơi,
    Tâu Đại vương, nghe kỹ mấy lời:
    Tất cả cá, rùa đều phải chết,
    Muôn loài thủy tộc sống ngoài khơi.

Vua kêu lên:

– Trẫm cũng chẳng biết làm sao nữa. Ngài hãy chỉ cho trẫm cách nào để đất nước khỏi bị tiêu diệt.

– Tâu Đại vương, xin cho đào ba hố liền nhau.

Vua ra lệnh làm ngay. Sudassana đổ đầy thuốc độc vào hố giữa, phân bò vào hố thứ hai, và thần dược vào hố thứ ba, rồi chàng thả nọc độc vào hố giữa, một ngọn lửa đầy khói bùng lên, lan qua hố phân bò, bùng lên lần nữa, rồi lan qua hố thuốc thần, thiêu rụi hết thuốc rồi mới tắt. Àlambàna đứng gần hố ấy, bị hơi nóng của nọc độc bắt phải, màu da liền biến dạng và gã thành tên hủi trắng.

Gã kinh hoàng la lên ba lần:

– Ta sẽ thả rồng chúa ra.

Nghe thế, Bồ-tát liền bước ra khỏi giỏ dát ngọc vàng ấy, hiện hình sáng lòa mang đầy châu ngọc, sừng sững uy nghi trong dáng điệu của Thiên chủ Indra (tức Sakka). Sudassana và Accmukhì đứng hai bên.

Lúc đó Sudassana hỏi vua:

– Đại vương có biết đây là dòng dõi nào chăng?

– Trẫm không được biết.

– Đại vương không biết chúng thần, nhưng Đại vương biết chuyện vua Kàsi gả công chúa Samuddàja cho rồng chúa Dhàtarattha chứ?

– Trẫm biết rõ lắm, đó là tiểu vương muội của trẫm.

– Chúng thần là con trai của công chúa ấy, Đại vương là cửu phụ (cậu) của chúng thần.

Thế rồi vua ôm lấy các cháu, hôn lên đầu và khóc, xong lại mang các cháu vào cung tiếp đãi rất trọng thể. Trong khi vua ân cần đón tiếp Bhùridatta, vua hỏi Bồ-tát bằng cách nào Àlambàna đã bắt ngài trong khi ngài có nọc thần vô địch như vậy. Sudassana liền kể hết đầu đuôi câu chuyện rồi bảo:

– Tâu Đại vương, một vị vua phải trị vì quốc độ như thế này.

Chàng liền thuyết Pháp cho vua, rồi chàng bảo:

– Tâu Cửu phụ, mẫu hậu đang héo mòn vì vắng bóng Bhùridatta, chúng tiểu điệt không dám ở lâu hơn nữa.

– Phải lắm, các hiền điệt cứ ra về, nhưng trẫm cũng muốn gặp vương muội, vậy làm cách nào?

– Tâu Cửu phụ, thế tổ phụ, Đại vương Kàsi, đâu rồi?

– Ngài không thể sống thiếu vương muội, nên ngài đã rời ngôi báu, đi làm ẩn sĩ, hiện đang sống trong rừng kia.

– Tâu cửu phụ, mẫu hậu cũng đang ao ước được gặp tổ phụ cùng cửu phụ, chúng tiểu điệt xin rước mẫu hậu đến lều ẩn sĩ của tổ phụ, lúc ấy cửu phụ sẽ gặp luôn mẫu hậu tại đó.

Thế là họ định ngày xong, và rời cung. Sau khi từ giã các cháu trai, vua khóc lóc trở vào; còn họ liền độn thổ ra đi về cảnh giới Nàga.

VII .- GÃ THỢ SĂN BỊ TRỪNG PHẠT

Khi bậc Đại Sĩ trở về với dân chúng như vậy, cả kinh thành đang rền vang những lời than khóc khắp nơi . Chính ngài cũng mệt mỏi vì cả tháng trời ở trong giỏ, nên đi nằm dưỡng bệnh, và thần dân Nàga tấp nập đến viếng thăm ngài đông vô số, khiến ngài lại mệt thêm vì phải chuyện trò cùng họ. Trong lúc ấy Kànàrittha lên thiên giới tìm không gặp bậc Đại Sĩ, là kẻ trở về đầu tiên, nên chàng được phân công làm thần canh cửa của bậc Đại Sĩ vì chàng được xem là kẻ tính tình nóng nảy có thể xua tan hết đám đông Nàga ấy.

Phần Subhàga, sau khi tìm khắp vùng núi Himavat (Tuyết Sơn), cả đại dương cùng các sông ngòi không gặp, liền phiêu bạt đến vùng sông Yamunà để tìm kiếm.

Lúc bấy giờ gã Bà-la-môn hạ đẳng thấy Àlambàna đã hóa thành người hủi, gã nghĩ thầm: “Gã ấy hóa hủi, chỉ vì quấy phá Bhùridatta; nay ta cũng vậy, chỉ vì ham ngọc báu mà phản bội ngài dù ngài là ân nhân của ta, tội này ta sẽ phải mang. Vậy trước khi họa đến, ta phải xuống dòng sông Yamunà rửa sạch tội trong chỗ tẩy uế linh thiêng này”.

Thế rồi gã xuống sông, tự cho là gã sẽ rửa sạch tội phản bội kia. Vừa lúc ấy Subhàga đến nơi, nghe gã nói, liền nghĩ thầm: “Gã khốn nạn tồi tệ này chỉ vì tham bảo ngọc mà phản bội anh ta, ngài đã ban cho gã mọi phú quý vinh hoa, ta không thể nào tha mạng gã được”. Vì vậy chàng cuộn đuôi quanh chân gã, kéo gã dìm xuống nước, đến khi gã ngạt thở, chàng để yên gã một lát; gã ngẩng đầu lên, chàng lại dìm xuống, nhiều lần như thế cho đến cuối cùng gã Bà-la-môn hạ đẳng kia ngẩng đầu lên bảo:

  1. Ta đang tắm ở chốn thiêng này,
    Dòng thánh Pa- yà linh hiển thay,
    Chân cẳng ta trên đầy nước thánh,
    Quỷ nào hút máu của ta đây?

Subhàga đáp lời gã qua vần kệ sau:

  1. Chuyện kể ngày xưa có vị thần,
    Đến Kà-si đất nước kiêu căng,
    Long vương thật hiển vinh danh vọng,
    Hùng dũng cuộn tròn khắp núi sông,
    Ta chính con ngài đang chụp lão,
    Tên Su-bha, hỡi Bà-la-môn.

Gã Bà-la-môn nghĩ thầm: “Anh của rồng chúa Bhùridatta không muốn tha chết cho ta, nhưng ta thử làm động từ tâm của vị này bằng cách tán tụng phụ mẫu của họ, rồi xin tha mạng xem sao”. Thế là gã ngâm kệ sau:

  1. Kà-si vương tử thật oai linh,
    Mẫu hậu sinh dòng giống hiển linh,
    Ngài chớ để nô tài hạ đẳng,
    Chết chìm trong sóng nước vô tình.

Subhaga nghĩ thầm: “Gã Bà-la-môn độc ác này cố đánh lừa ta để ta xiêu lòng mà tha nó, nhưng ta chẳng tha nó đâu”. Thế là chàng đáp, nhắc lại các hành động của gã:

  1. Một nai khát nước đến dòng sông,
    Từ bụi cây, ngươi núp bắn cung,
    Kinh hãi, đau thương nai chạy trốn,
    Bỗng dưng tai họa giáng vào thân.
  2. Người thấy trong rừng nai ngã ra,
    Ngươi đem đòn gánh vác nai qua,
    Đến cây đa mọc đầy cành lá,
    Chằng chịt bao quanh gốc rễ cha.
  3. Sơn ca trỗi khúc nhạc du dương,
    Anh vũ trên cây nhảy rộn ràng,
    Đất trải cỏ xanh như thảm lót,
    Hoàng hôn mời nghỉ bước an nhàn.
  4. Mắt ngươi độc ác thấy anh ta,
    Đang ẩn mình trong đám lá đa,
    Mang sắc áo hè tươi rực rỡ,
    Vui đùa cùng với đám cung nga.
  5. Hoan hỷ, anh ta chẳng hại ai,
    Sao ngươi độc ác giết oan ngài,
    Nạn nhân vô tội, nhìn đây nhé!
    Tội ấy trên đầu ngươi tái lai.
    Ta chẳng tha ngươi dù phút chốc,
    Ngươi đành trả hận tối cao này.

Gã Bà-la-môn nghĩ thầm: “Vị này quyết không tha mạng ta, song ta phải tìm mọi cách thoát đi mới được”. Rồi gã ngâm kệ sau:

  1. Học hành, cầu nguyện để cúng dâng,
    Làm tế lễ trong ngọn lửa thần,
    Ba việc khiến La-môn được sống,
    Không ai xúc phạm dẫu hờn căm.

Subhaga nghe gã nói đâm ra do dự, chàng nghĩ thầm: “Ta sẽ mang nó về cảnh giới Nàga hỏi các vương huynh ra sao”. Và chàng ngâm hai vần kệ:

  1. Dưới dòng sông thánh Ya-mu-nà,
    Trải tận chân đèo núi Tuyết xa,
    Thủ phủ Nà-ga chìm đáy nước,
    Là nơi ngự trị chúa Dha-ta.
  2. Cũng là cung thất các vương huynh,
    Ta sẽ đưa lời ngươi biện minh,
    Tùy các vương huynh quyền định đoạt,
    Xử ngươi tối hậu thật công bình.

Chàng liền lôi cổ gã đi xềnh xệch cùng lớn tiếng lăng mạ phỉ báng gã cho đến cung môn của bậc Đại Sĩ.

VIII.- BẬC ĐẠI TRÍ BÁC BỎ VỆ ĐÀ

Kànàrittha đã trở thành thần giữ cửa đang ngồi đó, thấy gã kia bị kéo lôi đi một cách thô bạo như thế, liền ra gặp họ và bảo:

– Này Subhàga, đừng làm gã bị thương, tất cả Bà-la-môn đều là con của đấng Đại Phạm thiên; nếu ngài biết ta đang làm con ngài bị thương, ngài sẽ nổi giận và tiêu diệt thế giới Nàga của ta. Trên thế gian này các Bà-la-môn có địa vị cao nhất và thụ hưởng đại vinh danh, vương huynh chưa biết uy danh của họ, nhưng tiểu đệ đã biết rõ lắm.

Vì chuyện kể rằng Kànàrittha trong tiền kiếp ngay trước đời này đã sinh ra làm một Bà-la-môn tế tự, cho nên chàng mới nói quả quyết như vậy. Hơn nữa, nhờ kinh nghiệm của đời trước, chàng rất thông thạo việc tế tự cho nên chàng bảo Subhaga cùng hội chúng Nàga:

– Đến đây ta sẽ tả cho các bạn biết đặc tính Bà-la-môn tế lễ ra sao.

Rồi chàng tiếp tục nói như sau:

  1. Vệ-đà và các lễ tế đàn,
    Những điều trọng vọng thật cao sang,
    Thuộc quyền các vị La-môn ấy,
    Cho dẫu họ hèn hạ tận cùng.
  2. Đặc quyền họ hưởng đại quang vinh,
    Nếu kẻ nào cười nhạo miệt khinh,
    Sẽ mất của tiền và phạm luật,
    Sống trong tội lỗi thật điêu linh.

Rồi Kànàrittha hỏi Subhaga có biết ai tạo ra thế giới này không, khi Subhaga bảo không biết, chàng liền ngâm kệ bảo rằng thế giới được tạo dựng bởi đấng Phạm thiên, là vị tổ của các Bà-la-môn:

  1. Ngài tạo La-môn để học hành,
    Tạo dòng Sát-đế-lị điều binh,
    Cày bừa, Vệ-xá, và ngài tạo,
    Nô lệ Thủ-đà phụng mệnh trên.
    Như vậy chúa trời ban thượng lệnh,
    Từ thời nguyên thủy đã hình thành.

Kế đó chàng bảo:

– Các Bà-la-môn này có rất nhiều uy lực, ai thân cận với họ và cúng dường họ nhiều lễ vật thì sẽ được ngài định số phận cho khỏi tái sinh mà được ngay thiên giới.

Rồi chàng đọc kệ sau:

  1. Ku-ve-ra, So-ma, các thần,
    Dhà-tà, Vi-dha, cùng trời, trăng,
    Bao phen đã cử hành đàn tế,
    Ban các La-môn mọi phước ân.
  2. Aj-jun vĩ đại giáng tai ương,
    Chi chít ngàn tay mọc khắp thân;
    Mỗi cặp tay cầm cung dọa nạt,
    Dâng thần lửa lễ vật đầy tràn !

Rồi chàng tiếp tục tả cảnh huy hoàng của các Bà-la-môn cùng các lễ vật tối cao sang phải được đem cúng dường cho họ như thế nào:

  1. Cổ tích kể vua nọ cúng dâng,
    Thật nhiều, sau hỏa một thiên thần;
    Vua Mu-ja mãi thờ thần lửa,
    Giải khát lửa bằng bơ tưới tràn,
    Thần lửa cuối cùng đem tưởng thưởng,
    Ngài tìm ra lối đến thiên cung.

Rồi chàng ngâm các vần kệ này để chứng minh bài thuyết giáo của chàng:

  1. Du-ji đã sống trọn ngàn năm,
    Xe ngựa, quân hầu, thảy phục tuân,
    Ngài chọn cuối cùng đời ẩn sĩ,
    Từ am tranh đã đến thiên cung.
  2. Sà-ga chiến thắng khắp trần gian,
    Dựng trụ vàng dâng lễ tế đàn,
    Không ai thờ lửa hơn ngài cả,
    Ngài cũng thăng thiên hóa vị thần.
  3. Sữa, lạc, An-ga chúa Kà-si,
    Cúng dâng liên tục tưới tràn trề,
    Làm ngập sông Hằng thành biển cả,
    Cuối cùng triều Đế-Thích ngài về.
  4. Đại Đế Sak-ka có tướng quân,
    Dâng So-ma tửu, được vinh thăng,
    Nay ngài nắm giữ bao thần lực,
    Từ số phận như mọi thế nhân.
  5. Phạm thiên, đại tạo hóa, thành hình,
    Ranh giới núi non tại tế đình,
    Tuân lệnh ngài, sông Hằng chảy xuống,
    Vinh quang ngài đạt bởi hy sinh.

Rồi chàng hỏi anh:

– Này vương huynh, anh có biết tại sao biển cả thành muối mặn không uống được chăng?

– Hiền đệ Arittha, ta không được biết.

– Vương huynh chỉ biết làm tổn hại các Bà-la-môn thôi, này hãy nghe đây.

Rồi chàng ngâm vần kệ:

  1. Một ẩn sĩ, thông kệ, chú thần,
    Đứng trên bờ biển, đệ nghe rằng:
    Chạm vào biển, nó liền ăn sống,
    Từ ấy, nước không uống được dần.

Tất cả các Bà-la-môn đều như thế đấy.

Rồi chàng đọc kệ khác:

  1. Đế Thích xưa thành đấng Ngọc hoàng,
    Đặc ân chiếu xuống Bà-la-môn,
    Đông, tây, nam, bắc, đồng dâng lễ,
    Nên đượcVệ-đà, họ hưởng phần.

Cứ thế Arittha miêu tả các Bà-la-môn cùng các tế lễ hy sinh và kinh Vệ-đà cho hội chúng Nàga. Nghe vậy nhiều rồng Nàga tìm đến thăm Bồ-tát bên giường bệnh, và bảo nhau:

– Vương tử đang kể chuyện cổ tích.

Rồi dường như có nguy cơ là họ chấp nhận tà thuyết ấy.

Lúc bấy giờ Bồ-tát đang nằm trên sàng tọa nghe hết câu chuyện xong, hội chúng Nàga lại kể cho ngài nghe, ngài suy nghĩ: “Arittha đang kể một chuyện cổ sai lạc, ta phải ngắt lời thuyết giảng của em ta và đem chánh kiến lại cho hội chúng này”. Rồi ngài trở dậy, tắm rửa, trang hoàng châu báu xong liền ngồi trên bảo tọa, tụ tập hội chúng Nàga lại. Ngài cho gọi Arittha đến bảo:

– Này Arittha, hiền đệ đã nói lời sai lầm khi diễn tả các Bà-la-môn và kinh Vệ-đà, vì các tế lễ hy sinh theo nghi thức của kinh Vệ-đà không phải là điều đáng mơ tưởng và nó không thể đưa lối đến thiên giới, hãy nhìn kỹ đây những gì hư vọng trong lời nói của hiền đệ.

Thế rồi ngài ngâm các vần kệ này miêu tả các loại tế lễ hy sinh khác nhau:

  1. Vệ-đà là bẫy kẻ khôn ngoan,
    Lôi cuốn làm hư hỏng nạn nhân,
    Ảo ảnh tạo mê lầm mắt tục,
    Song bao bậc trí vượt an toàn.
  2. Kinh Vệ-đà không bí lực thần,
    Cứu người hèn, phản bội, vô luân,
    Lửa kia dù thắp bao năm tháng,
    Vô vọng cuối cùng tên chủ nhân.
  3. Dù cây toàn cõi đất chồng cao,
    Để thỏa nguyện thần lửa khát khao,
    Nó vẫn thèm thuồng, khao khát mãi,
    Nà-ga mong đáp ứng làm sao?
  4. Sữa thường cứ thế biến dần lên,
    Bơ, sữa đông là chuyện tự nhiên;
    Khao khát đổi thay vầy ngọn lửa,
    Càng khơi động, nó mãi cao lên.
  5. Lửa không cháy tự gỗ tươi, khô,
    Lửa cần nhen nhúm mới bùng to,
    Gỗ tươi, khô nếu đều bừng cháy,
    Ắt hẳn rừng xanh hóa hỏa lò!
  6. Kẻ chất củi, rơm đốt lửa cao,
    Đạt nhiều công đức, khác đâu nào,
    Đầu bếp nhen lò, hay thợ nguội,
    Hoặc người thiêu xác chết kia sao?
  7. Chẳng ai cầu nguyện, dẫu thành tâm,
    Hoặc chất mồi lên đốt lửa hồng,
    Được phước đức gì nhờ tế lễ,
    Lửa cao ngất khói cũng tàn dần!
  8. Lửa mà bạn nghĩ đáng tôn vinh,
    Vậy phải ở cùng rác thối tanh,
    Ăn xác chết hân hoan độc ác,
    Mọi người kinh tởm vội quay nhanh.
  9. Có người tôn kính lửa như thần,
    Giống bọn man ri trọng nước sông,
    Bọn chúng lạc ra ngoài chánh đạo,
    Đều không xứng được gọi thần nhân.
  10. Thờ lửa, tôi đòi của thế nhân,
    Vô tình, mù điếc trước lời than,
    Sống đời ích kỷ đầy lầm lỗi,
    Mơ tưởng thiên đường có được chăng?
  11. Bà-la-môn ấy muốn làm ăn,
    Nên bảo Phạm thiên cúng lửa thần,
    Sao Tạo hóa làm ra vạn vật,
    Lại thờ tạo vật chính tay làm?
  12. Pháp luật hão huyền, phi lý sao,
    Tổ tiên ta tưởng đạt sang giàu:
    “Học hành ngài tạo La-môn ấy,
    Sát- ly cầm quyền lực quý cao.

141-142. – Vệ xá cày bừa mọi đất đai,
Thủ -đà phụng mệnh của bao người,
Từ thời nguyên thủy là như vậy,
Phát xuất tối cao lệnh của trời”.
Ta thấy lệnh này đều áp đặt,
Mắt ta trông đã hiển nhiên rồi.

  1. Chỉ các La-môn được tế thần,
    Không ai ngoài Sát-ly cầm quân,
    Cày bừa Vệ-xá và nô lệ,
    Các Thủ-đà kia phải phục tuân.
  2. Vọng ngữ tham lam thuyết đảo điên,
    Kẻ ngu tin tưởng chuyện hư huyền,
    Ai người có mắt nhìn toàn cảnh,
    Sao chẳng công bình, hỡi Phạm thiên?
  3. Nếu quyền vô hạn khắp nơi nơi,
    Sao chính tay ban phúc hiếm hoi,
    Sao vật ngài sinh đều chịu khổ,
    Sao không ban phúc đến muôn loài?
  4. Lừa dối ngu si ở khắp nơi,
    Tràn đầy hư vọng, chánh chân vơi,
    Phạm thiên là vị bất công quá,
    Đã tạo thế gian lắm trái sai.
  5. Những kẻ được xem là trắng trong,
    Tha hồ giết nhái, rắn, trùng, ong,
    Tục này man rợ, ta khinh ghét,
    Như thể Kam-bo, bộ lạc rừng.

148-149. Nếu kẻ giết kia được trắng trong,
Nạn nhân cũng được đến thiên đàng,
La-môn hãy giết La-môn sạch,
Như vậy bọn này được lạc an,
Và cả những ai nghe thật kỹ,
Những lời chúng nói thật tà gian.

  1. Chẳng thấy bò, dê muốn thiệt thân,
    Để mong có cuộc sống cao hơn,
    Chúng miễn cưỡng đi vào chỗ chết,
    Vẫy vùng tuyệt vọng trút hơi tàn.
  2. Bao phủ tế đàn, chuyện sát sinh,
    Tuôn lời bóng bẩy tuyệt tài tình:
    “Tế đàn như thể con bò mập,
    Bảo đảm bao tâm nguyện đạt thành”.

152-153. Nếu củi chất quanh vật tế thần,
Chứa đầy kho báu, họ ca vang,
Bạc, vàng, châu, ngọc cho ta hưởng,
Cùng lạc thiên cung sẽ ngập tràn,
Hẳn họ tế đàn riêng họ hưởng,
Giữ cho mình sản nghiệp giàu sang.

  1. Bọn dối lừa, ngu xuẩn, ác gian,
    Chuyện dài thêu dệt phỉnh ngu dân:
    “Dâng tiền, cắt móng và râu tóc,
    Người sẽ được như nguyện thỏa lòng”.

155-156. Thí chủ ngây ngô sẵn nhiệt tình,
Với hầu bao đến, chúng vây nhanh,
Như bầy quạ xúm quanh chim cú,
Tâm hướng về bao chuyện ác hành,
Khiến nạn nhân kia thành sạt nghiệp,
Cuối cùng bị lột sạch sành sanh,
Đồng tiền chắc chắn người kia có,
Đổi lấy hứa suông chẳng thực hành.

157-158. Như bọn lạ tham được lệnh vua,
Tịch thu tài sản đám nông gia,
Bọn này cướp chỗ nào rình rập,
Tìm của với con mắt ác tà;
Không luật lệ nào lên án chúng,
Tuy nhiên chúng phải chết là vừa!

159-160. Tế sư phải nắm nhánh Bu-ta,
Làm lễ tế đàn tự trước kia,
Nó được gọi thay Thiên chủ đấy;
Thế nhưng nếu thật vậy từ xưa,
Phải chăng Thiên chủ In-dra đã,
Chiến thắng được yêu quỷ địch thù?
Tay của trời cho ngài ích lợi,
Có đâu làm quỷ sợ vu vơ?

161-162. Mỗi rặng núi trong quốc độ kia,
Chính là lễ vật tự ngàn xưa,
Đặt lên đàn tế thành từng đống,
Tín chủ đưa tay nhẫn nại ra
Chất lễ vật lên cao tựa núi,
Tuân theo lệnh Đại Phạm thiên mà!

163-164. “Núi được chất cao với lễ dâng”,
Nói như vậy đó các La-môn,
Khoe khoang huyễn hoặc, ôi ô nhục!
Đống gạch kia dù kiếm hết lòng,
Cũng chẳng chứa đâu nguồn mạch sắt,
Để người thợ mỏ phải hoài công.

  1. Chuyện kể một hiền thánh thuở xưa,
    Đang khi cầu nguyện ở bên bờ,
    Bị chìm xuống biển, từ thời đó,
    Nước biển không sao uống đến giờ!

166-167. Sông đã nhận chìm các Thánh hiền,
Hằng trăm và nước vẫn bình yên,
Xuôi dòng chảy mãi không hề thối,
Sao chỉ biển xanh giữ hận hiềm?
Nước mặn tràn vào trên mặt đất,
Do người đào, chẳng bởi lời nguyền.

168-169. Trước tiên chẳng có nữ, nam nhân,
Trí óc làm nhân loại sáng dần,
Dòng giống ban đầu bình đẳng cả,
Nhưng vì thành bại đã bao lần,
Làm con người đổi thay ngôi thứ,
Chẳng phải vì xưa thiếu phước ân,
Những lỗi lầm ngày nay đã khiến,
Họ thành ưu thắng hoặc cùng bần.

  1. Kẻ hạ đẳng kia dùng trí khôn,
    Đọc kinh này, trí chẳng cao hơn,
    La-môn tạo Vệ-đà làm hại,
    Khi các tha nhân đạt trí thông.
  2. Như vẹt, câu ca được thuộc lòng,
    Khó quên vì nhịp điệu du dương,
    Tối tăm ý nghĩa làm mê mẩn,
    Ngu trí nuốt trôi thật bốc đồng.
  3. Bà-la-môn chẳng giống thú hoang,
    Sư tử, cọp beo của núi ngàn,
    Chúng với trâu bò đồng một loại,
    Khác ngoài nhưng trí vẫn ngu đần.
  4. Nếu vua thắng trận dứt đao binh,
    Và sống bình an với bạn mình,
    Chế ngự dục tham, theo chánh đạo,
    Muôn dân hạnh phúc sống phồn vinh.
  5. Vệ-đà, Sát-đế-ly cầm quyền,
    Độc đoán cả hai, lại hão huyền,
    Mù quáng chúng lần mò tiến bước,
    Trên đường hồng thủy ngập liên miên.
  6. Vệ-đà, Sát-ly nắm quyền năng,
    Thâm nghĩa, chúng ta thảy nhận chân:
    Rốt cuộc, nhục vinh hay được mất,
    Cùng chung số phận bốn giai tầng.
  7. Như các chủ nhà muốn kiếm ăn,
    Tính bao nghề tốt đẹp, an toàn,
    La-môn nay gặp ngày tàn mạt,
    Tìm kế sinh nhai đủ mọi đàng.
  8. Chủ nhà lầm lạc bởi tham vàng,
    Mù quáng đi theo dục dẫn đàng,
    Bày đủ mọi trò lừa đảo ấy,
    Kẻ ngu phải đọa! Thác người khôn.

Bậc Đại Sĩ, sau khi đánh tan mọi luận thuyết của họ như vậy, đã thành lập ra giáo phái của ngài và khi hội chúng Nàga nghe ngài thuyết giảng, tâm họ tràn đầy hoan hỷ. Bậc Đại Sĩ cho thả tên Bà-la-môn hạ đẳng kia ra khỏi cảnh giới Nàga mà không hề đá động gì đến gã, dù chỉ bằng một lời nói khinh miệt.

*

Vua Sàgara cũng không lỗi hẹn, vội ngự du cùng binh lính đến nơi trú ngụ của vua cha, sau khi đánh trống báo cho thần dân biết ngài sẽ đi thăm ngoại tổ phụ và quốc cửu, bậc Đại Sĩ du hành qua sông Yamunà, trước tiên ngài ngự đến am ẩn sĩ của tổ phụ với mọi vẻ long trọng huy hoàng, theo sau ngài có đầy đủ các vương tử cùng phụ vương, mẫu hậu ngài.

Lúc ấy vua Sàgara chưa nhận ra bậc Đại Sĩ khi ngài tiến đến cùng đám tùy tùng, liền hỏi vua cha:

  1. Chiêng trống nào đây, tiếng nói vang,
    Trầm hùng hòa điệu giữa không gian,
    Làm tâm Thánh thượng đầy hoan hỷ,
    Đàn sáo, tù và, tiếng trống con?
  2. Ai là nam tử bước hiên ngang,
    Nai nịt cung tên được điểm trang,
    Vương miện quanh đầu đang chiếu sáng,
    Khác nào ánh chớp tỏa hào quang?
  3. Ai đó uy nghi bước đến gần,
    Sáng ngời tướng mạo dáng thanh xuân,
    Như cành phượng vĩ đang hồng đỏ,
    Lò thợ rèn lia cháy sáng bừng?
  4. Chiếc lọng của ai sáng sắc vàng,
    Làm mờ ngọ nhật vẻ kiêu căng,
    Bên sườn khéo léo treo lơ lửng,
    Chiếc quạt đập ruồi đợi sẵn sàng?
  5. Gậy vàng vung vẫy các đuôi công,
    Hòa đủ màu bên cạnh mặt rồng,
    Rực rỡ vòng tai tô điểm tóc,
    Khác nào tia chớp lóe không trung?
  6. Hào kiệt nào đây mắt sáng trong,
    Mão long đội giữa đôi mày cong,
    Răng trắng như chồi hoa, vỏ ốc,
    Hoàn toàn đều đặn, thẳng ngay hàng.
  7. Bàn tay hồng đỏ tựa sơn son,
    Môi, đóa bim-ba thắm nở tròn,
    Chàng trẻ sáng ngời như mặt nhật,
    Như sà-la nở rộ đầu non,
    In-dra Thiên chủ mang bào giáp,
    Chiến thắng quỷ thù thảy dẹp tan.
  8. Ai vừa hiện trước nhãn quang ta,
    Mở ví bên sườn, tuốt kiếm ra,
    Chuôi nạm ngọc vàng đầy kỹ xảo,
    Huy hoàng chiếu sáng dưới tay ngà?
  9. Ai cởi hài vàng khỏi gót chân,
    Hài thêu dệt gấm thật cao sang,
    Cuối đầu trịnh trọng trang nghiêm lễ,
    Bày tỏ lòng tôn kính Trí nhân?

Khi nghe con của ngài là quốc vương Sàgara Brahmadatta hỏi như vậy, vị ẩn sĩ xuất gia đã chứng đắc thắng trí cùng các Thiên chứng, liền trả lời:

– Này vương nhi, đó là các vương tử của vua Dhatarattha, các Long vương Nàga của bào muội của con đó.

Rồi ngài ngâm kệ sau:

  1. Dha-ta vương tử các chàng đây,
    Uy lực, vinh quang vĩ đại thay,
    Tất cả đều tôn sùng chấp nhận,
    Sa-mud-da mẫu hậu chung này.

Trong lúc các vị đang đàm đạo, hội chúng Nàga đến nơi, đảnh lễ dưới chân vị ẩn sĩ, rồi ngồi xuống một bên. Công chúa Samuddajà cũng đảnh lễ cha xong, khóc lóc một hồi rồi từ tạ cùng hội chúng Nàga trở lại cảnh giới của mình. Quốc vương Sàgara ở lại đó vài hôm rồi trở về thành Ba-la-nại. Còn công chúa Samuddajà về sau qua đời tại cảnh giới Nàga.

Phần Bồ-tát vẫn giữ giới suốt đời Ngài và tu tập đủ mọi công hạnh trong ngày trai giới, nên khi mạng chung, ngài cùng với hội chúng Nàga đi lên thiên giới thật đông đảo.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Đạo Sư dạy:

Như vậy các vị Thánh đệ tử, các bậc hiền nhân ngày xưa, trước khi đức Phật ra đời, đã từ bỏ mọi vinh quang của quốc độ Nàga và trang nghiêm hành trì các công hạnh trong ngày trai giới.

Rồi ngài nhận diện Tiền thân:

Vào thời ấy, gia tộc của Đại vương là cha mẹ Ta, Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) là gã Bà-la-môn hạ đẳng, Ànanda (A-nan) là Somadatta, Uppalavannà (Liên hoa Sắc) là Accimukhì, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Sudassana, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Subhaga, Sunakkhatta là Kànàrittha và Ta chính là bậc Đại trí Bhùridatta.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN BẬC ĐẠI TRÍ MAHÀNÀRADA-KASSAPA (Tiền thân Mahanàrada-Kassapa)

Một vì vua xứ Vi-đề-ha… ,

Câu chuyện này do bậc Đạo Sư kể, khi Ngài trú ngụ tại Lạc Viên Latthivanna (Rừng Mía), về việc quy y của Tôn giả Ưu-lâu-tần-loa-Ca-diếp (Uruvela-Kassapa).

Lúc bấy giờ uy danh của bậc Đạo Sư về việc hoằng dương Chánh pháp đã bắt đầu lừng lẫy. Sau khi Ngài giáo hóa các vị tu khổ hạnh khác cùng Tôn giả Ưu-lâu-tần-loa, Ngài liền đi đến Lạc Viên Latthivana, với cả ngàn Tỷ kheo vây quanh, các vị này trước đây là những đạo sĩ khổ hạnh. Ngài muốn thuyết phục vua Magadha (Ma-kiệt-đà) giữ lời hứa cúng dường Tinh xá Veluvana (Trúc Lâm) và lúc ấy vua Ma-kiệt-đà cùng đến với đám triều thần đông cả mười hai vạn người.

Sau khi đảnh lễ đức Phật xong, vua ngồi xuống, rồi một vấn đề được đưa ra tranh luận giữa các Bà-la-môn và các gia chủ trong đám tùy tùng của vua: Phải chăng Tôn giả Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp phục tùng sự giáo hóa của bậc Đại Sa Môn, hay là bậc Đại Sa Môn phục tùng sự hướng đạo tu hành của Ưu-lâu-tần-loa Ca- diếp?

Lúc ấy đức Thế Tôn nghĩ thầm: “Ta sẽ cho hội chúng thấy rằng Ca-diếp đã phục tùng sự giáo hóa của Ta”.

Rồi Ngài ngâm kệ này:

Thấy gì Hiền giả Kas-sa-pa,
Người ở rừng U-ru-ve-la,
Lừng lẫy tiếng tăm về khổ hạnh,
Sao ông từ bỏ lửa thiêng xưa,
Này Ca-diếp hỡi, nghe ta hỏi:
Sao bỏ tế đàn với lửa kia?

Lúc ấy vị trưởng lão đã hiểu rõ ý nghĩa câu hỏi của đức Phật, liền đáp kệ này:

Tế lễ nói lên ngũ dục trần:
Sắc, thanh, hương, vị với giai nhân,
Và khi biết những điều như thế,
Chỉ thấy trong đời sống thế gian,
Đều bất tịnh, con không thích thú,
Tế đàn dâng lễ cúng Thiên thần.

Rồi để tỏ ra mình là đệ tử Phật, vị Tỷ-kheo này đặt đầu lên chân đức Phật và nói:

– Đức Thế Tôn là Đạo Sư của con, con là đệ tử của Ngài.

Nói xong ông bay lên không bảy lần đến ngọn một cây cọ dừa (tala), hai cây tala cho đến bảy cây tala, rồi trở xuống đảnh lễ đức Thế Tôn và ngồi qua một bên. Hội chúng trông thấy việc hy hữu như thế, liền tán thán uy danh củc bậc Đạo Sư, đồng nói to:

– Cao cả thay thần lực của đức Phật, nên mặc dù đã tin tưởng vững chắc vào uy lực mình, mặc dù tự cho mình là Thánh nhân, Tôn giả Ưu-lâu-tần-loa cũng đã phá bỏ mọi vọng chấp sai lầm và xin quy y với đức Như Lai.

Bậc Đạo Sư đáp:

– Việc ấy cũng không kỳ diệu gì, khi ngày nay Ta đã đạt Thắng trí viên mãn và giáo hóa vị này; vì ngày xưa khi ta còn là một Bà-la-môn tên gọi Narada và còn tham đắm dục lạc, ta cũng phá tan mọi vọng chấp sai lạc của ông và khiến ông phải quy phục.

Rồi theo lời thỉnh cầu của thính chúng. Ngài kể câu chuyện sau đây:

*

Ngày xưa ở thành Mithilà trong quốc độ Videha có một vị minh quân trị vì rất đúng pháp, tên là Angàti. Lúc bấy giờ chánh hậu của ngài đang mang thai một công chúa xinh đẹp đầy ân phúc, tên gọi Rujà, có công hạnh rất lớn và là người đã phát đại nguyện suốt một trăm ngàn kiếp. Mười sáu ngàn phi tần kia của ngài đều không có con. Vì thế công chúa này rất được yêu quý nâng niu.

Hằng ngày ngài thường ra lệnh ban cho nàng hai mươi lăm giỏ hoa muôn màu và xiêm y lộng lẫy để nàng trang sức, lại ban cho nàng một ngàn đồng tiền để nàng bố thí các thức ăn uống tràn trề mỗi tháng hai lần.

Lúc bấy giờ ngài có ba vị cận thần tên gọi Vijaya, Sunàma và Alàta. Vào một ngày rằm tháng tư kia, cả kinh thành và cả cung điện được trang hoàng lộng lẫy như cảnh thiên giới, sau khi đức vua đã tắm gội, xức dầu thơm và trang sức đủ ngọc ngà trân bảo, ngài cùng các cận thần ngự lên thượng lầu mở cửa sổ nhìn mặt trăng tròn đang lên cao dần trên bầu trời quang đãng, ngài bảo các cận thần:

– Đêm trăng này thật thú vị quá, các khanh muốn cùng ta hưởng lạc thú gì chăng?

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Một vì vua xứ Vi-đề-ha,
    Tên gọi An-ga-ti, thuở xưa,
    Có lắm cỗ xe, tài sản quý,
    Binh hùng tướng mạnh kể sao vừa.
  2. Một đêm trăng sáng ngày mười lăm,
    Canh một sắp qua, ánh nguyệt rằm,
    Vào tháng tư mùa mưa mới đến,
    Vua liền tụ họp đám quần thần.
  3. Vi-ja-ya, Đại tướng A-là,
    Cùng với Đại thần Su-ma-na,
    Là các trí nhân, tươi nét mặt,
    Đông con kinh nghiệm đủ phò vua.
  4. Vua Vi-đề hỏi chúng triều đình:
    Hãy nói ý mình muốn, mỗi khanh,
    Nay đúng tháng tư, đêm mãn nguyệt,
    Mây mờ không phủ ánh trăng thanh,
    Đêm nay ta có gì vui thú,
    Tiêu khiển thời giờ ấy thật nhanh?

Cứ thế khi được vua hỏi đến, mỗi vị cận thần nói lên nguyện ước lòng của mình.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

Lúc ấy Đại tướng Alàtaka tâu với vua:

– Tâu Đại vương, ta hãy tập hợp binh hùng tướng mạnh lại, rồi đi chinh chiến cùng với muôn vạn dân chúng, cho phép chúng thần đem đặt dưới quyền Đại vương những vị vua trước đây đã tự trị, đó là thiển ý của thần, xin Đại vương cho phép chúng thần đi chinh phục những vùng đất chưa từng bị chinh phục.

Khi nghe lời của Alàta tâu, Sumàna liền nói:

– Tâu Đại vương, các quốc thù của ngài đều đã được tập hợp về đây, họ đã buông khí giới qua một bên và quy hàng Đại vương rồi. Hôm nay là ngày đại lễ hội, thần không thích việc chiến chinh, xin Đại vương ra lệnh mang rượu thịt cùng các loại sơn hào hải vị lên đây ta cùng vui hưởng đờn ca xướng hát.

Nghe lời Sunàma tâu như vậy, Vijaya liền nói:

– Tâu Đại vương, tất cả thú vui dục lạc lúc nào cũng sẵn sàng dâng lên Đại vương, không phải là khó kiếm để làm thỏa lòng Đại vương, nên dù có được những lạc thú ấy, thần cũng không tán đồng. Xin Đại vương ngự xa giá đến hầu thăm một vị Sa-môn hay Bà-la-môn tinh thông Thánh điển am tường kinh nghĩa, có thể phá tan mọi hoài nghi của chúng thần hôm nay về tâm nguyện của chúng thần.

Khi nghe lời của Vijàya, vua Angati bảo:

– Lời tâu của Vijàya rất hợp ý trẫm, ta hãy cùng đi hầu thăm một vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào tinh thông Thánh điển, am tường mọi kinh nghĩa để có thể phá tan mối hoài nghi của ta về tâm nguyện hôm nay. Các khanh hãy mau mau thi hành quyết định này, vậy ta hãy đi hầu thăm vị Sư trưởng nào đây?Hôm nay vị nào tinh thông kinh kệ cùng thâm nghĩa của Thánh điển có thể phá tan lưới nghi của ta về các điều tâm nguyện.

Khi nghe vua nói vậy, Alàta liền tâu:

– Có một vị khổ hạnh lõa thể trú trong vườn Lộc Uyển đằng kia, được mọi người tán thán là bậc hiền nhân, tên gọi Guna dòng Ca-diếp, một bậc thuyết giáo đã lừng danh, có rất đông đệ tử theo học. Vậy ta hãy đến hầu thăm ngài, ngài sẽ phá tan lưới nghi của ta.

Nghe lời tâu của Alàta, vua ra lệnh cho quan thủ xa:

– Trẫm muốn du hành đến vườn Lộc Uyển, hãy mang xa giá đầy đủ yên cương lại đây.

Khi xa giá đã được chuẩn bị yên cương, trang hoàng đầy đủ ngọc ngà, vàng bạc, cỗ xe vương mã sáng ngời màu bạch ngọc, vẻ tinh khiết như bầu trời đêm quang đãng. Bốn tuấn mã giống Sindh trắng như hoa súng đã chầu sẵn, có sức phi nhanh như gió, lại rất thuần thục, mang vòng vàng lục lạc cùng lộng trắng, xe trắng, ngựa trắng và quạt trắng. Đức vua khởi hành cùng đám cận thần, rực rỡ như mặt trăng bạc. Nhiều bậc trí giả và dũng sĩ nai nịt cung kiếm lên ngựa theo hầu đức vua anh hùng. Sau một đoạn đường dài, trong chốc lát, vua Videha cùng đám cận thần xuống xe, đi bộ đến gần chòi ẩn sĩ Guna; ngay lúc ấy các Bà-la-môn và các phú gia đã tề tựu đông đúc tại đó. Nhà vua cũng không ra lệnh bảo họ lui ra, mặc dù chẳng có chỗ nào dành cho ngài. Ngài ngồi qua một bên, được vây quanh bởi thính chúng gồm đủ hạng người như vậy, rồi ngài làm lễ yết kiến vị ẩn sĩ kia.

*

Bậc Đạo Sư giải thích vấn đề này như sau:

Lúc ấy vua ngồi qua một bên trên một tấm nệm êm ái, bọc bằng da lông sóc mượt mà đủ loại cùng với một chiếc gối dựa mềm mại đặt ngang. Khi vừa an tọa, vua chào hỏi vị ẩn sĩ bằng những lời tán thán đầy tình thân hữu và cung kính:

– Thưa Tôn giả, các nhu cầu về vật thực, y phục của ngài có được đầy đủ chăng? Sinh lực của ngài không bị tiêu hao nhiều chứ? Nếp sống của ngài có dễ chịu chăng? Ngài có được cúng dường đúng thời chăng? Việc đi lại của ngài có gì cản trở chăng? Nhãn quang của ngài vẫn được tinh tường chứ?

Ẩn sĩ Gunà từ tốn đáp lại vua Videha đang hết sức quan tâm đến phận sự của ngài:

– Tâu Đại vương, mọi nhu cầu vật dụng của bần đạo đều được đầy đủ, hai vấn đề ngài nêu sau cùng cũng được như ý. Còn phần Đại vương, các vị quốc vương lân cận không quá hùng mạnh đối với Đại vương chứ? Đại vương có được ngọc thể khang an chăng? Vương xa của Đại vương thượng lộ bình an chứ? Đại vương không bị bệnh tật gì não hại chứ?

Vua mong cầu pháp lành nên sau khi được vấn an xong, ngài liền hỏi vị ẩn sĩ ý nghĩa và giáo pháp cùng giới luật công hạnh:

– Thưa Tôn giả Ca-diếp, một thế nhân phải cư xử như thế nào gọi là đúng pháp đối với cha mẹ, đối với sư trưởng, đối với vợ con? Còn phải cư xử ra sao đối với các bậc trưởng lão, các Sa-môn, Bà-la-môn, với binh sĩ cùng dân chúng trong quốc độ mình? Làm thế nào để hành trìđúng pháp rồi chung cuộc được lên Thiên giới? Và một số thế nhân vì theo tà pháp đã đọa địa ngục như thế nào?

Vì lúc ấy không có một vị Phật Chánh đẳng Giác xuất hiện, cũng không có một vị Độc Giác Phật, một vị Thánh đệ tử của chư Phật hay một bậc trí nhân nào, nên vua hỏi liên tiếp các vấnđề đáng được nêu ra của một vị quốc vương cho một khất sĩ lõa thể không hiểu biết gì và lại mù quáng tựa trẻ thơ. Vừa khi được hỏi như vậy, ông đã không trả lời phù hợp câu hỏi, mà nhân cơ hội tâu ngay:

– Tâu Đại vương, xin Đại vương nghe đây.

Rồi ông tuyên thuyết tà pháp của mình như kẻ đánh con bò trong khi nó đang đi hay làm rớt phân vào máng ăn của con bò khác.

*

Bậc Đạo Sư giải thích vấn đề như sau:

Khi nghe vua Videha hỏi, Kassapa trả lời:

– Tâu Đại vương, đây là chân lý không sai lạc: Không có quả báo thiện hay ác nào khi ta tuân giới luật, không có đời sau, tâu Đại vương còn ai trở lại đời này sau khi mạng chung nữa? Không có tổ tiên cha mẹ, làm sao có cha hay mẹ được? Không có sư trưởng, vì ai có khả năng giáo hóa những pháp không thể được giáo hóa? Mọi thế nhân đều bình đẳng và giống nhau, không có kẻ nào đáng được kính lễ cũng không có kẻ nào phải kính lễ người khác, không có các đức tính như dũng mãnh hoặc can trường vì ở đời làm sao có được tinh tấn lực hay tính anh hùng?

Số phận các thế nhân đã được tiền định, cũng như đuôi con tàu phải đi theo dấu con tàu vậy. Mỗi thế nhân được thọ hưởng phần mình phải thọ hưởng, thế thì bố thí để làm gì? Tâu Đại vương, việc bố thí không ích lợi gì cả. Người bố thí là kẻ yếu hèn, chẳng ai giúp đỡ, lễ vật bố thí được kẻ ngu ngốc đưa ra và được kẻ không nhận lấy. Những kẻ vô trí, yếu hèn lại tưởng mình khôn ngoan khi bố thí cho kẻ có trí.

Sau khi diễn giảng sự vô ích của bố thí, ông lại tiếp tục diễn tả tội chướng không có công năng tạo nghiệp quả đời sau:

– Có bảy uẩn không bị hủy diệt cũng không não hại, đó là hỏa, địa, thủy, không, lạc, khổ và tâm. Trong bảy uẩn này chẳng có uẩn nào đủ công năng tiêu hủy hay phân tán. Chúng cũng không hề bị phân hủy, gươm giáo đều vô hại đối với các uẩn này. Kẻ nào cắt đầu kẻ khác bằng thanh kiếm sắc bén cũng không thể phân tán các uẩn này, thế thì làm sao lại có thể hưởng được nghiệp quả vì làm ác nghiệp? Mọi chúng sanh đều được sạch tội lỗi khi đã sống qua tám mươi bốn đại kiếp, trước thời kỳ đó chẳng có một người Phạm hạnh nào được rửa sạch tội lỗi cả. Trước khi thời kỳ đó đến, dù họ thực hành giới hạnh bao nhiêu đi nữa, họ cũng không thể rửa sạch tội lỗi, và dù họ phạm bao nhiêu tội chướng đi nữa, họ cũng không thể vượt quá giới hạn đó. Lần lượt con người sẽ được rửa sạch tội qua tám mươi bốn kiếp; ta không thể vượt quá số phận ta, cũng như biển không thể vượt bờ.

– Cứ thế kẻ biện luận cho thuyết hư vô ấy đã củng cố lý lẽ mình bằng giọng hăng say không cần đến một thuyết nào trước đây cả.

Khi nghe Kassapa nói vậy, Alàta đáp lời:

– Những điều Tôn giả nói rất hợp ý ta, ta cũng nhớ lại đã trải qua một tiền kiếp: Ta là một thợ săn bò tên là Pingala ở một tỉnh thành kia. Ta đã phạm bao nhiêu tội lỗi ở thành Ba-la-nại giàu có ấy. Ta đã giết biết bao nhiêu sinh mạng bò, heo, trâu, dê. Hết kiếp đó, ta lại sinh vào gia đình phồn thịnh của một viên đại tướng; như thế không hề có quả ác vì hành nghiệp ác nên ta đã không đọa vào địa ngục.

Lúc ấy có một tên nô lệ ăn mặc rách rưới tên là Bìjaka đang hành trì trai giới cũng đến đây nghe Guna thuyết pháp. Khi nghe Kassapa và Alàta đối đáp như vậy, gã thở dài não nuột và bật khóc. Vua hỏi:

– Tại sao người khóc? Ngươi đã nghe thấy gì chăng? Tại sao ngươi lộ vẻ đau khổ với ta như vậy?

Bìjaka trả lời:

– Tâu Đại vương, tiểu nô chẳng có gì làm khổ đâu, xin Đại vương hãy nghe tiểu nô giải bày. Tiểu nô cũng nhớ lại tiền kiếp rất được sung sướng, tiểu nô là một Bhavasetthi (phú thương) trong thành Sàketa, chuyên trì công đức, giữ thân trong sạch hay bố thí, được các Bà-la-môn và các phú gia rất quý trọng. Tiểu nô nhớ lại mình chẳng hề phạm tội ác bao giờ. Nhưng khi hết kiếp ấy, tiểu nô lại đầu thai vào bụng một gái giang hồ nghèo khó và ra đời chịu rất nhiều cực khổ. Tuy nhiên dù khổ cực như hiện nay, tiểu nô vẫn giữ tâm trí thanh tịnh, tiểu nô nhường phân nửa thức ăn cho kẻ nào cần thực phẩm. Tiểu nô giữ trai giới các ngày mười bốn và rằm, chẳng hề sát sanh trộm cắp. Nhưng tất cả những điều lành đó không đem lại quả tốt nào như Alàta vừa nói, tiểu nô cho rằng công đức thật chẳng ích gì. Tiểu nô thua cuộc trong đời như kẻ chơi súc sắc bất tài, còn Alàta thắng cuộc như một kẻ đánh súc sắc khéo tay. Tiểu nô không có cách nào lên thiên giới cả, vì thế tiểu nô rơi lệ khi nghe ngài Ca-diếp nói pháp.

Sau khi nghe Bìjaka nói vậy, vua Angati đáp:

– Không có lối lên thiên đàng, chỉ đợi chờ số phận. Số người sướng hay khổ là do số phận định đoạt. Chung cuộc mọi chúng sinh sẽ được giải thoát khỏi luân hồi, vậy đừng nóng lòng vì tương lai. Trong các đời trước của ta, ta cũng đã được nhiều phước phần và chuyên tâm phụng sự các Bà-la-môn cùng các phú gia, nhưng lúc ta bận chấp chánh trị dân, ta lại không được hưởng lạc gì cả.

Nói xong, vua tạ từ ẩn sĩ:

– Thưa Tôn giả Kassapa, từ lâu nay trẫm thật là vô tâm xao lãng, nhưng cuối cùng bây giờ trẫm đã tìm ra được một vị sư trưởng, vậy từ nay trẫm sẽ tuân theo lời dạy của Tôn giả, trẫm sẽ an hưởng thú dục lạc mà thôi, dù có nghe thuyết giảng về công đức cũng không ngăn cản được trẫm đâu. Xin Tôn giả ở lại, trẫm xin từ tạ Tôn giả, ta sẽ còn dịp hội ngộ ngày sau.

Nói xong vua Videha trở về cung. Thoạt tiên khi vua đến viếng Guna, ngài chào vị này rất cung kính rồi nêu câu hỏi ra, nhưng khi ngài giả từ, ngài chẳng chào hỏi gì nữa. Vì Guna không đúng như danh truyền, vì bất xứng nên chẳng được đảnh lễ, vả lại càng ít được cúng dường. Qua đêm đó, rạng ngày hôm sau, vua triệu tập quần thần lại và bảo:

– Các khanh hãy chuẩn bị đủ mọi thứ dục lạc, từ nay trẫm sẽ chỉ theo đuổi dục lạc, các khanh đừng nói việc gì khác trước mặt trẫm, hãy để những vị này vị kia ra chấp chánh trị dân.

Và từ đó vua chìm đắm trong việc hưởng lạc.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

Qua đêm đó, rạng ngày mai, vua Angàti triệu tập các vị đại thần lại và phán:

– Các khanh cho bày đủ mọi thứ dục lạc trong điện Candaka để trẫm an hưởng, không ai được dâng sớ về việc công tư gì nữa. Các khanhVijaya, Sunàma và đại tướng Alàtaka đều tinh thông luật pháp, hãy ngồi xét xử mọi vấn đề thay trẫm.

Vua nói thế xong, chẳng còn bận tâm điều gì nữa ngoài dục lạc và ngài cũng chẳng còn thân cận với các Bà-la-môn cùng các phú gia nữa.

Thế rồi vào đêm mười bốn, ái nữ của vua, công chúa Rujà, nói với bà nhũ mẫu:

– Xin nhũ mẫu trang sức ngọc vàng cho con thật nhanh, bảo các thị nữ đến hầu con ngày mai là ngày lễ rằm, con sẽ đi yết kiến phụ vương.

Họ liền đem cho nàng một tràng hoa cùng gỗ đàn hương, ngọc ngà châu báu đủ loại và xiêm y lộng lẫy muôn màu, nhiều thị nữ vây quanh nàng lúc nàng ngồi trên chiếc kim đôn, trang sức cho nàng cực kỳ rực rỡ tôn vẻ kiều diễm của nàng.

Sau đó được đoàn thị nữ tháp tùng chung quanh, sáng ngời trong các món trang sức trân bảo, công chúa Rujà bước vào cung Candaka như tia chớp lóe giữa vầng mây. Sau khi đến gần phụ vương đảnh lễ hết sức cung kính xong, nàng ngồi xuồng một bên trên chiếc bảo tọa chạm vàng.

Khi vua thấy nàng được đám cung nữ theo hầu như một bầy tiên nữ, liền phán bảo:

– Này công chúa, con có vui chơi thỏa thích trong hồ nước nội cung chăng? Chúng có thường dâng con đủ loại cao lương mỹ vị chăng? Con cùng các thị nữ có thường kết đủ loại tràng hoa và xây nhà mát để chúng con nghỉ ngơi, vui đùa giải trí chăng? Bảo chúng đem lại đây ngay, con hãy thỉnh cầu phụ vương mọi điều con ưa thích, những điều gay go nhất, dù có khó như tìm mặt trăng đi nữa.

Nghe vua cha nói như vậy, công chúa thưa:

– Tâu phụ vương, trước long nhan, mọi nguyện vọng của tiện nữ đều được thỏa mãn. Ngày mai là ngày lễ rằm, xin phụ vương ban cho con một ngàn đồng tiền để con bố thí cho các kẻ hành khất.

Nghe Rujà nói, vua liền đáp:

– Con đã phung phí nhiều của cải mà chẳng có kết quả gì, con giữ gìn trai giới, kiêng cử ăn uống, nhưng quan niệm về phận sự giữ gìn trai giới này đều do tiền định, cho nên con có giữ gìn trai giới cũng không đạt công hạnh gì. Trong lúc con còn sống đây với phụ vương, con đừng bố thí vật thực nữa, không hề có đời sau nào ngoài đời này nữa, tại sao con phải bận tâm vì việc không đâu?

Lúc ấy Rujà với nhan sắc cực kỳ lộng lẫy, nghe vua cha nói vậy liền đáp như sau, vì biết rằng nàng hiểu Pháp lành ở đời quá khứ cùng vị lai:

– Tâu phụ vương, tiện nữ đã được nghe trong thuở quá khứ cũng như chính mắt tiện nữ được thấy rằng kẻ nào bầu bạn với trẻ thơ rồi cũng trở thành trẻ thơ mà thôi. Kẻ ngu thân cận với kẻ ngu lại càng chìm đắm trong sự ngu muội. Alàtaka và Bìjaka bị lừa phỉnh là phải lắm, chứ còn phụ vương là một vị vua hiền trí, rất có tài trong việc trị dân; làm sao phụ vương lại rơi vào một lý thuyết thấp hèn như vậy, chỉ xứng hợp với trẻ thơ. Nếu con người được rửa sạch mọi tội chướng chỉ do dòng sinh tử thì việc tu khổ hạnh của Guna thật là hoài công, như con thiêu thân lao vào đèn sáng, kẻ ngu ngốc kia đã chịu đựng đời hành khất lõa thể. Sau khi đã chấp nhận lý thuyết cho rằng kết cuộc mọi chúng sinh sẽ được rửa sạch mọi tội lỗi qua luân hồi sinh tử, nhiều kẻ đã hành động sai lầm vì vô minh chồng chất, nên lại càng bị vây chặt hơn trong các nghiệp quả đời trước, khó thoát ra được, như con cá mắc lưỡi câu.

Tiện nữ xin kể hầu phụ vương một chuyện ngụ ngôn cho trường hợp này của phụ vương, vì bậc trí giả đôi khi tìm được chân lý qua câu chuyện ngụ ngôn. Như một con tàu của thương nhân, chở quá nhiều hành lý nặng nề, phải chìm trong biển cả, một con người chồng chất dần tội lỗi mãi cũng sẽ đọa vào địa ngục. Tâu phụ vương, hành lý hiện tại của Alàta không phải là những thứ lão ta đang hưởng đâu, chính vì những thứ lão ta đang mang đi chất lên tàu mà lão sẽ đọa vào địa ngục kiếp sau. Đời trước Alàtaka thành chánh nghiệp, nên kết quả là ngày nay lão ta hưởng thụ phú quý vinh hoa. Công đức ấy của lão đang bị tiêu tan vì lão chỉ chuyên tâm làm ác nghiệp, sau khi bỏ chánh đạo, lão ta lại đang theo đuổi tà đạo, như chiếc cân được treo đúng đắn trong kho hàng sẽ làm cán cân nhấc lên cao khi có trọng lượng của một vật đặt lên nó. Con người chung cuộc cũng làm cho số phận mình thăng hoa nếu biết tu tập công đức dần dần, như gã nô lệ Bìjaka kia đang chuyên tâm làm công hạnh và đang mơ tưởng thiết tha tới đến thiên giới. Nỗi khổ đau mà nô lệ Bìjaka phải chịu đựng là do nghiệp quả tội chướng gã đã phạm đời trước. Tội chướng ấy sẽ tiêu trừ vì hiện gã đang chuyên tâm làm công đức, tuy nhiênđừng để gã lọt vào tà đạo của lão Ca-diếp kia.

Rồi nàng lại tiếp tục phô bày tội chướng của việc gây ác nghiệp cùng thiện quả của việc thân cận bạn lành:

  1. Khi vua quý trọng một thân bằng,
    Dù đức hạnh hay kẻ ác gian,
    Chuyên tạo ác hành hay thiện nghiệp,
    Vua đều chịu ảnh hưởng quyền năng.

6-7. Bạn nào, vua muốn chọn cho mình,
Như bạn ấy, vua sẽ trở thành,
Uy lực này do tình mật thiết;
Kẻ luôn thân cận, bạn đồng hành,
Thường gây ảnh hưởng lên bằng hữu,
Như mũi tên đầu độc đáng kinh,
Làm bẩn vỏ bao trong sạch ấy,
Trí nhân, ác hữu chớ giao tình.

  1. Nếu người buộc xác cá hôi ươn,
    Với dãi Ku-sa, cỏ cát tường,
    Cỏ sẽ có mùi hôi thúi ấy,
    Cũng vậy, kết giao kẻ dại cuồng.
  2. Nhưng nếu người ta buộc cỏ hương,
    Vào trong một ngọn lá thông thường,
    Lá thơm mùi nhẹ nhàng êm dịu,
    Cũng vậy, kết giao bậc trí nhân.
  3. Do biết nghiệp ta sẽ thực thành,
    Như là giỏ trái chín muồi nhanh,
    Trí nhân chẳng bước theo người ác,
    Nhưng chỉ bước theo bậc thiện hành.
    Kẻ ác đưa ta vào địa ngục,
    Người hiền đem bạn đến thiên đình.

Sau khi thuyết pháp trong sáu bài kệ ấy xong, công chúa bày tỏ nỗi khổ đau mà nàng phải chịuđựng trong các tiền thân xa xưa:

– Tiện nữ cũng nhớ lại bảy đời trước mà tiện nữ đã trải qua và khi hết đời này tiện nữ lại sẽ trải qua bảy đời khác nữa. Trong đời thứ bảy, trước kia, tâu phụ vương, tiện nữ là con trai của một thợ rèn trong thành Ràjagaha (Vương Xá) ở xứ Magadha (Ma-kiệt-đà). Tiện nữ đã kết giao với bạn ác và đã gây nhiều ác nghiệp. Chúng con cứ mải mê rong chơi, lôi cuốn vợ người khác vào đường tội lỗi như thể chúng con được trường sanh bất tử vậy.

Những hành nghiệp ấy cứ âm ỉ như lửa được vùi tro. Nhờ những nghiệp quả tốt khác, con đầu thai vào xứ Vamsa trong gia đình một phú thương ở Kosambi, rất thế lực và giàu có, phát đạt: Con lại là con trai duy nhất của gia đình, được cưng chiều quý trọng vô cùng.

Lúc ấy con kết bạn với một người chuyên làm thiện pháp. Con hành trì trai giới suốt các ngày mười bốn và rằm và các hành nghiệp ấy được tồn trữ lại như một kho tàng dưới nước. Nhưng những nghiệp quả ác mà con đã tạo ở xứ Ma-kiệt-đà rốt cuộc lại đến với con như một thứ thuốc độc khốc liệt. Tâu phụ vương, từ đó con phải trải qua một thời gian dài ở địa ngục Roruva, con phải chịu đựng các nghiệp quả ác ấy, ngày nay nhớ lại con còn thấy thật đau khổ. Sau khi chịu khổ sở tại đó không biết bao nhiêu năm trường, con đã hóa sinh thành con dê bị thiến ở thành Bhennàkata. Con phải chuyên chở các thanh niên nhà giàu trên lưng hoặc kéo xe, đó là nghiệp quả của việc con đã quyến rủ vợ người.

Sau đó con đầu thai vào bụng một con khỉ rừng, ngày con sinh ra đời, họ đem con đến cho người chăn thú, người này bảo: Mang con trai ta đến đây. Rồi gã cắn mạnh hạ căn của con cho đứt lìa dù con kêu thét lên.

Nàng diễn tả sự việc này qua vần kệ sau:

  1. Khi hết đời kia con được sinh,
    Đầu thai làm khỉ chốn rừng xanh,
    Hạ căn đứt bởi người gian ác,
    Hậu quả do săn đuổi bạn tình.

Kế đó nàng thuật tiếp các tiền thân khác:

– Tâu phụ vương, sau đó con đã đầu thai làm con bò đực ở xứ dân Dasannas, lại bị hoạn nhưng cũng nhanh nhẹn và xinh đẹp, con kéo xe một thời gian thật lâu, đó là nghiệp quả của việc săn đuổi theo vợ người của con trước kia. Khi mạng chung, con đầu thai vào một gia đình xứ Vajji (Bạt-kỳ, ở phía bắc sông Hằng, đối diện xứ Ma-kiệt-đà), song con lại bán nam bán nữ vì thật khó đầu thai làm nam nhân, đó là nghiệp quả của việc con theo đuổi vợ người. Tâu phụ vương, sau đó con đã sinh vào rừng Nandana làm một tiên nữ rất xinh đẹp ở cõi Tam thập tam thiên (trời ba mươi ba) xiêm y rực rỡ muôn màu, mang nữ trang ngọc vàng, vòng hoa tay bằng châu báu đủ loại thiện xảo múa ca nên được làm thị nữ ở cung Đế-Thích. Khi con ở đó, con đã nhớ lại các đời trước và luôn cả bảy đời tương lai mà con sẽ trải qua, sau khi từ giã thiên giới.

Các thiện pháp mà con tạo được ở Kosambì đã đến hồi kết quả, nên khi con hết đời này con sẽ được sinh cùng với chư Thiên hoặc loài người. Tâu phụ vương, trong bảy đời liền, con sẽ được cung kính phụng thờ, nhưng con sẽ không được thoát thân nữ nhân cho đến hết đời thứ sáu. Tâu phụ vương, như vậy trong đời thứ bảy, con sẽ là một Đại nam tử của chư thiên, sau cùng con sẽ được sinh làm một thiên tử với thân tướng nam nhi. Hiện nay, chư Thiên đang kết tràng hoa hái từ cây hoa trời ở vườn Thiên lạc Nandana và có một vị Thiên tử tên gọi Java, hiện đang kết tràng hoa cho con. Mười sáu năm con sống ở đời thế gian này chỉ là một khoảnh khắc của thiên giới. Một trăm mùa thu ở hạ giới chỉ bằng một ngày một đêm ở trên trời. Như vậy các hành nghiệp của ta cứ theo ta hoài qua vô số đời sống và mang theo thiện quả hay ác quả, không sót một nghiệp nào.

Rồi kế đó nàng tuyên Pháp tối thượng:

– Kẻ nào muốn thăng hoa đời đời kiếp kiếp, xin hãy tránh xa vợ người như người có đôi bàn chân rửa sạch phải tránh xa vũng bùn. Kẻ nào muốn lên cõi trên đời đời kiếp kiếp, xin hãy tôn thờ đức Thế Tôn như chư Thiên phụng thờ Thiên chủ Indra. Kẻ nào muốn hưởng thiên lạc, hưởng cuộc sống nơi thiên giới với đầy đủ vinh quang hạnh phúc, xin hãy tránh xa tội ác và hành trì Tam Pháp:

– Phải hộ phòng và minh triết trong thân, khẩu, ý, tu tập thiện pháp tối cao, dù là nam nhân hay nữ nhân cũng vậy.

– Kẻ nào được vinh quang trong đời này và được hưởng đủ mọi dục lạc, chắc chắn kẻ ấy đã sống cuộc đời đạo hạnh ở kiếp trước; mọi chúng sanh đều phải đi theo nghiệp thiện ác của mình. Tâu phụ vương, phụ vương có bao giờ suy nghĩ hạnh nghiệp gì đã khiến phụ vương thọ hưởng đám cung phi đẹp như tiên trên trời lại trang sức xiêm y ngọc vàng rực rỡ thế kia chăng?

Nàng khuyên bảo vua cha như vậy.

*

Bậc Đạo Sư giải thích sự việc như sau:

Công chúa Rujà đã làm đẹp lòng vua cha như thế, nàng tuyên thuyết chánh đạo cho kẻ mê mờ ấy và thành tâm giảng pháp lành cho vua cha.

Sau khi đã giảng Pháp cho vua cha nghe suốt đêm đến rạng ngày hôm sau, nàng bảo:

– Tâu phụ vương, xin đừng nghe lời kẻ tà thuyết lõa thể kia, mà hãy theo lời bạn lành như conđây đang tâu với phụ vương rằng có đời này và đời sau, có nghiệp quả thiện, ác. Xin phụ vương đừng lạc vào tà đạo.

Tuy nhiên nàng vẫn chưa đủ khả năng giải thoát vua cha khỏi tà thuyết của ngài: Ngài chỉ đẹp ý khi nghe những lời lẽ êm dịu của con, vì các bậc cha mẹ tự nhiên yêu thích lời lẽ con cái họ, nhưng họ lại không chịu từ bỏ những ý kiến riêng của mình.

Thế là trong kinh thành vang lên lời đồn đãi: Công chúa Rujà đang cố đánh tan các tà kiến bằng cách giảng Chánh pháp. Và dân chúng rất hoan hỷ: Công chúa hiền đức sẽ giải thoát vua cha khỏi tà thuyết và sẽ đem lại phồn vinh cho dân chúng.

Tuy nhiên dù công chúa chưa đủ khả năng làm vua cha tỉnh ngộ, nàng vẫn không ngã lòng thoái chí, mà nàng vẫn quyết tâm tìm phương tiện đem lại chân hạnh phúc cho vua cha. Nàng chắp tay lên đỉnh đầu lễ bái khắp mười phương, nàng nguyện cầu:

– Trong thế gian này có vị Sa-môn và Bà-la-môn chân chính phủ hộ người đời, có chư thiên ngự trị khắp nơi, lại có các vị Đại Phạm Thiên, kính xin các vị đến giúp cho vua cha của tiện nữ từ bỏ tà kiến hoặc nếu quý vị không có đủ tự lực, xin quý vị đến đây theo uy lực và công đức của tiện nữ để xua tan tà thuyết này và đem lại hạnh phúc cho toàn thể thế gian.

– Lúc bấy giờ vị Đại Phạm Thiên của thuở đó là Bồ-tát tên gọi Nàrada và các vị Bồ tát vì từ bi, lân mẫn và vì quyền uy tối thượng của các ngài, thỉnh thoảng vẫn phóng nhãn quang nhìn các kẻ thiện người ác trên thế gian. Ngày hôm ấy ngài nhìn xuống thế gian thấy công chúa đang cầu nguyện chư Thiên ngự trị khắp nơi đến giải thoát vua cha khỏi tà thuyết, ngài nghĩ thầm: “Trừ ta ra không ai có thể xua tan tà thuyết được, ta phải đến ngay hôm nay tỏ lòng từ ái với công chúa và mang lại hạnh phúc cho vua cha cùng dân chúng. Ta sẽ khoác bộ áo nào đây? Các ẩn sĩ tu hành thường được người đời yêu kính, lời lẽ của các vị ấy thường được xem làđáng tín thọ, vậy ta sẽ khoác áo ẩn sĩ”.

Thế là ngài hóa ra hình tướng thế nhân rất khả ái, với làn da như vàng ròng, mái tóc bện lại được ghim bằng cây kim vàng, sau khi mặc chiếc áo được kết bằng nhiều tấm, màu vỏ dà, từ bên ngoài vào trong, ngài lại khoác lên vai tấm da nai đen làm bằng bạc lấm tấm điểm sao vàng ánh, tay cầm bình bát khất thực bằng vàng đeo lủng lẳng bằng một chuỗi ngọc, trên vai ngài đặt chiếc đòn gánh bằng vàng có ba mấu, cầm bình nước bằng san hô buộc bằng chuỗi ngọc trai. Với bộ trang phục ấy, ngài liền phi thân qua bầu trời chẳng khác nào vầng trăng sáng rực giữa không gian, rồi bước vào thượng lầu của cung Canda, đứng sừng sững trước mặt vua.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

Lúc ấy Nàrada từ cõi Phạm thiên xuống hạ giới, khi quan sát cõi Jambudìpa (Diêm-phù-đề: Ấn Độ), ngài nhìn thấy vua Angati. Rồi ngài đến trước cung vua, nàng Rujà vừa trông thấy ngài, vội đảnh lễ bậc hiền trí từ thiên giới giáng trần.

Vua choáng váng trước vẻ huy hoàng của vị Phạm thiên, nên không thể ngồi yên trên ngai vàng mà vội bước xuống đất, hỏi lý do ngài giáng lâm cùng danh hiệu gia tộc của ngài.

*

Bậc Đạo Sư giải thích sự việc như sau:

Lúc ấy vua hoang mang trong trí, vội bước xuống ngai vàng, nói với Tôn giả Narada những lời hỏi thăm:

  1. Ngài đến từ đâu, dáng thánh thần,
    Như vầng trăng chiếu sáng đêm trường,
    Nói cho ta biết tên, gia tộc,
    Người gọi là gì giữa thế nhân?

Nàrada nghĩ thầm: “Vị vua này không tin tưởng có đời sau, vậy ta phải nói cho vua biết về đời sau”.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Ta đến đây từ hội chúng Thiên,
    Như vầng trăng chiếu sáng đêm đen,
    Ta nêu danh tánh cùng gia tộc:
    Ca-diếp, Nà-ra-da, họ tên.

Vua nghĩ thầm: “Lát nữa ta sẽ hỏi ngài về đời sau, bây giờ ta hãy hỏi ngài về mục đích việc giáng trần vi diệu này”.

  1. Cách ngài đi đứng diệu kỳ thay,
    Ta hỏi ngài: Đâu ý nghĩa đây,
    Vì lý do gì ngài thị hiện,
    Nà-ra-da hỡi, thần thông này?

Bậc trí Nàrada đáp:

  1. Chân thật, công bằng, chế ngự mình,
    Rộng lòng bố thí đã lừng danh,
    Nhờ công đức thực hành tinh tấn,
    Như ý nguyện mình, ta lướt nhanh.

Ngay cả lúc ngài nói như vậy, vua cũng không thể tin vào đời sau bởi vì tà thuyết đã đâm sâu cội rễ vào trí ngài, ngài liền hỏi:

– Có phần thưởng nào dành cho các thiện pháp chăng?

Rồi vua ngâm kệ:

  1. Ngài đã nói điều kỳ diệu thay,
    Khi nêu công lực thiện hành vầy;
    Nếu điều này đúng như ngài nói,
    Xin trả lời cho trẫm thẳng ngay.

Nàrada đáp:

  1. Đây việc của ngài, hỡi Đại vương,
    Hỏi ta điều cảm thấy nghi nan,
    Hiển nhiên ta đáp cho ngài rõ,
    Nhờ lý luận, bằng chứng rõ ràng.

Vua liền hỏi:

  1. Nà-ra-da, trẫm hỏi điều này,
    Đừng trả lời sai câu hỏi đây:
    Thật có chư Thiên hay tổ phụ,
    Đời sau như bọn chúng đồn vầy?

Nàrada đáp:

  1. Thật có Thiên thần với tổ tiên,
    Đời sau, như chúng vẫn nêu lên,
    Nhưng người tham dục và mê đắm,
    Không biết đời sau bởi đảo điên.

Khi nghe điều này, vua cười to và ngâm kệ:

  1. Nà-ra-da, nếu đã tin rằng:
    Có cõi cho người chết trú thân
    ,
    Đưa trẫm năm trăm đồng bạc gấp,
    Đời sau trẫm sẽ trả ngàn đồng !

Thế rồi bậc Đại Sĩ đáp lời, khiển trách vua ngay giữa hội chúng:

  1. Ta đưa ngài đủ số năm trăm,
    Nếu biết ngài hiền đức, rộng lòng,
    Nhưng nếu ngài là người độc ác,
    Đọa vào trong địa ngục đày thân,
    Còn ai đòi được ngài đem trả,
    Đời kế, ngàn đồng ấy được không?
  2. Khi một người thù ghét thiện lương,
    Chỉ yêu tội lỗi lại hung tàn,
    Trí nhân chẳng muốn cho vay mượn,
    Kẻ nợ ấy không thể đáo hoàn.
  3. Khi người ta biết kẻ tài năng,
    Đức hạnh, tinh chuyên, lại rộng lòng,
    Họ sẽ mời người kia mượn của,
    Bằng nhiều lợi lạc họ đem dâng;
    Khi người kia đã làm xong việc,
    Người sẽ bồi hoàn nợ đã mang.

Vua bị quở trách như vậy vẫn chưa chuẩn bị sẵn câu trả lời nào cả.

Hội chúng rất hoan hỷ reo to:

– Tâu công chúa, công chúa có thần lực vi diệu thay, công chúa sẽ giải thoát Đại vương khỏi tà thuyết ngay hôm nay.

Và cả kinh thành chấn động lên. Rồi nhờ thần lực của bậc Đại Sĩ, không một ai ở trong phạm vi bảy dặm đường quanh thành Mithilà không được nghe ngài thuyết Pháp. Lúc ấy bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Nhà vua đã quá chấp thủ tà thuyết, ta sẽ làm cho vua hiểu nỗi kinh hoàng của địa ngục mà bỏ tà thuyết đi, sau đó ta sẽ trấn an vua bằng cõi chư Thiên”. Rồi ngài bảo vua:

– Tâu Đại vương, nếu Đại vương không bỏ tà thuyết ấy đi, Đại vương sẽ bị đọa vào địa ngục chịu thống khổ không ngừng.

Và ngài bắt đầu kể đến các loại địa ngục khác nhau:

  1. Đại vương, khi giã biệt đời này,
    Ngài sẽ thấy diều quạ cả bầy,
    Vồ xé xác ngài trong địa ngục,
    Và kên kên nữa máu me đầy,
    Còn ai bắt được ngài đời kế,
    Đem trả ngàn đồng ấy đã vay?

Sau khi tả địa ngục diều quạ xong, ngài nói tiếp:

Nếu Đại vương không đọa vào đó, Đại vương phải ở trong địa ngục nằm giữa ba cõi (Àvici: vô gián địa ngục).

Rồi ngài ngâm kệ miêu tả địa ngục ấy:

  1. Ở đó tối tăm thật mịt mùng,
    Và không vầng nhật hoặc vầng trăng,
    Ngục này hỗn độn và kinh khủng,
    Chẳng biết ngày đêm, chẳng tháng năm,
    Còn kẻ nào mong đòi món nợ,
    Ở nơi như vậy nữa hay chăng?

Sau khi tả địa ngục ở giữa ba cõi ấy thật đầy đủ chi tiết, ngài bảo:

– Tâu Đại vương, nếu Đại vương không chịu bỏ tà thuyết ấy, không những Đại ương chịu khổ hình này mà còn nhiều khổ hình khác nữa.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Con chó Sa-ba dáng khổng lồ,
    Cùng Sà-ma lực lưỡng nhào vô,
    Dùng răng cắn xé người tan xác,
    Kẻ đọa từ đây đến ngục tù.

Các địa ngục kể tiếp cũng có cùng một quy luật như vậy; vì thế các địa ngục này và các cai ngục được ngài mô tả qua các bài kệ thật súc tích những ngôn từ tượng hình như trong cácđoạn trên:

  1. Vậy khi ở ngục bị tan thân,
    Vì thú dữ hành hạ bạo hung,
    Thân xác tả tơi, dòng máu chảy,
    Còn ai đòi trả nợ ngàn đồng?
  2. Với cung tên, nhọn hoắc giáo gươm,
    Quỷ sứ Kà-lù tựa địch nhân,
    Đâm chém trọng thương người phải đọa,
    Trước kia phạm tội ở nhân gian.
  3. Trong khi kẻ ấy chạy lang thang,
    Trong ngục, bị đâm ở bụng, sườn,
    Gan ruột nát tan dòng máu chảy,
    Ai mong đòi nó một ngàn đồng?
  4. Trời mưa xuống các loại tên, đao,
    Các khí cụ hành tội: cọc, lao,
    Đám lửa rơi như than cháy bỏng,
    Trời mưa đá tảng trút ào ào.
  5. Luồng gió nóng ran thật hãi hùng,
    Thổi vào trong ngục tối không cùng.
    Không vì vui thú dù giây lát,
    Nó chạy quanh, không chốn trú thân.
    Còn ai muốn bắt người kia trả,
    Đời kế ngàn đồng ấy được không?
  6. Bị buộc vào xe, vội chạy nhanh,
    Trên nền đất rực lửa hoành hành,
    Biết bao gậy ngắn, dài kiềm thúc,
    Ai muốn đòi ngàn bạc cho đành?
  7. Khi trèo leo lên ngọn núi kinh hoàng,
    Lởm chởm lưỡi dao, xé nát thân,
    Máu chảy đầm đìa, ai sẽ muốn,
    Đời sau đòi nó một ngàn chăng?
  8. Khi nó trèo lên một đống than,
    Đỏ hừng như núi lửa kinh hoàng,
    Toàn thân cháy, thét gào, đau khổ,
    Ai muốn đòi ngàn bạc ấy chăng?
  9. Lớp gai dày đặc tựa tầng mây,
    Có cọc nhọn đâm hút máu ngay,
    Những bọn đuổi săn vợ kẻ khác,
    Phải trèo lên đó, bị từng bầy,
    Quỷ Diêm- la chúa luôn xua đuổi
    Mang các giáo dài ở dưới tay.
  10. Khi nó trèo lên cây vải bông,
    Toàn thân đầy máu chảy ròng ròng,
    Tả tơi thống khổ luôn xâu xé,
    Hổn hển thở than thật nực nồng,
    Để đền tội ác xưa như vậy;
    Ai muốn đòi tiền nợ cũ không?
  11. Có những rừng cao tựa đám mây,
    Lá rừng là kiếm sắt tràn đầy,
    Thiết đao uống máu người đày đọa;
    Khi nó trèo lên đám lá cây,
    Thân nó bị cưa bằng kiếm sắt,
    Nát tan, máu chảy hãi hùng thay!
    Ai mong đòi nó trong đời kế,
    Trả nợ ngàn đồng nó đã vay?
  12. Khi nó thoát ra khỏi ngục này,
    Phủ đầy lá sắt giữa rừng cây,
    Liền rơi vào giữa dòng sông nọ,
    Ai muốn đòi tiền nợ cũ đây?
  13. Dòng sông chảy xiết Ve-ta-ran,
    Khốc liệt, nước sôi sục ngập tràn,
    Bao phủ lá, hoa sen bén nhọn,
    Trong khi nó bị đuổi trên sông,
    Máu me bao phủ, tay chân đứt,
    Dòng nước Ve-ta-ran hãi hùng,
    Chẳng có một nơi nào trú ẩn,
    Ai mong đòi nợ nó hay không?

Vua muốn tìm nơi an trú, liền nói với ngài:

– Thưa bậc Trí giả, trẫm run sợ như cây đang bị đốn ngã, tâm trí hoang mang bối rối, trẫm không biết hướng về đâu, trẫm đang bị dày vò khủng khiếp, nỗi kinh hoàng của trẫm thật gớm ghê khi trẫm nghe ngài ngâm các bài kệ trên đây. Như một vật đang cháy được ném vào nước, như một hòn đảo giữa đại dương đầy bão tố, như một ngọn đèn trong đêm tối, ngài chính là nơi an trú của trẫm vậy. Xin bậc trí giả hãy dạy cho trẫm thánh kinh, cùng thâm nghĩa của nó. Quá khứ của trẫm thật là đầy tội lỗi, xin bậc Đại Trí giả Nàrada chỉ dạy cho trẫm con đường rửa sạch tội lỗi để cho trẫm khỏi đọa vào địa ngục.

Sau đó bậc Đại Sĩ dạy vua con đường rửa sạch tội lỗi bằng cách nêu gương các bậc tiên vươngđã hành trì chánh đạo:

– Các vị vua Dhatarattha, Vessàmitta, Atthaka, Yàmataggi và Usinnara cùng vua Sivi và nhiều vị khác, nhờ chuyên tâm cúng dường các Sa-môn và Bà-la-môn nên đã được lên thiên giới của Sakka thiên chủ. Vậy Đại vương cũng phải tránh tà hạnh và theo chánh hạnh. Hãy cho người mang thực phẩm trên tay rao lên trong cung Đại vương: “Ai đang đói khát đây? Ai đang cần vòng hoa và dầu thơm? Kẻ nào lõa thể mong muốn mặc xiêm y trang hoàng đầy châu báu? Kẻ nào có muốn lọng che để đi đường và giầy thanh lịch êm chân? Đại vương hãy cho người rao như vậy khắp kinh thành từ sáng đến tối. Đừng bắt người già hay trâu già, ngựa già phải làm việc nặng nhọc. Đối với các hạng ấy, phải quý trọng đúng mức vì khi họ còn khỏe mạnh, họ đã hoàn thành sứ mạng được giao phó.

Như vậy bậc Đại Sĩ, sau khi thuyết giảng cho vua về bố thí rộng lượng và đức hạnh, thấy rằng vua sẽ hoan hỷ khi được ví với một cỗ xe, nên ngài tiếp tục thuyết Pháp cho vua qua hình ảnh một cỗ xe như ý (ban mọi điều ước):

– Thân của Đại vương được ví như một cỗ xe, đoạn trừ mọi ác tâm chính là trục xe, có lòng bố thí đại lượng là cái trần xe, bước đi thận trọng là sườn xe, hộ trì dục tâm là chính danh bánh xe, hộ trì khẩu căn chính là giữ cho bánh xe khỏi kêu cọc cạch.

Mọi bộ phận đều được giữ gìn hoàn hảo nhờ khẩu hành chân thật, gắn liền tốt đẹp với sự từ bỏ nói hai lưỡi, cái sườn xe êm ái với lời nói thân hữu kết hợp hài hòa với ngôn ngữ cân nhắc thật kỹ lưỡng; xây dựng vững chắc bằng lòng tịnh tín và đoạn trừ tâm tham, với lòng cung kính đảnh lễ đầy khiêm tốn chính là gọng xe, với càng xe nhẹ nhàng, nhu thuận, với dây cương tựđiều phục thân tâm theo Ngũ giới, cùng với chìa khóa đoạn trừ sân tâm, chiếc gọng xe trắng của lòng công chính, xe được lái đi nhờ sự thông suốt bốn mùa khác nhau, với ba chiếc gậy bảo vệ lòng tịnh tín bất động, lời nói khiêm tốn chính là chiếc roi da, đoạn trừ hư danh chính là sợi dây cương, với sự hỗ trợ của tâm niệm xả ly (không chấp thủ) đi theo chánh trí và giải thoát mọi trần cấu.

Hãy dùng trí giác làm động cơ thúc đẩy ngài, hành trì nhất tâm để chế ngự mọi luyến ái; tâm tư theo đúng đạo lộ tự điều phục cùng với mọi tuấn mã đã được huấn luyện thuần phục.Dục vọng và tham đắm đều là tà đạo, tự điều phục là chánh đạo. Khi con ngựa chạy theo sắc, thanh, hương, vị, thì trí tuệ phải dùng roi trừng phạt và tâm chính là người lái xe. Nếu ta đồng hành với cỗ xe, nếu trí thanh tịnh và nhất tâm bền vững mãi như thế, ta sẽ đạt mọi nguyện ước, tâu Đại vương, ta không thể nào đọa địa ngục.

Như vậy, tâu Đại vương, ta đã dùng nhiều cách trình bày cùng Đại vương nhiều đạo lộ đưa đến hạnh phúc, an lạc mà ngài đã yêu cầu Nàrada nói rõ để khỏi đọa địa ngục ở đời sau.

Sau khi thuyết giảng Chánh Pháp cho vua và phá tan mọi tà kiến cùng an trú vua vào giới hạnh, ngài lại khuyên vua từ nay xa lánh bạn ác, thân cận với bạn lành và cẩn trọng trong mọi bước tiến. Rồi ngài tán thán mọi đức hạnh của công chúa, nói lời khích lệ cả triều đình cùng các cung phi xong, ngài liền bay về Phạm Thiên giới với thần lực vĩ đại siêu phàm.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Đạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không những ngày nay, mà từ xưa, Ta đã giáo hóa Uruvela Kassapa và phá tan lưới tà kiến vây chặt vị ấy.

Rồi ngài nhận diện Tiền thân qua các vần kệ cuối cùng:

  1. Đề-bà-đạt chính A-là-ta,
    Bhad-da-ji chính Su-na-ma,
    Vi-ja-ya là Xá-lợi-phất,
    Su-na-kha, ẩn sĩ Gu-na,
    Ru-jà giáo hóa quân vương ấy,
    Chính là thị giả A-nan-dà.
  2. Bì-ja-ka chính Mục-kiền-liên,
    Ca-diếp, vua theo thuyết hão huyền,
    Các ông hiểu Bổn sinh như vậy,
    Bồ-tát chính là Đại Phạm thiên.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN BẬC ĐẠI TRÍ VÔ SONG (Tiền thân Vidhurapandita)

Yếu gầy, ái hậu lại xanh xao…,

Bậc Đạo Sư kể câu chuyện này khi Ngài trú ở Kỳ Viên (Jetavana), liên quan đến sự Viên mãn của Trí tuệ tối thắng.

Một ngày kia các Tỷ kheo đưa ra một vấn đề tranh luận tại Chánh pháp Đường, bảo nhau:

– Này các Hiền giả, Bậc Đạo Sư đã đạt đại trí, quảng trí, Ngài thật tinh thông, ứng đối mau lẹ, nhạy bén, lý giải sắc xảo và có khả năng đánh đổ mọi biện luận của các đối thủ của Ngài, nhờ uy lực Thắng trí của Ngài, Ngài đã phá tan những vấn đề nan giải do các vị hiền trí Sát-đế-ly đưa ra và khiến họ phải yên lặng chấp nhận. Sau khi an trú họ vào Tam quy và Ngũ giới, Ngài dạy họ con đường đưa Niết-bàn bất tử.

Bậc Đạo Sư đi vào, hỏi các Tỷ kheo đang ngồi bàn luận đề tài gì và khi nghe vậy, Ngài bảo:

– Này các Tỷ kheo, Như Lai sau khi đạt Trí tuệ Viên mãn, đã phá tan mọi lý luận của các đối thủ và giáo hóa các vị vua Sát- đế- ly cùng nhiều vị khác, việc chẳng phải kỳ diệu gì. Vì từ ngàn xưa khi Ta còn đang tầm cầu Trí tuệ Tối thượng, Ta đã đầy đủ trí tuệ để phá kiến các đối thủ. Hơn thế nữa, chính vào thời Vidhurakumàra, trên đỉnh Hắc Sơn, cao chừng sáu mươi dặm, nhờ uy lực Thắng trí của Ta, Ta đã hàng phục Đại tướng Dạ-xoa Punnaka, khiến y phải chịu im lặng và đem sinh mạng cúng dường.

Nói xong Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

  1. Trai giới bốn pháp

Ngày xưa tại quốc độ Kuru (Câu-lâu) thành Indapatta có vi quốc vương cai trị với danh hiệu Dhanañjaya-Korabba. Ngài có vị Đại thần tên gọi Vidhurapandita (Trí giả Vô song) cố vấn cho Ngài trong các thế sự cũng như thánh sự. Nhờ lời lẽ êm ái và biện tài siêu việt lúc thuyết Pháp, ông lôi cuốn mọi quốc vương ở cõi Jambudìpa (Diêm-phù-đề: Ấn độ) bằng những Pháp thoại du dương như các con voi say mê đàn sáo êm dịu, ông cũng không để cho các quốc vương trở về nước mình mà ở lại trong kinh thành đại vinh quang ấy và thuyết Pháp cho dân chúng với thần lực của một vị Phật.

Lúc bấy giờ có bốn gia chủ Bà-la-môn giàu sang tại Ba-la-nại, vốn là thân hữu, đã thấy được cảnh khổ của mọi dục vọng, nên bỏ vào vùng Tuyết Sơn sống đời ẩn sĩ khổ hạnh.

Sau khi đã đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng, các vị ấy cũng vẫn tiếp tục tu hành tại đó, hằng ngày sống bằng các thứ củ, quả rừng. Hôm đó các vị ấy du hành để khất thực muối và các thứ gia vị, cũng đến thành Kàlacampa thuộc quốc độ Anga. Rồi bốn gia chủ vốn là thân hữu với nhau, rất hoan hỷ trước oai nghi của các vị này, họ cung kính đảnh lễ xong cầm lấy cái bình bát cúng dường các món ăn tuyệt hảo, mỗi gia chủ đều mời các vị về nhà mình, tự nguyện sắp đặt nơi an trú cho các vị trong hoa viên.

Thế là bốn vị ẩn sĩ, sau khi thọ thực trong nhà bốn vị gia chủ, liền du hành suốt ngày hôm ấy, một vị lên cõi trời Ba mươi ba, một vị khác lên cõi Long vương (Nàga), một vị khác lên cõi Kim sí điểu vương (Supanna)và vị thứ tư đến ngự viên Migàcira thuộc quyền của vua Koravya.

Lúc bấy giờ, vị được hưởng một ngày ở Thiên giới, sau khi chiêm ngưỡng cảnh huy hoàng của Thiên chủ Đế-Thích (Sakka), miêu tả thật đầy đủ chi tiết cho thí chủ mình nghe. Vị lên cõi Long vương và Kim sí điểu vương Supanna cũng vậy, rồi vị đến ngự viên của vua Koravya Dhanañijaya cũng lần lượt miêu tả cảnh huy hoàng của mỗi cung vua đã chứng kiến. Vì vậy cả bốn thí chủ đều nguyện cầu được cộng trú với chư Thiên, nên sau khi thực hành bố thí cùng nhiều công đức khác, đến lúc mạng chung, một vị sinh làm Thiên chủ Đế Thích; một vị khác cùng với vợ con sinh vào cõi Long vương; một vị nữa sinh làm Kim sí điểu Supanna trong cung điện dưới hồ Simbali; còn vị thứ tư được nhập mẫu thai chánh hậu của vua Dhanañjaya, trong lúc ấy bốn vị ẩn sĩ được sinh lên Phạm Thiên giới.

Vương tử Koravya lớn khôn, đến khi vua cha từ trần, lên ngôi trị vì rất đúng pháp, nhưng ngài còn lừng danh vì tài nghệ đánh súc sắc. Ngài nghe lời khuyến giáo của Trí giả Vidhura chuyên tâm bố thí, giữ gìn giới hạnh và hành trì trai giới.

Một ngày kia, sau khi hành trì trai giới xong, ngài vào ngự viên, nhất tâm tu tập thiền định, tĩnh tọa ở một nơi an tịnh, ngài thực hành giới hạnh của một vị xuất gia.

Đế Thích (Sakka) cũng vậy, sau khi hành trì trai giới, nhận thấy thiên giới có nhiều trở ngại cho việc tu tập, liền đi xuống hoa viên ấy ở cõi nhân gian, tĩnh tọa ở một nơi an tịnh và hành trì Sa-môn hạnh.

Long vương Varuna cũng thế, sau khi hành trì trai giới, nhận thấy cõi Long vương có nhiều trở ngại cho việc tu tập, nên cũng lại vào hoa viên ấy, ngồi tĩnh tọa ở một nơi an tịnh thực hành Sa-môn hạnh.

Điểu vương Supanna cũng vậy, sau khi hành trì trai giới, nhận thấy rằng cõi Điểu vương có nhiều trở ngại cho việc tu tập, nên ngài đi vào ngự viên ấy, tĩnh tọa ở một nơi êm mát, thực hành Sa-môn hạnh.

Lúc bấy giờ, cả bốn vị ẩn sĩ vào buổi xế chiều, sau khi đứng dậy từ chỗ độc cư thiền định đến bên hồ nước của hoàng gia, nhìn nhau, tâm đầy tình cố tri thân ái, cùng ngồi xuống chào hỏi rất niềm nở.

Thiên chủ Sakka ngồi trên vương tọa, còn ba vị kia ngồi theo danh vị của mình. Lúc ấy Sakka Thiên chủ liền hỏi:

– Chúng ta đây đều là bốn vị đế vương, vậy công đức đặc biệt nhất của mỗi vị là gì?

Long vương Varulna đáp lời:

– Đức hạnh của Ta cao trọng hơn các Tôn giả.

Khi ba vị kia hỏi lý do, ngài đáp:

– Điểu vương Supanna này là cừu thù của ta, dù khi ta chưa ra đời hay ra đời rồi cũng vậy, thế mà khi nhìn thấy một kẻ cừu thù tiêu diệt nòi giống của ta như thế, ta không hề có chút sân hận, cho nên đức hạnh của ta là cao hơn cả.

Rồi ngài đọc vần kệ đầu tiên trong Tiền thân Catuposatha (Trai giới bốn phần số 441).

  1. Thiện nhân không cảm thấy hờn căm,
    Đối với một ai đáng hận sân,
    Không để nội tâm sân khởi dậy,
    Vị nào dù lúc giận trong lòng,
    Cũng không để lộ cho người thấy,
    Người gọi đó là thanh tịnh nhân.

Đặc tính của ta là như thế, cho nên đức hạnh của ta vượt trên các Tôn giả.

Điểu vương Supanna nghe vậy, liền đáp:

– Loài rồng Nàga là thức ăn chính của ta, nhưng nay dù thấy thức ăn kề tận miệng, ta cũng đành nhịn đói và quyết không làm ác vì miếng ăn, vậy đức hạnh của ta cao hơn cả.

Và ngài ngâm bài kệ:

  1. Người chịu đói, bụng đau rần,
    Ẩn sĩ tự điều phục món ăn,
    Không phạm ác hành vì thực phẩm,
    Vị này, người gọi bậc Sa-môn.

Đến lượt Thiên chủ Sakka nói:

– Ta để lại đằng sau mình mọi vinh quang ở thiên giới, mọi nguồn an lạc dâng tận tay, để xuống nhân gian thực hành công hạnh, vậy đức hạnh của ta cao hơn cả.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Sau khi bỏ mọi thứ vui chơi,
    Không nói lời gian dối giữa đời,
    Vị ấy ghét xa hoa, nhục dục,
    Như vầy người gọi Sa-môn rồi.

Thiên chủ Sakka tự trình bày công đức của mình như vậy. Rồi vua Dhanañjaya bảo:

– Nay ta đã rời triều đình cùng hậu cung với mười sáu ngàn phi tần có đủ tài ca múa, ta hành trì Sa-môn hạnh trong ngự viên này, vậy đức hạnh của ta cao hơn cả.

Rồi ngài ngâm kệ tiếp theo:

  1. Bậc toàn trí bỏ hết hoàn toàn,
    Mọi sở hữu và mọi dục tham,
    Tự chế, kiên tâm, vô ngã chấp,
    Vị này người gọi bậc Sa-môn.

Như vậy cả bốn vị đều tự cho đức hạnh của mình là cao quý hơn cả, rồi vua hỏi Dhanañjaya:

– Này Đại vương, có bậc hiền trí nào trong triều có thể giải mối nghi này chăng?

– Này các Đại vương, có chứ, trẫm có bậc Trí giả Vidhura đang giữ một chức vụ tối thượng trong triều, thường xuyên thuyết thế pháp cũng như thánh pháp cho trẫm, vị ấy có thể giải quyết mối nghi này, ta hãy cùng đi đến vị ấy.

Bốn vị vua tức thì đồng ý. Thế là bốn vị đều ra đi khỏi ngự viên, tiến về phía Thánh lễ đường, ban lệnh trang hoàng nơi ấy thật uy nghi, xong hội chúng kính mời Bồ-tát ngồi trên bảo tọa, chào ngài thật thân hữu rồi ngồi qua một bên và nói:

– Thưa bậc Trí giả, một mối nghi vừa khởi lên trong tâm chúng ta, xin ngài giải quyết cho:

  1. Xin hỏi đại thần thượng trí minh,
    Trong khi đàm đạo, khởi phân tranh,
    Nhờ khanh xét, giải nghi nan ấy,
    Hội chúng thoát nghi hoặc bởi khanh!

Bậc Đại Sĩ nghe xong liền bảo:

– Tâu các Đại vương, làm sao tiểu thần biết các Đại vương nói đúng hay sai về đức hạnh của các Đại vương, trong khi các ngài ngâm lời kệ qua cuộc tranh luận này?

Rồi ngài ngâm kệ thêm:

  1. Bậc trí biết chân tướng việc đời,
    Nói năng khôn khéo, đúng theo thời,
    Nhưng dù hiền trí, làm sao biết,
    Ý nghĩa kệ chưa nói với tôi?
    Vương tử Vi-na, Kim sí điểu,
    Long vương ấy nói thế nào rồi?
    Thác- bà vương, tối cao Hoàng thượng,
    Của xứ Câu-lâu, hãy mở lời!

Các vị vua liền ngâm kệ này với ngài:

  1. Kham nhẫn, Long vương thuyết giảng xong,
    Vương tử Vi-na, Sí điểu vương,
    Lại thuyết giảng về lòng tốt đẹp,
    Thác-bà vương thuyết đoạn trừ tham,
    Câu lâu Chúa thượng ly triền cái,
    Để đạt đến công hạnh vẹn toàn.

Sau khi nghe xong, bậc Đại Sĩ đáp kệ này:

  1. Tất cả lời này chánh đáng thay,
    Không gì sai trái ở nơi này,
    Người nào thích hợp lời như thế,
    Giống các tăm xe ở trục quay,
    Người được gọi Sa-môn chánh hạnh,
    Đủ đầy các đức tính trên đây.

Như vậy bậc Đại Sĩ tuyên thuyết đức hạnh của các vị vương đều là một. Khi nghe xong, bốn vị vương đều rất hoan hỷ, liền ngâm kệ tán thán ngài:

  1. Khanh là bậc tối thắng, vô song,
    Hộ pháp, tinh thông luật, trí nhân,
    Khi hiểu vấn đề nhờ trí tuệ,
    Với tài khéo cắt mọi nghi nan,
    Giống như người thợ ngà voi nọ,
    Cắt với lưỡi cưa thật dễ dàng!

Thế là cả bốn vị vua đều rất đẹp ý với lời giải thích vấn đề của ngài. Thiên chủ Sakka thưởng ngài chiếc cẩm y bằng gấm thiên đình, Kim sí điểu vương tặng ngài tràng hoa bằng vàng, Long vương Varuna tặng ngài hạt minh châu và vua Dhanañjaya ban thưởng một ngàn con bò cái v.v..Rồi vua Dhanãnjaya lại ngâm kệ với ngài:

  1. Một ngàn bò cái, trẫm truyền ban,
    Một thớt voi, bò đực một chàng,
    Mười cỗ xe và đàn ngựa quý,
    Thêm mười sáu đệ nhất thôn làng,
    Bởi vì trẫm thật đầy hoan hỷ,
    Cách giải vấn đề của Trí nhân!

Sau đó Sakka Thiên chủ cùng các vị kia cung kính đảnh lễ bậc Đại Sĩ và từ giã ra về cảnh giới của mình. Đến đây kết thúc Phần Trai giới Bốn pháp.

*

  1. Ước vọng của chánh hậu Vimalà

Lúc bấy giờ chánh hậu của Long vương là bà Vimalà. Khi thấy ngài không đeo minh châu trên cổ, liền hỏi thăm hạt châu ở đâu. Ngài đáp:

– Trẫm rất hài lòng khi nghe bài thuyết Pháp của bậc Trí giả Vidhura, vị nam tử của Bà-la-môn Canda, nên đã tặng minh châu cho vị ấy, không những chỉ riêng trẫm, mà Thiên chủ Sakka cũng cũng cung kính tặng ngài chiếc thiên y bằng gấm trời, Điểu vương tặng tràng hoa bằng vàng, còn vua Dhanañjaya tặng một ngàn con bò cùng nhiều thứ khác nữa.

– Vậy thì thần thiếp đoán vị ấy là một bậc biện tài về Chánh pháp.

– Này ái hậu, ái hậu đang nói gì vậy? Vị này chẳng khác nào một vị Phật xuất hiện ở cõi Diêm-phù-đề. Hằng trăm vị vua ở khắp cõi Diêm-phù-đề say sưa những lời lẽ êm dịu của vị ấy, không còn muốn trở về triều nữa, chẳng khác nào bầy voi rừng mê mẩn vì tiếng đàn cầm mà chúng yêu thích vậy. Đó là đặc điểm của tài hùng biện của ngài.

Khi bà nghe nói đến kỳ tài của ngài như vậy, bà ước mong nghe ngài thuyết Pháp, bà nghĩ thầm: Nếu ta tâu với đức vua rằng ta muốn nghe vị ấy thuyết Pháp và xin đức vua triệu vị ấy về đây, chắc đức vua sẽ không thuận; chi bằng ta thử giả bệnh và than thở về nỗi ao ước của một nữ bệnh nhân”.

Bà liền ra hiệu cho thị nữ đem bà lên tọa sàng. Khi vua không thấy bà vào dịp ngài đến vấn an bà và hỏi các thị nữ bà ở đâu, chúng tâu rằng bà bị bệnh, ngài liền đến thăm, ngồi bên giường bà, xoa thân thể bà và ngâm kệ:

  1. Yếu gầy, ái hậu lại xanh xao,
    Dung sắc chẳng như trước chút nào,
    Nào hỡi Vi-ma-là, hãy đáp:
    Nỗi đau này đến bởi vì sao?

Bà đáp ngài qua vần kệ sau:

  1. Có một bệnh riêng của nữ nhân,
    Gọi là ước vọng, tấu Long quân,
    Thiếp mong đem đến đây không dối,
    Tim của Vi-dhu-ra Trí nhân!

Long vương bảo bà:

  1. Ái hậu ước trời, trăng, gió mây,
    Gặp Hiền nhân ấy khó khăn thay!
    Nào ai có đủ tài năng để,
    Đem bậc hiền nhân ấy đến đây?

Khi bà nghe nói vậy, liền nói to:

– Nếu không được như ý thần thiếp sẽ chết mất.

Rồi bà quay mặt đi, nghiêng lưng bà ra ngoài, lấy chiếc áo quay mặt lại. Vua trở về tư thất ngồi trên tọa sàng suy nghĩ tìm hiểu vì sao hoàng hậu Vimalà lại muốn có trái tim của Vidhura: “Nàng sẽ chết nếu không ăn được tim vị ấy, vậy làm sao ta lấy được nó cho nàng?”.

Lúc bấy giờ công chúa Irandatì, một long nữ diễm kiều, trang sức đầy ngọc vàng trân bảo, bước vào cung kính đảnh lễ vua cha, rồi đứng qua một bên. Nàng trông thấy vua cha có vẻ lo âu, liền nói:

– Phụ vương có vẻ muộn phiền quá, vì duyên cớ gì?

  1. Thân phụ, sao cha dáng rối ren,
    Long nhan như một đóa hoa sen,
    Bị tay ngắt vụng, sao buồn khổ,
    Bậc chiến thắng, xin chớ muộn phiền!

Nghe lời con gái, Long vương đáp:

  1. I-ran-da hỡi, mẫu thân con,
    Ao ước trái tim bậc Trí nhân,
    Diện kiến Vi-dhu-ra thật khó,
    Triệu ngài, ai có đủ tài năng?

Rồi ngài lại bảo nàng:

  1. Này con, không có một triều thần,
    Ðủ sức triệu Vi-dhu Trí nhân,
    Con hãy hy sinh vì mẫu hậu,
    Ði tìm ra một vị phu quân!

Thế là vua ra lệnh cho nàng lui ra cùng với câu kệ, gợi nên những tư tưởng không phù hợp với một nàng công chúa:

  1. “Hãy tìm cho được một phu quân,
    Chàng sẽ triệu hồi bậc Trí nhân.”
    Công chúa đi ngay đêm tối ấy,
    Ðể cho dòng dục vọng tuôn tràn.

Nàng đi hái các hoa trên Tuyết Sơn đủ sắc, hương, vị. Sau khi trang hoàng toàn thể ngọn núi như một viên bảo ngọc, nàng trải tọa sàng bằng hoa trên núi, rồi nhảy múa tưng bừng, nàng trỗi giọng ca một điệu rất êm ái du dương:

  1. Càn-thát-bà hay đại lực thần,
    Long thần, quái vật hoặc tiên, nhân,
    Bậc hiền, tài đủ ban điều ước,
    Ai sẽ làm chồng tiện nữ chăng?

Lúc bấy giờ cháu của Ðại vương Vessavana (Tỳ-sa-môn), tên gọi Punnaka, là một đại tướng Yakkha (Dạ-xoa, thần Ðại lực) đang phi thần mã Sindh dài ba dặm, băng qua triền núi đỏ tía của ngọn Hắc Sơn, để đến nơi hội họp của các thần Dạ-xoa, chợt nghe lời ca của nàng, và lời ca của nữ nhân này chàng đã từng nghe trong đời vừa qua xoáy sâu tận thịt da cân não chàng, thấm vào tận xương tủy khiến chàng ngơ ngẩn say mê, liền quay ngựa lại, ngồi trên lưng thần mã, chàng vội an ủi nàng:

– Ôi nương tử, ta xin vì nàng đem trái tim của Vidhura đến đây bằng trí lực của ta, bằng thần lực cũng như bằng tính trầm tĩnh của ta, xin nàng chớ lo ngại việc đó nữa.

Rồi chàng ngâm thêm kệ này:

  1. Long nữ có đôi mắt diệu huyền,
    Hãy an tâm nhé, hỡi nàng tiên,
    Quả nhiên tài trí ta như vậy,
    Ta sẽ cùng nàng đẹp mối duyên.

Thế là Irandatì trả lời, nàng suy nghĩ theo kinh nghiệm xa xưa của một lần được cầu hôn trong đời trước của nàng:

– Xin chàng đến đây cùng với thiếp đi yết kiến phụ vương, ngài sẽ giải thích việc này cho chàng rõ.

Rồi điểm trang lộng lẫy với xiêm y rực rỡ, chói lòa, đeo tràng hoa, xức dầu đàn hương xong, nàng nắm tay thần Dạ-xoa đem đến yết kiến vua cha.

Và tướng Punnaka đỡ lấy lưng nàng, cùng đi yết kiến cha nàng là Long vương xin cầu hôn công chúa:

  1. Long vương, nghe lấy lời cầu hôn,
    Nhận sính lễ cân xứng quý nương,
    Thần hỏi I-ran-da ngọc nữ,
    Hãy ban công chúa thuộc về thần,
    Một trăm voi với trăm con ngựa,
    Trăm cỗ xe và la một trăm,
    Ngọc quý trăm kho, xin nhận hết,
    Ban thần công chúa, tấu Long quân!

Long vương liền phán bảo:

– Hãy đợi ta hỏi ý kiến vương tộc, thân bằng quyến thuộc; làm việc gì mà không hỏi ý kiến kẻ khác sẽ đem lại hối tiếc về sau.

Long vương vào cung, hỏi ý kiến Vương hậu:

– Thần Dạ-xoa Punnaka muốn cầu hôn công chúa Irandatì, vậy ta có nên gả con để đổi lấy vô số của cải ấy không?

Vương hậu Vimalà đáp:

– Không ai chinh phục được công chúa Irandatì bằng ngọc vàng châu báu cả, nếu vị ấy có đủ tài năng đem trái tim của Trí nhân Vidhura đến đây thì sẽ chinh phục được công chúa bằng bảo vật ấy, chứ chúng ta không đòi thêm của cải nào khác.

Thế là Long vương Varuna bước ra khỏi cung, hội ý với Punnaka, và bảo chàng:

– Công chúa Irandatì không thể được chinh phục bằng ngọc vàng châu báu, nếu chàng có đủ tài năng đem lại đây quả tim của Trí nhân Vidhura, chàng sẽ chiếm được công chúa bằng bảo vật đó, chúng ta không đòi thêm của cải gì.

Punnaka đáp lời:

– Có người được kẻ này gọi là hiền nhân thì kẻ khác lại gọi là “ngốc tử”, vì nhân thế có nhiều ý kiến khác nhau về một vấn đề như vậy. Vậy xin Ðại vương cho tiểu thần biết rõ ai là người được Ðại vương gọi là Trí nhân?

Long vương đáp:

– Nếu chàng có nghe danh tiếng Vidhura, đại thần của vua Dhanañjaya, thì hãy đem vị ấy về đây, công chúa Irandatì sẽ là chánh thê của chàng.

Khi nghe Long vương Varuna nói vậy, thần Dạ-xoa nhảy lên reo mừng, tức thì bảo quân hầu cận của chàng:

– Hãy đem tuấn mã đầy đủ yên cương lại đây cho ta. Tai ngựa đeo vàng, móng ngựa đeo ngọc, áo giáp bằng vàng.

Quân hầu vội đem tuấn mã Sindh trang sức đầy đủ như gã đã ra lệnh và Punnaka cưỡi tuấn mã phi nhanh qua bầu trời về đến cung vua Vessavana, kể lại cho ngài nghe chuyến phiêu lưu của chàng và do đó mô tả cảnh giới Long vương.

*

Việc này được diễn tả như sau:

Punnaka lên ngựa, một tuấn mã đủ năng lực mang các Thiên thần, chàng trang sức thật sang trọng, đầy ngọc ngà trân bảo, râu tóc tỉa thật gọn gàng, rồi phi nhanh qua bầu trời.

Lòng chàng đầy ước vọng đắm say, khao khát chiếm được Long nữ Irandatì, chàng tìm đến Ðại vương Vessavana Kuvera, tâu trình:

– Có cung thất Bhogavati được gọi là Kim Ðường, đó là kinh thành của Long vương được xây trong thành trì bằng vàng.

Các tháp canh có hình môi và cổ, với hồng ngọc và bảo châu màu lục nhãn, cung điện xây bằng cẩm thạch đầy đủ vàng ròng, bao phủ bằng ngọc chạm vàng.

Các cây xoài, tilaka, hồng đào, sattapanna, mucalinda, ketaka, piyaka, uddàlaka, saha và sinduvàrita với muôn hoa khoe sắc thắm trên bầu trời.

Các cây hoa champac, nàgamàlika, bhaginimàlà và táo nặng trĩu lá cành, mang lại vẻ diễm kiều cho cung điện Long vương.

Lại có một cây chà là khổng lồ bằng ngọc quý và hoa vàng không bao giờ tàn, đó là nơi ngự trị Long vương Varuna đầy đủ oai thần và được sinh từ Thiên giới.

Cũng là nơi ngự trị của hoàng hậu Vimalà với hình dáng mềm mại như cây leo bằng vàng, thanh thanh như cây kàlà mới mọc, yêu kiều với bộ ngực như đôi quả nimba.

Da mượt mà tô điểm bằng son tươi thắm tựa hồ cây Kanikàra nở hoa trong bóng mát, như một nữ thần trên thiên giới, như ánh chớp lóe sáng giữa vầng mây. Bà đang say sưa tràn trề niềm ước vọng lạ lùng, bà mong có được quả tim của Vidhura Hiền sĩ. Tiểu điệt xin đem nó lại cho các vị ấy, tâu Ðại vương, rồi họ sẽ gả công chúa Irandatì cho tiểu điệt.

Vì không dám ra đi nếu không được lệnh của Ðại vương Vessavana, nên chàng ngâm các bài kệ trên để đức vua nghe chàng vì ngài đang bận dàn xếp một cuộc tranh chấp về một cung điện giữa hai vị Thiên tử. Punnaka biết rằng lời chàng nói không được vua để ý đến nên chàng lại gần một trong hai vị đang tranh chấp nắm phần thắng lợi trong cuộc. Vua Vessavana sau khi đã quyết định xong, không để ý đến vị Thiên tử bại cuộc mà chỉ bảo vị kia:

– Chàng hãy đi về cung điện mà an trú.

Ngay khi ngài bảo:

– Chàng hãy đi.

Punnaka liền gọi vài vị Thiên tử làm chứng và bảo:

– Các vị xem thấy ta đã được Ðại vương phái đi rồi.

Lập tức chàng ra lệnh đem tuấn mã đến và leo lên yên ngựa khởi hành.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Sau khi Punnaka từ giã Vessavana Kuvera, Ðại đế vinh quang của mọi loài, liền ra lệnh cho cận thần:

– Mang thần mã lại đây đầy đủ yên cương, với tai đeo vòng, mông đeo ngọc, áo giáp bằng vàng dát sáng ngời.

Punnaka leo lên tuấn mã dành cho thiên thần, chàng trang điểm râu tóc thật oai vệ, rồi phi nhanh qua bầu trời.

Trong lúc vân du, chàng nghĩ: “Trí giả Vidhura có đám cận vệ rất đông, nên không dễ gì bắtđược ông. Tuy thế, vua Dhanañjaya lại nổi tiếng về tài đánh súc sắc. Ta sẽ đánh thắng vua này qua ván bài rồi bắt lấy Vidhura. Hiện nay có rất nhiều ngọc quý trong kho của ngài, chắc ngài không đánh cuộc bằng giải hèn mọn đâu. Ta sẽ phải đem viên ngọc vô giá, vì vua này không nhận viên ngọc tầm thường đâu. Hiện nay có viên bảo châu vô giá thuộc quyền vua Chuyển luân ở trong núi Vepulla gần thành Vương Xá; ta sẽ đến lấy bảo ngọc ấy và dụ vua chơi bài để thắng ngài”.

Rồi chàng thực hành ý định ngay.

*

Bậc Ðạo Sư kể toàn thể câu chuyện:

Chàng đến thành Vương Xá đầy lạc thú, kinh thành xa xôi của nước Anga, trù phú lương thực, tràn trề thức ăn uống. Chẳng khác gì Masakkaràsa, kinh thành của Thiên chủ Indra, dậy âm thanh của bầy công, hạc, với hoa viên tráng lệ bao quanh, muôn loài chim ca hót giống như Tuyết Sơn bao phủ đầy hoa. Thế là Punnaka trèo lên núi Vepulla với các đỉnh núi đá chồng chất, nơi các quỷ thần cư ngụ, chàng đi tìm bảo ngọc đầy hào quang, và cuối cùng chàng thấy nó nằm giữa lòng núi.

Khi chàng nhìn thấy viên bảo ngọc chiếu hào quang rực rỡ, diễm lệ muôn phần, chẳng khác nào tia chớp sáng lòa không gian, chàng vội vàng chụp lấy viên như ý bảo châu vô giá kia, leo lên thần mã vô song địch, và tướng mạo chàng thật tuấn tú cao sang, chàng phi nhanh qua bầu trời vô tận.

Chàng đến kinh thành Indàpatta, giáng lâm tại triều đình xứ Kuru (Câu-Lâu), dũng tướng Dạ-xoa liền triệu tập một trăm chiến sĩ tại đó:

  1. Ai muốn chiếm phần thưởng đế vương?
    Ai, ta sẽ thắng cuộc tranh hùng?
    Vô song bảo ngọc nào ta đoạt?
    Ai sẽ chiếm ưu hạng bảo trân?

Chàng nói lên bốn câu kệ tán thán Ðại vương Koravya như vậy. Vua nghĩ thầm: “Ta chưa từng nghe một vị anh hùng nào mở lời ca ngợi như thế này, vậy vị này là ai đây?” Và ngài liền hỏi chàng qua vần kệ này:

  1. Công tử sinh ra quốc độ nào,
    Lời này chẳng phải Ko-ra đâu,
    Chàng hơn tất cả về hình tướng,
    Cho biết quý danh, quyến thuộc mau.

Chàng suy nghĩ : Nhà vua hỏi danh tánh của ta, hiện nay chỉ là tùy tướng phục dịch Punnaka song nếu ta bảo ta là Punnaka, vua sẽ nói: gã kia chỉ là một tùy tướng, tại sao gã dám nói với ta quá bạo gan như vậy? Và vua sẽ khinh thị ta, thôi ta sẽ nói cho ngài nghe danh tánh của ta trong đời sống vừa rồi”. Thế là chàng ngâm kệ:

  1. Tiểu sinh tên gọi Kac-cà-na,
    Người chẳng gọi tên khác xấu xa,
    Thần đến đây tìm trò giải trí,
    Thân bằng, quyến thuộc ở An-ga.

Vua liền hỏi:

– Thế Công tử định trao ta vật gì nếu Công tử bại cuộc? Công tử đã có những gì nào?

Rồi vua ngâm kệ:

  1. Ngọc gì Công tử có trong tay,
    Mà kẻ thắng mong được có ngay?
    Một vị vua nhiều châu ngọc quý,
    Chàng nghèo sao dám thách như vầy?

Punnaka đáp:

  1. Ðây ngọc làm say đắm cõi lòng,
    Huy hoàng bảo ngọc tạo vinh quang;
    Người nào thắng chiếm vô song mã,
    Mọi địch thủ, thần mã phá tan.

Khi vua nghe chàng nói, liền đáp:

  1. Một viên ngọc ích lợi gì chăng?
    Một tuấn mã sao lập chiến công?
    Vua chúa có nhiều viên ngọc quý,
    Và nhiều tuấn mã tốc như phong!

*

III. ÐẶC TÍNH CỦA BẢO CHÂU NHƯ Ý

Khi nghe lời vua phán, chàng thưa trình:

– Tâu Ðại vương, tại sao Ðại vương lại nói vậy? Chỉ có một thần mã và cũng có cả ngàn cả vạn tuấn mã khác; chỉ có một bảo châu và cũng có cả ngàn bảo châu khác; nhưng mọi tuấn mã hiệp lực lại cũng không sánh được với thần mã này, xin Ðại vương xem sức phi nhanh của nó đây.

Nói xong, chàng lên ngựa phi trên đỉnh trường thành và bức trường thành bảy dặm này tựa hồđược vây quanh bởi bầy ngựa kề cổ nhau trùng trùng điệp điệp, rồi chẳng bao lâu chẳng còn phân biệt được đâu là ngựa, đâu là thần Dạ-xoa nữa, mà chỉ còn thấy dải lụa hồng trên lưng chàng như thể phủ khắp trường thành.

Rồi chàng xuống ngựa, tâu vua rằng bây giờ vua đã chứng kiến sức phi nhanh của thần mã, chàng lại xin vua chứng kiến một chuyện kỳ lạ khác: chàng bảo thần mã phi nhanh trong hoa viên của kinh thành, trên mặt nước, ngựa phóng nhanh không ướt đến móng chân; rồi chàng lại bảo ngựa dạo bước trên đám lá sen và khi chàng vỗ tay, xòe bàn tay ra, ngựa liền đến đứng trên lòng bàn tay chàng. Sau đó chàng lại nói:

– Ðây chính là ngựa báu, tâu Ðại vương.

– Ðúng vậy, thưa Công tử.

– Giờ đây xin hãy để ngựa báu qua một bên trong chốc lát, xin Ðại vương hãy xem thần lực của bảo châu. Tâu Chúa thượng, xin ngài ngự lãm viên bảo châu vô song địch của tiểu sinh: Trong bảo châu này có đủ thân hình nam nhân cùng nữ nhân, thân hình của thú vật, cùng thân hình của chim muông, Long vương và Ðiểu vương, tất cả muôn loài đều hiện ra trong bảo châu này.

Cả một đàn voi, một đàn xe ngựa, quân sĩ, cờ xí, xin Chúa thượng ngự lãm cả đoàn kỵ mã, vệ sĩ của vua, chiến sĩ đang chiến đấu trên cỗ xe, chiến sĩ chiến đấu trên bộ, quân sĩ đang bày binh bố trận, xin Chúa thượng ngự lãm mọi vật xuất hiện trong viên bảo châu này.`

Xin ngự lãm trong viên bảo châu này một kinh thành đầy đủ dinh thự kiên cố lầu đài với nhiều cổng thành và trường thành, với nhiều tụ điểm đầy lạc thú – nơi bốn đại lộ giao nhau – Các đại trụ, hào lũy, chấn song, then cửa, tháp canh, cổng thành; xin ngự lãm mọi vật xuất hiện trong viên bảo châu này.

Xin ngự lãm các đàn chim muông đủ loại, trên đường sá, dưới cổng thành: thiên nga, công, hạc, hồng nga, hải âu, sơn ca, cu cườm, jivajivaka, xin ngự lãm muôn loài chim đều tụ họp về đây và xuất hiện trong viên bảo châu này.

Xin ngự lãm một kinh thành diệu kỳ với trường thành cao cả, khiến ta phải dựng tóc gáy vì kinh ngạc, thật vui mắt vì cờ xí rợp trời, đất cát toàn vàng ròng, xin ngự lãm các lều ẩn sĩ được phân chia đều đặn thành từng khu vực, nhà cửa đủ loại, sân bãi, đường sá cùng các đường nhỏ chen kẽ.

Xin ngự lãm các trà đình tửu quán, các nhà tể sinh, cùng các tiệm thực phẩm cho các nội nhân, các gái giang hồ cùng các chàng phóng đãng, tất cả đều hiện ra trong bảo ngọc này. Những người kết tràng hoa, thợ giặt, các chiêm tinh gia, những lái buôn y phục, thợ kim hoàn nữ trang, tất cả đều hiện ra trong bảo châu này.

Xin ngự lãm các loại trống, lớn nhỏ, tù và, trống đồng, trống rung, đủ loại thanh la, đều xuất hiện trong bảo châu này.

Xin ngự lãm các loại vĩ cầm, khiêu vũ, ca hát thật du dương, các loại nhạc cụ, tiếng gồng chiêng rung đều xuất hiện trong bảo châu này.

Các tay đô vật, nhảy cao cũng có mặt nơi đây, cảnh hề múa rối, các thi sĩ, thợ hớt tóc của vua chúa tất cả đều xuất hiện trong bảo châu này.

Dân chúng tụ tập nơi đây, xin ngự lãm các dãy ghế sân khấu hàng hàng lớp lớp xuất hiện trong bảo ngọc này.

Xin ngự lãm các tay đô vật đánh bằng hai cánh tay gập lại, xin ngự lãm kẻ đánh cùng người bị đánh vật đều xuất hiện trong bảo châu này.

Xin ngự lãm trên triền núi các đoàn hươu, nai, sư tử, cọp beo, gấu, chó sói, hoẵng, tê giác (tây ngu), gayal, trâu bò, hồng lộc, ruru, linh dương, lợn rừng, nimka, lợn nhà, hươu sao kadali, mèo, thỏ, muôn loài súc sinh đều hiện ra trong bảo ngọc này.

Những dòng sông đào thật đẹp, đáy lót toàn kim sa, nước trong vắt chảy nhẹ nhàng với đủ loại cá, cá sấu, các loài thủy quái, rùa, trạnh, pàthìna, pàvusa, vàlaja và muñjarohita.

Xin ngự lãm trong viên bảo châu này đủ loại cây, đủ loài chim và một khu rừng có những cành cây làm bằng ngọc bích (lapi lazuli).

Xin Chúa thượng ngự lãm các hồ nước được xây thật đều đặn bốn góc thành với muôn loại chim cá rộn rã tung tăng. Xin ngự lãm quả đất được biển cả vây phủ, nước tràn khắp nơi, điểm tô đủ loại cây cỏ, tất cả đều hiện ra trong bảo ngọc này.

Xin ngự lãm xứ Videha phía trước, Goyàniya phía sau, Kuru (Câu-lâu) và Jambudìpa (Diêm-phù-đề), đều xuất hiện trong bảo ngọc này.

Xin ngự lãm mặt trời, mặt trăng, chiếu sáng bốn phương trong khi đi vòng quanh núi Sineru (Tu-di) cũng xuất hiện trong bảo ngọc này.

Xin ngự lãm núi Sineru và Tuyết Sơn cùng Thần Hải và Tứ Ðại Thiên vương bảo hộ thế giới, thảy đều xuất hiện trong bảo ngọc này.

Các hoa viên của Thiên chủ Indra như Phàrusaka, Cittalatà, Missaka, Nandana và cung Vejayanta, thảy đều xuất hiện trong bảo ngọc này.

Cung Sudhamma (Thiện pháp) của Thiên chủ Indra ở cõi trời Ba mươi ba, cây trời Pàricchatta (San hô) đang nở rộ hoa, thiên tượng Eràvana, đều xuất hiện trong bảo châu này.

Xin ngự lãm các ngọc nữ của các vị trời đang hiện ra như tia chớp giữa không gian, nhởn nhơ trong ngự viên Nandana, tất cả đều xuất hiện trong bảo châu này.

Xin ngự lãm các ngọc nữ cõi trời đang mê hoặc các tiên đồng, và các tiên đồng đang thơ thẩn dạo chơi, tất cả đều xuất hiện trong bảo châu này.

Xin ngự lãm hơn ngàn cung điện phủ đầy ngọc bích hiện ra sáng ngời trong viên bảo châu này. Thiên chúng ở các cõi trời Ba mươi ba, Dạ-ma, Ðâu-suất và Tha hóa tự tại thảy đều xuất hiện trong viên bảo châu này. Xin ngự lãm các hồ nước trong suốt đầy san hô và sen súng trên cõi trời.

Trong bảo ngọc này có mười đường vân trắng, mười đường vân xanh đậm thật tuyệt trần, hai mươi mốt đường vân nâu và mười bốn đường vân vàng nhạt, hai mươi đường vân vàng chói, hai mươi đường vân bạc, ba mươi đường vân đỏ. Mười sáu đường vân đen, hai mươi lăm đường vân màu thiên thảo đỏ sẫm chen lẫn với hoa bandhuka và tô điểm thêm những đóa sen xanh.

Tâu Chúa thượng, xin ngự lãm viên ngọc sáng rực như lửa này với vẻ đẹp toàn mỹ, đó sẽ là giải thưởng dành cho kẻ thắng cuộc.

*

  1. GIẢI THƯỞNG CỦA CUỘC CHƠI BÀI

Sau khi nói xong, Punnaka liền hỏi:

– Tâu Ðại vương, ví thử tiểu thần thua cuộc, tiểu thần xin dâng viên bảo ngọc này, song ví thử tiểu thần thắng cuộc, xin Chúa thượng ban vật gì cho tiểu thần?

– Ngoài thân ta cùng chiếc lọng trắng ra, tất cả giang sơn ta ngự trị đều đem ra treo giải được cả.

– Tâu Chúa thượng, xin Chúa thượng đừng chậm trễ nữa, vì tiểu thần từ phương xa lại đây, xin Chúa thượng ra lệnh chuẩn bị phòng đánh bài.

Thế là vua ra lệnh cho các đại thần chuẩn bị phòng đánh bài và trải tấm thảm dệt đẹp nhất cho vua ngự, cùng bảo tọa cho các vị quốc vương khác. Khi đã sắp đặt một chỗ thích hợp cho Punnaka, họ trình vua đã đến lúc chơi bài.

Punnaka liền tâu vua qua bài kệ sau:

  1. Ðại vương, hãy đến đích cầu mong,
    Ngài sẽ không giành được bảo trân,
    Ta hãy thắng không nhờ bạo lực,
    Và ta thắng bởi lẽ công bằng,
    Khi ngài thất bại, xin đem trả,
    Phần thưởng ngài ban tặng tiểu thần.

Vua liền đáp:

– Hỡi thiếu sinh, chàng đừng sợ ta là một vị đại vương, mọi cuộc thắng bại của ta đều theo lẽ công bình và không dùng bạo lực.

Thế rồi Punnaka ngâm kệ thỉnh cầu các vị vua kia chứng kiến cuộc thắng trận bằng lẽ công bình:

  1. Hỡi các Ðại vương Pañ-ca-la,
    Su-ra-se-na và Mac-cha,
    Mad-da cùng với Ke-ka-ka,
    Xin các Ðại vương ngắm cuộc cờ,
    Không có dối gian hay phỉnh gạt,
    Không ai can thiệp việc đôi ta.

Sau đó vua được cả trăm vị vua khác hộ tống cùng Punnaka vào phòng đánh bài, tất cả đều ngồi xuống các bảo tọa, đặt con súc sắc vàng lên tấm bảng bằng bạc. Punnaka vội tâu:

– Tâu Ðại vương, có hai mươi bốn lần ném súc sắc, gọi là màlika, sàvata, bahula, santi và bhadra v.v… xin Ðại vương chọn con bài nào vừa ý.

Vua ưng thuận, rồi chọn con bài bahula, Punnaka chọn con bài sàvata. Rồi vua bảo:

– Này thiếu sinh, chàng đánh bài trước đi.

– Tâu Ðại vương, lần ném đầu tiên không phải của tiểu thần, xin Ðại vương đi trước.

Vua chấp thuận. Lúc bấy giờ mẫu thân của vua trong đời sống ngay trước đời này là thần hộ vệ của ngài, nên nhờ thần lực của bà, ngài thắng cuộc. Bà đứng cạnh đó, vua vừa nhớ lại nữ thần vừa ca bài đánh súc sắc, rồi xoay con bài trong tay và ném lên không. Nhờ thần lực của Punnaka, các con bài rơi xuống đúng cho chàng thắng vua.

Phần vua với tài chơi súc sắc nhận ra rằng các con bài rơi xuống không hợp ý ngài, nên ngài chụp chúng lại, trộn đều chúng trên không rồi ném lên lần nữa, nhưng ngài vẫn thấy chúng rơi xuống không đúng ý ngài nên vội chụp chúng lại trong lúc đang rơi.

Lúc ấy Punnaka nghĩ thầm: “Vị vua này đang chơi bài với một thần Dạ-xoa như ta, vừa trộn bài khi chúng rơi xuống rồi lại chụp lấy chúng, tại sao như vậy chứ”? Khi biết có thần lực của nữ thần hộ vệ ngài, chàng giương to mắt như thể tức giận lắm và nhìn nữ thần khiến bà kinh hoàng chạy đi trốn trên đỉnh núi Cakkavàla mà vẫn còn run rẩy.

Khi ném bài đến lần thứ ba, mặc dù vua biết chúng rơi xuống không đúng ý, ngài cũng không thể đưa tay ra chụp lấy chúng vì thần lực của Punnaka, nên chúng rơi xuống thất lợi cho ngài. Rồi Punnaka ném các con bài rơi xuống thắng thế cho chàng. Khi biết rằng chàng đã thắng, chàng vỗ tay ầm ĩ và nói ba lần:

– Tiểu thần đã thắng!

Tiếng chàng vang dội rung động cả cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ).

*

Bậc Ðạo Sư tả lại sự việc như sau:

– Vua Câu-lâu và thần Dạ-xoa Punnaka say sưa bước vào mê hồn trận; vua chơi bài thua cuộc và Punnaka thắng cuộc. Cả hai vị giao đấu trước sự chứng kiến của các vị vua và nhiều chứng nhân khác. Thần Dạ-xoa thắng vị vua tối cao của loài người và tiếng reo hò vang dội từ nơi ấy.

Vua không đẹp ý vì thua cuộc, và Punnaka vội ngâm kệ an ủi ngài:

  1. Thắng, bại thuộc về một phía thôi,
    Giữa hai phe chiến đấu tranh tài,
    Ðại vương đã mất phần ưu thắng,
    Chiến bại, xin trao giải thưởng tôi.

Sau đó vua bảo chàng nhận giải qua vần kệ:

  1. Ngựa, voi, bò, ngọc quý, hoa tai,
    Bất cứ gì ta có ở đời,
    Hãy lấy món nào cao quý nhất,
    Kac-cà-na, nhận rồi đi thôi.

Punnaka đáp:

  1. Ngựa, voi, bò, ngọc quý, hoa tai,
    Bất cứ gì ngài có ở đời,
    Vi-dhu-ra đại thần ưu thắng,
    Người đã được tôi chiếm đoạt rồi!

Vua phán bảo:

  1. Vị đại thần ta, chỗ trú an,
    Là người giúp đỡ, chốn nương thân,
    Chính là thành lũy, thần phù hộ,
    Vị đại thần không thể sánh bằng,
    Giá trị bạc vàng, tài sản quý,
    Người như sinh mạng của vương quân.

Punnaka đáp:

  1. Chúng ta tranh chấp sẽ dài dòng,
    Ta hãy đi tìm vị đại thần,
    Hỏi vị ấy điều gì ước muốn,
    Ðể người quyết định vấn đề chung,
    Những gì người định phần tiên quyết,
    Là bản án phân xử cuối cùng.

Vua phán:

  1. Công tử, chàng ăn nói chánh chân,
    Quả chàng chẳng nói thiếu công bằng,
    Chúng ta đi gặp người và hỏi,
    Theo cách này, ta sẽ đẹp lòng.

Nói xong vua đưa cả trăm vị vua kia cùng đi, Punnaka sung sướng vội vàng đến tòa án và bậc Trí nhân từ chỗ ngồi đứng dậy chào đón vua rồi ngồi xuống một bên.

Sau đó Punnaka nói với bậc Ðại Sĩ:

– Thưa bậc Trí giả, ngài thật chí công, ngài không hề nói lời hư vọng dù có đổi cả sinh mạng đi nữa, đó là danh tiếng ngài lẫy lừng khắp thế giới này. Hôm nay tiểu sinh sẽ biết được ngài có thật chí công như vậy chăng?

Rồi chàng ngâm kệ sau:

  1. Thật chư Thiên phái xuống phàm trần,
    Ðến xứ Câu-lâu làm đại thần,
    Cố vấn Vi-dhu-ra chánh trực,
    Ngài là quyến thuộc hoặc tùy tùng,
    Của vương gia đấy, xin ngài nói,
    Giá trị của ngài giữa thế nhân?

Bậc Ðại Sĩ nghĩ thầm: “Người này hỏi về ta, nhưng ta không thể cho người ấy biết được ta là quyến thuộc của vua hay là thượng nhân đối với vua, hay chẳng có giá trị gì đối với vua cả. Trên thế gian này không có gì bảo đảm cho ta bằng sự thật, ta phải nói lên sự thật”.

Rồi ngài ngâm hai vần kệ chứng tỏ ngài không phải là quyến thuộc hay thượng nhân của vua, mà chỉ là một trong bốn loại tùy tùng của vua:

  1. Một số nô tài thuở mẹ sinh,
    Kẻ vì tiền phải bán thân mình,
    Nhiều người tự nguyện làm nô lệ,
    Kẻ khác nô tài bởi hãi kinh.
    Ðây bốn loại nô tài tất cả,
    Ở trên trần thế giữa nhân sinh.
  2. Ta chính nô tài tự mẹ cha,
    Khổ ưu phát xuất tự vương gia,
    Ta là nô lệ đức vua đó,
    Cho dẫu ta theo kẻ khác mà.
    Ngài có quyền đem ta tặng cậu,
    Hỡi chàng nam tử tự phương xa!

Punnaka nghe lời này vô cùng thích thú, vừa vỗ tay vừa nói:

  1. Hôm nay tôi chiến thắng lần hai,
    Ðược hỏi, đại thần đã đáp ngài,
    Thật vậy, Ðại vương không đúng lý,
    Việc này đã quyết định xong xuôi,
    Nhưng ngài không muốn đem trao trả,
    Phần thưởng ngài dành để tặng tôi!

Nghe vậy, vua liền nổi giận với bậc Ðại Sĩ và bảo:

– Ngươi chẳng hề quan tâm đến ta là người đã ban vinh quang cho ngươi, lại quan tâm đến chàng thiếu sinh này hợp nhãn ngươi mà thôi.

Rồi quay về phía Punnaka, vua nói:

– Nếu gã kia là một nô tài thì hãy đem gã và đi ngay.

Vua lại ngâm kệ sau:

  1. Nói gã trả lời câu hỏi ta:
    “Ta là nô lệ của vương gia,
    Chứ không quyến thuộc”, thì chàng nhận,
    Bảo vật tối ưu này của ta,
    Kac-cà-na, nhận ngay, chàng hỡi,
    Rồi hãy đi đâu hợp ý mà.

Nhưng khi nói vậy, ngài suy nghĩ: “Thiếu sinh này sẽ đem Ðại trí nhân đi đâu tùy ý, sau khi vị ấy đi rồi, ta tìm đâu ra được một buổi đàm đạo lý thú về các thánh sự, vậy sao ta lại không thử thỉnh cầu vị ấy lên bảo tọa ngồi rồi ta hỏi vài câu liên quan đến cuộc sống cư sĩ tại gia”? Thế là vua bảo:

– Thưa bậc Trí giả, khi ngài đi rồi, trẫm sẽ khó tìm đâu ra được một buổi đàm đạo thú vị về các thánh sự. Vậy xin ngài ngồi xuống bảo tọa đã được trang hoàng uy nghi đúng theo cương vị của ngài và giải thích cho trẫm một vấn đề liên quan đến cuộc sống cư sĩ tại gia có được chăng?

Bậc Ðại Sĩ liền ưng thuận, và sau khi ngồi xuống bảo tọa được trang hoàng uy nghi, ngài giải thích vấn đề vua hỏi, đó là vấn đề:

– Thưa bậc Trí giả Vidhura, làm thế nào có được cuộc sống hưng thịnh cho một cư sĩ tại gia? Làm thế nào có được lòng ưu ái của đồng loại mình? Làm thế nào thoát được đau khổ? Và làm thế nào chàng niên thiếu nói điều chân thật thoát được mọi ưu não khi qua đến đời sau?

Lúc ấy Vidhura đầy đủ đại trí và minh sát, là bậc thấy mục đích chân lý và đang vững tâm tiến lên, bậc thông thạo mọi pháp lành liền nói những lời này:

– Ðừng chung chạ vợ người, đừng hưởng cao lương mỹ vị một mình, đừng nói chuyện phù phiếm, vì việc này không tăng trưởng trí tuệ. Phải đức độ, tận tụy với nhiệm vụ mình, không phóng dật, sáng suốt, khiêm tốn, không nhẫn tâm, đầy từ bi, thân ái, hòa nhã, khéo léo chinh phục bạn lành, sẵn sàng phân phát bố thí, thận trọng sắp xếp công việc tùy theo mùa, luôn luôn sẵn sàng cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn đầy đủ vật thực. Phải mong cầu công chính và làm cột trụ hộ trì Chánh pháp, sẵn sàng học hỏi và cung kính theo hầu các bậc đa văn đầy đức độ. Như vậy sẽ là cuộc sống hưng thịnh cho một cư sĩ tại gia, như vậy là sẽ chiếm được lòng ưu ái của đồng loại mình, như vậy là sẽ thoát khổ; và như vậy là chàng trẻ tuổi nói điều chân thật sẽ thoát khỏi sầu bi khi sang đến đời sau.

Như vậy sau khi giải đáp câu hỏi liên quan cuộc sống cư sĩ, bậc Ðại Sĩ bước xuống từ bảo tọa và vái chào vua. Phần vua cũng đáp lễ ngài vô cùng cung kính, rồi đi cùng với cả trăm vị vua khác, đến viếng tư thất của ngài .

Khi bậc Ðại Sĩ trở lại, Punnaka nói:

– Xin ngài đến đây, ta cùng khởi hành, đức vua đã trao ngài cho tiểu sinh; vậy phải theo đúng nhiệm vụ đó. Ấy là qui luật từ ngàn đời.

Bậc Trí giả Vidhura đáp lại:

– Hỡi thiếu sinh, ta biết lắm, chàng đã chiếm được ta, đức vua đã giao ta cho chàng, ta xin mời chàng về nghỉ ngơi tại nhà ta ba ngày nữa để ta dặn dò các con ta.

Punnaka nghe vậy nghĩ thầm: “Bậc Trí giả này đã nói chân thật, đó là một đại phúc cho ta, ví thử ngài có mời ta ở lại bảy ngày hay nửa tháng, ta cũng nên nhận lời ngay lập tức.” Thế là chàng đáp:

– Chuyện này cũng thuận lợi cho tiểu sinh, vậy ta cùng ở lại đó ba ngày, thưa bậc Trí giả, nếu có việc gì cần giải quyết trong gia đình của bậc Trí giả, xin chỉ dạy cho quý phu nhân và các công tử, hầu mong các vị được hạnh phúc sau khi ngài đi rồi.

Nới xong Punnaka cùng bậc Ðại Sĩ đi về tư thất ngài.

*

Bậc Ðạo Sư tả sự việc ấy như sau:

Lòng đầy hoan hỷ và háo hức khát khao, chàng Dạ-xoa đi cùng bậc Trí giả Vidhura, vị đệ nhất hiền giả, đưa chàng vào nội thất với đoàn bảo tượng và tuấn mã theo hầu.

Lúc bấy giờ bậc Ðại Sĩ có ba cung thất dành cho ba mùa, cung đầu tiên là Koñca, cung thứ hai là Mayùra, cung thứ ba là Piyaketa. Bài kệ sau đây nói về ba cung ấy:

  1. Chàng đã đến nơi chốn đại gia:
    Koñca, Mayùra, Piyaketa,
    Mỗi nơi một cảnh đầy hoan lạc,
    Phong phú thức ăn uống cả nhà,
    Trông giống thiên cung trên thượng giới,
    Của Ind-ra, đại đế Sak-ka.

Sau khi ngài đến nơi, ngài ra lệnh dọn một phòng ngủ và một chiếc bệ cao trên tầng thứ bảy của cung thất trang hoàng tráng lệ, trải vương sàng và bày biện đủ cao lương mỹ vị xong, ngài chỉ cho chàng năm trăm mỹ nữ như tiên trên trời, và bảo:

– Ðây là những tỳ nữ của chàng, chàng cứ ở lại đây đừng lo ngại gì cả.

Rồi ngài trở về tư thất. Khi ngài đi rồi, các mỹ nữ đem nhạc khí đủ loại ra ca múa tưng bừng trong lúc hầu hạ chàng Punnaka.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Các mỹ nữ điểm trang diễm lệ như các Thiên thần, ca múa trò chuyện cùng chàng, mỗi nàng đều gắng sức đem hết mọi tài năng ra biểu diễn.

Bậc hộ trì Chánh pháp ấy, sau khi cho chàng hưởng cao lương mỹ vị cùng nữ sắc, liền nghĩ đến việc cao quý bậc nhất, là mang chàng vào giới thiệu cùng phu nhân.

Ngài bảo phu nhân đã được trang điểm bằng hương chiên-đàn cùng nhiều hương thơm khác đang đứng như một thanh bội hoàn bằng vàng ròng:

– Này phu nhân nghe đây, hãy gọi các nam tử đến ngay, hỡi phu nhân có đôi mắt đẹp màu hổ hoàng.

Anujjà nghe phu quân gọi liền bảo con dâu, một mỹ nhân có đôi mắt tuyệt trần, móng tay sáng rực như đồng:

– Này Cetà, nàng đeo vòng vàng lục lạc chẳng khác nào bào giáp, nàng là đóa súng xanh mơn mởn, hãy đi gọi các con ta lại đây.

Nàng ấy vâng dạ xong đi suốt cả cung thất, tập hợp các thân hữu cùng các công tử, công nương, lại bảo họ:

– Thân phụ quý vị muốn dặn dò quý vị đôi điều, đây là lần cuối cùng quý vị gặp được ngài đấy.

Công tử Dhammapàla-Kumàra nghe vậy liền khóc, vội đi đến gặp thân phụ cùng các công tử em chàng. Khi vị cha thấy các con đến, không thể nào giữ được vẻ bình thản, liền ôm các con mắt đầy lệ, hôn đầu các con và ghì lấy trưởng nam vào lòng một hồi lâu. Rồi ngài nhấc con lên, bước ra khỏi cung thất, ngồi xuống tọa sàng đặt trên chiếc bệ cao, ngài nhắn nhủ với cả ngàn công tử kia.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Bậc hộ trì Chánh pháp, lòng không chút sợ hãi, hôn trán các con khi họ đến gần ngài, và sau khi chào hỏi xong, ngài bảo họ:

– Ta được đức vua giao cho chàng thiếu sinh này. Ta thuộc quyền sở hữu của chàng rồi, nhưng hôm nay ta còn được tự do tìm thú vui riêng cho mình, rồi chàng sẽ đem ta đi đâu tùy ý, cho nên ta muốn nhắn nhủ các con đôi điều, vì làm sao ta ra đi mà không tìm cách cứu khổ các con được? Ví như Janasandha, vua xứ Câu Lâu, trịnh trọng hỏi các con: “Các khanh xem cái gì thật cổ kính ngay trong thời thượng cổ? Thân phụ các khanh dạy bảo điều gì tiên khởi và tối thượng”? Rồi ví như nhà vua bảo: “Các khanh đồng đẳng với ta, ai trong các khanh lại không hơn một vị vua đã chứ”?, các con sẽ kính cẩn đảnh lễ vua và tâu: “Xin Ðại vương đừng nói vậy, không có luật lệ nào như thế cả, làm sao một con chó rừng hèn mọn lại đồng đẳng với một vương hổ được”?

Sau khi nghe thuyết giáo xong, các vị công tử, công nương, thân bằng, quyến thuộc, gia nhân, dân chúng đều không giữ được lòng bình thản, đồng khóc lớn khiến bậc Ðại Sĩ lại phải an ủi họ thêm nữa.

*

  1. IDHURA KHUYẾN GIÁO THÂN NHÂN

Rồi sau khi đến với mọi người và thấy họ đã giữ yên lặng, ngài nói:

– Này các con, đừng buồn khổ làm gì, các sắc pháp đều vô thường, vinh quang cuối cùng lại gây tai họa; tuy vậy ta sẽ chỉ cho các con một cách đạt vinh quang, đó là chốn triều đình. Hãy chú ý lắng nghe cho kỹ.

Sau đó nhờ thần lực của một vị Phật, ngài đưa họ vào một cảnh triều đình.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Khi ấy Vidhura thuyết Pháp cho tất cả thân bằng lẫn cừu thù, quyến thuộc cùng thê tử, tâm trí ngài viễn ly mọi sắc pháp:

– Này các vị hãy đến đây nghe cho kỹ trong khi ta nói về chốn triều đình, làm thế nào một nam tử vào chốn triều đình có thể đạt vinh quang. Khi vào chốn triều đình còn là vô danh tiểu tốt, y không có thể có được vinh quang đâu, cũng không thể đạt vinh quang nếu y là một tên hèn nhát, ngu ngốc hoặc vô tâm. Khi nào vua nhận thấy đức độ của y, tài trí cũng như lòng thanh liêm của y, vua mới tin tưởng y và không giấu y những điều bí mật của ngài. Khi nào được lệnh thi hành một việc gì, y không được ngần ngại, như một chiếc cân thật chính xác, với cán cân thật ngang bằng và như chiếc cân kia, nếu y sẵn sàng đảm trách mọi gánh nặng, y mới có thể ở chốn triều đình.

Bất kỳ ngày đêm, một trí giả cũng không ngần ngại gì khi được giao quốc sự; một người như thế mới có thể ở chốn triều đình. Một bậc trí giả, khi được giao quốc sự, bất kỳ ngày đêm cũng phải đảm nhận mọi nhiệm vụ. Một người như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Người nào thấy được đạo lộ dành cho vua và thận trọng sắp xếp mọi việc thuận lợi cho ngài, mà chính mình không dám bước vào đó, dù được mời làm như vậy, kẻ ấy mới có thể ở chốn triều đình. Ðừng vì một duyên cớ gì vui hưởng các lạc thú như vua, mà phải theo sau hầu vua trong mọi việc, một kẻ như thế mới có thể ở trong chốn triều đình.

Ðừng mặc y phục như vua, cũng không mang tràng hoa, xức dầu thơm như vua dùng, cũng không đeo các đồ trang sức như vua hay nói giọng như vua được; bao giờ cũng phải tạo một dáng điệu khác, cách phục sức khác. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Nếu vua đang vui đùa cùng các cận thần hay đang được các cung nữ vây quanh ngài, thì vị cận thần không nên nói bóng gió với các cung phi ấy. Người nào không dương dương tự đắc cũng không nhẹ dạ chóng đổi thay, mà phải thận trọng, luôn luôn biết tự chủ, người nào đạt được minh trí và quyết tâm, người như vậy mới có thể ở chốn cung đình.

Ðừng đùa cợt với các cung phi, cũng không nói chuyện riêng với họ, đừng lấy của cải trong công khố. Người như vậy mới có thể ở chốn triều đình. Ðừng nghĩ nhiều đến việc ngủ nghỉ, cũng không ham rượu nồng quá độ, không giết hươu nai trong vườn ngự uyển, một kẻ như vậy mới ở được chốn cung đình.

Ðừng ngồi trên vương tọa, long sàng, kim đôn, vương tượng hoặc vương xa, vì nghĩ mình là kẻ có đặc quyền, một người như vậy mới có thể ở được chốn cung đình.

Ðứng e dè giữ mình quá xa cách vua, nhưng cũng đừng quá gần gũi ngài, luôn luôn sẵn sàng túc trực bên ngài, tâu gửi đôi điều lên đấng chúa công. Ðừng xem vua như một kẻ thường dân, không nên so sánh vua với bất kỳ một ai khác. Vua chúa rất dễ nổi cơn thịnh nộ, như con mắt dễ bị đau nếu đụng nhằm râu hạt thóc vậy. Vị hiền trí không nên nghĩ rằng mình đang được ân sủng, lại cả gan nói năng thô lỗ với vua đa nghi. Nếu vị ấy gặp được vận may thì cứ chụp lấy, nhưng đừng tin tưởng vào vua chúa, phải luôn luôn biết phòng thân như đề phòng hỏa hoạn, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Nếu vua sủng ái con hay em của ngài rồi ban cho họ một vài thôn làng, thị thành hay vài triều thần làm tùy tùng của họ, thì kẻ đó phải biết yên lặng chờ đợi, đừng bảo là vua khôn khéo hay lỗi lầm gì.

Nếu vua tăng lương cho quan quản tượng hay vệ sĩ của ngài, hoặc pháo binh hay bộ binh của ngài vì nghe được các chiến công của họ, kẻ ấy đừng nên xen vào cản trở việc trên, một kẻ như vậy mới có thể ở được chốn triều đình.

Bậc trí giả phải biết giữ bụng bé như cây cung, nhưng lại biết uốn cong dễ dàng như cây tre; đừng làm phật ý vua, như vậy mới có thể ở chốn triều đình. Phải biết giữ bụng bé như cây cung, mồm lặng thinh như loài cá, phải ăn uống chừng mực, can đảm và thận trọng. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Ðừng lui tới với nữ nhân quá nhiều, sợ rằng phải hao mòn sinh lực, kẻ ngu ngốc chính là nạn nhân của bệnh ho hen, đau nhức mình mẩy và tính trẻ con, đừng cười cợt thái quá, cũng đừng quá lặng lẽ, phải biết nói năng lúc thời cơ thuận tiện đến, lời nói phải khúc chiết, rõ ràng, được cân nhắc kỹ lưỡng. Ðừng buông mình theo cơn nóng giận, cũng đừng chực sẵn sàng gây hận, lời lẽ phải chân thật, dịu dàng, không vọng ngữ và đừng nói năng nhảm nhí. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Phải biết tự rèn luyện, học hỏi, tự chủ, có kinh nghiệm trong việc giao thương, ôn hòa, dịu dàng, thận trọng, liêm khiết, khéo léo. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Ðối xử khiêm tốn với người trên, sẵn sàng nghe lời kẻ khác, đầy lòng kính cẩn, từ ái, sống dễ chịu với người xung quanh. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Phải biết lánh xa sứ giả của ngoại bang sai đến thương thảo, chỉ lưu tâm đến vị chúa tể của mình, đừng biết đến vị vua nào khác.

Phải biết tôn trọng các Sa-môn, Bà-la-môn đức độ và đa văn, phải biết cung phụng các vị ấy, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Phải biết cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn đức độ và đa văn đầy đủ vật dụng ăn uống, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình. Phải biết đến gần và thành tâm phụng sự các Sa-môn và Bà-la-môn đức độ, đa văn, cầu mong đó là việc thiện chân chính của mình.

Ðừng tìm cách tước đoạt của các Sa-môn, Bà-la-môn những vật được cúng dường cho họ trước kia và đừng tìm cách ngăn cản các khất sĩ vào lúc chẩn tế. Một kẻ công chính, đầy đủ đại trí, khéo léo sắp xếp mọi công việc, thông thạo mọi thời cơ, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Một người đầy nghị lực lúc làm việc, thận trọng khéo léo, có khả năng tiến hành công việc đến thành quả mỹ mãn, người ấy mới có thể ở được chốn triều đình.

Phải thăm viếng thường xuyên các sân đập lúa, đàn trâu bò, gia súc, ruộng nương, phải cho cân thóc thật kỹ lưỡng và cất vào vựa, phải bảo đong lường kỹ mỗi khi nấu nướng trong nhà mình.

Ðừng sử dụng hay đề bạt con hay em trai thiếu đức độ vững vàng, những con em như vậy không phải là những phần tử chân chính của giống nòi mình, phải xem chúng như chết rồi. Phải đem y phục, vật thực cấp dưỡng cho chúng và bảo chúng ngồi im mà nhận lấy. Phải biết dùng ở cửa công những tùy tướng có đức độ vững vàng, khéo léo làm việc và biết đối phó lúc ngộ biến.

Một kẻ đức độ, vô tham, tận tụy với quân vương, luôn có mặt bên ngài và mưu cầu quyền lợi cho ngài một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Phải biết rõ ý vua, theo sát tâm tư ngài, đừng bao giờ hành động trái ý ngài, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn cung đình, phải xoa dầu thơm và tắm cho ngài, phải cúi đầu xuống khi rửa chân cho ngài; khi bị trừng phạt không hề tức giận, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Phải biết cúi đầu chào một chiếc bình đầy nước hay cung kính thi lễ một con quạ, hơn thế nữa, còn phải ban phát đầy đủ cho mọi kẻ cầu xin, lúc nào cũng phải tỏ ra khôn ngoan và lỗi lạc. Phải biết bố thí, tọa cụ, y phục, xe pháo, nhà cửa, tư dinh, phải tưới tràn đầy phúc lộc cho mọi người như một vầng mây lớn. Thưa quý vị, đó là cách để ở được chốn triều đình, đó là cách cư xử để được ân sủng của vua chúa, để được vinh quang do các ngài ban thưởng.

*

  1. CUỘC DU HÀNH CỦA VIDHURA VÀ PUNNAKA

Ba ngày trôi qua, bậc Ðại Sĩ thuyết giáo cho đám vợ con, bạn hữu cùng nhiều người khác đã xong. Khi biết thời hạn đã mãn, từ tinh sương, sau bữa ăn đầy cao lương mỹ vị, ngài bảo:

– Ta sẽ tạ từ đức vua và ra đi cùng chàng thiếu niên này.

Rồi ngài đi đến cung vua, cùng với đám quyến thuộc vây quanh, đảnh lễ vua rồi đứng sang một bên, nhắn nhủ đôi lời khôn ngoan, thực tiễn.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Sau khi nhắn nhủ thân bằng quyến thuộc xong, bậc Ðại trí được đám thân hữu vây quanh, cùngđi đến cung vua. Ðảnh lễ dưới chân vua và chúc tụng vua rất kính cẩn xong, Vidhura chắp tay lại tâu:

– Thiếu sinh này muốn sử dụng thần theo ý chàng, nên sẽ đem thần đi xa. Thần xin bày tỏ đôi lời vì các thân bằng quyến thuộc còn ở lại, xin hãy nghe thần tâu, hỡi đấng Ðại vương đã chinh phục bao cừu thù. Xin Ðại vương chăm sóc đám thê tử và tài sản trong gia tộc tiểu thần, để khi thần đã đi rồi, thân quyến của thần cũng không bị tàn mạt. Vì khi quả đất rung chuyển, thì mọi vật trên đó đều rung chuyển theo và khi quả đất vững vàng, thì mọi vật mới vững vàng được. Vì thế thần thấy quyến thuộc của thần sẽ suy sụp theo sự suy sụp của thần; thần nhận đó là lỗi của thần vậy.

Vua nghe vậy, liền bảo:

– Này bậc Trí giả, trẫm không muốn khanh ra đi tý nào cả, vậy đừng đi nữa; trẫm sẽ triệu chàng thiếu sinh ấy đến rồi lấy cớ giết gã đi và giấu nhẹm câu chuyện.

Ngài phát họa chuyện này qua vần kệ:

  1. Này khanh, không thể bước đi ra,
    Ðây chính điều cương quyết của ta.
    Khi đã giết xong chàng trẻ ấy,
    Khanh cần ở lại chốn này mà.
    Ðây là thượng sách cho ta đó,
    Bậc Ðại trí, xin chớ bỏ ta!

Bậc Ðại Sĩ nghe vậy liền kêu to:

– Ý định như thế quả không xứng chút nào với Ðại vương.

Rồi ngài nói thêm:

  1. Ðừng để tâm vào việc bất công,
    Hãy tinh cần luyện tập thân tâm,
    Ðúng theo Thánh điển đầy thâm nghĩa;
    Ô nhục thay là việc ác gian,
    Khi đã làm xong điều tội lỗi,
    Con người đọa địa ngục sau cùng.
  2. Chuyện này không phải lẽ công bằng,
    Ðây chẳng phải là việc đáng làm,
    Tâu Chúa công, vua là tối thượng,
    Quyền uy với kẻ dưới tồi tàn,
    Muốn đem giết nó hay thiêu sống,
    Thần giã từ không dám hận sân.

Nói xong Ðại Sĩ kính cẩn vái chào vua rồi khích lệ các cung phi, quần thần đôi lời, xong bước ra khỏi cung điện, trong khi họ không còn giữ được lòng can đảm, chịu đựng được nữa, cùng bật tiếng khóc to và dân chúng trong kinh thành đồng kêu lên:

– Bậc Ðại trí đang ra đi cùng chàng tuổi trẻ, ta hãy mau mau ra tiễn ngài lên đường.

Họ nhìn theo ngài trong sân chầu, song họ bảo nhau:

– Ðừng sầu khổ nữa, vạn pháp đều vô thường, giả tạm, vậy hãy nhiệt tâm bố thí và làm các thiện pháp. Rồi họ trở lại, ai về nhà nấy.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Sau khi ôm hôn trưởng nam và đè nén nỗi đau đớn trong lòng, mắt đẫm lệ, bậc Ðại Sĩ bước vào cung thất. Lúc bấy giờ có cả ngàn công tử, cả ngàn công nương, cả ngàn phu nhân, bảy trăm cung nữ, cùng nhiều nô tỳ, cận vệ, thân bằng quyến thuộc quỳ xuống khắp nơi, cả cung điện chẳng khác nào vườn cây sà-la ngả nghiêng trong cơn cuồng phong bão táp báo hiệu giờ tận thế.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Gia quyến của Trí giả Vidhura nằm phủ phục khắp cung điện như vườn cây sàla ngã nghiêng tơi tả trong cơn bão táp.

Cả ngàn phu nhân, bảy trăm nữ tỳ dang tay ra than khóc trong cung của Vidhura. Các hậu phi, vương tử, các Vệ-xá, Bà-la-môn, đang dang tay ra than khóc trong cung Vidhura. Các quan quản tượng, vệ sĩ, quản xa, bộ binh, đều dang tay than khóc trong cung của Vidhura. Thần dân khắp chốn thành thị, thôn quê tụ tập lại đồng dang tay than khóc trong cung của Vidhura.

Sau khi an ủi quần chúng và hoàn tất mọi việc còn sót lại, bậc Ðại Sĩ khích lệ các hậu phi và chỉ bảo cho họ những gì cần chỉ bảo, ngài đến gặp Punnaka cho chàng hay rằng ngài đã làm xong mọi việc cần làm.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Sau khi hoàn tất mọi việc cần thiết trong cung thất và chỉ bảo thân bằng quyến thuộc thê nhi, quân sư xong, sau khi sắp đặt mọi công việc bên ngoài cần lưu tâm và thông báo mọi kho vựa trong nhà, kho gia bảo cùng nợ nần phải trả, ngài nói với Punnaka:

– Chàng đã ở lại trong cung ta ba ngày rồi, ta đã làm xong mọi việc cần thiết, chỉ dạy vợ con xong xuôi, giờ đây ta hãy làm theo ý chàng, hỡi chàng Ca-chiên-diên.

Punnaka đáp lại:

– Nếu ngài đã hành động theo ý ngài, đã chỉ bảo vợ con, tùy tướng xong rồi, thì than ôi, giờ đây ngài đứng đó như người sắp vượt biển, cả một cuộc hành trình dài trước mắt ngài. Vậy đừng sợ hãi gì, hãy nắm lấy đuôi tuấn mã cao sang của ta và đây là lần cuối ngài thấy cảnh nhân gian.

Bậc Ðại Sĩ liền đáp lại:

– Ta còn phải sợ ai chứ, khi ta không hề làm ác đối với ai từ thân, ngữ, ý, thì làm sao ta gặp tai họa được?

Thế là bậc Ðại Sĩ can đảm như con sư tử kiêu hùng, lớn tiếng bảo:

– Ðây là cẩm bào của ta, đừng cởi nó ra nếu ta không cho phép.

Rồi với quyết tâm cao độ, ngài thắt đai áo thật chặt, gỡ đuôi ngựa ra, hai tay nắm chặt lấy, thúc đôi chân vào hông ngựa và bảo chàng:

– Ta đã nắm đuôi ngựa rồi, này thiếu niên, thôi hãy đi đâu tùy ý chàng.

Lúc ấy Punnaka ra lệnh cho con ngựa có đủ trí khôn kia, nó liền nhảy vọt lên bầu trời mang theo bậc Trí giả.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Ngựa chúa mang Vidhura lên bầu trời, chẳng bao lâu đến ngọn Hắc Sơn mà chẳng đụng vào cây cối núi non chập chùng.

Trong khi Punnaka đem bậc Ðại Sĩ đi như vậy, các con ngài cùng nhiều người đến chứng kiến đi vào cung thất của ngài. Khi họ không thấy bậc Ðại Sĩ đâu cả, họ liền khóc lóc thảm thiết và ngã sóng sượt như thể chân cẳng họ đã đứt lìa.

Rồi khi họ thấy và nghe bậc Ðại Sĩ đang lúc ngài bay lên trời mà chẳng rõ duyên cớ gì, họ lại than khóc đi thẳng vào hoàng môn, với đám dân chúng theo sau. Vua nghe tiếng than khóc rền rỉ liền mở cửa sổ ra hỏi tại sao họ than khóc như vậy. Họ trình:

– Tâu Ðại vương, đó chẳng phải là chàng Bà-la-môn nào cả, mà chính thần Dạ-xoa giả dạng Bà-la-môn mang bậc Trí giả đi mất rồi. Không có ngài, chúng thần không thiết sống nữa; nếu ngài không trở về trong vòng bảy ngày nữa, chúng thần sẽ chất gỗ hàng trăm hàng ngàn xe và tự thiêu cả cho rồi.

Vua nghe vậy liền đáp:

– Bậc Ðại trí giả có giọng nói êm dịu sẽ thuyết phục chàng trai kia bằng giáo pháp của ngài và sẽ khiến chàng quy phục dưới nhân ngài, chẳng mấy chốc ngài sẽ trở về mang lại nụ cười cho bộ mặt sầu thảm của các khanh. Thôi đừng buồn rầu nữa.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Thật đại hiền là bậc Trí nhân,
    Uyên thâm và đủ mọi tài năng;
    Không lâu ngài tự tìm đường thoát,
    Ngài sẽ trở lui, chớ hãi hùng.

Trong khi đó Punnaka, sau khi đã đem bậc Ðại Sĩ lên đỉnh Hắc Sơn, liền nghĩ thầm: “Người này còn sống thì ta không vinh hiển được, vậy ta sẽ giết y lấy quả tim đem về xứ Long vương dâng cho vương hậu Vimalà và sau khi chiếm được công chúa Irandatì, ta sẽ lên Thiên giới “.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Khi đã đến nơi, chàng nghĩ thầm: “Loài có trí hiện hữu trong nhiều đẳng cấp. Người này sống, ta chẳng ích gì, vậy ta hãy giết y và lấy con tim”.

Rồi chàng lại nghĩ: “Nếu chẳng cần giết y bằng chính tay ta, sao ta lại chẳng làm y chết đi vì kinh sợ bằng cách hiện ra hình thù khủng khiếp”. Thế là sau khi hiện hình ác quỷ, chàng đến gần nắm ngài xuống đất, ngoạm ngài trong miệng như thể sắp nuốt sống ngài, nhưng bậc Ðại Sĩ chẳng hề dựng sợi tóc nào. Chàng lại hiện hình sư tử và voi hung, lấy răng và ngà dọa tấn công ngài. Khi ngài chẳng tỏ ra khiếp sợ, chàng liền hiện hình đại mãng xà, to như chiếc thuyền lớn, hình máng xối, đến gần ngài rít lên, cuộn thân quanh ngài, phủ đầu ngài bằng chiếc mào, ngài vẫn chẳng tỏ chút gì sợ hãi. Rồi chàng bảo:

– Nếu y đứng trên đỉnh núi và rơi xuống ta sẽ làm y tan vụn ra từng mảnh.

Thế là chàng nổi trận cuồng phong, nhưng nó cũng chẳng lay động được đầu sợi tóc nào của ngài cả. Rồi chàng để ngài trên đỉnh núi, hiện hình con voi làm rung chuyển ngọn núi ngả nghiêng như thể cây chà là rừng. Nhưng dù vậy, chàng cũng không thể làm lay động được đầu sợi tóc nào của ngài cả. Sau đó chàng bảo:

– Ta sẽ làm tim y vỡ ra vì khiếp đảm khi nghe một tiếng gầm kinh khủng.

Rồi chàng đi vào trong núi, rống lên một tiếng gầm khủng khiếp rền vang cả đất trời nhưng bậc Ðại Sĩ cũng chẳng tỏ ra khiếp sợ, vì ngài biết rằng dù chàng hiện hình Dạ-xoa, sư tử, voi hay Long vương, có làm mưa gió rung chuyển núi rừng hay vào trong núi gầm thét vang dội đi nữa, chàng cũng chỉ là một phàm phu, không là gì khác.

Chàng Dạ-xoa liền nghĩ thầm: “Ta không thể nào giết y bằng cách tấn công bên ngoài, vậy ta chỉ còn cách giết y bằng chính tay ta”. Thế là chàng đặt bậc Ðại Sĩ lên trên đỉnh núi, còn chính chàng xuống chân núi đi lên từ lòng núi, như thể chàng xuyên sợi chỉ trắng qua hạt ngọc có xoi lỗ, với tiếng gầm lớn, chàng thô bạo chụp bậc Ðại Sĩ tung lên xoay tít, dựng đầu ngài xuống phía dưới trong khoảng không chẳng có vật gì để ngài có thể nắm lấy được.

Cảnh ấy được miêu tả như sau:

Sau khi đến đó và vào trong núi, Kàtiyàna với tâm địa ác độc nắm lấy đầu dốc ngài ngược xuống khoảng không gian bao la. Trong khi ngài lơ lửng như ở trên bờ địa ngục, cảnh tượng thật kinh hoàng, vô cùng nguy hiểm, khó vượt qua, bậc Hiền trí đệ nhất của toàn dân Câu-lâu vẫn không nao núng bảo chàng:

– Bản chất ngươi thật hèn hạ, mặc dù có lúc ngươi đã mang một hình tướng thật cao sang; ngươi phóng dật tột cùng mặc dù mang hình hài một vị khổ hạnh tự chế, ngươi đang phạm một việc ác độc và kỳ quái, không có gì tốt đẹp trong bản chất của ngươi cả. Tại sao ngươi lại giết ta, khi ngươi muốn thấy ta rơi xuống vực thẳm này? Tướng mạo ngươi có vẻ siêu phàm, hãy cho ta biết ngươi là loại thiên thần gì?

Punnaka đáp lại:

– Có lẽ ngài đã nghe danh thần Dạ-xoa Punnaka, là đại thần của vua Kuvera. Có một Long vương cai trị địa giới tên gọi Varuna, thật oai hùng, liêm khiết, có đầy đủ phong thái tốt đẹp cùng dũng lực. Ta mơ ước công chúa, con của ngài, một Long nữ tên gọi Irandatì, vì yêu nương tử diễm kiều ấy nên ta đã quyết tâm sát hại ngài đấy, thưa bậc Trí giả.

Bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Thế giới này sụp đổ chỉ vì một việc hiểu lầm, tại sao một kẻ si tình Long nữ lại muốn giết ta? Ta phải biết tất cả sự thật của câu chuyện này mới được”. Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Này chớ bị lừa, hỡi Dạ-xoa,
    Nhiều người bị hại bởi lầm to,
    Việc chàng yêu quý nàng Long nữ,
    Nào có liên quan việc giết ta?
    Này hãy mau lên, thần đại lực,
    Kể ta nghe mọi chuyện kia mà.

Punnaka liền đáp ngài:

  1. Vì yêu ái nữ đại Long vương,
    Ta hội ý thân tộc của nàng,
    Và lúc ta cầu hôn thiếu nữ,
    Nhạc gia đã nói với ta rằng
    Các ngài hiểu mối tình say đắm:
    “Ta sẽ ban chàng vị quý nương
    Hình dáng yêu kiều, mắt diễm lệ
    Nụ cười tươi đẹp ngát trầm hương .
  2. Nếu chàng đem sính lễ vương gia,
    Tim của Trí nhân Vi-dhu-ra,
    Chiếm được nhờ công bằng thắng trận,
    Công nương được gả giá này mà,
    Chúng ta không nhận quà gì khác”.
    Như vậy ta đâu bị đánh lừa?
    Hỡi bậc chánh chân nghe thật kỹ,
    Không gì lầm lẫn về phần ta.
  3. Long vương sẽ gả vị công nương,
    Ðổi trái tim nhờ thắng chánh chân,
    Chính bởi điều này ta đã quyết,
    Giết ngài theo cách chúng ta cần,
    Nếu ta ném xác ngài trong vực
    Ta sẽ giết ngài, lấy quả tâm!

Khi bậc Ðại Sĩ nghe vậy, ngài suy nghĩ:

“Vương hậu Vimàla không cần trái tim của ta đâu. Vua Varuna sau khi nghe Pháp thoại, đã tán thán ta và ban ta châu báu; có lẽ khi ngài về cung đã tả lại năng lực thuyết Pháp của ta nên Vimalà cũng mong muốn nghe ta thuyết giảng. Punnaka có lẽ đã nhận được lệnh của Varuna qua một sự hiểu lầm và chàng ta cũng chịu tác động của sự lầm tưởng riêng nên mới gây ra tai họa này. Vậy nay đặc tính của một bậc trí như ta là có khả năng đưa ra ánh sáng và khám phá mọi chân lý. Nếu Punnaka giết ta thì có ích gì? Nay ta sẽ bảo chàng: “Này thiếu sinh, ta biết Chánh pháp mà thiện nhân phải tuân theo, vậy trước khi ta chết, hãy đặt ta trên đỉnh núi và nghe ta nói Pháp lành của thiện nhân, sau đó chàng muốn làm gì tùy ý”, rồi sau khi thuyết Pháp thiện nhân cho chàng, ta hãy để chàng giết đi”.

Thế là ngài ngâm kệ trong khi lơ lửng giữa trời, đầu dốc ngược xuống dưới:

  1. Hãy đặt ta ngay thẳng tức thì,
    Nếu chàng cần có trái tim kia,
    Hôm nay ta thuyết cho chàng rõ
    Pháp của thiện nhân, hãy lắng nghe.

Punnaka suy nghĩ: “Pháp lành chưa hề được tuyên thuyết trước chư Thiên và loài người. Vậy ta phải lập tức đặt ngài đứng xuống và nghe Pháp thiện nhân mới được”. Thế là chàng nhấc bậc Ðại Sĩ lên và đặt ngài trên đỉnh núi.

*

Bậc Ðạo Sư miêu tả cảnh ấy như sau:

Punnaka, sau khi vội vàng đặt vị đệ nhất thiện nhân của xứ Câu-lâu xuống đỉnh núi, liền hỏi bậc Ðạo Sư đại trí, trong khi ngài ngồi nhìn cây pipul (cây đa):

– Ta đã đưa ngài lên từ vực thẳm, ta cần quả tim ngài hôm nay, vậy hãy giảng cho ta nghe Pháp lành của thiện nhân.

Bậc Ðại Sĩ đáp lại:

– Ta đã được chàng cứu khỏi vực thẳm, nếu chàng cần trái tim ta, ta nguyện thuyết Pháp lành của thiện nhân cho chàng nghe hôm nay.

Rồi bậc Ðại Sĩ bảo:

– Thân thể ta nhơ uế, cho ta tắm rửa ngay.

Thần Dạ-xoa ưng thuận, mang nước đến và khi ngài đang tắm rửa, chàng liền đem thiên y cùng dầu thơm cho ngài. Sau khi ngài đã mặc y phục, trang điểm xong, chàng lại đem vật thực trên thiên giới cho ngài. Sau bữa ăn, bậc Ðại Sĩ trang hoàng đỉnh Hắc Sơn thật tràn trề hoa lá, lại bài trí một sàng tọa lộng lẫy xong, ngài ngồi xuống ngâm vần kệ, trình bày phận sự của một thiện nhân với vẻ uy nghi tối thắng của một vị Phật:

  1. Chàng hãy theo đường đã vạch ra,
    Chùi cho thật sạch bàn tay dơ,
    Đừng bao giờ phản bội bằng hữu,
    Đừng rớt vào uy lực nữ ma.

Chàng Dạ-xoa không thể nào thấu triệt ý nghĩa của bốn qui luật được diễn tả quá ngắn gọn như vậy, liền hỏi thêm chi tiết:

– Thế nào đi theo con đường đã vạch sẵn? Thế nào là đốt đi bàn tay lấm dơ? Những ai là nữ nhân bất tịnh? Những ai phản bội thân bằng? Xin ngài nói rõ theo yêu cầu của ta.

Bậc Ðại Sĩ đáp lại:

– Kẻ nào mời ta vào nghỉ ngơi khi ta là lữ khách chưa hề quen biết trước đây, ta hãy làm theo họ. Bậc Trí giả gọi đó là người đi theo con đường đã vạch sẵn. Ta trú chân trong bất kỳ nhà nào dù chỉ qua một đêm và được mời ăn uống, thì ta đừng có ý nghĩ xấu trong đầu về người đó, kẻ nào phản bội bạn hữu là đốt một bàn tay vô tội . Ðừng bẻ cành cây đã cho ta bóng mát khi nằm ngồi, kẻ phản bội bạn bè thật hèn hạ. Hãy trao tặng mọi thứ vàng bạc của cải ở đời cho nữ nhân mà ta đã lựa chọn, tuy thế nữ nhân sẽ khinh bỉ ta khi có dịp; vậy đừng rơi vào uy lực của các nữ nhân bất tịnh. Như thế là một người biết theo đạo lộ đã vạch sẵn; thế là người ấy đốt cháy bàn tay vấy bẩn; đây là nữ nhân bất tịnh; đây là kẻ phản bội bằng hữu; còn kia là chính nhân, vậy hãy từ bỏ mọi bất công sai trái.

Như vậy, bậc Đại Sĩ đã thuyết Pháp cho chàng Dạ-xoa với uy nghi cao cả của một vị Phật về bốn phận sự của thiện nhân. Punnaka nghe xong, liền suy nghĩ: “Trong bốn lời khuyên này, bậc hiền trí chỉ cầu mong sự sống cho ngài, vì ngài thật sự đã tiếp đãi ta nồng hậu, dù ta còn là kẻ xa lạ trước đây; ta ở lại trong nhà ngài ba hôm, được ngài quý trọng vô cùng. Thế mà ta đang làm hại ngài chỉ vì một nữ nhân; hơn thế nữa, ta đang phản bội thân bằng, nếu ta làm hại bậc Trí giả này tức là ta không theo thiện nhân pháp, vậy ta cần gì Long nữ Nàga đã chứ? Ta phải lập tức đem ngài trở lại Indapatta làm cho những khuôn mặt u sầu của dân chúng tại đó được tươi vui và ta sẽ đặt ngài ngồi trên bảo tọa trong thính đường”. Rồi chàng nói to:

– Ta đã ở lại ba ngày trong nhà ngài, ta đã được ngài cung phụng thức ăn thức uống, ngài là bằng hữu của ta, ta sẽ để ngài đi, hỡi bậc Trí giả tối thắng, ngài cứ trở về nhà ngài theo ý nguyện. Ngoài ra những việc liên quan đến dòng giống Long vương đều hủy bỏ, ta không cần gì Long nữ nữa nhờ những lời lẽ chính đáng của ngài, nên ngài được thoát khỏi tai họa do ta giáng xuống hôm nay.

Bậc Ðại Sĩ đáp lại:

– Này thiếu sinh, đừng đưa ta trở lại nhà mà cứ đem ta đến cung Long vương đi.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Chàng hãy đưa ta, hỡi Dạ-xoa,
    Ðến thăm nhạc phụ của chàng mà,
    Rồi ta sẽ chỉ cho rồng chúa,
    Cung điện Long vương thuở đã qua,
    Ngài chẳng bao giờ trông thấy được,
    Hãy làm việc tốt nhất cho ta.

Punnaka đáp:

  1. Bậc Trí không nên để mắt trông,
    Những gì không lợi lạc thường nhân,
    Tại sao bậc Trí vô song địch,
    Ước muốn ra đi giữa địch quân?

Bậc Ðại Sĩ đáp:

  1. Quả thật ta đây biết rõ rành,
    Trí nhân chỉ để ý điều lành,
    Nhưng không phạm tội bao giờ cả,
    Sao tử thần ta phải hãi kinh?

– Hơn nữa – ngài tiếp – nhờ bài thuyết Pháp của ta, một kẻ độc ác như chàng đã được điều phục và hồi tâm, nay chàng lại nói: “Ta không cần Long nữ nữa, ngài cứ trở về”. Nên phận sự của ta là phải làm dịu lòng Long vương, cứ đem ta lại đó tức thì.

Nghe vậy, Punnaka ưng thuận đáp:

– Này bậc Trí giả, ngài sẽ cùng ta chiêm ngưỡng thế giới huy hoàng vô song, nơi Long vương ngự trị giữa tiếng đàn ca múa hát chẳng khác nào Thiên vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) ở ngự viên Nalinì vậy. Có biết bao đoàn Long nữ xinh tươi với bao trò giải trí suốt sáng thâu đêm, cùng với trăm hoa đua sắc, khiến cung điện sáng rực như ánh chớp giữa không gian. Ðầy đủ sơn hào hải vị, mỹ tửu, ca múa, đàn sáo, các Long nữ với trang phục diễm kiều, cung điện sáng ngời với xiêm y và trân bảo.

*

VII. VIDHURA VÀO LONG CUNG

Rồi Punnaka đặt vị đệ nhất thiện nhân của xứ Câu-lâu ngồi đằng sau chàng và mang bậc Hiền trí lỗi lạc ấy đến cung Long vương. Khi đến cung điện huy hoàng vô song ấy, bậc hiền trí đứng sau Punnaka và Long vương nhìn thấy sự hòa hợp giữa hai vị, liền nói với phò mã tương lai như ngài đã nói trước kia:

– Khanh đã lên cõi nhân gian, đi tìm quả tim của bậc Hiền trí. Nay phải chăng khanh đã chiến thắng trở về, mang theo bậc Ðại trí vô song kia?

Punnaka đáp:

– Người mà Ðại vương mong cầu đã đến, đó là bậc bảo hộ tiểu thần trong mọi việc, người mà thần đã chiếm được bằng phương tiện chính đáng. Ðại vương hãy xem ngài thuyết Pháp trước Ðại vương. Diện kiến với thiện nhân sẽ đem lại an lạc.

Long vương ngâm kệ khi thấy bậc Ðại Sĩ:

  1. Người này đang đứng ngắm nhìn ta,
    Rồng chúa, người chưa thấy trước kia,
    Nên hoảng hốt vì lòng sợ chết,
    Giờ không thể nói được lời ra,
    Với ta, trong lúc đầy kinh hãi,
    Ðây chẳng phải người Ðại trí mà!

Trong lúc Long vương có ý nghĩ như vậy và mặc dù vua rồng không nói thẳng ra rằng vua không tôn trọng ngài, ngài vẫn biết, nhờ thượng trí, cách cư xử cao đẹp nhất đối với mọi chúng sinh, nên ngài nói với vua rồng:

  1. Thần không sợ, tấu Chúa rồng linh,
    Bởi cái chết, thần chẳng hãi kinh,
    Nhưng tội nhân không quyền được nói,
    Với đao phủ nọ sắp hành hình,
    Và ngài cũng chẳng nên đòi hỏi,
    Kẻ tội phạm kia đối đáp mình.

Long vương liền ngâm kệ tán thán bậc Ðại Sĩ:

  1. Ðúng như ngài nói, hỡi Hiền nhân,
    Ngài nói chánh chân: Một tội nhân,
    Không quyền nói với người hành quyết,
    Người ấy cũng không hỏi tội nhân!

Sau đó bậc Ðại Sĩ ân cần nói với Long vương:

– Cảnh vinh quang, huy hoàng, oai lực cùng dòng dõi Long vương của Đại vương đều phải chịu sinh diệt, chưa phải trường tồn bất biến, thần xin hỏi Ðại vương: Tâu Ðại vương, làm thế nào ngài hưởng được cung điện này? Có phải không do duyên cớ gì cả hoặc do một nhân duyên trước kia phát khởi ra chăng? Có phải do ngài tạo ra hay do chư Thiên ban xuống? Xin hãy giải thích cho thần rõ, tâu Long vương, làm thế nào Ðại vương hưởng được cung điện này?

Long vương đáp lời:

– Chẳng phải không có nguyên nhân gì mà ta hưởng được cảnh này, cũng không phải do một nhân duyên nào trước kia phát khởi ra, cũng không phải do ta tạo hay chư Thiên ban xuống, mà ta hưởng thụ cảnh này do công đức của ta đạt được.

Bậc Ðại Sĩ lại nói:

– Ðại vương phát nguyện ra sao? Và thực hành thánh hạnh như thế nào? Thiện nghiệp nào đãđưa lại phước quả này? Ðó là cảnh vinh quang, huy hoàng, uy lực và dòng dõi Long vương của ngài cùng cung điện này, tâu Long vương.

Long vương đáp lại:

– Ở cõi trần thế, trẫm cùng vương hậu đều rất tín thành và đầy lòng nhân từ: tư thất của trẫm biến thành khách đường. Các Sa-môn, Bà-la-môn được cung phụng ẩm thực linh đình tại đó. Vòng hoa, hương liệu, dầu thơm, đèn đuốc, tọa sàng, tư phòng, y phục, lương thực trẫm đều chuyên tâm cúng dường quảng đại tại đó. Ấy là hạnh nguyện và cách hành trì công đức của trẫm; còn đây là phước quả của công đức ấy: Cảnh vinh quang, huy hoàng, dòng dõi Long vương cùng cung điện này, thưa bậc Trí giả.

Bậc Ðại Sĩ lại bảo:

– Nếu Ðại vương hưởng được cung điện này bằng cách ấy, Ðại vương đã thấu hiểu quả báo của thiện nghiệp và luân hồi sinh tử, vậy thì xin Ðại vương tinh tấn hành trì công đức để đời sau lại tái sinh vào chốn cung đình.

Long vương đáp:

– Không có vị Sa-môn, Bà-la-môn nào đến đây để trẫm cúng dường vật thực, vậy thưa Tôn giả, xin cho trẫm biết điều trẫm đang mong cầu, đó là làm cách nào để trẫm lại có thể tái sinh vào chốn cung đình?

Bậc Ðại Sĩ bảo:

– Có nhiều rồng rắn tái sinh trong chốn này, cùng với quyến thuộc, thê nhi, nô tỳ của chúng, vậy xin Ðại vương đừng sát hại chúng bất kỳ bằng lời nói hay hành động. Xin Ðại vương thực hành thiện pháp trong lời nói cũng như hành động. Thế là Ðại vương sẽ được sống trọn đời trong cung điện này và khi từ trần sẽ lên cõi chư Thiên.

Sau khi nghe Pháp thoại của bậc Ðại Sĩ, Long vương nghĩ thầm: “Bậc Hiền trí này không thể xa nhà quá lâu, vậy ta sẽ đưa ngài đến yết kiến Vimalà cho nàng nghe chân ngôn của ngài, để xoa dịu nỗi ước vọng khát khao của nàng bấy lâu, thế là ta sẽ làm đẹp lòng vua Dhanañjaya vàđưa bậc Hiền trí trở về là chuyện rất phải”. Thế rồi ngài nói:

– Vị đệ nhất minh quân quả thật đang ưu sầu vì vắng ngài, vì ngài là cận thần của Ðại vương ấy; một khi ngài đã trở về đó, dù nay đang gặp hoạn nạn, khổ đau, thì người như ngài cũng sẽ chóng tìm được an lạc.

Bậc Ðại Sĩ liền tán thán Long vương:

– Ðại vương thật đã phán lên những lời cao quý của thiện nhân, đó là Chánh pháp tối thượng, chính trong những cơn nguy biến của cuộc đời như thế này, mà đặc tính của những kẻ như tiểu thần mới được sáng tỏ.

Long vương càng thêm hoan hỷ liền ngâm kệ:

  1. Chàng chiếm ngài không trả giá sao?
    Chàng hơn ngài lúc trổ tài cao?
    Chàng tâu thắng cuộc công bình lắm,
    Ngài thuộc quyền chàng bởi cách nào?

Bậc Ðại Sĩ đáp:

  1. Pun-na-ka thắng cuộc tranh tài,
    Với Chúa thượng tôi lúc đánh bài,
    Ngài đã tặng tôi vì chiến bại,
    Công bằng chàng thắng chẳng gì sai.

Long vương vô cùng hân hoan khi nghe những lời lẽ cao quý của bậc Hiền nhân, liền nắm tay bậc Ðại trí đệ nhất ấy đưa vào diện kiến vương hậu:

– Này Vimalà, vì vị này mà ái khanh đã xanh xao, hao mòn vóc ngọc bấy lâu, cao lương đã mất hương vị dưới mắt khanh, vì trái tim của vầng nhật này mà khanh đã chuốc lấy phiền não bấy lâu, nay hãy nghe lời ngài cho kỹ, khanh sẽ không còn dịp gặp lại ngài nữa đâu.

Khi Vimalà trông thấy bậc đệ nhất Hiền trí, liền chắp tay cung kính và thưa với bậc đệ nhất Hiền trí của xứ Câu-lâu với tất cả lòng hoan hỷ:

  1. Người này đang đứng ngắm nhìn ta,
    Rồng chúa, người chưa thấy trước kia,
    Nên hoảng hốt vì lòng sợ chết,
    Giờ không thể nói được lời ra,
    Với ta, trong lúc đầy kinh hãi,
    Ðây chẳng phải người đại trí mà.
  2. Thần không sợ, tâu chúa rồng linh,
    Vì cái chết, thần chẳng hãi kinh,
    Nhưng tội nhân không quyền được nói,
    Với đao phủ nọ sắp hành hình,
    Vị này cũng chẳng nên đòi hỏi,
    Kẻ tội phạm kia đối đáp mình!

Rồi Long nữ cũng hỏi bậc Hiền trí như Long vương đã hỏi trước đây và câu trả lời của ngài đã làm nàng hoan hỷ như Long vương vậy.

Bậc Hiền trí thấy rằng Long vương cùng Long nữ đều đẹp ý với câu đối đáp của ngài, tâm trí càng kiên cường, chẳng chút sợ hãi liền nói với Long vương:

– Tâu Ðại vương đừng ngại gì, có tiểu thần đây, xin Ðại vương tùy ý sử dụng sinh mạng tiểu thần, thịt da, tim óc tiểu thần ích lợi được việc gì, tiểu thần xin tuân hành, Ðại vương mặc tình định đoạt.

Long vương đáp:

– Trái tim của các bậc Hiền nhân chính là đại trí, hôm nay vương tộc chúng ta được hoan hỷ chính nhờ đại trí của ngài. Vậy chàng thiếu niên có uy danh toàn hảo kia (tức Punnaka) hãy rước công chúa vu quy ngay hôm nay, cùng đưa ngài trở về xứ Câu-lâu.

Nói xong Long vương Varuna trao công chúa Irandatì cho Punnaka khiến chàng vô cùng hoan hỷ liền dốc hết tâm can với bậc Ðại Sĩ.

*

Bậc Ðạo Sư tả lại sự việc như sau:

Punnaka vô cùng hoan hỷ vì đã chinh phục được Long nữ Irandali, tâm hồn chàng đầy hạnh phúc, chàng thưa với bậc đệ nhất thiện nhân xứ Câu-lâu:

  1. Ngài đã làm ta được vợ tiên,
    Ta mong đền đáp xứng người hiền,
    Ta trao ngài ngọc vô song địch,
    Và rước ngài về xứ sở liền.

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ ngâm kệ khác tán dương chàng :

  1. Mong tình đôi lứa chẳng phai tàn,
    Do chính lòng hoan hỷ ngập tràn,
    Chàng hãy tặng ta viên ngọc quý,
    Rồi mang ta trở lại quê hương.

Sau đó Punnaka đặt vị đệ nhất thiện nhân xứ Câu-lâu vào chỗ ngồi trước chàng và đưa bậc Ðại trí tối thượng về thành Indapatta. Chàng phi nhanh còn hơn cả tâm tư con người có thể bay bổng; rồi Punnaka đem vị đệ nhất thiện nhân của dân tộc Câu-lâu về thành Indapatta.

Sau đó chàng nói với ngài:

  1. Hãy ngắm thành đô trước mắt ngài:
    Phố phường khả ái, các vườn xoài,
    Nay ta được vợ tiên như ý,
    Ngài trở về nhà thỏa nguyện thôi!

*

VIII. VIDHURA TRỞ VỀ NHÀ

Cùng ngày hôm ấy, đang lúc thủy triều dâng vào sáng sớm, vua nằm mộng thấy ngay tại cung môn có một cây đại thọ, thân cây là trí tuệ, cành lá là công đức và kết quả là năm sản phẩm cao quý của bò cái (sữa tươi, sữa đông, bơ tươi, bơ chín, bơ đặc), với đàn voi ngựa được trang hoàng rực rỡ vây quanh, cùng đám đông dân chúng chắp tay cung kính đảnh lễ cây đại thọ. Bỗng một hắc nhân mặc hồng bào, hoa tai đỏ, cầm khí giới trong tay đến chặt cây tận gốc , mặc cho dân chúng phản đối và y kéo cây đi mất dạng ; xong y lại trở lại trồng cây vào chỗ cũ rồi giã từ. Lúc ấy vua hiểu mộng liền nghĩ thầm: “Bậc Trí giả Vidhura chứ không ai khác chính là cây đại thọ, chàng thiếu niên đem bậc Trí giả đi mất chính là người chặt cây dù cho dân chúng phản đối, vậy chàng sẽ trở lại đặt ngài trước cửa Chánh pháp đường rồi ra đi. Hôm nay ta sẽ được chiêm ngưỡng bậc Trí giả ấy”.

Thế là ngài hoan hỷ ban lệnh cho cả kinh thành trang hoàng rực rỡ, chuẩn bị Chánh pháp đường sẵn sàng cùng bảo tọa trong mái đình dát đầy trân bảo, còn ngài có cả trăm vua vị khác vây quanh cùng đám cận thần, dân chúng từ thành thị đến thôn quê tụ tập lại đó ngài nói lời an ủi họ:

– Các khanh đừng lo gì, các khanh sẽ lại gặp bậc Hiền trí hôm nay.

Ngài cũng ngồi trong Chánh pháp đường, mong đợi bậc Hiền trí trở về. Lát sau Punnaka đem bậc Ðại Sĩ đến đặt giữa đám đông ấy ngay cửa Chánh pháp đường rồi cùng Irandatì trở về thiên giới của chàng.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Chàng Punnaka dòng dõi cao sang, đặt vị đệ nhất thiện nhân của xứ Câu-lâu giữa đám dân chúng tôn sùng ngài, rồi leo lên thần mã oai phong của chàng bay vút qua không gian. Vua vừa thấy ngài, lòng đầy hoan hỷ, vụt đứng dậy ôm lấy ngài trong tay và không chút ngần ngại đặt ngài lên ngai vàng trước mặt vua ở giữa hội chúng.

Sau khi chào hỏi thân hữu xong, vua đón tiếp ngài ân cần và ngâm kệ:

  1. Khanh dẫn chúng ta tựa cỗ xe,
    Dân Câu-lâu hỷ lạc tràn trề,
    Khi nhìn khanh, trả lời ta rõ,
    Sao chàng niên thiếu để khanh về?

Bậc Ðại Sĩ đáp:

65 – 66. Chàng thiếu niên kia, tấu Ðại vương,
Chàng không phải một kẻ tầm thường,
Hỡi anh hùng, có từng nghe nói,
Ðại lực Pun-na-ka, đại thần,
Của Ðại vương Ða-văn thượng giới?
Có Long vương nọ đại hùng cường,
Va-ru-na ấy là danh tánh,
Ðầy đủ oai phong với lực thần.

67- 68. Pun-na-ka ái mộ công nương,
Long nữ I-ran-da nõn nường,
Chàng lập mưu cho thần phải chết,
Chỉ vì kiều nữ chàng yêu thương;
Nay chàng được vợ tiên như ý,
Thần được phép về đến cố hương,
Và bảo ngọc kia thần chiếm được,
Là trân châu xứng Chuyển luân vương.

– Long vương hài lòng lối thần giải đáp vấn đề liên quan đến bốn cứu cánh của con người, nên ban cho thần vinh dự nhận lãnh một viên bảo ngọc. Khi ngài trở về Long cung, vương hậu Vimalà hỏi ngài viên bảo ngọc của ngài để đâu rồi, ngài liền kể lại tài thuyết Pháp của tiểu thần, khiến vương hậu ước ao được nghe Pháp thoại ấy nên giả cách ước muốn trái tim tiểu thần. Long vương không hiểu rõ ước nguyện thật sự của bà, nên bảo Long nữ Irandatì: “Mẫu hậu của con đòi trái tim của Vidhura, vậy con hãy tìm cho được một hiệp sĩ có khả năng đem trái tim ấy về đây”. Trong khi công chúa đi tìm, nàng gặp thần Dạ-xoa Punnaka là cháu của Ðại vương Vessavana. Biết chàng ấy đang yêu nàng say đắm, nên đem chàng về trình phụ vương, ngài liền bảo chàng: “Nếu chàng đủ khả năng đem về cho trẫm trái tim của Vidhura, chàng sẽ chiếm được công chúa”.

Thế rồi chàng Dạ-xoa ấy, sau khi tìm được trên núi Vepulla viên bảo châu của một vị Chuyển luân vương, liền đi đến đây chơi bài súc sắc và chiếm được thần nhờ thắng cuộc và chàng ở lại tư thất tiểu thần ba ngày. Rồi chàng bảo tiểu thần nắm lấy đuôi thần mã của chàng, ném tung tiểu thần lên không qua bao nhiêu cây cối, núi non ở vùng Tuyết Sơn, nhưng không giết được tiểu thần. Chàng liền nổi trận cuồng phong trong đệ thất cảnh giới đầy cuồng phong ấy và tung tiểu thần lên đỉnh Hắc Sơn cao sáu mươi dặm, nơi đây chàng hiện hình sư tử cùng nhiều hình quái vật khác tấn công tiểu thần, nhưng cũng không giết được tiểu thần.

Cuối cùng theo lời thỉnh cầu của chàng, tiểu thần bảo cho chàng biết cách giết được tiểu thần. Kế đó tiểu thần thuyết giáo chàng về thiện nhân pháp; khi nghe xong, chàng vô cùng hoan hỷ nên muốn đem tiểu thần trở về đây. Tiểu thần lại cùng chàng đi đến Long cung, thuyết Pháp cho Long vương cùng vương hậu nghe, cả triều đình Long vương đều thỏa dạ. Sau sáu ngày thần ở lại Long cung, Long vương liền gả công chúa Irandatì cho Punnaka. Chàng thỏa nguyện khi đã chinh phục được nàng nên ban tặng thần nhiều châu báu làm quà. Sau đó Long vương ra lệnh chàng đưa tiểu thần lên thần mã do ý chàng tạo ra, chàng ngồi giữa công chúa ngồi phía sau, chàng đem tiểu thần về đây đặt giữa sân chầu, rồi cùng Irandatì bay về kinh thành của chàng.

Tâu Ðại vương, như vậy là vì mỹ nữ chàng yêu, chàng đã dự định giết tiểu thần để cưới được nàng. Nhưng khi Long vương nghe tiểu thần thuyết Pháp xong, lại hoan hỷ cho phép thần ra về. Và Punnaka lại trao tặng tiểu thần viên bảo châu như ý xúng đáng với một vị Chuyển luân vương, vậy xin Ðại vương nhận lấy bảo châu này.

Nói xong ngài dâng bảo ngọc lên vua. Sáng hôm sau vua muốn thuật lại cho thần dân nghe về giấc mộng của mình, liền kể câu chuyện như sau:

Trước hoàng môn có một cây đại thọ, thân nó là trí tuệ, cành lá là công đức, cây trái phát triển chín muồi theo lẽ tự nhiên, trái của nó là năm sản phẩm của con bò cái, cây được voi ngựa bao phủ chung quanh. Nhưng trong lúc mọi người đang đàn ca múa hát, một người lạ mặt đến chặt cây tận gốc rồi mang đi, sau đó cây lại trở về cung điện này của ta, các ngươi hãy đến chiêm bái cây ấy.

Các ngươi hãy biểu lộ lòng hân hoan của các ngươi vì trẫm bằng hành động, vậy hãy đem thật nhiều tặng vật đến chiêm bái cây này.

Bất cứ tù nhân trong quốc độ của trẫm đều được thả ra hết, cũng như cây này được giải thoát khỏi cảnh giam cầm, mọi người đều được trả tự do.

Dân chúng hãy vui chơi hội hè suốt tháng này, cất hết cày bừa đi, hãy cung phụng các Bà-la-môn đủ thịt và cơm gạo, hãy để các vị ấy uống rượu ở chỗ riêng cho thỏa thích, dù quí vị nào có kiêng rượu hẳn đi nữa cũng cứ rót thật tràn trề. Hãy mời luôn đám thảo khấu và canh phòng quốc độ thật cẩn mật để không ai làm hại láng giềng mình được. Hãy đến chiêm bái cây này.

Khi vua đã ra lệnh như vậy, các cung phi, vương tử, vệ xá, Bà-la-môn liền đem cho bậc Hiền trí thật nhiều thức ăn uống.

Các tượng sư, vệ sĩ, kỵ mã, bộ binh liền đem thức ăn uống cho ngài. Dân chúng khắp thành thị, thôn quê tụ tập lại thành từng đám đem tặng thật nhiều thức ăn uống. Ðám đông hoan hỷ, chiêm ngưỡng bậc Hiền trí sau khi ngài xuất hiện. Khi ngài mới đến, họ vẫy khăn tay và reo vang khúc khải hoàn.

Một tháng sau, hội hè kết thúc. Bậc Ðại Sĩ muốn hoàn thành thiện pháp của một vị Phật, liền thuyết giáo cho dân chúng, khuyên cáo vua và khi mạng chung, ngài được lên thiên giới. Tuân theo lời dạy của ngài cùng theo gương vua, dân chúng xứ Câu-lâu đã cúng dường và thực hành thiện pháp, nên khi mạng chung đều đi lên cộng trú với chư Thiên thật đông đảo.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư nói:

– Không phải chỉ ngày nay mà ngay trước kia, đức Phật khi đã đạt tối thắng trí, liền chứng tỏ tài năng tùy nghi phương tiện với cứu cánh.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy phụ mẫu của bậc Hiền trí chính là vương tộc ngày nay, chánh phi là mẹ của Ràhula (La-hầu-la), vị trưởng tử là La-hầu-la, Long vương Varuna là Sàriputta (Xá-lợi-phất), Kim Sí điểu vương là Moggallàna (Mục-kiền-liên),Thiên chủ Sakka là Anuruddha (A-na-luật-đà), vua Dhanañjaya là Ànanda và bậc Trí giả Vidhura chính là Ta.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN ĐƯỜNG HẦM VĨ ĐẠI (Tiền thân Mahà-Ummagga)

Vua Brah-ma-dát xứ Pãn-ca. . . .,

Trong khi trú tại Kỳ-Viên, bậc Đạo Sư kể chuyện này liên quan đến sự Viên mãn của Trí tuệ Tối thắng.

Một ngày kia, các Tỷ kheo ngồi tại Chánh pháp đường, miêu tả Trí tuệ Tối thắng của đức Phật:

– Này các hiền giả, đức Phật Chánh Đẳng Giác có Thắng trí thật quảng bác, linh lợi, tinh anh, sắc sảo, đánh tan mọi tà thuyết, chính nhờ thần lực đại trí của Ngài, sau khi quy phục Bà-la-môn Kùtadanta và nhiều Bà-la-môn khác, các ẩn sĩ Sàbhiya và nhiều ẩn sĩ khác, cường đạo Angulimàla cùng nhiều cường đạo khác, thần Dạ-xoa Àlavaka cùng nhiều thần Dạ-xoa khác, Thiên chủ Sakka cùng nhiều Thiên chủ khác, Bà-la-môn Baka cùng nhiều Bà-la-môn khác, v.v…khiến bọn họ phải khiêm nhường bái phục, Ngài lại truyền Đại giới cho một số đông ẩn sĩ và an trú họ vào Thánh Đạo Quả.

Bậc Đạo Sư đi đến, hỏi các Tỷ-kheo đang bàn luận gì, khi các vị nói cho ngài biết, Ngài bảo :

– Không phải bây giờ đức Phật mới có trí tuệ viên mãn, mà ngày xưa, trước khi trí tuệ Ngài viên mãn, Ngài đã đủ đại trí vào thời kỳ Ngài còn đang đi tìm đạo Giác Ngộ.

Sau đó Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa có vị vua danh hiệu Vedeha trị vì ở Mithilà. Ngài được bốn vị hiền trí dạy ngài về giáo pháp, đó là Senaka, Pukkusa, Kàvinda và Devinda.

Lúc bấy giờ Bồ-tát còn ở trong mẫu thai, một buổi tảng sáng, vua chiêm bao thấy mộng như sau: bốn cột lửa bừng sáng ở bốn gốc hoàng cung, cao như bức trường thành, ở giữa nổi lên một tia lửa bằng con đom đóm, bỗng chốc nó vượt cao quá bốn ngọn kia và bùng lên đến tận Phạm thiên giới, soi sáng toàn cõi thế gian, ngay đến một hột cải cũng được thấy rõ. Nhân giới và Thiên giới liền đưa hương hoa ra cung kính cúng dường ngọn lửa ấy rồi một đám đông đi xuyên qua ngọn lửa nhưng chẳng hề bị cháy sợi tóc nào. Vua thấy cảnh tượng ấy giật mình kinh hãi ngồi dậy suy đoán những điềm sắp xảy ra và đợi trời sáng. Bốn vị hiền trí sáng hôm sau đến vấn an vua có được ngon giấc chăng. Ngài bảo:

– Làm sao trẫm an giấc được khi trẫm chiêm bao như vậy?

Hiền giả Senaka tâu:

– Xin Đại vương đừng ngại, đó là mộng lành, Đại vương sẽ được vinh quang.

Rồi khi được yêu cầu giải thích rõ, ông nói:

– Tâu Đại vương, một vị hiền trí thứ năm sắp ra đời sẽ vượt hẳn chúng thần, chúng thần nay như bốn cột lửa, nhưng ở giữa chúng thần sẽ phát ra cột lửa thứ năm, là bậc Vô thượng Sĩ chiếm vị trí tối cao trong cõi nhân thiên.

– Thế vị ấy bây giờ ở đâu?

– Tâu Đại vương, vị ấy hoặc sẽ xuất hiện hoặc sẽ sinh ra từ mẫu thai.

Nhờ tri kiến do thiên nhãn thông, vị này nói như vậy, nên từ đó vua nhớ kỹ những lời ấy. Lúc bấy giờ ở bốn cổng thành Mithilà có bốn thị trấn gọi là Đông trấn, Nam trấn, Tây trấn và Bắc trấn. Ở Đông trấn có một phú gia tên gọi Sirivaddhaka và bà vợ tên là Sumanàdevi. Vào ngày vua nằm mộng ấy, bậc Đại Sĩ từ cõi trời Ba mươi ba xuống nhập thai mẹ và một ngàn vị Thiên tử cũng từ Thiên giới xuống đầu thai vào gia đình các phú thương ở làng ấy.

Sau mười tháng bà Sumàna sinh một cháu trai có màu da như vàng ròng. Lúc ấy Sakka Thiên chủ phóng mắt nhìn xuống thế gian, thấy bậc Đại Sĩ ra đời, ngài nhủ thầm ngài phải thông báo khắp cõi nhân thiên rằng vị Phật tương lai đã ra đời, ngài liền xuất hiện khi hài nhi vừa sinh ra,đặt một nhánh cỏ thuốc vào tay hài nhi, rồi trở về Thiên giới. Bậc Đại Sĩ nắm chặt nhánh cỏ trong tay và khi ngài ra đời từ bụng mẹ, mẹ ngài không thấy đau đớn tí nào cả, mà ngài ra nhẹ nhàng như nước tuông ra từ bình thánh lễ. Khi mẹ ngài trông thấy nhánh cỏ thuốc trong tay ngài, bà liền nói:

– Này con, con cầm vật gì thế?

Ngài đáp:

– Thưa mẹ, đó là cỏ thuốc.

Ngài đặt nó vào tay mẹ và bảo bà cất lấy để cho bất cứ người nào bị bệnh dù bệnh gì cũng được. Lòng đầy hoan hỷ, bà mẹ liền nói chuyện này với phú gia Sirivadhaka, vốn đã bị bệnh nhức đầu trong bảy năm qua. Ông sung sướng tự nhủ : Hài nhi này sinh ra từ bụng mẹ đã cầm cây thuốc và vừa ra đời đã trò chuyện cùng mẹ, cây thuốc do một bậc tài trí siêu phàm như vậy trao cho chắc phải có đại công lực”.

Thế là ông chà cây thuốc vào hòn đá mài rồi thoa một ít vào trán, lập tức chứng nhức đầu đeo đẳng ông trong bảy năm qua liền tiêu tan như nước lăn khỏi lá sen.Vô cùng sung sướng, ông kêu to:

– Đây là thuốc thần.

Tin tức lan truyền khắp nơi rằng bậc Đại Sĩ ra đời với cây thuốc thần trong tay, khiến bệnh nhân kéo đến tấp nập tại nhà phú thương xin thuốc. Họ lấy một ít đem cho mọi bệnh nhân, chà lên đá mài, trộn với nước, hễ thân bệnh nhân nào đụng đến thuốc thần đều lành bệnh cả, nên các bệnh nhân hân hoan ra đi loan truyền tin về công lực kỳ diệu của thần dược trong nhà phú thương Sirivadhata.

Vào ngày đặt tên hài nhi, phú thương nghĩ thầm: “Con ta không cần phải được đặt tên theo dòng họ tổ tiên, mà phải để con ta mang tên cây thuốc thần mới được”, và ông liền đặt tên con là Osadha-Kumàra (Dược thảo Nam tử). Rồi ông lại nghĩ thầm: “Con ta có được đại công đức như thế, chắc chẳng ra đời một mình đâu, còn có nhiều hài nhi khác cũng ra đời một lượt”. Khi hỏi thăm, phú ông nghe được cả ngàn hài nhi khác cùng ra đời một lượt với con mình, ông liền gởi chúng cho nhũ mẫu cùng y phục và quyết định rằng những hài nhi kia sẽ là người hầu cận của con ông, ông cử hành một đại lễ dành cho bậc Đại Sĩ cùng các hài nhi kia, điểm trang cho chúng thật đẹp và ngày ngày đến chơi đùa với ngài. Bậc Đại Sĩ lớn lên cùng các trẻ kia vui chơi thỏa thích.

Khi được bảy tuổi, ngài xinh đẹp như một pho tượng bằng vàng. Những lúc ngài chơi đùa với các trẻ trong làng, các bầy voi ngựa đi ngang qua cản trở trò chơi, hoặc đôi khi đám trẻ bị mệt nhọc vì mưa nắng.

Một ngày kia khi họ đang vui chơi, thình lình một cơn bão rớt trái mùa chợt đến, bậc Đại Sĩ lúc ấy đã mạnh như voi, thấy vậy vội chạy vào nhà, đám trẻ kia chạy theo vào, té ngã lên nhau, sưng trầy chân cẳng. Ngài liền nghĩ thầm: “Ta phải xây một hí trường tại đây, ta không thể chơi kiểu này mãi được”. Ngài liền bảo các trẻ kia:

– Ta hãy xây một hí trường tại đây, để có thể vào đứng, nằm, ngồi những lúc mưa gió, oi nồng, vậy các bạn hãy đem mỗi người một số tiền lại đây.

Đám ngàn trẻ kia vâng lời và bậc Đại Sĩ mời một chú thợ mộc đến trao số tiền và nhờ ông ta xây một sảnh đường tại đó. Người chủ thợ mộc nhận lời, san bằng mặt đất, dựng cột và giăng dây đo đạc, nhưng ông ta chưa hiểu ý bậc Đại Sĩ, nên ngài phải dặn người chủ thợ ấy đo dây thế nào cho phù hợp ý ngài. Người ấy nói:

– Lão giăng dây ra theo kinh nghiệm hành nghề của lão thôi, chứ lão không biết làm cách khác.

– Nếu lão không biết chỉ một chuyện này thôi thì làm sao lão nhận tiền của ta mà xây nhà cho được? Vậy lão hãy cầm dây đi, ta sẽ đo và chỉ cho lão thấy.

Ngài bảo ông cầm dây rồi chính ngài đo lấy đồ án, như thể thần Vissakamma đã thực hiện trước đây vậy. Xong ngài hỏi người thợ mộc:

– Thế lão có biết vẽ đồ án cách này không?

– Thưa ngài, lão không biết.

– Thế lão có thể vẽ theo lời ta chỉ dẫn không?

– Thưa ngài, được.

Bậc Đại Sĩ liền sắp đặt sảnh đường có một phần là nơi cư trú cho lữ khách bình thường, một phần là nơi cư trú cho các phụ nữ nghèo khổ, một phần là nơi cư trú cho những người bần cùng, một phần là nơi cư trú của các Sa-môn, Bà-la-môn, một phần khác dành cho đủ loại nam nhân, một phần khác dành cho các khách thương lạ cất hàng hóa, mọi phòng đều có cửa lớn thông ra ngoài. Lại có một nơi công cộng dành cho các trò giải trí, một tòa án và một phòng lớn để làm thánh lễ.

Khi công việc đã hoàn tất, ngài triệu tập các họa sĩ lại và chính ngài xem họ họa hình thật đẹp để trang hoàng sảnh đường chẳng khác nào thiên cung Sudhamma của Sakka Thiên chủ. Ngài vẫn nghĩ rằng cung điện ấy chưa hoàn hảo: “Ta phải cho xây một hồ nước mới được”. Ngài liền ra lệnh đào đất và bàn luận việc này với một kiến trúc sư xong, ngài trao tiền bảo ông ta xây một hồ nước có một ngàn lối rẽ trên bờ và một trăm bến tắm.

Mặt nước thả năm loại hoa sen rực rỡ chẳng khác nào hồ trên hoa viên Nandana của thiên giới. Trên bờ ngài trồng nhiều loại cây và hoa viên chẳng khác nào vườn thiên lạc Nandana. Gần sảnh đường, ngài dựng lên một nơi cúng dường các bậc tu hành dù là Sa-môn hay Bà-la-môn, cùng các lữ khách hay dân chúng từ các làng lân cận.

Các hành động của ngài gây tiếng vang khắp nơi khiến các đám dân chúng tụ tập tại sảnh đường. Bậc Đại Sĩ thường ngồi đó bàn luận chánh tà trong các việc thiện ác của các đám người đến xin ở lại đây, ngài phán xét từng trường hợp và thời kỳ ấy thật an lạc chẳng khác nào thời một đức Phật xuất hiện tại thế.

Lúc bấy giờ, khi mãn hạn bảy năm, vua Vedeha nhớ lại bốn vị hiền trí đã bảo rằng một hiền trí thứ năm sẽ ra đời vượt lên hẳn bốn vị ấy về tài trí và tự nhủ: “Thế vị này hiện nay ở đâu?”. Vua liền phái bốn vị cận thần ra bốn hoàng môn, ban lệnh cho họ đi tìm vị hiền trí ấy. Khi họ ra ba hoàng môn kia, họ không tìm thấy dấu hiệu nào của bậc Đại Sĩ, nhưng khi họ ra phía Đông môn họ thấy sảnh đường ấy cùng nhiều lâu đài khác, họ tìm chắc rằng chỉ có bậc hiền trí mới xây dựng lâu đài này hoặc bảo dân chúng xây dựng lên như vậy. Họ liền hỏi công chúng:

– Vị kiến trúc sư nào đã xây lên sảnh đường này?

Dân chúng đáp:

– Lâu đài này không phải do một kiến trúc sư nào xây hoặc do quyền lực của vị ấy xây lên, mà là do sự hướng dẫn của bậc Trí giả Mahosadha (Đại thần dược ), con trai của phú thương Sirivaddha.

– Cậu ấy bao nhiêu tuổi?

– Cậu vừa tròn bảy tuổi.

Vị cận thần suy xét lại mọi biến cố xảy ra từ ngày vua chiêm bao đến nay và tự nhủ: “Chuyện này ứng với chiêm bao của vua rồi”, liền sai sứ giả dâng sớ trình vua:

– Mahosadha, con trai của phú thương Sirivaddha ở Đông môn thành, nay lên bảy tuổi, đã bảo xây một sảnh đường cùng hoa viên và hồ nước như vậy, xin cho tiểu thần đem cậu bé ấy đến yết kiến Đại vương được chăng?

Khi nghe vậy, vua vô cùng hoan hỷ, truyền mời Senaka đến. Sau khi kể lại sự việc, vua hỏi ông xem có nên triệu vị Trí giả ấy đến chăng. Nhưng ông ganh tỵ với chức Trí giả ấy, liền đáp:

– Tâu Đại vương, ta không nên gọi một người nào là hiền trí chỉ vì người ấy ra lệnh bảo xây những lâu đài như vậy cả, đó chỉ là việc nhỏ chẳng quan trọng gì.

Khi vua nghe vậy, nhủ thầm: “Chắc phải có lý do bí mật nào đây”, rồi ngài im lặng. Ngài cho sứ giả ra về, dặn viên đại thần phải ở lại nơi ấy một thời gian và quan sát vị Trí giả ấy thật kỹ lưỡng. Vị cận thần ở lại đó thăm dò mọi hành vi của vị Trí giả và sau đây là một loạt các cách thử tài hay cuộc thăm dò.

  1. MIẾNG THỊT.

Một ngày kia khi bậc Đại Sĩ đi đến giải trí trường, một con diều hâu tha đi một miếng thịt từ chiếc bàn đồ tể, bay vụt lên không, vài người thấy vậy, định bắt nó thả xuống nên đuổi theo nó. Diều hâu bay đủ hướng, khiến họ nhìn lên đuổi theo nó mệt nhoài, ném đá cùng nhiều khí giới khác, ngã nhào lên nhau. Bậc Đại Sĩ liền bảo họ:

– Ta sẽ làm cho nó thả thịt xuống.

Họ liền yêu cầu ngài làm ngay. Ngài bảo họ nhìn lên rồi chính ngài cũng nhìn lên và chạy nhanh như gió, dẫm lên bóng con diều hâu, vỗ tay thật lớn. Nhờ uy lực của ngài, tiếng thét ấy dường như xuyên thủng bụng diều hâu khiến nó kinh hoảng thả miếng thịt xuống. Bậc Đại Sĩ canh chừng theo cái bóng nó rớt xuống, chụp lấy thịt trên không trước khi nó chạm đất. Dân chúng thấy việc hy hữu như vậy, reo hò vỗ tay vang dội.

Vị cận thần nghe tin ấy, liền gởi sớ về dâng vua kể chuyện vị Trí giả dùng phương tiện bắt con diều hâu thả miếng thịt. Vua được tin, hỏi Senaka có nên triệu hồi Trí giả về triều không. Senaka suy nghĩ : “Nếu nó về đây ta sẽ mất hết vinh quang và đức vua sẽ quên ta mất. Thôi ta không thể để đức vua mang nó về đây được”.Thế là vì ganh tỵ, ông bảo:

– Không thể gọi là hiền trí chỉ vì một việc như vậy, đó chỉ là việc nhỏ.

Vua muốn thật chí công vô tư, liền ra lệnh nhắn vị cận thần phải thử thách ngài thêm nữa.

  1. ĐÀN BÒ.

Một người dân làng Yavamajjhaka mua một số trâu bò từ làng bên cạnh đem về nhà. Hôm sau gã đem bò ra đồng cho ăn cỏ rồi cỡi một con dạo chơi. Khi mệt mỏi gã ngồi xuống đất ngủ say, một tên trộm xuất hiện mang đàn bò đi mất. Khi gã thức dậy chẳng thấy đàn bò đâu, nhưng khi nhìn quanh gã thấy tên trộm đang chạy trốn. Gã nhảy tới kêu gào:

– Mi đem đàn bò ta đi đâu?

– Đây là đàn bò của ta, ta muốn đem đi đâu mặc ta.

Một đám người xúm lại nghe đấu khẩu. Khi bậc Hiền trí nghe tiếng ồn ào lúc bọn họ đi ngang qua cửa sảnh đường, ngài cho mời họ vào. Khi ngài thấy dáng điệu của họ, ngài biết ngay ai là tên trộm, còn ai là chủ nhân thật sự của đàn bò. Nhưng dù ngài biết chắc như vậy, ngài vẫn hỏi họ đang tranh cãi điều gì. chủ nhân đàn bò bảo:

– Tôi mua đàn bò của người kia ở một làng nọ, tôi đem chúng về nhà rồi cho ra đồng ăn cỏ. Tên trộm này thấy tôi không canh chừng kỹ liền đến dắt nó đi. Nhìn quanh tôi thấy gã, liền chạy theo bắt lấy gã. Dân làng kia biết tôi mua bò và mang về.

Tên trộm đáp:

– Kẻ này nói dối, đàn bò sinh ra trong nhà tôi.

Bậc Trí giả nói:

– Ta sẽ xử vụ này công bình, các anh có nghe ta xử chăng?

Họ đều hứa sẽ tuân theo. Thế là tự nhủ rằng ngài sẽ chiếm được lòng dân chúng, ngài hỏi tên trộm trước tiên:

– Anh cho đàn bò ăn thức gì?

– Chúng uống nước cháo cùng ăn bột mè và đậu.

Ngài lại hỏi chủ nhân thật sự, người này đáp :

– Thưa Tôn ông, nhà nghèo như kẻ hèn đây, làm gì có cháo cùng các thức kia, kẻ hèn chỉ cho bò ăn cỏ.

Bậc Hiền trí liền triệu tập một đám người lại, bảo họ đem hột tắc đến, nghiền nát trong cối, trộn với nước rồi cho bò ăn, chúng liền nôn ra toàn cỏ. Ngài chỉ cho đám đông thấy, rồi hỏi tên trộm :

– Anh có phải kẻ trộm hay không?

Gã liền thú nhận chính là tên trộm. Ngài bảo gã:

– Thôi từ nay đừng phạm tội như thế nữa.

Nhưng đám quân hầu của Bồ-tát mang gã ra ngoài và chặt tay chân gã khiến gã rất khốn đốn, ngài liền khuyên răn gã thêm:

– Nỗi khổ đau này đến với anh trong đời hiện tại, nhưng đời sau anh sẽ chịu cực hình ở nhiều địa ngục nữa, vậy từ nay anh phải từ bỏ ác hạnh như vậy đi.

Ngài dạy gã Ngũ giới.

Vị cận thần dâng sớ kể vệc này, vua lại hỏi ý Senaka, nhưng ông khuyên vua nên chờ đợi :

– Đây chỉ là việc nhỏ về việc đàn bò, ai cũng có thể xử được.

Vì muốn công bình vua ban lệnh như trước.(Các vụ xử sau đây cũng được hiểu như vậy, ta cứ theo thứ tự từng vụ một).

  1. XÂU CHUỔI BẰNG CHÌ.

Một người đàn bà nghèo buộc nhiều sợi chỉ màu lại làm thành sợi dây đeo cổ. Bà cởi nó ra để trên áo quần khi xuống tắm trong hồ mà bậc Trí giả đã cho đào. Một cô gái thấy vậy đem lòng thèm muốn, cầm sợi dây lên bảo:

– Mẹ ơi, dây đeo cổ này đẹp quá, giá bao nhiêu con muốn làm cho con một sợi. Mẹ cho con đeo thử để biết chắc cỡ nào hở mẹ?

Bà kia cho phép cô gái, cô liền đeo vào và chạy mất. Bà già vội nhảy ra khỏi nước, mặc áo quần đuổi theo cô gái, chụp lấy cô ta thét lên :

– Cô lấy sợi dây của ta làm mà chạy trốn.

Cô kia đáp:

– Tôi không lấy cái gì của bà cả, dây này tôi vẫn đeo trên cổ lâu nay.

Một đám đông tụ lại xem khi nghe chuyện cãi cọ. Bậc Hiền trí đang nô đùa cùng lũ trẻ, nghe họ cãi nhau khi đi ngang qua sảnh đường, liền hỏi chuyện gì gây ồn ào. Khi biết nguyên nhân vụ cãi cọ, ngài cho gọi cả hai vào, nhìn dáng điệu ngài biết ngay ai là kẻ cắp, ngài liền hỏi họ có chịu nghe theo ngài xét xử không. Cả hai đều bằng lòng. Ngài hỏi kẻ cắp :

– Cô dùng hương gì để tẩm vào sợi dây đeo cổ này?

Cô gái đáp:

– Tiện nữ luôn luôn dùng hương gồm nhiều thứ hương (Sabbasamhàraka) pha trộn để tẩm vào nó.

Rồi ngài lại hỏi bà kia, bà liền đáp:

– Một người nghèo như lão làm gì có hương Sabbasamhàraka? Lão chỉ tẩm nó với hương hoa Piyangu mà thôi.

Bậc Trí giả bảo đem đến một bình nước và thả dây vào trong, rồi ngài cho gọi một người bán nước hoa đến ngửi bình nước để nhận ra mùi gì, gã liền nhận ra ngay mùi hoa Piyangu và đọc bài kệ đã từng đưa ra trong Chương một: (số 110):

Chẳng có mùi hương của bá hoa,
Chỉ Kan-gu cứ thoảng bay ra,
Nữ nhân ác độc kia gian dối,
Bà lão nhà quê nói thật thà.

Bậc Đại Sĩ liền kể cho khách bàng quan nghe mọi sự việc, xong hỏi riêng hai người trong cuộc:

– Chị có phải kẻ cắp không? Bà không phải kẻ cắp chứ?

Rồi ngài bắt kẻ kia phải nhận tội. Từ đó ngài nổi tiếng khôn ngoan tài trí khắp vùng.

  1. SỢI CHỈ.

Một người đàn bà kia thường đứng canh ruộng bông vải. Một bửa nọ, chị lấy một ít sợi đẹp cuộn thành quả cầu dệt trên vạt áo. Lúc đi về nhà, chị ta nghĩ thầm: “Ta xuống tắm trong hồ của bậc Đại trí mới được”, rồi chị ta đặt quả cầu trên áo bước xuống hồ tắm. Một người đàn bà khác thấy vậy sinh lòng thèm muốn, bảo:

– Quả cầu chỉ này đẹp quá, chị cuộn lấy phải không?

Rồi chị ta bật nhẹ ngón tay, đặt quả cầu trên vạt áo như thể muốn xem thật kỹ, rồi bỏ đi mất. (Chuyện này cũng giống như các chuyện trước đây).

Bậc Trí giả hỏi kẻ cắp:

– Khi cuộn quả cầu này, chị bỏ gì vào trong đó?

Chị ta trả lời:

– Thưa ngài, một hột bông vải.

Rồi ngài hỏi người kia, chị ta đáp:

– Thưa ngài, một hột timbaru.

Khi đám đông đã nghe hai người nói xong, ngài tháo quả cầu lấy ra một hột timbaru bên trong khiến cho kẻ cắp phải thú nhận tội. Đám đông vui vẻ reo hò trước cảnh xử kiện của bậc Đại trí.

  1. ĐỨA CON TRAI.

Một người đàn bà kia đem con trai xuống hồ của bậc Đại Sĩ đi tắm rửa. Khi tắm con xong, chị đặt con nằm trên áo mình rồi đi tắm. Lúc ấy một nữ quỷ Dạ-xoa cái thấy đứa bé muốn ăn thịt, liền cầm nó lên và hỏi:

– Này chị bạn, cháu xinh quá, con chị đấy phải không?

Rồi nó hỏi xem nó có thể cho đứa bé bú không. Khi người mẹ bằng lòng, nó liền ẵm đứa bé lên chơi đùa một lát rồi chạy đi mất. Bà mẹ rượt theo chụp lấy nó la lên:

– Này chị mang con tôi đi đâu?

Con quỷ cái đáp:

– Sao chị dám đụng vào đứa bé này? Nó là con tôi mà.

Họ vừa cãi cọ vừa đi ngang cửa sảnh đường, bậc Đại trí nghe tiếng ồn ào cho gọi họ và hỏi chuyện. Nghe xong, mặc dù nhìn thấy đôi mắt đỏ không chớp của nữ yêu tinh, ngài biết ngay ai là con quỷ cái, ngài cũng hỏi họ có chịu nghe theo lời ngài xét xử chăng. Khi họ hứa nghe theo, ngài liền vẽ một đường thẳng, đặt đứa bé lên, bảo con quỷ nắm tay đứa bé và người mẹ nắm chân nó. Rồi ngài bảo:

– Nắm lấy nó mà lôi đi, kẻ nào lôi được nó về phía mình là con của mình.

Cả hai đều lôi kéo, đứa bé bị đau òa khóc to. Người mẹ đau lòng như cắt đành để đứa bé bị lôi đi và đứng khóc. Bậc Hiền trí hỏi đám đông:

– Có phải chính lòng mẹ mới thương yêu con mình hay lòng của kẻ không phải là mẹ?

Họ đáp:

– Chính lòng mẹ.

– Thế người nắm chặt đứa bé là mẹ nó hay người để cho nó bị lôi đi là mẹ nó?

Họ đáp :

– Người để cho nó bị lôi đi.

– Các ngươi có biết kẻ trộm đứa bé là ai chăng?

– Thưa bậc Hiền giả, chúng tôi không được biết.

– Nó là quỷ cái bắt trẻ con để ăn thịt.

Họ hỏi làm thế nào ngài biết được như vậy, ngài đáp:

– Ta nhìn thấy đôi mắt đỏ của nó, nó lại không đổ bóng xuống đường, tính tình táo tợn và tàn bạo nữa.

Rồi ngài hỏi nó là ai, nó thú nhận chính là quỷ cái.

– Tại sao ngươi bắt đứa bé?

– Thưa ngài, để ăn thịt.

– Ngươi thật ngu muội quá, đời trước ngươi đã phạm tội phải sinh làm yêu quỷ, nay lại vẫn tiếp tục gây tội, thật mê mờ quá.

Rồi ngài khích lệ nó, dạy nó Ngũ giới, xong thả cho nó đi; còn người mẹ chúc tụng ngài:

– Tiện tỳ xin cầu chúc Chúa công trường thọ.

Rồi chị ẵm con về.

  1. QUẢ CẦU ĐEN.

Có một gã đàn ông tên gọi Golakàla. Gã có tên “Gola” nghĩa là Quả cầu bởi vì thân hình lùn tịt và “kàla” vì màu da đen bóng. Gã làm việc trong nhà kia bảy năm liền, cưới được cô vợ tên là Dìghatàla (Cây dừa cao).

Một ngày kia gã bảo vợ:

– Này hiền thê, nàng hãy làm mứt bánh cùng thức ăn rồi ta về thăm cha mẹ nàng.

Lúc đầu người vợ phản đối dự định này, bảo chồng:

– Ta còn liên hệ gì đến cha mẹ nữa.

Nhưng sau khi gã chồng nài nỉ ba lần, gã cũng bảo được vợ nấu bánh kẹo, đem thêm một số thực phẩm và quà biếu. Gã cùng vợ lên đường. Trên đường đi, gã đến một dòng sông không sâu lắm, nhưng cả hai đều sợ nước, nên không dám lội qua, chỉ đứng trên bờ.

Bấy giờ có một gã nghèo khổ tên Dìghapitthi (Lưng dài) đi dọc bờ suối, đến nơi này, họ liền hỏi gã suối sâu hay cạn. Thấy họ sợ nước, gã bảo:

– Sâu lắm và đầy loài cá ăn thịt.

– Thế làm sao ông qua sông được?

– Ta đã đánh bạn với cá sấu và thủy quái ở đây nên chúng không hại ta.

– Vậy xin Tôn ông đem chúng tôi qua suối với. Họ bảo gã.

Khi gã bằng lòng, họ cho gã ăn uống rượu thịt; xong bữa, gã hỏi họ gã sẽ đem ai qua suối trước. Golakàla bảo:

– Xin đem tiểu muội qua trước rồi tiểu đệ sẽ qua sau.

Gã liền đặt nàng ngồi trên vai, cầm lấy thực phẩm, quà biếu và bước xuống dòng. Khi đã đi được một lát, gã cúi người xuống và đi với dáng cong cong. Golakàla đứng trên bờ thấy vậy, nghĩ thầm: “Dòng suối này chắc phải sâu lắm, một người như Dìghapitthi mà còn khó khăn vậy thay, huống gì ta chắc không thể nào qua được.” Khi gã kia đem người đàn bà ra đến giữa dòng, gã bảo nàng:

– Nương tử ơi, ta sẽ yêu quý nàng, nàng sẽ sống đời cao sang, mặc gấm vóc lụa là, đeo nữ trang ngọc vàng, có kẻ hầu người hạ, chứ gã gù kia làm gì cho nàng được? Xin nàng hãy nghe ta.

Nàng nghe gã nói êm tai nên không còn yêu chồng nữa mà mê mẩn ngay kẻ xa lạ này, nàng bằng lòng bảo gã:

– Nếu chàng không bỏ thiếp, thiếp xin vâng lời chàng.

Thế là khi họ sang bờ bên kia, họ vui thú cùng nhau, bỏ rơi gã Golakàla bên bờ cũ. Trong khi gã đứng trông chừng, thì họ ăn hết rượu thịt và ra đi. Gã thấy vậy liền la lên:

– Chúng đã đánh bạn với nhau và bỏ trốn, để ta lại đây!

Trong khi gã chạy lui chạy tới, gã mới bước xuống nước một khoảng liền thối lui vì sợ hãi, nhưng lòng căm giận cách ăn ở của bọn kia, gã tuyệt vọng nhảy ùm xuống nước và bảo:

– Thà một chết một sống!

Và khi xuống nước rồi gã mới biết nước cạn quá chừng. Thế là gã lội qua vừa đuổi theo chúng vừa la to:

– Tên trộm khốn nạn kia, mi đem vợ ta đi đâu?

Gã kia đáp:

– Sao lại vợ ngươi? Vợ ta chứ?

Rồi nắm cổ gã lùn, gã xoay y một vòng và ném y xuống đất. Gã lùn chụp tay Dìghatàla hét to:

– Ngừng lại, nàng đi đâu đấy! Nàng là vợ ta, ta cưới được nàng sau bảy năm làm lụng tại nhà kia mà.

Họ đang cãi cọ như vậy thì vừa đến sảnh đường. Một đám đông tụ lại xem. Bậc Đại Sĩ hỏi chuyện gì gây ồn ào, ngài hỏi họ có chịu nghe ngài xử kiện chăng. Khi họ đều bằng lòng, ngài gọi gã Dìghapitthi lại, hỏi tên gã, xong hỏi tên vợ gã nhưng gã không biết nên nói một tên khác. Rồi ngài hỏi tên cha mẹ gã, gã đáp được nhưng ngài hỏi tên cha mẹ vợ thì gã không biết, nên đã nói một tên khác.

Bậc Đại Sĩ sắp đặt câu chuyện của gã xong và cho gã lui ra. Rồi ngài cho gọi gã lùn vào và cũng hỏi tên họ như vậy. Gã này biết hết nên trả lời đúng cả. Ngài lại bảo gã lui ra, rồi cho gọi Dìghatàla vào, hỏi tên nàng, nàng đáp được, nhưng khi hỏi tên chồng, nàng không biết nên nói sai. Khi hỏi tên cha nàng, nàng đáp đúng, nhưng khi được hỏi tên cha mẹ chồng, nàng đáp bừa và nói sai. Sau đó bậc Trí giả cho gọi hai gã vào và hỏi đám đông:

– Câu chuyện của người đàn bà này hợp với Dìghapitthi hay Golakàla?

Họ đáp:

– Hợp với Golakàla.

Rồi ngài tuyên án:

– Người này là chồng chị ta, người kia là kẻ trộm.

Khi ngài hỏi lại gã, ngài buộc gã phải thú tội đã làm tên trộm vợ người.

  1. CỖ XE.

Một người đàn ông trên xe ngựa bước xuống đất để rửa mặt. Vừa lúc ấy Sakka Thiên chủ đang xem xét thế gian, khi ngài thấy bậc Trí giả liền quyết định làm cho thế nhân biết được uy lực và tài trí của Mahosadha, đức Phật trong thời vị lai. Vì thế, ngài giáng thế, giả dạng đàn ông theo sau chiếc xe, giữ tay lái đằng sau. Người chủ ngồi trong xe hỏi:

– Anh đến đây làm gì?

Ngài đáp:

– Thưa Tôn ông, để hầu hạ Tôn ông.

Người ấy bằng lòng ngay và xuống xe qua bên đường đi tiểu tiện. Lập tức Sakka Thiên chủ lên xe phóng đi mất. Người chủ xe xong việc trở lại, thấy Sakka Thiên chủ phóng xe chạy trốn, liền đuổi theo và la to:

– Ngừng lại, ngừng lại, anh đem xe ta đi dâu?

Thiên chủ đáp:

– Xe của ông là cái nào kia chứ, đây là xe ta mà!

Vừa cãi cọ họ vừa chạy ngang qua cửa sảnh đường. Bậc Trí giả hỏi:

– Chuyện gì thế?

Và ngài cho mời Thiên chủ vào. Khi Thiên chủ vào, nhìn dáng điệu oai vệ và đôi mắt không chớp của ngài, bậc Trí giả biết ngay là Sakka Thiên chủ và kẻ kia là chủ xe. Tuy thế ngài vẫn hỏi nguyên do cuộc cãi vã và bảo họ:

– Các vị có chịu nghe ta xét xử chăng?

Họ đồng đáp:

– Thưa vâng.

Ngài tiếp tục nói:

– Ta sẽ làm cho xe chạy, cả hai vị đều phải giữ tay lái đằng sau, người nào chủ chiếc xe sẽ không để xe chạy mất, còn người kia mới để nó chạy.

Xong ngài bảo một người lái xe, còn hai người kia giữ tay lái đằng sau. Chủ xe chạy được một quãng thì không thể nào chạy theo kịp, đành để nó đi mất, còn Sakka Thiên chủ vẫn tiếp tục chạy theo xe. Khi Bậc Trí giả gọi chiếc xe trở lại, ngài bảo với đám đông:

– Người này mới chạy một lát đã để nó đi mất, còn người kia chạy đến cùng với chiếc xe rồi còn chạy lui nữa, mà lại chẳng đổ một giọt mồ hôi nào trên thân. Không thở dốc, không sợ sệt gì cả, đôi mắt lại không chớp, đây chính là Sakka Thiên chủ, Đại đế của chư Thiên.

Rồi ngài hỏi:

– Thưa ngài, chính phải ngài là Thiên chủ chăng?

– Chính phải.

– Thế ngài đến đây làm gì?

– Để làm rạng danh tài trí của Hiền giả.

Ngài đáp:

– Vậy thì xin Thiên chủ chớ làm như vậy nữa.

Bấy giờ Sakka Thiên chủ xuất lộ oai thần bằng cách đứng lơ lửng trên không, tán thán bậc Hiền giả:

– Thật là một lối xét xử đầy tài trí.

Rồi ngài trở về thiên giới.

Lúc ấy vị cận thần không đợi lệnh vua triệu tập, vội trở về triều đình:

– Tâu Đại vương, việc cỗ xe ấy đã quyết định được rồi: Ngay đến Sakka Thiên chủ còn chịu khuất phục trước ngài nữa, cớ sao Đại vương không chịu thừa nhận tính siêu phàm ở thế nhân?

Nhà vua hỏi Senaka:

– Khanh nghĩ sao Senaka, ta có nên đem bậc Trí giả về triều chăng?

Senaka tâu:

– Việc đó cũng chưa hẳn quyết định một bậc Trí giả. Tâu Đại vương, cứ chờ đợi một lúc nữa: Thần sẽ xin đi thử tài vị này xem sao.

  1. KHÚC CÂY.

Thế rồi một ngày kia, với mục đích thử tài bậc Hiền trí, họ đi tìm một nhánh phượng, cắt một khúc độ một gang tay, cho thợ tiện đẻo thật láng rồi đưa ra sông thị trấn, với lời rao:

– Dân thị trấn này nổi danh tài trí, vậy hãy tìm cho ra phía nào là đầu ngọn, phía nào gốc của cành cây này. Nếu không đoán được sẽ bị phạt một nghìn đồng tiền.

Dân chúng tụ tập lại nhưng không ai tìm ra được, liền nói với chủ họ:

– Có lẽ bậc Trí giả Mahosadha biết đấy, ta thử mời ngài xem.

Người chủ cho mời bậc Trí giả đang chơi ngoài sân, kể chuyện họ không biết đầu đuôi cành cây ấy nhưng chắc ngài biết. Bậc Trí giả nghĩ thầm: “Đức vua chẳng lợi gì khi biết gốc ngọn cây ấy, chắc chắn ngài đưa nó đến đây thử tài ta”. Ngài bảo:

– Các hiền hữu hãy mang nó lại đây, ta sẽ tìm ra.

Khi cầm trong tay, ngài biết đâu là ngọn, đâu là gốc, tuy nhiên để làm vui lòng mọi người, ngài cho đem đến một chậu nước, buộc một sợi dây giữa khúc cây rồi cầm đầu dây thả vào mặt nước. Phía gốc nặng hơn nên chìm trước. Ngài hỏi dân chúng:

– Gốc cây nặng hơn hay ngọn cây nặng hơn?

– Thưa bậc Trí giả, gốc cây nặng hơn.

– Vậy hãy nhìn đây, phần này chìm trước, vậy là gốc.

Nhờ dấu hiệu này ngài đã phân biệt được gốc ngọn. Dân chúng trình khúc cây lên vua đã phân biệt phía nào gốc phía nào ngọn. Vua hoan hỷ hỏi:

– Ai đã tìm ra?

Họ đáp:

– Tâu Đại vương, chính bậc Trí giả Mahosadha, con trai của chủ nhân ông Sirivaddhi.

– Này Senaka, thế ta triệu vị ấy về triều được chăng?

– Tâu Đại vương, xin cứ chờ đợi để chúng thần thử tài vị ấy cách khác nữa.

  1. CHIẾC ĐẦU NGƯỜI .

Một ngày kia, hai chiếc đầu được mang đến để phân biệt chiếc nào là đầu đàn bà, chiếc nào là đầu đàn ông. Nếu không tìm ra được, họ phải chịu phạt một ngàn đồng tiền. Dân chúng không quyết đoán được, liền mời bậc Đại Sĩ. Ngài nhận ra vì người ta thường nói đường khớp trênđầu đàn ông thì thẳng, còn đường khớp trên xương đầu đàn bà thì cong. Nhờ dấu hiệu này, ngài phân biệt được ngay và dân chúng trình lên vua. Phần cuối như các chuyện trên.

  1. CON RẮN.

Một ngày nọ, một rắn đực và một rắn cái được đưa đến cho dân làng đoán thử. Họ hỏi bậc Trí giả. Ngài biết ngay khi thấy rắn vì đuôi rắn đực thì dày, đuôi rắn cái thì mỏng; đầu rắn đực tròn, đầu rắn cái dài, mắt rắn đực lớn,mắt rắn cái nhỏ. Nhờ những dấu hiệu này ngài phân biệt con đực với con cái. Phần cuối như cũ.

  1. CON GÀ TRỐNG.

Ngày nọ vua ban lệnh xuống dân chúng ở Đông thị trấn thi hành:

– Hãy đưa về triều một bò đực trắng bạch, có sừng trên chân, cục bướu trên đầu, rống lên ba nhịp một ngày không sai chạy, nếu không, sẽ phải bị phạt một ngàn đồng tiền.

Dân chúng chẳng biết làm sao, liền hỏi bậc Hiền trí. Ngài đáp:

– Nhà vua đòi các ông gửi dâng ngài con gà trống đấy. Con gà trống có sừng trên chân đó là cái cựa, cục bướu trên đầu đó là mào và cất giọng gáy đúng ba nhịp (ngắn, vừa, dài). Thế thì hãy dâng vua con gà trống như ngài tả.

Họ liền gửi dâng vua ngay một con.

  1. VIÊN NGỌC.

Viên ngọc này do Sakka Thiên chủ tặng vua Kusa, có hình bát giác. Sợi dây đeo ngọc bị đứt nhưng không ai lấy được sợi dây cũ ra để xâu sợi mới vào.

Một ngày kia họ đem viên ngọc đến bảo dân làng lấy sợi dây cũ ra để xâu dây mới vào. Dân làng chẳng làm gì được đành đem chuyện khó khăn kể lại với bậc Trí giả. Ngài bảo họ đừng sợ gì cả, hãy đem đến một cục mật. Ngài xoa mật vào hai lỗ hạt ngọc, rồi se một sợi len, xoa mật vào một đầu dây, đẩy đầu dây vào một chút trong lỗ ngọc, xong đặt viên ngọc vào nơi kiến thường đi qua. Bầy kiến nghe mùi mật bò ra khỏi ổ, cắn hết sợi dây cũ rồi cắn sợi dây len kéo qua tận lỗ bên kia.

Khi ngài thấy lỗ đã thông, ngài bảo dân chúng trình lên vua khiến vua rất đẹp lòng khi nghe câu chuyện sợi dây được xâu như vậy.

  1. BÒ ĐỰC ĐẺ CON.

Con bò đực của nhà vua được cho ăn quá nhiều trong vòng mấy tháng nên bụng nó trương lên, sừng nó phờ phạc, nó phải được xoa dầu, rồi họ đem nó đến Đông thị trấn với lệnh vua ban:

– Nghe các khanh thật tài trí, vậy đây là con bò đực của đức vua đang có chửa, hãy giúp nó sinh con, rồi dẫn về triều, có đủ cả bò con. Nếu không sẽ chịu phạt vạ một ngàn đồng tiền.

Dân làng hoảng hốt chẳng biết làm sao liền vấn kế bậc Trí giả, ngài nghĩ nên đặt một câu hỏi trùng hợp với câu kia, và hỏi:

– Các ông có thể tìm ra một người bạo gan dám đối đáp với đức vua chăng?

Họ đáp chuyện ấy không khó gì. Rồi họ đem một người đến. Bậc Đại Sĩ bảo:

– Này anh bạn, anh hãy xõa tóc xuống vai đi đến hoàng môn khóc lóc kêu than thật thống thiết. Ai hỏi gì cũng không trả lời chỉ kêu khóc, trừ khi đức vua hỏi. Nếu đức vua bảo đem anh vào để hỏi tại sao than khóc, anh cứ tâu: “Bảy ngày nay con trai thần đang lâm bồn nhưng không thể nào sinh con được, xin cứu thần với. Xin nói cho thần biết làm cách nào giúp nó sinh con?”. Đức vua sẽ bảo: “Thật là điên khùng. Làm sao đàn ông có thể sinh con được?”. Lúc ấy anh sẽ đáp: “Nếu quả thật như thế thì làm sao dân Đông thị trấn có thể giúp bò đực của Đại vương sinh bò con được?”.

Người ấy được lệnh cứ thế mà thi hành. Vua hỏi ai nghĩ ra cách trả lời phản công lại như vậy và khi nghe nói chính bậc Trí giả Mahosadha, ngài rất đẹp lòng.

  1. NẤU CƠM.

Một ngày kia để thử tài bậc Trí giả, lệnh vua phán ra:

– Dân Đông thị trấn phải dâng về kinh một thứ cơm nấu theo tám điều kiện sau: không gạo, không nước, không nồi, không lò, không lửa, không củi, không do đàn ông hay đàn bà đem về kinh theo đường cái. Nếu không làm được phải chịu phạt một ngàn đồng tiền.

Dân làng bối rối vấn kế bậc Trí giả. Ngài bảo:

– Đừng lo gì, hãy đem một ít tấm lại đây, vì nó không phải gạo, đem tuyết vì nó không phải nước, đem đến một cái bát đất vì nó không phải nồi, chặt lấy vài tấm gỗ, đó không phải là cái lò, nhóm lửa bằng cách cọ xát chứ không dùng mồi lửa thật, đốt lá thay vì gỗ. Nấu cơm xongđể vào một chậu khác, ép xuống thật chặt, đặt trên đầu của một hoạn quan, người này phi nam phi nữ, bỏ đường cái mà đi theo đường mòn, đem lên dâng vua.

– Dân chúng làm như vậy và vua rất đẹp lòng khi nghe chuyện nhờ người nào mà vấn đề đãđược giải quyết.

  1. CÁT

Một ngày kia để thử tài bậc Trí giả, lệnh vua ban xuống cho dân làng này:

– Đức vua rất thích thú nằm võng, mà võng cũ đã đứt. Vậy các ngươi hãy làm một chiếc võng bằng cát. Nếu không, phải chịu phạt vạ một ngàn đồng tiền.

Dân làng chẳng biết làm sao lại phải cầu cứu bậc Trí giả. Ngài thấy đây cũng là chuyện đặt vấn đề phản công lại. Ngài trấn an dân chúng rồi đi tìm hai ba người đối đáp thật thông minh lanh lợi đến, và ngài bảo họ đến trình lên vua:

– Tâu Đại vương, dân làng chúng thần không biết chiếc võng cát phải dày hay mỏng, vậy xin cho chúng thần một mảnh chiếc võng cũ, dài độ một gang tay hay chừng bốn ngón tay, chúng thần sẽ theo đó mà bện dây thừng đúng cỡ đó. Nếu đức vua đáp: -“Trẫm chẳng hề có chiếc võng cát trong cung”, thì họ phải tâu ngay: -“Nếu Đại vương không thể làm võng bằng cát thì làm sao dân làng có thể làm được?”

Dân làng vâng theo lời nói như vậy và vua rất hài lòng khi nghe bậc Trí giả đã nghĩ ra cách đối đáp phản công lại như trên.

  1. HỒ NƯỚC.

Một ngày kia có lệnh vua ban:

– Đức vua muốn vui chơi dưới nước, các ngươi phải đem dâng ngài một hồ nước mới có đủ năm loại sen súng, nếu không phải chịu phạt một ngàn đồng tiền.

Dân làng kể chuyện với bậc Trí giả, ngài thấy đây cũng cần đối đáp phản công lại. Ngài cho gọi nhiều người đối đáp lanh lợi đến rồi bảo họ:

– Hãy lội xuống nước chơi đùa cho đỏ cả mắt, rồi đi đến hoàng môn tóc tai áo quần lấm bê bết, tay cầm dây thừng, gậy gộc, đất đá, nhờ tâu trình với đức vua rằng các ông đã đến chầu, và khi các ông được phép vào cung, hãy tâu với ngài: -“Tâu Đại vương, vì Đại vương ban lệnh cho dân Đông thị trấn dâng ngài một hồ nước, chúng thần đã mang đến đấy một hồ nước thật lớn để đẹp ý Đại vương nhưng hồ này quen sống ở rừng nên vừa thấy thị thành với hào lũy tháp canh thì nó sợ hãi bức tung dây thừng chạy trốn vào rừng, chúng thần đã ném đất đá vào nó, lấy gậy gộc đánh đập nó nhưng cũng không bắt nó trở lại được. Vậy xin cho chúng thần chiếc hồ cũ mà chúng thần nghe nói Đại vương đã mang từ rừng về, chúng thần sẽ buộc chúng chung với nhau để mang chiếc hồ kia trở lãi đây”. Đức vua sẽ bảo: “Trẫm chẳng hề bảo ai đem hồ từ rừng về đây cả và cũng không hề bảo buộc hồ lại rồi đem hồ kia về đây”. Khi ấy các ông sẽ phải tâu: “Nếu vậy thì làm sao dân làng chúng thần dâng Đại vương một hồ nước được?”.

Họ y theo vậy mà làm khiến đức vua rất đẹp lòng khi nghe nói bậc Trí giả đã nghĩ ra chuyện ấy.

  1. HOA VIÊN.

Lại một ngày kia, vua ban lệnh:

– Trẫm muốn giải trí trong hoa viên và hoa viên của trẫm đã xưa cũ quá rồi. Dân chúng Đông thị trấn phải dâng trẫm một hoa viên mới đầy đủ kỳ hoa dị thảo…

Bậc Trí giả lại trấn an dân chúng như trước kia, rồi cho người đi đối đáp với vua như trên.

  1. YẾT KIẾN VUA VỚI CON LỪA

Lúc ấy vua rất hoan hỷ bảo Senaka:

– Này khanh, trẫm có nên triệu bậc Trí giả ấy về triều chăng?

Nhưng ông ganh ghét vì thấy kẻ khác được vinh hiển, liền tâu:

– Như thế chẳng có gì phải gọi là bậc Trí giả cả, ta hãy chờ xem.

Nghe vậy vua nghĩ thầm: “Hiền giả Mahosadha thật là tài trí dù còn bé khiến ta rất ái mộ. Trong những cuộc thử thách đầy bí hiểm và những lần đối đáp phản công vừa qua, vị này đã ứng đối như một vị Phật. Tuy nhiên một người tài trí như vậy thì Senaka lại không muốn ta triệu hồi về triều cho ta. Vậy ta cần gì Senaka đã chứ? Ta cứ triệu vị ấy về đây”.

Thế là vua cùng với một đám đông tùy tùng khởi hành đến ngôi làng ấy và vua ngự trên vương mã. Nhưng vừa lên đường thì con ngựa sụp hố gãy chân, vua phải trở về cung. Senaka liền vào yết kiến vua và nói:

– Tâu Đại vương, phải chăng Đại vương đã đi về Đông thị trấn để đem bậc Trí giả vào triều?

– Chính phải, hiền khanh.

Senaka lại tâu:

– Đại vương xem tiểu thần chẳng vào đâu cả. Tiểu thần xin Đại vương chờ đợi một ít lâu, nhưng Đại vương cứ vội ra đi và vừa lên đường thì vương mã bò gãy chân.

Vua không nói gì với ông nữa. Một ngày kia, vua lại hỏi Senaka:

– Trẫm triệu hồi vị Hiền trí này về triều được chăng, hiền khanh Senaka?

– Tâu Đại vương, nếu vậy xin Đại vương đừng tự thân hành ngự đi, mà chỉ cần cho sứ giả đến bảo: “Này Hiền giả, trẫm đã thân hành đi triệu hồi ngài và con ngựa của trẫm bị gãy chân, vậy hãy tiến cung một con ngựa tốt hơn và một đại tuấn mã”. Nếu vị ấy chọn chuyện đầu tiên, vị ấy sẽ đích thân về triều, nếu chọn chuyện thứ hai, vị ấy sẽ nhờ thân phụ đi thế. Như vậy cũng là việc để thử thách vị ấy nữa.

Vua cho sứ giả đem lệnh ấy ra đi. Bậc Trí giả khi nghe vậy, hiểu ngay rằng vua mong muốn gặp Ngài và phụ thân ngài. Ngài liền đi tìm phụ thân và chào hỏi:

– Thưa phụ thân, đức vua muốn gặp cha con ta. Xin phụ thân lên đường trước cùng đoàn tùy tùng gồm cả ngàn thương nhân. Khi đi đường, phụ thân đừng đi hai tay không, mà đem theo một hộp bằng gỗ đàn hương đựng đầy bơ tươi. Đức vua sẽ ân cần chào hỏi thân phụ và mời thân phụ ngồi ghế gia chủ, xin thân phụ cứ ngồi xuống. Khi ấy, con sẽ đến, đức vua cũng lại ân cần chào đón con và mời con ngồi một ghế như vậy. Rồi con sẽ nhìn thân phụ; thân phụ đưa ám hiệu và đứng lên bảo: “Hiền giả Mahosadha nam tử, hãy ngồi xuống đi”. Vấn đề lúc ấy sẽ chín muồi để ta giải quyết.

Thân phụ ngài làm theo như vậy. Khi đến cung, ông xin trình vua họ đã đến, rồi được vua cho vào, ông đến tung hô chúc tụng vua xong và đứng sang một bên. Vua ân cần chào đón ông và hỏi thăm bậc Trí giả Mahosadha nam tử ở đâu.

– Tâu Đại vương, hiền nhi sẽ đến sau tiểu thần.

Vua hài lòng khi nghe bậc Trí giả sắp đến, liền mời thân phụ ngài ngồi xuống một nơi thích hợp. Ông ngồi xuống. Trong lúc ấy, bậc Đại Sĩ được trang sức xiêm y cực kỳ lộng lẫy, cùng với một ngàn nhi đồng theo hầu, ngồi trên chiếc xe thật sang trọng uy nghi. Khi đến kinh thành, ngài thấy một con lừa đứng cạnh một cái hố, liền bảo mấy người bạo dạn bịt miệng con lừa lại để cho nó khỏi kêu, xong bỏ nó vào bao vát lên vai. Họ làm như vậy, rồi Bồ-tát vào cung với đoàn tùy tùng đông đảo của ngài. Dân chúng không ngớt tán thán ngài. Họ la lên:

– Đây là bậc Trí giả Mahosadha, nam tử của phú ông Sirivaddhaka, người ta bảo ngài sinh ra có cây thuốc thần trong tay, chính ngài đã biết cách giải đáp mọi vấn đề được đặt ra để thử tài ngài.

Khi đến trước cung, ngài bảo trình vua ngài đã đến. Vua rất đẹp ý, liền bảo:

– Hãy mời Trí giả Mahosadha nam tử của trẫm mau vào chầu.

Vì thế ngài liền vào cung cùng đám tùy tùng. Tung hô vua xong, ngài đứng sang một bên. Vua rất hoan hỷ khi trông thấy ngài nên nói giọng rất ngọt ngào, ban lệnh cho ngài tìm một nơi thích hợp mà ngồi. Ngài liền nhìn cha, ông thấy ám hiệu liền đứng dậy mời con ngồi chỗ ấy, ngài liền ngồi ngay. Thế là các kẻ ngu si đằng kia như Senaka, Pukkusa, Kàvinda, Devinda cùng nhiều kẻ khác nữa, thấy ngài ngồi như vậy, liền vỗ tay cười rộ lên và bảo:

– Đây là thằng ngốc đui mù mà chúng bảo là bậc Trí giả. Nó bảo cha nó đứng dậy để nó ngồi vào chỗ ấy. Chắc chắn không thể gọi nó là bậc Trí giả được.

Vua cũng tiu nghỉu như mèo cụt tai. Bậc Trí giả liền hỏi:

– Tâu Đại vương, Đại vương không đẹp ý chăng?

– Đúng vậy, này Hiền giả, trẫm buồn lắm. Trước đây trẫm rất hoan hỷ khi nghe nói về Hiền giả, nhưng nay gặp Hiền giả trẫm lại không được vừa lòng.

– Tại sao như vậy?

– Chỉ vì khanh bảo thân phụ khanh đứng dậy để khanh ngồi vào chỗ ấy.

– Tâu Đại vương, ngài cho rằng lúc nào cha ông cũng hơn con cái cả hay sao?

– Đúng vậy, này Hiền giả.

– Thế Đại vương đã không ban lệnh cho tiểu thần tiến dâng một tuấn mã tốt hơn nữa hoặc mộtđại tuấn mã ưu tú nhất đó sao?

Nói xong, ngài đứng dậy nhìn các nhi đồng theo hầu ngài và bảo:

– Đem con lừa của các bạn vào đây.

Đặt con lừa trước mặt vua, ngài tiếp tục hỏi:

– Tâu Đại vương, con lừa này đáng giá bao nhiêu?

Vua đáp:

– Nếu dùng được thì nó đáng giá tám đồng tiền (ru-pi).

– Nhưng nếu nó tạo được một con la con với một ngựa cái thuần giống Sindh thì giá con la sẽ bao nhiêu?

– Thế thì nó vô giá.

– Tâu Đại vương, tại sao ngài lại nói vậy? Ngài chẳng vừa bảo là bất cứ lúc nào ông cha cũng hơn con cái cả hay sao? Theo như ngài nói thì con lừa phải đáng giá hơn con la chứ! Giờ đây các bậc Trí giả của ngài đã không vỗ tay chế nhạo tiểu thần chỉ vì họ không biết điều ấy đó sao? Vậy tài trí của các bậc Trí giả ấy ở đâu chứ? Đại vương đã tìm họ ở đâu ra vậy?

Rồi tỏ vẻ khinh thường cả bốn vị kia, ngài đọc bài kệ này trong Chương một (số 111) trình vua:

Tâu Đại vương, ngài vẫn nghĩ rằng
Con luôn thua kém bậc cha ông?
Thế thì lừa phải hơn la chứ,
Lừa ấy với la chính phụ thân!

Sau đó, ngài tiếp tục nói:

– Tâu Đại vương, nếu ông cha phải hơn con cái thì xin Đại vương hãy sử dụng thân phụ của tiểu thần; còn nếu con cái hơn ông cha thì xin sử dụng tiểu thần.

Vua rất đẹp ý và tất cả quần thần reo hò nhiệt liệt tán thán cả ngàn lần:

– Bậc Đại trí giải quyết vấn đề thật vi diệu thay !

Tiếng vỗ tay vang dậy và cả ngàn chiếc khăn quàng giơ lên vẫy tưng bừng khiến bốn vị kia tiu nghỉu.

Thời bấy giờ không ai hiểu rõ hơn Bồ-tát về giá trị của phụ mẫu mình. Nếu ai hỏi lúc ấy tại sao ngài lại làm như vậy, thì đó không phải là vì ngài xem thường thân phụ ngài, nhưng chỉ vì khi vua ban lệnh tiến dâng một tuấn mã tốt hơn hoặc một tuấn mã ưu tú đệ nhất, ngài phải làm như thế để giải quyết vấn đề vua đặt ra, để làm hiển lộ tài trí của ngài vượt hẳn bốn vị kia.

Vua rất hoan hỷ, cầm chiếc bình vàng đựng nước hương, rót nước lên bàn tay của vị phú thương kia và phán:

– Khanh hãy thọ hưởng Đông thị trấn là tặng vật trẫm ban thưởng cho khanh. Các phú thương trong vùng phải thần phục vị này.

Sau đó vua lại ban thưởng mẫu thân của Bồ-tát đầy đủ các loại nữ trang. Vì đẹp ý trước cách Bồ-tát giải quyết vấn đề con lừa, vua ước mong nhận Bồ-tát làm con mình, liền nói với người cha ngài:

– Này hiền khanh, hãy để bậc Đại trí làm con trẫm.

Ông đáp:

– Tâu Đại vương, nay con của Tiểu thần còn quá thơ dại, miệng còn hôi sữa; nhưng khi lớn khôn, tiểu nhi xin đến hầu hạ Đại vương.

Tuy thế, vua vẫn phán:

– Này hiền khanh, từ nay đừng lưu luyến cậu bé này nữa, từ hôm nay nó là con của trẫm. Trẫm có thể nuôi nấng con của trẫm, vậy khanh hãy đi về.

Rồi vua ban lệnh cho ông ra về. Ông tuân lệnh vua, ôm lấy con trong đôi vòng tay mình, hôn lên đầu và nhắn nhủ đôi điều. Cậu bé giã biệt phụ thân, khuyên cha chớ lo âu, rồi để cha ra đi.

Sau đó vua hỏi bậc Trí giả muốn dùng cơm bên trong cung hay ở ngoài. Ngài nghĩ rằng vớiđám tùy tùng đông đảo như vậy, tốt nhất nên ăn uống bên ngoài cung điện, nên tâu trình vua theo mục đích ấy. Vua liền ban cho ngài một ngôi nhà hợp ý, cung cấp vật dụng đầy đủ cho một ngàn nhi đồng ăn ở tại chỗ, từ đó bậc Trí giả phụng sự vua.

  1. VIÊN BẢO NGỌC.

Lúc bấy giờ vua lại muốn thử tài ngài. Thời đó có một viên bảo châu nằm trong tổ quạ trên cây cọ dừa (tàla) bên bờ hồ cạnh Nam môn và ảnh của viên bảo ngọc thường phản chiếu trên mặt hồ. Dân chúng trình vua rằng có viên bảo ngọc dưới hồ. Vua liền triệu Senaka đến bảo:

– Dân chúng bảo có viên bảo ngọc dưới hồ, làm thế nào để lấy lên được?

Senaka tâu:

– Cách tốt nhất là tát cạn nước.

– Vua bảo ông thi hành, ông liền tập họp một đám người tát nước và lấy bùn ra, rồi đào đất dưới đáy hồ, nhưng chẳng thấy ngọc đâu. Thế mà khi hồ đầy nước lại, ánh ngọc vẫn phản chiếu trên hồ như cũ. Senaka lại cho tát nước nữa và cũng không tìm thấy ngọc. Sau đó vua triệu bậc Trí giả và bảo:

– Dân chúng có thấy viên ngọc trong hồ, Senaka đã cho tát nước bùn ra và đào đất lên mà chẳng thấy ngọc đâu, nhưng vừa khi nước hồ đầy thì ngọc lại hiện lên, hiền nhi có thể lấy ngọc lên chăng?

– Tâu phụ vương, chuyện đó không khó gì, thần nhi xin đi lấy ngọc về dâng phụ vương.

Vua rất đẹp ý khi nghe ngài hứa, rồi cùng một đám đông cận thần theo hầu, vua ngự ra hồ, sẵn sàng chứng kiến oai lực đại trí của bậc Hiền giả. Bậc Đại Sĩ đứng trên hồ quan sát, ngài nhận xét rằng ngọc không ở trong hồ, mà phải ở trên cây, nên ngài nói to:

– Tâu phụ vương, ngọc không có trong hồ.

– Sao không thấy ngọc dưới nước chăng?

Thế là ngài bảo đem đến một thùng nước và nói:

– Tâu phụ vương, đây chẳng phải là ta thấy ngọc trong thùng nước và cả trong hồ sao?

– Thế thì ngọc ở đâu?

– Tâu phụ vương, đây chỉ là ánh ngọc phản chiếu trong hồ nước lẫn trong thùng, còn ngọc ở trong tổ quạ ở trên cây cọ dừa kia. Xin phụ vương cho người lên lấy ngọc và đem xuống đây.

Vua y lời, cho người đem ngọc xuống và bậc Hiền trí đặt viên ngọc vào tay vua. Mọi người tán dương bậc Trí giả và nhạo báng Senaka:

– Đây là viên bảo ngọc nằm trong tổ quạ trên cây, thế mà Senaka lại bảo đám người lực lưỡng đào hồ. Chắc chắn một bậc Trí giả phải như Mahosadha này.

Họ cứ ca ngợi bậc Đại Sĩ như vậy, còn vua rất đẹp ý, ban cho ngài xâu chuỗi ngọc mà vua đang đeo trên cổ và ban đủ chuỗi ngọc cho cả ngàn nhi đồng kia, xong lại cho phép từ nay ngài và đám tùy tùng của ngài vào chầu vua được miễn lễ.

  1. CON TẮC KÈ.

Một ngày kia, vua cùng bậc Trí giả bước vào ngự viên, thì một con tắc kè ở trên chiếc cổng vòng cung trông thấy vua, liền bò xuống, nằm sát đất. Vua thấy vậy, hỏi:

– Này bậc Trí giả, nó làm gì vậy?

– Tâu Đại vương, nó tỏ lòng cung kính đối với phụ vương.

– Nếu vậy ta chẳng nên bỏ qua việc nó cung kính mà không thưởng nó, hãy cho nó thật nhiều tặng vật.

– Tâu phụ vương, tặng vật chẳng ích lợi gì cho nó, cái nó cần là thức ăn.

– Vậy nó ăn gì?

– Tâu phụ vương, thịt.

– Nó cần ăn độ bao nhiêu?

– Chừng một xu, tâu phụ vương.

– Chỉ đáng một xu thì chẳng xứng quà thưởng của vua ban-Vua bảo.

Rồi ngài truyền cho một người đến, ban lệnh đem cho con tắc kè đều đều mỗi ngày năm xu thịt. Việc này được thi hành sau đó. Nhưng vào ngày trai giới, không có sát sinh, người đó không kiếm ra thịt, nên gã đục một lỗ qua đồng hào nửa, buộc một sợi dây vào cổ con tắc kè. Việc ấy làm con tắc kè sinh kiêu mạn.

Một ngày kia, vua lại vào ngự viên, nhưng con tắc kè thấy vua đến gần, mà nó đang kiêu mạn vì cho rằng nó cũng nhiều của cải như vua, nó nghĩ thầm: “Đại vương giàu có lắm, này Đại vương Videha, nhưng ta đây cũng vậy”. Thế là nó không bò xuống, mà cứ nằm yên trên cổng vòng cung gõ nhịp chiếc đầu. Vua thấy vậy liền hỏi:

– Này bậc Trí giả, hôm nay con vật kia không xuống đây như lệ thường, cớ sao vậy?

Rồi ngài ngâm vần kệ đầu tiên:

  1. Tắc kè thuở trước chẳng bò lên,
    Khung cửa vòng cung, bậc Trí hiền,
    Hãy giải thích ngay cho trẫm rõ,
    Tắc kè sao cứng cổ như trên?

Bậc Trí giả nhận thấy rằng có lẽ gã kia không kiếm đâu ra thịt vào ngày trai giới cấm sát sinh, nên con vật này ắt sinh lòng kiêu mạn vì đồng tiền buộc vào cổ nó; bởi thế ngài ngâm kệ này:

  1. Con tắc kè kia được thưởng cho,
    Món tiền nó chẳng có bao giờ,
    Nửa hào, nên nó không tôn trọng,
    Đại đế Vi-đề Mi-thi-la.

Vua truyền triệu gã kia đến hỏi chuyện và gã kể mọi sự đúng như vậy. Vua lại càng đẹp ý về bậc Trí giả hơn nữa vì hình như ngài biết được ý con tắc kè mà chẳng cần hỏi han gì cả, thật tài trí chẳng khác nào trí tuệ tối thượng của một vị Phật. Vì thế vua cho phép ngài thu lợi tức cả bốn cửa thành. Vua giận con tắc kè, muốn gián đoạn việc ban thưởng cho nó, nhưng bậc Trí giả bảo đó là việc không nên làm và khuyên can vua.

  1. ĐẠI PHƯỚC VÀ BẤT HẠNH

Thời bấy giờ một thiếu sinh tên gọi Pinguttara ở thành Mithilà đến Takkasilà học với một danh sư. Sau thời kỳ tinh cần học tập đã viên mãn, chàng tạ từ sư phụ ra về.

Nhưng trong gia tộc của danh sư này có tục lệ: nếu con gái đến tuổi lấy chồng, thì phải gả cho môn đồ lớn tuổi nhất. Vị danh sư này có cô con gái đẹp như tiên, do đó bảo môn đồ:

– Này đệ tử, ta sẽ gả con gái ta cho đệ tử, vậy con hãy đem con ta cùng đi về với con.

Lúc ấy cậu thiếu sinh thật là kẻ bất hạnh, thiếu may mắn, còn cô gái kia thật có phước lớn. Khi chàng ta thấy nàng, chàng chẳng hề quan tâm đến nàng, nhưng nghe thầy bảo vậy, chàng cũng đồng ý vì không muốn xem thường lời dạy của thầy, thế là vị Bà-la-môn này gả con gái cho chàng. Đêm động phòng hoa chúc, chàng lên giường nằm; nàng vừa mới leo lên giường thì chàng càu nhàu leo xuống đất, nàng cũng bước xuống nằm cạnh chàng, chàng liền đứng dậy leo lên giường lại, nàng cũng bước lên giường, chàng lại bước xuống, vì kẻ bất hạnh không đi đôi với người đại phước được. Thế là cô gái nằm trên giường, cậu trai nằm dưới đất. Cứ thế bảy ngày trôi qua.

Sau đó chàng trai tạ từ sư phụ và ra đi với vợ chàng. Trên đường đi chẳng có gì hơn ngoài vài câu chuyện trao đổi giữa hai vợ chồng. Cả hai đều buồn khổ đi đến thành Mithilà. Không xa thành mấy, Pinguttara thấy một cây sung đầy trái và đang lúc đói bụng, chàng trèo lên cây hái vài quả ăn. Cô gái cũng đói bụng đến gốc cây gọi lên:

– Xin chàng ném xuống cho thiếp vài quả.

– Ô hay, chàng bảo, nàng không có tay chân sao? Trèo lên mà tự hái lấy.

Nàng đành trèo lên hái sung ăn. Chàng vừa thấy nàng trèo lên, liền nhanh chân trèo xuống, chất gai góc quanh gốc cây và bỏ đi, tự nhủ thầm: “Nay ta đã thoát được người đàn bà tồi tệ này rồi”. Nàng không leo xuống được đành ngồi trên cây.

Lúc bấy giờ vua đang vui chơi trong rừng đến chiều, rồi ngự lên vương tượng trở về thành. Khi thấy nàng, vua đem lòng yêu ngay, vì thế vua cho người hỏi nàng có chồng chưa, nàng đáp:

– Tiện thiếp đã có chồng do gia đình gả cho, nhưng người ấy đã ra đi và bỏ tiện thiếp lại đây một mình.

Vị cận thần trình chuyện với vua, ngài bảo:

– Thật là bảo vật đưa về tay vua.

– Nàng liền được mang xuống, đặt lên voi chở về triều. Tại đây nàng được rảy nước phong chức hoàng hậu. Nàng được vua rất sủng ái và được mệnh danh là Udumbarà hay “Hoàng hậu cây Sung” vì vua thấy nàng trên cây sung lần đầu tiên.

Một ngày nọ, dân chúng ở cạnh cổng kinh thành phải dọn đường cho vua ngự du vào hoa viên và Pinguttara phải đi kiếm ăn nên cũng xắn áo quần lên và dùng cái cào dọn đường. Trước khi đường sá dọn dẹp xong, vua cùng hoàng hậu Udumbarà đã ngự đến trên vương xa, hoàng hậu trông thấy kẻ khốn khổ ấy đang dọn đường, không giữ được vẻ đắc thắng, nàng nhìn chàng ta mỉm cười. Vua nổi giận khi nàng mỉm cười, liền hỏi tại sao.

Nàng đáp:

– Tâu Đại vương, kẻ dọn đường kia là chồng cũ của thần thiếp, người đã bắt thần thiếp trèo lên cây sung rồi chất gai quanh gốc cây xong lại bỏ đi, bây giờ gặp lại gã, thần thiếp không sao khỏi thấy đắc thắng về số phận may mắn của thần thiếp và mỉm cười khi gặp gã đằng kia.

Vua bảo:

– Ngươi nói láo, ngươi cười với một kẻ khác, ta sẽ giết ngươi.

Và vua rút kiếm ra. Nàng hoảng hốt kêu lên:

– Tâu Đại vương, xin Đại vương vấn ý các vị hiền thần của Đại vương.

Vua hỏi Senaka xem ông có tin lời nàng hay chăng.

Ông đáp:

– Tâu Đại vương, thần không tin được vì ai có thể bỏ một mỹ nhân đẹp thế kia khi đã chiếm được nàng?

Nàng nghe vậy càng run sợ hơn nữa. Nhưng vua nghĩ thầm: “Senaka làm sao biết được chuyện này, để ta hỏi bậc Hiền trí xem sao”, rồi vua ngâm kệ hỏi ngài:

  1. Một nữ nhi đức hạnh, diễm kiều,
    Nhưng nam nhân ấy chẳng thương yêu,
    Hiền khanh có thể tin không chứ?
    Trí giả Sa-dha hãy nói nào.

Bậc Trí giả đáp:

  1. Thần vẫn tin điều ấy, Đại vương,
    Kẻ kia thật bất hạnh bần cùng,
    Người nhiều ân phước và vô phước,
    Chẳng có bao giờ kết bạn chung.

Những lời này làm dịu cơn thịnh nộ của vua, lòng ngài bình tĩnh lại và rất hân hoan ngài bảo:

– Này bậc Trí giả, nếu khanh không ở đây, ắt hẳn trẫm đã nghe lời kẻ ngu si Senaka kia và mất nữ báu này, khanh đã cứu hoàng hậu cho trẫm.

Vua liền ban thưởng bậc Trí giả một ngàn đồng tiền. Rồi hoàng hậu kính cẩn tâu với vua:

– Tâu Đại vương, chính nhờ bậc Hiền trí này mà thần thiếp được cứu sống. Vậy xin Đại vương ban cho thần thiếp một điều ước: Đó là cho phép thần thiếp đối xử với bậc Trí giả như một tiểu đệ.

– Được, này ái khanh, trẫm chấp thuận ban điều ước ấy.

– Tâu Đại vương, nếu được như vậy, bắt đầu từ hôm nay thần thiếp không thể dùng cao lương mỹ vị mà không có tiểu đệ, từ nay đúng mùa hay trái mùa thiếp điều mở cửa cung đem bánh trái cho tiểu đệ, thần thiếp tha thiết ước ao như vậy.

– Ái khanh cũng được toại nguyện nữa-Vua bảo.

Đến đây chấm dứt chuyện Đại phước và Bất hạnh.

  1. CON DÊ VÀ CON CHÓ.

Một ngày kia, sau bữa điểm tâm, vua dạo chơi trên lối đi bộ chợt thấy qua bậc cửa một con dê và một con chó đang đánh bạn với nhau. Lúc bấy giờ con dê có thói quen ăn cỏ ném cho bầy voi cạnh chuồng voi trước khi voi ăn, cho nên những người quản tượng đánh đuổi con dê đi. Trong khi nó vừa chạy vừa kêu be be thì một người rượt theo lấy gậy đánh vào lưng nó. Con dê oằn lưng lại vì đau đớn, chạy đến nằm cạnh trường thành của hoàng cung, trên chiếc ghế dài.

Lúc bấy giờ có một con chó đã ăn hết xương, da và vật thừa trong nhà bếp của hoàng cung, cùng ngày hôm ấy, người đầu bếp đã nấu nướng thức ăn xong, để vào dĩa hẳn hoi. Trong khi gã đang lau mồ hôi trên mình thì con chó nghe mùi thơm của cá thịt, chịu không nổi, liền vào bếp giở nắp đậy ra và bắt đầu ăn thịt. Những người đầu bếp nghe tiếng bát đĩa rổn rảng liền chạy vào thấy chó đang ăn thịt, gã đóng cửa lại, lấy đá và gậy đánh nó. Con chó thả miếng thịt vừa chạy vừa la ẳng ẳng, người đầu bếp thấy nó chạy, còn rượt theo đánh một gậy đích đáng vào lưng. Con chó cong lưng lại co rút một chân lên, chạy đến nơi con dê đang nằm. Con dê hỏi:

– Này bạn, tại sao bạn cong lưng lại, bạn đau bụng chăng?

Con chó đáp:

– Bạn cũng đang cong lưng lại đấy chứ, bạn cũng đau bụng chăng?

Con chó liền kể chuyện của nó xong, con dê hỏi thêm:

– Thế bạn có vào nhà bếp được nữa không?

– Không, chuyện này cũng đáng đời ta lắm rồi, thế bạn có đến chuồng voi được nữa chăng?

– Cũng chẳng hơn gì bạn, chuyện đó cũng đáng đời ta lắm rồi.

– Thế rồi chúng bắt đầu băn khoăn không biết làm cách nào để sống đây. Dê nói:

– Hay là ta cùng chung sống được chăng? Tôi có ý kiến này.

– Xin cho ta biết ngay.

– Này bạn, bạn hãy đi đến chuồng voi, những người quản tượng sẽ không để ý đến bạn vì họ nghĩ rằng chó không ăn cỏ đâu, thế là bạn mang cỏ về cho tôi. Tôi sẽ đến nhà bếp và người đầu bếp sẽ không chú ý đến tôi vì nghĩ rằng tôi không ăn cá thịt được đâu. Thế là tôi sẽ đem thịt về cho bạn.

– Thật là diệu kế ! Con chó đáp.

Rồi chúng giao hẹn: Con chó đến chuồng voi tha về một nắm cỏ trong mồm và đặt cạnh trường thành và con dê vào nhà bếp mang ra một miếng thịt lớn đặt vào cùng chỗ ấy, con chóăn thịt và con dê ăn cỏ. Theo cách nầy chúng sống chung hòa hợp cạnh bức trường thành .

Khi vua thấy tình bằng hữu của chúng, ngài suy nghĩ: “Trước kia ta chưa từng thấy một việc kỳ lạ như thế: Hai kẻ thù truyền kiếp lại sống chung đầy thân tình với nhau. Ta sẽ đưa câu chuyện này thành một vấn đề bàn cãi cho các hiền thần của ta. Nếu họ không hiểu nổi, ta sẽ đuổi họ ra khỏi triều, còn nếu ai đoán được, ta sẽ tuyên dương là bậc Trí giả vô thượng và sẽ tỏ lòng tôn kính vị ấy. Hiện nay không có việc, nhưng ngày mai, khi họ đến chầu ta, ta sẽ đem vấn đề ra hỏi”.

Thế là hôm sau, khi các hiền thần vào chầu vua, ngài liền đặt vấn đề qua vần kệ:

  1. Hai kẻ thù theo lẽ tự nhiên,
    Chưa từng bảy bước đứng kề bên,
    Trở thành bạn thiết không rời nữa,
    Duyên cớ là đâu? Các bậc hiền!

Sau đó, vua ngâm thêm một vần kệ:

  1. Nếu không giải đáp trước trưa nay,
    Trẫm sẽ đuổi luôn hết cả bầy,
    Trẫm không cần những người ngu nữa,
    Vậy hãy tìm lời giải đáp ngay.

Lúc bấy giờ Senaka ngồi trên chiếc cẩm đôn hàng đầu, bậc Trí giả ngồi cẩm đôn cuối cùng, ngài tự nhủ thầm: Đức vua chậm hiểu không tự nghĩ ra cách giải quyết vấn đề này, chắc ngài phải thấy một chuyện gì đấy. Nếu ta được gia hạn một ngày, ta sẽ giải quyết xong việc này. Senaka chắc chắn sẽ tìm kế hoãn lại một ngày. Còn bốn vị kia chẳng thấy việc gì cả, chẳng khác nào ở trong phòng tối, Senaka nhìn Bồ-tát xem ngài sẽ làm gì, Bồ-tát liền nhìn lại Senaka. Nhìn vẻ mặt bậc Trí giả Mahosadha, Senaka hiểu được tâm trạng ngài, ông thấy rằng ngay cả bậc Trí giả cũng không hiểu vấn đề, ngài chưa giải đáp được hôm nay mà cần gia hạn thêm một ngày nữa, ngài sẽ hoàn thành việc giao ước này. Thế là ông cười to để trấn an và nói:

– Tâu Đại vương, Đại vương sẽ đuổi chúng thần nếu chúng thần không giải đáp được vấn đề này chăng?

– Chính phải, hiền khanh.

– Đại vương biết đây là một vấn đề rắc rối, chúng thần không thể giải đáp nổi, vậy xin Đại vương đợi một thời gian. Một vấn đề rắc rối không thể giải quyết giữa đám đông. Xin cho chúng thần suy nghĩ thật kỹ rồi sẽ giải đáp sau. Xin hãy cho chúng thần một cơ hội.

Ông nói vậy vì tin tưởng bậc Đại Sĩ, rồi ngâm hai vần kệ:

  1. Giữa đám đông người tụ tập trung,
    Thật ồn ào quá, trí mông lung,
    Không sao tập hợp tư duy được,
    Để giải đáp ngay, tâu Đại vương.
  2. Nhưng hễ khi nào được độc cư,
    Bình tâm tĩnh trí để suy tư,
    Vấn đề xem xét cho tường tận,
    Sẽ giải đáp ngay, hãy đợi chờ.

Mặc dù nổi giận khi nghe lời này, vua vẫn đáp lại giọng đe dọa:

– Được lắm, các khanh cứ suy nghĩ cho kỹ rồi trả lời trẫm, nếu không được, trẫm sẽ đuổi hết đi.

Bốn vị hiền thần rời triều ra về, Senaka bảo ba vị kia:

– Chư hiền, đức vua đặt một vấn đề gay go, nếu chúng ta không giải quyết nổi thì thật đại họa cho chúng ta. Vì vậy ta hãy ăn uống no say rồi suy nghĩ cho kỹ.

Sau đó mỗi vị về tư dinh, còn bậc Trí giả đi tìm hoàng hậu Udumbarà và thưa bà:

– Tâu hoàng hậu, hôm qua và hôm nay thánh thượng thường ở đâu?

– Này bậc Trí giả, ngài dạo chơi trên lối đi và nhìn ra cửa sổ.

Bồ-tát liền nghĩ: “Ồ, thế thì phải thấy chuyện gì đó”. Bồ-tát liền đến nơi ấy nhìn ra và thấy việc làm của con chó và con dê. “Vấn đề của đức vua đã được giải quyết rồi”, ngài kết luận và đi về nhà.

Ba vị hiền thần kia chẳng tìm thấy gì liền đi đến Senaka, ông hỏi: Các vị đã tìm ra vấn đề ấy chưa?

– Thưa ngài, chưa.

– Nếu vậy, đức vua sẽ đuổi các vị, tính sao đây?

– Còn ngài đã nghĩ ra chưa?

– Cũng chưa nghĩ ra.

– Ngài còn chưa tìm ra, huống hồ chúng tôi? Chúng ta đã rống lên như sư tử trước mặt đức vua là xin để chúng ta suy nghĩ rồi sẽ giải quyết; nay ta làm không được ắt vua sẽ tức giận.Vậy ta phải làm thế nào đây?

– Vấn đề này chúng ta giải quyết không được đâu. Chắc chắn bậc Trí giả đã giải quyết cả trăm cách rồi.

– Thế thì ta đi đến ngài xem sao.

Cả bốn vị kéo nhau đến trước cửa nhà Bồ-tát, nhờ thông báo việc họ đến gặp ngài, rồi bước vào kính cẩn chào ngài xong, họ đứng sang một bên hỏi bậc Đại Sĩ:

– Thưa ngài, ngài đã nhìn ra vấn đề ấy chưa?

– Nếu ta chưa nghĩ ra thì còn ai nghĩ ra đó chứ. Dĩ nhiên ta đã nghĩ ra rồi.

– Vậy xin ngài cho chúng tôi biết với.

Ngài nghĩ thầm: “Nếu ta không nói cho họ biết, đức vua sẽ đuổi họ và ban thưởng cho ta bảy báu vật nhưng thôi, chớ để những tên ngu si kia tàn đời, ta sẽ cho họ biết”. Rồi ngài bảo họ ngồi xuống ghế thấp, đưa tay lên chào ngài, sau đó, không nói thẳng cho họ biết những gì vua đã thấy tận mắt, ngài chỉ làm bốn vần kệ, dạy cho mỗi vị một vần bằng tiếng Pàli để đọc lên trình vua khi được hỏi đến, xong cho họ ra về.

Ngày hôm sau khi họ vào chầu vua, rồi ngồi xuống chỗ được vua cho phép, vua liền hỏi Senaka:

– Hiền khanh đã giải đáp vấn đề được chưa, Senaka?

– Tâu Đại vương, nếu thần không giải đáp được thì còn ai nữa chứ?

Vậy nói cho trẫm biết .

– Xin Đại vương nghe đây.

Rồi vị này đọc bài kệ đã học được:

  1. Bọn hành khất trẻ, các ông hoàng,
    Rất thích thịt dê đực ngọt ngon,
    Thịt chó, họ đều không thọ dụng,
    Nhưng dê- chó giữ mối thân bằng.

Mặc dù Senaka đọc kệ, ông vẫn chẳng hiểu ý nghĩ gì, còn phần vua lại hiểu, vì ngài đã chứng kiến sự việc ấy. Ngài nghĩ: “Senaka đã tìm ra rồi”. Ngài liền quay sang Pukkusa và hỏi ông ta:

– Tại sao thế tâu Đại vương, tiểu thần không phải là người có trí chăng?

Pukkusa hỏi vua, rồi đọc bài kệ đã học được:

  1. Họ lấy da dê phía núi rừng,
    Phủ che ngựa quý ở trên lưng,
    Còn da của chó không dùng được,
    Nhưng chó dê cùng kết bạn thân.

Ông này cũng chẳng hiểu chuyện gì, nhưng vua tưởng ông hiểu vì chính ngài đã chứng kiến sự việc. Rồi ngài lại hỏi Kàvinda và ông cũng đọc vần kệ:

  1. Cặp sừng cong xoắn, chú dê rừng,
    Nhưng chó lại không có cặp sừng,
    Một con ăn cỏ, con ăn thịt,
    Tuy thế, chó, dê, kết bạn thân.

“Vị này cũng tìm ra rồi”. Vua nghĩ thầm, rồi hỏi đến Devinda, ông ta cũng như các vị kia, đọc lên bài kệ đã học được:

  1. Cừu dêăn cỏ, lá cây luôn,
    Cỏ, lá thì con chó chẳng ăn,
    Chó thích ăn mèo hay thịt thỏ,
    Nhưng dê- chó giữ mối thân bằng.

Kế đó vua hỏi bậc Trí giả.

– Này vương nhi, con có hiểu vấn đề này chăng?

– Tâu Đại vương, còn ai khác nữa hiểu được nó từ địa ngục Avìci (A-tỳ hay vô gián) đến từng trời Bhavagga (Hữu đảnh), từ địa ngục thấp nhất đến vùng trời cao nhất?

– Vậy thì hãy nói cho trẫm.

– Xin phụ vương nghe đây.

Rồi ngài nói rõ sự hiểu biết vấn đề của ngài qua hai bài kệ này:

13-14. Con dê cao tám tất dùng chân,
Tám móng, không ai thấy, vội mang,
Món thịt về cho con chó ấy,
Chó đem cỏ đến chú dê rừng.
Vi-đề-ha, chúa toàn dân chúng,
Đứng tại thượng lầu tận mắt trông,
Việc lấy thức ăn trao đổi ấy,
Giữa dê, chó kết mối thân bằng.

Vua không hiểu các vị kia đã biết câu chuyện nhờ Bồ-tát, nên rất hoan hỷ cho rằng cả năm vị đều tìm ra câu giải đáp vấn đề nhờ tài trí riêng của mình, và ngài cũng ngâm kệ:

  1. Trẫm có các bậc hiền giả tại triều
    Thật là ích lợi biết bao nhiêu,
    Vấn đề tế nhị và uyên áo,
    Họ thấu triệt, lời lẽ tối ưu.

Rồi ngài bảo họ kẻ có công sẽ được đền đáp xứng đáng. Và ngài ân thưởng qua câu kệ:

  1. Cứ mỗi hiền khanh, trẫm thưởng ban,
    Một xe, la cái, một ngôi làng,
    Giàu sang thượng hạng cho người trí,
    Trẫm thích thú lời lẽ ngọc vàng !

Rồi ngài ban thưởng tất cả các thứ ấy.

Đến đây chấm dứt vấn đề con Dê trong Chương mười hai.

*

Nhưng hoàng hậu Cây Sung biết rõ các kẻ kia hiểu được vấn đề nhờ bậc Trí giả, bà nghĩ thầm: “Đức vua ban thưởng giống nhau cho cả năm vị, chẳng khác nào một kẻ không phân biệt được đậu nhỏ và đậu lớn, chắc chắn hiền đệ của ta phải được phần thưởng đặc biệt hơn”.

Rồi bà đến hỏi vua:

– Tâu Đại vương, ai đã giải đáp câu đố ấy cho Đại vương?

– Này ái khanh, cả năm hiền giả.

– Nhưng tâu Đại vương, nhờ ai mà bốn vị kia biết được?

– Ái khanh, trẫm không rõ.

– Tâu Đại vương, các vị kia biết gì? Chính bậc Trí giả muốn các vị ấy khỏi bị suy tàn vì ngài, nên cho họ biết vấn đề ấy. Thế mà Đại vương ban thưởng cho cả năm vị giống nhau. Như vậy không công bằng, Đại vương nên có phần thưởng đặc biệt cho bậc Trí giả.

Vua rất đẹp ý vì bậc Trí giả không tiết lộ chuyện các vị kia biết được nhờ ngài và muốn ân thưởng thật trọng hậu cho ngài, vua nghĩ: “Không hề gì. Ta sẽ hỏi con ta một vấn đề nữa, nếu con ta đáp trúng ta sẽ hậu thưởng”. Nghĩ vậy xong, vua đặt ra Vấn đề Giàu Nghèo.

  1. GIÀU VÀ NGHÈO.

Một ngày kia, khi năm bậc hiền thần vào chầu vua và khi họ đã an tọa, vua hỏi:

– Senaka, ta sẽ hỏi hiền khanh một chuyện.

– Tâu Đại vương, xin cứ hỏi.

Vua liền đọc vần kệ đầu trong Vấn đề Giàu-Nghèo:

  1. Có trí khôn nhưng thiếu bạc vàng,
    Hoặc giàu tiền lại kém khôn ngoan,
    Se-na-ka, trẫm hỏi khanh nhé:
    Bậc trí gọi ai tốt đẹp hơn?

Lúc bấy giờ vấn đề này được truyền lại từ đời này sang đời khác trong gia tộc Senaka, nên ôngđáp ngay:

  1. Quả thật, kẻ ngu hoặc trí nhân,
    Vô văn phàm tục, hoặc đa văn,
    Đều hầu hạ những người giàu có,
    Dù họ cao sang hoặc hạ tầng,
    Nhìn thấy điều này, thần mới nói:
    Trí nhân thua kém kẻ giàu sang.

Vua nghe đáp xong không nói gì thêm ba vị kia mà nói với bậc Trí giả Mahosadha ngồi bên cạnh :

  1. Ta cũng hỏi con, Đại trí nhân,
    Bậc tinh thông vạn pháp trên trần:
    Kẻ ngu lắm của, người khôn khó,
    Bậc trí gọi ai tốt bội phần?

Bậc Đại Sĩ đáp:

– Xin Đại vương nghe đây:

  1. Người ngu phạm tội, nghĩ suy rằng:
    “Trên cõi đời, ta thắng thế hơn”,
    Họ thấy đời này, không cõi kế,
    Nên mang tai họa cả hai đường.
    Điều này con thấy, nên con nói:
    Bậc trí hơn xa trọc phú đần.

Nghe nói vậy, vua nhìn Senaka và nói:

– Này hiền khanh, có thấy Mahosadha bảo bậc Trí nhân là cao hơn cả đấy chăng?

Senaka đáp:

– Tâu Đại vương, Mahosadha chỉ là một trẻ thơ, miệng còn hôi sữa, đã biết gì?

Và ông ngâm kệ:

  1. Kiến thức không đem lại bạc vàng,
    Cũng không gia thế hoặc dung nhan,
    Hãy nhìn ngốc tử Go-ri ấy,
    Đang hưởng vinh hoa, đại phú cường,
    Vì Đại vận chìu người hạ tiện.
    Điều này thần thấy, mới thưa rằng:
    Bậc hiền trí chịu phần hèn mọn,
    Còn kẻ giàu tiền thắng thế hơn.

Nghe vậy, vua bảo:

– Này vương nhi Mahosadha, bây giờ con nghĩ sao?

Ngài đáp:

– Tâu phụ vương, Senaka có biết gì? Lão chỉ như con quạ thấy nơi nào có thóc vãi, hay như con chó cố liếm cho hết sữa, chỉ thấy mình mà không thấy chiếc gậy đang sẵn sàng giáng xuống đầu. Xin phụ vương hãy nghe đây:

  1. Một người tiểu trí hóa mê man.
    Bị nhiễm độc khi hưởng bạc vàng:
    Nếu gặp tai ương, thành ngớ ngẩn,
    Rủi may số phận đến không lường,
    Nó vùng như cá phơi ngoài nắng,
    Khi thấy điều trên, trẻ nói rằng:
    Người trí hơn xa người có của,
    Giàu tiền nhưng trí óc ngu đần.

– Này Đại Sư, thế thì sao?

Vua bảo khi nghe ngài nói vậy, Senaka liền đáp:

– Tâu Đại vương, cậu ấy nào biết gì? Chẳng nói gì đến người, mà ngay cả cây tốt tươi, đầy quả ngọt, chim chóc cũng bay đến đậu.

Rồi ông ngâm kệ:

  1. Trong rừng, chim chóc tự mười phương,
    Tụ tập trên cây có trái ngon,
    Cũng vậy, người nhiều tiền lắm của,
    Đám đông hám lợi đến quây quần.
    Thấy vầy, thần nói: người hiền trí,
    Hèn kém, kẻ giàu thắng thế hơn.

– Này vương nhi, bây giờ con nghĩ sao? Vua hỏi.

Bậc Trí giả đáp:

– Lão bụng bự ấy nào có biết gì? Xin phụ vương nghe đây.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Kẻ ngu quyền thế chẳng hiền lương,
    Dùng bạo lực khi chiếm bạc vàng,
    Nó rống thật to tùy ý thích,
    Quỷ nhân kéo nó xuống âm cung!
    Thấy điều này, tiểu nhi xin nói:
    Bậc trí hơn xa trọc phú đần.

Vua lại bảo:

– Này Senaka?

Senaka liền đáp:

  1. Mọi dòng nước đổ xuống sông Hằng,
    Đều mất tánh danh với giống dòng,
    Đổ xuống biển, sông Hằng cũng sẽ,
    Không còn phân biệt được thành phần.
    Vậy đời phục vụ người giàu của;
    Nhìn thấy điều trên, thần nói rằng:
    Người có trí chịu phần thấp kém,
    Còn người giàu của chiếm phần hơn.

Vua lại bảo:

– Này bậc Trí giả nghĩ sao?

Ngài liền đáp:

– Xin phụ vương nghe đây.

Rồi ngài ngâm vần kệ:

26-27. Biển cả, người kia nói, lệ thường,
Muôn sông đổ xuống, đập không ngừng,
Vào bờ, nhưng chẳng bao giờ vượt,
Bờ nọ, dù hùng vĩ đại dương.
Cũng vậy, lời người ngu nhảm nhí,
Phồn vinh không thể vượt hiền nhân,
Thấy điều này, tiểu nhi xin nói:
Người trí hơn xa trọc phú đần.

– Khanh nghĩ sao? Senaka? Vua hỏi.

– Xin Đại vương nghe đây.

Ông đáp và ngâm vần kệ:

  1. Người giàu ở địa vị cao sang,
    Có thể thiếu phòng hộ bản thân,
    Nhưng nếu nói gì cùng kẻ khác,
    Lời kia giá trị giữa nhân quần.
    Trí khôn không thể gây uy tín,
    Cho kẻ nào không có bạc vàng.
    Thấy vầy thần nói: người hiền trí,
    Thấp kém, người giàu thắng thế hơn.

– Con nghĩ sao? Vua hỏi.

– Tâu Đại vương, xin nghe đây. Kẻ ngu si Senaka ấy nào có biết gì?

Rồi ngài ngâm vần kệ:

  1. Vì kẻ khác hay chính bản thân,
    Kẻ ngu thường chẳng nói chân ngôn,
    Chịu ô nhục giữa nơi quần chúng,
    Đời kế nó rơi cảnh khổ buồn.
    Vì thấy điều này, con trẻ nói:
    Trí nhân hơn trọc phú ngu đần.

Sau đó Senaka lại ngâm vần kệ:

  1. Cho dù người Đại trí khôn ngoan,
    Thiếu gạo thóc, lâm cảnh khốn nàn,
    Nếu có nói điều gì phải trái,
    Cũng không giá trị giữa thân nhân,
    Phồn vinh không đến nhờ tri kiến.
    Nhìn thấy điều trên, thần nói rằng:
    Người trí phải chịu phần thấp kém,
    Còn người giàu của thắng phần hơn.

Vua lại hỏi:

– Vương nhi nói sao về việc này?

Bậc trí đáp:

– Senaka nào có biết gì? Lão chỉ nhìn đời này, chứ không thấy đời sau.

Và ngài ngâm vần kệ:

  1. Chẳng vì mình, cũng chẳng vì người,
    Bậc Đại trí nhân phải dối lời,
    Người được tôn sùng trong hội chúng,
    Đời sau hưởng hạnh phúc an vui.
    Thấy điều này trẻ thơ xin nói:
    Bậc trí hơn người trọc phú thôi.

Sau đó Senaka lại ngâm vần kệ:

  1. Voi, ngựa, bò, vòng ngọc, nữ nhân,
    Thấy nhiều trong các hộ giàu sang,
    Để dành cho các người giàu hưởng,
    Mà chẳng cần uy lực thánh thần,
    Nhìn thấy điều này, thần dám nói:
    Bậc hiền thấp kém, phú gia hơn.

Bậc trí giả đáp:

– Lão ấy nào có biết gì?

Rồi ngài ngâm kệ, tiếp tục giải thích vấn đề:

  1. Người ngu hành động thiếu suy tư,
    Nói những lời ngu xuẩn, dại rồ;
    Vô trí bị quăng vì Đại vận,
    Như con rắn bỏ lớp da khô.
    Thấy điều này, trẻ thơ xin nói:
    Bậc trí hơn xa phú hộ ngu.

– Khanh nghĩ sao? Vua hỏi.

Senaka liền đáp:

– Tâu Đại vương, trẻ thơ này nào biết gì, xin Đại vương nghe đây !

Rồi lão ngâm kệ, vì tưởng rằng sẽ làm cho bậc Trí giả không nói thêm gì được nữa:

  1. Năm trí nhân là bọn chúng thần,
    Thảy đều hầu cận đấng tôn quân,
    Hết lòng kính trọng ngài là chúa,
    Là chủ nhân ông của thứ dân.
    Như Đế Thích là vua vạn vật,
    Chính là chúa tể của thiên nhân.
    Thấy vầy thần nói: người hiền trí,
    Thấp kém, người giàu thắng thế hơn.

Khi vua nghe vậy, liền nghĩ thầm: “Điều ấy đã được Senaka nói thẳng ra, ta không biết con ta có bác bỏ được và nói gì thêm không đây” . Vì thế vua hỏi:

– Này, bậc Trí giả nghĩ sao đây?

Tuy nhiên lý luận này của Senaka không ai bác bỏ được, trừ Bồ-tát thế là bậc Đại Sĩ liền bác bỏ ngay, ngài đáp:

– Tâu phụ vương, kẻ ngu ngốc kia nào biết gì? Lão chỉ nhìn thấy mình mà không biết đến tính siêu việt của trí tuệ, xin Đại vương hãy nghe đây.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Người ngu nô lệ của người hiền,
    Khi vấn đề này phát khởi lên,
    Bậc trí giải đề khôn khéo lắm,
    Kẻ ngu rối trí tựa cuồng điên.
    Thấy điều này, trẻ thơ xin nói:
    Bậc trí hơn xa kẻ lắm tiền.

Bậc Đại Sĩ đưa ra lý luận này biểu lộ đại trí của ngài, chẳng khác nào ngài đào được cát vàng dưới chân núi Tu-di hay đem vầng trăng tròn sáng tỏ lên bầu trời.

– Này Senaka, nếu được thì khanh cứ đối đáp lại đi.

Nhưng cũng như kẻ đã dùng hết thóc gạo trong kho, Senaka ngồi yên, rầu rĩ, lòng phiền muộn không nói năng gì được nữa. Nếu ông tìm ra được một lý luận khác, chắc cả ngàn câu kệ nữa cũng chưa hết chuyện Tiền thân này, nhưng khi ông ấy không trả lời được nữa, bậc Đại Sĩ lại tiếp tục ngâm kệ tán thán trí tuệ, chẳng khác nào ngài để dòng hồng thủy tuôn tràn:

  1. Trí tuệ được sùng bởi thiện nhân,
    Bạc vàng được chuộng bởi người trần,
    Đắm say hưởng thụ bao tham dục.
    Tri kiến Phật-đà thật tuyệt luân;
    Vàng bạc chẳng bao giờ vượt quá
    Trí cao siêu việt, tấu vương quân.

Nghe xong vua rất hoan hỷ với cách giải đáp vấn đề của bậc Đại Sĩ, đến độ vua ban thưởng ngài vô số tài sản và ngâm kệ:

  1. Con đáp mọi câu hỏi của ta,
    Pháp Sư độc nhất, Ma-ho-sa,
    Ngàn bò cái, một voi, bò đực,
    Tuấn mã kéo mười cỗ đại xa,
    Mười sáu ngôi làng giàu đẹp nhất,
    Hân hoan ta tặng thưởng con thơ.

Đến đây chấm dứt Vấn đề “Giàu Nghèo” (Chương XX).

  1. CON ĐƯỜNG BÍ MẬT.

Từ ngày ấy, vinh quang của Bồ-tát thật lẫy lừng và hoàng hậu Udumbarà điều hành chu đáo mọi việc cho ngài.

Khi ngài được mười sáu tuổi, bà nghĩ thầm: “Tiểu đệ đã lớn, danh vọng thật lẫy lừng, vậy ta phải tìm nơi xe duyên cho tiểu đệ”. Bà liền tâu chuyện này với vua, và vua rất hài lòng:

– Tốt lắm, ái khanh, cứ nói chuyện cho vương nhi biết.

Bà nói với ngài chuyện ấy, ngài ưng thuận và bà nói:

– Vậy để ta tìm tân nương cho con.

Bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: “Ta sẽ chẳng bao giờ vừa ý cho ai chọn vợ cho ta, ta sẽ tự chọn lấy mà thôi”. Ngài liền đáp:

– Tâu hoàng hậu, khoan nói chuyện này với thánh thượng trong vài ngày nữa đã, xin để tiểu đệ tự đi tìm vợ cho hợp ý mình, rồi tiểu đệ sẽ tâu trình sau.

– Được rồi, em cứ làm như vậy.

Ngài từ giã hoàng hậu, đi về nhà thông báo cho các thân hữu. Rồi ngài tìm cách kiếm được bộ đồ nghèo của thợ may, một mình đi ra cửa Bắc, tiến vào Bắc thị trấn.

Lúc bấy giờ ở đó có một gia đình thương nhân cổ kính bị suy sụp, là gia đình của cô gái tên là Amarà (Bất tử) rất xinh đẹp, khôn ngoan, có đầy đủ mọi tướng tốt của phúc phận. Sáng sớm hôm ấy cô gái đi đến nơi cha nàng cày ruộng, để đem cháo nàng nấu cho cha, tình cờ nàng cũng đi trên con đường ấy. Khi bậc Đại Sĩ thấy nàng đi đến, ngài tự nhủ: “Một nữ nhân đủ mọi tướng tốt lành thay! Nếu nàng chưa có gia thất, nàng phải làm vợ ta”. Còn nàng khi vừa trông thấy ngài, cũng tự nhủ: “Nếu ta được chung sống với một nam nhân như vậy, ta có thể khôi phục cơ đồ sự nghiệp”.

Bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: “Ta không biết nàng có gia thất chưa, vậy ta sẽ hỏi nàng bằng cách ra dấu tay và nếu nàng thông minh, nàng sẽ hiểu”. Thế là đứng đằng xa, ngài nắm chặt tay lại. Nàng hiểu rằng ngài hỏi nàng có chồng chưa, liền xoe tay ra. Thế rồi ngài vội đi đến hỏi tên nàng. Nàng đáp:

– Tên thiếp là cái hiện nay không có, trước kia đã không có và sau này cũng sẽ không có được.

– Thưa nương tử, không có gì trên đời này bất tử cả, vậy chắc hẳn tên quý nương là Amarà, người Bất tử, phải chăng?

– Đúng vậy, thưa công tử.

– Nương tử đem cháo cho ai?

– Cho vị thần ngày xưa.

– Các thần ngày xưa là cha mẹ ta. Vậy chắc quý nương muốn nói đến quý phụ thân?

– Đúng vậy, thưa công tử.

– Quý thân phụ hiện đang làm gì?

– Người đang làm một thành hai.

Lúc bấy giờ làm một thành hai là cầy ruộng.

– Người đang cầy ruộng chăng, hỡi quý nương?

– Thưa công tử, phải.

– Thế ruộng người cày ở đâu?

– Ở nơi người ra đi nhưng không trở lại nữa.

– Nơi người ra đi không trở lại là nghĩa địa, vậy người đang cầy ruộng gần nghĩa địa?

– Đúng thế, thưa công tử.

– Quý nương có trở lại đây nữa chăng?

– Nếu nó đến thì thiếp không đến, còn nếu nó không đến thì thiếp sẽ đến, thưa công tử.

– Có lẽ quý thân phụ cày ruộng cạnh bờ sông, nên nếu nước dâng thì quý nương không trở lại được, còn nước không dâng thì quý nương sẽ trở lại, phải chăng?

Sau cuộc trò chuyện trao đổi này, nàng Amarà mời ngài uống nước cháo. Bậc Đại Sĩ nghĩ nếu từ chối thì khiếm nhã, nên ngài nhã nhặn xin nàng một ít. Khi nàng để bình nước cháo xuốngđất, ngài nghĩ thầm: “Nếu nàng mời ta mà không rửa cái hũ và cho ta nước rửa tay, ta sẽ từ giã nàng ra đi”.

Nhưng nàng lấy nước trong hũ đưa ngài rửa tay, rồi đặt chiếc hũ không xuống đất chứ không đưa ngài cầm, khuấy nước cháo trong bình xong, nàng đổ đầy vào hũ. Nhưng thấy rất ít gạo trong nước cháo, ngài bảo:

– Này quý nương, có ít gạo quá!

– Thưa công tử, trước đây chúng tôi không có nước.

– Quý nương muốn bảo là lúa đang mọc, quý nương không đưa nước vào đó chăng?

– Đúng vậy, thưa công tử.

Rồi nàng để lại một ít nước cháo cho cha, và mời Bồ-tát một ít. Ngài uống xong, súc miệng và hỏi:

– Thưa quý nương, ta muốn đến thăm nhà quý nương, xin quý nương làm ơn chỉ đường.

Nàng chỉ đường cho ngài bằng cách đọc bài kệ đã được đưa ra trong Chương Một:

  1. Nhờ món bánh và cháo nấu nhừ,
    Cùng cây song điệp trổ muôn hoa,
    Bàn tay thiếp để ăn và chỉ,
    Chẳng phải bàn tay thiếp bỏ qua,
    Đó chính là đường đi thị trấn,
    Con đường bí mật phải tìm ra.

Đến đây chấm dứt Vấn đề Con đường Bí mật.

  1. BẬC TRÍ GIẢ ĐI CƯỚI VỢ.

Ngài đến nhà nàng theo cách đã chỉ dẫn, mẹ Amarà thấy ngài, liền mời ngài ngồi:

– Ta muốn mời công tử dùng cháo, được chăng?

– Xin cám ơn hiền mẫu, hiền muội Amarà đã cho tiểu sinh ăn cháo rồi.

Bà mẹ liền nhận ra ngay là chắc hẳn ngài đến đây vì ái nữ của bà. Bậc Đại Sĩ thấy cảnh nghèo túng của họ, lại nói:

– Thưa hiền mẫu, tiểu sinh làm nghề thợ may, hiền mẫu cần may vá gì không?

– Thưa công tử, có chứ, nhưng không có tiền để trả công.

– Thưa hiền mẫu, không cần phải trả công, hiền mẫu cứ đem các thứ ra đây cho tiểu sinh may vá.

Bà liền đem áo quần cũ ra, Bồ-tát vá từng thứ, công việc của người có trí bao giờ cũng trôi chảy và ngài lại bảo bà:

– Hiền mẫu đi báo cho dân chúng ngoài đường biết nhé.

Bà liền thông báo khắp làng, chỉ một ngày nhờ công việc may vá, bậc Đại Sĩ kiếm được một ngàn đồng tiền. Bà lão nấu cơm trưa cho ngài ăn và buổi chiều bà hỏi cần nấu bao nhiêu nữa.

– Thưa hiền mẫu, nấu đủ cho mọi người trong nhà thôi.

Bà liền đi nấu cơm với cà ri và thêm các thứ gia vị vào.

Buổi xế chiều, Amarà từ khu rừng trở về nhà, mang theo một bó củi trên đầu và bó lá quanh hông. Nàng vứt củi xuống ở cửa trước và đi vào cửa sau. Cha nàng cũng về sau đó. Bậc Đại Sĩ ăn một bữa cơm thật ngon miệng; cô gái hầu cơm cha mẹ trước khi ăn, rồi rửa chân cho chamẹ cùng Bồ-tát. Ngài ở đó vài ngày thăm dò nàng. Rồi một ngày kia, để thử nàng, ngài bảo:

– Ái nương Amarà ơi, đem nửa đấu thóc ra làm cho ta một cái bánh, một nồi cháo và một nồi cơm.

Nàng bằng lòng ngay, đi sàng gạo sạch trấu, lấy hột lớn nấu cháo, hột vừa nấu cơm, hột nhỏ làm bánh, thêm gia vị cho đầy đủ. Nàng đem nấu cháo đã nêm gia vị mời bậc Đại Sĩ.

Ngài vừa ăn một miếng đã cảm thấy mùi thơm đặc biệt thấm qua cổ họng, tuy nhiên để thử nàng, ngài bảo:

– Quý nương ơi, nếu nàng không biết nấu, sao nàng lại làm hỏng gạo cơm của ta?

Rồi ngài nhổ cháo xuống đất, nhưng nàng không hề giận, chỉ trao bánh cho ngài và bảo:

– Nếu cháo không ngon, thì xin ăn bánh.

Các bánh kia ngài cũng nói như thế và từ chối món cơm, ngài bảo :

– Nếu nàng không biết nấu nướng sao lại phí phạm của cải ta?

Rồi như thể giận dữ lắm, ngài trộn cả ba thứ với nhau bôi khắp người nàng từ đầu đến chân, bảo nàng ngồi xuống bậc cửa.

– Hay lắm, thưa công tử.

Nàng vâng lời ngồi xuống, không tỏ vẻ giận dữ gì. Thấy nàng không có vẻ cao ngạo, ngài bảo:

– Quý nương ơi, đến đây.

Vừa nghe ngài gọi tiếng đầu, nàng đã đến ngay.

Khi Đại Sĩ đến đây, ngài có đem theo một ngàn đồng tiền vàng và một chiếc áo trong giỏ cau trầu.

Bấy giờ ngài lấy nó ra, đưa cho nàng và bảo :

– Quý nương ơi, hãy cùng bạn hữu đi tắm và mặc áo này vào và đến đây với ta.

Nàng vâng lời. Bậc Trí giả trao cho cha mẹ nàng tất cả số tiền ngài đem theo và vừa kiếmđược, khuyên nhủ đôi lời, rồi đem nàng lên kinh thành.

Tại đây ngài muốn thử nàng, liền bảo nàng ngồi trong nhà người canh cổng, nói cho bà vợ người canh cổng biết mưu kế của ngài, rồi về nhà ngài. Tại đó ngài cho gọi các quân hầu của ngài đến và bảo:

– Ta có để lại một nữ nhân ở nhà kia, hãy đem một ngàn đồng tiền đến thử nàng xem.

Ngài đưa tiền và bảo họ đi. Họ làm theo lời ngài dặn. Nàng từ chối, bảo:

– Số tiền này không đáng giá bằng đám đất bụi bám trên chân công tử của ta.

Đám quân hầu trở về kể lại cho ngài nghe kết quả cuộc thử. Ngài lại bảo họ đi lần nữa, đến lần thứ ba, thứ tư, rồi bảo họ kéo nàng đi bằng vũ lực. Họ vâng theo và khi nàng nhìn thấy bậc Đại Sĩ uy nghi rực rỡ, nàng không nhận ra ngài, mà chỉ cười rồi khóc khi nhìn ngài. Thấy thế ngài hỏi cớ sao, nàng đáp:

– Thưa công tử, thiếp mỉm cười khi ngắm vẻ huy hoàng của công tử và nghĩ rằng công tử được hưởng cảnh huy hoàng này không phải là không có nhân duyên, mà là do thiện nghiệp của công tử đời trước: “Hãy xem quả phước báo”. Thiếp nghĩ vậy và mỉm cười. Nhưng rồi thiếp khóc khi nghĩ rằng công tử sẽ gây tội ác phá hại tài sản mà kẻ khác chăm sóc trông nom và sẽ xuống địa ngục, nên vì thương cảm, thiếp phải khóc.

Sau lần thử này, ngài biết nàng rất tiết hạnh, nên bảo họ đem nàng về chỗ cũ. Ngài giả dạng người thợ may, trở về với nàng và ở lại đêm đó.

Sáng hôm sau, ngài trở về cung, kể mọi chuyện với hoàng hậu Udumbarà. Bà báo cho vua biết xong, trang điểm cho Amarà đủ ngọc vàng trân bảo đặt nàng ngồi trên một cỗ xe sang trọng,đầy vẻ uy nghi, vinh hiển rước nàng về cung của bậc Đại Sĩ và mở ngày lễ hội vương hầu.

Vua ban thưởng Bồ-tát món quà đáng giá một ngàn đồng tiền, dân chúng trong thành đem quà đến dâng, từ người giữ cửa trở đi. Nàng Amarà chia quà vua ban làm hai phần, gửi lại một phần dâng lên vua; các quà dân chúng tặng, nàng cũng chia như vậy, trả về cho họ một nửa, vì thế rất được lòng dân. Từ ngày ấy, bậc Đại Sĩ cùng nàng sống rất hạnh phúc và chỉ bảo cho vua mọi thế sự cũng như thánh sự.

Một ngày kia Senaka bảo ba người kia nhân lúc họ đến thăm:

– Này các bạn, chúng ta chưa đấu trí nổi vôí Mahosadha con nhà dân giả này, nay nó tìm được vợ khôn lanh hơn cả nó nữa, làm sao chúng ta kiếm kế ly gián nó với đức vua đây?

– Thưa Tôn sư, làm sao chúng tiểu đệ biết được? Chuyện đó tùy ngài định đoạt.

– Được rồi đừng lo gì, ta đã có cách. Ta sẽ trộm hạt bảo châu trên vương miện, hiền hữu Pukkusa trộm chuỗi đeo cổ bằng vàng của đức vua, hiền hữu Kavinda trộm chiếc áo lông của ngài và hiền hữu Devinda lấy đôi hài bằng vàng của ngài.

Cả bốn người ấy tìm cách làm các việc này. Sau đó Senaka nói:

– Song ta phải bỏ vào nhà gã này mà không cho nó biết.

Thế là Senaka để hạt bảo châu vào bình hạt dẻ, bảo một tỳ nữ:

– Nếu ai mua bình hạt dẻ này, ngươi đều từ chối, chỉ bán cho người nhà Mahosadha mà thôi.

Người tỳ nữ đem lọ đến nhà bậc Trí giả đi lên đi xuống và rao:

– Ai muốn mua hạt dẻ?

Nhưng nàng Amarà đứng bên cửa nhìn thấy rõ, nàng nhận xét cô nữ tỳ nọ không đi nơi nào khác ngoài nhà nàng, chắc phải có điều gì bên trong chuyện này. Nàng liền ra dấu cho tỳ nữ của nàng lại gần, còn chính nàng kêu to gọi cô gái:

– Đến đây cô bé, ta muốn mua hạt dẻ.

Khi cô gái đến, bà chủ gọi các nữ tỳ ra, nhưng không có ai trả lời cả, nên phải nhờ cô gái đi kiếm hộ. Khi cô gái đi rồi, Amarà thọc tay vào bình tìm ra hạt bảo châu. Khi cô gái trở lại, Amarà liền hỏi:

– Cô là tỳ nữ nhà ai?

– Thưa phu nhân, nhà bậc Trí giả Senaka ạ.

Nàng liền hỏi tên họ tỳ nữ cùng tên mẹ cô gái rồi bảo:

– Nào cho ta ít hạt dẻ.

– Thưa hiền mẫu, nếu mẹ cần thì cứ lấy cả bình, con không lấy tiền đâu.

– Vậy thì cô về đi.

Amarà bảo người tỳ nữ ra rồi, nàng viết trên một ngọn lá: Vào ngày ấy tháng ấy, đại sư Senaka gửi đến một hạt bảo châu trên vương miện để làm quà tặng do một nữ tỳ tên họ ấy đem đến.

Pukkusa gửi đến chuỗi đeo cổ bằng vàng giấu trong giỏ hoa lài, Kàvinda gửi đến chiếc cẩm y giấu trong giỏ rau, Devinda gửi đến đôi hài bằng vàng để trong bó rơm. Nàng nhận tất cả và viết tên họ vào ngọn lá, cất đi rồi kể lại cho bậc Đại Sĩ nghe mọi chuyện. Khi năm vị hiền thần kia vào cung, liền hỏi vua:

– Tâu Đại vương, sao Đại vương không đội vương miện có bảo châu?

– Được đem nó ra đây cho trẫm mang vào. Vua bảo.

Nhưng họ không kiếm ra viên bảo châu và các thứ kia. Thế là cả bốn vị bảo:

– Tâu Đại vương, các vật trang sức của Đại vương đều nằm trong nhà Mahosadha, gã ấy đang dùng chúng đấy, gã con trai nhà dân giả ấy chính là kẻ thù của Đại vương đấy.

Họ vu cáo cho ngài như vậy. Sau đó những kẻ tốt bụng đi tìm Mahosadha kể chuyện cho ngài, ngài bảo:

– Để ta yết kiến đức vua và đi tìm.

Ngài đến chầu vua. Đang cơn thịnh nộ, vua phán:

– Trẫm chẳng nhìn nhận tiểu tử kia nữa, nó còn muốn gì ở đây?

Vua không cho phép ngài vào trần tình. Khi bậc Trí giả biết vua đang cơn thịnh nộ, ngài trở về nhà. Vua ban lệnh bắt ngài và ngài biết được nhờ những kẻ tốt bụng, nên bảo cho Amarà biết đã đến lúc ngài phải ra đi, rồi ngài trốn ra khỏi kinh thành, đến Nam thị trấn giả dạng làm nghề thợ đồ gốm ở trong một lò gốm. Cả kinh thành loan tin ngài bỏ trốn. Khi Senaka và ba vị kia hay tin ấy mỗi người liền gửi cho phu nhân Amarà một bức thư mà không cho ba vị biết, nhắn tin với nàng: Xin phu nhân đừng ngại gì, chúng ta không phải là những trí giả hay sao?

Nàng cất cả bốn bức thư rồi trả lời cho mỗi vị đến gặp nàng vào một ngày giờ nào đó. Khi họ đến, nàng cho người lấy dao cạo râu tóc họ sạch nhẵn, ném họ vào buồng tắm, hành hạ họ thật khổ sở, rồi lấy mền quấn họ lại và thông báo cùng vua biết. Nàng đem họ cùng bốn bảo vậtđến cung đình, tung hô vua xong, nàng nói:

– Tâu Đại vương, bậc Trí giả Mahosadha không phải là kẻ trộm, mà chính đây là các kẻ trộm: Senaka trộm bảo châu, Pukkusa trộm dây chuyền vàng, Devinda trộm đôi giày mạ bằng vàng vào ngày ấy tháng ấy, do tay của một nữ tỳ, các vật này được gửi đến làm quà tặng. Xin Đại vương nhìn ngọn lá này và nhận lại các bảo vật rồi thả các kẻ trộm ra.

Làm cho các vị kia chịu muôn phần sỉ nhục như thế xong, nàng liền ra về.

Tuy nhiên, vua lại bối rối trước chuyện này, vì từ khi Bồ-tát ra đi và không có bốn bậc hiền thần kia, ngài không nói gì nữa, chỉ bảo họ tắm rửa rồi ra về.

  1. VỊ NỮ THẦN VÀ CON ĐOM ĐÓM.

Lúc bấy giờ vị nữ thần ở trong chiếc lọng hoàng gia không được nghe giọng Bồ-tát thuyết pháp, không hiểu nguyên nhân gì và khi bà biết được, liền quyết định đem bậc Trí giả trở về.

Vì thế ban đêm, bà hiện ra từ một cái lỗ quanh lọng, hỏi vua bốn vấn đề được tìm thấy trong “Các vấn đề của Nữ thần” Chương IV, với các vần kệ bắt đầu: “Kẻ ấy đánh bằng chân lẫn tay”. Vua không trả lời được, nhưng hứa sẽ hỏi các vị hiền thần và xin gia hạn một ngày.

Hôm sau, vua ban lệnh triệu hồi họ, nhưng họ đều đáp:

– Chúng thần hổ thẹn nếu xuất hiện trước công chúng. Vì chúng thần bị cạo râu tóc sạch nhẵn.

Thế là ngài gửi cho họ bốn chiếc mão đội đầu (dân chúng cho rằng đó là nguồn gốc các chiếc mão).

Khi họ đến, họ được mời ngồi xong, vua bảo:

– Này Senaka, đêm qua vị thần ở trong chiếc lọng của trẫm hỏi trẫm bốn vấn đề mà trẫm không giải đáp được, phải bảo là trẫm sẽ hỏi các hiền thần. Vậy các khanh hãy giải đáp cho trẫm.

Và ngài đọc bài kệ thứ nhất:

  1. Kẻ ấy đánh bằng chân lẫn tay,
    Đánh luôn cả mặt mũi tai mày,
    Tuy nhiên kẻ ấy, tâu Hoàng thượng;
    Thân thiết hơn chồng nữa, lạ thay !

Senaka lắp bắp các chữ đầu:

– Đánh làm sao, đánh ai đã chứ?

Rồi ông chẳng tìm ra đầu đuôi gì cả. Ba vị kia đều im lặng . Vua hết sức túng thế. Đêm đến nữ thần lại hỏi ngài đã giải đáp câu đố được chưa, ngài bảo:

– Trẫm đã hỏi bốn hiền thần mà không ai nói được cả.

Bà đáp:

– Họ có biết gì đã chứ, trừ bậc Trí giả Mahosadha, chẳng ai giải đáp được cả. Nếu Đại vương không triệu ngài về giải đáp các vấn đề này, ta sẽ chặt đầu Đại vương với lưỡi dao oan nghiệt này.

Sau khi dọa vua như vậy, bà nói tiếp:

– Tâu Đại vương, khi Đại vương cần lửa, đừng thổi con đom đóm, khi cần sữa đừng vắt cái sừng bò.

Rồi bà lập lại Vấn đề con Đom đóm trong Chương V:

– Khi lửa tắt, có ai đi tìm lửa từng nghĩ rằng con đom đóm có thể làm mồi lửa được chăng, nếu người ấy trông thấy đom đóm ban đêm? Nếu người ấy vò vụn phân bò và cỏ chất lên nó thì thật là điên rồ, vì không thể làm nó bắt lửa được.

Cũng vậy, một thú vật không ích lợi gì cho ta nếu ta dùng nó theo cách sai lạc, ví như vắt sữa sừng bò, thì chẳng bao giờ sữa chảy ra. Con người được lợi lạc nhờ nhiều phương tiện như là trừng phạt kẻ thù và tỏ tình thân ái với bằng hữu. Nhờ chinh phục các tướng lãnh giữa chốn ba quân và lời bằng hữu khuyên răn, các vị chúa tể trên thế gian ngự trị cả thế gian và hưởng thụ trọn vẹn.

Các vị vua ấy chẳng giống Đại vương đang thổi con đom đóm và tưởng đó là lửa. Đại vương giống như người thổi con đom đóm khi ngọn lửa đang sẵn sàng bên cạnh, như người ném cái cân xuống và đo lường bằng tay, như người cần sữa vắt sừng bò, khi ngài đem các vấn đề sâu xa như vậy mà hỏi Senaka và những kẻ tương tự lão ấy, chúng nó biết gì đâu chứ? Chúng chỉ là những con đom đóm, còn Mahosadha sáng ngời trí tuệ mới là ngọn lửa vĩ đại đang cháy bùng rực rỡ, nếu Đại vương không tìm ra lời giải đáp vấn đề này, Đại vương sẽ là cái xác không hồn.

Sau khi dọa cho vua khiếp sợ như thế, bà biến mất.

Đến đây chấm dứt Vấn đề con Đom đóm.

*

Từ đấy vua kinh hoàng vì sợ chết. Sáng hôm sau vua ra lệnh bốn cận thần lên bốn cỗ xe đi ra bốn hoàng môn và bất kỳ nơi nào họ tìm được vương tử, bậc Trí giả Mahosadha, đều phải đón chào ngài thật trọng thể rồi lập tức rước ngài về hoàng cung. Ba vị trong số này không tìm được bậc Trí giả ; nhưng vị thứ tư đi ra phía Nam môn tìm thấy bậc Đại Sĩ ở Nam thị trấn, lúc ấy đang ngồi trên bó rơm lấm lem bùn đất, ăn những vắt cơm chấm ít nước canh sau khi đã kiếm xong đất sét và quay bánh xe cho chủ lò gốm. Ngài đã làm như vậy là vì ngài nghĩ rằng vua có thể nghi ngờ ngài muốn lên cầm vương quyền, nhưng nếu vua hay tin ngài đang sống bằng nghề thợ gốm thì mối nghi kỵ sẽ tan ngay. Khi ngài trông thấy vị cận thần, ngài hiểu ông đi đến tìm ngài, ngài hiểu rằng vinh quang của ngài đã được phục hồi, ngài sẽ được thưởng thức mọi cao lương mỹ vị do phu nhân Amarà dọn ra thiết đãi, vì thế ngài thả vắt cơm đang cầm và đứng dậy súc miệng. Vừa lúc ấy vị cận thần đi đến, đây là một người trong vây cánh của Senaka nói với ngài một cách thô lỗ như sau:

– Thưa Tôn sư, những lời mà bậc hiền giả Senaka nói đều là những điều báo trước rất hữu ích cho ngài: vinh quang của ngài đã mất, tài trí của ngài chả ích lợi gì, bây giờ đây ngài ngồi trên đống rơm bê bết bùn lầy đất mà ăn cơm như vậy đó.

Rồi gã này đọc bài kệ trong chuyện Bhùri-pãnha hay Vấn đề Trí tuệ, Chương X:

  1. Có thật ngài là bậc Trí nhân,
    Như người đồn có trí uyên thâm,
    Vậy tài trí, đại vinh quang ấy,
    Chẳng phục vụ ngài đúng nghĩa chăng,
    Và đã trở thành không ý nghĩa,
    Trong khi ngài nuốt chút cơm hầm?

Bậc Đại Sĩ liền đáp lại:

– Tên ngu si mê muội kia, nhờ tài trí của ta, khi nào ta muốn phục hồi vinh quang đều được cả.

Rồi ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Vinh quang ta tạo bởi gian truân,
    Đúng lúc, trái thời, ta biệt phân,
    Để ẩn náu mình theo ý muốn,
    Mở toang các cửa lợi vô ngần,
    Cho nên ta biết điều tri túc,
    Với chút cơm hầm, vẫn muốn ăn.
  2. Khi ta nhận thấy đúng thời cơ,
    Nỗ lực tạo thành mối lợi to,
    Theo kế hoạch, ta liền chịu đựng,
    Can cường chẳng khác một thanh sư,
    Và nhờ năng lực oai hùng ấy,
    Ông sẽ thấy ta trở lại mà.

Lúc ấy vị cận thần đáp:

– Thưa bậc Trí giả, vị thần ở trong chiếc lọng hoàng gia đặt một câu hỏi cho đức vua, ngài liền hỏi cả bốn vị hiền thần nhưng không ai giải đáp nổi, vì thế đức vua ra lệnh tiểu thần đi rước ngài về.

Bậc Đại Sĩ đáp:

– Trong trường hợp như thế mà ông chưa thấy được uy lực của trí tuệ hay sao? Những lúc như vậy của cải nào có ích gì, chỉ có trí là hữu ích.

Ngài tán thán trí tuệ như vậy. Sau đó vị cận thần trao cho bậc Đại Sĩ ngàn đồng tiền và bộ y phục vua ban, để ngài tắm rửa và thay quần áo ngay. Người chủ lò gốm kinh hãi vì đã lầm tưởng bậc Trí giả Mahosadha là thợ gốm của lão, tuy nhiên bậc Đại Sĩ liền trấn an lão:

– Tôn ông đừng sợ, ông đã cứu giúp ta thật quý giá vô cùng.

Rồi ngài tặng lão ngàn đồng tiền và với thân mình còn lấm lem bùn đất, ngài đã leo lên xe về kinh thành ngay. Viên cận thần báo tin cho vua biết ngài đã về.

– Này hiền khanh đã tìm ra bậc Trí giả, vương nhi ở đâu?

– Tâu Đại vương, vương tử đang sống bằng nghề làm đồ gốm ở Nam thị trấn, nhưng vừa được tin Đại vương triệu ngài về là ngài về ngay chẳng đợi tắm rửa gì, đất còn lấm lem cả người.

Vua nghĩ thầm: “Nếu nó là kẻ thù của ta thì nó đã trở về trong cảnh xa hoa long trọng có tùy tùng hầu hạ kia chứ, như vậy nó chẳng phải là đối thủ của ta rồi”.

Vua liền ban lệnh đưa ngài về tư thất tắm rửa, trang sức cho ngài rồi trở lại chầu vua với lễ nghi rực rỡ long trọng mà vua đã ban. Khi mọi việc xong xuôi, ngài trở vào triều, tung hô vua xong, liền đứng sang một bên. Vua nói năng ôn tồn với ngài, rồi muốn thử ngài, ông ngâm kệ này:

  1. Lắm kẻ không gây tạo lỗi lầm,
    Bởi vì họ đã được giàu sang,
    Nhưng nhiều người chẳng gây lầm lỗi,
    Vì sợ bùn nhơ cấu uế tâm,
    Con đủ tài năng làm sự nghiệp,
    Sao con không hãm hại vương quân?

Bồ Tát đáp lại:

  1. Bậc Trí giả không tạo lỗi lầm,
    Chỉ vì lạc thú hưởng giàu sang,
    Thiện nhân dù gặp cơn tai họa,
    Và bị lâm vào cảnh khốn nàn,
    Chẳng vì thân hữu hay thù hận,
    Mà phải khước từ đạo chánh chân .

Vua lại đọc bài kệ này, là những lời huyền bí của một vị Sát-đế-lị (quý tộc):

  1. Người nào vì bất cứ nguyên nhân,
    Dù nhỏ, dù to, với bản thân,
    Đưa chính mình lên từ chỗ thấp,
    Về sau tiến bước đạo Như chân.

Còn bậc Đại Sĩ đọc kệ này lấy ví dụ cái cây để minh họa:

  1. Dưới một gốc cây bóng mát lành,
    Nếu ta ngồi xuống nghỉ thân mình,
    Chặt cành lá ấy là làm phản,
    Bọn giả dối, ta phải ghét khinh.

Rồi ngài tiếp tục:

– Tâu Đại vương, nếu chặt cành của một cây mà ta đã hưởng lợi lạc là chuyện phản bội, thì còn nói gì đến kẻ sát nhân? Đại vương đã ban cho phụ thân tiểu thần hưởng đại phú quý và sủng ái tiểu thần phúc lộc tràn trề, làm sao tiểu thần có thể phản trắc làm hại Đại vương được?

Sau khi bày tỏ lòng trung thành của mình, ngài lại khiển trách vua về lầm lỗi ấy:

  1. Nếu một người khai đạo chánh chân,
    Đánh tan nghi hoặc của tha nhân,
    Người này thành một nơi nương tựa,
    Và bảo hộ cho chính bản thân,
    Bậc Trí không bao giờ hủy diệt,
    Mối dây này kết hợp thân bằng.

Bấy giờ để khuyến giáo vua, ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Ta ghét thế nhân đắm dục tình,
    Giả tu là dối gạt rành rành,
    Hôn quân xử án không nghe thấy,
    Sân hận người hiền chẳng biện minh.
  2. Vị vua thận trọng suy tư kỹ,
    Xử án đầy suy xét tận tình,
    Vua chúa suy tư phân xử đúng,
    Đời đời danh vọng mãi quang vinh.

Khi vua nghe xong liền mời bậc Đại Sĩ ngồi lên ngai vàng dưới chiếc lọng hoàng gia mở rộng, còn chính vua ngồi xuống một ghế thấp và nói:

– Thưa bậc Trí giả, vị thần ở trong chiếc lọng trắng này hỏi trẫm bốn câu. Trẫm đã vấn ý bốn hiền thần mà không ai tìm ra giải đáp. Vậy xin vương nhi giải đáp cho trẫm.

– Tâu Đại vương, dù là vị thần trong chiếc lọng, hay bốn Đại thiên vương, hoặc dù ai đi nữa, xin cứ hỏi, tiểu thần sẽ giải đáp.

Vua liền đưa câu hỏi nữ thần đã đọc ra và nói:

  1. Kẻ ấy đánh bằng chân lẫn tay,
    Đánh luôn cả mặt, mũi, tai, mày,
    Tuy nhiên kẻ ấy, tâu Hoàng thượng,
    Thân thiết hơn chồng nữa, lạ thay!

Khi bậc Đại Sĩ nghe câu hỏi xong, ngài thấy ý nghĩa lộ rõ ràng, chẳng khác nào vầng trăng hiện lên bầu trời:

– Xin Đại vương nghe đây, Ngài nói. Khi đứa bé ngồi trong lòng mẹ sung sướng chơi đùa lấy tay đánh mẹ nó, kéo tóc mẹ nó, nắm tay lại đấm mẹ nó, mẹ nó bảo: “Này ranh con, sao dám đánh mẹ?”. Rồi bà âu yếm ôm sát con vào ngực và không nén được lòng thương yêu con, bà mẹ hôn hít con, vào lúc đó đứa con còn thân thiết với bà còn hơn là cha nó nữa.

Ngài đã làm sáng tỏ vấn đề như thể đem vầng nhật lên bầu trời, nghe xong, nữ thần hiện nửa thân qua kẽ hở của chiếc lọng và nói bằng một giọng dịu dàng:

– Câu hỏi đã được giải đáp thỏa đáng.

Sau đó bà tặng bậc Đại Sĩ một giỏ đầy hoa tiên và hương thần, rồi biến mất.

Vua cũng ban thưởng ngài các loại hương hoa như vậy rồi đọc câu kệ thứ hai, hỏi vấn đề thứ hai:

  1. Bà mắng kẻ kia thật tệ tàn,
    Nhưng bà muốn nó ở kề gần,
    Kẻ kia, tuy vậy, tâu Hoàng thượng,
    Còn thiết thân hơn chính cả chồng.

Bậc Đại sĩ:

– Tâu Đại vương, đứa bé lên bảy, có thể làm theo lời mẹ dặn. Khi bà bảo nó ra đồng hay đến tiệm tạp hóa, nó đáp: “Nếu mẹ cho con bánh kẹo con sẽ đi”; bà mẹ bảo: “Bánh kẹo đây con”, rồi đưa bánh kẹo cho nó. Nó ăn xong lại nói: “Này mẹ, mẹ ngồi trong nhà im mát mà con lại phải đi ra ngoài làm công việc cho mẹ”. Nó nhăn mặt, làm bộ điệu chế nhạo mẹ nó, rồi không chịu đi. Bà nổi giận chụp lấy chiếc gậy la lên: “Mày ăn các thứ ta cho mày rồi lại không chịu ra đồng làm việc cho ta”. Bà dọa nó, nó vụt chạy thật nhanh, bà theo không kịp bà liền la lên: “Đi đi cho kẻ trộm xé xác mày ra”. Thế là bà mắng nhiếc nó thật thậm tệ, nhưng dù miệng nói gì đi nữa, bà cũng không muốn thế tí nào, bà chỉ muốn nó ở gần bà. Nó đi chơi lang thang suốt ngày, đến tối không dám trở về nhà, nó đến nhà bà con. Bà mẹ trông ra đường chờ nó về mà không thấy, nghĩ rằng nó không dám về, lòng bà đau đớn, nước mắt ràn rụa, bà đi đến nhà các quyến thuộc tìm nó. Khi thấy con, bà ôm nó hôn hít kéo nó sát vào lòng và thấy thương yêu nó hơn bao giờ hết, bà kêu lên: “Con tưởng mẹ nói thật sao?”, thế là tâu Đại vương, lúc giận người mẹ lại thương con hơn trước nữa.

Ngài giải đáp vấn đề thứ hai như vậy. Nữ thần lại tặng thưởng ngài như lần trước và vua cũng thế. Sau đó vua hỏi ngài vấn đề thứ ba qua một vần kệ khác:

  1. Nàng mắng nhiếc chàng chẳng lý do,
    Và nàng trách móc thật vu vơ,
    Tuy nhiên, chàng ấy, tâu Hoàng thượng,
    Thân thiết hơn chồng nữa, lạ chưa?

Bậc Đại Sĩ đáp:

– Tâu Đại vương, khi một đôi uyên ương lén lút hưởng lạc thú ái tình, người nọ bảo người kia: “Người chẳng hề để ý đến ta, ta biết tâm hồn người để tận đâu đâu”. Tất cả đều ngụy tạo và không có lý do gì cả, họ la mắng trách móc lẫn nhau, rồi họ càng thân thiết nhau hơn. Đó là ý nghĩa câu hỏi trên.

Nữ thần lại tặng quà cho ngài và vua cũng vậy. Sau đó vua lại hỏi câu nữa qua vần kệ thứ tư:

  1. Lấy thực phẩm, y phục, tọa sàng,
    Thiện nhân mang mọi vật lên đàng,
    Tuy nhiên, các vị, tâu Hoàng thượng,
    Còn thiết thân hơn chính cả chồng.

Ngài đáp:

– Tâu Đại vương, vấn đề này liên hệ đến các khất sĩ Bà-la-môn chân chính. Các gia đình sùngđạo tin tưởng vào đời này và đời sau, thường cúng dường các vị này và hoan hỷ lúc cúng dường. Khi họ thấy các Bà-la-môn nhận vật cúng dường và ăn uống liền nghĩ thầm “Chính các vị này đến nhà ta khất thực để thọ dụng”, họ càng tăng mối cảm tình đối với các vị này. Thật vậy, các vị này nhận phẩm vật, đặt lên vai mọi vật cúng dường và trở thành thân thiết với gia chủ.

Khi ngài giải đáp xong vấn đề này, nữ thần bày tỏ mối đồng tình bằng tặng vật như trước và đặt dưới chân bậc Đại Sĩ một giỏ quý đựng đầy bảy báu vật xin ngài nhận lấy. Vua cũng hoan hỷ phong ngài làm đại tướng.

Từ đó vinh quang của ngài càng chói lọi huy hoàng hơn nữa.

Đến đây chấm dứt Vấn đề của Nữ thần.

  1. NĂM VỊ HIỀN NHÂN.

Bốn vị hiền thần lại bảo nhau:

– Gã thường dân lại càng cao danh vọng hơn nữa, ta phải làm sao đây?

Senaka bảo họ:

– Được rồi, ta đã có kế, ta cứ đến gặp gã và hỏi: Ta nên nói chuyện bí mật với ai? Nếu gã bảo: Không nên nói với ai cả, ta sẽ nói xấu để hại gã với đức vua và bảo gã là tên phản bội.

Cả bốn vị liền kéo đến nhà bậc Trí giả và chào ngài xong, liền bảo:

– Thưa bậc Trí giả, ta muốn hỏi bậc Trí giả một chuyện.

Ngài bảo:

– Xin cứ nói ngay.

Senaka nói:

– Thưa bậc Trí giả, con người phải an trú vững chắc ở đâu?

– Ở chân lý.

– Xong rồi, còn phải làm gì nữa?

– Phải tạo sự nghiệp.

– Rồi phải làm gì nữa?

– Phải học hỏi các lời khuyến thiện.

– Và sau đó nữa?

– Đừng nói với ai chuyện bí mật của mình.

– Xin đa tạ bậc Trí giả.

Họ nói xong sung sướng ra về và nghĩ: “Hôm nay ta sẽ tống cổ gã đi khuất mắt”. Rồi họ vào yết kiến vua và tâu:

– Tâu Đại vương, gã ấy là tên phản bội Đại vương.

Vua đáp:

– Trẫm không tin các khanh đâu, bậc Trí giả không bao giờ phản bội trẫm.

– Tâu Đại vương, xin hãy tin chúng thần vì đó là sự thật, nếu Đại vương không tin, xin cứ hỏi gã: “Ta nên nói điều bí mật với ai, nếu gã không phản bội, gã sẽ bảo nói với người này người nọ, còn nếu gã phản bội, gã sẽ bảo: “Không nên nói điều bí mật với ai cả. Khi nguyện ước đã thành tựu rồi mới nói được”. Xin Đại vương hãy tin chúng thần, đừng nghi ngờ gì nữa.

Thế là một ngày kia, khi cùng ngồi với các cận thần, vua đọc bài kệ đầu trong “Vấn đề của bậc Trí giả” Chương XX:

  1. Năm vị hiền nhân họp buổi nay,
    Vấn đề trẫm chợt nghĩ, nghe đây:
    Cùng ai, bí mật nên bày tỏ,
    Dù tốt xấu, hay dở, nói ngay!

Senaka muốn kéo vua về phe mình, liền ngâm kệ:

  1. Xin Đại vương cho biết ý trời,
    Muôn tâu Chúa thượng ở trên đời,
    Là người bảo hộ, cưu mang nặng,
    Năm trí giả mong hiểu ý ngài,
    Cùng sở thích ngài, xin hãy nói,
    Muôn tâu chúa tể cõi trần ai!

Vua vốn bản chất yếu đuối, liền ngâm kệ:

  1. Nếu nữ nhân đức hạnh phục tùng,
    Tuân theo ý nguyện của phu quân,
    Đầy tình thân ái thì nên nói,
    Điều bí mật, hay dở mặc lòng!

“Nhà vua theo phe ta rồi”. Senaka nghĩ thầm, sung sướng đọc câu kệ nói rõ lối xử thế của mình:

  1. Ai bảo vệ người bệnh khốn cùng,
    Là nguồn cấp dưỡng, chốn nương thân,
    Thì nên bày tỏ cùng thân hữu.
    Điều bí mật, hay dở mặc lòng.

Rồi vua lại hỏi Pukkasa:

– Hiền khanh nghĩ sao, Pukkasa? Phải nói chuyện bí mật với ai?

Pukkasa liền ngâm kệ:

  1. Dù già hay trẻ, hoặc trung niên,
    Nếu chú em đức hạnh, đáng khen,
    Với chú em này, điều bí mật,
    Dù là tốt xấu, hãy nêu lên.

Kế đó vua hỏi Kàvinda và ông ngâm kệ:

  1. Khi đứa con vâng phục ý cha,
    Con trai thành thật, trí cao xa,
    Với con như vậy, thì nên nói,
    Điều bí mật, dù tốt xấu mà.

Sau đó, vua hỏi Devinda và ông ngâm kệ:

  1. Muôn tâu Chúa tể của quần sinh,
    Nếu mẹ yêu con thật tận tình,
    Đối với mẹ này, điều bí mật
    Dở hay, có thể nói cho rành.

Sau khi hỏi bọn họ xong, vua hỏi:

– Này bậc Trí giả, con nghĩ sao về việc này?

Và ngài ngâm kệ:

  1. Giữ gìn bí mật chính là hay,
    Chẳng đáng khen cơ mật tỏ bày,
    Người khôn phải giữ điều thầm kín,
    Khi việc chưa thành tựu, khéo thay!
    Sau lúc thực hành điều bí mật,
    Khi người muốn, có thể nêu ngay.

Khi bậc Trí giả nói xong, vua phật ý nên nhìn Senaka và Senaka cũng nhìn lại vua. Bồ-tát thấy ngay điều này và nhận rõ sự thật là trước kia bốn kẻ này đã vu cáo ngài với vua, còn vấn đề này ắt hẳn cũng được đặt ra để thử ngài.

Lúc bấy giờ trong lúc họ đang đàm luận thì mặt trời đã lặn, đèn đã được thắp sáng. Ngài nghĩ thầm: Cung cách vua chúa thật khó lắm thay, chẳng ai còn biết sẽ xảy ra chuyện gì nữa, thôi ta phải lo nhanh chân tẩu thoát mới được”.

Thế là ngài liền đứng dậy, vái chào vua rồi ra về, và nghĩ thầm: “Trong bốn vị này, người thì bảo phải nói với bạn, người thì bảo nói với anh em, người thì bảo với con trai, người thì bảo nói với mẹ, chắc hẳn họ đã làm hay thấy cái gì rồi, hoặc ta chắc chắn rằng họ đã nghe các kẻ kia kể những điều trông thấy. Thôi được rồi, ta phải tìm ra nội hôm nay”.

Lúc bấy giờ vào các ngày khác, khi bốn vị này ra khỏi cung, thường ngồi trên ống dẫn nước ở cửa cung, bàn bạc mưu kế trước khi về nhà, vì thế bậc Trí giả nghĩ rằng ngài phải núp dưới ống dẫn nước đó mới có thể biết được những chuyện bí mật của họ. Do vậy, ngài giở ống nước lên, trải một tấm nệm phía dưới và bò vào, ra lệnh cho quân hầu của ngài tìm ngài khi bốn vị kia ra về sau cuộc bàn bạc.

Đám quân hầu tuân lệnh ra đi. Trong lúc ấy Senaka tâu với vua:

– Tâu Đại vương, ngài không tin chúng thần, bây giờ Đại vương tính sao?

Vua liền công nhận lời của các kẻ gây hận thù này mà không cần tìm hiểu điều tra gì cả, hốt hoảng hỏi:

– Hiền khanh Senaka, bây giờ phải làm sao đây?

– Tâu Đại vương, phải giết nó đi, không được trì hoãn, không được tiết lộ với ai.

– Này Senaka, không ai lưu tâm đến quyền lợi của trẫm ngoài ái khanh. Vậy hiền khanh hãyđem thân hữu đến đợi ở cửa, sáng mai gã đến chầu trẫm, hãy lấy kiếm chặt đầu gã đi.

Nói xong, vua trao cho họ thanh bảo kiếm của mình.

– Tâu Đại vương, tuyệt quá. Đại vương chớ sợ gì, chúng thần quyết giết nó cho được.

Họ đồng bước ra và nói:

– Chúng ta đã tống cổ được kẻ thù đi rồi.

Và họ ngồi trên ống xối. Rồi Senaka hỏi:

– Này các hiền hữu, ai sẽ hạ thủ thằng đó?

Các vị kia đáp:

– Thưa Đại sư, chính ngài.

Họ giao trách nhiệm cho lão.

Senaka lại hỏi:

– Này các hiền hữu, các vị đã nói rằng nên tiết lộ bí mật với người nọ người kia, vậy các vị đã làm hay nghe thấy chuyện đó chăng?

– Thưa Đại Sư, đừng ngại gì, khi ngài bảo nên tiết lộ bí mật với một thân hữu, vậy chính ngài đã làm điều đó chăng?

– Điều ấy có liên quan gì đến các vị đâu? Lão hỏi.

Họ đồng đáp:

– Xin Đại Sư cho chúng tiểu đệ biết với.

Lão đáp:

– Giá như đức vua biết chuyện này thì đời ta phải tiêu ma.

– Xin Đại Sư đừng sợ, không ai ở đây tiết lộ bí mật của ngài đâu, xin Đại sư cho chúng tiểu đệ biết với.

Senaka liền đập trên ống xối và bảo;

– Nếu thằng nhà quê ấy núp dưới này thì sao?

– Thưa Đại Sư, thằng nhãi ấy đang hưởng vinh hoa, đời nào lại bò xuống dưới chỗ này làm gì? Chắc nó đang mê mẩn trong cảnh phú quý rồi, xin Đại Sư nói đi.

Senaka liền kể bí mật của mình ra:

-Các vị có biết cô ả bán phấn nọ trong kinh thành này chăng?

– Thưa Đại Sư, chúng đệ có biết.

– Giờ đây có ai thấy ả chăng?

– Thưa Đại Sư, không.

– Trong khóm Sà-la kia, ta đã ân ái cùng ả, sau đó giết ả đi để lấy nữ trang, ta đã buộc thành một gói đem về nhà treo trên chiếc ngà voi để trong phòng kia của tầng lầu nọ, nhưng ta chưa dùng chúng được cho đến khi câu chuyện chìm đi, ta đã tiết lộ tội ác này với một người bạn. Người này không nói với ai nữa, nên ta mới bảo là có thể tiết lộ bí mật với bạn.

Bậc Trí giả nghe chuyện bí mật của Senaka liền ghi nhớ thật kỹ. Sau đó Pukkasa kể bí mật của lão:

– Trên đùi đệ có một vết hủi lở. Buổi sáng em trai của đệ rửa ráy nó xong, bôi thuốc rồi băng lại mà chẳng hề nói với ai. Những khi đức vua yếu lòng, ngài kêu lên: “Này Pukkasa đến đây”. Và ngài thường đặt đầu lên đùi của đệ, nhưng nếu ngài biết, chắc ngài giết đệ mất. Mà chẳng ai biết trừ em trai của đệ, vì thế đệ nói: “Có thể kể chuyện bí mật với anh em”.

Kàvinda lại kể chuyện bí mật của lão:

– Về phần đệ, trong nửa tháng tối trời vào ngày trai giới, một con yêu quỷ tên Naradeva cứ cắn lấy đệ và đệ sủa như chó dại. Đệ kể chuyện với con trai đệ, nên con trai đệ mỗi khi thấy đệ bị quỷ ám, liền trói đệ trong nhà, rồi đóng cửa lại, tổ chức đám hội đông đảo để che lấp tiếng sủa ồn ào của đệ. Vì thế đệ mới nói là có thể tiết lộ bí mật với con trai..

Sau đó cả ba vị hỏi Devinda và ông tiết lộ bí mật.

– Đệ là viên tuần tra các đồ trang sức của đức vua và đệ đã trộm một viên ngọc thần ban phúc lộc, đó là tặng vật của Sakka Thiên chủ ban vua Kusa và đệ đã đem về cho mẹ. Mỗi khi đệ vào cung, mẹ của đệ lại trao cho đệ mà không nói với ai. Nhờ có viên ngọc ấy đệ tràn đầy phúc phận mỗi khi vào cung, Đức vua ban phán với đệ trước các vị, cho đệ tiêu dùng tám đồng tiền hoặc mười sáu hoặc ba mươi hai, hoặc sáu mươi bốn. Nếu Đức vua biết đệ lấy viên ngọc ấy, chắc đệ phải chết mất! Vì lẽ đó đệ bảo chuyện bí mật có thể nói với mẹ.

Bậc Đại Sĩ ghi nhớ cẩn thận mọi chuyện bí mật của họ, còn bọn họ, sau khi tiết lộ bí mật như thể mổ bụng phơi bày gan ruột rồi, liền đứng dậy đi về bảo nhau:

– Chắc chắn ta phải đến sớm mà giết thằng khốn đó mới được!

Khi họ đi rồi, đám quân hầu của bậc Trí giả đến lật ống xối lên đưa bậc Đại Sĩ về nhà. Ngài tắm rửa, thay áo quần ăn uống xong xuôi và ngài biết rằng chị ngài, hoàng hậu Udumbarì ngày hôm ấy sẽ gửi cho ngài một thông điệp từ hoàng cung, nên ngài cử người thân tín ra canh chừng, bảo gã thấy ai từ hoàng cung đến phải đưa vào trong lập tức. Rồi ngài nằm ngủ trên giường.

Lúc ấy vua cũng nằm trên vương sàn nhớ lại công đức của bậc Trí giả: “Bậc Trí giả Mahosadha đã phụng sự ta từ khi mới bảy tuổi, chưa bao giờ làm gì sai trái cả. Khi nữ thần hỏi ta, giá như không có bậc Trí giả thì ta đã chết rồi, nay tin theo lời các kẻ báo thù, trao kiếm cho chúng rồi ra lệnh giết bậc Trí giả vô thượng, thật là chuyện ta chẳng nên làm, từ ngày mai ta chẳng còn thấy bậc Trí giả nữa”. Ngài buồn bã, mồ hôi đổ ra như tắm, lòng nặng trĩu ưu phiền, ngài thấy bất an. Hoàng hậu Udumbarì ở bên cạnh ngài trên long sàng, thấy tâm trạng ngài như vậy, liền hỏi:

– Tâu Đại vương, thần thiếp có làm gì xúc phạm đến Đại vương chăng? Chẳng hay việc gì khiến Đại vương sầu muộn?

Rồi bà ngâm kệ:

  1. Vì sao lo lắng, tâu Quân vương?
    Thần thiếp chẳng nghe giọng Chúa công,
    Hoàng thượng nghĩ gì sinh khổ não,
    Có gì lầm lỗi, thiếp làm chăng?

Vua liền ngâm kệ:

  1. Chúng tâu: “Trí giả Đại Sa-dha
    Phải bị giết ngay vì đức vua”,
    Đệ nhất hiền nhân, ta xử trảm,
    Khi ta nghĩ vậy, trí buồn lo.
    Không gì lầm lỗi từ khanh cả,
    Hỡi ái hậu yêu dấu của ta.

Nghĩ đến việc này, trẫm buồn phiền lắm, Ái khanh không có lỗi gì.

Nghe xong, nỗi sầu muộn âu lo vì bậc Đại Sĩ đè nặng bà như cả tảng đá, bà nghĩ thầm: “Ta biết kế an ủi đức vua rồi, khi ngài ngủ ta sẽ gửi thông điệp cho em ta”. Bà liền thưa:

– Tâu Đại vương, chính nhờ Đại vương trọng dụng mà gã thường dân ấy được lên đài vinh quang, Đại vương phong gã làm tổng tư lệnh. Bây giờ họ bảo gã đã trở thành kẻ thù của Đại vương. Không có kẻ thù nào không đáng kể đâu, phải giết gã đi, vậy xin Đại vương đừng ưu phiền.

Nàng cứ thế an ủi vua, khiến nỗi buồn của vua vơi dần và ngài ngủ thiếp đi, hoàng hậu Cây Sung liền trở dậy về phòng bà viết thư báo tin như sau: Mahosadha, bốn vị hiền thần đã vu cáo hiền đệ, khiến đức vua phẫn nộ, ngày mai ra lệnh giết hiền đệ tại cửa cung. Vậy đừng vào cung sáng mai, hoặc hiền đệ có đến, thì phải đặt toàn kinh thành dưới quyền điều khiển của hiền đệ.

Bà đặt thư trong gói kẹo, buộc dây, bỏ vào một cái bình mới, rảy nước hoa xong, dán kín lại, trao cho một nữ tỳ và dặn:

– Đem gói kẹo này cho em ta.

Nàng ấy tuân lệnh. Ta không lạ gì chuyện nàng ấy ra khỏi cung ban đêm, vì vua đã ban đặc ân này cho hoàng hậu, nên không ai cản trở nàng. Bồ-tát nhận được quà tặng ấy, rồi bảo tỳ nữ ra về. Nàng này về tường trình việc đã giao xong, lúc ấy hoàng hậu trở lại nằm cạnh vua. Bồ-tát mở gói kẹo, đọc thư xong hiểu rõ mọi chuyện, sau khi tính toán mọi việc phải làm rồi ngài đi nghỉ.

Sáng hôm sau, bốn vị hiền thần cầm kiếm đứng ở cung môn, nhưng không thấy bậc Trí giả, họ thất vọng buồn bã đi vào yết kiến vua.

Vua hỏi:

– Này, tên khốn kiếp ấy đã bị giết chưa?

Họ đáp:

– Tâu Đại vương, chúng thần không thấy gã đâu cả.

Còn bậc Đại Sĩ, lúc tảng sáng, nắm toàn binh lực trong tay, cử quân thị vệ khắp nơi, rồi ngài lên xe cùng đoàn tùy tùng rầm rộ uy nghi tiến vào cung môn. Vua đứng nhìn ra từ cửa sổ. Khi ấy bậc Đại Sĩ xuống xe liền vái chào vua và vua nghĩ thầm: “Nếu gã là kẻ thù của ta, thì gã đã không vái chào ta”. Rồi vua cho mời ngài vào, xong ngồi trên ngai. Bậc Đại Sĩ bước vào, ngồi qua một bên, bốn vị hiền thần cùng ngồi xuống đó. Vua làm như thể không biết chuyện gì cả, ngài bảo:

– Này vương nhi, hôm qua vương nhi bỏ ra về, hôm nay lại đến đây, tại sao vương nhi thờ ơ đối với ta như vậy?

Rồi vua ngâm kệ:

  1. Chiều tối hôm qua, con đã đi,
    Bây giờ lại đến, hỡi vương nhi!
    Điều gì lo sợ trong tâm trí,
    Hoặc giả con nghe nói những gì?
    Ai bảo con làm, này Trí giả,
    Nào ta lắng đợi, nói ngay đi!

Bậc Đại Sĩ bảo:

-Tâu Đại vương, Đại vương đã nghe lời bốn hiền thần này, ra lệnh giết tiểu thần vì thế tiểu thần không đến.

Rồi ngài ngâm kệ trách vua:

  1. Bậc hiền trí Đại O-sadha,
    Phải bị giết ngay, nếu tối qua,
    Ngài kể chuyện này cho chánh hậu,
    Thì điều bí mật bị phơi ra!

Vua nghe vậy giận dữ nhìn hoàng hậu, cho rằng có lẽ bà đã nhắn tin này lập tức cho ngài. Thấy vậy bậc Đại Sĩ bảo:

– Tâu Đại vương, tại sao Đại vương nổi thịnh nộ với hoàng hậu? Tiểu thần biết việc quá khứ, hiện tại và vị lai mà. Giả sử hoàng hậu tiết lộ bí mật của Đại vương, thì ai tiết lộ bí mật của các vị Senaka, Pukkusa và đồng bọn? Nhưng tiểu thần biết hết cả.

Rồi ngài kể chuyện bí mật của Senaka qua câu kệ:

  1. Tội ác bạo tàn Se-na-ka,
    Đã làm trong bụi rậm Sà-la,
    Lão cho bạn biết nơi thầm kín,
    Thần đã nghe: cơ mật lộ ra!

Nhìn Senaka, vua hỏi:

– Có thật không?

– Tâu Đại vương, có thật.

Vua ra lệnh bắt giam lão lại. Rồi bậc Đại Sĩ kể chuyện bí mật của Pukkusa qua vần kệ:

  1. Trong người này, lão Pu-ku-sa,
    Có một bệnh không thích hợp cho,
    Một đấng quân vương nào đụng chạm,
    Lão đem bí mật nói riêng tư,
    Cho em mình biết, điều thầm kín,
    Thần đã nghe, được tiết lộ ra.

Vua nhìn lão và hỏi:

– Có đúng không?

– Tâu Đại vương, đúng.

Vua lại bắt giam lão. Rồi bậc Trí giả kể bí mật của Kàvinda qua vần kệ:

  1. Kẻ kia bệnh hoạn, tính tà gian,
    Bị quỷ Na-ra ám ảnh tâm,
    Lão nói cho con điều bí mật,
    Thần nghe bí mật bị phơi trần!

Vua hỏi:

– Có đúng không Kàvinda?

Lão đáp:

– Tâu Đại vương, đúng.

Vua lại bắt giam lão. Bấy giờ bậc Trí giả nói chuyện bí mật của Devinda qua vần kệ:

  1. Bát giác ngọc thần ấy thuở xưa,
    Thượng hoàng được tặng bởi Sak-ka,
    De-vin-da giữ trong tay lão,
    Lão kể chuyện kia với mẹ già,
    Trong chỗ kín, thần nghe thấy được,
    Điều cơ mật ấy được phôi ra!

– Có đúng không Devinda? Vua hỏi.

Lão đáp:

– Tâu Đại vương, đúng.

Thế là vua bắt giam lão. Như vậy, những kẻ âm mưu giết Bồ-tát đều bị giam cầm. Bồ-tát lại nói:

– Vì thế tiểu thần bảo là ta không nên tiết lộ bí mật với ai cả, kẻ nào bảo phải tiết lộ bí mật, kẻ đó sẽ bị suy tàn.

Rồi ngài ngâm các vần kệ tuyên thuyết đạo lý cao siêu hơn:

  1. Giữ điều bí mật mới là hay,
    Bí mật không nên được tỏ bày,
    Người trí phải duy trì bí mật,
    Khi người thành tựu mục tiêu này,
    Thì người hãy nói như mình muốn.
    Vậy chớ phơi ra bí mật vầy,
    Phải giữ nó như kho bảo vật,
    Người khôn chẳng lộ việc riêng tây.
  2. Người trí chẳng nên nói lộ ra,
    Một điều bí mật với đàn bà,
    Với cừu địch, người ham tư lợi,
    Hoặc bởi tình thân ái thiết tha.
    Người tiết lộ ra điều bí mật,
    Vì lo sợ bạn chẳng tin ta,
    Về sau phải chịu làm nô lệ,
    Cho chính kẻ kia thật dại khờ!
  3. Càng nhiều người biết chuyện riêng tư,
    Càng có thêm nhiều mối sợ lo,
    Vậy chẳng nên phơi bày bí mật,
    Ban ngày hãy đến một nơi xa,
    Nói điều bí mật, còn đêm tối,
    Hãy nói giọng nho nhỏ ấy mà,
    Vì lắm người nghe lời nói ấy,
    Nên lời ấy thoáng chốc tuôn ra.

Khi vua nghe bậc Đại Sĩ nói xong, liền nổi trận lôi đình và nghĩ thầm: “Các tên kia phản bội quân vương mà lại bảo bậc Trí giả phản bội ta”. Vua liền bảo:

– Đem chúng ra khỏi thành đóng cọc qua thân chúng hay chặt đầu đi.

Bậc Trí giả thưa:

– Tâu Đại vương, họ là những cựu Đại thần của Đại vương, xin tha tội cho họ.

Vua chấp thuận, cho họ làm nô lệ, rồi phóng thích họ ra. Vua lại bảo:

– Thôi, chúng không được sống trong quốc độ ta nữa.

Rồi vua ban lệnh đuổi họ đi. Nhưng bậc Trí giả van xin vua tha tội lỗi mù quáng của họ, ngài xoa dịu vua và thuyết phục vua cho họ phục hồi chức vị cũ. Vua rất đẹp ý vì bậc Trí giả: đối với các kẻ thù ngài mà ngài từ bi như vậy, huống gì đối với các người khác. Từ đó, bốn vị hiền nhân như rắn mất răng, nọc độc đã hết, nên không còn nói gì được nữa, ta cũng biết vậy.

Đến đây chấm dứt Vấn đề Năm vị Hiền nhân hay chuyện Đại vu cáo.

  1. CUỘC ĐẠI CHIẾN.

Sau thời kỳ này, ngài thường khuyến cáo vua về thế sự cũng như thánh sự, ngài nghĩ thầm: “Ta thật đúng là chiếc lọng trắng của đức vua, chính ta điều khiển việc nước. Vậy ta phải cảnh giác mới được”.

Ngài truyền xây thành lũy quanh kinh thành. Dọc theo trường thành là các tháp canh, tại cửa thành giữa các tháp canh, ngài cho đào ba hào, một hào nước, một hào đất sét và một hào khô.

Bên trong kinh thành ngài bảo trùng tu các nhà xưa cũ, đắp bờ đê thật lớn làm hồ chứa nước kho vựa chứa đầy thóc. Các bậc khổ hạnh thân tín phải đem đất sét và hột giống sen ăn được từ vùng Tuyết Sơn về. Các ống nước được chùi rửa sạch sẽ, nhà cửa cũ ở ngoài thành cũngđược trùng tu. Mọi việc đó được làm để phòng hiểm họa trong tương lai. Các thương nhân từ mọi nơi đến đây đều được hỏi họ từ đâu lại, khi họ nói xong, họ được hỏi vua của họ thích gì, họ lại được ân cần tiếp đãi trước khi ra đi.

Rồi ngài cho triệu một trăm lẻ một quân sĩ đến bảo họ:

– Hỡi các binh sĩ của ta, các bạn hãy đem các tặng vật này đến một trăm lẻ một kinh thành dâng lên các vị vua ở đó để làm đẹp lòng các ngài. Hãy ở lại đó hầu hạ các ngài, vâng theo công việc và kế hoạch của các ngài và nhắn tin về cho ta rõ. Ta sẽ chăm sóc vợ con các bạn.

Ngài trao cho người này các hoa tai, người nọ đôi hài bằng vàng, vòng đeo cổ bằng vàng có khắc chữ lên đó mà ngài định sẽ cho chúng lộ ra khi cần phù hợp với mục đích của ngài. Đám quân sĩ ra đi mọi nơi, đem tặng vật dâng các quốc vương, và tâu rằng họ đến để phụng sự các ngài. Khi được hỏi họ từ đâu đến, họ nói tên của các kinh thành khác với nơi họ đã thực sự rađi. Lễ vật được nhận xong xuôi, họ ở lại đó phục dịch và cố gây lòng tin cậy.

Lúc bấy giờ tại quốc độ Ekabala có vị vua danh hiệu Samkhapàla đang chiêu mộ binh khí và tập hợp binh chủng. Người đi sứ đến yết kiến vua này liền gửi điệp về cho bậc Trí giả, nói: Ở đây hiện có tin loan như vậy, nhưng vị vua này dự mưu gì thì tiểu thần chưa rõ, xin ngài phái người đến tìm hiểu sự thật của vấn đề này.

Bậc Đại Sĩ liền gọi một con két và bảo:

– Hiền hữu hãy đi tìm xem vua Samkhapàla đang làm gì ở Ekabala, rồi chu du qua khắp cõi Diêm phù-đề (Ấn độ) và đem tin về cho ta.

Ngài cho nó ăn mật ong và hạt đậu, uống nước ngọt, xoa dầu vào các khớp xương cánh bằng một loại dầu thơm đã lọc cả trăm ngàn lần, rồi ngài đứng bên cửa sổ hướng Đông thả nó đi. Con két đi đến người ấy và tìm ra sự thật. Khi nó bay về, nó ngang qua toàn cõi Diêm-phù-đề đến kinh thành Uttarapañcàla thuộc quốc độ Kampilla.

Vị vua cai trị xứ này danh hiệu là Cùlani-Brahamadatta, có một quân sư về thế sự và thánh sự là một Bà-la-môn tên Kaevatta, một bậc hiền trí thông thái. Vị Bà-la-môn ấy, một buổi sáng kia, thức dậy nhìn quanh tư thất tráng lệ của mình dưới ánh sáng ngọn hoa đăng và trong khi nhìn vẻ nguy nga của tư thất, ông nghĩ thầm: “Cảnh huy hoàng này thuộc quyền ai? Chẳng ai hết ngoại trừ vua Cùlani. Một vị vua ban cảnh huy hoàng như thế này phải làm đại hoàng đế toàn cõi Diêm-phù-đề và ta sẽ là đại sư trưởng của ngài”.

Thế là ông đi chầu vua thật sớm, sau khi vấn an vua có được ngon giấc chăng, ông thưa:

– Tâu Đại vương, tiểu thần có điều này xin tâu trình Đại vương.

– Đại sư cứ nói đi.

– Tâu Đại vương, chuyện bí mật không nên tiết lộ giữa kinh thành, xin hãy vào ngự viên .

– Được rồi, Đại sư.

Vua đi đến ngự viên cùng ông, để quân hầu ở ngoài, vào hoa viên xong, ngài ngồi xuống vương tọa. Con két trông thấy vậy, nghĩ chắc phải có điều gì dưới kia: “Hôm nay ta sẽ ngheđược câu chuyện, phải nhắn tin về bậc Trí giả, chủ nhân của ta”.

Thế là nó bay vào hoa viên, đậy giữa đám lá Sàla của hoàng cung. Vua vừa bảo:

– Nói đi, Đại sư.

Ông đáp:

– Tâu Đại vương, xin Đại vương cúi xuống đây, kế này chỉ vừa cho bốn tai nghe thôi. Nếu Đại vương chịu nghe lời tiểu thần khuyên nhủ, tiểu thần sẽ tôn Đại vương lên làm Đại hoàng đế toàn cõi Diêm-phù-đề.

Vua nôn nóng nghe nên hoan hỷ đáp:

– Đại sư nói đi, trẫm sẽ làm theo ngay.

– Tâu Đại vương, ta hãy khởi binh, trước tiên tấn công một kinh thành ấy bằng cửa hậu và bảo vua ở đó: “Tâu Đại vương, Đại vương có chiến đấu cũng chẳng ích gì, hãy về phe tiểu thần, quốc độ của Đại vương xin cứ giữ lấy, còn nếu Đại vương chống binh hùng tướng mạnh của tiểu thần thì Đại vương sẽ đại bại”. Nếu vị vua đó làm theo lời khuyên của tiểu thần, ta sẽ thâu nhận vị ấy, nếu không ta sẽ đánh và giết đi, rồi với hai đạo binh ta sẽ đi đánh chiếm một kinh thành khác, rồi một kinh thành khác nữa, cứ thế ta sẽ thâu nhập giang sơn toàn cõi Diêm-phù-đề và nâng chén rượu khải hoàn. Rồi ta sẽ đem cả trăm lẻ một vị vua về thành của ta, xây tửu điếm trong ngự viên, bắt các vua ấy vào đó uống độc dược, thế là giết toàn thể và quăng thây xuống sông Hằng. Ta nắm được cả trăm lẻ một kinh thành trong tay và Đại vương sẽ là chúa tể toàn cõi Diêm-phù-đề.

– Này Sư trưởng, thật là diệu kế, ta sẽ làm như vậy. Vua đáp.

– Tâu Đại vương, kế này chỉ cho bốn tai nghe mà thôi, không ai được biết đến. Không nên trì hoãn, mà phải tiến hành ngay lập tức.

Vua rất đẹp ý về lời khuyên này, nên quyết định là làm ngay. Nghe xong câu chuyện này, con két làm rớt cục phân trên đầu quân sư Kevatta như thể từ trên cành cây.

– Cái gì thế này?

Lão vừa kêu vừa nhìn lên, hoác há mồm, con két lại thả thêm một cục phân vào mồm lão vừa bay vụt đi vừa kêu:

– Két két, này Kevatta, ông tưởng kế của ông chỉ có bốn tai nghe thôi ư, nhưng bây giờ là sáu tai nghe rồi, dần dần sẽ đến tám tai và còn cả trăm tai nữa.

– Bắt lấy nó, bắt lấy nó!

Họ la lên, nhưng nhanh như gió, két đã bay về kinh thành Mithilà và vào cung thất của bậc Trí giả. Lúc bấy giờ két có thói quen như vầy: nếu là tin riêng từ bất cứ nơi nào chỉ dành cho bậc Trí giả mà thôi thì nó sẽ đậu trên vai ngài, nếu phu nhân Amarà cũng nghe được thì nó đậu trên lòng ngài, nếu cả hội chúng nghe được thì nó đậu dưới đất. Lần này nó đậu trên vai ngài, thấy dấu hiệu ấy, hội chúng của ngài đều rút lui, biết là chuyện bí mật.

Bậc Trí giả đem nó lên thượng lầu và hỏi:

– Này, két yêu quý, bạn đã nghe thấy gì?

Nó đáp:

– Thưa công công, tiểu thần không thấy hiểm họa từ vị vua nào trên toàn cõi Diêm-phù-đề, nhưng chỉ có Kevatta, sư trưởng của vua Cùlani tại kinh thành Uttarapañcàla, đem vua vào ngự viên bàn mưu tính kế riêng giữa hai người. Tiểu thần đậu trên cành cây thả cục phân vào mồm lão và bay về đây!

Rồi nó kể cho bậc Trí giả mọi điều nó đã nghe thấy. Ngài hỏi:

– Thế vua có chấp thuận chăng?

Con két đáp:

– Thưa có.

Sau đó bậc Trí giả chăm sóc con két thật chu đáo, đặt nó vào lồng vàng trải thảm thật êm. Ngài nghĩ thầm: “Chắc Kevatta không hề biết ta là Trí giả Mahosadha, ta không thể cho lão hoàn tất mưu kế được đâu”. Ngài liền di cư đám người nghèo khó ra khỏi kinh thành và đem về từ khắp nơi trong nước, từ thôn quê, ngoại thành đến kinh đô định cư cho những gia đình giàu có thế lực và thu góp thật nhiều thóc lúa.

Còn vua Cùlani làm theo mưu kế của Kevatta, đem binh đi tấn công một kinh thành. Như lãođã đưa ý kiến, lão vào thành giải thích sự việc cho vua tại đó và chinh phục vị vua ấy. Rồi nhập hai đạo binh lại, vua Cùlani theo lời quân sư Kevatta tiến vào một quốc độ khác, cho đến khi thâu trọn các vua chúa trên toàn cõi Diêm-phù đề dưới quyền mình trừ vua Vedeha. Quân hầu của Bồ-tát vẫn tiếp tục thông báo cho ngài rõ tin: “Vua Brahmadatta đã chiếm các kinh thành kia, xin Đại sư canh phòng nghiêm mật”. Ngài đáp lại: “Ta vẫn canh phòng ở đây, các người hãy cẩn thận, giữ mình đừng vô tâm xao lãng”. Trong bảy năm bảy tháng bảy ngày vua Brahmadatta xâm chiếm toàn cõi Diêm-phù-đề, trừ thành Vedeha. Lúc ấy vua bảo Kevatta:

– Này Đại sư, chúng ta hãy đánh chiếm vương quốc Vedeha ở Mithilà.

– Tâu Đại vương-lão đáp-chúng ta sẽ chẳng bao giờ chiếm được kinh thành bậc Trí giả Mahosadha đang ở, vị ấy đầy tài trí và rất mưu lược.

Rồi lão kể dông dài về tài đức của bậc Đại Sĩ như thể vẽ vòng trên mặt trăng. Lúc bấy giờ chính lão ta cũng đầy mưu trí, nên lão nói:

– Quốc độ Mithilà quá nhỏ bé, toàn cõi Diêm-phù-đề cũng đủ cho ta lắm rồi.

Lão an ủi như vậy. Nhưng các vương hầu kia bảo:

– Không, ta sẽ đánh chiếm quốc độ Mithilà rồi hãy nâng chén rượu khải hoàn.

Kevatta lại phải ngăn cản họ, lão bảo:

– Chiếm quốc độ Vedaha nào có ích gì? Vua đó là chư hầu của ta rồi, trở lui đi.

Lão khuyến cáo họ như vậy. Họ đành nghe theo và rút lui. Quân hầu của bậc Đại Sĩ báo cho ngài biết vua Brahmadatta cùng một trăm lẻ một vị vua khác đang tiến tới Mithilà đã rút lui về kinh thành của họ. Ngài trả lời, bảo họ phải quan sát kỹ những việc mà vua này làm.

Lúc bấy giờ vua Brahmadatta bàn tính với Kevatta những việc làm kế tiếp. Đầy hy vọng sẽ nâng chén rượu khải hoàn, họ trang hoàng ngự viên, cho thị vệ đem rượu cả ngàn bình, bày yến tiệc linh đình đầy sơn hào hải vị, quân của bậc Trí giả cũng báo tin này cho ngài biết mưu kế đầu độc các vua bại trận, nhưng bậc Đại Sĩ đã biết nhờ con két kể lại với ngài. Ngài liền gửi lệnh bảo họ phải báo cho ngài biết ngày tổ chức đại lễ. Họ tuân lệnh. Lúc ấy ngài nghĩ thầm: “Nhiều vị vua phải chết như vậy trong lúc một kẻ có trí như ta còn sống là điều không hợp lý. Ta phải cứu giúp họ mới được”. Ngài cho triệu mười ngàn binh sĩ cùng quê với ngài đến và bảo họ:

– Này các hiền hữu, có người cho ta biết vào ngày kia vua Cùlani muốn trang hoàng ngự viên để đối ẩm cùng một trăm lẻ một vì vua khác. Các hiền hữu hãy đến đó và trước khi có người nào ngồi xuống bảo tọa dành cho các vị vua, các bạn hãy chiếm lấy chỗ danh dự kế vua Cùlani, bảo: “Chỗ này dành cho Đại vương chúng thần.” Khi họ hỏi các bạn là người của ai, xin cứ bảo họ là người của vua Vedeha. Họ sẽ la lớn lên: “Sao, trong bảy năm bảy tháng bảy ngày chúng ta đã chinh phục mọi quốc độ, mà chưa lần nào chúng ta thấy Đại vương Vedeha của các người. Vị vua ấy ra sao? Hãy đi tìm chỗ vua ấy ở cuối bàn tiệc”. Các bạn phải la ầm ó lên và bảo: Trừ vua Brahmadatta ra, không vị vua nào cao hơn Đại vương của chúng ta cả. Nếu chúng ta không tìm được bảo tọa cho Đại vương của chúng ta thì chúng ta sẽ không để yên cho quý đại vương hưởng yến tiệc đâu”…Rồi cứ thế la hét nhảy nhót khắp nơi, lấy gậy lớn đập các bình rượu, làm vung vãi thức ăn ra để không thể nào ăn được nữa, cứ chạy vùn vụt quađám tiệc ấy gây náo loạn như thể các thần Asura (A-tu-la) đánh chiếm kinh thành của chư Thiên, và gọi to lên: Chúng ta là người của bậc Trí giả Mahosadha ở thành Mithilà, có giỏi thì cứ bắt chúng ta đi”…Như thế cho họ biết các hiền hữu đã đến đó, rồi trở về đây.

Họ tuân lệnh ra đi, đem đủ năm loại vũ khí và khởi hành. Họ vào ngự viên đã được trang hoàng chẳng khác nào vườn Nandana (Lạc Viên) trên thiên giới, ngắm mọi cảnh nguy nga lộng lẫy, các bảo tọa dành cho một trăm lẻ một vị vua, các lọng trắng được giương lên cùng nhiều bảo vật khác. Họ làm theo lời dặn của bậc Đại Sĩ, sau khi gây náo loạn giữa đám tiệc xong, họ trở về Mithilà.

Thị vệ của nhà vua tâu trình mọi sự việc xảy ra, vua Brahmadatta nổi trận lôi đình, vì mưu kếđầu độc các quốc vương kia đã hỏng, trong khi các quốc vương kia lại thịnh nộ vì mất uống chén rượu khải hoàn, quân sĩ cũng thịnh nộ vì lỡ dịp chè chén thỏa thích. Vì vậy Brahmadatta bảo các quốc vương kia:

– Này các hiền hữu, ta hãy cùng đến Mithilà chém đầu vua Vedeha, đạp chân lên đầu nó, rồi hãy trở về nâng chén khải hoàn, bảo ba quân sẵn sàng.

Rồi vị vua này đi nói riêng với Kevatta:

– Này, ta sẽ bắt lấy kẻ thù đã phá hoại diệu kế này với một trăm lẻ một quốc vương và mười tám đạo binh hùng hậu, ta sẽ đánh chiếm kinh thành đó. Mau lên Đại Sư.

Nhưng lão Bà-la-môn này đủ trí khôn để hiểu rằng họ sẽ không bao giờ bắt được bậc Trí giả Mahosadha, mà chỉ chuốc lấy nhục nhã thôi, phải can gián vua mới được. Vì thế lão nói:

– Tâu Đại vương, vua xứ Vedaha này không tài hùng trí dũng đâu, mọi việc trị dân đều ở trong tay bậc Trí giả Mahosadha, vị này rất thế lực. Thành Mithilà được vị này bảo vệ, chẳng khác nào con sư tử bảo vệ hang động của nó, không ai chiếm được đâu. Chúng ta sẽ chuốc lấy nhục nhã mà thôi. Đại vương đừng suy nghĩ đến việc đi đánh nữa.

Nhưng vua đang điên cuồng vì tính kiêu ngạo của chiến sĩ và say sưa đi chiếm nước chư hầu, liền kêu lên:

– Gã ấy làm gì được?

Rồi vua tiến lên, cùng với một trăm lẻ một vị quốc vương và mười tám đạo binh hùng hậu. Kevatta không thể nào thuyết phục vua nghe theo mình và cho rằng cản trở vua cũng hoài công, nên đành đi theo.

Nhưng một đêm kia các chiến sĩ về đến Mithilà tường trình với bậc Trí giả mọi việc đã xảy ra. Và các quân hầu mà ngài đã gửi đi phục dịch trước kia cũng nhắn tin rằng vua Cùlani đang cùng một trăm lẻ một quốc vương tiến lên đánh bắt vua Vedeha, vậy ngài phải đề phòng cẩn mật.

Các thông điệp gửi về tới tấp: “Hôm nay vua đang ở chốn này, hôm nay họ đã đến chỗ kia, hôm nay họ sẽ đến kinh thành”. Nghe vậy bậc Đại Sĩ tăng cường phòng vệ gấp đôi. Vua Vedeha nghe tin đồn đãi khắp nơi rằng vua Brahmadatta đang tiến quân đến chiếm kinh thành.

Bấy giờ trời mới sẩm tối, vua Brahmadatta bao vây kinh thành bằng ánh sáng cả trăm ngàn ngọn đuốc. Vua này lại xiết chặt vòng vây bằng những hàng rào voi ngựa, chiến xa và sắp đặt từng đám quân sĩ vào những khoảng cách đều nhau, họ đứng đó la hét, búng tay, reo hò, nhảy múa, kêu gào dưới ánh sáng của ngọn đuốc và ánh phản chiếu của vũ khí, toàn kinh thành Mithilà như một đám lửa bừng sáng suốt bảy dặm, tiếng voi ngựa, xe pháo và người ta ầm ỉ làm mặt đất cũng muốn nứt ra. Bốn vị hiền thần nghe những làn âm thanh vang dội như thế, không biết phải xử trí ra sao, liền yết kiến vua:

– Tâu Đại vương, có cảnh tượng đại náo loạn mà chúng thần không biết chuyện gì, xin Đại vương hỏi xem sao?

Nghe vậy, vua nghĩ: “Chắc chắn Brahmadatta đã đến”.

Ngài mở cửa sổ nhìn ra, khi ngài thấy vị vua kia đã đến thật, thì hốt hoảng bảo họ:

– Chúng ta sắp chết rồi, ngày mai chắc chắn chúng sẽ giết sạch chúng ta.

Vua quan cứ ngồi bàn bạc như vậy. Còn bậc Đại Sĩ khi thấy vua kia đã đến, ngài oai dũng như con sư tử, sắp đặt quân phòng vệ khắp kinh thành rồi đi lên cung điện trấn an vua. Vái chào vua xong, ngài đứng sang một bên. Vua phấn khởi khi thấy ngài, nghĩ thầm: Không ai có thể cứu ta được trừ bậc Trí giả Mahosadha”.

Rồi vua nói với ngài như sau:

– Brahmadatta đã đến cùng với đám chư hầu, đạo binh Pañcàla này thật vô địch. Này Mahosadha, quân hầu đầu đội vai mang, bộ binh bao kẻ thiện chiến, sẵn sàng đi tàn sát, một cảnh đại náo loạn, tiếng trống chiêng vang dậy ngập trời, đây là nơi trổ tài sử dụng binh khí, nào cờ xí, kỵ binh mặc áo giáp, chiến sĩ anh hùng thắng trận vẻ vang. Cả mười bậc Trí giả lại đây, uyên thâm trí tuệ, mưu lược thần kỳ và vị thứ mười một chính là thái hậu đang cổ võ đạo binh Pañcàla. Đây là cả một trăm lẻ một vị vương hầu thiện chiến làm tùy tướng, quốc độ của họ đã bị chiếm đóng, họ đang kinh hoàng và chịu thần phục trước đạo binh của Pañcàla. Họ thề nguyện phụng sự vò vua này, dù muốn dù không, họ cũng nói thẳng họ phải làm như vậy, nay họ bắt buộc phải theo phe vua Pañcàla, vì họ ở dưới quyền vua này. Kinh thành Mithilà đang bị bao vây bởi đạo binh dàn trận ở ba chặng đường, tấn công vào đủ mọi mặt, thành bị bao vây mọi phía như thể muôn sao trên trời. Này Mahosadha, làm cách nào giải vây được chăng?

Khi bậc Đại Sĩ nghe vậy, ngài nghĩ thầm: “Vua này quá lo sợ cho mạng sống của mình. Lương y là nơi an trú của bệnh nhân, thức ăn là nơi an trú của người đói, thức uống là nơi an trú của người khát, nhưng chỉ mình ta là nơi an trú của vua này, ta phải trấn an ngài mới được”. Rồi chẳng khác nào con sư tử gầm thét trên cao nguyên Hồng thổ ở Tuyết Sơn, ngài la to:

– Xin Đại vương chớ sợ, xin cứ an hưởng cảnh cung đình. Như tiểu thần thường ném hòn đất dọa con quạ, lấy cung dọa con khỉ, thần sẽ giải tán đạo quân ấy, cho chúng không còn một manh giáp nữa.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Đại vương hãy duỗi thẳng đôi chân,
    Mở hội vui chơi, tiệc uống ăn,
    Chốc lát Brah-ma, vua địch ấy,
    Sẽ đào tẩu, bỏ mặc binh hùng.

Sau khi trấn an vua, bậc Trí giả ra ngoài ban lệnh đánh trống hội khắp kinh thành cùng với lời huấn dụ:

– Nghe đây, toàn dân chớ kinh sợ. Hãy sắm sửa tràng hoa, hương trầm, nước hoa, thức ăn uống mở hội trong bảy ngày. Dân chúng muốn ở đâu tùy ý, uống rượu thật say sưa, ca múa vui chơi, gào thét, nô đùa, búng tay tùy thích, mọi phí tổn ta sẽ chịu hết. Ta là bậc Trí giả Mahosadha, hãy xem oai lực của ta đây.

Cứ thế ngài khích lệ toàn dân. Họ vâng lệnh ngài, người bên ngoài nghe tiếng ca nhạc tưng bừng, người ta ra vào bằng cửa hậu. Lúc bấy giờ họ không có tục lệ bắt kẻ lạ mặt trừ ra kẻ thù địch, cho nên lối ra vào mở ngỏ. Do đó, những kẻ này thấy dân chúng đang mải mê vui đùa ca hát, còn vua Cùlani nghe tiếng ồn ào trong kinh thành liền bảo các quần thần:

– Này các khanh, xem đây quân ta bao vây kinh thành này với mười tám đạo binh hùng hậu, thế mà dân chúng không tỏ vẻ lo âu sợ hãi, lại còn vui chơi thỏa thích, ca hát, búng tay, nhảy nhót tưng bừng, thế là nghĩa lý gì?

Lúc ấy các quân hầu được ngài gửi đi phục dịch ở nước ngoài trước đây liền nói dối như sau:

– Tâu Đại vương,chúng thần có việc vào thành bằng cửa hậu, thấy dân chúng đang mải mê vui chơi đã hỏi: “Tại sao các người quá vô tâm chểnh mảng trong khi mọi quân vương toàn cõi Diêm-phù-đề đang bao vây kinh thành của các ngươi?” Họ liền đáp: “Khi quốc vương của chúng ta còn bé, ngài có ước nguyện tổ chức hội hè bao giờ tất cả quốc vương toàn cõi Diêm-phù-đề đến bao vây kinh thành. Bây giờ ước nguyện đã thành nên ngài liền ban lệnh khắp nơi và chính ngài cũng tổ chức hội hè trong cung”.

Nghe vậy vị vua này nổi trận lôi đình, gọi một đoàn quân ra ban lệnh:

– Hãy phân tán ra khắp kinh thành, lấp hào phá thành, san bằng tháp canh, vào thành, chặt đầu vua Vedeha đem đến đây cho ta.

Thế là các chiến sĩ dũng cảm trang bị đủ loại vũ khí, rầm rộ tiến vào cổng thành, lại được quân của bậc Trí giả hỗ trợ với vũ khí nóng đỏ rực, nhưng rồi họ bị ném bùn, đá như mưa rào. Khi họ đứng dưới hào phá tường, quân lính trên tháp canh chống trả bằng cung tên, lao, giáo bắn xuống, quân của bậc Trí giả vừa chế nhạo quân của vua Brahmadatta bằng bộ điệu tay chân, vừa la lớn:

– Nếu các ngươi không bắt được ta, thì hãy ăn uống một tí nào.

Họ giơ ra những chén rượu nồng và xiên cá thịt mà họ đang ăn uống dạo chơi quanh tường. Quân địch không làm gì được, đành trở về trình với vua Cùlani:

– Tâu Đại vương, chẳng ai vào thành được trừ khi kẻ có thần thông.

Vua kia đợi bốn năm ngày không tìm được kế gì chiếm thành như ý muốn, lại hỏi Kevatta:

– Này Đại Sư, ta không thể chiếm thành này, không ai có thể đến gần thành được cả, làm sao bây giờ?

– Tâu Chúa thượng, đừng ngại gì, kinh thành này lấy nước từ bên ngoài, ta sẽ cắt nguồn nước và chiếm được thành. Chúng sẽ kiệt quệ vì thiếu nước và sẽ mở cửa thành.

Vua đáp:

– Thật là diệu kế.

Sau đó họ cản trở dân chúng đến gần nguồn nước. Quân do thám của bậc Trí giả viết tin trên một ngọn lá buộc vào mũi tên bắn đi nhắn cùng ngài rõ. Lúc bấy giờ ngài đã ra lệnh hễ ai thấy ngọn lá buộc vào mũi tên phải đem dâng ngài. Một người thấy vật này liền đem trình bậc Trí giả. Ngài đọc tin xong, nghĩ thầm: “Vua ấy không biết ta là bậc Trí giả Mahosadha”. Ngài cho lấy những thanh tre dài chừng sáu mươi cubit (gần ba mươi mét) chẻ đôi ra, bỏ hết các mắt, rồi cột lại, bọc da bên ngoài và trét bùn lên.

Ngài lại cho lấy đất và hột sen do các ẩn sĩ đem về từ Tuyết Sơn, trồng hột sen trong bùn bên cạnh hồ nước, đặt tre lên và đổ đầy nước vào. Qua một đêm sen mọc và trổ hoa, cao hơn đọt tre chừng hai thước. Ngài nhổ lên đưa cho quân hầu mang đến dâng vua Brahmadatta. Họ cuộn tròn cọng sen lại, ném qua thành, kêu to:

– Này quân hầu của vua Brahmadatta, đừng để chết đói vì thiếu lương thực, đây ta cho các ngươi mang hoa lên và ăn ngó sen vào cho đầy bụng.

Một người trong đám quân do thám của bậc Trí giả lượm cọng sen mang vào dâng vua:

– Tâu Đại vương, đây là cọng sen, chưa bao giờ có cọng sen dài như thế này cả.

Vua bảo:

– Đo thử xem.

Họ đo và thấy chúng dài cả gần bốn mươi mét chứ không phải ba mươi. Vua hỏi:

– Sen này mọc ở đâu?

Họ bịa chuyện đáp:

– Tâu Đại vương, một ngày nọ, vì thèm rượu, tiểu thần vào thành bằng cửa hậu và thấy các hồ nước lớn được đào cho dân chúng vui chơi. Có một đám người trên thuyền đang hái sen. Cây sen này mọc cạnh bờ hồ, chứ còn những cây mọc dưới nước sâu chắc phải cao cả trăm cubit.

Nghe vậy, vua bảo Kevatta:

– Này Đại Sư, ta không thể chiếm thành bằng cách cắt nguồn nước đâu, thôi đừng cố đánh chiếm thành này nữa.

Lão đáp:

– Thôi được, ta sẽ chiếm thành bằng cách cắt nguồn lương thực vì kinh thành này lấy lương thực từ ngoài vào.

– Này Đại sư, thật là diệu kế.

Bậc Trí giả đã biết trước việc này nên nghĩ thầm: “Vua ấy không biết ta là bậc Trí giả Mahosadha”.

Dọc theo trường thành ngài đổ đất bùn và trồng lúa. Lúc bấy giờ ước nguyện của Bồ-tát bao giờ cũng đạt thành, nên qua một đêm lúa mọc vượt lên cả ngọn thành. Vua Brahmadatta thấy vậy liền hỏi:

– Này hiền hữu, cây gì mọc xanh um trên ngọn thành vậy?

Quân do thám của bậc Trí giả đáp lại ngay như thể chụp lấy lời nói của vị vua này:

– Tâu Đại vương, bậc Trí giả Mahosadha là con nhà nông, đã thấy trước tai hoạ sắp đến nên đã thu góp thóc khắp nơi về chứa đầy kho vựa, ném đồ dư thừa trên trường thành, chắc chắn lúa này gặp đủ nắng mưa sẽ mọc cây rất nhanh. Một bữa nọ, chính tiểu thần có việc vào thành bằng cửa hậu, lượm một nắm thóc trong đống thóc trên thành vãi ra đường, liền bị dân chúng chế nhạo, la lên: -“Chắc anh đói lắm, vậy hãy lấy một ít thóc buộc vào chéo vạt áo, mà đem về nhà nấu ăn”.

Nghe vậy vua bảo Kevatta:

– Này Đại sư, cắt nguồn lương thực ta cũng không chiếm được thành này đâu, việc đó không đúng cách.

– Tâu Đại vương, thế thì ta sẽ chiếm thành bằng cách cắt nguồn cung ấp than củi từ bên ngoài.

– Được rồi, Đại sư.

Bồ-tát cũng đã biết trước chuyện này nên ngài cho chặt củi thành đống, cao hơn cả lúa nữa. Dân chúng lại chế nhạo quân lính của vua Brahmadatta, bảo:

– Nếu các anh đói thì lấy củi này mà nấu nướng thức ăn.

Vừa nói họ vừa ném những thanh củi lớn xuống.

Vua hỏi:

– Củi nào chất cao hơn cả trường thành vậy?

Các thám tử đáp:

– Vị này con nhà nông thấy được hiểm họa sắp đến, nên thu góp than củi chất đống trước mọi nhà còn thừa ngài chất bên lề thành đó.

Vua bảo Kevatta:

– Này Đại sư, ta cũng không thể chiếm thành bằng cắt nguồn than củi đâu, kế này chẳng cần thiết nữa.

– Tâu Đại vương chớ ngại, tiểu thần đã có cách khác.

– Kế gì vậy Đại sư? Trẫm thấy các mưu kế của khanh đều không có kết quả gì, ta không thể chiếm được Vedeha đâu. Thôi ta hãy rút quân về.

– Tâu Đại vương, nếu có ai bảo vua Cùlani cùng một trăm lẻ một quốc vương không chiếm nổi thành Vedeha thì chúng ta sẽ mang nhục mà thôi. Mahosadha không phải là một bậc Trí giả duy nhất trên đời, vì tiểu thần cũng là bậc Trí giả, tiểu thần sẽ dùng mưu lược.

– Mưu gì vậy, Đại sư?

– Chúng ta sẽ bày trận Pháp chiến.

– Thế nghĩa là gì?

– Tâu Đại vương, là không cần đánh trận nào cả, chỉ có hai bậc Trí giả của hai vị vua đến một nơi nào đó và kẻ nào cúi chào người kia, sẽ bại trận.

Mahosadha không biết ý định này, tiểu thần già hơn, gã ấy trẻ tuổi hơn, nên khi gã thấy tiểu thần, gã sẽ chào trước. Thế là ta sẽ chiếm lấy Vedeha, xong việc này ta sẽ hồi hương và như vậy ta mới khỏi bị nhục. Đó là trận Pháp chiến mà tiểu thần muốn tâu trình.

Nhưng Bồ-tát đã biết trước chuyện bí mật này rồi: “Nếu ta để cho Kevatta thắng ta như vậy thì ta đâu phải là người có trí”. Còn vua Brahmadatta bảo:

– Thật là đại diệu kế.

Rồi vua viết điệp gửi cho vua Vedeha bằng cửa hậu, báo tin: “Ngày mai sẽ có trận Pháp chiến giữa hai vị trí giả, vị nào không chịu tham chiến được xem như bại trận”.

Nhận được điệp này, vua Vedeha cho triệu bậc Trí giả đến kể chuyện, ngài đáp:

– Hay lắm, tâu Đại vương, xin Đại vương truyền sứ giả đưa tin chuẩn bị nơi chốn dành cho trận Pháp chiến; bên cổng Tây, sẽ dàn binh ở đó.

Rồi ngài trao bức điệp cho sứ giả, và hôm sau chuẩn bị nơi dành cho trận Pháp chiến để chứng kiến cảnh thảm bại của Kevatta. Nhưng cả trăm lẻ một vị quốc vương không biết chuyện sẽ xảy ra, nên vây quanh Kevatta để bảo vệ lão. Các vị vua này đến nơi chiến địa, đứng nhìn về phía đông, nơi bậc trí giả Kevatta đã đến. Tuy nhiên, sáng hôm đó, Bồ-tát đã tắm rửa nước thơm, mặc cẩm bào Kàsi trị giá cả trăm ngàn đồng tiền, trang sức lộng lẫy và sau một bữa điểm tâm thịnh soạn, ngài cùng đám tùy tùng đông đảo đi đến cửa cung. Khi được triệu vào, ngài vái chào vua xong, ngồi sang một bên.

– Sao đó, Trí giả Mahosadha? Vua hỏi.

Ngài đáp:

– Tâu Đại vương, tiểu thần sắp ra chỗ lâm chiến.

– Thế còn trẫm phải làm gì đây?

– Tâu Đại vương, tiểu thần muốn thắng Kevatta bằng viên bảo ngọc, vậy tiểu thần cần có viên bảo ngọc bát giác ấy.

– Vương nhi cứ lấy đi.

Ngài nhận lấy bảo ngọc, tạ từ vua ra đi, có cả ngàn chiến sĩ vây quanh, đó là các thân hữu từ thuở bé của ngài, ngài ngồi vào chiếc bảo xa do đoàn bạch mã thuần giống kéo, đáng giá cả chín mươi ngàn đồng tiền . Vào giờ ngọ ngài đến cổng thành.

Kevatta đứng chờ ngài đến, vừa bảo:

– Kìa gã đến, kìa gã đến!

– Lão vừa nghểnh cổ dài ra, ướt mồ hôi dưới ánh nắng gay gắt. Bậc Đại sĩ cùng đoàn tùy tùng như biển dậy sóng, như sư tử vươn mình, oai nghi trầm tĩnh ban lệnh mở cửa thành, ra khỏi kinh thành xong, ngài xuống xe như con sư tử vùng dậy, rảo bước. Cả trăm lẻ một vị quốc vương chiêm ngưỡng vẻ uy nghi cao cả của ngài, liền reo hò tung hô ngài vang dậy:

– Đây bậc Trí giả Mahosadha, nam tử của Sirivaddha, người có trí tuệ tối thượng trong toàn cõi Diêm-phù-đề.

Chẳng khác nào Thiên chủ Sakka được chư thiên vây quanh, trong vẽ huy hoàng cao cả vô thượng, ngài cầm viên bảo ngọc trong tay, đứng trước Kevatta. Còn Kevatta vừa trông thấy ngài đã không thể nào đứng yên được mà tiến lên đón ngài bảo:

– Này bậc Trí giả Mahosadha, hai ta đều là bậc trí giả và dù xưa nay ta ở gần ngài, ngài chưa hề gửi tặng ta vật nào cả, vì cớ gì vậy?

Bậc Đại Sĩ bảo:

– Thưa bậc Trí giả, tiểu đệ đã cố công kiếm một tặng vật thật xứng đáng với ngài và hôm nay tiểu đệ tìm ra viên ngọc bảo châu này, xin bậc Trí giả nhận lấy, vì không có viên ngọc thứ hai như vậy trên đời.

Vị kia thấy viên bảo ngọc sáng ngời trong tay ngài tưởng rằng ngài muốn đưa ra tặng, liền bảo:

– Vậy thì xin trao ngọc cho ta.

Rồi lão đưa tay ra, xin nhận lấy. Bậc Đại Sĩ vừa nói, vừa dang tay ném viên ngọc trên đầu ngón tay của bàn tay lão dang ra. Nhưng lão Bà-la-môn không đỡ được viên ngọc trong các ngón tay nên nó tuột xuống và lăn tới chân Bồ-tát. Lão lại quá thèm viên ngọc nên cúi xuống chân ngài. Lúc ấy bậc Đại sĩ không để cho lão ngẩng lên, lấy một tay ấn vai lão xuống và tay kia chộp bụng lão, kêu to:

– Này Đại sư, ngẩng lên chứ, ngẩng lên chứ, ta trẻ hơn ngài nhiều, chỉ đáng cháu chắt ngài, đừng cúi chào ta chứ!

Ngài vừa nói vậy mãi, vừa chà mặt mũi lão xuống đất đến chảy máu, rồi lại bảo:

– Này tên ngu si mê muội kia, ngươi cứ tưởng sẽ được ta cúi đầu chào ngươi hay sao?

Ngài chụp lấy cổ áo lão ném thật xa. Lão văng đi xa cả bốn mươi thước mới bò dậy chạy trốn mất. Lúc ấy quân hầu của bậc Đại Sĩ lượm viên bảo ngọc lên, nhưng âm thanh của lời Bồ-tát: “Ngẩng lên đi, đừng cúi đầu chào ta như vậy!” vang dội át cả tiếng reo hò của đám đông. Dân chúng reo hò nhất loạt:

– Bà-la-môn Kevatta cúi chào chân bậc Trí giả!

Tất cả các vua, từ Brahmadatta đến các vị vua kia, đều thấy Kevatta cúi đầu xuống chân bậc Đại sĩ. Họ đều nghĩ thầm: “Bậc Trí giả của ta đã cúi đầu chào bậc Đại Sĩ, chúng ta thua trận rồi. Ngài sẽ giết hết bọn ta bây giờ”, ai nấy đều lên ngựa chạy trốn đến thành Uttarapañcàla . Quân của Bồ-tát thấy họ chạy trốn, lại la hét vang trời:

– Vua Cùlani đang tẩu thoát cùng một trăm lẻ một vị vương hầu.

Nghe vậy, các vương hầu càng hoảng hốt, chạy dài, tan rã cả đại đạo binh trong khi quân của Bồ tát reo hò mỗi lúc càng vang dậy hơn. Bậc Đại Sĩ cùng đám tùy tùng trở về kinh thành trong khi đạo binh của vua Brahmadatta tháo chạy tán loạn suốt ba dặm đường. Kevata lên ngựa gặp đạo binh, liền chùi vết máu trên trán, la lên:

– Này đừng chạy, ta có cúi đầu chào thằng khốn kiếp đó đâu. Dừng lại, dừng lại!

Nhưng đạo binh không nghe, còn chế nhạo, phỉ báng lão:

– Này lão Bà-la-môn khốn nạn kia, lão là kẻ có tội, lão bày ra trận Pháp chiến rồi lại cúi đầu chào thằng trẻ ranh chỉ đáng cháu chắt lão, chuyện ấy chẳng đáng đời lão hay sao?

Họ không còn nghe lão nữa và cứ tiếp tục đi về. Lão chạy vụt vào đám quân kêu lên:

– Này các người phải nghe ta, ta có cúi chào nó đâu, nó lấy viên ngọc lừa ta mà.

Rồi lão dùng đủ mọi cách thuyết phục các vị vương hầu tin lời lão và thu nhập đám tàn quân.

Lúc bấy giờ đám quân này quá đông đảo, ví thử mỗi người trong đó lượm được một hòn đá hay nắm đất ném vào hào cũng đủ lấp đầy hào và còn chất đống cao lên bằng trường thành; nhưng ta biết rằng ý nguyện của Bồ-tát đã đạt thành, nên không có ai ném đất đó vào kinh đô cả. Họ rút lui về vị trí cũ, rồi vua hỏi Kevatta:

– Này Đại sư, ta phải làm gì bây giờ?

– Tâu Đại vương, ta đừng cho ai ra cửa hậu nữa và cắt mọi mối giao thông. Dân chúng không ra vào được sẽ sinh chán nản và mở cửa thành. Lúc ấy ta sẽ bắt được quân thù.

Bậc Trí giả cũng được báo tin về vấn đề này như trước, nên ngài nghĩ thầm: “Nếu họ đóng quân ở đây lâu, thì chúng ta không sống yên ổn được, vậy ta hãy tìm cách tống họ đi, ta sẽ đặt chiến lược đuổi họ về”.

Thế là ngài đi tìm một người thông thạo các việc này và kiếm ra được một kẻ tên Anukevatta. Ngài bảo ông này:

– Này Đại sư, ta có một việc muốn nhờ ông thi hành.

– Thưa bậc Trí giả, tiểu thần phải làm gì? Xin cho biết.

– Ông hãy đứng trên trường thành, thừa lúc quân ta vô ý, hãy lập tức ném kẹo bánh, cá thịt và các thức ăn khác xuống cho quân của Brahmadatta, rồi bảo: “Này ăn đi đừng ngã lòng, gắng ở đây thêm ít hôm nữa, chẳng mấy chốc dân chúng như gà mái trong rọ sẽ tự mở cổng thành rồi các người vào mà bắt lấy vua Vedeha và gã con trai nông dân khốn kiếp kia”. Quân ta nghe vậy sẽ mắng nhiếc ông tàn tệ rồi trói tay chân ông lại trước quân của Brahmadatta và giả bộ lấy gậy tre đập ông, kéo ông xuống, buộc tóc ông thành năm chòm, phết đất bùn lên người ông, đeo chùm hoa Kanavera dành cho tử tội vào cổ ông, quất ông vun vút cho đến khi nổi lằn roi trên lưng ông, rồi lại đem ông lên trường thành trói ông lại, thòng dây thừng thả ông xuống chỗ đóng quân của Brahmadatta thét to: “Cút đi, quân phản bội”.

Lúc ấy ông sẽ được dẫn đến trước vua vua Brahmadatta, vua này sẽ hỏi ông về việc sỉ nhục kia, ông phải trình bày với vua ấy: “Tâu Đại vương, ngày xưa tiểu thần đã được nhiều vinh hiển nhưng gã con trai nhà nông ấy đã vu cáo tiểu thần phản bội đức vua, nên tiểu thần bị tướcđoạt tất cả giàu sang danh vọng. Tiểu thần muốn lấy đầu kẻ đã phá hại mình và vì thương tưởng quân của Đại vương đang thối chí nản lòng, nên đem cho họ thức ăn uống. Do vậy nhớ đến mối thù cũ trong lòng, gã lại làm tiểu thần thân tàn ma dại như thế này. Tâu Đại vương, quân của Đại vương đều biết rõ chuyện này”.Như vậy bằng mọi cách ông phải chiếm được lòng tin của vua rồi tâu với vua ấy: “Tâu Đại vương, bây giờ đã có tiểu thần, xin Đại vương chớ lo âu nữa. Vua Vedeha và gã con trai nông dân kia phải chết thôi! Thần biết rõ mọi yếu điểm cùng nhược điểm của bức trường thành này. Tiểu thần biết nơi nào dưới hào có cá sấu, nơi nào không. Chẳng mấy chốc tiểu thần xin dâng trọn kinh thành này vào tay Đại vương”.

Vua ấy sẽ tín dụng ông và quý trọng ông, giao cho ông thống lãnh đạo binh. Sau đó ông phải đưa đạo binh xuống nơi đầy đặc rắn rít, cá sấu, chúng sợ hãi sẽ không chịu xuống. Lúc ấy ông phải trình vua: “Tâu Đại vương, quân sĩ của Đại vương đã bị gã con trai nhà nông ấy làm tan rã mất rồi, không còn người nào, thậm chí cả Đại sư Kevatta và các vương hầu đều bị mua chuộc . Họ chỉ rảo quanh quẩn rình rập Đại vương thôi, chứ họ thành người tay chân của gã nông dân ấy cả rồi, chỉ còn một mình tiểu thần là tôi trung của Đại vương, nếu Đại vương không tin tiểu thần, xin Đại vương ban lệnh cho các vương hầu mặc triều phục đến chầu Đại vương. Sau đó, Đại vương quan sát y phục của họ, đồ trang sức, cung kiếm của họ xem, thảy đều do gã con trai nhà nông dân ấy tặng và khắc tên gã vào, rồi ngài biết chắc mọi việc”.

Vua ấy sẽ y lời và tin chắc như vậy, nên lo sợ phải đuổi các vương hầu về xứ. Rồi vua ấy sẽ hỏi: “Kế đó phải làm gì”. Ông phải đáp: “Tâu Đại vương, gã nông dân ấy đầy mưu lược tài trí, nếu Đại vương còn ở đây vài ngày nữa, gã sẽ chiếm cả đạo quân và bắt lấy Đại vương. Vậy xin Đại vương chớ chậm trễ ngay đêm nay vào canh giữa ta hãy lấy ngựa lên đường đừng để phải chết trong tay kẻ thù”. Vua ấy sẽ nghe theo lời khuyên của ông và trong khi vua ấy đào tẩu, ông hãy trở lui báo cho dân chúng ta rõ.

Nghe vậy Anukevatta đáp:

– Thưa bậc Trí giả, được lắm, tiểu thần xin nghe theo lời của ngài.

– Vậy thì xin ông ráng chịu vài cái đấm đá.

– Thưa bậc Trí giả, ngài muốn làm gì tấm thân hèn này cũng được, chỉ xin tha mạng và toàn gia được an lành.

Thế là sau khi tỏ lòng ân cần quý trọng gia quyến Anukevatta, ngài ban lệnh đem ông ấy ra hành hạ tàn tệ như trên rồi mang giao cho quân của vua Brahmadatta. Vua này thử lòng ông xong lại tin dùng, quý trọng và giao cho ông việc điều khiển đạo binh. Ông liền mang quân sĩ đến những nơi đầy rắn rít, cá sấu, khiến họ kinh hoảng, rồi lại bị tên giáo, lao trên pháo đài bắn xuống bị thương nên sau đó không còn ai dám cả gan đến gần nữa.

Lúc ấy, Anukevatta yết kiến vua và nói:

– Tâu Đại vương, không còn ai chiến đấu cho Đại vương nữa rồi, tất cả đều bị mua chuộc. Nếu Đại vương không tin tiểu thần, xin Đại vương triệu các vương hầu đến chầu rồi xem chữ khắc trên y phục và quân trang của họ.

Vua y lời và khi thấy những chữ khắc trên quân trang quân phục của họ, ông tin chắc họ đều bị mua chuộc cả, nên ông hỏi:

– Đại sư, vậy phải làm gì bây giờ?

– Tâu Đại vương, không còn làm gì được nữa cả.

Nếu Đại vương chậm trễ, gã nông dân ấy sẽ bắt lấy Đại vương mất thôi. Tâu Đại vương, nếu Đại sư Kevatta phải ra đường với vết thương trên trán, Đại sư cũng đã lấy của đút lót, Đại sư đã nhận viên bảo ngọc ấy, khiến Đại vương phải tìm đường tẩu thoát suốt cả ba dặm đường rồi lại được Đại vương tin cậy và rước Đại vương trở về. Đó là một phản thần! Tiểu thần không thể tuân lệnh lão ấy dù chỉ một đêm, vậy ngay đêm nay vào canh giữa Đại vương phải tẩu thoát. Đại vương không còn ai là thân hữu trừ tiểu thần cả.

– Này Đại sư, vậy thì khanh phải đem ngựa và xe của trẫm đến đây sẵn sàng.

Thấy vua đã quyết tâm đào tẩu, ông liền trấn an vua bảo đừng lo sợ gì, rồi đi tìm các thám tử bảo rằng vua sẽ đào tẩu đêm nay, họ đừng tính chuyện ngủ nghỉ nữa. Kế đó ông lại chuẩn bị vương mã, sắp đặt đây cương sẵn sàng để cho vua càng kéo dây thì ngựa càng chạy nhanh hơn. Vào nửa đêm, ông tâu:

– Tâu Đại vương, vương mã đã sẵn sàng, đến giờ khởi hành rồi.

Vua liền lên ngựa tẩu thoát, Anukevatta cũng lên ngựa như thể tháp tùng vua, nhưng chỉ được một khoảng, ông trở lui và vương mã theo sự sắp xếp dây cương sẵn sàng, đã phi thật nhanh khi vua kéo dây thúc ngựa. Sau đó Anukevatta đến giữa ba quân thét vang:

– Vua Cùlani Brahmadatta đã tẩu thoát!

Các thám tử và tùy tùng đều thét lên như vậy.Các vương hầu kia, nghe tiếng ồn ào, hoảng hốt nghĩ thầm: “Bậc Trí giả Mahosadha ắt hẳn đã mở cổng thành, ta sẽ chết mất thôi”.

Họ chỉ còn nhìn thoáng các vật dụng cùng các món giải trí, rồi chạy trốn. Đám người kia lại la to hơn:

– Các vương hầu đã tẩu thoát!

Nghe tiếng ồn ào các quân sĩ đang ở cổng thành và các tháp canh la hét vỗ tay ầm ĩ.

Rồi toàn thể nội thành cũng như ngoại thành đều ra hô vang dậy như thể quả đất nứt nẻ ra hay đại dương tan tành, trong khi vô số quân sĩ trong đạo binh hùng mạnh kia kinh hoảng vì sợ chết, lại không nơi nương tựa hay ẩn náu, liền thét vang:

– Vua Brahmadatta đã bị bậc Trí giả Mahosadha bắt đi cùng với một trăm lẻ một vương hầu rồi!

Họ liền tháo chạy tán loạn, ném bỏ cả tấm khố quanh lưng. Chiến trường bị bỏ hoang, vua Cùlani về kinh thành của mình cùng với một trăm lẻ một tướng lãnh vương hầu kia.

Sáng hôm sau, quân sĩ mở cửa thành đi vào thấy đủ các chiến lợi phẩm, liền trình với bậc Đại Sĩ và hỏi ý những việc phải làm. Ngài bảo:

– Các vật dụng họ để lại đều là của ta. Các ngươi hãy dâng đức vua những vật dụng của các vương hầu, đem cho ta những vật dụng của Kevatta và của những tướng lãnh khác, còn lại bao nhiêu để cho dân chúng lấy đi.

Cả nửa tháng ròng mới lấy hết các châu báu và vật dụng quý giá, bốn tháng sau mới thu dọn hết mọi đồ vật khác. Bậc Đại Sĩ ban tặng đại vinh hiển cho Anukevatta. Từ đó dân chúng Mithilà có vô số vàng ngọc.

  1. ĐƯỜNG HẦM VĨ ĐẠI.

Lúc bấy giờ vua Brahmadatta cùng các vương hầu ấy đã sống một năm ở kinh thành Uttarapãncàla.

Một ngày kia, Kevatta nhìn bóng mình trong gương, thấy vết sẹo trên trán, nghĩ thầm: “Cái này là do gã nông dân ấy gây ra, gã biến ta thành trò cười trước các vương hầu ấy”. Lão thấy uất hận tràn ngập trong lòng, lão nghĩ thầm: “Làm sao trừ khử nó? Ồ mưu kế này đây. Công chúa của ta là Pãncàlacandì, có nhan sắc tuyệt thế, chẳng khác nào tiên nữ trên trời. Ta sẽ cho vua Vedeha thấy nàng. Vua ấy sẽ say mê nàng như thể cá mắc câu. Ta sẽ bắt lấy vua cùng gã Mahosadha và giết trọn cả hai rồi nâng chén rượu mừng chiến thắng”. Quyết định như thế xong, lão đến chầu vua:

– Tâu Đại vương, thần xin dâng ý kiến này.

– Này Đại sư, ý kiến của khanh đã làm trẫm không còn mảnh vải che thân nữa. Bây giờ khanh còn muốn gì nữa đây? Hãy bình tâm lại.

– Tâu Đại vương, chưa bao giờ có mưu kế nào sánh với kế này được.

– Vậy khanh hãy nói đi.

– Tâu Đại vương, xin chỉ nói riêng giữa Đại vương và tiểu thần.

– Thì hẳn là vậy.

Lão Bà-la-môn liền đưa vua lên thượng lầu và nói:

– Tâu Đại vương, thần sẽ lôi cuốn vua Vedeha bằng tham dục để đem cho được vua ấy về đây và giết đi.

– Này Đại sư, thật là diệu kế, nhưng phải làm sao để gợi tham dục của vua ấy được?

– Tâu Đại vương, công chúa Pãncàlacandì có sắc đẹp vô song, ta sẽ bảo các thi sĩ ca tụng nhan sắc và đức hạnh của nàng bằng thi ca rồi phổ biến các bài ca đó tại thành Mithilà. Khi nào ta thấy vua ấy tự nhủ thầm: “Nếu vị anh quân Vedeha không chiếm được nữ báu này, thi ngai vàng cùng quốc độ này còn nghĩa lý gì nữa đối với ta!”. Khi vua ấy đã bị lôi cuốn vào tư tưởng kia, thần sẽ đi định ngày sính lễ, vào ngày đã định, vua ấy sẽ đến. Như cá nuốt câu, gã nông dân kia cũng đến với vua, thế là ta sẽ nuốt trọn.

Vua nghe vậy đẹp ý và chấp nhận ngay.

– Này Đại sư, thật là diệu kế, ta sẽ làm như vậy.

– Nhưng có một con chim mayneh đứng bên cạnh vương sàng, đã ghi nhận sự việc trên.

Sau đó vua cho gọi các thi sĩ tài hoa, ban tiền bạc rất hậu hỷ, cho họ được chiêm ngưỡng công chúa rồi bảo họ làm thơ ca tụng nhan sắc nàng, nên họ làm những bài ca vô cùng du dương rồi ngâm thơ cho vua nghe. Vua lại ban thưởng họ rất trọng hậu. Các nhạc sĩ học các bài ca này từ các thi sĩ kia, đem ra hát giữa dân chúng, nhờ vậy chúng được truyền bá rất nhanh ra ngoại thành. Khi chúng đã lan rộng khắp nơi, vua cho triệu các ca sĩ vào và phán:

– Này các con, ban đêm hãy trèo lên cây cùng với chim chóc và ca hát, rồi sáng mai, buộc chuông lục lạc vào cổ chúng, thả chúng bay đi xong, trèo xuống.

Vua cho thi hành việc này để thế nhân có thể bảo chính chư Thiên ca tụng sắc đẹp của công chúa Pãncàla. Vua lại triệu các thi sĩ kia vào và phán:

– Này các con hãy làm thơ đưa tin này: Công chúa diễm lệ kia không dành cho vua nào ở cõi Diêm-phù-đề trừ vua Vedeha ở thành Mithilà. Các con hãy ca tụng oai danh của vua ấy cùng nhan sắc của công chúa.

Họ vâng theo, rồi tường trình công việc ấy, vua ban thưởng họ rất hậu, rồi bảo họ đi Mithilà, ca hát trên đường và tán tụng như trên. Họ liền đến Mithilà. Dân chúng tụ tập lại nghe hát rất đông và hoan hô nhiệt liệt. Ban đêm họ trèo lên cây ca hát, buổi sáng họ lại buộc chuông lục lạc vào cổ chim rồi mới trèo xuống.

Dân chúng nghe tiếng lục lạc trên không, rồi khắp kinh thành vang dậy tin đồn rằng chính các Thiên thần đang tán tụng nhan sắc diễm kiều của công chúa. Vua hay tin cho triệu các thi sĩ vào và mở hội ngay trong cung điện. Vua tưởng rằng họ muốn dâng công chúa diễm lệ vô song của vua Cùlani cho ngài, nên ngài ban thưởng họ rất hậu. Sau đó, về nước, họ trình vua Brahmadatta, Kevatta liền thưa:

– Tâu Đại vương, đã đến lúc thần đi định ngày sính lễ.

– Này Đại sư, thật là tuyệt diệu, khanh muốn đem theo vật gì?

– Xin cho thần một tặng vật nhỏ.

Vua liền ban nó ngay. Lão đem quà đi, cùng với một đoàn tùy tùng đông đảo hộ tống đến kinh đô Vedeha. Khi lão cho báo tin lão đã đến, cả thành chấn động lên:

– Hai vua Cùlani và Vedeha sẽ kết tình thân hữu – họ bảo nhau như vậy – vua Cùlani sẽ gả công chúa cho Đại vương của ta và Kevatta đến đấy định ngày sính lễ.

Vua Vedeha nghe tin này và bậc Đại Sĩ cũng nghe tin, liền nghĩ thầm: “Ta không thích lão ấyđến đây, ta phải tìm hiểu xem sao cho đúng”. Thế là ngài thông tin với các thám tử đang ở tại nước vua Cùlani. Họ trả lời:

– Chúng thần không hiểu rõ việc này. Vua cùng Kevatta ngồi đàm đạo riêng trong vương thất, nhưng có con chim Maynah đứng cạnh bên vương sàng hiểu rõ việc này.

Nghe vậy, bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: “Muốn cho kẻ thù ta không đắc thắng lợi, ta phải ngăn chia kinh thành từng phần và trang hoàng cho đẹp, mà đừng cho Kevatta thấy được

Thế là từ cổng thành đến cung điện và từ cung điện đến tư dinh ngài, hai bên đường ngài cho dựng hàng rào lưới, phủ thảm lên trên, treo đầy tranh ảnh, rải hoa khắp mặt đường, đặt bình nước khắp nơi, cờ xí rợp trời. Khi Kevatta vào thành, lão không thể thấy mọi việc sắp đặt như trên, lão tưởng vua trang hoàng kinh thành để đón lão, chứ không hiểu người ta làm vậy để che mắt lão. Khi lão yết kiến vua, lão dâng tặng vật, cung kính chúc tụng rồi ngồi xuống một bên.

Sau khi được đón tiếp trọng thể, lão đọc hai vần kệ tuyên bố lý do lão xin yết kiến:

  1. Một vì vua muốn kết thân bằng,
    Tặng bảo vật này đến Đại vương,
    Mong các sứ thần lời êm dịu,
    Từ nơi chốn nọ chóng lên đường.
  2. Ước mong lời lẽ họ ôn hòa,
    Đem lại hân hoan cho chúng ta,
    Mong ước thần dân Vi-đề quốc,
    Hòa đồng với tộc Pañ-cà-la.

Lão lại tiếp tục nói:

– Tâu Đại vương, đáng lẽ quốc vương của thần sai kẻ khác đi thay thần nhưng ngài đã phái thần đi, vì tin chắc rằng không ai nói chuyện này dễ nghe cho bằng thần. Ngài bảo: “Này Đại sư, Đại sư hãy đi thuyết phục đức vua ấy xem xét chuyện này thật thuận lợi và rước đức vua ấy về đây”. Vậy tâu Đại vương, xin Đại vương ngự lên xe giá, Đại vương sẽ đón về một công chúa tuyệt trần diễm lệ và tình thân hữu sẽ được tạo lập giữa Đại vương và quốc vương của thần.

Vua rất đẹp ý khi nghe lời tâu trình này, ông say sưa vì ý tưởng sắp đón về một công chúa diễm lệ vô song, liền phán:

– Này Đại sư, trước kia có mối bất hòa giữa Đại sư và bậc Trí giả Mahosadha tại trận Pháp chiến. Nay Đại sư hãy đi gặp vương tử của trẫm, hai bậc Trí giả hãy hòa giải và sau khi đàmđạo cùng nhau, xin trở lại đây.

Lão Kevatta hứa đi hội kiến bậc Trí giả, rồi lui ra.

Ngày ấy, bậc Đại Sĩ quyết định tránh mọi việc đàm luận với con người độc ác kia, nên buổi sáng ngài uống một chút bơ tươi rồi bảo quân hầu bôi phân bò ướt trên sàn nhà, bôi dầu vào cột nhà, dẹp hết mọi ghế ngồi, sàng tọa trừ một sàng tọa nhỏ hẹp vừa cho ngài nằm. Ngài ra lệnh cho quân hầu:

– Khi lão Bà-la-môn ấy bắt đầu nói, các ngươi hãy bảo: “Thưa Tôn sư Bà-la-môn, xin ngàiđừng trò chuyện với bậc Trí giả, hôm nay bậc Trí giả đã dùng một liều bơ tươi”. Và khi ta làm như thể muốn trò chuyện với lão thì phải ngăn lại và bảo: “Tâu Chúa công, ngài đã dùng một liều bơ tươi, xin đừng nói chuyện nữa”.

Sau khi căn dặn họ, bậc Đại Sĩ khoác hồng y nằm trên sàng tọa, cùng sắp đặt quân hầu ở bảy tháp canh xong xuôi. Khi Kevatta đến cổng thành thứ nhất, liền hỏi bậc Đại Sĩ ở đâu, các quân hầu trả lời:

– Thưa Tôn giả Bà-la-môn, xin đừng gây tiếng ồn ào, nếu ngài muốn vào thành, xin giữ yên lặng. Hôm nay bậc Trí giả dùng bơ tươi, nên cử tiếng ồn.

Khi đến các cổng thành kia, họ cũng bảo như vậy. Đến cổng thứ bảy, lão hội kiến bậc Đại Sĩ và bậc Đại Sĩ ra vẻ muốn nói chuyện, quân hầu liền thưa:

– Thưa Chúa công, ngài vừa uống một liều bơ tươi thật mạnh, cớ sao ngài lại trò chuyện với lão Bà-la-môn khốn nạn này?

Thế là họ ngăn ngài lại. Khi lão kia bước vào, lão không tìm được chỗ ngồi cũng không có chỗ nào đứng bên tọa sàng của ngài được, lão liền bước qua lớp phân bò ẩm ướt rồi đứng lại. Lúc ấy một kẻ nhìn thấy lão, liền dụi mắt, một kẻ nhướng mày và một kẻ gãi cùi chỏ. Lão thấy vậy, bực mình bảo:

– Thưa bậc Trí giả, ta đi đây.

Một kẻ khác đáp:

– Ô hay, tên Bà-la-môn khốn nạn kia, đừng làm ồn ào, nều không ta sẽ bẻ gãy xương ngươi ra.

Lão hoảng hốt nhìn lui, thì một kẻ lấy gậy đánh lưng lão, kẻ khác nắm cổ lão đẩy ra, kẻ khác đấm vào lưng lão cho đến lúc lão kinh hoàng bỏ chạy như con hươu trong miệng hổ báo và trở về cung.

Lúc bấy giờ vua nghĩ thầm: “Hôm nay vương nhi sẽ hài lòng khi được tin này. Hai bậc Trí giả sẽ đàm đạo tương đắc biết bao về đạo pháp. Hôm nay họ sẽ giải hòa và ta sẽ là người thắng cuộc”, vì thế khi vua thấy Kevatta, ông liền ngâm kệ hỏi về cuộc đàm đạo ấy:

  1. Việc ngài hội kiến Ma-sa-dha,
    Diễn tiến ra sao, Ke-vat-ta,
    Xin hãy nói ngay cho trẫm biết,
    Ma-sa-dha có muốn cầu hòa?

Kevatta đáp lại:

– Tâu Đại vương, Đại vương nghĩ đó là bậc Trí giả, nhưng thật chẳng có kẻ nào tồi tệ hơn nữa.

Và lão ngâm kệ:

  1. Kẻ kia bản chất thật gian tà,
    Tâu Đại vương, ngoan cố, xấu xa,
    Khó chịu, tính tình đầy độc ác,
    Như người câm điếc, chẳng lời ra.

Lời này không làm vừa lòng vua, nhưng vua cũng không bắt bẻ gì được. Vua liền ban cho Kevatta và đám hầu cận mọi thứ cần dùng và một ngôi nhà để ở, rồi bảo lão lui về an nghỉ. Sau khi lão đi rồi, vua nghĩ thầm: “Vương nhi là bậc Trí, biết rõ cách cư xử nhã nhặn, tuy thế vương nhi lại không muốn nói chuyện lịch sự với lão này, cũng không muốn thấy lão, chắc hẳn vương nhi đã thấy nguyên cớ bất an sau này rồi”. Và ông ngâm kệ:

  1. Quyết định này sao khó hiểu vầy,
    Một nguyên nhân thật rõ ràng thay,
    Được người dũng cảm này tiên đoán,
    Vì vậy thân ta rung động đây,
    Ai sẽ là người mất tính mạng,
    Và rơi vào địch thủ cao tay?

Chắc chắn vương nhi đã thấy mối nguy hại nào đó trong cuộc viếng thăm cũa lão Bà-la-môn này. Lão chẳng đến đây vì mục đích thân hữu đâu. Ắt hẳn lão muốn lôi kéo ta bằng sắc dục, khiến ta phải đến kinh thành của lão rồi bắt lấy ta. Bậc Trí giả chắc thấy trước nguy cơ nào đó sắp xảy ra?”. Trong lúc vua đang quay cuồng lo lắng với những ý nghĩ trong đầu, thì bốn hiền thần bước vào. Ông bảo Senaka:

– Này Senaka, khanh nghĩ trẫm có nên đến thành Uttarapãncàla và cầu hôn công chúa Cùlani chăng?

Lão đáp:

– Tâu Đại vương, sao Đại vương lại nói vậy? Khi duyên lành đến Đại vương, ai dám xua đuổi nó được? Nếu Đại vương đến đó và cầu hôn công chúa, thì chẳng có vị vua nào sánh bằng Đại vương trong toàn cõi Diêm-phù đề trừ vua Cùlani Brahmadatta, vì Đại vương đã kết duyên được với công chúa của vị Đại đế đệ nhất. Đại đế kia biết các vương tử khác đều chỉ là chư hầu của ngài, còn vua Vedeha duy nhất có thể sánh bằng ngài thôi, nên mới mong gả công chúa diễm lệ vô song ấy. Xin Đại vương cứ làm theo lời ngài và chúng thần cũng sẽ được ban tặng y phục cùng vật trang hoàng.

Khi vua hỏi các vị kia, họ cũng đều trả lời như vậy. Trong lúc họ đang đàm đạo thì lão Bà-la-môn Kevatta từ tư dinh đến tạ từ vua để ra về, lão nói:

– Tâu Đại vương, thần không thể ở lại đây được nữa, xin cho phép thần ra về, tâu Chúa thượng.

Vua trọng đãi lão rồi cho lão ra về.

Khi bậc Đại Sĩ hay tin lão đi rồi, ngài tắm rửa, thay quần áo và vào chầu vua, cung kính bái vua rồi ngồi qua một bên. Vua nghĩ thầm: “Vương nhi Mahosadha là bậc Trí giả vĩ đại, đầy tài ứng biến, thông hiểu quá khứ hiện tại và vị lai, vậy sẽ biết được ta nên đi hay không”. Tuy thế, bị mê mờ vì tham dục, vua không giữ được quyết định đầu tiên, và ngâm kệ hỏi:

  1. Sáu người một ý thật hòa đồng
    Là các bậc hiền trí thượng nhân,
    Đi, hoặc không đi và ở lại,
    Ma-ho-sad hãy nói ta cùng.

Lúc ấy bậc Trí giả nghĩ thầm: “Vua này ham đắm sắc dục quá độ, nên mù quáng điên rồ nghe theo lời bốn lão kia. Ta sẽ bảo cho vua biết việc ra đi tai hại dường nào và can gián ngài”. Thế là ngài ngâm bốn vần kệ sau:

  1. Ngài có biết chăng, tâu Đại vương,
    Cù-la-ni thế lực hùng cường,
    Vua kia muốn giết ngài như thể,
    Lập hố bắt nai với lúa hương!
  2. Như cá tham ăn, không nhận thấy,
    Lưỡi câu giấu kín dưới mồi ngon,
    Một người đời chẳng hề trông thấy,
    Bóng dáng đâu đây của tử thần.
  3. Cũng vậy, đầy tham dục, Đại vương,
    Không sao nhận thấy vị công nương,
    Con Cù-la đế là thần chết,
    Vì chính ngài là một thế nhân.
  4. Đại vương cứ đến Pãn-cà-la,
    Và tự diệt vong chốc lát mà,
    Như chú nai kia lâm đại nạn,
    Trên con đường nọ bị sa cơ.

Nghe lời quở trách nặng nề như thế, vua nổi cơn thịnh nộ: “Gã này tưởng ta là nô lệ của gã”.Ông nghĩ thầm: “Gã quên rằng ta là vị chúa tể, gã biết rằng vị Đại đế kia nhắn gả công chúa cho ta mà không nói ra được một lời chúc tụng tốt lành nào, lại dám tiên đoán ta sẽ bị bắt, rồi bị giết như con nai ngu xuẩn hay con cá mắc câu hoặc con hươu bị bắt trên đường”. Lập tức vua ngâm kệ:

  1. Trẫm thật điếc ngấm câm, ngu dại thay,
    Hỏi ngươi những việc tối cao vầy!
    Làm sao ngươi hiểu như người khác
    Khi đã lớn lên bám lưỡi cày?

Cùng với những lời thóa mạ này, vua phán:

– Gã nông dân này đang cản trở duyên may của trẫm, hãy cút đi!

Rồi ông ngâm kệ, để tống ngài ra:

  1. Bắt lấy gã này, tóm cổ mau,
    Tống ra khỏi xứ sở ta nào,
    Con người dám nói hòng ngăn cản,
    Việc trẫm sắp đi lấy bảo châu!

Nhưng ngài thấy vua thịnh nộ, liền nghĩ thầm: “Nếu có kẻ nào tuân lệnh vua lôi cổ, nắm tay ta hay đụng vào thân ta, ta sẽ bị ô nhục đến ngày tàn, vậy ta muốn tự mình ra đi mà thôi”. Thế là ngài từ tạ vua về tư dinh.

Lúc bấy giờ vua chỉ nói thế trong cơn thịnh nộ, nhưng vì kính nể bậc Đại Sĩ nên ông không ra lệnh cho ai thi hành điều ấy cả. Bậc Đại Sĩ lại nghĩ thầm: “Vua này thật ngu muội, không biết chuyện lợi hại cho mình. Vua lại đang si tình, nên định đi đón công chúa về, mà không thấy hiểm họa đang kề gần, sẽ đi đến chỗ diệt vong. Ta không nên bận tâm đến lời lẽ của vua. Đó là Đại ân nhân của ta, đã hậu đãi ta lâu nay. Ta phải tỏ lòng trung thành với vua, nhưng trước hết ta phải cho gọi chim két vào và tìm hiểu sự thật, rồi ta sẽ đích thân đi việc này”. Thế là ngài cho gọi chim két.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Sau đó ngài đi khuất mắt vua,
    Nói cùng chim két Mà-tha-ra:
    “Đến đây, anh vũ màu xanh lục,
    Bạn hãy làm công việc giúp ta.
  2. Pãn-cà Đại đế có May-nah,
    Canh giữ vương sàng của đức vua,
    Hỏi nó ngọn nguồn, vì nó biết,
    Điều cơ mật của Ko-si-ya”.
  3. Mà-tha-ra, trí điểu nghe rồi,
    Két lục bay đi đến tận nơi,
    Trú ngụ chim May-nah quý tộc,
    Ma-tha-ra trí điểu trao lời,
    Với May-nah giọng du dương ấy,
    Trong chiếc lồng son đẹp tuyệt vời:

89.- Bạn ơi, bạn có được khang an,
Trong chiếc lồng vàng của bạn chăng,
Hạnh phúc có tràn đầy, Vệ-xá,
Họ cho bạn đủ mật, ngô rang?

  1. Em đầy an lạc, hỡi Tôn ông,
    Quả thật nơi đây hạnh phúc tròn,
    Họ tặng em ngô rang, mật ngọt;
    Hỡi Anh vũ có trí tinh thông,
    Sao ngài đến, vậy ai sai đến,
    Em chẳng hề nghe thấy quý ông?

Khi nghe vậy, két nghĩ thầm: “Nếu ta bảo ta từ Mithilà đến, chắc nó chẳng bao giờ tin cậy ta, vì lo bảo vệ sinh mạng mình. Trên đường đi ta có thấy kinh thành Aritthapura, trong quốc độ Sivi, vậy ta sẽ bịa chuyện nói là vua Sivi phái ta đến đây”. Két bảo:

  1. Ta là thị giả Chúa Si-vi,
    Ở chính trong cung điện xứ kia,
    Từ đó vị minh quân giải thoát,
    Các tù nhân được tự do đi.

Chim Maynah liền cho két bắp rang tẩm mật cùng nước mật để sẵn cho nó trên dĩa vàng, rồi bảo:

-Thưa Tôn ông, ngài từ phương xa đến, ngài mang theo những vật gì?

Két bịa chuyện, vì muốn biết điều bí mật và đáp:

  1. Ta có vợ hiền một thuở xưa,
    Du dương tiếng hót, một May-nah,
    Rồi chim ưng nọ vồ nàng chết,
    Mang xác nàng đi trước mắt ta.

Chim Maynah hỏi:

– Làm thế nào diều hâu giết hại hiền tỷ được?

Két liền kể câu chuyện này:

– Cô nương hãy nghe đây. Một ngày nọ vua ta cho phép ta dự tiệc nước của ngài. Ta và hiền thê cùng đến nô đùa. Buổi chiều tối chúng ta cùng vua trở về cung, muốn cho lông khô ráo, ta cùng hiền thê bay ra đậu trên nóc cung điện. Lúc ấy một con diều hâu sà xuống chụp lấy chúng ta khi chúng ta vừa rời nóc cung, ta kinh hoảng bay nhanh để bảo vệ tính mạng, còn hiền thê tađang thai nghén nên không bay nhanh được, thế là nó giết hại nàng ngay trước mắt ta và tha đi. Đức vua thấy ta thương khóc vì mất nàng nên hỏi nguyên do. Khi nghe sự việc xảy ra, ngài phán: “Thôi hiền hữu, thế là đủ rồi, đừng khóc nữa, hiền hữu hãy đi tìm vợ khác”.Ta đáp: “Tâu Chúa công, tiểu thần đâu cần cưới một vợ khác độc ác xấu xa? Tiểu thần sống một mình tốt hơn”. Ngài bảo: -“Này hiền hữu, trẫm biết một con chim đức hạnh như vợ bạn, cận thần của vua Cùlani cũng là một chim Maynah như vợ bạn vậy. Hãy đi cầu hôn nàng. Xin nàng đáp lại. Nếu nàng ưng thuận, hãy đến nói cho trẫm rõ, trẫm hoặc hoàng hậu sẽ đi cưới nàng về thật trọng thể”. Nói xong, ngài phái ta đi, vì thế ta đến đây.

Két lại nói:

  1. Yêu quý vợ hiền, ta đến đây,
    Nếu nàng cho phép, tự hôm nay,
    Chúng ta có thể cùng nhau hưởng,
    Cuộc sống lứa đôi hạnh phúc thay.

Lời này khiến Maynah vô cùng đẹp ý nhưng không muốn lộ ý ra, nàng đáp như thể không ưng thuận:

  1. Anh vũ phải yêu Anh vũ thôi,
    May-nah kết hợp May-nah hoài,
    Làm sao có thể đem hòa hợp,
    Anh vũ, May-nah thật đẹp đôi?

Két nghe vậy nghĩ thầm: “Nàng đâu khước từ ta, nàng chỉ làm ra vẻ quan trọng thế thôi, chắc chắn nàng yêu ta thật tình rồi. Ta sẽ tìm lời ví von cho nàng tin tưởng ta”. Vì thế két bảo:

  1. Khi kẻ si tình yêu quý ai,
    Dù Chiên-đà hạ liệt mà thôi,
    Họ đều đồng đẳng bên nhau cả,
    Trong ái tình không có khác sai.

Nói xong, két lại tiếp tục hỏi về mức độ khác nhau trong dòng giống loài người:

  1. Mẫu thân của Chúa thượng Si-vi,
    Tên gọi là Jam-bà-va-tì,
    Bà đã được lên ngôi chánh hậu,
    Và Su Hắc đế vẫn yêu vì.

Lúc bấy giờ mẫu hậu của vua Sivi, bà Jambàvatì, thuộc dòng Chiên-đà-la, là ái hậu của vua Vàsudeva, một vị vua trong bộ tộc Kanhàgana, vị thái tử trong số mười hoàng tử. Chuyện kể rằng, một ngày nọ ngài từ cung Dvàravatì vào ngự viên, trên đường ngài gặp một kiều nữ đứng bên vệ đường, trong lúc nàng đi làm công chuyện từ làng Chiên-đà-la của nàng đến thị trấn, vua yêu nàng ngay rồi hỏi gốc gác nàng, khi nghe là một kẻ Chiên-đà-la, vua rất buồn phiền, song khi biết nàng chưa chồng, ngài trở về cung ngay, mang theo nàng về cung và trang điểm nàng với đủ loại trân bảo rồi phong nàng làm chánh hậu. Nàng sinh hạ được một hoàng nam Sivi sau đó cai trị thần dân Dvàravatì khi vua cha mất.

Sau khi nêu gương ấy xong, két lại tiếp tục:

– Như vậy, ngay một vương tử như vua kia còn sánh duyên với một thiếu nữ Chiên-đà-la, huống hồ chúng ta chỉ ở thế giới loài vật? Nếu ta muốn sánh duyên với nhau thì chẳng có gì phải nói thêm nữa.

Và két đưa ra một gương khác như sau:

  1. Ra-tha-va nọ, một tiên nga,
    Cũng đã từng yêu quý Vac-cha,
    Người ấy đã yêu loài thú vật,
    Trong tình yêu chẳng khác nhau mà.

Vaccha là một ẩn sĩ và cách chàng yêu nàng như sau: Ngày xưa, một Bà-la-môn thấy rõ những tội lỗi của tham dục, nên từ bỏ cảnh phú quý xuất gia tu hành, sống trong vùng Tuyết Sơn dưới túp lều lá tự xây. Không xa lều này có một bầy tiên (nửa người nửa thú) sống trong hang đá, cùng nơi ấy lại có một con nhện. Con nhện này thường giăng tơ đâm thủng đầu các tiên nữ này để hút máu. Lúc bấy giờ các tiên cô yếu đuối và nhút nhát, con nhện thì hung bạo độc ác, nên họ không làm gì chống lại nó được, liền đến gặp ẩn sĩ. Đảnh lễ xong. họ kể cho ông nghe câu chuyện con nhện đang tàn phá họ như thế nào và họ bơ vơ không ai giúp đỡ, nên họ xin ông giết con nhện để cứu họ. Nhưng vị ẩn sĩ đuổi họ ra và la lên:

– Người như ta không sát sinh.

Một tiên nữ trong đám này tên là Rahavati chưa chồng và họ trang điểm cho nàng thật diễm lệ rồi đem đến ẩn sĩ bảo:

– Xin cho nàng này làm thị nữ của ngài và xin ngài giết kẻ thù của chúng tiện nữ.

Khi ẩn sĩ thấy nàng đem lòng yêu ngay và giữ nàng lại với mình, rồi nằm đợi con nhện ở miệng hang, khi nó bò ra kiếm mồi, liền lấy gậy giết nó, sau đó vị này sống với cô tiên, sinh con đẻ cái với nàng rồi qua đời, như vậy tiên nữ đã yêu vị này.

Con két kể gương này xong, liền bảo:

– Ẩn sĩ Vaccha, dù là người, vẫn sống với một tiên nữ thuộc nòi giống vật. Thế thì sao ta lại không làm như vậy, khi ta đều là loài chim?

Nghe xong, nàng đáp lại:

– Thưa tôn ông, con tim không phải lúc nào cũng chung thủy, em rất sợ cảnh chia ly với bạn tình.

Nhưng két ta là con vật khôn ngoan hiểu rõ mọi trò quyến rủ của nữ giới, nên ngâm kệ này thử nàng thêm nữa:

  1. Quả thật ta gần cất cánh xa,
    Hỡi nàng thánh thót giọng May-nah,
    Đây là lời chối từ ta đấy,
    Chắc chắn nàng đang khinh bỉ ta.

Nghe vậy nàng thấy tim dường như muốn vỡ ra, nhưng trước mắt chàng, nàng làm như thể đang bừng cháy lên một tình yêu mới mẻ đối với chàng, liền ngâm một vần kệ rưỡi như sau:

99-100. Không phước lành cho kẻ vội vàng
Mà-tha-ra, két lục khôn ngoan,
Ở đây cho đến khi triều kiến,
Chúa thượng và nghe tiếng dậy vang,
Của các trống chiêng khua đủ loại,
Và nhìn Đại đế đẹp huy hoàng.

Thế rồi lúc hoàng hôn xuống, chúng vui chơi cùng nhau, hưởng trọn tình bằng hữu hân hoan thích thú. Lúc ấy, két nghĩ thầm: “Nay nàng không giấu bí mật với ta nữa, ta phải hỏi nàng rồi ra đi”.

– Này nàng Maynah hỡi-Chàng bảo.

– Thưa chàng, có việc gì?

– Ta muốn hỏi nàng một vài chuyện. Có nên nói chăng?

– Xin chàng cứ nói.

– Thôi được, không hề gì, hôm nay là ngày hội, để ngày kia sẽ xem lại sao.

– Nếu thuận tiện trong ngày hội xin chàng cứ nói, còn nếu không thì thôi đừng nói nữa, thưa chàng.

– Đúng ra chuyện này thuận tiện trong ngày hội.

– Vậy xin chàng nói đi.

– Nếu nàng muốn nghe, ta mới nói.

Rồi két hỏi chuyện bí mật trong một vần kệ rưỡi như sau:

100-101. Tiếng đồn này thật lớn truyền ra,
Khắp cả miền đất nước của ta:
Công chúa Pãn-cà-la Đại đế,
Như sao rực sáng, được vua cha,
Đem gả Vi-đề-ha quý tộc,
Lễ thành hôn sắp đến đây mà!

Nghe vậy, nàng bảo:

– Này chàng ơi, trong ngày hội này mà chàng nói chuyện xui xẻo quá!

– Ta cho đó là chuyện may mắn, sao nàng lại bảo xui xẻo, thế là nghĩa gì?

– Thưa chàng em không nói được đâu.

– Cô nương ơi, từ giờ phút nàng từ chối cho ta rõ bí mật mà nàng biết, thì mối lương duyên của đôi ta chắc phải đứt đoạn.

Nghe chàng nài nỉ, nàng liền đáp:

– Vậy thì chàng hãy nghe đây:

  1. Đừng để cho ai, dẫu kẻ thù,
    Tác thành hôn lễ, Ma-tha-ra,

    Giống như cách của hai vua ấy,
    Pãn-cà-la và Vi-đế-ha.

Két hỏi:

– Cô nương ôi, tại sao nàng bảo như vậy?

Nàng đáp:

– Xin hãy nghe đây, em sẽ nói mọi tai hại của việc này.

Rồi nàng ngâm kệ:

  1. Vua hùng của xứ Pañ-cà-la,
    Sẽ quyến rủ vua Vi-đế-ha,
    Và sẽ giết vua kia lập tức,
    Nàng đây chẳng phải bạn đâu mà.

Nàng kể mọi chuyện bí mật cho két khôn ngoan và con két khôn ngoan nghe vậy cứ khen ngợi Kevatta hết lời:

– Vị Đại sư thật là đa mưu túc kế, giết vua kia như vậy thật là diệu kế. Nhưng việc rủi ro nào sẽ xảy ra cho ta đây?

– Vậy giữ yên lặng là thượng sách.

– Thế là cuộc hành trình của két đã đạt kết quả. Sau khi ở lại đó một đêm với nàng, két bảo:

– Cô nương ơi, ta phải về xứ vua Sivi và tâu trình vua là ta đã tìm được một ái thê.

– Rồi két từ giã nàng qua câu kệ:

  1. Nay xin từ giã bảy đêm trường,
    Ta sẽ tâu trình với Đại vương,
    Của xứ Sivi, ta đã gặp,
    May-nah và lập tổ uyên ương.

Lúc bấy giờ chim Maynah, dù không muốn xa két cũng không thể nào từ chối được, liền ngâm kệ sau:

  1. Em để chàng đi trong bảy đêm,
    Sau nếu chàng không trở lại em,
    Em sẽ tự mình tìm nắm mộ,
    Chàng về em cũng sẽ quy tiên!

Két đáp lại:

– Cô nương ơi, sao nàng lại nói thế, nếu sau bảy ngày ta không gặp nàng, làm sao ta sống được?

Miệng nói thế, nhưng trong lòng két nghĩ thầm: “Nàng sống hay chết, ta đâu có quan tâm đến làm gì?”. Két vươn cao đôi cánh, sau khi bay một khoảng ngắn về phía xứ Sivi, nó quay lại về hướng thành Mithilà. Rồi đứng trên vai bậc Trí giả, khi bậc Đại Sĩ đem nó lên thượng lầu và hỏi tin tức, nó kể với ngài tất cả. Ngài ban thưởng nó trọng thể như trước kia.

*

Bậc Đạo Sư giải thích chuyện này như sau:

  1. Rồi Mà-tha, két khôn ngoan,
    Trình Ma-ho-sad Trí nhân sự tình.

*

Nghe xong bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: “Nhà vua sẽ đi, dù ta muốn hay không cũng vậy và nếu ngài đi, ngài sẽ bị tiêu diệt ngay. Còn nếu ta cứ oán hận một vị vua đã ban cho ta nhiều phú quý vinh hoa như vậy mà không giúp ích ngài, thì thật đáng hổ thẹn. Khi tìm được một người tài trí như ta, làm sao người bị tàn hại được? Ta sẽ khởi hành trước vua và sẽ gặp vua Cùlani, ta sẽ sắp đặt mọi việc chu đáo. Ta sẽ xây một kinh thành cho vua Vedeha ngự với một lối đi nhỏ hơn dài một dặm và một đường hầm lớn dài nửa dặm. Ta sẽ làm lễ thụ phong công chúa của vua Cùlani làm vương hậu của vua ta, rồi ngay khi kinh thành bị một trăm lẻ một vương hầu cùngđạo binh mười tám vạn quân sĩ bao vây, ta sẽ cứu chúa như thể mặt trăng được cứu khỏi móng vuốt của thần Ràhu (La-hầu) rồi đưa ngài về nước. Việc ngài hồi cung chỉ ở trong tay ta”.

Khi ngài nghĩ như vậy, nỗi hân hoan tràn ngập khắp châu thân, rồi do niềm hân hoan thúc đẩy, ngài thốt lên ước nguyện này:

  1. Con người luôn phải thực hành,
    Vì quyền lợi của người mình thọ ân.

Sau đó ngài tắm rửa xoa dầu thơm xong, phục sức cực kỳ sang trọng đi vào cung, kính lễ vua, rồi liền đứng sang một bên.

– Tâu chúa thượng-ngài tâu-Chúa thượng sắp ngự xa giá đến kinh thành Uttarapãncàla chăng?

– Phải đấy vương nhi, nếu trẫm không chiếm được công chúa Pañcàlacandì, thì vương quốc này có nghĩa gì đối với trẫm? Vương nhi đừng rời trẫm nữa, hãy cùng đi với trẫm. Đến đó, trẫm sẽ được hai mối lợi lớn: “Trẫm sẽ được đệ nhất nữ báu và kết thân với vị vua kia “.

Bậc Đại Trí liền đáp:

– Tâu Chúa thượng, tiểu thần sẽ đi trước, xây cung điện cho Chúa thượng ngự, Chúa thượng sẽ đến khi tiểu thần tâu trình về.

Nói xong ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Thần sẽ ra đi trước Đại vương,
    Đến kinh thành tráng lệ huy hoàng,
    Pãn-cà-la để xây cung điện,
    Dâng chúa Vi-đề- ha vẻ vang.
  2. Khi nào thần đã dựng xây xong
    Dâng chúa Vi-đề mỹ lệ cung,
    Thần sẽ tâu trình ngài đến ngự,
    Hỡi vị chúa tể đại anh hùng!

Vua nghe vậy rất đẹp lòng, vì thấy ngài không bỏ mặc ông, nên bảo:

– Này vương nhi, nếu con đi trước, con có cần gì chăng?

– Tâu Đại vương, tiểu thần cần một đạo binh.

– Vương nhi muốn cứ đem bao nhiêu tùy ý.

Bậc Trí giả nói tiếp:

– Tâu Chúa thượng, xin cho mở bốn ngục thất, phá xiềng xích các kẻ cướp bóc và cho họ cùng đi với tiểu thần.

– Vương nhi cứ làm như ý muốn- Vua bảo.

Bậc Đại Sĩ cho mở các cửa ngục, đem ra những kẻ anh hùng, dũng mãnh, có thể làm phận sự khi được giao và bảo họ phụng sự ngài. Ngài trọng đãi các kẻ này và đem theo ngài mười támđoàn thợ hồ, thợ rèn, thợ mộc, thợ sơn, những người có tài thủ xảo, mỹ thuật trang bị đầy đủ lưỡi dao, xẻng cuốc và nhiều dụng cụ khác. Với đoàn tùy tùng rầm rộ như vậy, ngài từ giã kinh thành.

*

Bậc Đạo Sư diễn tả việc này qua vần kệ sau:

  1. Bậc Đại trí liền cất buớc ra,
    Đến thành hoa lệ Pañ-cà-la,
    Để xây dựng thật nhiều cung điện,
    Dâng chúa vinh quang Vi-đế-ha.

*

Trên đường đi, bậc Đại Sĩ xây làng ở mỗi dặm đường, giao cho một viên quan ở lại đảm trách mỗi ngôi làng, với lời căn dặn:

– Để dự phòng việc vua hồi cung cùng công chúa Pañcàlacandì, các ông phải chuẩn bị voi ngựa, chiến xa để đánh đuổi quân thù, rồi tức tốc đưa đức vua về thành Mithilà.

Khi đến bờ sông Hằng, ngài gọi Ànandakumara đến và bảo:

– Này Ànanda, hãy đem ba trăm thợ mộc đến thương lưu sông Hằng, tìm loại gỗ thật tốt, đóng ba trăm chiếc thuyền, bảo họ chặt thật nhiều gỗ tích trữ cho kinh thành, chở gỗ nhẹ cho đầy thuyền và mang về đây.

Ngài cũng đích thân đi thuyền vượt qua sông Hằng và từ chỗ ngài cập bến, ngài tính khoảng cách và nghĩ thầm: “Khoảng cách này chừng nửa dặm, phải có một đường hầm lớn, chỗ này phải xây thành cho vua ngự, từ chỗ này về cung, xa chừng một dặm phải có lối đi nhỏ”. Ngàiđánh dấu chỗ đó xong rồi vào thành.

Khi vua Cùlani nghe tin Bồ-tát đến, ông rất hài lòng, vì ông nghĩ: “Bây giờ tâm nguyện của tađã thỏa mãn, gã ấy đã đến, chẳng bao lâu vua Vedeha cũng đến, thế là ta giết trọn cả hai và biến toàn cõi Diêm-phù-đề thành một quốc độ”.

Cả kinh thành sôi động lên. Họ đồn đại:

– Đấy là bậc Trí giả Mahosadha, người đã đánh đuổi một trăm lẻ một vương tử như thể con quạ bị ném hòn đá cho hoảng sợ.

Bậc Đại Sĩ tiến vào cổng thành trong lúc dân chúng chiêm ngưỡng dung mạo tuyệt đẹp của ngài, rồi ngài xuống xe, nhờ người trình vua. Vua bảo:

– Đưa vị ấy vào.

Và ngài vào cung, triều bái vua rồi ngài ngồi xuống một bên. Vua nhã nhặn nói chuyện với ngài, rồi hỏi :

– Này vương tử, khi nào đại vương đến?

– Tâu Chúa thượng, khi nào tiểu thần thỉnh cầu ngài.

– Nhưng cớ sao vương tử đến đây?

– Thần đến để xây cung điện cho Đại vương của thần ngự, tâu Chúa thượng.

– Này vương tử, thế thì tốt lắm.

Vua liền cho phép ngài được một đám cận vệ theo hầu, trọng đãi ngài rất hậu hỷ, ban cho ngài một tư thất rồi phán:

– Này vương tử, cứ ở đây cho đến khi Đại vương ngự đến, nhưng đừng ăn không ngồi rồi, mà phải làm những việc đáng làm.

Ngay khi ngài vào cung, đứng ở bậc thang gác, ngài nghĩ thầm: “Ở đây phải làm cửa hầm nhỏ ấy”, ngài lại nghĩ đến điều này: “Nhà vua này bảo ta phải làm những việc cần làm, vậy ta phải cẩn thận để thang gác này khỏi sập trong khi ta đang đào hầm”. Rồi ngài tâu vua:

– Tâu Chúa thượng, khi tiểu thần bước vào đứng bên chân cầu thang, nhìn vào công trình mới xây này, tiểu thần thấy một khuyết điểm trong cầu thang lớn này. Nếu Chúa thượng ưng thuận, xin phán bảo cho phép tiểu thần sửa sang lại.

– Này vương tử, tốt lắm, cứ làm đi.

Ngài quan sát chỗ ấy cẩn thận, định nơi làm lối ra của đường hầm rồi ngài dời cầu thang đi nơi khác và để cho đất chỗ ấy khỏi sụp, ngài đặt một sàn gỗ giữ cầu thang thật chắc chắn cho nó khỏi sụp. Nhà vua vô tình tưởng ngài làm việc này vì thiện ý cho mình. Bậc Đại Sĩ ở đó một ngày xem xét việc sửa chữa, rồi hôm sau trình vua:

-Tâu Chúa thượng, nếu tiểu thần được biết Đại vương của tiểu thần sẽ phải ngự ở đâu, tiểu thần sẽ xin thu xếp chu đáo việc đó.

– Này bậc Trí giả, tốt lắm, ngài cứ chọn nơi nào ngài muốn trong kinh thành này, trừ cung điện trẫm ra thôi.

– Tâu Đại vương, chúng thần là ngoại nhân, Đại vương có nhiều bậc trọng thần, nếu chúng thần chiếm tư dinh của họ, binh sĩ của Đại vương sẽ gây chiến với chúng thần. Vậy chúng thần phải làm sao đây?

– Này bậc Trí giả, đừng nghe họ, cứ chọn nơi nào vừa ý ngài là được.

– Tâu Đại vương, họ sẽ đến kêu nài với Đại vương mãi, việc ấy sẽ không làm Đại vương hài lòng đâu. Song nếu Đại vương ban phép, chúng thần sẽ đến canh giữ cho đến khi chiếm xong các tư thất ấy, họ sẽ không đi ra cửa được, mà rồi phải bỏ đi thôi. Như vậy cả Đại vương lẫn chúng thần đều được toại ý.

Vua chấp thuận.

Bậc Đại Sĩ liền cho quân hầu canh ở chân và đầu cầu thang, ở đại hoàng môn và khắp nơi, rồi ra lệnh không cho ai đi qua cả. Ngài lại ra lệnh cho quân hầu đến cung thái hậu, làm như thể sắp phá cung. Khi họ bắt đầu gỡ ngói, gạch, đất sét khỏi cổng và tường, thái hậu nghe tin vội nói hỏi:

– Này các ngươi sao lại phá sập cung của ta?

– Bậc Trí giả Mahosadha muốn phá cung này để xây cung khác cho đức vua của ngài ngự.

– Nếu vậy thì các ngươi cứ ở cung này cũng được.

– Đoàn tùy tùng của Đại vương chúng thần rất đông đảo, cung này không đủ, chúng thần phải xây cung rộng hơn cho ngài.

– Các ngươi không biết ta ư, ta là thái hậu, ta sẽ đi gặp vương nhi xem lại việc này.

– Chúng thần đang thi hành lệnh vua, nếu lệnh bà ngăn cản được thì cứ làm.

Thái hậu nổi giận bảo:

– Để ta xem cách gì trị các ngươi đây. Rồi bà đến cung môn, nhưng họ không để bà đi vào.

– Này các khanh, ta là thái hậu mà.

– Chúng thần biết lệnh bà, nhưng đức vua ra lệnh không cho ai vào cả. Xin lệnh bà lui ra.

Bà không vào cung được đành đứng nhìn. Một tên quân hầu bảo:

– Lệnh bà làm gì đây, xin lui ra.

Gã nắm lấy cổ bà ném xuống đất. Bà nghĩ thầm: “Chắc chắn phải có lệnh vua, nếu không chúng không dám làm vậy đâu. Ta tìm gặp bậc Trí giả mới được”. Bà hỏi ngài:

– Này Vương tử Mahosadha, tại sao Vương tử phá sập cung của ta?

Song ngài không muốn nói chuyện với bà. Một người đứng cạnh đó hỏi:

– Tâu lệnh bà nói gì?

– Này nam tử, tại sao bậc Trí giả phá sập cung của ta?

– Để xây cung cho vua Vedeha ngự.

– Cớ sao vậy này nam tử, trong kinh thành rộng lớn này ngài không tìm được một cung thất nào để vua ngự sao? Hãy nhận lễ vật mọn này, một trăm ngàn đồng tiền và thưa với ngài đi xây dựng nơi khác.

– Tâu lệnh bà, thế thì tốt lắm, chúng thần sẽ để yên cung của lệnh bà, nhưng xin lệnh bà chớ cho ai biết việc nhận lễ vật này để họ khỏi lo lót cho chúng thần để yên nhà của họ.

– Này nam tử, nếu họ kháo nhau rằng thái hậu phải cần lo lót thì nhục nhã cho ta biết bao! Ta không cho ai hay đâu.

Người kia bằng lòng nhận một trăm ngàn đồng tiền rồi rời cung. Sau đó gã đến cung Kevatta, lão này vừa đến cửa cung, đã bị cây tre quất vào lưng tét cả da thịt mà cũng không vào cung được, nên cũng lo lót một trăm ngàn đồng tiền . Cứ bằng cách này họ chiếm nhà khắp kinh thành, để đòi của đút lót, họ thu được chín mươi triệu đồng tiền vàng.

Sau đó bậc Đại Sĩ đi khắp kinh thành, rồi trở về cung. Vua hỏi ngài đã tìm ra chỗ chưa. Ngài bảo:

– Tâu Đại vương, dân chúng đều muốn dâng nhà cửa, nhưng khi chúng thần đến nhận gia sản, họ hết sức âu sầu, chúng thần không muốn gây nên sự bất mãn. Ngoài kinh thành, khoảng một dặm, giữa kinh thành và sông Hằng có một nơi chúng thần có thể xây cung điện cho Đại vương của chúng thần.

Vua nghe vậy liền đẹp ý, rồi ông nghĩ thầm: “Đánh nhau trong kinh thành thật nguy hiểm, vì khó phân biệt bạn thù, chứ ngoại thành thì dễ đánh, vậy ta sẽ đánh giết chúng ở ngoại thành”.

Thế là vua bảo:

– Được lắm, này Vương tử, cứ xây cung ở chốn đã tìm được.

– Tâu Đại vương, xin vâng lệnh. Nhưng dân chúng không được đến nơi chúng thần xây cất để kiếm củi hay cây thuốc, nếu không, chắc chắn sẽ có tranh chấp cãi cọ không hay gì cho Đại vương lẫn chúng thần.

– Tốt lắm, này Vương tử, cứ cấm hết lối ra vào phía ấy.

– Tâu Đại vương, bầy voi của chúng thần thích vui đùa dưới nước, nếu nước sông bị khuấy đục bẩn bùn và dân chúng than phiền vì Trí giả Mahosadha đến đây mà họ không có nước sạch để uống, thì xin Đại vương lượng thứ việc ấy.

Vua đáp:

– Được, cứ cho voi xuống vui chơi.

Rồi vua truyền đánh trống ra lệnh:

– Kẻ nào đến chỗ bậc Trí giả Mahosadha đang xây cung sẽ bị phạt một ngàn đồng tiền.

Sau đó, bậc Đại Sĩ tạ từ vua, cùng đám tùy tùng ra ngoài thành bắt đầu xây một thành trì ở nơiđã được dành riêng ra. Bên kia sông Hằng ngài đã xây một ngôi làng đặt tên là Gaggali. Nơiđó ngài dự trữ voi ngựa, xe pháo, trâu, bò.

Chính ngài đích thân xây thành ấy và giao cho mỗi người một phận sự. Khi đã phân chia nhiệm vụ xong, ngài bắt đầu xây đường hầm lớn, miệng hầm ở trên bờ sông Hằng, có sáu mươi ngàn quân sĩ đào hầm. Họ bỏ đất mới đào vào các bao da vứt xuống sông, hễ nơi nào đất được thả xuống thì bầy voi đến dẫm lên, khiến sông Hằng vẩn đục cả bùn. Dân chúng than phiền rằng từ khi ngài Mahosadha đến đây, họ không có nước sạch để uống, nước sông vấy bùn, phải làm sao đây? Quân thám tử của bậc Đại Sĩ bảo họ rằng bầy voi của ngài đang chơi đùa dưới nước làm khuấy bùn lên, cho nên nước mới đục.

Lúc bấy giờ mọi dự định của Bồ-tát đều được thành tựu, vì thế trong hầm mới, các rễ cây, sỏiđá đều chìm xuống đất. Lối vào đường hầm nhỏ ở bên trong kinh thành, có bảy trăm quân đang đào hầm nhỏ ấy. Họ mang đất trong bao da đổ vào thành, mỗi lần mang đến một đống, họ lại trộn với nước xây một bức thành để dùng vào việc khác.

Còn lối vào hầm lớn nằm trong kinh thành có cửa vào, cao mười tám gang tay, có máy móc để khi bấm một nút thì tất cả đều đóng chặt. Phía bên kia hầm được xây bằng gạch và hồ vữa, mái lợp ván, trét hồ vữa và sơn trắng. Bên trong có tám mươi cửa lớn và sáu mươi bốn cửa nhỏ, tất cả đều được đóng lại hoặc mở ra bằng một nút bấm. Trên mỗi phía đều có hàng trăm ổ đèn trang bị máy móc, để khi một đèn được bật sáng thì tất cả đều bật, khi một đèn được tắt thì tất cả đều tắt.

Mỗi phía có một trăm lẻ một gian phòng cho một trăm lẻ một chiến vương. Trong mỗi phòngđặt một tọa sàng đủ màu, trong đó lại có một trường kỷ lớn được che bằng lọng trắng, mỗi phòng lại có một chiếc ngai đặt gần trường kỷ lớn ấy, một tượng mỹ nhân, nếu không sờ tay vào thì không ai bảo các tượng đó không phải người thật.

Ngoài ra, trong mọi phía hầm, các họa sĩ tinh xảo đã vẽ đủ loại tranh: Cảnh huy hoàng của Thiên chủ Đế Thích, các miền núi Sineru (Tu-di), các biển cả cùng đại dương bốn châu, dãy Himavat (Tuyết Sơn), hồ Anotatta, núi Hồng Thổ, mặt trăng, mặt trời, cõi Tứ Thiên vương với sáu tầng trời cõi Dục và các thành phần trong đó.

Tất cả đều hiện ra trong địa đạo này, nền đất rải cát trắng như một phiến bạc, trên các mái đầy hoa sen nở. Hai bên có lều quán đủ loại, rải rác các rèm hoa lơ lững tỏa mùi thơm ngát. Như vậy họ trang hoàng địa đạo rực rỡ chẳng khác nào thiên đình Sudhamma (Thiện Pháp đường ở cõi trời ba mươi ba).

Lúc bấy giờ sau khi ba trăm thợ đóng ba trăm chiếc thuyền xong, họ liền chất đầy thuyền mọi dụng cụ sẵn sàng lúc cần đến, rồi đem xuống trình bậc Trí giả. Ngài dùng họ ở kinh thành, bảo họ giấu chúng ở một nơi bí mật để đưa chúng ra khi có lệnh ngài.

Trong kinh thành các hào nước, trường thành, hoàng môn, tháp canh, cung thất cho vương tử và nhà dân chúng, chuồng voi, hồ nước đều đã xong xuôi. Như vậy đại địa đạo và tiểu địa đạo cùng toàn kinh thành được xây xong trong bốn tháng .

Sau đó, bậc Đại Sĩ gởi sớ trình xin vua đến ngự.

Khi vua được sớ, ông rất đẹp lòng, liền cùng đoàn xa giá rầm rộ lên đường.

*

Bậc Đạo Sư bảo:

  1. Vị Đại vương cùng bốn đạo binh,
    Bấy giờ liền ngự giá du hành,
    Cùng vô số cỗ xe hầu cận,
    Đến viếng Kam-pil-la hiển vinh.

Vào giờ đã định, vua đến sông Hằng, bậc Đại Sĩ ra lệnh đón vua vào kinh thành ngài vừa xây xong. Vua vào cung hưởng một bữa tiệc cao lương mỹ vị và sau khi nghỉ ngơi một lát xong, về buổi chiều ông gửi thông điệp báo cho vua Cùlani biết ông đã đến.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Khi đến nơi, vua nhắn gửi lời,
    Với Brah-ma: “Kính lễ chân ngài,
    Xin ban công chúa làm vương hậu,
    Nữ báu dung nhan thật tuyệt vời,
    Đầy vẻ yêu kiều và khả ái,
    Được đoàn thị nữ hộ lên ngôi”.

Vua Cùlani hoan hỷ nhận được thông điệp, nghĩ thầm: “Các quốc thù của ta sẽ đến đâu đây? Ta sẽ chặt đầu chúng ra và nâng chén khải hoàn”. Nhưng ông chỉ làm ra vẻ hân hoan đón sứ giả rất trọng thể rồi ngâm kệ sau:

  1. Cung nghênh Đại chúa Vi-đề-ha,
    Hạnh ngộ ngày nay quả thật là!
    Hãy chọn giờ lành mang hạnh phúc,
    Trẫm đem công chúa tặng vương gia,
    Nàng đầy vẻ đẹp yêu kiều ấy,
    Được đám cung tần hộ tống ra.

Sứ giả liền đi về trình vua Vedeha:

– Tâu Chúa công, Đại vương truyền: “Hãy chọn giờ lành cho mối lương duyên này và trẫm sẽ kết duyên công chúa cho ngài.”

Vua gửi sứ giả trở lại tâu:

-Hôm nay chính là giờ lành!

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Vi-đề chúa chọn giờ lành xong,
    Trình với Brah-ma-at Đại vương:
    Xin gả công nưông làm ái hậu,
    Nữ nhân diễm lệ tuyệt trần gian,
    Tròn đầy mọi vẻ yêu kiều ấy,
    Được các cung phi hộ tống nàng.
  2. Đại đế Cù-la-ni đáp lại:
    Ta ban ngài nữ báu siêu phàm,
    Tròn đầy mọi vẻ yêu kiều ấy,
    Được các cung phi hộ tống nàng.

Nhưng khi vua bảo:

– Trẫm sẽ đưa công chúa vu quy ngay bây giờ.

Vua đã nói dối và ông ra lệnh cho một trăm lẻ một vương hầu kia:

– Hãy chuẩn bị sẵn sàng ra trận với mười tám đạo binh của các vị và tiến lên, ta sẽ chặt đầu hai kẻ thù của ta và nâng chén khải hoàn.

Vua để mẫu hậu ở lại trong cung cùng hoàng hậu Nandà, hoàng tử Pañcàlacanda, công chúa Pañcàlacandì, cùng các cung nga thị nữ khác rồi ra đi.

Bồ-tát tiếp đãi rất nồng hậu đoàn đại binh cùng đến với vua Vedeha, kẻ uống rượu, người ăn thịt, có kẻ nằm nghỉ mệt vì đường xa. Còn vua Vedeha, cùng với Senaka và các vị kia ngồi trên bảo tọa cùng đám cận thần.

Nhưng vua Cùlani đã bao vây thành bốn vòng trong ba khoảng cách, thắp hàng trăm ngàn ngọn đuốc rực trời, đứng sẵn sàng chiếm lấy kinh thành ấy khi mặt trời mọc. Hay tin này, bậcĐại Sĩ ra lệnh cho ba trăm chiến sĩ của ngài:

– Các ngươi hãy đi theo đường hầm nhỏ, đưa thái hậu, hoàng hậu, hoàng tử và công chúa vềđây qua đường hầm lớn nhưng đừng để cho các vị ấy ra ngoài bằng cửa hầm lớn, mà phải bảo vệ các vị ấy an toàn trong đường hầm cho đến khi ta tới, rồi hãy đem họ ra khỏi hầm và dẫn các vị vào Đại sảnh.

Khi họ nhận chỉ thị xong, họ đi dọc đường hầm nhỏ, đẩy tấm sàng dưới cầu thang, bắt lấy quân canh ở đầu và chân cầu thang, trên thượng lầu, những tên gù cùng nhiều người khác, trói tay chân lại, nhét giẻ vào mồm họ rồi giấu họ rải rác đây đó, xong lấy một số thức ăn dâng lên vua, phá hủy số thức ăn còn lại rồi lên thượng lầu.

Lúc ấy thái hậu Talatà không biết việc gì sẽ xảy ra, nên đã bảo hoàng hậu Nandà cùng hoàng tử, công chúa đến nằm chung với bà trên giường. Ba chiến sĩ đứng ở cửa phòng gọi họ. Bà bước ra bảo:

– Việc gì thế các con?

Họ đáp:

– Tâu lệnh bà, Đại vương đã giết vua Vedeha và Mahosadha, rồi biến toàn cõi Diêm-phù-đề thành một đế quốc. Ngài đang được một trăm lẻ một vị vương hầu vây quanh nâng chén đại khải hoàn.Vì thế ngài phái chúng thần đến đây rước lệnh bà cùng các vị kia đến cùng ngài.

Các vị ấy đi xuống tới chân cầu thang. Khi quân sĩ đem họ vào hầm, họ bảo:

– Suốt đời ta sống ở đây, chưa từng đi đường này bao giờ.

Quân sĩ đáp:

– Người ta thường ít đi đường này hầm này, đây là con đường hưởng lạc, vì hôm nay là ngày hội vui chơi nên thánh thượng bảo chúng thần đưa các ngài về lối này.

Họ tin lời ngay. Sau đó vài quân sĩ dẫn họ đi, còn các người khác trở lại cung vua, phá cửa kho tàng mang đi hết mọi báu vật họ muốn lấy. Bốn vị kia đi vào đường hầm lớn, thấy chẳng khác nào sảnh đường huy hoàng của chư Thiên, nên cứ tưởng nơi này dành cho vua. Rồi họ được đưa đến một nơi không dòng sông, vào một cung thất đẹp trong đường hầm. Vài quân sĩ canh chừng họ, còn các kẻ khác đi tâu trình với Bồ-tát rằng họ đã đến.

Bồ tát nghĩ thầm: “Nay tâm nguyện của ta sẽ tự viên mãn”. Lòng đầy hoan hỷ, ngài bước vào yết kiến vua rồi đứng qua một bên. Vua đang nôn nao khát vọng, nghĩ thầm: “Ngài đang đưa công chúa đến bây giờ, chính bây giờ đây!”. Rồi vua đứng dậy nhìn qua cửa sổ. Lúc bấy giờ cả kinh thành đang rực sáng trong hàng ngàn bó đuốc và bị bao vây trong đạo binh rầm rộ ghê hồn. Đầy kinh hãi và nghi hoặc, vua kêu lên:

– Cái gì thế?

Và ông ngâm kệ với các bậc Trí giả:

  1. Voi, ngựa, cỗ xe, các đạo quân.
    Mang bào giáp đứng cả đoàn đông
    Rực trời ánh đuốc đang bừng cháy.
    Ý nghĩ ý gì chăng, các Trí nhân?

Senaka đáp:

– Xin Đại vương chớ sợ. Đám đuốc cháy rực, thần đoán là đức vua đang đem công chúa đến cho Đại vương.

Pukkasa lại nói:

– Chắc chắn vua ấy muốn đón Đại vương thật trọng thể nên đã đến đây với đoàn hộ tống.

Họ mặc tình tâu vua những điều họ thích. Nhưng vua nghe các hiệu lệnh:

– Để một chi đội ở đây, một đội phòng vệ đằng kia, hãy cẩn mật.

Vua lại thấy quân sĩ cầm khí giới, nên ông sợ mất hồn mong nghe được một lời gì của bậc Đại Sĩ, liền ngâm kệ nữa:

  1. Voi, ngựa, cỗ xe, các đạo quân,
    Mang bào giáp đứng cả đoàn đông,
    Rực trời ánh đuốc đang bừng cháy,
    Ý nghĩa gì chăng, hỡi Trí nhân.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: “Trước hết ta phải làm cho hôn quân si ám này khiếp đảm một hồi đã, rồi ta sẽ tỏ oai lực của ta và trấn an sau”. Ngài liền nói:

  1. Hoàng đế Cù-la-ni đại cường,
    Đang vây ngài chặt, tấu minh quân,
    Brah-ma-dat chính người gian trá,
    Vua ấy sẽ tàn sát đại vương!

Nghĩ thế mọi người đều kinh hoảng đến mất vía, cổ họng của vua khô cứng lại, không còn nước bọt nữa, cơ thể ông như đang bị thiêu đốt, hoảng hồn như sắp chết, ông rên rỉ ngâm hai vần kệ sau:

  1. Tim ta hồi hộp miệng khô rang,
    Lòng dạ ta nay thật bất an,
    Ta giống một người được đốt lửa,
    Rồi đem phơi dưới nắng chang chang.
  2. Như cháy bên trong, lửa thợ rèn,
    Bên ngoài chẳng có thể nào xem,
    Lòng ta cũng vậy, đang bừng cháy,
    Nhưng chẳng một ai có thể nhìn.

Khi bậc Đại Sĩ nghe lời than thở ấy, ngài nghĩ thầm: “Hôn quân ngu muội này thường chẳng nghe lời ta lúc trước, nay ta phải trừng phạt thêm nữa mới được”. Ngài liền nói:

– Hỡi chiến vương, ngài thật bất cẩn, không quan tâm đến lời khuyến cáo và thiếu tài trí, giờđây xin để các quân sư của ngài giải cứu ngài. Một vị vua không làm theo lời khuyên của quân sư trung tín và tài trí, chỉ tham đắm dục lạc riêng của mình, thì có khác gì con nai bị bắt trong lưới? Như con cá ham mồi không để ý tới lưỡi câu giấu trong miếng thịt bao quanh, không nhận biết chỗ chết của mình. Tâu Đại vương, ngài cũng vậy, tham đắm sắc dục, như con cá kia, không nhận thấy công chúa con vua Cùlani chính là tử thần của mình. Thần đã nói rằng nếu Đại vương đi Pañcàla, ngài sẽ mất ngay phúc lạc như con nai bị bắt trên đường sẽ gặp đại nạn. Tâu Chúa thượng. một ác nhân sẽ cắn vào bụng ngài như con rắn độc. Không một hiền nhân nào nên kết bạn với kẻ ác, kết bạn với kẻ ác sẽ gặp bất hạnh. Tâu Chúa thượng, bất cứ người nào mà ta nhận ra là có đức hạnh và thông thái thì đó chính là người mà bậc trí kết bạn. Kết bạn với thiện nhân chính là hạnh phúc.

Rồi để nhấn mạnh sự khiển trách một người không nên đối xử với kẻ khác như thế, ngài nhắc lại những lời lẽ mà vua đã nói trước kia và nói tiếp:

  1. Ngài điếc câm, ngu muội, Đại vương,
    Khinh lời khuyên tối thượng từ thần,
    Hỏi: “Sao thần hiểu như người khác,
    Khi lớn lên cày cấy ruộng đồng?
  2. “Bắt lấy gã kia, tóm cổ mau,
    Tống ra khỏi xứ sở ta nào,
    Con người dám nói hòng ngăn cản,
    Việc trẫm sắp đi lấy bảo châu!”

Sau khi ngâm hai vần kệ xong, ngài bảo:

– Tâu Đại vương, làm sao một kẻ nông dân như thần lại biết được chuyện gì là tốt là hay như Senaka và các trí giả kia được? Chuyện đó không phải là tài nghệ của thần, thần chỉ biết nghề cày sâu cuốc bẫm, còn chuyện này thì Senaka và phe nhóm của lão biết rõ lắm, họ là những trí giả. Vậy hôm nay xin để họ giải thoát ngài khỏi trùng vây của mười tám đạo quân hùng mạnh kia đang bao quanh ngài và xin ra lệnh cho họ tóm cổ thần vứt đi, tại cớ sao Đại vương lại hỏi han đến thần?

Ngài trách móc vua không tiếc lời như vậy. Vua nghe xong nghĩ thầm: “Bậc hiền trí đang kể lại những việc sai trái mà ta đã làm. Trước kia ngài đã biết trước tai họa sắp đến, nên nay ngài mới trách cứ ta gay gắt như vậy. Nhưng chắc ngài không bỏ phí mọi thì giờ một cách phù phiếm đâu, chắc hẳn ngài đã sắp xếp cho ta được an toàn”. Vì thế vua ngâm kệ khiển trách ngài:

  1. Bậc Trí không nhai chuyện đã qua,
    Giữa hàm răng, hỡi Ma-sa-dha,
    Cớ sao khanh cứ rầy rà trẫm,
    Như ngựa bị dây trói chặt à?
  2. Nếu thấy được đường lối giải vây,
    Cách an toàn thoát nạn giờ này,
    Hãy mau làm trẫm yên lòng nhé,
    Sao trút chuyện xưa xuống trẫm đây?

Lúc ấy bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: “Vua này rất mê muội mù quáng, chẳng phân biệt được các hạng người trên đời. Vậy ta phải hành hạ một lát đã rồi sẽ giải cứu vua”. Và ngài đáp:

  1. Hành động giờ đây quá muộn màng,
    Vô cùng nguy hiểm, lại gian nan,
    Thần không giải cứu quân vương được,
    Ngài phải tự lo liệu số phần.
  2. Có giống voi bay giữa cõi không,
    Lực thần đầy đủ, thật vinh quang,
    Người nào có được loài voi ấy,
    Có thể bay cùng chúng thoát thân.
  3. Có giống ngựa bay giữa cõi không,
    Lực thần đầy đủ,thật vinh quang,
    Người nào có được loài phi mã,
    Có thể bay cùng chúng thoát nàn.
  4. Có các loài chim hoặc quỷ thần,
    Đủ tài bay bổng giữa không gian,
    Còn nay quá muộn nên người tục,
    Không thể làm vì quá khó khăn,
    Thần chẳng thế nào cứu Chúa thượng,
    Ngài cần quyết định việc riêng phần.

Nghe vậy, vua ngồi yên lặng không thốt một lời, nhưng Senaka nghĩ thầm: “Không ai cứu giúp được vua và bọn ta trừ bậc Trí giả. Tuy thế vua lại quá kinh sợ nên không đáp lời ngài được. Vậy ta sẽ hỏi ngài xem”. Rồi lão cầu xin ngài qua hai vần kệ:

  1. Một người không thể thấy bờ xa,
    Ở giữa đại dương rộng lớn mà,
    Khi nó tìm ra nơi trú ngụ,
    Đủ đầy hạnh phúc với hoan ca.
  2. Cũng vậy với quân sĩ, Đại vương,
    Ngài là đất trú ngụ an toàn,
    Ngài là tối thượng quân sư báu,
    Xin giải cứu toàn thể thoát nàn.

Bậc Đại Sĩ quở trách lão qua vần kệ:

  1. Hành động giờ đây quá muộn màng,
    Vô cùng nguy hiểm, lại gian nan,
    Ta không giải cứu cho ngài được,
    Ngài phải tự lo liệu số phần.

Vua không tìm được lối thoát và quá khiếp sợ cho mạng sống của mình, nên không thể nóiđược lời gì với bậc Đại Sĩ cả, mà chỉ nghĩ rằng chắc lão Senaka có mưu kế, liền ngâm kệ này:

Senaka nghĩ thầm: “Nhà vua hỏi mưu kế, thôi dù hay dù dở, ta cũng phải nói ra một kế cho ngài”. Lão liền ngâm kệ:

  1. Ta hãy đốt lên ngọn lửa cao,
    Ở bên cửa lớn lấy gươm dao,
    Chúng ta cùng đả thưông nhau chết,
    Chốc lát ta không sống nữa nào.
    Đừng để Brah-ma-dat Đại đế,
    Giết ta bằng cái chết dài lâu!

Vua nghe vậy nổi cơn thịnh nộ nghĩ thầm: “Cái đó thật xứng làm giàn hoả cho ngươi cùng con cháu ngươi”. Ông lại hỏi Pukkusa và các người kia, kẻ nào cũng đều thưa trình ngu ngốc theo kiểu của mình, và đây là câu chuyện của họ. Vua hỏi:

  1. Hãy lắng nghe lời trẫm nói vầy:
    Khanh nhìn thấy mối hiểm nguy này,
    Puk-ku-sa, trẫm hỏi khanh nhé,
    Khanh nghĩ làm gì được ở đây?

Pukkusa đáp:

  1. Chúng ta uống thuốc độc từ trần,
    Chốc lát ta không phải sống còn,
    Đừng để Brah-ma-dat Đại đế,
    Giết ta bằng cái chết dần mòn!

Vua hỏi:

  1. Hãy lắng nghe lời trẫm nói vầy:
    Khanh nhìn thấy mối hiểm nguy này,
    Kà-vin-da, trẫm hỏi khanh nhé,
    Khanh nghĩ làm gì được ở đây?

Kàvinda đáp:

  1. Chúng ta thắt cổ họng lìa đời,
    Chốc lát ta không sống nữa rồi,
    Đừng để Brah-ma-dat Đại đế,
    Giết ta bằng các chết lần hồi!

Vua hỏi:

  1. Hãy lắng nghe lời trẫm nói vầy:
    Khanh nhìn thấy mối hiểm nguy này,
    De-vin-da, trẫm hỏi khanh nhé,
    Khanh nghĩ làm gì được ở đây?

Devinda đáp:

  1. Ta hãy đốt lên ngọn lửa cao,
    Ở bên cửa lớn lấy gươm dao,
    Chúng ta cùng đả thương nhau chết,
    Chốc lát ta không sống nữa nào.
    Thần không thể cứu nguy chư vị,
    Chỉ Đại Trí nhân có phép mầu!

Devinda nghĩ thầm: “Nhà vua đang làm gì thế? Ngọn lửa đây mà ngài lại đi thổi con đom đóm! Trừ Mahosadha ra, không ai giải cứu được ta. Thế mà nhà vua lại bỏ ngài và hỏi kế chúng ta, làm sao chúng ta biết được?”

Nghĩ thế xong, lão không thấy ai có mưu kế gì, lão liền lập lại mưu kế Senaka đã đưa ra, rồi ca ngợi bậc Đại Sĩ qua hai vần kệ:

140-141. Tâu Đại vương, thần muốn nói đây:
Chúng ta cùng hỏi Trí nhân này,
Nếu như việc hỏi han đầy đủ,
Bậc Trí nhân không thể giải vây,
Thì chúng ta cùng theo cách nọ,
Se-na-ka đã khuyến ta vầy.

Nghe vậy, vua nhớ lại mình đã bạc đãi Bồ-tát trước kia, nên không thể nói gì thêm với ngài nữa, chỉ than thở khi lão nói vậy thôi:

  1. Giống kẻ đi tìm chất nhựa thông,
    Ở trong cây chuối hoặc cây bông,
    Nên không thấy nhựa, như ta vậy,
    Không thể tìm lời giải khó khăn.
  2. Chỗ trú ta đây thật hãi hùng,
    Như bầy voi ở chốn khô cằn,
    Với người vô dụng và ngu xuẩn,
    Chẳng biết làm gì để thoát thân.
  3. Tim ta hồi hộp, miệng khô ran,
    Lòng dạ ta nay thật bất an,
    Ta giống một người được đốt lửa,
    Rồi đem phơi dưới nắng chang chang.
  4. Như cháy bên trong, lửa thợ rèn,
    Bên ngoài chẳng có thể nào xem,
    Lòng ta cũng vậy, đang bừng cháy,
    Nhưng chẳng một ai có thể nhìn!

Nghe vậy bậc Trí giả nghĩ thầm: “Nhà vua đã vô cùng lo sợ, nếu ta không trấn an ngài, chắc ngài sẽ vỡ tim ra mà chết!”. Thế là ngài trấn an vua.

*

Bậc Đạo Sư diễn tả cảnh này qua các vần kệ:

  1. Thế rồi Trí giả Ma-sa-ha,
    Nhận thức điều hiền thiện tối đa,
    Khi ngài thấy mặt vua sầu thảm,
    Ngài nói như vầy với đức vua:
  2. – Xin đừng sợ hãi, tấu Anh quân,
    Chúa tể đoàn xa mã đại hùng,
    Thần sẽ giải vây phò Chúa thượng,
    Như trăng bị nuốt bởi La Thần,
  3. – Như vầng dương bị La Thần nuốt,
    Như thể voi chìm xuống dưới bùn,
    Như rắn bị giam trong giỏ kín,
    Như con cá lọt lưới quay cuồng.
  4. – Thần sẽ giải vây cứu Đại vương,
    Cùng đoàn xa mã, với đoàn quân,
    Sẽ làm kinh hãi Pãn-cà-đế,
    Như quạ bị quăng đá hoảng hồn!
  5. – Có ích lợi gì là trí tuệ,
    Hoặc quân sư thuộc hạng tầm thường,
    Không tài giải cứu phò Minh chúa,
    Ra khỏi gian nguy, bước cuối đường?

Vua nghe vậy an lòng ngay: “Thế là ta được bình an rồi”. Ông nghĩ thầm. Mọi người đều hoan hỷ khi Bồ-tát nói lớn như sư tử rống. Lúc ấy Senaka hỏi:

– Thưa bậc Trí giả, làm thế nào ngài thoát ra cùng chúng thần cả đây?

– Bằng một đường hầm được trang hoàng thật đẹp, Ngài bảo. Hãy chuẩn bị sẵn sàng.

Nói xong, ngài ra lệnh cho quân hầu mở địa đạo này.

– Này các người hãy đến mở cửa miệng hầm ra, vua Vedeha cùng quần thần sẽ đi qua địa đạo này.

Họ đứng lên mở cửa hầm, toàn địa đạo sáng ngời như cung đình được trang hoàng của chư Thiên.

*

Bậc Đạo Sư giải thích chuyện này như sau:

Nghe lệnh bậc Trí giả, quân hầu của ngài mở cửa hầm và các then tự động.

Họ trình bậc Đại Sĩ rằng cửa đã mở và ngài bảo vua:

– Tâu Chúa thượng, đã đến thời, xin bước xuống khỏi thượng lầu.

Vua liền bước xuống và Senaka cởi khăn trùm đầu, buông áo ra. Bậc Đại Sĩ hỏi lão làm gì, lão đáp:

– Thưa bậc Trí giả, khi đi qua đường hầm, ta phải cởi khăn trùm đầu và buộc áo quần quanh mình cho chặt.

Ngài đáp:

– Này Senaka, đừng tưởng là ông phải bò lết suốt đường hầm, nếu ông muốn cỡi voi cứ cỡi, hầm của ta cao ngất mười tám gang tay, cửa rộng rãi, cứ mặc xiêm y tốt đẹp vào như ông muốn, rồi đi trước đức vua.

Nói xong, Bồ-tát bảo Senaka đi trước, ngài đi cuối cùng, vua đi giữa và đây là lý do : Trong hầm là cả một thế giới đồ ẩm thực, người ta vừa ăn uống vừa ngắm đường hầm, bảo nhau:

– Đừng đi vội, cứ ngắm đường hầm trang hoàng tuyệt đẹp này đã.

Nhưng bậc Đại Sĩ đi sau vua, thúc giục ông bước nhanh, trong lúc ông chiêm ngưỡng đường hầm được trang hoàng đẹp như cung đình chư Thiên.

*

Bậc Đạo sư giải thích việc này như sau:

Senaka đi trước, Mahosadha đi sau, vua ở giữa cùng đám quân thần.

Bấy giờ khi được biết vua đến nơi, quân hầu đem ra khỏi đường hầm bà thái hậu, hoàng tử, công chúa của vua kia, để họ ở trước sân chầu rộng lớn. Vừa lúc ấy vua cùng Bồ-tát bước ra khỏi hầm. Khi bốn vị kia trông thấy vua và bậc Trí giả, họ kinh hoàng đến chết cứng, hoảng sợ thét lên:

– Chắc chắn ta đã ở trong tay địch rồi, chắc chắn quân sĩ của bậc Trí giả đến bắt ta đấy.

Còn vua Cùlani sợ vua Vedeha trốn thoát. Lúc bấy giờ vua ấy ở cách sông Hằng khoảng một dặm, nghe tiếng họ thét to trong đêm vắng, ông muốn bảo: “Hình như giọng của hoàng hậu Nandà”. Nhưng ông sợ bị cười nhạo vì nghĩ quẩn như thế, nên không nói gì.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ đặt công chúa Pañcàlacandì trên một đám trân bảo và ra lệnh vẩy nước thánh lễ trong khi ngài nói:

– Tâu Đại vương, vì nữ nhân này, Đại vuơng đến đây, vậy xin sắc phong nàng làm vương hậu.

Họ mang đến ba trăm chiếc thuyền, vua bước ra khỏi sân chầu rộng lớn, ngự lên một chiếc thuyền được trang hoàng lộng lẫy và bốn vị kia cùng bước lên cùng vua .

*

Bậc Đạo sư giải thích việc này như sau:

Vua Vedeha bước ra khỏi đường hầm ngự lên thuyền và khi ông đã an vị, Mahosadha khuyên nhủ ông:

– Đây là quốc trượng, đây là quốc mẫu, tâu Chúa thượng, ngài thường phụng dưỡng mẫu hậu ra sao thì xin phụng dưỡng quốc mẫu như vậy. Đây là hoàng tử cùng cha cùng mẹ với vương hậu, xin Đại vương hãy bảo hộ Pañcàlacandì, tâu Chúa tể đoàn chiến xa. Còn Pañcàlacandì là công chúa rất được nuông chìu, xin Đại vương hãy yêu quý nàng, nàng là vương hậu của Đại vương.

Vua chấp thuận ngay, nhưng tại sao bậc Đại sĩ không nói gì đến hoàng thái hậu? Chỉ vì đó là một bà già. Bồ-tát nãy giờ đứng trên bờ nói đủ mọi việc như thế. Vua vừa thoát khỏi đại nạn chỉ muốn ra khỏi ngay, liền nói:

– Vương nhi nói chuyện mà vẫn đứng trên bờ thế?

Rồi vua ngâm kệ:

  1. Nào, hãy nhanh chân bước xuống đò,
    Sao vương nhi mãi đứng trên bờ,
    Ta vừa thoát được nơi nguy hiểm.
    Ta hãy đi mau, Ma-sa-dha.

Bậc Đại Sĩ đáp:

– Tâu Chúa thượng, thần đi cùng Chúa thượng thì chẳng thuận tiện.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Việc này không đúng, tâu Quân vương,
    Thần thủ lãnh toàn thể đạo quân,
    Nếu bỏ đoàn quân và tẩu thoát.
    Vậy toàn quân lính ở trong làng,
    Rồi đây thần sẽ đem về cả,
    Theo lệnh Brah-ma-dat Thượng hoàng.

Trong đám quân sĩ này, có kẻ ngủ mệt vì đường xa, có kẻ ăn uống, không biết ta khởi hành và kẻ bệnh hoạn vì đã làm việc cùng thần bốn tháng nay, họ lại có kẻ hầu cận của thần. Thần không thể bỏ lại một tên lính nào mà đi cả, nên thần sẽ trở lui. Thần sẽ mang đi toàn quân sĩ ấy theo lệnh của vua Brahmadatta mà không cần một trận đánh nào, xin Đại vương hãy lên đường thật nhanh, không trì hoãn ở nơi nào, thần đã sắp đặt những trạm voi và xe ngựa trên lộ trình, nên Đại vương có thể để lại những con vật nào mỏi mệt, còn những voi ngựa mạnh khỏe sẽ trở về Mithìlà nhanh chóng.

Lúc ấy vua ngâm kệ:

  1. Một đoàn quân quá nhỏ nhoi,
    Làm sao thắng nổi đoàn người đông hơn?
    Đoàn quân yếu bị diệt vong,
    Bởi đoàn quân mạnh, Trí nhân hỡi ngài!

Bồ-tát ngâm kệ tiếp:

  1. Một đoàn quân quá ít oi,
    Có minh sư sẽ thắng người đông hơn,
    Nhưng không có vị dẫn đường,
    Một vua thắng lắm quốc vương lẽ thường,
    Khác gì với ánh chiêu dương,
    Đánh tan bóng tối, vinh quang mọi nhà.

Nói lời này xong, bậc Đại Sĩ vái chào vua và tiễn ngài lên đường. Vua nhớ lại mình đã được giải cứu khỏi bàn tay kẻ thù như thế nào và chiếm được công chúa là đã đạt được tâm nguyện, suy xét kỹ đến công đức của Bồ-tát, vua hân hoan diễn tả cho Senaka nghe những công đức ấy của bậc Trí giả qua vần kệ sau:

  1. Quốc sư hỡi, Se-na-ka,
    Sống cùng người trí thật là lạc hoan !
    Như Chim thoát khỏi lồng giam,
    Như con cá thoát lưới càng vui thay,
    Ma-sa-dha cứu ta đây
    Khi ta còn ở trong tay quân thù.

Senaka ngâm kệ khác đáp lời vua, vừa tán dương bậc trí giả:

  1. Muôn tâu Chúa thượng, chúng ta,
    Sống cùng người trí thật lạc hoan!
    Như chim thoát khỏi lồng giam,
    Như con cá thoát lưới càng vui thay.
    Ma-sa-dha cứu ta đây,
    Khi ta còn ở trong tay quân thù.

Lúc ấy vua Vedeha đã qua sông cách chừng một dặm. Ông thấy ngôi làng mà Bồ-tát đã dựng sẵn, quân hầu do Bồ-tát giao nhiệm vụ tại đó cung cấp voi ngựa và các phương tiện chuyên chở khác, rồi dâng thức ăn uống. Vua giao lại những voi ngựa chuyên chở nào đã mệt mỏi rồi nhận thứ khác và đi đến làng kế cận, cứ thế ông vượt qua cuộc hành trình dài trăm dặm đường và sáng hôm sau ông đến Mithilà.

Còn Bồ-tát khi đi đến cổng địa đạo, rút kiếm đeo trên vai ra đem giấu trong cát, rồi ngài trở vào địa đạo đi đến kinh thành, tắm gội nước thơm, ăn uống cao lương mỹ vị xong, nghỉ ngơi trên bảo tọa, sung sướng nghĩ rằng tâm nguyện của ngài đã thành đạt. Khi đêm tàn, vua Cùlani ra lệnh quân sĩ vào kinh thành.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Hoàng đế Cù-la-ni đại cường,
    Đã canh giữ kỹ suốt đêm trường,
    Rạng đông vừa đến thành U-pak,
    Đang ngự trên lưng của tượng vương.
  2. Mãnh tượng sáu mươi tuổi đã già,
    Đại vương hùng dũng Pañ-cà-la,
    Quân trang vũ khí toàn châu báu,
    Cung nắm trong tay cất tiếng ra:

Sau đó vua miêu tả chúng đủ loại:

  1. – Truyền lệnh đại quân tề tựu ngay,
    Lên voi vệ sĩ chiến xa này,
    Các người thiện xạ và cung thủ,
    Tất cả cùng nhau tụ họp đây.

Bấy giờ vua ra lệnh họ bắt sống vua Vedeha:

  1. Đưa hết các voi chiến có ngà,
    Sáu mươi tuổi thọ, dẫm tan ra,
    Kinh thành mới dựng cao sang ấy,
    Do chính Đại vương Vi-đế-ha.
  2. Hãy bắn tên ra mọi phía này,
    Từ bao cung nọ, đám tên bay,
    Như răng bò nghé, đầu tên nhọn,
    Đâm thủng tận xương bọn chúng ngay.
  3. Anh hùng tiến tới, giáp bào mang,
    Vũ khí cầm tay khéo điểm trang,
    Dũng mãnh can trường và tự nguyện,
    Sẵn sàng đối diện với voi đàn.
  4. Các gươm giáo được tẩm dầu trong,
    Đầu nhọn lung linh tựa lửa hồng,
    Lấp lánh như chùm sao hội tụ,
    Cả trăm tinh tú giữa hư không.
  5. Khi các anh hùng ấy tấn công,
    Mang bào giáp, vũ khí hiên ngang,
    Không hề tháo chạy bao giờ cả,
    Như vậy làm sao Vi-đế vương,
    Có thể tìm đường nào tẩu thoát,
    Cho dù bay lượn tựa chim muông?
  6. Ba vạn chín ngàn chiến sĩ ta,
    Ta chưa từng thấy thế bao giờ,
    Toàn quân được chọn rất tinh nhuệ,
    Tất cả hùng quân của nước nhà.

166-167. Hãy nhìn voi mạnh đủ đôi ngà,
Tô điểm cân đai đẹp mắt ta,
Tuổi thọ sáu mươi, lưng ngất ngưỡng,
Các vương tử rực rỡ, xa hoa,
Trang hoàng lộng lẫy bao xiêm áo,
Như các Thiên thần Nan-da-na.

  1. Gươm màu cá bạc tẩm dầu trơn,
    Lấp lánh anh hùng, nắm vững vàng,
    Bén nhọn, sáng ngời, hoàn hảo quá,
    Được làm bằng thép luyện nhiều lần.

169-170. Gươm mạnh, do bao dũng sĩ cầm,
Những người chiến đấu mãi không ngừng,
Kim hoàn vàng ánh, đai màu đỏ,
Gươm sáng lung linh lúc vẫy vùng,
Như chớp lòe trong mây xám ngắt.
Anh hùng mang giáp vẫy cờ tung,
Có tài dùng kiếm và khiên mộc,
Nắm chặt chuôi gươm, thiện chiến quân.

  1. Bị vây bởi chiến sĩ anh hùng,
    Như vậy trên lưng voi tấn công,
    Ngươi chẳng có nơi nào tẩu thoát,
    Ta không thấy một lực oai thần,
    Giúp ngươi trở lại kinh thành cũ,
    Ở tại Mi-thi-là, biết chăng?

Vua này hăm dọa vua Vedeha như vậy, nghĩ rằng sẽ bắt được vua kia lúc ấy ngay tại chỗ, nên thúc voi đi nhanh hơn, ban lệnh quân sĩ bắt được là đánh và giết đi. Vua Cùlani tiến vào thành Upakàri như dòng thác lũ.

Lúc ấy các thám tử của bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: “Ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra?”. Và đám hầu cận xúm xít quanh ngài. Ngay lúc này Bồ-tát đứng dậy khỏi tọa sàng, quân hầu giúp ngài tắm rửa xong, ngài dùng điểm tâm rồi mặc xiêm y kàsi trị giá cả trăm đồng tiền vàng, hồng y khoác lên, bên vai, mang gậy biểu thị tước vị của ngài có gắn bảy bảo vật, đôi hài vàng mang ở chân, phe phẩy quạt sơn ngưu như một vị Thiên thần được trang hoàng rực rỡ, bước lên thượng lầu mở cửa sổ, xuất hiện trước vua Cùlani, đi đi lại lại với dáng điệu uy nghi của một vị Thiên chủ.

Còn vua Cùlani trông thấy dung sắc của ngài, không thể nào giữ được lòng bình thản, mà vội lao lên mình voi, tưởng rằng có thể bắt được ngài ngay lúc đó. Bậc Trí giả nghĩ thầm: “Vua ấy vội đến chỗ kia vì tưởng vua Vedeha sẽ bị bắt, mà không biết rằng chính các hoàng tử, công chúa đã bị bắt, còn Đại vương ta đã đi rồi. Ta sẽ xuất đầu lộ diện như một tấm gương vàng chói và nói chuyện với vua này”. Thế là đứng ở cửa sổ, ngài thốt lên những lời này với giọng ngọt ngào như mật:

172-173. Sao ngài thúc giục mãi con voi,
Ngài đến với khuôn mặt thật tươi,
Ngài nghĩ là ngài tròn ước muốn,
Ném cung ấy xuống, ném tên thôi.
Cởi ngay bào giáp kia ngời sáng,
Cùng với san hô, các ngọc trai.

Khi vua nghe lời ấy của ngài, ông nghĩ thầm: “Tên nông dân kia đang chế nhạo ta, hôm nay ta sẽ chứng kiến điều cần làm cho gã ấy”. Rồi ông nói giọng hăm dọa:

  1. Trông ngươi có dáng điệu vui tươi,
    Ngươi nói lời ra với nụ cười,
    Giờ chết của ngươi nay sắp đến,
    Cho nên vẻ đẹp hiện ra ngoài!

Khi hai vị đang nói chuyện như trên, đám quâm sĩ chú ý đến hảo tướng của bậc Đại Sĩ, liền bảo nhau:

– Đại vương đang đàm đạo với bậc Trí giả Mahosadha. Các ngài đang bàn luận gì đây? Ta thử nghe xem sao.

Rồi họ đến gần vua, nhưng bậc Trí giả khi nghe vua nói xong, liền đáp lại:

– Đại vương không biết ta là bậc Trí giả Mahosadha, ta không để Đại vương giết ta đâu. Mưu kế Đại vương đã hỏng, những điều Đại vương cùng Kevatta đã nghĩ trong tâm không xảy ra đâu, mà vừa xảy ra những việc Đại vương chỉ nói đầu môi chót lưỡi.

Rồi ngài giải thích sự việc như sau:

  1. Sấm sét của ngài thật uổng công,
    Âm mưu đã hỏng, hỡi Quân vương!
    Vua ta khó bắt cho ngài quá,
    Như tuấn mã so với ngựa thường!
  2. Vua ta đã vượt quá sông Hằng,
    Vào tối qua cùng các cận thần,
    Ngài sẽ giống như con quạ nọ,
    Cố công săn bắt thiên nga vương!

Một lần nữa, như con sư tử giương bờm dũng mãnh, ngài phát họa một ảnh dụ qua các lời sau:

  1. Chó rừng đang ở giữa đêm trường,
    Nhìn thấy hoa cây phượng đỏ hồng,
    Cứ tưởng hoa kia là miếng thịt,
    Súc sinh hạ liệt họp từng đàn.
  2. Khi các canh khuya ấy đã qua,
    Mặt trời đã xuất hiện dần ra,.
    Chó nhìn cây phượng đầy hoa nở,
    Thất vọng, súc sinh thật xấu xa!
  3. Hỡi Đại vương, cũng giống các vua,
    Đã bao vây chúa Vi-đề-ha,
    Sẽ tan hy vọng và đi mất,
    Như lũ chó rừng tránh phượng hoa!

Khi vua nghe những lời lẽ can trường như vậy, nghĩ thầm: “Tên nông dân này nói năng thật bạo dạn, chắc chắn vua Vedeha đã trốn thoát”.

Vua liền nổi cơn thịnh nộ, nghĩ thầm: “Xưa kia vì tên nông dân này mà ta chẳng còn mảnh vải che thân, nay cũng vì gã mà kẻ thù đã làm hại ta quá nhiều, ta phải trả thù gã cả hai chuyện mới được”.Vua liền ban lệnh như sau:

  1. Cắt hết tay chân, tai mũi ra,
    Vì tên kia thả Vi-đề-ha,
    Kẻ thù đã thoát tay ta đó,
    Xẻo thịt, đem chiên nấu chín mà,
    Vì tên kia thả Vi-đề chúa,
    Kẻ thù đã thoát khỏi tay ta !
  2. Như tấm da trâu trải đất bằng,
    Hoặc da sư, hổ được đem căng,
    Bằng cây cọc, vậy ta mong muốn,
    Căng nọc nó và lấy giáo đâm,
    Vì nó thả Vi-đề chúa tể,
    Kẻ thù ta thoát khỏi giam cầm!

Nghe vậy bậc Đại Sĩ mỉm cười nghĩ thầm: “Vua này không biết là hoàng hậu và hoàng gia đã được ta chở về Mithilà rồi, nên mới ra lệnh bắt ta như vậy. Nhưng trong cơn thịnh nộ, vua ấy có thể lấy cung tên đâm xuyên thân ta, hay làm một chuyện gì đó cho hả dạ, vậy ta phải làm cho vua ấy hoảng hốt đau buồn, rồi ngất xỉu trên lưng voi khi ta kể chuyện cho vua nghe mới được”. Ngài liền nói:

  1. Nếu chặt tay chân, tai mũi ta,
    Vi-đề chúa sẽ chặt Can-da,
    Can-dì, hoàng hậu Nan-dà nữa,
    Công chúa cùng hoàng tử cả nhà!
  2. Nếu xẻo ta rồi xiên thịt ta,
    Vi-đề chúa sẽ xẻo Canda
    Can-dì, hoàng hậu Nandà nữa,
    Công chúa và hoàng tử cả nhà!
  3. Nếu đóng cọc ta, đâm giáo ta,
    Vi-đề sẽ đóng cọc Can-da,
    Can-dì, hoàng hậu Nan-dà nữa,
    Công chúa và hoàng tử cả nhà!
  4. Vậy việc kia đã được mật bàn,
    Giữa ta và chính Vi-đề vương,
    Giống như tấm chắn bằng da thuộc,
    Dầy một trăm tầng được khéo làm,
    Bởi các thợ da, là vật dụng,
    Đề phòng tên nọ bắn xuyên ngang.
  5. Ta mang hạnh phúc, tránh đau buồn,
    Cho chúa Vi-đề-ha vẻ vang,
    Ta thoát âm mưu ngài dự tính,
    Như khiên tránh khỏi mũi tên đâm.

Nghe thế, vua nghĩ thầm: “Tên nông dân này nói gì thế, nếu ta làm gì gã thì vua Vedeha cũng sẽ làm thế cho gia quyến ta ư? Gã chẳng biết ta đã cho canh phòng thê tử ta rất cẩn mật, nên cứ dọa ta như thế vì sợ chết ngay đây, ta không tin lời gã nói đâu”.

Bậc Đại Sĩ đoán biết rằng vua tưởng ngài nói thế vì sợ chết, nên ngài quyết định giải thích rõ. Ngài nói:

  1. Đại vương xin hãy bước vào trong,
    Các nội cung đều đã trống không:
    Hoàng hậu, hoàng nhi, hoàng thái hậu,
    Thảy đều được dẫn xuống đường hầm.
    Chiến vương hỡi! họ được giao phó,
    Vi-đề vương giám sát hộ phòng.

Lúc ấy vua nghĩ thầm: “Bậc Trí giả này nói có vẻ chắc chắn, ta đã nghe đêm qua bên sông Hằng có giọng của hoàng hậu Nandà, bậc Trí giả này thật là tài tình, chắc đang nói sự thật đây”. Vua thốt nhiên đau khổ ghê gớm, nhưng cố thu hết can đảm giấu nỗi buồn phiền, phán bảo thị vệ đi điều tra tin tức và ngâm bài kệ này:

  1. Mau bước vào trong các nội cung,
    Xem lời tên nọ đúng hay không?

Tên thị giả cùng quân hầu đi ra mở cửa cung bước vào, ở đó toàn kẻ tay chân bị trói, nhét giẻ vào mồm, treo trên cọc, gã thấy quân canh hậu cung, những tên lùn, gù lưng đều thế, cả chén bát đổ vỡ vung vãi khắp nơi, cùng với thức ăn uống, cửa kho tàng đều bị mở tung, kho đã bị cướp phá sạch, các phòng ngủ mở toang cửa, bầy quạ bay qua cửa sổ mở vào trong, chẳng khác nào một làng bỏ hoang hay bãi tha ma.

Gã thấy cung điện trong cảnh tiêu điều ấy, liền báo tin cho vua:

  1. Ma-ho-sad nói đúng, Minh quân,
    Nội điện hoàng cung đã trống không,
    Như một làng bên bờ bến nước,
    Được bầy quạ trú ẩn nương thân.

Vua run rẩy buồn rầu sợ mất các người thân yêu, liền nói:

– Ta gặp nỗi đau buồn này cũng do gã nông dân kia.

Rồi giống như con rắn bị đánh một gậy, ông hết sức phẫn nộ với Bồ-tát. Khi bậc Đại Sĩ thấy dáng điệu của vua như vậy, ngài nghĩ thầm: “Nhà vua này đang được đại vinh hiển, nếu trong cơn thịnh nộ liền nói: Ta phải làm gì trước những việc như thế? Vì lòng kiêu mạn của chiến sĩ, vua ấy có thể làm hại ta. Giả sử ta tả sắc đẹp của hoàng hậu Nandà cho vua nghe, làm như thể ông chưa từng gặp được hoàng hậu, ông sẽ thương nhớ bà và hiểu rằng ông sẽ không bao giờ thấy lại được nữ báu ấy nếu giết ta đi. Như vậy vì thương yêu hoàng hậu, vua sẽ không làm hại ta nữa”.

Thế là đứng an toàn trên thượng lầu, ngài khoát cánh tay sắc vàng óng từ dưới vạt hồng y của ngài lên và chỉ về hướng hoàng hậu đã ra đi, ngài tả dung sắc của hoàng hậu như vầy:

  1. Giai nhân có sắc đẹp toàn thân,
    Đã bước lối này, hỡi Đại vương,
    Giọng nói bà: thiên nga trổi nhạc,
    Môi bà như các phiến vàng ròng,
  2. Giai nhân có sắc đẹp toàn thân,
    Được dẫn lối này, hỡi Đại vương,
    Đã khoác xiêm y màu lụa sẩm,
    Đai lưng sáng rực kết vàng ròng.
  3. Đôi chân hồng đỏ trông kiều diễm,
    Đai kết vàng ròng với bảo trân,
    Đôi mắt bồ câu, hình yểu điệu,
    Đôi môi như trái bim-ba rừng.
  4. Lưng eo thon dịu, dáng cao sang,
    Như một cây leo, giống cát đằng,
    Hoặc chỗ tế đàn cao, giữa hẹp,
    Tóc dài đen nhánh, dưới cong cong,
    Như nai tơ, thuộc dòng cao quý,
    Như ngọn lửa hồng giữa tiết đông!
  5. Như dòng sông ẩn dưới sườn non,
    Trong đám cây leo bé cỏn con,
    Tuyệt sắc giai nhân hoàn hảo quá,
    Ngực đầy như trái tin-dook tròn,
    Cũng không ngắn quá, không dài quá,
    Cũng chẳng nhiều lông, chẳng trụi lông!

Trong lúc bậc Đại Sĩ ca tụng dung sắc diễm kiều của bà như vậy, vua cảm thấy như thể mình chưa gặp bà bao giờ cả, một nỗi khát khao ghê gớm khởi lên trong lòng ông. Bậc Đại Sĩ nhận thấy thế, lại ngâm kệ sau:

  1. Vậy ngài, Đại đế vinh quang,
    Thấy Nan-dà chết, hân hoan trong lòng,
    Thì Nan-dà sẽ cùng thần,
    Đến trình diện trước Diêm vương bây giờ!

Bậc Đại Sĩ ca tụng hoàng hậu Nandà như vậy, chứ không ca tụng ai khác, lý do là: Người ta không thương yêu ai bằng ái thê của mình. Ngài chỉ ca tụng bà, vì ngài nghĩ nếu vua nhớ đến bà, ông cũng sẽ nhớ đến các con. Trong lúc bậc Đại Sĩ ca tụng bà bằng giọng ngọt như mật, hoàng hậu Nandà như thể hiển diện toàn thân ra trước mắt vua. Lúc ấy ông nghĩ thầm: “Không ai ngoài Mahosadha có thể đem ái hậu về cho ta”. Nhớ đến bà, nỗi đau buồn lại dâng lên trong lòng ông. Bậc Đại Sĩ nói:

– Tâu Đại vương, xin đừng sầu khổ, hoàng hậu, hoàng tử và hoàng thái hậu sẽ trở về đây, với điều kiện duy nhất là thần được trở về trước, xin Đại vương hãy an lòng.

Ngài trấn an vua và vua lại nói:

– Ta canh phòng kinh thành của ta thật cẩn mật, ta đã bao vây thành Upakàri này với đoàn quân sĩ thật đông đảo, thế mà kẻ tài trí này vẫn đem ra khỏi thành được canh kỹ kia toàn thể hoàng hậu, hoàng tử, hoàng thái hậu và đưa họ đến thành Vedeha. Trong lúc ta đang vây hãm thành này, mà không một ai hay biết, kẻ này lại đưa vua Vedeha thoát đi cùng quân sĩ và voi ngựa chuyên chở, có thể rằng kẻ này có thần thông hay là có cách làm mờ mắt ta chăng?

Và ông hỏi ngài như sau:

  1. Nhà ngươi có pháp thuật ư?
    Hay là ngươi đã làm mờ mắt ta?
    Nên ngươi cứu chúa Đề-ha,
    Kẻ thù ta thoát tay ta giam cầm?

Nghe thế, bậc Đại Sĩ đáp:

-Tâu Đại vương, tiểu thần có thần thông biến hóa, vì các Trí giả học được phép thần thông, sẽ giải cứu luôn bản thân cùng các người khác, khi tai họa đến.

  1. Tâu Đại vương, các trí nhân,
    Vẫn thường học phép thần thông ở đời;
    Trí nhân đầy đủ kế tài,
    Bản thân giải thoát ra ngoài gian lao.
  2. Tiểu thần có các quân hầu,
    Khéo tài phá vỡ các hào lũy ra,
    Họ làm cách ấy giúp vua,
    Vi-đề đã đến Mi-la kinh thành.

Câu này ám chỉ vua kia đã ra đi bằng địa đạo được trang hoàng như trên, vì thế vua hỏi:

– Địa đạo ấy ra sao?

Và vua muốn xem nó. Bậc Đại Sĩ thấy vẻ mặt vua, biết rằng đây là vua muốn biết, nên ngài sẵn sàng chỉ nó cho vua xem:

  1. Đường hầm xây thật tài tình,
    Ngự du, xin hãy thân hành, Đại vương!
    Hầm to đủ chứa voi đàn,
    Đoàn xe, bầy ngựa, hàng hàng lục quân,
    Bên trong đèn thắp sáng trưng,
    Một đường hầm quả kỳ công thực là!

Rồi ngài tiếp tục nói:

– Tâu Đại vương, xin ngự lãm địa đạo do trí tuệ thần xây dựng nên, sáng ngời như thể đôi vầng nhật nguyệt mọc lên trong đó, được trang hoàng thật lộng lẫy với tám mươi cửa lớn và sáu mươi bốn cửa nhỏ, một trăm lẻ một loan phòng, hằng trăm ổ đèn, xin Đại vương hoan hỷ ngự giá cùng tiểu thần và quân cận vệ vào kinh thành Upakàri.

Nói xong, ngài bảo cổng thành mở toang và vua cùng một trăm lẻ một vị vương hầu ngự vào. Bậc Đại Sĩ bước xuống khỏi thượng lầu triều bái vua và đưa ngài cùng đoàn tùy tùng vào trongđịa đạo. Khi vua thấy địa đạo đẹp như kinh thành được trang hoàng của chư Thiên, vua liền ca tụng Bồ-tát:

  1. Lợi thay chúa tể Đề-ha,
    Có nhiều người trí trong nhà như khanh,
    Hoặc trong đất nước của mình,
    Ma-ho-sad hỡi, thông minh tuyệt trần!

Sau đó bậc Đại Sĩ dẫn vua đến một trăm lẻ một loan phòng, hễ mở một cửa thì tất cả đều mở và một cửa đóng thì tất cả đều đóng lại. Vua bước vào trước, chiêm ngưỡng địa đạo, bậc Đại Sĩ theo sau, rồi tất cả quân sĩ đều vào trong hầm. Nhưng khi bậc Trí giả biết vua đã ra khỏi địa đạo, ngài liền ngăn đám người kia bước ra bằng cách đi đến một nút bấm và đóng cửa hầm lại. Thế là tám mươi cửa lớn và sáu mươi bốn cửa nhỏ, các cửa của cả trăm lẻ một loan phòng và cửa của hàng trăm ổ đèn đều đóng chặt lại, toàn thể địa đạo tối đen như địa ngục.

Tất cả đám người đông đảo ấy đều kinh hoàng.

Bấy giờ bậc Đại Sĩ tuốt kiếm ra, cây kiếm mà ngài đã giấu hôm qua khi ngài vào địa đạo. Từ dưới đất, ngài phóng mình lên không chừng tám thước rồi hạ xuống chụp lấy cánh tay vua, vung kiếm ra và thét lên hăm dọa:

– Này Đại vương, tất cả vương quốc ở cõi Diêm -phù- đề thuộc về ai?

– Thưa bậc Trí giả, của khanh tất cả, xin tha mạng trẫm.

Ngài đáp:

– Xin Đại vương chớ sợ, thần không có ý gì lấy kiếm ra sát hại Đại vương đâu, mà chỉ để bày tỏ trí khôn của thần đó thôi.

Rồi ngài trao kiếm cho vua, khi vua đã cầm kiếm xong, ngài lại nói:

– Tâu Đại vương, nếu ngài muốn giết thần xin hãy lấy kiếm này giết đi, còn nếu muốn tha cho thần, xin hãy tha cho.

Vua đáp:

– Này bậc Trí giả đừng sợ, trẫm hứa bảo toàn tánh mạng của khanh.

Thế là khi vua giơ kiếm lên, cả hai đều kết tình bằng hữu rất chân thật. Rồi vua bảo Bồ-tát:

– Này bậc Trí giả, hiền khanh thật nhiều tài trí, tại sao khanh không chiếm lấy vương quốc này?

– Tâu Đại vương, nếu thần muốn, chỉ nội hôm nay thần có thể thu trọn mọi vương quốc ở cõi Diêm-phù-đề này và giết hại mọi vị vua, nhưng một hiền nhân không đạt vinh quang bằng cách giết hại kẻ khác.

– Này bậc Trí giả, đám đông đang khổ sở vì không đi ra được, vậy khanh hãy mở cửa địa đạo và tha mạng cho hết thảy.

Ngài mở cửa, cả địa đạo sáng lòa, mọi người đều bình tâm trở lại, vua chúa cùng các đoàn tùy tùng bước ra, đến gần bậc Trí giả đang đứng giữa sân chầu rộng lớn với vua, rồi các vua này bảo:

– Thưa bậc Trí giả, ngài đã tha mạng cho tất cả chúng ta, nếu cửa địa đạo đóng lâu hơn chốc nữa, chắc cả đám chết hết rồi.

– Tâu các vị Chúa công, đây không phải lần đầu tiên các ngài được thần cứu giá đâu.

– Thế thì khi nào nữa, thưa bậc Trí giả?

– Các ngài còn nhớ khi tất cả vương quốc ở cõi Diêm-phù-đề đều bị chinh phục trừ kinh thành của tiểu thần và khi các vị đến vườn Thượng uyển Uttarapañcàla sẵn sàng nâng chén khải hoàn chăng?

– Thưa bậc Trí giả, còn nhớ.

– Lúc ấy chính vua này cùng lão Kevatta đã dùng độc kế, đầu độc thức ăn thức uống và mưu toan sát hại các vị, nhưng tiểu thần lại không muốn để các vị chịu một cái chết ngu si như vậy trước mắt thần, nên thần cho người vào đánh vỡ hết chén bát nồi niêu, phá hỏng kế hoạch của họ, cứu mạng các vị đấy!

Các vua đều kinh hãi hỏi lại vua Cùlani:

– Tâu Đại vương, có thật vậy chăng?

– Thật vậy, các việc ta làm đều do lời bàn của Kevatta. Bậc Trí giả nói đúng thật đấy.

Thế là các vua đều ôm lấy bậc Đại Sĩ và bảo:

– Thưa bậc Trí giả, ngài là vị cứu tinh của chúng ta, ngài đã giải cứu chúng ta.

Các vua ấy ban tặng vật trang sức cho ngài để tỏ lòng quý trọng.

Bậc Đại Sĩ nói với vua Cùlani:

– Xin Đại vương chớ sợ, lỗi lầm này do kết giao với một bạn ác, xin Đại vương yêu cầu các vua kia lượng thứ cho.

Vua bảo:

– Ta đã làm như vậy vì một kẻ ác, đó là lỗi lầm của ta, xin các vị hãy khoan dung, ta không bao giờ tái phạm điều ấy nữa.

Vua này liền được các vua kia tha thứ, tất cả đều thú tội cho nhau nghe và trở thành thân hữu, sau đó vua truyền đem đến đủ thứ sơn hào hải vị, hương thơm tràng hoa và suốt bảy ngày liền họ liên hoan trong địa đạo, rồi vào kinh thành ban đại vinh hiển cho bậc Đại Sĩ. Vua ngự trên ngai vàng, có cả trăm lẻ một vương hầu vây quanh. Và ước mong giữ bậc Trí giả ở lại triềuđình này, vua liền bảo:

  1. Trẫm ban thế lực, vinh quang,
    Gấp đôi thực phẩm, tiền lương công thần,
    Và thêm nhiều thứ đặc ân,
    Mong khanh hưởng thụ toàn phần tự do,
    Đừng về với Chúa Đề-ha,
    Vua kia làm được gì cho khanh à?

Nhưng bậc Trí giả tìm lời lẽ chối từ:

202-203. Đại vương, rời bỏ chủ ta,
Chỉ vì lợi lộc thật là nhục thay,
Cho người kia lẫn ta đây;
Trong đời Vi-đế vương này trị dân,
Thần không hầu hạ tha nhân,
Thần không thể sống giang sơn người ngoài.

Lúc ấy vua bảo ngài:

– Này bậc Trí giả, được rồi, khi nào Đại vương của khanh lên chầu trời, xin hiền khanh hãy hứa đến đây với trẫm.

– Tâu Đại vương, nếu thần còn sống, thần xin đến đây.

Thế là vua tiếp đãi ngài trọng thể trong bảy ngày. Sau đó, khi ngài tạ từ, vua ngâm kệ hứa hẹn ban tặng ngài thứ nọ kia:

  1. Ban khanh ngàn nén vàng thoi,
    Ở Kà-si đủ tám mươi ngôi làng,
    Bốn trăm tỳ nữ gia nhân,
    Một trăm thê thiếp, trẫm ban trọn phần.
    Rồi đem tất cả đoàn quân,
    Ma-ho-sad, hãy lên đường bình an.

– Khi đức vua của thần về bổn quốc, thần có tâu ngài phải tiếp đãi mẫu hậu Nandà như mẹ ngài, hoàng tử Pañcàlacanda như vương đệ của ngài và thần đã kết duyên công chúa cho ngài bằng nghi lễ vẩy nước thánh. Chẳng bao lâu nữa thần xin đưa thái hậu cùng hoàng hậu, hoàng tử trở về.

– Tốt lắm.

Vua phán, truyền ban hồi môn cho công chúa, cùng thị vệ nữ tỳ, xiêm y, nữ trang ngọc vàng trân bảo, voi ngựa, vương xa trang hoàng rực rỡ. Rồi vua ra lệnh cho quân sĩ thi hành:

  1. Hãy cho bầy ngựa, voi đàn,
    Gấp đôi số thực phẩm ban ngày,
    Toàn quân mở tiệc liên hoan,
    Quản xa, lính bộ uống ăn thỏa lòng!

Nói vậy xong, vua truyền bậc Trí giả ra về với những lời này:

  1. Lên đường, hỡi bậc Trí nhân,
    Đoàn xe, voi ngựa, lục quân ra về,
    Để cho chúa tể Vi-đề
    Thấy khanh trở lại Mi-thi-la thành.

Vua tiễn đưa bậc Trí giả vô cùng trọng thể như thế. Cả trăm lẻ một vương hầu cùng đưa tiễn ngài linh đình và trao quà tặng vô số.

Các thám tử theo phụng sự các vương hầu kia cũng đến vây quanh bậc Trí giả. Ngài rầm rộ lên đường. Trên lộ trình, ngài gửi người hầu đi thu lợi tức ở các ngôi làng mà vua Cùlani đã ban ngài. Rồi ngài trở về vương quốc Vedeha.

Bấy giờ Senaka đã phái một người hầu lên đường để rình xem vua Cùlani có đến hay không và phi báo cho lão biết bất kỳ ai đến. Gã kia trông thấy bậc Đại Sĩ cách ba dặm đường, liền trở về báo cho lão biết bậc Trí giả đang cùng đám tùy tùng đông đảo rầm rộ trở về. Được tin ấy lão liền đến hoàng cung. Vua cũng nhìn ra cửa sổ trên thượng lầu thấy một đám đông rầm rộ thì đâm hoảng sợ. “Đám tùy tùng của bậc Đại Sĩ còn ít lắm, còn đám này lại quá đông, phải chăng đích thân vua Cùlani đến đây?”. Ngài liền hỏi như sau:

  1. Ngựa voi, xe pháo, bộ binh,
    Đạo quân rầm rộ hiện hình trước ta,
    Bốn đoàn khủng khiếp lộ ra,
    Việc này có ý nghĩa là sao đây?

Senaka đáp:

  1. Hân hoan lớn nhất đời này,
    Đại vương còn thấy vui vầy nào hơn?
    Ma-ho-sad được bình an,
    Trở về cùng cả đoàn quân của ngài.

Vua bảo:

– Này Senaka, quân sĩ của bậc Trí giả ít lắm, mà đám này lại quá đông?

– Tâu Đại vương, ắt hẳn vua Cùlani đẹp ý vì ngài lắm nên đã ban cho ngài đám tùy tùng đông như vậy.

Vua liền cho lệnh truyền đi khắp nơi kinh thành bằng tiếng trống:

– Cả kinh thành hãy trang hoàng để nghênh đón bậc Trí giả về.

Dân chúng tuân lệnh, bậc Trí giả về thành, liền vào cung vua. Lúc ấy vua đứng dậy ôm hôn ngài, rồi lui về ngai và hoan hỷ bảo ngài:

209-210. Giống như có bốn người trai,
Để thi thể nọ ra ngoài nghĩa trang,
Chúng ta để bậc Trí nhân.
Tại Kam-pil quốc, nhanh chân trở về.
Nhưng khanh có đặc tính gì,
Lập mưu, phương tiện, cứu nguy an toàn?

Bậc Đại Sĩ đáp:

  1. Vi-đề-ha, tấu Đại vương,
    Thần nhờ một đích phá tan địch thù,
    Dùng quân cơ thắng quân cơ,
    Và thần vây hãm vị vua đại cường,
    Như là biển lớn, Chiến vương,
    Bao vây khắp cả giang sơn Diêm-Phù.

Nghe thế vua rất đẹp lòng. Rồi bậc Đại Sĩ kể cho vua nghe những tặng vật mà vua Cùlani đã ban :

  1. Được ban ngàn nén vàng thoi,
    Ở Kà-sì đủ tám mươi ngôi làng
    Bốn trăm tỳ nữ gia nhân,
    Một trăm thê thiếp được ban cho thần.
    Rồi cùng tất cả đoàn quân,
    Tiểu thần trở lại quê hương an toàn.

Lúc ấy vua hết sức vui mừng, hoan hỷ thốt lời ca ngợi tán thán đầy cung kính trước tài đức của bậc Đại Sĩ:

  1. Thật là hạnh phúc muôn vàn,
    Khi ta được sống cùng hàng trí nhân.
    Như chim thoát khỏi lồng giam,
    Như con cá thoát lưới càng vui thay,
    Ma-ho-sad cứu ta đây,
    Khi ta còn ở trong tay quân thù.

Senaka đáp lại như sau:

  1. Muôn tâu chúa thượng, chúng ta,
    Sống cùng bậc Trí thật là lạc quan,
    Như chim thoát khỏi lồng giam,
    Như con cá thoát lưới càng vui thay,
    Ma-ho-sad cứu ta đây,
    Khi ta còn ở trong tay quân thù.

Sau đó vua cho trống hội đánh khắp kinh thành:

Hãy làm hội hè trong bảy ngày, những kẻ nào có thiện ý với trẫm thì hãy phụng sự cung kính bậc Trí giả.

*

Bậc Đại Sư giải thích việc này như sau:

Dân chúng hãy trổi vang mọi loại đàn sáo trống chiêng, tù và trong xứ Ma-kiệt-đà hãy khua vội lên, thanh la rung thật nhộn nhịp.

Dân chúng từ thành thị đến thôn quê đều ước ao tỏ lòng tôn kính bậc Đại Sĩ, khi nghe công bố như vậy, liền mở hội liên hoan cho thỏa thích. Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Đàn bà, con gái mọi nhà,,
    Thương gia cùng vợ, các Bà-la-môn
    Đem đầy đủ thức uống ăn,
    Đến dâng bậc Trí nhân làm quà.
  2. Luyện voi, vệ sĩ, quản xa,
    Bộ binh, tất cả đem quà đến, dâng.
    Toàn dân làng xã hợp quần
    Người người vui thấy Trí nhân khải hoàn.
    Trong khi tiếp đón chào mừng,
    Trên không phất phới khăn quàng vẫy tung.

Khi tan hội hè, bậc Đại Sĩ vào cung và thưa:

– Tâu Đại vương, mẫu hậu và hoàng hậu, hoàng nam của vua Cùlani phải được đưa về nước ngay lập tức.

– Vương nhi, tốt lắm. con hãy đưa họ trở về.

Ngài liền cư xử rất cung kính đến với ba người kia và tiếp đãi ân cần đám tùy tùng đã đi theo ngài, rồi ngài đưa ba vị ấy về nước với đầy đủ đoàn hầu cận của ngài cùng một trăm thê thiếp và bốn trăm nữ tỳ mà vua kia đã ban cho ngài, ngài đều đưa về theo hoàng hậu Nandà và đoàn quân sĩ đã đến đây với ngài, ngài cũng cho về luôn.

Khi đoàn đại binh này đến thành Uttarapañcàla, vua hỏi mẫu hậu:

– Tâu mẫu hậu, vua Vedeha có tiếp đãi mẫu hậu nồng nhiệt chăng?

– Này hoàng nhi, con hỏi sao vậy? Ngài đã tiếp đãi ta vinh dự chẳng khác nào đón tiên nữ trên trời.

Rồi bà lại kể hoàng hậu Nandà được tiếp đãi như bà mẹ ra sao và Pañcàlacandà như một vương đệ thế nào. Việc này khiến vua rất hài lòng và truyền gửi nhiều tặng vật rất hậu hỷ. Từ đó hai nước sống trong tình thân hữu mật thiết.

Lúc bấy giờ công chúa Pancàlacandì rất được vua yêu quý, năm sau nàng hạ sinh được một vương tử. Mười năm sau, vua Vedeha từ trần. Bồ-tát giương chiếc lọng hoàng gia lên cho vương tử, rồi xin giã từ về để đi đến với tổ phụ của ngài là vua Cùlani. Vương tử bảo:

– Thưa bậc Trí giả, xin đừng bỏ trẫm lúc còn thơ ấu, trẫm sẽ tôn trọng ngài như cha trẫm vậy.

Công chúa Pañcàlacandì lại bảo:

– Thưa bậc Trí giả, xin đừng đi, không có ai bảo vệ mẹ con ta nếu ngài ra đi.

Nhưng ngài đáp:

– Thần đã hứa lời, vậy thần phải ra đi.

Thế là giữa đám đông kêu than thảm thiết, ngài ra đi cùng đám hầu cận đến thành Uttarapañcàla. Vua này hay tin ngài đến, liền ra đón tiếp, đưa ngài vào thành rất trọng thể, ban cho ngài dinh cơ rộng lớn ngoài tám mươi làng đã ban trước kia, lại ban thêm tặng vật khác và từ đó ngài phụng sự vua này.

  1. VẤN ĐỀ THỦY QUÁI.

Thời ấy có một nữ tu sĩ tên là Bheri, vẫn thường dùng cơm trong cung. Bà này thông thái tài trí và chưa hề tiếp kiến bậc Đại Sĩ, nay nghe báo tin bậc Trí giả Mahosadha đang phụng sự vua. Ngài cũng chưa hề thấy bà này bao giờ, nhưng ngài nghe rằng một nữ tu sĩ tên là Bheri thường ăn cơm cùng vua.

Lúc bấy giờ hoàng hậu Nandà không hài lòng Bồ-tát vì ngài đã làm bà mất tình yêu của vua khiến bà sinh lòng phiền muộn, nên bà cho gọi năm tỳ nữ thân tín đến và dặn:

– Các ngươi rình tìm cho được lỗi lầm của bậc Trí giả, rồi ta cố làm cho gã bị thất sủng.

Thế là họ đi tìm cơ hội chống phá ngài. Một hôm vị nữ ẩn sĩ ấy sau buổi ăn, đang đi ra ngoài thì gặp Bồ-tát trên sân chầu đến yết kiến vua. Ngài vái chào bà rồi đứng yên. Bà nghĩ thầm: “Họ bảo đây là một trí giả, vậy ta thử xem ngài có thật là một trí giả hay không”. Bà liền hỏi ngài bằng cách ra dấu tay, bà mở bàn tay ra trong khi nhìn về phía Bồ-tát. Ý bà muốn hỏi vua có ân cần chu đáo với bậc Trí giả mà vua đã đưa về từ ngoại quốc chăng. Khi Bồ-tát thấy bà hỏi ngài bằng cách ra dấu, ngài đáp bằng cách nắm tay lại, ý ngài muốn nói: “Thưa hiền tỷ, nhà vua đem ta về đây để làm tròn một lời hứa, nay ngài nắm chặt tay lại, chẳng cho ta gì cả”. Bà hiểu ý, giơ tay ra xoa đầu như muốn nói: “Hiền giả, nếu ngài không toại ý, cớ sao ngài không đi làm ẩn sĩ như ta”. Thấy thế, bậc Đại Sĩ vỗ bụng như muốn bảo: “Hiền tỷ ta còn phải cấp dưỡng nhiều người nên ta chưa làm ẩn sĩ được”. Sau lần chất vấn không lời ấy, bà trở về nơi ẩn cư.

Bậc Đại Sĩ chào bà và đến yết kiến vua. Lúc bấy giờ các kẻ tâm phúc của hoàng hậu thấy rõ cảnh trên từ cửa sổ nên đến trình vua:

– Tâu hoàng thượng, Ngài Mahosadha đang âm mưu với nữ ẩn sĩ Bheri để chiếm vương quốc này, đó chính là kẻ thù của ngài.

Rồi họ vu khống cho ngài. Vua hỏi:

– Các ngươi đã nghe thấy gì?

Họ đáp:

– Tâu hoàng thượng, khi nữ ẫn sĩ ra về sau buổi ăn, thấy bậc Đại Sĩ, bà mở bàn tay ra như muốn bảo: “Ngài không thể đè bẹp nhà vua như lòng bàn tay này hay cái sàn đập lúa rồi chiếm lấy vương quốc này cho ngài sao?”. Và ngài Mahosadha nắm tay lại như thể cầm thanh kiếm và bảo: “Vài ngày nữa ta sẽ chém đầu vua và cầm quyền”. Bà ra dấu: “Hãy chém đầu vua”, bằng cách lấy tay xoa đầu. Bậc Đại Sĩ lại ra dấu: “Ta sẽ chặt vua làm đôi” bằng cách xoa bụng. Xin hoàng thượng hãy đề phòng, phải giết Mahosadha ngay mới được.

Vua nghe vậy, nghĩ thầm: “Ta không thể làm hại bậc Trí giả được, ta phải hỏi lại nữ tu sĩ kia”. Vì thế ngày hôm sau, lúc bà đang dùng cơm, vua liền đến hỏi:

– Này hiền tỷ có gặp Trí giả Mahosadha chăng?

– Tâu Đại vương, hôm qua sau khi dùng cơm xong thần có gặp.

– Thế các vị có đàm luận gì với nhau chăng?

– Đàm luận ư? Thưa không, nhưng vì thần nghe nói về tài trí của ngài, nên để thử tài ngài, thần đã ra dấu hỏi ngài bằng cách nắm tay lại, xem thử đức vua có rộng rãi hay hẹp hòi đối với ngài, đức vua có ân cần đối với ngài chăng? Ngài nắm tay lại, ám chỉ rằng đức vua đã bảo ngài đến đây để làm tròn một lời hứa, nay chẳng ban cho ngài gì cả. Sau đó thần xoa đầu để hỏi tại sao ngài không xuất gia tu hành nếu ngài không toại ý, ngài vỗ bụng muốn bảo là ngài còn phải cấp dưỡng nhiều người và nuôi họ ăn uống đầy đủ, nên chưa xuất gia được.

– Thế Mahosadha có phải là bậc Trí giả chăng?

– Quả thật vậy, tâu Đại vương, khắp thế gian này chẳng có ai tài trí như ngài cả.

Sau khi nghe bà tường thuật, vua cho bà lui ra. Sau khi bà đi về, bậc Trí giả vào chầu. Vua hỏi:

– Này bậc Trí giả, khanh đã gặp nữ ẩn sĩ Bheri chưa?

– Tâu Đại vương, thần gặp bà ấy hôm qua trên đường về, bà hỏi thần bằng cách ra dấu, thần trả lời bà ấy ngay.

Rồi ngài kể lại câu chuyện như bà ấy đã kể trước đây. Vua đẹp lòng, ngay hôm sau phong cho ngài chức đại tướng quân và giao một mình ngài đảm chức vụ ấy. Vinh quang của ngài thật lừng lẫy, chỉ đứng sau vua mà thôi.

Ngài nghĩ thầm: “Nhà vua bỗng dưng ban cho ta vinh quang tột bực lẫy lừng; đây là chuyện vua chúa thường làm ngay cả khi họ muốn sát hại ai. Để ta thử xem nhà vua có thiện ý với ta hay không. Không ai có thể làm việc này trừ ẩn sĩ Bheri đầy tài trí ấy và bà ấy sẽ có cách”.

Thế là ngài đem hương hoa đến thăm nữ ẩn sĩ, sau khi vái chào bà, liền bảo:

– Thưa hiền tỷ, từ khi hiền tỷ khen ngợi tài năng của ta với đức vua, ngài liền ban tặng ta nhiều bảo vật, nhưng ngài có thực tâm không thì ta chưa rõ. Vậy nếu hiền tỷ chịu khó tìm hiểu dùm cho ta về tâm ý đức vua thì hay quá.

Bà hứa sẽ làm thế và hôm sau bà vào cung, bà chợt nghĩ đến câu chuyện Thủy quái Dakarakkhasa. Lúc ấy bà suy nghĩ: “Ta không nên làm như một thám tử, ta phải tìm cơ hội hỏi chuyện này xem đức vua có thiện ý với bậc Trí giả chăng?. Rồi bà đi vào, sau buổi ăn bà ngồi yên. Vua vái chào bà và ngồi sang một bên, bà nghĩ thầm: “Nếu đức vua có ác ý với bậc Trí giả và khi ngài được hỏi vấn đề kia, ngài bày tỏ ác ý của ngài trước mặt nhiều người, điều ấy không có lợi gì, vậy ta phải hỏi riêng mới được”. Bà liền bảo:

– Tâu hoàng thượng, thần ao ước được đàm luận riêng với ngài.

Vua liền bảo cận thần lui ra, bà nói:

– Thần mong muốn hỏi hoàng thượng một điều.

– Hiền tỷ cứ nói, nếu ta biết, ta sẽ đáp ngay.

Bà liền đọc vần kệ thứ nhất về chuyện Thủy quái Dakarakkhasa:

  1. Bảy người thân của hoàng cung,
    Ngự du trên chốn ngàn trùng đại dương,
    Quỷ thần đòi hỏi tế đàn,
    Khi vừa chụp lấy thuyền vàng của vua,
    Những ai ngài sẽ đưa ra,
    Dần theo thứ tự để mà cứu nguy?

Vua liền đáp kệ hết sức chân thành:

  1. Trước tiên mẫu hậu tức thì,
    Kế là hoàng hậu chánh phi Nandà,
    Tiếp theo tiểu đệ hoàng gia,
    Thứ tư thân hữu, năm bà-la-môn,
    Chính ta thứ sáu bản thân,
    Nhưng ta không hiến Trí nhân của mình!

Như thế ẩn sĩ đã thấy rõ thiện tâm của vua đối với bậc Đại Sĩ, nhưng tài trí của ngài chưa được công bố cho mọi người rõ nên bà liền nghĩ đến một chuyện khác nữa: “Trước công chúng, ta sẽ ca ngợi tài đức của nhiều người khác, và để đức vua tán dương tài trí của bậc Trí giả, như vậy tài trí ngài sẽ sáng tỏ như mặt trăng trên trời”. Bà liền tập hợp tất cả mọi người ở trong hậu cung; trước mặt họ, bà cũng hỏi câu trên và được đáp lại như thế, rồi bà nói:

– Tâu Hoàng thượng, ngài bảo sẽ đem thái hậu ra tế lễ trước tiên, nhưng một bà mẹ thật nhiều công đức. Hơn nữa thái hậu lại chẳng giống các bà mẹ khác, mẫu hậu thật đắc dụng.

Rồi bà kể công đức của mẫu hậu trong hai vần kệ sau:

  1. Lệnh bà dưỡng dục sinh thành,
    Bao năm tận tụy nhiệt tình với con,
    Khi Cham-bhì hại hoàng nam,
    Khôn ngoan bà thấy việc làm lợi vua,
    Đem người thế chỗ vương gia,
    Nên ngài đã được chính bà cứu nguy.
  2. Mẹ cho đời sống từ bi,
    Chính bà mang nặng hoàng nhi trong lòng.
    Vì đâu là các lỗi lầm,
    Ngày đem hiền mẫu hiến dâng thủy thần?

Nghe vậy vua liền đáp:

– Mẫu hậu rất nhiều tài đức, trẫm thừa nhận mẫu hậu có nhiều công đức với trẫm, nhưng lỗi lầm của bà còn nhiều hơn nữa.

Rồi vua tả các lỗi lầm của mẹ trong hai vần kệ:

221-222. Giống như thiếu nữ còn xuân
Bà đeo các món bội hoàn nữ trang
Mà bà già chẳng nên mang.
Phi thời bà chế nhạo quân canh phòng.
Lại thường gửi điệp địch vương,
Mà không được lệnh của hoàng gia đây.
Chính vì các lỗi lầm này,
Nên ta đem hiến bà ngay thủy thần!

– Tâu Hoàng thượng, đã đành vậy, nhưng hoàng hậu cũng có nhiều tài đức.

Và bà kể tài đức của hoàng hậu:

223-224. Lệnh bà đệ nhất hồng quần,
Cực kỳ diễm lệ, nói năng ân cần,
Tràn đầy đức hạnh, nhiệt tâm,
Kề bên hoàng hậu uyên ương bóng hình,
Chẳng hề giận dỗi bất bình,
Khôn ngoan, thận trọng, chân thành lợi vua.
Vậy vì lầm lỗi đâu mà
Ngài đem hoàng hậu hiến dâng thủy thần?

Vua liền kể các lỗi lầm của bà:

225-226. Nhờ bao vẻ đẹp mê hồn,
Bà hoàng đã khiến vương quân phục tòng,
Chịu nhiều ảnh hưởng bất nhân,
Và đòi những thứ bà không nên đòi
Dành cho con của bà thôi.
Vì ta say đắm ban hoài đặc ân.
Ta ban những vật khó ban,
Về sau hối hận muôn vàn đắng cay,
Chính vì các lỗi lầm này.
Ta đem hoàng hậu tế ngay thủy thần!

Nữ ẩn sĩ đáp:

– Đã đành vậy, nhưng còn hoàng đệ Tikhinamatì rất lợi ích cho Hoàng thượng. Vì lỗi gì ngài đem chàng cho thủy quái?

Và bà ngâm kệ:

  1. Chàng đem phồn thịnh cho dân,
    Khi ngài đang ở tha phương xứ người,
    Chàng đưa Hoàng thượng tái hồi,
    Chàng không hề bị cuốn lôi bạc vàng.
  2. Anh hùng thiện xạ vô song,
    Ti-khi-na thật tinh thông muôn phần,
    Vậy đâu là các lỗi lầm,
    Ngài đem hoàng đệ tế dâng thủy thần?

Vua kể lỗi lầm của chàng:

  1. “Ta đem phồn thịnh cho dân,
    Khi ngài đang ở tha phương xứ người,
    Ta đưa Hoàng thượng tái hồi,
    Ta không hề bị cuốn lôi bạc vàng.
    Ta là thiện xạ vô song,
    Anh hùng vô địch tinh thông trí tài.
    Ta tôn Hoàng thượng lên ngôi”.
    Chàng suy nghĩ vậy, thế rồi về sau.
  2. Chàng không đi đến cung chầu,
    Như thường thuở trước chàng hầu bên ta.
    Chính vì lầm lỗi kia mà,
    Ta đem hoàng đệ tế dâng thủy tề.

Ẩn sĩ bảo:

– Hoàng đệ nhiều lỗi lầm như thế, nhưng còn hoàng tử Dhanusekha thương yêu ngài rất tận tụy lại rất hữu ích.

Bà tả tài đức của chàng:

  1. Ngài và Dha-nu-sek-ha,
    Cùng mang tên tộc Pañ-cà-la-mà.
    Một đêm hai vị sinh ra,
    Vừa là thân hữu vừa là đồng môn,
    Suốt đời hầu cận minh quân,
    Đồng cam cộng khổ vui buồn bên nhau.
  2. Nhiệt tình thận trọng bấy lâu,
    Hết lòng phục vụ kể đâu đêm ngày.
    Vậy thì lầm lỗi nào đây,
    Ngài đem thân hữu tế ngay thủy thần?

Vua liền tả lỗi lầm của chàng:

  1. Suốt đời, thưa nữ đạo nhân,
    Chàng thường vui thú chung cùng bên ta.
    Chính vì duyên cớ ấy mà,
    Nay chàng hành động quá là tự do.
  2. Nếu ta nói chuyện riêng tư,
    Cùng hoàng hậu, cứ xông vô phi thời,
    Mà không có lệnh ta đòi,
    Cũng không thông báo cho người nào hay.
  3. Nếu cho chàng một dịp may,
    Làm điều bất kính, nhục đầy xấu xa,
    Chính vì lầm lỗi ấy mà
    Ta đem thân hữu hiến cho thủy thần.

Nữ ẩn sĩ đáp:

– Lỗi lầm của chàng thật nhiều đấy, song còn vị quân sư rất hữu dụng cho Hoàng thượng.

Bà liền tả tài đức của vị này:

  1. Tế sư quả thật tinh khôn,
    Biết nhiều điềm triệu, thanh âm ở đời,
    Chuyên môn đoán rộng, vãng lai,
    Am tường dấu hiệu đất trời, trăng sao,
    Vậy thì do lỗi lầm nào,
    Đại vương đem đạo sĩ trao thủy thần?

Vua giải thích lỗi lầm của vị ấy:

  1. Dù ngay ở giữa quần thần,
    Lão thường mở mắt trừng trừng nhìn ta,
    Nên ta muốn hiến lão già,
    Nhăn mày quỷ quái ấy cho thủy thần!

Lúc ấy vị ẩn sĩ nói:

– Tâu Hoàng thượng, ngài phán rằng ngài sẽ đem năm người này cho thủy quái và sẽ hy sinh thân mình cho bậc Trí giả Mahosadha mà không nghĩ gì đến ngai vàng vinh hiển của mình. Vậy Hoàng thượng thấy vị ấy có tài đức gì?

Và bà ngâm các vần kệ này:

  1. Đại vương ở giữa triều thần,
    Trong châu lục lớn, ngàn trùng biển xanh,
    Thay vì thành lũy bao quanh,
    Ngự trên đế quốc hùng anh đại cường,
    Độc tôn hoàng đế trần gian,
    Thật là vĩ đại vinh quang vô vàn.
  2. Nữ nhi một vạn sáu ngàn,
    Điểm tô châu ngọc, nữ trang sáng ngời,
    Giai nhân từ khắp mọi nơi,
    Khác nào tiên nữ cao vời thiên cung.
  3. Được dâng mọi thứ cần dùng,
    Mọi điều ước nguyện cầu mong vẹn toàn,
    Đại vương đã sống trường tồn,
    Trong niềm hạnh phúc hân hoan tột cùng.
    Đâu là duyên cớ nguyên nhân,
    Hy sinh ngọc thể hộ phòng Trí nhân?

Nghe vậy, vua ngâm các vần kệ này ca tụng đức hạnh của bậc Trí giả:

  1. Thưa bà, Trí giả Đại thần,
    Từ khi đến ở kế gần bên ta,
    Ta không hề thấy bao giờ,
    Con người khí phách tạo ra lỗi lầm,
    Dù là một mảy cỏn con.
  2. Nếu ta chết trước Trí nhân lúc nào,
    Người đem hạnh phúc biết bao,
    Cho đàn con cháu mai sau lâu dài.
  3. Người thông minh mọi việc trên đời,
    Dù là quá khứ, tương lai xa gần.
    Người này không có lỗi lầm,
    Ta không muốn tế thủy thần quỷ ma.

Như vậy chuyện Tiền thân này đã đến hồi kết thúc tốt đẹp. Lúc ấy vị ẩn sĩ suy nghĩ: “Chuyện này vẫn chưa đủ để bày tỏ đức độ của bậc Trí giả, ta sẽ cho dân chúng khắp kinh thành biết rõ công đức của ngài như người ta rãi dầu thơm trên mặt biển”.

Thế là bà mời vua cùng bà đi xuống khỏi cung, soạn bảo toạ trên sân chầu, mời vua ngự lên, rồi triệu tập dân chúng lại, bà hỏi vua một lần nữa về chuyện Thủy quái từ khởi đầu, và khi vua trả lời như trên đây, bà liền bảo dân chúng:

  1. Thần dân của xứ Pañ-cà,
    Nghe lời này của vua Cù-la-ni,
    Bảo toàn bậc Trí giả kia,
    Đức vua nào có kể chi mình vàng.
  2. Cuộc đời của chính mẫu hoàng,
    Em trai, hoàng hậu, thân bằng, bản thân,
    Vua Pãn-cà thảy sẵn lòng,
    Hy sinh tất cả hiến dâng thủy thần.
  3. Diệu kỳ thay trí lực hùng,
    Thông minh tài giỏi vô song như vầy,
    Chỉ vì ích lợi đời này,
    Cùng là hạnh phúc lâu dài đời sau.

Như vậy bà đã đạt đỉnh cao trong sự chứng minh tài đức của bậc Đại Sĩ, chẳng khác nào người ta đặt ngọn tháp cao chót vót lên một đống bảo vật.

Đến đây chấm dứt Vấn đề Thủy quái và cũng chấm dứt luôn toàn chuyện Đường hầm vĩ đại.

*

Và sau đây là sự nhận diện Tiền thân:

– Uppalavannì (Liên Hoa Sắc) là nữ ẩn sĩ Bheri, Suddhodana (Vua Tịnh phạn) là cha của bậc Trí giả, Mahàmàyà (hoàng hậu Ma-gia) là mẹ ngài, giai nhân Bimbà (tức Yasodhàrà) là Amarà, Ànanda là con két, Sàriputta là vua Cùlani, Mahosadha là đức Thế tôn.

Tiền thân này được hiểu như vậy.

Devadatta là Kevatta, Cullanandikà là Talatà, Sundarì là Pañcàlacandì, Yasassika là hoàng hậu, Ambattha là Kàvinda, Potthapàda là Pukkusa, Pilotika là Devinda, Saccala là Senaka, Ditthamangalikà là Hoàng hậu Udumbarà (Cây sung), Kundali là chim Maynah và Làludàyì là Vedeha.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN ÐẠI VƯƠNG VESSANTARA (Tiền thân Vessantara)

Phu-sa-tì, mỹ hậu huy hoàng…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú gần thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) về một cơn mưa lớn.

Lúc bậc Ðạo Sư đang chuyển Pháp luân trên đường dẫn đến thành Ràjagaha (Vương Xá), nơi đó Ngài trú mùa đông cùng Trưởng lão Udàyi (Ưu-đà-di) dẫn đường, và được hai mươi ngàn Thánh đệ tử hầu cận, Ngài đi vào thành Kapilavatthu. Ngay lập tức các vương tử dòng Sàkya (Thích-ca) tụ tập lại để đón vị trưởng tộc của họ.

Họ quan sát nơi cư trú của đức Thế Tôn và bảo:

– Rừng Cây đa này thật là một nơi an lạc xứng đáng với một vị Thích-ca.

Rồi họ làm đủ mọi vật dụng thích hợp để bảo vệ nơi ấy chuẩn bị sẵn sàng nghênh đón Ngài với những bó hoa thơm ngát trong tay. Trước hết họ đưa các thiếu nhi nam nữ trong thành mặc áo quần đẹp nhất, kế đó là các vương tôn công chúa đến kính lễ đức Thế Tôn với hương hoa thơm ngát và theo hầu đức Thế Tôn đến tận rừng Cây đa, nơi đó đức Thế Tôn an tọa được hai mươi ngàn Thánh đệ tử vây quanh bảo tọa dành cho Ngài.

Bấy giờ dòng họ Thích-ca là một bộ tộc kiêu mạn và cứng đầu nghĩ thầm: “Nam tử Siddhattha trẻ tuổi hơn ta, đó là em ta, cháu gọi ta bằng chú, bằng ông”. Vì thế họ bảo các vương tử trẻ tuổi:

– Các anh hãy kính lễ người ấy, còn chúng tôi chỉ muốn ngồi sau các anh.

Trong khi họ ngồi yên đó không muốn làm lễ chào Ngài, đức Thế Tôn biết ý định của họ, nghĩ thầm: “Thân tộc ta không kính lễ ta, được rồi, ta sẽ làm cho hội chúng kính lễ”. Do đó Ngài khởi lên một định lực nhờ thần thông vụt lên không trung và làm như thể phủi bụi trên chân Ngài lên đầu họ, thực hiện một phép thần kỳ như Thần thông Song hành dưới gốc cây xoài có cục u (Yamaka Patihariya: số 483 Tiền thân Sarabha-miga, tập V).

Vua cha thấy việc kỳ diệu này liền nói:

– Bạch Ngài, vào ngày Ðản sinh của Ngài, khi trẫm thấy chân Ngài đặt lên đầu Bà-la-môn Kèladevala đến kính lễ Ngài, trẫm đã kính lễ Ngài, đó là lần đầu. Vào ngày Lễ Cày ruộng, khi Ngài ngự trên vương tọa dưới bóng cây hồng đào, trẫm thấy bóng cây ấy không lay động, trẫm cũng kính lễ dưới chân Ngài và đó là lần thứ hai. Và bây giờ nữa, trẫm thấy một phép mầu mà trẫm chưa từng thấy trước kia, nên trẫm lại kính lễ chân Ngài: đây là lần thứ ba.

Nhưng khi vua cha đã kính lễ như vậy thì không một vị Sàkya nào có thể ngồi yên và tự kiềm chế được nữa, tất cả bọn họ đều kính lễ Ngài.

Sau khi đã làm cho cả thân tộc kính lễ Ngài như vậy đức Thế Tôn từ trên không hạ xuống ngồi trên chiếc bảo tọa đã soạn sẵn. Khi đức Thế Tôn đã an tọa, đám thân tộc của Ngài đã được sáng trí và cùng ngồi xuống với tâm an tịnh.

Lúc ấy một vầng mây lớn nổi lên và bùng ra thành một trận mưa lớn: mưa màu hồng đổ trút xuống ầm ầm, những ai muốn ướt đều được ướt sũng, còn ai không muốn thì chẳng có giọt nào rớt trên mình. Mọi người thấy vậy đều rất kinh ngạc trước phép mầu và đồng kêu to với nhau:

– Thật kỳ diệu thay, thật hy hữu thay! Hãy nhìn thần lực của chư Phật! Cơn mưa lớn này đang trút xuống đám thân tộc của Ngài!

Nghe vậy, đức Phật bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên một trận mưa lớn trút xuống đám thân tộc của Ta.

Và rồi theo lời thỉnh cầu của hội chúng, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

  1. THÁI TỬ RA ÐỜI

Một thuở nọ, vị vua có tên Sivi ngự trị ở kinh thành Jetuttara, trong vương quốc Sivi. Ngài có một vương tử là Sañjaya. Khi chàng đến tuổi trưởng thành, vua cha kết duyên chàng với công chúa Phusatì, con gái vua Madda, rồi giao vương quốc cho chàng và phong Phusatì làm chánh hậu.

Mối liên hệ đời trước của nàng với thế giới này như sau:

Cách đây chín mươi mốt kiếp, một bậc Ðạo Sư ở thế gian có danh hiệu là Vipassi (Tỳ-bà-thi). Trong lúc Ngài an trú tại Vườn nai Khema (Thái Hòa) gần thành Bandhumati, một vị vua gởi tặng vua Bandhuma một chuỗi vàng trị giá một trăm ngàn đồng tiền cùng khúc gỗ quý trầm hương (chiên-đàn).

Bấy giờ vua ấy có hai con gái, và vì muốn tặng bảo vật cho hai con, vua ban khúc gỗ trầm hương cho cô chị, và chuỗi vòng vàng cho cô em. Nhưng cả hai cô đều không muốn dùng các tặng vật này cho mình, và có ý định dâng chúng lên bậc Ðạo Sư để tỏ lòng tôn kính, họ liền tâu vua cha:

– Tâu phụ vương, chúng con muốn dâng gỗ trầm hương và chuỗi vàng này lên đấng Thập Lực (Dasabala).

Vua cha thấp thuận việc này. Vì thế công chúa chị nghiền bột gỗ trầm hương và đổ bột ấy vào một hộp bằng vàng. Còn công chúa em bảo lấy chuỗi vàng làm thành một vòng vàng đeo cổ và đặt vào một hộp bằng vàng.

Sau đó hai nàng cùng đi đến thảo am ẩn sĩ trong Vườn nai, cô chị kính cẩn rảy bột trầm hương lên kim thân của đấng Thập Lực, và rắc phần bột còn lại trong nội thất của Ngài cùng cầu nguyện:

– Bạch Ngài, trong thời vị lai, tiện nữ ước mong làm mẹ một vị Phật như Ngài.

Công chúa em kính cẩn đặt lên kim thân của đấng Thập lực chuỗi vòng cổ được làm từ vòng vàng ấy và phát nguyện:

– Bạch Ngài, tiện nữ ước mong chuỗi kim hoàn này không rời thân mình cho đến ngày tiện nữđắc Thánh quả.

Và bậc Ðạo Sư đã ban các điều nguyện ước ấy sau khi mạng chung, cả hai nàng đều tái sinh vào thiên giới. Cô chị từ thiên giới đến thế giới loài người rồi trở lại thiên giới, sau chín mươi mốt kiếp, nàng đã trở thành vương hậu Màyà, mẹ của đức Phật.

Còn cô em cũng tái sinh liên tiếp như vậy, vào thời đấng Thập Lực Kasspa (Ca-diếp), nàng trở thành con gái vua Kiki. Lúc mới sinh đã có hình chiếc vòng trên cổ và vai nàng, dung sắc diễm lệ như tranh vẽ và được đặt tên Uracchadà.

Khi nàng lên mười sáu tuổi, nàng nghe lời thuyết Pháp của bậc Ðạo Sư, và đắc Sơ quả Dự lưu, và cùng ngày đó nàng đắc Thánh quả (A-la-hán) rồi thọ giới xuất gia và nhập Niết-bàn vô dư y.

Bấy giờ vua Kiki có bảy công chúa tên là:
Samanì, Samanà, Thánh nữ Tỷ-kheo-ni Guttà,
Tỷ-kheo-ni Dàsikà, Dhammà và Sudhammà.
Và nàng thứ bảy là Sanghadàsì.

Vào thời đức Phật Gotama xuất hiện bảy chị em này:
Khemà, Uppalavannà, thứ ba là Patàcàrà,
Gotamì, Dhammadinnà, thứ sáu là Mahà-màyà.
Trong đám chị em này thứ bảy là Visàkhà.
Ðây là các nữ Đại đệ tử của Ngài.

Bấy giờ, trong số này, nàng Phusatì trở thành Sudhammà, chuyên làm thiện sự và bố thí. Và nhờ phước báo do cúng dâng gỗ trầm hương lên Ðức Phật Vipassi, thân nàng như được rảy trầm hương thượng hạng. Sau đó nàng tái sinh qua lại giữa thiên giới và nhân giới, cuối cùng nàng trở thành chánh hậu của Thiên chủ Sakka (Ðế Thích).

Vào thời số phần của nàng ở đấy đã mãn, năm tướng suy theo lệ thường hiện ra. Thiên chủ Sakka biết thọ mạng của nàng sắp tận, nên tiễn đưa nàng vô cùng trọng thể vào Thiên lạc Viên Nandana. Trong khi nàng ngự trên bảo tọa được trang hoàng lộng lẫy, ngài ngự bên cạnh nàng và bảo:

– Này ái hậu Phusatì, trẫm ban nàng Mười điều ước hãy chọn đi.

Cùng với những lời trên, ngài ngâm vần kệ đầu trong Tiền thân Vessantara vĩ đại này với gần ngàn bài kệ:

  1. Phu-sa-tì, mỹ hậu huy hoàng,
    Mười ước nguyện nay trẫm tặng nàng,
    Hãy chọn điều gì nàng nhận thấy
    Ðược nàng quý báu giữa trần gian.

Như vậy nàng đã được an trú trên thiên giới theo lời thuyết giáo trong Ðại Tiền thân Vessantara.

Nhưng nàng không biết cảnh giới sắp tái sinh của mình nên nàng hốt hoảng ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Vạn tuế Sak-ka, đấng Ngọc hoàng,
    Tội gì thần thiếp lỡ tay làm
    Khiến ngài đày thiếp xa thiên giới
    Như gió thổi cây nọ nát tan?

Thiên chủ nhận thấy vẻ thất vọng của nàng, liền ngâm hai vần kệ:

  1. Nàng luôn được sủng ái từ xưa,
    Tội lỗi nàng đâu có tạo ra?
    Trẫm bảo phước trời nàng đã tận,
    Bây giờ đến lúc phải chia xa.
  2. Tống biệt nàng nay đã đến thì,
    Tử thần đang đến phút phân kỳ,
    Trẫm ban ái hậu Mười điều ước,
    Lâm mạng chung thời, hãy chọn đi.

Nghe những lời Thiên chủ nói, nàng tin mình sắp phải tận số, nên nàng chọn các ước nguyện này:

  1. Thiên chủ Sak-ka, đấng Thượng hoàng,
    Ban Mười điều ước, thiếp tri ân:
    Mong rằng thần thiếp đời sau sẽ
    Ở xứ Si-vi được trú thân.
  2. Ðôi mắt huyền mơ tựa mắt nai,
    Như nhung đen nháy, cặp mày ngài,
    Phu-sa-tì ấy là tên thiếp,
    Thánh thượng, thiếp mong ước nguyện này.
  3. Thiếp mong có được một hoàng nam,
    Vua chúa kiêng oai, tiếng lẫy lừng,
    Hòa nhã, nhân từ, tâm rộng lượng,
    Lắng tai nghe mọi tiếng cầu ân.
  4. Trong khoảng thời gian thiếp thọ thai,
    Ước mong giữ trọn tấm hình hài,
    Toàn thân thiếp được luôn kiều diễm
    Như thể cành cung uốn mảnh mai.
  5. Ðế Thích, thiếp mong ngực gợi tình,
    Xin được nhuốm bạc mái đầu xanh,
    Tấm thân bồ liễu luôn hoàn hảo,
    Mong cứu tù nhân thoát tử hình.
  6. Giữa tiếng hạc rền, khổng tước vang,
    Cung nhân hầu cận đẹp quanh nàng,
    Thi sĩ ca nhân đồng tán tụng,
    Khăn quàng tung vẫy giữa không gian.
  7. Khi ngõ nhẹ nhàng cánh cửa hoa
    Nô tỳ cất tiếng lớn trình thưa:
    “Vạn tuế Ðại vương! Giờ ngự thiện!”
    Thiếp mong làm chánh hậu hoàng gia!

Thiên chủ Sakka đáp:

  1. Mười ước nguyện kia, hỡi nữ hoàng,
    Phải biết rằng ta đã tặng nàng,
    Mỹ nương đến xứ Si-vi nọ
    Mười ước nguyện kia sẽ thập toàn.
  2. Phán vầy chúa tể các Thiên thần,
    Phu tướng Su-ja, đại đế vương,
    Ðược gọi Và-sa-va mỹ hiệu,
    Hân hoan ban nguyện ước cho nàng.

Khi đã chọn xong Mười ước nguyện như vậy, nàng từ giã thiên giới và nhập vào mẫu thai hoàng hậu của vua Madda. Lúc nàng ra đời, thân thể nàng tỏa mùi thơm như được rảy phấn trầm hương, nên nàng được đặt tên Phusatì (được rảy hương). Nàng lớn lên giữa đám cung tần đông đảo cho đến năm mười sáu tuổi dung sắc nàng vượt hẳn lên tất cả.

Lúc bấy giờ vương tử Sañjaya, con vua Sivi, được phong vương với chiếc lọng trắng, công chúa này được phong làm chánh hậu đứng đầu mười sáu ngàn cung phi; do vậy có chuyện kể:

  1. Kế đó nàng công chúa tái sinh
    Phu-sa-tì được rước về thành
    Je-tut-ta ấy là tên gọi,
    Cùng với Sañ-ja kết mối tình.

Vua Sañjaya vô cùng sủng ái nàng. Bấy giờ Thiên chủ Sakka nhớ lại thấy chín điều ước nguyện ngài ban cho Phusatì đã trọn vẹn, ngài nghĩ thầm: “Chỉ còn một điều ước chưa trọn đó là một thiện nam tử. Ta sẽ ban nguyện ước này cho nàng.”

Thời ấy bậc Ðại Sĩ đang ở trên cõi trời Ba mươi ba, và thọ mạng ngài đã tận; nhận thấy điều này, Thiên chủ đến gần ngài và bảo:

– Thưa Tôn giả, ngài phải sinh vào thế giới loài người, ngài phải nhập mẫu thai chánh hậu Phusatì của vua Sivi, xin đừng chậm trễ.

Cùng với những lời này yêu cầu bậc Ðại Sĩ chấp thuận và sáu mươi ngàn vị Thiên tử sắp được tái sinh, Thiên chủ trở về cung của ngài.

Bậc Ðại Sĩ giáng trần và tái sinh tại đó, cùng sáu mươi ngàn thiên tử tái sinh vào gia đình của sáu mươi ngàn triều thần.

Khi bậc Ðại Sĩ nhập mẫu thai, hoàng hậu Phusatì biết mình đã có thai, liền ước nguyện xây sáu bố thí đường, mỗi nhà ở một trong bốn cửa thành, một nhà ở giữa kinh thành và một nhà ở ngay cửa cung của nàng. Mỗi ngày nàng phát sáu trăm ngàn đồng tiền. Vua biết được việc làm ấy của nàng liền hỏi ý các vị xem tướng số, họ đáp:

– Tâu Ðại vương, chánh hậu đang mang thai một bậc chuyên tâm bố thí, ngài sẽ không bao giờ thỏa mãn với việc bố thí cả.

Nghe vậy vua hoan hỷ và thực hành hạnh bố thí như trên.

Từ thời Bồ-tát nhập mẫu thai, phước lộc của nhà vua có thể nói là vô cùng tận; nhờ ảnh hưởng lòng nhân từ của vua lan rộng khắp nơi, các quốc vương ở toàn cõi Diêm-phù-đề đều dâng ngài cống vật.

Bấy giờ lúc chánh hậu mang thai, nàng vẫn ở chung cùng đám thị nữ hậu cận nàng. Sau mười tháng tròn vẹn, nàng muốn đi thăm kinh thành. Nàng tâu trình với vua, ngài truyền kinh thành được trang hoàng như kinh thành chư Thiên rồi đưa hoàng hậu ngự lên vương xa sang trọng và cử hành đám rước quanh kinh thành về phía hữu. Khi xe đến giữa khu phố Vessa (Vệ-xá: thương nhân), nàng thấy giờ lâm bồn chợt đến. Thị nữ liền trình vua và ngài truyền làm ngay một phòng bảo sinh tại đó và đưa nàng đến nơi, nàng liền sinh hạ một nam tử và vì thế có chuyện kể:

  1. Trong lòng mười tháng mẹ mang con,
    Ðám rước ngày kia khắp phố phường,
    Khi đến khu dân cư Vệ-xá,
    Vì con, mẫu hậu phải lâm bồn.

Bậc Ðại Sĩ từ lòng mẹ sinh ra không bị cấu uế, mở lớn mắt và một lát đưa tay cho mẹ, ngài nói:

– Thưa mẫu hậu, con muốn bố thí, có gì không?

Bà mẹ đáp:

– Này vương nhi, con hãy bố thí như ý.

Rồi bà đặt túi tiền một ngàn đồng vào bàn tay mở rộng của con.

Có ba lần bậc Ðại Sĩ nói ngay khi giáng sinh: Ðó là trong Tiền thân Ummagga, trong Tiền thân này và trong đời cuối cùng của ngài.

Vào ngày lễ đặt tên, vì ngài sinh ra ở phố Vessa, ngài được đặt tên Vessantara, do đó có chuyện kể:

  1. Tên ta chẳng phía mẹ đưa ra,
    Cũng chẳng phát từ quý tộc cha,
    Vì được sinh trên đường Vệ-xá,
    Nên tên ta gọi Ves-san-ta.

Vào đúng ngày ngài ra đời, một con voi cái sinh được một voi con, được xem là có điềm lành, toàn thân màu trắng và được đặt vào chuồng nhà vua. Vì con voi này ra đời đáp ứng một nhu cầu của bậc Ðại Sĩ, nó được đặt tên Paccaya (Phương tiện).

Vua cha ban ngài hai trăm bốn mươi nhũ mẫu không quá cao cũng không quá thấp, không bệnh tật gì và có sữa ngọt. Ngài cũng ban các nhũ mẫu cho sáu mươi ngàn hài nhi kia, vì thế vương tử lớn lên giữa đám sáu mươi ngàn ấu nhi hầu hạ quanh mình.

Vua cha truyền làm cho vương tử một chiếc vòng đeo cổ trị giá một trăm ngàn đồng tiền rồi đem tặng con. Nhưng khi vừa lên bốn lên năm, ngài đã đem nó cho các nhũ mẫu và khi họ muốn đưa trả nó lại, ngài không muốn nhận nó. Họ tâu trình vua, ngài phán:

– Vật gì vương tử đã ban đều xứng đáng được ban cả, dù đó là tặng vật dành cho một vị Bà-la-môn.

Và vua truyền làm chiếc vòng cổ khác. Nhưng trong thời thơ ấu, vương tử vẫn đem vòng ấy cho các nhũ mẫu cả đến chín lần như vậy.

Khi ngài lên tám, trong lúc nằm trên vương sàng, vương tử suy nghĩ: “Tất cả các vật ta cho đều có từ bên ngoài. Ðiều này không làm ta hài lòng. Ta muốn cho cái gì của chính thân ta. Nếu có người xin quả tim ta, ta sẽ cắt lồng ngực và xé tim ra cho. Nếu ai xin đôi mắt, ta sẽ móc mắt ra cho. Nếu ai muốn xin thịt, ta sẽ lóc hết thịt trên thân ta và cho họ.”

Ngài suy nghĩ như vậy với tất cả tâm hồn lẫn thể xác mình; vì thế quả đất này với bề rộng bốn mươi ngàn tỷ triệu dặm và hai trăm ngàn dặm chiều sâu, rúng động ầm ầm như một con voi khổng lồ điên loạn. Ngọn núi Sineru (Tu-di) chúa tể núi non, cúi rạp xuống như một cây con trong dòng nước nóng và dường như nhảy múa rồi đứng nghiêng mình về phía kinh thành Jettutara. Giữa lúc quả đất rúng động, bầu trời sấm sét vang dội và đổ mưa, tia chớp sáng lòa, đại dương sôi sục lên, Sakka Thiên chủ vỗ tay, Ðại Phạm thiên tán đồng, toàn thể chấn động lên đến Phạm Thiên giới, vì thế có chuyện kể:

  1. Khi ta còn trẻ, tuổi còn thơ
    Chỉ khoảng chừng lên tám tuổi dư,
    Trên thượng lầu ta trong nội điện,
    Nhân từ, bố thí vẫn suy tư:
  2. Nếu người nào đến hỏi xin cho
    Máu, thịt, tim và con mắt ta,
    Ta sẽ cho thân, tim, máu, mắt,
    Sẵn sàng ta cất tiếng kêu to.
  3. Trong khi ta nghĩ ngợi trầm ngâm
    Như vậy cùng toàn thể bản thân,
    Quả đất vững bền kia rúng động,
    Chuyển rung cùng thảo mộc, sơn lâm.

*

  1. BỐ THÍ VOI BÁU

Vào năm mười sáu tuổi, Bồ-tát đã tinh thông mọi môn học thuật. Lúc ấy phụ vương muốn cho ngài lên ngôi, liền hỏi ý kiến hoàng hậu. Từ hoàng gia Madda tiến dâng công chúa Maddì, em họ ngoại của ngài cùng mười sáu ngàn thị nữ, vua phong nàng làm chánh hậu và cử hành lễ quán đảnh (rảy nước) phong vương cho ngài. Từ lúc lên ngôi, ngài vẫn thực hành đại bố thí, mỗi ngày phân phát sáu trăm ngàn đồng tiền.

Sau đó chánh hậu Maddì sinh một vương tử được đặt vào một chiếc võng bằng vàng, vì thế vương tộc đặt tên vương tử Jàli (chiếc võng). Vào thời vương tử chập chững biết đi, chánh hậu lại sinh một công chúa, được đặt vào một tấm da đen nên họ gọi tên cô là Kanhàjinà.

Mỗi tháng bậc Ðại Sĩ ngự đến sáu bố thí đường sáu lần trên con voi lộng lẫy của ngài.

Lúc bấy giờ quốc độ Kàlinga có hạn hán, lúa không mọc, nạn đói tràn lan, dân chúng không sống nổi sinh trộm cướp. Bị cơn túng quẩn bức bách, dân chúng tụ tập trước sân chầu và phỉ báng vua. Nghe vậy, vua hỏi:

– Có chuyện gì vậy các con?

Họ trình vua. Ngài đáp:

– Ðược rồi, các con. Ta sẽ làm mưa xuống:

Rồi vua bảo họ ra về. Ngài phát nguyện sống đức hạnh và giữ ngày trai giới (Bố tát), nhưng vẫn không thể làm mưa xuống. Vì vậy vua triệu tập dân chúng lại và bảo họ:

– Ta đã phát nguyện sống đức hạnh và giữ bảy ngày trai giới, tuy nhiên vẫn không làm mưa rơi. Vậy phải làm gì bây giờ?

Họ đáp:

– Tâu Chúa thượng, nếu ngài không thể làm mưa rơi, thì có đại vương Vessantara ở kinh thành Jettuttara thái tử của vua Sañjaya, chuyên tâm bố thí. Ngài có một con voi lộng lẫy toàn trắng. Hễ nơi nào ngài ngự đến, mưa liền rơi xuống. Chúa thượng hãy phái các Bà-la-môn đến xin con voi ấy và đem nó về đây.

Vua chấp thuận, triệu các vị Bà-la-môn đến chọn tám người trong số đó và ban lương thực cho họ đi đường và bảo:

– Các khanh hãy đi tìm voi báu của vua Vessantara.

Vì sứ mạng này, họ lên đường đến Jetuttara. Tại bố thí đường, họ được tiếp đãi ân cần. Rồi rảy bụi bặm và phết bùn dơ khắp thân mình, vào ngày trăng rằm, họ đi xin voi báu của vua. Từ sáng sớm, vua định đi thăm bố thí đường, nên đã tắm rửa bằng mười sáu bình nước hoa thơm và dùng điểm tâm, rồi ngự lên lưng bảo tượng được trang hoàng rực rỡ tiến về cổng phía Ðông. Các Bà-la-môn không tìm được cơ hội ở đó, liền đi về cổng nam, đứng trên một mô đất cao nhìn vua bố thí ở cổng Ðông. Khi ngài đến cổng Nam, họ đưa tay ra và kêu lên:

– Ðại vương Vessantara vạn tuế!

Khi thấy các Bà-la-môn, bậc Ðại Sĩ thúc voi về phía họ đứng và ngâm vần kệ:

  1. Các đạo sĩ kia, rậm tóc, lông,
    Răng dơ, đầu phủ bụi màu hồng,
    Cớ sao giơ cả hai tay nọ,
    Gì đó các người vẫn ước mong?

Nghe vậy, các Bà-la-môn đáp:

  1. Bảo vật chúng thần vẫn khát khao
    Cứu toàn dân tộc ấy, muôn tâu,
    Con voi tối thượng phò nguy khốn,
    Ngà trắng dài như một chiếc sào.

Bậc Ðại Sĩ nghe vậy, nghĩ thầm: “Ta đang muốn bố thí bất cứ vật gì của chính ta, từ đầu trở xuống, thế mà họ đòi một vật ở ngoài thân ta. Thôi ta sẽ cho họ thỏa nguyện”. Và từ lưng voi, ngài đáp:

  1. Bố thí, ta không hề chối từ
    Vật kia Ðạo sĩ muốn ta cho,
    Cao sang bảo vật phò vua ngự,
    Dũng mãnh con voi có bộ ngà.

Và ngài chấp thuận:

  1. Vua, vị cứu tinh dân tộc ngài,
    Nhẹ nhàng bước xuống khỏi lưng voi,
    Hy sinh bố thí, đầy hoan hỷ
    Cho đám La-môn vật họ đòi.

Các vật trang hoàng bốn chân voi trị giá bốn trăm ngàn đồng, các vật hai bên hông trị giá hai trăm ngàn, tấm vải che dưới bụng trị giá một trăm ngàn, trên lưng là những tấm lưới đầy ngọc vàng, châu báu, ba tấm mạng trị giá ba trăm ngàn, hai tấm trên hai lỗ tai trị giá hai trăm ngàn, trên lưng có tấm thảm trị giá một trăm ngàn, món trang hoàng trên mắt trị giá một trăm ngàn, ba tấm phủ đầu trị giá ba trăm ngàn, các vật nhỏ trang hoàng lỗ tai trị giá hai trăm ngàn, các vật trang hoàng đôi ngà trị giá hai trăm ngàn, các món trang hoàng biểu hiện điềm lành trên vòi trị giá một trăm ngàn, bảo vật trên trị giá một trăm ngàn, không kể các món trang hoàng vô giá trên thân giá hai trăm hai mươi vạn đồng, máng thức ăn trị giá một trăm ngàn đồng, tất cả lên đến hai trăm bốn mươi vạn đồng.

Hơn nữa, các thứ châu ngọc lớn nhỏ trên tấm thảm, trong chuỗi đeo cổ, châu báu trong chiếc gậy thúc, châu báu trong chiếc vòng quanh cổ, châu báu trên mắt voi, tất cả các món này đều vô giá, con voi cũng vô giá, hợp lại thành thất bảo vô giá. Tất cả các vật này ngài đều bố thí cho các Bà-la-môn. Ngoài ra còn có năm trăm quân hầu cùng đám quản tượng và quét chuồng voi.

Một cuộc tài thí lớn như vậy khiến quả đất rúng động cùng với các điềm hy hữu như đã kể trên.

*

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo Sư ngâm kệ:

  1. Lúc ấy khắp nơi thật hãi hùng
    Người người cảm thấy rợn da lông,
    Khi ngài bố thí con voi báu
    Quả đất kinh hoàng phải chuyển rung.
  2. Lúc ấy khắp nơi thật hãi hùng,
    Người người cảm thấy rợn da lông,
    Khi ngài bố thí con voi báu
    Tất cả kinh thành phải chuyển rung.
  3. Tiếng kêu gào thét thật kinh hoàng
    Toàn thể kinh thành bỗng dậy vang:
    Si-vi chúa tể nuôi dân chúng
    Cho các La-môn đại tượng vương.

*

Cả kinh thành Jetuttara đều rúng động. Chuyện kể rằng các Bà-la-môn ở cổng phía Nam nhậnđược voi báu xong liền cỡi lưng voi chen lấn trong đám người đông như thác lũ, đi qua giữa kinh thành.

Ðám dân chúng nhìn thấy họ, liền la lớn:

– Này các Bà-la-môn ngất ngưởng trên lưng voi, tại sao các ông lấy voi của nước ta?

Bọn họ đáp:

– Ðại vương Vessantara đã ban voi cho chúng ta. Còn các người là ai?

Bộ điệu họ hống hách với quần chúng như vậy, rồi họ băng qua kinh thành và ra khỏi cổng phía Bắc nhờ sự hỗ trợ của chư Thần.

Dân chúng kinh thành phẫn nộ với Bồ-tát cất tiếng trách móc ầm ĩ.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Tiếng thét lớn kia cứ vọng vang
    Tai nghe như vậy thật kinh hoàng
    Khi vua bố thí con voi báu,
    Quả đất hãi hùng phải chuyển rung.
  2. Tiếng hét lớn kia cứ vọng vang
    Tai nghe như vậy thật kinh hoàng,
    Khi vua bố thí con voi báu
    Dân chúng kinh thành thảy chuyển rung.
  3. Tiếng thét lớn kia cứ vọng vang
    Toàn dân đều khủng khiếp bàng hoàng:
    Si-vi Chúa thượng nuôi dân chúng
    Ðem bố thí luôn đại tượng vương!

*

Tất cả dân chúng kinh thành rúng động trong lòng vì đại sự bố thí này, liền đến trình vua cha.

Do đó có chuyện kể:

  1. Vương tứ, La-môn, Vệ-xá, Ug-ga,
    Quản tượng, bộ binh, kỵ mã, quản xa,
  2. Ðiền chủ, toàn dân Si-vi vội đến,
    Thấy tượng vương đi, tìm vua yết kiến:
  3. – Quốc độ suy tàn rồi, tấu Ðại vương,
    Sao Ves-san-ta, Thái tử vinh quang,
    Bố thí tượng vương mọi người quý trọng?
  4. Voi cứu tinh, ngà như sào, bạch tượng,
    Biết lập chiến công trên mọi đấu trường,
  5. Với quạt đuôi trâu rừng, ngọc trang hoàng,
    Ðã dẫm nát tan mọi quân cừu địch,
    Hung hãn, ngà dài, toàn thân trắng bạch
    Như tuyết trên đỉnh núi Ke-là-sa,
  6. Với cân đai, lọng trắng xứng vương gia,
    Cùng quản tượng và đám quân hầu cận,
    Bảo vật này, ngài đã đem ban tặng.
    Sau đó, dân chúng còn nói thêm:
  7. Ban y phục, lửa, xe, thức uống ăn,
    Là cúng dường xứng với Bà-la-môn.
  8. Tâu Ðại vương, bạn của toàn dân chúng,
    Xin cho biết sao xảy ra hành động
    Bởi vương nhi là dòng dõi vương gia,
    Chính người là Thái tử Ves-san-ta?
  9. Lệnh dân Si-vi, nếu ngài từ chối,
    Các ngài sẽ bị toàn dân chống đối.

Nghe vậy, vua cha nghi ngờ họ muốn giết Vessantara, nên ngài phán:

39-40. Vâng, ta chẳng màng quốc độ, ngai vàng,
Ta quyết không đày trẻ khỏi quê hương,
Thái tử ta chẳng chút nào lầm lỗi,
Ta cũng không muốn vâng lời dân nói,
Vì con ta dòng chính thống là chàng.

41-42. Không, ta chẳng màng quốc độ, ngai vàng,
Ta quyết không đày trẻ khỏi quê hương,
Thái tử ta chẳng có gì lầm lỗi,
Ta cũng chẳng muốn vâng lời dân nói,
Vì con ta, đích thực chính là chàng.

43-44. Không, ta quyết không làm hại hoàng nam,
Vì Thái tử thật vô cùng cao cả.
Việc ấy đối với ta đầy nhục nhã,
Nó sẽ gây nhiều khổ não cho ta:
Làm sao ta cầm kiếm giết Ves-sa?

Dân chúng Si-vi đáp:

  1. Người không xứng dù bất kỳ hình phạt,
    Dù kiếm, đao hay phải vào ngục thất,
    Song hãy đuổi người ra khỏi giang sơn,
    Ðến đỉnh núi Vam-ka để náu nương.

Vua phán:

  1. Hãy xem đây ý nguyền toàn dân chúng
    Và chính ta không thể nào phủ nhận,
    Song cho chàng hạnh phúc một đêm thôi
    Trước khi chàng phải cất bước xa rời.
  2. Sau khoảnh khắc của đêm nay vừa mãn,
    Khi ngày mai bình minh vừa ló dạng,
    Cả toàn dân hãy đến đuổi chàng đi.

Dân chúng đồng ý lời vua đề nghị chỉ một đêm thôi. Sau đó, vua bảo họ lùi về và nghĩ đến việc gửi thông điệp cho con, ngài giao trọng trách cho một sứ giả, người này liền đi đến cung của Thái tử Vessantara và trình mọi việc đã xảy ra.

*

III. THÁI TỬ BỊ ÐÀY LÊN NÚI VAMKA

Các vần kệ sau đây giải thích việc này:

  1. – Ngươi hãy đi nhanh và bảo Vương nhi
    Lời ta nhắn thần dân đầy căm phẫn,
    Và tất cả đều đồng lòng chấp thuận,

49-50. Ug-ga, vương tử, Vệ-xá, La-môn,
Quản tượng, quản xa, lính bộ, vệ quân,
Tất cả dân thôn quê cùng thành phố
Ðã cùng nhau kéo về đây rầm rộ,

  1. Sau khoảng thời gian chỉ một đêm nay,
    Khi bình minh vừa ló dạng ngày mai,
    Toàn dân chúng sẽ cùng nhau tụ họp,
    Và sẽ đuổi Vương nhi ra khỏi nước.
  2. Sứ giả này được lệnh chúa Si-vi,
    Liền vội vàng đem sứ mạng ra đi,
    Cởi con voi có mang đầy gươm giáo,
    Ngát dầu thơm và rỡ ràng xiêm áo,
  3. Tẩm ướt đầu, vòng ngọc mỗi bên tai,
    Gã lên đường đến thành thị tuyệt vời,
    Nơi Thái tử Ves-san-ta-ra ngự.
  4. Gã nhìn ngắm hạnh phúc sao Vương tử
    Cư trú trong lãnh thổ thật bình yên
    Như Và-sa-va, chúa tể chư Thiên,
    Chung quanh ngài quần thần đang hầu hạ.
  5. Gã đến nơi thật nhanh chân vội vã,
    Và đến bên Thái tử, gã thưa trình:
    – Tâu Ðại vương, tin mang đến chẳng lành,
    Xin ngài chớ vì hạ thần phẫn nộ.

56-57. Kính lễ ngài với bao hàng lệ đổ,
Gã thưa trình lên với đấng vương quân:
– Với hạ thần, ngài là bậc chủ nhân,
Và ngài đã ban hạ thần tất cả,
Nhưng giờ đây thần phải tâu ngài rõ:
Tin chẳng lành, xin Chúa thượng bình tâm.

  1. Dân thị thành cùng tất cả toàn dân
    Ðồng một lòng, nổi lên cơn thịnh nộ,
    Ug-ga, Vệ-xá, La-môn, vương tử,
  2. Quản tượng, quản xa, vệ sĩ, bộ binh,
    Dân làng quê cùng dân chúng thị thành
    Nay rầm rộ kéo về đây đồng loạt,
  3. Sau khoảnh khắc một đêm nay thấm thoắt,
    Khi bình minh vừa đến rạng ngày mai
    Ðã quyết lòng đến từng đám đông người
    Và sẽ đuổi ngài đi xa xứ sở.

Bậc Ðại Sĩ nói:

  1. Sao với ta, thần dân đang phẫn nộ?
    Vì ta không thấy phạm lỗi lầm chi,
    Này bạn hiền, hãy nói thử ta nghe,
    Sao dân chúng muốn đuổi ta xa xứ?

Sứ giả đáp:

62-63. Ug-ga, Ðạo Sĩ, quản xa, Vương tử,
Quản tượng, vệ quân, Vệ-xá, bộ binh
Kéo về kinh và nổi trận lôi đình
Về việc ngài đã đem cho báu vật,
Cho nên định đưa ngài ra tống xuất.

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ đầy hân hoan đáp:

  1. Chính mắt và tim ta cũng muốn cho,
    Sao chẳng cho gì không phải của ta,
    Hoặc vàng ròng, hoặc kho tàng, đá quý,
    Hoặc ngọc trai hay bảo châu tuyệt mỹ?
  2. Nếu có người nào đi đến hỏi ta
    Ta sẽ cho luôn cả tứ chi mà
    Lòng chẳng ngập ngừng dù trong phút chốc,
    Trong phát ban chính là niềm hoan lạc.
  3. Nay thần dân xin cứ đuổi ta ra,
    Nay thần dân xin hãy cứ giết ta,
    Hoặc cứ chặt thân ta thành bảy khúc,
    Song bố thí, ta vẫn còn tiếp tục.

Khi nghe vậy, sứ giả lại nói lên, không phải thông điệp của vua cha hay của thần dân, mà chính là lệnh phát xuất từ tâm của gã:

67-68. Ðây là ý nguyền của dân chúng Si-vi,
Họ bảo thần đến nói Chúa công nghe,
Ở bên đồi À-rañ-ra ấy
Có dòng suối Kon-ti-mà-rà chảy,
Ðến miền kia, Chúa thượng hãy đăng trình,
Nơi kẻ lưu đày vẫn phải du hành.

Tương truyền gã nói điều này theo gợi ý của một vị thần. Nghe vậy, Bồ-tát đáp:

– Tốt lắm, ta sẽ đi theo con đường mà những kẻ phạm tội phải đi. Nhưng dân chúng không đuổi ta vì một tội nào cả, mà họ đuổi ta vì sự bố thí voi báu. Do vậy, ta muốn làm Lễ đại bố thí bảy trăm món nữa, và ta xin dân chúng gia hạn cho ta một ngày vì việc ấy. Ngày mai ta sẽ bố thí và ngày kế ta sẽ đi.

  1. Vậy ta sẽ đi cùng con đường ấy
    Như những kẻ xưa nay làm việc quấy,
    Nhưng trước tiên để bố thí cúng dường,
    Ta mong dân cho phép một ngày trường.

– Tốt lắm – Vị sứ giả đáp – Thần sẽ trình việc này với dân chúng.

Khi người ấy đi rồi, bậc Ðại Sĩ triệu một tùy tướng của ngài đến và bảo:

– Ngày mai ta sẽ làm lễ bố thí gọi là Lễ bố thí bảy trăm món. Khanh hãy sắp đặt sẵn sàng bảy trăm voi, cùng bảy trăm ngựa, xe, con gái, bò cái, nam nô, nữ tỳ và đủ mọi thức ăn uống ngay cả rượu nồng, đủ mọi vật xứng đáng đem bố thí.

Như vậy, sau khi đã chuẩn bị Ðại lễ bố thí bảy trăm món, ngài bảo quần thần lui về. Rồi một mình ngài đi đến cung thất vương hậu Maddì, tại đó, trong lúc ngồi trên vương tọa, ngài bảo nàng.

*

Bậc Ðạo Sư miêu tả việc ấy như sau:

  1. Như vậy cùng với Mad-dì vương hậu,
    Tuyệt thế công nương này, vua phán bảo:
    – Những thứ gì ta đã tặng cho nàng,
    Các đồ dùng, lúa gạo, hãy canh phòng,
  2. Hoặc vàng, ngọc quý cùng nhiều kho báu,
    Hồi môn vương phụ, tìm nơi chôn giấu.
  3. Rồi Mad-dì đã đáp lại quân vương,
    Nàng chính là vị tuyệt thế công nương:
    – Thiếp sẽ kiếm nơi đâu, tâu Chúa thượng,
    Xin cho biết chỗ nào chôn giấu chúng?

Vua Vessantara đáp:

  1. Hãy đem phân phát của cải kho vàng
    Tương xứng với điều lợi ích cho nàng,
    Không nơi nào an toàn hơn nơi đó,
    Chính điều này ta vẫn thường biết rõ.

Nàng chấp thuận và ngài còn khuyên giáo nàng thêm theo hướng này:

  1. Hỡi Mad-dì, hãy yêu quý con nàng,
    Cùng phụ vương, mẫu hậu của phu quân,
    Ðối với người sẽ là chồng nàng đó,
    Nàng hãy sẵn sàng hết lòng phục vụ.
  2. Còn nếu không ai muốn hỏi cưới nàng
    Sau khi ta đã khuất bóng trên đường,
    Hãy tìm một phu quân cho nàng nữa,
    Nhưng nàng đừng sống cô đơn tàn úa.

Lức ấy Maddì nghĩ thầm: “Ta tự hỏi tại sao Vessantara lại nói một điều như vậy với ta”.

Và nàng hỏi ngài:

– Tâu Chúa thượng, tại sao ngài nói với thần thiếp những điều không nên nói?

Bậc Ðại Sĩ đáp:

– Này vương hậu, dân chúng Si-vi phẫn nộ vì ta đã bố thí con voi báu, nên muốn đuổi ta đi ra khỏi đất nước. Vậy ngày mai ta sẽ làm Lễ bố thí bảy trăm món, và ngày kế đó ta sẽ rời kinh thành.

Và ngài ngâm kệ:

  1. Ngày mai đi vào khu rừng hoang dã,
    Bị bầy thú săn mồi đến tấn công,
    Ai biết chăng: Ta còn sống được không?
  2. Rồi đáp lời, nàng Mad-dì diễm lệ,
    Nàng chính là vị công nương tuyệt thế:
    – Không phải đâu! Lời nói thật bạo tàn!
    Ðừng nhẫn tâm nói điều ấy, thưa chàng!
  3. Tâu Chúa công, chẳng chút nào thích hợp
    Nếu chỉ riêng chàng ra đi đơn độc,
    Dù cuộc du hành chàng sẽ tới đâu,
    Thiếp cũng xin nguyền cất bước theo hầu:
  4. Cho thiếp chọn: Ở cùng chàng để chết,
    Hoặc là sống phải xa chàng, ly biệt.
    Chết là điều thần thiếp ước mong làm,
    Nếu thiếp không được sống ở bên chàng.
  5. Hãy đốt lên ngọn lửa hồng đỏ rực,
    Ngọn lửa nào thật hung tàn đệ nhất,
    Thà thiếp chết kia trong ngọn lửa hồng
    Vẫn còn hơn thiếp phải sống xa chồng.
  6. Cũng như ở phía sau mình voi nọ,
    Vẫn thường thấy một nàng voi là vợ
    Di chuyển qua các đèo, núi, hay rừng,
    Trên dốc gồ ghề hay mặt đất bằng.
  7. Cùng các con, thiếp sẽ theo chàng mãi
    Ði bất cứ nơi nào chàng dẫn lối,
    Thiếp sẽ không làm gánh nặng cho chàng,
    Cũng không đòi chàng vất vả kiếm ăn.

Cùng với những lời này, nàng bắt đầu ca tụng miền Tuyết Sơn như thể nàng đã thấy cảnh ấy tận mắt:

  1. Khi chàng thấy các con chàng xinh đẹp
    Và nghe lời chúng chuyện trò tíu tít,
    Trong khu rừng xanh tốt với muôn hoa,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  2. Khi nhìn thấy con xinh tươi chạy nhảy,
    Và nghe lời chúng chuyện trò vang dậy
    Trong khu rừng xanh tốt với muôn hoa,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  3. Khi chàng thấy các con thơ xinh đẹp
    Và nghe lời chúng chuyện trò tíu tít,
    Trong ngôi nhà diễm lệ của đôi ta,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  4. Nhìn thấy các con thơ chơi mải miết,
    Và nghe lời chúng chuyện trò tíu tít,
    Trong khu rừng xanh tốt với muôn hoa,
    Chàng sẽ không còn nhớ thuở làm vua.
  5. Khi nhìn các con điểm trang rực rỡ
    Và ngắm chúng đem về bao hoa nở
    Trong ngôi nhà diễm lệ của đôi ta,
    Chàng sẽ không còn nhớ thuở làm vua.
  6. Khi nhìn các con chơi đùa rộn rã,
    Và ngắm chúng đem về bao hoa lá
    Trong ngôi nhà diễm lệ của đôi ta,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  7. Khi chàng thấy các con đang nhảy múa,
    Và mang về những vòng hoa rực rỡ
    Trong ngôi nhà diễm lệ của đôi ta,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  8. Khi chàng ngắm chúng chơi đùa nhảy múa,
    Và đem về những vòng hoa rực rỡ
    Trong ngôi nhà diễm lệ của đôi ta,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  9. Ông voi già có tuổi chừng sáu chục
    Phiêu bạt lang thang hoàn toàn cô độc,
    Trong khu rừng đầy cỏ mọc hoang sơ,
    Sẽ khiến chàng quên một thuở làm vua.
  10. Ông voi già có tuổi chừng sáu chục
    Về buổi chiều vẫn lang thang cô độc,
    Và ra đi vào buổi sáng tinh mơ,
    Sẽ khiến chàng quên một thuở làm vua.
  11. Khi chàng ngắm ông voi già trưởng thượng,
    Ðem theo cả đàn voi con tùy tướng,
    Voi sáu mươi, và nghe tiếng thét to,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  12. Khi chàng ngắm bầy thú hoang gầm rống,
    Cùng mọi vật mà lòng chàng ước vọng,
    Và không gian rộng rãi của rừng thưa,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  13. Ðàn hươu nai kéo về lúc chiều tối,
    Nhảy nhót múa may từng bầy ếch nhái,
    Và nơi nơi nở rộ cả muôn hoa,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  14. Khi chàng nghe suối sông reo ào ạt,
    Và biết bao loài thần tiên ca hát,
    Tin thiếp đây, chàng sẽ chóng quên là
    Có một thời chàng đã được làm vua.
  15. Khi chàng nghe tiếng cú mèo đang hú
    Trong hang sâu chốn núi rừng cư trú,
    Chắc chắn rằng chàng sẽ chẳng nhớ ra
    Có một thời chàng đã được làm vua.
  16. Loài trâu rừng cùng với loài tê giác,
    Làm cho cả khu rừng vang tiếng nhạc,
    Loài cọp beo và sư tử gầm gừ
    Khiến chàng quên một thuở đã làm vua.
  17. Khi chàng thấy trên non cao chót vót
    Chim công trống múa men và nhảy nhót
    Trước cả bầy công mái thật nên thơ,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  18. Nhìn công trống noãn sinh kia nhảy múa,
    Xòe đôi cánh đẹp huy hoàng rực rỡ
    Trước cả bầy công mái thật nên thơ,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  19. Chim công trống với cổ màu xanh đỏ
    Nhìn công trống vụt lên và nhảy múa
    Trước cả bầy công mái thật nên thơ,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  20. Khi núi rừng ở vào mùa đông giá,
    Chàng ngắm nhìn các cây hoa rộ nở,
    Các mùi hương ngào ngạt nhẹ nhàng đưa,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  21. Khi núi rừng ở vào mùa đông giá
    Chàng ngắm nhìn các cây hoa rộ nở,
    Hương sen, Bim-ba, Ku-ta thoảng đưa,
    Chàng se quên một thuở đã làm vua.
  22. Khi núi rừng ở vào mùa đông giá
    Chàng ngắm khu rừng muôn hoa đua nở
    Và hoa sen rộ nở ở quanh ta,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.

Như vậy Maddì đã ca tụng vùng Tuyết Sơn qua các vần kệ này như thể nàng đang sống ở đó.

Ðến đây chấm dứt Lời Ca tụng cảnh Tuyết Sơn (Himavanta-vannanà).

*

  1. THÁI TỬ GIÃ TỪ THÂN TỘC

Lúc bấy giờ Thái hậu Phusatì suy nghĩ: “Một bản án nặng nề đã áp đặt lên vai vương nhi. Con ta sẽ làm gì đây? Ta muốn đi xem sao”.

Bà liền ngự lên một chiếc xe được phủ kín, và khi bà dừng trước cửa cung thất của con bà, bà nghe lọt câu chuyện ấy và bật tiếng than khóc thảm thiết.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Bà nghe tiếng vương phi và vương tử
    Lời hai vị đang hàn huyên tâm sự
    Bà bật ra tiếng kêu khóc thảm thương
    Thái hậu kia thật vĩ đại vinh quang:

106 -107.- Ta bảo thà ta phải dùng độc dược
Hoặc là ta phải nhào đầu xuống vực,
Hoặc thắt dây thòng lọng ở cổ ta,
Sao thần dân tống xuất Ves-san-ta?

108 -109. Chuyên cần, bố thí và ly tham dục,
Ðược tất cả các địch vương kính phục,
Danh vọng huy hoàng vang dội gần xa,
Sao đuổi con vô tội Ves-san-ta?

  1. Là điểm tựa của song thân phụ mẫu,
    Biết kính trọng bậc đàn anh trưởng lão,
    Sao thần dân đuổi Ves-san-ta-ra,
    Chính là vương nhi vô tội của ta?

11I-112. Được phụ vương và mẫu hoàng ái mộ
Cùng tất cả đám bà con dòng họ,
Ðược quý yêu bởi tất cả thân bằng,
Cả quê hương cùng tất giang sơn,
Con vô tội, sao chúng đòi tống xuất?

Sau lời khóc than bi thảm này, bà an ủi vương nhi và vương hậu, sau đó bà yết kiến vua cha và tâu:

  1. Giống như đám xoài kia rơi xuống đất,
    Như bạc tiền đã phung phí tiêu tan,
    Vương quốc ngài cũng sụp đổ điêu tàn,
    Người vô tội nếu bị dân đầy ải.
  2. Rồi giống như chim thiên nga cánh gãy
    Khi các nguồn suối nước cạn khô dần,
    Bị bỏ rơi bởi tất cả quần thần,
    Ngài sẽ sống trong khổ đau cô độc.
  3. Tâu Ðại Vương, thiếp trình ngài chân thật:
    Ðừng để nguồn phúc lộc Ðại vương tàn,
    Ðừng đuổi con vô tội bởi dân than.
    Nghe vậy, phụ vương đáp:
  4. Biểu tượng của toàn dân, vương tử đó,
    Nếu ta truyền lưu đày nơi gian khổ,
    Là ta tuân phận sự của hoàng gia,
    Còn thiết thân hơn cả chính đời ta.
    Nghe lời này, thái hậu lại khóc than:
  5. Xưa biết bao đoàn quân hầu hộ tống
    Với cờ xí huy hoàng bay lồng lộng,
    Như rừng cây nở rộ với muôn hoa,
    Nay vương nhi đành đơn độc đi xa.
  6. Các hoàng giáp Gan-dhà-ra rực rỡ
    Khoác quanh con sáng ngời ngày xưa đó,
    Hay bừng lên đỏ sẫm lúc con đi,
    Hôm nay cô độc cất bước vương nhi.
  7. Xưa con ngự vương xa, voi, hay kiệu,
    Nay vua Ves-san-ta đi thất thểu.
  8. Ngày xưa con được tẩm ngát trầm hương,
    Ðược đánh thức bằng vũ khúc, ca xang,
    Nay làm sao khoác tấm da thô nhám,
    Mang bình nước, chiếc rìu trên đường vắng?
  9. Sao chúng không dâng những chiếc hoàng bào,
    Không có da hươu quý bởi vì sao?
    Khoác vỏ cây, con bước vào rừng rậm,
  10. Vua bị đuổi, vỏ cây làm sao quấn?
    Rồi làm sao nàng công chúa Mad-dì
    Khoác vỏ cây và cỏ lá rừng kia?
  11. Xưa thường mặc lụa tơ Ba-la-nại,
    Gấm Ko-dum-ba-ra đầy êm ái,
    Nay làm sao khoác lá vỏ cây kia?
  12. Xưa tới lui, nàng ngồi kiệu hay xe,
    Nàng công chúa yêu kiều và khả ái,
    Nay làm sao bước chân nàng đi nổi?
  13. Nàng có đôi chân yếu với tay mềm,
    Ðứng bình yên trong hạnh phúc êm đềm,
    Nay làm sao nàng công nương mỹ lệ
    Bước run run vào khu rừng hoang phế?

126 -127. Nàng có đôi chân yếu với tay mềm,
Nàng sống xưa trong hạnh phúc êm đềm,
Loại hài xưa nàng mang êm dịu nhất
Vẫn làm đau đôi chân nàng gót ngọc,
Nay làm sao nàng cất bước chân đi?

  1. Ngày xưa kia ở giữa ngàn nữ nhi
    Nàng cất bước vòng hoa đeo lủng lẳng,
    Nay làm sao giữa khu rừng hoang vắng
    Nàng diễm kiều đơn độc bước chân lê?
  2. Xưa, nếu loài sơn cẩu hú, nàng nghe
    Nàng thường thấy trong lòng đầy lo lắng,
    Nàng rụt rè nay sao đi rừng vắng?

130 -131. Nàng rùng mình lo sợ tiếng thiên xa,
Hoặc run run như kẻ thấy tà ma
Khi nghe tiếng cú kêu gào văng vẳng
Mỹ nữ rụt rè sao đi rừng rậm?

  1. Giống như chim nhìn thấy tổ trống trơn
    Tất cả đều bị giết, lũ chim non,
    Khi thiếp nhìn thấy nơi này trống vắng,
    Lòng thiêu đốt trong khổ đau đằng đẳng.
  2. Giống như chim nhìn thấy tổ trống trơn
    Tất cả đều bị giết, lũ chim non,
    Thiếp gầy mòn, võ vàng khi nhìn thấy
    Con dấu yêu chẳng bao giờ trở lại.
  3. Giống như chim nhìn thấy tổ trống trơn
    Tất cả đều bị giết, lũ chim non,
    Thiếp sẽ phát điên cuồng và ngây dại
    Thấy con yêu không bao giờ trở lại.
  4. Như diều hâu nhìn thấy tổ trống trơn
    Tất cả đều bị giết, bầy chim non
    Khi thiếp nhìn thấy nơi này trống vắng
    Thiếp sẽ sống trong khổ đau đằng đẵng.
  5. Như diều hâu nhìn thấy tổ trống trơn
    Tất cả đều bị giết, lũ chim non,
    Thiếp yếu gầy, võ vàng khi nhìn thấy
    Con dấu yêu nhất đời không trở lại.
  6. Như diều hâu nhìn thấy tổ trống trơn
    Tất cả đều bị giết, lũ chim non,
    Thiếp sẽ phát điên cuồng và ngây dại
    Thấy con yêu chẳng bao giờ trở lại.
  7. Như bầy hồng nga nọ đứng bên hồ,
    Làn nước kia nay biến mất, cạn khô,
    Thiếp sẽ sống trong khổ đau dằng dặc,
    Không còn thấy đứa con yêu quý nhất.
  8. Như bầy hồng nga nọ đứng bên hồ,
    Làn nước kia nay biến mất, cạn khô,
    Thiếp sẽ gầy mòn, võ vàng héo hắt,
    Không còn thấy đứa con yêu quý nhất.
  9. Như bầy hồng nga nọ đứng bên hồ,
    Làn nước kia nay biến mất, cạn khô,
    Thiếp sẽ hóa dại cuồng khi thấy mất
    Ðứa con trai mà thiếp yêu thương nhất.
  10. Và nếu Ðại vương đành tống xuất đi
    Khỏi quê hương, dù vô tội, vương nhi,
    Mặc dù thiếp đang khổ đau than thở
    Cuộc đời thiếp e rằng đành từ bỏ.

*

Ðể giải thích vấn đề này, bậc Ðạo Sư ngâm kệ:

  1. Nghe mẫu hoàng than khóc thật đau thương,
    Tất cả cùng nhau thẳng tiến vội vàng,
    Các cung phi dang đôi tay trước mặt
    Ðể cùng bà tiếp nối lời than khóc.
  2. Và ở trong cung điện của ông hoàng
    Tất cả đều nằm la liệt ngổn ngang,
    Ðàn bà trẻ con nằm như cây cỏ
    Bị ngã dài trên đất liền tại chỗ.
  3. Và đến khi đêm ấy đã gần tàn
    Rạng ngày sau vừa lúc mặt trời quang,
    Khi ấy Ves-san-ta-ra Chúa tể
    Bắt đầu Lễ đại cúng dường bố thí.
  4. Ðem thức ăn cho những kẻ đói cơm,
    Ðem rượu nồng cho những bọn túy ông,
    Ðem y phục cho người cần y phục,
    Cho mỗi người tùy theo lòng mong ước.
  5. Ðừng để người xin thất vọng trở về,
    Hãy tỏ bày lòng kính trọng tràn trề,
    Đừng để thiếu thức uống ăn tùy thích.
  6. Vì thế quần chúng tựu tề chật ních
    Và nhanh chân nhảy múa với nô đùa,
    Khi Si-vi Chúa tể chính là vua
    Nuôi quốc độ đang sẵn sàng biệt xứ.
  7. Chúng đã đốn nhào một cây đại thụ
    Ðứng vươn cao đầy quả chín trên cành,
    Khi quần chúng đuổi ra khỏi đất lành
    Vua vô tội Ves-san-ta-ra ấy,
  8. Cây ban ước nguyện chúng đành đốn gãy
    Với bao điều ân huệ sẵn trong tay
    Ves-san-ta-ra vô tội thế này,
    Quần chúng tống xuất ngài ra khỏi nước.
  9. Chúng đã đốn cây thần ban điều ước
    Với tối cao ân huệ sẵn trong tay,
    Ves-san-ta-ra vô tội thế này
    Chúng đã tống xuất ngài đi biệt xứ.

151-152. Quần chúng trẻ già, mọi người đủ cỡ
Ðều khóc than và gào thét suốt ngày
Ðồng giơ cao lên tất cả cánh tay,
Khi chúa tể sẵn sàng đi biệt xứ,
Vị vua đã nuôi Si-vi quốc độ.

153-154. Bà cốt, hoạn quan, cung nữ khóc thương
Và thét gào suốt cả một ngày trường
Ðồng giơ các cánh tay ra phía trước,
Khi Ðại vương sẵn sàng rời đất nước,
Ngài đã nuôi dưỡng quốc độ Si-vi.

  1. Trong kinh thành tất cả bọn nữ nhi
    Ðồng than khóc và thét gào hôm ấy,
    Khi vị vua nước Si-vi vĩ đại
    Bảo dưỡng dân sắp sửa bước lưu đày.
  2. Bà-la-môn, khổ hạnh giả xưa nay
    Cùng tất cả những ai cần khất thực,
    Ðều giơ cao các cánh tay trước mặt
    Và thét to: “Thật hành động bạo tàn!”
  3. Trong khi vua đem phước lộc phát ban
    Cho tất cả toàn kinh thành thừa hưởng,
    Và nay bị chính thần dân kết án
    Ngài đã đành cất bước chốn lưu vong.

I58. Bảy trăm con voi ngài đã tặng không
Với tất cả vẻ huy hoàng tô điểm:
Với dây đai bằng vàng ròng kiều diễm,
Với khăn vàng được phủ kín sáng ngời.

  1. Mỗi con voi đều chở một chú nài
    Với dáo móc cầm trong tay hộ vệ,
    Nay nhìn Ves-san-ta-ra Chúa tể
    Bị đày đi khỏi đất nước lưu vong.
  2. Bảy trăm con ngựa ngài cũng phát không,
    Ðược tô điểm với yên cương láng bóng,
    Các ngựa Sindh, ngựa rặc nòi thuần chủng,
    Tất cả đều phi vùn vụt đôi chân.
  3. Mỗi ngựa đều được cỡi một tên quân
    Với cung kiếm trong tay đầy bạo dạn,
    Nay nhìn Ves-san-ta-ra Chúa thượng
    Bị đày đi khỏi đất nước quê hương.
  4. Bảy trăm xe ngựa đầy đủ yên cương
    Với cờ xí rợp tung bay theo gió,
    Da hổ, báo, cảnh huy hoàng rực rỡ,
  5. Mỗi xe đều được cỡi một quản xa
    Mang giáp bào, cầm cung nỏ sáng lòa,
    Nay nhìn Ves-san-ta-ra Chúa tể
    Bị đi đày khỏi quê hương như thế.
  6. Bảy trăm nữ nhi ngài cũng phát ban,
    Trên mỗi cỗ xe đều đứng một nàng
    Với chuỗi vàng và kim hoàn tô điểm,
    Các nữ nhi này thật là kiều diễm.

165- 166. Với nữ trang và y phục xinh xinh
Với eo lưng nhỏ bé và thanh thanh,
Ðôi mày cong và nụ cười tươi sáng,
Với đôi mông tròn gợi tình duyên dáng,
Nay hãy nhìn Chúa thượng Ves-san-ta
Bị đày đi khỏi đất nước quê nhà!

  1. Bảy trăm bò ngài cũng đem phân phát,
    Với mỗi thùng đựng sữa đều bằng bạc,
    Nay hãy nhìn Chúa thượng Ves-san-ta
    Bị đày đi khỏi đất nước quê nhà!
  2. Bảy trăm nữ tỳ ngài đem cho hết
    Khi đám mày râu kêu vang tha thiết,
    Nay hãy nhìn Chúa thượng Ves-san-ta
    Bị đày đi khỏi đất nước quê nhà!
  3. Ngài ban ngựa voi, cỗ xe, nô lệ,
    Sau mọi việc kia xảy ra, tuy thế,
    Nay hãy nhìn Chúa thượng Ves-san-ta
    Bị đày đi khỏi đất nước quê nhà!
  4. Việc kia quả thật vô cùng kinh khủng,
    Ðã khiến cho lông tóc ta dựng đứng,
    Khi giờ đây Chúa thượng Ves-san-ta
    Bị đày đi khỏi đất nước quê nhà!

Bấy giờ một vị thần báo tin cho các vua chúa khắp cõi Diêm-phù-đề việc vua Vessantàra đã làm Ðại lễ bố thí các phụ nữ cao sang cùng các tặng vật khác ra sao. Vì thế các vị quý tộc Sát-đế-ly nhờ thần lực hỗ trợ đã đến kịp bằng xe và trở về cung với các phụ nữ cao sang cùng các tặng vật khác mà họ nhận được. Nhờ đấy, các Sát-đế-ly (quý tộc), Bà-la-môn (Ðạo sĩ), Vệ xá (thương nhân), Thủ-đà (công nhân) đều nhận quà từ chính tay ngài trước khi họ ra về.

Ngài vẫn đang phân phát thí vật thì trời tối, vì thế ngài trở về cung thất để từ giã song thân và lên đường đêm ấy. Ngài ngự trên chiếc vương xa lộng lẫy đến cung của cha mẹ cùng nàng Maddì để nàng cùng ngài từ giã hai vị. Bậc Ðại Sĩ kính lễ vua cha và thưa trình việc ngài cùng vương phi đến hầu.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Xin tạ từ Minh chúa Sañ-jà ya,
    Và xin trình để phụ vương biết rõ:
    – Con sẽ ra đi đến đồi Vạn-cổ
    Vì giờ đây cha phán lệnh lưu đày.
  2. Tấu Anh quân, thời sắp đến sau này
    Sẽ biết rõ những ai đầy tham dục
    Không biết thỏa, sẽ đi vào địa ngục.
  3. Vì con làm nên tội với thần dân,
    Ðã phát ban hào phóng với tay con,
    Nên con đã bị toàn dân xét xử,
    Con phải chịu đi đày ra khỏi xứ.
  4. Con sẽ đền tội lỗi ấy bây giờ
    Trong khu rừng loài hổ báo du cư.
    Nếu cha muốn lội bùn nhơ ác dục,
    Tuy thế, con vẫn muốn làm công đức.

*

Bậc Ðại Sĩ ngâm bốn vần kệ này với vua cha rồi ngài quay sang mẹ xin phép là được rời thế tục với các lời này:

175- 176. Thưa mẹ hiền, con xin phép giã từ,
Con bị đày ra khỏi xứ biệt cư,
Vì tội lỗi đã làm cho dân chúng,
Con bố thí với bàn tay hào phóng,
Nay chiếu theo án lệnh của toàn dân
Con đi đày khỏi đất nước quê hương.

  1. Bây giờ con sắp phải đền tội lỗi
    Trong rừng hoang loài hổ beo lui tới.
    Nếu mẹ muốn chìm trong chốn dục tham,
    Song phần con công đức quyết tâm làm.

Mẫu hậu Phusatì đáp:

178-179. Mẹ cho phép con ra đi, Thái tử,
Hãy nhận lời mẹ chúc lành vạn sự,
Ðể Mad-dì và các cháu ở nhà,
Nàng sẽ không làm lợi nữa bao giờ,
Chân yếu, tay mềm, thân hình yếu đuối,
Tại sao nàng cần phải đi, con hỡi?

Vua Vessantara đáp:

  1. Con chẳng đem theo dù một nữ tỳ
    Trái ý nguyền nàng chẳng muốn ra đi.
    Song nàng muốn, hãy cho nàng đi với,
    Còn nếu không, hãy để nàng ở lại.

Nghe lời Thái từ nói, vua cha tìm cách thuyết phục nàng.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Lúc ấy phụ vương phán bảo công nương:
    – Ðừng để tay chân tẩm ướt đàn hương
    Chịu lấm bụi và đất dơ, cha bảo,
  2. Con đừng đắp vỏ cây rừng làm áo
    Thay lụa tơ Ba-la-nại mượt mà,
    Công nương diễm phúc, đừng bước đi xa,
    Ðời rừng rậm thật khó khăn gian khổ.
  3. Công chúa Mad-dì yêu kiều, rực rỡ,
    Liền đáp lời thưa với phụ vương nàng:
    – Ðược diễm phúc kia con cũng chẳng màng
    Nếu không có Ves-san-ta Thái tử.
  4. Rồi Ðại vương Si-vi nuôi-quốc-độ
    Lại nói thêm với nàng nữa như vầy:
    – Này Mad-dì con hỡi, hãy nghe đây,
    Khi cha giảng nỗi gian nan rừng thẳm:
  5. Những bầy bọ ruồi, muỗi mòng, ong, gián,
    Sẽ đốt con trong lúc sống ở rừng
    Cho đến khi con mắc bệnh thương vong.
  6. Còn cư dân trên bờ sông bến nước
    Lại nghe nói đến nhiều tai họa khác:
    Dù không mang nọc độc, giống trăn rừng,
    Loài cuộn tròn siết chặt, mạnh vô cùng,
  7. Hễ người, vật đến gần, liền tóm chặt,
    Rồi kéo về hang, cuộn trong nhiều khúc.
  8. Còn nhiều loài dã thú khác hiểm nguy
    Phủ đầy lông chằng chịt lại đen sì,
    Chúng có thể trèo cây bắt người đấy,
    Con gấu chính là tên sinh vật ấy.
  9. Dọc theo bờ sông nước So-tum-ba
    Có loài trâu cư trú chốn giang hà
    Với cặp sừng thật to và nhọn hoắc
    Có thể húc một cú đau cùng cực.
  10. Thấy những đàn trâu vĩ đại thế này
    Ði lang thang qua rừng rậm đó đây,
    Như bò mẹ đi tìm con, khốn khổ,
    Mad-dì sẽ làm gì, cho ta rõ?
  11. Khi vượn khỉ trên cây tụ họp đoàn,
    Chúng sẽ làm con hốt hoảng kinh hoàng,
    Công chúa Mad-dì chẳng hề hiểu biết
    Trước cảnh tượng dị kỳ và gớm ghiếc.
  12. Xưa mỗi lần tiếng hú của chó rừng
    Vẫn làm con thật run sợ hãi hùng,
    Nay phải sống ở trên đồi Vạn-cổ
    Con sẽ làm gì, Mad-dì bé nhỏ!
  13. Sao con muốn đi vào chốn như vầy?
    Ngay cả lúc trời đang giữa ban ngày,
    Khi các loài chim nghỉ ngơi im lặng,
    Khu rừng cây vẫn thét gào vang động.

194 -195. Rồi Mad-dì diễm lệ ấy, công nương
Liền nói lên vầy đáp lại phụ vương:
– Về những điều này thật là đáng sợ
Mà cha đã cố trình bày cho rõ,
Con sẵn sàng chấp nhận mọi điều kia,
Và nay con đã quyết định ra đi.

  1. Qua mọi đồi hoang và rừng cỏ dại,
    Xuyên suốt các đầm lau và khóm sậy,
    Với sức mình, con sẽ mở con đường,
    Quả thật con không oán trách kêu than.
  2. Nàng nào muốn giữ chồng cho tốt đẹp,
    Phải làm xong phận sự mình trên hết,
    Phải sẵn sàng vò các cục phân bò,
    Và sẵn sàng ăn bữa đói bữa no.
  3. Nàng phải siêng năng chăm lo ngọn lửa
    Và phải chuyên cần lọc trong nước nữa.
    Song cuộc đời quả phụ thật kinh hoàng,
    Con quyết ra đi, tâu bậc Ðại vương.
  4. Việc vặt vãnh cũng làm nàng lo lắng,
    Nàng thường ăn thứ cơm thừa canh cặn,
    Vì cuộc đời quả phụ thật kinh hoàng,
    Con quyết ra đi, tâu bậc Ðại vương.

200-201. Bị quật ngã và dìm trong bụi bặm,
Bị nắm tóc lôi thật là tàn nhẫn,
Ðàn ông đều có thể đả thương nàng,
Mọi người ngoài chỉ đứng ngắm bàng quan.
Ôi hãi hùng là cuộc đời sương phụ!
Tâu Ðại vương, con quyết đi khỏi xứ.

202-203. Bọn đàn ông vây đánh trẻ mồ côi
Thật bạo tàn vì đấm đá tả tơi
Như bầy quạ thường vồ chim cú nhỏ.
Dù mỹ miều và tự cao quyến rủ,
Ôi cuộc đời quả phụ thật kinh hoàng!
Con quyết ra đi, tâu bậc Ðại vương.

204-205. Ngay cả trong nhà giàu sang thịnh vượng
Sáng ngời lên với bạc vàng vô tận,
Lời đắng cay tuôn chảy mãi không ngừng
Từ đám anh em hoặc các thân bằng,
Ôi hãi hùng là cuộc đời sương phụ!
Tâu Ðại vương, con quyết đi khỏi xứ.

206-207. Chẳng khác dòng sông suối nước cạn khô.
Chẳng khác gì vương quốc thiếu vị vua,
Người sương phụ dù có mười anh ruột
Cũng chỉ là tấm thân trần trùng trục,
Ôi cuộc đời sương phụ thật kinh hoàng!
Con quyết ra đi, tâu bậc Ðại vương.

208-209. Dấu hiệu cỗ xe: lá cờ phấp phới,
Lửa được khói xông nên người biết tới,
Ðất nước sáng danh nhờ các quốc vương,
Người vợ có tên nhờ chính phu quân.
Ôi hãi hùng là cuộc đời sương phụ!
Tâu Ðại vương, con quyết đi khỏi xứ.

210-211. Người vợ chia chung số phận với chồng,
Dù được giàu sang hay chịu bần cùng,
Danh vọng nàng được thần linh tán tụng,
Lúc hoạn nạn nàng cũng đành an phận.

212-213. Con vẫn quyết tâm nối gót theo chàng
Dù khoác hoàng y con cũng chẳng màng,
Làm hoàng hậu khắp thế gian chẳng thiết
Ðời sương phụ than ôi, đầy kinh khiếp,
Tâu Ðại vương, con sẽ quyết ra đi.

  1. Quả thật vô tâm là những nữ nhi
    Lòng sắt đá nên không sao nhận thức
    Khi các vị lang quân đang khổ cực,
    Lại ước mong vui hưởng cảnh giàu sang.
  2. Khi chúa tể Si-vi bỏ quê hương,
    Để cất bước lưu đày ra khỏi nước,
    Con quyết sẽ cùng theo chàng cất bước,
    Vì chàng ban mọi hỷ lạc, hân hoan.

216-217. Lúc bấy giờ cất tiếng vị Ðại vương
Nói với Mad-dì huy hoàng diễm lệ:
– Nhưng hãy để lại đây hai con trẻ
Vì chúng làm gì được ở nơi kia,
Hỡi công nương đầy phước đức, Mad-dì?
Chúng ta sẽ chăm nom đầy kỹ lưỡng.

218-219. Rồi Mad-dì trả lời ngay Chúa thượng,
Vị công nương thật rực rỡ yêu kiều:
– Bé Jà-li, Kan-hà ấy thân yêu
Với lòng con thật vô cùng quý giá,
Chúng sẽ cùng con vào rừng cư trú,
Và làm con vơi nhẹ nỗi sầu bi.

220-221. Vị Ðại vương nuôi-quốc-độ Si-vi,
Vị chúa tể đáp lời ngay lập tức:
– Trước giờ ăn thịt hầm, cơm thơm phức,
Nếu phải dùng quả dại ở rừng hoang,
Bọn trẻ thơ làm gì được hay chăng?

  1. Trước giờ ăn bằng chén vàng, dĩa bạc,
    Nay chỉ lá cây chúng làm gì được?
  2. Trước áo quần Ba-la-nại lụa tơ,
    Nay phải mặc vỏ cây với cỏ khô,
    Bọn trẻ ấy biết làm gì cho được?
  3. Xưa xe, kiệu, chúng được người đưa rước,
    Nay chạy đi quanh quẩn với đôi chân,
    Bọn trẻ thơ làm gì được hay không?
  4. Trước giờ ngủ trong vương cung nóc nhọn,
    Cửa khóa then cài thật là an ổn,
    Nay phải nằm ngay dưới gốc cây rừng,
    Bọn trẻ thơ làm gì được hay chăng?
  5. Trước gối nệm với giường thêu nằm ngủ,
    Nay phải ngã lưng nằm trên giường cỏ,
    Bọn trẻ thơ làm gì được hay chăng?
  6. Trước được tẩm đầy các thứ dầu hương,
    Nay bị phủ bùn nhơ và bụi bặm,
    Bọn trẻ thơ sẽ làm gì cho đặng?
  7. Xưa được người phe phẩy quạt lông công,
    Hay quạt đuôi trâu rừng phủ rậm lông,
    Nay bị muỗi ruồi bọ sâu đốt cắn,
    Bọn trẻ thơ sẽ làm gì cho đặng?

Trong khi các vị bàn luận như vậy thì bình minh đến và sau đó mặt trời lên. Quân hầu mang một cỗ xe lộng lẫy cùng một đoàn bốn ngựa Sindh thuần chủng đến cho bậc Ðại Sĩ và đặt ở cửa.

Mad-dì kính lễ song thân của ngài và chào từ biệt các bà phu nhân kia, rồi ra đi cùng với hai con đến trước Vessantara và lên ngồi trong xe ấy.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề này:

229-230. Rồi Mad-dì diễm lệ ấy, công nương,
Liền nói lên vầy đáp lại phụ vương:
Ðừng than khóc vì chúng con, cha hỡi,
Xin phụ vương cũng đừng nên bối rối,
Hai trẻ này cùng cha mẹ lên đường
Bất cứ nơi nào rảo bước tha phương.

  1. Với những lời này Mad-dì từ giã,
    Vị công nương thật yêu kiều rực rỡ,
    Hai trẻ thơ cùng chia xẻ đường trường.
  2. Rồi Ves-san-ta-ra chính quốc vương,
    Lời ước nguyện đã hoàn thành như ý,
    Ðến trước song thân ngài đồng kính lễ
    Và đi quanh về phía hữu một vòng.
  3. Rồi ngài ngự lên xa giá lẹ làng
    Ðược kéo đi nhờ một đoàn tuấn mã,
    Cùng vợ con, ngài lên đường vội vã
    Ðến nơi kia đồi Vạn-cổ cao vời.
  4. Vua Ves-san-ta thúc ngựa đến nơi
    Mà hầu hết đám thần dân tụ tập:
    Và kêu lớn: – Chúng ta đi! Cầu phúc
    Cho bà con thân tộc, vậy giã từ!

*

  1. CUỘC HÀNH TRÌNH LÊN NÚI VAMKA

Khi nói các lời này với quần chúng, bậc Ðại Sĩ khuyên nhủ họ tinh cần bố thí, và làm các thiện sự.

Khi ngài đi xa, mẹ Bồ-tát nói:

– Nếu vương tử muốn bố thí, hãy để chàng bố thí.

Rồi bà gửi cho ngài hai xe nhỏ đi kèm mỗi bên xe ngựa, chứa đầy nữ trang gồm bảy báu vật. Trong mười tám lần ban phát, ngài phân chia cho đám hành khất mà ngài gặp trên đường đi tất cả những gì ngài có, gồm cả số đồ vật trang sức trên chính thân ngài.

Khi ngài đã rời kinh thành, ngài quay lại và muốn nhìn lui, vì thế thuận theo ý ngài, mặt đất nứt ra theo chiều chiếc xe và quay lại khiến cho xe đối diện kinh thành, ngài liền chiêm ngưỡng nơi song thân ngài cư ngụ. Tiếp theo đó là đất chấn động và nhiều việc kỳ diệu khác.

Vì vậy có chuyện kể:

  1. Khi ngài đi ra khỏi kinh thành ấy,
    Ngài đã quay đầu nhìn xem trở lại,
    Vì thế núi Tu-di lớn chuyển rung
    Chẳng khác một cây đa giữa cõi không.

Trong lúc ngắm cảnh, ngài ngâm kệ thúc giục Maddì cũng nhìn lui:

  1. Này Mad-dì, nhìn nơi thân yêu đó,
    Nơi chúng ta vừa cất bước ra đi,
    Ấy vương cung của chúa tể Si-vi,
    Và cũng chính nơi quê cha đất tổ.

Sau đó, ngài nhìn về phía sáu mươi ngàn triều thần, những người sinh ra cùng thời với ngài, nhìn đám quần chúng còn đó, và ra hiệu cho họ lui về, rồi trong khi tiếp tục lái xe đi, ngài bảo Maddì:

– Này công nương, nàng hãy nhìn xem thử có kẻ cầu xin nào đang đi phía sau chăng.

Nàng liền nhìn ra. Bấy giờ bốn Bà-la-môn không thể có mặt kịp trong Lễ bố thí bảy trăm báu vật đã đến kinh thành, và thấy lễ phân phát đã xong, biết chắc là vương tử đã ra đi.

-Thế ngài có đem theo vật gì không?

– Vâng, có cỗ xe.

Vì thế họ quyết định đi xin bầy ngựa. Maddì thấy những người này đang tiến lại gần.

– Tâu Chúa công, có các vị hành khất- Nàng nói.

Bậc Ðại Sĩ dừng xe lại. Họ tiến đến xin bầy ngựa và bậc Ðại Sĩ cho ngựa.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề này:

  1. Khi bốn Bà-la-môn bắt kịp ngài,
    Và muốn xin bầy ngựa, họ kêu nài,
    Ngài ban bầy ngựa kia ngay tại chỗ,
    Mỗi hành khất được một con tuấn mã.

Bầy ngựa được lấy đi rồi, dây cương của cỗ xe vẫn còn treo lơ lửng trên không. Nhưng chẳng bao lâu sau khi các Bà-la-môn vừa đi, thì bốn vị thần giả dạng bầy hươu đỏ tía đến kéo xe đi.

Bậc Ðại Sĩ biết chúng là thần linh liền ngâm kệ này:

  1. Này Mad-dì, hãy ngắm việc diệu kỳ,
    Này nhìn xem việc hy hữu, Mad-dì:
    Những con ngựa này đây thông minh quá,
    Ðội lốt hồng dương kéo xe ta đó!

Nhưng khi ngài tiến lên thì một Bà-la-môn khác đến xin cỗ xe. Bậc Ðại Sĩ đưa vợ con xuống và cho ông cỗ xe. Khi ngài cho xe xong, các vị thần cũng biến mất.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc tặng cỗ xe này:

  1. Một kẻ thứ năm tiến đến tức thì
    Và cầu xin xe nọ của vương nhi.
    240. Việc này khiến Ves-san-ta Chúa thượng
    Phải đưa đám vợ con ngài đi xuống,
    Và ban xe cho kẻ đến xin quà.

*

Sau đó cả đoàn đều đi bộ. Bậc Ðại Sĩ bảo Maddì:

  1. Này Mad-dì, nàng hãy bế Kan-hà
    Vì nó nhẹ và hãy còn thơ dại,
    Còn Jà-li là bé trai nặng đấy,
    Ta sẽ mang con trẻ ấy theo cùng.

Sau đó hai vị bế con lên và mang chúng bên hông.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Ngài, con trai, nàng, con gái lên đường
    Cùng trò chuyện thật hân hoan mãn nguyện.

Ðến đây chấm dứt Chuyện Bố thí (Dàna-khandam)

*

Khi gặp kẻ nào trên đường, hai vị hỏi đường đi đến đồi Vamka (Vạn-cổ) và được biết còn xa lắc. Vì thế, có chuyện kể:

  1. Bất cứ khi nào gặp du khách đến,
    Hai vị hỏi thăm phương hướng đi đường,
    Và nơi đâu là Vạn-cổ Cao sơn.
  2. Ðám du hành đều khóc than thương xót,
    Nhìn các ngài trên con đường rảo bước,
    Và bảo ngài nhiệm vụ quá nặng nề:
    – Con đường còn xa lắc ở đằng kia.

Ðôi trẻ reo lên khi thấy đủ loại trái cây mọc hai bên đường. Nhờ thần lực của bậc Ðại Sĩ, cây cối rạp mình xuống đưa trái đến tầm tay họ hái được và hai vị hái những quả chín nhất đưa cho các con.

Lúc ấy Maddì reo lên:

– Thật kỳ diệu quá!

Vì thế chuyện kể lại:

  1. Khi trẻ thơ ngắm nhìn trên sườn núi
    Nhiều cây cao mọc lên đầy hoa trái,
    Hai trẻ kia liền kêu khóc đòi ăn.
  2. Khi cây rừng nhìn lũ trẻ khóc than,
    Cây cao vút bỗng sinh lòng ái ngại
    Cúi rạp mình đưa các cành đi tới
    Cho tay người hái được trái cây rừng.
  3. Lúc ấy Mad-dì reo lớn vui mừng,
    Nàng công chúa diễm kiều và rực rỡ,
    Khi nhìn thấy phép thần kỳ diệu đó
    Khiến cho người ta phải dựng tóc lông.
  4. Tóc lông người dựng đứng lúc nhìn trông
    Nhờ thần lực Ves-san-ta Chúa thượng
    Các cây cao bỗng nghiêng mình cúi xuống.

Kể từ kinh thành Jetuttara, núi Suvannagiritàla cách đó năm dặm, sông Kontimàrà lại cách đó năm dặm, và núi Arañjaragiri lại cách đó năm dặm nữa, ngôi làng Bà-la-môn Dunnivittha lại cách đó năm dặm nữa, và kinh thành của quốc cửu ngài cách đó mười dặm, như vậy kể từ Jetuttara, hành trình dài ba mươi dặm. Các vị thần rút ngắn khoảng đường ấy, vì vậy chỉ trong một ngày, họ đã đến thành của vị quốc cửu.

Do đó, chuyện kể:

  1. Thần Dạ-xoa thâu ngắn dặm trường
    Vì thương con trẻ gặp tai ương,
    Ce-ta quốc độ nay vừa đến
    Trước buổi hoàng hôn kịp bước đường.

Bấy giờ các vị rời thành Jetuttara lúc rạng đông, và buổi chiều đã đến vương quốc Ceta và vào thành của quốc cửu.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Cả đoàn đi đến xứ Ce-ta
    Gian khổ lộ trình quả thật xa,
    Vương quốc tràn trề đồ ẩm thực,
    Phú cường, thịnh vượng cõi sơn hà.

*

Bấy giờ trong kinh thành của vị quốc cửu ấy có sáu mươi ngàn võ tướng (Sát-đế-ly) cư trú. Bậc Ðại Sĩ không vào thành, mà chỉ ngồi ở sảnh đường ở cổng thành. Maddì phủi bụi trên chân bậc Ðại Sĩ và xoa bóp chân ngài, rồi với ý định thông báo việc ngài đến, nàng đi ra khỏi sảnh đường và đứng lại để người ta nhìn thấy. Vì thế những phụ nữ vào ra kinh thành trông thấy nàng và đến vây quanh.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Nhìn thấy vương phi dáng tốt lành
    Ðàn bà xúm lại đứng vây quanh:
    – Bà phu nhân ấy trông hiền dịu
    Sao phải đi chân suốt lộ trình?
  2. Ngày xưa trên võng kiệu, vương xa,
    Bà mệnh phụ kia được rước ra,
    Nay lúc Mad-dì đành rảo bước,
    Nơi nàng cư trú: chốn rừng già.

Quần chúng lúc ấy vừa thấy Maddì và Vessantara cùng các con đến nơi không có lễ nghi đón chào gì cả, liền trình vua. Rồi sáu mươi ngàn võ tướng quý tộc đến gặp ngài và than khóc.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

253-254. Vương tộc Ce-ta đến yết kiến ngài
Tất cả đều khóc lóc, thở than hoài:
– Chúng thần kính chào ngài, tâu Chúa thượng,
Chúng thần tin ngài an khang, thịnh vượng.
Còn giang sơn cùng với đại phụ vương
Mong ngài đem mọi tin tức cát tường.

255-256. Quân sĩ của ngài đâu, tâu Chúa tể,
Và ở đâu chiếc vương xa oai vệ?
Không ngựa xe, ngài cất bước hành trình,
Có phải chăng ngài đi đến một mình
Vì đã bị đám quân thù đánh bại?

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ nói cho các vương tử biết nguyên nhân ngài đến đây:

  1. Xin cám ơn các ngài đầy ưu ái,
    Hãy bình tâm: ta thịnh vượng, khang an,
    Về phụ vương và quốc độ giang sơn
    Ta có đủ tin lành đem thông cáo.
  2. Ta đã tặng con voi là quốc bảo
    Có ngà dài, toàn trắng, thật tốt lành,
    Ðã bao lần thắng trận lúc giao tranh.
  3. Với quạt đuôi trâu rừng và ngọc thạch,
    Ðã dẫm tan bao đám quân thù địch.
    Thật hung hăng, dài thẳng tắp đôi ngà,
    Trắng ngần như núi tuyết Ke-là-sa.
  4. Lọng trắng, cân đai xứng ngôi chúa thượng,
    Với đám quân hầu cùng người quản tượng,
    Bảo vật này ta đã lấy phát phân.

261 -262. Vì thế toàn dân ta đã hận sân,
Và vương phụ xem đây là lầm lỗi.
Do việc kia, ta bị ngài xua đuổi,
Bây giờ ta đi đến Vạn-cổ Sơn,
Xin các ngài cho biết chỗ náu nương.

Các vương tử đáp:

  1. Xin đừng nghi ngờ, cung nghênh Chúa thượng,
    Xin ngự trị đây, tùy nghi thọ hưởng,
  2. Dùng mật ong, cỏ thuốc, thịt, gạo ngon
    Chọn món nào trắng nhất, loại cao lương,
    Tùy thánh ý, ngài sẽ là khách quý.

Vua Vessantara nói:

265-266. Ðây ta nhận quà trao từ các vị,
Xin cảm ơn về thiện chí tràn đầy,
Nhưng phụ vương đã tống xuất giờ đây
Ta đi đến vùng núi đồi Vạn-cổ,
Xin các ngài chỉ ta nơi cư trú.

Các vương tử đáp:

  1. Xin Ðại vương ở lại xứ Ce-ta
    Cho đến khi dâng sớ tấu đức vua
    Si-vi quốc điều chúng thần biết được!
  2. Lúc ấy dân đi theo ngài lũ lượt
    Hộ tống ngài, đầy tin tưởng hân hoan,
    Ðiều này thần xin thông báo Ðại vương.

Bậc Ðại Sĩ nói:

  1. Ta không muốn nhờ các ngài dâng sớ
    Trình phụ vương nơi đây ta cư trú,
    Trong việc này, ngài không phải vua đâu,
    Ta e rằng ngài không có quyền cao.
  2. Triều thần và dân thị thành căm phẫn
    Tụ họp nhau, mọi người đầy kích động
    Bởi vì ta, chúng có thể hại vua.

Các vương tử đáp:

  1. Nếu trong xứ kia có thể xảy ra
    Một sự việc đầy kinh hoàng như thế,
    Ngài được dân xứ Ce-ta hộ vệ,
    Xin ở đây và làm bậc Ðại vương.
  2. Ðất nước này đang thịnh vượng, phú cường
    Với dân chúng thật hào hùng, vĩ đại,
    Cầu xin ngài hãy quyết tâm ở lại
    Với chúng thần và cai trị quốc gia.
  3. – Hãy nghe ta! Các vương tử Ce-ta
    Ta không có ý mong cầu ở lại,
    Vì ta đi như một người bị đuổi,
    Chẳng đến đây cầm quyền lực quân vương,
  4. Dân Si-vi tất cả sẽ bất bằng
    Biết các ngài tôn ta làm Thiên tử,
    Trong khi ta bị đày ra khỏi xứ.
  5. Nếu các ngài muốn thực hiện điều này,
    Sẽ là điều thật bất hạnh từ đây:
    Gây tranh chấp với Si-vi dân chúng,
    Ta không thích đấu tranh và căm hận.

276-277. Ðây ta nhận quà do các vị trao
Xin cám ơn thiện chí biết dường nào,
Nhưng từ nay vua đuổi ta khỏi xứ,
Ta ra đi đến vùng đồi Vạn-cổ,
Xin các ngài hãy nói rõ cho ta,
Một nơi đâu có thể gọi là nhà.

Như vậy dù có nhiều lời thỉnh cầu, bậc Ðại Sĩ vẫn chối từ vương quốc. Sau đó các vương tử ấy tiếp đón ngài trọng thể. Nhưng ngài không muốn đi vào thành, vì thế họ trang hoàng sảnh đường mà ngài đang ở, giăng màn quanh đó và soạn một chiếc tọa sàng lớn, rồi họ canh phòng cẩn mật chung quanh.

Ngài cư trú trong sảnh đường ấy một đêm một ngày, được canh phòng cẩn mật. Ðến hôm sau, vào lúc tảng sáng, sau một bữa cơm đầy cao lương thượng vị, được các vương tử hộ tống, ngài rời sảnh đường. Sáu mươi ngàn võ tướng Sát-đế-ly ấy đưa tiễn ngài suốt mười lăm dặm đường, rồi dừng lại ở lối vào khu rừng, họ nói về mười lăm dặm đường còn lại của cuộc hành trình:

  1. – Vâng, chúng thần xin trình tâu Chúa tể
    Làm cách nào một vị vua xuất thế
    Nhờ lửa thiêng được an tịnh, tốt lành,
    Mọi sự đều trôi êm ả, thanh bình.
  2. Gan-dha-mà, tâu Ðại vương, núi đá
    Là nơi ngài cùng vợ con cư trú.
  3. Dân Ce-ta với vẻ mặt thảm sầu
    Tất cả đều tuôn chảy những dòng châu,
    Khuyên Ðại vương đi thẳng đường phương Bắc,
    Nơi các đỉnh núi non cao chất ngất.
  4. Nơi kia ngài thấy núi Vi-pu-la,
    (Cầu phúc lành đi sát cạnh vương gia),
    Ðầy lạc thú với nhiều cây xanh ngắt
    Ðang đổ xuống dưới kia bao bóng mát.
  5. Khi đến nơi, ngài sẽ thấy bên mình
    (Cầu chúc ngài lần nữa được phúc lành)
    Ke-tu-ma, dòng nước sâu thăm thẳm
    Tuôn chảy ra từ ngọn đồi vô tận.
  6. Ðầy cá, tôm, nơi trú ngụ bình an,
    Dòng nước sâu kia tuôn chảy tràn lan,
    Ngài sẽ uống, tắm, chơi cùng con cái.
  7. Và nơi kia, trên ngọn đồi khả ái,
    Bóng mát che, ngài sẽ thấy trĩu đầy
    Trái cây thơm như mật ngọt ngào thay,
    Thật hùng vĩ một cây đa đại thọ.
  8. Ngài sẽ thấy núi Na-li-ka nọ
    Và đó là vùng đất của quỷ thần,
    Nơi bầy chim cất tiếng hót hòa âm,
    Nhiều ma quái, lắm sơn thần ẩn nấp.
  9. Từ đó đi xa hơn về phía Bắc
    Là đến hồ tên gọi Mu-ca-linh
    Bao phủ đầy loài sen súng trắng xanh.

287-288. Kế đó cánh rừng dày như mây phủ,
Bước chân lên giống như trên thảm cỏ,
Cây đầy hoa và trái nặng trĩu cành
Ở trên đầu che bóng mát tàng xanh,
Hãy vào đó: sự rình mồi mong ngóng
Bắt con thịt và ăn tươi nuốt sống.

  1. Nơi kia khi rừng nở rộ ngàn hoa,
    Nghe rạt rào muôn vạn tiếng chim ca,
    Tiếng líu lo ở khắp nơi đây đó
    Của bao cánh chim rừng màu rực rỡ.
  2. Nếu ngài đi theo ngọn thác dần dần
    Cho đến khi lên tận chốn suối nguồn,
    Ngài sẽ thấy một hồ hoa sen phủ
    Với các loài hoa chen nhau đua nở.
  3. Ðầy cá tôm, nơi trú ngụ an thân
    Dòng nước kia sâu thăm thẳm vô cùng
    Bền vững, thanh bình, tỏa mùi thơm dịu,
    Chẳng hơi nồng nặc làm ta khó chịu,
  4. Nơi kia ngài xây dựng một thảo đường
    Hơi nghiêng về một chút hướng Bắc phương,
    Và từ am tranh ngài sắp xây cất,
    Ngài hãy bước lên đường tìm lương thực.

Như vậy các vương tử báo cho ngài biết về cuộc hành trình dài mười lăm dặm ấy và tiễn ngài ra đi. Nhưng để đề phòng mọi hiểm nguy đối với vua Vessantara và dự trù không để bất cứ địch thủ nào có thể lợi dụng tấn công, họ ra lệnh cho một người trong xứ, khôn ngoan và khéo léo, theo dõi bước đi của ngài cho đến tận lối vào rừng, rồi họ trở về kinh thành của mình.

Còn vua Vessantara cùng vợ con tiến lên đỉnh Gandhamàdana (Hương Sơn), ở lại đó ngày hôm ấy, sau đó hướng về Bắc đi qua chân núi Vipula, nghỉ chân tại bờ sông Ketumatì để dùng một bữa ăn ngon lành do người thợ rừng thết đãi, xong cả đoàn tắm rửa và uống nước rồi tặng người dẫn đường một cái trâm vàng.

Với tâm thanh thản, ngài vượt qua dòng sông, nghỉ chân một lát dưới gốc đa mọc trên một khoảng đất bằng phẳng của núi này. Sau khi ăn trái đa xong, ngài đứng lên và đi tiếp đến đồi Nàlika. Vẫn tiếp tục tiến lên, ngài đi dọc theo bờ hồ Mucalinda về phía Ðông bắc, từ đó nhờ con đường mòn hẹp ngài đi sâu vào rừng rậm, và xuyên suốt rừng cây dọc theo dòng suối phát ra từ núi ấy cho đến khi ngài gặp chiếc hồ vuông góc.

Lúc bấy giờ, Thiên chủ Sakka nhìn xuống cõi trần và xem xét những việc đã xảy ra. Ngài suy nghĩ: “Bậc Ðại Sĩ đã vào núi Himavat (Tuyết Sơn), và chắc người phải có nơi cư trú”. Vì thế ngài ra lệnh cho Vissakamma (Thần xây dựng):

– Xin hiền hữu hãy đi vào vùng thung lũng núi Vam ka và xây ẩn am trên một địa điểm an lạc.

Vissakamma ra đi làm hai am tranh với hai lối đi có mái che, có phòng ban đêm và phòng ban ngày. Dọc theo các lối đi, vị ấy trồng các hàng cây hoa và khóm chuối, cùng sắp đặt mọi vật dùng cần thiết cho các ẩn sĩ. Rồi vị ấy ghi một câu:

– Các vật này dành cho ai muốn làm ẩn sĩ.

Và xua đuổi các loài phi nhân (ma quỷ) cùng các loài chim thú có giọng kêu khó chịu đi nơi khác, vị ấy trở về cõi của mình.

Khi nhìn thấy con đường mòn, bậc Ðại Sĩ biết chắc chắn nó phải dẫn đến khu vực của các ẩn sĩ cư trú. Ngài liền để Maddì và hai con ở trước cổng vào am tranh, và tự bước vào: khi thấy câu ghi chú kia, ngài nhận ra Sakka Thiên chủ đang để mắt đến ngài.

Ngài mở cửa, bước vào, đặt cung kiếm xuống cùng xiêm áo mà ngài đang mặc, ngài khoác bộ áo tu hành của ẩn sĩ, cầm cây gậy đi ra mái hiên lui lui tới tới với vẻ thanh tịnh của một vị Ðộc Giác Phật và đến gần vợ con. Maddì quỳ xuống chân ngài, mắt đẫm lệ rồi cùng ngài đi vào am, nàng đến am thất riêng của mình và khoác áo ẩn sĩ. Sau đó hai vị cùng bảo các con làm như vậy. Thế là cả bốn ẩn sĩ cao quý kia ở lại trong vùng thung lũng của đồi Vamka.

Bấy giờ Maddì thỉnh cầu bậc Ðại Sĩ:

– Tâu Chúa thượng, xin chàng ở lại đây với các con, đừng ra ngoài hái quả dại, xin để thiếp đi thế.

Từ đó, nàng thường tìm các thứ quả rừng về nuôi cả ba. Bồ-tát cũng thỉnh cầu nàng:

– Này Maddì, bây giờ chúng ta là ẩn sĩ và nữ nhân là mối bất tịnh. Vậy từ nay về sau xin nàng đừng đến gần ta phi thời.

Nàng ưng thuận ngay.

Nhờ uy lực lòng từ bi của bậc Ðại Sĩ, ngay cả thú rừng trong khoảng ba dặm đất này đều có lòng thương xót lẫn nhau. Hằng ngày vào lúc rạng đông, Maddì thức dậy, đem nước uống và thức ăn cùng nước rửa và đồ chải răng để súc miệng, quét sạch thảo am. Rồi để hai con ở lại với cha chúng, nàng cầm thúng, xẻng và cào đi vào rừng kiếm củ quả dại, và chất đầy thúng. Buổi chiều nàng trở về đặt quả rừng vào am xong, liền tắm rửa các con và cả bốn người ngồi ở cửa am ăn trái cây. Sau đó Maddì đem hai con lui vào trong nội thất của nàng.

Theo cách này họ sống trong vùng thung lũng của núi rừng được bảy tháng.

Ðến đây chấm dứt Sự kiện Ði vào rừng (Vanappavesana-khandam).

*

  1. BÀ-LA-MÔN JÙJAKA VÀ VỢ

Thời ấy, trong vương quốc Kàlinga, tại làng Bà-la-môn tên là Dunnivittha, có một người Bà-la-môn được gọi là Jùjaka. Nhờ khất thực, lão đã kiếm được một trăm đồng tiền và gửi cho một gia đình Bà-la-môn kia rồi lại đi kiếm tiền thêm.

Trong khi lão đi xa, gia đình ấy tiêu hết số tiền. Khi lão trở lại liền mắng nhiếc họ, nhưng họ không thể trả nổi số tiền ấy, vì thế họ gả cô con gái tên Amittatàpanà cho lão. Lão đem cô gái cùng về làng Dunnivittha ở Kàlinga và sống tại đó.

Cô gái Amittatàpana săn sóc lão Bà-la-môn thật chu đáo.

Một số thanh niên Bà-la-môn thấy nàng tận tụy như thế, liền trách móc các bà vợ của họ:

– Hãy xem cô ả săn sóc lão già chu đáo thế kia, trong khi các bà thật vô tình đối với các anh chồng trẻ của mình!

Việc này khiến các bà vợ ấy quyết định đuổi nàng ra khỏi làng. Vì thế họ tụ tập bên bờ sông và nhiều nơi khác để phỉ báng nàng.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Ngày xưa ở Kà-lin-ga,
    Jù-jà-ka chính tên Bà-la-môn,
    Sống đây với vợ còn son
    A-mit-ta ấy vẫn còn xuân xanh.
  2. Bọn đàn bà nọ mang bình
    Xuống sông chửi rủa chính danh của nàng,
    Cố làm ô nhục hồng nhan,
    Cả bầy tụ tập, dọc ngang quây quần:
  3. – Mẹ cô quả thật “cừu nhân”,
    Và cha cô nữa cũng đồng “oan gia”
    Ðể cho một lão già nua
    Cưới xin vợ trẻ như cô nõn nường!
  4. Nhà cô mưu kế gì chăng,
    Âm mưu hèn hạ bạo tàn xấu xa!
    Ép duyên cô gái còn tơ
    Gả cho ông lão già nua lòm khòm.
  5. Đời cô quả thật chán chường
    Trong khi cô vẫn còn đang nõn nà,
    Kết duyên với một lão già,
    Ôi thôi, chết quách cũng là tốt hơn!
  6. Hỡi cô xinh đẹp, rõ ràng
    Mẹ cha cô quả bất nhân quá chừng,
    Nếu như con gái còn xuân
    Họ không tìm được một chàng rể xinh.
  7. Lễ dâng lửa, lễ tế sinh
    Sau ngày sinh nhật hóa thành uổng công,
    Nếu như cô gái còn xuân
    Bị đưa làm vợ một ông già khòm.

300-301. Hẳn nhà khổ hạnh La-môn
Hay là ẩn sĩ đa văn, thiện hiền,
Không còn cấu uế trần duyên
Bị cô phỉ báng rủa nguyền hay chăng?
Nếu như cô gái còn xuân
Bị đưa làm vợ một ông già khòm.

  1. Như dao đâm thật đau lòng,
    Như là nọc rắn cháy nồng đốt thiêu,
    Song còn đau khổ hơn nhiều
    Khi nhìn ông lão tiêu điều tả tơi!
  2. Với chồng đã quá già rồi
    Còn gì thích thú vui cười nữa đâu?
    Chuyện trò chẳng chút vui nào,
    Khi cười, lão cũng nhăn nheo khó nhìn!
  3. Gái trai độ tuổi thanh niên,
    Sống cùng nhau chốn tư riêng thắm nồng
    Dứt ngay mọi nỗi đau buồn
    Vẫn còn tiềm ẩn trong lòng vấn vương.
  4. Cô là con gái còn xuân
    Xinh tươi, được đám đàn ông mơ hoài,
    Thế sao ông lão già rồi
    Làm cô thích thú? Hãy lui về nhà!

*

Khi nàng nghe họ nhạo báng, nàng liền mang bình nước về nhà và khóc.

– Tại sao nàng khóc?

Ông chồng hỏi và nàng trả lời qua vần kệ:

  1. Tôi không lấy nước về nhà,
    Ðằng kia một đám đàn bà cười tôi,
    Vì chồng tôi quá già rồi,
    Họ luôn chế nhạo lúc tôi ra ngoài.

Jùjaka đáp:

  1. Nàng không cần lấy nước hoài,
    Nàng không cần phục vụ tôi thế này.
    Nàng ôi, đừng giận dỗi vầy,
    Vì tôi sẽ lấy nước thay cho nàng.

Cô vợ đáp:

  1. Chàng đi lấy nước? Không màng!
    Ðó không phải cách thông thường thế gian.
    Tôi xin nói thật rõ ràng:
    Nếu chàng làm vậy, tôi chàng chia tay.
  2. Ngoại trừ mua một nô tài,
    Hoặc là tỳ nữ làm ngay việc này,
    Tôi xin nói rõ chàng hay:
    Tôi thề, không ở lại đây với chàng.

Jùjaka đáp:

  1. Làm sao mua nổi tiểu đồng?
    Tôi không nghề ngỗng, bạc vàng, thóc ngô.
    Thôi đừng giận dỗi, liễu bồ,
    Tôi đi làm việc gia nô của nàng.

Cô vợ bảo:

  1. Giờ tôi muốn nói với chàng
    Những lời nghe được dân làng nói ra:
    Ðằng kia trên đỉnh Vam-ka
    Có vì vua Ves-san-ta lưu đày.
  2. Giờ chàng hãy vội đi ngay,
    Xin ngài cho được một tay tiểu đồng,
    Vương gia chắc chắn bằng lòng
    Ban chàng những thứ chàng mong ước mà.

Jùjaka đáp:

313 – 314. Tôi đây lụ khụ quá già,
Lòng e lắm nỗi đường xa gập ghềnh,
Xin đừng than khóc buồn tình,
Nay tôi chẳng có thân mình dẻo dai,
Nhưng đứng giận dỗi, nàng ôi,
Tôi nguyền làm việc chính tôi sẵn lòng.

Cô vợ bảo:

  1. Chàng sao chẳng khác tên quân
    Trước khi ra trận đầu hàng, lý do?
    Và chàng đành phải chịu thua
    Trước khi ra trận và so thử tài?

316 – 317. Ngoại trừ mua một nô tài,
Hoặc là tỳ nữ làm ngay việc này.
Tôi xin nói rõ chàng hay
Tôi thề không ở lại đây với chàng,
Chuyện này quả thật đáng buồn,
Ðó là một chuyện đau thương cho chàng.

  1. Nhìn tôi hạnh phúc ngập tràn
    Trong tay của một tình lang khác rồi,
    Áo quần lộng lẫy thắm tươi,
    Theo mùa thay đổi, trăng trời chuyển luân.
  2. Khi chàng năm tháng tàn dần,
    Còn tôi vắng bóng, chàng buồn khóc than,
    Tóc chàng sẽ bạc trắng ngần,
    Mặt chàng sẽ gấp bội phần nếp nhăn!

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Và bây giờ lão La-môn
    Lòng đầy sợ hãi phục tuân ý nàng,
    Bị nàng hành hạ nát tan,
    Ta nghe lão phải vội vàng nói năng:
  2. – Cho tôi thực phẩm đi đường,
    Làm cho tôi bánh mật ngon ngọt ngào,
    Làm thêm lương thực khô nào,
    Bánh mì lúa mạch nướng mau trên lò.
  3. Thế rồi một cặp gia nô
    Có cùng đẳng cấp với cô đem về,
    Bọn này mệt mỏi chẳng hề,
    Ngày đêm phục vụ cận kề ái nương.

*

Nàng nhanh chóng chuẩn bị lương thực và báo cho lão mọi sự đã xong. Trong lúc ấy, lão sửa lại các chỗ xiêu vẹo quanh túp lều, làm cửa ngõ chắc chắn, mang củi từ rừng về, kéo nước vào cái lu lớn và đổ đầy mọi nồi chảo.

Rồi lão vừa khoác chiếc áo của người tu khổ hạnh, vừa dặn vợ lúc ra đi:

– Nàng hãy chắc chắn đừng đi ra ngoài những lúc không thích hợp và hãy cẩn thận giữ mình cho đến khi ta về.

Vừa mang giày và đeo bao lương thực lên vai, lão vừa đi vòng quanh vợ về phía hữu, rồi ra đi với đôi mắt đẫm lệ ròng ròng.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này qua vần kệ:

  1. Việc này xong, lão La-môn
    Mang giày rồi lại đứng lên tức thì
    Ði vòng quanh ả nữ nhi
    Nghiêng về phía hữu chia ly vợ mình.
  2. Ra đi khoác áo tu hành
    Lệ rơi lả tả quanh vành mắt y,
    Vội vàng đến nước Si-vi,
    Kinh đô trù phú tìm về gia nô.

Khi lão đến kinh thành này, lão hỏi đám đông đang tụ tập để biết nơi vua Vessantara ở.

*

VII. JÙJAKA LÊN NÚI VAMKA

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

325-326. Lão đi đến tận nơi xa,
Hỏi thăm dân chúng vào ra quây quần:
– Xin cho tôi biết Ðại vương
Ves-san-ta ấy tìm phương hướng nào?
Ðáp ngay cho lão đôi câu,
Ðám đông tụ họp cùng nhau trả lời:

  1. – Ngài đành phải chịu tàn đời
    Chỉ vì bố thí lũ tồi như ngươi,
    Ngài vừa bị đuổi đi rồi
    Ra ngoài xứ sở, đến đồi Vam-ka.
  2. Ngài đành phải chịu tiêu ma
    Chỉ vì bố thí lũ tà như ngươi,
    Ngài vừa bị đuổi đi rồi,
    Ðem con vợ đến ở đồi Vam-ka.

– Thế là các ngươi đã hủy hoại Ðại vương của ta, nay còn vác mặt đến đây nữa ư? Ngươi hãy đứng yên đấy!

Rồi lấy gậy gộc, sỏi đá, họ đánh đuổi lão ra.

Nhưng lão được các vị thần dẫn vào đúng con đường đi đến đồi Vamka…

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Lão kia bị vợ rầy la
    Do niềm tham dục bùng ra hoành hành,
    Chuộc sai lầm ở rừng xanh
    Nơi loài hổ báo thường rình mồi săn.
  2. Tay cầm gậy, bát xin ăn,
    Muỗng làm tế lễ, vào rừng hoang sơ,
    Nơi đây là chốn ẩn cư
    Của người bố thí đúng như ý mình.
  3. Một khi vào tận rừng xanh
    Từng bầy chó sói vây quanh con đường,
    Nhảy quàng xiêng lão La-môn,
    Rồi đi hốt hoảng lạc đường nào hay.
  4. La-môn lắm dục vọng này,
    Lòng tham buông thả, thấy ngay lạc loài
    Ðường lên Vạn – cổ mất rồi,
    Bắt đầu thăm hỏi những lời dò la:
  5. -Ai cho biết Ves-san-ta,
    Ông hoàng chiến thắng mọi vua trên đời,
    Người ban an lạc đúng thời,
    Vị vua vĩ đại, hùng oai trên trần?
  6. Nơi an trú kẻ cầu ân,
    Như đất lành với muôn dân sinh thành?
    Nào ai sẽ nói cho mình
    Ves-san-ta Chúa quang vinh, hùng cường?
  7. Mọi người mong muốn cầu ân
    Tìm ngài như biển mọi sông đổ vào,
    Nào ai nói với ta mau
    Ves-san-ta Chúa tối cao hùng cường?

336 – 337. Như hồ lạc thú an toàn,
Nước trong mát lạnh ngập tràn nhấp nhô,
Súng sen giăng trải lô xô,
Ngó tơ bao phủ mặt hồ lặng thinh,
Nào ai sẽ bảo cho mình
Ves-san-ta Chúa quang vinh hùng cường?

338 – 339. Như cây sung lớn bên đường,
Mọc lên làm chốn nghỉ chân an toàn
Dành cho lữ khách nhọc nhằn
Vội vàng đi đến dưới tàn lá xanh,
Nào ai sẽ bảo cho mình
Ves-san-ta Chúa quang vinh hùng cường?

340 – 341. Như xoài, hoặc cây bàng
Mọc làm thành chốn bên đường nghỉ chân
Dành cho lữ khách nhọc nhằn
Vội vàng đi đến dưới tàn lá xanh,
Nào ai sẽ báo cho mình
Ves-san-ta Chúa quang vinh hùng cường?

  1. Nào ai nghe tiếng ta than
    Chung quanh toàn cả rừng hoang hãi hùng?
    Lòng ta xiết đỗi vui mừng
    Nếu ai cho biết vương quân nơi nào.
  2. Chung quanh toàn cả rừng sâu,
    Ai nghe ta thở than nào có hay?
    Hân hoan hạnh phúc lắm thay
    Nếu ai cho biết ngài rày nơi nao?

*

Bấy giờ người kiểm lâm đã được chia phiên canh giữ rừng, nghe lời than vãn này liền suy nghĩ: “Ðây là lão Bà-la-môn đang kêu ca tìm nơi trú ẩn của vua Vessantara, lão đến đây không có mục đích gì tốt đâu. Lão muốn xin ngài cho Maddì hoặc hai trẻ kia, chắc chắn thế. Ðược rồi, ta sẽ giết lão”. Thế là y liền đến gần lão và rút cây cung ra hăm dọa lão:

– Này lão Bà-la-môn, ta sẽ không tha mạng lão đâu!

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

344 – 345. Thợ săn ngang dọc rừng hoang,
Lắng nghe lời lão thở than, nói rằng:
– Ngài đành phải chịu tiêu vong
Chỉ vì bố thí những phường như ngươi,
Ngài vừa bị đuổi đi rồi,
Ra ngoài xứ sở đến đồi Vam-ka!

  1. Ngài đành phải chịu tiêu ma
    Chỉ vì bố thí lũ tà như ngươi,
    Ngài vừa bị đuổi đi rồi,
    Ðem vợ con đến ở đồi Vam-ka.
  2. Ðồ ngu vô dụng quả là,
    Nếu ngươi mong muốn bỏ nhà ra đây,
    Ðể tìm vương tử rừng này
    Như con hạc kiếm cá bầy giữa sông.
  3. Thế thì đây, hỡi tôn ông,
    Mạng kia của lão, ta không tha vầy,
    Tên ta sẽ hút máu đầy
    Khi ta bắn nó từ cây cung dài.
  4. Rồi ta sẽ chẻ đầu ngươi,
    Xé tim gan ấy tức thời tại đây,
    Như chim cúng lễ thần cây,
    Ta làm thịt lão giờ đây tế thần.
  5. Rồi ta lấy thịt, mỡ, gân,
    Lấy đầu, tim lão đủ phần thiếu chi,
    Lão thành tế vật tức thì
    Ngay khi lão mới ra đi lìa dời.
  6. Lão là lễ vật đáng mời,
    Lễ dâng đàn tế tuyệt vời ước mong,
    Về sau lão chẳng còn hòng
    Tìm đường hãm hại vợ con của ngài.

Nghe những lời này, lão già sợ chết khiếp, liền tìm cách trả lời dối trá:

  1. Sứ thần ai cũng kiêng oai,
    Không ai được phép giết người sứ quân,
    Ðây là qui luật ngàn năm,
    Nếu ông muốn, hãy chú tâm nghe này:
  2. Thần dân hối hận lắm thay,
    Vua cha thương nhớ suốt ngày lo âu,
    Mẹ ngài mòn mỏi ưu sầu,
    Mắt bà đang hóa ra mau mờ dần.
  3. Ðến đây ta chính sứ thần
    Ðem về Chúa tể Ves-san-ta này,
    Hãy nghe, cho lão biết vầy
    Nơi đâu có thể tìm ngài Chúa công.

Lúc ấy, người kia hài lòng khi nghe lão đến để tìm vua Vessantara về, nên y vội vàng buộc bầy chó lại, gọi lão Bà-la-môn xuống và vừa mời lão ngồi trên một đống củi, y vừa ngâm vần kệ này:

355-356. Ta yêu vương tử, sứ thần,
Và đây ta có để phần tặng ông
Món quà thân thiện đón mừng:
Ðùi nai cùng hũ mật ong ngọt ngào;
Ân nhân tìm kiếm cách nào
Ta đây sẽ nói làm sao bây giờ.

Nói xong, y cho lão Bà-la-môn thức ăn, cùng một bầu mật ong và một đùi nai nướng, rồi để lão lên đường, vừa đưa tay phải lên chỉ nơi bậc Ðại Sĩ đang ở, y vừa ngâm kệ:

  1. Ðạo sĩ ôi, núi đằng xa,
    Gan-dha-mà ấy chính là Hương Sơn,
    Nơi Ves-san-ta Ðại vương
    Hiện đang sống với vợ con một đoàn.
  2. Với y của bậc La-môn,
    Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
    Khoác thêm một tấm da vào,
    Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
  3. Cây đằng xa đó, kìa trông,
    Trĩu cành sai quả xanh um sườn đồi,
    Trong khi đỉnh núi cao vời
    Thẫm đen đến tận mây trời ẩn thân.
  4. Bụi sal, tai ngựa, cát đằng,
    Cùng nhiều cây khác nhẹ nhàng chuyển rung
    Khác nào một đám túy ông
    Lắc lư trong gió, người trông thấy hoài.
  5. Trên cao các dãy cây trời
    Bầy chim hòa nhạc đồng thời ca vang,
    Naj-ju, cu gáy từng đàn
    Chuyền từ cây nọ nhẹ nhàng lướt nhanh.

362-363. Chen nhau giữa đám lá cành
Chim mời khách lạ, hoan nghênh đón mừng,
Làm vui lòng mọi thế nhân
Tìm nhà an trú giữa rừng hoang sơ,
Nơi kia cùng với con thơ,
Ves-san-ta chúa ẩn cư xuất trần.

  1. Với y của bậc La-môn
    Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
    Khoác thêm một tấm da vào,
    Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
    Người này lại nói thêm để ca tụng vùng thảo am ấy:
  2. Hồng đào, xoài mít thơm nồng,
    Mận mơ đủ loại lòng thòng, Sà-la,
    Tin-dook vàng ánh, cây đa,
    Cùng nhiều cây khác hiện ra cây bàng.
  3. Lắm cây sung, vả trên ngàn
    Toàn thân mọc thấp, chín thơm ngọt ngào,
    Chà là, nho tuyệt diệu sao,
    Tổ ong mật, hãy ăn vào thỏa thuê.
  4. Vài cây xoài mới trổ hoa,
    Vài cây có trái nhú ra đúng mùa,
    Một vài trái đã chín vừa,
    Trái xanh như ếch, trái chưa chín vàng.
  5. Người nào đứng dưới cây rừng
    Hái bao nhiêu quả cây dâng đón mời,
    Sắc hương, mùi vị tuyệt vời,
    Dù chưa chín, hoặc chín rồi đều phô.
  6. Ôi! Làm ta phải la to
    Khi nhìn cảnh tượng bao la, phi thường
    Khác nào khung cảnh thiên đường,
    Nơi thần tiên ở, khu vườn Lạc hoan.

370-371. Cọ, dừa, thốt nốt tràn lan
Trên cao nguyên của núi ngàn hoang sơ,
Muôn hoa dăng chuỗi kết tua
Khác nào lễ hội ngọn cờ tung cao,
Hoa kia có đủ sắc màu
Giống như ngàn vạn vì sao điểm trời.

  1. Gụ, đàn hương mọc khắp nơi
    Cùng nhiều cây khác không lời diễn ra,
    Cây dâu, cây dẻ, phượng hoa
    Mọc dày chi chít chen đua la đà.
  2. Gần bên có một cái hồ,
    Súng sen xanh trắng tràn bờ phủ lên,
    Khác nào vườn các thần tiên
    Chính tên là cảnh Lạc Viên trên trời.
  3. Sơn ca, cu gáy hót hoài
    Làm cho khắp mọi sườn đồi âm vang,
    Ðắm say vì các hoa ngàn
    Nở ra theo đúng mùa màng quanh năm.

375-376. Hãy nhìn mật ngọt âm thầm
Rơi rơi từng giọt trên tàn sen thưa,
Và nghe ngọn gió đong đưa
Lướt đi nhè nhẹ từ bờ tây nam
Ðến khi tất cả phấn hương
Ðược mang theo gió tỏa lan ngát trời.

377-378. Biết bao dâu, lúa chín muồi
Mọc quanh vùng ấy thường rơi xuống hồ,
Từng đàn cua, cá, trạnh, rùa
Phóng vào tìm kiếm say sưa miệt mài,
Mật rơi như thể sữa tươi,
Như bơ từ đám hoa cười mênh mang.

  1. Từng làn gió nhẹ đưa ngang
    Cỏ cây đủ loại mùi hương diệu huyền,
    Hình như rừng rậm quanh miền
    Ðắm say với đám hoa trên núi đồi.

380-381. Bầy ong bay lượn khắp nơi
Vo ve quanh quẩn theo mùi hoa thơm,
Bầy chim đủ sắc bay cùng
Líu lo, chiêm chiếp trong lòng hân hoan
Nhiều chim cùng bạn lượn vòng:

  1. – Chích chích, chép chép, vui mừng biết bao!
    Chim kêu ríu rít lao xao:
    – Bạn yêu, bạn quý, bạn trao ân tình!

383 – 384. Muôn hoa dăng chuỗi viền quanh
Như khi cờ xí tung hoành lượn bay,
Hoa đầy màu sắc đẹp thay,
Hương thơm ngào ngạt thoảng bay xa gần,
Nơi kia cùng với đàn con,
Ves-san-ta Chúa ẩn thân xuất trần.

  1. Với y của bậc La- môn,
    Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
    Khoác thêm một tấm da vào,
    Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.

Người dân quê miêu tả nơi cư trú của vua Vessantara như vậy, khiến Jùjaka thích thú đáp lễ và chào y qua vần kệ:

  1. Nhận đây bánh lúa mạch non
    Thảy đều được nhúng mật ong ngọt ngào.
    Nhiều viên bánh mật khéo sao,
    Ta nay đem biếu ông nào ăn đi.
    Người dân quê đáp lại:
  2. Cám ơn, tôi chẳng cần gì,
    Giữ phần lương thực mà đi đường dài.
    Lấy thêm lương thực tôi mời,
    Rồi xin Ðạo sĩ đến nơi ông cần.
  3. Thẳng lên về phía thảo đường,
    Lộ trình nơi ấy dẫn ông đến nhà
    Ẩn nhân là Ac-ca-ta,
    Răng đen, đầu bẩn, ly gia xuất trần.

389 – 390. Với y của bậc La-môn,
Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
Ðến kia, và hỏi con đường,
Rồi ngài sẽ chỉ cho tường, Tôn ông.

  1. Ðiều này nghe được vừa xong,
    Lão quay bên phải, đi vòng Ce-ta,
    Rồi đi tìm Ac-ca-ta,
    Con tim rộn rã chan hòa hân hoan.
  2. Jù-ja-ka tiến thẳng đường
    Ðến khi lão đã bước gần thảo am,
    Vào nơi ẩn sĩ trú thân,
    Như vầy lão vội ân cần hỏi thăm:
  3. – Ta tin rằng, hỡi Thánh nhân,
    Ngài thường thịnh vượng, an khương mọi bề,
    Với bao thóc lúa thu về,
    Và bao củ quả tràn trề ẩn am.
  4. Ngài nay có bị phiền lòng
    Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài?
    Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
    Chẳng hay ngài tránh mọi loài được chăng?

Vị khổ hạnh đáp:

  1. Cám ơn ngài, hỡi La-môn,
    Ta nay thịnh vượng, an khương mọi bề,
    Với bao thóc lúa thu về,
    Và bao củ quả tràn trề ẩn am.
  2. Ta không phải chịu phiền lòng
    Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
    Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
    Ta đây tránh được mọi loài, Tôn ông.
  3. Biết bao nhiêu tháng năm ròng
    Mà ta đã sống trong vùng đất đây,
    Những gì bệnh tật xưa nay,
    Ta không hề thấy ở đây khi nào.
  4. Bà-la-môn hỡi, kính chào!
    Mừng duyên hạnh ngộ đưa vào chốn đây.
    Xin vào, ta chúc cầu may,
    Và xin hãy rửa chân tay của ngài.
  5. Pi-yal, tin-dook lá cây,
    Kà-su-ma quả ngọt thay nồng nàn,
    Trái cây như thể mật ong
    Chọn ngay hạng nhất, La-môn, ăn nào.
  6. Nước này lấy tự hang sâu
    Ẩn mình dưới một đồi cao trong rừng,
    Xin mời, hỡi bậc Thánh nhân,
    Uống vào cho thỏa tấm lòng ước mong.

Jùjaka nói:

401-402. Tôi xin nhận vật ngài ban,
Và xin nhận lễ cúng dường, Tôn ông.
Tôi tìm con của vương quân
Sañ-ja-ya bị lưu vong lâu rày,
Dân Si-vi phán lệnh đày,
Xin cho tôi biết nơi ngài ẩn thân.

Vị khổ hạnh đáp:

  1. Ông tìm Si-vi Ðại vương
    Mà không có ý thiện lương trong đầu,
    Chắc ông cố ý mong cầu
    Chiếm vương phi của ngài đâu khó gì.

404-405. Kan-hà cùng với Jà-li
Làm gia nô với nữ tỳ nhà ông,
Hay ông tìm mẹ lẫn con
Nếu ông có thể cầu ơn vua này,
Ngài không lạc thú gì đây,
Cũng không thực phẩm, tiền tài, Tôn ông.

Nghe vậy, Jùjaka nói:

  1. Tôi không có ý bất lương,
    Cũng không đến để cầu mong ơn ngài.
    Song nhìn người thiện tuyệt vời,
    Vui thay sống với các người thiện lương.
  2. Tôi chưa từng thấy quân vương,
    Chính ngài đã bị thần dân lưu đày.
    Tôi mong diện kiến vua này,
    Xin ông cho biết nơi ngài ẩn cư.

Vị Ðạo sĩ kia tin lời lão:

– Ðược rồi, ta sẽ nói với ông. Chỉ cần ở lại đây với ta hôm nay.

Thế là vị ấy tiếp đãi lão đủ thứ củ quả rừng và hôm sau, đưa tay ra chỉ đường cho lão.

Vị ấy lại ngâm các vần kệ như trước:

  1. Ðạo sĩ ôi, núi đằng xa
    Gan-dha-mà ấy chính là Hương Sơn,
    Nơi Ves-san-ta Ðại vương
    Hiện đang sống với vợ con một đoàn.
  2. Với y của bậc La-môn,
    Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
    Khoác thêm một tấm da vào,
    Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
    Và vị ấy nói thêm:
  3. Tàn cây tiêu nọ, thấy không,
    Ở trên mảnh đất tiên thần khác đâu,
    Bụi không hề thổi lên cao,
    Cỏ kia xanh mãi chẳng bao giờ tàn.
  4. Cỏ xanh tựa cổ chim công,
    Sờ vào êm dịu nhu bông khác nào,
    Mọc không quá bốn tấc cao,
    Lúc nào cũng vậy, không bao giờ nhiều.
  5. Ka-pi, xoài, mận hồng đào,
    Chùm sung lủng lẳng không cao, chín muồi,
    Mọi cây có quả tốt tươi,
    Mọc lên trong cánh rừng đồi xinh sao.
  6. Trong veo dòng suối ngọt ngào
    Xanh như ngọc bích rì rào chảy ngang,
    Tung tăng cá lội từng đàn,
    Vui đùa lên xuống khe ngàn lượn quanh.
  7. Hồ nằm trong cảnh hữu tình
    Với bao sen trắng sen xanh kế gần,
    Khác nào ở chốn thiên cung,
    Trong vườn Hoan lạc trên tầng trời xa.
  8. Có ba chủng loại liên hoa
    Trong hồ khoe sắc cho ta thấy nào,
    Sắc màu thay đổi biết bao
    Xanh lơ, đỏ sẫm, trắng sao trắng ngần.

Như vậy vị ấy ca tụng hồ sen vuông góc kia và kế đó ca tụng hồ Mucalinda:

  1. Hoa kia êm dịu như bông,
    Hoa sen xanh thẫm, trắng ngần đua chen,
    Nhiều cây cỏ khác mọc lên,
    Mu-ca-lin chính là tên của hồ.
  2. Ông nhìn hoa nở thật to,
    Nơi kia vô số chen đua lục hồng,
    Mùa hè hay dẫu mùa đông
    Ðều cao đến tận gối ông đây này.
  3. Hoa nhiều màu sắc đẹp thay
    Theo làn gió nhẹ hương bay dịu dàng,
    Rồi ông nghe tiếng rộn ràng
    Của bầy ong đến theo làn hương đưa.
  4. Chung quanh bến nước bờ hồ
    Ðứng thành một dãy lô xô tiếp liền,
    Kìa cây gụ, nọ hoa kèn,
    Ka-dam-ba ngất nghểu lên cao hoài.
  5. Loài hoa sáu cánh khoe tươi,
    Nhiều cây hoa khác cùng cười rộ ra;
    Lùm cây rậm rạp quanh hồ
    Thảy đều đứng lặng để cho ta nhìn.
  6. Cây kia đủ mọi dáng hình,
    Hoa kia đua nở đẹp xinh đủ màu,
    Các lùm cây rậm biết bao
    Chen nhau cao thấp đón chào mắt ta.
  7. Từng làn gió nhẹ hương đưa
    Từ rừng hoa trắng, xanh lơ, đỏ hường,
    Mọc lên quanh chốn thảo đường,
    Nơi kia ngọn lửa được ươm nóng bừng.
  8. Chung quanh bờ nước kế gần
    Nhiều cây cỏ mọc quây quần thiết thân,
    Cỏ cây vẫn cứ rung rung
    Trong khi vang vọng tiếng ong thầm thì.
  9. Mùi hương của vạn hoa kia
    Mọc lên khắp chốn bờ khe, suối, hồ
    Luyến lưu bên bạn lâu xa
    Nếu như bạn giữ hai ba tuần liền.
  10. Ba loài bầu, bí hiển nhiên
    Mọc lên giữa hồ sen thế này,
    Quả bằng bình nước trong tay,
    Quả kia thật lớn sánh tày trống canh.
  11. Tỏi, hành, hạt cải, súng xanh
    Muôn hoa nở rộ trên cành dễ thương.
    Hoa lài, ngào ngạt trầm hương,
    Cát đằng rậm rạp vấn vương cây hoài.
  12. Ngọt ngào thay khóm hoa lài,
    Cây chàm, bông vải, nhiều loài hữu danh,
    Hoa kèn, rau diếp mọc quanh
    Khác nào ngọn lửa vàng hanh nắng trời.
  13. Thưa vâng, mỗi loại hoa tươi
    Mọc ra trong nước hay trồi đất lên
    Chung quanh hồ nước thần tiên
    Hãy nhìn chúng sống đua chen quây quần.
  14. Nơi kia bầy sấu vẫy vùng,
    Mọi loài thủy tộc ẩn thân chốn này.
    Những đàn hươu đỏ thường ngày
    Cùng nhiều thú khác tìm đây nước nguồn.
  15. Nghệ vàng, long não, cỏ hương,
    Hạt thơm, cam thảo thân vươn cao ngồng.
  16. Nơi kia sư tử, voi rừng,
    Cọp vằn tìm kiếm bạn lòng dấu yêu,
    Từng bầy hươu đỏ, hươu sao,
    Chó hoang, nai hoẵng dáng cao lẹ làng.
  17. Chồn bay, trâu yak, linh dương,
    Những bầy lớn nhỏ khỉ rừng lao xao,
    Gấu, bò, mãnh thú biết bao,
    Từng đàn dồn dập đi vào dọc ngang.
  18. Tê ngưu, sóc nhỏ, chuột hoang,
    Chó săn, trâu nước, giả-can, heo rừng,
    Tắc kè, beo gấm, sói lang,
    Thỏ rừng, chồn nhỏ từng đàn ra vô.
  19. Ðủ loài rắn, nhện giăng tơ,
    Ðủ loài chim chóc líu lo trên cành,
    Tạo nên đủ loại âm thanh
    Trong khi chiêm chiếp lượn quanh lòng vòng.
  20. Diều hâu, cú, diệc, gà rừng,
    Sơn ca với tiếng du dương đồng hòa,
    Trĩ, ưng, công với thiên nga,
    Hạc, chim lưng đỏ hòa ca bạn tình.
  21. Nơi kia dịu ngọt âm thanh
    Sắc màu rực rỡ dáng hình chim muông:
    Cổ xanh, mào trắng, lục hồng
    Như công, vỗ cánh phập phồng bay lên.
  22. Sao ta cố kể ngàn tên
    Ðủ từng chi tiết chẳng quên thế này?
    Hãy suy đủ loại chim bay,
    Và đem chúng lại thêm đầy thơ ta.
  23. Cả đàn chim chóc đồng hòa
    Du dương ngàn khúc hoan ca tưng bừng,
    Ngập tràn đầy giữa khoảng không
    Hồ Mu-ca với tiếng ồn vui tai…
  24. Khu rừng có đủ loài voi,
    Linh dương, các loại hươu nai thiếu gì.
    Lòng thòng từ các cây kia
    Cát đằng to lớn từng bè quấn ngang.
  25. Nơi kia hạt cải, mía đường,
    Nhiều loài thóc gạo mọc vươn cao dày.
    Ðậu, mè, dược thảo quý thay
    Sẵn sàng cung cấp đủ đầy khách thăm.

441-442. Ðằng kia có lối đường mòn
Ðưa ông đến chốn ẩn thân của ngài.
Nơi kia đói khát không ai,
Cũng không hề thấy mảy may chán chường.
Nơi kia cùng với các con.
Ves-san-ta bậc Ðại vương lánh trần.

  1. Với y của bậc La-môn,
    Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào.
    Khoác thêm một tấm da vào,
    Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
  2. Việc này khi đã nghe xong,
    Quanh ngài bên phải, lão vòng bước ra,
    Ði tìm vua Ves-san-ta
    Tâm hồn rộn rã chan hòa niềm vui.

*

VIII. BỐ THÍ HAI CON

Jùjaka tiếp tục đi theo con đường ẩn sĩ Accata đã chỉ cho lão và đến tận cái hồ vuông góc. Lão nghĩ: “Bây giờ là chiều tối rồi. Giờ này Maddì đã trở về từ rừng và đàn bà thường hay cản trở. Ngày mai, khi bà ấy đã đi vào rừng, ta sẽ đến gặp vua Vessantara và xin ngài các đứa trẻ kia, rồi trước khi bà trở về, ta phải đi ngay”.

Thế là lão trèo lên ngọn đồi bằng phẳng không xa mấy, và nằm xuống một nơi êm ái.

Bấy giờ khoảng rạng ngày hôm sau, Maddì nằm mộng thấy như vầy: một người đàn ông da đen mặc hai áo vàng, đeo đôi hoa tai đỏ, bước vào lều cỏ và chụp lấy tóc trên đầu Maddì và lôi nàng ra ngoài ném nàng nằm sấp xuống đất và trong lúc nàng kêu thét, gã móc hai mắt nàng ra, chặt hai tay, cắt xẻ lồng ngực nàng, kéo tim nàng ra máu chảy ròng ròng và đem quả tim đi mất.

Nàng kinh hoàng thức dậy, và nghĩ: “Ta vừa thấy một cơn ác mộng. Ta không có ai ở đây trừ Vessantara giải thích mộng này, vậy ta phải hỏi ngài việc này”. Rồi nàng đi đến lều của bậc Ðại Sĩ và gõ cửa.

– Ai đó?

– Tâu Chúa công, thiếp là Maddì đây.

– Này hiền thê, sao nàng đến đây phi thời, và phá lời giao kết của chúng ta?

– Tâu Chúa công, thiếp đến đây không phải vì ham muốn gì, mà vì thiếp vừa thấy ác mộng.

– Vậy nàng hãy nói cho ta biết, Maddì.

Nàng kể lại giấc mộng đã hiện ra. Bậc Ðại Sĩ hiểu ngay ý nghĩa giấc này và suy nghĩ: “Sự bố thí của ta sắp thành tựu viên mãn. Hôm nay sẽ có người đến cầu xin các con ta. Ta sẽ an ủi Maddì và để nàng ra về”, vì thế ngài bảo:

– Tâm trí nàng chắc hẳn bị xao động vì ngủ không an giấc hay ăn khó tiêu đó thôi. Ðừng sợ gì cả.

Ngài giả vờ lấy cớ này an ủi nàng và để nàng đi ra.

Khi trời sáng dần, nàng làm tất cả mọi việc xong, hôn các con và nói:

– Hôm qua mẹ gặp cơn ác mộng, các con hãy cẩn thận nhé.

Rồi đem hai con giao cho bậc Ðại Sĩ, nàng xin ngài chăm sóc các con rồi lấy thúng, cuốc xẻng, lau nước mắt và đi vào rừng hái củ quả.

Còn Jùjaka nghĩ lúc ấy nàng đã đi rồi, liền từ đồi đi xuống theo con đường mòn tiến về phía am lá. Bậc Ðại Sĩ vừa ra khỏi am và ngồi xuống trên một phiến đá như một bức tượng bằng vàng. “Bây giờ người cầu ân sắp đến rồi!” Ngài suy nghĩ, như một người say rượu đang khát nước và ngồi ngắm con đường mà kẻ kia sắp đến, còn các con ngài đang chơi đùa quanh quẩn bên chân ngài.

Và trong lúc ngài ngắm con đường, ngài thấy lão Bà-la-môn đang đến, như thể gánh nặng bố thí trong suốt bảy tháng được đặt xuống nay ngài lại mang lên, ngài reo mừng:

– Này Bà-la-môn, hãy đến đây mau!

Rồi ngài ngâm kệ với bé trai Jàli:

  1. Jà-li, hãy đứng lên con,
    Ngắm xem kìa lão La-môn đến rồi,
    Chính thời xưa đã tái hồi,
    Làm ta tràn ngập niềm vui chan hòa.

Nghe vậy, cậu bé đáp:

  1. Vâng vâng, phải đấy thưa cha,
    Con đang nhìn thấy lão Bà-la-môn,
    Hình như lão đến cầu ân,
    Hẳn là vị khách đang cần nhà ta.

Cùng với những lời này, cậu muốn bày tỏ lòng cung kính lão, liền đứng lên từ chỗ ngồi và đi ra đón lão Bà-la-môn, xin xách dùm hành lý của lão.

Lão Bà-la-môn nhìn cậu và nghĩ: “Ðây hẳn là Jàli, con trai vua Vessantara; ngay từ đầu, ta phải nói năng thô lỗ với nó mới được”.

Thế là lão búng ngón tay ra phía cậu và thét to:

– Thôi cút đi! Cút đi!

Cậu bé suy nghĩ: “Người đâu mà thô lỗ thế?”. Rồi nhìn kỹ thân lão, cậu nhận thấy lão có đủ mười tám dị tật của con người!

Nhưng lão Bà-la-môn đến gần Bồ-tát và vừa cung kính, chào ngài, vừa nói:

  1. Ta tin rằng, hỡi Thánh nhân,
    Ngài thường thịnh vượng, an khương mọi bề,
    Với bao thóc lúa thu về
    Và bao củ quả tràn trề ẩn am.
  2. Ngài nay có bị phiền lòng
    Vì loài rắn rít bọ ong quấy hoài?
    Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
    Chẳng hay ngài tránh mọi loài được chăng?

Bồ-tát từ tốn đáp lại:

  1. Cám ơn ông, hỡi đạo nhân,
    Ta nay thịnh vượng, an khương mọi bề,
    Với bao thóc lúa thu về
    Và bao củ, quả tràn trề ẩn am.
  2. Ta không phải chịu phiền lòng
    Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
    Hoặc bầy dã thú tìm mồi
    Ta đây tránh được mọi loài bình an.
  3. Sống đây đã bảy tháng trường,
    Chúng ta hạnh phúc trong rừng hoang sơ,
    Chẳng hề từ trước đến giờ
    Ðược trông thấy một vị Bà-la-môn.
  4. Như nay nhìn thấy tôn ông
    Khác nào thấy được thần nhân thế này:
    Vil-va làm gậy cầm tay,
    Hộp bùi nhùi với bình đầy nước trong.
  5. Kính chào ông, hỡi đạo nhân,
    Mừng duyên hạnh ngộ đưa đường đến đây.
    Hãy vào chúc phúc cầu may,
    Bước vào và rửa chân tay, ta mời.
  6. Pi-yal, tin-dook lá tươi,
    Kà-su-ma quả ngọt bùi thơm ngon,
    Trái cây như thể mật ong,
    Chọn ngay hạng nhất, La-môn, ăn nào.
  7. Nước này lấy tự hang sâu
    Ẩn mình dưới ngọn đồi cao trong rừng,
    Xin mời, hỡi bậc Thánh nhân,
    Uống vào cho thỏa tấm lòng ước mong.

Nói lời này xong, bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Chẳng phải lão Bà-la-môn đến khu rừng rậm này mà không có duyên cớ. Ta phải hỏi lão lý do ngay lập tức”. Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Nói cho ta biết nguyên nhân,
    Lý do nào khiến tôn ông lên đường,
    Ðẩy đưa ông tận rừng hoang,
    Xin ông hãy nói rõ ràng ta hay.

Jùjaka đáp:

  1. Giống như hồng thủy ngập đầy
    Và không hề có một ngày nào vơi,
    Thần nay muốn đến xin ngài
    Ban cho thần được cả hai con nhà.

Nghe điều này, bậc Ðại Sĩ hân hoan trong lòng và ngài nói như thể người dang tay đưa ra chiếc túi cả ngàn đồng tiền:

  1. Ban ân, ta chẳng chần chừ,
    Ông là chủ chúng từ giờ trở đi.
    Sáng nay đi vắng vương phi,
    Ðể tìm thực phẩm, chiều về đến đây.
  2. Xin ông ở lại đêm nay,
    Sáng mai, ông sẽ đi ngay lên đường.
    Tắm con, bà xức dầu thơm,
    Và quàng cho chúng những tràng hoa tươi.

460-461. Ðêm nay ở lại, xin ông,
Sáng mai vừa hé vầng đông lên đường,
Hai con sẽ được điểm trang
Với nhiều hoa đẹp mùi hương ngạt ngào,
Rồi ông đem chúng đi mau
Cùng nhiều củ quả dồi dào thức ăn.

Jùjaka đáp:

  1. Thưa không, trình tấu Ðại vương,
    Thần đi, chẳng dám vấn vương nơi này,
    E rằng trở ngại gì đây
    Sẽ ngăn cản bước chân ngay trên đường.
  2. Nữ nhân chẳng phải rộng lòng
    Phát ban thường vẫn cản ngăn cố tình,
    Biết nhiều mưu kế thông minh,
    Thường hay lạc lối, ác hành tạo nên.
  3. Người ban bố với niềm tin
    Đừng nên thấy mặt mẹ mình thiết thân,
    Nếu không, bà sẽ cản ngăn,
    Tâu Quân vương, tiểu thần mong lên đường.
  4. Xin ban vương tử, công nương,
    Đừng cho trẻ thấy mặt vương phi này.
    Người ban bố, tín tâm đầy,
    Thì công đức ấy càng ngày càng tăng.
  5. Xin ban vương tử, công nương,
    Ðừng cho trẻ thấy mặt vương phi này
    Người cho kẻ giống thần đây,
    Ði lên thiên giới thẳng ngay tức thì!

Vessantara nói:

  1. Nếu không muốn thấy vương phi,
    Trung thành tận tụy hiền thê quả là,
    Hãy đưa Jà-lí, Kan-hà,
    Ði thăm tổ phụ vương gia trên đường.
  2. Khi nhìn đôi trẻ dễ thương,
    Nói năng dịu ngọt đến gần vương gia,
    Ngài ban nhiều của lắm quà,
    Tràn đầy hỷ lạc, chan hòa hân hoan.

Jùjaka đáp:

469-470. Thần e làm hỏng hành trang,
Thần xin ngài, hỡi ông hoàng, nghe đây:
Phụ vương trừng trị thần ngay,
Hoặc sai giết, bản thân này còn chi,
Không tiền của, chẳng nô tỳ,
Thì bà nội tướng cười chê trăm đường.

Vessantara nói:

471-472. Khi nhìn đôi trẻ dễ thương,
Nói năng dịu ngọt, đến gần vương quân,
Vị vua cấp dưỡng toàn dân
Si-vi quốc vốn công bằng chánh chân,
Sẽ ban ông lắm bạc vàng,
Hân hoan thích thú ngập tràn niềm vui.

Jùjaka đáp:

  1. Không, thần không thể nghe lời
    Làm điều này nọ mà ngài đưa ra.
    Thần mong đem bọn trẻ thơ
    Ðể về hầu hạ vợ nhà đó thôi!

Ðôi trẻ nghe những lời thô lỗ ấy, liền lẩn trốn ra sau lều tranh, rồi chạy khỏi lều giấu mình gần một bụi cây. Ngay chỗ đó, chúng hình như cũng thấy chúng sẽ bị Jùjaka bắt. Chúng run sợ không thể đứng yên nơi nào cả, mà cứ chạy loanh quanh, cho đến khi chúng đến bờ hồ vuông góc kia, quấn chặt bộ áo vỏ cây quanh mình rồi chúng nhảy xuống nước, đứng giấu đầu dưới đám lá sen.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Jà-li chạy tới chạy lui
    Cùng Kan-hà, chúng đứng ngồi không an
    Trong niềm đau khổ muôn vàn,
    Khi nghe giọng nói người săn theo mình.

Và Jùjaka, khi chẳng thấy bóng dáng đôi trẻ đâu liền quở trách Bồ-tát:

– Này Vessantara, khi ngài vừa cho ta đôi trẻ bây giờ, ngay lúc ta bảo ngài là ta không muốnđến thành Jetuttara, mà chỉ muốn đôi trẻ về hầu hạ vợ ta, thì ngài ra hiệu cho chúng và khiến chúng chạy trốn mất, rồi ngồi đó làm ra vẻ chẳng biết gì! Ta chắc trên đời chẳng có ai dối trá như vậy!

Bậc Ðại Sĩ thấy lòng xúc động: “Chắc chắn chúng nó đã chạy trốn”. Ngài suy nghĩ và nói to:

– Ðừng lo gì việc ấy, này tôn ông, ta sẽ dò tìm chúng về.

Thế là ngài đứng dậy đi ra sau am lá, nhận thấy chúng có lẽ đã trốn vào rừng, ngài đi theo dấu chân chúng dẫn đến bờ hồ, rồi vừa thấy dấu chân ở nơi chúng bước xuống hồ, ngài nghĩ chắc hẳn chúng đã lặn xuống nước, vì thế ngài gọi to:

– Này Jàli con ơi!

Và ngài ngâm hai vần kệ này:

  1. Con yêu dấu, tới đây nhanh,
    Hãy làm đạo hạnh hoàn thành cho cha.
    Ðến đây thánh hóa tim ta,
    Hãy theo ý nguyện cha đến cùng.
  2. Con làm thuyền chở băng dòng
    Cho cha vượt biển sinh tồn bình yên,
    Vượt lên thế giới Nhân Thiên,
    Cha nguyền qua đến bến miền tự do.

– Này Jàli, hãy đến đây con ơi? Ngài kêu to.

Cậu bé nghe giọng cha nghĩ thầm: “Cứ để lão Bà-la-môn làm gì ta mặc ý, ta không muốn cãi cọ với cha ta”. Cậu bé ngẩng đầu lên, rẽ các lá sen và bước ra khỏi nước, nhào đến trên chân phải của bậc Ðại Sĩ ôm lấy mắt cá chân và khóc.

Sau đó bậc Ðại Sĩ nói:

– Này con, em gái con đâu?

Cậu đáp:

– Mọi vật đều biết tự bảo vệ mình lúc gặp hiểm nguy.

Bậc Ðại Sĩ nhận ra rằng chắc hẳn đôi trẻ đã giao kết với nhau rồi, nên ngài kêu to:

– Ðến đây Kanhà?

Và ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Con yêu dấu, tới đây nhanh,
    Hãy làm đạo hạnh hoàn thành cho cha.
    Ðến đây thánh hóa tim ta,
    Hãy theo ý nguyện cha đến cùng.
  2. Con làm thuyền chở băng dòng
    Cho cha vượt biển sinh tồn bình yên,
    Vượt lên thế giới Nhân Thiên,
    Cha nguyền qua đến bến miền tự do.

Cô bé cũng suy nghĩ: “Ta không muốn cãi cọ với cha ta”, và chỉ chốc lát, cô hiện ra ngã vào chân phải cha, nắm chặt mắt cá chân và khóc. Nước mắt hai trẻ thơ nhỏ xuống chân bậc Ðại Sĩ có màu như lá sen, và nước mắt ngài chảy xuống lưng chúng có màu như phiến vàng. Sau đó bậc Ðại Sĩ nâng hai con lên và an ủi chúng:

– Này con Jàli, con không biết cha đã hoan hỷ bố thí con sao? Hãy làm thế cho ước nguyện của cha được thành tựu.

Và ngay lúc ấy ngài định giá hai con như thể người ta định giá trâu bò.

Ngài bảo con trai:

– Này con Jàli, nếu con muốn được tự do, con phải trả cho đạo sĩ này một ngàn đồng vàng. Còn em gái con đẹp lắm, nếu có người nào thuộc dòng hạ đẳng đưa cho đạo sĩ này một số tiền nhiều độ như thế như thế để trả tự do cho em con, thì người ấy sẽ phá hủy quyền quý tộc của nó. Không ai trừ nhà vua mới có thể ban tặng vật theo số trăm! Vì vậy nếu em con muốn được tự do, phải trả cho đạo sĩ một trăm nô tài, một trăm nữ tỳ và voi, ngựa, bò đực, tiền vàng, mỗi thứ đều một trăm.

Ngài định giá hai con như vậy xong, rồi an ủi vỗ về chúng và đưa chúng trở lại am tranh. Sau đó ngài lấy nước trong bình ra, gọi đạo sĩ đến gần, vừa rót nước vừa cầu nguyện cho ngài đạt thành Chánh Giác:

– Còn đáng quý hơn con trai ta cả trăm, cả ngàn, cả trăm ngàn lần là quả vị Chánh Giác!

Ngài kêu lớn làm cho cõi đất vang dội, rồi ngài đem hai con làm tặng vật quý báu cho lão Bà-la-môn.

*

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo Sư ngâm kệ:

  1. Người bảo dưỡng dân, vị Ðại vương
    Si-vi quốc độ dẫn hai con
    Và đem tặng vật cao sang nhất
    Cho đạo sĩ kia, thật sẵn lòng.
  2. Thế rồi, đầy sợ hãi, kinh hoàng,
    Cõi đất lớn này đã chuyển rung
    Giờ phút này vua tay chắp lại
    Và ban tặng vật: cả hai con.
  3. Thế rồi đầy sợ hãi, kinh hoàng,
    Cõi đất lớn này đã chuyển rung
    Khi chúa Si-vi đem quý tử
    Sẵn lòng cho lão Bà-la-môn.

Khi bậc Ðại Sĩ đã bố thí xong, ngài đầy hân hoan, nghĩ rằng tặng vật ngài ban thật tuyệt hảo làm sao, trong khi ngài đứng nhìn hai con. Còn lão Jùjaka đi vào rừng, cắt một nhánh cây leo, lấy buộc tay bên phải cậu bé vào tay trái cô bé và vừa xua chúng đi vừa đánh chúng bằng đầu dây leo ấy.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Lão đạo sĩ kia độc ác thay
    Cắt ngay một nhánh dây leo dài,
    Buộc dây vào cánh tay đôi trẻ
    Và kéo chúng đi cách thế này.
  2. Rồi đạo sĩ kia, gậy dưới tay,
    Cầm dây leo ấy chặt trong tay,
    Ðánh bầy con trẻ và xua chúng
    Trước mắt nhìn theo của chính ngài.

Nơi nào lão đánh chúng, da đều bị đứt ra và chảy máu, chúng lảo đảo dựa lưng nhau mà đi, nhưng đến một chỗ gồ ghề, lão té nhào. Bàn tay yếu mềm của đôi trẻ tuột ra khỏi sợi dây nhẹ và chúng vừa khóc vừa chạy về phía bậc Đại Sĩ.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Ðôi trẻ như vầy được thoát thân
    Chạy bay khỏi lão Bà-la-môn,
    Bé trai nhìn mặt cha khi ấy
    Dòng lệ tuôn ra cặp mắt tràn.
  2. Như gặp gió lay, ngọn lá sung,
    Thân bé trai kia cứ chuyển rung,
    Tay cậu ôm chân cha thật chặt,
    Nói lời cùng với vị cha thân:
  3. – Sao cha muốn bỏ lũ con thơ
    Trong lúc mẹ đang phải vắng nhà?
    Ðừng bỏ, đợi khi bà trở lại,
    Khi bà trở lại, hãy chần chờ.

487-488. Sao cha muốn bỏ lũ con thơ
Trong lúc mẹ đang phải vắng nhà?
Hãy đợi đến khi bà trở lại,
Rồi cho con trẻ hợp lòng cha!
Rồi cho đạo sĩ đem đi bán
Hoặc để lão già giết trẻ thơ!

  1. Chân lão to phù, móng xác xơ,
    Thịt u xệ xuống tựa bao da,
    Môi dài phía dưới luôn run rẩy,
    Mũi gãy, đen sì thật khó ưa!
  2. Bụng như cái trống, chiếc lưng còng,
    Ðôi mắt nhìn sao lé đứng tròng,
    Ðầy vết nhăn nheo và lốm đốm,
    Râu màu máu đỏ, tóc vàng hung.
  3. Võ vàng, rệu rã, khoác da nai,
    Thô lỗ, bạo tàn, chẳng giống ai,
    Nửa ngợm nửa người, co quắp lại,
    Thật là khủng khiếp cái hình hài!
  4. Quỷ ăn thịt sống hoặc người trần?
    Cha cứ nhìn xem thật tĩnh tâm:
    Con quỷ này vào rừng vắng vẻ
    Ðể xin cha bố thí ban ân?

493-494. Có phải tim cha hóa đá chăng
Buộc thêm sợi thép chặt quanh vòng,
Không quan tâm lão già tham dục
Chẳng chút nào thương xót chạnh lòng
Trói chúng con và xua đuổi mãi
Như trâu bò phải chạy lông rông?

  1. Ít nhất, con mong cầu khẩn cha
    Cho em ở lại, bé Kan-hà
    Giống như nai nhỏ đang còn bú
    Kêu khóc vì đi lạc cả nhà.

Nghe những lời này, bậc Ðại Sĩ không đáp lại tiếng nào. Sau đó cậu bé lại khóc than vì cha mẹ mình:

  1. Con chẳng lo gì chết khổ thân,
    Ðó là số phận mọi thường nhân,
    Nhưng không thấy bóng hình từ mẫu
    Quả thật điều trên đáng khổ buồn!
  2. Con chẳng lo gì chết khổ thân,
    Ðó là số phận mọi thường nhân,
    Nhưng không nhìn thấy hình thân phụ,
    Quả thật điều trên đáng khổ buồn.

498-499. Mẹ cha than khóc sẽ dài lâu,
Chẳng biết bao giờ hết khổ đau,
Vào lúc nửa đêm, trời tảng sáng,
Như nguồn suối chảy, các dòng châu
Vì không thấy mặt Kan-hà nữa,
Con gái được yêu quý biết bao!

  1. Khóm hồng đào vẫn mọc la đà
    Lủng lẳng chung quanh mặt nước hồ,
    Ôi! Cả rừng cây đầy quả chín,
    Từ nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!
  2. Cây sung, cây mít với cây đa
    Tỏa rộng, mọi cây cối mọc ra,
    Ôi! Cả rừng cây đầy quả chín
    Từ nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!
  3. Ðứng kia như cả một vườn hoa,
    Dòng suối kìa trôi thật lặng lờ,
    Nơi chốn ngày xưa đùa giỡn ấy,
    Ngày nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!
  4. Trái núi ngày xưa ta vẫn ăn
    Hoa rừng thuở trước vẫn thường mang,
    Mọc trên đồi nọ đằng xa ấy,
    Giờ phút này ta phải bỏ ngang!
  5. Xinh xinh, nhỏ nhắn các đồ chơi,
    Ngày trước ta đùa giỡn chúng hoài,
    Bầy ngựa, trâu bò, voi đủ thứ,
    Ngày nay ta cũng phải xa rời !

Mặc dù cậu than khóc như vậy, lão Jùjaka vẫn đến xua cậu đi cùng em gái.

*

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo Sư ngâm kệ:

  1. Hai con trẻ nói với người cha
    Trong lúc bị đưa đẩy thật xa:
    – Cha hỡi! Mẹ hiền mong mạnh khỏe,
    Và mong hạnh phúc tháng ngày qua!
  2. Trâu bò, bầy ngựa, cả bầy voi
    Ngày trước chúng con vẫn lấy chơi,
    Trao chúng dùm cho hiền mẫu nhé,
    Sẽ làm sầu khổ mẹ dần nguôi.
  3. Trâu bò, bầy ngựa, cả bầy voi
    Ngày trước chúng con vẫn lấy chơi,
    Lúc mẹ ngắm nhìn vào bọn chúng
    Sẽ làm sầu khổ mẹ dần nguôi.

*

Bây giờ nỗi khổ đau thống thiết vì các con chợt nổi lên trong lòng bậc Ðại Sĩ khiến tim ngài nóng bừng: ngài run rẩy dữ dội như con voi bị sư tử có bờm chụp lấy, hoặc như mặt trăng bị nuốt trửng trong móng vuốt của thần Ràhu [La-hầu: vua của loài Asura (A-tu-la) thường nuốt mặt trăng, trời gây nên nhật thực, nguyệt thực]. Không còn đủ nghị lực chịu đựng nữa, ngài đi vào lều, nước mắt ràn rụa và ngài khóc lên thảm thiết.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Ông hoàng Sát-lỵ Ves-san-ta
    Bố thí như vầy lũ trẻ thơ,
    Vội bước đi vào lều cỏ lá,
    Ngồi kia than khóc lẫn buồn lo.

Sau đây là các vần kệ than khóc của bậc Ðại Sĩ:

  1. Vào lúc sáng mai hoặc xế chiều,
    Ðói ăn, lũ trẻ phải kêu rêu,
    Bị cơn đói khát luôn hành hạ,
    Ai sẽ cho con trẻ ít nhiều?
  2. Làm sao chân bé bỏng run run
    Cất bước đi theo mọi lối mòn
    Không có hài? Ai dắt díu chúng,
    Ai đưa lối chúng nhẹ nhàng chăng?
  3. Làm sao có thể lão La-môn
    Vô sỉ, lúc ta đứng ngóng trông,
    Lại đánh con ta nào có tội,
    Lão vô liêm sỉ thế là cùng!
  4. Không ai biết sỉ nhục như vầy
    Lại đối xử người khác thế này,
    Dẫu đó là con nô lệ nữa
    Mà ta xem thật thấp hèn thay.
  5. Ta không thể thấy lão đằng xa
    Nhưng lão đánh đau lũ trẻ nhà
    Như thể cá nằm trong chiếc bẫy,
    Ta đây bất lực đứng trơ ra!

Vì thương con, những tư tưởng này hiện ra trong trí bậc Ðại Sĩ, ngài không thể chịu được nỗi đau khổ khi nghĩ lão Bà-la-môn đánh đập tàn nhẫn con ngài như thế nào, nên ngài định đi tìm lão và giết lão, rồi đem các con về. Nhưng không, ngài lại nghĩ: “Làm thế là sai lầm. Bố thí rồi lại hối tiếc vì nỗi khổ của con trẻ quá lớn lao, thì đó không phải là cách của người chân chánh”.

Hai vần kệ sau đây chứa đựng những suy tư trên soi sáng vấn đề này:

  1. Bên trái buộc thanh kiếm cạnh sườn,
    Ngài nai nịt đủ với cây cung:
    “Ta đem con trẻ về nhà lại,
    Ðánh mất con thơ thật khổ buồn.
  2. Nhưng nếu con ta phải mạng vong
    Thật tàn nhẫn quá, nỗi đau lòng:
    Nào ai biết thói lề người thiện
    Và đến cầu xin nữa phải không?”

Trong lúc ấy lão Jùjaka đánh đập đôi trẻ kia khi lão dẫn chúng đi đường.

Cậu bé lại than khóc:

  1. Tục ngữ hình như thật đúng thay
    Người đời thường vẫn nói như vầy:
    Ai không có mẹ mình bên cạnh
    Cũng giống không cha ruột thế này.
  2. Ðời chẳng còn gì với chúng ta,
    Thà ta chết: chỉ phận gia nô,
    Con người tàn bạo đầy tham ác
    Xua đuổi chúng ta tựa lũ bò.
  3. Khóm hồng đào vẫn mọc la đà
    Lủng lẳng chung quanh mặt nước hồ,
    Ôi! Cả rừng cây đầy quả chín
    Từ nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!
  4. Cây sung, cây mít với cây đa
    Tỏa rộng, mọi cây cối mọc ra,
    Ôi! Cả rừng cây đầy quả chín
    Từ nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!
  5. Ðứng kia như cả một vườn hoa,
    Dòng suối kìa trôi thật lặng lờ,
    Nơi chốn ngày xưa đùa giỡn ấy,
    Ngày nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!
  6. Trái núi ngày xưa ta vẫn ăn,
    Hoa rừng thuở trước vẫn thường mang,
    Mọc trên đồi nọ đằng xa ấy,
    Giờ phút này ta phải bỏ ngang!
  7. Xinh xinh, nhỏ nhắn các đồ chơi,
    Ngày trước ta đùa giỡn chúng hoài,
    Bầy ngựa, trâu bò, voi đủ thứ,
    Ngày nay ta cũng phải xa rời!

*

Lần nữa, lão Bà-la-môn lại ngã vào một nơi gồ ghề, và sợi dây sút ra khỏi tay lão, hai đứa trẻ run rẩy như đôi chim bị thương chạy một mạch về phía cha.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Lúc ấy Kan-hà với Jà-li
    Ðược La-môn nọ dẫn đường đi,
    Thoát thân, chúng vội vùng lên chạy
    Mải miết chúng bay biến tức thì.

*

Nhưng lão Jùjaka vội đứng lên ngay và đuổi theo chúng, với dây và gậy trong tay, lão gầm thét như lửa phun vào ngày tận thế:

– Chúng bây có tài chạy khôn lanh thật đấy!

Rồi lão buộc tay chúng lại và đưa chúng đi đường như cũ.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Rồi lão đạo nhân nắm sợi dây,
    Và cầm cây gậy ở trong tay
    Vừa đem chúng trở về, vừa đánh,
    Trong lúc vua đành phải ngó ngây!

Trong lúc bị dẫn đi xa, Kanhàjinà quay lại và than khóc với cha.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Cô bé Kan-hà nói thế này:
    – Cha ơi, xin hãy ngắm nhìn đây:
    Con như nô lệ xuất thân ấy
    Ðạo sĩ đánh con thật mạnh tay!

526-527. Ðạo sĩ là người sống chánh chân,
Lão này không phải Bà-la-môn,
Quỷ ma đội lốt La-môn ấy
Lão dẫn đi ăn thịt chúng con,
Cha có thể ngồi yên ngắm nghía
Trẻ con bị bắt để ma ăn?

*

Trong khi con gái bé bỏng than khóc run rẩy bước đi, nỗi đau đớn xót xa bùng dậy trong lòng bậc Ðại Sĩ, tim ngài nóng bừng, mũi ngài không đủ sức để thở, vì thế từ miệng ngài thoát ra tiếng thở hổn hển và dòng lệ như những giọt máu tuôn ra từ mắt ngài. Rồi ngài suy nghĩ: “Tất cả nỗi đau đớn này đều do tình thân yêu chứ không vì cớ gì khác, ta phải xoa dịu tình cảm này và giữ bình thản”.

Như vậy là nhờ trí lực, ngài dứt được nỗi đau buồn sâu sắc này và ngồi yên như cũ.

Trước khi đi đến lối vào trong ngọn núi, cô bé lại tiếp tục than khóc:

  1. Ðau nhức đôi chân của trẻ thơ,
    Con đường thật khó bước đi qua,
    Ðạo nhân xua đuổi bầy con trẻ,
    Vầng nhật lăn dần ở phía xa.
  2. Qua các núi đồi, rừng thẳm xanh,
    Những nơi cư ngụ các thần linh,
    Chúng con trân trọng chào chư vị,
    Tất cả, chúng con thảy cúi mình.

530-531. Chào chư thần trú ngụ hồ này,
Cùng cỏ dây leo, rễ mọc dày,
Mong ước mẹ hiền con mạnh khỏe,
Nhưng La-môn nọ đuổi con ngay,
Nếu bà muốn chạy theo con trẻ.
Xin chớ chần chờ, phải chạy bay.

  1. Con đường dẫn đến chiếc am tranh,
    Con trẻ thường theo bước lộ trình,
    Nếu mẹ muốn theo đường lối ấy,
    Mẹ tìm con trẻ thật là nhanh.
  2. Mẹ hái trái cây, các củ rừng,
    Tóc thường được kết lại từng chùm,
    Khi nhìn thấy chiếc am tranh vắng
    Sẽ khiến mẹ đau đớn tột cùng.

534-535. Mẹ ta đi kiếm quả từ lâu,
Chắc mẹ đã chất đống thật cao,
Mẹ chẳng biết con người độc ác
Tham lam buộc chặt trẻ ra sao.
Vô cùng độc ác là người đó
Xua đuổi chúng ta tựa lũ trâu.

  1. Ôi, nếu mẹ ta đến xế tà,
    Nếu hai bên gặp gỡ tình cờ,
    Mẹ cho lão ấy ăn nhiều quả
    Trộn với mật ong thật đủ no,

537-538. Lão sẽ không xua đuổi bạo tàn,
Sau khi được một bữa ăn ngon,
Lão già xua trẻ thơ tàn nhẫn,
Chân của trẻ thơ bước vọng vang,
Vì ngóng mẹ hiền lâu quá đỗi,
Các con đã thảm thiết kêu than.

Ðến đây chấm dứt Chuyện Trẻ thơ (Kumàra pañham).

*

  1. MADDÌ TRỞ VỀ

Bấy giờ ngay lúc vua ban các con yêu quý cho lão Bà-la-môn, cõi đất chấn động vang rền dữ dội đến tận cõi trời Phạm thiên và thấu suốt tâm các vị thần cư ngụ ở Tuyết Sơn. Các vị này nghe tiếng đôi trẻ than khóc trong lúc lão kia dẫn chúng đi, liền suy nghĩ: “Nếu Maddì về kịp tới lều tranh lúc này mà không thấy các con đâu, nàng sẽ hỏi Vessantara về chuyện này và nàng sẽ nôn nóng biết bao khi nghe chúng đã bị đem bố thí. Nàng sẽ chạy đi tìm chúng và sẽ gặp nhiều gian truân vất vả”.

Vì thế các vị ấy căn dặn ba vị thần giả dạng sư tử, cọp và báo để cản đường nàng, không để nàng đi trở lại tìm con cho đến khi mặt trời lặn, như vậy nàng chỉ có thể đi về dưới ánh trăng, và giữ cho nàng bình an khỏi bị sư tử hay các dã thú khác tấn công.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Sư tử, Hổ, Beo, ba vị thần
    Giả làm sinh vật của rừng hoang,
    Vừa nghe lời trẻ thơ than khóc,
    Các vị liền cất tiếng nói năng:
  2. – Đừng cho trở lại vị công nương
    Chiều tối sau khi kiếm thức ăn,
    Sợ lũ thú hoang kia sát hại
    Ở trong lãnh địa của rừng hoang.

541-542. Ví thử loài beo, hoặc hổ, sư
Sát tàn bà mẹ thật hiền từ,
Thì đâu vương tử Jà-li ấy
Cùng với Kan-hà sẽ ở nhờ?
Vậy mẹ và hai con trẻ nọ
Các ngài phải bảo vệ từ giờ. 

Các vị ấy đồng ý, và vâng lệnh các thần linh hóa thành sư tử, hổ, báo nằm cạnh con đường mà nàng phải đi qua.

*

Bấy giờ Maddì tự nghĩ: “Hôm qua ta mơ thấy ác mộng. Ta phải thu lượm củ quả và về lều cho kịp giờ”. Nàng run rẩy đi tìm củ quả, làm cái cuốc rơi khỏi tay nàng, cái thúng từ trên vai rớt xuống, mắt bên phải của nàng giật mạnh: Các cây đầy quả dường như chẳng có quả nào, còn cây không quả thì lại giống như đầy quả, nàng không còn biết đầu đuôi ra sao nữa. Nàng nghĩ thầm: “Có ý nghĩa gì chăng việc lạ hôm nay?”.

Và nàng ngâm kệ:

  1. Cuốc ta rơi xuống đất rồi,
    Ta nghe mắt phải giật hoài giờ đây,
    Trái cây dường chẳng có này,
    Chung quanh vạn vật như quay như cuồng.
  2. Khi nàng trở lại chiều hôm
    Sau ngày làm việc vẹn tròn xong xuôi,
    Thú hoang vẫn cứ rình hoài
    Ðường về nhà lúc mặt trời lặn mau.
  3. Thảo am xa tận nơi đâu
    Mặt trời khuất bóng chìm sâu xuống dần,
    Và đây tất cả thức ăn
    Cả nhà phải đợi ta mang tới rồi.
  4. Nơi kia vương tử thường ngồi
    Một mình một bóng trong chòi lá tranh,
    Con thơ chàng phải dỗ dành,
    Ta chưa trở lại, con đành đói meo.
  5. Giờ đây là buổi ăn chiều,
    Ôi! Ta phải khổ bao nhiêu muộn rồi!
    Khát khao sữa, nước, con đòi,
    Các con ta phải đợi hoài mẫu thân.
  6. Trẻ thơ thường đến đón mừng,
    Ðứng như bê con ngóng trông mẹ bò,
    Như thiên nga đậu bên hồ,
    Ôi sao phải khổ thân ta thế này!
  7. Con đường độc nhất là đây,
    Chung quanh hang hố rẫy đầy hồ ao,
    Ta không tìm thấy đường nào,
    Bây giờ ta phải làm sao về nhà?
  8. Các ngài chúa tể rừng già,
    Ta xin các vị là vua thú rừng,
    Hãy làm huynh đệ chánh chân
    Ðể cho ta được an thân về nhà.
  9. Ta là chánh hậu vương gia,
    Vinh quang thái tử bị đưa đi đày,
    Ta thờ chồng của ta nay
    Như Si-tà trước thờ ngài Rà-ma.
  10. Buổi chiều khi trở về nhà,
    Các ngài lại thấy con ra đón chờ,
    Như Jà-li với Kan-hà,
    Xin lần nữa hãy cho ta, thưa ngài!
  11. Ðây dồi dào củ quả tươi,
    Có nhiều thực phẩm ta mời ngài ăn,
    Ta đem một nửa xin dâng,
    Ðể cho ta được an thân về nhà.
  12. Vua rừng này chính là cha,
    Vương phi là mẹ, nghe ta than cùng:
    Hãy làm huynh đệ chánh chân,
    Ðể cho ta được an thân đi về.

Khi các vị thần thấy đã đến giờ để cho nàng về, liền đứng lên và chạy đi xa.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Thú rừng kia đã lắng nghe
    Lời nàng than khóc não nề thảm thương,
    Âm thanh êm ái dịu dàng,
    Chúng liền chạy mất để nàng đi ngay.

Khi bầy dã thú đã đi rồi, nàng trở về lều lá. Bây giờ là đêm trăng tròn, khi nàng vừa đến cuối lối đi có mái che, nơi nàng thường gặp các con, nay không thấy chúng đâu, nàng kêu to:

  1. Trẻ thơ lấm bụi thường ngày
    Vẫn ra đứng đón ta đây gần nhà
    Như bê con đợi mẹ bò,
    Như chim non ở trên hồ thiên nga.

557- 558. Như nai bé vểnh tai ra,
Chúng thường đi đến đón ta trên đường,
Tràn đầy hạnh phúc vui mừng
Ðùa chơi chạy nhảy tưng bừng quanh ta.
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay ta chẳng thấy ra đón đường.

559-560. Như sư tử cái, sơn dương,
Rời bầy con nhỏ, chim muông rời lồng,
Ðể mà đi kiếm thức ăn,
Ta làm cho đỡ đói lòng con ta,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay ta chẳng thấy ra đón đường.

561-562. Gần nhà đây những dấu chân
Giống như loài rắn ẩn thân trên đồi,
Chúng làm những đống đất bồi
Vẫn còn nằm đó rã rời quanh ta,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay ta chẳng thấy ra đón mừng.

  1. Các con thường chạy tung tăng
    Phủ đầy bụi bặm đến gần mẹ đây,
    Lấm lem mặt mũi bùn lầy,
    Nhưng ta chẳng thấy giờ đây đứa nào.
  2. Trẻ thơ thường vẫn đón chào
    Mẹ mình, chúng chạy lao xao từ nhà,
    Khi ta về tự rừng già,
    Ta không thấy chúng đón ta giờ này.
  3. Chúng thường đùa giỡn nơi đây,
    Vil-va vàng vẫn rụng đầy quanh ta,
    Nhưng Jà-li với Kan-hà,
    Ta không thấy chúng đón ta giờ này.
  4. Vú ta căng sữa đã đầy,
    Tim ta như muốn vỡ ngay bây giờ,
    Nhưng Jà-li với Kan-hà,
    Hôm nay không thấy đón ta ở nhà.

567-568. Chúng thường bám chặt hông ta,
Mỗi con đeo một vú da tươi cười,
Chúng thường đi đón ta hoài,
Bụi dơ vào lúc nghỉ ngơi chiều tà,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay ta chẳng thấy ra đón đường.

  1. Trước đây là chốn thảo am
    Là nơi gặp gỡ mẹ con sum vầy,
    Nhưng giờ chẳng thấy con đây,
    Chốn này như thể cứ xoay vòng tròn.
  2. Các con chắc đã mạng vong,
    Chốn này sao quá lặng câm như vầy?
    Quạ kia cũng chẳng kêu bầy
    Chim kia im tiếng trên cây cả rồi!

Than khóc như vậy xong, nàng đến gần bậc Ðại Sĩ và đặt thúng trái cây xuống. Thấy ngài ngồi yên lặng và không có hai con bên cạnh, nàng nói:

  1. Sao chàng cứ lặng yên ngồi
    Thế mà ác mộng tái hồi trong tâm:
    Quạ, chim đều bặt thanh âm,
    Các con chắc đã vong thân mất rồi!
  2. Con đều bị bắt, chàng ôi,
    Bởi loài dã thú săn mồi nào chăng?
    Hay vào sâu chốn rừng hoang,
    Các con đã bị lạc đường nào hay?
  3. Trẻ bi bô vẫn ngủ say,
    Hay là chạy việc đâu đây trên đường?
    Hay là quanh quẩn lang thang
    Chơi đùa thỏa thích không màng gần xa?
  4. Thiếp không thấy bóng trẻ nhà,
    Tay chân mặt mũi cùng là tóc tai,
    Hay là chim chụp mất người?
    Kẻ nào mang chúng đi rồi phải chăng?

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ vẫn không đáp lại. Sau đó nàng hỏi:

– Này phu quân, sao chàng không nói gì với thiếp? Thiếp có lỗi gì chăng?

Và nàng ngâm kệ:

  1. Giống như tên bắn bị thương,
    Và còn đau xót muôn vàn hơn xa,
    Nhưng Jà-li với Kan-hà,
    Thiếp không thấy chúng ở nhà hôm nay.
  2. Ðây là thương tích thứ hai
    Mà chàng đâm thiếp xuyên ngay vào lòng:
    Thiếp không nhìn thấy các con
    Nhưng chàng lại chẳng nói năng một lời.
  3. Vậy thì vương tử, chàng ôi!
    Ðêm nay chàng chẳng đáp lời thiếp chăng?
    Thiếp xem đời thiếp đã xong,
    Rồi chàng sẽ thấy thiếp vong thân mà.

Bậc Ðại Sĩ nghĩ rằng ngài sẽ làm dịu nỗi đau đớn của mình vì các con bằng cách nói năng gay gắt, nên ngài ngâm vần kệ:

  1. Mad-dì, công chúa vương gia,
    Vinh danh nàng quả thật là lớn thay,
    Ði tìm thực phẩm sáng nay,
    Cớ sao trở lại giờ đây muộn màng?

Nàng đáp:

  1. Nghe chăng sư, hổ, hỡi chàng,
    Chúng vừa gầm thét vọng vang nãy giờ,
    Trong khi giải khát bên hồ,
    Chúng vừa đứng đó trên bờ, biết chăng?
  2. Thiếp đang rảo bước rừng hoang,
    Bỗng nhiên dấu hiệu rõ ràng hiện ra:
    Cuốc từ tay thiếp rơi xa,
    Thúng kia từ cánh tay đà rớt luôn.
  3. Trong lòng hoảng sợ, đau thương,
    Thiếp liền quỳ lạy tứ phương lần lần:
    Mong sao mọi sự bình an,
    Ðôi tay của thiếp thẳng dang nguyện cầu:
  4. Không loài sư tử, beo nào,
    Sói lang, linh cẩu, gấu đâu tìm mồi
    Cướp đi, xé xác con trai,
    Hay là con gái của tôi, bây giờ.
  5. Con beo và cả hổ, sư,
    Cả ba dã thú nằm chờ đằng xa,
    Cản đường của thiếp về nhà,
    Cho nên thiếp phải dần dà tới khuya.

Bậc Ðại Sĩ chỉ nói bấy nhiêu lời với nàng từ đó cho đến tảng sáng. Vì thế nàng Maddì lại than vãn thật lâu:

  1. Phu quân và các con thơ,
    Thiếp thường tận tụy chăm lo đêm ngày
    Như trò săn sóc ông thầy,
    Khi trò cố gắng không sai đạo trời.
  2. Tấm thân thiếp khoác da nai,
    Quả rừng đem lại từ đồi núi xanh,
    Suốt ngày dài với đêm thanh
    Chỉ mong chàng được lợi hành tiện nghi.
  3. Cho chàng và các ấu nhi
    Vil-va vàng, quả đúng thì ngọt ngon,
    Và nhiều trái chín rừng hoang
    Ðể chơi cùng với các con vui nhà.
  4. Củ sen và đám ngó tơ
    Có màu óng ánh vàng mơ nhẹ nhàng,
    Hãy chơi cùng các con chàng
    Và này vương tử, ăn phần chàng đi.
  5. Cho con gái súng trắng kia,
    Sen xanh để tặng Jà-li của chàng,
    Rồi xem chúng múa ca vang,
    Vòng hoa tô điểm, xin chàng gọi ngay!
  6. Ðại vương ơi, hỡi lắng tai,
    Âm thanh thích thú tuyệt vời biết bao,
    Kan-hà hát thật ngọt ngào,
    Và con đang bước chân vào lều ta.
  7. Từ khi bị đuổi đày xa,
    Buồn vui chàng thiếp chung hòa với nhau.
    Ôi, chàng hãy trả lời mau,
    Kan-hà, Jà-li, thấy đâu hỡi chàng?

591-592. Hẳn bao nhiêu vị đạo nhân
Thiếp đà xúc phạm lỗi lầm nặng sao,
Các ngài đức hạnh thanh cao
Trí đầy kiến thức nhiệm mầu sâu xa,
Nên Jà-li với Kan-hà
Thiếp không còn thấy ở nhà hôm nay!

Nghe nàng than thở như vậy, bậc Ðại Sĩ vẫn không đáp một lời. Vì ngài không nói gì, nàng run rẩy đi tìm các con dưới ánh trăng, ở những nơi chúng thường chơi đùa, dưới các cây hồng đào và cả những nơi chúng không đến, nàng vừa tìm chúng vừa khóc than:

  1. Khóm cây đào đỏ thắm này
    La đà vẫn mọc bủa vây quanh hồ,
    Muôn loài cây quả rừng già,
    Nhưng không còn thấy con ta bây giờ.
  2. Cây sung, cây mít, đa to,
    Mọi loài cây khác chen đua mọc dần,
    Ồ, bao cây quả trong rừng,
    Nhưng bầy con trẻ lại không thấy giờ.
  3. Ðứng kia như một vườn hoa,
    Và kìa suối mát trôi qua lặng lờ,
    Nơi xưa chúng vẫn chơi đùa,
    Nhưng nay không có trẻ thơ nữa rồi.
  4. Trái cây xưa chúng ăn hoài,
    Bông hoa chúng vẫn thường cài tóc tai,
    Mọc đằng xa ở trên đồi,
    Con thơ vắng bóng ở nơi đó kìa.
  5. Các đồ chơi bé tí ti,
    Chúng thường đùa giỡn là kia cả rồi:
    Bầy bò, bầy ngựa, bầy voi,
    Con thơ không thấy ở nơi chốn nào.
  6. Ðây nhiều thỏ đế, cú mèo,
    Nai đen cùng với hươu sao cả bầy,
    Các con đùa giỡn thường ngày,
    Nhưng không còn thấy chúng đây nữa rồi.
  7. Bầy công xòe cánh đẹp tươi,
    Kìa bầy cò diệc, ngỗng trời thiên nga,
    Các con thường vẫn chơi đùa,
    Nhưng không thấy bóng trẻ thơ đây mà!

Không nhìn thấy các con thân yêu trong lều tranh, nàng đi vào khóm cây hoa vừa tìm chúng quanh quẩn, vừa ngâm kệ:

  1. Này đây các khóm rừng già
    Với muôn hoa lá nở ra theo mùa,
    Nơi con thơ vẫn chơi đùa,
    Nhưng không còn chúng bây giờ ở đây.

601-602. Các hồ khả ái lắng tai
Khi đàn ngỗng đỏ gọi dài âm thanh.
Biết bao sen trắng sen xanh,
Và nhiều cây mọc như cành san hô,
Nơi con thơ vẫn chơi đùa,
Nhưng không còn chúng bây giờ ở đây.

Nhưng nàng cũng không thấy các con đâu cả. Rồi trở lại bên bậc Ðại Sĩ, nàng thấy ngài ngồi cúi mặt xuống, nàng bảo:

  1. Củi chàng không bổ ban ngày,
    Lửa chàng không đốt tối nay trong nhà,
    Nước không xách đến như xưa,
    Sao chàng ngồi đó thẫn thờ thong dong?
  2. Khi công việc mới vừa xong,
    Thiếp liền vội vã ước mong về nhà,
    Nhưng Jà-li với Kan-hà
    Thiếp không thấy chúng nô đùa hôm nay.

Nhưng bậc Ðại Sĩ vẫn ngồi im lặng, và nàng đau khổ vì sự im lặng ấy, nên run rẩy như con chim bị thương, nàng lại đi quanh những nơi nàng đã tìm kiếm trước kia, rồi trở về nói:

  1. Hỡi phu quân, thiếp chẳng hay
    Vì ai tạo cái chết này cho con,
    Chính bầy quạ chẳng kêu vang,
    Chính bầy chim cũng lặng câm bây giờ.

Bậc Ðại Sĩ vẫn không nới lời nào. Còn nàng nóng lòng đi tìm con, lần thứ ba trở lại tìm con ở những nơi nàng đã tìm, nàng chạy nhanh như gió. Trong một đêm nàng đã đi qua một khoảng đường tìm con dài mươi lăm dặm. Rồi bóng đêm nhường chỗ cho ánh bình minh, vừa lúc rạngđông, nàng lại đến trước bậc Ðại Sĩ và đứng than khóc.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này:

  1. Khi nàng vội vã băng qua
    Ði tìm khắp chốn rừng già, núi non,
    Trở về bên cạnh phu quân,
    Nàng liền đứng lại khóc than từng hồi:
  2. – Hang sâu, rừng thẳm, lưng đồi,
    Thiếp không thể thấy bóng người giết con,
    Chính bầy quạ chẳng kêu vang,
    Chính bầy chim cũng lặng câm cả rồi.
  3. Mad-dì, vương hậu cao ngôi,
    Công nương quý tộc buông lời khóc than,
    Với đôi tay ấy vừa dang,
    Nàng liền ngã xuống đất bằng mê man.

*

– Ôi nàng đã chết!

Bậc Ðại Sĩ run rẩy nghĩ thầm: “Ôi, đây không phải là nơi để cho Maddì chết! Nếu nàng chết ở thành Jetuttara, thì tang lễ sẽ linh đình biết bao, vì cả hai vương quốc đều chấn động. Nhưng ở đây ta chỉ một mình trong rừng, ta biết làm gì bây giờ?”. Nỗi lo âu tràn ngập lòng ngài, rồi cố trấn tĩnh đôi chút, ngài quyết định làm hết sức mình.

Ngài đứng lên đặt tay trên ngực nàng, và thấy nó vẫn còn ấm, ngài liền lấy nước trong bình đến, và mặc dù bảy tháng qua ngài không đụng chạm thân nàng, nay gặp lúc nguy khốn, ngài không thể giữ giới khổ hạnh, mà nước mắt tuôn tràn, ngài nâng đầu nàng lên đặt trên lòng mình, rảy nước và xoa bóp mặt nàng cùng ngực nàng trong lúc ngài ngồi đó.

Một lát sau, Maddì tỉnh dậy, bối rối vừa đứng lên, vừa kính lễ bậc Ðại Sĩ và hỏi:

– Tâu Chúa thượng Vessantara, các con đi đâu rồi?

Ngài đáp:

– Ta đã đem chúng cho một Bà-la-môn nọ.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Ngài liền rảy nước cho nàng
    Trong khi nàng ngã mê man lịm dần;
    Vừa khi nàng mới tỉnh hồn,
    Ngài liền cất tiếng khuyên lơn vỗ về.

Nàng hỏi ngài:

– Này phu quân, nếu chàng đem hai con cho một Bà-la-môn, tại sao chàng để thiếp than khóc đi tìm quanh quẩn suốt đêm mà không nói một lời?

Bậc Ðại Sĩ đáp lại:

610-611. Ta không thể nói tức thì
Vì ta không muốn hiền phi đau buồn.
Một người già yếu, đạo nhân,
Ðến đây xin được cầu ân đó mà,
Ta đem bố thí con thơ,
Mad-dì đừng sợ, thở vô ra liền!

  1. Xin nàng đừng quá ưu phiền,
    Xin nàng ngước mắt nhìn lên ta này.
    Ta đem con trẻ về ngay,
    Rồi ta hạnh phúc sum vầy biết bao.
  2. Thiện nhân được hỏi liền giao
    Các con, thóc lúa, bò trâu, bạc vàng;
    Mad-dì, xin hãy hân hoan
    Không gì hơn lễ cúng dường các con.

Mad-dì đáp lại:

  1. Thiếp nay quả thật hân hoan
    Không gì hơn lễ cúng dường các con,
    Nhờ đây tâm trí bình an,
    Xin chàng cứ mãi phát ban cúng dường.
  2. Vì chàng là vị Ðại vương
    Của Si-vi, cả giang sơn oai hùng,
    Giữa đời ích kỷ nhân quần,
    Riêng chàng bố thí phát phân rộng lòng.

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ đáp:

– Tại sao nàng nói thế, Maddì? Nếu ta đã không thể giữ tâm thanh thản khi bố thí các con, thì những việc thần kỳ hy hữu kia đã không xảy ra.

Rồi ngài kể cho nàng nghe tất cả các cơn địa chấn cùng các sự kiện khác. Thế là Maddì hân hoan diễn tả các việc thần kỳ ấy như sau:

  1. Ðất bằng đã phải chuyển rung
    Âm thanh tràn ngập mọi tầng trời cao.
    Chớp loè sáng chói biết bao,
    Sấm rền vang vọng đồi cao bấy giờ.
  2. Nà-ra-da với Pab-ba,
    Cả hai hiền sĩ cùng hòa niềm vui,
    Mọi Thiên thần cõi Ba mươi,
    Ind-ra Thiên chủ cùng ngài Phạm thiên,
  3. Vua So-ma ở cõi tiên
    Cùng ngài Diêm chúa ở miền Dạ-ma,
    Thiên vương Ves-sa-va-na
    Khi nghe tiếng vọng, đồng hòa niềm vui.
  4. Mad-dì, công chúa cao ngôi
    Vương phi quí tộc dần vơi nỗi buồn,
    Cùng ngài tràn ngập hân hoan:
    Không gì hơn lễ cúng dường các con.

Bậc Ðại Sĩ mô tả việc bố thí của ngài như vậy và Maddì cũng lập lại chuyện ấy, công nhận ngài đã ban một thí vật cao quí. Nàng ngồi đó hoan hỷ về việc bố thí kia.

*

Vào dịp này, bậc Đạo Sư ngâm lại vần kệ:

  1. Mad-dì, công chúa cao ngôi
    Vương phi quí tộc dần vơi nỗi buồn
    Cùng ngài tràn ngập hân hoan:
    Không gì hơn lễ cúng dường các con.

Đến đây chấm dứt Chuyện Maddì (Maddìpabbam).

*

  1. SAKKA THIÊN CHỦ XUẤT HIỆN

Trong lúc hai vị đàm đạo cùng nhau như thế, Sakka Thiên chủ suy nghĩ: “Hôm qua vua Vessantara đã cho Jùjaka cả hai con mình, nên quả đất đã rung động. Bây giờ giả sử một kẻ xấu xa nào khác xuất hiện và xin ngài chính nàng Maddì, bậc đức hạnh vô song ấy, rồi đem nàng đi, để vua ở lại một mình, ngài sẽ bơ vơ khổ sở. Thôi được, thế thì ta sẽ giả dạng một Bà-la-môn đến xin Maddì. Như thế ta sẽ có thể giúp ngài đạt công hạnh tối thượng và do vậy nàng không thể bị đem cho bất cứ ai khác, rồi ta sẽ trả nàng về.”

Vậy là vào lúc rạng đông, Thiên chủ Sakka đến gặp ngài.

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau.

  1. Vậy khi đêm đã dần tàn,
    Và trời vừa mới tinh sương sáng dần,
    Sak-ka giả dạng đạo nhân
    Lên đường thật sớm đến thăm thảo đường:
  2. – Ta tin rằng, hỡi Thánh nhân,
    Ngài thường thịnh vượng, an khương mọi bề
    Với bao thóc lúa thu về,
    Và bao củ, quả tràn trề ẩn am.
  3. Ngài nay có bị phiền lòng
    Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
    Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
    Chẳng hay ngài tránh mọi loài được chăng?

Bậc Ðại Sĩ đáp:

  1. Cám ơn ông, hỡi đạo nhân,
    Ta nay thịnh vượng an khương mọi bề
    Với bao thóc lúa thu về,
    Và bao củ, quả tràn trề ẩn am.
  2. Ta không phải chịu phiền lòng
    Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
    Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
    Ta đây tránh được mọi loài, bình an.
  3. Sống đây đã bảy tháng trường,
    Và ông là vị đạo nhân thứ nhì
    Cầm cây gậy ở tay kia,
    Ðể đi vào chốn rừng già thảo am.
  4. Kính chào ông, hỡi đạo nhân,
    Mừng duyên hạnh ngộ đưa đường đến đây.
    Hãy vào, chúc phúc cầu may,
    Bước vào và rửa chân tay, ta mời.
  5. Pi-yal, tin-dook lá tươi,
    Kà-su-mà quả ngọt bùi thơm ngon,
    Trái cây như thể mật ong
    Chọn ngay hạng nhất, La-môn, ăn nào.
  6. Nước này lấy tự hang sâu
    Ẩn mình dưới ngọn đồi cao trong rừng.
    Xin mời, hỡi bậc Thánh nhân,
    Uống vào cho thỏa tấm lòng ước ao.

Trong khi hai vị đàm đạo vui vẻ như vậy, ngài hỏi lý do vị kia đến đây:

  1. Bây giờ vì lý do nào
    Hoặc duyên cớ dẫn ông vào đường đây,
    Vì sao ông kiếm rừng cây,
    Ta xin ông giải điều này cho hay.

Thiên chủ đáp:

– Tâu Ðại vương, thần già rồi, nhưng thần đến đây xin ngài ban cho thần Vương hậu Maddì. Mong ngài ban nàng cho thần.

Và Thiên chủ ngâm vần kệ này:

  1. Giống như hồng thủy ngập đầy
    Và không hề có một ngày nào vơi,
    Ðại vương thần đến van nài
    Xin ban Vương hậu của ngài, thần mong.

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ không đáp: “Hôm qua ta đã cho một Bà-la-môn cả hai con ta rồi. Nay làm sao ta cho ông nàng Maddì để rồi phải ở lại một mình trong rừng hoang?” Không, ngài như thể đang cầm cái túi đựng một ngàn đồng tiền trong tay: bình thản, không tham luyến, không chút vướng mắc trong tâm tư, ngài làm cho núi rừng vang dội với lời kệ này:

  1. Nhọc lòng, ta chẳng giấu ông,
    Tuy nhiên trong nỗi khổ lòng riêng tư,
    Phát ban, ta chẳng chần chừ
    Vì lòng hoan hỷ đến từ phát ban.

Nói lời này xong, ngài nhanh chóng lấy nước trong bình ra đổ lên tay rồi trao Maddì cho vị Bà-la-môn. Ngay lúc ấy, mọi việc thần kỳ đã xảy ra trước kia lại được nghe thấy lần nữa.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Thế rồi bình nước vừa nâng,
    Si-vi quốc độ Ðại vương thuở nào
    Ðem Mad-dì ấy liền trao
    Bà-la-môn nọ thẳng vào tay kia.
  2. Kinh hoàng xảy đến tức thì,
    Ðất dày chuyển động ngay khi ấy liền,
    Ngài đem trao tặng vợ hiền
    Mad-dì cho khách viếng miền thảo am.
  3. Mad-dì chẳng chút mày nhăn,
    Nàng không khó chịu, khóc than bây giờ.
    Lặng yên nhìn, dạ suy tư:
    “Hẳn chàng biết rõ lý do đâu là”.
  4. Cả Jà-li lẫn Kan-hà
    Ta đem cho một lão Bà-la-môn,
    Và Mad-dì, vợ keo sơn,
    Chỉ vì Tuệ Giác cao hơn cả mà.
  5. Vợ hiền ta chẳng xấu xa,
    Và hai đứa trẻ con nhà cũng không.
    Nhưng vì Tuệ Giác viên thông
    Với tâm ta, thật bội phần thiết thân.

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ nhìn lên mặt Mad-dì để xem nàng có thái độ thế nào, thì nàng liền hỏi ngài tại sao nhìn nàng như thế và thét to với giọng sư tử hống các lời kệ sau:

  1. Vợ chàng từ thuở thanh xuân,
    Chính chàng là chủ nhân ông suốt đời,
    Tùy chàng muốn bán cho ai,
    Biếu không, hoặc giết thân tôi tớ nhà.

Lúc ấy Thiên chủ Sakka nhận thấy quyết định tối cao của nàng, liền ca ngợi nàng hết lời.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Ðáp lời, khi ấy Sak-ka
    Thấy bao nguyện ước nàng vừa hướng tâm:
    – Mọi điều chướng ngại dẹp xong
    Ở trên trời lẫn ở trong nhân quần.
  2. Ðất bằng đã phải chuyển rung,
    Âm thanh tràn ngập mọi tầng trời cao,
    Chớp loè sáng chói biết bao,
    Sấm rền vang vọng đồi cao bấy giờ.
  3. Na-ra-da với Pab-ba
    Cả hai hiền sĩ cùng hòa niềm vui,
    Mọi Thiên thần cõi Ba mươi
    Hoan nghênh thành tích tuyệt vời khó khăn.
  4. Khó làm như các thiện nhân,
    Phát ban như bậc chánh chân vẫn làm.
    Ác nhân khó thể theo gương
    Cuộc đời mà bậc thiện lương sống hoài.
  5. Vậy khi thiện, ác lìa đời,
    Giã từ cuộc sống ở nơi phàm trần,
    Ác nhân vào ngục hạ tầng,
    Thiện nhân đến cõi Thiên thần tái sinh.
  6. Cỗ Xe này thật Cao minh:
    Cả thê nhi được hi sinh cúng dường,
    Nên không còn đọa bước đường,
    Việc này mang phước quả trong cõi trời.

Khi Thiên chủ Sakka bày tỏ sự tán đồng như vậy xong, ngài nghĩ: “Bây giờ ta không được trì hỗn nữa, mà phải trao trả lại nàng và ra đi”. Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Nay ta trả lại cho ngài
    Mad-dì hiền phụ tuyệt vời đẹp xinh.
    Xứng đôi vừa lứa duyên tình,
    Sống đời hòa hợp an bình tối cao.
  2. Như dây ràng buộc nhiệm mầu,
    Như là cá nước gặp nhau lạ gì,
    Cũng vầy ngài với Mad-dì
    Ðồng tâm hòa hợp phu thê sắt cầm.

647-648. Cả hai đồng đẳng giống dòng,
Ðôi bên cha mẹ cũng đồng gia môn,
Nơi đây trong chốn thảo am
Các ngài chung sống rừng hoang một mình,
Ðể rồi tiếp tục làm lành
Ở ngay trong chốn rừng xanh là nhà.

Nói vậy xong, ngài tiếp tục ban một điều ước:

  1. Ta là Thiên chủ Sak-ka
    Ðến đây thăm viếng ngôi nhà Hiền nhân,
    Chọn ngay điều ước, Minh quân,
    Ta ban tám ước nguyện phần Hiền vương.

Ngài vừa nói, vừa bay lên không, sáng ngời như ánh chiêu dương. Lúc ấy, Bồ-tát chọn các điều ước qua các vần kệ:

650-651. Sak-ka, Chúa tể Thiên nhân
Khắp trần gian đã ban phần thưởng ta,
Mong vương phụ chóng giải hòa,
Mong ngài hãy sớm gọi ta về nhà,
Cho ta bảo tọa vương gia,
Ðầu tiên nguyện ước mong ta đạt thành.

  1. Ta không kết án tử hình,
    Dù ai có phạm tội tình ra sao,
    Mong ta cứu tử người nào
    Bị tù đày, ấy nguyện cầu thứ hai.
  2. Mong toàn dân chúng mọi người
    Khi cần giúp đỡ đến nơi ta liền,
    Trẻ già, lớn bé, trung niên,
    Và đây là chính ước nguyền thứ ba.
  3. Ta không tìm vợ người ta,
    Chỉ vừa lòng với vợ nhà thiết thân,
    Không chìu theo ý nữ nhân,
    Thứ tư ước nguyện ta mong mỏi hoài.
  4. Sak-ka, Thiên chủ, xin ngài
    Ban cho quý tử sống đời dài lâu,
    Chánh chân chinh phục toàn cầu,
    Thứ năm nguyện ước ân sâu xin ngài.
  5. Mỗi khi vừa hết đêm dài,
    Vầng đông vừa hé, ban mai tiếp liền,
    Mong sao thực phẩm thần tiên
    Cũng vừa xuất hiện, ước nguyền sáu đây.
  6. Mong sao thí vật đủ đầy
    Ta luôn ban phát rộng tay không ngừng
    Với lòng sung sướng hân hoan
    Ðây nguyền thứ bảy ta mong ước hoài.
  7. Mong ta thẳng tiến lên trời,
    Tự do, giải thoát khỏi nơi nhân quần,
    Không còn sinh cõi phàm trần,
    Ðây nguyền thứ tám ta mong cầu ngài.
  8. Sak-ka, Thiên chủ cõi trời,
    Ðã nghe ngài nói, đáp lời như sau:
    – Phụ vương ngài chẳng bao lâu
    Sẽ mong gặp mặt con, dâu tái hồi.

Vừa nói lời này xong, Sak-ka trở về cõi của ngài.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này qua vần kệ:

  1. Sak-ka, Thiên chủ hùng oai,
    Su-ja phu tướng [*], nói lời này xong,
    Sau khi ban đủ đặc ân,
    Trở về thẳng cõi Thiên thần trú an.

Ðến đây chấm dứt Chuyện Sakka Thiên chủ (Sakka-pabbam).

[*] Sujampati: phu quân của nàng Suja, một danh hiệu của Thiên chủ Sakka.

*

  1. ÐOẠN KẾT: Đại vương đi đón Thái tử

Bấy giờ Bồ-tát và Maddì sống hạnh phúc cùng nhau trong thảo am mà Thiên chủ Sakka đã ban hai vị. Còn Jùjaka cùng đôi trẻ tiếp tục cuộc hành trình dài sáu mươi dặm.

Các thần linh vẫn chăm sóc đôi trẻ. Mỗi khi mặt trời lặn, Jùjaka thường lấy cây liễu gai buộc chúng lại và để chúng nằm trên mặt đất, còn chính lão lại sợ thú dữ nên trèo lên cây ngồi giữa các cành chĩa ba.

Rồi một vị thần giả dạng Vessantara và một nữ thần giả dạng Maddì đến với đôi trẻ, mở dây cho chúng được tự do, xoa bóp tay chân, tắm rửa, mặc quần áo cho chúng. Rồi họ cho chúng ăn và ngủ trên chiếc giường thần tiên. Ðến lúc rạng đông, họ lại đặt chúng nằm trong dây trói và biến mất. Như vậy do sự giúp đỡ của thần linh nên đôi trẻ đi đường không bị thương tích gì.

Jùjaka cũng được các vị thần dẫn đường, vì thế lão dự định đi đến vương quốc Kalinga, nhưng trong vòng mười lăm ngày, lão đến kinh thành Jetuttara.

Cùng đêm ấy, vua Sañjaya của nước Si-vi nằm mộng một giấc mơ như vầy:

Trong khi ngài đang dự một buổi triều kiến quan trọng có người đến dâng ngài hai đóa hoa. Ngài đeo chúng vào mỗi bên tai và phấn hoa rơi xuống ngực ngài.

Sáng hôm sau ngài thức dậy và hỏi các Bà-la-môn ý nghĩa giấc mơ ấy. Các vị đáp:

– Tâu Đại vương, các thân vương của ngài xa cách đã lâu nay sắp trở về. Thế là sáng hôm sau, khi đã thọ hưởng đủ thứ cao lương mỹ vị, ngài ngự ra thiết triều, các vị thần nọ đưa lão Bà-la-môn này đến đặt lão trước sân chầu của cung điện. Trong chốc lát, vua nhìn thấy đôi trẻ và hỏi:

  1. Mặt ai đây chiếu ánh vàng
    Khác nào lửa đốt khô rang nóng bừng,
    Giống như mặt chiếc vòng vàng
    Nung trong ngọn đuốc héo tàn cả thôi?
  2. Cả hai đều giống dáng người
    Ðây là đôi trẻ nhà ai thế này?
    Kìa Jà-li giống cậu trai,
    Kan-hà, cô gái chẳng sai chút gì.
  3. Giống như sư tử thiếu nhi
    Mới từ hang núi bước đi xuống đường.
    Giống nhau như thể đúc khuôn,
    Khác nào các bức tượng vàng đứng kia.

Sau khi khen ngợi chúng như thế qua ba vần kệ, vua phái một vị triều thần đến gặp chúng và bảo đem chúng vào cho ngài. Vị ấy nhanh chóng mang chúng vào và vua hỏi lão Bà-la-môn:

  1. Hiền nhân Bhà-rad-và-ja,
    Từ đâu đem lũ trẻ thơ đến vầy,
    Hãy mau nói rõ ta hay.

Jùjaka đáp:

  1. Muôn tâu, nửa tháng trước đây có người
    Ðã đem lũ trẻ cho tôi,
    Hân hoan về việc làm người ban ân.

Vua hỏi:

  1. Nhờ tài dịu ngọt nói năng,
    Hay lời chân thật khiến ông được lòng
    Từ đâu có các nhi đồng,
    Thí tài đệ nhất tôn ông nhận vầy?

Jùjaka đáp:

  1. Ves-san-ta Ðại vương này
    Sống trong rừng thẳm lâu ngày ẩn thân,
    Cho làm nô lệ, gia nhân,
    Ngài như đất mẹ rộng lòng phát ban.
  2. Ves-san-ta, chính Ðại vương
    Cho tôi con ruột làm thân tôi đòi.
    Mọi người cầu phúc đến ngài
    Như muôn sông đổ biển khơi ngàn trùng.

Nghe vậy, các triều thần chê bai Vessantara:

  1. Khi còn ở tại vương cung
    Làm điều sai trái minh quân chẳng hề.
    Sao còn cho cả thiếu nhi,
    Khi ngài đã bị đuổi đi vào rừng?
  2. Hãy nghe ta, cả quần thần,
    Thảy đang tề tựu ở trong cung đình
    Sao vua ban chính con mình
    Ðể hầu hạ một gia đình khác kia?
  3. Cứ ban nô lệ, nữ tỳ,
    Ngựa, la, và cả cỗ xe để ngồi,
    Hoặc là cho cả bầy voi,
    Nhưng sao cho chính cả hai con ngài?

Nhưng cậu bé nghe vậy, không chịu nhận lỗi của cha mình, mà vung tay lên như thể nâng lấy núi Sineru (Tu-di) bị cuồng phong đánh ngã, và cậu ngâm vần kệ này:

  1. Làm sao có thể cho ai
    Khi không có chút gia tài đất đai,
    Ngựa, la và cả bầy voi
    Cỗ xe, tỳ nữ, tôi đòi cũng không?

Vua đáp:

  1. Ông khen cha cháu ban ân,
    Không lời chê trách lỗi lầm gì đâu,
    Nhưng lòng vương phụ thế nào,
    Khi cha trao các con vào tay kia?

Cậu bé đáp:

  1. Lòng ngài nặng trĩu sầu bi,
    Lòng nung nấu chẳng khác chi lửa nồng.
    Mắt ngầu đỏ tựa cá hồng,
    Tuôn rơi lệ thảm đôi dòng xuống chân.

Lúc ấy, Kanhàjinà lại nói:

  1. Ông ơi, xem lão La-môn
    Cứ ưa đánh đập lưng con mãi hoài
    Với dây leo nọ, liễu gai,
    Giống như nô lệ tôi đòi xuất thân.

676-677. Lão này không phải đạo nhân,
Vì đạo nhân phải chánh chân mới là.
Lão này đội lốt quỷ ma
Dẫn đi ăn thịt cả nhà trẻ con.
Sao đành nhìn cháu đích tôn
Bị lôi đi thật ác ôn bạo tàn?

Vua thấy lão Bà-la-môn không để cho chúng đi, liền ngâm kệ:

  1. Các con: vương tử, công nương,
    Mẹ cha là chính quốc vương nước này,
    Xưa thường đeo sát sườn đây,
    Sao bây giờ đứng như vầy xa xa?

Cậu trai đáp:

  1. Chúng con dòng dõi vương gia,
    Quốc vương là chính mẹ cha song toàn,
    Nhưng nay nô lệ đạo nhân,
    Cho nên con đứng trông chừng xa xa.

Vua đáp:

  1. Cháu yêu, đừng nói vậy mà,
    Nóng như thiêu đốt, lòng ta khô cằn,
    Thân ta như lửa cháy bừng,
    Ðứng ngồi quá thật bất an bây giờ.
  2. Cháu yêu, đứng nói vậy mà,
    Cháu làm ông thật xót xa buồn rầu,
    Ông mua cháu với giá nào
    Thoát thân nô lệ, hãy mau cháu à.
  3. Nói cho ông rõ thật thà,
    Rồi ông sẽ trả cho Bà-la-môn
    Giá nào cha đã định phần,
    Khi cha đem cháu ban ân cúng dường?

Cậu bé đáp:

  1. Một ngàn đồng giá của con,
    Phần em con muốn thoát thân nô tỳ,
    Trăm voi và mọi thứ kia,
    Một trăm mỗi thứ cha đà định luôn.

Vua ra lệnh trả giá chuộc hai cháu:

684-685. Cận thần, mau trả đạo nhân
Ðúng theo giá được định phần cháu ta.
Một trăm nam nữ gia nô,
Một trăm voi với đàn bò trăm con,
Một trăm con ngựa trong chuồng,
Một ngàn đồng chẵn tiền vàng đúng cân.

686-687. Cận thần liền trả đạo nhân
Ngay khi giá được định phần rõ ra:
Một trăm nam nữ gia nô,
Một trăm voi với đàn bò trăm con,
Một trăm con ngựa trong chuồng,
Một ngàn đồng chẵn tiền vàng đúng cân.

Sau đó vua ban lão một cung thất bảy tầng, lão Bà-la-môn được đại vinh hiển. Lão đem cất mọi thứ tài sản, rồi đi vào cung, đặt mình xuống tọa sàng sang trọng và hưởng cao lương mỹ vị.

Khi đôi trẻ được đem đi tắm rửa, ăn uống và mặc áo quần xong, tổ phụ liền ôm vào lòng một cháu, và tổ mẫu ôm một cháu.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này:

  1. Chuộc xong, trẻ được tắm ngay,
    Uống ăn, trang điểm và thay áo quần.
    Ðược ông bà bế vào lòng,
    Quốc vương cất tiếng hỏi han ân cần:

689.- Ta tin rằng phụ mẫu thân
Thảy đều thịnh vượng, an khương mọi bề
Với bao thóc lúa thu về,
Và bao củ quả tràn trề thảo am.

  1. Song thân con có phiền lòng
    Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
    Hay bầy dã thú tìm mồi,
    Song thân có tránh mọi loài được chăng?

Cậu bé đáp:

  1. Cám ơn ông, tổ phụ vương,
    Song thân thịnh vượng, an khương mọi bề,
    Với bao thóc lúa thu về
    Và bao củ quả tràn trề thảo am.
  2. Song thân không bị phiền lòng
    Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
    Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
    Song thân tránh được mọi loài, bình an.
  3. Mẹ đào củ cải, hành hoang,
    Mẹ tìm cỏ thuốc, rau thơm, bạc hà,
    Táo và hạt dẻ, Vil-va,
    Mẹ thường hái để cả nhà ăn luôn.
  4. Và khi nào mẹ cưu mang
    Dù là củ quả rừng hoang loại gì,
    Cả nhà đều đến tựu tề,
    Và cùng ăn uống no nê đêm ngày.
  5. Mẹ con vàng võ, ốm gầy,
    Bởi vì vất vả suốt ngày kiếm ăn,
    Dãi dầu mưa nắng gió sương
    Ở trong rừng rậm thú hoang trú nhiều.
  6. Như hoa sen thật yêu kiều
    Ở trong tay nọ tiêu điều xác xơ.
    Tóc bà chỉ mọc lơ thơ
    Vì lang thang giữa rừng già trống trơn.
  7. Dưới tay bám đất từng hòn,
    Tóc bà buộc chặt từng chòm phía trên.
    Bà chăm nom ngọn lửa thiêng,
    Ðắp nhiều da thú nằm trên đất dày.

Sau khi miêu tả mọi nỗi gian lao nhọc nhằn của mẹ mình như vậy, cậu bé trách móc ông nội qua các lời kệ này:

  1. Thói thường ở thế gian này,
    Mọi người yêu quí con trai trong nhà,
    Nhưng trừ trường hợp này ra
    Hình như tổ phụ bỏ ra việc này.

Vua liền công nhận lỗi của mình:

  1. Việc này ta thật trái sai,
    Hại người vô tội tàn đời rừng hoang,
    Khi nghe lời của thần dân,
    Ta đành đày ải con thân trong nhà.
  2. Vậy thì tài sản của ta,
    Những gì ta có bây giờ trong tay
    Thuộc quyền sở hữu con trai,
    Ves-san-ta hãy đến ngay trị vì
    Trên toàn đất nước Si-vi.

Cậu bé đáp:

  1. Không vì lời của ấu nhi vừa rồi,
    Mà vương phụ sẽ tái hồi,
    Tâu ngài tổ phụ cao ngôi nước mình,
    Vậy xin ngài tự thân hành
    Ban con trai đủ ân lành từ tay.

Vua Sañjaya liền ra lệnh cho vị đại tướng như sau:

  1. Cỗ xe bầy ngựa đi ngay
    Bầy voi và bộ binh nay sẵn sàng,
    Thần dân hãy đến quanh vùng,
    Tế sư tất cả đi cùng chỗ kia.
  2. Sáu mươi ngàn tướng lãnh ta
    Giáo gươm tô điểm thật là xinh sao,
    Giáp bào xanh,trắng hoặc nâu,
    Mão cao đỏ tựa máu đào, đến kia.
  3. Giống như đồi lắm quỉ ma,
    Nơi ngàn cây mọc chen đua thẳng hàng,
    Sáng ngời, thơm ngát dịu dàng
    Với cây thần, gió nhẹ nhàng tới lui.
  4. Hãy đem mười bốn ngàn voi
    Trang hoàng toàn thể cân đai bằng vàng,
    Bọn nài voi giáo liềm mang
    Cùng nhiều bầy ngựa, ta ban lệnh này.
  5. Ngựa Sindh toàn thể cả bầy,
    Giống nòi cao quý vẫn hay tốc hành,
    Mỗi con chở một kỵ binh
    Hiên ngang cung kiếm bên mình sẵn mang.
  6. Cỗ xe một vạn bốn ngàn
    Ðiểm tô thật đẹp yên cương đủ đầy,
    Bánh làm sắt rất khéo thay,
    Dát vàng toàn thể thắng ngay cả đoàn.
  7. Phướng, cờ chuẩn bị sẵn sàng,
    Giáp bào, khiên mộc vai mang xuất hành,
    Cung tên đầy đủ bên mình
    Những người chiến sĩ giao tranh không sờn.

Vua phác họa việc thành lập đạo binh của ngài như vậy xong, rồi ra lệnh san bằng đường sá từ thành Jetuttara đến núi Vamka có chiều rộng tám sào, và trang hoàng đường ấy theo cách này cách nọ như sau. Ngài bảo:

  1. Hoa là-ja trải khắp đường
    Những tràng hoa đẹp ngát hương dăng màn,
    Hãy đem lễ vật cúng dường
    Ðặt ngay trên lối quân vương du hành.
  2. Hãy đem ra rượu trăm bình,
    Mỗi thôn mời mọi dân lành muốn say.
    Trăm bình rượu ấy đặt ngay
    Bên đường vương tử mai này hồi loan.
  3. Hãy đem bánh thịt sẵn sàng,
    Món canh phải khéo trang hoàng cá ngon,
    Ðem ra đặt ở vệ đường,
    Ở ngay trên lối quân vương đi về.
  4. Rượu, dầu, bơ, sữa, hạt kê,
    Sữa chua, cơm chín ê hề thức ăn
    Ðem ra đặt chúng bên đường
    Ở ngay trên lối quân vương đi về.
  5. Hỏa đầu quân hãy tựu tề,
    Người làm bánh mứt, làm hề, hát rong,
    Người nhào lộn, các vũ công.
    Những người đánh trống, đóng tuống giải khuây.
  6. Ðàn tỳ trổi giọng lên ngay,
    Tù và inh ỏi, đủ đầy thần dân,
    Trống con, trống lớn khua rần
    Khắp nơi đủ loại thùng thùng dậy vang.

Vua phát họa cách chuẩn bị trang hoàng đường sá như vậy. Còn Jùjaka ăn uống quá nhiều, không tiêu hoá nổi, nên chết ngay lập tức.

Vua ra lệnh tổ chức tang lễ, thông báo truyền đi khắp kinh thành bằng tiếng trống, nhưng không tìm ra thân quyến của lão, nên tài sản của lão lại trở về tay vua!

Vào ngày thứ bảy, tất cả đạo quân tụ họp đầy đủ. Vua long trọng làm lễ xuất hành cùng với Jàli làm người dẫn đường.

*

Bậc Ðạo Sư diễn tả việc này như sau:

  1. Ðạo quân hùng hậu lên đường,
    Ðạo quân của cả nước non quê nhà,
    Ði về phía núi Vam-ka,
    Jà-li hướng dẫn đoàn ra trước liền.
  2. Voi già đã sáu mươi niên
    Rống lên một tiếng như kèn dậy vang,
    Thú rừng gầm thét rộn ràng
    Những khi chúng buộc dây cương chặt vào.
  3. Bánh xe dồn dập xôn xao,
    Rồi bầy ngựa hí giọng cao vang lừng,
    Ðại quân thẳng tiến lên đường,
    Mịt mù tung đám bụi hồng như mây.
  4. Nhu cầu cung cấp đủ đầy,
    Ðạo quân quyết chí đi ngay sẵn sàng.
    Jà-li hướng dẫn cả đoàn
    Tiến về đồi núi bạt ngàn Vam-ka.
  5. Ði vào rừng rậm bao la
    Tưng bừng chim chóc, cỏ hoa muôn loài,
    Với bao hoa nở nụ cười,
    Với bao trái chín làm người mừng vui.
  6. Khi rừng đang độ hoa tươi,
    Chim ca rào rạt như trời đổ mưa,
    Véo von ríu rít gần xa
    Với bao đôi cánh sáng lòa bay ngang.
  7. Ngày đêm thẳng tiến lên đường,
    Cuối cùng chấm dứt đường trường nơi đây,
    Tiến vào trong xóm thôn này
    Ves-san-ta Chúa lâu rày ẩn thân.

Trên bờ hồ Mucalinda, vương tử Jàli bảo đoàn cắm trại, cậu đặt mười bốn ngàn cỗ xe hướng ra phía con đường họ vừa đến và vệ binh đứng rải rác canh phòng sư tử, cọp, tê giác, và các dã thú khác.

Lúc ấy có tiếng voi rống to cùng nhiều tiếng ồn khác. Bậc Ðại Sĩ nghe vậy, sợ mất vía, nghĩ thầm: “Chúng đã giết phụ vương và đến đây tìm ta!”. Ngài liền đưa Mad-dì cùng leo lên một ngọn đồi và quan sát đoàn quân.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Ðoàn quân rầm rộ đến gần,
    Ves-san-ta lắng nghe ầm ầm vang,
    Ngài trèo lên ngọn đồi hoang
    Nhìn đoàn quân ấy, kinh hoàng lắm thay.
  2. – Mad-dì, hãy lắng nghe này,
    Âm thanh gầm thét tràn đầy rừng hoang,
    Tiếng bầy ngựa hí nghe vang,
    Nhìn cờ phấp phới bay ngang ngọn đồi.
  3. Phải chăng, bọn thợ săn mồi
    Với dao, lưới bẫy ở nơi hố hầm,
    Ði tìm dã thú trong rừng,
    Ðang gào thét để truy lùng chúng đây?
  4. Chúng ta, những kẻ lưu đày,
    Mặc dù vô tội, ở ngay trong rừng,
    Ðang chờ cái chết bạo hung,
    Rơi vào tay của cừu nhân bây giờ!

Khi nàng nghe lời này, nàng nhìn đạo quân và tin rằng đó chính là quân đội của nước mình, nàng liền ngâm vần kệ an ủi ngài:

  1. Thảy đều tốt đẹp với ta,
    Quân thù không hại vương gia đâu nào,
    Không hề có ngọn lửa cao
    Ðủ năng lực để tràn vào đại vương.

Do vậy, bậc Ðại Sĩ được an lòng cùng Mad-dì bước xuống đồi và ngồi trước lều cỏ.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này:

  1. Ves-san-ta, bậc Ðại vương,
    Nghe vầy, bước xuống từ vườn đồi hoang,
    Và ngồi ngay trước thảo am,
    Nhưng lòng vẫn thấy bàng hoàng bất an.

Lúc ấy vua Sañjaya truyền đưa hoàng hậu đến và bảo bà:

– Này ái hậu, nếu tất cả chúng ta đều đến đó sẽ gây chấn động lớn, vì vậy trẫm sẽ đi trước một mình. Khi nào bà cảm thấy các con đã lắng dịu và an lòng thì bà có thể đến với một đám tùy tùng nhé.

Một lát sau, ngài bảo Jàli và Kanhàjinà đến. Ngài quay cỗ xe hướng về đường cái từ đó ngài vừa đến đây và đặt quân canh phòng nơi này nơi nọ xong, rồi ngự lên mình voi đầy đủ cân đai và đi tìm vương tử.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Ðiều hành quân đội sẵn sàng,
    Vương xa hướng đến con đường vừa qua,
    Và đi tìm chốn rừng già,
    Nơi kia vương tử làm nhà độc cư.
  2. Trên mình voi báu, vua cha,
    Hoàng y ngài đã khoác hờ trên vai,
    Giơ cao, nắm chặt đôi tay,
    Ngài đi trao lại chiếc ngai con mình.
  3. Ngài nhìn vương tử đẹp xinh,
    Dáng không sợ hãi, an bình trong tâm.
    Ngồi ngay ở trước thảo am
    Và đang tĩnh lặng thâm trầm tư duy.
  4. Ves-san-ta với Mad-dì
    Thấy vua cha, phải vội đi đón mừng,
    Vừa khi vương phụ đến gần
    Trong lòng mong mỏi viếng thăm con ngài.
  5. Mad-dì đảnh lễ tức thời
    Ðặt đầu nàng trước chân ngài, phụ vương,
    Ngài ôm chặt cả hai con,
    Ðôi tay ve vuốt đem nguồn hân hoan.

Vừa khóc than vì buồn tủi, vua cha vừa ân cần hỏi con:

  1. Ta tin rằng, hỡi con thương,
    Con thường thịnh vượng, an khương mọi bề
    Với bao thóc lúa thu về,
    Và bao củ, quả tràn trề ẩn am.
  2. Con nay có bị phiền lòng
    Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài?
    Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
    Chẳng hay con tránh mọi loài được chăng?

Bậc Ðại Sĩ đáp lời phụ vương:

  1. Chúng con sống, tấu phụ thân,
    Cuộc đời cực khổ khốn cùng vừa qua,
    Chúng con nỗ lực tối đa
    Ðể ăn những thứ tìm ra quanh đồi.
  2. Nghịch duyên rèn luyện con người
    Như người giữ ngựa luyện loài ngựa hoang.
    Nghịch duyên này, tấu phụ vương,
    Ðã làm thuần thục chúng con nơi này.
  3. Nhưng vì xa vắng lâu ngày
    Song thân khiến chúng con gầy tấm thân,
    Bị lưu đày, tấu Ðại quân,
    Và đi vào sống trong rừng hoang sơ.

Sau đó ngài hỏi cha về số phận của các con:

  1. Nhưng Jà-li, với Kan-hà,
    Vương tôn bất hạnh của cha nối dòng,
    Bà-la-môn nọ bạo tàn
    Ðã xua đuổi chúng như đàn bò non.
  2. Nếu cha biết chút gì chăng
    Về đôi trẻ nhỏ nối dòng, nói ngay,
    Như y sư chữa khéo thay
    Một người bị rắn cắn ngay tức thì.

Vua cha đáp:

  1. Cả Kan-hà với Jà-li
    Giờ đây đã được chuộc về hoàng cung.
    Ta đem tiền trả đạo nhân,
    Vậy đừng sợ, hãy yên lòng, con thương!

Bậc Ðại Sĩ được an tâm khi nghe điều này và vui vẻ đàm đạo với vua cha:

  1. – Con mong cha được an khương,
    Và không còn chuyện lo buồn xảy ra,
    Mẹ con không phải lệ sa
    Ðến khi đôi mắt xót xa đỏ bừng.

Vua cha đáp:

  1. – Cám ơn, cha được an khương,
    Và không còn chuyện đau buồn xảy ra,
    Mẹ con không phải lệ sa
    Ðến khi đôi mắt xót xa đỏ bừng.

Bậc Ðại Sĩ nói:

  1. – Con mong vương quốc thịnh hưng
    Và toàn đất nước giang sơn an toàn,
    Ðàn gia súc thật hùng cường,
    Và mây mưa vẫn tuôn tràn chẳng ngưng.

Vua cha đáp:

  1. – Ồ, vương quốc vẫn thịnh hưng,
    Và toàn đất nước giang sơn an toàn,
    Ðàn gia súc thật hùng cường,
    Và mây mưa vẫn tuôn tràn chẳng ngưng.

Trong khi hai vị nói chuyện với nhau như vậy, hoàng hậu Phusatì cảm thấy tất cả mọi người hẳn đã trút hết lo âu, nên bà đến thăm con trai cùng với một đoàn tùy tùng rầm rộ.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Trong khi hai vị luận bàn,
    Bấy giờ lại thấy mẫu thân đến gần,
    Bước vào cửa lớn thảo am,
    Dù là hoàng hậu, chân trần sá chi.
  2. Ves-san-ta với Mad-dì
    Thấy thân mẫu, vội ra đi đón mừng,
    Mad-dì liền chạy lại gần,
    Ðặt đầu nàng xuống trước chân mẹ hiền.
  3. Mad-dì bất chợt nhìn lên,
    Thấy hai con trẻ bình yên sờ sờ,
    Như bê con thấy mẹ bò,
    Chúng liền la hét thật to chào mừng.
  4. Mad-dì thấy chúng bình an,
    Như người quỷ ám, vội vàng phi thân,
    Run run, bầu sữa phồng căng
    Vú nàng cho các con ăn thỏa lòng.

*

Ngay lúc ấy, núi đồi vang động, quả đất rung chuyển, đại dương nổi sóng, núi Tu-di, chúa tể của núi đồi, cúi mình xuống, sáu cõi trời của chư Thiên đồng vọng một âm thanh vĩ đại. Sakka Thiên chủ nhận thấy cả sáu vị trong hoàng gia cùng đám tùy tùng đều nằm bất tỉnh trên mặtđất, và không ai có thể đứng lên rảy nước cho các người kia, vì vậy ngài quyết định đổ một cơn mưa lớn.

Ngài làm mưa rơi xuống: kẻ nào muốn ướt đều được ướt, kẻ nào không muốn thì không có một giọt mưa nào rớt xuống mình họ, mà nước lăn ra như thể từ ngọn lá sen. Cơn mưa ấy thật giống mưa rơi trên cụm lá sen.

Sáu người trong hoàng gia đã hồi tỉnh, và tất cả mọi người đều reo to trước sự kiện diệu kỳ là mưa rơi trên đám người trong hoàng tộc như thế nào, quả đất lớn chấn động ra sao.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Ngay khi thân tộc tương phùng,
    Âm thanh vĩ đại liền bùng nổ ra,
    Các đồi núi vọng vang xa,
    Ðất bằng rung chuyển thật là mạnh thay.
  2. Trời liền đem một vầng mây
    Từ trên giáng xuống mưa đầy tuôn ra,
    Khi quân vương Ves-san-ta
    Vừa cùng tái ngộ hoàng gia của ngài.

751-752. Phụ vương, mẫu hậu, con trai,
Con dâu, các cháu đồng thời nơi kia.
Khi vừa sum họp một nhà,
Tóc lông dựng đứng, thịt da rợn người,
Thần dân đồng vỗ tay hoài
Nêu cao nguyện ước một lời với vua.

  1. Dân yêu cầu Ves-san-ta
    Và Mad-dì, thảy cùng la vang lừng:
    – Hãy làm chúa tể chúng thần,
    Quốc vương, hoàng hậu, nghe dân gọi vầy!

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ nói với vua cha:

754 . Phụ vương, quần chúng lâu nay
Dân quê, thành thị lưu đày thần nhi,
Khi con đang ngự ngai kia,
Và đang theo cách trị vì chánh chân.

Vua cha đáp lời để xoa dịu nỗi giận hờn của con:

  1. Thật là ta đã sai lầm
    Khi ta làm hại con không tội này,
    Vì nghe lời của dân vầy
    Ta đưa đến chốn lưu đày con ta.

Ngâm vần kệ này xong, ngài thêm một vần nữa để mong được xoa dịu nỗi sầu riêng của mình:

  1. Nỗi sầu của mẹ cùng cha,
    Hoặc là em gái, muốn xoa dịu dần,
    Nam nhi không chút ngập ngừng
    Cho dù ta phải hiến dâng cuộc đời.

Bồ-tát đã mong muốn trở lại vương vị, nhưng tránh nói nhiều để tạo niềm kính trọng đối với ngài, bây giờ mới đồng ý. Lập tức sáu mươi ngàn quần thần, các bạn thân của ngài từ bé, đồng la lớn:

  1. Ðại vương, tắm rửa đến thời,
    Tẩy cho sạch hết trần ai bấy giờ!

Nhưng bậc Ðại Sĩ đáp:

– Hãy đợi một lát.

Rồi ngài bước vào trong thảo am, cởi bộ áo ẩn sĩ ra và cất đi. Kế đó ngài bước ra khỏi am, và nói:

– Ðây là nơi ta đã sống chín tháng rưỡi tu tập khổ hạnh, và đã đạt pháp tối thượng về Bố thí viên mãn khiến quả đất chấn động.

Ngài đi quanh am lá ba lần về phía hữu và quỳ lạy trước am với năm phần thân sát đất (trán, hai cùi tay, bụng, chân, đầu gối).

Rồi quần thần chải chuốt râu tóc ngài và rảy nước lên thân ngài để làm lễ quán đảnh phong vương, trong khi ngài sáng rực trong vẻ uy nghi như một vị Thiên đế. Vì vậy chuyện kể.

Thế rồi vua Ves-san-ta
Tẩy cho thật sạch đất dơ, bụi trần.

Uy lực vinh quang của ngài thật vĩ đại thay: ngài nhìn đến nơi nào thì nơi ấy đã rúng động, những ai khéo nói lời chúc lành đều lên tiếng phát biểu, dân chúng đem đến đủ loại nhạc cụ đàn sáo. Trên đại dương có tiếng vang dậy như sấm sét.

Quần thần đưa vào con voi báu đã được tô điểm cân đai rực rỡ. Ngài vừa đeo thanh bảo kiếm vào mình vừa ngự lên bảo tượng, trong khi sáu mươi ngàn quần thần vây quanh ngài thành một cuộc dàn binh thật hùng tráng huy hoàng và rảy nước làm lễ tấn phong cho Maddì. Họ vừa rảy nước vừa kêu to:

– Cầu mong chúa tể Vessantara bảo vệ hoàng hậu !

Họ còn nói thêm nhiều lời chúc lành khác nữa.

*

Bậc Ðạo Sư diễn tả việc này như sau:

  1. Ðầu vừa được gội sạch xong,
    Xiêm y lộng lẫy, trang hoàng oai phong,
    Ðeo vào thanh kiếm vô song,
    Ngự lên bảo tượng, bạn đồng hành xưa.
  2. Sáu mươi ngàn bạn ấu thơ
    Ngắm xem thật đẹp, bước ra quây quần,
    Nay là sáu vạn quần thần,
    Thảy đều kính lễ chúa công tức thì.
  3. Cung nga tắm gội Mad-dì,
    Và đồng cầu chúc vương phi vang lừng:
    – Ves-san-ta bậc Ðại vương
    Sañ-ja Thái thượng bảo toàn nương nương!
  4. Thế là mọi sự phục hoàn,
    Và hồi tưởng nỗi đau buồn đã qua,
    Trên miền đất của nhà vua,
    Nhân dân mở hội, hát ca vui mừng.
  5. Thế là mọi sự phục hoàn,
    Và hồi tưởng nỗi đau buồn đã qua,
    Vương phi hạnh phúc chan hòa,
    Cùng đi với các con thơ lạc bầy.

Trong niềm hạnh phúc ấy, nàng nói với các con:

  1. – Mẹ ăn một bữa mỗi ngày,
    Mẹ nằm ngủ mặt đất này trống trơn,
    Ðó là nguyện ước yêu thương
    Ðến khi con được vuông tròn tìm ra.

764-765. Lời nguyền đã đạt bây giờ,
Và nay lần nữa mẹ tha thiết cầu
Ðiều lành gì tạo bấy lâu,
Ước mong bảo hộ ngày sau con nhờ,
Và mong tổ phụ Sañ-ja
Luôn che chở các con nhà từ đây.

  1. Ðiều lành gì tạo bấy nay,
    Bởi thân phụ hoặc chính tay mẹ mà,
    Ước mong con trẻ không già,
    Nhờ chân chính, các con thơ trường tồn.

Mẫu hậu Phusatì cũng bảo:

– Kể từ nay, vương phi sẽ mặc những xiêm áo này và mang các nữ trang này.

Và bà trao cho nàng các thứ ấy đựng trong nhiều hộp.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Vải bông, tơ lụa, áo quần
    Thật là tuyệt mỹ, màn chăn thiếu gì,
    Mẫu hoàng trao tặng Mad-dì
    Làm cho sắc đẹp vương phi sáng bừng.
  2. Vòng tay, vòng cổ, vòng chân,
    Mạng che trán, chiếc đai lưng trang hoàng,
    Mẫu thân gửi tặng cho nàng
    Làm cho nàng đẹp huy hoàng sáng tươi.
  3. Và khi công chúa tuyệt vời
    Ngắm nhìn châu báu sáng ngời nàng mang,
    Rỡ ràng, nàng chiếu ánh quang
    Khác nào các vị nữ thần Lạc Viên [*].
  4. Với đầu tẩm ướt tóc tiên,
    Nữ trang, xiêm áo ngắm nhìn đẹp tươi,
    Vương phi tỏa ánh sáng ngời
    Như là Thiên nữ cõi trời Băm ba.
  5. Trong vườn Thiên giới Cit-ta [**]
    Cây ba tiêu ngọn gió lùa nhẹ rung,
    Ðôi môi công chúa tuyệt trần,
    Dáng nàng khả ái như thân cây trời.
  6. Như chim lông đẹp sáng ngời
    Lượn bay khắp mọi nẻo trời trên không,
    Môi nàng xinh tựa đóa hồng,
    Dung nhan làm ngẩn ngơ lòng thế nhân.
  7. Chúng dâng voi đẹp còn xuân,
    Con voi dũng mãnh oai phong hùng cường,
    Không hề biết sợ giáo gươm,
    Ngà dài, chẳng sợ chiến trường ba quân.
  8. Nàng lên voi nọ còn xuân
    Con voi dũng mãnh, oai phong hùng cường,
    Không hề biết sợ giáo gươm,
    Ngà dài, chẳng sợ chiến trường giao tranh.

Như vậy cả hai vị tiến về doanh trại trong cảnh đại huy hoàng. Phụ vương Sañjaya và đoàn tùy tùng đông vô số bày đủ trò tiêu khiển hai vị trên đồi và trong rừng suốt một tháng.

Suốt thời gian ấy, nhờ uy danh của bậc Ðại Sĩ, không một dã thú hay chim muông nào gây tai hại gì trong khu rừng bao la ấy.

[*] Nandana: Thiên Lạc Viên ở cõi trời Ba mươi ba.

[**] Cittalatà: Lạc Viên của Sakka ở cõi trời Ba mươi ba.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Nhờ Ves-san chúa quang vinh,
    Xuyên qua suốt dải rừng xanh bạt ngàn,
    Không loài dã thú, chim muông
    Làm gì hại chúng bạn, luôn làm lành…

776-777. Và khi ngài phải đăng trình,
Muôn loài như một đồng tình tiễn đưa,
Chim muông, dã thú gần xa,
Mọi loài trong chốn rừng già cùng nhau
Lặng im mọi tiếng xôn xao
Khi ngài rời chốn rừng sâu lên đường.

Sau một tháng hội hè vui chơi, vua Sañjaya triệu tập vị đại tướng quân vào bảo:

– Ta đã ở trong rừng này lâu rồi, thế con đường chuẩn bị cho vương nhi trở về đã sẵn sàng chưa?

Ông đáp:

– Tâu Chúa thượng, đã đến lúc ra đi.

Ngài liền nhắn lời đến vua Vessantara và cùng quân đội khởi hành, theo sau là đám tùy tùng trên con đường đã được chuẩn bị từ lòng đồi Vamka đến kinh thành Jetuttara.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Ðường vua đi mới được làm,
    Với muôn hoa lá trang hoàng đẹp xinh,
    Từ nơi ngài ở rừng xanh
    Xuôi dần đến chốn kinh thành Jet-ta.
  2. Sáu mươi ngàn bạn ấu thơ,
    Nam nhi, phụ nữ, thương gia quây quần,
    Ðạo nhân trở lại quê hương
    Về kinh đô tiến thẳng đường Jet-ta.
  3. Nhiều người quản tượng, quản xa,
    Cùng đoàn vệ sĩ hoàng gia xuất hành,
    Và nhiều lữ khách, bộ binh
    Thảy đồng tiến tới kinh thành Jet-ta.
  4. Chiến binh mang mão áo da,
    Quân mang bào giáp sáng lòa kiếm thương,
    Ðể cùng bảo vệ quân vương
    Về kinh đô tiến thẳng đường Jet-ta.

Nhà vua trải qua cuộc hành trình dài sáu mươi dặm đường trong hai tháng. Sau đó ngài vào thành Jetuttara được trang hoàng để mừng đón ngài và ngài bước lên hoàng cung.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này:

  1. Ðoàn quân vào đến thành đô,
    Ðẹp xinh hào lũy, cửa ô cao vầy,
    Ðàn ca múa hát vui thay,
    Thức ăn thức uống đủ đầy luôn luôn.
  2. Thần dân toàn thể hân hoan
    Từ nông dân đến thị dân mọi nhà,
    Chào mừng trở lại quê cha
    Vương nhi danh vọng gần xa vang lừng.
  3. Mọi người đều vẫy chiếc khăn
    Lên không để đón ân nhân đến gần.
    Bấy giờ có tiếng trống rung,
    Lệnh truyền đại xá ban ân muôn loài.

*

Như vậy vua Vessantara ban ân xá mọi sinh vật cho đến loài mèo. Và hôm ấy ngài vào thành về buổi chiều tối, ngài suy nghĩ: “Khi vừa tảng sáng, những kẻ cầu ân nghe tin ta trở về sẽ đến đây. Vậy ta lấy gì cho họ đây?”. Ngay lúc ấy chiếc ngai của Thiên chủ Sakka bỗng nóng lên. Ngài xem xét và thấy rõ lý do, ngài liền đổ xuống một trận mưa gồm bảy báu vật chẳng khác gì trận mưa dông, tràn ngập cả mặt tiền lẫn hậu cung đến tận thắt lưng và khắp cả kinh thànhđến tận đầu gối.

Hôm sau, vua phân chia các phần đất này nọ cho nhiều gia đình và cho phép họ thu lượm châu báu, phần còn lại, ngài truyền quân góp nhặt và cất vào kho tàng trong cung thất của ngài. Như vậy ngài có sẵn các kho báu để phân phát trong tương lai.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Khi Ves-san chúa tái hồi
    Ðại vương bảo hộ mọi người Si-vi,
    Trời cho mưa báu tràn trề
    Ở trên đất nước là quê hương này.
  2. Ves-san Vương tử rộng tay
    Phát ban tặng vật đủ đầy toàn dân,
    Cuối cùng ngài đã mạng chung,
    Tràn đầy trí tuệ, thiên cung ngài về.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại Vessantara với gần cả ngàn bài kệ này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) là Jùjaka, nàng Cincà là Amittatàpana, Channa (Xạ-nặc) là Cetaputta, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vị khổ hạnh Accuta, Anuruddha (A-na-luật) là Sakka, vua Suddhodana (Tịnh Phạn) là vua Sañjaya, Vương hậu Mahàmàyà (Ma-gia) là Phusatì, mẫu thân của Ràhula là vương hậu Maddì, Ràhula là vương tử Jàli, Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) là Kanhàjina, các đệ tử đức Phật là thần dân và vua Vessantara chính là Ta.

[01] Chương XIII – Phẩm Mười Ba Bài Kệ
474. Chuyện Trái Xoài (Tiền Thân (Amba)
475. Chuyện Cây Hồng Phượng Vĩ (Tiền Thân Phandana)
476. Chuyện Chúa Thiên Nga Có Thần Tốc (Tiền Thân Javana-Hamsa)
477. Chuyện Tiểu Đạo Sĩ Nàrada (Tiền Thân Culla-Nàrada)
478. Chuyện Sứ Thần (Tiền Thân Dùta)
479. Chuyện Cây Bồ Đề Và Thánh Đế Kàlinga (Tiền Thân Kàlinga-Bodhi)
480. Chuyện Hiền Giả Akitta (Tiền Thân Akitta)
481. Chuyện Hiền Giả Takkàriya (Tiền Thân Takkàriya)
482. Chuyện Lộc Vương (Tiền Thân Ruru)
483. Chuyện Chúa Nai Sarabha (Tiền Thân Sarabha-Miga)
[02] Chương XIV – Tạp Phẩm
484. Chuyện Cánh Đồng Lúa (Tiền Thân Sàlikedàra)
485. Chuyện Đôi Ca Thần Canda (Tiền Thân Canda Kinnara)
486. Chuyện Chúa Chim Ưng (Tiền Thân Màha Ukkusa)
487. Chuyện Nam Tử Uddàlaka (Tiền Thân Uddàlaka)
488. Chuyện Củ Sen (Tiền Thân Bhisa)
489. Chuyện Đại Vương Huy Hoàng (Tiền Thân Suruci)
490. Chuyện Nam Vi Hành Trì Trai Giới (Tiền Thân Pancùposatha)
491. Chuyện Ðại Khổng Tước (Tiền Thân Mahà-Mora)
492. Chuyện Lợn Rừng Của Thợ Mộc (Tiền Thân Taccha-Sùkara)
493. Chuyện Vị Đại Vương Nhân (Tiền Thân Mahà-Vànija)
494. Chuyện Đại Vương Sadhìna (Tiền Thân Sàdhìna)
495. Chuyện Mười Hạng Bà-La-Môn (Tiền Thân Dasa-Bràhmana)
496. Chuyện Cúng Thực Phẩm Đúng Cấp Bậc (Tiền Thân Bhikkhà-Parampara)
[03] Chương XV – Phẩm Hai Mươi Bài Kệ
497. Chuyện Bậc Hiền Trí Màtanga (Tiền Thân Màtanga)
498. Chuyện Đôi Bạn Citta-Sambhùta (Tiền Thân Citta-Sambhùta)
499. Chuyện Đại Vương Sivi (Tiền Thân Sivi)
500. Chuyện Thần Nữ Cát Tường (Tiền Thân Sirimanda)
501. Chuyện Lộc Vương Rohanta (Tiền Thân Rohanta Miga)
502. Chuyện Chúa Thiên Nga (Tiền Thân Hamsa)
503. Chuyện Anh Vũ Sattigumba (Tiền Thân Sattigumba)
504. Chuyện Ðại Vương Bhallàtiya (Tiền Thân Bhallàtiya)
505. Chuyện Vương Tử Hoan Lạc (Tiền Thân Somanassa)
506. Chuyện Long Vương Campeyya (Tiền Thân Campeyya)
507. Chuyện Sức Cám Dỗ Mạnh (Tiền Thân Mahà-Palobhana)
508. Chuyện Năm Vị Hiền Nhân (Tiền Thân Panca-Pandita)
509. Chuyện Hiền Giả Quản Tượng (Tiền Thân Hatthipàla)
510. Chuyện Vương Tử Trong Ngôi Nhà Sắt (Tiền Thân Ayoghara)
[04] Chương XVI – Phẩm Ba Mươi Bài Kệ
511. Chuyện Dục Tham Kỳ Dị (Tiền Thân Kimchanda)
512. Chuyện Bình Rượu (Tiền Thân Kumbha)
513. Chuyện Vương Tử Chiến Thắng (Tiền Thân Jayaddisa)
514. Chuyện Tượng Vương Ở Hồ Chaddanta (Tiền Thân Chaddanta)
515. Chuyện Nam Tử Sambhava (Tiền Thân Sambhava)
516. Chuyện Khỉ Chúa (Tiền Thân Mahàkapi)
517. Tiền Thân Dakarakkhasa
518. Chuyện Long Vương Pandara (Tiền Thân Pandara)
519. Chuyện Hoàng Hậu Sambulà (Tiền Thân Sambulà)
520. Chuyện Vị Thần Cây Tindu (Tiền Thân Gandatindu)
[05] Chương XVII – Phẩm Bốn Mươi Bài Kệ
521. Chuyện Ba Con Chim (Tiền Thân Tesakuna)
522. Chuyện Đại Nhân Thiện Xạ Sarabhanga(Tiền Thân Sarabhanga)
523. Thiên Nữ Alambusà (Tiền Thân Alambusà)
524. Chuyện Long Vương Samkhapàla (Tiền Thân Samkhapàla)
525. Chuyện Tiểu Sutasoma (Tiền Thân Sutasoma)
[06] Chương XVIII – Phẩm Năm Mươi Bài Kệ
526. Chuyện Công Chúa Nalinikà (Tiền Thân Nalinikà)
527. Chuyện Kỷ Nữ Ummadantì (Tiền Thân Ummadantì)
528. Chuyện Hiền Giả Đại Bồ Đề (Tiền Thân Mahà-Bodhi)
[07] Chương XIX – Phẩm Sáu Mươi Bài Kệ
529. Chuyện Hiền Giả Sonaka (Tiền Thân Sonaka)
530. Chuyện Hiền Giả Samkicca (Tiền Thân Samkicca)
[08] Chương XX – Phẩm Bảy Mươi Bài Kệ
531. Chuyện Đại Đế Kusa (Tiền Thân Kusa)
532. Chuyện Hai Hiền Giả Sona-Nanda (Tiền Thân Sona-Nanda)

Chương XIII

Phẩm Mười ba bài kệ

  1. Chuyện trái xoài (Tiền thân Amba)

Trước kia, khi trẫm bảo chàng trai..,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa).

Ðề-bà-đạt-đa không thừa nhận bậc Ðạo Sư của mình và bảo:

– Chính ta sẽ là bậc Chánh đẳng giác và Sa-môn Gotama không phải là bậc Ðạo Sư hướng dẫn của ta.

Vì vậy, khi xuất định, ông gây chia rẽ trong Tăng chúng. Sau đó dần dà ông tiến về Xá-vệ, ở bên ngoài Tinh xá Kỳ Viên, thì mặt đất há miệng, ông rơi vào địa ngục Avìci (A-tỳ hay Vô gián địa ngục). Lúc ấy tất cả Tăng chúng đều nói chuyện ấy tại Chánh pháp đường:

– Này Hiền hữu, Ðề-bà-đạt-đa đã xa rời bậc Ðạo sư và bị hủy diệt khủng khiếp, đó là sinh vào một đời sống khác trong địa ngục A-tỳ sâu thẳm.

Bậc Ðạo sư bước vào hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì, hội chúng thưa với Ngài. Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa cũng như nay, Ðề-bà-đạt-đa đã xa rời bậc Ðạo sư của mình và bị hủy diệt khủng khiếp.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, cả gia đình của vị tế sư trong triều bị bệnh sốt rét tiêu diệt. Chỉ một người con trai duy nhất phá được tường nhà trốn thoát đi xa.

Chàng đến Takkasilà và học tập đủ các nghệ thuật kỹ năng với một vị giáo sư tiếng tăm lừng lẫy khắp thiên hạ.

Sau đó chàng từ giã sư phụ, và ra đi, với ý định chu du khắp nhiều miền; trên bước giang hồ, chàng đến một làng ở biên địa. Gần đó là một làng của giai cấp hèn hạ Chiên-đà-la (Candàla). Thời đó Bồ-tát cư ngụ trong làng này, và ngài là một bậc hiền trí. Ngài biết một thần chú làm cho quả trên cây mọc rộ lên trong lúc trái mùa.

Một buổi sáng kia, ngài mang đòn gánh đi ra khỏi làng mãi đến tận cây xoài mọc trong rừng, khiđứng cách đó bảy bước, ngài đọc thần chú và rảy một bụm nước vào cây đó. Trong chớp mắt, lớp lá khô rụng hết, lớp lá non mọc mầm, hoa nở rồi hoa tàn rụng, các trái xoài nhú ra. Song chỉ trong chốc lát chúng đã chín mọng ngọt ngào thơm ngát, xoài lớn nhanh như loại trái thần rồi rụng xuống đất! Bậc Ðại sĩ chọn ăn tùy thích, rồi chất đầy hai giỏ trên đòn gánh, đem trái đi bán và kiếm tiền nuôi vợ con.

Lúc bấy giờ, chàng trai Bà-la-môn thấy bậc Ðại Sĩ bán xoài chín trái mùa. Chàng suy nghĩ: “chắc hẳn phải nhờ công năng của một loại thần chú nào đó xoài ấy mới mọc được. Người này có thể dạy ta một thần chú vô giá”. Chàng rình ngắm kỹ cách thức bậc Ðại sĩ hóa phép ra các thứ xoài của ngài, và phát hiện việc này một cách chính xác.

Sau đó chàng đi đến nhà bậc Ðại sĩ lúc ngài chưa trở về từ khu rừng ấy, rồi làm như thể chưa biết gì cả, chàng hỏi người vợ của bậc Ðại sĩ:

– Ðại sư đâu rồi?

Bà đáp:

– Ðã vào rừng.

Chàng đợi cho đến khi ngài về, liền tiến tới phía ngoài, đỡ lấy đòn gánh và đôi thúng từ vai ngài,đem hết đồ đạc vào nhà và đặt ở đó.

Bậc Ðại sĩ nhìn chàng trai bảo vợ:

– Này hiền thê, chàng trai này đến đây để được dạy thần chú; song chẳng có thần chú nào ở lâu với gã ấy cả vì gã là người không tốt đâu.

Còn chàng trai nghĩ thầm: “Ta sẽ học được thần chú bằng cách làm tôi tớ cho thầy ta”.

Thế là từ đó chàng làm mọi công việc trong nhà như gánh củi, giã gạo, nấu nướng, mang đến thầy đủ các thức cần thiết để rửa mặt rửa chân.

Một ngày kia bậc Ðại sĩ bảo chàng:

– Này con, đem cho ta một cái ghế đẩu để gát chân.

Chàng ta chẳng còn cách nào khác, liền để hai chân của bậc Ðại sĩ lên đùi mình suốt đêm.

Vào mùa sau, bà vợ của ngài sinh hạ một con trai, chàng lại làm đủ mọi việc phục dịch trong thời bà ấy sinh sản. Một ngày nọ, bà vợ bảo bậc Ðại sĩ:

– Này phu quân, cậu trai dù là ở giai cấp quý tộc, lại hạ mình làm mọi việc tôi đòi, phục dịch cho nhà ta chỉ vì muốn có thần chú. Vậy phu quân hãy dạy thần chú cho cậu ấy đi, dù thần chú có chịu ở với cậu ấy hay không.

Ngài đồng ý việc đó. Ngài liền dạy thần chú cho cậu trai và bảo thế này:

– Con ạ, đây là thần chú vô giá, con nhờ nó sẽ được vinh quang phú quý tột bực. Nhưng hễ khi nào đức vua hoặc vị đại thần của ngài có hỏi ai là thầy dạy con thì con đừng dấu tên ta; vì nếu con hổ thẹn về chuyện người dạy con câu thần chú kia là một người hạ đẳng và con bảo rằng thầy dạy con là một vị Bà-la-môn quyền cao chức trọng thì con sẽ chẳng được kết quả gì do thần chú đem đến cả đâu.

– Tại sao con lại phải dấu tên của sư phụ kia chứ? Khi nào con được ai hỏi thì con sẽ nói chính sư phụ đây.

Sau đó chàng kính lễ thầy rồi từ giã cái thôn làng hạ đẳng kia, chàng vừa ra đi vừa suy nghĩ mãi về thần chú ấy, kịp lúc đến Ba-la-nại. Tại đó chàng bán xoài và thu được nhiều tiền bạc.

Bấy giờ, một ngày kia người giữ vườn ngự uyển dâng vua một trái xoài gã mới mua từ chàng trai ấy. Sau khi ăn xoài, vua hỏi gã kiếm được ở đâu ra trái xoài ngon ngọt như thế. Gã đáp:

– Tâu Chúa thượng, có một chàng trai mang xoài trái mùa tới bán. Tiểu thần đã mua được từ chàng ấy.

Vua bảo:

– Hãy dặn cậu ta từ nay mang xoài đến đây cho trẫm.

Người ấy làm y lời dặn, từ đó chàng đem xoài đến cung vua. Vua mời chàng đến phục vụ ngài, từ đó chàng trở thành bề tôi phục dịch vua, được hưởng đại phú quý, dần dần chàng được vua rất tin cậy.

Một ngày nọ vua hỏi chàng:

– Này thiếu sinh, khanh kiếm ra xoài trái mùa này ở đâu mà ngon ngọt, thơm ngạt ngào và màu sắc tươi đẹp thế? Có phải một vị Long vương, Kim sí điểu hay thần linh nào đó ban thưởng cho khanh, hoặc đây là phép tiên chăng?

– Tâu Ðại vương, chẳng ai cho tiểu sinh cả – chàng trai đáp – song tiểu sinh có một thần chú vô giá và đây là thần lực của chú ấy.

– Ðược, thế khanh có định biểu diễn cho trẫm xem thần lực của chú này một ngày nào đó chăng?

– Tâu Chúa thượng, tiểu sinh xin sẵn sàng thực hiện điều đó hầu Chúa thượng – chàng đáp.

Hôm sau vua cùng chàng ta vào vườn ngự uyển và ngài phán bảo chàng hãy biểu diễn thần chú. Chàng trai vâng dạ và đi đến gần cây xoài, đứng cách chừng bảy bước đọc thần chú và rảy nước vào cây. Trong chốc lát cây xoài sinh trái như cách đã tả trên đây: một đám xoài rụng xuống ào ào như cơn bão; đám người xem vô cùng thích thú vung vẫy khăn để hoan nghênh. Còn vua dùng xoài, xong thưởng công chàng hậu hỉ, rồi bảo:

– Này thiếu sinh, ai đã dạy khanh thần chú kỳ diệu này?

Bấy giờ chàng nghĩ thầm: “Nếu ta bảo một kẻ Chiên-đà-la hạ đẳng đã dạy ta thì ta sẽ bị làm nhục, hội chúng sẽ chế diễu khinh thị ta, nay ta đã thuộc lòng thần chú này, ta không bao giờ có thể mất nó. Ðược rồi, ta sẽ nói đó là một giáo sư lẫy lừng thiên hạ.

Vì thế, chàng nói dối và bảo:

– Tiểu thần đã học được tại Takkasilà từ một danh sư lẫy lừng thiên hạ.

Khi chàng nói những lời phủ nhận thầy dạy mình như thế, lập tức thần chú biến mất. Còn vua rất hoan hỷ, cùng chàng trở về kinh thành.

Một ngày kia, vua muốn ăn xoài, liền đi vào ngự uyển ngồi trên ghế đá, nơi thường dùng vào những dịp quốc lễ, ngài ra lệnh chàng trai đem xoài dâng ngài. Chàng trai tuân lệnh đi đến cây xoài, đứng xa bảy bước, bắt đầu đọc thần chú, song thần chú không công hiệu. Lúc ấy chàng biết mình đã mất thần chú, nên đứng im đầy hổ thẹn. Còn vua suy nghĩ: “Trước kia chàng này đã dâng xoài ào ào như mưa dông ngay giữa đám đông người, nay chàng đứng như trời trồng, vì nguyên cớ nào đây?”.

Vì thế ngài ngâm vần kệ đầu hỏi chuyện ấy:

  1. Trước kia, khi trẫm bảo chàng trai,
    Lớn nhỏ, chàng đem đủ loại xoài,
    Nay trái trên cây không xuất hiện,
    Dù chàng vẫn đọc chú kia hoài.

Khi nghe vậy, chàng trai nghĩ thầm rằng nếu chàng bảo hôm nay trái cây không thể có được thì vua sẽ tức giận, vì thế chàng nghĩ cách nói dối để lừa vua, liền ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Thời gian không hợp: đợi khi nào,
    Kết hợp hành tinh giữa cõi cao,
    Gặp gỡ đúng thời, giây phút đến,
    Sẽ dâng xoài chín thật dồi dào!

“Cái gì thế này?” Vua tự hỏi. “Chàng trai trước kia chẳng hề nói chuyện hành tinh gặp gỡ cả”.

Ngài liền ngâm vần kệ để điều tra vấn đề này:

  1. Bữa trước, chàng không nói lúc nào,
    Hay mùa gặp gỡ các vì sao,
    Song xoài thơm ngát, ngon thanh vị,
    Màu đẹp, chàng dâng trẫm biết bao!
  2. Buổi nọ, chàng phô diễn trái cây,
    Nhờ câu thần chú, thật tài thay,
    Nay không làm được, dù chàng đọc,
    Trẫm muốn hỏi chàng ý nghĩa đây.

Nghe thế chàng trai suy nghĩ: “Không nên lừa phỉnh vua bằng lời dối trá. Nếu như khi ta nói sự thật mà ngài trừng phạt ta thì cứ để ngài trừng phạt; song ta phải nói sự thật này”. Rồi chàng ngâm hai vần kệ:

  1. Một người hạ đẳng chính là thầy,
    Dạy đúng chú thần hữu hiệu đây,
    Bảo: Ðược hỏi tên thầy, chủng tộc,
    Con đừng giấu, kẻo chú thần bay!
  2. Thần được hỏi thăm bởi Ðại vương,
    Dù thần đã biết thật tinh tường,
    Vẫn mong lừa phỉnh, thần khai dối:
    “Thần chú kia là của đạo nhân”.
    Thần nói dối, nay đành mất chú,
    Ðắng cay, lòng tiếc việc si cuồng.

Nghe chàng nói điều này, vua tự nhủ: “Kẻ độc ác này không biết giữ gìn một kho báu vĩ đại dường ấy! Khi người ta có báu vật vô giá, thì nguồn gốc gia tộc có liên quan gì đến báu vật đó đâu?”. Trong cơn thịnh nộ, ngài ngâm các vần kệ sau:

  1. Cây nimb, hồng phượng hoặc thầu dầu,
    Bất cứ loại cây gỗ thế nào,
    Nơi đó thấy tầng ong mật ngọt,
    Người xem cây ấy tốt hàng đầu.
  2. Dù là Ðạo sĩ, Khat-ti-ya,
    Vệ-xá, Chiên-đà-la, Thủ-đà,
    Puk-ku-sa, người ta học tập,
    Thảy đều tối thượng với đời ta.
  3. Trừng phạt oắt con tệ bạc này,
    Hoặc lôi cổ nó giết đi ngay,
    Kho tàng đã được bao công khó,
    Lại vứt vì tâm ngã mạn đầy!

Quân sĩ của vua theo lời, bảo:

– Hãy trở lại thầy dạy anh và xin ngài tha thứ, rồi nếu anh học được thần chú lần nữa thì hãy vềđây; còn nếu không thì đừng bao giờ hòng để mắt đến xứ này nữa.

Nói thế xong, họ đuổi chàng đi.

Cậu trai hoàn toàn bơ vơ lạc lõng. Chàng nghĩ thầm: “Chẳng có nơi nào cho ta nương tựa trừ thầy ta ra. Ta quyết trở về với thầy ta, xin thầy tha tội cho, rồi xin học thần chú lại”.

Vậy là chàng vừa than khóc vừa tiến về phía làng ấy. Bậc Ðại sĩ thấy chàng đến, liền chỉ cho vợ ngài và bảo bà:

– Này hiền thê, hãy nhìn thằng khốn kia trở lại, mà thần chú đã biến mất rồi.

Chàng đến gần bậc Ðại sĩ, kính lễ ngài và ngồi xuống một bên. Ngài hỏi:

– Tại sao con đến đây?

Chàng đáp:

– Thưa sư phụ, con đã nói dối, chối bỏ về vị sư phụ của mình nên nay con hoàn toàn tiêu tan sự nghiệp.

Sau đó chàng kể lại lỗi lầm của mình trong một bài kệ và xin thần chú lần nữa:

  1. Kẻ nào nghĩ mặt đất san bằng,
    Ðang trải dài ra dưới gót chân,
    Liền ngã vào ao, hồ, vực thẳm,
    Vấp vào gốc rễ mục, long thân.
  2. Vật giống sợi dây, kẻ giẫm lên,
    Hóa ra con rắn, sắc đen huyền;
    Kẻ kia sa cẳng vào trong lửa,
    Vì mắt mù không thể xét xem.
  3. Con phạm tội, nên mất chú thần,
    Nhưng còn sư phụ, bậc Hiền nhân,
    Xin thầy tha thứ cho lần nữa,
    Nhìn tận mắt thầy, hưởng đặc ân!

Nhưng sư phụ chàng đáp:

– Sao này, con bảo gì vậy? Chỉ cần ra dấu cho kẻ mù lòa là nó tránh được ao hồ đủ thứ rồi; còn tađây đã dạy thần chú cho con một lần, con lại muốn gì nữa đây chứ?

Rồi ngài ngâm các vần kệ sau:

  1. Ðúng cách, ta từng dạy bảo ngươi,
    Chú kia, ngươi học đúng theo thời,
    Ta đà giảng đủ phần tinh túy,
    Ngươi khéo làm hay, chú chẳng rời.
  2. Ai đầy cực nhọc, hỡi ngu nhân,
    Học chú thần gian khổ, khó khăn,
    Ðối với loài người trên hạ giới,
    Rồi khi kẻ ngốc đã làm ăn,
    Cuối cùng nó lại đem quăng bỏ,
    Cũng chỉ vì mồm nói dối gian.
  3. Với kẻ ngu si muốn dối gian,
    Người không tự chế, kẻ vong ân,
    Cút ngay, đừng hỏi gì ta nữa,
    Ta chẳng còn cho nó chú thần!

Bị thầy dạy đuổi như vậy, chàng trai nghĩ thầm: “Ðời còn có nghĩa lý gì với ta nữa?”. Rồi chàng vào rừng sâu và chết bơ vơ một mình ở đó.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo sư bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, này các Tỷ-kheo, Ðề-bà-đạt-đa mới chối bỏ vị thầy dạy của mình, và phải chịu tiêu diệt thảm khốc.

Và nói xong Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là kẻ vong ân bội nghĩa kia, Ànanda (A-nan) là vua, và Ta chính là người Candàla (Chiên-đà-la) hạ đẳng.

-ooOoo-

  1. Chuyện cây hồng phượng vĩ (Tiền thân Phandana)

Người đứng cầm rìu ở dưới tay..

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trên bờ sông Rohini, về một việc tranh chấp cãi cọ trong gia đình.

Hoàn cảnh này được mô tả đầy đủ trong số 546. Tiền thân Kunàla. Vào dịp này, bậc Ðạo sư dạy bảo đám thân tộc ấy, Ngài nói:

*

Một thời kia vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, ngoài kinh thành là một làng thợ mộc. Trong làng có một người Ba-la-nại làm nghề kiếm sống bằng cách mang gỗ từ rừng về đóng xe kéo.

Vào thời ấy có một cây hồng phượng vĩ đại thọ ở vùng Tuyết Sơn. Một hắc Sư tử thường đến nằm dưới gốc cây ấy săn mồi.. Một ngày kia gió đánh mạnh cây khiến một cành cây khô rơi xuống, trúng vai Sư tử, cành đập mạnh vào khiến cho nó đau đớn vùng lên chạy trốn vì sợ hãi, sau đó quay lui nhìn trên con đường vừa mới chạy qua, khi chẳng thấy có gì cả; nó suy nghĩ: “Chẳng có sư tử, cọp, beo hay con gì nữa đuổi theo ta ở đây, thì ta chắc vị Thần cây không chịu cho ta nằm đó. Ta muốn xem có đúng vậy không?”. Suy nghĩ thế nó liền giận dữ thật vô lý, vừa đánh vào cây vừa thét lên:

– Ta chẳng ăn một ngọn lá nào bẻ trên cây của ông, cũng chẳng bẻ gãy cành nào, thế sao ông chịu cho các loài vật khác ở đây, mà ông không chịu cho ta ở? Ta có làm gì sai trái đâu, cứ đợi vài ngày nữa, ta sẽ phá nát gốc rễ cành lá ông, ta sẽ làm ông tan tác từng mảnh!

Sư tử mắng rủa vị Thần cây như vậy, rồi bỏ đi tìm một người.

Lúc ấy, người thợ mộc Bà-la-môn nói trên cùng với hai ba người khác đã dùng xe tải đến vùng lân cận ấy để kiếm gỗ đóng xe. Gã để chiếc xe một nơi, rồi cầm búa rìu trong tay đi tìm cây gỗ, gã chợt đến gần cây phượng vĩ. Con sư tử thấy gã, liền đi đến đứng dưới gốc cây vì nó nghĩ thầm: “Hôm nay ta phải trừ khử kẻ thù của ta mới được”. Người kia thấy nó và vội chạy trốn ra khỏi vùng rừng cây đó. Sư tử nghĩ thầm: “Ta phải nói chuyện với kẻ đó trước khi nó chạy đi mất”. Rồi nó ngâm vần kệ đầu:

  1. Người đứng cầm rìu ở dưới tay,
    Ði lui, đi tới chốn rừng này,
    Mau lên, nói rõ cho ta biết,
    Ông muốn cây gì ở chốn đây?

“Ô kìa! thật là kỳ diệu! – Người kia bảo khi nghe lời ấy – ta thề chưa bao giờ nghe thấy súc vật nói được như người. Chắc chắn nó sẽ biết rõ loài cây nào có gỗ tốt để đóng xe. Ta muốn hỏi nó”. Nghĩ vậy, gã liền ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Trên đồi, dưới vực, khắp đồng bằng,
    Làm chúa, ngài đi khắp núi rừng,
    Nói thật cho nghe, ta muốn hỏi,
    Cây gì tốt để bánh xe lăn?

Sư tử nghe vậy nghĩ thầm: “Bây giờ ta đã được toại nguyện rồi!”.

Nó liền ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Chẳng keo, tai ngựa, chẳng chiên-đàn,
    Chẳng bụi cây nào tốt gỗ hơn,
    Cây ấy, phượng hồng như vẫy gọi
    Làm xe gỗ tốt nhất trần gian.

Kẻ kia nghe vậy rất hài lòng, nghĩ thầm: “Thật là một ngày tốt lành đưa ta vào rừng. Ðây là một vị nào mang lốt thú vật chỉ bảo cho ta cây gỗ tốt để làm bánh xe. Kỳ lạ thật, song lại tuyệt quá!” Vì vậy, gã hỏi Sư tử vần kệ thứ tư:

  1. Cành lá cây kia kiểu thế nào,
    Thân cây trông thấy, loại ra sao,
    Mong ngài nói thật, ta xin hỏi,
    Ðể biết loài cây ấy ở đâu?

Sư tử ngâm hai vần kệ đáp lời:

  1. Này cây cành rũ thấy là đà,
    Cong xuống, song không gãy trước giờ,
    Cây phượng vĩ hồng này đấy bạn,
    Gốc cây thường đứng của nhà ta.
  2. Ðể làm vành trục hoặc khung càn,
    Ðôi bánh, hay bất cứ mọi phần,
    Cây giống như vầy đều ích lợi,
    Cho người khi đóng chiếc xe lăn.

Sau khi tuyên bố như vậy, Sư tử đứng xích ra một bên, lòng mừng khấp khởi. Còn người thợ mộc bắt đầu đẵn cây. Lúc ấy, vị Thần cây nghĩ thầm: “Ta không hề làm rớt cành nào trên con thú kia, mà nó lại nổi cơn thịnh nộ thật phi thời, bây giờ nó lại đang muốn phá nhà ta, và ta cũng sẽ bị hủy diệt nữa. Vậy ta phải tìm cách đập tan oai lực của nó”. Vì thế vị Thần này giả dạng tiều phu, đến gần gã thợ mộc kia bảo:

– Này người kia, anh kiếm được cây này đẹp quá! Thế anh định làm gì khi chặt nó đây?

– Làm bánh xe.

– Sao, có kẻ nào bảo anh là cây ấy làm bánh xe tốt lắm ư?

– Ðúng thế, một con hắc Sư tử.

– Tốt lắm, hắc Sư tử khéo nói lắm. Song, này ta bảo anh là lột được da cổ Sư tử màu đen rồi phủ lên quanh vành ngoài của bánh xe như một tấm chắn bằng sắt, chỉ một mảnh rộng chừng bốn lóng tay thôi thì bánh xe vững vàng lắm, anh sẽ hưởng lợi rất lớn nhờ đó.

– Nhưng làm sao ta kiếm được da Sư tử bây giờ?

– Sao anh ngu thế? Cây này đứng trong rừng, nó chạy đi đâu được. Anh cứ đi tìm sư tử kia đã chỉ bảo cho anh cây này và hỏi nó xem phải chặt phần cây nào, rồi đem nó về đây. Sau đó, nó chẳng nghi ngờ gì cả và chỉ nơi này nơi nọ, cứ chờ lúc nó nhe hàm răng ra thì lấy chiếc rìu bén nhất đập nó trong khi nó đang nói, giết nó đi mà lột da ra, ăn phần thịt ngon nhất, rồi hãy chặt cây tùy thích.

Như thế là Thần cây nổi cơn thịnh nộ.

Ðể giải thích vấn đề này, bậc Ðạo sư ngâm các vần kệ sau:

  1. Cây kia lập tức bảo như vầy,
    Ý nguyện ước ao được tỏ bày:
    “Ta cũng có điều này muốn nói
    Này Bhà-rad hỡi, hãy nghe đây!
  2. Từ bên vai chúa tể khu rừng,
    Anh hãy cắt ra rộng bốn phân,
    Bao phủ da quanh vành gỗ ấy,
    Rồi xe sẽ mạnh gấp đôi lần.
  3. Cây kia phút chốc nổi lôi đình,
    Trút xuống loài sư tử đã sinh,
    Cả với loài chưa xuất hiện nữa,
    Gây ra tàn sát khiến hồn kinh.

Người thợ làm xe nghe theo lời chỉ dẫn của Thần cây, kêu to:

– Ôi hôm nay thật là một ngày may mắn cho ta.

Rồi gã đi giết Sư tử, chặt cây xuống và đi về.

  1. Cây phượng vĩ tranh đấu chúa rừng,
    Chúa rừng tranh đấu với cây thần,
    Mỗi bên tranh chấp nhau như vậy,
    Ðem lại bên kia họa tử vong.
  2. Vậy giữa người, nơi có hận hiềm,
    Hoặc là cãi cọ nổi hăng lên,
    Khác nào thú dữ và cây gỗ,
    Chúng nhảy như loài Công múa men.
  3. Ðây này Ta bảo, chính điều lành,
    Là lúc các ông thuận ý tình,
    Hãy giữ đồng tâm, đừng cãi vã,
    Như cây và thú đã thi hành.
  4. Nên tập bình an với mọi người,
    Ðiều này bậc trí tán dương hoài,
    Ai mong an ổn và chân chánh,
    Tối hậu bình an sẽ đạt thôi.

Khi đám người ấy nghe lời khuyến giáo của vua, họ liền giải hòa với nhau.

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

*

– Vào thời ấy, Ta là vị Thần sống trong rừng kia và đã chứng kiến toàn thể câu chuyện này.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chúa Thiên Nga Có Thần Tốc (Tiền thân Javana-Hamsa)

Này Thiên nga đến đậu nơi này..,

Chuyện này do bậc Ðạo sư kể tại Kỳ Viên về Kinh Dalhadhamma Suttanta hay Kinh Thí dụ các Lực sĩ.

Ðức Thế Tôn dạy:

– Này các Tỷ-kheo, giả sử có bốn thiện xạ đứng ở bốn điểm trên một vòng tròn, bốn lực sĩ khéo huấn luyện, thật tài giỏi, thiện xảo nghề cung tên, bắn ra bốn mũi tên từ bốn điểm, Tasẽ lấy bốn mũi tên vừa được bắn ra trước khi chúng chạm xuống đất; phải chăng rõ ràng các ông đều đồng ý rằng kẻ đó là một người rất nhanh nhẹn và chính là hiện thân của tốc lực tuyệt vời! Vậy mà, này các Tỷ-kheo, dù tốc lực của người kia nhanh đến đâu đi nữa, dù cho thần kỳ như tốc lực của mặt trăng, mặt trời, cũng còn cái khác nhanh hơn. Này các Tỷ-kheo, Tabảo tốc lực của người kia dù cho thần kỳ đến đâu đi nữa, dù nhiều vị Thiên bay nhanh hơn cả mặt trăng, mặt trời, vẫn còn có cái khác nhanh hơn chư Thiên ấy nữa. Này các Tỷ-kheo, tốc lực của người kia thần diệu là dường ấy (như trên). Tuy thế còn nhanh hơn cả chư Thiên biết bay là sự biến hoại của Tứ đại hợp thành sự sống. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các ông phải học tập điều này, phải tinh cần. Thật vậy, Tabảo các ông phải học tập điều này!”.

Hai ngày sau lời giáo huấn này, Tăng chúng bàn luận chuyện đó trong Chánh pháp đường:

– Này các Hiền hữu Tỷ-kheo, bậc Ðạo sư trong địa vị tối thượng của một bậc Chánh Ðẳng Giác,đã chứng minh bản chất của những gì tác hợp nên sự sống, chỉ rõ đời sống thật là giả tạm và yếu ớt mỏng manh khiến cho Tăng chúng lẫn người ngoại đạo phải hết sức kinh hoàng. Ôi! Thần diệu thay uy lực của đức Phật!

Bậc Ðạo sư bước vào, hỏi Tăng chúng đang bàn luận điều gì. Các vị thưa với Ngài và Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, nay Tađạt Trí tuệ Viên mãn mà dùng lời khuyến giáo để báo trước cho Tăng chúng thấy rõ Tứ đại thật là giả tạm thì cũng chẳng kỳ diệu gì. Ngay cả khi Ta hóa sinh từ một chim thiên nga, Ta cũng chứng tỏ tính cách giả tạm của Tứ đại trong đời sống và bằng Giáo pháp của Ta, đã gây kinh hoàng cho cả triều đình một vị vua cùng với chín vị vua ở Ba-la-nại nữa.

Nói xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời khi vua Brahmadatta lên ngôi ở Ba-la-nại, bậc Ðại sĩ được sinh làm một chúa Thiên nga có thần tốc, sống trên núi Cittakùta, dẫn đầu một đoàn gồm chín mươi ngàn Thiên nga khác. Một ngày kia, sau khi cùng cả đoàn đi ăn lúa mọc hoang trong cái hồ ở vùng đồng bằng xứ Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ), ngài bay qua không gian (như thể một tấm thảm vàng óng ánh trải dài từ đầu nọ đến đầu kia của kinh thành Ba-la-nại) và lượn chầm chậm như đùa chơi về phía núi Cittakùta. Lúc bấy giờ vua Ba-la-nại trông thấy ngài, liền bảo các triều thần:

– Con chim đằng kia ắt hẳn là chim chúa như trẫm đây.

Vua sinh lòng yêu mến chúa chim, nên đã đem vòng hoa, hương liệu và dầu thơm đi tìm bậc Ðại sĩ và bảo trình diễn đủ loại âm nhạc cho ngài nghe. Khi bậc Ðại sĩ thấy vua tôn vinh ngài như vậy, ngài hỏi các chim Thiên nga kia:

– Khi một ông vua muốn tôn vinh ta như vậy, vua ấy muốn gì chăng?

– Tâu Chúa thượng, ngài muốn bầu bạn với Chúa thượng.

– Ðược rồi, thế thì ta bầu bạn với vua ấy!

Ngài bảo và ngài làm bạn với vua, rồi sau đó bay về tổ.

Một ngày kia, sau việc kết bạn này, vua vào ngự uyển và đi đến hồ Anotatta, chim chúa bay đến gần vua với một cánh mang đầy nước và cánh kia mang bột gỗ Chiên-đàn, chim rảy nước lên mình vua và rắc bột gỗ Chiên-đàn cho vua nữa, trong lúc hội chúng đang nhìn theo, ngài lại cùng với đàn chim bay về Cittakutà. Từ lúc ấy về sau, vua cứ mong ngóng bậc Ðại sĩ mãi; ngài thường nấn ná chờ đợi vừa nhìn con đường bậc Ðại sĩ đến và nghĩ thầm: “Hôm nay thân hữu ta sẽ đến”.

Lúc bấy giờ hai con thiên nga non trẻ nhất trong đàn của bậc Ðại sĩ, quyết định thi đua với mặt trời, vì vậy chúng xin phép bậc Ðại sĩ thử sức bay qua với mặt trời. Ngài bảo:

– Này các chú, tốc lực mặt trời rất thần kỳ, các chú không bao giờ có thể thi đua với mặt trời đâu. Các chú sẽ chết tiêu tan trong cuộc thi tài ấy. Vậy các chú đừng đi.

Lần thứ hai chúng xin phép, rồi lần thứ ba. Song Bồ-tát phản đối chúng đến lần thứ ba chúng xin. Tuy nhiên, chúng vẫn khăng khăng giữ ý định đó, không tự lượng sức mình, rồi cương quyết bay đua với mặt trời mà không tâu trình với chúa chim. Vì thế, trước lúc rạng đông, chúng đã đậu trên đỉnh núi Yugandhara (một trong bảy rặng núi lớn quanh núi Meru: Tu-di).

Bậc Ðại sĩ thấy vắng chúng, liền hỏi chúng đi đâu. Khi ngài nghe những việc xảy ra , ngài nghĩ thầm: “Chúng sẽ chẳng bao giờ đủ sức bay đua với mặt trời, và chúng sẽ bị tiêu diệt trong cuộc so tài ấy. Ta phải cứu mạng chúng mới được”. Vì vậy, ngài bay đến đỉnh núi Yugandhara và đậu bên cạnh chúng. Khi vầng nhật xuất hiện trên đường chân trời, đôi tiểu thiên nga vùng lên, lao tới đằng trước theo mặt trời, bậc Ðại sĩ cũng bay theo chúng. Con chim bé nhất bay tới trước giờ ngọ thì ngất xỉu. Bên trong khớp xương đôi cánh nó cảm thấy như thể đang bị lửa đốt. Rồi nó ra hiệu cho bậc Ðại sĩ:

– Thưa đại huynh, tiểu đệ không tiếp tục được nữa.

Bậc Ðại sĩ bảo:

– Ðừng sợ, ta sẽ cứu chú.

Rồi mang nó trên đôi cánh dang rộng của mình, ngài an ủi nó, đưa nó về núi Cittakùta đặt nó xuống giữa đàn thiên nga, sau đó ngài lại bay đi bắt kịp mặt trời, đến bên cạnh chim kia. Con chim ấy bay đua với mặt trời cho đến gần đúng ngọ thì ngất ngư và thấy như thể lửa đang thiêu đốt trong khớp xương ở đôi cánh của nó. Nó vừa làm dấu cho bậc Ðại sĩ vừa kêu lên:

– Thưa đại huynh, tiểu đệ không thể tiếp tục được nữa.

Ngài cũng an ủi nó như trên, rồi mang nó trên đôi cánh dang rộng của mình, ngài đưa nó về đỉnh Cittakùta. Vào lúc ấy mặt trời đang ở trên đỉnh đầu. Bậc Ðại sĩ suy nghĩ: “Hôm nay ta sẽ thử xem uy lực của mặt trời ra sao”. Thế là chỉ cần phóng lui một vòng, ngài đã đậu trên đỉnh Yugandhara. Sau đó vừa tung cánh lên là ngài bắt kịp mặt trời, ngài bay đi, lúc tiến về phía trước, lúc lùi lại đằng sau, ngài nghĩ thầm: “Ðối với ta thì chuyện bay đua với mặt trời thật là vô ích, chỉ do trí ngu si mà ra cả, nó có nghĩa lý gì đối với ta đâu? Ta muốn bay đến Ba-la-nại, nói cho thân hữu của ta là vua ấy một lời khuyến giáo về công bình và chân chánh”.

Rồi quay lại trước khi mặt trời dần đi xuống giữa không gian, ngài bay qua toàn cõi thế giới từđầu chí cuối xong, ngài giảm dần tốc lực, bay từ đầu nọ đến đầu kia toàn xứ Diêm-phù-đề, cuối cùng đến thành Ba-la-nại. Cả kinh thành này với chu vi chừng mười hai dặm, như thể đang nằm dưới bóng chim chúa, không có một khe hở nào lộ ra; rồi tốc lực giảm dần, những lỗ trống, kẽ hở lại xuất hiện trên bầu trời. Bậc Ðại sĩ bay chầm chậm rồi đáp xuống từ không trung, hạ cánh trước song cửa. Vua vui mừng reo lớn:

– Thân hữu của ta đang đến kìa!

Rồi đặt chiếc bảo tọa bằng vàng cho chim đậu, vua phán:

– Xin Hiền hữu vào đây, an tọa tại nơi này.

Và ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Chúa Thiên nga, đến đậu nơi đây,
    Lòng trẫm thiết tha diện kiến ngài,
    Hãy chọn thứ gì ngài thấy được,
    Nay ngài là chúa tể nơi này.

Bậc Ðại sĩ đậu trên bảo tọa bằng vàng. Vua xoa vào dưới đôi cánh của ngài những loại dầu thơm đã lọc sạch cả trăm lần, hay còn hơn thế nữa, cả ngàn lần, ban cho ngài thứ gạo mềm mại và nước đường trong cái đĩa bằng vàng, rồi nói chuyện với ngài với giọng ngọt ngào như mật:

– Này Hiền hữu, ngài đến đây một mình, vậy ngài từ đâu lại?

Chim chúa kể hết mọi việc. Sau đó vua bảo ngài:

– Này Hiền hữu, xin ngài lần nữa biểu diễn tốc lực của ngài so với mặt trời kia.

– Thưa Ðại vương, tốc lực ấy không thể phô diễn được.

– Vậy xin ngài biểu diễn một việc tương tự như thế.

– Ðược lắm, thưa Ðại vương, ta sẽ biểu diễn một việc tương tự như vậy. Xin triệu tập các xạ thủ bắn nhanh như chớp lại đây.

Vua liền ra lệnh triệu tập họ. Bậc Ðại sĩ lựa bốn người rồi cùng họ từ cung điện đến sân chầu. Nơi đó, ngài bảo dựng một trụ đá, và buộc vào cổ ngài một cái chuông nhỏ. Sau đó, ngài đậu trên đỉnh trụ đá, đặt bốn xạ thủ quay lưng từ trụ đá hướng ra bốn phía, bảo:

– Thưa Ðại vương, xin ra lệnh cho bốn xạ thủ bắn ra cùng một lúc bốn mũi tên về bốn hướng và ta sẽ chụp lấy bốn mũi tên ấy trước khi chúng chạm mặt đất rồi đặt xuống chân các xạ thủ. Ðại vương sẽ biết khi nào ta đi nhặt các mũi tên nhờ tiếng chuông reng reng, song Ðại vương chẳng trông thấy được ta đâu.

Sau đó đồng loạt các xạ thủ bắn bốn mũi tên ra, ngài liền chụp lấy chúng và đặt dưới chân đám xạ thủ kia, còn mọi người thấy ngài đang đậu trên trụ đá.

– Thưa Ðại vương, ngài đã thấy tốc lực của ta chăng?

Rồi ngài nói tiếp:

– Thưa Ðại vương, tốc lực ấy không phải là tốc lực bậc nhất của ta đâu, cũng không phải là tốc lực bậc trung mà là tốc lực kém nhất trong các tốc lực thấp kém: thế mà nó đã chứng tỏ cho Ðại vương thấy ta nhanh nhẹn đến mức độ nào.

Sau đó, vua hỏi ngài:

– Này Hiền hữu, thế có tốc lực nào nhanh hơn tốc lực của ngài chăng?

– Thưa Hiền hữu, có chứ. Nhanh hơn tốc lực của ta đến trăm lần, à không, cả ngàn lần, là sự biến hoại của Tứ đại trong đời sống của loài hữu tình: Chúng tan rã như vậy đó, chúng bị tiêu diệt như vậy đó.

Bằng cách ấy ngài đã làm sáng tỏ cách thế giới hữu hình hoại vong như thế nào, bị hủy diệt như thế nào từng giây từng phút. Khi nghe nói vậy, vua sợ chết, không còn giữ bình tĩnh được nữa, mà ngất xỉu đi. Cả hội chúng kinh hoàng, rảy nước vào mặt vua, khiến ngài hồi tỉnh. Sau đó bậc Ðại sĩ nói với vua:

– Thưa Ðại vương, chớ sợ hãi, nhưng hãy nhớ đến thần chết. Hãy tiến lên trong đường công chính, bố thí và làm thiện sự, phải gắng tinh cần.

Lúc ấy vua đáp lại:

– Tâu Chúa thượng, nếu không có một Ðạo sư hiền trí như ngài, trẫm không thể nào sống được, vậy xin ngài đừng trở về đỉnh núi Cittakùta nữa, mà hãy ở lại đây, dạy bảo trẫm, xin hãy làm Ðạo sư để giáo hóa trẫm.

Rồi vua ngâm hai vần kệ thỉnh cầu ngài:

  1. Nhờ nghe nói đến người mình yêu mến,
    Mà tình yêu thương được dưỡng nuôi hoài,
    Lòng nhớ nhung người vắng bóng dần phai,
    Vì nghe, thấy, khiến người sinh lưu luyến,
    Xin hãy cho ta đặc ân diện kiến.
  2. Giọng nói ngài thật thân ái bên ta,
    Diện kiến ngài còn thắm thiết hơn xa,
    Vì ta thích được cùng ngài diện kiến,
    Thiên nga hỡi, ở cùng ta, xin đến!

Bồ tát đáp:

  1. Ví dù ta ở lại với Quân vương,
    Trong cảnh vinh quang dường ấy được ban,
    Song ngày kia, choáng men nồng, Chúa thượng
    Có thể truyền: “Ðem chúa chim ra nướng!”.

– Không đâu – Vua nói – Lúc có ngài ở bên cạnh, trẫm sẽ không bao giờ đụng đến men rượu nồng nữa.

Rồi vua cam kết hứa hẹn điều này qua vần kệ sau:

  1. Thức uống, ăn kia thật đáng rủa nguyền
    Nếu trẫm quý yêu hơn cả bạn hiền!
    Trẫm không nếm, dầu giọt nào hay ngụm,
    Bao lâu ngài ở lại đây cùng trẫm!

Sau vần kệ này, Bồ-tát ngâm sáu vần kệ khác:

  1. Tiếng loài sơn cẩu, tiếng chim muông,
    Cũng rất dễ dàng được cảm thông,
    Tiếng nói người đời, tuy rõ thế,
    Vô cùng tối nghĩa, hỡi quân vương!
  2. Con người thường nghĩ: “Bạn thân mình,
    Quyến thuộc là đây, bạn chí tình!”.
    Song tình bằng hữu thường hay mất,
    Căm hận, oán thù lại khởi sinh.
  3. Ai được ngài thương, cũng quý ngài,
    Gần ngài, dù ở tận phương trời,
    Song người sống cận kề ngài đó,
    Lòng ngài hờ hững, cũng xa vời.
  4. Ai ở nhà ngài, dạ mến thương,
    Vẫn ân cần, dẫu cách trùng dương,
    Nhà ngài ai ở, tâm thù nghịch,
    Xa cách trùng dương, vẫn oán hờn!
  5. Những người thù nghịch, Chúa công ôi!
    Dù ở gần nhau, vẫn cách vời.
    Song hỡi Ðại vương-nuôi-quốc-độ,
    Các hiền nhân kết hợp nhau hoài!
  6. Ai ở quá lâu sẽ thấy rằng
    Thân bằng có lúc hóa cừu nhân,
    Trước khi để mất tình thân hữu,
    Ta giã biệt ngài, cất bước chân.

Sau đó vua nói với ngài:

  1. Dù trẫm chấp tay lại cố nài,
    Ngài không hề chịu để vào tai,
    Chẳng dành lời nói cho bằng hữu
    Tha thiết cầu mong giúp đỡ hoài.
    Trẫm khát khao ngài ban đặc huệ:
    Trở về đây viếng trẫm nay mai.

Thế rồi Bồ tát đáp lời:

  1. Nếu không gì gián đoạn dòng đời,
    Vì thử ngài, ta, Chúa thượng ôi!
    Còn sống, hỡi Người-nuôi-đại-chúng,
    Ta bay về lại chốn đây thôi,
    Rồi ta còn dịp lành tương kiến,
    Trong lúc ngày đêm lờ lững trôi.

Với lời nhắn nhủ vua xong, bậc Ðại sĩ lên đường về núi Cittakùta.

*

Khi bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỷ kheo, ngày xưa, ngay cả khi Ta được sinh vào loài súc vật, Ta đã chứng minh tính cách mong manh của Tứ đại trong cuộc sống và tuyên thuyết Chánh pháp.

Nói vậy xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda là vua, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là con chim trẻ nhất, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là chim non thứ hai, hội chúng của đức Phật là tất cả Thiên nga, và Ta chính là Chúa Thiên nga có thần tốc.

-ooOoo-

  1. Chuyện Tiểu Đạo Sĩ Nàrada (Tiền thân Culla-Nàrada)

Không có củi nào được bổ ra..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về các trò quyến rủ của một cô gái thô tục.

Thời ấy, Ta biết rằng có một cô gái chừng mười sáu tuổi, con của một người dân thành Xá-vệ là một cô gái có thể đem vận may đến cho đàn ông, song chẳng có nam nhân nào chọn nàng cả. Vì vậy, mẹ nàng nghĩ thầm: “Con gái ta đã đến tuổi trưởng thành. Song chẳng ai chọn nó cả. Ta muốn dùng nó như miếng mồi câu cá, khiến cho một vị xuất gia tu hành trong dòng họ Thích-ca phải hoàn tục và nó sống nương nhờ vị ấy”.

Lúc bấy giờ, có một thiện gia nam tử ở Xá-vệ, đã quyết tâm tu hành và gia nhập Tăng chúng. Nhưng từ khi chàng đã thọ Ðại giới xong, chàng lại mất cả ước vọng tu tập và cứ sống chuyên lo tô điểm bản thân chàng.

Người nữ cư sĩ này thường hay dọn sẵn cháo gạo trong nhà và nhiều thức ăn loại cứng, loại mềm, rồi đứng ở cửa trong khi Tăng chúng đi ngang qua đường phố và cố tình xem ai là người có thể bị lòng thèm ăn của ngon vật lạ lôi cuốn. Kìa lũ lượt trên đường là đám nam tử hành trì Tam Tạng Kinh, Luật, Luận, song bà không tìm được ai có thể mắc vào mồi của bà cả. Giữa các vị mang bình bát đắp y kia là những vị pháp sư thuyết giáo với giọng ngọt ngào như mật, di chuyển như đám mây bồng bềnh trước gió, bà chẳng thấy ai cả.

Song cuối cùng bà chợt thấy một nam nhân tiến tới, khóe mắt xoa dầu thơm, tóc buông xõa, mang chiếc y trong bằng thứ lụa mượt mà, chiếc y ngoài được giặt giũ sạch sẽ, bình bát có màu sắc đẹp như loại bảo châu, chiếc dù thật vừa ý, một con người buông thả các căn theo sở thích, toàn thân một màu đồng vàng bóng lộn. “Ðây chính là người mà ta có thể bắt lấy!” Bà nghĩ thầm và đảnh lễ vị kia, bà đến cầm lấy bình bát và mời ông vào nhà.

Bà dọn chỗ ngồi cho ông, đưa cháo gạo và các thức khác. Rồi sau bữa ăn, bà yêu cầu ông ghé nhà bà làm nơi nghỉ chân lui tới trong tương lai. Vì thế, ông thường viếng thăm nhà đó về sau, dần dần với thời gian trở nên thân thiết.

Một ngày kia, bà cư sĩ ấy nói cốt cho ông nghe:

– Trong nhà này, chúng ta sung sướng lắm, duy chỉ một điều là ta chẳng có con trai hay con rể để bảo tồn gia sản thôi.

Ông nghe được, tự hỏi không biết lý do gì bà lại nói vậy, chẳng mấy chốc dường như việc đó đã đâm sâu vào tim ông. Bà ta bảo con gái:

– Con hãy quyến rủ người này đi, hãy tìm cách điều khiển chàng theo ý con.

Vì thế sau đó, cô gái tô điểm đầy mình đủ loại trang sức và quyến rủ vị kia, dùng đủ mánh lới xảo quyệt của nữ nhân. (Ta phải hiểu rằng “một cô gái thô tục” đây không có nghĩa là thân hình mập mạp, nhưng dù mập hay gầy, cô ta cũng bị gọi là “thô tục” vì mãnh lực năm thứ dục tình của cô ta).

Sau đó, nam tử kia còn trẻ lại bị dục tình chi phối, nên lòng thầm nghĩ: “Nay ta không thể nào tu theo Giáo pháp của đức Phật được nữa”. Và ông đi đến Tinh xá đặt y bát xuống, nói với các vị giáo thọ của mình:

– Tâm con đang thối thất.

Rồi các Tỷ-kheo ấy dẫn ông đến bậc Ðạo sư và thưa:

– Bạch Thế Tôn, Tỷ kheo này đang thối thất.

Ngài hỏi:

– Này Tỷ kheo, họ bảo rằng tâm ông đang thối thất. Có đúng vậy không?

– Bạch Thế Tôn, quả thật như vậy.

– Thế việc gì khiến ông như vậy?

– Bạch Thế Tôn, một cô gái thô tục.

Ngài bảo:

– Này Tỷ kheo, ngày xưa, lâu lắm rồi, khi ông ở trong rừng, chính cô gái này đã cản trở đời thanh tịnh của ông và đã làm hại ông rất nhiều, thế thì tại sao ông lại sinh thối thất vì cô ta nữa?

Rồi theo lời thỉnh cầu của tăng chúng, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời kia, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn rất giàu có. Sau khi thành đạt việc học vấn, ngài về điều hành cả tài sản. Kế đó, bà vợ ngài sinh một con trai rồi qua đời. Ngài suy nghĩ: “Cũng như vợ yêu quý của ta, cái chết sẽ không chừa ta đâu, vậy gia đình có nghĩa gì với ta nữa? Ta muốn xuất gia tu hành”.

Vì thế, ngài từ bỏ mọi tham dục, cùng con trai ngài đi vào vùng Tuyết Sơn, ở đó cùng sống đời ẩn sĩ, tu tập Thiền định và Thắng trí, cư trú trong rừng, sinh sống bằng trái cây và củ rừng.

Vào thời ấy, dân chúng ở biên địa cướp phá xứ sở, sau khi tấn công một thị trấn và bắt các tù nhân, bọn chúng chất đầy chiến lợi phẩm, trở về biên địa. Trong đám ấy, có một cô gái tuyệt đẹp, song đầy mánh khóe giả dối. Cô ta nghĩ thầm: “Các đàn ông này khi mang chúng ta đi xa nhà, sẽ biến bọn ta thành nô lệ, quyết tìm cách trốn thoát”. Vì vậy, cô ta bảo:

– Thưa chủ nhân, thiếp muốn nghỉ chân, vậy cho thiếp đi nghỉ chân một lát.

Nàng đánh lừa bọn cướp như thế, rồi trốn đi.

Lúc bấy giờ, Bồ tát đã đi vào rừng tìm củ quả, để con trai ở lại am lá. Trong khi ngài đi vắng, cô gái đang lang thang trong rừng, bước đến am này vào sáng sớm, quyến rủ chàng trai bằng dục tình, phá hủy công đức của chàng và chinh phục chàng theo ý mình. Nàng bảo chàng:

– Sao chàng lại ở trong rừng, này đôi ta cùng về một làng kia làm nhà riêng cho ta ở. Tại đó đôi ta dễ dàng tận hưởng mọi lạc thú ái tình.

Chàng bằng lòng và bảo:

– Nay cha ta đang ở trong rừng kiếm trái cây, khi nào gặp lại cha ta thì sẽ cùng nhau đi xa.

Lúc ấy, cô gái thầm nghĩ: “Cậu trai khờ dại này chẳng biết gì cả, song còn cha cậu ắt hẳn đã xuất gia tu hành lúc tuổi già. Khi ông ấy về nhà, ông ấy sẽ biết ta làm gì ở đây và đánh đập ta, lôi cổ kéo cẳng ta ra, quẳng ta vào rừng sâu. Vậy ta muốn đi ngay trước khi ông ấy về”.

Rồi chỉ rõ dấu hiệu đi đường xong, nàng liền đi ngay. Sau khi nàng vừa khuất bóng, chàng trai trở nên buồn bã, không làm phận sự hàng ngày như thường lệ, mà đi trùm kín từ đầu tới chân nằm dài ra trong am lá, u sầu phiền muộn.

Khi bậc Ðại sĩ đem mớ quả rừng về nhà, ngài quan sát dấu chân cô gái: “Ðây là dấu chân một nữ nhân”, ngài nghĩ thầm: “Ắt hẳn công đức của con trai ta đã mất rồi”. Sau đó ngài bước vào am đặt mớ quả rừng xuống và ngâm vần kệ đầu hỏi con trai ngài:

  1. Không có củi nào được bổ ra,
    Và không kéo nước tự ao hồ,
    Cũng không có lửa nào con nhóm,
    Ðờ đẫn nằm sao giống kẻ rồ?

Nghe giọng của cha, chàng trai vùng dậy đảnh lễ cha và hết sức cung kính, chàng thổ lộ rằng chàng không thể nào chịu được cuộc sống trong rừng nữa, và chàng ngâm đôi vần kệ:

  1. Con không thể sống ở sơn lâm,
    Cuộc sống trong rừng thật khó khăn,
    Con quyết điều này, Ca-diếp hỡi!
    Con mong trở lại chốn phàm nhân.
  2. Này Ðại sĩ ơi, hãy dạy con,
    Khi con từ giã, bước lên đường,
    Thế nào phong tục trong toàn quốc
    Con phải biết cho thật tỏ tường.

Bậc Ðại sĩ bảo:

– Này con, được lắm, ta sẽ dạy con mọi phong tục trong nước.

Và ngài ngâm đôi vần kệ:

  1. Nếu con đã quyết chí xa rời
    Các trái cây rừng với sắn khoai,
    Về sống thị thành, nghe dạy bảo
    Làm sao phong cách hợp theo đời.
  2. Tránh nơi vách đá, chốn hang sâu,
    Thuốc độc, rời xa, dẫu loại nào,
    Bước thận trọng nơi loài rắn ở,
    Ðống bùn nhơ bẩn, chờ sa vào.

Con trai vị ẩn sĩ không hiểu được lời khuyên cốt lõi ấy, liền hỏi:

  1. Cách đá, dốc cao ấy có gì
    Liên quan đến Thánh đạo ta đi,
    Bùn nhơ, thuốc độc cùng loài rắn?
    Xin nói điều này với tiểu nhi.

Vị ấy đáp lời giải thích:

  1. Có thuốc uống kia ở cõi trần,
    Mà người ta gọi rượu, con thân,
    Thơm tho, như mật ong ngon ngọt,
    Giá rẻ, đầy hương vị dịu dàng,
    Cái ấy, Na-ra-da, bậc trí
    Bảo là thuốc độc đối hiền nhân.
  2. Và bọn nữ nhân ở cõi trần,
    Làm người ngu trí phải điên cuồng,
    Chúng lôi đám trẻ người non dạ,
    Như bão dưới đường bắt hạt bông,
    Ta nói vực sâu là đấy nhé
    Ðang nằm ngay trước mặt hiền nhân.
  3. Ðược đời trao tặng đại vinh quang,
    Ân sủng, lộc nhiều, tiếng tốt vang,
    Này đó, Nà-ra, bùn cấu uế
    Có cơ làm bẩn các hiền nhân.
  4. Ðế vương cùng với đám quần thần
    Ðang ngự trong cung chốn thế nhân,
    Này đó, Na-ra đều chức trọng,
    Mỗi vua là một chúa oai hùng.
  5. Trước chân vua chúa, các quân vương,
    Con nhớ đừng nên chọn bước đường
    Vì đó, Na-ra là rắn cả,
    Những người ta đã nói, con thương.
  6. Ngôi nhà con đến để xin ăn,
    Khi mọi người an tọa trước bàn,
    Nếu thấy tốt lành trong chỗ ấy,
    Thì con ăn uống thỏa thuê lòng.
  7. Khi người kia dọn bữa mời con,
    Thực hiện điều này lúc uống ăn:
    Ðừng uống quá chừng, ăn quá độ,
    Tranh xa nguồn dục lạc phàm trần.
  8. Rượu chè, chuyện phiếm, bạn tà gian,
    Các tiệm bán buôn của thợ vàng,
    Con hãy tránh xa như những kẻ
    Ði trên đường lộ chẳng bình an.

Trong khi người cha cứ tiếp tục nói mãi, nói mãi bên tai, chàng trai dần dần hồi tỉnh và nói:

– Thưa phụ thân, con đã chán chê cõi phàm trần rồi.

Sau đó vị cha dạy cho chàng tu tập từ tâm và các thiện pháp khác. Người con nghe theo lời cha dạy bảo, chẳng bao lâu phát khởi Thiền định trong tâm trí chàng. Và cả hai cha con không bao giờ gián đoạn Thiền định, nên được tái sinh vào cõi Phạm thiên.

*

Khi bậc Ðạo sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, cô gái thô tục này là thiếu nữ kia, Tỷ-kheo thối thất là con trai vị ẩn sĩ, và Ta chính là người cha.

-ooOoo-

  1. Chuyện Sứ Thần (Tiền thân Dùta)

Trầm tư trên bến nước sông Hằng..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về việc tán thán trí tuệ của Ngài.

Trong Chánh pháp đường, Tăng chúng đang bàn luận:

– Này các Tỷ kheo Hiền hữu, tài trí của đấng Thập lực thật dồi dào phương tiện thiện xảo biết bao! Ngài đã chỉ cho vương tử Nanda (em trai của Ngài) thấy cả bầy thiên nữ xong khiến vị ấy đắc Thánh quả; Ngài lại trao chiếc y cho chàng tiểu thị giả của Ngài và giáo hóa cho chàng chứng quả Thánh quả bốn Thiền chứng. Ngài chỉ đóa hoa sen cho người thợ rèn nọ khiến người ấy đạt Thánh quả. Thật Ngài đang hóa độ chúng sinh với muôn vàn phương tiện khác nhau.

Bậc Ðạo sư bước vào hỏi Tăng chúng đang ngồi bàn luận chuyện gì; các vị trình với Ngài, Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên Như Lai có đủ phương tiện thiện xảo và tài trí để biết rõ việc gì sẽ đem lại kết quả như ý đâu, mà ngày xưa Như Lai cũng đã đầy đủ tài trí.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, cả nước đó không có vàng vì vua áp bức toàn dân và lấy hết kho vàng. Vào thời ấy, Bồ-tát sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở một làng nọ trong xứ Kàsi. Khi ngài đến tuổi khôn lớn, ngài đến Takkasilà và nói:

– Ta sẽ kiếm tiền để trả học phí cho sư phụ ta sau, bằng phương pháp xin của bố thí một cách kín đáo.

Ngài đi đến thọ giáo và khi đã hoàn thành việc học tập, ngài nói:

– Thưa sư phụ, con sẽ dùng hết năng lực tinh cần của con để đem về dâng sư phụ số tiền xứng đáng với việc sư phụ dạy bảo.

Thế là xin phép từ giã thầy dạy, ngài ra đi tất cả vùng đó để cầu bố thí.

Sau khi ngài đã kiếm được vài lạng vàng theo đúng cách chơn chánh và ngay thẳng, ngài ra về định trao tận tay thầy mình, rồi trên đường đi đã dùng thuyền vượt qua sông Hằng. Khi con thuyền tròng trành trên mặt nước, số vàng ấy rơi mất. Ngài suy nghĩ: “Xứ này thật khó kiếm vàng, nếu ta lại đi lần nữa để kiếm tiền trả thầy ta thì sẽ chậm trễ lắm, vậy nếu ta cứ ngồi tuyệt thực bên bờ sông Hằng thì sao? Dần dần cũng có lúc đức vua biết được việc ta ngồi đây, và vua sẽ phái một vài cận thần đến, nhưng ta sẽ chẳng nói gì với họ. Sau đó, chính đức vua sẽ đến và nhờ đó ta sẽ kiếm được tiền học phí trả thầy ta”.

Vì vậy, ngài đắp thượng y lên mình, đặt sợi dây tế đàn ra ngoài và ngồi bên bờ sông Hằng như thể một pho tượng vàng trên vùng cát bạc. Ðám đông đi ngang qua thấy ngài ngồi đó không ăn thứ gì cả, liền hỏi tại sao ngài ngồi như vậy. Nhưng ngài không nói lời nào với dân chúng cả. Hôm sau, dân làng kế cận hay tin ngài ngồi đó, cũng đến hỏi han, nhưng ngài cũng không nói gì; dân chúng thấy ngài kiệt sức như vậy thì vừa bỏ đi vừa thương xót than vãn.

Ngày thứ ba, dân từ kinh thành kéo đến, ngày thứ tư là các bậc quyền cao chức trọng trong kinh thành, ngày thứ năm là đám triều thần quanh vua, ngày thứ sáu, vua sai các đại thần đến, nhưng ngài chẳng hề nói với ai điều gì. Ngày thứ bảy, vua lo ngại đến gặp ngài và xin ngài giải thích qua vần kệ đầu:

  1. Trầm tư bên bến nước sông Hằng,
    Và tại sao chàng chẳng nói năng,
    Ðể trả lời ta truyền nhắn hỏi,
    Hay chàng dấu chuyện khổ đau chăng?

Nghe lời này, bậc Ðại sĩ đáp:

– Tâu Chúa thượng, nỗi sầu của thần chỉ được thổ lộ cho người có thể vứt bỏ nó đi chứ không nói với ai khác được.

Rồi ngài ngâm bảy vần kệ:

  1. Hỡi Ðại vương nuôi-xứ-Kà-si!
    Số ngài ví thử gặp sầu bi,
    Nỗi sầu chớ lộ cho người khác,
    Nếu kẻ này không có ích gì.
  2. Song nếu ai san sẻ một phần
    Nỗi sầu, nhờ thế lực quyền năng,
    Thì con người ấy đang sầu muộn
    Nói rõ người kia mọi ước mong.
  3. Tiếng loài sơn cẩu, tiếng chim muông
    Cũng rất dễ dàng được cảm thông,
    Tiếng nói người đời, tuy rõ thế
    Vô cùng khó hiểu, hỡi Quân vương!
  4. Con người thường nghĩ: “Bạn thân mình,
    Quyến thuộc bà con, bạn chí tình”,
    Song mối tình thân thường biến mất,
    Oán thù, căm hận, lại sần sinh!
  5. Người không được hỏi gặn nhiều lần,
    Nói chẳng đúng thời nỗi khổ tâm,
    Chắc chắn làm phiền lòng bạn hữu,
    Mong mình an ổn, phải than van.
  6. Tìm kiếm cơ may để nói năng,
    Biết người hiền trí lại đồng lòng,
    Bạn hiền tỏ nỗi ưu cùng bạn,
    Ý nghĩa nằm sau tiếng dịu dàng.
  7. Song, nếu trí nhân thấy rõ ràng,
    Không gì giải được nỗi gian truân,
    Ðiều gì đem nói cho người biết,
    Cũng chẳng đạt thành quả ước mong,
    Bậc trí một mình đành nín lặng,
    E dè nhẫn nhục đến sau cùng.

Bậc Ðại sĩ đã thuyết pháp như vậy qua bảy vần kệ trên để giáo hóa vua, rồi ngâm thêm bốn vần nữa để kể chuyện ngài đi kiếm tiền trả cho thầy dạy:

  1. Ðại vương! Thần đã phải lang thang,
    Nhiều nước, kinh thành, mỗi quốc vương,
    Thị trấn, thôn làng, cầu bố thí
    Bởi vì học phí, quyết lòng mang.
  2. Ðến trước thềm ai, mọi chủ nhà,
    Triều thần, đạo sĩ hoặc thương gia,
    Cầu xin một ít vàng, thần được
    Chừng một hay hai lạng ấy mà,
    Chúa thượng, số vàng nay đã mất
    Nên thần buồn bã thật sâu xa.
  3. Các sứ giả không thế lực gì
    Làm thần thoát khỏi nỗi sầu bi,
    Thần đà cân nhắc hoài cho kỹ,
    Chúa thượng! Thần không giải thích chi.
  4. Song ngài, uy lực đủ, Anh quân!
    Giải thoát cho thần nỗi khổ thân.
    Vì xét kỹ ngài nhiều đức độ,
    Thần cho ngài biết thật tinh tường.

Khi vua nghe lời cảm khái ấy, liền đáp:

– Này chàng Bà-la-môn, thôi đừng phiền muộn nữa. Vì trẫm sẽ tặng học phí cho chàng đem trả thầy giáo.

Rồi vua hoàn lại gấp đôi số vàng cũ.

Ðể làm sáng tỏ vấn đề này, bậc Ðạo sư ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Ðại vương nuôi dưỡng-cả-giang-san,
    Hoàn lại người kia một số vàng,
    Tròn vẹn với lòng tin tưởng nhất,
    Trước chàng đã có, gấp đôi lần.

*

Khi bậc Ðạo sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỷ kheo, không phải chỉ bây giờ Như Lai mới đầy đủ phương tiện thiện xảo, xưa kia Như Lai cũng vẫn như vậy.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda (A-nan) là vua, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vị giáo thọ, và Ta là chàng thanh niên kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cây Bồ Đề và Thánh Đế Kalinga (Tiền thân Kalinga-Bodhi)

Kha-linh, Thánh đế Chuyển Luân Vương..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về việc Tôn giả Ànanda cử hành lễ cúng dường cây Bồ-đề.

Trong lúc đức Như Lai đi du hành vì mục đích thâu nhận những người đủ cơ duyên để thọ giáo, dân chúng thành Xá-vệ tiến đến Kỳ Viên, tay cầm đầy vòng hoa thơm ngát, thấy không có nơi nào khác để tỏ lòng ngưỡng mộ sùng kính, liền đặt hoa bên cổng vào Hương phòng của đức Phật rồi ra đi. Việc này đã gây được niềm hoan hỷ rất lớn. Song Trưởng giả Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) nghe được chuyện ấy; khi đức Như Lai trở về, vị trưởng giả liền đến thăm Tôn giả Ànanda và nói với ngài:

– Thưa Tôn giả, tinh xá này không được cúng dường trong lúc đức Như Lai du hóa, và không có nơi nào cho dân chúng dâng hoa thơm để tỏ lòng sùng bái. Xin Tôn giả từ bi thưa với đức Như Lai về vấn đề này để Ngài cho biết xem có thể tìm được nơi nào dùng vào mục đích này chăng?

Vị Tôn giả kia sẵn sàng làm theo, liền thưa đức Phật:

– Bạch Thế Tôn, có bao nhiêu loại bảo Tháp?

– Này Ànanda, có ba loại.

– Bạch Thế Tôn, đó là các loại nào?

– Bảo tháp thờ kim thân, bảo tháp thờ các vật thường dùng hay mang trên người và bảo tháp thờ các kỷ vật (ảnh tượng).

– Trong lúc Thế Tôn còn tại thế, có thể xây một bảo tháp được chăng?

– Không được, này Ànanda, không thể xây một bảo tháp thờ kim thân, loại tháp đó chỉ được xây khi nào một đức Phật diệt độ (đắc Niết bàn vô dư y). Một bảo tháp thờ kỷ vật cũng không đúng đâu vì mối liên hệ chỉ tùy thuộc vào tâm tưởng mà thôi. Còn cây Ðại Bồ-đề đã được chư Phật sử dụng, nên rất đáng làm nơi chiêm bái, dù chư Phật còn tại thế hay diệt độ.

– Bạch Thế Tôn, trong thời gian Thế Tôn du hóa xa xôi, ngôi Ðại Tinh xá Kỳ Viên này không có nơi nương tựa, và dân chúng không có nơi nào để có thể tỏ bày lòng quy ngưỡng. Xin Thế Tôn cho phép con trồng một hạt giống từ cây Ðại Bồ-đề (ở Bồ-đề Ðạo tràng) ngay trước cổng Tinh xá này được chăng?

– Dĩ nhiên nên làm như vậy lắm, này Ànanda, và nó cũng sẽ là một nơi an trú cho Ta như trước kia.

Tôn giả này nói lại chuyện ấy với trưởng giả Cấp Cô Ðộc, bà Visàkkà và vua Pasenadi. Sau đó, tại cổng Tinh xá Kỳ Viên, Tôn giả đào một lỗ để trồng cây Bồ-đề và nói với Ðại trưởng lão Moggallàna (Mục-kiền-liên):

– Tiểu đệ muốn trồng một cây Bồ-đề trước Tinh xá Kỳ Viên, xin Tôn huynh kiếm cho tiểu đệ một quả Bồ-đề có được chăng?

Vị Trưởng lão kia rất sẵn sàng đồng ý, liền bay qua không gian đến tận vùng đất có cây Bồ-đề ấy. Ngài lấy đặt dưới tấm y một quả Bồ-đề đang rụng ra khỏi thân cây nhưng không rớt xuống đất, và mang nó về giao cho Tôn giả Ànanda. Vị Tôn giả này báo tin cho vua xứ Kosala biết là mình sắp trồng cây Bồ-đề. Vì thế, buổi chiều vua đến cùng một đám tùy tùng đông đảo, sau đó ông Cấp Cô Ðộc và bà Visàkkà cũng đến cùng một đám người mộ đạo nữa.

Ở chỗ cây Bồ-đề sắp được trồng, Tôn giả Ànanda đặt một chiếc bình vàng, dưới đáy có lỗ, đựng đầy đất tắm nước hương thơm ngát. Tôn giả bảo:

– Tâu Ðại vương, xin hãy trồng hạt giống Bồ-đề này.

Và Tôn giả trao hạt ấy cho vua. Song vua nghĩ rằng vương quốc này không ở trong tay mình mãi được, nên để cho ông Cấp Cô Ðộc trồng, liền giao hạt giống cho vị trưởng giả đại phú kia. Sau đó, ông Cấp Cô Ðộc xới đất thơm lên và thả hạt giống vào. Vừa lúc hạt rơi ra khỏi tay vị ấy, ngay trước mắt mọi người, vọt lên một cây Bồ-đề con, to cỡ bằng đầu lưỡi cày, cao chừng năm mươi cubit (1cubit = 45cm) tứ phía nảy ra năm cành lớn dài 50cubit, như thân cây ấy. Cây đứng sừng sững như thế quả là một chúa tể rừng xanh, một phép lạ hy hữu thần kỳ.

Vua tưới quanh thân cây những bình bằng vàng, bằng bạc, tất cả tám trăm bình đựng đầy nước tỏa hương thơm ngát, tươi đẹp với vô số hoa sen xanh. Bao giờ cũng vậy, vua ra lệnh tất cả một dãy dài bình bát đựng đầy thực phẩm và một sàng tọa làm bằng bảy báu vật, có lớp nhủ vàng rảy lên, rồi dựng một bức tường bao quanh vùng ấy, lại xây một nhà canh cổng làm bằng bảy báu vật. Vua bày tỏ lòng sùng kính đặc biệt trọng thể như vậy đối với cây Bồ-đề.

Trưởng lão Ànanda đến gần đức Như Lai và thưa với Ngài:

– Bạch đức Thế Tôn, vì lợi lạc của chúng sinh, xin Thế Tôn thị hiện ngay dưới cây Bồ-đề con vừa mới trồng này sự chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác mà Thế Tôn đã thành tựu dưới gốc cây Bồ-đề trước kia.

– Này Ànanda, ông nói gì thế? Không có nơi nào khác có thể chịu đựng nổi sức mạnh của Ta nếu Ta ngồi nơi đó để chứng đắc quả vị mà Ta đã chứng đắc trong khu vực có cây đại Bồ-đề trước kia cả đâu.

Tôn giả Ànanda lại nói:

– Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn vì lợi lạc của chúng sinh mà dùng cây Bồ-đề này làm nơi nhập đại định, bao lâu mặt đất chốn này đủ sức chịu đựng sức mạnh của Thế Tôn.

Bậc Ðạo sư liền sử dụng nơi mới trồng cây Bồ-đề ấy để nhập đại định suốt một đêm.

Tôn giả Ànanda liền thông báo với vua và mọi người khác, rồi gọi nó bằng tên “Hội Bồ-đề”. Và cây này do Tôn giả Ànanda trồng nên được đặt tên là cây Bồ-đề của Ànanda.

Vào thời ấy, Tăng chúng bắt đầu nói đến việc trên tại Chánh pháp đường:

– Này hiền hữu, ngay khi đức Như Lai còn tại thế, Tôn giả Ànanda đã xin trồng một cây Bồ-đề và cử hành đại lễ cúng dường cây ấy. Uy lực của Tôn giả thật cao cả thay!

Bậc Ðạo sư đi vào hỏi Tăng chúng đang bàn luận điều gì. Các vị thưa với Ngài, Ngài bảo:

– Này các Tỷ kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ànanda hướng dẫn hội chúng loài người trên khắp bốn châu thế giới cùng các đám tùy tùng đông đảo mang đến vô số vòng hoa thơm và mở Hội Bồ-đề trong vùng Ðạo tràng quanh cây Bồ-đề kia đâu.

Nói xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, trong vương quốc Kalinga tại kinh thành Dantapura, có một vị vua mệnh danh là Kalinga cai trị. Vua có hai vương tử tên là Mahà-Kalinga và Culla-Kaling. Thời ấy các nhà tiên tri đã đoán rằng vị thái tử sẽ cai trị sau khi vua cha băng hà, còn vị vương đệ sẽ trở thành nhà tu khổ hạnh, sống đời khất sĩ; tuy thế, con trai vị sau này sẽ làm một đấng Chuyển luân Thánh vương (Ràja Cakkavatti: vị vua ngự trị toàn cầu bằng Chánh pháp).

Thời gian trôi qua và khi vua cha băng hà, thái tử lên ngôi báu, còn vương đệ làm phó vương. Vị vương đệ cứ nghĩ rằng con trai mình sau này sẽ là một Chuyển luân vương, nên sinh lòng kiêu mạn về cớ đó. Vua không chịu được chuyện này, liền ra lệnh cho một vị sứ thần truy bắt Phó vương Kalinga. Vị sứ giả kia đi đến bảo:

– Tâu Ðiện hạ, Ðại vương muốn sai bắt ngài, vậy ngài hãy lo cứu mạng mình.

Vương tử này liền chỉ cho vị sứ thần được giao trọng trách này thấy chiếc nhẫn có dấu hiệu riêng của mình, một tấm thảm thật đẹp và một cây kiếm: Có ba bảo vật tất cả. Rồi vương đệ bảo:

– Khanh phải nhận ra được vương nhi ta nhờ những tín vật này và phò vương nhi lên ngôi báu.

Cùng với những lời dặn dò này, vương tử vội trốn vào rừng. Tại đó, chàng dựng một am thất ở một nơi đẹp, vừa ý và sống như người tu khổ hạnh trên một bờ sông.

Lúc bấy giờ, trong vương quốc Madda ở kinh thành Sàgala, vua Madda vừa hạ sinh một công chúa. Về phần công chúa này, cũng như vương tử kia, các nhà tiên trí đoán rằng nàng sẽ phải làm nhà tu khổ hạnh, song con trai nàng lại sẽ thành một Chuyển luân vương. Các vị vua ở Diêm-phù-đế (Ấn Ðộ) nghe tin đồn ấy, liền đồng một lúc đến bao vây kinh thành.

Vua nghĩ thầm: “Nay ta gả con gái ta cho một quốc vương nào thì các vị vua kia sẽ nổi giận. Vậy ta phải cố gắng cứu mạng con gái ta”.

Vì thế, vua cùng hoàng hậu và công chúa cải trang trốn vào rừng, và sau khi dựng một am thất hơi xa bờ sông, phía trên thảo am của vương tử Kalinga, họ cùng sống tại đó như người tu khổ hạnh, ăn toàn những thứ cây trái lượm hái được.

Hai vị cha mẹ muốn con gái được an ổn, nên để nàng ở lại trong am, rồi đi ra hái trái rừng. Trong lúc hai vị đi vắng, nàng lượm đủ các loại hoa kết thành vòng hoa. Bấy giờ, trên bờ sông Hằng có một cây xoài nở hoa đẹp, tạo thành một cái thang thiên nhiên. Nàng trèo lên đó, đùa chơi và tìm cách thả vòng hoa xuống nước.

Một ngày kia, vương tử Kalinga vừa bước ra khỏi nước sau khi tắm thì vòng hoa nọ vướng lên tóc chàng.

Chàng nhìn hoa và bảo:

– Một nữ nhân nào đã kết hoa này, song đó không phải là một người đàn bà trưởng thành mà là một cô gái còn thơ dại. Ta phải kiếm nàng mới được.

Thế là chàng đâm ra si tình, đi lên phía thượng lưu sông Hằng, cho đến khi chàng nghe nàng ca hát bằng một giọng ngọt ngào trong lúc ngồi trên cây xoài. Chàng đến gần gốc cây, vừa thấy nàng liền bảo:

– Này giai nhân, nàng là loài gì thế?

– Thưa công tử, thiếp là người – Nàng đáp.

– Thế thì hãy xuống đi – Chàng bảo.

– Thưa công tử, không được, vì thuộc dòng dõi Sát-đế-ly.

– Thưa công nương, ta cũng vậy, xin nàng bước xuống.

– Thưa công tử, không được, thiếp không xuống đâu. Lời nói không làm nên một Sát-đế-ly; nếu quả thật ngài là một vị Sát-đế-ly, xin hãy kể cho thiếp nghe những điều bí mật của nghi lễ truyền thống kia.

Sau đó, hai người nói cho nhau nghe những điều bí mật truyền kỳ trong dòng họ. Rồi công chúa bước xuống và hai bên kết giao với nhau.

Khi cha mẹ nàng trở về, nàng kể cho hai vị nghe chuyện vương tử của vua Kalinga, vì sao chàng vào rừng với đầy đủ mọi chi tiết. Hai vị bằng lòng đem gả nàng cho chàng. Trong thời gian sống chung sắc cầm hòa hợp, công chúa thụ thai và sau mười tháng, hạ sinh một nam tử đầy đủ tướng mạo tốt lành, phước đức và đặt tên là Kalinga. Cậu trai lớn lên, học tập đủ mọi nghệ thuật tài năng từ thân sinh và tổ phụ chàng.

Về sau, cha chàng nhìn theo cách kết hợp của ngôi sao và biết được vương huynh đã băng hà. Vì thế, ông gọi con trai vào và bảo:

– Này con, con không nên phí cuộc đời trong rừng già buồn tẻ, vì vương huynh ta, Ðại vương Kalinga ấy đã qua đời. Vậy con phải về Dantapura và kế vị vương quyền của dòng họ ta.

Sau đó, người cha trao cho con các vật mang theo mình: chiếc nhẫn có tín hiệu, tấm thảm và thanh kiếm rồi bảo:

– Này con, trong kinh thành Dantapura ở phía kia có một vị đại thần vốn là bề tôi thân tín của cha. Con hãy đến nhà vị ấy, đi thẳng vào phòng riêng, đưa cho ông thấy ba vật này, rồi nói cho ông biết con là con của ta. Ông sẽ đưa con lên ngai vàng.

Chàng trai giã từ cha mẹ và ông bà, và nhờ thần lực công đức của chàng, chàng bay qua không gian, xuống nhà vị đại thần nọ, đi thẳng vào phòng riêng của vị ấy.

– Công tử là ai? Vị quan hỏi.

Chàng đáp:

– Ta là con trai của Tiểu vương Kalinga

Rồi chàng rút ba tín vật ấy ra. Vị quan liền báo tin cho cả hoàng cung, các triều thần liền trang hoàng kinh thành và giương chiếc lọng hoàng gia lên đầu chàng. Sau đó vị Tế sư của triều đình tên là Kàlinga – Bhàvadvàja dạy chàng Mười Pháp mà một Chuyển luân Thánh vương phải thành tựu và chàng học tất cả mười phận sự ấy.

Thế rồi vào một ngày rằm, tức là ngày Trai giới, từ Cakkadaha xuất hiện cho vua Bánh xe báu (Bảo luân), từ dòng họ Uposatha xuất hiện Voi báu, từ giống quý tộc Valàha xuất hiện Ngựa báu, từ Veppulla xuất hiện Bảo châu, kế là Nữ vương báu cùng đám tùy tùng thị nữ và vương tử báu dần dần xuất hiện.

Sau đó vua thống trị toàn cõi địa cầu.

Một ngày kia, ngài được đám tùy tùng hộ tống suốt ba mươi sáu dặm đường, ngự trên bảo tượng toàn thắng, cao như đỉnh núi Kelàsa. Trong cảnh uy nghi lộng lẫy, ngài trở về thăm song thân chốn cũ. Nhưng khi muốn vượt qua vùng đất quanh cây đại Bồ-đề, bảo tọa vinh quang của chư Phật, nơi đã trở thành trung tâm điểm của vũ trụ, thì Voi báu không thể nào qua được: vua cứ thúc Voi mãi, song Voi vẫn không thể nào vượt qua.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm vần kệ đầu:

  1. Kha-linh Thánh đế, Chuyển luân vương,
    Chân chánh, ngài cai trị cõi trần,
    Một thuở đến Bồ-đề đại thọ,
    Trên mình Voi báu đại oai thần.

Do đó, vị Tế sư của triều đình cùng du hành với vua thầm nghĩ: “Trên không gian chẳng có gì cản trở cả, tại sao đức vua không giục Voi qua được? Ta muốn đến xem sao”. Từ trên không hạ xuống, vị này chiêm ngưỡng bảo tọa vinh quang của chư Phật, và khu vực quanh cây đại Bồ-đề.

Thời ấy, tương truyền rằng trong khoảng chừng một dặm vuông ấy không bao giờ có một ngọn cỏ mọc, dù chỉ bằng một sợi lông nhỏ, mặt đất như thể cát mịn, bốn bề là thảo mộc, cát đằng và đại thọ chẳng khác nào chúa tể sơn lâm sừng sững như đang chiêm ngưỡng, đầu quay mặt về hướng bảo tọa Bồ-đề. Khi vị Bà-la-môn Tế sư quan sát chỗ này, lại suy nghĩ: “Ðây là nơi chư Phật đã đoạn tận mọi dục tham của trần thế nên không ai có thể vượt qua được, dù cho đó chính là Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ đi nữa”.

Và tiến về phía đức vua, vị Tế sư tâu với ngài các đặc tính của địa phận quanh cây Bồ-đề, cùng thỉnh cầu Thánh vương ngự xuống Voi.

Ðể giải thích vấn đề này, bậc Ðạo sư ngâm các vần kệ sau:

  1. Vị Tế sư tâu với Thánh vương,
    Là con nhà khổ hạnh hiền nhơn,
    Khi ngài chuyển vận xa luân báu,
    Ðảnh lễ ngài xong, hướng dẫn đường:
  2. “Ðây các thi nhân vẫn tán dương,
    Xin ngài ngự xuống, tấu Hùng vương,
    Nơi đây chư Phật – đà vô thượng
    Chánh Giác viên thành tỏa ánh quang.
  3. Tương truyền rằng ở chốn phàm trần,
    Ðây chính là linh địa thánh thần,
    Thảo mộc, cát đằng, cùng đại thọ
    Ðứng quanh trong dáng điệu tôn sùng.
  4. Xuống đây, xin đảnh lễ trang nghiêm,
    Vì đến miền xa tận hải biên,
    Trên đại địa cầu nuôi vạn vật,
    Nơi này là đất thánh thiêng liêng.
  5. Ðại vương đầy đủ mọi loài voi
    Thuần chủng nhờ cha mẹ tốt đôi,
    Ngự giá đến đây, Voi vẫn muốn,
    Song không thể tiến bước gần nơi.
  6. Ngự trên mình Bảo tượng thuần nòi,
    Thánh ý tuy nghi, cứ thúc Voi,
    Song chẳng cách nào Voi bước nữa,
    Ðến đây, Voi phải đứng yên thôi”.
  7. Vua nghe lời nói vị tiên tri,
    Vừa phán truyền cho Bảo tượng đi,
    Vừa thúc gậy sâu vào Bảo tượng:
    “Nếu vầy, ta sẽ thấy liền khi”.
  8. Bị thúc, Voi kêu thét tựa kèn,
    Như còi lanh lảnh, hạc vang rền,
    Chuyển rung, liền ngã vì hùng lực
    Ðè nặng sườn, không thể đứng lên.

Vì cứ bị đức vua thúc mãi, Voi không thể nào chịu được cơn đau đớn, nên phải chết ngay. Song đức vua không biết là Voi đã chết, cứ điềm nhiên ngự trên lưng Voi. Một lát sau, Tế sư Kalinga-Bhàradvàja nói:

– Tâu Thánh thượng, Vương tượng đã chết rồi, xin Thánh thượng ngự qua Voi khác.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ thứ mười để giải thích việc này:

  1. Quốc sư lo sợ lúc nhìn Voi
    Ðã chết, lòng kinh động thốt lời:
    “Xin tìm voi khác, tâu Hoàng thượng,
    Bảo tượng ngài nay bỏ mạng rồi”.

Nhờ công đức và thần lực của vị Thánh vương, một con Voi khác thuộc chủng loại Uposatha xuất hiện trước đức vua và đưa lưng ra mời. Vua ngự trên lưng nó. Lúc ấy thi thể vương tượng kia liền ngã xuống đất.

Bậc Ðại sư ngâm vần kệ để giải thích việc này:

  1. Vua hãi kinh nghe tấu việc này,
    Ngự lên Voi khác, bỗng liền ngay,
    Thi hài Bảo tượng kia nhào xuống,
    Lời thật tiên tri đã hiển bày.

Lập tức vua ngự xuống từ trên không gian, và chiêm ngưỡng vùng đất quanh cây Bồ-đề. Trước việc thần kỳ kia vừa thị hiện xong, đức vua tán thán vị tế sư Bhàradvàja qua vần kệ:

  1. Thế này, với vị Tế sư mình,
    Ðại đế Kha-linh bảo: “Thực tình
    Mọi việc khanh am tường thấu suốt,
    Hiền khanh thấy tất cả duyên sinh”.

Bấy giờ, vị Bà-la-môn kia không muốn nhận lời tán thán trên, mà vẫn giữ nguyên vị trí khiêm tốn của mình, ông tán thán công đức chư Phật và ca tụng các Ngài hết lời.

Bậc Ðạo sư lại ngâm kệ để giải thích vấn đề:

  1. Quốc sư từ chối sự tuyên dương
    Và tấu như vầy với Thánh vương:
    ” Thần chỉ biết điềm vùng tướng triệu,
    Còn chư Phật giác ngộ hoàn toàn.
  2. Phật-đà tri kiến đạt toàn chân,
    Ðiềm triệu, các Ngài chẳng chú tâm,
    Chư Phật toàn tri nhờ tuệ quán,
    Thần là học giả chẳng uyên thâm.

Vua nghe nói về công đức của chư Phật, nên lòng đầy hoan hỷ, liền ban lệnh cho mọi người trần thế đem thật nhiều vòng hoa thơm đến cúng dường vùng đất quanh linh thọ Bồ-đề suốt bảy ngày đêm liền.

Bậc Ðạo sư ngâm đôi vần kệ để giải thích việc này:

  1. Thánh thọ Bồ-đề, chúa cúng dường,
    Với bao âm nhạc thật du dương,
    Các vòng hoa đẹp thơm ngào ngạt,
    Ngài lại xây quanh một bức tường.
  2. Thế rồi Thánh đế ngự ra về,
    Mang đến hoa đầy sáu vạn xe,
    Làm lễ cúng dường, vì Ðại đế
    Kha-linh sùng Thánh địa Bồ-đề.

Sau khi đã làm lễ cúng dường trọng thể Ðại thọ Bồ-tát như trên, đức vua thăm song thân, rồi rước hai vị về thành Dantapura sống cùng ngài. Tại đấy ngài chuyên bố thí và làm các phận sự khác, cho đến khi mạng chung ngài được tái sinh vào cõi Trời Ba mươi ba.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại trên, bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ànanda làm lễ cúng dường cây Bồ-đề, mà ngày xưa cũng vậy.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda là vua Kalinga, và Ta chính là vị quốc sư Kalinga – Bhàradvàja.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hiền Giả Akitta (Tiền thân Akitta)

Sak-ka, Chúa tể giữa quần sinh..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về một đại thí chủ rất rộng lượng sống ở Xá-vệ.

Chuyện kể rằng người này mời bậc Ðạo sư đến nhà và suốt bảy ngày đã cúng dường rất nhiều thí vật cho Tăng chúng đi theo Ngài. Vào ngày cuối cùng lại cúng dường Thánh chúng đủ các vật dụng cần thiết, sau đó bậc Ðại sư nói lời tùy hỷ với ông:

– Này nam cư sĩ, công đức bố thí của ông thật là rộng lớn, ông đã thực hành một việc khó lắm thay. Bố thí là tục lệ của các bậc hiền trí ngày xưa, thí vật phải được phân phát dù người còn tại gia hay xuất gia, các bậc trí giả ngày xưa, ngay khi đã rời thế tục vào ở trong rừng, khi chỉ ăn lá Kara rảy nước mà không có thứ gia vị nào cả cũng vẫn đem cho đám khất thực đi qua đó để đáp ứng nhu cầu của các vị ấy và vẫn an trú trong hỷ lạc của bản thân mình.

Gia chủ kia đáp:

– Bạch Thế Tôn, việc cúng dường mọi vật dụng cần thiết ấy cho Tăng chúng thật rõ ràng dễ hiểu. Song lời dạy của Thế Tôn chưa được rõ. Xin Thế Tôn giải thích cho chúng con.

Rồi theo lời thỉnh cầu trên, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh trong một gia đình đại phú Bà-la-môn, có tài sản lên tới tám trăm triệu. Ngài được đặt tên là Akitti. Khi ngài vừa biết đi, thì một bé gái lại ra đời với tên Yavasati.

Lúc mười sáu tuổi, bậc Ðại sĩ đi vào thành Ba-la-nại học tập cho đến lúc thành đạt rồi ra về. Sau đó cha mẹ ngài qua đời. Khi ngài cử hành tang lễ cho song thân đã khuất xong, ngài xem xét lại kho tàng của gia tộc. Danh mục ghi rõ: “Các vị này, vị kia đã tích trữ những tài sản lớn như vậy rồi qua đời, kế đến là các vị khác cũng tích trữ nhiều như vậy..” Nghe chuyện này, ngài phiền muộn trong trí và nghĩ thầm: “Kho báu này ai cũng thấy cả, song những vị tích trữ tài sản thì không còn nữa. Các vị đã ra đi để lại kho báu đằng sau mình, nhưng khi ta từ trần, ta muốn đem theo bảo vật”. Vì vậy, ngài cho tìm em gái đến và bảo:

– Hiền muội, hãy trông nom kho báu này.

– Ý hiền huynh là thế nào?

Ngài đáp:

– Ta muốn làm người tu khổ hạnh.

Nàng đáp:

– Này hiền huynh, tiểu muội không muốn đội lên đầu những thứ mà hiền huynh đã nhổ ra khỏi miệng, tiểu muội chẳng muốn thứ gì cả, mà cũng muốn sống đời khổ hạnh thôi.

Rồi sau khi xin phép vua, ngài bảo đánh trống vang dội khắp kinh thành, bố cáo cho mọi người rõ:

– Toàn dân lắng nghe này: “Ai muốn có tiền bạc cứ đến nhà hiền nhân kia!”.

Suốt bảy ngày, ngài phân phát những kho tài sản lớn, tuy thế kho báu vẫn chưa hết, ngài lại nghĩ thầm: “Tứ đại trong thân ta đang tan rã, ta còn muốn cái trò phân phát tài sản này nữa sao? Thôi, ai muốn lấy cứ lấy đi”.

Thế là ngài từ giã ngôi nhà đầy châu báu, giữa các gia nhân thân quyến khóc lóc xung quanh, ngài cùng em gái ra đi. Và cái cổng thành Ba-la-nại nơi các ngài đi qua được gọi là cổng Akitta, còn bến đò các ngài bước xuống bến sông cũng được đặt tên là bến đò Akitta nữa.

Các ngài băng qua ba dặm đường, đến một nơi mát mẻ dễ chịu thì dựng lên một am lá và cùng em gái ngài sống như người tu khổ hạnh. Sau thời gian từ bỏ thế tục, nhiều người khác cũng làm như vậy, dân ở thôn quê, thị trấn, hoặc ở kinh thành, đầy đủ cả. Hội chúng thật đông đảo, các vị ấy nhận được nhiều vật cúng dường cùng sự tôn trọng sùng kính chẳng khác nào thời có một đức Phật xuất hiện ở đời. Lúc ấy bậc Ðại sĩ thầm nghĩ: “Ở đây thật nhiều vinh quang trọng vọng cùng với vô số thí vật và hội chúng đông đảo, song ta phải độc cư”.

Vì thế, vào một lúc không ai ngờ được và cũng không báo trước cho cô em gái, ngài ra đi một mình, dần dần đến tận vương quốc Damila ở bờ biển bắc Tích lan sống trên một hoa viên sát trên vùng Kàvìrapattana, ngài tu tập Thiền định và Thắng trí. Tại đó ngài cũng nhận được sự ngưỡng mộ và vô số thí vật của dân. Ðiều ấy không thích hợp với ngài, ngài liền từ bỏ hết và phi hành qua không gian rồi đến tận đảo của Rắn Rồng (Nàga) gần Bắc Tích Lan. Vào thời ấy, Kàradìpa được gọi là Ahidìpa hay đảo Rắn Rồng. Tại đó, ngài xây một ẩn am cạnh một cây Kàra lớn và an trú. Song việc ngài ở đó không ai hay biết cả.

Lúc bấy giờ, em gái ngài đi tìm anh, dần dần đến tận vương quốc Damila, vẫn không gặp ngài, nàng lại ở ngay chính nơi ngài đã ở, song nàng không thể phát khởi Thiền định.

Còn bậc Ðại sĩ sống thiểu dục đến độ ngài không đi đâu cả, mà cứ vào mùa có trái cây chín, ngài chỉ sống bằng trái cây đó, còn vào mùa lá trổ bông thì ngài ăn lá đó luộc với ít nước lã. Nhờ ngọn lửa công đức của ngài mà chiếc ngai báu bằng cẩm thạch của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nóng rực lên. Thiên chủ nghĩ: “Ai đã khiến ta phải bước xuống khỏi chiếc ngai ta đang ngự?” và ngài nhận xét và thấy bậc hiền nhân này, ngài nghĩ thầm: “Tại cớ gì vị tu khổ hạnh đằng kia hộ trì côngđức? Có phải vị ấy muốn lên ngôi Thiên chủ chăng? Hay vì một duyên cớ nào khác? Ta muốn thử vị ấy xem. Vị ấy sống rất khổ cực, chỉ ăn lá Kàra luộc với nước thôi: Nếu vị đó ước muốn làm Thiên chủ, vị ấy sẽ nhường cho ta mớ lá cây luộc với nước của mình, còn nếu không thì vị ấy sẽ không đưa”. Sau đó, Thiên chủ giả dạng một Bà-la-môn, đến gặp Bồ-tát.

Bồ-tát đang ngồi ở cửa thảo am, sau khi luộc lá và đem xuống, ngài nghĩ: “Khi nào nguội ta sẽ ăn”. Vào lúc ấy, Sakka Thiên chủ đứng trước mặt ngài và xin bố thí. Khi Bồ-tát nhìn thấy Thiên chủ, lòng rất hoan hỷ: “Thật là một niềm hạnh phúc cho ta – Ngài nghĩ thầm – ta thấy một vị khất thực, hôm nay ta sẽ đạt được tâm nguyện và ta sẽ bố thí”.

Lúc món ăn đã sẵn sàng, ngài liền múc vào bát ngài và vừa tiến về phía Thiên chủ, vừa nói:

– Ðây là vật cúng dường của ta, ước mong rằng đây là phương tiện để ta đạt Chánh Giác tối thượng.

Rồi chẳng để lại chút gì cho mình, ngài đặt hết thức ăn vào bình bát của Thiên chủ. Vị Bà-la-môn này cầm lấy vừa đi một khoảng ngắn thì biến mất. Còn bậc Ðại sĩ, sau khi cúng dường, cũng không nấu thêm thứ gì nữa, mà cứ ngồi an tịnh trong niềm hỷ lạc. Hôm sau, ngài cũng luộc lá và ngồi trước cửa am như cũ. Thiên chủ Sakka lại đến giả dạng một Bà-la-môn và bậc Ðại sĩ cũng bố thí rồi tiếp tục an trú vào hỷ lạc. Vào ngày thứ ba, ngài lại bố thí như trước, và bảo:

– Ngài hãy xem phần phước lạc dành cho ta nhiều biết bao! Chỉ một ít lá Kàra đã mang lại côngđức lớn cho ta rồi.

Trong niềm hỷ lạc phát xuất tận đáy lòng như vậy, ngài thấy yếu người vì thiếu ăn đã ba ngày, ngài liền ra khỏi am đúng lúc ngọ và ngồi trước cửa, suy nghĩ về tặng vật ngài đã đem cúng dường.

Còn Sakka Thiên chủ nghĩ thầm: “Vị đạo sĩ Bà-la-môn này đã nhịn ăn đã ba ngày, yếu ớt thế kia song vẫn nhường cho ta và tìm an lạc trong việc bố thí. Trong tư tưởng vị này không còn ý định nào khác. Ta không hiểu vị ấy ao ước điều gì và tại sao lại bố thí như vậy, nên ta phải hỏi để hiểu vị ấy muốn gì và biết được nguyên nhân việc bố thí trên”.

Vì thế, Thiên chủ chờ đợi đến quá giờ ngọ, và trong vẻ huy hoàng oai nghi tột bực, ngài xuất hiện trước mặt bậc Ðại sĩ, sáng chói như mặt trời ban mai; vừa đứng trước bậc Ðại sĩ, Thiên chủ hỏi:

– Này Ðạo sĩ, tại sao ngài hành trì khổ hạnh, trong rừng này, xung quanh là biển mặn bao bọc, với những cơn gió nóng hừng hực đang hắt mạnh vào người?

*

Thiên chủ ngâm vần kệ đầu để giải thích vấn đề này:

  1. Sak-ka, Chúa tể của quần sinh,
    Trông thấy A-ki đáng kính danh,
    Liền hỏi: “Tại sao, này Ðại sĩ,
    Trú đây trời hực nắng vàng hanh?”

*

Khi bậc Ðại sĩ nghe vậy, và thấy vị đó chính là Sakka, ngài đáp:

– Ta không ước ao đạt đến những cảnh giới trên kia, mà chỉ ao ước chứng đắc Chánh Giác tối thượng nên ta đã sống đời khổ hạnh ở đây.

Ngài ngâm vần kệ thứ hai để làm sáng tỏ điều này:

  1. Thân hoại, tái sinh, tử biệt trần,
    Mê lầm, tất cả chính đau buồn,
    Sak-ka Thiên chủ, nay vì vậy
    Ta vẫn trú đây được vạn an.

Nghe những lời này, Sakka Thiên chủ hoan hỷ trong lòng và thầm nghĩ: “Vị ấy không ham thích bất cứ sinh loại hữu tình nào và vì muốn chứng đắc Niết bàn nên vào an trú trong rừng. Ta muốn ban cho vị ấy một điều ước”. Thế là Thiên chủ mời ngài chọn một điều ước qua lời kệ thứ ba:

  1. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn giờ đây lời ước nguyện
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Bậc Ðại sĩ ngâm vần kệ thứ tư nói lên điều ngài ước mong:

  1. Thiên chủ Sakka của chúng sinh,
    Ban cho ta hưởng một ân lành;
    Vợ con, vàng bạc, cùng kho lúa,
    Dù có dư, ta vẫn bất bình;
    Ta ước những điều tham dục ấy
    Chẳng còn trú ẩn ở tâm mình.

Lúc ấy Sakka Thiên chủ vô cùng hoan hỷ, ban cho ngài thêm nhiều đặc ân khác nữa và bậc Ðại sĩ nhận lãnh, mỗi vị lần lượt ngâm một vần kệ như sau:

Thiên chủ:

  1. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Bồ-tát:

  1. Chúa tể muôn loài chính là Sak-ka,
    Ân lành, ngài muốn tặng cho ta:
    Ruộng, vàng, của cải, tôi đòi, ngựa,
    Trâu, chó, ngay sau phải chết già.
    Ta ước sẽ không còn giống chúng.
    Ta mong nhược điểm ấy rời ta.

Thiên chủ:

  1. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Bồ-tát:

  1. Sak-ka, Thiên chủ ngự trên trần,
    Ban tặng cho ta một đặc ân:
    Ước chẳng nghe, nhìn người độn trí,
    Kẻ kia chẳng sống với ta cùng,
    Chẳng ham trò chuyện người vô trí,
    Chẳng kết bạn cùng kẻ độn căn!

Thiên chủ:

  1. Kẻ ấy làm gì, Kas-sa-pa,
    Cho ngài, xin hãy nói ngay ra,
    Tại sao bầu bạn người vô trí
    Ngài chẳng ưa, này, hãy bảo ta.

Bồ-tát:

  1. Hành động người ngu thật bạo tàn,
    Buộc ràng gánh nặng chẳng ai mang,
    Thực hành ác nghiệp: đích mong muốn,
    Nổi giận khi nghe nói thật chân,
    Nó chẳng biết gì là chánh hạnh,
    Nên ta không muốn kẻ ngu gần.

Thiên chủ:

  1. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
  2. Sak-ka, Thiên chủ của quần sinh,
    Ban tặng cho ta một phước lành:
    Ta ước nghe nhìn người có trí,
    Ước mong vị ấy ở cùng mình.
    Ta mong đàm luận cùng người trí,
    Ðược kết giao cùng bậc trí minh.
  3. Bậc trí làm gì, Kas-sa-pa,
    Cho ngài, xin hãy nói ngay ra,
    Sao ngài ao ước nơi ngài ở,
    Người trí cùng chung sống một nhà?
  4. Hành động tốt lành, bậc trí nhân
    Chẳng ràng buộc gánh khổ vào thân,
    Chuyên tâm, bậc trí làm ân phước,
    Chẳng giận khi nghe nói thật chân,
    Thông hiểu chánh hành, và bởi vậy,
    Lành thay bậc trí sống chung cùng.
  5. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Bồ-tát:

  1. Sak-ka, Thiên chủ của quần sinh,
    Ban tặng cho ta một phước lành:
    Mong giải thoát ngoài vòng ái dục,
    Và khi vầng nhật chiếu bình minh,
    Mong chư Thánh giả du hành đến,
    Ðem thực phẩm thiên giới tặng mình.
  2. Mong tặng nó không giảm sút dần,
    Ta không hối tiếc việc ta làm,
    Mong lòng hoan hỷ lúc phân phát,
    Ta chọn ước kia để hưởng phần.

Thiên chủ:

  1. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Bồ-tát:

  1. Sak-ka, Thiên chủ của quần sinh,
    Ngài đã ban ta một phước lành:
    Thiên chủ, xin đừng thăm viếng nữa,
    Ðiều này khao khát tự tim mình.

Thiên chủ:

  1. Song các nam nhân, các nữ nhân,
    Những người đang sống thật hiền lương,
    Ðều ước ao cùng ta diện kiến,
    Việc này có tác hại gì chăng?

Bồ-tát:

  1. Dung mạo ngài muôn vẻ thiện toàn,
    Vô cùng hoan hỷ, đại vinh quang,
    Thấy ngài, xao lãng điều tâm nguyện,
    Nguy hại là trông thấy Ngọc hoàng!

– Thôi được rồi, thưa Tôn giả – Thiên chủ đáp – Ta quyết sẽ chẳng bao giờ viếng thăm ngài nữa.

Và vừa đảnh lễ ngài, vừa xin ngài thứ lỗi, Thiên chủ ra đi. Từ đó, bậc Ðại sĩ an trú tại nơi ấy suốt đời, tu tập Tứ Vô lượng tâm (từ,bi,hỷ,xả) và được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda (A-nan) là Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) và Ta chính là Hiền giả Àkitti.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hiền Giả Takkàriya (Tiền thân Takkàriya)

Ta nói điên cuồng tựa ễnh ương..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Tỷ-kheo Kokàlika.

Trong một thời an cư về mùa mưa, hai vị Ðại đệ tử Sàriputta (Xá-lợi-phất) và Moggallàna (Mục-kiền-liên) muốn rời hội chúng và sống độc cư, nên từ giã bậc Ðạo sư, đi vào vương quốc, nơi có Tỷ-kheo Kokàlika trú ngụ. Các vị đến nhà Tỷ kheo Kokàlika và nói với ông như vầy:

– Này Hiền hữu Kokàlika, vì chúng ta thích sống với Hiền hữu và Hiền hữu cũng thích sống với chúng ta, nên chúng ta muốn ở lại đây ba tháng.

Vị kia hỏi:

– Các Tôn giả hoan hỷ khi an trú với tiểu đệ theo cách nào?

Hai vị đáp:

– Nếu Hiền hữu không nói với ai rằng hai Ðại đệ tử đang ở đây, thì chúng ta sẽ rất hoan hỷ, đó là niềm an lạc của chúng ta khi sống với Hiền hữu.

– Thế còn tiểu đệ được hoan hỷ như thế nào khi sống chung với các Tôn giả?

– Chúng ta sẽ thuyết Pháp cho Hiền hữu trong ba tháng tại nhà Hiền hữu, chúng ta sẽ giảng giáo lý cho Hiền hữu và việc đó là niềm hoan lạc của Hiền hữu khi sống với chúng ta.

– Xin các Tôn giả hiền huynh hãy an trú tại đây bao lâu các Hiền huynh muốn.

Rồi ông dành một nơi cư trú an lạc cho các ngài. Các ngài an trú tại đó trong quả vị của các Thiền chứng và không ai biết về việc các ngài an trú tại nơi ấy.

Sau khi hai vị đã trải qua mùa mưa như vậy, hai vị bảo ông:

– Này Hiền hữu, nay chúng ta đã ở với Hiền hữu xong, chúng ta muốn trở lại với bậc Ðạo sư.

Và hai vị từ giã lên đường. Ông chấp thuận, cùng với hai vị trên đường đi khất thực vào một làng đối diện nơi đã ở. Sau buổi cơm, các vị Tỷ-kheo Trưởng lão rời làng ấy. Còn Tỷ-kheo Kokàlika từ giã các vị xong, trở về nói với dân chúng:

– Này các cư sĩ, các ông thật giống loài thú hoang sơ. Ðây là hai vị Ðại đệ tử của đức Phật đã an cư suốt ba tháng trong một tinh xá đối diện nơi này, thế mà các ông không hay biết gì cả, nay các ngài đã đi rồi.

– Thưa Tôn giả, tại sao ngài không nói cho chúng tôi gì cả? Dân chúng hỏi.

Rồi họ đem bơ tươi, và thuốc men, y phục đến gần các vị Trưởng lão, kính lễ các vị và nói:

– Bạch các Tôn giả, xin các Tôn giả tha thứ cho chúng con. Chúng con không biết các ngài là Ðại đệ tử, chúng con chỉ mới biết điều ấy do lời của Tôn giả Tỷ-kheo Kokàlika. Xin các ngài từ bi đối với chúng con và nhận các thuốc men, y phục này.

Kokàlika cùng dân chúng đi theo các Trưởng lão vì ông suy nghĩ: “Các Tôn giả này sống rất đạm bạc và thiểu dục; các ngài sẽ không nhận các vật dụng này và rồi sẽ đem chúng cho ta”. Nhưng hai vị Trưởng lão không nhận các vật dụng ấy cho phần mình, cũng không cho Tỷ-kheo Kokàlika, lý do là các vật ấy được cúng dường theo lời xúi giục của một Tỷ-kheo.

Lúc ấy, các cư sĩ liền nói:

– Bạch các Tôn giả, nếu các ngài không nhận các món này, xin đến đây lần nữa để ban phước cho chúng con.

Hai Trưởng lão chấp thuận hứa lời xong, rồi đi về yết kiến bậc Ðạo sư.

Lúc bấy giờ Tỷ-kheo Kokàlika tức giận vì hai Trưởng lão không nhận vật cúng dường cho phần mình mà cũng không đem cho vị này. Còn hai vị Trưởng lão, sau khi ở lại một thời gian ngắn với bậc Ðạo sư, liền chọn năm trăm Tỷ-kheo làm đoàn tùy tùng cho mỗi vị, rồi cùng cả ngàn Tỷ-kheo này du hóa khất thực đến tận xứ sở của Tỷ-kheo Kokàlika.

Các cư sĩ ra đường đón Tăng chúng và dẫn họ đến tinh xá trước kia, cùng bày tỏ lòng ngưỡng mộ hàng ngày đối với các vị.

Dân chúng cúng dường Tăng chúng cả kho lớn y phục và thuốc men. Các Tỷ-kheo đi khất thực cùng hai vị Trưởng lão phân phát y phục cho tất cả các Tỷ kheo đã đến đây, song không chia cho Kokàlika cái nào cả, và hai vị Trưởng lão cũng không cho ông chút gì. Kokàlika không nhận được y phục nên bắt đầu phỉ báng mạ lỵ hai vị Trưởng lão:

– Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên thật tràn đầy ác dục, trước kia đã không nhận các lễ vật cúng dường, nhưng nay lại nhận hết. Chẳng có gì làm thỏa mãn hai vị này cả. Các vị không thương tưởng đến kẻ khác.

Nhưng hai vị Trưởng lão nhận thấy ông đang nuôi ác tâm đối với mình nên các vị cùng đám đồ chúng ra đi, các vị cũng không muốn trở lại dù dân chúng van nài các vị hãy ở lại thêm vài ngày nữa. Lúc ấy, một vị Tỷ-kheo trẻ hỏi:

– Hai vị Trưởng lão sẽ không ở lại đâu, này các cư sĩ. Vị Tỷ-kheo khó tính của các ông không muốn các ngài ở lại đây.

Sau đó, dân chúng đi đến gặp Tỷ-kheo Kokàlika và hỏi:

– Thưa Tôn giả, chúng con được nghe nói Tôn giả không muốn hai vị Trưởng lão ở lại đây. Xin hãy đi ngay, hoặc là khuyên giải các ngài và đưa các ngài trở lại đây hoặc là Tôn giả cũng đi tìm chỗ khác mà ở.

Vì sợ dân chúng, vị này đi thỉnh cầu các Trưởng lão. Các vị đáp:

– Này Hiền hữu, hãy đi về! Chúng ta không trở lại đâu.

Thế là ông không thể thuyết phục hai vị, phải trở về tinh xá. Sau đó, các cư sĩ hỏi ông các Trưởng lão có trở lại nữa không. Ông đáp:

– Ta không thể thuyết phục các ngài trở lại được.

– Tại sao không, thưa Tôn giả?

Và họ bắt đầu suy nghĩ chắc hẳn không có thiện Tỷ-kheo nào muốn ở đó nữa, vì người này sống theo tà hạnh; và họ phải tống xuất ông đi. Họ liền bảo:

– Thưa Tôn giả, xin đừng lại ở đây, chúng con chẳng cung cấp gì cho Tôn giả nữa đâu.

Bị hội chúng làm ô nhục như vậy, vị ấy cầm bình bát, đắp y và đi đến Kỳ Viên. Sau khi đảnh lễ bậc Ðạo sư, ông nói:

– Bạch Thế Tôn, các Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên tràn đầy ác dục, hai vị đang có ác dục chế ngự.

Bậc Ðạo sư đáp:

– Này Kokàlika, đừng nói vậy; này Kokàlika, ông hãy có từ tâm đối với Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, phải biết rằng đó là các thiện Tỷ-kheo.

Kokàlika nói:

– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn tin tưởng hai vị Ðại đệ tử của Thế Tôn, còn con thấy tận mắt hai vịđang có ác dục, hai vị có những việc riêng tư trong lòng, hai vị ấy là các ác nhân.

Người ấy nói như vậy ba lần (mặc dù bậc Ðạo sư đã ngăn cản), rồi đứng dậy ra đi. Ngay khi đang đi trên đường, khắp thân thể ông mọc lên các mụt nhọt bằng hạt cải, sau lớn dần bằng hạt cây vilva chín muồi, vỡ ra, máu chảy khắp người. Ông rên rỉ ngã xuống bên cổng ở tinh xá Kỳ Viên, đau đớn điên cuồng. Bỗng có tiếng kêu lớn vang dội đến cõi trời Phạm thiên:

– Kokàlika đã phỉ báng hai vị Ðại đệ tử.

Rồi một vị Phạm thiên tên là Tudu, biết được chuyện này, xuất hiện với ý định hòa giải các Tỷ-kheo, liền bảo trong lúc đứng vững trên không:

– Này Kokàlika, ông đã làm một việc ác, vậy hãy đi giảng hòa với hai vị Ðại đệ tử.

Người ấy hỏi:

– Hiền hữu là ai thế?

– Ta là Phạm thiên Tudu. Vị thần kia đáp.

Người này lại bảo:

– Ngài đã chẳng được đức Thế Tôn tuyên bố ngài là một vị Bất Lai đó sao? Chữ ấy có nghĩa là một vị không trở lại đời này nữa. Ngài sẽ trở thành một con quỷ trên đống phân đấy.

Ông lại mạ lỵ vị Ðại Phạm thiên như vậy. Vì không thể thuyết phục người ấy theo lời khuyên của mình, vị Phạm thiên đáp:

– Ông sẽ bị hành hạ theo khẩu nghiệp của ông.

Sau đó, vị Thiên thần ấy trở về cõi an lạc của ngài. Còn Kokàlika chết đi liền tái sinh vào địa ngục Hoa sen. Việc người này được tái sinh tại đó được vị Ðại Phạm thiên chủ đầy oai thần Sahampati (Ta-bà chủ) trình đức Như Lai và bậc Ðạo sư kể lại cho các Tỷ-kheo. Trong Chánh pháp đường, Tăng chúng bàn luận về ác tâm của các người ấy:

– Này Hiền hữu, Kokàlika đã phỉ báng Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả Mục-kiền-liên và vì lời nói phát xuất từ chính miệng kia mà vị ấy đã đọa xuống Ðịa ngục Liên Hoa.

Bậc Ðạo sư bước vào và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang nói chuyện gì trong lúc ngồi đây?

Tăng chúng trình Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Kokàlika bị hủy hoại vì chính khẩu nghiệp và bởi chính do miệng mình nên phải đày đọa khổ sở, mà trước kia cũng vậy.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, vị Tế sư của vua có màu da ngăm ngăm đen và mất hết cả hàm răng. Bà vợ của ông thông gian với một vị Bà-la-môn khác. Vị sau này cũng giống như vị trước. Nhiều lần vị Tế sư cố tìm cách ngăn cản vợ mình, nhưng không thể được. Rồi ông suy nghĩ: “Ðấy là kẻ thù của ta, ta không thể chính tay giết được, mà ta phải lập mưu kế giết nó đi”.

Thế là ông đến yết kiến vua và tâu:

– Tâu Ðại vương, kinh thành của Ðại vương là kinh thành trọng yếu nhất trong toàn cõi Diêm-phù-đề, Ðại vương là vị vua cao trọng bậc nhất, nhưng dù Ðại vương là vị vua thủ lãnh, hoàng môn phía nam của Ðại vương lại có điềm xấu, nó được xây theo kiểu xui xẻo.

– Ðược rồi, này quốc sư, ta phải làm gì?

– Xin Ðại vương đem may mắn cho nó và chỉnh trang nó.

– Vậy phải làm gì đây?

– Ta phải hạ cổng cũ xuống, lấy loại gỗ mới có dấu hiệu may mắn, lập tế đàn cúng các vị thần canh giữ hoàng thành rồi xây hoàng môn theo cách kết hợp tốt lành của các vì sao.

– Thế khanh hãy làm như vậy.

Vào thời ấy, Bồ-tát là một trang nam tử tên là Takkàriya đang học tập với Tế sư này.

Bấy giờ, vị Tế sư ra lệnh hạ cổng thành cũ xuống làm cổng mới cho sẵn sàng, khi đã xong xuôi, ông vào tâu trình vua:

– Tâu Chúa thượng, cổng thành đã xong, ngày mai lại có sự kết hợp tốt lành của các tinh tú; vậy trước khi ngày mai trôi qua hết, ta phải làm tế lễ và dựng cổng thành mới.

– Ðược rồi, này quốc sư, phải cần tế lễ như thế nào?

– Tâu Chúa thượng, đại hoàng môn đang được các đại thần linh chiếm cứ và bảo vệ. Vậy phải giết một Bà-la-môn có da ngăm ngăm đen và không có răng, thuần chủng cả hai bên cha mẹ, lấy máu thịt vị đó đem ra tế lễ, thân thể đặt phía dưới, và cổng dựng lên trên đó. Vị ấy sẽ đem lại vận may cho Chúa thượng cùng cả kinh thành này.

– Ðược lắm, này quốc sư, hãy tìm một Bà-la-môn như vậy mà giết đi rồi dựng hoàng môn lên trênđó.

Vị Tế sư rất hoan hỷ. Ông bảo:

– Ngày mai ta sẽ trừ khử được kẻ thù của ta rồi!

Lòng đầy hăng hái, ông trở về nhà, nhưng không thể giữ yên cái lưỡi được, liền nói ngay với vợ:

– Này mụ già xấu xí kia, rồi mụ sẽ còn ai để hú hí nữa chứ? Ngày mai ta sẽ giết tình lang của mụ và đem tế lễ đấy!

– Tại sao ông muốn giết người vô tội?

– Ðức vua ra lệnh cho ta giết một người Bà-la-môn ngăm ngăm đen và dựng cổng thành lên người đó. Còn tình lang của mụ cũng ngăm ngăm đen nên ta định giết nó để tế lễ.

Bà vợ liền gởi cho tình quân một lá thư nhắn nhủ: “Chúng bảo đức vua muốn giết một Bà-la-môn da ngăm ngăm đen để tế lễ; vậy nếu chàng muốn cứu lấy mạng mình xin hãy lo đào tẩu kịp thời, đem theo cả những người nào giống như chàng nữa”.

Người kia làm theo như vậy, tin đó lan khắp kinh thành, và mọi người nào có màu da đen đều tẩu thoát cả.

Vị tế sư không hề biết gì về việc kẻ thù đã chạy trốn, sáng hôm sau vào yết kiến vua thật sớm và tâu:

– Tâu Chúa thượng, trong chỗ kia có một Bà-la-môn da ngăm ngăm đen, xin cho bắt nó lại.

Vua bảo vài người đến tìm kẻ đó, nhưng họ chẳng thấy ai cả, liền trở về thông báo cho vua rằng kẻ ấy đã trốn thoát rồi, vua phán:

– Vậy hãy tìm nơi khác.

Họ lục soát khắp kinh thành nhưng chẳng tìm được ai. Vua phán:

– Phải kiếm thật nhanh lên.

Họ đáp:

– Tâu Chúa thượng, ngoại trừ vị quốc sư, chẳng còn ai khác nữa.

Vua phán:

– Tế sư không thể đem ra giết được.

– Tâu Chúa thượng, Chúa thượng đã phán bảo điều gì vậy? Theo lời tế sư này, nếu cổng thành không được dựng hôm nay, thì kinh thành sẽ gặp nguy hiểm. Khi vị tế sư giải thích việc này, ông ta để ngày này trôi qua, thì giờ tốt không trở lại nữa cho đến cuối năm. Kinh thành này không có cổng suốt một năm ròng là cơ hội ngàn vàng để cho kẻ thù chúng ta. Chúng ta phải giết một người nào đó, và làm tế lễ nhờ sự trợ lực của một vị Bà-la-môn hiền trí rồi dựng cổng thành.

– Nhưng có vị Bà-la-môn nào đủ tài trí như sư phụ ta chăng?

– Tâu Chúa thượng, có đồ đệ của vị ấy, một nam tử tên là Takkàriya, xin hãy phong vị ấy làm tế sư và cử hành lễ cát tường này.

Vua liền triệu vị nam tử ấy vào, ban cho chàng vinh hiển và phong chàng làm tế sư, rồi ra lệnh làm mọi sự như đã nói.

Vị nam tử ấy đi đến hoàng môn với một đám đông theo sau. Nhân danh hoàng đế, họ trói vị tế sư cũ và đem đến. Bậc Ðại sĩ bảo đào một cái hố, tại nơi hoàng môn sắp được dựng lên, che một cái lều trên đó, cùng với sư phụ bước vào lều. Vị tế sư ấy nhìn cái hố, thấy không lối nào thoát, liền bảo bậc Ðại sĩ:

– Mục đích của ta đã thành đạt, ta thật là một kẻ ngu si, ta đã không biết giữ mồm giữ miệng cho yên, mà lại hấp tấp nói với mụ đàn bà độc ác kia. Ta đã tự sát bằng chính binh khí của ta.

Rồi ông ngâm vần kệ đầu:

  1. Ta nói điên cuồng tựa ễnh ương
    Trong rừng gọi rắn: ngã nhào luôn
    Vào trong hố, thật, Tak-ka hỡi,
    Lời nói phi thời phải tiếc thương!

Sau đó vị nam tử đáp lời ông và ngâm vần kệ này:

  1. Người nói phi thời phải diệt vong
    Như vầy, than khóc với đau buồn,
    Xin thầy tự trách mình nay phải
    Nhận lỗ đào này, ấy hố chôn.

Cùng với lời ấy, ngài nói thêm:

– Thưa sư phụ, không phải chỉ mình sư phụ, mà nhiều người khác nữa, đã phải chịu khổ đau vì không biết phải giữ lời nói cho kỹ.

Nói vậy xong, ngài kể một chuyện quá khứ để minh chứng điều đó.

*

Chuyện kỹ nữ Kàli

Chuyện kể rằng ngày xưa tại Ba-la-nại, có một cô kỹ nữ sang trọng tên là Kàli, nàng có một người anh tên là Tundila. Trong một ngày, Kàli có thể kiếm cả ngàn đồng tiền. Bấy giờ Tundila là một gã trác táng, nghiện rượu, mê cờ bạc, hễ nàng cho gã tiền và gã có được bao nhiêu tiền đều phung phí hết. Nàng cố sức ngăn cản gã nhưng không thể được.

Một hôm gã thua bài súc sắc, phải mất ngay cả áo quần đang mặc trong mình. Gã vừa mang quanh mình một tấm khố rách vừa đi đến nhà em gái. Nhưng nàng đã ra lệnh cho các tỳ nữ rằng nếu Tundila có đến thì bọn họ không được cho gã cái gì cả mà phải lôi cổ gã quẳng ra ngoài. Vì thế, họ đã làm đúng như vậy. Gã liền đứng lại bên thềm và kêu than.

Bấy giờ, có con trai một phú thương nọ, thường vẫn cho Kàli cả ngàn đồng tiền, hôm ấy tình cờ gặp gã, liền hỏi:

– Tại sao lại khóc lóc vậy, Tundila?

Gã đáp:

– Thưa công tử, tôi đã thua bài súc sắc, đến cầu xin em tôi, bọn nữ tỳ lại nắm lấy cổ tôi lôi ra ngoài.

– Ðược rồi, cứ ở lại đây, ta sẽ nói chuyện với em gái cậu.

Chàng vào nhà bảo:

– Anh của nàng đang đứng đợi kia, chỉ mặc khố rách che thân, tại sao nàng không cho anh áo quần mặc?

Nàng đáp:

– Ðúng vậy, thiếp chẳng muốn cho gì cả, nếu chàng thích anh ta thì chàng cho đi.

Bấy giờ, trong ngôi nhà mang tai tiếng xấu xa kia, có tục lệ như vầy: “Cứ mỗi một ngàn đồng tiền nhận được, thì năm trăm đồng được dùng cho bọn nữ nhân, năm trăm đồng để mua sắm xiêm y, dầu thơm và vòng hoa. Bọn khách làng chơi đến đây nhận áo quần mặc vào, ở lại đêm tại đó, rồi ngày hôm sau cởi áo quần ấy ra trả, mặc quần áo của mình và ra đi. Trong dịp ấy, con trai vị phú thương mặc áo quần mà bọn họ đưa cho chàng, và đem áo quần của chàng cho Tundila. Gã ấy mặc áo quần vào, vừa la hét vừa chạy đến tửu quán.

Nhưng nàng Kàli ra lệnh cho bọn nữ tỳ rằng khi chàng trai ra về ngày hôm sau, họ phải lấy lại áo quần. Vì vậy, khi chàng bước ra, bọn họ chạy đến từ khắp nơi như bọn cướp, lột hết áo quần trên thân của chàng đến trần như nhộng, rồi bảo:

– Này công tử, ra về đi!

Họ tống khứ chàng ta như vậy. Chàng ra đi trần truồng, bị mọi người chế diễu. Chàng ta hổ thẹn than khóc:

– Ðây chính là việc ta gây ra vì ta không giữ được mồm miệng!

Ðể làm sáng tỏ vấn đề này, bậc Ðại sĩ ngâm kệ thứ ba:

  1. Tại sao lại hỏi chuyện Kà-li
    Cư xử thế nào với Tuấn-di?
    Gặp phải tay em chàng, hãy ngắm,
    Áo quần ta đã biến bay đi,
    Ta đành trần trụi, như tai vạ
    Xảy với thầy, sao thật quái kỳ!

*

Chuyện chim đuôi chĩa

Một người khác lại kể chuyện này: Do sự bất cẩn của người chăn dê, hai con dê đực đánh nhau trên đồng cỏ ở Ba-la-nại. Trong lúc đang hăng máu, có một chim đuôi chĩa nghĩ thầm: “Chúng sẽ vỡ đầu ra mà chết mất, ta phải ngăn cản chúng mới được!” Thế là nó cố gắng ngăn cản bằng cách kêu la:

– Chú ơi, đừng đánh nhau nữa!

Nó chẳng nghe chúng nói gì đáp lại. Ngay giữa trận đánh, nó nhảy lên lưng trước, rồi sau nhảy lên đầu, van xin chúng dừng lại nhưng chẳng được gì. Cuối cùng, nó kêu to:

– Thế thì cứ đánh nhau đi, nhưng giết tôi trước đã!

Và nó đứng chen vào giữa hai cái đầu dê. Chúng vẫn tiếp tục húc nhau văng ra xa. Con chim bị nghiền nát như thể bởi cái chày, và chịu hủy hoại do chính hành động của nó.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðại Sĩ ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Chim đuôi chĩa vội đến bên sườn
    Hai chú dê rừng lúc đả thương,
    Dù chẳng dự phần trong trận đấu,
    Hai đầu dê nghiến nát như tương
    Ngay liền tại chỗ, như thầy vậy,
    Số phận chim kỳ quái lạ thường!

*

Chuyện cây cọ dừa

Một chuyện khác nữa: Gần một cây cọ dừa kia, bọn chăn bò cất giấu nhiều của cải. Dân chúng Ba-la-nại thấy cây đó liền cho một người leo lên cây hái quả. Trong lúc gã đang ném quả xuống thì một con rắn hổ đen bò ra từ một tổ kiến, bắt đầu leo lên cây, bọn người đứng phía dưới cố xua đuổi nó bằng gậy, đá..v.v. nhưng không được, kêu la lớn gọi người kia:

– Con rắn đang bò lên cây!

Gã ấy kinh hoảng hét lớn. Những người đứng dưới lấy tấm vải thô cầm bốn góc, bảo gã kia ngã vào tấm vải. Gã gieo mình xuống, rơi vào chính lòng tấm vải giữa bốn người kia nhanh như gió, khiến bọn người ấy không giữ gã được phải đập đầu vào nhau mà chết.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðại sĩ ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Bốn người muốn cứu mạng anh chàng,
    Bốn góc cầm chung một tấm màn,
    Bọn chúng vỡ đầu ra chết tiệt,
    Như thầy, thật quái lạ kinh hoàng!

*

Chuyện con Dê cái

Ðám người khác lại kể chuyện này: Một bọn ăn trộm dê sống ở Ba-la-nại, một đêm kia bắt được một con dê cái, định làm một bữa chè chén trong rừng. Ðể dê khỏi kêu, chúng bịt mõm mó và cột nó vào một bụi tre. Hôm sau, khi chúng đến giết con dê, chúng quên mất con dao phay.

Chúng bảo nhau:

– Này, ta hãy giết dê rồi nấu. Hãy đem con dao phay ra đây!

Nhưng chẳng ai có dao.

– Nếu không có dao thì ta không thể nào ăn thịt nó được, dù ta có giết chết nó. Thôi thả nó ra. Việc này cũng do phước phần nào đó của con dê đây!

Vì thế, chúng thả dê ra. Bấy giờ, tình cờ có người thợ tre đến trước đó lấy một bó tre, gã để quên một con dao của người đan rổ, giấu dưới đám lá, định khi trở về sẽ lấy dùng. Nhưng con dê tưởng mình đã thoát thân, nên bắt đầu vui chơi nhảy nhót dưới bụi tre, lấy chân sau đánh đá làm sao mà con dao rớt ra! Ðám ăn trộm nghe tiếng dao rớt, chạy đến nơi thấy việc như vậy, vô cùng mừng rỡ, thế rồi chúng giết dê ăn thịt.

Như vậy để giải thích việc con dê đã tự giết mình bằng chính hành động của nó như thế nào, bậc Ðại sĩ ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Dê cái cột trong bụi trúc dày
    Nhảy quanh, tìm thấy một dao phay,
    Cổ dê, chúng cắt bằng dao ấy,
    Kỳ quái, dê kia giống hệt thầy!

Sau khi kể chuyện này, ngài giải thích:

– Song còn những kẻ dè dặt trong lời nói, biết giữ gìn ngôn ngữ, thường thoát khỏi số phận chết chóc đau thương.

Rồi ngài kể một chuyện thần tiên của loài Kinnara (Khẩn-na-la: các ca thần của Sakka Thiên chủ).

*

Chuyện Ðôi Ca thần

Chuyện kể rằng, một thợ săn sống ở Ba-la-nại, một bữa nọ vào vùng Tuyết Sơn bằng cách nào đó đã bắt được một cặp tiên núi, gồm một tiên nữ và lang quân của nàng, rồi đem về dâng vua. Vua chưa bao giờ thấy loài hữu tình này cả. Vua hỏi:

– Này thợ săn, chúng là loài gì?

– Tâu Chúa thượng, chúng có thể hát êm tai và nhảy múa rất đẹp mắt, không có con người nào có thể ca múa hay bằng chúng được.

Vua ban thưởng gã thợ săn ấy rất hậu hỉ, rồi ra lệnh cho đôi tiên ca múa. Song hai vị nghĩ: “Nếu chúng ta không diễn tả đầy đủ ý nghĩa bài ca, thì bài ca sẽ thất bại, hội chúng sẽ mạ lỵ và làm thương tổn chúng ta; và hơn nữa, người nào nói nhiều thường hay nói dối”. Vì thế, sợ phải dối trá này kia, hai vị không múa hát dù vua nài nỉ thế nào cũng mặc. Cuối cùng, vua nổi cơn thịnh nộ và bảo: – Hãy giết bọn này đem nấu và dâng cho ta dùng.

Vua ban lệnh này qua vần kệ thứ bảy:

  1. Bọn này đây chẳng phải là tiên,
    Cũng chẳng nhạc thần của cõi Thiên,
    Là thú do người kia dẫn đến
    Vì mong kiếm một túi đầy tiền
    Vậy bây hãy nấu, ta dùng tối
    Một đứa, rồi mai một đứa liền!

Lúc ấy tiên nữ nghĩ thầm: “Bây giờ vua nổi giận, chắc chắn ngài sẽ giết chúng ta. Vậy đây là lúc nên nói”, và lập tức nàng ngâm vần kệ:

  1. Mười vạn khúc ca biểu diễn lầm
    Chẳng bằng một mảy khúc kỳ âm,
    Hát tồi có tội, nên tiên chúng
    Chẳng dám làm, không bởi hận tâm.

Vua rất hoan hỷ vì tiên nữ, lập tức đáp vần kệ:

  1. Hãy để nàng đi, bởi nói rồi,
    Cho nàng thấy lại Tuyết Sơn thôi,
    Song bây hãy bắt chàng kia giết,
    Bảo nấu, ta dùng bữa sáng mai!

Trong lúc vị tiên kia suy nghĩ: “Nếu ta giữ yên mồm, chắc chắn vua sẽ giết ta, vậy đây là lúc phải nói”. Và chàng ngâm vần kệ nữa:

  1. Trâu bò trông cậy đám mây trời,
    Trông cậy bò trâu, ấy mọi người,
    Còn phận tôi nương nhờ Chúa thượng,
    Hiền thê này lại dựa vào tôi,
    Xin ngài đoán số phần chàng nọ
    Trước lúc chàng quay lại núi đồi!

Khi chàng đã nói lời này xong, chàng ngâm hai vần kệ nữa, để nói rõ cho vua rằng hai vị yên lặng không phải vì không muốn tuân lệnh vua, song vì hai vị nghĩ rằng nói là sai lầm:

  1. Khác người, khác cách, tấu Minh quân,
    Tránh lỗi cho mình thật khó khăn,
    Ðiều được kẻ này khen tốt đẹp,
    Kẻ kia lại thấy đó sai lầm.
  2. Có người cho tất cả điên cuồng
    Tưởng tượng mỗi người vẫn khác luôn,
    Thật khác, nhiều người nên lắm ý,
    Ý người chẳng có luật thông thường.

Vua phán:

– Chàng ta nói đúng sự thật, đó quả là một vị tiên khôn ngoan.

Vì thế vua rất hoan hỷ, ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Ðôi vợ chồng tiên giữ lặng thinh,
    Nay chàng cất tiếng bởi hồn kinh,
    Bình an, hạnh phúc, tha chàng bước,

Vẫn biết lời hay tạo phước lành.

Sau đó, vua đặt đôi tiên núi vào chiếc lồng vàng, truyền đưa người thợ săn vào, bảo gã thả hai vị ra ở nơi trước kia gã đã bắt.

Bậc Ðại sĩ nói thêm:

– Này sư phụ, đôi tiên núi biết phòng hộ lời nói như trên, và nhờ nói đúng thời nên được thả tự do vì nói năng khéo léo; còn thầy do nói năng sai lạc mà phải chịu đại họa.

Rồi sau khi so sánh cho vị tế sư thấy rõ như thế, ngài an ủi ông:

– Xin sư phụ đừng sợ, con sẽ cứu mạng sư phụ.

– Còn có cách nào chăng? – Vị kia hỏi: – Làm thế nào con cứu ta được nữa?

Ngài đáp:

– Vì chưa đến đúng lúc các hành tinh gặp gỡ.

Ngài để cho ngày ấy trôi qua, vào canh giữa đêm (canh ba), liền đem đến đó một con dê đã chết và nói:

– Xin thầy muốn đi đâu thì đi mà sinh sống.

Rồi ngài thả cho ông đi ngay, chẳng hề có ai hay biết gì cả. Còn ngài làm tế lễ với thịt dê ấy, xong dựng cổng thành trên đó.

*

Khi bậc Ðại sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Kokàlika bị hủy hoại vì chính lời nói của mình, mà ngày xưa cũng thế nữa.

Sau đó, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Kokàlika là người tế sư da ngăm ngăm đen, còn Ta là hiền giả Takkàriya.

-ooOoo-

  1. Chuyện lộc vương (Tiền thân Ruru)

Thần tâu Hoàng thượng biết tin nai..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa).

Có người bảo vị ấy:

– Bậc Ðạo sư đem lại thật nhiều lợi ích cho hiền hữu, này hiền hữu Ðề-bà-đạt-đa. Hiền hữu đã thọ Ðại giới từ đức Như Lai, Hiền hữu đã học với ngài Tam Tạng Kinh điển, Hiền hữu đã nhận được nhiều lợi dưỡng và danh vọng.

Khi những điều như vậy được nói, người ta thường nghe thuật lại một cách đáng tin cậy là vị ấy sẽ trả lời:

– Không đâu hiền hữu, bậc Ðạo sư chẳng làm gì lợi lạc cho ta dù chỉ bằng một cọng cỏ. Ta đã thọ Ðại giới của chính ta, ta tự học Tam Tạng kinh điển, ta nhận được lợi dưỡng và danh vọng do từ bản thân ta chứ không nhờ ai cả.

Trong Chánh pháp đường, Tăng chúng nói về việc này:

– Ðề-bà-đạt-đa thật là vong ân bội nghĩa, này Hiền hữu, và lại quên cả thân tình.

Bậc Ðạo sư bước vào và muốn biết Tăng chúng đang bàn luận gì khi ngồi đó. Các vị trình với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, nay không phải là lần đầu Ðề-bà-đạt-đa vong ân bội nghĩa, mà trước kia kẻ ấy đã vô ơn. Thuở xưa, nó đã được Ta cứu mạng, nhưng nó không biết công đức to lớn của Ta.

Nói vậy xong, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, một vị đại phú thương có tài sản tám trăm triệu, chỉ sinh được một con trai, đặt tên là Mahà-dhanaka hay Ðại phú ông.

Nhưng ông không dạy cho con việc gì cả, ông bảo:

– Con trai ta sẽ thấy việc học làm mệt mỏi tấm thân mà thôi.

Ngoài việc múa ca, ăn uống, tiệc tùng cậu trai chẳng biết việc gì cả. Khi cậu khôn lớn, cha mẹ cậu cưới cho cậu một cô gái xứng đôi với cậu, rồi cả hai vị qua đời. Sau khi song thân mất đi, cậu bị đám người chơi bời, phóng đãng, rượu chè, cờ bạc vây quanh nên đã tiêu hết tài sản một cách hoang phí. Lúc đó cậu phải vay tiền rồi không trả lại nổi, bị chủ nợ thúc đòi. Cuối cùng cậu nghĩ: “Ðời ta còn nghĩa lý gì với ta nữa? Ta đang bị biến đổi thành một con người khác rồi, thà chết sướng hơn”. Sau đó cậu bảo đám chủ nợ.

– Hãy đem các giấy nợ đến đây, ta có cả một gia bảo chôn ở bờ sông Hằng, các ông sẽ được phần đó.

Họ cùng đi với cậu. Cậu làm như thể chỉ chỗ đây đó là nơi chôn gia sản (song lúc đó cậu có ý định nhảy xuống sông trầm mình) và cuối cùng cậu ta nhảy xuống sông Hằng. Trong lúc nước cuốn xoáy cậu đi ra, cậu kêu to lên đầy kinh hoảng.

Lúc bấy giờ, bậc Ðại sĩ sinh làm một con Nai chúa và sau khi rời đàn, hiện đang trú ẩn tại một khúc sông, chỉ riêng mình Nai trong khóm cây Sà-la chen lẫn đám xoài trổ hoa rất đẹp. Lớp da trên mình Nai có màu vàng óng ả láng mượt, bàn chân trước và bàn chân sau đỏ như thể nhuộm son, cái đuôi giống như cái đuôi bò rừng, cặp sừng như hình xoắn ốc bằng bạc, đôi mắt Nai tựa hồ đôi hạt minh châu lóng lánh, khi Nai quay mồm về hướng nào thì trông chẳng khác quả cầu bằng vải đỏ. Vào khoảng nửa đêm, Nai nghe tiếng kêu thê thảm ấy, liền nghĩ thầm: “Ta nghe tiếng người kêu. Trong lúc ta đang sống đây, nó chẳng phải chết! Ta sẽ cứu mạng nó”.

Vừa rời khỏi chỗ ẩn nấp trong bụi cây, ngài bước xuống bờ sông và gọi to bằng giọng nói an ủi:

– Này người kia, đừng sợ, ta sẽ cứu anh sống.

Rồi Nai rẽ dòng nước, mang cậu lên bờ đến tận nơi nai trú ẩn. Suốt hai ba ngày liền, Nai săn sóc và cho cậu ăn trái cây rừng. Sau đó, Nai bảo cậu:

– Này người kia, ta sẽ mang anh ra khỏi rừng và đặt anh trên đường cái đến Ba-la-nại, anh sẽ về bình an. Song ta yêu cầu anh đừng bị lòng tham tiền bạc lôi kéo mà báo cho vua, hay một người quyền thế nào đó biết là trong chỗ kia một con Nai vàng óng cần phải bắt đấy.

Người kia hứa giữ lời và bậc Ðại sĩ, sau khi được hứa rồi, liền để cậu trên lưng và đưa ra đường cái hướng về thành Ba-la-nại rồi trở về đường cũ.

Vào ngày cậu ta đi về thành Ba-la-nại, bà hoàng hậu mệnh danh Khemà (Thái Hòa) nằm mộng về sáng thấy một con Nai màu hoàng kim thuyết pháp cho bà, nên bà suy nghĩ: “Nếu không có một Nai thần như thế này thì chắc hẳn ta đã không nằm mộng thấy ngài. Hẳn nhiên phải có một vị như vậy, nên ta muốn thông báo việc này với đức vua”.

Sau đó, bà đến yết kiến vua và thưa:

– Tâu Ðại vương, thần thiếp đang mong mỏi được nghe bài thuyết Pháp của một con Nai hoàng kim. Nếu làm được việc ấy, thiếp mới sống, nếu không, thiếp chẳng thiết sống nữa.

Vua an ủi bà và bảo:

– Nếu có một con vật như thế sống trong cõi trần gian này thì ái khanh sẽ toại nguyện.

Rồi vua triệu các Bà-la-môn vào và hỏi:

– Có loài vật nào như loài Nai hoàng kim chăng?

– Tâu Chúa thượng, có.

Vua liền đặt một túi tiền mười ngàn đồng đựng bên trong một cái hộp bằng vàng lên lưng một con voi đã được trang điểm thật lộng lẫy: “Bất kỳ ai được tin về một con Nai hoàng kim thì vua sẽ chấp thuận trao cho người đó túi tiền mười ngàn đồng tiền vàng này cùng chiếc hộp bằng vàng và cả con voi ấy nữa hoặc một con khác tốt đẹp hơn”. Vua ra lệnh khắc một vần kệ trên một phiến vàng, giao cho một viên quan trong triều và bảo vị ấy nhân danh vua hát vần kệ ấy lên giữa dân chúng toàn thành. Sau đó, vua ngâm vần kệ đầu trong chuyện Tiền thân này:

  1. Ai mang tin báo trẫm về Nai,
    Tối thượng Lộc vương của cả loài?
    Ai được trẫm ban phần thưởng quý:
    Ngôi làng tuyệt hảo, gái xinh tươi?

Viên triều thần mang phiến vàng ấy đi, công bố khắp kinh thành. Vừa lúc ấy, con trai của vị phú thương đi vào Ba-la-nại, khi nghe lời công bố ấy, cậu đến gần viên quan và nói:

– Tiểu sinh có thể đưa tin về một con nai như vậy, các ngài hãy dẫn tiểu sinh vào yết kiến đức vua.

Viên quan liền xuống voi, dẫn cậu vào yết kiến vua và tâu:

– Tâu Chúa thượng, người này có thể đưa tin tức trình Chúa thượng về con Nai kia.

Vua phán:

– Có đúng như vậy chăng, người kia?

Cậu đáp:

– Tâu Ðại vương, quả đúng như vậy, xin Ðại vương cho tiểu thần vinh dự đó.

Và cậu ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Thần tâu Hoàng thượng biết tin Nai,
    Tối thượng Lộc vương của cả loài,
    Xin Ðại vương ban phần thưởng quí:
    Ngôi làng tuyệt hảo, gái xinh tươi!

Vua rất hoan hỷ khi nghe những lời này của tên phản bạn:

– Này mau lên! – Vua phán: – Phải tìm con Nai này ở đâu thế?

Gã đáp:

– Tâu Chúa thượng, ở chỗ như vầy.

Và gã chỉ rõ đường đi. Cùng một đoàn tùy tùng đông đảo, vua ra lệnh tên phản bội dẫn ngài đến nơi ấy, rồi gã bảo:

– Xin ra lệnh cho đoàn quân sĩ dừng lại.

Khi quân sĩ đã được lệnh dừng, gã chỉ tay nói tiếp:

– Nơi có con Nai vàng ánh ở chốn đằng xa xa kia kìa.

Và gã ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Bụi cây xoài ở phía đàng xa,
    Cùng đám Sà-la nở rộ hoa,
    Ðất tựa yên chi màu đỏ thắm,
    Nai này có thể được tìm ra.

Khi vua nghe những lời này, ngài bảo các cận thần:

– Ðừng để Nai chạy thoát, mà phải lập tức bủa vây quanh bụi cây này, còn binh sĩ cầm binh khí trong tay.

Họ làm theo lệnh ấy và đồng thanh la lớn. Vua cùng một số người khác đứng riêng ra, song gã đó cũng không đứng xa mấy. Bậc Ðại sĩ nghe tiếng kêu ấy, nghĩ thầm: “Ðây là tiếng thét của mộtđoàn người đông đảo, vậy ta phải đề phòng họ mới được”.

Ngài đứng lên và khi nhìn cả một đoàn người, ngài nhận thấy nơi vua đứng. “Nơi nào vua đứng”, ngài nghĩ thầm, “ta sẽ được bình an, vậy ta phải đến đó”. Rồi ngài chạy về phía vua. Khi vua thấy ngài chạy đến, liền bảo:

– Một con vật mạnh như voi có thể quật mọi thứ trên đường đi của nó. Ta muốn giương cung lên dọa con nai này. Nếu nó chạy, ta sẽ bắn cho nó yếu đi rồi ta mới bắt nó được.

Sau đó vua giương cung lên ngay trước mặt Bồ-tát.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm đôi vần kệ:

  1. Nai tiến lên: cung đã được giương,
    Mũi tên nằm ở sợi dây trương
    Ðằng xa, vì vậy Nai kêu lớn
    Ngay lúc Nai nhìn thấy Ðại vương:
  2. Ðại vương, Chúa tể của vương xa,
    Xin đứng yên và chớ bắn ta,
    Ai đã mang tin Hoàng thượng biết
    Nơi này, Nai sẽ được tìm ra?

Vua say mê giọng ngọt như mật của ngài, liền thả cung đứng yên chiêm ngưỡng ngài. Lúc ấy bậc Ðại sĩ bước lên chỗ vua, vừa nói chuyện vui vẻ với vua và đứng một bên. Cả đám tùy tùng cũng hạ binh khí xuống, bước lên vây quanh vua. Vào lúc ấy, bậc Ðại sĩ hỏi vua với giọng êm ái như tiếng chuông vàng rung nhè nhẹ:

– Ai đem tin đến cho ngài rằng nơi đây sẽ tìm được Nai vàng?

Vừa lúc ấy, con người gian ác kia bước lại gần và đứng nghe lỏm. Vua chỉ gã và nói:

– Ðó là người báo tin cho trẫm.

Rồi vua ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Kẻ ác kia, bằng hữu của ta,
    Con người đang đứng ở đằng xa,
    Mang tin, nó đã cho ta biết
    Rằng ở đây Nai được thấy mà.

Nghe vậy, bậc Ðại sĩ trách mắng người bạn phản bội kia, và ngâm vần kệ thứ bảy nói với vua:

– 7. Nhiều người ở cõi thế gian này,
Tục ngữ thường hay nói đúng thay:
“Thà vớt gỗ trôi sông còn tốt,
Hơn là cứu một kẻ như mầy!”.

Khi vua nghe lời kệ này, liền ngâm vần kệ khác:

  1. Muốn trách người có thể hỏi Nai?
    Là chim, là thú hoặc là ai?
    Lòng ta đầy nỗi lo vô hạn
    Khi tiếng Nai nghe giống tiếng người!

Ðến đây, bậc Ðại sĩ đáp lại:

– Tâu Ðại vương, ta không trách một thú vật hay chim chóc nào cả, mà ta trách một người.

Ðể giải thích việc này, ngài ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Ta cứu gã kia, đã một lần
    Khi gần như gã phải chìm dần
    Trên dòng chảy xiết dìm thân gã,
    Vì đó, nay đành phải khổ thân;
    Ngài cứ đi cùng phường độc ác,
    Ngày sau chắc chắn sẽ ăn năn.

Khi vua nghe vậy liền nổi giận lôi đình với gã kia. Vua phán:

– Sao? Ngươi không nhìn nhận công đức của ngài sau một việc cứu vớt đầy nhân từ như vậy ư? Ta muốn bắn chết gã kia ngay.

Vua liền ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Ta sẽ đâm tên bốn cánh này
    Xuyên vào tim nó, bỏ thân ngay!
    Ác nhân này đã đầy tâm phản
    Chẳng đội ơn sâu cứu giúp vầy!

Lúc ấy, bậc Ðại sĩ suy nghĩ: “Ta không muốn nó chết vì ta”, nên ngài ngâm vần kệ thứ mười một:

  1. Người ngu đáng thẹn, tấu Minh quân,
    Song việc giết người, bậc thiện nhân,
    Chẳng tán thành, xin tha kẻ khốn,
    Và ban cho gã thưởng toàn phần
    Những gì ngài hứa, còn ta sẽ
    Phục vụ Quân vương những lúc cần.

Vua hoan hỷ khi nghe lời này nên ngâm vần kệ tiếp để tán thán ngài:

  1. Nai này quả thật có lòng nhân,
    Không trả hận sân với hận sân,
    Tống gã hèn ngay! Ta thưởng nó
    Làm tròn lời hứa đã từng ban
    Còn Nai đi đến nơi tùy ý,
    Xin chúc ngài luôn được vạn an!

Nghe lời này, bậc Ðại sĩ đáp:

– Tâu Ðại vương, người ta có thể miệng nói một đường mà làm một nẻo.

Và ngài ngâm hai vần kệ để giải thích điều đó:

  1. Tiếng loài sơn cẩu, tiếng chim muông,
    Thường cũng dễ dàng được cảm thông,
    Còn tiếng người đời, tuy rõ thế,
    Vô cùng khó hiểu, tấu Quân vương!
  2. Con người thường nghĩ: “Bạn thân mình,
    Quyến thuộc là đây, bạn chí tình”.
    Tuy thế, tình thân thường biến mất,
    Oán thù, căm hận lại dần sinh.

Khi vua nghe lời này, ngài đáp:

– Này Lộc vương! xin đừng nghĩ rằng ta thuộc loại người như vậy. Vì ta quyết sẽ không chối từđặc ân mà ta đã ban cho ngài, dù ta có mất cả quốc độ vì chuyện đó. Hãy tin tưởng vào ta.

Rồi vua cho ngài chọn điều ước.

Bậc Ðại sĩ nhận đặc ân này và ước mong rằng tất cả các loài vật từ chính ngài trở đi đều được bình an thoát khỏi mọi tai họa. Vua thuận cho ngài điều ước ấy, rồi đem ngài về thành Ba-la-nại và sau khi trang hoàng cả kinh thành lộng lẫy, lại tô điểm luôn cả bậc Ðại sĩ nữa, vua mời ngài thuyết Pháp cho bà chánh hậu, sau đó là vua và triều đình nghe bằng thứ tiếng của loài người ngọt ngào như mật. Ngài khuyến giáo vua hành trì Thập vương pháp (mười đức tính của vị minh quân) và khích lệ hội chúng đông đảo ấy xong, liền trở về chốn núi rừng, nơi ngài sống chung với bầy nai.

Vua ra lệnh đánh trống khắp kinh thành cùng lời loan báo:

– Hoàng thượng bảo vệ mọi loài thú vật.

Từ đó về sau, không ai dám giơ tay giết hại thú vật hay chim muông cả.

Nhưng nhiều đàn nai phá hoại mùa màng của người và không ai đủ sức xua đuổi chúng đi. Một đám đông tụ tập trước sân chầu, kêu than với vua.

Ðể làm sáng tỏ việc này, bậc Ðạo sư ngâm vần kệ sau:

  1. Dân thành thị theo với tiện dân,
    Ðều đi thẳng đến tấu vương quân:
    “Ðàn nai ăn hết mùa màng cả,
    Chúa thượng, việc này phải cản ngăn”.

Nghe vậy, vua ngâm đôi vần kệ:

  1. Dân chúng dù mong muốn hoặc không,
    Ví dù đất nước trẫm tiêu vong,
    Trẫm không thể hại đàn nai được,
    Trẫm hứa cho nai sống vẹn toàn.
  2. Thần dân có thể bỏ rơi ta,
    Hủy bỏ vương quyền của thế gia,
    Lời ước ta đà ban Lộc chúa
    Ta không hề chối bỏ đâu mà.

Dân chúng nghe lời vua phán bảo, thấy mình không thể nói gì được nữa, đành ra về. Lời vua phán lan ra khắp nơi, bậc Ðại sĩ nghe được tin ấy, liền tập hợp cả đàn nai lại, và ra lệnh cho chúng:

– Từ nay về sau, các con không được phá hoại mùa màng của loài người nữa.

Ngài đã gởi thông báo cho dân chúng hay rằng mỗi người phải dựng một tấm bảng hiệu lên vùngđất của mình.

Dân chúng làm theo, và nhờ dấu hiệu ấy, cho đến nay, loài nai không phá hoại mùa màng nữa.

*

Khi bậc Ðạo sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ðề-bạt-đạt-đa vong ân bội nghĩa.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là con trai nhà phú thương, Ànanda (A-nan) là vua, và Ta chính là Nai chúa.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chúa Nai Sarabha (Tiền thân Sarabha-Miga)

Cứ hy vọng, người ơi, là bậc trí..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên để giải thích đầy đủ một câu hỏi do Ngài nêu ra một cách tổng quát cho vị Tướng quân Chánh pháp (Sàriputta).

Vào thời ấy, bậc Ðạo sư nêu vắn tắt câu hỏi với Trưởng lão ấy. Ðây là câu chuyện đầy đủ chi tiết về nguồn gốc của một số chư Thiên. Khi Tôn giả Pindola-Bhàradvàja dùng thần thông để lấy được cái bình bát bằng gỗ Chiên-đàn trước sự hiện diện của vị Ðại phú thương ở thành Ràjagaha (Vương Xá), bậc Ðạo sư cấm các Tỷ-kheo sử dụng thần thông lực.

Lúc ấy, các Tỷ-kheo ly khai Giáo hội suy nghĩ: “Sa-môn Gotama đã cấm sử dụng thần thông lực. Nay chính vị ấy cũng sẽ không sử dụng thần thông lực nữa”. Ðám đệ tử của các vị ly khai Giáo hội lo lắng, nói với họ:

– Tại sao các Tôn giả không dùng thần thông lực lấy cái bát kia?

Họ đáp:

– Này Hiền hữu, việc này không khó gì đối với chúng ta. Song chúng ta nghĩ: Ai lại muốn thị hiện thần thông cao quý vi diệu của mình trước người thế tục chỉ vì cái bình bát bằng gỗ nhỏ mọn kia chứ? Do thế, chúng ta không lấy nó xuống. Các Sa-môn dòng họ Thích-ca đã lấy nó xuống và thị hiện thần thông chỉ vì tham lam ngu xuẩn mà thôi. Ðừng tưởng biến hóa thần thông là việc khó khăn gì với chúng ta đâu: giả sử ta đừng kể đến các đệ tử của Sa-môn Gotama, nếu chúng ta muốn, chúng ta sẽ biến hóa thần thông với chính Sa-môn Gotama nữa kia. Nếu Sa-môn Gotama thị hiện một phép thần thông, thì chúng ta sẽ thị hiện một phép khác kỳ diệu gấp hai lần.

Tăng chúng nghe chuyện này liền thưa với đức Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo ly khai Giáo hội nói họ muốn thị hiện thần thông lực.

Bậc Ðạo sư bảo:

– Cứ để họ làm đi, Ta cũng sẽ làm việc ấy.

Vua Bimbisàra (Tần-bà-sa-la) nghe vậy, đi đến hỏi đức Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Ngài định thị hiện thần thông lực chăng?

– Thưa Ðại vương, phải.

– Bạch Thế Tôn, chẳng phải là có lệnh cấm về vấn đề này rồi sao?

– Thưa Ðại vương, lệnh ấy dành cho các đệ tử của ta, chớ không có lệnh nào có thể ngăn cản chư Phật cả. Cũng như hoa quả trong vườn ngự uyển là của cấm đối với kẻ khác chứ không hề áp dụng luật này đối với Ðại vương.

– Bạch Thế Tôn, vậy Ngài sẽ thị hiện phép thần thông ở nơi đâu?

– Tại Xá-vệ, dưới một cây xoài có “cục u”.

– Vậy trẫm sẽ làm gì lúc đó?

– Thưa Ðại vương, chẳng cần làm gì cả.

Ngày kế đó, sau khi điểm tâm xong, bậc Ðại sư đi khất thực.

– Bậc Ðạo sư đi đâu thế? Dân chúng hỏi.

Các Tỷ-kheo đáp lại:

– Ở cổng thành Xá-vệ, dưới một gốc cây xoài có cục u, Ngài sẽ thị hiện một phép Thần thông Song hành (Yamaka Patihariya: các tia sáng xanh và đỏ phát ra từ thân Ngài) để đánh bại những kẻ ly khai Giáo hội.

Ðám người ấy nói:

– Phép thần thông này sẽ là tuyệt tác, nên chúng ta muốn đi xem.

Sau khi rời nhà, dân chúng đi theo bậc Ðạo sư, và vài kẻ ly khai Giáo hội cũng đi theo Ngài cùng với đám đệ tử của họ.

Họ nói:

– Chúng ta sẽ thị hiện một phép thần thông ở nơi mà Sa-môn Gotama sắp thị hiện phép thần thông của mình.

Dần dần, bậc Ðạo sư đi đến Xá-vệ. Vua hỏi Ngài:

– Bạch Thế Tôn, có đúng là Ngài sắp thị hiện thần thông lực như chúng đồn chăng?

– Quả đúng vậy. Ngài đáp.

– Khi nào? Vua hỏi.

– Ngày thứ bảy kể từ đây, vào đúng rằm tháng sáu trăng tròn.

– Bạch Thế Tôn, thế trẫm có cần dựng lên một ngôi đình chăng?

– Thưa Ðại vương, cứ an tâm, ở ngay nơi mà Ta sắp thị hiện thần thông. Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ sẽ dựng lên một ngôi đình bằng châu ngọc có chu vi mười hai dặm.

– Bạch Thế Tôn, trẫm có cần loan báo việc này khắp kinh thành chăng?

– Ðại vương cứ loan báo.

Vua liền đặt người thông tin Chánh pháp này trên một con voi được trang hoàng thật lộng lẫy, đi công bố như sau:

– Hãy nghe tin này! Bậc Ðạo sư sắp thị hiện bằng thần thông để đánh bại những kẻ ly khai Giáo hội, trước cổng thành Xá-vệ, dưới gốc cây xoài-có-cục-u trong bảy ngày nữa kể từ ngày hôm nay!

Cứ mỗi ngày họ lại báo tin này. Khi đám người ly khai nghe tin rằng phép lạ sẽ được thị hiện dưới một gốc cây xoài-có-cục-u, họ liền ra lệnh chặt hết mọi cây xoài gần thành Xá-vệ, rồi đền tiền bạc cho các chủ vườn xoài.

Vào đêm trăng tròn, người thông tin Chánh pháp ấy công bố:

– Hôm nay vào buổi sáng, phép thần kỳ sẽ xuất hiện.

Nhờ oai lực của chư Thiên, người người khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ), dường như đều ra đứng ở cửa và nghe tin loan báo ấy. Bất cứ người nào trong lòng có ý muốn đi xem, đều thấy mình đến tại Xá-vệ ấy: dân chúng chiếm khoảng mười hai dặm.

Từ sáng sớm, bậc Ðạo sư đi khất thực. Viên quan giữ vườn ngự uyển, tên Ganda hay “Cục U”, sắp đem đi dâng vua một trái xoài chín trông thật đẹp, lớn bằng cái giạ đựng lúa, vừa độ chín muồi, thì ông thấy bậc Ðạo sư tại cổng thành, liền bảo:

– Trái xoài này thật xứng đáng với bậc Ðạo sư.

Rồi ông dâng xoài lên Ngài. Bậc Ðạo sư cầm lấy ngồi xuống một bên cổng, dùng trái xoài. Khi đã thọ thực xong, Ngài bảo:

– Này Ànanda, đưa cho người giữ vườn hột xoài này để trồng ngay chỗ này, nó sẽ thành cây xoài có cục u.

Tôn giả tuân lệnh. Người giữ vườn đào một lỗ dưới đất, trồng hột xoài ấy. Trong chốc lát, hạt xoài nứt ra, rễ đâm ra và nhú lên một mầm đỏ cao bằng cái chày, ngay khi đám đông đang trố mắt nhìn, nó lớn dần thành một cây xoài cao cả trăm cubit (1 cubit = 45cm) với thân cây cao năm mươi cubit, các cành lá cũng cao năm mươi cubit, cùng lúc hoa nở rộ, trái chín dần, cây vẫnđứng choáng rợp cả bầu trời có đàn ong vây quanh cành sai nặng trĩu quả vàng óng. Khi có làn gió thổi, trái ngọt rơi xuống, các Tỷ-kheo đến lượm lấy xoài, ăn xong ra về. Vào buổi chiều, Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) suy xét, nhận thấy mình có bổn phận dựng lên một ngôi đình gồm bảy báu vật, chu vi rộng mười hai dặm che kín mọi nơi bằng hoa sen xanh. Như vậy, chư Thiên của mười ngàn thế giới tụ tập lại đây.

Sau khi đã thị hiện phép thần thông vô cùng kỳ diệu trước các đệ tử của Ngài để đánh bại đám người ly khai Giáo hội, bậc Ðạo sư làm phát khởi lòng tin trong các hội chúng xong, Ngài đứng lên, ngự trên bảo tọa dành cho đức Phật và thuyết Pháp. Hàng trăm triệu chúng sinh uống được nguồn nước trường sinh; sau đó Ngài nhận định để biết rõ chư Phật quá khứ đi về đâu sau khi đã thực hiện một phép thần thông, và nhận thấy chính là về cõi trời Ba mươi ba, Ngài liền rời khỏi bảo tọa, chân phải Ngài đặt lên đỉnh Yugandhara, chân trái Ngài bước qua đỉnh Sineru (Tu-di), Ngài bắt đầu an cư vào mùa mưa dưới cây Ðại San hô, an tọa trên chiếc ngai hoàng thạch, và suốt thời gian ba tháng, Ngài thuyết Thắng pháp (Abhidhamma) siêu phàm cho chư Thiên.

Dân chúng không biết bậc Ðạo sư đi đâu, họ nhìn nhau bảo:

– Thôi ta về nhà và an trú tại nơi đó, suốt mùa mưa.

Khi mùa an cư trai giới gần chấm dứt, ngày đại lễ Tự Tứ cận kề, Ðại Trưởng lão Moggallàna (Mục-kiền-liên) đi thông báo với đức Thế Tôn.

Ngài hỏi:

– Sàriputta (Xá-lợi-phất) nay ở đâu?

– Bạch Thế Tôn, sau khi phép thần thông làm cho Tôn giả hoan hỷ, vị ấy đã ở lại cùng năm trăm vị Tỷ-kheo trong kinh thành Samkassa, và vẫn còn an trú tại đó.

– Này Moggallàna, vào ngày thứ bảy kể từ hôm nay, ta sẽ xuống hạ giới bằng cổng thành Samkassa. Vậy kẻ nào muốn chiêm ngưỡng Như Lai hãy tụ tập tại thành Samkassa.

Trưởng lão này đồng ý đi báo cho dân chúng hay: Tôn giả mang toàn thể hội chúng từ Xá-vệ đến Samkassa cách xa nhau cả ba mươi dặm chỉ trong chớp mắt.

Khi mùa an cư trai giới qua rồi, đại lễ Tự tứ đã được cử hành xong, bậc Ðạo sư bảo Sakka Thiên chủ rằng Ngài sắp trở về cõi nhân thế. Sau đó, Thiên chủ cho triệu Thần xây dựng Vissakamma vào và bảo:

– Hãy làm một cầu thang để đấng Thập Lực bước xuống cõi trần.

Vị này đặt cầu thang trên đỉnh Sineru, chân nằm trên cổng thành Samkassa; ở giữa, vị ấy làm ba bậc thang liền nhau, một bậc bằng ngọc, một bậc bằng bạc, và một bậc bằng vàng, còn lan can và mái làm bằng bảy báu vật.

Sau khi bậc Ðạo sư thị hiện thần thông để cứu độ cõi thế gian, Ngài bước xuống bậc thang chính giữa làm bằng ngọc. Thiên chủ Sakka cầm chiếc bình bát và chiếc y, Suỳama cầm cái quạt bằng đuôi trâu rừng (Yak), Phạm thiên chủ mang chiếc lọng và chư Thiên trong mười ngàn thế giớiđồng chiêm bái Ngài với các vòng hoa trời và các hương liệu.

Khi bậc Ðạo sư đã đứng ở chân cầu thang, vị đệ nhất trưởng lão Sàriputta đảnh lễ Ngài, sau đó là toàn thể hội chúng. Ở giữa hội chúng này, bậc Ðạo sư suy nghĩ: “Moggallàna đã chứng tỏ đầy đủ thần thông lực, Upàli là người tinh thông Giới luật của bậc Thánh, song đặc tính đại trí tuệ của Sàriputta lại chưa được dịp tỏ bày. Trừ một mình ta, chẳng ai đạt trí tuệ đầy đủ trọn vẹn như vậy, nên ta muốn tỏ bày năng lực trí tuệ của vị này cho hội chúng biết rõ”.

Trước tiên Ngài đặt câu hỏi thông thường cho đám người phàm phu không biết gì cả. Cùng cách ấy, Ngài lần lượt đặt câu hỏi vừa tầm hiểu biết của những vị Nhất Lai, Bất Lai và các vị A-la-hán, các Thánh đệ tử, trong từng trường hợp; những vị nào dưới cấp bậc ấy lần lượt không trả lời được, chỉ những vị ở trên cấp bậc ấy mới có thể trả lời. Sau đó, Ngài đặt câu hỏi trong khả năng hiểu biết của Tôn giả Sàriputta thì chỉ Trưởng lão này trả lời được, còn các vị khác không thể. Dân chúng hỏi nhau:

– Vị Trưởng lão trả lời bậc Ðạo sư là ai thế?

Họ được bảo đó là vị Tướng quân Chánh pháp tên gọi Sàriputta.

– Ôi! Trí tuệ của ngài thật cao cả thay! Họ bảo nhau.

Từ đó về sau, đặc tính đại trí tuệ của Trưởng lão này vang dội khắp loài người và chư Thiên.

Lúc ấy bậc Ðạo sư nói với vị này:

Người này thử thách phải đi qua,
Kẻ khác đạt rồi mục đích xa,
Tư cách khác nhau đều hiển lộ,
Vì ông biết rõ hết kia mà.

Như vậy, sau khi hỏi một câu thuộc phạm vi hiểu biết của một vị Phật, Ngài thêm:

– Ðây là vấn đề được đặt ra tổng quát sơ lược, còn đâu là ý nghĩa của vấn đề trong mọi phương diện?

Vị Trưởng lão xem xét vấn đề. Vị ấy suy nghĩ: “Bậc Ðạo sư hỏi về đường lối tu tập thích hợp cho Tăng chúng tinh tấn tăng trưởng, cả những người mới đạt được những quả vị thấp, lẫn những bậc Thánh A-la-hán đó chăng?” Về vấn đề tổng quát, Tôn giả này không có điều gì nghi hoặc. Nhưng rồi Tôn giả suy xét: “Ðường lối tu tập thích hợp có thể được diễn tả bằng nhiều cách nói theo ngũ uẩn trong mỗi vị hữu tình, khởi đầu là như vậy, song bây giờ làm sao ta có đáp đúng ý nghĩa của bậc Ðạo sư?”. Tôn giả hoài nghi về ý nghĩa ấy.

Bậc Ðạo sư nghĩ thầm: “Sàriputta không hoài nghi gì về vấn đề tổng quát, song còn nghi hoặc về khía cạnh đặc biệt gì của vấn đề mà Ta đang xem xét. Nếu Ta không đưa ra lời gợi ý hướng dẫn thì ông ấy không thể nào giải đáp được. Vậy ta phải gợi ý cho ông ấy”. Rồi Ngài đưa lời gợi ý bằng cách hỏi:

– Này Sàriputta, ông có chấp nhận điều này là đúng chăng (Ngài nói một vấn đề nào đó).

Tôn giả Sàriputta chấp nhận vấn đề ấy.

Gợi ý như vậy xong, Ngài biết Tôn giả Sàriputta đã nắm vững ý nghĩa của Ngài, và sẽ giải đáp đầy đủ bắt đầu từ ngũ uẩn trong mỗi vị hữu tình. Sau đó, vấn đề hiện ra rõ ràng trước mắt vị Trưởng lão như có cả trăm ngàn lời gợi ý, ồ không, cả ngàn lời nữa, và theo lời hướng dẫn củađức Phật, Tôn giả giải đáp vấn đề kia thuộc về tri kiến Phật.

Bậc Ðạo sư thuyết Pháp cho cả hội chúng khắp cả mười hai dặm: ba trăm triệu vị hữu tình uống được nguồn nước trường sinh.

Khi hội chúng ra về, bậc Ðạo sư lại du hành khất thực, dần dần đến Xá-vệ. Ngày hôm sau, khi đã khất thực tại Xá-vệ xong, Ngài trở về và dạy bảo các Tỷ-kheo giữ phận sự của mình rồi bước vào Hương phòng. Về buổi tối, các Tỷ-kheo bàn luận đến đức tính cao cả của Trưởng lão Sàriputta, trong lúc Tăng chúng ngồi tại Chánh pháp đường:

– Này các Hiền giả, Tôn giả Sàriputta thật là bậc đại trí tuệ, Tôn giả có trí tuệ quảng bác, trí tuệ mẫn tiệp, trí tuệ tinh xảo, trí tuệ linh lợi. Bậc Ðạo sư đặt câu hỏi tổng quát, Tôn giả đã trả lời thật đầy đủ sâu rộng.

Bậc Ðạo sư bước vào hỏi Tăng chúng đang bàn luận gì trong lúc ngồi đó, các vị trình với Ngài, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu vị ấy trả lời rộng rãi một vấn đề được nêu tổng quát, mà ngày xưa cũng đã làm như vậy.

Và Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm một con Nai sống trong rừng. Bấy giờ, vua thích săn bắn, và vua lại là một người đầy uy lực, ngài cho rằng không có ai xứng danh con người cả.

Một ngày kia, lúc ngài đi săn, ngài bảo đám cận thần:

– Hễ ai để thoát một con nai vì mình thì sẽ bị trừng phạt như vầy như vầy..

Bọn họ suy nghĩ: “Người ta có thể đứng trong nhà mà không tìm thấy vựa lúa. Khi một con nai bị vây bắt bằng cái móc hay gậy cong, ta phải lùa nó đến nơi đức vua đứng”.

Bọn họ liền giao ước với nhau để thực hiện điều này, và sắp đặt vua đứng ở cuối đường. Sau đó, họ vây quanh một hang lớn và bắt đầu lấy dùi cui gậy gộc đập lên mặt đất. Con vật đầu tiên bị vây bắt chính là Nai vàng. Ba lần Nai nhìn quanh bụi cây tìm cơ hội trốn thoát. Khắp nơi, Nai thấy người ta đứng chật ních chen tay, cung kề cung, chỉ có nơi vua đứng là Nai thấy may ra còn có dịp. Với đôi mắt chiếu sáng lòa, Nai vụt đến phía vua làm chói mắt vua như thể tung cát bụi vào đôi mắt ấy. Lập tức vua thấy Nai, bắn tên ngay và hụt mất.

Ta phải biết rằng loài nai rất thông minh tránh được các mũi tên. Khi các mũi tên vụt thẳng vào chúng, chúng đứng yên để tên bay đi, nếu tên vụt tới phía sau, nai sẽ vụt chạy nhanh hơn; nếu tên bay xuống từ phía trên chúng cong lưng lại, nếu từ phía suờn, nai nghiêng mình một tí; nếu tên nhắm vào bụng, nai lăn một vòng; khi tên đã lướt qua rồi thì Nai vụt nhanh như bay gió cuốn. Vì vậy, khi vua thấy Nai lăn qua, tưởng Nai đã bị thương, liền kêu lên một tiếng “ô này!”.

Nai vùng đứng dậy, vụt nhanh như gió, phá được vòng vây của đám người kia. Các triều thần ở cả hai phía nhìn thấy con nai chạy thoát, liền tụ tập lại với nhau và hỏi:

– Nai tiến về chỗ của ai thế?

– Chỗ của Chúa thượng.

– Song Chúa thượng đã la lớn: Ta bắn được nai rồi kia mà! Vậy Chúa thượng bắn được cái gì? Tôi dám chắc với quí vị, Chúa thượng bắn hụt rồi! Chúa thượng bắn mặt đất đấy!

Như vậy, hội chúng chế nhạo vua không ngớt. Vua nghĩ thầm: “Bọn này đang chế nhạo ta, chúng không biết tay ta”. Rồi khi nai nịt thắt lưng, vua đi bộ, cầm kiếm trong tay, vừa đi thật nhanh vừa la to:

– Ta sẽ đi bắt Nai!

Vua nhìn sát theo Nai và đuổi Nai chừng ba dặm. Nai tiến sâu vào rừng, vua cũng tiến theo. Lúc bấy giờ trên đường Nai đi, có một cái hố thật lớn với một cây đã mục nát, sâu chừng sáu mươi cubit, đám cỏ dại mọc che phía trên. Nai ngửi được mùi nước, thấy đó là cái hố, nên nghiêng mình qua một bên tránh đường. Song vua cứ đi thẳng lên nên ngã vào hố. Nai không còn nghe tiếng chân vua nữa, liền quay lại. Thấy không có ai, Nai biết là vua hẳn đã rơi xuống hố. Vì thế, Nai đến nhìn vào, thấy vua trong tình cảnh nguy khốn, vùng vẫy trong nước sâu. Song Nai khôngđể lòng oán hận đối với việc ác mà vua đã làm, còn thương hại nghĩ thầm: “Không được để vua này chết trước mắt ta, ta sẽ cứu vua qua khỏi cơn hoạn nạn này”.

Vừa đứng trên miệng hố, Nai vừa kêu lớn:

– Này Ðại vương đừng sợ, vì ta sẽ cứu thoát ngài khỏi cảnh hiểm nghèo này.

Rồi dùng hết sức lực, sốt sắng thiết tha như thể cứu lấy đứa con yêu quý của mình, Nai đỡ vua lên dốc đá, chính vua kia đã đuổi theo Nai để giết hại đó, Nai kéo vua ra khỏi hố sâu sáu mươi cubit, và nói lời an ủi vua rồi đặt vua lên chính lưng mình, mang vua ra khỏi rừng, để vua xuống không xa đám quân sĩ mấy. Sau đó, Nai thuyết giáo cho vua và an trú vua vào Ngũ giới. Tuy nhiên, vua không thể rời bậc Ðại sĩ được, mà bảo:

– Tâu Lộc vương Chúa thượng, xin hãy cùng ta đến Ba-la-nại, vì ta muốn nhường ngôi cho ngài tại Ba-la-nại, một kinh thành trải rộng kháp mười hai dặm để ngài ngự trị toàn quốc độ ấy.

Song ngài đáp:

– Thưa Ðại vương, ta là thú vật, ta không muốn chiếm vương quốc nào cả. Nếu ngài có lòng thương mến ta, xin hãy giữ Ngũ giới mà ta đã dạy ngài, rồi ngài dạy cho đám quần thần của ngài cũng giữ giới nữa.

Cùng với lời khuyên này, ngài trở về rừng. Còn vua đến gặp lại quân sĩ, và trong khi hồi tưởng những đức tính cao thượng của Nai kia, mắt vua đẫm lệ. Vừa được đám binh sĩ hộ tống, vua ngự khắp kinh thành trong hồi trống ban lệnh vua vang rền, truyền rao lời bố cáo này:

– Từ nay về sau, dân chúng toàn thành hãy giữ Ngũ giới.

Song vua không nói với ai về lòng nhân từ mà bậc Ðại sĩ đã ban cho ngài. Sau khi dùng xong các món cao lương mỹ vị về buổi chiều tối, vua an nghỉ trên vương sàn lộng lẫy và sáng sớm hôm sau, vua nhớ lại những đức tính cao thượng của bậc Ðại sĩ, ngài liền trở dậy và ngồi chéo chân trên vương tọa, tâm tràn đầy hân hoan, ngài cất tiếng ca lên nguyện vọng của ngài qua sáu vần kệ:

  1. Cứ hy vọng, người ơi, là bậc trí,
    Xin hãy đừng nản chí hoặc sờn lòng,
    Chính ta nay thành đạt đích hằng mong.
  2. Ta thấy rõ, người ơi, là bậc trí,
    Cứ hy vọng, dù buồn, đừng nản chí,
    Chính ta đây chiến đấu tiến vào bờ.
  3. Vượt trùng dương, ta thấy rõ, bây giờ,
    Cố gắng mãi, người ơi, là bậc trí,
    Xin hãy chớ nản lòng hay nhụt chí,
    Chính ta nay thành đạt đích ước nguyền.
  4. Ta thấy nay, người hỡi, gắng sức lên,
    Nếu người trí, dù buồn phiền đau khổ,
    Ðừng chán nản, chính ta đây nhìn rõ,
    Ta đã từng chiến đấu vượt trùng dương.
  5. Bậc trí nhân dù tràn ngập đau thương,
    Niềm hy vọng an vui không hề tắt,
    Nhiều tình cảm, khổ đau cùng an lạc:
    Các ngài không nghĩ đến chúng làm chi,
    Song lên đường cho đến lúc chết đi.
  6. Việc xảy ra, ta đều không ngờ tới,
    Việc ta tính lại thường hay thất bại,
    Vì chỉ riêng phần ý tưởng mà thôi
    Chẳng lợi cho niềm hạnh phúc người đời.

Trong lúc vua đang ca khúc hát này, mặt trời cũng vừa lên. Còn vị tế sư của ngài cũng dậy sớm vào vấn an sức khỏe của ngài. Lúc đang đứng ở cửa, vị này nghe tiếng ca ấy, nghĩ thầm: “Hôm qua đức vua đi săn. Chắc ngài đã hụt mất con Nai và khi bị quần thần chế nhạo, ngài phán rằng ngài sẽ đích thân đuổi bắt con mồi và giết đi. Sau đó, hẳn ngài săn đuổi theo Nai, vì bị lòng kiêu mạn của một chiến sĩ thúc đẩy, nên bị rơi vào cái hố sâu sáu mươi cubit. Rồi Nai có từ tâm chắc hẳn đã kéo ngài lên mà không hề có chút ý nghĩ gì đến tội ác của đức vua đối với mình. Chắc vì thế nên đức vua hát lên khúc tụng ca này đây”.

Như vậy, vị Bà-la-môn này nghe hết mọi lời ca của khúc hát kia, và những việc gì đã xảy ra giữa vua với Nai đều rõ ràng như một khuôn mặt phản chiếu trong chiếc gương được lau chùi thật kỹ. Ông lấy đầu ngón tay gõ nhẹ lên cửa. Vua hỏi:

– Ai đó?

– Tâu Chúa thượng, chính hạ thần là tế sư đây.

– Này Sư trưởng, cứ vào đi.

Vua bảo rồi mở cửa. Vị ấy bước vào, tung hô vạn tuế đức vua, và đứng sang một bên. Sau đó, ông thưa:

– Tâu Ðại vương, hạ thần biết những việc đã xảy ra với Ðại vương ở trong rừng. Trong lúc đuổi theo con Nai, Ðại vương rớt vào hố và con Nai dựa vào sườn đá bên hố mà kéo Ðại vương lên. Vì vậy, Ðại vương nhớ lại đặc tính cao cả của Nai và hát một bài tụng ca.

Rồi ông ngâm hai vần kệ:

  1. Bên sườn non nọ có con Nai,
    Trước đó là con thịt của ngài,
    Dũng cảm Nai ban ngài cuộc sống,
    Vì ly tham hận hết trong đời.
  2. Khỏi hố đáng kinh, vuốt tử thần,
    Dựa vào tảng đá bạn-khi-cần,
    Chúa Nai cứu mạng nên ngài bảo:
    Trí tuệ Nai vàng vượt hận sân.

“Ô kìa!” Vua suy nghĩ khi nghe lời trên: “Người này không cùng đi săn với ta, tuy thế, lại biết hết mọi sự. Làm sao lại biết được thế? Ta muốn hỏi vị ấy”. Và vua ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Ðạo sĩ, hôm kia có mặt chăng?
    Hoặc nghe từ một kẻ bàng nhân?
    Tấm màn tham dục ngài đã vén,
    Trí tuệ ngài làm trẫm hãi hùng!

Song vị Bà-la-môn đáp:

– Hạ thần không phải là một vị Phật toàn tri đâu, hạ thần chỉ nghe lóm khúc tụng ca của Ðại vương vừa hát đó thôi, mà không bỏ sót ý nghĩa, nên mọi việc trở nên rõ ràng trước mắt hạ thần.

Ðể giải thích điều này, ông ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Tâu Chúa công! Việc ấy, thần chẳng nghe,
    Không vào rừng để chứng kiến ngày kia,
    Song từ khúc kệ ngài ca êm dịu,
    Việc ra sao, trí nhân đà thấu hiểu.

Vua rất hoan hỷ nên ban thưởng ông một tặng phẩm quí giá.

Từ đó về sau, vua chuyên tâm bố thí và làm các thiện sự, dân chúng cũng đem hết lòng làm thiện sự, nên khi mạng chung được sinh lên cùng Thiên chúng thật đông đảo.

Lúc bấy giờ, vua đi vào thượng uyển cùng với vị tế sư để bắn bia. Thời ấy Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ đang suy gẫm xem cả đám tiên đồng ngọc nữ kia mới từ đâu đến mà ngài thấy thật đông đảo chung quanh ngài như thế. Khi xét kỹ, ngài chợt hiểu toàn câu chuyện: Vua đã được Nai cứu thoát khỏi cái hố như thế nào, vua đã được an trú vào giới đức, và nhờ uy lực của vua ra sao mà dân chúng đã làm nhiều thiện sự nên Thiên giới trở thành đông đúc như thế, và nay vua lại vào ngự uyển để bắn một cái bia.

Vì thế, Thiên chủ cũng đến nơi đó, với giọng sư tử hống, ngài tuyên thuyết tính cao thượng của Nai, và bảo cho biết chính ngài là Sakka Thiên chủ, rồi đứng vững trên không mà thuyết Pháp nêu rõ công đức của lòng từ bi và Ngũ giới, xong ngài trở về. Bấy giờ, vua dự định bắn bia, giương chiếc cung và lắp mũi tên vào dây. Ngay lúc ấy, Sakka Thiên chủ dùng thần lực hóa hiện ra con Nai đứng giữa vua và tấm bia, vua thấy vậy không bắn tên nữa. Lúc ấy, Thiên chủ nhập vào thân của vị tế sư ngâm kệ này cho vua nghe:

  1. Tên ngài giết lắm vật oai hùng,
    Sao lại cầm tên lặng giữa cung?
    Hãy bắn tên bay vào lộc ấy,
    Ðó là ngự thiện, tấu Minh vương!

Vua đáp lại qua vần kệ:

  1. Tế sư, trẫm thấu suốt hơn ngài:
    Trẫm biết dâng vua chính thịt nai,
    Song trẫm nhớ ơn đà cứu giúp,
    Trẫm dừng tay chẳng hại đời ai.

Sau đó, Sakka Thiên chủ ngâm đôi vần kệ:

  1. Chẳng phải là Nai, tấu Ðại vương,
    Mà đây là một Tu-la-thần,
    Ngài là chúa tể nơi trần thế,
    Giết nó, ngài lên đấng Ngọc hoàng!
  2. Nếu ngài do dự, tấu Anh quân,
    Khi giết Nai vì chính bạn thân,
    Sẽ vào sông lạnh Diêm vương phủ,
    Cùng vợ con ngài xuống cõi âm.

Nghe thế vua liền ngâm hai vần kệ:

  1. Cứ vậy Diêm vương với tử hà,
    Ðưa ta đến đủ cả toàn gia,
    Cùng thân bằng nữa, ta không thể
    Tự giết Nai bằng tay của ta.
  2. Ðầy rẫy rừng sâu nỗi hãi hùng,
    Chính Nai đã cứu khỏi tai ương,
    Sao ta muốn vị ban ân chết,
    Sau việc thi ân ấy đã mang?

Lúc ấy, Thiên chủ Sakka xuất ra khỏi thân của vị tế sư, mang lấy đúng hình dáng của ngài và hiệnđứng vững trên không, ngâm hai vần kệ nêu rõ đức tính cao thượng của vua:

  1. Thiện hữu muôn năm ở cõi trần!
    Dạy đời lương thiện, lý toàn chân,
    Rồi Thiên nữ sẽ theo hầu hạ
    Ngài chính In-dra giữa các thần.
  2. Thoát dục, tâm mình mãi trú an,
    Khi nhiều người lạ đến kêu van,
    Hãy cho chúng những gì cần thiết,
    Vì Ðại vương đầy đủ khả năng,
    Hãy sống phân minh không phạm lỗi,
    Ngày sau Thiên giới sẽ dành phần.

Nói vậy xong, Thiên chủ tiếp tục như sau:

– Ta đến đây để thử ngài, này Ðại vương, và ngài đã không đồng ý với ta. Ta xin ngài hãy gắng tinh cần mãi.

Cùng với lời khuyên này, ngài trở về cõi của mình.

*

Khi bậc Ðạo sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên Sàriputta hiểu đầy đủ những điều được nói tổng quát, mà ngày xưa cũng vậy.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda (A-nan) là vua, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vị tế sư và Ta chính là Nai chúa.

-ooOoo-

Chương XIV

Tạp phẩm

  1. Chuyện cánh đồng lúa (Tiền thân Sàlikedàra)

Mùa lúa chiêm vàng thật đẹp thay..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình.

Trường hợp này sẽ được giải thích trong Tiền thân Sàma (số 540, tập VII). Lúc ấy, bậc Ðạo sư cho gọi Tỷ-kheo này đến và hỏi:

– Này Tỷ kheo, Ta nghe nói ông cấp dưỡng người thế tục, có đúng vậy chăng?

– Bạch Thế Tôn, đúng vậy!

– Họ là ai thế?

– Bạch Thế Tôn, chính song thân của con.

Bậc Ðạo sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, tốt lành thay! Các trí nhân ngày xưa, ngay khi còn mang thân thú vật hạ liệt, dù chỉ sinh làm loài Anh vũ, nhưng khi cha mẹ già yếu, cũng đã đem cha mẹ vào tổ và nuôi nấng bằng chính thức ăn mà chúng ngậm về trong mỏ mình.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, vị vua mệnh danh là Ðại vương Magadha (Ma-kiệt-đà) trị vì tại Ràjagaha (Vương Xá). Thời ấy, có một làng Bà-la-môn, tên là Sàlindiya ở phía đông bắc kinh thành này. Trong vùng đông bắc này là địa phận thuộc về nước Ma-kiệt-đà. Có một Bà-la-môn sống ở Salindiya, tên là Kosiyagotta, chiếm giữ điền sản cả ngàn mẫu đất để trồng lúa. Khi vụ mùa đến, ông làm một hàng rào vững chắc, giao đất cho các gia nhân, có người được năm mươi mẫu, người khác sáu mươi mẫu, và cứ vậy, vị địa chủ chia khoảng năm trăm mẫu điền sản cho đám gia nhân.

Còn năm trăm mẫu kia, ông chủ giao cho một người làm thuê lấy công, người ấy dựng túp lều và ở đó suốt đêm ngày. Lúc bấy giờ, về phía đông bắc vùng đồng ruộng này là một khu rừng cây bông vải rộng lớn, mọc trên một ngọn đồi bằng phẳng, trong rừng này có một đàn chim Anh vũ (két) rất đông.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát sinh vào đàn chim Anh vũ này, làm vương tử của chúa Anh vũ. Ngài lớn lên tốt đẹp và khỏe mạnh, thân lớn bằng cái trục bánh xe. Bấy giờ, chúa chim đã già, bảo ngài:

– Nay ta không thể nào bay ra đồng được nữa, con hãy chăm sóc cả đàn chim này.

Và phong cho ngài chức chim chúa. Từ hôm sau, ngài không chịu để cha mẹ đi kiếm mồi nữa, mà ngài cùng cả đàn bay về vùng Tuyết Sơn, và sau khi ăn lúa no nê từ đám ruộng mọc hoang tại đó, ngài trở về mang thức ăn đầy đủ để nuôi cha mẹ.

Một ngày kia, đàn chim Anh vũ hỏi ngài một chuyện. Chúng nói:

– Trước đây, vào lúc này lúa đã chín trong nông trại Ma-kiệt-đà, bây giờ lúa có được trồng nữa chăng?

Ngài đáp:

– Cứ đi xem.

Rồi ngài bảo hai chim Anh vũ đi tìm hiểu. Ðôi chim Anh vũ bay đi, và hạ cánh xuống đồng bằng Ma-kiệt-đà ở phần đất được người làm mướn canh giữ, chúng ăn lúa rồi mang một cọng lúa về rừng, thả xuống trước đôi chân của bậc Ðại sĩ và nói:

– Lúa này mọc tại đó.

Hôm sau, ngài bay đến nông trại đó và hạ xuống cùng với cả đàn chim. Người làm công ấy cứ chạy đằng này đến chạy đằng kia, cố xua đuổi đàn chim, song không thể nào đuổi chúng được. Cả đàn Anh vũ ăn lúa xong, ra đi với những mỏ trống không, nhưng chúa Anh vũ thu lượm một số lúa mang về cho cha mẹ.

Hôm sau, bầy Anh vũ lại đến đó ăn lúa lần nữa, và hôm sau nữa cũng vậy. Lúc ấy người kia bắtđầu suy nghĩ: “Nếu những con vật này cứ tiếp tục ăn thêm vài ngày nữa, thì ta chẳng còn chút gì. Vị Bà-la-môn kia sẽ định giá cả cho cả đám lúa này và sẽ phạt tiền ta. Ta phải đi báo cho ông ấy biết”. Vừa cầm lấy một nắm lúa và một món quà kèm theo, gã đi đến gặp vị Bà-la-môn kia, kính chào vị ấy và đứng sang một bên. Ông chủ bảo:

– Nào, anh bạn, có được mùa lúa chăng?

– Thưa Tôn giả Bà-la-môn, được mùa lắm.

Gã đáp và ngâm hai vần kệ:

  1. Mùa lúa chiêm vàng thật đẹp thay,
    Song tôi xin nói để ngài hay
    Ðàn Anh vũ phá tan đồng lúa,
    Tôi chẳng làm sao đuổi chúng bay.
  2. Có một chim kia đẹp nhất đàn,
    Trước tiên tìm lúa chín mà ăn,
    Rồi mang một nắm vào trong mỏ,
    Ðể sẵn mai sau những lúc cần.

Khi vị Bà-la-môn nghe chuyện này lòng phát sinh mối tình thương cảm đối với chim Anh vũ chúa. Ông hỏi:

– Này chú, thế chú có biết cách đặt bẫy chăng?

– Thưa Tôn ông, tôi có biết.

Ông chủ ấy liền nói với gã qua vần kệ này:

  1. Ðặt bẫy lông đuôi ngựa thế này,
    Chim kia rồi cũng bị sa ngay,
    Bắt cho cẩn thận, chim còn sống,
    Rồi lấy chim về gặp lão đây.

Người giữ ruộng rất vui mừng vì ông chủ không định giá tiền về đám lúa kia, và không ai nhắc đến nợ nần cả. Gã đi ngay và làm một cái bẫy bằng lông đuôi ngựa. Sau đó gã tìm hiểu xem lúc nào đàn chim sắp đáp xuống ngày hôm ấy, rồi gã thấy được nơi chúa Anh vũ đậu. Hôm sau từ sáng sớm gã làm một cái lồng to cỡ bằng cái bình nước và đặt bẫy rồi ngồi trong lều đợi đàn chim đến.

Chim chúa đến giữa đàn và chim không tỏ chút gì tham ăn, vừa bước xuống đúng nơi đã đậu ngày hôm qua, thì chân đặt ngay vào chiếc thòng lọng. Khi chim thấy chân bị siết chặt, liền nghĩ thầm: “Nếu bây giờ ta thốt lên tiếng chim của con chim mắc bẫy, thì đàn chim thân thuộc của ta sẽ kinh hoàng và chạy trốn mà chưa ăn gì được. Vậy ta phải chịu đựng cho đến khi chúng ăn xong”.

Cuối cùng, khi chim chúa thấy chúng đã no nê, mới lo sợ cho tính mạng mình mà thốt lên ba lần tiếng kêu của con chim bị nạn. Cả đàn chim bay trốn mất. Lúc ấy, chúa chim Anh vũ bảo:

– Cả đàn chim bà con quyến thuộc của ta đây, chẳng con nào quay lại nhìn ta nữa! Ta đã phạm tội gì vậy?

Và chim cảm hứng ngâm vần kệ quở trách chúng:

  1. Bầy chim ăn uống thật no say,
    Rồi chúng liền tung cánh vút bay,
    Bị bắt mình ta vào chiếc bẫy,
    Ta đà gây tội lỗi gì đây?

Người giữ ruộng chợt nghe tiếng kêu của chim chúa và âm thanh của cả đàn chim kia bay qua không gian. “Cái gì đó?” Gã nghĩ thầm. Gã đứng dậy ra khỏi lều và đi về phía cái bẫy, gã thấy chim chúa ở đó.

“Ðúng là con chim mà ta muốn đặt bẫy đã bị bắt”. Gã kêu lên mừng rỡ vô cùng, gã lấy con chim ra khỏi bẫy, buộc đôi chân vào nhau và đi về phía làng Salindiya, gã giao chim cho vị Bà-la-môn. Vị này với tình cảm đậm đà dành cho bậc Ðại sĩ, ôm ngài trong đôi tay, đặt ngài trên đùi mình và nói chuyện với ngài qua hai vần kệ sau:

  1. Bụng chim lớn vượt các chim kia:
    Trước hết chim ăn bữa thỏa thuê,
    Sau đó ngậm thêm đầy mỏ nữa,
    Trước khi giương cánh rộng bay về.
    6. Chim có một kho phải đổ vào?

Và chim ghét lão đắng cay sao?
Lão đòi chim phải trình cho đúng:
Chim để kho kia ở chốn nào?

Nghe lời này, Anh vũ chúa đáp lời, ngâm vần kệ thứ tám bằng giọng người ngọt ngào như mật:

  1. Ta chẳng ghét ngài, Ko-si-ya,
    Ta không hề có vựa kho nhà,
    Khi vào rừng ở, ta hoàn nợ,
    Và cũng cho vay mượn nữa mà,
    Nơi đó ta dồn kho báu mãi,
    Ðây là câu giải đáp phần ta.

Tiếp theo vị Bà-la-môn hỏi chim chúa:

  1. Món nào chim lại muốn cho vay?
    Gì đó là công phải trả đây?
    Cho biết kho nào đang tích trữ,
    Rồi ta sẽ thả tự do bay.

Chim Anh vũ chúa vừa đáp lời Bà-la-môn yêu cầu, vừa giải thích ý định mình qua bốn vần kệ:

  1. Lũ chim non nớt ở nhà ta,
    Ðôi cánh còn chưa mọc đủ ra,
    Chúng sẽ nuôi ta mai mốt nọ,
    Nay ta cho chúng mượn vay mà.
  2. Mẹ cha già yếu cả song thân,
    Hai vị xa dần hạn tuổi xuân,
    Với lúa ta mang trong chiếc mỏ
    Ðem vê dâng trả các ân nhân.
  3. Còn lắm chim đang sống lẻ đơn,
    Bầy chim yếu đuối lại nhiều hơn,
    Ta cho bọn chúng vì từ mẫn:
    Ðây chỗ hiền nhân gọi trữ tồn.
  4. Ðây là phần nợ muốn cho vay,
    Ðấy lại là công phải trả đầy,
    Nơi nọ là kho đang tích trữ,
    Giờ ta phân giải hết lời này.

Vị Bà-la-môn rất hoan hỷ khi nghe bài thuyết giáo hợp đạo lý này của bậc Ðại sĩ, liền ngâm hai vần kệ:

  1. Ðạo lý cuộc đời tối thượng thay!
    Làm bao công đức chính chim này!
    Từ mồm nhiều kẻ trên trần thế
    Chẳng có hề nghe luật lệ vầy.
  2. Ăn cho vừa ý thật no nê,
    Và mọi chim thân cũng thỏa thuê,
    Anh vũ, rồi ta còn gặp lại,
    Ta yêu hình bóng bạn quay về.

Cùng với những lời này, ông nhìn bậc Ðại sĩ với lòng trìu mến như thể nhìn đứa con yêu quý nhất của mình; rồi thả dây khỏi chân chim, ông xoa lên đôi chân ấy một loại dầu quý đã lọc kỹ cả trăm lần, và đặt chim lên một bảo tọa rất sang trọng, đãi chim ăn món bắp ngọt trên một cái đĩa vàng và uống nước đường.

Sau đó chúa Anh vũ vừa khuyên nhủ vị Bà-la-môn tinh cần, vừa ngâm kệ này:

  1. Trong nhà ngài đấy, Ko-si-ya,
    Ta uống ăn, tình bạn thiết tha,
    Xin hãy cúng dường cho những vị
    Trong đời gánh nặng đã quăng xa,
    Và xin phụng dưỡng song thân đủ,
    Khi các ngài kia đã xế tà.

Lúc ấy vị Bà-la-môn vô cùng hân hoan trong lòng, cảm hứng ngân nga nỗi lạc thú lâng lâng của mình qua vần kệ này:

  1. Thần nữ Cát Tường hẳn đến đây
    Khi ta nhìn thấy chúa chim này,
    Ta nguyền thực hiện nhiều công đức,
    Chẳng có bao giờ muốn nghỉ tay,
    Vì giọng chim thần nay lảnh lót,
    Ta vừa nghe thật tuyệt vời thay!

Kế đó, bậc Ðại sĩ không chịu nhận cả ngàn mẫu ruộng mà vị Bà-la-môn tặng ngài, nhưng chỉ nhận tám mẫu thôi. Vị ấy cho xây tường đá làm ranh giới để dành riêng điền sản cho ngài, rồi lạiđưa tay lên đảnh lễ ngài rất cung kính và nói:

– Xin Chúa công thượng lộ bình an và mau về khuyên dỗ song thân đang than khóc.

Xong ông để ngài bay đi. Ngài rất đẹp ý, ngậm một cọng lúa đem về cho cha mẹ rồi vừa thả cây lúa trước song thân vừa bảo:

– Nào dậy đi thôi, cha mẹ thân yêu của con.

Hai vị nghe lời ngài liền vùng dậy, mắt nhòa lệ thảm. Sau đó, cả đàn Anh vũ kia lục tục kéo đến hỏi thăm:

– Tâu Chúa thượng, ngài làm sao thoát thân được?

Ngài kể cho chúng nghe toàn câu chuyện từ đầu đến cuối. Còn gia chủ Kosiya nghe lời khuyên nhủ của chim Anh vũ chúa, đem phân phát nhiều của cải, bố thí cúng dường các vị chân nhân, các ẩn sĩ khổ hạnh, cùng các Bà-la-môn nữa.

Vần kệ cuối cùng do bậc Ðạo sư ngâm để giải thích việc này:

  1. Ko-si này với đại hân hoan
    Thực phẩm làm phong phú ngập tràn
    Ðãi uống ăn La-môn, Thánh giá,
    Bản thân vị ấy thật hiền lương.

*

Khi bậc Ðạo sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, phụng dưỡng mẹ cha mình là một mỹ tục cổ truyền của các bậc trí nhân và thiện nhân.

Sau đó, Ngài thuyết giảng các Sự Thật và nhận diện Tiền thân. Bấy giờ, vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo đó đã được an trú vào Sơ quả Dự Lưu:

– Vào thời ấy, các đệ tử Phật là đàn Anh vũ, phụ hoàng, mẫu hậu ngày nay là cha mẹ chim chúa, Channa (Xa-nặc) là người giữ ruộng, Ànanda là vị Bà-la-môn, và Ta chính là chim chúa Anh vũ kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện đôi ca thần Canda (Tiền thân Canda Kinnara)

Chắc hẳn đời ta sắp sửa tàn..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Bồ-đề Lâm gần Kapilapura, về thân mẫu của Ràhula (La-hầu-la) khi bà còn ở trong cung.

Tiền thân này phải được kể bắt đầu từ thời quá khứ xa xưa của Tiền thân đức Phật. Song câu chuyện về các thời kỳ này, bắt đầu từ tiếng Sư tử hống của Tôn giả Uruvela Kassapa (Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp) tại Latthivana (Rừng Mía gần Trúc Lâm), đã được kể trước kia trong số 1. Tiền thân Apannaka. Bắt đầu từ đó, ta sẽ đọc trong số 547. Tiền thân Vessantara phần tiếp theo chuyện cho đến khi Ngài trở về Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ).

Ðang lúc Ngài ngồi trong cung phụ vương, suốt buổi ăn, bậc Ðạo sư kể Tiền thân Mahàdhammapàla (số 447) và sau khi buổi ăn đã xong, Ngài nói:

– Ta muốn tán thán những đức tính cao quý của mẹ Ràhula (La-hầu-la) ngay ở nội thất bà bằng cách kể Tiền thân Canda-Kinnara này.

Rồi vừa trao bình bát cho vua cha, Ngài cùng hai vị Ðại đệ tử bước qua cung thất của mẫu thân La-hầu-la. Thời ấy, có bốn mươi ngàn cung nữ giỏi ca múa hay đến bầu bạn với bà, trong đó có một ngàn chín mươi nàng là con gái dòng Sát-đế-ly. Khi bà nghe báo tin đức Như Lai đến viếng, bà ra lệnh tất cả đám cung nữ này đắp y vàng và hội chúng tuân lệnh.

Bậc Ðạo sư bước vào, ngồi xuống chỗ đã được dành sẵn cho Ngài. Lúc ấy, cả hội chúng nữ nhân đều kêu lên một tiếng và than khóc rền rỉ. Sau khi để mặc dòng lệ tuôn tràn, bà mẹ của La-hầu-la cố dẹp nỗi sầu riêng, đứng lên đảnh lễ bậc Ðạo sư và ngồi xuống với vẻ vô cùng tôn kính dành cho một vị vua. Lúc ấy, phụ vương Ngài bắt đầu kể đức hạnh của bà:

– Bạch Thế Tôn, xin hãy nghe đây. Khi nàng hay tin Thế Tôn đã đắp y vàng, nàng cũng đắp y vàng, Thế Tôn bỏ hết các vòng hoa và đồ trang sức, nàng cũng bỏ hết mọi thứ và chỉ nằm ngồi dưới đất. Khi Thế Tôn đã xuất gia, nàng liền trở thành cô phụ và từ chối mọi tặng vật mà các vương tử khác gửi đến nàng. Lòng nàng bao giờ cũng trung thành với Thế Tôn.

Như thế, phụ vương của Ngài đã kể hết đức hạnh của nàng trong nhiều cách, bậc Ðạo sư liền bảo:

– Thưa Phụ vương, thật không lạ gì ngày nay trong đời cuối cùng của Như Lai, công chúa này đã yêu thương, gìn giữ lòng trung thành đối Như Lai và chỉ muốn được một mình Như Lai dìu dắt mà thôi. Quả vậy, ngay cả khi được sinh làm loài phi nhân, bà cũng giữ dạ thủy chung với phu quân mình mà thôi.

Rồi theo lời thỉnh cầu của vua cha, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, bậc Ðại sĩ được sinh trong vùng Tuyết Sơn làm một vị Tiên Kinnara (Khẩn-na-la: Ca thần) tên là Canda hay Nguyệt Lang, vợ ngài là Candà hay Nguyệt Nga. Cả hai vị sống cùng nhau trên một hòn núi bạc tên là Canda-pabbata hay Nguyệt Quang.

Thời ấy, vua Ba-la-nại giao phó việc triều chính cho các quan đại thần, một mình vua khoác hai chiếc hoàng bào, trang bị năm thứ vũ khí và tiến về vùng Tuyết Sơn nọ.

Trong lúc đang thưởng thức món sơn hào, vua chợt nhớ nơi có con suối nhỏ, nên bắt đầu leo lên đồi. Thời bấy giờ, đôi tiên sống trên đỉnh Nguyệt Sơn thường ở trong núi vào mùa mưa, và chỉ xuống núi vào mùa nắng. Vừa lúc ấy, tiên nam Canda cùng vợ hạ sơn và đi quanh quẩn. Ðôi tiên tầm nước hoa, ăn phấn hoa, mặc xiêm y bên trong lẫn bên ngoài đều bằng thứ lụa sa dệt từ bông hoa, vừa lắc lư trong đám cây cát đằng (dây leo), vừa vui đùa ca hát bằng một giọng ngọt ngào như mật.

Vị tiên nam tiến dần đến con suối này và tại một chỗ dừng chân bên suối, chàng bước xuống cùng vợ rắc hoa khắp mặt suối vừa vui đùa dưới nước. Khi cả hai vị đã mặc lại xiêm y bằng hoa xong, trên một khoảng cát trắng, sáng láng một tấm bạc, hai vị trải hoa làm sàng tọa và nằm xuống. Vừa lượm được một khúc cây trúc, vị tiên nam bắt đầu thổi sáo, thỉnh thoảng ca hát ngọt ngào như mật rót vào tai, trong lúc tiên nữ uốn lượn đôi tay mềm mại, vừa nhảy vừa hát ca gần đó.

Nhà vua nghe tiếng hát, liền đi rón rén để đừng ai nghe lọt bước chân, vừa đến gần ngắm nghía đôi tiên từ một nơi nấp kín đáo. Vua bỗng nhiên sinh ra si tình tiên nữ và nghĩ thầm: “Ta muốn bắn chàng kia và sống ở đây với vợ chàng”. Sau đó vua liền nhắm bắn trọng thương vị tiên nam Canda. Chàng đau đớn thốt lên bốn vần kệ:

  1. Chắc hẳn đời ta sắp sửa tàn,
    Máu ta đang chảy xiết, tuôn tràn,
    Ta gần mất hết nguồn sinh lực,
    Hơi thở đang thoi thóp, hỡi nàng!
  2. Ta đang chìm ngập với đau thương,
    Lòng dạ ta đang đốt cháy bừng,
    Song bởi chính nàng sầu, Nguyệt hỡi,
    Mà tim ta cảm xúc khôn lường.
  3. Như cỏ cây, ta cứ lụi tàn,
    Héo hon như suối cạn khô dần,
    Lòng đầy xúc cảm, Can-dà hỡi,
    Vì nỗi buồn đau của chính nàng.
  4. Dòng lệ tuôn từ cặp mắt ta,
    Như mưa chân núi chảy vào hồ,
    Bởi vì lòng dạ đầy thương cảm,
    Cho nỗi sầu nàng, hỡi Nguyệt Nga!

Bậc Ðại sĩ than khóc như vậy qua bốn vần kệ trong khi quằn quại trên sàn tọa bằng hoa, rồi bất tỉnh quay mặt đi. Nhà vua vẫn đứng ở nơi đã nấp. Còn tiên nữ không biết bậc Ðại sĩ vừa bị thương, ngay khi ngài than khóc như thế, nàng cũng không hay biết, vì nàng đang say sưa với niềm hoan lạc của mình. Nhưng khi thấy ngài quay đi và nằm bất động, nàng bắt đầu tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với vị phu quân. Vội đến gần quan sát chồng, nàng thấy máu đang chảy ra từ miệng vết thương, nên không thể nào chịu đựng nổi cơn đau đớn khủng khiếp trước tình cảnh phu quân yêu quý của mình, nàng kêu gào thất thanh.

“Vị tiên nam ắt hẳn đã chết”, vua thầm nghĩ và bước ra lộ diện. Khi tiên nữ Candà thấy vua, nàng nghĩ thầm: “Ðây hẳn là kẻ cướp đã giết chồng yêu quý của ta”, và nàng run rẩy chạy trốn. Khi đãđứng trên đỉnh đồi, nàng kết tội vua quyết liệt qua năm vần kệ:

  1. Ôi khổ thân ta, chúa bạo tàn!
    Nhà ngươi đã bắn trọng thương chàng,
    Nay chàng nằm đó, trên đất lạnh,
    Dưới một gốc cây, giữa núi ngàn.
  2. Vương tử! Sầu đau xét ruột này,
    Ta mong thái hậu phải đền thay!
    Mối sầu đang bóp tim tan nát,
    Khi thấy chàng yêu đã chết đây.
  3. Vương tử! Sầu đau xét ruột này,
    Ta mong vương hậu phải đền thay!
    Mối sầu đang bóp tim tan nát,

Khi thấy chàng yêu đã chết đây.

  1. Mong thái hậu nay khóc phụ hoàng,
    Và sau lại phải khóc hoàng nam,
    Kẻ vì tham dục đang làm ác
    Cho chính chồng ta thật uổng oan.
  2. Ước mong vương hậu phải chờ trông
    Tình cảnh mất con lẫn mất chồng,
    Là kẻ vì tham, làm việc ác
    Cho chàng vô tội, chính phu quân.

Sau khi nàng kêu gào than khóc như vậy qua năm vần kệ trên, nhà vua vừa đứng trên đỉnh núi vừa cất tiếng an ủi nàng qua một vần kệ khác.

  1. Thôi đừng than khóc, chớ sầu thương,
    Ta chắc rừng đêm quáng mắt nàng:
    Cung điện vua ban nàng diễm phúc,
    Nàng làm hoàng hậu của quân vương!

– Ngươi vừa nói gì thế?

Tiên nữ Candà thét lên khi nghe lời này, và nàng cất giọng sư tử hống hùng hồn đáp lời:

  1. Không, ta đành kết liễu cuộc đời!
    Ta chẳng bao giờ muốn lấy ngươi,
    Ngươi giết chồng ta nào có tội,
    Tất cả vì tham ái ta thôi!

Khi nghe lời này, lòng say mê của vua đối với nàng đều tan hết, sau đó, vua liền ngâm một vần kệ khác nữa:

  1. Sống cho thỏa nguyện, hỡi tiên nương,
    Thôi hãy quay về đỉnh Tuyết Sơn,
    Ta biết có nhiều loài thú vật
    Ăn toàn cỏ hoa, mến rừng hoang.

Cùng với những lời này, vua bình thản bỏ đi. Ngay khi Candà biết vua đi rồi, nàng bước đến ôm lấy bậc Ðại sĩ đem tận đỉnh đồi và đặt ngài nằm trên một chỗ đất bằng phẳng tại đó; vừa kê đầu ngài lên lòng nàng, nàng vừa than thở qua mười hai vần kệ sau:

  1. Ðây giữa vùng đồi núi, đỉnh cao,
    Trong nhiều thung lũng, dưới hang sâu,
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì bóng chàng nay thiếp thấy đâu?
  2. Thú rừng lang bạt khắp nơi nơi,
    Lá trải trên nhiều chốn đẹp tươi,
    Thiếp phải làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
    Vì nay chàng vắng bóng trên đời?
  3. Dã thú tung hoành, hoa ngát hương
    Lan tràn bao chốn đẹp hoang đường,
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì chẳng còn đâu thấy bóng chàng?
  4. Trong veo, nhiều suối chảy ven đồi,
    Hoa dại muôn ngàn, phủ khắp nơi,
    Thiếp phải làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
    Vì nay chàng bỏ thiếp đơn côi?
  5. Xanh thẳm là đối núi Tuyết San,
    Khi nhìn, đồi núi đẹp vô vàn,
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì chẳng còn đâu thấy bóng chàng?
  6. Bao đỉnh Tuyết Sơn nhuộm ánh vàng,
    Nhìn xem đồi núi đẹp huy hoàng,
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì thiếp còn đâu thấy bóng chàng?
  7. Ðồi núi Tuyết Sơn đỏ rực lên,
    Núi đồi tuyệt diệu lúc nhìn xem!
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì thiếp còn đâu thấy bóng tiên?
  8. Tuyết Sơn đỉnh nhọn vút trời cao,
    Ðồi núi nhìn xem đẹp biết bao!
    Thiếp sẽ làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
    Vì nay thiếp chẳng thấy chàng đâu?
  9. Lấp lánh, Tuyết Sơn đỉnh trắng ngần,
    Nhìn xem đồi núi đẹp muôn phần!
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì chẳng còn trông thấy Nguyệt quân?
  10. Tuyết Sơn lại đổi sắc cầu vồng,
    Tuyệt diệu là khi đứng ngắm trông!
    Thiếp phải làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
    Vì không còn được thấy lang quân?
  11. Ðồi Hương thân thiết với yêu ma,
    Khắp chốn phủ đầy vạn cỏ hoa,
    Thiếp phải làm gì, chàng nguyệt hỡi,
    Vì đâu còn thấy bóng Can-da?
  12. Thần tiên yêu mến ngọn đồi Hương,
    Cây cỏ bao quanh khắp nẻo đường,
    Thiếp sẽ làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
    Vì đâu còn thấy bóng chàng thương?

Nàng cứ than thở mãi như vậy, rồi khi cầm tay bậc Ðại Sĩ đặt lên ngực nàng, nàng thấy tay ngài còn ấm. Nàng nghĩ thầm: “Can-da còn sống đây, ta quyết khiêu khích các thần linh cho đến khi chàng được sống lại!” Rồi nàng lớn tiếng quở trách các thần:

– Chẳng có vị thần nào cai trị cõi trần hay sao? Các ngài đi ngao du ở đâu cả rồi? Chắc hẳn các ngài chết hết rồi nên chẳng còn ai cứu mạng chồng yêu quý của ta đây!”.

Vì uy lực nỗi khổ đau thống thiết của nàng, chiếc ngai của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nóng rực lên. Khi xét kỹ, ngài thấy rõ nguyên nhân, liền giả dạng một vị Bà-la-môn đến gần nàng, cầm bình nước thần dược rảy lên mình bậc Ðại Sĩ. Trong chốc lát, thuốc độc mất công hiệu, sắc mặt ngài trở lại tươi tỉnh, ngài cũng không còn biết gì đến chỗ bị thương nữa. Bậc Ðại Sĩ đứng dậy hoàn toàn hồi phục.

Khi Candà thấy vị phu quân muôn vàn yêu quí của mình đã hoàn toàn bình an, nàng hân hoan quì xuống chân của Ðế Thích Thiên chủ và tán thán ngài qua vần kệ:

  1. La-môn, Thánh giả đáng tôn vinh!
    Cho phận thiếp đây kém phước lành
    Ðược thấy phu quân đầy ái kính,
    Rảy lên chàng thánh dược hồi sinh!

Sau đó, Ðế Thích Thiên chủ khuyên nhủ:

– Từ rày về sau, hai vị đừng xuống khỏi đỉnh Nguyệt Sơn ra giữa đường đi của loài người nữa, mà cứ ở chốn đây thôi.

Ngài lặp lại câu này hai lần rồi trở về cõi của ngài. Còn Candà hỏi chồng nàng:

– Này phu quân, sao ta lại ở chốn đầy nguy hiểm này? Ta hãy mau về đỉnh Nguyệt Sơn.

Rồi nàng ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Ta hãy lui về đỉnh Nguyệt San,
    Nơi khe suối diễm lệ tuôn tràn,
    Suối khe phủ ngập đầy hoa lá,
    Mãi mãi chốn kia, gió nhẹ nhàng
    Thầm thì len qua ngàn cổ thụ,
    Mải mê trò chuyện, phút bình an.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà ngày xưa cũng thế, Công chúa luôn luôn tận tụy và giữ lòng trung thành với Ta.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Anuruddha (A-na-luật-đà) là vua, mẹ của La-hầu-la (Ràhulamàtà) là tiên nữ Candà và Ta chính là vị tiên nam.

-ooOoo-

  1. Chuyện chúa chim ưng (Tiền thân Mahà-Ukkusa)

Dân chúng đang nhen lửa đảo này…

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về Mitta-gandhaka, một cư sĩ.

Tương truyền, người này là con cháu một dòng họ đã suy tàn ở Sàvatti (Xá-vệ), phải nhờ một người bạn đi cầu hôn một thiếu nữ sang trọng. Nhà kia hỏi:

– Thế cậu ấy có bạn bè thân thích nào để có thể giải quyết công việc cần lo liệu chăng?

Nhà trai đáp:

– Không, chẳng có ai cả.

Bên kia bảo:

– Thế thì trước tiên phải kiếm bạn đã.

Người ấy nghe lời khuyên này đi bầu bạn với bốn người giữ cổng thành. Sau đó chàng dần dần kết bạn với những người giữ thành, những nhà thiên văn, nhiều người quí tộc trong triều; ngay cả vị tướng lãnh và phó vương. Nhờ giao thiệp với đám người này, chàng trở thành bạn thân thiết của vua, rồi sau đó là đạo hữu của tám mươi vị Trưởng lão, và nhờ Trưởng lão Ànanda, chàng đến yết kiến chính đức Như Lai. Lúc ấy bậc Ðạo Sư an trú cả gia đình chàng vào Tam quy và Ngũ giới, vua lại phong cho một chức vụ cao và chàng được biệt danh “Mitta-gandhaka” hay “Người kết giao nhiều bằng hữu”.

Vua còn ban cho chàng một dinh cơ lớn rồi ra lệnh cử hành hôn lễ cho chàng, nên tất cả mọi người từ vua chúa trở xuống đều mang tặng vật đến nhà. Lúc ấy, vợ chàng nhận được một tặng vật của vua ban, rồi tặng vật của vị Ðại tướng quân, tặng vật của vị Phó vương, cứ thế dân chúng toàn thành đều đến nhà nàng. Vào ngày thứ bảy, đôi tân hôn ấy tổ chức đại lễ để mời đấng Thập Lực, nhiều phẩm vật cúng dường cao sang được đem dâng đức Phật và Tăng chúng lên đến năm trăm vị Tỷ-kheo. Cuối buổi lễ, đôi tân hôn nhận lời tùy hỷ công đức từ đức Phật và được an trú vào Sơ quả Dự Lưu.

Trong Chánh pháp đường, hội chúng nói đến chuyện này:

– Này các Hiền giả, cư sĩ Mitta-gandhaka theo lời vợ khuyên nhủ, và nhờ nàng, đã trở thành bạn của mọi người, được vinh quang tột bực từ vua ban, và sau khi thành thân hữu của bậc Ðạo Sư, đôi vợ chồng đã được an trú vào Sơ quả Dự Lưu.

Bậc Ðạo Sư đi vào và hỏi Tăng chúng đang bàn luận gì. Các vị thưa với Ngài. Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên, này các Tỷ-kheo, người này nhận được vinh quang nhờ nữ nhân kia. Ngày xưa, khi còn là súc sinh, nhờ lời khuyên của nàng, nên vị ấy đã kết bạn rất nhiều và thoát khỏi sự lo âu về tính mạng bầy con trẻ.

Nói vậy xong. Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, một số người ở vùng biên địa thường cư trú tại nơi nào họ có thể tìm kiếm thực phẩm nhiều nhất, như sống trong rừng và bắn giết những loài thú vật đông đúc tại đó để lấy thịt cho họ và gia đình họ. Không xa làng của họ là một cái hồ rộng, về phía nam bờ hồ đó có một chim Ưng trống, phía tây là một chim Ưng mái; phía bắc là một Sư Tử, chúa của mọi loài dã thú, phía đông là một chim Ưng biển (Ðại bàng), chúa loài chim, và ở giữa là một con Rùa sống trên một hòn đảo nhỏ.

Chim Ưng trống đến hỏi chim Ưng mái làm vợ. Chim mái bảo:

– Chàng có bạn bè nào không?

– Thưa cô nương, không. Chim trống đáp.

– Ta cần phải có vài chim bạn bảo vệ ta chống lại mọi hiểm nguy hay chuyện rắc rối có thể xảy ra, vậy chàng phải đi kiếm vài chim bạn.

– Ta phải làm bạn với ai đây?

– Ô kìa, với Ðại bàng chúa sống trên bờ phía đông chứ còn ai nữa, rồi với Sư Tử ở phía bắc và Rùa ở giữa hồ này.

Chàng theo lời khuyên của nàng và làm như vậy. Sau đó đôi chim sống với nhau trong một cái tổ do chúng xây lấy; cũng cần nói thêm rằng trên một đảo nhỏ trong hồ này có một cây Kadampa mọc, bốn phía là nước bao quanh. Sau đó chúng sinh được hai chim trống.

Một ngày kia, khi lông cánh đôi chim non còn non nớt, có vài người trai làng đi săn mồi khắp rừng suốt ngày mà chẳng kiếm được gì cả. Vì không muốn trở về làng tay không, họ đi xuống hồ bắt rùa cá, họ lên đảo, nằm dưới bóng cây Kadamba và đang lúc bị ruồi, muỗi, bọ chích đốt thật khổ sở, họ nhóm lửa lên đuổi muỗi mòng bằng cách chà sát củi khô vào nhau, và hun khói. Khói đùn lên làm khó chịu bầy chim, khiến đôi chim non kêu lên chim chiếp.

– Kìa có tiếng chim! Ðám dân làng bảo nhau.

– Nào đốt lửa nhanh lên! Ta không thể nằm nhịn đói ở đây; mà trước khi nằm ngủ, ta phải ăn một bữa thịt chim rừng chứ!

Họ nhóm lửa làm cho ngọn lửa cao dần. Song chim mẹ nghe tiếng động ấy, nghĩ thầm: “Những người này muốn ăn con ta. Ta phải kiếm bạn để cứu nhà ta khỏi hiểm họa này. Ta muốn bảo chim trống đi đến chúa chim Ưng kia”. Rồi chim mái bảo:

– Này chàng, hãy đi báo cho chim Ưng chúa biết mối nguy hiểm đang đe dọa các con ta.

Và nó ngâm vần kệ này:

  1. Dân chúng đang nhen lửa đảo này,
    Ðể ăn bầy trẻ chốc liền đây,
    Hỡi chàng! Mau bảo cùng bè bạn
    Nguy hiểm con ta cấp báo ngay.

Chim trống liền bay hết tốc lực đến chỗ kia và kêu lên để báo hiệu cho nó đến. Khi được phép, nó đến gần Ðại bàng chúa, và kính chào. Chim Ưng chúa bảo:

– Tại sao bạn đến?

Chim trống liền ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Chim chúa là ngài, hỡi chúa công!
    Nay ta tìm chốn chúa an thân,
    Dân làng săn muốn bắt bầy trẻ,
    Xin chúa ban cho bạn nỗi mừng!

– Ðừng sợ – Chim Ðại bàng bảo chim Ưng trống.

Vừa an ủi, nó vừa ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Ðúng lúc hay không, bậc trí nhân
    Kết giao cùng bảo vệ thân bằng,
    Vì chim Ưng hỡi, ta hành động,
    Bạn thiện giúp nhau những lúc cần.

Sau đó, chim Đại bàng chúa hỏi tiếp:

– Này bạn, thế dân làng đã trèo lên cây chưa?

– Họ chưa trèo lên, họ chỉ mới chất củi lên để đốt lửa.

– Vậy bạn nên trở về mau và an ủi hiền thê của bạn rồi nói ta đến ngay.

Chim Ưng làm theo lời. Chim Đại bàng chúa cũng đi, và từ một nơi gần cây Kadamba, nhìn đám người ấy leo lên, và đậu trên một ngọn cây. Ngay khi một người trèo lên đến gần tổ chim, chim Ðại bàng chúa liền nhào xuống hồ, dùng đôi cánh và mỏ rảy nước lên đám lửa đang cháy khiến chúng tắt hết. Ðám người ấy trèo xuống, nhóm ngọn lửa khác để nấu bầy chim, rồi khi chúng trèo lên, chim Ðại bàng chúa lại dập ngọn lửa lần nữa. Cứ thế, khi lửa được nhóm lên là chim dập tắtđi, cho đến nửa đêm. Chim Đại bàng chúa đã kiệt sức: lớp da dưới bụng trầy ra xơ xác dần, đôi mắt rướm máu. Thấy thế, chim mái bảo chim trống:

– Này phu quân, Ðại bàng chúa đã mệt lả rồi, hãy đi đến báo cho bạn Rùa, để chim Đại bàng chúađược nghỉ ngơi.

Khi nghe vậy, chim Ưng trống đến gần chim Ðại bàng chúa, ngâm kệ bảo bạn:

  1. Bạn thiện giúp nhau: ấy việc cần,
    Ngài làm vì xót bạn gian nan,
    Bình an con trẻ, ngài còn sống,
    Cẩn thận, đừng cho thể lực tàn.

Khi nghe lời này, chim Ðại bàng chúa cất cao giọng sư tử hống ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Khi ta canh giữ ở cây này
    Ta chẳng lo rằng nếu chẳng may
    Ta mất mạng mình vì chúng bạn,
    Thiện nhân hành động vẫn như vầy!
    Thế nên, bạn hãy làm vì bạn
    Dù chính đời mình kết liễu ngay.

*

Còn vần kệ thứ sáu này do bậc Ðạo Sư ngâm phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của Ngài, khi Ngài tán thán công đức của chim Đại bàng chúa:

  1. Vương điễu noãn sinh lượn cõi không
    Ðã làm một việc khổ vô cùng,
    Chúa Ưng, trước lúc màn đêm xuống,
    Canh giữ bầy chim nhỏ vạn an.

*

Sau đó, chim Ưng trống nói:

– Xin hiền hữu chúa chim Ðại bàng hãy nghỉ ngơi chốc lát.

Rồi nó bay đi đến con Rùa, đánh thức Rùa dậy.

– Này bạn, đến có việc gì vậy? Rùa hỏi.

– Có mối hiểm nguy như vậy xảy ra với chúng tôi, và chim Ðại bàng chúa đã chịu khổ nhọc hết sức từ canh một, nay gần kiệt lực, cho nên tôi phải đến gặp bạn.

Cùng với những lời này, nó ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Cho dầu những kẻ bị sa chân
    Qua lắm việc làm ác, bất nhân,
    Cũng có cơ vươn mình tiến được,
    Nếu xin nhờ giúp đỡ khi cần.
    Các con ta gặp khi nguy khốn,
    Ta chẳng bay ngay đến bạn vàng,
    Hỡi bạn ngâm mình trong đáy nước,
    Giúp nhà tôi, hãy vội lên đàng!

Khi nghe vậy, Rùa ngâm vần kệ khác:

  1. Thiện nhân đối với một thân bằng
    Cho cả đồ dùng lẫn bản thân,
    Vì bạn, hỡi Ưng! Ta hoạt động,
    Thiện nhân giúp đỡ bạn khi cần.

Chú Rùa con, nằm không xa đó, nghe tiếng cha nói, liền suy nghĩ: “Ta không muốn cha ta phải nhọc sức, mà ta sẽ lãnh phần của cha ta”. Vì vậy, chú ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Xin cha an dưỡng, hỡi cha thân,
    Việc của cha, con sẽ lãnh phần.
    Con phụng sự cha là tốt nhất,
    Con đi cứu cả tổ chim bằng.

Rùa cha đáp lời con qua vần kệ:

  1. Cứ làm việc thiện, hỡi Rùa con,
    Con phải giúp cha, thật chánh chơn,
    Song chúng chỉ tha bầy trẻ nhỏ,
    Vì cha, người thầy lớn khôn ngoan.

Cùng với những lời này, Rùa bảo chim Ưng bay về và thêm:

– Này bạn ơi, đừng sợ. Nhưng bạn cứ đi trước rồi ta sẽ theo sau lập tức.

Rùa lặn xuống nước, lượm một ít bùn, đến đảo dập tắt ngọn lửa và nằm im. Lúc ấy, đám dân làng kêu lên:

– Này, tại sao phải nhọc công về bầy chim Ưng con thế kia? Ta hãy lật con Rùa đáng ghét này lên mà giết nó cũng vừa đủ cho cả bọn ta mà.

Vì thế, họ hái ít cây leo, bện thành sợi dây, nhưng khi họ đã buộc chặt dây ở chỗ nầy chỗ kia rồi, và xé cả áo quần để dùng vào việc này, họ lại không thể lật con Rùa lên được. Con Rùa cứ lôi họ đi theo nó rồi nhào xuống nước sâu. Bọn người ấy nôn nóng bắt Rùa đến độ cũng nhào xuống theo, lội bì bõm, bắn nước lên tung tóe và uống nước đầy bụng. Họ bảo nhau:

– Này cứ xem đi, chim Ưng chúa cứ làm tắt ngọn lửa của ta đến nửa đêm, nay thì con Rùa làm ta rớt xuống nước và uống nước nhiều, thật quá khổ sở. Thôi, ta cố nhen ngọn lửa khác, rồi đến sáng mai sẽ ăn được bầy chim Ưng con.

Sau đó, họ lại bắt đầu nhóm lửa. Chim Ưng mái nghe tiếng ồn áo của bọn người này, liền bảo:

– Này chàng, sớm muộn gì, bọn người này cũng xé xác các con ta rồi mới chịu đi. Vậy chàng hãyđến báo cho bạn Sư tử biết chuyện.

Lập tức, chàng chim Ưng đến gặp Sư tử, Sư tử này hỏi tại sao chim Ưng đến giờ bất thường như vậy. Chim Ưng liền kể cho Sư tử nghe mọi việc từ đầu và ngâm vần kệ thứ mười một:

  1. Oai hùng bậc nhất của muôn loài,
    Loài thú vật kia lẫn mọi người,
    Chạy đến anh hùng lúc hoảng sợ:
    Chin non gặp nạn, giúp nhà tôi,
    Ngài là chúa tể muôn loài đó,
    Vì thế nên tôi phải đến nơi.

Nghe nói vậy, Sư tử ngâm vần kệ nữa:

  1. Ta giúp chim ngay, hỡi bạn Ưng!
    Mau, ta đi giết bọn cừu nhân,
    Hiển nhiên, bậc trí nhiều thông hiểu
    Cần gắng công che chở bạn thân.

Nói vậy xong, Sư tử bảo chim Ưng ra về, còn dặn thêm:

– Thôi, bây giờ hãy về đi và an ủi các con dại.

Rồi Sư tử tiến lên, đập tung tóe nước hồ trong suốt. Khi bọn dân làng thấy Sư tử đến gần, họ sợ chết khiếp cả, liền kêu lên:

– Chim Ðại bàng chúa thổi tắt củi lửa của ta, con Rùa làm ta mất quần áo đang mặc, song giờ đây ta tàn đời rồi! Con Sư tử này sẽ giết chết chúng ta lập tức.

Họ liền chạy tứ tán. Khi Sư tử đến gốc cây, chẳng còn thấy gì nữa. Sau đó chim Ưng chúa, chim Ưng trống, con Rùa đều tiến lên vây quanh Sư tử. Sư tử bảo cho chúng biết ích lợi của tình bằng hữu và nói:

– Từ rày về sau, hãy cẩn thận đừng để tan vỡ mối tình bằng hữu thân ái.

Với lời khuyên này, Sư tử ra đi. Rồi bọn kia cũng về chốn ở của riêng mình.

Chim Ưng mái nhìn con tự nghĩ: “Nhờ tình bằng hữu mà các con ta được trả lại cho ta”. Và trong lúc chim mái vui mừng, nó vừa nói với chim trống, vừa ngâm vần kệ nêu rõ hiệu lực của tình bằng hữu:

  1. Rõ ràng kết bạn hữu đầy nhà,
    Gặp bạn hiền: hoan lạc hiện ra,
    Tên bắn trên quân bào bất lợi,
    Ta mừng, an ổn các con ta.
  2. Nhờ công giúp của bạn chân tình,
    Chim bạn đến mong góp sức mình,
    Ðối đáp, chim non kêu ríu rít
    Làm say lòng mẹ với âm thanh.
  3. Người khôn nhờ bạn giúp bàn tay,
    Sống với đàn con hạnh phuc đầy,
    Ta với chồng con cùng đứng vững
    Vì thân bằng hữu mến thương lây.
  4. Dân cần bảo vệ bởi vua quan,
    Những vị tình thân hữu vẹn toàn,
    Hạnh phúc chàng mong: uy lực đủ
    Là người hưng thịnh, lắm thân bằng.
  5. Này Ưng, cần phải kiếm thân bằng
    Dù bạn nghèo hèn hoặc yếu non,
    Nay hãy xem: nhờ tình thắm thiết
    Ta và gia quyến thảy bình an.
  6. Chim Ưng tìm được bậc anh hùng
    Ðể đóng vai chim bạn thiết thân,
    Ưng hỡi, như đôi ta hạnh phúc,
    Chim kia cũng hạnh phúc trong lòng.

Như vậy, chim mái nêu rõ đặc tính của tình bằng hữu qua sáu vần kệ. Từ đó đám bạn hữu sống với nhau suốt đời không làm đứt đoạn sợi dây thân ái, rồi lúc mạng chung, chúng đều đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên người này được hạnh phúc nhờ vợ mình, mà trước kia cũng vậy.

Cùng với những lời này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, đôi vợ chồng này là đôi chim Ưng, Ràhula (La-hầu-la) là Rùa con, Moggallàna(Mục-kiền-liên) là Rùa cha, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là chim Ưng chúa và ta chính là Sư tử kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện nam tử Uddalaka (Tiền thân Uddalaka)

Hàm răng bẩn, áo da dê, tóc bện…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một người gian dối.

Người này, mặc dù đã đặt cuộc đời mình vào Giáo pháp đưa đến giải thoát, trong lúc muốn kiếm lợi dưỡng cần dùng để sống, đã hành động lừa đảo cả ba mặt. Tăng chúng đều rõ ra những ác hạnh của người này trong lúc bàn luận tại Chánh pháp đường:

– Này các Hiền giả, người đó sau khi đã đặt hết cuộc đời mình vào Chánh pháp của đức Phật đưa tới giải thoát, lại sống lừa dối kẻ khác!

Bậc Ðạo Sư bước vào, và muốn biết Tăng chúng đang bàn luận gì tại đó. Tăng chúng trình với Ngài. Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên, kẻ ấy trước kia cũng đã lừa dối rồi.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thưở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-Tát là một vị Tế sư rất thông thái. Một ngày kia, ngài vào vườn hoa để giải trí, chợt thấy một cô gái có sắc đẹp lẳng lơ, đâm say mê nàng và đem nàng về nhà mình chung sống.

Khi thấy mình thọ thai, nàng liền bảo ngài:

– Thưa Ðại quan, thiếp đã có thai, khi sinh con, thiếp muốn đặt tên cho nó theo danh tánh của tổ phụ nó.

Song ngài suy nghĩ: “Chẳng bao giờ tên họ của một dòng quý tộc lại đặt cho đứa con hoang của một nô tỳ”. Vì thế, ngài bảo:

– Này ái nương, cây này tên là Uddala (quế), nàng có thể đặt tên con là Uddalaka vì nó thọ thai ở gốc cây này.

Sau đó, ngài cho nàng một chiếc nhẫn có dấu hiệu riêng và bảo:

– Nếu nó là con gái, hãy dùng chiếc nhẫn này mà nuôi dưỡng nó cho lớn khôn, còn nếu là con trai thì hãy đem đến cho ta lúc nó trưởng thành.

Ðến kỳ hạn, nàng sinh hạ một con trai và đặt tên là Uddalaka. Khi chàng trai lớn lên, chàng hỏi mẹ:

– Mẹ ơi, cha con là ai thế?

– Là vị Tế sư đấy con ạ.

– Nếu vậy, con sẽ học các kinh thánh.

Thế là khi nhận được chiếc nhẫn từ tay mẹ và số học phí dành cho thầy giáo, chàng lên đường đi đến Takkasilà, và học ở đó với một giáo sư lừng danh thế giới.

Trong thời gian học tập, chàng thấy một đám người tu khổ hạnh. Chàng suy nghĩ: “Ðám người kia chắc chắn phải có kiến thức vẹn toàn. vậy ta muốn học hỏi ở họ”. Vì thế, chàng từ giã thế tục, và vì chàng ước mong được kiến thức, nên làm việc phục dịch các vị này, chỉ yêu cầu các vị ấy dạy lại cho chàng mọi kiến thức thông thái của họ. Thế rồi các vị ấy dạy cho chàng mọi điều hiểu biết, song giữa đám năm trăm người ấy chẳng có ai vượt chàng về kiến thức cả, chàng là người thông thái nhất.

Sau đó, đám người ấy tụ tập lại và bầu chàng làm thầy. Chàng bảo họ:

– Thưa các Tôn giả, các ngài sống suốt đời ở trong rừng ăn toàn hoa quả, củ rừng, tại sao các ngài không đi đến chỗ của người thế tục?

– Thưa Tôn giả, người đời muốn cúng dường chúng ta, nhưng lại muốn chúng ta trả ơn bằng cách thuyết Pháp, họ hay hỏi ta nhiều chuyện lắm. Vì sợ điều này nên chúng ta không muốn đến giữa người đời.

Chàng đáp:

– Thưa các Tôn giả, nếu các ngài có ta cùng đi, thì cứ để một vị Chuyển luân vương cật vấn, một mình ta sẽ giải đáp ổn thỏa, chớ sợ gì cả.

Thế là chàng cùng hội chúng đi du hành khất thực để sống và cuối cùng đến Ba-la-nại, trú ngụ trong vườn ngự uyển. Hôm sau, cùng với cả đám ấy chàng khất thực ở một làng trước cổng thành. Dân chúng bố thí rất nhiều. Ngày hôm sau nữa, các nhà tu khổ hạnh đi qua kinh thành, dân chúng lại bố thí rất nhiều. Vị khổ hạnh Uddalaka nói lời tùy hỷ công đức rồi giải đáp các lời chất vấn. Dân chúng rất hoan hỷ và lại cúng dường phong phú cho hội chúng mọi thứ cần dùng.

Toàn kinh thành vang dậy tin đồn:

– Một vị giáo sư thông thái mới đến, một vị Thánh nhân khổ hạnh.

Và vua nghe được tin đó. Nhà vua hỏi:

– Các vị ấy đang ở đâu?

Dân chúng tâu:

– Trong ngự uyển.

Nhà vua bảo:

– Tốt lắm, hôm nay ta sẽ đi thăm các vị ấy.

Một người đi báo với Uddalaka:

– Ðức vua sẽ đến viếng các Tôn giả hôm nay.

Chàng gọi hội chúng lại và bảo:

– Này các Tôn giả, đức vua sắp đến, hãy chiếm cho được ân vua trong một ngày cũng đủ cho cả đời người.

– Vậy ta phải làm gì, thưa Sư trưởng?

Chàng đáp:

– Một vài vị phải chịu khổ hình treo người lủng lẳng, vài vị ngồi xổm dưới dất, vài vị nữa nằm trên giường chông, vài vị khác chịu khổ hạnh với năm ngọn lửa, thêm vài vị ngâm mình xuống nước và vài vị tụng Thánh kinh ở chỗ này chỗ nọ.

Các vị ấy làm y lời.

Chính chàng cùng độ mười vị hiền giả ngồi trên một chỗ đã soạn sẵn có lót gối dựa, bàn luận với nhau, có một quyển sách đẹp cân xứng nằm trên một cái giá mực sang trọng bên cạnh chàng, và thính chúng vây quanh.

Lúc ấy, vua và vị Tế sư cùng với đám tùy tùng đông đảo bước vào ngự uyển, và vua khi thấy tất cả hội chúng ở đây đang chuyên chú trong dáng điệu khổ hạnh như vậy, vua rất hoan hỷ, nghĩ thầm: “Các vị này đều giải thoát khỏi nỗi lo âu về các cõi dữ ở đời sau rồi”. Khi đến gần Uddalaka, vua ân cần đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Rồi với lòng hân hoan, vua bắt đầu nói chuyện với vị Tế sư và ngâm vần kệ đầu:

  1. Hàm răng bẩn, áo da dê, tóc bện,
    Miệng thì thầm lời thánh đạo bình an,
    Chẳng từ nan nhiều phương tiện hiền nhân,
    Chắc đã đạt Chân như và Giải thoát.

Nghe vậy, vị Tế sư nghĩ:

– Ðức vua hoan hỷ ở một chỗ đáng lẽ không nên hoan hỷ, vậy ta không được giữ yên lặng.

Rồi ngài ngâm vần kệ:

  1. Một trí nhân có thể làm ác hạnh,
    Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
    Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn
    Khi việc hỏng, hoặc cứu người lâm nạn.

Khi Uddalaka nghe những lời này, liền nghĩ thầm:

“Vua hài lòng về những vị khổ hạnh này, song vị Tế sư lại đụng ngay vào mõm con bò khi chạy quá nhanh, làm rơi đồ dơ vào dĩa cơm đã dọn sẵn, ta phải nói chuyện với vị ấy mới được”. Vì thế, chàng đáp lời ngài qua vần kệ thứ ba:

  1. Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn
    Khi việc hỏng, hoặc cứu người nguy khốn:
    Kinh Vệ-đà hẳn là đồ vô dụng,
    Chánh đạo là: làm chánh, tự điều thân.

Vị tế sư nghe vậy, liền ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Không phải thế, Vệ-đà không vô dụng,
    Dù tự điều thân là đạo chánh chân,
    Học Vệ-đà vẫn mang lại vinh quang,
    Song ta đạt tối an nhờ chánh hạnh.

Bấy giờ, Uddalaka suy nghĩ: “Gây gỗ với vị này sẽ không bao giờ ích lợi đâu. Nếu ta bảo ngài: ta chính là con trai của ngài, ngài phải thương yêu ta. Vậy ta phải quyết cho ngài biết ta là con của ngài”. Thế rồi chàng ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Cha mẹ và thân quyến họ hàng
    Ðòi ta chăm sóc với yêu thương,
    Mẹ cha là bản thân con đó,
    Con Ud-da-la chính búp non
    Từ gốc rễ nhà ngài quý tộc,
    Thưa ngài, Tôn giả Bà-la-môn.

– Thế con chính là Uddalaka đấy ư? Ngài hỏi. Chàng đáp:

– Thưa, chính phải.

Sau đó, ngài hỏi:

– Trước kia, ta đã cho mẹ con một vật làm tin, nay nó đâu rồi?

Chàng đáp:

– Thưa Tôn giả Bà-la-môn, chính nó đây!

Rồi chàng trao chiếc nhẫn cho ngài. Ngài nhận ra chiếc nhẫn ấy rồi bảo:

– Con là một Bà-la-môn hẳn nhiên rồi, song có biết phận sự của một Bà-la-môn chăng?

Ngài hỏi về các phận sự này qua vần kệ thứ sáu:

  1. Ðiều gì thành tựu một La-môn,
    Vị ấy làm sao được thiện toàn?
    Hãy nói thế nào người chánh hạnh,
    Làm sao đạt hạnh phúc Niết-bàn?

Uddalaka giải thích việc ấy qua vần kệ thứ bảy:

  1. Bỏ đời, sùng bái lửa thiêng hồng,
    Vung gậy tế đàn, rảy nước trong,
    Phận sự làm xong, người tán tụng,
    La-môn như vậy được an lòng.

Vị tế sư lắng nghe chàng kể các phận sự của một vị Bà-la-môn như vậy, xong ngài ngâm vần kệ thứ tám để phê bình chuyện ấy như sau:

  1. Rảy nước không làm sạch Ðạo nhân,
    Thiện toàn chẳng phải việc đăng đàn,
    Cũng không an ổn và thân ái,
    Chẳng đạt tối cao, lạc Niết-bàn.

Nghe thế, Uddalaka lại hỏi:

– Nếu việc này không làm thành một Bà-la-môn, thế thì việc gì?

Và chàng ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Ðiều gì thành tựu hạnh La-môn
    Vị ấy làm sao được thiện toàn,
    Xin bảo thế nào người chánh hạnh,
    Làm sao thành tựu lạc Niết-bàn?

Vị Tế sư đáp lời qua vần kệ khác:

  1. Người không của cải, chẳng nương đồng,
    Không có họ hàng, chẳng ước mong,
    Chẳng thiết cuộc đời, không ái dục,
    Hoặc không ác hạnh, thảy đều không.
    Ðạo nhân vậy đạt tâm thanh tịnh,
    Giữ phận chánh chân, được tán đồng.

Sau đó, Uddalaka lại ngâm kệ nữa:

  1. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
    Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
    Tất cả những người đầy trắc ẩn,
    Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn.
    Vậy ai cao trọng, ai hèn kém
    Giữa các Thánh hiền tối thượng chăng?

Khi đó, vị Bà-la-môn kia ngâm vần kệ nêu rõ ràng không có ai cao, ai thấp khi đã đạt Thánh quả:

  1. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
    Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
    Tất cả những người đầy trắc ẩn,
    Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn,
    Chẳng ai cao trọng, ai hèn kém
    Giữa các bậc hiền Thánh đại nhân.

Song Uddalaka phê bình điểm này bằng cách ngâm vần kệ:

  1. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
    Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
    Tất cả những người này đức hạnh
    Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn,
    Chẳng ai cao trọng, ai hèn kém,
    Giữa các bậc hiền Thánh đại nhân;
    Giáo sĩ, vậy ngài vô tích sự,
    Hư danh địa vị, hẳn rồi chăng?

Ðến đây, vị Tế sư ngâm đôi vần kệ nữa, cùng với một ví dụ:

  1. Với tấm vải thô nhuộm đủ màu,
    Ngôi đình được dựng, mái đình cao,
    Ðỉnh tròn, rực rỡ đầy màu sắc,
    Bóng đổ một màu vẫn giống nhau.
  2. Vậy khi nhiều kẻ đạt thanh tâm
    Tại chính nơi đây, giữa cõi trần,
    Người thiện thấy toàn là bậc Thánh,
    Chẳng hề hỏi huyết thống nguồn căn.

Bấy giờ, Uddalaka không còn nói gì được nữa, nên chàng ngồi yên lặng. Lúc ấy, vị Tế sư Bà-la-môn nói với vua:

– Tâu Ðại vương, tất cả bọn này đều là phường dối trá, toàn cõi Diêm-phù sẽ bị suy tàn vì nạn lừađảo kia. Xin Ðại vương hãy khuyến dụ Uddalaka từ bỏ việc hành trì khổ hạnh của nó và làm Tế sư theo gót hạ thần, lại cho phép đám người này khỏi phải tu tập khổ hạnh, rồi cho chúng đủ gươm, giáo, mộc để làm tùy tùng của Ðại vương.

Vua chấp nhận, làm theo lời ngài dạy và tất cả bọn ấy đều đến phụng sự vua.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên, mà kẻ này trước kia cũng đã làm một tên lừa đảo.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Tỷ-kheo gian dối này là Uddalaka, Ànanda là vua và Ta chính là vị Tế sư.

-ooOoo-

  1. Chuyện củ sen (Tiền thân Bhisa)

Mong nhiều trâu ngựa, lắm kim ngân…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo thối thất.

Trường hợp này cũng sẽ xuất hiện trong số 531, Tiền thân Kusa. Ở đây, một lần nữa, bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Tỷ-kheo, có đúng là ông đã thối thất chăng?

– Bạch Thế Tôn, quả đúng vậy.

– Vì cớ gì?

– Bạch Thế Tôn, vì ác dục.

– Tại sao, này Tỷ-kheo, ông lại thối thất, sau khi đã hành trì đạo lý này trước khi đưa đến Giải thoát, và tất cả chỉ vì ác dục? Ngày xưa, trước khi đức Phật ra đời, những bậc trí nhân khởi đầu cuộc sống tu hành, ngay cả những vị ngoại đạo cũng đã phát hạnh nguyện và đoạn trừ ngay các tưởng khởi lên có liên hệ các dục hoặc sức cám dỗ của dục.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm con trai của một đại danh gia Bà-la-môn có tài sản đến tám trăm triệu đồng tiền. Gia đình đặt tên ngài là Mahà-Kancana hay Ðại chúa tể Hoàng kim. Vào lúc ngài mới biết đi chập chững, một bé trai khác lại sinh ra đời trong nhà vị Bà-la-môn ấy và được đặt tên là Upa-kancana hay Tiểu chúa tể Hoàng kim. Cứ như vậy, bảy nam nhi liên tiếp ra đời và cuối cùng là một quý nữ, được đặt tên là Kancana-devi hay Công nương Hoàng kim.

Khi Mahà-Kancana lớn lên, ngài đi học tập tại Takkasilà đầy đủ mọi môn học thuật rồi ngài trở về nhà. Lúc ấy, song thân ngài muốn lập cho ngài một gia thất riêng. Hai vị bảo:

– Cha mẹ sẽ tìm cho con một thiếu nữ nhà lành để kết bạn xứng đáng với con, rồi con sẽ yên bề gia thất.

Song ngài đáp:

– Thưa cha mẹ, con không muốn lập gia đình. Ðối với con, ba cõi sinh hữu đều như lửa đốt, bị trói buộc xiềng xích như ngục tù, đáng ghê tởm tựa đống phân. Con chẳng hề có ý nghĩ gì về việc đó, dù chỉ là trong giấc mộng. Cha mẹ có các con trai kia, xin bảo chúng làm chủ gia đình và để cho con yên thân.

Dù hai vị van nài ngài nhiều lần, nhờ bạn hữu của ngài đến năn nỉ ngài tận miệng, ngài cũng chẳng muốn gì về việc ấy cả. Sau đó, bạn bè hỏi ngài:

– Này hiền hữu, thế bạn muốn gì mà bạn chẳng thiết tha đến việc tận hưởng tình yêu và lạc thú?

Ngài bảo họ ngài đã từ bỏ thế tục. Khi song thân hiểu việc này, hai vị đề nghị việc kia với các con trai thứ, nhưng chẳng ai chịu nghe cả, ngay cả nương tử Kancana cũng không. Dần dà cha mẹ qua đời. Trí giả Mahà-kancana làm lễ an táng song thân xong, với kho tàng tám trăm triệu ấy, ngài phân phát hào phóng cho tất cả đám hành khất và du sĩ, rồi ngài đem sáu em trai cùng em gái, một gia nhân và một nữ tỳ cùng một người bạn đường, ngài làm đại sự xuất gia và sống ẩn dật trong dãy Tuyết Sơn.

Tại đó, trên một vùng đất vừa ý gần một hồ sen, các vị xây một khu am thất ẩn cư tu hành và ăn toàn trái cây, củ rừng. Khi họ vào rừng, chỉ đi từng người một, nếu có vị nào thấy trái cây hay lá rau gì liền gọi các vị kia và tại đó, vừa bảo nhau những điều gì nghe thấy được, các vị vừa thu lượm các thức ăn sẵn có, chẳng khác gì cái chợ nhỏ trong làng. Song bậc Sư trưởng, vị khổ hạnh Mahà- kancana lại nghĩ thầm:”Ta đã bỏ qua cả gia sản tám trăm triệu và sống đời tu hành, rồi để ham đi quanh quẩn kiếm trái rừng, thật chẳng hợp lý. Từ nay, ta muốn một mình ta đi lượm trái rừng thôi”. Sau đó, trở về nhà, buổi tối, ngài tập họp mọi người lại và nói cho họ biết ý định của ngài:

– Các em cứ ở đây, và tu tập đời ẩn sĩ, để ta đi hái quả cho các em.

Nghe vậy, Upa-kancana và các người kia ngắt lời:

– Chúng tiểu đệ đã theo hiền huynh đi tu hành, vậy chính hiền huynh phải ở nhà và tu tập đời ẩn sĩ, và hiền muội cũng ở nhà nữa, cùng với nữ tỳ. Tám người chúng em thay phiên nhau đi hái quả, còn ba người ở nhà khỏi làm việc ấy.

Ngài đồng ý.

Từ đó, tám người này thay phiên nhau đem trái cây về từng người một: Các người kia nhận được phần chia trong số kiếm được và mang đi về am thất của mình, rồi ở trong lều tranh riêng của mỗi người. Như vậy, các vị ấy không gặp gỡ nhau nếu không có duyên cớ. Người nào đến phiên mang thức ăn vào để ở một khu đất có rào thì đặt trên một phiến đá phẳng, chia ra mười một phần rồi đánh cồng lên, rồi lấy phần mình đi về nhà mình. Khi nghe tiếng cồng, các vị kia đến, không chen lấn nhau mà theo đúng lễ nghi trật tự, nhận phần mình đã được chia từ các thức kiếm được, rồi trở về nhà mình mới ngồi ăn, và sau đó lại tiếp tục hành thiền, tu tập khổ hạnh.

Sau một thời gian, họ lượm các củ sen để ăn và sống tại đó, tự hành xác với lửa nóng như thiêu như đốt và các loại cực hình khác, nên các giác quan đều tê liệt cả, trong khi họ cố hết sức để nhập định.

Vì công hạnh sáng chói của họ, chiếc ngai của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ rung động lên. Ngài bảo:

– Các vị này chỉ thoát khỏi tham dục thôi, hay họ là các vị hiền nhân rồi? Họ có phải hiền nhân chăng? Nay ta muốn tìm hiểu xem sao.

Thế là nhờ thần lực của mình, suốt ba ngày, Thiên chủ làm cho phần thực phẩm của bậc Ðạo Sư biến mất.

Ngày đầu tiên, khi không thấy phần mình, ngài nghĩ: “Có lẽ phần của ta đã bị quên mất”. Vào ngày thứ hai: “Chắc hẳn ta có lỗi lầm nào. Chính là vì muốn nhắc nhở ta về điều này một cách cung kính mà người đó không chia phần cho ta”. Vào ngày thứ ba: “Tại sao họ lại không chia phần cho ta như thế được? Nếu ta có gì lỗi lầm thì ta phải hòa giải phần mình trước”.

Vì thế, buổi tối, ngài đánh cồng lên. Tất cả đều đến và hỏi ai đã đánh cồng.

– Này các hiền đệ, chính ta đánh.

– Thưa Tôn giả, tại sao vậy?

– Này các hiền đệ, trong ba ngày qua, ai đem thức ăn vào?

Một người đứng dậy nói:

– Chính tiểu đệ.

Rồi vị ấy vẫn đứng yên rất cung kính.

– Khi hiền đệ chia phần, có để dành phần cho ta chăng?

– Có chứ, thưa Tôn sư, đó là phần của vị Sư trưởng.

– Còn ai mang về thực phẩm hôm qua?

Một người khác đứng lên và nói:

– Chính tiểu đệ.

Rồi vị ấy kính cẩn đứng chờ.

– Thế hiền đệ có nhớ phần ta chăng?

– Tiểu đệ đã để phần Sư trưởng cho hiền huynh đấy.

– Thế hôm nay ai đem thực phẩm về?

Một người nữa đứng dậy và kính cẩn đứng chờ.

– Hiền đệ có nhớ chia phần cho ta không?

– Tiểu đệ đã để phần Sư trưởng cho hiền huynh đấy.

Ngài liền bảo:

– Này các hiền đệ, hôm nay là ngày thứ ba ta không có phần ăn. Ngày đầu tiên ta không thấy phần mình, ta nghĩ người nào chia phần đã quên ta. Ngày thứ hai, ta nghĩ chắc ta đã phạm lỗi lầm gì. Song hôm nay, ta quyết định rằng nếu có lỗi lầm gì, ta sẽ hòa giải và vì thế ta đánh cồng triệu tập các tiểu đệ. Các hiền đệ bảo đã để các phần củ sen cho ta mà ta chẳng có được chút gì cả. Ta phải tìm hiểu xem ai đã lấy trộm và ăn hết phần đó. Khi ta đã từ bỏ cuộc đời và mọi tham dục ở đời rồi thì lấy trộm là chuyện không đúng đắn, dù chỉ là một củ sen.

Khi các vị kia nghe thấy lời ấy, họ đồng kêu to:

– Ôi, thật là một việc ác.

Và tất cả các vị đều lo lắng vô cùng.

Lúc bấy giờ, vị Thần trú trên cây gần am thất ấy, đó là cây cổ thụ lớn nhất rừng, bước ra ngồi giữa các vị. Cũng vậy, có một con Voi, không thể nào chịu nổi sự huấn luyện mà không đau đớn, nên phá chiếc cọc ở nơi nó bị trói vào, rồi chạy trốn vào rừng. Thỉnh thoảng, Voi thường đi đến kính lễ đám hiền giả này, nên bây giờ nó cũng đến đứng một bên. Có một con Khỉ đã được huấn luyện để làm trò với bầy Rắn, cũng chạy trốn thoát khỏi tay người luyện rắn vào trong rừng; nó ở tại vùng am thất ấy, nên hôm nay nó cũng đến kính lễ các hiền giả và đứng sang một bên. Thiên chủ Ðế Thích quyết tâm thử các vị ẩn sĩ này nên cũng tàng hình đứng cạnh hội chúng.

Lúc ấy, vị em thứ hai của Bồ-tát, ẩn sĩ Upa-kancana, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ ngài rồi cúi chào khắp hội chúng và nói như sau:

– Bạch Tôn sư, không kể đến các người kia, tiểu đệ xin được phép thanh minh cho mình khỏi tội này chăng?

– Này hiền đệ, được lắm.

Vị ấy đứng lên giữa các hiền nhân và nói:

– Nếu đệ đã ăn các củ sen của Tôn huynh, đệ sẽ thành một người như vầy như vầy.

Và vị ấy trang nghiêm phát nguyện qua vần kệ đầu:

  1. Mong nhiều trâu ngựa, lắm kim ngân,
    Vợ quý, nó giữ gìn luyến thương,
    Mong nó sinh nhiều trai gái đủ,
    Kẻ ăn phần trộm của La-môn!

Nghe thế, các vị tu khổ hạnh kia đều đặt tay lên hai tai và kêu to:

– Không, không thưa Tôn giả, lời thề nguyền ấy quả thật nặng nề lắm!

Và Bồ-tát cũng nói:

– Này hiền đệ, lời nguyền của em nặng lắm đấy! Em không ăn phần đó, thôi, ngồi xuống nệm rơm đi.

Vị ấy, sau khi thề nguyện xong, liền ngồi xuống.

Người em thứ ba đứng lên đảnh lễ bậc Ðại Sĩ và ngâm vần kệ thứ hai để thanh minh cho mình:

  1. Mong nó nhiều con, lắm áo quần,
    Vòng hoa tay khoác, ngát chiên-đàn,
    Tâm tư sôi sục đầy tham dục,
    Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðạo nhân!

Khi vị ấy ngồi xuống, các vị kia lần lượt ngâm vần kệ. Vị thứ tư:

  1. Mong nó nhiều danh vọng, ruộng vườn,
    Nhà kho, con cái, sẵn sàng dâng,
    Nó không hiểu tháng năm dần mất,
    Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðạo nhân!

Vị thứ năm:

  1. Mong nó lừng danh đại tướng quân,
    Ðế vương tối thượng ngự huy hoàng,
    Thế gian bốn cõi đều phần nó,
    Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðạo nhân!
  2. Mong nó trở thành một Ðạo nhân,
    Mà không chế ngự được tham sân,
    Chỉ tin tinh tú, ngày lành tốt,
    Ðược hiển vinh nhờ các đế vương
    Ân thưởng, kẻ ăn phần trộm đó,
    Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!

Vị thứ sáu:

  1. Vệ-đà, mong nó học uyên thâm,
    Người quý trọng đức độ Thánh nhân,
    Mong nó được muôn người bái phục,
    Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!

Vị thứ bảy:

  1. Ơn trời cho nó được ngôi làng,
    Có đủ giàu sang, bốn loại hàng,
    Khi chết, dục tham không chế ngự,
    Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!
  2. Nó làm lý trưởng, bạn quây quần,
    Vũ khúc, hoan ca, nhạc đắm hồn,
    Mong nó đầy tràn ơn lộc chúa,
    Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!

Tiểu muội:

  1. Mong nàng làm tuyệt thế giai nhân,
    Chúa tể thế gian chọn má hồng,
    Chánh hậu giữa muôn người toại ý,
    Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!

Nô tỳ:

  1. Khi mọi nữ tỳ tập họp xong,
    Mong nàng oai vệ ngự ngai vàng,
    Cao lương mỹ vị đầy ngon ngọt,
    Kiêu hãnh vì ân phước của nàng,
    Người đã lấy phần ăn trộm đó,
    Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!

Thần cây:

  1. Mong nó bảo tồn viện Ka-jan,
    Trùng tu quang cảnh đã tiêu tàn,
    Hàng ngày làm cửa song nhà mới,
    Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðại nhân!

Con Voi:

  1. Mong nó bị người bắt lấy thân,
    Sáu trăm dây trói tự rừng hoang
    Mang về thành, bị người vây đánh
    Bằng gậy, giáo, gươm, phải phát cuồng!
    Kẻ đã lấy phần ăn trộm đó,
    Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!

Con Khỉ:

  1. Vòng hoa trên cổ, thiếc đeo tai,
    Mong nó đi đường, khiếp sợ oai
    Chiếc gậy luyện chơi gần lũ rắn,
    Kẻ ăn phần trộm ấy, thưa ngài!

Khi cả hội cùng thề nguyện xong qua mười ba vần kệ này, bậc Ðạo Sư suy nghĩ: “Có lẽ chúng tưởng chính ta nói dối rằng không có phần ăn để đó, trong khi nó vẫn có”, vì thế, ngài cũng thề nguyền phần mình qua vần kệ thứ mười bốn:

  1. Ai thề thực phẩm biến đi rồi,
    Mà nếu không mất mát, vậy thời
    Mong nó hưởng tràn đầy dục lạc,
    Và mang kết quả việc kia hoài,
    Ước mong cái chết đầy phàm tục
    Số phận dành cho nó cuối đời,
    Ðiều ấy cũng dành cho quí vị,
    Nếu bây giờ quí vị nghi tôi!

Khi các bậc hiền nhân đã thề nguyền như thế xong, Ðế Thích Thiên chủ nghĩ thầm: “Ðừng sợ gì cả. Ta đã làm cho các củ sen kia biến mất để thử các người này và nay các vị ấy thề nguyền cả, lại đều ghê tởm hành động ấy như thể một cục đờm phải nhổ. Nay ta muốn hỏi các vị tại sao lại ghê tởm dục tham như vậy”. Thiên chủ đặt câu hỏi này để chất vấn Bồ-tát trong vần kệ tiếp, sau khi Thiên chủ đã hiện nguyên hình:

  1. Người kiếm tìm luôn ở cõi trần
    Cái điều vui đẹp, thiết thân lòng
    Ðược nhiều kẻ ước mong mê mẩn.
    Như vậy, vì sao các Thánh nhân
    Lại chẳng tán dương nhiều sự việc
    Vẫn thường ham muốn bởi phàm nhân?

Ðể trả lời câu hỏi này, bậc Ðạo Sư ngâm hai vần kệ:

  1. Tham dục là tai họa chết người,
    Là dây xiềng xích trói trên đời,
    Ở trong ác dục, ta tìm thấy
    Ðau khổ và kinh hãi cả thôi.
    Khi bị dục tham nào cám dỗ,
    Vua thường phạm tội, đắm say hoài!
  2. Phải vào địa ngục, các phàm nhân
    Gây tội, khi tan rã nhục thân,
    Vì biết khổ đau trong ác dục,
    Bậc hiền chê trách, chẳng đồng lòng.

Khi Ðế Thích Thiên chủ nghe bậc Ðạo Sư giải thích xong, lòng đầy xúc động nên ngài ngâm vần kệ này:

  1. Chính ta trộm, thử các hiền nhân,
    Ta đặt bên hồ các thức ăn,
    Bậc trí thật hiền lương thánh thiện,
    Hỡi người Phạm hạnh, hãy nhìn phần!

Nghe thế, Bồ-tát liền ngâm kệ nữa:

  1. Chúng ta không múa rối vui chơi,
    Làm các trò tiêu khiển với ngài,
    Chẳng quyến thuộc ngài, hay bạn hữu,
    Tại sao vậy thế, hỡi vua trời?
    Thưa ngài Ngàn mắt, sao ngài nghĩ
    Bậc trí bày trò giải trí thôi?

Ðế Thích Thiên chủ ngâm vần kệ thứ hai mươi để làm lành với ngài:

  1. Ngài chính là Sư trưởng đại nhân,
    Chính ngài là một vị cha thân,
    Chở che cho trẫm đà sai phạm,
    Xin hãy thứ tha trót lỗi lầm;
    Chẳng có bao giờ, thưa Thánh giá,
    Bậc hiền lại phát khởi lòng sân!

Bậc Ðạo Sĩ liền tha thứ cho Thiên chủ Ðế Thích và về phần ngài, để hòa giải với các Thánh nhân kia, ngài ngâm vần kệ nữa:

  1. An lạc một đêm với Thánh nhân,
    Chúng ta hội kiến đấng Thiên vương,
    Chư Hiền, hãy đẹp lòng khi thấy
    Thực phẩm mất, nay được phục hoàn.

Ðế Thích Thiên chủ liền đảnh lễ hội chúng hiền nhân rồi trở về thiên giới. Còn các vị ấy đã làm cho phát khởi Thiền định và các Thắng trí trong tâm, nên về sau được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, như vậy, các bậc trí ngày xưa đã phát hạnh nguyện và từ bỏ ác dục.

Nói xong, Ngài thuyết giảng các Sự Thật. Vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất kia đãđược an trú vào Sơ quả Dự Lưu. Và ngài ngâm ba vần kệ này để nhận diện Tiền thân:

  1. Mục-liên, Xá-lợi-phất và Ta,
    Ca diếp, A-na-luật, Phú-na, (1),
    Cùng với A-nan-đà thuở ấy
    Thất Hiền Huynh Ðệ chốn kia mà.
  2. Liên Hoa Sắc, tiểu muội ngày xưa,
    Tỳ nữ, Khuj-ju (2), thuở bấy giờ,
    Cổ thụ Thần kia, Sà-tá (3) đó,
    Cit-ta Gia chủ, chính gia nô.
  3. Con Voi ngày trước chính Par-ley (4)
    Con Khỉ là Ma-dhu-sét đây, (5)
    Ðế Thích là Ka-lu (6) thuở ấy,
    Chúng Tăng giờ hiểu Tiền thân này.

Chú thích: (1) Punna; (2) Khujjutarà; (3) Satàgira; (4) Pàrileyya; (5) Madhuvasettha; (6) Kàludàyi

-ooOoo-

  1. Chuyện Đại Vương Huy Hoàng (Tiền thân Suruci)

Thiếp là chánh hậu chúa Ru-ci…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú gần Xá-vệ trong tòa nhà của Lộc mẫu, về việc bà nữ cư sĩ đệ nhất Visàkhà này đã được Ngài ban Tám điều Nguyện ước như thế nào.

Một buổi nọ, bà ấy nghe thuyết Pháp ở Kỳ Viên xong, rồi trở về nhà, sau khi mời đức Phật và chúng đệ tử của Ngài đến nhà vào ngày hôm sau.

Nhưng khuya hôm ấy một cơn cuồng phong dữ dội hoành hành cả bốn châu thiên hạ, đức Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo như sau:

– Khi mưa rơi ở Kỳ Viên, này các Tỷ-kheo, thì mưa cũng rơi khắp bốn châu thế giới. Các ông hãy thấm nhuần ơn mưa móc đến tận thịt da: vì đây là cơn đại cuồng phong cuối cùng của Ta thổi khắp thế giới.

Rồi cùng với các Tỷ-kheo thân mình đã thấm ướt nước mưa, Ngài dùng thần lực biến mất khỏi Kỳ Viên và xuất hiện trong gian phòng khách của tòa nhà bà Visàkhà. Bà kêu lên:

– Thật hi hữu thay! Thật linh diệu thay là thần thông lực của đức Như Lai thị hiện! Nước ngập lụt đến tận đầu gối, nước ngập lụt đến tận thắt lưng, mà chẳng có bàn chân hay chiếc y của một Tỷ-kheo nào bị ướt cả!

Trong nỗi hân hoan tràn trề ấy, bà cùng đám tín nữ phục vụ đức Phật và Tăng chúng. Sau buổi thọ thực, bà thưa với đức Phật:

– Thật tình con ước ao nhận được nhiều thỉnh nguyện từ đức Thế Tôn.

– Này Visàkhà, các đức Như Lai có vô lượng ân lành.

– Song những điều thỉnh nguyện này xin được ban cho chúng con, những điều này không lỗi lầm!

– Này Visàkhà, cứ nói đi!

– Con ước ao rằng suốt đời con được quyền dâng áo khoác về mùa mưa cho Tăng chúng, thực phẩm cho các vị khách đến thăm nhà, thực phẩm cho Tăng chúng du hóa đường xa, thực phẩm cho các vị bị bệnh, thực phẩm cho những vị Tỷ-kheo phục vụ các bệnh nhân, thuốc men cho các bệnh nhân, thường xuyên cúng dường cháo gạo và suốt đời cúng dường y phục cho các Tỷ-kheo ni khi đi tắm.

Bậc Ðạo Sư đáp:

– Này Visàkhà, bà dự định làm công đức gì khi bà thỉnh cầu Như Lai Tám Nguyện ước này?

Bà liền thưa với ngài những lợi lạc mà bà mong có được, và Ngài đáp:

– Lành thay, lành thay, này Visàkhà, thật tốt lành thay là điều lợi lạc mà bà mong sẽ được khi thỉnh cầu Như Lai Tám Nguyện ước này.

Rồi ngài bảo:

– Này Visàkhà, Ta cho bà Tám đặc ân này đó.

Sau khi ban cho bà tám Thỉnh Nguyện ấy xong và nói lời tùy hỷ công đức, Ngài ra về.

Một hôm, khi bậc Ðạo Sư đang trú tại Ðông Viên, Tăng chúng bắt đầu bàn luận việc này trong Chánh Pháp đường:

– Này hiền hữu, nữ thí chủ Visàkhà, dù là nữ nhân, đã được chính đấng Thập Lực ban cho tám Thỉnh nguyện.Công đức của bà ấy thật cao cả thay!

Bậc Ðạo Sư bước vào và hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì. Tăng chúng thưa với Ngài. Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên nữ nhân này nhận được những Thỉnh nguyện từ Ta, vì bà ấy xưa kia cũng đã nhận được như vậy.

Rồi Ngài kể cho Tăng chúng một chuyện quá khứ.

*

Một thời, có vị vua Suruci trị vì tại Mithilà. Vua này có một vương tử đặt tên là Suruci Kumàra, hay vương tử Huy Hoàng. Khi chàng lớn lên, chàng quyết định đi du học tại Takkasilà, vì thế chàng đến đó và ngồi nghỉ ở một sảnh đường tại cổng thành. Bấy giờ vương tử của vua Ba-la-nại tên là vương tử Brahmadatta cùng đi đến đó, và ngồi nghỉ trên cùng một chiếc ghế dài mà vương từ Suruci đã ngồi. Hai người trò chuyện và kết bạn với nhau, rối cả hai cùng đi đến vị giáo thọ kia. Hai chàng trả học phí và học tập, chẳng bao lâu, việc học đã hoàn tất.

Rồi hai chàng từ giã thầy dạy và cùng nhau lên đường. Sau khi đi một đoạn ngắn, họ dừng lại ở một nơi có ngã rẽ, cả hai ôm nhau từ biệt, và để giữ mãi tình bạn thấm thiết, hai vị giao ước với nhau:

– Nếu ta có con trai và bạn có con gái hoặc bạn có con trai và ta có con gái thì chúng ta sẽ kết đôi cho chúng.

Khi hai vị lên ngôi, vua Suruci sinh hạ một vương tử và cũng đặt tên vương tử là Suruci. Còn vua Brahmadatta sinh con gái đặt tên là Sumedha hay công chúa Thiện Trí.

Vào đúng thời lớn khôn, vương tử Suruci đi đến Takkasilà để học tập và khi việc học hoàn tất, lại trở về. Sau đó vua cha muốn phong vương cho con mình bằng lễ quán đảnh, và nghĩ thầm: “Bạn ta là vua Ba-la-nại đã sinh con gái, ta nghe nói vậy. Nay ta muốn cưới nàng ấy làm vương hậu cho con ta”. Vì mục đích trên, vua phái đám sứ thần đem các sính lễ rất sang trọng ra đi.

Song trước khi sứ bộ đến nơi, vua Ba-la-nại hỏi bà chánh hậu điều này:

– Này ái hậu, điều gì là nỗi khổ đau nhất đối với một nữ nhân?

– Muôn tâu, đó là việc tranh chấp với các thê thiếp khác của chồng mình.

– Vậy thì, này ái hậu, để tránh cho con gái duy nhất của ta là công chúa Sumedha khỏi nỗi khổđau ấy, ta sẽ chẳng gả con cho một ai, ngoại trừ người nào chỉ cưới một mình nàng, chứ không có thê thiếp khác.

Vì vậy khi các sứ thần đến, và nêu danh hiệu công chúa để cầu hôn, vua bảo họ:

– Này các hiền hữu, quả thực ta đã hứa gả con gái ta cho con của vị vua thân bằng của ta ngày xưa. Song chúng ta không muốn thả con gái vào giữa một đám nữ nhân. Vì vậy chúng ta muốn gả con gái cho vị vua nào chỉ cưới một mình nàng, chứ không thêm ai khác.

Các sứ giả đem thông điệp ấy về tâu với vua. Nhưng vua này phật ý, bảo:

– Nước ta là một đại vương quốc với kinh thành Mi-thi-là chiếm bảy dặm, toàn thể đất nước gồm cả ba trăm dặm. Một vị đại vương như vậy phải có cả mười sáu ngàn cung phi là ít nhất.

Còn vương tử Suruci vừa nghe danh tiếng dung sắc tuyệt mỹ của công chúa Sumedha liền đâm ra si tình công chúa dù chỉ là nghe đồn thôi, nên chàng nhờ thưa lại song thân là:

– Con quyết sẽ cưới một mình nàng chứ không thêm ai khác nữa. Con có cần gì cả đám nữ nhân kia chứ? Xin đi cưới nàng về ngay.

Hai vị không cản trở ước vọng của chàng, liền gửi sính lễ sang trọng cùng một đám sứ thần đông đảo đi rước nàng về cung. Thế là nàng được phong làm vương hậu và cả hai người đều được tôn lên ngôi bằng lễ quán đảnh (rảy nước lên đầu).

Chàng trở thành quốc vương Suruci, cai trị rất đúng pháp và sống rất hạnh phúc với hoàng hậu. Song dù nàng đã về sống ở nhà chồng đến mười ngàn năm, nàng chẳng hề sinh hạ con trai hay con gái gì cả.

Sau đó, dân chúng tụ tập lại trước sân chầu với những lời trách móc. Vua hỏi:

– Có chuyện gì thế?

Dân chúng tâu:

– Chúng thần chẳng thấy lỗi lầm nào ngoại trừ việc này: Ðó là Chúa thượng không có con trai để nối dõi. Chúa thượng chỉ có một chánh hậu, tuy nhiên một quốc vương phải có ít nhất là mười sáu ngàn cung tần. Xin Chúa thượng hãy tuyển một đám phi tần mỹ nữ, rồi một thứ phi xứng đáng sẽ hạ sinh cho Chúa thượng một hoàng nam.

– Này, các hiền hữu nói điều gì thế? Ta đã hứa không cưới ai khác ngoài hoàng hậu và theo những điều kiện thỏa thuận trên mà ta đã chiếm được nàng làm vợ. Ta không thể nuốt lời được, ta không cần cả một đám nữ nhân đâu.

Như thế vua từ chối lời thỉnh cầu của dân nên họ ra về. Song Sumedha nghe được câu chuyện. Bà nghĩ thầm: “Ðức vua từ chối việc tuyển chọn cung phi vì lòng trung tín của ngài, được rồi, ta sẽ tìm thê thiếp khác cho ngài”. Bà vừa đóng vai người mẹ, cùng vai người vợ đối với vua, nên bà tự nguyện tuyển một mgàn công nương thuộc dòng Sát-đế-ly, một ngàn tiểu thư của các con quan trong triều, một ngàn thiếu nữ nhà lành, một ngàn vũ nữ đủ loại, tổng cộng bốn ngàn, rồi đem dâng vua.

Các nàng ấy sống trong cung suốt mười ngàn năm cũng chẳng hề sinh con cái gì cả. Cứ theo cách ấy, ba lần nữa, bà dâng vua bốn ngàn cung nữ, song họ chẳng sinh được con cái gì. như vậy bà đã dâng vua cả mười sáu ngàn cung tần mỹ nữ. Bốn mươi ngàn năm trôi qua, nghĩa là năm mươi ngàn năm tất cả, tính luôn mười ngàn năm vua đã chỉ sống với một mình hoàng hậu thôi. Sau đó, dân chúng lại tụ tập với những lời trách móc; vua hỏi:

– Cái gì đây nữa?

– Tâu Chúa thượng, xin ngài ra lệnh cho các cung phi cầu tự.

Từ đó, để cầu tự, các nàng cúng bái đủ các loại thần linh và thề nguyền khấn khứa đủ mọi cách, tuy thế, vẫn không có vương tử nào xuất hiện. Rồi vua ra lệnh cho bà Sumedha cũng phải cầu tự, hoàng hậu thỏa thuận.

Vào dịp lễ Trai giới ngày mười lăm (rằm) trong tháng, hoàng hậu giữ hạnh nguyện Bát quan Trai giới và ngồi trầm tư về các công đức trong một cung thất lộng lẫy trên một sàng tọa êm ái. các cung nữ khác đều ở trong ngự uyển, cầu nguyện sẽ cúng tế đủ loại dê bò. Vì công đức sáng chói của hoàng hậu Sumedha nên cung điện của Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) rúng động.

Ðế Thích Thiên chủ suy xét và hiểu rằng bà Sumedha đang cầu tự. “Ðược rồi, bà sẽ được một hoáng nam. Song ta không thể ban cho bà một hoàng nam này hay một hoàng nam nọ một cách thiếu quan tâm, mà ta muốn đi tìm một vị nào xứng đáng”. Rồi ngài thấy một Thiên tử còn trẻ tên là Nalakàra, Người Ðan giỏ.

Chàng có đầy đủ đức độ thiện hạnh, trong một đời trước đó sống ở Ba-la-nại, thì chuyện này xảy ra cho chàng. Vào mùa gieo hạt, khi chàng ra đồng, chàng gặp một vị Ðộc Giác Phật. Chàng bảo các tá điền gieo hạt, cúng dường một bữa ăn rồi dẫn vị ấy trở lại bờ sông Hằng. Chàng cùng con trai dựng túp lều, trụ bằng thân cây sung và đan kết lau sậy làm vách tường, gắn cửa vào và dọn một lối đi. Chàng mời vị Ðộc Giác Phật ở đó suốt ba tháng và khi hết mùa mưa, hai cha con chàng đắp lên Ngài ba chiếc y rồi để Ngài ra đi. Cùng cách ấy, hai cha con thiết đãi đồ ẩm thực bảy vị Ðộc Giác Phật trong túp lều ấy rồi cúng dường mỗi vị ba chiếc y, xong để các vị ai đi đường nấy.

Vì vậy, dân chúng vẫn kể chuyện hai cha con làm nghề đan giỏ, tìm các cây liễu trên bờ sông Hằng (để lấy gỗ đan giỏ) và hễ khi nào thấy một vị Ðộc Giác Phật thì họ cúng dường như trướcđã nói. Lúc mạng chung, họ được tái sinh vào cõi trời Ba mươi ba, và cứ an trú sáu tầng trời cõi Dục liên tục tới lui theo vòng luân hồi sinh tử, tận hưởng vinh quang tột đỉnh giữa chư Thiên.

Hai vị ấy sau khi mạng chung ở cõi này lại ước mong được lên các thiên giới cao hơn. Ðế Thích Thiên chủ nhận thức rằng một trong hai vị Thiên tử này sẽ thành đức Như Lai, nên Thiên chủ đến cửa cung của hai vị, đảnh lễ vị ấy khi vị ấy đứng lên chào đón Thiên chủ và bảo:

– Thưa Tôn giả, ngài nên sinh vào thế giới loài người.

Song vị Thiên tử bảo:

– Tâu Ðại vương, thế giới loài người đầy hận thù đáng kinh tởm, những người ở đó làm thiện sự và bố thí, cũng đều ước mong được lên thiên giới. Vậy thần xuống đó làm gì chứ?

– Thưa Tôn giả, ngài sẽ được hưởng trọn vẹn mọi lạc thú có thể hưởng được trong nhân giới; ngài sẽ ngự trong một cung điện làm toàn bằng bảo ngọc cao hai mươi lăm dặm. Xin ngài đồng ý cho.

Vị Thiên tử liền chấp thuận. Khi Ðế Thích Thiên chủ đã được vị ấy hứa lời rồi, liền giả dạng một hiền nhân giáng xuống ngự viên, xuất lộ nguyên hình vừa bay lượn trên đầu các cung phi này, vừa ca hát:

– Ta sẽ ban diễm phúc cho ai được một nam tử đây? Ai mong được diễm phúc có một nam tử đây?

– Thưa ngài, xin cho con, xin cho con!

Hàng ngàn cánh tay giơ lên. Sau đó Thiên chủ bảo:

– Ta sẽ ban các nam tử cho những người đức độ: vậy về công đức các nàng làm được những gì? Cuộc đời các nàng, lối sống các nàng ra sao?

Họ đều hạ tay xuống và thưa:

– Nếu ngài muốn thưởng công cho người đức hạnh thì xin ngài đi tìm chành hậu Sumedha.

Ngài liền bay qua không gian và dừng lại ở cửa sổ cung thất của bà. Khi đó đám cung nữ đến trình với bà:

– Tâu lệnh bà, một vị Thiên chủ đã bay qua không gian và đứng ngay tại cửa sổ cung thất lệnh bà để ban cho lệnh bà diễm phúc được một vương tử!

Bà liền đến đó đón ngài vô cùng trọng thể. Vừa mở cửa sổ ra, bà vừa hỏi:

– Tâu Thiên chủ, tiện thiếp trộm nghe rằng ngài sẽ ban diễm phúc cho một nữ nhân đức hạnh được một nam tử, có đúng vậy chăng?

– Ðúng vậy, ta sẽ làm như thế.

– Vậy xin ngài làm ơn ban cho tiện thiếp diễm phúc ấy.

– Hãy cho ta biết Chánh hậu đã tạo được công đức gì, rồi nếu chánh hậu làm đẹp ý ta, ta sẽ ban cho diễm phúc ấy.

Bà liền ngâm mười lăm vần kệ này nêu rõ công đức của mình:

  1. Thiếp là chành hậu chúa Ru-ci,
    Vương hậu đầu tiên chúa cưới về,
    Với chúa Su-ru-ci vạn tuế,
    Thiếp đã sống trọn đạo hiền thê.
  2. Huy Hoàng chúa tể ở My-la,
    Là chính kinh thành của quốc gia,
    Thiếp chẳng hề xem thường thánh ý,
    Chẳng chê ngài thấp kém, sai ngoa,
    Dù sau lưng chúa, hay ngoài mặt,
    Về khẩu, ý, thân, đủ cả ba.
  3. Thánh giả, điều này nếu thật chân,
    Cầu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.
  4. Phụ hoàng, mẫu hậu của vương quân,
    Hai đấng sinh thành ngự trị dân,
    Trong lúc các ngài còn tại thế,
    Vẫn thường dạy thiếp Ðạo hiền nhân.
  5. Thiếp ước không làm hại mạng ai,
    Quyết lòng hành động chánh chân hoài,
    Ân cần tận tụy hầu hai vị,
    Không mệt mỏi cho dẫu tối ngày.
  6. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
    Cầu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.
  7. Thứ phi sau thiếp cứ tăng dần,
    Mời sáu ngàn không thiếu một nàng,
    Tuy thế, chẳng hề, thưa Thánh giả,
    Xảy hờn ghen giữa đám hồng quân.
  8. Thiếp mừng khi chúng được an lành,
    Với mọi cung phi, thắm thiết tình,
    Lòng thiếp nhân từ cùng tất cả,
    Khác nào đối với bản thân mình.
  9. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
    Cầu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.
  10. Nô tỳ, thị giả, mọi gia nhân,
    Tất cả nơi đây ở hợp quần,
    Thiếp đối ân cần, ban thực phẩm,
    Tươi cười nét mặt tạo hân hoan.
  11. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
    Cầu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.
  12. Các nhà ẩn sĩ, Bà-la-môn,
    Hễ thấy người nào đến khẩn van,
    Thiếp đãi uống ăn đều khắp cả,
    Ðôi bàn tay rửa sạch hoàn toàn.
  13. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
    Cấu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.
  14. Vào ngày mống tám, nửa tuần trăng,
    Mười bốn, mười lăm, các buổi rằm,
    Thiếp vẫn chuyên tâm trì giới luật,
    Bước theo Thánh đạo của hiền nhân.
  15. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
    Cầu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

Quả thật, dù cả trăm, cả ngàn câu kệ cũng không đủ lời tán thán mọi công đức của bà; tuy thế, Ðế Thích Thiên chủ cứ để cho bà tự tán thán trong mười lăm vần kệ này. Ngài cũng không ngắt ngang câu chuyện, mặc dù ngài còn nhiều việc phải làm ở nơi khác. Sau đó ngài bảo:

– Công đức của Chánh hậu thật là kỳ diệu và sung mãn tràn trề thay!

Rồi ngài ngâm hai vần kệ ca ngợi bà:

  1. Nương nương hỡi, Chánh hậu Huy Hoàng,
    Công đức này cao trọng thập toàn
    Ðều thấy trong nàng, này Chánh hậu,
    Chính nàng ca ngợi đại danh nàng.
  2. Một hoàng nam chính thống cao sang,
    Muôn vẻ vinh quang, trí vẹn toàn,
    Ðại đế Vi-đề-ha chánh trực,
    Sắp ra đời đó chính con nàng.

Khi bà nghe những lời này, bà vô cùng hoan hỷ ngâm hai vần kệ để hỏi Thiên chủ:

  1. Bụi bẩn, lấm lem tóc rối bồng,
    Hình ngài lơ lửng ở trên không,
    Nói bằng một giọng đầy thân ái,
    Lám thiếp cảm rung tận cõi lòng.
  2. Có phải ngài Thiên đế đại hùng,
    Trên trời ngài ngự, hỡi hiền nhân?
    Xin cho thiếp biết từ đâu đến,
    Cho biết là ai đó giáng trần?

Thiên chủ đáp lời bà qua sáu vần kệ:

  1. “Thiên nhãn Sak-ka” nàng thấy đây,
    Vì Thiên chúng vẫn gọi như vầy.
    Những khi Thiên chúng đều đoàn tụ
    Trong Thiện pháp đường mỹ diệu thay.
  2. Khi nữ nhân hiền đức vẹn toàn,
    Tại đây được thấy giữa trần gian,
    Chánh chân nội tướng đầy nhân ái
    Với mẹ chồng, như phận sự nàng.
  3. Khi chư Thiên biết một hồng nhan,
    Lòng trí cao minh, nghiệp thiện toàn,
    Dù nữ nhi, mà từ thượng giới,
    Thiên chúng đích thân đến với nàng.
  4. Giữ đời đức hạnh, hỡi Nương nương,
    Nhờ tích trữ toàn việc thiện lương,
    Công chúa xuất thân, đà đạt được
    Trọn niềm hạnh phúc vẫn cầu mong.
  5. Vậy nàng gặt hái nghiệp duyên nàng
    Bằng cảnh huy hoàng ở thế gian,
    Công chúa, về sau trên thượng giới
    Tái sinh nàng được hóa Thiên thần.
  6. Nữ nhi hiền đức, hưởng hồng ân!
    Cứ sống giữ gìn hạnh chánh chân,
    Nay lúc ta cần về thượng giới,
    Vui mừng vì diện kiến tôn nhan.

– Ta còn việc phải làm trên tiên giới-Ngài bảo-Vậy ta đi đây, còn nàng hãy chuyên tâm tinh cần.

Cùng với lời khuyên nhủ này, ngài ra về.

Tảng sáng hôm ấy, Thiên thần Nalakàra được nhập mẫu thai của hoàng hậu. Khi bà biết chuyện ấy, bà liền tâu với vua. Vua làm đủ mọi việc cần thiết cho một thai phụ. Sau mười tháng, bà sinh hạ một vương tử, hai vị đặt tên là Mahà-panàda. Toàn dân của hai quốc độ đều đến kêu lên:

– Tâu Chúa thượng, chúng hạ thần xin mang tiền mua sữa tới tặng hoàng thái tử.

Rồi mỗi người thả một đồng vàng vào trong sân chầu thành một đống tiền lớn. Vua không muốn nhận tiền này, nhưng dân chúng không chịu lấy lại, và tâu với vua khi họ ra về:

– Tâu Chúa thượng, số tiền này để dành cấp dưỡng vương tử khi ngài lớn lên.

Vương nhi lớn lên giữa cảnh huy hoàng và khi chàng đến tuổi trưởng thành, không quá mười sáu, chàng đã kiện toàn tất cả mọi môn học thuật. Vua nghĩ đến tuổi trưởng thành của chàng, bảo hoàng hậu:

– Này ái hậu, khi đến thời làm lễ quán đảnh cho hoàng nhi, ta hãy xây cho con ta một cung điện tuyệt đẹp vào dịp đó.

Bà thỏa thuận hoàn toàn. Vua liền cho triệu các người có tài đoán biết nơi chốn an lành để xây cung điện và họ bảo:

– Này các hiền hữu, hãy tìm một kiến trúc sư thượng thủ và xây cho ta một cung điện không xa cung ta. Cung này dành cho hoàng tử mà chúng ta sắp phong vương để kế vị ta đó.

Họ tâu việc ấy tốt lành thay và bắt đầu đi vào khảo sát mặt đất.

Lúc áy, chiếc ngai của Ðế Thích Thiên chủ nóng rực lên. Nhận thấy điều này, Thiên chủ lập tức triệu Vissakamma-vị Thiên thần chuyên xây dựng đến và bảo:

– Này Hiền giả Vissakamma, hãy xây cho thái thái tử Mahà-panàda một cung điện dài rộng nửa dặm và cao hai mươi lăm đặm, toàn bằng bảo ngọc.

Vissakamma liền giả dạng thợ hồ đi đến gần đám thợ kia bảo:

– Hãy đi ăn sáng xong rồi trở về đây.

Sau khi họ đi khuất cả rồi, vị ấy lấy cây gậy đập xuống đất, lập tức một cung điện hiện ra cao bảy tầng đúng kích thước như trên.

Bấy giờ triều đình cử hành liên tiếp ba đại lễ cho Thái tử Mahà-panàda: Lễ khánh thành cung điện, lễ giương chiếc lọng hoàng gia trên đầu chàng (lễ phong vương) và lễ thành hôn cho chàng. Trong thời gian hành lễ, toàn dân cả hai xứ tụ tập lại tổ chức hội hè yến tiệc suốt bảy năm mà vua cũng không giải tán quần chúng: xiêm y, đồ trang sức, đồ ẩm thực và mọi thứ khác hoàng gia đều cung cấp đầy đủ cả.

Sau bảy năm ấy, dân chúng bắt đầu càu nhàu than phiền và vua Suruci hỏi tại sao, họ đáp:

– Tâu Ðại vương, trong lúc chúng hạ thần mãi vui chơi hội hè đình đám thì bảy năm đã trôi qua. Thế khi nào thì lễ hội này mới chấm dứt?

Vua đáp:

– Này các hiền hữu, suốt thời gian qua, vương nhi chưa hề một lần nào cười cả. Vậy khi nào vương nhi cười thì ta sẽ giải tán.

Sau đó dân chúng đi đánh trống và tập hợp các người làm trò múa rối nhào lộn lại với nhau. Hàng ngàn người diễn trò kéo đến và chia nhau thành bảy ban ca múa, nhưng họ không thể nào làm vương tử cười được. Rõ ràng chàng là một người đã từng xem múa hát của các vũ thần chốn thiên đình rồi thì không thể nào ham thích được các vũ công hạ giới như thế này.

Sau đó hai tên hề múa rối lanh lợi xuất hiện, đó là Bhandu Kanna và Pandu Kanna tức Tai Cụt và Tai Vàng. Chúng tâu:

– Chúng tiểu thần sẽ làm cho hoàng tử cười.

Bhandu Kanna liền hóa phép ra một cây xoài vĩ đại, mà gã gọi là “Vô song địch”, mọc lên trước cửa cung, sau đó gã ném ra một cuộn dây làm cho nó mắc vào một cành xoài rồi gã trèo lên cây xoài Vô song địch ấy.

Thời bấy giờ người ta bảo cây xoài Vô địch ấy là của Vessavana (Tỳ-sa-môn Thiên vương). Bọn nô lệ của thần Vessavana bắt lấy gã, như thường lệ, chặt ra từng khúc và thả xuống đất. Bọn người làm trò ảo thuật kia ghép các khúc đó lại và tưới nước lên. Gã đó liền choàng mớ xiêm y cả bên trong lẫn bên ngoài đều kết bằng hoa rồi đứng dậy bắt đầu ca múa như cũ. Ngay cái cảnh tượng kỳ dị này cũng không làm vương tử cười được.

Sau đó Pandu Kanna chất dầu củi đốt lửa lên trước sân chầu và nhảy vào lửa với đồng bọn múa rối ấy. Khi lửa tan hết, người ta tưới nước vào đó, Pandu Kanna cùng cả bọn lại vùng dậy ca múa với đủ xiêm y từ trong ra ngoài kết bằng hoa! Khi dân chúng thấy họ không thể làm cho vương tử cười được thì họ bực tức lắm.

Ðế Thích Thiên chủ nhận thấy việc này, liền phái xuống một vũ công trên trời, bảo vị ấy làm cho vương tử Mahà-panàda cười. Thế rồi vị ấy đứng lơ lửng giữa không gian trên sân chầu, và biểu diễn một điệu múa gọi là Vũ khúc Bán thân: chỉ một tay, một chân, một mắt, một răng nhảy múa rung rinh, lắc lư qua lại, còn mọi phần kia vẫn trơ như đá!

Khi Mahà-panàda thấy thế thì chàng hơi nhếch mép cười một chút thôi! Còn đám dân chúng đều cười rộ lên từng tràng dài, và không thể nào kềm chế chân tay được nữa, nên họ cứ lăn quay long lóc khắp cả sân rống. Thế là kết thúc hội hè! Phần còn lại:

Ðại đế Pa-nà, chúa đại hùng

Với cung bằng ngọc quý, vàng ròng…

Ðã được giải thích trong Thế Tôn Mahà Panàda (số 264, tập II, Chương III)

Vua Mahà Panàda chuyên tâm làm thiện sự và bố thí nên lúc mạng chung được sinh lên Thiên giới.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, Visàkhà đã nhận được điều ước Ta ban thuở trước kia.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời bấy giờ, Bhaddaji là Mahà Panàda, Visàkhà là hoàng hậu Sumedha, Ànanda là Vissakamma và Ta chính là Ðế Thích Thiên chủ.

-ooOoo-

  1. Chuyện năm vị hành trì trai giới (Tiền thân Pancùposatha)

Ta chắc giờ chim thiểu dục rồi…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về năm trăm cư sĩ giữ hạnh Bồ-tát giới.

Thời đó người ta nói là bậc Ðạo Sư ngồi trên bảo tọa dành cho đức Phật trong Chánh pháp đường, giữa tứ chúng, nhìn quanh hội chúng với từ tâm, Ngài thấy rằng hôm nay bài thuyết giảng sẽ quay về đề tài chuyện các nam cư sĩ. Sau đó Ngài hỏi hội chúng:

– Các nam cư sĩ có giữ hạnh trai giới (Bồ-tát) chăng?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Họ đáp.

– Lành thay, việc hành trì ngày trai giới là tập tục của các trí nhân tự thuở xưa: Ta bảo là các bậc trí tự ngàn xưa đã hành trì trai giới để nhiếp phục các tham dục.

Rồi theo lời thỉnh cầu của hội chúng, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, có một khu rừng lớn ngăn chia vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà) với hai vương quốc giáp giới nó. Bồ-tát sinh ra ở Ma-kiệt-đà trong một gia đình Bà-la-môn sang trọng. Khi ngài lớn lên, ngài từ bỏ các tham dục và đi vào rừng kia dựng lên một ẩn am và sống tại đó. Bấy giờ không xa nơi am thất ấy có một con Bồ câu rừng sống cùng chim mái, trong một tổ kiến kia có con Rắn, trong bụi rậm nọ có con Chó rừng làm hang ổ và trong một bụi rậm khác lại có con Gấu. Cả bốn con vật này thường đến viếng vị hiền nhân và nghe ngài thuyết Pháp.

Một ngày kia, Bồ câu cùng vợ rời tổ đi kiếm thức ăn. Chim mái bay sau, và khi nó đang bay, một con chim ưng thình lình chụp bắt lấy nó và tha đi. Nghe tiếng kêu thét của chim mái, chim trống quay lại nhìn và thấy chim ưng đang tha vợ nó đi! Chim ưng giết chết chim mái ngay khi nó đang kêu cứu và xé xác ăn ngay. Bấy giờ lòng chim trống nóng như lửa đốt vì thương tiếc chim mái phải bị chia lìa đột ngột với nó như vậy. Rồi chim suy nghĩ: “Ái dục này xâu xé lòng ta đau đớn quá sức chịu đựng; ta không còn muốn đi tìm mồi cho đến khi nào ta thấy được cách nhiếp phục nỗi đau”. Thế là chim bỏ ngang việc kiếm ăn, bay đến tận nhà tu khổ hạnh kia, quyết tâm giữ hạnh nguyện nhiếp phục tham ái và nằm xuống một bên.

Con rắn cũng nghĩ rằng nó muốn kiếm ăn, nên bò ra khỏi lỗ và kiếm được chút gì đó trên lối nó bò đi gần một làng ở biên địa. Vừa lúc ấy, một con bò đực của người lý trưởng, một con vật tuyệt đẹp toàn màu trắng, sau khi gặm cỏ xong, quỳ mọp xuống gần một tổ kiến, lấy sừng hất tung đất lên để đùa chơi. Con Rắn kinh hoảng khi nghe tiếng móng bò sột soạt, phóng đến ẩn mình trong một tổ kiến. Con bò tình cờ giẫm lên Rắn, làm con Rắn tức giận cắn con bò và con bò chết tại chỗ. Khi dân làng khám phá ra con bò đã chết, họ đều vừa chạy vừa khóc than, đem cúng vòng hoa cho bò rất trọng thể rồi mới chôn nó xuống mồ và trở về nhà. Khi dân chúng đã đi hết, con Rắn bò ra và suy nghĩ: “Vì giận dữ, ta đã đoạt mạng sống của con vật này và đã gây bao đau buồn cho nhiều người. Ta chẳng còn muốn đi kiếm mồi bao giờ nữa, cho đến khi ta học được cách nhiếp phục sân hận”. Vì thế nó quay đi về thảo am sĩ kia, và quyết giữ hạnh nguyện nhiếp phục sân hận, nó nằm xuống một bên.

Con Chó rừng cũng đi kiếm mồi và thấy một con voi đã chết. Nó vui mừng quá:

– Thức ăn nhiều lắm đây rồi!

Nó kêu lên và đi cắn một miếng vào thân voi, chẳng khác nào cắn vào một thân cây. Nó thấy chẳng thích thú gì cả nên cắn vào chiếc vòi cứ như thể là cắn vào hòn đá.

Nó thử cắn cái bụng – cũng như là cái thúng vậy, nên nó nhào vào đuôi voi – giống như cái bát sắt. Rồi nó chồm lên đít voi và ô kìa! Chiếc mông mềm như chiếc bánh sữa! Nó thích thú quá nên cứ ăn sâu vào trong. Rồi ở đó ăn mãi khi đói, còn khi khát thì uống máu voi. Khi nằm xuống nó trải phần trong ruột và ngực voi ra như cái giường để ngã lưng, nó suy nghĩ: “Ở đấy ta đã tìm được thức ăn uống và giường nằm rồi, vậy còn đi đâu làm gì nữa”.

Thế là nó ở lỳ đó, lòng rất thỏa mãn, trong cái bụng voi và chẳng hề chui ra ngoài lần nào cả. Dần dần xác voi khô cứng dưới sức nắng gió, cái chỗ hở phía sau mông voi khép kín lại. Con chó rừng quằn quại bên trong mất dần máu thịt, thân thể võ vàng, song không tìm được cách thoát ra ngoài.

Rồi một ngày kia, có cơn bão rớt thình lình, cái lỗ hở ấy thấm nước và mềm ra bắt đầu hé miệng. Khi thấy khe hở, Chó rừng kêu lên:

– Lâu nay ta đã bị hành hạ quá nhiều, giờ đây ta phải thoát ra bằng lỗ này.

Rối nó đi ra lỗ đó bằng cái đầu trước tiên. Bấy giờ cái lỗ còn hẹp mà nó ra mau quá nên thân thể bầm dập và lông lá rụng xuống đất. Khi ra ngoài được rồi, nó trần trụi như khúc thân dừa, không còn một sợi lông nào nữa! Nó suy nghĩ: “À, vì tham ăn mà ta ta chịu nông nỗi cực khổ này. Ta chẳng bao giờ muốn đi ra kiếm mồi nữa cho đến khi ta học được cách chế ngự dục tham trong ta”.

Sau đo, nó đi đến ẩn am kia, quyết giữ hạnh nguyện chế ngự dục tham và nằm xuống một bên.

Phần con Gấu ra khỏi rừng và vì lòng tham ăn thúc đẩy nó đi về phía làng biên địa của quốc độ Malla.

– Con Gấu đây này!

Toàn dân làng la to lên, họ bước ra trang bị đầy cung , gậy, giáo và nhiều thứ khác nữa, vây quanh bụi cây mà Gấu đang nằm. Nó thấy mình bị cả đám người vây quanh thì vụt chạy trốn đi. Vừa chạy vừa bị đám người ấy đánh cho một trận nhừ tử bằng cung gậy, về đến hang, nó bị dập đầu và chảy máu. Nó nghĩ thầm: ‘ À, chính vì lòng tham ăn thái quá đã gây cho ta mọi tai họa này. Thôi ta chẳng bao giờ muốn đi kiếm mồi cho đến khi học được cách nhiếp phục lòng tham ấy”. Vì thế nó đi đến thảo am, quyết giữ hạnh nguyện nhiếp phục tính tham lam, và nằm xuống một bên.

Còn vị tu khổ hạnh này không thể phát khởi Thiền định được vì ngài vốn vẫn tràn đầy kiêu mạn về dòng dõi quý tộc của ngài. Một vị Ðộc Giác Phật, nhận thấy ngài đang bị ngã mạn chi phối, tuy vậy, vị này biết rõ ngài không phải là người tầm thường. Vị ấy suy nghĩ: “Người này sẽ thành bậc Chánh Giác, và ngay trong hiện kiếp này người ấy sẽ đạt Tối thắng trí. Ta muốn giúp người ấy nhiếp phục ngã mạn và khiến người ấy tụ tập các Thiền chứng”.

Vì vậy trong khi ngài đang ngồi trong thảo am, vị Ðộc Giác Phật kia từ vùng thượng Tuyết Sơn đi xuống và an tọa trên một phiến đá của nhà tu khổ hạnh. Vị này bước ra thấy vị Phật ngồi trên sàn tọa của mình thì do lòng đầy kiêu mạn, ngài không tự chủ được nữa ngài bước lên búng ngón tay vào mặt vị kia và kêu to:

– Ðồ vô tích sự xấu xa kia, thật đáng nguyền rủa, quân giả dối trọc đầu, tại sao ngươi dám ngồi trên tọa sàng của ta?

Vị kia đáp:

– Bạch Thánh giả, tại sao ngài đầy lòng kiêu mạn thế kia? Ta đã đạt trí tuệ của một Ðộc Giác Phật, nên ta bảo cho ngài biết rằng ngay trong chính hiện kiếp này, ngài sẽ được hoàn toàn giác ngộ. Ngài đã đủ cơ duyên thành Phật! Khi ngài đã thành tựu Thập hạnh Ba-la-mật và sau một thời gian dài bằng thời kỳ đó trôi qua, ngài sẽ thành bậc Chánh giác, danh hiệu là Siddhatha.

Sau đó vị ấy mới cho ngài biết về danh tánh, dòng họ, gia tộc, các đệ tử, vân vân…và thêm:

– Vậy thì bây giờ tại sao ngài quá kiêu mạn và sân hận như vậy? Việc ấy không xứng đáng với ngài.

Ðó là lời khuyên của vị Ðộc Giác Phật. Nghe những lời này, nhà khổ hạnh chẳng nói gì nữa, cũng chẳng đảnh lễ vị kia, chẳng hỏi xem nơi đâu, bao giờ, và bằng cách nào mình sẽ thành Phật. Sau đó vị khách lại bảo:

– Ngài hãy học cách đánh giá dòng dõi của ngài và thần lực của ta qua việc này, nếu làm được thì hãy bay lên không như ta đây.

Nói vậy xong, vị này bay lên không hất tung bụi bám trên đôi chân mình vào cuốn tóc trên đầu nhà khổ hạnh, rồi lại trở về vùng thượng Tuyết Sơn.

Khi vị ấy đi rồi, lòng nhà khổ hạnh tràn ngập đau buồn. Ngài bảo:

– Ðó là một bậc Thánh, với tấm thân nặng như thế kia mà có thể bay qua không gian như một hạt bông bị gió cuốn! Một vị Ðộc giác Phật như vậy, mà ta chẳng hề hôn chân Ngài, vì ta đây kiêu mạn về dòng dõi của ta, nên cũng không hỏi Ngài xem bao giờ ta sẽ thành Phật. Cái dòng dõi này có làm gì được cho ta đã chứ? Trong thế giới này, cuộc sống thuần thiện chính là một cách thể hiện uy lực, còn lòng kiêu mạn của ta chỉ đưa ta đến địa ngục thôi. Vậy ta sẽ chẳng bao giờ đi kiếm trái rừng nữa, cho đến khi nào ta học được cách nhiếp phục lòng kiêu mạn của ta”.

Sau đó ngài vào thảo am và quyết giữ hạnh nguyện nhiếp phục lòng kiêu mạn. Khi tĩnh tọa trên tấm đệm rơm. bậc trí giả quý tộc kia nhiếp phục được lòng kiêu mạn rồi làm phát khởi tâm Thiềnđịnh, tụ tập các Thắng trí và các Thiền chứng xong, liền bước ra ngồi trên phiến đá cuối mái hiên.

Lúc bấy giờ, chim Bồ câu và các con vật kia đứng lên đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên, bậc Ðạo Sư bảo Bồ câu:

– Các ngày kia chim chẳng hề đến đây vào giờ này, mà chim đi kiếm mồi. Vậy hôm nay chim giữ Trai giới đó chăng?

– Thưa Tôn giả, chính vậy.

Ngài hỏi:

– Tại sao thế?

Và ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Ta chắc giờ chim thiểu dục rồi,
    Nay Bồ câu chẳng muốn tìm mồi,
    Tại sao đành chịu nằm thèm khát,
    Sao nguyện theo Trai giới hỡi ngài?

Bồ câu đáp lời qua hai vần kệ:

  1. Xin đầy tham đắm, cặp uyên ương
    Ðùa giỡn quanh đây tựa phượng loan,
    Ưng ác chụp nàng, bay biến mất,
    Chia lìa duyên kiếp đã tan hoang!
  2. Con biết niềm mất mát phủ phàng,
    Bạo tàn, khốc liệt biết bao đường,
    Con nhìn mọi vật, lòng đau đớn;
    Vì thế con tìm đến náu nương
    Nhờ giới hạnh, thề nguyền ái dục
    Chẳng bao giờ trở lại lòng con.

Khi Bồ câu đã tán thán hành động của mình liên quan đến hạnh nguyện ấy, bậc Ðạo Sư lại hỏi câu đó với con Rắn và lần lượt các con vật kia. Mỗi con trong bọn chúng đều nêu lên sự việc như đã xảy ra:

Bồ-tát:

  1. Vật ở cây, bò sát cuộn mình,
    Ðầy răng nhọn hoắc, nọc truyền nhanh,
    Rắn sao muốn giữ truyền Trai giới,
    Sao đói khát cam chịu cố tình?

Con Rắn:

  1. Con bò thôn trưởng thật oai hùng,
    Dáng đẹp, lưng gù cứ chuyển rung,
    Bò gầm lên, con hờn cắn nó,
    Ðau đớn, bò chết ngã lăn đùng!
  2. Dân làng mọi kẻ đổ ra đường,
    Than khóc vì trông thấy tận tường,
    Vì vậy con nương nhờ giới hạnh,
    Thề sân hận chẳng trở về con.

Bồ-tát:

  1. Xác chết, thức ăn quý sẵn đầy,
    Nằm trong nghĩa địa rã tan thây,
    Chó rừng, sao chịu đành thèm khát,
    Sao lại thề tuân giới hạnh này?

Chó rừng:

  1. Tìm được voi và thích thịt ngon,
    Con vào bụng nó ở lỳ luôn
    Song nhiều gió mạnh, trời gay gắt
    Làm héo khô khe hở chó chun!
  2. Tôn giả, con vàng võ, ốm gầy,
    Vì không lối thoát, phải nằm đây,
    Rồi cơn bão nọ bùng vang dội
    Làm ướt, mềm đi ngã hậu này.
  3. Ðể thoát ra, con chẳng chậm đâu
    Như trăng thoát khỏi vuốt la-hầu,
    Nên con chạy đến nhờ Trai giới,
    Con nguyện tham tâm tránh chạy mau.

Bồ tát:

  1. Ngài có thói xưa vẫn kiếm mồi
    Nằm trên tổ kiến, Gấu Ông ơi,
    Sao nay lại chịu nằm thèm khát,
    Sao muốn thề nguyền Trai giới thôi?

Con Gấu:

  1. Bỏ nhà vì quá đói trong lòng,
    Con đến Mal-la, chạy vội vàng
    Dân chúng trong làng đều đổ đến,
    Dùng cung, gậy, chúng đánh hung tàn.
  2. Mình con vấy máu, vỡ tan đầu,
    Con chạy về nơi trú ẩn mau,
    Vì vậy con nguyền theo giới hạnh,
    Dục tham chẳng kéo đến ngày sau.

Như vậy cả bốn con vật đều tán thán hành động của chúng trong việc quyết tâm giữ hạnh Trai giới, xong vừa đứng lên đảnh lễ bậc Ðạo Sư, chúng vừa hỏi ngài câu này:

– Thưa Tôn giả, các ngày trước ngài ra đi kiếm trái rừng vào giờ này. Tại sao hôm nay ngài khôngđi, mà lại hành trì Trai giới?

Chúng liền ngâm vần kệ này:

  1. Ðiều ấy, ngài mong muốn giải bày,
    Mọi điều con biết, đã thưa thầy,
    Song nay đến lượt mình, xin hỏi:
    Tôn giả sao theo hạnh nguyện này?

Bồ tát:

  1. Một vì Ðộc Giác Phật qua đây
    Chốc lát trong am, đã giải bày
    Mọi việc vãng lai, danh tiếng, hiệu,
    Gia đình và đạo lộ sau này.
  2. Ta không quỳ, bởi quá kiêu căng
    Ở trước chân Ngài, chẳng hỏi han,
    Vì thế, ta nương vào giới hạnh,
    Ðể kiêu căng ấy chẳng đeo gần.

Bằng cách ấy, bậc Ðạo Sư giải thích việc hành trì hạnh nguyện của mình. Sau đó ngài thuyết giáo cho chúng, bảo chúng ra đi và ngài bước vào thảo am. Các con vật kia trở về chốn ở của mình. Bậc Ðạo Sư không hề gián đoạn tâm Thiền định nên được sinh vào cõi Phạm thiên. Còn các con vật ấy tuân hành lời thuyết giáo của ngài nên đã lên cộng trú đông đảo với Thiên chúng.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy, này các cư sĩ, giữ hạnh nguyện Trai giới là một tập tục của các bậc trí ngày xưa, và nay các ông phải biết hành trì.

Rồi ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Anuruddha (A-na-luật) là chim Bồ câu, Kassapa (Ca-diếp) là con Gấu, Mục-kiền-liên là Chó rừng, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là con Rắn, và Ta chính là nhà tu khổ hạnh kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ðại Khổng Tước (Tiền thân Mahà-Mora)

Bắt ta, bạn sẽ được ngàn vàng…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo thối thất.

Bậc Ðạo Sư bảo vị Tỷ-kheo này:

– Có đúng như Ta nghe nói là ông đã thối thất chăng?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn, quả đúng vậy.

Ngài liền nói:

– Này Tỷ-kheo, chẳng lẽ lòng tham muốn dục lạc này lại không đánh bại một người như ông sao? Trận cuồng phong hoành hành khắp núi Sineru (Tu-di) cũng chẳng nao núng trước một ngọn lá khô đâu. Ngày xưa tham dục này đã đánh bại các bậc thanh tịnh, là những vị đã lánh xa bảy ngàn năm khỏi mọi tham dục khởi lên trong tâm mình.

Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào bụng một con Công mái ở một vùng biên địa. Khi thai kỳ đã mãn, Công mẹ sinh trứng ở một nơi nó kiếm mồi và bỏ đi xa. Lúc bấy giờ trứng chim công khỏe mạnh chẳng bị tai nạn gì nếu không có những mối hiểm nguy từ loài rắn hay các loài bọ tai hại tương tự như thế.

Vì vậy cái trứng Công này có màu vàng óng như chồi cây Kanikara; khi nó đã đủ thuần thục thì tự nó nứt ra, và một con Công xuất hiện có màu vàng óng ánh, với con mắt như trái Gunja, chiếc mỏ màu san hô, và ba sọc đỏ chạy quanh cổ xuống đến giữa lưng. Khi chim lớn lên, thân mình to bằng chiếc xe đẩy của người bán hàng, trông thật đẹp mắt, nên cả đàn Công màu đen tụ tập lại chung quanh bầu chim Công này làm chim đầu đàn.

Một hôm chim Công đang uống nước trong hồ, nhìn thấy vẻ đẹp của mình liền suy nghĩ: “Ta đẹp nhất trong đám công. Nếu ta ở chung với chúng giữa mọi nẻo đường đời, ta sẽ gặp nguy hiểm. Ta muốn đi xa đến vùng Tuyết Sơn, và ở đó một mình tại một nơi vừa ý”. Thế là về đêm, khi cả đàn công lui về nơi trú ẩn riêng biệt kín đáo, Công ra đi mà không ai biết, về phía khu vực Tuyết Sơn, sau khi băng qua ba rặng núi, Công vào ẩn thân tại rặng thứ tư. Ðây là khu rừng mà Công khám phá ra một hồ thiên nhiên rộng bát ngát phủ đầy hoa sen, không xa một cây đa cạnh một ngọn đồi, Công chúa đậu trên cành cây này. Trong lòng ngọn đồi này có một hang động kỳ thú, và vì muốn ở đó nên Công chúa đậu trên một vùng đất phẳng ngay trước miệng hang.

Lúc bấy giờ không ai có thể trèo đến chốn này được dù từ dưới lên hay trên xuống, cho nên nó tránh khỏi mọi nỗi lo sợ về chim muông, mèo rừng, rắn rít hay loài người. “Ðây là một nơi thích thú dành cho ta!” Công suy nghĩ. Hôm ấy Công ở đó và sáng hôm sau bước ra khỏi hang, Công đậu trên đỉnh đồi hướng về phía đông. Khi Công thấy mặt trời lên, Công tự vệ mình trong ngày sắp đến bằng cách đọc câu ca:

– Ngài đã hiện ra, đấng Toàn tri.

Sau đó Công đi kiếm mồi. Buổi chiều, Công lại trở về đậu trên đỉnh đồi hướng về phía Tây., và khi nhìn thấy mặt trời biến mất dạng, Công tự vệ mình trước màn đêm sắp buông xuống bằng cách đọc câu ca:

– Ngài đã lặn kia, đấng Toàn tri.

Bằng cách ấy cuộc đời Công cứ trôi qua (Xem lại Tiền thân số 159 tập II: Mora Jàtaka).

Song một hôm có người thợ săn ở trong rừng bất chợt thấy Công đang đậu trên đỉnh đồi ấy và trở về nhà. Khi lão sắp chết, lão bảo với con trai về chuyện ấy:

– Này con, trong rặng núi thứ tư của dãy kia, trong rừng có một con Công màu vàng ánh. Nếu nhà vua muốn có một con Công như vậy, thì con biết nơi kiếm nó rồi đấy.

Một ngày kia chánh hậu của vua Ba-la-nại tên là Khema, (Thái Hòa) nằm mộng về tảng sáng, và giấc mộng diễn ra như thế này: “Một con Công màu vàng óng đang thuyết Pháp và bà chăm chú nghe rất hoan hỷ. Khi Công đã thuyết Pháp xong liền bay lên ra đi, bà vội kêu to: “Kìa chúa Côngđang chạy thoát, hãy bắt Công lại ngay!” Và trong khi bà thốt lên các lời này, bà liền thức dậy. Khi tỉnh lại, bà biết đó chỉ là giấc mộng, và suy nghĩ: “Nếu ta trình đức vua đó là cơn mộng, thì ngài sẽ chẳng quan tâm đến, song nếu ta bảo đó là niềm mong ước của một thai phụ thì ngài sẽ lưu ý ngay”.

Thế là bà liền giả bộ làm như thể bà đang khao khát một thứ gì đó theo cách thông thường của một thai phụ, và nằm xuống. Nhà vua đến viếng bà và hỏi bà đau bệnh gì. Bà đáp:

– Thần thiếp đang có một niềm khát vọng.

– Ái khanh ao ước điều gì thế?

– Tâu Chúa thượng, thần thiếp ước ao nghe lời thuyết Pháp của một con chim Công màu vàng ánh.

– Song, này ái khanh, ta tìm đâu ra được một con chim như vậy?

– Như vậy thì, tâu chúa thượng, thần thiếp sẽ chết mất.

– Này ái khanh, đừng lo buồn chuyện ấy, nếu nơi nào có con chim như vậy thì nó sẽ được bắt về cho ái khanh.

Nhà vua an ủi bà như vậy rồi đi ra ngoài ngồi xuống hỏi các triều thần:

– Này các khanh, chánh hậu ao ước nghe bài thuyết giảng của một con chim Công vàng ánh. Vậy có loại Công vàng ánh ấy chăng?

– Tâu Chúa thượng, các Bà-la-môn biết chuyện đó.

Nhà vua hỏi các Bà-la-môn. Họ đáp như vậy:

– Tâu Ðại vương, theo những vần kệ nói về điềm lành của chúng thần, thì trong loài thủy tộc có cá rùa, cua, trong các loài thú rừng thì có hươu, nai, thiên nga, công, trĩ…các loài đó cùng loài người,đều có thể sinh ra với sắc vàng ánh.

Sau đó nhà vua triệu tập tất cả thợ săn trong quốc độ lại và hỏi họ có bao giờ từng thấy con Công váng ánh chưa. Bọn họ đều trả lời không, trừ người thanh niên đã được cha mách bảo cề chuyện ông ta đã thấy. Gã đáp:

– Chính hạ thần chưa thấy, song thân phụ hạ thần đã bảo cho thần biết một nơi có thể tìm ra một chúa Công vàng ánh.

Nhà vua liền bảo:

– Này hiền hữu, đây là chuyện sống chết của trẫm và chánh hậu; vậy hãy cố bắt lấy Công ấy đem về đây.

Nhà vua cho gã thật nhiều tiền bạc và bảo gã ra đi.

Gã ấy đem tiền về cho vợ con rồi đi đến nơi kia gã thấy bậc Ðạo Sư, gã đặt bẫy bắt ngài. Mỗi ngày gã tự nhủ thầm là chắc chắn sẽ bắt được chim Công; tuy nhiên gã chết đi mà chẳng bắt được Công ấy. Rồi chánh hậu cũng từ trần mà không thỏa tâm nguyện. Nhà vua nổi trận lôi đình và ngài phán:

– Ái hậu của trẫm đã qua đời vì chim Công này.

Rồi nhà vua truyền lệnh chép câu chuyện ấy vào một phiến bằng vàng kể rằng trong rặng thứ tư của khu vực Tuyết Sơn có con chim Công vàng sống ra sao, hễ ai ăn được thịt nó sẽ trường xuân bất tử. Nhà vua đặt phiến vàng ấy trong kho báu và sau đó qua đời.

Kế vị vua ấy, một vua khác lên ngôi, đọc lời lẽ câu chuyện ghi trên phiến vàng nên ước mongđược trường xuân bất tử, liền cho người thợ săn đi bắt chim Công; song nhà vua ấy cũng chết trước khi mãn nguyện giống như vua kia.

Cùng cách ấy, sáu vị vua kế tiếp qua đời và sáu người thiện xạ chết đi mà không được kết quả gì ở khu vực Tuyết Sơn cả. Song người thợ săn thứ bảy, được nhà vua thứ bảy phái đi, không thể nào bắt được chim suốt bảy năm liền mặc dù mỗi ngày gã đều mong đợi chuyện ấy, nên bắt đầu suy nghĩ không biết tại sao lại không thể bắt được đôi chân chim sa vào bẫy.

Vì thế gã ngắm nghía chim, thấy chim cầu nguyện để được phù hộ mỗi buổi sáng tối đều đặn, và gã lý luận về trường hợp này như sau: “Không có con chim Công nào khác ở vùng này, rõ ràngđây đúng là chim Công sống đời thanh tịnh. Chính uy lực đời sống thanh tịnh của chim ấy cùng uy lực của thần chú hộ mệnh đã khiến cho đôi chân chim không bao giờ sa vào bẫy của ta được”. Khi kết luận như vậy rồi, gã đi đến vùng biên địa bắt một con công mái, mà gã luyện cho nó hót tiếng gáy mỗi khi gã búng tay, và xòe cánh múa mỗi khi gã vỗ tay.

Gã đem chim mái trở về, rồi đặt bẫy trước khi Bồ-tát đọc thần chú hộ mệnh, gã búng tay và làm cho công mái gáy. Công trống nghe tiếng gáy ấy lập tức ác dục đã ngủ yên suốt bảy ngàn năm, bỗng vùng dậy như con rắn hổ mang giương mào lên khi bị đánh. Bị ác dục làm cho mê muội, chim Công không thể nào đọc thần chú hộ mệnh nữa, mà vội vàng bay về phía chim mái, từ trên không chim hạ cánh xuống đặt đặt đôi chân ngay vào bẫy: chiếc bẫy kia suốt bảy ngàn năm chẳng đủ uy lực bắt chim, nay đã kẹp chặt lấy chân chim thần.

Khi người thợ săn thấy chim nằm tòn teng ở cuối sợi dây, gã nghĩ thầm: “Sáu người thợ săn trước đã không thể bắt được chim Công chúa này và trong bảy năm liền ta cũng không bắt được nó. Nhưng hôm nay, ngay khi chim đâm si tình chim mái, thì nó không đọc thần chú được, nên sa vào bẫy và bị bắt, nó đang nằm tòn teng với cái đầu lộn ngược kia kìa. Ôi sinh vật mà ta đã làm hại kia thật là đức hạnh! Nếu ta giao một linh vật như vậy cho một người khác chỉ vì bị mua chuộc tiền bạc thì thật là không xứng đáng: Danh vọng của vua chúa có nghĩa gì đối với ta đã chứ? Ta muốn thả chim ấy bay đi”.

Nhưng rồi gã lại nghĩ: “Ðó là một thần điểu kỳ dị phi thường, nếu ta đến gần nó, nó sẽ tưởng ta đến để giết nó, nó sẽ lo sợ cho tính mạng của mình mà vùng vẫy, thì có thể gãy chân hay cánh. vậy ta không muốn đến gần nó, mà chỉ đứng ẩn mình và cắt đứt cái thòng lọng bằng một mũi tên bắn ra. Sau đó chim muốn đi đâu tùy ý”. Thế là gã đứng ẩn mình, giương cung lên, lắp một mũi tên vào dây và kéo ra sau.

Bấy giờ chim Công trống suy nghĩ: “Người thợ săn này đã làm ta mê mệt vì ái dục, và khi thấy ta bị sa bẫy rồi lại không còn quan tâm đến ta nữa. Gã ấy ở đâu kìa?” Chim Công cứ nhìn hướng này hướng nọ, và thấy người kia đứng với cây cung sẵn sàng bắn. “Chắc chắn gã muốn giết ta rồi rađi”. Chúa Công suy nghĩ và sợ chết nên ngâm vần kệ đầu xin tha mạng:

  1. Bắt ta, bạn sẽ được ngàn vàng,
    Bắt sống, xin đừng bắn bị thương,
    Van bạn đem ta về chúa thượng,
    Chắc ngài sẽ thưởng thật giàu sang.

Nghe vậy, người thợ săn suy nghĩ: “Ðại khổng tước này tưởng ta sắp bắn nó bằng mũi tên đây. Ta phải trấn an nó mới được”. Vì mục đích ấy, gã ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Trên cung, ta chẳng ráp tên này
    Ðể bắn chim, Công chúa, ở đây
    Ta muốn cắt dây thòng lọng ấy
    Ðể chim tùy ý, hãy xa bay!

Nghe lời này, chim Công chúa đáp qua hai vần kệ:

  1. Bảy năm theo đuổi, thợ săn này,
    Ðói khát, bạn cam chịu tháng ngày,
    Bạn muốn gì, nay ta mắc bẫy,
    Vì sao muốn thả để ta bay?
  2. Hiển nhiên mọi vật được an lành,
    Bạn nguyện từ đây bỏ sát sinh,
    Mắc bẫy thân ta, tuy thế bạn
    Muốn ta được thả để bay nhanh!

Thọ săn tiếp theo:

  1. Khi người từ bỏ sát quần sinh,
    Nhờ nó, muôn loài thoát hãi kinh,
    Phước đức nào đời sau sẽ đến,
    Việc này, Khổng tước đáp cho mình.

Công chúa:

  1. Nhờ nó muôn loài thoát hãi kinh
    Khi người thề chẳng sát quần sinh,
    Ðời này nó được nhiều ca ngợi,
    Thiên giới, đời sau hưởng phước lành.

Thợ săn:

  1. Nhiều người nói chẳng có Thiên thần,
    Cực lạc, đời này có thể mang;
    Sinh quả dữ lành ngay hiện tại;
    Vì nhiều bậc Thánh đã cho rằng:
    Thi ân là việc đầy ngu xuẩn,
    Vì thế tôi thường đánh bẫy săn
    Chim thú, giờ đây tôi muốn hỏi:
    Lời kia xứng đáng để tin chăng?

Lúc ấy bậc Ðạo Sư quyết định giảng cho người này biết quả thực có đời sau, nên trong lúc ngài đang nằm lủng lẳng ở cuối sợi dây, đầu lộn ngược xuống đất, ngài ngâm vần kệ:

  1. Ðôi vầng nhật nguyệt rõ ràng ràng
    Ði khắp trời cao tỏa sáng quang;
    Người gọi là gì nơi hạ giới,
    Thuộc về cõi khác hoặc trần gian?

Người thợ săn ngâm vần kệ đáp lại:

  1. Rõ ràng nhật nguyệt thấy đôi vầng
    Ði khắp trời cao, tỏa ánh quang;
    Chúng chẳng thuộc về nơi hạ giới,
    Mà về cõi khác: miệng người trần.

Lúc ấy bậc Ðạo Sư bảo gã:

  1. Vậy chúng đều sai lạc cả bầy,
    Những người gian dối nói như vầy!
    Chẳng vì duyên cớ gì đi nữa
    Lại bảo chỉ riêng thế giới này
    Mang nghiệp quả lành hay quả dữ,
    Còn xem bố thí việc ngu thay!

Trong khi bậc Ðạo Sư nói, người thợ săn suy nghĩ rồi ngâm hai vần kệ:

  1. Ðiều này ngài nói quả là chân,
    Sao có người kia lại bảo rằng:
    “Bố thí không mang về kết quả?
    Rằng đây, ngay ở cõi phàm trần.
    Người ta gặt quả lành hay dữ,
    Bố thí là công việc độn đần?”
  2. Cách nào nên sống, phải làm gì?
    Thánh đạo là đâu, phải bước đi?
    Công chúa, xin ngài cho lão biết,
    Pháp môn khổ hạnh phải hành trì,
    Cầu mong lão được chim Công chúa
    Cứu khỏi chim vào địa ngục kia!

Khi nghe vậy, bậc Ðạo Sư suy nghĩ: “Nếu ta giải đáp vấn đề này cho gã, thì cả thế giới này đối với gã thành ra trống rỗng và hư vọng. Lần này ta sẽ nói cho gã biết bản chất của các Thánh giả Bà-la-môn chân chính”. Với ý định trên, ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Người truyền khổ hạnh ở trần gian,
    Chằng ở nhà đâu, đắp áo vàng,
    Sáng sớm đi ra đường khất thực,
    Không đi chiều tối: chính hiền nhân.
  2. Ðúng thời thăm các thiện nhân vầy,
    Bạn sẽ vui lòng, dẫu hỏi ai
    Giải vấn đề, vì chư vị biết
    Cõi trên kia với cõi đời náy.

Khi nói như vậy ngài muốn cho kẻ kia phải biết kinh sợ cảnh giới địa ngục. Còn người ấy đã đạt đến tri kiến viên mãn của một vị Ðộc Giác Phật, vì người ấy đã sống đến độ tri kiến sắp thành thục, như búp hoa sen tròn đầy sung mãn đợi chờ các tia nắng chiếu vào. Trong lúc người thợ săn nghe bài thuyết Pháp của ngài, ngay tại chỗ người ấy đang đứng, người ấy hiểu lập tức mọi yếu tố cấu tạo nên các vật hữu hình (tứ đại), thấu suốt cả ba đặc tính căn bản của chúng (đó là: vô thường, khổ, vô ngã) và thâm nhập tri kiến của một Ðộc Giác phật. Tri kiến trên của vị này cùng với việc giải thoát bậc Ðạo Sư khỏi cái bẫy kia xảy ra cùng một lúc. Vị Ðộc giác Phật, sau khi đã đoạn diệt mọi dục tham của mình, đang đứng trên bờ sinh tử cuối cùng, liền thốt lên cảm thán nguyện trong vần kệ này:

  1. Như rắn lột quăng lớp vỏ tàn,
    Lá khô cây trút lúc xanh dần,
    Hôm nay ta bỏ nghề săn bắn,
    Mãi mãi xa lìa nghiệp thợ săn.

Sau khi thốt lên ý nguyện cao cả của mình, vị ấy suy nghĩ: “Ta vừa được giải thoát khỏi các dây trói buộc của ác dục; song ở nhà ta còn rất nhiều chim đang bị giam cầm, vậy làm thế nào ta giải thoát cho chúng đây?” Vì thế vị ấy hỏi bậc Ðạo Sư:

– Tâu Khổng tước Ðại vương, ta còn giam cầm nhiều chim tại nhà, làm sao ta giải thoát cho chúng được?

Lúc bấy giờ Bồ-tát là bậc toàn tri, có tri kiến tinh thông mọi đường lối và phương tiện hơn cả một vị Ðộc Giác Phật, nên ngài bảo:

– Khi ngài đã phá vỡ sức chi phối của tham dục và thâm nhập tri kiến của một vị Ðộc Giác Phật, nhờ lẽ đó ngài hãy tuyên thệ điều Chân lý, thì trong toàn cõi Diêm phù-đề sẽ không còn sinh vật nào bị giam cầm nữa cả.

Sau đó, vị kia vừa đi vào bằng cánh cửa mà Bồ-tát mở ra như vậy, vừa ngâm vần kệ này tuyên thệ một hành động Chân lý:

  1. Tất cả chim nào ta đã giam
    Trong nhà, ta có đến hàng trăm,
    Nay ta trả cuộc đời cho chúng
    Về tổ, bầy chim được thoát nạn.

Lúc ấy, nhờ hành động Thề nguyền Chân lý kia, dù đã muộn, tất cả bầy chim cũng được thoát cảnh giam cầm, ríu rít líu lo bay về tổ của mình. Cùng lúc ấy, khắp cõi Diêm-phù-đề tất cả mọi sinh vật đã bị bắt đều được thả tự do, không còn con vật nào sót lại trong cảnh giam cầm cả, dù chỉ là con mèo.

Vị Ðộc Giác Phật ấy giơ tay lên vừa xoa trán mình, lập tức các dấu vết của dòng họ cũ biến mất và dấu hiệu của bậc tu hành xuất hiện vào chỗ ấy. Lúc bấy giờ, vị này trông giống như một Trưởng Lão Tỳ kheo đã sáu mươi tuổi, đắp y đầy đủ, mang tám vật cần thiết (bình bát, ba y, đai lưng, dao cạo, cây kim và cái lọc nước), cung kính đảnh lễ chim Công chúa, và đi diễu quanh ngài, thân hướng về phía hữu, rồi bay vụt lên không gian đến tận một hang động trên đỉnh núi Nanda. Chúa chim Công cũng bay ra khỏi cái bẫy, kiếm mồi và trở về chốn ở của mình.

*

Vần kệ cuối cùng do bậc Ðạo Sư ngâm kể chuyện suốt trong bảy năm trời người thợ săn quanh quẩn với chiếc bẫy trong tay và sau đó được giải thoát khỏi khổ đau nhờ chim Công chúa như thế nào:

  1. Thợ săn xuyên suốt khắp rừng cây
    Tìm kiếm chúa Công, bẫy dưới tay,
    Ðã giải thoát đau cho Khổng tước
    Khi vừa bị bắt, giống Ta đây.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất kia đã đắc Thánh quả (A-la-hán).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ta là chim Công chúa kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện lợn rừng của thợ mộc (Tiền thân Taccha-Sùkara)

Lang thang tìm kiếm khắp xa gần…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về hai Trưởng lão.

Người ta đồn rằng khi vua Mah Kosala (Ðai vương xứ Kiều-tát-la) gả con gái cho vua Bimbisàra (Tần-bà-sa), ngài đã chia phần nàng một ngôi làng ở Kàsi để nàng lấy tiền mua dầu thơm tắm gội. Sau khi vua Ajàtasattu (A-xà-thế) sát hại vua cha (Tần-bà-sa), thì vua Pasennadi (Ba-tư-nặc), con của vua Mahà-Kosala phá hủy ngôi làng ấy. Trong các trận chiến xảy ra giữa hai nước về chuyện này, ban đầu chiến thắng thuộc về Ajàtasattu (A-xà-thế). Còn vua Kosala thua trận liền hỏi các vị quân sư:

– Ta lập mưu gì để bắt A-xà-thế được chăng?

Các vị ấy đáp:

– Tâu Ðại vương, Tăng chúng có đại tài về thần chú. Hãy phái sứ giả đến hỏi ý kiến của Tăng chúng tại tinh xá.

Vua đồng ý việc này. Vì thế vua truyền quân hầu tới, bảo họ đi đến đó, ẩn mình ở nơi kín, để nghe lóm câu chuyện giữa Tăng chúng.

Bấy giờ tại Kỳ Viên có một số đại thần của nhiều vua chúa, đã từ giã thế tục xuất gia. Hai người trong đám ấy là hai Trưởng lão, sống trong môt thảo am ở bên ngoài tinh xá, một vị tên là Trưởng lão Dhanuggaha-tissa, vị kia là Trưởng lão Mantidatta. Hai vị đã ngủ suốt đêm, và thức dậy khi vầng đông vừa hé.

Trưởng lão Dhanuggaha-tissa bảo, trong khi nhóm lửa:

– Thưa Hiền giả Tỷ-kheo Datta.

– Thưa vâng, Hiền giả bảo gì?

– Hiền giả đang ngủ chăng?

– Thưa không, tôi không ngủ. Ta phải làm gì bây giờ?

– Này, vua Kosala thật là một kẻ ngu ngốc bẩm sinh, vua ấy chỉ biết một chuyện là ăn cả đống thức ăn tạp nhạp.

– Thưa Hiền giả muốn nói gì thế?

– Vua ấy đã để cho vua Ajàtasattu đánh bại, mà Ajàtasattu có hơn gì con giun trong bụng vua ấy đã chứ?

– Vậy thì vua ấy phải làm gì đâ?

-Này Trưởng lão Datta, Hiền giả phải biết có ba cách bày binh bố trận: bày binh hình Chiếc xe, bày binh hình Bánh xe, và bày binh hình Hoa sen. Chính là cách bày binh hình Chiếc xe ấy, vua kia phải sử dụng để bắt Ajàtasattu. Vua ấy phải bố trí các dũng sĩ hai bên cạnh mình trên đỉnh đồi, rồi dàn đạo binh chính yếu ra trước mặt trận: một khi vua kia lọt vào giữa rồi và vừa nhảy ra vừa hét lớn, thì họ bắt ngay vua kia như cá nằm trong giỏ. Ðó là cách bắt Ajàtasattu đấy.

Cả đám sứ giả này nghe hết mọi chuyện đó và trở về tâu trình với vua mình, vua lập tức đem một đạo quân lớn ra, bắt được Ajàtasattu làm tù binh và trói lại bằng các dây xích xiềng. Sau khi trừng phạt như vậy vài ngày, vua này thả vua kia ra, khuyên không nên làm chuyện như trước nữa, và để an ủi vua Ajàtasattu , vua lại đem chính con gái mình là công chúa Vajirà gả cho vua Ajàtasattu rồi tiễn đưa về nước rất trọng thể.

Giữa Tăng chúng có lời bàn tán chuyện này rất nhiều:

– Ajàtasattu đã bị vua Kosala bắt sống theo lời chỉ dẫn của Trưởng lão Dhanuggaha-tissa.

Tăng chúng cũng đàm luận việc này tại Chánh pháp đường và khi bậc Ðạo Sư đi vào, Ngài hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì. Tăng chúng trình với ngài. Sau đó ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu Dhanuggaha-tissa biểu lộ tài nghệ về chiến lược đâu.

Và ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ có một người thợ mộc sống trong ngôi làng gần cổng thành Ba-la-nại, đi vào rừngđốn củi. Ông tìm được một con Lợn rừng đực rớt xuống hố, liền đem về nhà nuôi nấng và đặt tên là Lợn rừng của Thợ mộc. Con Lợn rừng trở thành tên đầy tớ của ông. Nó nhổ bật cây cối lên bằng chiếc mõm và đem về nhà cho ông, nó buộc cái dây đo đạc quanh mũi nó và kéo lê đi, rồi tìm thấy cái rìu, cái đục, cái vồ ngậm trong miệng.

Khi Lợn rừng khôn lớn, nó thành một con vật lực lưỡng dị thường, người thợ mộc thương yêu nó như con ruột mình, và sợ có ai làm hại nó, nên thả nó vào rùng. Con Lợn rừng suy nghĩ: “Ta không thể sống một mình bơ vơ trong rừng này. Nếu ta kiếm bà con và ở với chúng chẳng hay lắm sao?” Vì thế nó tìm bầy lợn khắp rừng cây, cho đến khi gặp được cả đàn, nó rất vui mừng, liền ngâm ba vần kệ:

  1. Lang thang tìm kiếm khắp xa gần
    Ðồi núi chung quanh, các khóm rừng,
    Thơ thẩn ta đi tìm quyến thuộc,
    Kìa! Ta tìm thấy đám thân bằng!
  2. Ðây, củ quả rừng phong phú sao
    Với kho thực phẩm thật đồi dào!
    Núi đồi khe suối xinh tươi quá,
    Sống ở đây đời đẹp biết bao!
  3. Ta sống đây toàn quyến thuộc thân,
    Hưởng thư nhàn, chẳng phải băn khoăn,
    Cũng không lo lắng và kinh hãi,
    Dù chuyện gì do phía địch quân.

Bầy Lợn rừng kia nghe vần kệ này liền đáp lời qua vần kệ thứ tư:

  1. Cừu địch là đây! Ở chốn nào,
    Xin tìm đường lối ẩn thân vào,
    Nó thường giết hại, này Thợ mộc,
    Lợn đẹp nhất đàn, loại tối cao!

Hỏi:

  1. Kẻ thù các bạn ấy đâu đây?
    Nói thật cho ta, hạnh ngộ thay!
    Kẻ giết họ hàng, ai đó vậy?
    Dù là chưa giết trọn luôn bầy.

Ðáp:

  1. Ðó chính là vua của thú rừng!
    Với răng để cắn, sọc đen vằn,
    Ấy là mãnh thú oai hùng quá,
    Thường giết lợn uu tú nhất đàn!

Hỏi:

  1. Thân thể ta tàn hết lực chăng?
    Thế sao ta lại chẳng nhe răng?
    Nếu ta chung sức thì nhờ vậy
    Ta sẽ thắng ngay chú Cọp vằn!

Ðáp:

  1. Lời nói này nghe tuyệt diệu thay!
    Tượng công, ta thích nói như vầy,
    Ðừng cho chú lợn nào đi trốn,
    Hoặc bị giết sau trận đấu này.

Bấy giờ Lợn rừng của Thợ mộc đã làm cho cả đàn lợn đồng tâm nhất trí, liền nói:

– Khi nào Cọp sẽ đến?

– Hôm nay nó đã đến sớm và bắt mất một con lợn rồi, ngày mai nó lại sẽ đến sớm đấy.

Lợn rừng rất thiện chiến và biết lợi thế để tấn công, vì vậy có thể đạt được chiến thắng. Lợn rừng nhìn quanh tìm một nơi, bảo cả đám ăn uống khi đêm chưa đến, rồi tảng sáng hôm sau nó giải thích cho cả đàn nghe cách giàn binh gồm ba kiểu: đội hình theo Chiếc xe,v.v…

Sau đó, nó giàn binh hình Hoa sen theo cách trên. Ở giữa nó đặt bầy lợn con đang còn bú, chung quanh là mẹ chúng, kế đó là bầy lợn cái không sinh sản, kế nữa là một vòng gồm các lợn mới lớn mập mạp, tiếp đến là bầy Lợn có răng nanh mới nhú, tiếp nữa là bầy lợn có răng nanh đã lớn, cón đám lợn rừng đực già cả ở ngoài cùng. Rồi nó bố trí những tiểu đội chừng mười, hai mươi, ba mươi quân rải rác đây đó. Nó lại bảo chúng đào cho chính nó một cái hố và một hố cho con Cọp rơi vào có hình rổ sàng: giữa hai hố đó có để một dãi đất nhỏ cho nó đứng. Sau đó nó cùng đám lợn đực thiện chiến hùng dũng đi khắp nơi khích lệ cả đàn.

Trong khi nó bận rộn như thế thì mặt trời mọc. Con Cọp vừa ra khỏi vùng thảo am của một nhà khổ hạnh giả danh và xuất hiện trên đỉnh đồi. Bầy lợn rừng kêu to:

– Thưa Chúa công, kẻ thù của ta đã đến.

Lợn rừng bảo:

– Ðừng sợ, hễ nó làm gì, các bạn cứ làm lại hệt như thế.

Con Cọp rùng mình thật mạnh, làm như thể sắp đi, rồi tiểu tiện, bầy lợn cũng làm theo như thế. Con Cọp nhìn bầy lợn rừng và gầm một tiếng thật lớn, bọn chúng cũng làm y như vậy. Nhìn tháiđộ của chúng, con Cọp nghĩ thầm: “Chúng có vẻ thay đổi, hôm nay chúng đối diện ta như một đám kẻ thù trong hàng ngũ chỉnh tề, chắc có một tên thiện chiến nào đó đã tập hợp chúng lại đây; ta không nên đến gần chúng hôm nay”. Vì sợ chết, Cọp cụp đuôi chạy vội về nhà tu hành giả mạo kia và vị này, khi thấy con Cọp đi về tay không, liền ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Cọp thề bỏ giết mọi loài chăng?
    Cọp đã cho muôn vật vạn toàn,
    Chắc hẳn hàm răng không bén nữa,
    Ðàn heo đã gặp, lại xin ăn?

Nghe thế, Cọp ngâm ba vần kệ đáp lời:

  1. Răng của ta không cắn được rồi,
    Sức ta đà kiệt quệ mà thôi,
    Cùng nhau, chúng đứng toàn huynh đệ,
    Vì thế ta phiêu bạt lẻ loi.
  2. Xưa, chúng ngược xuôi, bại tẩu nhanh,
    Tìm hang tháo chạy, phách hồn kinh,
    Nhưng nay chúng rống, vòng vây chặt,
    Vô địch, đấu tranh giáp mặt mình!
  3. Bây giờ chúng thỏa thuận đồng tâm,
    Chúng đã bầu lên một tướng quân,
    Chúng hại thân này khi hiệp lực,
    Nên ta thấy chúng, cũng không cần!

Nghe lời này, nhà tu khổ hạnh giả hiệu đáp lời qua vần kệ sau:

  1. Diều hâu đơn độc giết đàn chim,
    Chiến thắng La thần bởi Ðế thiên,
    Khi mãnh hổ nhìn bầy dã thú,
    Lựa con đẹp nhất, giết êm liền!

Sau đó Cọp ngâm kệ:

  1. Chẳng diều, chẳng hổ, chúa sơn lâm,
    Thiên chủ, làm sao đủ lực thần
    Khống chế cả bầy heo đánh Hổ,
    Họ hàng hiệp lực để tranh hùng!

Nghe vậy, vị tu hành giả hiệu lại ngâm hai vần kệ để thúc giục nó:

  1. Con chim bé bỏng phủ đầy lông,
    Bay nhảy từng đàn lũ thật đông,
    Tụ tập trên cao thành đám lớn,
    Cùng nhau lướt nhẹ khoảng trời không.
  2. Một mình đáp xuống, chú diều hâu,
    Trong lúc cả bầy chúng giỡn nhau,
    Tàn sát chúng ngay như ý muốn,
    Ðó là cách Hổ phải theo mau!

Nói xong, ông còn khuyến khích Cọp thêm:

– Này Cọp chúa, ngài chưa biết oai lực của ngài đâu. Chỉ một tiếng gầm, một bước phóng mình thôi, là ta dám chắc không sống sót đến hai con lợn nữa đấy!

Con Cọp làm theo đúng như vậy.

*

Bạc đạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Với con mắt ác độc thèm ăn,
    Cọp tưởng lời này quả thật chân,
    Can đảm mồm nhe răng nhọn hoắc,
    Nhảy vào đám lợn cũng đầy răng!

Vậy là con Cọp quay trở lại và đứng một lát trên đồi. Bầy lợn rừng báo cho Lợn rừng của Thợ mộc biết rằng con cọp lại đến, Lợn rừng bảo:

– Ðừng sợ!

Lợn trấn an chúng và đến đứng bên bờ giữa hai cái hố. Cọp phóng nhanh về phía chú Lợn rừng. Song lợn rừng lăn quay vào hố đầu tiên. Cọp không kiềm hãm được sức phóng của nó, cũng ngã gọn vào trong cái hố có hình như cái sàn quạt lúa. Lập tức lợn rừng nhảy lên đâm sâu răng nanh vào sườn Cọp thấu tận tim nó ra, nhét nó vào hố bên kia, và kêu to:

– Ðó, cứ ăn thịt tên khốn kiếp đi!

Con lợn nào đến trước được ăn thịt cọp thỏa thê, những con đến sau cứ đi quanh mà hỏi:

– Này, thịt Cọp mùi vị ra sao đó?

Lợn rừng của Thợ mộc nhảy ra khỏi hố nhìn quanh cả bọn và hỏi:

– Nào, các bạn chẳng thích thịt đó sao?

Song bọn kia đáp:

– Tâu Chúa công, Chúa công đã trừ được Cọp, đó mới là một tên, tuy thế còn một tên nữa nguy hiểm gấp mười lần Cọp ấy!

– Xin nói rõ đó là ai thế?

– Một vị tu khổ hạnh giả hiệu thường ăn thịt mà Cọp kia vẫn đem đến.

– Vậy thì ta sẽ đi bắt nó mau lên!

Thế là cả bọn cùng ra cùng đi.

Bấy giờ vị khổ hạnh giả hiệu kia đang trông ngóng ra con đường, chờ mong Cọp đến từng phút. Song vị ấy có thấy gì ngoài bầy lợn rừng đâu!- “Chúng đã giết Cọp rồi, chắc thế, và nay chúng lại đến giết ta!” Vị ấy vội chạy trốn và leo lên một cây sung dại. Bầy lợn rừng báo cho chủ tướng:

– Nó đã leo lên cây rồi!

– Ðược lắm, chúng ta sẽ bắt nó tức thì!

Lợn rừng bảo bầy lợn con ủi đất ra khỏi rễ cây, và bầy lợn cái hút thật nhiều nước trong mõm đem về, cho đến khi đứng trơ trụi tận gốc rễ. Sau đó, lợn rừng bảo bọn kia lui ra rồi chú quỳ xuống lấy răng nanh đâm vào rễ cây, chú cắt ngang cả rễ như cái rìu vậy, cây liền ngã xuống song người kia chẳng bao giờ đặt chân xuống đất được, vì đã bị chúng xé tan từng mảnh mà ăn thịt trên đường về.

Vừa chứng kiến việc kỳ diệu hy hữu này, vị Thần cây vừa ngâm kệ:

  1. Bạn bè hiệp lực tựa cây rừng
    Ðó thật là quang cảnh đáng mừng,
    Bầy lợn hợp quần, làm nhiệm vụ
    Giết ngay Cọp chúa trọn thành công.

*

Và bậc Ðạo Sư ngâm một vần kệ nữa nói về cách cả hai con người và vật này bị tiêu diệt như thế nào:

  1. Bầy lợn thế là đã diệt tan
    Bà-la-môn với Cọp đen vằn,
    Rồi gầm thét, chúng la vang dội
    Trong nỗi lòng vui sướng ngập tràn.

Lần nữa, lợn rừng lại hỏi:

– Thế các bạn còn kẻ thù nào nữa chăng?

– Tâu Chúa công, không.

Sau đó chúng đề nghị làm lễ phong vương quán đãnh cho lợn rừng. Chúng liền đi tìm nước. Khi thấy vỏ ốc mà vị ẩn sĩ giả hiệu ấy dùng để uống, đó là chiếc vỏ sò rất quý với hướng xoắn ốc về phía hữu, chúng liền đổ đầy nước vào vỏ sò, và làm lễ phong vương cho lợn rừng của người Thợ mộc ngay dưới gốc cây sung ấy và tại đó, nước dùng làm lễ quán đảnh được rảy lên đầu lợn rừng. Một ả Lợn cái son trẻ được chúng bầu làm vương phi. Từ đó xuất hiện một phong tục còn thịnh hành mãi cho đến nay, là khi làm lễ tấn phong cho một vị vua, quân thần đặt vua lên ngự trên một chiếc ngai bằng gỗ sung và rảy nước lên một cái vỏ ốc có đường xoắn hướng về phía hữu, đó là một vật rất hiếm và đắt giá, chỉ dùng cho lễ phong vương.

*

Bậc Ðạo Sư cũng giải thích việc này bằng cách ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Bầy heo ở dưới gốc sung rừng
    Ðổ nước thánh đầy để tấn phong
    Chú Lợn rừng con người Thợ mộc,
    Ðồng hô: “Chúa tể của thần dân!”

*

Khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Không đâu, này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Trưởng lão Dhanuggaha-tissa chứng tỏ mình có tài tinh thông chiến lược, mà trước kia cũng vậy.

Cùng với những lời này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là vị khổ hạnh giả danh, Dhanuggatta-tissa là Lợn rừng của thợ mộc và Ta chính là thần cây.

-ooOoo-

  1. Chuyện vị đại thương nhân (Tiền thân Mahà-Vànija)

Từ nhiều quốc độ, các thuơng nhân…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một đám thương nhân sống ở Xá-vệ.

Tương truyền rằng những người này lúc đi buôn bán xa, đã đem lễ vật cúng dường bậc Ðạo Sư và an trú vào Tam quy cùng Ngũ giới. Họ nói:

– Bạch Thế Tôn, nếu chúng con trở về bình an, chúng con sẽ hôn chân đảnh lễ Thế Tôn.

Họ lên đường cùng với năm trăm cỗ xe chất đầy hàng hóa, chẳng bao lâu vào rừng hoang dã, họ chẳng thấy đường nào đi nữa. Bị lạc đường, không nước uống thức ăn, họ băng qua rừng cho đến khi thấy một cây đa khổng lồ có loài rắn ẩn náu, họ liền thả dây cương xe ngựa ra và ngồi xuốngđó. Nhìn lên đám lá, họ thấy chúng sáng loáng như thể thấm nước, còn cành cây như mọng đầy nước làm cho cả bọn suy nghĩ: “Dường như nước đang chảy trong thân cây này. Ta hãy cắt lấy một nhánh trở về hướng Ðông xem sao? Chắc là có nước để uống”.

Một người trèo lên cây chặt một cành, từ đó một dòng nước chảy ra sền sệt như nước trong thân cây thốt nốt, họ lấy nước rửa mặt và uống. Kế đó họ chặt một cành ở hướng nam, từ đó xuất hiện đủ loại cao lương mỹ vị, họ liền ăn uống. Rồi họ chặt một cành ở hướng Tây này, liền hiện ra một đám nữ nhân xinh đẹp trang sức lộng lẫy, họ vui chơi hưởng lạc với đám nữ nhân kia. Cuối cùng họ chặt một nhánh ở hướng Bắc: từ đó rớt tung tóe bảy báu vật, họ lượm lấy chất đầy năm trăm xe ngựa và trở về Xá-vệ.

Tại đó, họ cho người bảo vệ tài vật rất cẩn thận. Rồi tay mang vòng hoa, hương liệu đủ loại, họ đi đên Kỳ Viên đảnh lễ bậc Ðạo Sư và cúng dường Ngài xong, liền ngồi xuống một bên. Ngày hôm ấy, họ nghe thuyết Pháp và hôm sau họ đem dâng lễ vật rất hào phóng, mà lại khước từ công đức kia. Họ thưa:

– Bạch Thế Tôn, công đức của lễ vật này chúng con xin nhường lại hồi hướng về vị Thần cây đã ban cho chúng con tất cả tài vật đó.

Khi cơm nước xong, bậc Ðạo Sư hỏi:

Các ông muốn hồi hướng công đức này cho Thần cây nào?

Các thương nhân trình đức Như Lai việc bọn họ đã được cây đa cho kho báu như thế nào , bậc Ðạo Sư bảo:

– Các ông đã nhận được kho báu vật ấy vì cách sống tiết độ của các ông và các ông không buông mình cho dục lạc chi phối; song ngày xưa, có những người không tiết dục, và bị dục tham chi phối, nên chúng mất cả tài sản lẫn tính mạng.

Rồi theo lời thỉnh cầu của bọn kia, Ngài kể cho họ nghe một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, gần bên thành Ba-la-nại cũng có chính khu rừng hoang này cùng cây đa này. Một đám thương nhân đi lạc đường và chợt thấy cây đa ấy.

Với Trí tuệ Viên mãn của ngài, bậc Ðạo Sư giải thích vấn đề qua các vần kệ sau:

  1. Từ nhiều quốc độ, các thương nhân
    Ðến họp cùng nhau cả một đoàn,
    Bầu chọn trưởng đoàn và thẳng tiến
    Lên đường tìm kiếm một kho tàng.
  2. Ðoàn lữ hành kia thiếu thức ăn
    Ðến rừng khô cháy nắng oi nồng,
    Chợt nhìn thấy gốc đa hùng vĩ,
    Với bóng cây che mát dịu lòng.
  3. Thế rồi dưới tán là cây che,
    Cả bọn thương nhân thảy dựa kề,
    Lý luận như vầy vì ám độn,
    Nghèo nàn trí tuệ, hóa u mê:
  4. “Cây này đầy ẩm ướt bên trong
    Từ đó hình như nước có dòng,
    Ta hãy chặt từ cây một nhánh,
    Cành nào đã mọc hướng về Ðông”.
  5. Cành kia được chặt, nước tuôn dòng,
    Từng giọt tinh nguyên, thật sáng trong,
    Cả bọn thương nhân cùng tắm rửa,
    Uống cho đến lúc thỏa thuê lòng.
  6. Lại vì trí tuệ chúng nghèo nàn
    Vì sự ngu si đã cản ngăn,
    Chúng bảo: “Phía Nam còn một nhánh,
    Chúng ta hãy đến cắt nhanh chân”.
  7. Cành này vừa chặt xuống liền mang
    Lúa gạo, thức ăn cứ chảy tràn,
    Cháo đặc, nghệ gừng, cùng xúp đậu
    Và nhiều thức ăn khác thật vô vàn.
  8. Bọn thương nhân uống uống ăn ăn,
    Chúng nhét vào đầy bụng thật căng,
    Rồi bảo với lòng đầy ám độn
    Và vì trí tuệ quá nghèo nàn:
  9. “Mau lên các bạn phú thương này,
    Ta hãy cắt cành lá phía Tây”,
    Mỹ nữ cả bầy ùa tứ phía,
    Xiêm y lộng lẫy diễm kiều thay!
  10. Kìa! Xiêm y có đủ muôn màu,
    Lủng lẳng vòng vàng với bảo châu,
    Trong số cả trăm người mỗi một,
    Mỗi chàng chiếm một gái xinh sao!
  11. Cùng đứng bên nhau cả bọn này
    Quây quần dưới bóng mát tàn cây,
    Ðám thương nhân thảy đều vào giữa,
    Ðùa giỡn bày trò thích thú thay!
  12. Lại vì trí tuệ chúng nghèo nàn,
    Vì sự ngu si đã cản ngăn
    Chúng bảo: “Bắc phương còn một nhánh
    Chúng ta hãy chặt xuống lìa thân”.
  13. Khi cành hướng Bắc chặt vừa xong,
    Vàng bỗng tuôn ra cả một dòng,
    Bạc chảy đầy tay và thảm quý,
    Bào ngọc, trân châu nói chẳng cùng.
  14. Trang phục Ba-la-nại mượt mà,
    Chăn màn dày mỏng thực xa hoa,
    Thương nhân lúc ấy liền hành sự
    Cuộn hết thành bao lớp lụa là.
  15. Cũng vì ngu muội với si mê,
    Chúng lại bảo nhau, như trước kia:
    “Ta hãy chặt cây từ gốc rễ,
    Chắc càng thâu của cải tràn trề”.
  16. Kìa vội đứng lên, vị trưởng đoàn
    Cúi đầu cung kính, lại thưa rằng:
    “Cây đa làm hại gì chư vị,
    Mong ước trời cho hưởng phước phần!
  17. Cành hướng Ðông cho nước chảy tràn,
    Cành Nam cho thực phẩm ta ăn
    Cành Tây cho các nàng kiều nữ,
    Cành Bắc cho tơ lụa bạc vàng,
    Cây đó hại gì cho quý vị,
    Cầu chư vị hưởng phước trời ban!
  18. Cây này cho bóng mát an nhàn,
    Nằm nghỉ, ngồi chơi, những lúc cần,
    Không được phá tan cành đổ hết,
    Hành vi bừa bãi thực hung tàn!”
  19. Song ngài chỉ một, chúng từng bầy,
    Tiếng nói ngài sao cản chúng đây:
    Chúng nện những dao rìu sắc bén
    Vào phần gốc để đốn thân cây.

Lúc ấy, Linh xà vương thấy bọn chúng đến gần gốc để đốn ngã cây, liền nghĩ thầm: “Ta đã cho bọn này nước để uống khi khát, lại cho thức ăn thần tiên, bạc chất đầy năm trăm xe, mà giờ đây chúng bảo nhau hãy chặt cây đến tận gốc rễ. Chúng thật tham lam vô độ, và trừ vị trưởng đoàn ra, chúng đều phải chết!” Thế là Rắn chúa tập hợp quân đội Rắn ngay:

– Ta truyền thật nhiều quân sĩ hãy mang giáp bào và đứng ra dàn trận, thật nhiều xạ thủ hãy mang cung, kiếm và mộc che thân sẵn sàng chiến đấu.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Rắn mặc giáp bào đủ bách quân,
    Ðứng lên cùng giữ vững sa trường,
    Ba trăm xạ thủ, sáu ngàn nữa
    Trang bị mộc khiên với kiếm thần.

*

Vần kệ sau đây do Rắn chúa ngâm:

  1. Bắn hạ bọn kia, trói chặt mau,
    Chẳng tha mạng sống một tên nào,
    Ðốt thành tro bụi trừ đoàn trưởng,
    Như thế hoàn thành việc đã giao.

Bầy Rắn thần làm đúng như vậy. Sau đó chúng chất đầy các tấm thảm từ cành phương Bắc và mọi vật kia lên năm trăm chiếc xe, rồi di chuyển đoàn xe và vị trưởng đoàn lữ hành về Ba-la-nại, cất hết hàng hóa vào nhà ngài và trở về nơi trú ngụ của loài Rắn.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chứng kiến việc này, Ngài ngâm vần kệ khuyên giáo:

  1. Vậy trí nhân nên thấy thiện hành,
    Chẳng bao giờ để bản tâm thành
    Tôi đòi nô lệ lòng tham dục,
    Phá vỡ mục tiêu đối thủ mình.
  2. Bậc trí khi xem việc ác làm
    Khổ đau bắt rễ tự lòng tham,
    Ðoạn trừ tham dục và dây trói,
    Phát nguyện sống đời thanh tịnh tâm.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa các thương nhân bị dục tham trấn áp, nên đã bị hủy diệt tàn khốc, vậy các ông đừng chìu theo lửa dục.

Rồi Ngài thuyết giảng các Sự Thật. Bấy giờ vào lúc kết thúc các Sự Thật, các thương nhân kia đãđược an trú vào Sơ quả Dự Lưu. Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Linh-Xà vương, và Ta là vị Trưởng đoàn lữ hành.

-ooOoo-

  1. Chuyện đại vương Sàdhìna (Tiền thân Sàdhìna)

Việc lạ trên trần đã được xem…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một đám nam cư sĩ giữ hạnh nguyện Trai giới.

Nhân dịp này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này, các cư sĩ, các trí nhân ngày xưa, nhờ công đức hành trì hạnh nguyện Trai giới mà đã thân hành lên cõi trời và an trú ở đó thật lâu dài.

Rồi theo lời thỉnh cầu của hội chúng, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, vua Sàdhìna ở thành Mithilà, cai trị rất đúng pháp. Tại bốn cổng thành, giữa kinh thành cùng cửa cung thất, ngài đều ra lệnh xây sáu bố thí đường, và công đức bố thí của ngài làm chấn động khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ). Mỗi ngày, ngài bố thí sáu trăm ngàn đồng tiền: ngài giữ Ngũ giới, hành trì hạnh nguyện các ngày Bồ-tát, còn dân trong kinh thành cũng theo lời khuyến cáo của ngài bố thí và làm thiện sự, nên lúc mạng chung đều tái sinh cõi Thiên.

Các vị Thiên tử khi ngồi tụ họp tại Thiện Pháp đường của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ, đồng tán thán đời sống đạo hạnh và công đức của vua Sàdhìna. Lời đồn đại về vua này khiến các Thiên thần khác ao ước được gặp mặt ngài. Ðế Thích Thiên chủ biết được tâm tư của các vị liền nói:

– Các hiền hữu ước ao diện kiến vua Sàdhìna phải chăng?

Các vị đồng thanh đáp phải, Thiên chủ ra lệnh cho thần Màtali:

– Khanh hãy đến điện Vejayanta (Tối thắng) của trẫm, thắng ngựa vào thiên xa và đi đón vua Sàdhìna lên đây.

Vị kia tuân lệnh và đi thắng ngựa vào thiên xa để xuống vương quốc Videha.

Ðó là một ngày trăng tròn. Vào lúc dân chúng dùng cơm chiều xong, đang ngồi nhàn nhã trước cửa nhà, thần Màtali lái thiên xa song hành bên cạnh vầng trăng đỏ. Dân chúng đồng reo lớn:

– Xem kìa, có hai mặt trăng trên trời!

Nhưng khi họ thấy thiên xa vượt qua mặt trăng và tiến về phía hạ giới, họ lại kêu lên:

– Không phải mặt trăng, mà là chiếc xe, hình như có vị Thiên tử nào đó. Ngài đang đem chiếc thiên xa này với cả đoàn ngựa thuần chủng, những linh vật ở trong trí tưởng tượng , vậy xe đến đón ai đây? Há không phải là để đón đức vua của ta sao? Phải lắm, đức vua của ta thật là một minh quân chân chánh!

Trong nỗi vua mừng tột độ, họ chắp tay cung kính vái chào và đứng lên ngâm vần kệ đầu:

  1. Việc lạ trên trần đã được xem
    Làm cho dựng đứng tóc người lên:
    Vì mời Ðại đế Vi-đề quốc,
    Phái xuống thiên xa tự cõi thiên.

Thiên sứ Màtali lái thiên xa xuống dần, trong lúc dân chúng chiêm bái với vòng hoa và hương liệu, vị thần này lái ba vòng kinh thành hướng về phía hữu. Sau đó vị ấy tiến đến cung môn, dừng xe lại và đứng yên trước cửa sổ phía tây, tỏ ý muốn đi lên. Lúc bấy giờ là ngày vua đích thân quan sát các bố thí đường, và đã ra lệnh cho đám cận thần phân chia ra sao. Khi xong việc, ngài phát nguyện ngày Trai giới, và cả ngày cứ trôi qua như vậy. Ngay lúc ấy, ngài đang ngồi trên một chiếc ngai lộng lẫy, hướng ra cửa sổ phía đông, với đám triều thần vây quanh, ngài thuyết giảng về lẽ chân chánh và công bình. Chính vào thời điểm này, Màtali đến mời đức vua lên ngự thiên xa, và khi đã xong xuôi, thần cùng ra đi với ngài.

*

Bậc Đạo Sư ngâm các vần kệ sau đây để giải thích vấn đề này:

  1. Thiên sứ Mà-ta-li đại cường,
    Vị thần điều ngự ấy vừa mang
    Lời truyền đến tận Vi-đề quốc
    Ngay tại kinh thành triệu quốc vương:
  2. “Xin tấu Ðại vương, bậc Thánh quân,
    Ngự trên xa giá để theo thần,
    In-dra Thiên chủ cùng Thiên chúng
    Tam thập tam thiên giới lẫy lừng,
    Chư vị giờ này đang hội họp
    Và đồng mơ tưởng đến hiền nhân”.
  3. Ðại đế Sà-dhì ngước mắt lên,
    Và liền ngự giá chiếc xe tiên,
    Thần xa được cả ngàn thiên mã
    Ðồng kéo ngài lên đến cõi thiên.
  4. Chư Thiên chiêm ngưỡng đấng anh quân,
    Thượng khách lên chơi, vội đón mừng:
    “Ðại đế!” đồng hô lời chúc tụng,
    “Thật là hạnh ngộ cuộc tao phùng!
    Trên ngai vàng cạnh ngai Thiên chủ
    An tọa xin mời đấng thánh nhân!”
  5. Sak-ka chào đón chúa Vi-đề
    Ngự trị kinh thành tại Mỹ-thi,
    Thiên chủ ban ngài ngàn lạc thú,
    Thỉnh ngài an tọa thật uy nghi:
  6. “Giữa các đế vương ở cõi trần
    Chào mừng Thánh thượng đến thiên cung,
    Ðại vương an trú cùng Thiên chúng,
    Ðược phỉ ước nguyền đúng lệnh ban,
    Xin hưởng lạc thiên đường bất tận
    Trên trời Ðao lợi, cảnh thiên đàng!”

Ðế Thích Thiên chủ ban tặng ngài một nửa kinh thành của chư Thiên rộng mười ngàn dặm, nửa số hai mươi lăm triệu Thiên nữ và nửa Cung điện Vejayanta. Ngài ở đó hưởng thọ cực lạc trong suốt bảy trăm năm theo ước tính của loài người.

Rồi khi phước đức của ngài đã tận, theo cách ấy ở thiên giới, nỗi bất mãn khởi lên trong lòng, ngài liền ngâm kệ nói lời này với Ðế Thích Thiên chủ:

  1. Ta hưởng, từ khi đến ngọc đường,
    Ðàn ca, vũ khúc, nhạc du dương.
    Nay ta chẳng thấy niềm hoan lạc,
    Lâm mạng chung thời đến phải chăng?
    Hay chính là vì lòng ám độn,
    Làm ta sợ hãi, tấu Thiên hoàng?

Lúc ấy Thiên chủ Ðế Thích đáp lời ngài:

  1. Ðời ngài chưa hết, chẳng lâm chung,
    Ngài chẳng cuồng si, hỡi Ðại nhân,
    Song thiện nghiệp ngài nay đã tận,
    Giờ công đức trước hưởng xong phần.
  2. Song cứ ở đây, hỡi Ðại vương!
    Bởi quyền tối thượng của ta ban:
    Hưởng đi thiên lạc cùng Thiên chúng
    Tam thập tam thiên giới trú an.

Tuy nhiên bậc Ðạo Sư chối từ và đáp lại Thiên chủ:

  1. Như lúc thiên xa đã giáng trần,
    Hoặc khi phước lộc được dành phần,
    Chính là thọ hưởng niềm thiên lạc
    Do bởi bàn tay khác thưởng ân.
  2. Ta chẳng cầu mong nhận phước phần
    Do bàn tay kẻ khác thi ân,
    Chính nhờ thiện nghiệp phần ta tạo,
    Thiện sự riêng ta đứng vững chân.
  3. Ta sẽ ra đi tạo việc lành,
    Phát ban cả nước, khắp quần sinh,
    Tuân theo giới hạnh và tu tập,
    Ðiều phục thân tâm, quyết thực hành,
    Người biết làm vầy là hạnh phúc,
    Chẳng ăn năn hối tiếc phần mình.

Nghe thế, Ðế Thích Thiên chủ liền ra lệnh cho Màtali:

– Này hiền khanh, hãy đi đưa vua Sadhìna về lại Mithilà và đặt đức vua xuống vườn ngự uyển.

Vị Thiên thần tuân lệnh.

Ðức vua đến nơi, bước đi thơ thẩn trong vườn ngự; người giữ vườn trông thấy ngài, và sau khi hỏi ngài là ai, liền mang tin ấy về tâu trình với đương kim hoàng đế Nàrada. Khi vua này biết tin tiênđế trở về trần, liền ra lệnh cho người giữ vườn:

– Ngươi cứ đi trước và sắp đặt hai chiếc ngai, một dành cho tiên đế và một dành cho trẫm.

Người ấy tuân lệnh. Sau đó đức vua Sadhìna hỏi:

– Ngươi soạn hai chiếc ngai vàng cho ai đây?

– Muôn tâu, một chiếc dành cho Hoàng thượng và một chiếc dành cho đức vua của chúng thần.

Lúc ấy Đại đế Sàdhìna bảo:

– Còn ai khác dám ngồi trước mặt ta chứ?

Rồi ngài ngự lên một chiếc ngai và đặt hai chân lên chiếc kia! Vua Nàrada đến gần, sau khi đảnh lễ dưới chân ngài, liền ngồi xuống một bên. Bấy giờ theo truyền thuyết, vua này là vị vua thứ bảy trong dòng dõi chính thống của ngài, và thời ấy, tuổi thọ của con người chỉ là một trăm năm. Còn bậc Đại sĩ đã trường thọ như thế là do công đức thiện nghiệp của ngài. Ngài cầm lấy tay vua Nàrada dạo bước quanh vườn ngự và ngâm ba vần kệ này:

  1. Lãnh thổ là đây, tổ quốc ta
    Máng tròn dẫn nước suối băng qua
    Cỏ xanh bao phủ đầy nơi chốn
    Khe nhỏ, lạch ngòi vẫn chảy ra
  2. Các hồ diễm lệ lắng nghe vang
    Khi đám hồng nga réo gọi đàn
    Bao đóa sen xanh chen lẫn trắng,
    Cây hình đá biến mọc lan tràn
    Song người yêu cánh cùng ta trước,
    Nay ở đâu, lòng ta muốn hỏi han?
  3. Đây là điền thổ ruộng cùng nương,
    Đồng lúa lạc viên , chính cố hương,
    Song chẳng thấy đâu người quyến thuộc,
    Tưởng chừng sa mạc quá thê lương!

Nghe vậy vua Nàrada đáp:

– Tâu Hoàng tổ phụ, từ khi tổ phụ thăng thiên giới đến nay đã bẩy trăm năm trôi qua, giờ đây hoàng tôn là cháu bẩy đời của tổ phụ, các vị quan cận thần của tổ phụ đều đã hóa ra người thiên cổ. Nhưng đây chính là vương quốc của tổ phụ, hoàng tôn xin tổ phụ nhận lại đất nước.

Đức vua đáp:

– Này Hoàng tôn Nàrada, ta không đến đây để rồi lên làm vua nữa đâu, mà ta đến đây để làm thiện sự và ta sẽ làm thiện sự thôi.

Rồi ngài ngâm kệ như sau:

  1. Ta đã nhìn cung điện cõi trời
    Huy hoàng chiếu sáng khắp muôn nơi,
    Chư Thiên ở cõi trời Đao Lợi
    Thiên chủ cùng ta diện kiến rồi.
  2. Ta hưởng bao hoan lạc tuyệt trần,
    Ngôi nhà thiên giới để riêng phần
    Tràn đầy tất cả điều tâm nguyện
    Tam thập tam thiên của Ngọc Hoàng.
  3. Ta ngắm xong và đã tái hồi
    Để thi hành thiện sự mà thôi
    Và ta sẽ sống đời thanh tịnh,
    Ta chẳng màng gì đến chiếc ngôi.
  4. Đạo này không dẫn đến đau buồn,
    Chánh Đạo mà chư Phật chỉ đường;
    Đường đó giờ đây ta tiến bước
    Là đường bậc Thánh vẫn theo luôn.

Bậc đại sĩ đã nói như vậy với Trí tuệ Tối thắng của ngài và làm cô đọng tất cả ý nghĩ qua các vần kệ trên. Sau đó vua Nàrada, một lần nữa lại thưa với ngài:

– Xin Hoàng tổ phụ nhận lấy quyền cai trị vương quốc.

Và ngài đáp:

– Này Hoàng tôn yêu quý, ta không thiết gì vương vị đâu, song ta lại muốn phân phát trong vòng bẩy ngày tất cả tài vật cần được bố thí trong bảy năm qua.

Vua Nàrada lãnh ý, và làm như ngài yêu cầu, truyền chuẩn bị vô số của cải để phân phát rộng rãi.Đức tiên đế bố thí trong bẩy ngày xong xuôi, vào ngày thứ bảy ngài băng hà và tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba.

*

Khi bậc Đạo sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Việc hành trì hạnh nguyện ngày Trai giới là bổn phận cần phải giữ gìn.

Và Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy giờ vào lúc kết thúc các Sự Thật, một số nam cư sĩ đắc Sơ quả Dự Lưu, một số khác đắc Nhị quả Nhất Lai. Và Ngài nhận diện Tiền thân:

-Vào thời ấy, Ànanda là vua Nàrada, Anuruñha (A Na Luật) là Sakha (Đế Thích) Thiên chủ và Ta chính là vua Sàdhina.

-ooOoo-

  1. Chuyện Mười Hạng Bà-La-Môn ( Tiền thân Dasa-Bràhmana)

Đại Đế Yud-dhi thật chánh chân …..

Chuyện này Bậc Đại Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một lễ vật cúng dường tối thượng.

Truyện này đã được giải thích trong số 424. Tiền thân Aditta của Chương VII. Ta biết rằng nhà vua trong lúc thực hiện việc cúng dường này đã quan sát kỹ lưỡng năm trăm vị Tỳ kheo với đức Phật là vị thượng thủ và đã dâng lễ vật lên các bậc Thánh cao trọng nhất trong Tăng chúng.

Sau đó Tăng chúng ngồi trong Chánh pháp đường và nói về công đức của vua ấy như sau:

– Này Hiền hữu Tỳ kheo, vị vua này trong lúc dâng lễ vật tối thượng đã cúng dường các vị đủ đạo cao đức trọng.

Bậc Đạo Sư bước vào và hỏi các vị bàn luận gì trong lúc ngồi tại đây, các vị trình với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, thật không kỳ diệu gì ngày nay vua Kosala đã là đệ tử của một Đạo Sư như ta, lại cúng dường có phân biệt rõ ràng. Ngay các bậc hiền trí xưa kia, trước khi đức Phật xuất hiện ở đời, cũng đã cúng dường có phân biệt.

Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện qúa khứ.

*

Một thuở nọ trong quốc vương Kuru và kinh thành Indapatta, có vua Koravya cai trị, thuộc dòng dõi Yuddhitthila. Còn quốc sư về thế sự cũng như thánh sự của vua là vị đại thần mệnh danh Vidhùra (bậc Hiền Trí). Vua thực hành đại bố thí làm chấn động khắp cõi Diêm phù đề (Ấn Độ), nhưng trong số những người thọ hưởng các thí vật này không có ai là người giữ đúng Ngũ giới, tất cả bọn chúng đều là độc ác trên phương diện làm người, nên việc bố thí của vua không làm tâm ngài thỏa mãn. Ngài suy nghĩ:” Kết quả của việc cúng dường có phân biệt thật là vĩ đại thay”. Và với lòng ước ao cúng dường các bậc có đức độ cao cả, ngài quyết định hỏi ý kiến bậc hiền nhân Vidhùra. Vì thế khi quốc sư Vidhùra vào chầu vua, ngài mời vị này ngồi xuống và đưa vấn đề ra hỏi vị này.

*

Để trả lời việc này, bậc Đạo Sư ngâm vần kệ đầu. Phần sau là phần vấn đáp giữa nhà vua và Vidhùra:

1- Chúa thượng Yu-dhi thật chánh chân
Một hôm hỏi ý bậc hiền nhân:
“Vi-dhù, tìm các La môn thiện
Những bậc hiền nhân trí tuệ tràn.

2- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng như vầy, thiện hữu,
Để ngày sau hái qủa an toàn.

Trí giả Vidhùra nói:

3- Thật khó tìm Hiền thánh thế này
La-môn trí đức đủ như vầy,
Những người giữ trọn tâm ly dục
Để thọ hưởng phần phẩm thực đầy.

4- Giữa đời mười loại Bà la môn,
Xin hãy lắng nghe, tấu Đại Vương,
Trong lúc hạ thần phân biệt họ,
Thần xin nói rõ họ hoàn toàn:

5- Vài người mang túi xách trên lưng,
Củ, rễ chất đầy buộc thật căng,
Những kẻ góp gom cây cỏ thuốc
Tắm mình, tụng chú thuật, bùa thần.

6-Bọn họ như thầy thuốc, Đại vương,
Cũng đều được gọi Bà la môn
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

7- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vidhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

8- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí Giả Vidhùra nói:

9- Bọn người đi trước lại mang chuông,
Trong lúc vừa đi họ réo vang,
Họ biết lái xe đầy khéo léo,
Thư từ thông điệp họ đều mang

10-Họ chẳng khác nào đám dịch nhân,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

11- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

12- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

13- Với bình nước uống gậy cong cong,
Họ chạy theo kịp quốc vương,
Qua các thôn làng cùng thị trấn,
Trong khi theo đuổi lại ca rằng:
” Ta không đi nữa, dù rừng, phố,
Cho đến khi Hoàng thượng cúng dường”.

14- Họ quấy rầy các thuế nhân,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

15- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

16- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

17- Móng dài, lông rậm cả tay chân,
Tóc bện và hôi thối miệng răng,
Bụi bặm bám đầy người bẩn thỉu,
Họ đi đường tựa bọn xin ăn.

18- Là bọn tiều phu! Tấu Đại vương!
Cũng đều được gọi Bà la môn
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

19- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

20- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

21- Am-lạc, Vil-va, đào đỏ hồng,
La-buj, xoài chín, vật chùi răng,
Thuốc cao, ván, điếu, đường, ong mật,
Nhiều thứ còn kia, họ bán hàng.

22- Chúa thượng, khác nào bọn lái buôn,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

23- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

24- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

25- Những người làm ruộng hoặc đi buôn
Nuôi lắm đàn dê ở trại chuồng,
Trao đổi cưới xin làm sính lễ,
Bán bầy con gái, để mua vàng.

26- Giống bọn con lai đám tiện dân,
Cũng đều được gọi Bà La Môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

27- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

28- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

29- Bọn thầy cúng tế, đoán điềm hên,
Thiến, lựa bò, dê để lấy tiền,
Dân chúng mời về, thường ở lại,
Có đầy thực phẩm được dâng lên,
Nơi kia bò cái, bê, bò thiến,
Dê, lợn đều đem giết lắm phen.

30- Bọn họ như hàng thịt hạ tầng,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

31- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

32- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

33- Bọn mang gươm, giáo, mộc che mình,
Tay lại cầm rìu tựa chiến binh,
Họ đứng trước đoàn thương khách nọ,
Sẵn sàng hướng dẫn đám du hành.

34- Như mục phu, quân cướp bạo gan,
Cũng đều được gọi Bà la môn ,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

35- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

36- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

37- Có bọn xây lều đặt bẫy giăng,
Bất kỳ nơi chốn ở trong rừng,
Bắt loại tôm, cá, cùng rùa, trạnh,
Mèo, thỏ, cắc kè, mọi thú hoang.

38- Tâu Đại vương, đây chính thợ săn,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

39- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

40-Chư vị đoạn tham dục, ác hạnh,
Để dùng thực phẩm của triều đình,
Trẫm nguyện dâng cúng chư hiền giả,
Để chính mình sau gặt quả lành.

Trí giả Vi-dhù nói:

41- Lại có bọn ham chuộng bạc vàng,
Chịu nằm xuống dưới chiếu vương sang,
Để vua tắm rửa trên đầu họ,
Trong lễ So-ma rảy tế đàn.

42- Thợ cạo khác gì? Tấu Đại vương,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

43-Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

44- Chư vị đoạn tham dục, ác hành,
Để dùng thực phẩm của triều đình,
Trẫm nguyện dâng cúng người như vậy,
Để chính mình sau gặt quả lành.

Như vậy sau khi miêu tả các loại Bà la môn chỉ mang hư danh mà thôi, bậc Trí giả nói tiếp để miêu tả các vị Bà la môn theo đúng ý nghĩa cao cả nhất trong hai vần kệ:

45-Song các La môn , Tấu Đại vương,
Những người đại trí tuệ, hiền lương,
Đoạn trừ mọi ác hạnh, tham dục,
Để thọ thức ăn được cúng dường.

46- Chư vị chỉ dùng một bữa ăn,
Chẳng bao giờ đụng rượu men nồng,
Đại vương biết rõ người như vậy,
Ta có nên tìm các vị không?

Khi vua nghe các lời này, liền hỏi:

– Này hiền hữu Vidhùra, các vị Bà la môn này xứng đáng cúng dường tối thượng ở đời, hiện nay các vị đang ở đâu?

– Tâu Đại vương, ở trên dãy Tuyết sơn xa xôi kia, trong hang núi Nanda.

– Vậy thì, này bậc trí giả, hãy dùng uy lực của ngài, mang các vị Bà la môn ấy đến ngay đây cho trẫm.

Rồi trong nỗi hân hoan tột độ, vua ngâm vần kệ này:

47- Quốc sư đem hết các La môn,
Thanh tịnh tràn đầy, trí chánh chơn,
Mời các Ngài, ngay Hiền sĩ hỡi,
Chần chờ gì nữa? Hãy lên đường!

Bậc Đại sĩ chấp thuận làm theo lời vua yêu cầu, và nói thêm:

– Bây giờ, tâu Đại vương, hãy truyền lệnh cho đánh trống khắp kinh thành, loan báo rằng toàn thành phải trang hoàng rực rỡ, toàn dân phải bố thí, và hành trì ngày Trai giới, nguyện giữ mình đức độ, và chính Đại vương cùng cả triều đình cùng phát nguyện giữ ngày Trai giới.

Còn chính ngài ngay từ tảng sáng, sau khi điểm tâm xong, liền phát nguyện giữ ngày Trai giới,đến chiều, ngài bảo đem đến một giỏ hoa lài. Rồi cùng vua, đảnh lễ với năm phần thân thể sát đất và khi ngài vừa nhớ lại những công đức của các vị Độc Giác Phật, ngài vừa khấn vái lời này:

– Kính thỉnh năm trăm đức Độc Giác Phật đang trú trong vùng Bắc Tuyết Sơn, hang núi Nanda, ngày mai xin các Ngài hạ cố hưởng thọ thực phẩm của triều dình.

Ngài thả tám nắm tay đầy hoa lên không gian, lập tức các hoa này rơi trên năm trăm vị Độc Giác Phật, vào đúng nơi các ngài đang an trú. Các ngài ấy suy xét và thấy ngay sự việc kia, liền nhận lời mời và bảo nhau:

– Này các Tôn Giả, chúng ta được vị hiền nhân Vidhùra mời đến, vị này không phải người phàm tục đâu, ngài có hạt giống Phật trong mình, nên ngay trong kiếp này, ngài sẽ thành Phật. Chúng ta hãy tỏ lòng kính mến đặc biệt với ngài.

Bậc Đại sĩ hiểu các Ngài đã chấp thuận lời mời, bằng chứng là các hoa kia không bay trở lại. Sau đó, ngài bảo:

– Tâu Đại vương, ngày mai các vị Độc Giác Phật sẽ đến, vậy hãy lo cung thỉnh các vị trọng thể và dâng lễ cúng dường.

Ngày hôm sau đức vua đón tiếp các Ngài vô cùng trọng thể, sửa soạn các bảo tọa để các Ngài ngồi trên một cái bệ uy nghi cao cả.

Các vị Độc Giác Phật ở Hồ Anotatta, đợi cho đến lúc cảm thấy đói bụng, liền du hành qua không gian và giáng hạ, ngay sân chầu của hoàng cung. Vua cùng Bồ Tát đầy lòng thành tín, đón lấy các bình bát từ tay các Ngài và thỉnh chư vị đi lên chiếc bệ đài hoa kia, mời an tọa, rảy nước cúng dường lên tay chư vị, rồi phục vụ các Ngài các thực phẩm thượng hạng đủ loại cứng và loại mềm. Sau buổi thọ thực, vua lại mời các Ngài đến ngày hôm sau và cứ thế trong bẩy ngày liền, dâng cúng các Ngài nhiều lễ vật, và vào ngày thứ bẩy vua cúng dường đủ mọi vật thiết. Lúc ấy chư vị nói lời tùy hỷ với vua xong, liền bay qua không gian trở về nơi trú ngụ cũ, còn các vật cúng dường cũng đều bay theo các Ngài.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Đạo Sư bảo:

– Này các Tỳ Kheo, thật chẳng kỳ lạ gì việc vua Kosala nay là đệ tử của Ta đã cúng dường Ta lễ vật tối thượng, vì các bậc trí nhân ngày xưa ở thời chưa có đức Phật, cũng đã làm như thế.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda là vua, và bậc Trí giả Vidhùra chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện cúng thực phẩm đúng cấp bậc (Tiền thân Bhikkhà-Parampara)

Ta trông ngài xứng đáng ngôi cao…..

Chuyện này Bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một vị điền chủ.

Người ấy là một tín đồ mộ đạo, thường xuyên tỏ lòng cung kính trọng thể đức Như Lai và Tăng chúng. Một hôm ông suy nghĩ như sau: “Ta thường xuyên tỏ lòng cung kính trọng thể đức Phật là ngôi báu và Tăng chúng là một ngôi báu nữa, bằng cách cúng dường thực phẩm thượng vị và y phục. Nay ta muốn tỏ lòng cung kính trọng thể Pháp Bảo: Song làm cách nào để cúng dường ngôi báu ấy?”

Vì vậy ông đem nhiều vòng hoa thơm và hương liệu, đi về phía Kỳ Viên, đảnh lễ bậc Đạo Sư và hỏi Ngài:

– Bạch Thế Tôn, ước nguyện của con là cúng dường Pháp Bảo, vậy làm sao một người có thể thực hiện việc ấy?

Bậc Đạo Sư đáp:

– Nếu tâm nguyện của ông là cúng dường trọng thể ngôi Pháp Bảo thì ông hãy cúng dường trọng thể cho Ànanda, vị Thủ kho Chánh Pháp (Dhamma-Bhandàgàrika):

– Lành thay! Ông đáp và xin hứa sẽ thực hiện việc ấy.

Ông đi mời Tôn giả Ànanda đến viếng nhà mình, rồi hôm sau rước Tôn giả về nhà với lễ nghi vô cùng huy hoàng trọng thể. Ông mời Tôn giả ngồi trên một bảo tọa lộng lẫy và cúng dường Tôn giả vòng hoa thơm cùng hương liệu rồi thiết đãi đủ loại cao lương mỹ vị, lại dâng loại vải vóc rất sang trọng vừa đủ cho ba y. Tôn giả liền suy nghĩ:”Vinh dự này dành cho Pháp Bảo; nó không thích hợp với ta, mà thích hợp với vị Tướng quân Chánh pháp (Dhamma-Senàpati)”.

Thế là đặt thực phẩm vào bình bát và cầm vải vóc, Tôn giả đem đến tinh xá, tặng lễ vật cho Tôn giả Sàriputta. Tôn giả này cũng nghĩ như vậy: “Vinh dự này dành cho ngôi Pháp Bảo, nó không thích hợp với ta, mà nó chỉ thích hợp duy nhất với bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đấng Pháp vương “. Và Tôn giả dâng nó lên đấng Thập lực. Bậc Đạo Sư thấy không còn ai trên Ngài nữa, nên thọ hưởng thực phẩm và nhận số vải vóc để làm ba y.

Sau đó Tăng chúng bàn luận việc này trong Chánh pháp đường:

– Này các hiền giả Tỳ kheo, thế là vị điền chủ kia muốn tỏ lòng cung kính trọng vọng đối với Chánh pháp nên cúng dường Tôn giả Ànanda là vị Thủ Kho Chánh pháp. Tôn giả này nghĩ mình chưa xứng đáng với lễ vật ấy nên trao lại vị Tướng quân Chánh pháp. Tôn giả này cũng nghĩ mình không xứng đáng nên dâng lên đức Như Lai. Còn đức Như Lai, thấy không còn ai trên Ngài, biết rằng Ngài xứng đáng với lễ vật ấy ở vị trí đấng Pháp vương, nên Ngài đã thọ hưởng thực phẩm và nhận số vải để làm ba y kia. Như vậy thực phẩm cúng dường đã tìm được chủ nhân nhờ đi đến đúng người có quyền thọ hưởng.

Bậc Đạo Sư bước vào hỏi Tăng chúng đang bàn luận gì khi ngồi ở đây. Các vị trình với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu tiên thực phẩm cúng dường đến đúng vào phần của người xứng đáng bằng những cấp bậc tiến lên tuần tự, mà ngày xưa, trước thời đức Phật cũng thế.

Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời, vua Brahmadatta trị vì rất chân chánh tại Ba La Nại, sau khi đã đoạn trừ các ác nghiệp và hành trì Thập vương pháp. Vì thế, tòa án xử kiện của vua trở nên trống rỗng, vua muốn tìm kiếm cho ra lỗi lầm của mình, cứ hỏi han mọi người, bắt đầu với những người ở chung quanh ngài, nhưng không nơi nào, dù trong các hậu cung, trong kinh thành hay các thôn làng lân cận, ngài tìm được nguời nói một lỗi gì cho ngài cả. Sau đó, ngài quyết định đi thăm dò dân chúng vùng quê. Vì thế, sau khi giao quyền trị nước cho các triều thần, ngài đem vị Tế sư đi theo ngài. Hai vị cải trang du hành xuyên qua quốc độ Kàsi; tuy thế, ngài cũng không thấy ai nói về ngài vì một lỗi gì cả.

Cuối cùng , ngài đến một làng ở biên địa, ngồi ở một sảnh đường không có cổng vào. Thời đó, một vị điền chủ của làng ấy là một phú ông giầu có đến tám trăm triệu đồng tiền, đi cùng một đám tùy tùng đông đảo đến một bến tắm, thấy vua ngồi trong sảnh đường kia với thân tướng cao sang và sắc da vàng óng. Ông sinh lòng yêu mến ngài, liền đi vào sảnh đường và bảo:

– Hãy ngồi đây một lát.

Sau đó ông về nhà, bảo soạn sẵn đủ loại thực phẩm thượng vị, rồi trở lại với đám tùy tùng đông đảo mang theo các bình bát đựng thức ăn.

Cùng lúc ấy, một vị tu khổ hạnh từ vùng Tuyết Sơn đi xuống cũng ngồi xuống đó, vị này đã chứng được năm Thắng trí. Và một vị Độc Giác Phật, cũng từ hang núi Nanda hạ sơn đến ngồi đó. Vị điền chủ kia đưa nước cho vua rửa tay rồi dọn một đĩa thức ăn thượng hạng đủ loại gia vị thơm ngon và đặt trước mặt vua. Ngài nhận và trao cho vị Tế sư Bà la môn, vị Tế sư cầm lên trao cho nhà tu khổ hạnh. Nhà tu khổ hạnh bước đến gần vị Độc Giác Phật, tay trái cầm bình đựng thức ăn, tay phải cầm bình nước, trước tiên rót nước cúng dường (như chuyện trước), rồi đặt thức ăn vào bát vị này. Vị ấy liền ăn ngay, không mời ai cùng chia phần với mình hay xin phép gì cả.

Khi bữa xong, vị điền chủ suy nghĩ: “Ta dâng thức ăn lên đức vua, ngài trao cho vị Tế sư, vị Tế sư trao cho vị tu khổ hạnh, vị tu khổ hạnh lại trao cho vị Độc Giác Phật, và vị Độc Giác Phật đã thọ thực ngay mà không xin phép ai nữa. Việc cúng dường này có ý nghĩa gì chăng? Tại sao vị cuối cùng thọ thực và không cần xin phép ai hay nhờ ai cho phép? Ta sẽ hỏi lần lượt các vị này”.

Rồi vị ấy lần lượt đến gần mỗi người, đảnh lễ xong liền nói câu ấy và được các vị trả lời:

Phú ông hỏi:

1- Ta trông ngài xứng đáng ngôi cao,
Ngài đến từ cung điện xứ nào,
Sa mạc vùng này hoang vắng quá,
Dáng hình ngài quá thật thanh tao.

2- Vì mến thương ngài, ta đã dâng,
Cao lương khéo chọn lựa vừa ăn:
Món cơm kia được tài người khéo
Nấu đổ lên trên món thịt hầm.

3- Thực phẩm ngài cầm lại chẳng ăn,
Ngài đem tặng vị Bà la môn,
Lòng đầy cung kính, nay xin hỏi:
Việc mới làm mang ý nghĩa chăng?

Đức vua đáp:

4- Sư trưởng ta đây thật nhiệt thành,
Việc dù lớn nhỏ vẫn thi hành,
Nên ta phải tặng phần cơm cúng,
Xứng đáng Quốc sư, quá thật tình.

Phú ông hỏi:

5- Dù vua cũng trọng Bà la môn
Xin nói, sao ngài lại chẳng ăn,
Một đĩa cao lương tài nấu khéo,
Người đổ đầy trên món thịt ngon?

6- Ngài chẳng hiểu thông nghĩa cúng dường,
Song ngài đem tặng vị hiền nhân,
Với lòng kính trọng, nay xin hỏi,
Việc ấy ngài làm có nghĩa chăng?

Tế sư đáp:

7- Ta có gia đình với vợ con,
Ta thường cư trú tại gia môn,
Dục tham vua chúa ta điều phục,
Tham dục riêng ta vẫn đám hồn.

8- Vói người khổ hạnh, bậc hiền nhân,
Xưa ở trong rừng vẫn trú thân,
Già cả, thực hành theo giáo lý,
Nên ta cầm thực phẩm đem dâng.

Phú ông hỏi:

9- Nay ta xin hỏi bậc hiền nhân,
Ở dưới da ngài lộ rõ gân,
Vói móng mọc dài, đầu tóc rối,
Cái đầu dơ bẩn lẫn hàm răng.

10- Ngài chẳng màng đời sống thế gian,
Hỡi người đơn độc trú rừng hoang,
Tôn sư nay có gì ưu thắng,
Mà phải đem lương thực cúng dâng?

Vị khổ hạnh đáp:

11- Ta đào củ cải, tỏi, hành hoang,
Cỏ, lá, bạc hà, vẫn kiếm luôn,
Nhặt hạt cải đen, rung lúa dại,
Trải ra phơi nắng thật khô dòn.

12- Ngó sen, dược thảo, táo, chà là,
Am-lạc, mật ong, miếng thịt thừa,
Là của ta dành phần kiếm được,
Rồi làm thành món hợp cho ta.

13- Ngài không, lão nấu, lão nhiều hàng,
Ngài chẳng có chi, lão buộc ràng,
Thế sự bao điều, ngài giải thoát,
Món cơm ngài hưởng đúng công bằng.

Phú ông hỏi:

14- Xin hỏi, ngồi kia bậc Trí hiền,
Mọi nguồn dục vọng thảy nằm yên,
Món cơm nấu khéo đầy ngon ngọt,
Có kẻ đem phần thịt đổ lên.

15- Ngài nhận và ngon miệng uống ăn,
Chẳng mời ai đến để chia phần,
Đầy lòng kính trọng, nay xin hỏi:
Việc ấy ngài làm có nghĩa chăng?

Độc Giác Phật đáp

16- Không nấu, cũng không bảo nấu dùm,
Nay không làm hại, trước không làm,
Vị kia biết rõ ta không của,
Ta quyết đoạn trừ mọi dục tham.

17- Tay phải vị kia nắm chiếc bình,
Thức ăn cầm phía trái bên mình,
Cho ta món thịt hầm người đặt,
Trên bát cơm ngon thật tốt lành.

18- Chúng nhiều tài sản, lắm kim ngân,
Bổn phận là đem của phát phân,
Ai bảo người cho cũng thọ hưởng,
Ấy là thù địch, chớ phân vân.

Khi nghe những lời này, vị điền chủ vô cùng hoan hỷ ngâm hai vần kệ cuối cùng:

19- Thật là ta được một duyên may
Hạnh ngộ quân vương ngự tới rày,
Thuở trước ta không hề biết rõ,
Cúng dường mang phước quá tràn đầy.

20- Đế vương với các Bà la môn,
Trị nước mà tâm ác dục tràn,
Các trí nhân tìm cây quả dại,
Bậc tu hành giải thoát lòng tham.

Khi vị Độc Giác Phật thuyết giáo cho vị kia xong, liền trở về cõi của Ngài và vị tu khổ hạnh cũng thế. Còn nhà vua, sau vài ngày ở lại với vị điền chủ, cũng trở về Ba la nại.

*

Khi bậc Đạo sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu tiên thực phẩm đến tay người xứng đáng, mà trước kia cũng vậy.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, người điền chủ đã tôn trọng cúng dường Pháp là người điền chủ trong chuyện này, Ànanda (A -nan) là vua, Sariputta (Xá lợi phất) là Tế sư và Ta chính là vị tu khổ hạnh trên vùng Tuyết Sơn.

-ooOoo-

Chương XV

Phẩm Hai Mươi Bài Kệ

497- Chuyện bậc Hiền trí Màtanga (Tiền thân Màtanga)

Lão từ đâu đến, đắp y dơ…..

Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về vua Udena.

Vào thời ấy, Tôn giả Pindola Bhàradvàja phi hành từ Kỳ Viên qua không gian, thường đến tránh cơn nóng ban ngày trong vườn ngự uyển của vua Udena nước Kosambi. Chuyện kể rằng Tôn giả này trong một đời trước đã làm vua, và thọ hưởng một thời gian dài cảnh vinh quang phú quý trong chính vườn ngự uyển kia cùng đám hầu cận. Nay nhờ công đức thiện nghiệp ông đã tạo được, nên ông thường đến tọa Thiền tại đây, tránh cơn nóng ban ngày và hưởng được cực lạc do chứng đắc Thánh quả.

Một hôm ông vào chỗ đó ngồi dưới một cây Sala đang trổ hoa sung mãn, thì vua Udena đi vào vườn với một đoàn tùy tùng đông đảo. Suốt bảy ngày trước vua uống rượu say nên muốn vào ngự viên giải trí. Vua nằm trên vương sàng trong cánh tay của một nàng cung nữ và được dỗ dành cho chóng ngủ thiếp đi. Sau đó đám nữ nhạc ngồi ca hát quanh vua đặt nhạc khí xuống, vừa đi quanh quẩn trong vườn ngự uyển vừa nhặt hoa trái. Dần dần họ thấy vị Trưởng lão ấy nên bước lên,đảnh lễ vị ấy và ngồi xuống. Vị Trưởng lão ngồi tại chỗ đó thuyết pháp cho họ nghe. Nàng cung nữ kia đổi cánh tay để thức vua dậy, vua hỏi:

– Bầy tiện tỳ kia đi đâu cả rồi?

Nàng đáp:

– Chúng đang ngồi vòng quanh một nhà tu khổ hạnh.

Vua nổi cơn thịnh nộ, đi đến gặp vị Trưởng lão và mạ lỵ phỉ báng:

– Đi ngay, ta muốn kẻ kia phải bị bầy kiến xé xác ra!

Thế là trong cơn thịnh nộ, vua truyền đem một thúng kiến đỏ đến rải tung trên thân thể vị Trưởng lão. Song vị này đã bay lên không gian, và thuyết giáo cho vua xong, trở về Kỳ Viên hạ xuống trước cổng Hương phòng. Đức Như Lai hỏi:

– Ông từ đâu đến?

Tôn giả ấy kể lại sự việc trên. Ngài bảo:

– Này Bhàradvàja, đây không phải là lần đầu tiên vua Udena nổi sân hận và lăng mạ một kẻ tu hành, mà trước kia cũng đã như thế.

Rồi theo lời thỉnh cầu của vị Trưởng lão, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta lên ngôi tại Ba La Nại; bậc Đại sĩ sinh làm con trai của một người Chiên đà la (Candàla: hạ đẳng tiện dân) ở ngoại thành, họ đặt tên ngài là chú voi Màtanga. Sau đó ngài thông đạt trí tuệ, danh tiếng lan truyền khắp nơi là bậc Hiền trí Màtanga.

Lúc bấy giờ có một nàng tên Dittha- Mangalikà (Người thấy các Điềm lành), con gái của một vị thương nhân thành Ba La Nại, cứ một hoặc hai tháng một lần, thường vào ngự viên vui đùa cùng đám bạn đồng hành đông đảo.

Một ngày kia, bậc Đại sĩ đi vào thành, liền gặp Dittha-Mangalikà, ngài bước sang một bên vàđứng im phăng phắc. Từ sau búc màn, Dittha trông thấy ngài và hỏi:

– Ai đó?

– Thưa cô nương, một kẻ Chiên đà la.

– Hừ, nàng đáp,- ta đã thấy nhằm một vật mang điềm xui xẻo.

Rồi nàng rửa mắt bằng nước hoa và quay đi. Đám người đi với nàng la lớn:

– Này tên bần cùng hèn hạ kia, mày đã làm chúng ta mất phần cơm rượu miễn phí hôm nay.

Trong cơn giận dữ, họ lấy tay chân đấm đá bậc Hiền trí Màtanga, khiến cho ngài bất tỉnh rồi bỏđi. Sau một lát ngài hồi tỉnh và nghĩ thầm: “Đám người đi theo Dittha-Mangalika đã vô cớ đánhđập ta, một kẻ vô tội. Ta quyết sẽ không nhúc nhích cho đến khi ta chiếm được nàng, chẳng chịuđi trước một chút nào cả”.

Với quyềt định này, ngài bước đi đến trước cửa nhà cha nàng. Khi đám gia nhân hỏi tại sao ngài nằm đó, ngài đáp:

– Ta chỉ muốn được nàng Dittha-Mangalikà mà thôi.

Một ngày trôi qua, rồi hai, ba, tư, năm, sáu, quyết định của chư Phật thường thường không sao lay chuyển được; vì thế vào ngày thứ bẩy họ phải đem cô gái ra trao cho ngài. Sau đó nàng bảo:

– Nào đứng lên chàng ơi, ta cùng đi về nhà chàng đi!

Song ngài đáp:

– Cô nương ôi, ta vừa bị bọn người nhà nàng đánh đập nên thân, nay ta yếu lắm, nàng hãy cõng ta trên lưng và mang đi.

Nàng làm theo lời ấy ngay trước mặt mọi người dân trong thành và nàng cứ tiến dần từ thành đô đi đến vùng tiện dân Chiên đà la cư trú.

Ở đó trong vài ngày, bậc Đại Sĩ giữ nàng lại mà không chút nào xâm phạm các luật lệ của giai cấp. Rồi ngài suy nghĩ: “Chỉ bằng cách từ bỏ thế tục, chứ không còn cách nào khác, ta mới có thể cho cô nương này thấy cảnh vinh hiển tột bậc và cho nàng hưởng những lễ vật cao sang nhất”. Vì thế ngài bảo nàng:

– Này nương tử, nếu ta không vào rừng kiếm ăn thì chúng ta không thể sống được. Vậy ta muốn vào rừng, nàng hãy đợi cho đến khi ta về; song đừng có lo âu gì cả.

Ngài ra lệnh cho gia nhân không được sao nhãng đối với nàng, rồi đi vào rừng, sống cuộc đời người tu hành, rất nhiệt tâm tinh tấn; vì vậy trong bẩy ngày, ngài tu tập và thành tựu Tám thiền chứng và Năm thắng trí. Sau đó ngài suy nghĩ: “Nay ta đã có thể bảo vệ Dittha-Mangalikà được rồi”.

Nhờ thần thông lực, ngài trở về và hạ xuống cổng làng Chiên đà la, từ đó đi vào nhà Dittha Mangalikà. Khi nghe tin ngài trở về, nàng bước ra và òa lên khóc bảo:

– Tại sao chàng bỏ thiếp và đi tu khổ hạnh?

Ngài đáp:

– Này nương tử, đừng lo gì cả. Nay ta có thể làm cho nàng vinh quang hơn trước kia nữa! Vậy nàng có chịu nói lên giữa mọi người đúng lời này: Phu quân ta không phải là Màtanga, mà là một đấng Đại Phạm thiên chăng?

– Thưa phu quân được, thiếp xin nói điều ấy.

– Tốt lành thay, khi dân chúng hỏi: Chồng nàng đâu? Nàng trả lời: Chàng đã đi lên Phạm Thiên giới. Nếu họ lại hỏi: Thế khi nào chàng về? Nàng phải đáp: Trong bảy ngày nữa, chàng sẽ về, xuyên qua mặt trăng tròn đầy của đêm rằm.

Cùng với những lời này, ngài đi vào vùng Tuyết Sơn. Lúc bấy giờ, Dittha Mangalikà nói nhữngđiều nàng đã được căn dặn khắp nơi ở Ba la nại giữa quần chúng đông đảo. Dân chúng tin ngay lời ấy , bảo nhau:

– Ngài là đấng Đại Phạm thiên, nên đã không đến thăm viếng Dittha, nhưng mọi việc sẽ như vầy như vầy.

Vào đêm trăng rằm, trong lúc vầng trăng đang di chuyển nửa vời, Bồ Tát hóa thành một vị Phạm thiên ở giữa luồng ánh sáng tràn ngập vương quốc Kàsi và kinh thành Ba la nại đến mười hai dặm, băng ngang qua mặt trăng và giáng trần. Ngài đi vòng quanh kinh thành Ba la nại ba lần, được dân chúng đông đảo tỏ lòng sùng bái bằng các vòng hoa thơm và hương liệu khác rồi quay mặt về hướng ngôi làng Chiên đà la.

Những người ngưỡng mộ Phạm Thiên tụ tập cùng nhau đi về phía làng Chiên đà la ấy. Họ bao phủ căn nhà của Dittha Mangalikà bằng màu vải trắng tinh, lau sàn nhà bằng bốn loại hương thơm, rải hoa khắp nơi, đốt trầm hương, trương một tấm vải làm mái che, đặt một bảo tọa rực rỡ, thắp đèn dầu thơm, rắc lớp cát mịn như phiến bạc rồi treo đèn kết hoa và cờ xí rợp trời.

Trước gian nhà được trang hoàng lộng lẫy thế kia, bậc Đại Sĩ bước vào và ngồi một lát trên bảo tọa. Lúc ấy Dittha-Mangalìka đang có kinh kỳ. Ngài lấy ngón tay trỏ rờ vào rốn nàng và nàng thụ thai. Sau đó bậc Đại Sĩ bảo nàng:

– Này hiền thê, nàng đã thụ thai, nàng sẽ sinh ra một con trai, nàng và con trai nàng sẽ được phú quý tột bậc, nước rửa chân nàng sẽ được vua chúa dùng làm lễ quán đảnh (lễ rảy nước thánh phong vương) cõi Diêm Phù Đề (Ấn Độ), nước nàng tắm sẽ là thứ tiên dược trường sinh bất tử, người nào rảy nước đó lên đầu sẽ thoát khỏi mọi thứ bệnh tật và không gặp điềm xui xẻo, những kẻ nào được đặt đầu dưới chân nàng và kính lễ nàng, sẽ dâng lên một ngàn đồng tiền vàng. Những kẻ nào được đứng gần đủ để có thể nghe nàng nói và kính lễ nàng sẽ dâng lên một trăm đồng; kẻ nào được đứng để trông thấy nàng và kính lễ nàng sẽ dâng một đồng rupee. Vậy nàng hãy tỉnh giác giữ mình cẩn thận!

Cùng với lời khuyến giáo này, trước mặt một đám đông, ngài đứng dậy và lại đi vào mặt trăng.

Những người sùng bái Phạm thiên tụ tập nhau lại và đứng đó suốt đêm, sáng hôm sau họ mời nàng lên chiếc kiệu bằng vàng và đội lên đầu nàng , rước nàng vào kinh đô. Một đám đông dân chúng chạy đến phía nàng kêu lớn:

-Kìa! Hoàng hậu của đấng Phạm thiên!

Rồi cúng bái nàng với các hoa thơm và nhiều thứ nữa, những kẻ nào được phép đặt đầu dưới chân nàng và kính lễ đều dâng lên một túi tiền một ngàn đồng, người nào đứng gần nàng và kính lễ thì dâng một trăm, người nào đứng đủ nhìn thấy được nàng và kính lễ thì dâng một rupee. Cứ vậy họ tiến dần khắp thành Ba la nại, rộng mười hai dặm và thu được tổng số một trăm tám chục triệu đồng.

Sau khi đi xung quanh thành như vậy, họ rước nàng vào nội thành, dựng lên một ngôi đình lớn vây màn chung quanh, mời nàng yên nghỉ tại đó giữa cảnh huy hoàng vinh quang như thế. Tới ngôi đình, họ bắt đầu xây bảy cổng vào thật lớn và dựng một cung điện bảy tầng, họ đã tạo được nhiều công đức mới dành phần họ vậy.

Cũng trong ngôi đình ấy Dittha-Mangalikà sinh hạ con trai. Vào ngày đặt tên hài nhi, các Bà la môn tụ họp nhau và đặt tên nó là Mandavya Kumàra hay Vương tử của Ngôi Đình, vì nó được sinh ra tại đó. Độ mười tháng, lâu đài kia đã được xây xong, từ đó nàng vào ở trong lâu đài vô cùng vinh hiển và Vương tử Mandavya lớn lên giữa cảnh huy hoàng tột bực.

Khi hài nhi được bẩy tuổi, những bậc thầy danh tiếng nhất khắp toàn cõi Diêm phù đề (Ấn Độ) tụ tập lại và dạy cậu ba tập Vệ Đà. Từ mười sáu tuổi cậu trai đã cúng dường thực phẩm cho các Bà la môn, và mười sáu ngàn Ba la môn được cúng dường liên tục ; tại cổng thành thứ tư có dàn binh bố trận, các vật cúng dường được phân phát cho các vị Bà la môn.

Bấy giờ vào một ngày Đại hội, dân chúng chuẩn bị một số lớn cháo gạo, rồi mười sáu ngàn Bà la môn ngồi tại cổng thành thứ tư có dàn binh bố trận kia, và dùng món cháo ấy cùng với món bơ tươi màu vàng óng ánh, nước đường pha mật ong đặc, và chính vị vương tử trang điểm ngọc châu sáng rực rỡ mang đôi hài vàng dưới chân, cầm chiếc gậy vàng ròng trong tay, vừa đi quanh vừa chỉ dẫn:

– Này bơ đây, mật ong đây.

Vào lúc ấy bậc hiền trí Màtanga đang ngồi trong thảo am ở vùng Tuyết Sơn, và hướng tầm tứ vào việc xem xét những gì xảy ra cho con trai của nàng Dittha-Mangalikà. Khi nhận thấy cậu con trai đang đi lạc tà đạo, ngài suy nghĩ: “Hôm nay ta sẽ đi giáo hóa cho cậu bé kia và dạy cho nó biết cúng dường như thế nào để lễ vật bố thí ấy sẽ mang lại kết quả lớn”.

Ngài liền bay qua không gian đến hồ Anotatta, rửa mặt mũi và súc miệng rồi khi đứng tại địa phận Manosila (thuộc vùng Tuyết Sơn) ngài khoác đôi tấm y vàng vào quấn thắt lưng quanh người, rồi đắp phấn tảo y (áo may bằng giẻ rách) ra ngoài, cầm bình bát đất, phi hành qua không gian đến cổng thứ tư ấy, nơi đó ngài hạ xuống ngay cạnh Bố thí đường, và đứng một bên. Đang lúc Mandavya nhìn quanh quẩn, chợt thấy ngài liền kêu to:

– Lão từ đâu đến, hỡi kẻ khổ hạnh kia, lão là kẻ hạ liệt bị bỏ rơi vô thừa nhận, một thứ yêu quỷ chứ không phải là người đó chăng?

Rồi cậu ngâm vần kệ đầu:

1- Lão từ đâu đến đắp y dơ,
Người ngợm tồi tàn tựa quỷ ma,
Giẻ rách làm y quàng trước ngực,
Lão là ai? Chẳng xứng phần quà!

Bậc Đại Sĩ lắng nghe, rồi với lòng từ mẫn, ngài đáp lời cậu qua vần kệ thứ hai:

2- Vương tử! Thức ăn đã sẵn bày,
Mọi người ăn uống hưởng no say:
Bọn ta, ngài biết thường sinh sống
Bằng thứ tìm ra bởi gặp may.
Xin đứng lên cho người hạ tiện
Hưởng phần thọ thực chút gì đây.

Tiếp theo Mandavya ngâm vần kệ thứ ba:

3- Phần các La môn hưởng phước ân,
Này đây thực phẩm chính tay dâng
Thí tài cúng với lòng thành kính.
Thôi cút! Ai đưa lão cán chân?
Chẳng có phần cho người hạ tiện,
Kẻ hèn kia hãy bước đi luôn!

Vì nghe thế bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ:

4- Mọi nơi cao thấp họ gieo trồng,
Mong gặt quả trên đám ruộng đồng:
Chánh đạo này đây, xin bố thí,
Sau ngài xứng đáng hưởng phần công.

Sau đó Mandavya đáp kệ:

5- Ta biết đất ta muốn cấy trồng,
Những vùng xứng đáng hạt đâm bông,
La môn quý tộc, thông kinh thánh:
Là đất lành phong phú ruộng đồng.

Rồi bậc Đại Sĩ lại ngâm hai vần kệ:

6- Ngạo mạn giống dòng quá tự kiêu,
Tham sân si, uống rượu say nhiều,
Người tâm chứa đủ sai lầm ấy,
Là đất hoang cằn để hạt gieo.

7- Ngạo mạn giống dòng quá tự kiêu,
Tham sân si, uống rượu say nhiều,
Người tâm chứa đủ sai lầm ấy,
Là đất hoang cằn để hạt gieo.

Bậc Đại Sĩ cứ ngâm đi ngâm lại những lời kệ ấy mãi, song cậu trai nổi giận và kêu lớn:

– Lão này nói quàng xiêng quá nhiều rồi; những người gác cổng đi dâu cả mà không tống cổ lão ra?

Rồi cậu ngâm kệ:

8- Này Bran-da! Hỡi U-paj-jhà!
Ta bảo, đâu rồi Up-ti-ya,
Trừng phạt lão này, cho lão chết,
Tên hèn hạ, tống cổ ngay ra.

Bọn gia nhân nghe tiếng cậu gọi, liền chạy đến ngay kính lễ cậu rồi hỏi:

– Tâu Chúa công, chúng tiểu nô phải làm gì đây?

– Thế các người không thấy tên hạ liệt tồi tàn này sao?

– Tâu Vương tử không, chúng tiểu nô không biết lão đã tới đây lúc nào cả, chắc chắn lão là tên lừa bịp xảo trá rồi !

– Nào, vậy sao các người còn đứng đó?

– Tâu Chúa công, vậy chúng tiểu nô phải làm gì đây?

– Sao ư? Phải vả vào mồm lão! Bẻ hàm lão ra, lấy roi gậy đánh cho nát lưng, trừng phạt lão đi, tóm lấy cả tên khốn kiếp này, quăng lão xuống, tống lão ra khỏi đây ngay!

Song trước khi bọn chúng đến gần ngài, bậc Đại Sĩ đã bay lên không, vừa đứng vững ở đó vừa ngâm kệ:

9- Phỉ báng Hiền nhân! Lợi ích bằng
Với khi nuốt ngọn lửa đang hồng,
Hay là sắt cứng, đưa răng cắn,
Đào núi, mà dùng móng vuốt không?

Sau khi thốt những lời này xong, bậc Đại Sĩ vụt lên cao trong khi cậu trai và đám Bà la môn ngơ ngác nhìn theo.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ để giải thích việc này:

10- Nói vậy, Màtanga trí nhân,
Bậc phò chánh đạo, lý thuần chân,
Rồi ngài bay bổng trên không khí
Trước mắt nhìn theo của đám đông.

*

Ngài quay mặt về hướng Đông, hạ xuống một đường phố với ý định làm cho dấu chân ngài được nhìn thấy, nên ngài khất thực gần Đông môn. Lúc ấy, sau khi đã nhận được một số thực phẩm đủ loại, ngài ngồi xuống một sảnh đường và bắt đầu ăn.

Song các thần linh trong kinh thành chợt đến, thấy rằng vua này đã nói năng như vậy làm phiền nhiễu vị Hiền nhân của các vị, là điều không thể dung thứ được, nên vị thần cao niên nhất trong bọn chụp lấy cổ Mandavya và vặn tréo, các quỷ kia lại chụp lấy cổ các Bà la môn ấy và vặn luôn. Song vì thương cảm Bồ Tát, các vị ấy không giết Mandavya, các vị bảo:

– Đó là con trai của ngài.

Và các vị chỉ hành hạ cậu ta thôi. Đầu của Mandavya bị vặn tréo ra đằng sau vai, tay chân cậu cứng đờ, mắt trợn trừng như thể chết rồi, cậu nằm rũ liệt tại đó. Các Bà la môn kia quay cuồng vật vã, mồm chảy nước miếng tràn ra. Dân chúng đến báo tin cho bà Dittha-Mangalikà:

– Tâu lệnh bà, có chuyện chẳng lành xẩy ra cho vương tử!

Bà vội chạy đến thấy cậu trai liền kêu lớn:

– Ôi sao lại thế này?

Rồi bà ngâm kệ:

11- Vặn tréo đầu con khỏi bả vai,
Kìa sao con duỗi cánh tay dài,
Bơ vơ mắt trắng dường như chết,
Kẻ hại con mình đó chính ai?

Khi ấy những người đứng ngoài xem liền ngâm kệ nói cho bà biết chuyện kia.

12- Ẩn sĩ đây khoác áo dơ,
Tồi tàn người ngợm tợ yêu ma,
Y bằng giẻ rách quàng ngang ngực,
Chính kẻ hành hung quý tử bà.

Nghe vậy bà suy nghĩ. “Chắc chắn đó là bậc Hiền nhân Màtanga, không ai khác có thần lực như vậy. Song một người thủy chung và đầy thiện ý đối với mọi loài, chẳng bao giờ lại bỏ đi để cho những kẻ này phải chịu sự hành hạ thế kia. Nay không biết ngài đã đi hướng nào?” Bà hỏi câu này qua vần kệ sau:

13- Về hướng đi nào, bậc Trí nhân?
Trả lời ta, hỡi các vương tôn!
Chúng ta đi chuộc cho lầm lỗi,
Để giúp con ta được tỉnh hồn.

Các chàng trai kia đáp lời bà theo cách này:

14- Bậc Hiền vụt hiện giữa không gian,
Như thể vầng trăng giữa tối rằm,
Đẹp mặt thay, ngài sùng Chánh đạo!
Phương Đông theo hướng ấy lên đàng.

Khi họ đáp như thế bà liền bảo:

– Ta quyết sẽ đi tìm phu quân ta.

Rồi bà ra lệnh đem theo bà nhiều bình vàng và chén vàng, rồi được một đám tỳ nữ vây quanh, bà ra đi, tìm thấy nơi có dấu chân của ngài đã in xuống đất, bà cứ theo dấu chân này cho đến khi bà gặp ngài đang ngồi trên một chỗ kia và ăn cơm. Đi đến gần ngài, bà đảnh lễ rồi đứng im. Khi thấy bà, ngài đặt miếng cơm vào bát. Dittha-Mangalikà rót nước lên tay ngài từ chiếc bình vàng, ngài lập tức rửa tay và súc miệng. Sau đó bà hỏi:

– Ai đã làm việc tàn ác này cho con trai của thiếp?

Và bà ngâm kệ:

15- Vặn tréo đầu con khỏi bả vai,
Kìa sao con duỗi cánh tay dài,
Bơ vơ mắt trắng dường như chết,
Kẻ hại con mình đó chính ai?

Các vần kệ sau đây là lời đối đáp xen kẽ nhau giữa hai vị:

Bậc trí:

16- Quỷ linh đủ đại lực uy thần
Đẹp mắt theo hầu các trí nhân,
Chúng thấy con nàng sân, ác ý,
Nên hành xử nó chính vì nàng.

Bà hoàng:

17- Chính các thần linh tạo việc trên,
Hiền nhân đừng phẫn nộ thân hèn,
Xin ngài từ mẫn vì con thiếp,
Quy ngưỡng từ nay dưới gót sen.

Bậc trí:

18- Tâm ta, hãy biết, chẳng tiềm tàng,
Từ trước đến giờ, ý hận sân,
Con trẻ không thông ba Thánh điển,
Vì đầy vọng tưởng , ngập kiêu căng.

Bà hoàng:

19- Con người có thế, hỡi hiền nhân,
Bỗng chốc trí khôn hóa tối tăm,
Tha lỗi thiếp này, thưa Trí giả,
Bậc hiền không để khởi hờn căm.

Bậc Đại Si được bà xoa dịu bằng lời lẽ như vậy, liền đáp:

– Được, ta sẽ cho nàng thứ tiên dược trường sinh bất tử để đuổi bọn quỷ ma ấy đi xa.

Rồi ngài ngâm kệ:

20- Chút của thừa này, hãy lấy mang,
Cho Man-da khốn khổ phần ăn,
Con nàng sẽ mạnh mau bình phục,
Bọn quỷ tha mồi, được thoát thân.

Khi bà nghe những lời này của bậc Đại Sĩ liền đưa chiếc bình bát vàng ra và nói:

– Xin phu quân hãy cho thiếp thuốc tiên bất tử ấy.

Bậc Đại Sĩ đổ vào đó một ít cháo còn lại và bảo:

– Hãy đổ một nửa cháo này vào mồm con nàng, còn lại thì trộn với nước rồi đổ vào mồm các Bà la môn kia, chúng sẽ được bình phục cả.

Rồi ngài đứng lên đi về phía vùng Tuyết Sơn.

Bà mang bình ấy trên đầu và kêu:

– Ta đã được thuốc tiên bất tử rồi!

Khi đến nhà, trước hết bà đổ một ít vào miệng con trai bà.

Quỷ thần liền chạy trốn, vua đứng dậy, phủi bụi bặm rồi hỏi:

– Cái gì đây mẹ?

– Con đã biết rõ những việc con làm rồi, nay hãy nhìn tình cảnh khốn khổ của đám người khất thực nhà ta kia kìa!

Khi cậu nhìn thấy bọn ấy, lòng cậu đầy ân hận. Rồi mẹ cậu bảo:

– Này Mandavya yêu quý, con thực là kẻ ngu si không biết bố thí cách nào để của bố thí ấy mang lại kết quả tốt. Bọn này không xứng đáng với lòng hào phóng của con đâu, chỉ những vị nào như bậc Hiền nhân Mantaga là xứng đáng thôi. Từ nay về sau đừng đem cái gì cho những ác nhân như bọn này, mà chỉ nên bố thí cúng dường những người đức hạnh.

Rồi bà ngâm kệ:

21- Man-da, tiểu trí thật ngu đần,
Chẳng biết lúc nào đáng bố ân:
Con cúng dường bao người trọng tội,
Lũ người vô độ, bọn tà nhân!

22- Xiêm áo bằng da mớ tóc xù,
Miệng như giếng cũ, có tràn bờ,
Hãy nhìn giẻ rách bầy kia mặc!
Các thứ này không cứu lũ ngu!

23- Hễ khi tham dục với cuồng sân,
Được tống ra ngoài các thế nhân,
Bố thí hiền nhân thanh tịnh ấy,
Quả nhiều cho việc đã làm ăn.

– Vậy từ nay về sau con đừng bố thí cho hạng người ác như thế này, mà chỉ nên bố thí cúng dường những kẻ nào ở trên đời này đạt Tám Thiền chứng, là những nhà tu khổ hạnh, các Sa môn, Bà la môn chân chính đã chứng Năm Thắng trí, các vị Độc Giác Phật. Này con, để mẹ đưa loại thuốc tiên bất tử này cho bọn gia nhân của ta đây và làm chúng bình phục.

Nói vậy xong, bà lấy miếng cháo thừa ấy đổ vào một bình nước và rẩy lên miệng mười sáu ngàn Bà la môn kia. Mọi người đều đứng dậy và phủi hết bụi bặm.

Sau đó, vì các Bà la môn này đã phải nếm thức ăn thừa của một kẻ Chiên đà la, nên bị các Bà la môn khác tống xuất ra khỏi giai cấp ấy. Đầy ô nhục, bọn họ rời thành Bà la nại và đi về vương quốc Mejjha, tại đây họ ở chung với vua xứ đó. Còn Mandavya vẫn ở chốn cũ.

Vào thời đó có một Bà la môn tên là Jàtimanta, là một kẻ tu hành, ở gần kinh thành Vettavati trên bờ sông có cùng tên ấy, ông là kẻ rất kiêu mạn về dòng dõi của mình. Bậc Đại Sĩ liền đến đó, quyết đập tan lòng kiêu mạn của người kia, ngài dựng am trú ngụ gần đó, sống ở phía thượng nguồn con sông.

Một hôm sau khi xỉa răng xong, ngài thả cái tăm xuống dòng nước; cố ý để cho nó vướng vào búi tóc của Jàtimanta, vì vậy, trong khi kẻ ấy đang tắm trong dòng nước sông, cái tăm ấy vướng vào búi tóc ông.

– Đồ súc sinh!

Ông nói, trong khi thấy cái tăm:

– Nó từ đâu đến đây với cái đồ phá hoại này. Ta phải tìm xem.

Ông liền đi ngược dòng, khi thấy bậc Đại Sĩ liền hỏi:

– Ông thuộc giai cấp nào?

– Ta là một Chiên đà la.

– Có phải ông đã thả cây tăm xuống sông chăng?

– Chính phải?

– Đồ súc sinh, quân tồi tàn hạ đẳng! Đồ mắc dịch, không được ở đây! Mà phải đi xuống chỗ hạ lưu kia.

Song khi ngài xuống ở vùng hạ lưu, cái tăm ngài thả trôi ngược dòng nước, vẫn vướng vào tóc Jàtimanta. Ông mắng:

– Quân đáng nguyền rủa! Nếu ngươi ở đây trong bảy ngày nữa , đầu ngươi sẽ tan thành bảy mảnh.

Bậc Đại Sĩ suy nghĩ:” Nếu ta buông mình theo cơn thịnh nộ với gã này, thì ta không giữ được công đức, song ta sẽ tìm cách phá tan lòng kiêu mạn của gã”.

Vào ngày thứ bảy, ngài ngăn cản mặt trời mọc, cả trần gian đều tối tăm nên dân chúng kéo đến vị tu khổ hạnh Jàtimanta và hỏi:

– Thưa Tôn giả, có phải chính ngài ngăn cản mặt trời mọc chăng?

Gã đáp:

– Việc đó không phải do ta làm, mà có một lão Chiên đà la sống gần bờ sông, chắc lão ấy làm đấy.

Sau đó dân chúng đến gặp bậc Đại Sĩ và hỏi lại:

– Thưa Tôn giả, có phải chính Tôn giả ngăn cản mặt trời mọc chăng?

Ngài đáp:

– Này các hiền hữu, chính phải!

– Tại sao thế? Họ hỏi.

– Vị tu khổ hạnh được các hiền hữu quý mến đã phỉ báng ta, một người vô tội, vậy khi nào vị đó đến quỳ dưới chân ta để xin thương xót, thì ta mới để cho mặt trời mọc lên.

Dân chúng đi kéo lê kẻ ấy rồi thả ông xuống trước chân bậc Đại Sĩ và cố sức vỗ về ngài vừa nói:

– Thưa Tôn giả, xin cho mặt trời mọc.

Song ngài đáp:

– Ta không thể để mặt trời mọc được vì nếu ta làm như thế, đầu kẻ này sẽ vỡ thành bảy mảnh.

Họ hỏi:

– Thưa Tôn giả, vậy chúng tôi phải làm gì?

– Hãy đem cho ta một cục đất!

Họ đem lại một cục đất.

– Nào, hãy đặt cục đất lên đầu kẻ khổ hạnh này, rồi kéo gã xuống nước.

Sau khi sắp đặt mọi việc này xong, ngài để cho mặt trời mọc lên. Vừa khi mặt trời được di chuyển tự do, cục đất nứt thành bảy mảnh, còn kẻ tu khổ hạnh nhảy tùm xuống nước.

Sau khi đã hàng phục gã như vậy, bậc Đại Sĩ suy nghĩ: Mười sáu ngàn Bà la môn kia hiện ở đâu?” Ngài nhận ra bọn ấy đang ở với vua Mejjha, và cũng quyết định đi hàng phục họ, nên dùng thần lực, ngài hạ xuống vùng ngoại thành, cầm bình bát trong tay, đi khất thực. Khi các Bà la môn thấyđược ngài, họ bảo nhau:

– Chỉ để lão ở đây 2 ngày thôi là lão sẽ làm ta mất nơi nương tựa!

Bọn ấy vội vàng chạy đến yết kiến vua và kêu to:

– Tâu đại vương, có một lão khoác lác đại bịp đến đây, xin hãy bỏ tù lão!

Vua rất sẵn sàng. Còn bậc Đại Sĩ với bát thức ăn đủ loại đang ngồi ăn bên bức thành trên một chiếc ghế dài. Tại đó trong khi ngài đang bận ăn uống, đám thị vệ của vua tìm đến, lấy kiếm đánh ngài rồi giết đi. Sau khi mạng chung, ngài tái sanh lên cõi Phạm Thiên.

Chuyện kể rằng, trong kiếp này Bồ tát là một ” người luyện thú mongoose” (một giống chồn ở Ấn Độ) và ngài phải chịu chết vì công việc hạ tiện này. Các vị thần nổi giận liền trút xuống toàn vương quốc Mejjha một trận lửa tro nóng rực quét sạch nước ấy ra khỏi các nước kia.

Vì thế có lời lưu truyền:

  1. Người ta kể chuyện cả non sông
    Của xứ Mejjha phải diệt vong,
    Nước kia bị xóa tan bờ cõi
    Vì giết Mà-tan, bậc lẫy lừng.

*

Khi bậc Đạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại này. Ngài bảo:

– Đây không phải là lần đầu tiên vua Udena phỉ báng các vị tu khổ hạnh, mà xưa kia cũng thế.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, vua Udena là Mandavya và Ta chính là bậc Hiền trí Màtanga.

-ooOoo-

  1. Chuyện Đôi Bạn Citta-Sambhùta (Tiền thân Citta-Sambhùta)

Chóng chầy thiện nghiệp đều mang quả…..

Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về hai người bạn đồng tu của Tôn giả Mahà Kassapa (Đại Ca Diếp) sống rất hòa hợp với nhau.

Chuyện kể rằng đôi bạn này vô cùng thân thiết, đã phân chia mọi thứ cùng nhau hết sức công bình; ngay cả khi khất thực, hai vị cũng cùng đi ra và cùng trở về với nhau, hai vị không hề chịu rời nhau.

Trong Chánh pháp đường, Tăng chúng đang ngồi tán thán tình bằng hữu ấy thì bậc Đạo Sư bước vào, hỏi các vị đang bàn luận chuyện gì khi ngồi tại đó. Tăng chúng trình với Ngài… Ngài đáp:

Này các Tỳ kheo, tình bạn này chỉ trong một đời sống chẳng có gì kỳ lạ cả, vì các bậc trí nhân ngày xưa đã giữ được tình bằng hữu vững bền suốt qua cả ba bốn đời sống.

Nói vậy xong, Ngài kể cho Tăng chúng nghe một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, trong quốc độ Avanti, tại kinh thành Ujjeni, có vị đại vương trị vì mệnh danh là vua Avanti. Thuở ấy một làng Candàla (Chiên đà la: vô loại, hạ đẳng) ở ngoại thành Ujjeni là nơi bậcĐại Sĩ ra đời. Một người khác sinh làm con trai của bà dì Ngài. Một cậu bé tên là Citta, cậu kia tên là Sambhùta.

Khi hai cậu bé lớn lên và đã học được nghề quét bằng chổi trong dòng họ Chiên đà la rồi, liền nghĩ rằng hai cậu sẽ đi trình diễn nghề này tại cổng thành. Vì thế một cậu biểu diễn tại Bắc môn, một cậu tại Đông môn. Bấy giờ trong kinh thành này có hai phụ nữ giỏi nghề xem tướng, một cô là con gái một thương nhân, và cô kia là con một tế sư. Hai cô gái ấy đi vui chơi trong công viên, sau khi bảo gia nhân đem theo thực phẩm đủ loại cứng, loại mềm, vòng hoa hương liệu, thì ngẫu nhiên một cô đi ra cổng Bắc, và một cô ra cổng phía Đông. Khi thấy hai thanh niên Chiên đà la đang biểu diễn tay nghề, hai cô hỏi:

– Chúng là ai đây?

Rồi hai cô được cho biết đó là hai kẻ Chiên đà la. Hai cô bảo:

– Thấy điềm này xui xẻo lắm.

Và sau khi rửa mắt bằng nước hương thơm, cả hai đều đi về. Sau đó, đám dân chúng la lớn:

– Này bọn hạ đẳng tồi tàn kia, chúng bay đã làm chúng ta mất phần cơm rượu đáng lẽ được hưởng miễn phí đấy!

Chúng đánh đập hai anh em cùng họ ấy một trận nhừ tử, làm cả hai đau đớn ê chề. Khi hai người tỉnh dậy liền đi tìm nhau và kể cho nhau nghe tai họa đã đến cho mình, rồi lại kêu gào và cố nghĩ cách xem phải làm gì đây. Cả hai suy nghĩ: “Tất cả việc khốn nạn này đã giáng xuống chúng ta chỉ vì dòng giống ta sinh ra. Ta sẽ chẳng bao giời làm kẻ Chiên đà la nữa, mà ta phải dấu tung tích dòng họ để rồi đi tới Takkasilà, giả dạng các nam tử Bà la môn và học tập tại đó”.

Sau khi quyết dịnh như vậy, cả hai đến chỗ đó, theo đòi học tập với một giáo sư danh tiếng lẫy lừng. Thiên hạ đồn vang khắp cõi Diêm phù đề (Ấn độ) rằng có hai nam tử Chiên đà la đang làm thư sinh và giấu diếm tung tích gia tộc mình. Bậc Trí nhân Citta học tập thành công, song chàng Sambhùta thì không được như thế.

Một ngày kia có người dân làng mời vị giáo sư ấy với ý định cúng dường thực phẩm cho các Bà la môn. Bấy giờ do ngẫu nhiên mưa suốt đêm ấy làm ngập lụt mọi hang hốc trên đường đi. Sáng sớm hôm sau, vị thầy giáo gọi Trí giả Citta vào và bảo:

– Này con , hôm nay thầy không đi được, vậy con đi cùng các nam tử kia, rồi làm lễ chúc phước lành và khi con ăn thực phẩm của mình xong, hãy mang về những món để dành cho thầy.

Do đó, ngài đem các thanh niên Bà la môn khác cùng lên đường. Trong khi các thanh niên tắm rửa và súc miệng, dân chúng dọn món cháo gạo đã chuẩn bị sẵn sàng để mời khách quý và bảo:

– Để cho nó nguội đi.

Trước khi cháo nguội, đám thanh niên đã đến ngồi xuống. Dân chúng dâng nước cúng dường, rồi đặt các bát cháo trước mặt họ. Trí óc Sambhùta có hơi trì độn, nên tưởng cháo đã nguội, liền múc một hớp bỏ vào miệng, song nó làm chàng nóng bỏng như cục sắt nóng đỏ. Trong lúc đau đớn, chàng quên mất vai trò của mình, liền liếc qua bậc Hiền trí Citta và nói bằng ngôn ngữ của dân Chiên đà la:

– Cháo nóng quá phải chăng?

Chàng kia quên mất bản thân mình, nên đáp lại theo ngôn ngữ của họ:

– Nhổ ra , nhổ ra mau!

Nghe thế, đám thanh niên nhìn nhau bảo:

– Loại ngôn ngữ gì thế này?

Lúc ấy bậc Trí giả Citta nói lời chúc lành cho tất cả.

Khi các chàng trai kia về nhà, họ tụ tập thành tụm năm túm ba và ngồi bàn luận về những từ ngữ đã được dùng kia. Khi nhận ra đó là ngôn ngữ của bọn Chiên đà la, họ kêu to:

– Quân hạ đẳng tồi tàn kia! Chúng bay đã lừa dối cả bọn ta lâu nay, cứ giả dạng làm Bà la môn!

Rồi họ đánh đập hai vị ấy. Có một người tốt bụng xua đuổi họ ra và nói:

– Đi ngay! Vết nhục nằm trong huyết thống kia. Phải đi ngay! Đến đâu đó mà làm ẩn sĩ khổ hạnh!

Rồi các thanh niên Bà la môn trình với thầy giáo rằng, đấy là hai kẻ Chiên đà la giả dạng.

Hai chàng đi vào rừng sống đời sống khổ hạnh tại đó, sau một thời gian chết đi, tái sanh làm hai chú Nai con bên bờ sông Nerañjarà (Ni liên thuyền). Từ lúc sinh ra, chúng luôn luôn ở bên nhau. Một ngày kia, sau khi chúng ăn xong, một người thợ săn chợt thấy chúng dưới một gốc cây đang ngồi nhai lại, âu yếm vuốt ve nhau rất hạnh phúc, đầu sát đầu, mõm kề mõm, sừng bên sừng. Gã liền phóng lao tới, giết trọn luôn cả hai bằng nhát lao ấy.

Sau đó chúng tái sanh làm con của chim Ưng biển trên bờ Nerbudda (Niết bút). Cũng tại đó, chúng lớn lên sau khi ăn xong lại ôm ấp đầu sát đầu, mỏ kề mỏ. Một kẻ bẫy chim trông thấy, bắt cả hai và giết đi.

Sau đó bậc Trí giả tái sanh tại Kosambi, làm con vị tế sư, còn bậc Trí Sambhùta tái sanh làm vương tử của vua Uttarapañcala. Ngay từ ngày được đặt tên, hai hài nhi ấy đã có khả năng nhớ lại các đời trước của mình. Song Sambhùta không thể nào nhớ hết tất cả mà không bị gián đoạn, và cậu chỉ nhớ đời thứ tư hoặc đời Chiên đà la thôi, còn Citta lại nhớ đủ cả bốn đời theo thứ tự.

Khi Citta được 16 tuổi, chàng xuất gia làm ẩn sĩ khổ hạnh ở vùng Tuyết Sơn, tu tập làm phát khởi thắng trí do thiền định và an trú trong hỷ lạc Thiền định. Còn bậc trí giả Sambhùta, sau khi phụ vương băng hà, liền được phong chiếc lọng trắng trên đầu vào ngày phong vương kia, giữa quần thần đông đảo, ngài làm một bài ca tức vị, rồi rung cảm ngâm lên hai đoạn.

Khi quần thần nghe xong, đám cung phi và nhạc công đều ca hát, bảo nhau:

– Đây là khúc đăng quang của đức Chúa thượng chúng ta!

Và dần dà với thời gian, dân chúng đều ca khúc hát ấy vì đó là Thánh đạo ca được vua yêu thích. Bậc Trí giả Citta đang an trú ở vùng Tuyết Sơn, tự hỏi không biết hiền đệ Sambhùta của ngài đã được giương chiếc lọng che ấy chưa. Khi nhận thấy việc đã xong, ngài suy nghĩ:” Ta chẳng bao giờ đủ sức giáo hóa một vị Tân vương còn trẻ, song khi nào em ta già rồi, ta sẽ đến thăm và khuyên nhủ em ta đi làm ẩn sĩ khổ hạnh”.

Suốt năm mươi năm ngài không hề đi thăm viếng, và trong thời gian ấy, vua có đông con cái lên dần. Về sau nhờ thần lực của ngài, Trí giả Citta phi hành đến vườn ngự uyển đáp xuống, ngồi trên bảo tọa nghi lễ như một bức tượng bằng vàng.

Vừa lúc ấy, một chàng trai kiếm củi, vừa làm việc vừa hát khúc đạo ca ấy. Bậc Trí giả Citta gọi chàng trai lại gần, chàng tiến đến đảnh lễ cung kính rồi đứng chờ. Trí giả Citta bảo chàng:

– Từ sáng đến giờ, cậu chỉ hát mãi khúc đạo ca ấy, thế cậu không biết khúc nào nữa chăng?

– Thưa Tôn giả, có chứ, con biết nhiều khúc ca lắm, song đây là những lời ca được đức vua yêu chuộng, vì thế con không hát khúc nào khác.

– Thế không có ai biết hát một điệp khúc đáp lại khúc ca của đức vua chăng?

– Thưa Tôn giả, con biết hát nếu con được dạy khúc ca ấy.

– Thế thì được, hễ khi nào đức vua hát hai khúc trên, thì cậu hát khúc này làm khúc thứ ba đấy.

Rồi ngài ngâm một khúc và bảo:

– Bây giờ cậu hãy đi hát khúc này trước đức vua, ngài sẽ hài lòng và quý trọng cậu lắm.

Chàng trai vội vàng chạy về tìm mẹ, bảo mẹ mặc cho chàng y phục thật tề chỉnh rồi đến cửa cung vua, nhờ người tâu lên rằng có một chàng trai xin được yết kiến để hát một khúc ca đáp lời đức vua. Vua bảo:

– Cho nó vào.

Khi chàng trai tiến lên, đảnh lễ ngài xong, vua phán:

– Chúng tâu rằng cậu muốn hát một khúc đáp lời trẫm có phải chăng?

Chàng trai đáp:

– Tâu Chúa thượng, đúng vậy, xin ngài triệu tập quần thần để cùng nghe.

Ngay khi triều đình tụ họp xong, chàng tâu:

– Tâu Chúa thượng, xin Chúa thượng ca khúc hát của ngài trước, rồi thần sẽ xin hát lời đối lại.

Vua liền ngâm đôi vần kệ:

1- Chóng chầy thiện nghiệp đều mang trái,
Không nghiệp gì không có quả sinh,
Chẳng có việc lành nào uổng phí:
Sam-bhù, ta thấy, lớn lên thành
Hùng cường, vĩ đại và như thế
Công đức ngài đem đến quả lành

2- Chóng chầy thiện nghiệp đều mang trái,
Không nghiệp gì không có quả mang,
Chẳng có việc lành nào uổng phí:
Cit-ta ai biết, có vinh quang
Giống như phần trẫm, tâm hiền hữu
Có được an vui lợi lạc chăng?

Khúc đạo ca trên vua chấm dứt, chàng trai liền đáp vần thứ ba:

3-Thiện nghiệp chóng chầy đều đạt quả
Nghiệp nào mà chẳng quả lai sinh,
Không gì vô ích tâu Hoàng thượng,
Xin ngắm Cit-ta tại cổng thành,
Chẳng khác quân vương, tâm vị ấy
Đã đem hỷ lạc đến cho mình.

Nghe lời này vua lại ngâm vần kệ thứ tư:

4- Vậy có phải chăng chính Cit-ta,
Hay chàng nghe được chuyện ngày xưa
Từ ngài, hay một người nào khác?
Ôi ngọt ngào thay khúc Thánh ca!
Ta chẳng sợ gì, ta sẽ thưởng
Ngôi làng hay tặng vật làm quà.

Tiếp theo chàng trai ngâm vần kệ thứ năm:

5- Hạ thần nào có phải Cit-ta,
Song chuyện ấy thần được biết qua,
Chính một hiền nhân vừa dạy bảo:
“Đi ngâm lời hát đối dâng vua,
Rồi chàng sẽ được ngài ban thưởng,
Tay của ngài ân nghĩa đậm đà”.

Nghe lời này, vua suy nghĩ: “Chắc hẳn đó là hiền huynh Citta của ta rồi, ta muốn đi tìm ngài ngay”. Thế là vua ra lệnh cho quần thần qua hai vần kệ sau:

6- Các vương xa hãy thắng yên cương,
Chạm trổ tinh vi, đẹp tuyệt trần,
Đem buộc cân đai vào bảo tượng,
Điểm trang vòng cổ sáng huy hoàng.

7- Quần thần hãy đánh trống liên hoan,
Bảo thổi tù và ốc dậy vang,
Chuẩn bị vương xa nhanh bậc nhất
Bởi vì trẫm muốn sớm lên đàng
Hôm nay tìm thảo am cô tịch,
Yết kiến hiền nhân trước tọa sàng.

Vua nói vậy xong, liền ngự lên vương xa lộng lẫy và vội vàng đến ngay cổng ngự viên. Tại đó ngài dừng xa giá và đến gần Hiền giả Citta, đảnh lễ rất cung kính rồi ngồi xuống một bên, lòng tràn ngập hân hoan, ngài ngâm vần kệ thứ tám:

8- Thật quý thay là Thánh khúc xưa,
Trẫm từng ca hát thật say sưa,
Trong khi dân chúng đông dồn dập,
Quần tụ chung quanh chật cả nhà;
Nay đến đây xin chào Thánh giả,
Hân hoan, hạnh phúc ngập tâm ta.

Từ lúc tái ngộ Hiền giả Citta, vua hoan hỷ ra lệnh làm mọi sự cần thiết và truyền chuẩn bị bảo tọa dành cho vị hiền huynh, rồi ngài ngâm vần kệ thứ chín:

9- Tọa sàng, nước mát rửa bàn chân,
Đúng pháp là đem lễ cúng dâng,
Thực phẩm dành cho nhiều khách quý,
Xin hiền huynh nhận, trẫm ân cần.

Sau lời mời ngọt ngào này, vua ngâm vần kệ khác để tặng bạn hiền một nửa giang san của mình:

10- Bảo làm cho nhộn nhịp tưng bừng,
Nơi chốn hiền huynh sẽ trú thân,
Truyền đem nữ tỳ theo phục vụ,
Ôi, ta muốn tỏ với hiền nhân
Lòng ta yêu quý ngài tha thiết,
Xin hãy cùng ta ngự trị dân.

Khi nghe những lời này, bậc Trí giả Citta thuyết giáo cho vua qua sáu vần kệ:

11- Hỡi Đại vương, nhìn quả ác hành,
Thấy bao lợi lạc thiện hành sinh,
Ta mong điều ngự thân tu tập,
Con, của không lôi cuốn trí mình.

12- Trăm năm tròn cuộc sống người đời,
Năm tháng theo nhau kế tiếp trôi,
Khi đến hạn kỳ, người héo úa,
Tựa hồ lau sậy nát tan thôi.

13- Thế nghĩa gì hoan lạc, ái ân,
Nghĩa gì săn đuổi cảnh giàu sang?
Nhiều con, nghĩa lý gì? Nên biết,
Hỡi Đại vương, ta thoát buộc ràng.

14- Ta biết, vì đây chính thật chân,
Ta không qua khỏi tử ma thần,
Nghĩa gì vàng bạc và ân ái,
Khi bạn đến thời phải mạng vong?

15- Giòng giống hạ đẳng bước hai chân,
Hạ liệt Chiên đà nhất thế nhân,
Khi nghiệp chín làm phần thưởng quý,
Hai ta cùng có một tiền thân:

16- Tại A-van, bạn trẻ Chiên đà,
Là cặp Nai vàng bến nước xưa,
Đôi chú chim Ưng bờ Niết bút,
Giờ đây giáo sĩ, đó làm vua.

Sau khi đã nói rõ các tiền thân hạ liệt của mình trong quá khứ như vậy, tại đây trong đời hiện tại này, ngài tuyên thuyết tính Vô thường của mọi pháp hữu hình và ngâm bốn vần kệ làm phát khởi tinh tấn lực.

17- Đời người ngắn ngủi chết cùng đường,
Già cả không nơi chốn náu nương,
Này hỡi Pañcala, thực hiện,
Những gì ta khuyến nhủ quân vương:
Tránh xa tất cả hành vi ác,
Đưa đẩy vào đau khổ đoạn trường.

18- Đời người ngắn ngủi, chết sau cùng,
Già cả không nơi chốn trú thân;
Này hỡi Pañcala, thực hiện
Những gì ta khuyến nhủ quân vương:
Tránh xa tất cả hành vi ác
Đưa đẩy vào trong hạ ngục tầng.

19- Nhân thế ngắn sao, chết cuối cùng,
Người già không chốn để nương thân,
Pañcala hỡi, xin thành tựu
Những việc ta khuyên nhủ Đại vương:
Xin hãy xa lìa bao vọng nghiệp,
Nhiễm ô toàn ác dục tham sân..

20- Đời người ngắn ngủi, chết vong thân,
Bệnh, lão làm suy thế lực dần,
Ta chẳng làm sao ra thoát được;
Pañcala thực hiện lời răn:
Tránh xa tất cả hành không thiện
Đưa đẩy vào trong ngục hạ tầng.

Vua rất hoan hỷ khi nghe bậc Đại Sĩ khuyến giáo, liền đáp lời qua ba vần kệ:

21- Lời kia, Tôn giả, quá toàn chân,
Ngài dạy lời như bậc Thánh nhân,
Song dục tham ta đều khó bỏ,
Với người như trẫm, chúng vô cùng.

22- Như voi chìm xuống vũng bùn nhơ,
Không thể bò lên, dẫu thấy bờ,
Trẫm cũng lún sâu bùn dục lạc,
Nên không theo nổi Đạo Thầy tu!

23- Như mẹ như cha dạy bảo con,
Thành người sống hạnh phúc, hiền lương,
Dạy ta hạnh phúc làm sao đạt,
Xin chỉ cho ta bước đúng đường.

Sau đó bậc Đại Sĩ bảo nhà vua:

24- Ngài không thể bỏ, hỡi Quân vương,
Các dục tham đây cũng thế thường:
Vậy chớ bắt dân nhiều thuế nặng,
Trị sao dân chúng thấy công bằng

25- Gửi sứ thần đi khắp bốn phương,
Mời người khổ hạnh, Bà la môn,
Cúng dường thực phẩm, nhà an nghỉ,
Xiêm áo và luôn mọi thứ cần.

26- Đem thức ăn uống để đãi đằng
Bà la môn, Thánh giả, Hiền nhân,
Tâm đầy thành tín, ai ban phát,
Và trị dân tài đức hết lòng,
Người ấy sẽ đi lên thượng giới,
Lỗi lầm không có, lúc vong thân.

27- Song nếu vây quanh bởi má hồng,
Dục tham, ngài thấy, quá say nồng,
Trong tâm hãy nhớ vần thi kệ,
Và hát hò lên giữa đám đông.

28- “Dưới trời không mái để che thân,
Bầy chó xưa cùng nó ngủ lăn,
Mẹ nó cho ăn lúc bước vội,
Mà nay làm một vị vương quân.

Đó là lời khuyến giáo của bậc Đại Sĩ. Rồi ngài lại bảo:

– Ta đã khuyên nhủ Đại vương rồi. Bây giờ Đại vương có muốn làm người tu khổ hạnh hay không là tùy ý Đại vương, song ta sẽ tiếp tục theo đúng nghiệp quả của chính ta làm.

Sau đó ngài bay vụt lên không, phủi bụi bặm trên đôi chân ngài, giã từ vua trong dáng điệu khinh thường, rồi đi về vùng Tuyết Sơn.

Còn phần vua trông thấy cảnh này, lòng vô cùng xúc động, liền giao quốc độ cho thái tử, triệu tập quân sĩ thẳng hướng tiến về vùng Tuyết Sơn. Khi bậc Đại Sĩ nghe vua đến, liền bước ra cùng đám hiền nhân đồ đệ của ngài đón tiếp vua, và truyền giới cho vua sống đời Phạm Hạnh rồi dạy vua phương tiện làm phát khởi Thiền định. Vua tu tập chứng đắc Thắng trí do Thiền định, vì vậy cả hai vị đều cùng được sinh lên cõi Phạm Thiên.

*

Sau khi bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỳ kheo, các bậc trí nhân ngày xưa giữ vững tình bằng hữu lâu dài qua ba bốn đời sống.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda là trí giả Sambhùta và Ta chính là Trí giả Citta.

-ooOoo-

499- Chuyện Đại Vương Sivi (Tiền thân Sivi)

Nếu thí tài gì thuộc thế nhân….

Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về lễ vật cúng dường tối thượng.

Trường hợp này đã được kể đầy đủ trong Chương VIII ở số 424. Tiền thân Savìra. Song tại đây vào ngày thứ bẩy, vua dâng đủ tất cả vật cúng dường và thỉnh cầu lời tùy hỷ; tuy nhiên, bậc Đạo Sư ra đi mà không tán thán công đức của vua. Sau buổi điểm tâm, vua đi đến tịnh xá và hỏi:

– Bạch Thế Tôn, vì cớ gì Thế Tôn không đáp lời tùy hỷ hôm ấy?

Bậc Đạo Sư nói:

– Thưa Đại vương, hội chúng kia không thanh tịnh.

Ngài lại tiếp tục thuyết Pháp, ngâm vần kệ bắt đầu bằng câu:” Người hạ tiện sẽ không lên Thiên giới (Pháp cú 177)”.

Vua đầy hoan hỷ bày tỏ lòng tôn kính đối với đức Như Lai bằng cách dâng chiếc thượng y của xứ Sivi trị giá một ngàn đồng tiền; sau đó vua trở về thành.

Ngày hôm sau trong Chánh pháp đường, Tăng chúng nói về chuyện ấy:

– Này các Hiền giả, vua Kosala đã cúng dường lễ vật tối thượng, và chưa hài lòng với việc ấy, nên sau khi đấng Thập Lực thuyết giáo cho vua ấy, vua liền dâng chiếc y của xứ Sivi trị giá cả một ngàn đồng tiền vàng! Quả thật vua không hề thỏa mãn với việc cúng dường!

Bậc Đạo Sư bước vào, và hỏi các vị đang bàn việc gì khi ngồi đó. Tăng chúng trình với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, bố thí ngoại tài quả thật là điều có thể thỏa đáng được, song các bậc trí nhân ngày xưa đã bố thí cho đến khi khắp cả Diêm phù đề đều vang danh lừng lẫy, mỗi ngày bố thí cả sáu trăm ngàn đồng tiền, vẫn chưa thỏa mãn với việc bố thí ngoại tài, và nhớ lại câu phương ngôn: “Hãy đem cho cái gì ta yêu quý nhất và từ tâm sẽ sinh khởi”, cho nên các vị ấy đã móc đôi mắt mình ra tặng những kẻ nào đòi xin chúng.

Cùng với những lời này; Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi đại đế Sivi cai trị tại kinh thành Aritthapura trong quốc độ Sivi. Bậc Đại Sĩ sinh ra làm vương tử. Triều thần đặt tên ngài là Vương tử Sivi. Khi ngài lớn lên, ngài đi đến Takkasikà học tập tại đó, xong trở về chứng tỏ tài năng kiến thức của ngài trước vua cha nên được phong làm phó vương.

Lúc phụ vương băng hà, ngài lên ngôi vua và từ bỏ các ác đạo, ngài hành trì Thập vương pháp và trị dân rất chân chánh. Ngài truyền xây sáu bố thí đường tại bốn cổng thành, giữa kinh thành và ngay cửa cung của ngài. Ngài bố thí rất hào phóng mỗi ngày sáu trăm ngàn đồng tiền vào các ngày mồng tám, mười bốn và ngày rằm, ngài chẳng hề quên thăm viếng các bố thí đường để xem xét bố thí được thực hành ra sao.

Vào một ngày trăng tròn kia , chiếc lọng hoàng gia đã được giương lên từ sáng sớm và ngài ngự trên ngai vàng suy ngẫm về các thí vật ngài đã ban phát. Ngài tự nghĩ: “Trong tất cả các tài vật bên ngoài, chẳng có món gì ta không đem cho hết, song cách bố thí này chưa làm ta hài lòng. Ta muốn bố thí vật gì thuộc về bản thân ta. Ðược rồi hôm nay ta đến bố thí đường phát nguyện rằng nếu có người nào không xin một vật gì đó ngoài thân ta, lại nói rõ tên một phần thân thể ta, nếu người ấy muốn nói đến chính quả tim ta, ta sẽ quyết lấy dao xẻ phăng lồng ngực ta và chẳng khác nào ta nhổ lên một cộng sen từ hồ nước phẳng lặng, ta sẽ móc lấy quả tim ta đang chảy máu từng cục đem cho người ấy.

Nếu người ấy muốn xin thịt ta, ta sẽ xẻ thịt ra từ thân thể và cho nó, như thế ta dùng cái dao mà khắc chạm tấm thân này. Người đó cứ nói đến máu của ta, ta sẽ lấy máu ta nhỏ từng giọt vào miệng người đó, hoặc đổ đầy một chén rồi đem cho, hoặc nữa, giả sử có ai bảo: “Hạ thần không làm nổi việc nhà, xin hãy đến làm gia nô tại nhà hạ thần”, ta nhận mình là nô lệ và ta sẽ làm hết các việc nô dịch. Hoặc giả có ai đó xin đôi mắt ta, ta sẽ móc mắt ra cho nó như người ta lấy lõi của cây dừa nước”. Ngài nghĩ thầm như vậy:

Nếu thí tài gì thuộc thế nhân,
Dẫu là đôi mắt, chẳng hề ban,
Giờ đây ta sẽ đem ban bố,
Lòng chẳng hãi kinh, thật vững vàng.

Thế rồi ngài tắm mình với mười sáu bình nước hoa thơm và trang sức cực kỳ lộng lẫy và sau một buổi cơm đầy cao lương mỹ vị, ngài ngự lên một con voi được tô điểm cân đai rất rực rỡ đưa ngài đến đại bố thí đường.

Khi Sakka ( Ðế Thích) Thiên chủ nhận thấy quyết tâm của ngài liền suy nghĩ: “Vua Sivi đã cương quyết đem đôi mắt ngài bố thí cho kẻ nào ngẫu nhiên đến xin ngài. Thế ngài có đủ hùng lực để thực hiện việc đó hay chăng?

Thiên chủ quyết định đi thử thách ngài, nên giả dạng một Bà la môn già mù mắt, Thiên chủ đứng trên một chỗ cao, khi đức vua bước vào bố thí đường, Thiên chủ đưa tay ra, kêu lớn:

– Vạn tuế Ðại vương!

Lúc ấy vua lái vương tượng về phía Thiên chủ, phán bảo:

– Này Bà la môn ông nói gì vậy?

Thiên chủ đáp:

– Tâu Ðại vương, trên cõi thế gian này không nơi nào không vang dậy phương danh về từ tâm hào phóng bố thí của Ðại Vương. Nay lão đã mù lòa, còn Ðại vương có đủ hai mắt.

Rồi Thiên chủ ngâm vần kệ đầu để xin một con mắt;

1- Chẳng có mắt, nên chính lão già,
Ðến xin con mắt, tự phương xa,
Lão cầu Chúa thượng ban con mắt
Một mắt cùng nhau mỗi chúng ta.

Khi bậc Ðại Sĩ nghe lời này, ngài suy nghĩ:” Chính đó là chuyện mà ta suy nghĩ ở hậu cung trước khi ta đến đây kia! Ồ cơ duyên đến mới tuyệt diệu làm sao chứ! Tâm nguyện của ta hôm nay sẽ được thành tựu, ta sẽ bố thí một tài vật mà chưa một người thế tục nào từng ban phát”, và ngài ngâm vần kệ thứ hai:

2- Ai đã dạy ông bước đến đây,
Ðể xin một mắt , lão ăn mày?
Ðây phần thân thể người cao trọng,
Chúng bảo xa lìa khó lắm thay!

Các vần kệ sau là do hai vị ngâm để đối đáp với nhau:

Lão Bà la môn:

3- Su-ja Phu tướng, chính nơi đây,
Người gọi Ma-gha cũng hiệu này,
Ngài dạy lão về đây yết kiến,
Van nài cho được một mắt ngay.

4- Thí tài tối trọng đại, mong cầu
Chúa thượng ban già một bảo châu,
Xin chớ chối từ già một mắt,
Thí tài tối trọng, đứng hàng đầu,
Như lời thế tục thường hay nói:
“Thật khó cho người dứt bỏ sao!”

Vua Sivi:

5- Ước nguyện làm ông đến tận đây
Trong lòng ông khởi ước như vầy,
Cầu mong nguyện ước kia thành tựu,
Ðạo sĩ, cầm đôi mắt trẫm này!

6- Ông chỉ xin ta một mắt thôi,
Nhìn xem! Ta bố thí tròn đôi!
Hãy đi với nhãn quang hoàn hảo
Trước mắt nhìn theo của mọi người,
Vậy ước nguyện ông mong thực hiện
Giờ đây hẳn đã đạt thành rồi!

Ðức vua đã nói nhiều như thế. Song nghĩ rằng nếu ngài tự móc mắt của mình ra mà tặng ngay tạiđó, vào lúc ấy, thì không thích hợp, nên ngài đem vị Ba la môn cùng vào nội cung với ngài, và khi ngự lên ngai vàng, ngài truyền lệnh triệu một vị phẫu thuật sư tên là Sivaka vào chầu. Rồi ngài phán:

– Khanh hãy lấy mắt trẫm ra.

Lúc bấy giờ cả kinh thành vang dậy nguồn tin rằng đức vua muốn cắt đôi mắt ngài ra để bố thí cho một lão Bà la môn. Sau đó vị đại tướng quân cùng với các viên quan khác và mọi người thân thuộc của vua, từ trong kinh thành lẫn hậu cung đều tề tựu cùng nhau và ngâm ba vần kệ để xin vua từ bỏ ý định trên:

7- Xin đừng cho mắt, tấu Minh quân!
Chúa thượng ôi, đừng bỏ chúng thần!
Bố thí san hồ, tiền, bảo ngọc,
Và nhiều vật khác quý vô ngần.

8- Cho bầy tuấn mã đủ yên cương,
Bảo kéo đoàn xa giá xuống đường,
Chúa thượng truyền xua đoàn bảo tượng
Cân đai tuyệt mỹ rặt toàn vàng.

9- Các vật này xin Chúa thượng ban,
Chúng thần mong hộ chúa bình an,
Toàn dân trung tín cùng xa pháp,
Tề tựu quanh vương vị xếp hàng.

Vua lập tức đáp lời, ngâm ba vần kệ:

10- Tâm kẻ muốn ban bố, phát nguyền,
Về sau lại thấy chẳng trung kiên,
Cổ mình tự đặt vào thòng lọng
Che dấu nằm sâu dưới đất liền.

11- Tâm nào đã thệ nguyện thi ân,
Sau lại thấy lòng chẳng thuỷ chung,
Thật lỗi lầm hơn là tội ác,
Phải đày đọa ngục Dạ ma cung.

12- Ðừng cho gì nếu chẳng ai xin,
Cũng chớ cho ai thứ chẳng thèm,
Vậy vật này đây hành khất muốn
Cầu xin, trẫm bố thí ngay liền.

Lúc ấy triều thần vừa hỏi:

– Vậy Chúa thượng ước nguyện điều gì khi bố thí cặp mắt của Chúa thượng?

Họ vừa ngâm vần kệ:

13- Thọ mạng, sắc, quyền lực, lạc hoan,
Ðâu là phần thưởng, tấu Minh quân?
Lực nào thúc dục Ngài hành động,
Chúa thượng Sivi của quốc dân,
Sao lợi gì cho đời kế vậy,
Ngài đành bỏ cặp mắt mình vàng?

Vua đáp hội chúng qua vần kệ:

14- Như vậy, trong khi muốn cúng dường,
Ðích ta chẳng nhắm đạt vinh quang,
Nhiều con, nhiều của, nhiều vương quốc,
Ðể nắm quyền cai trị thế gian.
Ðây chính là con đường Thánh thiện,
Từ xưa của các bậc Hiền nhân;
Tâm ta nồng nhiệt hằng mong ước
Ðem mọi thí tài để phát ban.

Trước lời lẽ của bậc Ðại sĩ, quần thần không đáp được nữa, vì thế bậc Ðại sĩ ngâm kệ bảo Sivaka, vị phẫu thuật sư:

15- Bạn hiền, chí thiết, Sivaka,
Xin hãy làm theo lệnh của ta,
Bạn có đầy tài năng kỹ xảo,
Xin đem liền cặp mắt ta ra,
Vì đây là chính điều tâm nguyện,
Và tặng vào tay khất sĩ già.

Song Sivaka đáp:

– Tâu Chúa thượng , xin Chúa thượng suy nghĩ lại. Ðem cho cặp mắt không phải là chuyện tầm thường đâu!

– Này Sivaka, trẫm đã suy xét kỹ rồi. Xin đừng trì hoãn hay nói chuyện gì nhiều trước mặt trẫm nữa.

Lúc ấy Sivaka suy nghĩ: “Một phẫu thuật sư như ta lại lấy lưỡi dao đâm thủng cặp mắt một bậc quân vương thật chẳng hợp lý tí nào”. Vì vậy vị ấy giã một ít cây thuốc, chà xát một đóa sen xanh với thứ bột ấy rồi xoa khắp lên mắt phải của vua; con mắt liền đảo lộn tròng, hết sức đau đớn.

– Tâu Ðại vương, xin ngài hãy suy nghĩ kỹ, hạ thần có thể làm cho mắt bình phục được ngay.

– Này hiền hữu, cứ làm tiếp đi, xin đừng trì hoãn nữa.

Vị ấy lại xát thứ bột kia vào mắt và xoa bóp cho thuốc thấm: con mắt bật ra khỏi lỗ, nỗi đau đớn lại càng khốc liệt hơn trước nữa.

– Tâu Ðại vương, xin ngài hãy suy nghĩ lại, ha thần vẫn có khả năng phục hồi con mắt ngài như cũ.

– Khanh hãy làm việc nhanh lên!

Lần thứ ba, vị phẫu thuật sư xoa một thứ bột mạnh hơn nữa và xát vào; nhờ công hiệu của thuốc này, con mắt đảo lộn và lăn ra ngoài lỗ mắt, dính lủng lẳng ở đầu sợi dây gân.

– Tâu Ðại vương, xin ngài hãy suy nghĩ lần nữa, nay hạ thần vẫn có thể phục hồi con mắt lại như trước.

– Thôi nhanh lên.

Nỗi đau đớn đến tột độ, máu chảy từng giọt, hoàng bào của vua vấy toàn máu đỏ. Ðám cung tần cùng triều thần quỳ xuống kêu van:

– Tâu Chúa thượng, xin đừng hy sinh đôi mắt của Chúa thượng.

Cả đám người kêu gào thắm thiết. Vua cố chịu đựng đau đớn và bảo:

– Này hiền hữu, hãy nhanh lên.

– Xin vâng, tâu Chúa thượng.

Phẫu thuật sư đáp, tay trái cầm lấy tròng mắt, tay phải cầm dao cắt đứt sợi gân và đặt con mắt vào bậc Ðại Sĩ.

Ngài nhìn con mắt phải ấy bằng mắt trái vừa cố chịu đau vừa phán:

– Này Bà la môn hãy đến đây.

Khi vị Bà la môn đến gần, ngài nói tiếp:

– Nhãn quang Chánh giác còn thân thiết hơn nhãn quang này cả trăm lần, à không, cả ngàn lần kia. Ðấy, các người đã hiểu lý do trẫm hành động như vậy.

Rồi ngài trao mắt cho vị Bà la môn, lão liền đưa tay ra đón lấy mắt đặt ngay vào chỗ mắt mình. Nhờ thần lực của vị ấy, con mắt dính chặt vào đó chẳng khác nào đóa sen xanh nở ra.

Khi bậc Ðại Sĩ dùng mắt trái nhìn thấy con mắt kia trên mặt của vị Bà la môn, ngài kêu lớn:

– Ôi tốt lành thay là việc bố thí con mắt này của ta.

Rồi nỗi hân hoan sinh khởi trong tâm ngài làm rung động toàn thân ngay giây phút ấy, ngài lại bố thí luôn con mắt kia. Ðế Thích Thiên chủ cũng đặt con mắt này vào lỗ mắt của mình và từ cung vua, Thiên chủ ra đi, sau đó rời kinh thành trước ánh mắt kinh ngạc của mọi người nhìn theo, rồi trở về Thiên giới.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðại Sĩ ngâm một vần kệ rưỡi:

16- Si vi chúa tể giục Si va
Hoàn tất tâm nguyện của đức vua,
Trao tặng Bà la môn tài thí vật,
Y sư lấy cặp mắt ngài ra,
Bà la môn có liền đôi mắt,
Chúa thượng giờ đây phải tối lòa.

*

Chẳng bao lâu, đôi mắt vua bắt đầu mọc lại, trong lúc chúng xuất hiện từ từ, và trước khi lên đến đỉnh cao của hai lỗ mắt, một cục thịt lớn dần bên trong lỗ như thể trái cầu bằng lông thú, tựa hồđôi mắt trên hình đứa trẻ nhồi bông, song nỗi đau đớn đã chấm dứt. Bậc Ðại Sĩ an nghỉ trong cung thất ít ngày.

Sau đó ngài suy nghĩ:” Một kẻ mù lòa còn dính líu gì đến việc trị nước nữa. Ta muốn giao quốc độ cho các triều thần, rồi vào ngự viên thành kẻ khổ hạnh, sống đời thanh tịnh”.

Ngài liền triệu tập quần thần, nói cho hội chúng nghe những việc ngài dự định làm. Ngài phán:

– Một người sẽ ở bên ta để rửa mặt, chăm sóc ta làm những gì cần thiết và phải buộc một sợi dâyđể dắt ta đi về nơi ẩn dật.

Sau đó ngài truyền gọi viên quan lái xe của ngài đến và ra lệnh cho người ấy chuẩn bị vương xa. Song triều thần không muốn ngài ra đi bằng xe ngựa, họ đưa ngài lên đường trong chiếc kiệu bằng vàng và đặt ngài xuống bên cạnh bờ hồ, đứng vây quanh ngài, canh phòng cẩn thận xong lại ra về. Còn vua ngồi trong kiệu suy nghĩ đến việc bố thí của mình.

Lúc ấy chiếc ngai của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nóng rực lên. Thiên chủ xem xét và nhận thấy lý do kia: “Ta sẽ ban thưởng vua một điều ước”, ngài suy nghĩ, “và làm đôi mắt của vua bình phục trở lại”.

Vì thế Thiên chủ đến chỗ ấy. Khi không còn cách xa bậc Ðại Sĩ mấy, Thiên chủ cất bước đi đi lại lại quanh đó.

*

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo Sư ngâm các vần kệ sau:

17- Vài ngày qua cặp mắt vừa lành,
Bình phục dần nên lại hiện hình,
Ðại đế Sivi nuôi quốc độ
Triệu quan điều ngự của riêng mình;

18- “Ngự quan, chuẩn bị chiếc vương xa,
Rồi đến đây trình báo với ta,
Ta muốn vào khu rừng, thượng uyển,
Ðầy hồ sen súng mọc chen hoa”.

19- Quan đặt vua vào chiếc kiệu hoa,
Và đây, dừng kiệu ở bên bờ,
Su-ja Phu tướng, ngài Thiên chủ,
Xuất hiện, chính là Ðại Sakka.

– Ai đó?

Bậc Đại Sĩ kêu lên khi ngài nghe tiếng bước chân kia. Ðế Thích Thiên chủ liền ngâm vần kệ:

20- Chính ta là Thượng đế Sakka,
Ta đến đây tham kiến nhà vua,
Hãy chọn hồng ân, này Thánh chúa,
Điều gì ngài ước, nói cùng ta.

Vua đáp lời qua vần kệ khác:

21-Sinh lực, kho vô tận, bảo châu,
Ta đều bỏ lại hết đằng sau,
Thiên hoàng, ta chẳng mong gì nữa
Trừ chết, vì ta có mắt đâu!

Sau đó Thiên chủ hỏi:

– Này Ðại vương Sivi, ngài cầu mong cái chết vì ngài muốn chết hay vì ngài mù lòa?

– Tâu Thiên chủ, vìỉ ta mù lòa.

– Này Ðại vương, tài vật bố thí tự nó không phải là hoàn toàn đầy đủ ý nghĩa, mà nó phải được bố thí với một cái nhìn hướng về đời sau. Tuy thế, vẫn còn có duyen cớ liên quan đến cuộc đời hiện tại này. Trước đây, người kia xin ngài chỉ một mắt, ngài lại cho cả hai, vậy ngài hãy phát nguyện nói lời Chân thật về việc đó.

Rồi Thiên chủ ngâm kệ:

22- Chúa tể của loài lưỡng túc nhân,
Hãy nguyền nói đúng lẽ toàn chân,
Nếu ngài tuyên bố lời chân thật,
Ðôi mắt ngài nay sẽ phục hoàn.

Nghe lời này, bậc Ðại sĩ đáp:

– Tâu Thiên chủ, nếu ngài muốn ban cho trẫm con mắt thì xin đừng cố tìm phương tiện gì khác nữa, mà hãy làm cho mắt trẫm phục hồi như là kết quả hạnh bố thí của trẫm thôi.

Thiên chủ bảo:

– Này Ðại Vương, dù ta được chúng gọi là Ðế Thích, Chúa tể chư Thiên, ta cũng không thể đem con mắt cho ai được cả; tuy thế, nhờ thiện quả từ hạnh bố thí của Ðại vương, chứ chẳng phải do việc gì khác, mà mắt của Ðại vương sẽ được phục hồi đó thôi.

Tiếp theo, vua ngâm kệ xác nhận việc bố thí của mình đã được thực hiện tốt đẹp chân chánh:

23- Loài nào bất kể, muốn cầu ân,
Hễ có ai nài nỉ lại gần,
Ai đến bất kỳ, xin bố thí,
Lòng ta cũng thấy thật thương thân:
Nếu lời Ðại nguyện này chân thật,
Cầu mắt ta nay sẽ hiện dần.

Ngay khi ngài vừa thốt những lời này, một con mắt của ngài xuất hiện ra trong lỗ mắt. Sau đó ngài ngâm đôi vần kệ để xin phục hồi con mắt kia:

24-Một đạo sĩ kia đến viếng ta,
Chỉ cần xin một mắt thôi mà,
Ta đà đem trọn đôi con mắt,
Bố thí La môn khất sĩ già.

25- Hoan hỉ càng nhiều, lạc thọ tăng,
Chính hành động ấy đã ban phần,
Nếu lời Nguyện ước này Chân thật,
Mong được mắt kia cũng phục hoàn.

Lập tức con mắt thứ hai xuất hiện, song đôi mắt này không phải là tự nhiên hay của thần linh nào. Con mắt do Ðế Thích Thiên chủ giả dạng Ba la môn ban cho, không thể là con mắt tự nhiên mà có được, ta phải hiểu như vậy; còn về phương diện khác, thì một con mắt thần linh không thể hóa hiện ra bất cứ sinh vật nào đã bị thương tật. Nhưng thật sự cặp mắt này được gọi là Nhãn quang Toàn chân và Tối thắng.

Vào lúc chúng xuất hiện, toàn thể triều thần tề tựu lại nhờ thần lực của Ðế Thích Thiên chủ; và Ðế Thích Thiên chủ đứng giữa hội chúng, cảm hứng ngâm đôi vần kệ tán thán đức vua:

26- Ðại đế Sivi bảo dưỡng dân!
Bài ca thánh thiện của Minh quân
Cho ngài được hưởng phần ân huệ
Vô giá này, đây cặp mắt thần.

27- Xuyên qua tường, núi, đá, đồng bằng,
Bất cứ vật gì đứng cản ngăn,
Ðôi mắt ngài đây đều thấy suốt
Khoảng chừng trăm dặm ở mười phương.

Khi ngâm kệ xong, ngài vụt đứng trên không trước hội chúng này cùng với lời khuyến giáo bậc Ðại Sĩ phải tỉnh giác tu tập, rồi Thiên chủ trở về Thiên giới.

Còn bậc Ðại Sĩ được đám tùy tùng vây quanh, ngự xa giá về kinh thành trong cảnh uy nghi trọng thể và ngài bước vào cung điện mệnh danh Candaka hay Khổng tước Nhãn (Con mắt chim công)

Nguồn tin đức vua đã được phục hồi cặp mắt vang dậy khắp vương quốc Sivi. Toàn dân tập họp lại để yết kiến ngài cùng với các cống vật trong tay. Bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Giờ đây hội chúng nàyđã tụ họp đông đủ, ta sẽ tán thán việc bố thí vừa rồi đã làm”. Ngài truyền lệnh dựng lên một ngôi đình ngay cổng thành, nơi đó ngài ngự trên môt vương toạ với chiếc lọng trắng hoàng gia che trên đầu ngài, triệu tập các hội đoàn, dân chúng, quân sĩ lại; rồi ngài phán:

– Này dân chúng Sivi, nay các người đã nhìn thấy cặp thiên nhãn này thì đừng có bao giờ ăn thứ gì mà không đem bố thí đi một ít!

Rồi ngài ngâm bốn vần kệ tuyên thuyết Pháp lành:

  1. Nếu mình được gợi ý thi ân,
    Nào ai có từ chối được chăng,
    Dù đó là phần cao quý nhất,
    Của mình, bảo vật giá vô ngần

29- Dân chúng Sivi hội họp đoàn,
Ðến đây, nhìn cặp mắt trời ban!
Xuyên qua tường đá , đồi, thung lũng
Bất cứ vật gì đứng cản ngăn
Ðôi mắt ta đều trông thấy suốt
Một trăm dặm trải khắp mười phương

30- Từ bỏ thân mình giữa thế nhân
Là điều cao quý nhất trên trần,
Ta đem bố thí mắt phàm tục,
Nên được trời cho cặp mắt thần.

31- Dân chúng này xem, hãy phát ban,
Nhường phần cho kẻ khác khi ăn,
Nếu làm việc ấy đầy tâm thiện,
Người sẽ sinh thiên chẳng lỗi lầm.

Ðức vua thuyết Pháp qua bốn vần kệ này, và về sau cứ mỗi nửa tháng, vào ngày Trai giới, và mỗi ngày rằm ngài lại thuyết Pháp qua các vần kệ trên liên tục trước đám dân chúng đông đảo quây quần. Nghe lời ấy, dân chúng bố thí và làm nhiều thiện sự, cho nên đã đi lên gia nhập hội chúng cõi trời thật đông đúc.

*

Sau khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỳ kheo, các bậc trí nhân ngày xưa không thỏa mãn việc bố thí ngoại tài, nên đã bố thí cho bất cứ người nào ngẫu nhiên đến xin chính cả đôi mắt của mình lấy từ đầu ra nữa.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

-Vào thời ấy Ànanda là phẫu thuật sư Sivaka, Anuruddha (A-na-luật-đà) là Thiên chủ Ðế Thích, hội chúng của đức Phật là toàn dân và Ta chính là vua Sivi.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thần Nữ Cát Tường (Tiền thân Sirimanda)

Chuyện Thần nữ Cát Tường này sẽ được kể đầy đủ trong chuyện Ðường Hầm Lớn (Mahà-Ummagga) số 546.

-ooOoo-

  1. Chuyện Lộc Vương Rohanta (Tiền thân Rohanta Miga)

Hãi kinh thần chết hỡi Citta…..

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm ( Veluvana) về Tôn giả Ànanda (A-nan)đã hy sinh tính mạng mình.

Sự hy sinh này được miêu tả trong chương XXI, số 553. Tiền thân Culla-Hansa, tập V. ChuyệnĐiều phục con voi Dhanapàla (Tài hộ). Sau khi Tôn giả đã hy sinh tính mạng mình vì bậc Đạo Sư, Tăng chúng bàn tán việc ấy trong Chánh pháp đường.

– Này Hiền giả, Tôn giả Ànanda, sau khi đạt tri kiến đầy đủ về con đường tu tập Giáo pháp, đã hy sinh tính mạng mình vì đấng Thập lực (Dasabala: danh hiệu của đức Phật).

Bậc Đạo Sư bước vào, hỏi Tăng chúng nói chuyện gì trong khi ngồi tại đó. Tăng chúng trình bày với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu tiên vị ấy hy sinh tánh mạng vì Ta, mà trước kia cũng đã làm như vậy.

Rồi Ngài kể cho hội chúng nghe một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì Ba la nại, chánh hậu của vua tên là Khemà (Thái Hòa). Thời ấy Bồ Tát được sinh làm con Hươu ở vùng Tuyết Sơn có màu da vàng óng ả tuyệt đẹp, và em trai của Ngài là Citta Miga hay Hươu sao, và em gái ngài là Sutanà cũng có màu da như thế. Bấy giờ bậc Đại Sĩ có tên Rohanta làm chúa tể đàn hươu lớn. Vượt băng ngang qua hai rặng núi, vào đến rặng thứ ba, ngài sống ở bên hồ Rohanta và được cả bầy hươu nai tám mươi ngàn con vây quanh hầu hạ. Thời ấy ngài phải phụng dưỡng song thân ngài già cả mù lòa.

Bấy giờ một người thợ săn ở trong một làng săn gần Ba la nại đến vùng Tuyết Sơn và chợt thấy bậc Đại Sĩ. Lão trở về làng mình và vào lúc lâm chung, lão dặn con trai:

– Này con, ở một nơi nọ trong vùng đất cha săn bắn, có một con hươu màu vàng ròng, nếu bao giờđức vua chợt phán hỏi thì con hãy xin phép tâu trình với ngài về chuyện đó.

Một ngày kia hoàng hậu Khemà, trong một giấc mộng về sáng, nằm mơ thấy cảnh như vầy: Một con hươu màu vàng ròng ngồi trên một chiếc kim đôn thuyết pháp cho hoàng hậu nghe bằng giọng nói ngọt ngào như mật, chẳng khác gì tiếng chuông ngân vang. Song trước khi bài giảng chấm dứt, con hươu đứng lên và chạy mất, bà giật mình tỉnh dậy và kêu to:

– Bắt lấy con hươu!

Đám nữ tỳ nghe tiếng bà kêu, bật cười ròn rã:

– Đây là cung thất đóng kín mọi cửa lớn lẫn cửa sổ, ngay cả một mảy gió cũng không lọt vào được, giữa lúc này mà lệnh bà gọi lớn bảo bắt con hươu kia!

Đến khi ấy bà mới biết đó chỉ là giấc mộng. Song bà tự nhủ: “Nếu ta bảo đó là giấc mộng thì đức vua sẽ không để ý. Nhưng nếu ta bảo đó là nỗi ước ao của một thai phụ thì ngài sẽ quan tâm lo lắng ngay. Vậy ta quyết phải nghe cho được lời thuyết Pháp của chính con hươu màu hoàng kim ấy!”

Sau đó bà liền nằm xuống giả vờ ngã bệnh. Vua bước vào:

– Này ái khanh có việc gì thế? Ngài hỏi.

– Ôi tâu Chúa thượng, đó chỉ là nỗi ao ước tự nhiên của thần thiếp.

– Thế ái khanh muốn điều gì?

– Thần thiếp ước ao được nghe lời thuyết Pháp của một con hươu màu hoàng kim chân chánh.

– Kìa ái khanh, điều ái khanh ao ước không hề có: chẳng bao giờ có con vật nào là loài hươu hoàng kim cả.

Bà đáp:

– Nếu thần thiếp không được như ý, thần thiếp sẽ phải chết ngay lập tức.

Bà liền quay lưng lại về phía vua và nằm im. Vua bảo:

– Nếu có một con vật như thế trên đời này thì nó sẽ được bắt về ngay.

Sau đó vua hỏi các triều thần và các Bà la môn như trong chuyện Tiền thân “Khổng tước” (số 129, tập I) để xem thử có loài vật nào là hươu hoàng kim chăng. Khi được biết là hiện có, ngài triệu tập các thợ săn vào và hỏi:

– Trong các người, ai đã từng thấy hoặc nghe nói về một con vật như thế chăng?

Con trai của lão thợ săn mà ta đã nói trên đây liền kể lại câu chuyện gã nghe được. Vua phán:

– Này ngươi, khi nào ngươi đem về cho trẫm con hươu kia thì trẫm sẽ ban thưởng ngươi rất trọng hậu, vậy ngươi hãy đi tìm kiếm nó và đem về đây.

Ngài bảo đưa tiền lộ phí cho gã và bảo gã lui ra. Người thợ săn tâu:

– Xin Chúa thượng đừng lo, nếu như tiểu thần không đem được con hươu ấy về thì tiểu thần cũngđem được bộ da nó về, nếu không đem được da thì cũng đem được lông nó về đây.

Sau đó người ấy trở lại nhà, đưa số tiền vua ban cho gia đình mình rồi ra đi vào rừng và trông thấy Lộc vương. Gã suy nghĩ: “Ta phải đặt bẫy ở đâu để bắt hươu đây?” Gã thấy ngay cơ hội tốt ở chỗ hươu nai uống nước. Gã kết một sợi dây bằng da thật chặt và đặt sợi dây vào một cái sào ở nơi mà bậc Đại Sĩ thường xuống để uống nước.

Hôm sau bậc Đại Sĩ cùng với tám mươi ngàn con hươu trong lúc tìm kiếm thức ăn, đi đến đó để uống nước tại bến sông thường lệ. Ngài vừa đặt chân xuống liền bị kẹt ngay vào dây thòng lọng. Ngài suy nghĩ: “Nếu ta rống lên tiếng kêu bị nạn thì cả đàn hươu sẽ kinh hoàng chạy trốn mà không được ăn uống gì cả”. Vì thế, mặc dầu ngài bị siết chặt ở đầu cây sào, ngài vẫn đứng giả vờ uống nước, như thể đang còn được tự do.

Khi tám mươu ngàn con hươu đã uống xong và bấy giờ chúng đã bước ra khỏi nước, ngài liền lắc mạnh cái thòng lọng ấy ba lần cố làm nó đứt ra. Lần đầu ngài làm rách da, lần thứ hai nó đâm sâu vào thịt và lần thứ ba làm giãn gân ra, vì thế cái thòng lọng siết tới tận xương tủy. Sau đó vẫn không thể nào phá đứt thòng lọng, ngài rống lên kêu bị nạn: cả bầy hươu kinh hoàng chạy thoát thân thành ba đàn lớn.

Citta Miga không tìm được bậc Đại Sĩ trong ba đàn ấy liền suy nghĩ: “Mối hiểm họa này vừa xảy ra cho bọn ta đã gieo xuống đại huynh của ta”. Khi quay về, chú hươu em thấy ngài đã bị mắc bẫy thật chặt. Bậc Đại Sĩ chợt thấy em mình, liền kêu lên:

– Này hiền đệ, đừng đứng đây nữa, ở đây nguy hiểm lắm.

Rồi ngài ngâm kệ, thúc giục em chạy trốn:

1- Hãi kinh thần chết, hỡi Citta,
Cả đám hươu kia chạy thoát xa
Hiền đệ hãy đi, vì bọn chúng
Cùng em sẽ sống, chớ chần chờ.

Ba vần kệ sau do anh em đối đáp nhau:

Citta:

2- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Chẳng lìa anh tại nơi này nữa,
Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.

Rohanta:

3- Chẳng ai bảo dưỡng lại mù lòa,
Phải chết song thân, mẹ lẫn cha,
Em hãy về ngay cùng phụ mẫu,
Hỡi em đừng nấn ná gần ta.

Citta:

4- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Chẳng rời anh ở nơi này nữa,
Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.

Rồi Citta đứng vững làm chỗ dựa cho Bồ Tát ở bên phải và cố làm vui vẻ để ngài phấn khởi tinh thần.

Còn Sutanà, là bé Hươu còn non tơ, cứ chạy quanh quẩn giữa bầy hươu, song không tìm thấy hai anh đâu cả, cô bé Hươu non suy nghĩ: “Chắc tai họa đã xẩy ra cho hai anh của ta rồi”. Bé Hươu quay lại, đến chỗ hai anh và khi bậc Đại Sĩ thấy em gái tới, liền ngâm vần kệ thứ năm:

5- Hươu nhút nhát, mau chạy trốn xa,
Bạo tàn thòng lọng siết chân ta,
Hãy đi theo chúng đừng lưu luyến,
Em phải sống cùng với mẹ cha.

Ba vần kệ sau lại được hai anh em đối đáp như trên:

Sutanà:

6- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Chẳng rời anh ở nơi này nữa,
Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.

Rohanta:

7- Chẳng ai bảo dưỡng lại mù lòa,
Phải chết song thân, mẹ lẫn cha,
Em hãy về ngay cùng phụ mẫu,
Hỡi em đừng nấn ná gần ta

Sutanà:

8- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Em liều mất mạng, song không thể
Bỏ mặc anh sa bẫy buộc chân.

Như vậy nàng Hươu non cũng không chịu nghe lời ngài, nên cứ đứng bên cạnh ngài mà an ủi vỗ về.

Bấy giờ người thợ săn thấy bầy hươu đã chạy trốn mất và nghe tiếng kêu của con vật mắc cạn:” Ắt hản là Hươu chúa đã bị lọt bẫy rồi!”. Gã nói xong, nai nịt dây đai thật kỹ và chạy vội đi.

Bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ thứ chín, ngài vừa thấy gã đến:

9- Thợ săn hung dữ, dáo trong tay
Nhìn gã, kìa đang bước đến đây!
Rồi với mũi tên hay ngọn giáo,
Chúng mình, gã giết nội, ngày nay!

Citta không chạy trốn, dù chú hươu này cũng trông thấy gã thợ săn. Còn bé Sutanà không đủ mạnh dạn để đứng yên, cứ vẫn chạy loanh quanh vì sợ chết. Rồi nàng Hươu bé bỏng kia suy nghĩ: “Ta sẽ chạy thoát đi đâu nếu ta bỏ mặc các anh của ta?” Thế là cô nàng quay lại, dành chịu hy sinh tánh mạng, mặc cho tử thần ghi dấu trên đôi mày và đứng yên phía bên trái anh mình.

*

Bậc Đạo Sư ngâm vần kệ thứ mười để giải thích việc này:

10- Hươu non mềm yếu quá kinh hoàng,
Sợ hãi chạy quanh cố kiếm đường,
Rồi có hành vi đầy quyết liệt:
Vì nàng đành chịu phận đau thương.

*

Khi người thợ săn đến nơi, gã thấy cả ba sinh vật này đứng bên nhau. Một ý tưởng từ mẫn thương xót nổi lên trong lòng, vì gã đoán chúng là anh em cùng một mẹ. Gã suy nghĩ: “Chỉ một mình Hươu chúa đàn bị mắc bẫy, còn hai Hươu kia thì bị ràng buộc bởi những mối liên hệ thương yêu tôn trọng mà thôi. Thế chúng có họ hàng gì với Hươu chúa chăng?” Gã hỏi câu ấy như vầy:

11- Đôi lộc dù không bị buộc chân,
Là ai, chầu chực cạnh tù nhân,
Không đành bỏ mặc chàng Hươu chúa,
Và chạy trốn đi để thoát thân?

Bồ tát liền đáp:

12- Em gái, em trai ấy thật là,
Cùng chung một mẹ đã sinh ra,
Không đành phận được riêng mình sống,
Bỏ mặc ta trơ trọi đấy mà.

Những lời này lại làm cho tim gã mềm dịu xúc cảm tột độ. Lộc vương đệ Citta nhận thấy lòng gã thợ săn đã trở thành thân ái nhu hòa, liền nói:

– Này Hiền hữu thợ săn, hiền hữu đừng tưởng rằng đây là một con hươu tầm thường chứ không có gì khác, ngài đây chính là Lộc vương của tám mươi ngàn con hươu. Ngài đã sống đời đạo hạnh, có từ tâm đối với muôn loài và trí tuệ cao minh, ngài đã phụng dưỡng song thân nay đã già cả mù lòa. Nếu hiền hữu giết một bậc chân chánh như vậy, tức là giết chết song thân ta, em gái ta và ta nữa, luôn năm mạng tất cả. Còn nếu hiền hữu tha mạng ngài, là hiền hữu đem cuộc sống lại cho cả năm mạng ta đó.

Rồi Hươu này ngâm kệ:

13- Chẳng ai chăm sóc lại mù lòa,
Đành phải chết luôn cả mẹ cha,
Thiện hữu hãy tha năm mạng ấy,
Và xin thiện hữu thả anh ta.

Khi người thợ săn nghe lời thuyết giáo đầy hiếu thảo này, lòng gã vô cùng hoan hỷ, gã đáp:

– Xin Chúa công đừng sợ.

Rồi gã ngâm kệ tiếp đáp lời:

14- Thôi được, này xem ta thả ra,
Chúa Hươu hiếu dưỡng mẹ cùng cha,
Khi nhìn con bảo toàn thân mạng,
Cha mẹ vui mừng sẽ múa ca.

Trong khi nói thế, gã suy nghĩ: “Nay ta còn thiết gì đến đức vua cùng các danh vọng ngài ban cho nữa? Nếu ta làm hại Hươu chúa này, thì hoặc là mặt đất sẽ há miệng ra nuốt chửng ta, hoặc là Thiên lôi sẽ giáng xuống đánh tan xác ta. Vậy ta quyết thả Hươu này thôi”. Vì thế gã đến gần bậc Đại Sĩ, hạ cây sào xuống và cắt sợi dây da. Sau đó gã ôm lấy Hươu chúa vào lòng, đặt Hươu xuống gần mặt nước, nhẹ nhàng êm ái tháo gỡ nút dây thòng lọng ra khỏi chân Hươu, nối các đầu dây gân lại với nhau, làm kín vết thương trên da thịt cùng các mép da bị sây sát, lấy nước rửa sạch máu, rồi cứ thoa bóp Hươu khắp mình mẩy một cách đầy thương xót.

Nhờ uy lực của lòng thân ái kia cùng với công hạnh viên mãn của bậc Đại sĩ, nên toàn thân ngài bình phục như trước, đủ gân cổ, da, thịt, lông tơ và da non bao phủ cẳng chân, nên không ai đoán biết được chỗ nào Hươu đã bị trọng thương cả. Bậc Đại Sĩ đứng tại đó và tràn ngập hạnh phúc trong lòng, Citta nhìn ngài vô cùng hoan hỷ nên ngỏ lời cảm tạ người thợ săn qua vần kệ này:

15- Chú thợ, cầu mong phước lộc tràn,
Ước ao hạnh phúc cả thân bằng,
Như ta hạnh phúc khi nhìn ngắm
Đại lộc vương nay được thoát nàn.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Phải chăng vì tự ý mà người thợ săn đánh bẫy ta, hay do lệnh của một ai khác?”. Và ngài hỏi nguyên nhân bắt hươu này. Người thợ săn đáp:

– Tâu Chúa công, kẻ hèn này không có liên can gì đến Chúa công cả, chính vương hậu Khemà của đức vua ước mong nghe ngài thuyết giảng Chánh pháp, cho nên kẻ hèn này đã đánh bẫy ngài theo lệnh vua truyền.

– Hiền hữu, bạn đã dám cả gan thả ta ra ư? Mau lên, đưa ta vào yết kiến đức vua, rồi ta sẽ thuyết giáo trước mặt hoàng hậu.

– Quả thật, tâu Chúa công, các vua chúa thường ác độc lắm. Làm sao ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra? Kẻ hèn này chẳng màng thứ công danh gì mà đức vua có thể ban cho mình đâu; vậy ngài hãy ra đi nơi nào như ý.

Nhưng bậc Đại Sĩ lại suy nghĩ rằng gã thả ngài ra là một việc qúa liều lĩnh, nên ngài phải tìm cơ hội cho gã đạt vinh quang danh vọng đã được vua hứa hẹn trước ấy. Vì thế ngài bảo:

– Này hiền hữu, hãy lấy tay xát mạnh vào lưng ta.

Gã làm y lời, bàn tay gã liền dính dầy lông tơ vàng óng.

– Tâu Chúa công, kẻ hèn này sẽ làm gì với đám lông tơ này đây?

– Này hiền hữu, hãy đem chúng về trình lên đức vua cùng hoàng hậu, tâu các ngài rằng đây là đám lông tơ của Hoàng kim Lộc vương kia, rồi hãy thay mặt ta thuyết giáo cho hai vị ấy nghe các lời kệ mà ta sắp ngâm đây. Khi hoàng hậu nghe lời hiền hữu như thế là cũng đủ làm thỏa mãn niềm khát khao của hoàng hậu rồi.

– Tâu Lộc vương, xin ngài hãy thuyết Pháp.

Người thợ săn nói và Hươu chúa dạy cho gã mười vần kệ về đời sống Thánh hạnh, trình bày Ngũ giới đức và bảo gã ra đi với lời dặn dò khuyên nhủ gã phải tỉnh giác hộ phòng.

Người thợ săn cư xử với bậc Đại Sĩ như cách người ta đồn đãi tôn trọng một bậc thầy vậy. Gã đi diễu quanh ngài ba lần hướng về phía hữu, đảnh lễ bốn lần rất cung kính và gói ghém đám lông tơ vàng ấy trong ngọn lá sen rồi ra đi.

Ba anh em chúa Hươu tiễn đưa gã đi một đoạn đường . Sau khi ăn uống xong, ba vị liền trở về với cha mẹ.

Song thân vội hỏi ngài:

– Này con yêu Rohanta, cha mẹ đã nghe con bị bắt, làm sao con trở về được tự do đây?

Hai vị hỏi qua vần kệ:

16- Làm thế nào con được tự do,
Khi đời con suýt dứt đường tơ?
Sao người săn nọ cho con thoát,
Chiếc bẫy giăng kia đã phỉnh lừa?

Bồ tát ngâm ba vần kệ đáp lời:

17- Citta đã giải thoát cho con
Bằng những lời rung động tâm hồn,
Mê mẩn đôi tai, xuyên thấu dạ,
Lời đưa trong sáng thật du dương.

18- Suta đã giải thoát cho con,
Bằng những lời rung động tâm hồn,
Mê mẩn đôi tai, xuyên thấu dạ,
Lời đưa trong sáng thật du dương.

19- Chú thợ kia đã giải thoát con,
Khi nghe lời nói thật mê hồn,
Thấm sâu tâm trí, xuyên vào dạ,
Lời lẽ thanh tao dịu ngọt tuôn.

Song thân của ngài bày tỏ lòng cảm ơn bằng một vần kệ:

20- Ta chúc người, gia quyến, vợ con,
Cầu mong các vị phước duyên tròn,
Như ta hạnh phúc khi nhìn ngắm
Nay chúa Lỗ hân được thoát nàn.

Bấy giờ người thợ săn ra khỏi rừng đi về yết kiến vua, gã đảnh lễ ngài và đứng chầu một bên. Khi vua trông thấy gã liền bảo:

21- Lạp hộ, mau lên , nói trẫm hay,
Nhà ngươi có phải muốn thưa vầy
“Tâu hoàng thượng, tấm da hươu chúa,
Nay tiểu thần dâng ngự lãm ngay”.
Hoặc giả da hươu ngươi chẳng có
Để dâng, vì cớ sự gì đây?

Thợ săn:

22- Chúa Hươu đã đến tận tay rồi
Vào bẫy nằm sâu kín của tôi.
Bị bắt liền, song đôi lộc khác
Thong dong chầu chực một bên ngài.

23- Xót thương, thần rợn cả làn da
Từ mẫn lạ thường mới khởi ra:
“Nếu giết Hươu này (thần nghĩ ngợi),
Đời thần ắt cũng hóa ra ma!”

Nhà vua:

24- Lạp hộ, bầy hươu ấy thế nào,
Phong tư, cốt cách chúng ra sao,
Màu lông, đặc tính gì trong chúng
Xứng đáng lời kia tán tụng cao?

Vua cứ hỏi đi hỏi lại câu này mãi như thể một người tràn đầy kinh ngạc. Gã thợ săn đáp lời qua vần kệ:

25- Đôi sừng như bạc, dáng cao sang,
Với bộ lông da sáng rỡ ràng,
Chân đỏ, mắt ngời sao chói lọi,
Toàn thân tuyệt mỹ giữa trần gian.

Trong lúc ngâm kệ, gã vừa đem đặt vào lòng bàn tay vua một nắm lông tơ vàng ánh của bậc Đại Sĩ và qua một vần kệ khác, gã trình bày sơ lược đặc tính của các Hươu này:

26- Phong tư, cốt cách chúng như vầy,
Tâu Chúa công, là đám lộc này,
Chúng vẫn tìm mồi nuôi phụ mẫu,
Thần không đem được chúng về đây.

Qua những lời này, gã miêu tả các đức tính của bậc Đại Sĩ, của chú Hươu em Citta và cô bé Hươu non Sutanà, rồi nói thêm điều này:

– Tâu Đại vương, Hươu chúa cho tiểu thần một nắm lông, lại bảo thần thay thế địa vị ngài mà thuyết Pháp trước Hoàng hậu qua mười vần kệ về đời sống theo Thánh hạnh.

Trong lúc gã thợ săn vừa ngồi trên bảo tọa bằng vàng, gã thuyết Pháp lành qua mu+o+fi vần kệ này:

(Theo bản kinh Miến Điện, vua đặt gã thợ săn lên chiếc vương tọa được chạm cẩn với bảy loại châu báu; còn chính vua cùng hoàng hậu ngồi trên một bảo tọa thấp hơn, đặt ở một bên, rồi cung kính đảnh lễ, thỉnh cầu gã thuyết giảng. Người thợ săn thuyết giảng pháp lành như vầy:)

27- Tâu Hoàng thượng, đối với song thân,
Xin thực hành đường lối chánh chân,
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường.

28- Với đàn thê tử, tấu quân vương,
Xin thực hành đường lối chánh chân
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường

29- Đại vương với thân hữu quần thần
Xin thực hành đường lối chánh chân,
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường.

30- Trong bước lãng du, hoặc chiến trường,
Thực hành đường lối sống thuần lương,
Vì nhờ sống cuộc đời chân chánh,
Thiên giới sẽ về, tấu Đại vương

31- Trong làng, thị trấn, tấu quân vương,
Xin thực hành đường lối chánh chân,
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường.

32- Mọi miền quốc độ, tấu Quân vương
Xin thực hành đường lối chánh chân,
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường

33- Với các Sa môn, Bà la môn,
Thực hành đường lối sống hiền nhơn,
Vì nhờ sống cuộc đời chân chánh
Thiên giới sẽ về , tấu Đại vương!

34- Với loài cầm thú, tấu Quân Vương,
Xin thực hành đường lối chánh chân
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường.

35- Xin thực hành chân chánh Đại vương
Từ đây nguồn hạnh phúc tuôn tràn,
Nhờ đi theo cuộc đời chân chánh
Chúa thượng sẽ lên cõi ngọc đường

36- Hộ phòng tỉnh giác, tấu Quân vương
Tiến bước trên đường lối thiện lương,
Thiên chủ, chư Thiên cùng giáo sĩ,
Từ lâu đã đạt cõi Thiên đường.

37- Ngàn xưa đây chính các phương ngôn,
Đi đúng theo đường lối trí nhân,
Thiên nữ được tràn đầy hạnh phúc,
Tự mình thăng tiến cõi Thiên đường.

Người thợ săn đã thuyết Pháp như trên, theo cách bậc Đại Sĩ đã giảng bày cho gã với tài năng của một bậc Giác Ngộ, chẳng khác nào người đem từ bầu trời xuống trần thế cả giải Thiên hà kia. Hội chúng gồm đủ ngàn giọng nói đồng reo hò tán thán. Lòng khát khao của Hoàng hậu đã được thỏa mãn lúc bà nghe lời thuyết Pháp ấy.

Vua đầy hoan hỷ liền ngâm các vần kệ này, khi ngài ban thưởng người thợ săn đại vinh hoa phú quý:

38- Nạm ngọc vòng tai, trẫm muốn ban,
Tặng khanh cùng với sáu cân vàng,
Xinh tươi, bảo tọa như hoa tấm
Với nệm nằm chen cả bốn hàng.

39- Hai vợ cùng giai cấp xứng đôi,
Trâu bò thường đúng một trăm rồi
Trẫm nguyền sẽ trị dân công chính
Mãi mãi, ân nhân của trẫm ôi!

40- Cho vay, cày ruộng hoặc kinh doanh,
Hễ đó là nghề nghiệp của khanh,
Trẫm thấy khanh không làm việc ác,
Song nhờ đó cấp dưỡng gia đình.

Khi nghe vua nói những lời này, người ấy đáp:

– Tiểu thần không có nhà cửa hay gia đình gì nữa, xin Chúa thượng cho phép tiểu thần được làm ẩn sĩ khổ hạnh.

Sau khi được vua chấp thuận, người ấy đem mọi vật vua ban thưởng trọng hậu ấy về cho vợ con, gia đình, xong rồi lại ra đi lên vùng Tuyết Sơn, nơi đây người ấy sống theo đời khổ hạnh, tu tập tám Thiền chứng và được sinh lên cõi Phạm Thiên.

Còn vua vẫn tuân hành lời giáo huấn của bậc Đại Sĩ, nên về sau lên cộng trú với hội chúng chư Thiên dục giới. Lời giáo huấn ấy tồn tại cả ngàn năm sau nữa.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Đạo Sư bảo:

– Như vậy, này các Tỳ kheo, xưa kia cũng như bây giờ, Ànanda hy sinh tính mạng vì Ta.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ Channa (Xa nặc) là người thợ săn, Sàriputta ( Xá Lợi Phất) là vua, một Tỳ kheo ni là hoàng hậu Khemà, hai người trong hoàng tộc là mẹ cha của chúa Hươu, Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) là Sutanà, Ànanda la Citta, dòng họ Sàkya ( Thích Ca) này là đàn hươu tám mươi ngàn con, và Ta chính là Lộc vương Rohanta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chúa Thiên Nga (Tiền thân Hamsa)

Kìa đám hằng nga cất cánh bay….

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm, về việc Tôn giả Ànanda hy sinh tính mạng.

Lúc ấy Tăng chúng đang bàn luận trong Chánh pháp đường về các đức tính của Tôn giả này thì bậc Đạo Sư bước vào hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì tại đó. Rồi ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ànanda từ bỏ tánh mạng vì ta, mà xưa kia cũng đã làm như thế.

Và Ngài kể cho Tăng chúng một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ có một vị vua ngự trị tại thành Ba la nại mệnh danh là Bahuputtaka hay là Thân phụ của nhiều Vương tử và chánh cung hoàng hậu của ngài là Khemà (Thái Hòa).

Thuở ấy, bậc Đại Sĩ sống trên đỉnh núi Cittakuta, ngài là chúa tể của chín mươi ngàn Thiên nga, sau khi được sinh làm chim Thiên nga với màun lông vàng ánh.

Thuở ấy như đã thuật trước đây, chánh hậu nằm mộng và tâu vua rằng bà đã mang nỗi khát khao của một thai phụ muốn nghe một chim Kim nga thuyết Pháp. Khi vua hỏi xem có loài vật nào như chim Kim nga chăng, và ngài được báo tin là hiện có loài ấy trên núi Cittakùta. Sau đó ngài bảo xây cái hồ đặt tên là Khemà, lại truyền lệnh trồng đủ loại ngũ cốc làm thực phẩm, hằng ngày rao truyền khắp tứ phương ban bố lệnh bảo vệ hồ ấy, rồi phái một thợ săn đến bắt Thiên nga.

Người này được phái đi cách nào, người ấy canh chừng chim muông ra sao, tin tức được tâu trình vua khi bầy Thiên nga được xuất hiện như thế nào, cái bẫy được giăng theo kiểu gì và bậc Đại Sĩ bị mắc vào bẫy, rồi Đại tướng Thiên nga Sumukha (Sư mục kha) không thấy Ngài trong ba đàn chim kia, liền trở về tìm ngài ra sao, tất cả chi tiết này sẽ xuất hiện trong Tiền thân Mahàhamsa (Đại Thiên nga) số 534, tập VI, trong đó Chúa Thiên nga có tên Dhatarattha.

Bấy giờ ngay lúc bậc Đại Sĩ bị bắt vào thòng lọng và cây sáo, dù cho ngài đang treo lủng lẳng trong chiếc thòng lọng ở đầu cây sào, ngài cũng cố vươn cổ ra nhìn theo hướng bầy chim đã bay trốn mất và chợt thấy tướng Sumukha quay trở lại, ngài suy nghĩ: “Khi chim tướng đến đây, ta sẽ thử lòng chim tướng ấy xem sao”. Vì thế khi chim kia đến, bậc Đại Sĩ ngâm ba vần kệ:

1- Kìa đám hồng nga cất cánh bay,
Cả bầy hốt hoảng hãi kinh đầy,
Đi ngay, Sư mục lông vàng óng,
Khanh muốn gì chăng ở chốn này.

2- Họ hàng ta đã bỏ rơi ta!
Bọn chúng đều cao chạy vút xa,
Đào tẩu ngay, không hề nghĩ lại,
Sao khanh đơn độc ở đây mà?

3- Thiên nga cao thượng hãy bay về,
Tù tội, thân không có bạn bè,
Lúc được tự do, Sư mục hỡi,
Bay đi! Đừng bỏ dịp may kề.

Nghe vậy, Tướng quân Sumukkha đáp lời lúc đang đậu trên vũng bùn:

4- Không, thần sẽ chẳng bỏ Nga vương,
Khi đến gần tai họa thảm thương,
Song ở lại đây, thần đã quyết
Bên ngài, dù sống chết không màng.

Như thế Sumukkha đã cất giọng sư tử hống và chúa chim Dhataratha đáp kệ này:

5- Những lời khanh nói thật anh hùng,
Đại tướng ôi, cao cả tấm lòng!
Vì muốn thử lòng hiền hữu đó,
Trẫm đà bảo bạn hãy phi thân!

Trong lúc hai vị đang trò chuyện với nhau như vậy, người thợ săn vừa tới nơi, cầm gậy trong tay, gã chạy như bay hết tốc lực. Sumukkha khuyến khích chúa chim Dhatarattha cho phấn khởi tinh thần, rồi bay ra đón người thợ săn, kính cẩn đề cao đức hạnh của chim chúa đàn. Lập tức tâm hồn người thợ săn trở nên nhu hòa. Sumukkha nhận thấy ngay điều này, liền quay lại, đứng cạnh chúa Thiên nga để khích lệ ngài phấn khởi tinh thần. Còn người thợ săn tiến đến gần chim chúa và ngâm vần kệ thứ sáu:

6- Bọn chúng đều co cẳng vút bay,
Bầy chim tung cánh giữa trời mây,
Thiên nga vương giả, sao chim chẳng
Trông thấy từ xa chiếc bẫy này?

Bậc Đại Sĩ đáp lại:

7- Khi đời sắp sửa phút lâm chung,
Giờ tử thần đang tiến lại gần,
Dù bạn đứng kề bên chiếc bẫy,
Cũng không thấy bẫy đặt, dây giăng!

Người thợ săn hài lòng với lời nhận xét của chim chúa, liền ngâm thêm ba vần kệ hỏi Sumukha:

8- Kìa đám hằng nga cất cánh bay,
Cả bầy hốt hoảng hãi kinh thay,
Còn Thiên nga có sắc vàng óng,
Bị bỏ rơi, còn nán đợi đây.

9- Cả đám hồng nga đã uống ăn,
Rồi bay về hết, chẳng quan tâm,
Qua không gian chúng lao vùn vụt,
Và bỏ mặc chim chỉ một thân!

10- Có gì quan hệ với chim này,
Khi cả đàn ruồng rẫy vụt bay,
Dù được tự do, chim ở lại,
Một mình kết bạn với kẻ tù đây?

Sumukha đáp lời:

11- Chim chúa là đây, bạn chí tình,
Thiết thân như chính cuộc đời mình,
Bỏ ngài ư?- Chẳng bao giờ có,
Dù lúc tử thần gọi đích danh!

Nghe thế, người thợ săn vô cùng hoan hỷ và nghĩ thầm: “Ví thử ta làm hại các sinh vật đức hạnh như thế này, chắc chắn mặt đất sẽ há miệng ra và nuốt chửng ta đi mất. Ta còn thiết gì đến ân thưởng vua ban nữa? Ta quyết thả chúng ra thôi”.

Rồi gã ngâm kệ:

12- Thấy rằng vì trọng nghĩa thân bằng,
Chim sẵn sàng từ bỏ tấm thân,
Ta thả chúa chim đồng mệnh ấy
Để cùng nhau khắp chốn đằng vân.

Vừa nói lời này xong, gã kéo Nga vương Dhataratha xuống khỏi cây sào, nới lỏng dây thòng lọng ra và đem Thiên nga tới bờ hồ, rửa sạch máu trên thân chim với lòng đầy xót thương, rồi thoa bóp các bắp thịt cùng gân cốt bị trặc khớp lại cho đúng chỗ. Nhờ tâm từ ái của người thợ săn cùng uy lực các Công hạnh Viên mãn của bậc Đại Sĩ (Thập hạnh Ba la mật), nên lập tức chân ngài lành mạnh như trước, chẳng còn một dấu vết nào chứng tỏ ngài đã bị mắc bẫy cả. Tướng quân Sumukha chiêm ngưỡng bậc Đại Sĩ với lòng hân hoan và cảm tạ qua những lời này:

13- Lạp hộ, cùng thân hữu, họ hàng,
Cầu mong các vị phước ân tràn,
Như ta hạnh phúc khi nhìn ngắm
Chúa chim giờ đây thoát buộc ràng.

Khi người thợ săn nghe lời này, gã nói:

– Này hiền hữu, Ngài có thể bay đi rồi đấy.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ bảo gã:

– Thưa Hiền giả, thế ngài đã bắt ta theo ý riêng của ngài hay do lệnh một người khác?

Gã liền kể cho ngài nghe mọi sự. Chim chúa tự hỏi nên trở về núi Cittakuta chăng hay đi vào kinh thành kia. Ngài suy nghĩ: “Nếu ta vào thành, thì người thợ săn sẽ được vua ban thưởng, nỗi khao khát của hoàng hậu sẽ được thỏa mãn, tình bằng hữu của Sumukha sẽ được mọi người biết rõ, rồi cũng nhờ công đức trí tuệ của ta, ta sẽ được vua ban thưởng hồ Khemà như một đặc ân. Vậy ta vào thành thì hơn”.

Quyết định xong ngài nói:

– Này thợ săn, bạn hãy mang chúng ta lên đòn gánh của bạn đưa vào yết kiến đức vua, và nếu ngài muốn, ngài sẽ thả ta ra.

-Này chúa chim ơi, tính vua chúa bạo tàn lắm, vậy các ngài cứ lên đường các ngài cho yên thân!

– Sao thế? Ta đã làm mềm lòng một thợ săn như Hiền giả, mà ta lại không chiếm được ân sủng của vua chúa kia ư? Cứ để việc ấy cho ta lo liệu, này bạn hữu, phần của ông bạn là mang chúng ta đến yết kiến đức vua.

Người ấy đành tuân lời.

Khi vua nhìn thấy đôi thiên nga, ngài rất đẹp ý. Ngài đặt đôi chim lên một cành đậu bằng vàng, bảo đem mật ong và hạt mễ cốc rang chín cùng nước đường lên mời đôi chim; sau đó ngài đưa đôi tay lên thỉnh cầu đôi chim thuyết Pháp. Nga vương thấy vua tha thiết nghe Pháp như thế, nên trước tiên ngài nói với vua bằng những lời lẽ nhu hòa êm ái.

Sau đây là các vần kệ trình bày câu chuyện giữa vua và Thiên nga chúa:

Thiên nga:

14- Đại vương, ngọc thể có khang an,
Quý quốc giờ đây có hưởng tràn
Hạnh phúc, giàu sang cùng thịnh vượng,
Và ngài trị nước thật công bằng!

Đức vua

15- Thiên nga, đây trẫm được khang an,
Và bổn quốc đây được vẹn toàn
Hạnh phúc, giàu sang cùng thịnh vượng,
Với nền cai trị thật công bằng.

Thiên nga:

16- Triều đình ngài chẳng phạm sai lầm,
Và đám quốc thù vẫn biệt tăm,
Bọn chúng chẳng bao giờ xuất hiện,
Khác nào bóng tối hướng Nam chăng?

Đức vua:

17- Triều thần trẫm chẳng thấy sai lầm,
Và đám quốc thù vẫn bặt tăm,
Bọn chúng chẳng bao giờ xuất hiện,
Khác nào bóng tối ở phương Nam!

Thiên nga:

18- Phải chăng chánh hậu cũng chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi Thánh ý chờ mong?

Đức vua

19- Thưa vâng, chánh hậu cũng chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi ý trẫm hằng mong!

Thiên nga:

20- Đại đế nuôi dân! Ngài có đông
Hoàng nam được dưỡng dục oai phong,
Thông minh ứng đối, người nhu thuận,
Bất cứ việc gì cũng gắng công?

Đức vua:

21- Nga vương, trẫm có đủ hoàng nam,
Nổi tiếng một trăm lẻ một chàng,
Dạy bảo chúng làm tròn phận sự,
Chúng không bỏ dở các lời vàng.

Nghe điều này bậc Đại Sĩ khuyến giáo hội chúng qua năm vần kệ:

22- Kẻ hoãn trì cho quá muộn màng
Thiện hành mà chẳng gắng công làm,
Dù nhiều đức tính, dòng cao quý,
Cũng vẫn chìm sâu xuống dưới dòng.

23- Người kia tri kiến cứ tàn dần
Tổn hại lớn lao, nó lãnh phần
Như kẻ quáng gà vì bóng tối,
Khi nhìn mọi vật hóa phồng căng,
Gấp đôi tầm cỡ thường nơi chúng,
Vì có nhãn quang chẳng vẹn toàn.

  1. Ai nhìn hư vọng thấy toàn chân,
    Chẳng đạt chút nào trí tuệ thông,
    Như thể trên đường đèo lởm chởm,
    Bầy hươu nai vẫn té nhào lăn.
  2. Nếu người nào dũng cảm can cường,
    Ðức hạnh mến yêu, giữ đúng đường,
    Dù chỉ là người dòng hạ liệt,
    Cũng bừng lên tựa lửa đêm trường.
  3. Cứ dùng ngay ví dụ trên này
    Chân lý hiền nhân, hãy giải bày,
    Dưỡng dục hoàng nam thành bậc trí,
    Như mầm non gặp lúc mưa đầy.

Bậc Ðại sĩ đã thuyết giáo như vậy cho vua suốt đêm ròng. Lòng khao khát của hoàng hậu đã được thỏa mãn. Trước buổi bình minh, ngài an trú vào Thập vương pháp và khuyên nhủ vua tinh cần cảnh giác, sau đó, ngài cùng tướng quân Sumukha bay ra khỏi khung cửa sổ hướng Bắc về miền núi Cittakùta.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, trước kia người này cũng đã hy sinh tính mạng vì Ta.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Channa (Xa-nặc) là người thợ săn, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vua, một Tỷ-kheo-ni là hoàng hậu Khemà, bộ tộc Thích-ca (Sàkya) là đàn thiên nga, Ànanda là Sumukha và Ta chính là Thiên nga vương.

-ooOoo-

  1. Chuyện anh vũ Sattigumba (Tiền thân Sattigumba)

Vua xứ Pãn-ca với đạo quân..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Lộc-uyển Maddakucchi về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa).

Khi Ðề-bà-đạt-đa xô tảng đá lớn và một mảnh đâm vào chân của đức Thế Tôn khiến chân ngài rất nhức nhối, nhiều nhóm Tăng chúng họp lại đến viếng đức Như Lai. Bấy giờ, lúc đức Thế Tôn thấy quần chúng tụ họp đầy đủ, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, nơi đây đông đảo lắm. Dân chúng sẽ tụ tập nhiều nữa. Vị nào hãy dùng cái cáng khiêng ta đến Maddakucchi.

Các Tỷ-kheo liền làm theo đúng như vậy. Còn Tôn giả Jìvaka chữa cho chân đức Như Lai bình phục. Khi ngồi trước bậc Ðạo sư, Tăng chúng nói về chuyện này:

– Ðề-bà-đạt-đa là một kẻ ác và toàn thể hội chúng của ông đều là bọn người ác, kẻ gây ác nghiệp thường thân cận với lũ ác nhân.

Bậc Ðạo sư hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông nói chuyện gì vậy?

Tăng chúng trình với Ngài. Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên, ác nhân Ðề-bà-đạt-đa thân cận với bọn ác, mà xưa kia cũng vậy.

Sau đó Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, có một vị vua mệnh danh là Pancàla ngự trị trong kinh thành Uttarapancàla. Còn bậc Ðại sĩ được sinh làm vương tử của Anh vũ vương trong khóm cây bông vải mọc trên cao nguyên giữa lòng một khu rừng rậm: nhà có tất cả hai anh em trai. Ngược chiều gió với vùng đồi núi này là một làng trộm cướp, có năm trăm tên cướp trú ngụ. Thuận chiều gió núi rừng lại là một vùng ẩn am với năm trăm vị hiền nhân.

Vào thời kỳ loài chim Anh vũ thay lông, một cơn lốc cuốn đi mất một chim Anh vũ và rớt vào làng trộm cướp kia, nằm giữa đống vũ khí của bọn cướp, và do chim rớt vào đó nên bọn chúng gọi nó là Sattigumba hay “Gươm giáo tua tủa”. Còn con chim kia rơi vào am ẩn sĩ, giữa đám hoa mọc trên chỗ đất cát, vì lý do đó nó được đặt tên là Pupphaka hay Hoa điểu. Thế là chim Sattigumba lớn lên giữa bọn cướp, còn Pupphaka sống với các hiền nhân.

Một ngày kia, vua phục sức oai nghi sang trọng cầm đầu một đám tùy tùng đông đảo ngự trên vương xa lộng lẫy để đi săn hươu nai. Không xa kinh thành mấy, vua vào rừng cây xinh tươi tràn đầy hoa quả. Vua phán:

– Nếu kẻ nào để cho một con nai thoát đi do lỗi mình thì phải lãnh trách nhiệm ấy!

Sau đó vua xuống xa giá tìm nơi ẩn mình, đứng yên với cung trong tay, dưới túp lều dành cho ngài.

Bọn người xua dã thú, đập vào các bụi rậm để đuổi con mồi. Một con hươu liền vùng dậy tìm đường thoát thân, nó thấy một kẽ hở ở cạnh vua, liền chui lọt qua đó biến mất. Mọi người hỏi nhau:

– Ai đã để con hươu chạy thoát? Chính là đức vua rồi!

Nghe vậy cả bọn cười nhạo vua, và vì lòng tự kiêu ngài không chịu được trò đùa này:

– Nay ta phải bắt cho được con hươu!

Vua kêu lớn và nhảy lên xe.

– Nhanh lên!

Ngài bảo người quản xa và ngài vụt biến mất theo con hươu.

Vua đi nhanh quá khiến bọn kia không theo kịp ngài, chỉ có vua và viên quản xa, hai người này cứ tiến lên đến giữa trưa, song chẳng gặp hươu đâu cả. Sau đó vua trở lại và khi thấy cạnh làng bọn cướp có một thung lũng đẹp mắt, ngài đi xuống tắm rửa, uống nước rồi đi lên khỏi con suối.

Sau đó người quản xa lấy tấm thảm từ trong vương xa ra trải dưới bóng cây, vua nằm trên đó, người quản xa ngồi dưới chân vua xoa bóp: vua cứ thức ngủ chập chờn. Dân chúng trong làng bọn cướp và cả bọn cướp nữa, đều đã vào rừng để chầu vua, vì thế trong làng không còn ai ngoài Sattigumba và người đầu bếp tên là Patikolamba.

Vào lúc ấy, Sattigumba bước ra khỏi làng và khi thấy vua, nó liền suy nghĩ: “Giá ta giết chết người kia đang nằm ngủ và lấy hết đồ trang sức ấy nhỉ?”. Vì thế nó trở lại gọi Patikolamba và kể cho gã nghe mọi sự việc.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm năm vần kệ:

  1. Vua xứ Pãn-ca với đạo quân
    Lên đường săn bắn lũ nai rừng,
    Trong rừng sâu thẳm vua đi lạc,
    Chẳng có một ai ở kế gần. 
  2. Kìa, ngài trông thấy ở trong rừng
    Bọn cướp đã làm chốn ẩn thân,
    Anh vũ, một chim đang tiến bước,
    Tức thì lời ác nó kêu vang:
  3. “Ngồi trên xe nọ, một nam trang,
    Châu báu nhiều sao, lắm ngọc vàng,
    Vương miện trên đầu vàng óng ánh
    Chiếu hồng như thể ánh trời quang!
  4. Ngự quan cùng chúa ngủ say sưa,
    Nằm đó lúc trời nắng giữa trưa,
    Ta hãy cướp ngay đồ báu vật,
    Nhanh lên, cất dấu hết bây giờ!
  5. Cảnh lặng yên như lúc nửa đêm,
    Ngự quan cùng chúa ngủ nằm yên,
    Bạc vàng châu báu, nào ta lấy,
    Giết họ, rồi ta chất củi lên!”.

Nghe nói vậy, người kia bước ra khỏi nhà, khi nhìn thấy đó chính là vua, gã kinh hãi và ngâm kệ này:

  1. Này Sat-ti, có phát điên khùng?
    Lời lẽ nào nghe mới nói chăng?
    Vua chúa giống như vầng lửa cháy,
    Vô cùng nguy hiểm, nếu ta gần.

Chim đáp lại qua kệ khác:

  1. Ngu dại Pa-ti nói chuyện này
    Và ông điên, chẳng phải ta đây,
    Mẹ ta trần trụi, sao khinh bỉ
    Nghề nghiệp nhà ta sống thuở rày?

Bây giờ vua thức dậy, và khi nghe chúng nói chuyện với nhau bằng tiếng người, nhận thấy nguy hiểm, ngài ngâm kệ sau để đánh thức người lái xe:

  1. Dậy mau, hiền hữu quản xa này,
    Vào cỗ xe, nào thắng ngựa ngay,
    Chỗ khác, ta tìm nơi ẩn náu,
    Vì ta chẳng thích chú chim đây.

Gã liền vùng dậy, thắng đôi ngựa vào xe, rồi ngâm kệ nữa:

  1. Xa mã thắng rồi, tâu Ðại vương!
    Sẵn sàng đã buộc đủ dây cương,
    Ðại vương, xin ngự vào xa giá,
    Nơi khác, ta tìm để náu nương.

Vua vừa ngự vào trong xe thì đôi tuấn mã thuần chủng đã lao vút nhanh như gió. Khi chim Sattigumba thấy xe vua đi xa rồi, lòng dao động nôn nao, nó liền ngâm hai vần kệ:

  1. Này đi đâu cả đám râu mày,
    Họ vẫn thường lai vãng chốn đây?
    Vua nước Pãn-cà vừa chạy mất,
    Chúng không thấy nữa, hãy đi ngay!
  2. Vua ấy thoát thân có được chăng?
    Hãy cầm lao, dáo với tên, cung;
    Kìa Pãn-ca chúa vừa bay mất,
    Này, chớ cho vua ấy thoát thân!

Con chim nói huyên thiên như thế, đạp cánh xào xạc bay lui bay tới đầy vẻ bồn chồn. Trong lúc ấy, vua vừa thì giờ đến am ẩn sĩ của các hiền nhân. Vào lúc này, các vị ấy đã ra đi kiếm củ quả rừng, chỉ còn một mình chim Anh vũ Pupphaka ở trong am. Khi chim thấy vua, liền ra chào đón ngài và nói chuyện với ngài rất cung kính tao nhã.

Lúc ấy bậc Ðạo sư ngâm bốn vần kệ:

  1. Chim Anh vũ với mỏ tươi hồng
    Cung cách ân cần đã nói năng:
    “Vạn tuế Ðại vương! Duyên hạnh ngộ
    Ðưa đường ngài ngự đến đây chăng!
    Vinh quang Ðại đế đầy uy lực,
    Chúa thượng cần gì phải giáng lâm?
  2. Tin-dook, Pi-yal, các lá cây,
    Cùng Ka-su quả ngọt ngào thay,
    Dù còn ít ỏi, tâu Hoàng thượng,
    Chọn thức tối ưu, đó sẵn bày.
  3. Nước mát từ hang núi thật sâu
    Ẩn mình bên dưới ngọn đồi cao,
    Oai hùng Ðại đế, tâu ngài ngự,
    Ẩm thức tùy nghi thỏa khát khao.
  4. Mọi người đang lượm trái trong rừng,
    Các vị nơi này vẫn trú thân,
    Xin Chúa đích thân cầm ngự thiện,
    Tay thần chẳng có để cung dâng!”

Vua rất đẹp ý khi nghe lời nói tao nhã lịch thiệp này, liền đáp qua lời đôi vần kệ:

  1. Chưa có chim nào ưu tú hơn,
    Trên đời, Anh vũ quả thuần chơn,
    Còn chim Anh vũ đằng kia ấy
    Ðã nói bao điều thật ác ngôn:
  2. “Ðừng để nhà vua chạy thoát thân,
    Ðến mau! Trói giết!” nó kêu vang,
    Trẫm đi tìm đến am tu sĩ
    Và thấy nơi này chốn vạn an.

Khi được vua bảo như thế, Hoa Ðiểu Pupphaka ngâm đôi vần kệ:

  1. Ðại đế! Chúng thần chính đệ huynh,
    Cùng chung một mẹ đã khai sinh,
    Cưu mang đôi trẻ trên cây nọ,
    Song chốn khác nhau đã trưởng thành.
  2. Vì Sat-ti đến bọn cường gian,
    Còn tiểu thần đi đến trí nhân,
    Ác nọ, thiện đây, từ chỗ đó
    Phát sinh lề thói chẳng cùng đàng.

Sau đó, Anh vũ giải thích đầy đủ chi tiết những sự khác nhau bằng cách ngâm vần kệ:

  1. Ðâm chém, xích xiềng, kế bất lương,
    Những hành vi bịp bợm, tồi tàn,
    Bao nhiêu bạo động và xung kích,
    Chính đó là môn nó sở trường.
  2. Còn đây tiết độ, tự điều thân,
    Nhân ái, công bằng với chánh chân,
    Lữ khách uống ăn cùng trú ẩn,
    Quây quần thần lớn giữa hiền nhân.

Tiếp theo chim lại thuyết Pháp cho vua qua các vần kệ sau:

  1. Ðối với ác nhân hoặc thiện nhân
    Mà người ta kính trọng tôn sùng,
    Cho dù ác độc hay hiền đức,
    Cũng khiến kẻ kia phải phục tùng.
  2. Khi ta ngưỡng mộ bạn tâm đồng,
    Như một người tri kỷ, bạn lòng,
    Người ấy sẽ đồng hành, kế cận
    Bên mình ta đến phút sau cùng.
  3. Tình bạn kết giao thấm nhiễm dần,
    Chuyện này ngài thấy quả là chân:
    Cứ ngâm thuốc độc vào tên bắn,
    Vỏ bọc cũng thành nhiễm độc luôn.
  4. Người trí tránh bầu bạn ác nhân,
    Vì e ô nhiễm chạm vào thân:
    Cá ươn, cứ gói trong chùm cỏ,
    Sẽ thấy cỏ kia cũng thối nồng,
    Những kẻ kết giao phường trí độn
    Chính mình cũng sẽ hóa ngu đần.
  5. Lá kia đem gói gỗ trầm hương,
    Ngọn là liền thơm ngát dịu dàng,
    Cũng vậy, nhiều người thành có trí,
    Khi ngồi chầu các bậc hiền nhân.
  6. Nhờ ví dụ này bậc trí nhân
    Phải am tường lợi lạc riêng phần:
    Tránh xa bầu bạn phường gian ác,
    Và sánh vai cùng bậc chánh chân,
    Thiên giới đợi chờ người chánh hạnh.
    Đọa vào ngục tối bọn tà gian.

Vua rất hoan hỷ với bài thuyết giảng này. Kế đó các bậc trí giả từ rừng trở về. Vua đảnh lễ các vị và nói:

– Cầu mong các Tôn giả tỏ lòng từ bi hạ cố đến an trú trong ngự viên của trẫm.

Và ngài đã thuyết phục được các vị nhận lời mời. Khi hồi cung vua liền ban bố lệnh thả hết mọi Anh vũ. Còn các bậc trí nhân vẫn đến yết kiến vua. Ngài tặng các vị khu vườn thượng uyển để trú ngụ và chăm nom các vị rất chu đáo trong thời gian ngài còn tại thế. Sau khi mạng chung ngài lên cộng trú với hội chúng chư Thiên, hoàng thái tử của ngài được quần thần giương chiếc lọng hoàng gia lên đầu làm lễ phong vương, và vị tân vương này cũng chăm sóc các hiền nhân và cứ thế cha truyền con nối suốt bảy đời vua đều bố thí cúng dường rất rộng rãi. Còn bậc Ðại sĩ an trú trong rừng cho đến khi mạng chung liền đi theo nghiệp của mình.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, các ông thấy xưa kia Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) cũng thân cận bạn ác như bây giờ.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ðề-bà-đạt-đa là Sattigumba, đám tùy tùng của kẻ ấy là bọn cướp, Ànanda là vua, hội chúng của đức Phật là các trí giả, và Ta là Anh vũ Pupphaka.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ðại vương Bhallàtiya (Tiền thân Bhallàtiya)

Ngày xưa có đại đế Bhal-là..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về hoàng hậu Mallikà (Mạt-lợi) tức Nương tử Vũ Quý Hoa.

Một buổi kia, chuyện kể rằng có việc xích mích giữa hoàng hậu và vua về quyền lợi trong đời sống nội cung, vua nổi giận và không muốn nhìn mặt bà. Bà suy nghĩ: “Ta chắc đức Như Lai không biết đức vua đang giận hờn ta”.

Khi bậc Ðạo sư biết chuyện ấy, ngày hôm sau, Ngài đi vào khất thực tại Ba-la-nại có Tăng chúng theo hầu, rồi đến tận cung môn. Vua bước ra đón ngài và cầm lấy bình bát của Ngài, vừa rước Ngài lên thượng lầu, mời Tăng chúng ngồi theo thứ tự thích hợp, rồi dâng nước chào mừng cùng với thực phẩm thượng vị. Sau buổi cơm, vua ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo sư hỏi:

– Tại sao hoàng hậu Mallikà không đến?

Vua đáp: – Chỉ vì lòng kiêu mạn ngu si về cảnh vinh quang của bà ta đấy.

Bậc Ðạo sư bảo:

– Này Ðại vương, xưa kia, đã lâu lắm rồi, khi Ðại vương còn là một tiên nam, Ðại vương rời xa bạn đời của mình chỉ một đêm thôi mà về sau cứ mãi thương tiếc cả bảy trăm năm đó.

Rồi theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, có một vị vua tên là Bhallatiya trị vì tại Ba-la-nại. Do nỗi say mê món thịt nai rừng bốc khói trên hỏa lò lôi cuốn, ngài giao phó vương quốc cho các đại thần, rồi trang bị đủ năm thứ vũ khí cùng một bầy chó săn thông minh tinh luyện, ngài lên xa giá rời kinh tiến về vùng Tuyết Sơn. Ngài cứ du hành dọc theo sông Hằng mãi tận nơi không còn lên cao được nữa, liền đi theo một phụ lưu thêm vài đoạn đường, vừa giết nai, lợn rừng vừa thưởng thức món thịt nướng kia, cho đến khi ngài trèo tận một đỉnh cao.

Nơi đó có một con suối đầy thi vị chảy xuống khắp vùng, nước cao lên tận ngực, song vào các mùa khô ráo chỉ gần đến đầu gối. Lúc ấy các đàn cá rùa, đủ loại tung tăng, dải cát dưới nước sáng loáng như bạc, cây cối hai bên bờ rủ xuống nặng trĩu hoa trái, chim chóc, ong bướm say sưa hút nước trái chín và mật ong, bay lượn dưới bóng cây râm mát, nơi đây từng đàn hươu nai đủ loại vẫn lai vãng luôn. Bấy giờ trên bờ suối xinh đẹp này có đôi tiên đang ôm chặt nhau, âu yếm vuốt ve nhau rồi bỗng tiếng khóc than rền rĩ vô cùng thảm thiết.

Trong lúc vua trèo lên đỉnh Gandhamàdana (Hương Sơn) men theo dòng suối này, ngài chợt nhận thấy đôi tiên kia. “Tại sao họ cứ khóc than rền rĩ như thế này?”, ngài suy nghĩ, “Ta muốn hỏi xem sao”. Ngài chỉ cần liếc bầy chó săn và búng ngón tay, bầy chó thuần chủng thấy dấu hiệu này là hiểu ngay phần việc của chúng, liền bò vào dưới bụi rậm và nằm sát đất. Vừa khi ngài đã thấy chúng đã khuất dạng, ngài đặt cung tên cùng các vũ khi kia cạnh gốc cây gần đó và rón rén đi nhẹ nhàng đến gần đôi tiên để khỏi ai nghe lọt bước chân, rồi ngài cất tiếng hỏi:

– Tại sao các ngươi than khóc?

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm ba vần kệ:

  1. Ngày xưa có đại đế Bhal-là,
    Ngài vẫn đi săn bắn thật xa,
    Trèo tận Hương Sơn và chợt thấy
    Ðầy hoa nở rộ với yêu ma.
  2. Ngài truyền bầy chó thảy nằm yên,
    Ðặt các cung tên xuống đất liền,
    Tiến bước để đưa lời ướm hỏi,
    Chốn kia vừa thấy cặp thần tiên:
  3. “Ðông đã qua, sao lại trở về
    Hàn huyên tâm sự cạnh sơn khê?
    Các ngươi sao giống phàm nhân quá,
    Người gọi loài gì, nói trẫm nghe”.

Nghe vua hỏi, vị tiên nam không nói gì, nhưng tiên nữ đáp lại như sau:

  1. Tam đỉnh, Hoàng Sơn, núi Mã-la,
    Chúng thần men suối mát, băng qua,
    Thú rừng cứ tưởng là người thật,
    Song bọn đi săn gọi quỷ ma.

Kế đó vua ngâm ba vần kệ:

  1. Các ngươi âu yếm tựa tình nhân,
    Song lại khóc than thật não nùng,
    Tiên chúng giống như người thế tục,
    Cớ sao than khóc, hãy phân trần!
  2. Các ngươi mơn trớn tựa uyên ương,
    Song khóc đầy ai oán thảm thương,
    Ðôi lứa khác nào người thế tục,
    Sao sầu đau thế? Nói cho tường!
  3. Như các tình nhân, cứ vuốt ve,
    Song lời than khóc thật lê thê,
    Các ngươi trông giống người trần tục,
    Sao quá bi ai? Nói trẫm nghe!

Các vần kệ sau là do đôi bên đối đáp nhau:

Tiên nữ:

  1. Chàng, thiếp một đêm cách biệt nhau,
    Không tình ân ái, nặng u sầu,
    Tương tư, song chẳng bao giờ có
    Ðêm ấy trở về được nữa đâu.

Quân vương:

  1. Sao nằm đêm ấy quá cô đơn,
    Ðã khiến ngươi rền rĩ tiếc thương?
    Ðôi trẻ giống như người thế tục
    Mất tiền, hay lão phụ từ trần?

Tiên nữ:

  1. Ðằng kia, bóng mát, suối tuôn ra,
    Giữa đá, rồi cơn bão thổi qua,
    Vì quá lo âu tìm kiếm thiếp,
    Nên tình quân đã lội qua bờ.
  2. Trong lúc đôi chân thiếp rộn ràng,
    Thiếp đi tìm cỏ nội hoa ngàn,
    Làm vòng đeo, tặng chàng yêu dấu
    Và thiếp, vừa khi gặp lại chàng.
  3. Kết bó chuông vàng, đồng thảo xanh,
    Thủy tiên trắng mát đượm sương lành
    Cho chàng yêu cả vòng hoa cổ
    Cùng thiếp, vừa khi gặp bạn tình.
  4. Rồi sau thiếp hái bó hoa hồng
    Là thứ hoa xinh đẹp nhất vùng,
    Ðể kết liền cho chàng với thiếp
    Vòng hoa đeo cổ, lúc tương phùng.
  5. Kế hoa là lá, thiếp đi tìm
    Về trải đầy trên mặt đất mềm
    Nơi suốt đêm trường chung gối mộng,
    Uyên ương thiêm thiếp giấc nồng êm.
  6. Gỗ quế, trầm hương kế tiếp liền
    Ðặt trên hòn đá, thiếp đâm nghiền,
    Làm hương tắm khắp chàng yêu dấu
    Và thiếp, mùi hương cực diệu huyền!
  7. Ðứng bên bờ suối chảy tuôn dòng,
    Thiếp hái hoa sen mãi đến cùng:
    Chiều xuống, suối kia tràn khắp chốn,
    Muốn sang bờ nọ, hết chờ mong!
  8. Ðành đứng cả hai ở mỗi bờ,
    Nhìn nhau tha thiết, ngóng ngang qua,
    Ôi, bao tiếng khóc cười đôi ngả,
    Ðêm ấy cùng đau đớn xót xa!
  9. Sáng lại, vừng đông đã mọc cao,
    Khi nhìn con suối cạn khô mau,
    Thiếp, chàng vội bước, ôm nhau chặt,
    Lập tức cùng cười, khóc với nhau!
  10. Gần bảy trăm năm chỉ thiếu ba,
    Từ khi chàng, thiếp phải chia xa,
    Tim yêu tan nát sầu ly biệt,
    Dằng dặc tưởng chừng trọn kiếp qua!

Quân vương:

  1. Ðời người kỳ hạn đến bao giờ?
    Nếu chuyện này truyền lại thuở xưa,
    Hoặc giả theo lời nhiều trưởng lão,
    Thì đừng sợ hãi, nói cùng ta.

Tiên nữ:

  1. Một ngàn mùa hạ thắm, an khương,
    Chẳng chịu nhiều đau khổ đoạn trường,
    Ít gặp ưu sầu, đầy cực lạc,
    Suốt đời ngập hạnh phúc yêu đương!

Khi vua nghe vậy, ngài suy nghĩ: “Các sinh vật này thấp kém còn hơn loài người, thế mà vẫn khóc than mãi suốt bảy trăm năm ròng chỉ vì một đêm xa cách nhau, huống hồ ta đây, chúa tể cả một quốc độ rộng ba trăm dặm, lại đành bỏ hết cả vinh quang huy hoàng ấy đằng sau để phiêu bạt trong chốn núi rừng hoang dã. Thật là một sai lầm nghiêm trọng”.

Ngài liền quay về lập tức. Khi đến thành Ba-la-nại, triều thần hỏi ngài có thấy việc gì hi hữu ở vùng Tuyết Sơn chăng, ngài kể cho hội chúng nghe toàn thể câu chuyện kỳ dị kia, rồi từ đó về sau ngài thực hành bố thí và an hưởng cảnh vinh hoa của mình.

Ðể giải thích việc này bậc Ðạo sư ngâm vần kệ sau:

  1. Nhờ được đôi tiên khuyến bảo vầy,
    Ðại vương trở lại bước đường ngay,
    Bỏ săn, cấp dưỡng người nghèo túng,
    An hưởng tháng ngày lướt nhẹ bay.

Và Ngài ngâm thêm hai vần kệ nữa:

  1. Rút ra bài học của tiên kia,
    Ðừng cãi nhau, mà sửa thói lề,
    Kẻo các ngài sầu như bọn chúng
    Suốt đời, vì chính bởi lầm mê.
  2. Lấy ngay bài học tự đôi tiên,
    Ðừng khấu tranh, mà sửa thói quen,
    Kẻo chịu đau buồn như bọn chúng
    Suốt đời, vì chính lỗi lầm riêng.

Bấy giờ hoàng hậu Mallikà đứng dậy từ bảo tọa khi bà nghe đức Như Lai thuyết giáo, rồi bà chấp hai tay đảnh lễ Ngài rất cung kính, trong lúc bà ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Giờ đây kính bạch Thánh nhân,
    Với lòng nhu thuận phục tuân sẵn sàng,
    Con nghe được các lời vàng,
    Tràn đầy thiện ý, chứa chan nhân từ,
    Muôn vàn phước đức Tôn Sư!
    Ngài vừa khuyến nhủ, ưu tư trút liền!

Từ đó về sau, vua xứ Kosala chung sống sắt cầm hòa hợp với hoàng hậu mãi mãi.

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, vua xứ Kosala là vị tiên nam, hoàng hậu Mallikà là tiên nữ và Ta chính là vua Bhallàtiya.

-ooOoo-

  1. Chuyện vương tử hoan lạc (Tiền thân Somanassa)

Kìa ai phá hoại hoặc khinh chê..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về cách Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) dự định sát hại Ngài. Sau đó bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ðề-ba-đạt-đa tìm cách sát hại Ta, mà trước kia cũng đã làm như vậy.

Rồi Ngài kể cho Tăng chúng nghe một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, trong quốc độ Câu-lâu (Kuru) và kinh thành Uttarapãncàla, có vị vua ngự trị với danh hiệu Renu. Lúc ấy có một ẩn sĩ khổ hạnh tên là Mahàrakkhita, sống ở vùng Tuyết Sơn cùng hội chúng năm trăm vị tu khổ hạnh khác. Trong lúc xuống vùng đồng bằng để xin muối và gia vị, vị tu khổ hạnh ấy đến xứ Uttarapancàla và cư trú trong ngự viên.

Cùng với hội chúng mình đi khất thực, vị ấy đến tận cung môn, và khi vua chiêm ngưỡng các hiền nhân, ngài rất đẹp lòng về cung cách của các vị, nên mời ngồi trên bảo tọa lộng lẫy, rồi cúng dường cao lương mỹ vị các vị dùng. Vua lại mời các vị an cư trong ngự viên suốt mùa mưa. Ngài rước các vị vào trong vườn ngự, cung cấp đủ nơi chốn để an trú, cùng các vật cần dùng cho đời sống tu hành, xong rồi từ giã. Sau đó các vị đều ăn uống trong cung vua. Bấy giờ vua không có con và đang ước mong sinh được hoàng nam, song chẳng có vương tử nào ra đời cho ngài cả.

Khi mùa mưa qua rồi, vị ẩn sĩ Mahàrakkhita nói:

– Nay vùng Tuyết Sơn xinh tươi dễ chịu lắm, ta hãy trở về đó.

Rồi vị ấy tạ từ vua, ngài liền tỏ bày đủ mọi cách tôn vinh trọng vọng rất hào phóng đối với các hiền nhân, xong hội chúng ra đi. Trên bước du hành, vào đúng ngọ, vị ấy rời đường cái cùng hội chúng của mình ngồi xuống trên thảm cỏ êm ái dưới bóng cây râm mát.

Các vị khổ hạnh kia bắt đầu đàm đạo. Họ nói:

– Nay không có hoàng nam trong cung để nối nghiệp hoàng gia. Nếu vua có được một vương tử thì thật là điều vạn phúc để kế tục vương nghiệp.

Mahàrakkhita nghe lời hội chúng nói chuyện, liền suy nghĩ: “Vua này có sinh được hoàng nam hay chăng?”. Rồi vị này nhận xét thấy rằng vua sẽ có một hoàng nam, vội bảo:

– Này các Hiền giả, các bạn đừng lo lắng gì, đêm nay lúc rạng đông một đấng thiên tử sẽ giáng trần, và sẽ nhập mẫu thai của chánh hậu.

Một vị tu khổ hạnh giả danh nghe được chuyện ấy, nghĩ thầm: “Nay ta muốn trở thành người tâm phúc của hoàng gia”.

Khi đến thời hội chúng khổ hạnh phải lên đường, vị ấy liền nằm xuống giả vờ lâm bệnh.

– Mau lên, ta cùng đi.

Hội chúng bảo nhau.

Người kia đáp:

– Ðệ không đi nổi.

Sau đó Hiền giả Mahàrakkhita biết được tin vì sao người ấy phải nằm yên tại chỗ.

– Hễ khi hiền hữu đi được thì hãy theo chúng ta ngay. Ngài bảo.

Rồi ngài cùng các hiền nhân kia tiến về Tuyết Sơn.

Bấy giờ kẻ lừa dối ấy liền ra sức chạy thật nhanh đến đứng tại cửa cung, dâng sớ tâu rằng có một người tùy tùng của Hiền giả Mahàrakkhita đến chầu. Kẻ ấy được vua triệu vào ngay lập tức và bước lên thượng lầu ngồi xuống sàn tọa đã được mời. Vua chào mừng kẻ ấy rồi ngồi xuống một bên, hỏi thăm sức khỏe của chư hiền. Ngài bảo:

– Tôn giả trở lại quá sớm. Thế vì nguyên cớ gì Tôn giả vội vàng quay lại đây?

– Tâu Ðại vương – kẻ ấy đáp – trong lúc chư hiền đang ngồi thong dong cùng nhau, hội chúng bắtđầu nói chuyện nếu đức vua sinh được hoàng nam để kế nghiệp thì thật là điều đại phúc. Khi tiểu thần nghe thế, liền suy ngẫm xem Ðại vương có sinh được hoàng nam không, thì nhờ thiên nhãn, thần thấy được một vị thiên tử vĩ đại sắp giáng trần và vị ấy sẽ nhập vào mẫu thai của chánh hậu Sudhamma. Rồi thần suy nghĩ: “Nếu họ không biết, họ có thể vô tình phá hoại bào thai ấy, vậy thì ta phải thông báo cho họ biết”. Và thế là vì để trình Ðại vương về tin ấy, nên hạ thần đến đây, tâuÐại vương. Nay hạ thần đã tâu trình xong, xin cho hạ thần lên đường.

– Không, không, này hiền hữu, không thể như vậy được.

Vua vô cùng hơn hỷ đem kẻ lừa gạt kia vào ngự viên ban cho ông một nơi an trú. Từ đó về sau ông sống trong cung vua, được dâng món ngự thiện tại đó và được mệnh danh là Dibbacakkuka hay là Thiên nhãn Ðạo nhân.

Sau đó, Bồ-tát từ cõi trời Ba mươi ba giáng trần, nhập mẫu thai của chánh hậu và khi ngài ra đời, triều thần đặt tên ngài là Somanassa Kumara hay là Vương tử Hoan Lạc, rồi ngài được nuôi nấng theo cung cách của vua chúa.

Bấy giờ vị tu khổ hạnh giả hiệu ở trong góc vươn ngự thường trồng rau đậu, củ, quả; rồi đem bán cho người trồng rau ở chợ nên kiếm được nhiều tiền bạc. Khi Bồ-tát lên bảy, ở biên thùy có xảy ra bạo loạn. Vua ra đi dẹp giặc, giao phó vị tu khổ hạnh Dibbacakkhuka ấy cho thái tử chăm sóc và dặn không được xao nhãng vị ấy.

Một ngày kia, thái tử đến thăm vị ẩn sĩ. Ngài thấy ông mang cả hai chiếc y vàng, buộc chặt thượng y lẫn hạ y, hai tay cầm hai bình nước tưới cây, ngài nghĩ thầm: “Lão tu hành giả hiệu này lo làm vườn chứ chẳng lo làm phận sự tu hành”. Ngài liền hỏi:

– Ông đang làm gì thế, này kẻ làm vườn phàm tục kia?

Ngài làm nhục ông như vậy và bỏ về chẳng chào hỏi gì ông cả. Ông suy nghĩ: “Nay ta đã khiến thằng bé này thành kẻ thù của ta rồi, ai biết được nó sẽ làm gì cơ chứ? Ta phải tiêu diệt nó ngay lập tức”.

Vào lúc vua sắp hồi cung, ông ta ném chiếc trường kỷ bằng đá sang một bên, đập bể vụn bình bát, rải cỏ rác khắp am thất, lấy dầu bôi khắp người, rồi vào am nằm trên nệm rơi kia, trùm kín mít từ đầu đến chân, làm ra vẻ đau đớn lắm.

Vua đã hồi loan, xa giá diễu quanh kinh thành theo hướng bên hữu, song trước khi vào nội cung, ngài đến thăm vị thần hữu Dibbacakkhuka ấy. Vừa đứng bên cửa am, ngài đã thấy cảnh bừa bãi kia, liền bước vào mà không biết việc gì xảy ra. Còn kẻ đó đang nằm dưới đất. Vua xoa bóp chân ông và ngâm vần kệ đầu:

  1. Kìa ai phá hoại hoặc khinh chê?
    Sao khổ buồn, ngài quá ủ ê?
    Thương khóc mẹ cha ai đó vậy?
    Ðất này ai lại xuống nằm lê?

Nghe lời này, kẻ bịp bợm kia liền vùng dậy rên rỉ, đáp vần kệ thứ hai:

  1. Hân hoan thần bái kiến long nhan,
    Xa cách từ lâu, tấu Ðại vương!
    Thái tử vừa đi thăm lão đó,
    Chẳng ai khiêu khích, lại làm càn!

Các vần kệ sau đây theo mạch lạc rõ ràng, được sắp đặt đúng với diễn biến của câu chuyện:

  1. Ô kìa, đao phủ, hãy xem nào!
    Thị giả, đưa trường kiếm lại mau!
    Giết chết So-ma, hoàng thái tử!
    Ðem đầu cao quý đến đây giao!
  2. Sứ giả nhà vua bước vội vàng,
    Ðến cung hoàng tử, họ kêu ran:
    “Phụ vương đã bỏ hoàng nam đó!
    Ðiện hạ ôi, ngài phải chết oan!”.
  3. Hoàng tử đứng kia cũng khóc than,
    Vòng đôi tay lại, khẩn cầu ân:
    “Xin tha mạng trẻ trong giây lát,
    Ðem trẻ đi nhìn mặt phụ vương?”
  4. Nghe lời thỉnh nguyện tự nơi chàng,
    Họ dẫn hoàng nhi đến phụ hoàng,
    Hoàng tử từ xa nhìn đại đế,
    Chàng liền tâu vậy với nghiêm đường:
  5. “Quân sĩ cứ mang kiếm chém đầu,
    Song nghe con trẻ trước, muôn tâu,
    Xin cho con rõ, tâu Hoàng thượng,
    Con đã làm nên tội lỗi nào?”.

Vua cha đáp:

– Hoàng triều đang suy sụp điêu tàn: tội của con làm trọng đại lắm.

Rồi vua giải thích qua vần kệ:

  1. Sáng chiều kéo nước, bậc hiền nhân
    Ngọn lửa chăm nom, chẳng chút ngừng,
    Hãy trả lời ta, sao lại dám
    Gọi ngài thánh thiện kẻ phàm trần?

Vương tử đáp:

– Tâu Chúa thượng, nếu thần nhi gọi một kẻ phàm tục là một kẻ phàm tục thì có hại gì đâu?

Rồi chàng ngâm kệ:

  1. Lão có nhiều cây với trái đầy,
    Phụ vương xem đủ sắn khoai này
    Chăm nom chúng, lão không ngừng nghỉ,
    Lão chính phàm nhân, trẻ nói ngay.

Hoàng tử nói tiếp:

– Và đó là lý do con gọi lão là người phàm tục. Nếu phụ vương không tin con, xin cứ hỏi thăm những người trồng rau ở bốn cổng thành thì rõ.

Vua cha truyền đi điều tra việc ấy. Dân chúng đáp:

– Thưa vâng, chúng thần đã mua của vị ấy đủ loại rau quả.

Khi vua khám phá ra việc buôn bán rau quả này, ngài công bố cho mọi người biết. Gia nhân của hoàng tử vào am lão và lục soát được một bó đồng tiền và đồng xu nhỏ, là số tiền bán rau quả kia, họ liền trình vua.

Lúc ấy, vua biết bậc Ðạo sĩ vô tội, liền ngâm kệ:

  1. Ðúng là lão có thật nhiều cây
    Với các loại rau, củ trái đầy,
    Chăm sóc trông nom không chút nghỉ,
    Phàm nhân, quả đúng trẻ tâu bày.

Sau đó, bậc Ðại sĩ suy nghĩ: “Trong khi có một kẻ ngu si ám động như thế này ở hoàng cung, thì thượng sách là đi vào vùng Tuyết Sơn và sống đời tu tập. Vậy trước tiên ta công bố tội trạng lão với quần chúng tại đây, sau đó, ngay hôm nay, ta xuất gia thành ẩn sĩ”.

Thế là ngài cúi chào hội chúng và nói lớn:

  1. Này nghe ta nói, hỡi toàn dân,
    Dân chúng thị thành lẫn dã nhân,
    Chúa thượng nghe lời người xuẩn ngốc,
    Khiến người vô tội phải vong thân.

Nói xong, ngài xin phép thực hiện ước nguyền trên qua vần kệ tiếp theo:

  1. Phụ vương, cây tỏa rộng hùng cường,
    Nhành trẻ, con sinh tự phụ vương,
    Con cúi mình đây xin phép được
    Giã từ thế tục để lên đường.

Các vần kệ sau đây thuật lại cuộc trò chuyện giữa vua cha và vương tử:

Phụ vương:

  1. Vương nhi, hưởng phú quý huy hoàng,
    Ngự trị Câu-lâu chiếc bệ vàng,
    Ðừng bỏ thế gian, gây khổ não
    Cho mình, hãy nhận lễ đăng quang!

Vương tử:

  1. Trần thế này đem lạc thú nào?
    Khi xưa con đã ở trời cao,
    Sắc, thanh, hương, vị và xúc cảm,
    Lòng vẫn thường yêu chuộng biết bao!
  2. Con từ bỏ hết nghiệp duyên xưa
    Thiên lạc cùng thiên nữ ngọc ngà,
    Với phụ vương là vua yếu kém,
    Con không muốn ở nữa bây giờ.

Phụ vương:

  1. Nếu cha kém trí, hỡi hoàng nam,
    Tha thứ cha nay việc đã làm,
    Giả sử cha còn làm việc ấy,
    Cha tùy con định, chẳng kêu than.

Sau đó bậc Ðại sĩ ngâm tám vần kệ khuyến giáo vua cha:

  1. Hành động không suy nghĩ trước sau,
    Hoặc làm không cân nhắc dài lâu,
    Cũng như sử dụng lầm phương thuốc,
    Hậu quả ắt là phải khổ đau.
  2. Hành động nào suy tính thật lâu,
    Khôn ngoan thận trọng tiếp theo sau,
    Giống như vị thuốc nhiều công hiệu,
    Kết quả tất nhiên phải nhiệm mầu.
  3. Con chán ghét người ở thế gian
    Buông lung phóng dật, dục tham tràn,
    Người tu khổ hạnh hư danh đó
    Là kẻ dối gian lộ rõ ràng.
    Một vị hôn quân thường xử án
    Chẳng hề nghe lý lẽ phân trần;
    Chẳng bao giờ gọi là chân chánh
    Cơn giận bùng lên ở trí nhân.
  4. Một vị vua xem xét kỹ càng
    Rồi ban lời phán xử công bằng,
    Khi vua cân nhắc lời phân xử,
    Danh tiếng đời đời mãi vọng vang.
  5. Những hình phạt Chúa thượng truyền ban
    Phải được đắn đo thật kỹ càng
    Những việc làm trong lúc vội vã
    Sẽ gây hối hận lúc thư nhàn.
    Nếu lòng phát nguyện nhiều điều tốt,
    Sau chẳng đau buồn hối tiếc mang.
  6. Những người có việc phải thi hành,
    Muốn chẳng gây ân hận với mình
    Thường đắn đo bao điều thận trọng,
    Tạo nên thiện nghiệp thật an lành,
    Làm công đức thỏa lòng hiền thánh,
    Ðược tán tụng từ bậc trí minh.
  7. Cha thét: “Kìa đao phủ, hãy mau!
    Ði tìm vương tử của ta nào,
    Nơi đâu bây kiếm, liền đem giết!”
    Lúc trẻ ngồi bên mẹ dựa đầu,
    Bọn chúng tìm ra con trẻ đó,
    Rồi lôi đi thật bạo tàn sao?
  8. Trẻ thơ non nớt, xử như vầy,
    Con thấy chúng tàn nhẫn quá tay,
    Nay thoát cảnh đày thân độc ác,
    Con rời thế, chẳng sống nơi đây.

Khi bậc Ðại sĩ đã thuyết giáo như vậy xong, vua phán bảo hoàng hậu:

  1. Vậy vương nhi đó, Su-dham-ma,
    Vừa thốt lời từ chối lệnh ta,
    Quí tử So-ma bao khả ái;
    Vì ta không mãn nguyện bây giờ,
    Ðích thân hoàng hậu nên xem thử
    Có chuyển lay lòng trí trẻ thơ.

Song hoàng hậu thúc giục vương tử rời bỏ thế tục:

  1. Hãy vui đời Thánh hạnh, hoàng nam,
    Tuân thủ chánh chân, bỏ cõi phàm,
    Ai giữa quần sinh không độc ác
    Sẽ lên thiên giới, chẳng sai lầm.

Vua ngâm kệ tiếp theo:

  1. Chuyện lạ này nghe tự ái khanh,
    Sầu đang chất ngất ở trong mình,
    Bảo nàng khuyên nhủ con dừng lại,
    Nàng chỉ giục con phải bước nhanh.

Hoàng hậu lại ngâm kệ nữa:

  1. Có hạng người không đắm dục tham,
    Thoát sầu bi, sống chẳng sai lầm,
    Nhiều người đắc Niết-bàn cao thượng:
    Ví thử hoàng nhi muốn dự phần
    Cùng tiến lên con đường Thánh hạnh,
    Thì hoài công cản bước hoàng nam.

Vua ngâm vần kệ cuối cùng để đáp lời:

  1. Quả thật là chân chánh thiện tâm,
    Tôn sùng bậc trí tuệ cao thâm
    Tâm tư siêu việt thường sinh khởi,
    Ái hậu từng nghe các diệu âm,
    Thông hiểu kiến văn nhiều bậc Thánh,
    Nên không còn khổ não, tham lam.

Sau đó, bậc Ðại sĩ đảnh lễ song thân, xin hai vị tha thứ cho ngài nếu có lỗi lầm gì, rồi vào cung kính vái chào toàn thể hội chúng, ngài quay mặt về hướng Tuyết Sơn. Khi dân chúng đã về, ngài cùng với các Thiên thần vừa đến đó giả dạng người trần, vượt băng qua bảy ngọn đồi cao lên tận Tuyết Sơn. Trong chiếc am tranh do vị Thiên thần Vissakamma giáng thế xây dựng cho ngài, ngài sống đời tu hành, tại đó ngài được các Thiên thần ấy giả dạng làm tùy tùng của vị hoàng tử, hầu hạ ngài đến năm lên mười sáu tuổi. Còn kẻ tu hành lừa bịp kia bị dân chúng bao vây đánh chết.

Về sau, bậc Ðại sĩ tu tập làm phát khởi năng lực Thiền định, và được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, như vậy ngày xưa cũng như bây giờ, kẻ ấy đã dự mưu sát hại Ta.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là kẻ lừa đảo, mẫu hậu Mayà là vương hậu kia, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Hiền giả Rakkhita và Ta chính là vương tử Somanassa

-ooOoo-

  1. Chuyện long vương Campeyya (Tiền thân Campeyya)

Ai đó như tia chớp sáng bừng..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về các hạnh nguyện ngày trai giới. Bậc Ðạo sư bảo:

– Lành thay, này các thiện nam tử, các ông đã phát nguyện giữ trai giới. Nhưng bậc trí xưa kia cũng đã từ bỏ ngay cả vinh quang của một Long vương và sống theo các giới hạnh này.

Sau đó theo lời thỉnh cầu của hội chúng, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Anga (Ưng-già) trị vì ở quốc độ Anga (Ưng-già) mà vua Ma-kiệt-đà trị vì ở xứ Magadha (Ma-kiệt-đà); giữa hai quốc độ Ưng-già và Ma-kiệt-đà là con sông Campà (Chiêm-bà), nơi có loài Rồng rắn (Nàga) sinh sống, được chúa Rồng Campeyya cầm quyền thống lãnh.

Ðôi khi vua Ma-kiệt-đà chiếm nước Ưng-già và có khi vua Ưng-già chiếm Ma-kiệt-đà. Một ngày kia, vua Ma-kiệt-đà, sau khi lâm chiến với Ưng-già và thất bại, liền leo lên chiến mã đào tẩu, và bị quân sĩ Ưng-già đuổi theo gấp. Khi vua đến sông Campà lại đang mùa lũ lụt, nhưng vua nói:

– Thà chết chìm trong dòng sông này hơn là chết trong tay kẻ thù của ta!

Rồi cả người và ngựa đều nhào xuống dòng sông ấy.

Thời bấy giờ Long vương đã xây dựng cho mình ở dưới nước một ngôi nhà thủy tạ bằng châu ngọc, ngay lúc ấy đang ở giữa triều đãi tiệc say sưa. Nhưng vua trên kia cùng chiến mã nhảy xuống sông ngay chính trước mặt chúa Rồng. Rồng chúa ngắm vị vua lộng lẫy cao sang này, sinh lòng yêu mến, liền đứng lên từ bảo tọa, Rồng chúa mời vua ngự lên chính ngai vàng của mình, bảo vua đừng sợ gì cả, rồi hỏi tại sao vua lại nhảy xuống sông. Vua kể hết mọi sự xảy ra cho Rồng chúa nghe. Rồng chúa liền bảo:

– Tâu Ðại vương, đừng sợ gì cả! Trẫm sẽ làm cho Ðại vương trở thành bá chủ hai vương quốc ấy.

Rồng chúa an ủi vua như vậy và suốt bảy ngày liền tiếp đãi vua vô cùng trọng thể. Vào ngày thứ bảy, chúa Rồng cùng vua Ma-kiệt-đà rời Long cung. Sau đó nhờ thần lực của Long vương, vua Ma-kiệt-đà chiếm lấy quốc độ Ưng-già, giết vua Ưng-già rồi thống trị cả hai lãnh thổ ấy. Từ đó trở đi, có mối giao hảo mật thiết giữa vua và Rồng chúa.

Dần dần vua truyền lệnh xây một ngôi đình bằng châu báu trên bờ sông Campà, triều cống Rồng chúa đủ lễ vật rất cao sang. Rồng chúa cùng đám tùy tùng đông đảo xuất hiện từ Long cung lên tiếp nhận lễ triều cống và mọi người được dịp chiêm ngưỡng cảnh vinh quang của Rồng chúa.

Thời ấy, Bồ-tát sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó, ngài thường đi cùng đám thần dân ấy đến bờ sông. Tại đó khi trông thấy cảnh vinh quang của Rồng chúa, ngài sinh lòng thèm muốn và ngài chết đi trong nỗi khát vọng này. Rồi bảy ngày sau khi Rồng chúa Campeyya ấy từ trần, phần Bồ-tát vì suốt một đời đã sống đầy đức hạnh và chuyên bố thí, nên được tái sinh vào cung điện của Rồng chúa ấy trên long sàng kia, thân thể ngài như một chuỗi vũ quý hoa (hoa lài) vĩ đại.

Khi thấy vậy, lòng ngài tràn ngập niềm hối hận. Ngài bảo: “Ta đã có quyền lực để dành trên sáu cảnh trời dục giới là do kết quả các thiện nghiệp của ta, như hạt thóc tích trữ trong vựa. Song nay hãy xem đây, ta lại sinh làm thân rồng rắn, vậy ta còn thiết gì đời sống nữa?” Và vì thế ngài có ý định kết liễu cuộc đời mình. Nhưng có một Long nữ tên là Sumanà, trông thấy ngài liền báo tin cho cả loài biết:

– Vị này ắt hẳn là Ðế Thích Thiên chủ đầy uy lực vừa ra đời tại đây với chúng ta!

Sau đó, Long chúng cùng đi đến dâng lễ vật cho ngài với đủ loại đàn ca múa hát. Long cung của ngài chẳng khác nào cung của Thiên chủ, nên ngài không còn nghĩ đến chuyện chết nữa, ngài trút bỏ hình tướng Rồng và ngự lên bảo tọa, lộng lẫy xiêm y cùng ngọc vàng trang điểm. Từ đó về sau, cảnh vinh quang của ngài thật vĩ đại, ngài thấy hối tiếc ăn năn thầm nghĩ: “Ta còn ham thích gì cái thân rồng rắn này nữa? Ta muốn sống theo các hạnh nguyện trai giới, ta muốn thoát thân khỏi nơi này, ta sẽ ra đi đến giữa loài người, học hỏi các chân lý và chấm dứt khổ đau”.

Nhưng sau đó ngài vẫn ở lại trong cung điện ấy, và thành tựu các hạnh nguyện trai giới, rồi khi các Long nữ trang điểm rực rỡ đến vây quanh ngài, ngài lại thường vi phạm giới đức. Về sau, ngài rời bỏ cung điện đi vào ngự viên, nhưng bọn chúng theo ngài đến đó, và hạnh nguyện của ngài cũng bị phá bỏ như trước kia. Ngài liền suy nghĩ: “Ta phải rời cung này, đi vào thế giới loài người, và tại đó, ta phải sống theo đúng hạnh nguyện của trai giới”.

Vì thế vào ngày trai giới, ngài rời cung điện ra đi, vào nằm trên nóc tổ kiến cạnh đường cái, không xa một thôn làng biên địa. Ngài nói:

– Ai muốn lấy da thịt ta, thì cứ lấy, hoặc có ai muốn bắt ta làm trò con rồng nhảy múa thì cứ bắt ta đi.

Như vậy ngài đã chịu xả thân ra bố thí, nên vừa thu gọn chiếc mồng lại, ngài vừa nằm đó hành trì hạnh nguyện trai giới.

Nhiều người qua lại trên đường cái trông thấy ngài, liền cúng dường ngài đủ hương hoa thơm ngát. Và dân chúng trong thôn làng biên địa kia xem ngài là Rồng chúa đại oai lực, nên dựng một ngôi đình trên chỗ ngài nằm, rải cát trước đó và cúng dường chiêm bái đủ thứ hương liệu, nước hoa.

Bấy giờ, dân chúng bắt đầu cầu tự nhờ ngài giúp sức, nên có lòng tín ngưỡng bậc Ðại sĩ và sùng kính tôn thờ ngài. Tại đó bậc Ðại sĩ giữ hạnh nguyện vào các ngày mười bốn, rằm giữa tháng, an tọa trên tổ kiến, rồi đến ngày mồng một âm lịch, ngài lại về long cung, và cứ như vậy ngài giữ tròn hạnh nguyện theo thời gian.

Một hôm vương phi Sumanà thưa với ngài:

– Tâu Chúa thượng, ngài ra đi đến cõi nhân gian để giữ hạnh nguyện trai giới, song nhân thế đầy nguy hiểm kinh hoàng. Giả sử có mối nguy cơ nào xảy ra cho Chúa thượng, thì nay ngài hãy bảo cho thần thiếp biết nhờ dấu hiệu gì để nhận ra việc ấy.

Sau đó ngài dẫn vương phi đến bên một hồ nước an toàn và bảo:

– Nếu có ai đánh ta hay làm ta bị thương, thì nước hồ sẽ vẩn đục lên. Còn nếu có con chim đại bàng nào tha ta đi, thì nước hồ sẽ biến mất, nếu có kẻ bỏ bùa bắt rắn nào tóm được ta thì hồ sẽ đổi thành màu máu.

Sau khi giải thích ba dấu hiệu này cho vương phi, ngài rời cung điện ra đi, giữ hạnh nguyện trai giới trong ngày mười bốn, đến nằm trên tổ kiến, ánh sáng trên thân ngài tỏa rực rỡ khắp chỗ đó. Toàn thân ngài trắng ngần, như một cuộn dây toàn bạc, đầu ngài như một cuộn len đỏ. Trong Tiền thân này, thân thể Bồ-tát to bằng cái đầu lưỡi cày, còn trong Tiền thân Bhuridatta (số 543, tập VII) ngài lớn bằng bắp đùi, và trong Tiền thân Sankhapàla (số 524, tập VI) thân ngài tròn trịa như chiếc xuồng dài có móc chèo.

Thời ấy có một thanh niên Bà-la-môn ở Ba-la-nại đến Takkasilà học tập dưới sự dạy bảo của một vị giáo sĩ lừng danh thế giới, nhờ vị này chàng ta học được bùa chú sai khiến mọi loài hữu tình. Khi về nhà theo đường cái ấy, chàng chẳng thấy gì ngoài bậc Ðạo sĩ. Chàng suy nghĩ: “Ta sẽ bắt con Rồng này và sẽ du hành khắp thôn làng thị trấn, kinh thành, bắt nó nhảy múa và tha hồ kiếm lợi lớn”.

Sau đó chàng lấy thứ cỏ thuốc linh dược, đọc thần chú và đến gần Rồng chúa. Vừa nghe tiếng niệm chú này, tức thì bậc Ðại sĩ cảm thấy hai lỗ tai như bị củi đốt cháy đâm thủng, đầu ngài như thể vỡ ra vì bị kiếm đâm vào. Ngài suy nghĩ: “Ta gặp chuyện gì đây?”. Rồi ló đầu ra khỏi chiếc mồng, ngài trông thấy người bỏ bùa bắt rắn ấy. Ngài liền suy nghĩ: “Nọc độc của ta cực kỳ mãnh liệt, nếu ta nổi giận và phì hơi độc từ lỗ mũi ra thì thân nó sẽ tan nát ra như một nắm trấu vậy, và thế là công đức của ta sẽ bị tiêu diệt hết, nên ta không muốn nhìn nó”. Ngài vừa nhắm mắt lại vừa thụt đầu vào trong chiếc mồng.

Người Bà-la-môn bỏ bùa rắn kia nhai một cây cỏ thuốc, niệm chú rồi nhỏ lên mình ngài: nhờ công hiệu cỏ thuốc và bùa chú nên nơi nào có nước miếng của người đó dính vào thì các mụn mủ nổi lên. Sau đó chàng ta nắm lấy được ngài ra. Chàng ta lấy chiếc gậy hình chân dê thúc ép ngài cho đến lúc ngài yếu sức, rồi nắm chặt phần đầu ngài mà chà xuống. Bậc Ðại sĩ há mồm ra, chàng nhỏ nước miếng vào, nhờ công hiệu cỏ thuốc và bùa chú, răng ngài gãy tan hết, chiếc mồm đầy cả máu. Song bậc Ðại sĩ sợ phải phá hủy công đức của ngài, nên ngài chịu mọi khổ hình này và không hề mở mắt ra đủ để liếc nhìn gã.

Sau đó chàng nói:

– Ta sẽ làm Rồng chúa này yếu đi!

Chàng ép chặt thân Rồng chúa từ đầu chí đuôi như thể chàng muốn chà nát xương ngài thành bột! Rồi chàng gói ngài trong thứ thường được gọi là mảnh vải cuộn, thắt thêm một vật gọi là dây thừng rồi nắm đuôi ngài và đấm đá. Thân thể của bậc Ðại sĩ bê bết máu, và ngài đau đớn vô cùng. Khi thấy chúa Rồng này đã yếu sức, chàng làm cái thúng bằng cây liễu gai để đặt Rồng chúa vào.

Sau đó chàng đem ngài vào làng xóm, bắt ngài làm trò cho dân chúng. Dù phải hóa thành màu xanh, đen hay màu gì khác nữa, biến ra hình tròn vuông lớn nhỏ ra sao, hễ chàng Bà-la-môn muốn gì , bậc Ðại sĩ đều làm cả, vừa nhảy múa, giương mồng quay tít thành thiên hình vạn trạng. Dân chúng quá thích thú nên cho thật nhiều tiền. Trong một ngày chàng đã kiếm được cả ngàn đồng ru-pi và nhiều trò đáng giá cả ngàn đồng khác nữa.

Lúc đầu chàng dự định thả ngài ra khi đã kiếm được một ngàn đồng, nhưng khi được rồi, chàng lại nghĩ: “Trong một làng biên địa mà ta đã kiếm được chừng này, nếu gặp vua quan thì ta còn mong được biết bao nhiêu của cải nữa”.

Thế là chàng mua một chiếc xe bò và một chiếc xe du ngoạn, trong xe bò, chàng chất đầy hàng hóa, còn chàng ngồi xe kia. Như vậy cùng với một đoàn tùy tùng hầu cận, chàng đi qua thôn làng thị trấn, bắt bậc Ðại sĩ làm trò, và tiếp tục du hành với ý định trình diện ngài trước vua Uggasena ở Ba-la-nại rồi mới thả ngài đi.

Chàng ta thường giết ếch nhái và đem cho Rồng chúa nhưng Rồng từ chối mỗi khi chàng ta đưa vậy, để không một sinh vật nào bị chàng ta giết vì ngài nữa. Sau đó chàng ta đem mật và bắp rang cho ngài. Nhưng ngài cũng không chịu ăn, vì ngài nghĩ: “Nếu ta ăn gì thì ta sẽ ở trong giỏ này cho đến chết”.

Suốt một tháng, người Bà-la-môn đến ở Ba-la-nại. Tại đó chàng kiếm được nhiều tiền nhờ bảo Rồng chúa diễn trò trong các thôn làng ngoài cổng thành. Vua cho triệu chàng vào và ra lệnh diễn trò. Chàng hứa sẽ làm vào ngày hôm sau, là ngày cuối trong mỗi nửa tháng. Sau đó vua bảo đánh trống khắp kinh thành, bố cáo ngày mai sẽ có một Rồng chúa nhảy múa trong sân chầu, vậy dân chúng được phép tụ tập để xem thật đông. Hôm sau sân chầu được trang hoàng, và người Bà-la-môn được triệu vào. Chàng mang bậc Ðại sĩ trong cái thúng và có dát ngọc vàng, trên một tấm thảm rực rỡ, chàng đặt thúng xuống và vua an tọa trên ngai vàng giữa thần dân chật ních vây quanh.

Người Bà-la-môn bắt bậc Ðại sĩ ra và bảo nhảy múa. Dân chúng không thể nào ngồi yên được: hàng ngàn chiếc khăn quăng tung vẫy giữa không gian; bảy loại châu báu rớt xuống như mưa quanh Bồ-tát.

Từ khi Long vương bị bắt đến nay đã một tháng tròn và suốt thời gian ấy ngài chẳng ăn uống gì cả. Bây giờ vương phi Sumanà bắt đầu suy nghĩ: “Phu quân yêu quý của ta đã ở nán lại trên đó lâu rồi. Cả tháng này ngài chưa trở về chắc có việc gì chăng?

Vì thế nàng bước ra xem mặt nước hồ: Kìa, nước đỏ như máu! Thế là nàng biết chắc hẳn ngài đã bị hành hạ, và nàng khóc than.

Sau đó nàng vào ngôi làng biên địa kia để hỏi thăm và khi biết hết mọi sự, nàng đi thẳng đến Ba-la-nại và ngay giữa quần chúng trên khoảng không của chính sân chầu, nàng cứ đứng than khóc mãi.

Trong lúc bậc Ðại sĩ nhảy múa, ngài chợt nhìn lên không và thấy nàng, ngài hổ thẹn, bò ngay vào thúng nằm yên. Khi ngài bò vào thúng, vua kêu lớn:

– Sao có gì thế này?

Nhìn quanh quẩn đâu đó, ngài thấy Long nữ đứng ở trên không liền ngâm vần kệ:

  1. Ai đó như tia chớp sáng bừng,
    Hay vầng tinh tú tỏa hào quang,
    Tu-la thần nữ hay Thiên nữ?
    Ta chắc nàng không phải thế nhân?

Sau đây câu chuyện giữa hai vị qua các vần kệ:

Long nữ:

  1. Chẳng là Thiên nữ, Tu-la thần,
    Cũng chẳng loài người, tấu Ðại quân,
    Tiện thiếp chính là Long nữ đó,
    Ðến đây vì có việc cầu ân.

Ðức vua:

  1. Nàng tỏ ra hờn giận, bất bằng,
    Mắt nàng mưa lệ cứ tuôn tràn,
    Việc gì, ước vọng nào đưa đến,
    Hãy nói, ta mong biết, hỡi nàng!

Long nữ:

  1. Rắn rồng bò, tựa lửa hung hăng!
    Chúng vẫn gọi ngài thế, bỗng dưng
    Gã bắt ngài đi vì hám lợi,
    Thiếp cầu Chúa thượng thả Long quân!

Ðức vua:

  1. Vì sao kẻ ốm đói như vầy
    Bắt được Rồng kia mãnh lực đầy?
    Long nữ, xin nàng cho trẫm biết,
    Làm sao đánh giá đúng Rồng này?

Long nữ:

  1. Thần lực ngài, ngay cả thị thành,
    Ngài thiêu ra đống bụi tan tành,
    Song ngài yêu chuộng đường thanh tịnh,
    Khổ hạnh đi tìm lại chính danh.

Sau đó vua hỏi bằng cách nào chàng kia bắt được ngài, nàng đáp qua vần kệ sau:

  1. Vào ngày trai giới, đấng Long vương
    Bốn pháp hành trì hạnh Thánh nhân,
    Gã múa rối kia tìm bắt được,
    Xin ngài vì thiếp, cứu lang quân!

Sau những lời trên, nàng lại ngâm hai vần kệ khác xin giải thoát cho ngài:

  1. Mười sáu ngàn kìa đám nữ nhân,
    Rỡ ràng vòng ngọc với kim ngân,
    Dưới dòng nước đã tôn Rồng thánh
    Là chúa tể cho chúng ẩn thân.
  2. Ðại vương, mong rộng lượng, công bằng,
    Xin chuộc Long vương được thoát thân
    Bằng một làng, trăm bò cái chẵn,
    Thêm vàng, đem phước báo Quân vương.

Ðức vua liền ngâm tiếp ba vần kệ:

  1. Này xem ta chánh đáng, hào hoa,
    Ta chuộc cho Rồng chúa được tha
    Bằng một làng, trăm bò cái chẵn,
    Thêm vàng, đem phước báo cho ta!
  2. Rồi trẫm tặng chàng vòng ngọc tai,
    Với vàng trăm lượng chẳng hề sai,
    Tọa sàng xinh đẹp như hoa gấm,
    Gối nệm nằm chen bốn dãy dài.
  3. Bò đực, cùng bò cái một trăm,
    Và hai người vợ cũng chung dòng,
    Xin tha Rồng chúa đầy thanh tịnh,
    Việc ấy sẽ đem lắm phước phần.

Nghe vậy, người bắt rắn đáp lời:

  1. Thần không cầu thưởng, tấu Anh quân,
    Mà để chúa Rồng được thoát thân,
    Như vậy, nay thần xin giải phóng:
    Việc này sẽ tạo lắm hồng ân.

Sau lời này, chàng ta đem bậc Ðại sĩ ra khỏi thúng. Long vương từ từ bò ra, tiến vào trong một cái hoa, tại đó ngài trút bỏ xác cũ và hiện hình một nam tử phục sức cực kỳ lộng lẫy: Ngài đứng sừng sững, chẳng khác nào ngài vừa rẽ mặt đất ra và bước lên. Còn nàng Long nữ Sumanà từ trên trời giáng xuống đứng cạnh ngài. Vị Rồng chúa đứng chấp tay tỏ vẻ tôn trọng vua lắm.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm hai vần kệ:

  1. Tự do, Rồng chúa xứ Cam-pa
    Liền nói như vầy với đức vua:
    “Chúa tể Kà-si nuôi quốc độ!
    Cầu ngài vinh hiển tự bây giờ
    Thần xin đảnh lễ ngài cung kính,
    Trước lúc trở về viếng cố gia!”.

Ðức vua:

  1. Ðời thường nói các đấng siêu phàm
    Khó được lòng tin ở thế gian
    Ví thử chúa Rồng nay nói thật:
    Long cung đâu? Hãy chỉ ngay đàng!

Nhưng bậc Ðại sĩ muốn vua tin tưởng, liền thề nguyền như sau qua hai vần kệ:

  1. Dù gió thổi tung cả núi đồi,
    Mặt trời, trăng rớt khỏi bầu trời,
    Suối sông, xoáy ngược dòng đang cháy,
    Chúa thượng, thần không thể dối lời!
  2. Ví trời nứt nẻ, hải dương khô,
    Ðất mẹ bao la vỡ vụn ra,
    Dù núi Tu-di rung bật gốc,
    Ðại vương, thần chẳng dối bao giờ!

Dù có lời cam đoan như vậy, vua vẫn chưa tin bậc Ðại sĩ và bảo:

  1. Ðời thường nói các đấng siêu phàm
    Khó được lòng tin ở thế gian,
    Ví thử chúa Rồng nay nói thật,
    Long cung đâu, hãy chỉ ngay đàng!

Một lần nữa vua ngâm vần kệ trên và thêm:

– Ngài phải biết ơn ta về các hành động tốt ta đã làm cho ngài đấy. Tuy nhiên ta có tin ngài chân chánh hay không, thì việc ấy tùy ta định đoạt.

Vua nói rõ điều này qua vần kệ:

  1. Ngài đầy nọc độc, đủ quyền năng,
    Chiếu sáng rực trời, chóng nổi sân,
    Ngài bị giam, nhờ ta giải thoát,
    Quyền ta là phải được tri ân!

Bậc Ðại sĩ liền thề nguyền như vầy để vua tin tưởng:

  1. Kẻ nào không muốn đáp ân tình,
    Sẽ chẳng làm sao hưởng phước lành,
    Kẻ đó bỏ mình trong rọ nhốt!
    Chịu thiêu trong ngục tối hồn kinh!

Bấy giờ vua mới tin ngài và cảm ơn ngài như vầy:

  1. Ngài nguyện lời kia quả thật chân,
    Giận hờn tan biến, tránh thù hằn:
    Như ta tránh lửa trong mùa hạ,
    Mong Ðiểu vương xa lành chúa Rồng!

Phần ngài, bậc Ðại sĩ cũng ngâm kệ nữa để cảm tạ vua:

  1. Như mẹ hiền kia muốn bố ân
    Cho con độc nhất quý vô ngần,
    Ðại vương nhân ái cùng rồng rắn,
    Xin phụng sự vua, mỗi chúng thần.

Bấy giờ vua ước ao đi viếng cảnh giới loài Rồng, nên truyền lệnh cho quân sĩ chuẩn bị sẵn sàng lên đường qua vần kệ:

  1. Ðoàn vương xa, hãy thắng yên cương,
    Ðứng sẵn bầy la khéo luyện thuần,
    Vương tượng cân đai vàng chói lọi,
    Ta cùng đi viếng xứ Long vương.

Sau đây là vần kệ phát xuất từ trí tuệ Tối thắng của đức Phật:

  1. Trống con, trống lớn, đánh thì thùng,
    Chũm chọe, tù và thổi dậy rân,
    Kìa ngắm Ug-ga vương ngự đến
    Huy hoàng hiện giữa đám cung tần.

Vào lúc vua rời kinh thành, bậc Ðại sĩ dùng thần lực khiến cảnh giới Long vương xuất hiện với một bức tường thành bao quanh làm bằng bảy loại châu báu, cùng các tháp canh tại cổng thành, ngài hóa phép cho các con đường dẫn đến Long cung đều được trang hoàng rực rỡ. Theo đường này, vua cùng đám tùy tùng bước vào cung và trông thấy một khung cảnh đầy kỳ thú với nhiều lâu đài nguy nga lộng lẫy cao sang.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm kệ:

  1. Chúa tể Kà-si thấy đất bằng
    Nơi nơi rải khắp cát như vàng,
    Hoa san hô đẹp trồng quanh chốn,
    Ðỉnh tháp bằng vàng ở tứ phương.
  2. Sau đó, Ðại vương lại đặt chân
    Ngự vào đại sảnh của Long thần
    Tựa thiên lôi chủy đồng lóe sáng,
    Hay cả vầng hồng tỏa ánh quang.
  3. Vào đến Cam-pey đại sảnh đường,
    Vừa dời gót ngọc, đấng Quân vương:
    Ngàn cây đổ bóng che im mát,
    Không khí ngàn mùi tỏa diệu hương.
  4. Bên trong cung điện chúa Cam-pey,
    Ðại đế vừa khi ngự đến đây,
    Ðàn trổi khúc thần tiên tuyệt diệu,
    Yêu kiều Long nữ múa như bay!
  5. Ngài được mời lên bảo tọa vàng
    Nệm êm ái sực nức chiên-đàn,
    Cả đoàn kiều nữ khoan thai lướt
    Khắp sảnh đường theo gót rộn ràng.

Vừa khi vua an tọa tại đó, quân hầu đã dâng lên đủ thức cao lương mỹ vị thần tiên, họ cũng đem các thứ này mời mười sáu ngàn Long nữ kia và toàn thể hội chúng ấy. Suốt bảy ngày, vua cùngđám tùy tùng thọ hưởng các thực phẩm thần tiên cùng mọi lạc thú khác. Vừa ngự trên bảo tọa, vua vừa ca ngợi cảnh vinh quang của bậc Ðại sĩ:

– Này Long vương – vua hỏi – tại sao ngài bỏ mọi cảnh huy hoàng này để đi nằm trên tổ kiến giữa cảnh trần thế của con người và hành trì ngày trai giới vậy?

Bậc Ðại sĩ liền đáp lại vua.

Ðể giải thích sự việc này, bậc Ðạo sư ngâm kệ:

  1. Chốn kia, vua hưởng thú vui tràn,
    Rồi tới Cam-pey chúa, hỏi han:
    “Cung điện ngài đây vinh hiển quá,
    Hồng như vầng nhật tỏa hào quang,
    Trên trần không chốn nào như vậy,
    Vì cớ sao ngài muốn ẩn thân?
  2. Ðứng đây toàn tuyệt sắc giai nhân
    Cầm lấy bằng đầu ngón búp măng
    Chén rượu trong bàn tay ửng đỏ,
    Ðai vàng ôm sát ngực và thân,
    Tại sao ngài muốn làm tu sĩ,
    Chẳng thấy cảnh kia ở cõi trần?
  3. Suối, sông, hồ cá đẹp, trong ngần,
    Ðều có bến xây bậc vững vàng
    Trên trần chẳng chốn nào như thế,
    Vì cớ sao ngài muốn ẩn thân?
  4. Ðàn công, sếu hạc, với thiên nga,
    Bao vẻ mê hồn cu gáy ca,
    Vì cớ sao ngài làm ẩn sĩ,
    Trên đời đâu thấy cảnh kia mà?
  5. Ðây trồng ti-lak, đó xoài, sal,
    Hoa quế, hoa chuông nở rộ tràn,
    Chẳng thấy cảnh này nơi địa giới,
    Sao ngài làm ẩn sĩ trần gian?
  6. Nhìn các hồ kia, gió thoảng đưa,
    Hương thần tiên tỏa khắp đôi bờ,
    Cảnh này không thấy trên trần giới,
    Vì cớ sao ngài muốn ẩn cư?

Long vương:

  1. Chẳng vì thọ mạng, của hay con,
    Ta phấn đấu vầy với bản thân,
    Nếu được, chính lòng ta ước nguyện,
    Tái sinh làm một kẻ phàm nhân.

Vua lại nói:

  1. Phục sức cao sang, mắt đỏ ngầu,
    Rộng vai và nhẵn nhụi đầu râu,
    Chiên-đàn tẩm ướt, như Thiên đế
    Phán bảo toàn dân chúng địa cầu.
  2. Lực thần vĩ đại thật hùng oai,
    Làm chủ quyền mơ ước mọi loài,
    Rồng chúa, xin vui lòng giải đáp,
    Vì sao địa giới vượt Long đài?

Câu hỏi này được Rồng chúa đáp lại như sau:

  1. Thanh tịnh, điều thân, chỉ đạt thành
    Khi người ta sống giữa quần sinh,
    Nếu làm người, chẳng bao giờ nữa
    Ta thấy tử sinh đến với mình.

Vua lắng nghe và đáp kệ này:

  1. Quả thật là chân chánh thiện tâm
    Tôn sùng bậc trí tuệ uyên thâm
    Tầm tư siêu việt thường sinh khởi.
    Khi trẫm nay chiêm ngưỡng chúa Rồng,
    Cùng với cả đoàn Long nữ ấy,
    Trẫm mong làm thiện nghiệp muôn phần.

Long vương bảo ngài:

  1. Quả thật là chân chánh thiện tâm
    Tôn sùng bậc trí tuệ uyên thâm
    Tầm tư siêu việt thường sinh khởi.
    Khi Ðại vương nhìn thấy tiểu quân,
    Cùng với cả đoàn Long nữ ấy,
    Ngài mong thành thiện nghiệp muôn phần.

Sau buổi đàm đạo ấy, vua Uggasena muốn ra đi, liền tạ từ ngài và bảo:

– Này Long vương, trẫm ở lại đây đã lâu rồi, nay trẫm cần phải ra về.

Bậc Ðại sĩ liền chỉ các kho báu cho vua xem, vừa tặng bất cứ thứ gì vua muốn lấy, ngài vừa ngâm kệ:

  1. Vàng thoi bỏ đó, kể không cùng,
    Bạc chất như cây cả mấy tầng,
    Ngài lấy mà xây tường đá bạc,
    Ðem về dựng gác ngọc lầu vàng.
  2. Ta đoán năm ngàn xe ngọc trai,
    San hô chen giữa ửng hồng tươi,
    Lấy đi để trải đầy cung điện
    Chẳng thấy đất dơ lộ phía ngoài.
  3. Ðại vương! Hãy dựng một cung đình,
    Như tiểu quân nay muốn tấu trình,
    Tại đó xin ngài lên ngự trị,
    Thành Ba-la-nại sẽ phồn vinh:
    Mong ngài cai trị dân hiền đức,
    Và trị nước nhà thật xứng danh.

Vua chấp thuận lời đề nghị này. Sau đó bậc Ðại sĩ ban lời bố cáo khắp kinh thành bằng tiếng trống lệnh:

– Hãy để cho đám tùy tùng của đức vua từ nhân giới lấy đem về bất cứ món gì trong các kho báu của ta, cả vàng ròng nữa như ý muốn.

Rồi ngài truyền đưa bảo vật đến tặng vua chất đầy hàng trăm cỗ xe.

Xong xuôi, vua giã từ cảnh giới Long vương trong muôn vẻ huy hoàng trọng thể và trở về thành Ba-la-nại. Từ đó về sau, tục truyền rằng đất được lát vàng khắp cả xứ Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ).

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Như vậy các bậc trí ngày xưa đã từ giã cảnh vinh quang trong thế giới loài Rồng để hành trì ngày trai giới.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là người nhử rắn, mẹ của Ràhula (La-hầu-la) là nàng Sumanà, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vua Uggasena và Ta chính là Long vương Campeyya.

-ooOoo-

  1. Chuyện sức cám dỗ mạnh (Tiền thân Mahà-Palobhana)

Từ cõi Phạm thiên một vị thần..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự ô nhiễm lậu hoặc của các vị bậc thanh tịnh.

Các hoàn cảnh đã được nêu trước kia. Tại đây, một lần nữa, bậc Ðạo sư bảo:

– Nữ nhân thường gây cấu uế cho cả những người đã đạt tâm thanh tịnh.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ tại thành Ba-la-nại.. câu chuyện đời xưa này cũng diễn tiến như trong Tiền thân Cullapalobhana. Bấy giờ một lần nữa, bậc Ðại sĩ từ Phạm thiên giới giáng trần làm vương tử của vua Kàsi và ngài có tên là Anitthi gandha: Người ghét nữ nhân. Vương tử hài nhi không muốn ở trong tay bất cứ một nữ nhân nào, nên bọn chúng phải mặc áo quần đàn ông khi cho vương tử bú sữa và chàng cứ ở riêng trong một thiền thất, không hề thấy bóng một nữ nhân nào cả.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm bốn vần kệ:

  1. Từ cõi Phạm thiên, một vị thần
    Ðến đây là thế giới phàm nhân
    Tái sinh, ngài được làm hoàng tử,
    Mỗi ước mơ là lệnh phải vâng.
  2. Chẳng có nghiệp tình, cõi Phạm thiên,
    Chưa hề nghe nói chuyện tình duyên,
    Giờ sinh dục giới này, vương tử
    Nghe chữ “tình” thôi, chán ngấy liền!
  3. Ở nội cung, hoàng tử đã xây,
    Một am thất nhỏ của riêng tây,
    Nơi chàng chìm đắm vào Thiền định,
    Ðơn độc trôi qua chuỗi tháng ngày.
  4. Phụ vương lo lắng trước hoàng nam
    Khi biết chàng trong ấy, khóc than:
    “Trẫm chí sinh ra mình thái tử
    Mà bao dục lạc, trẻ không màng!”

Vần kệ thứ năm diễn tả lời than vãn của vua cha:

  1. Ai cho trẫm biết phải làm gì?
    Ôi, lẽ nào không có cách chi?
    Ai dạy con thèm mùi dục lạc?
    Có ai làm thái tử mê ly?

Vần kệ rưỡi này là vần kệ xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật:

  1. Có thiếu nữ kia dáng mỹ miều,
    Làn da trắng muốt thật yêu kiều,
    Nàng thông suốt một trời ca nhạc,
    Và uốn người quay tít thật đều.
    Xuân nữ này đi tìm Chúa thượng,
    Thế là nàng khởi chuyện tình yêu.

Nửa vần kệ này do cô gái ngâm:

  1. Thần thiếp sẽ đi quyến rủ chàng,
    Nếu duyên cầm sắt được ngài ban.

Vua đáp lời cô gái, và phán như vầy như vầy:

Gắng công cám dỗ cho hoàn mãn,
Chàng sẽ là vương tử của nàng!

Bấy giờ vua truyền lệnh tạo ra mọi cơ hội thuận tiện cho nàng và triệu nàng vào chầu chực bên mình vương tử.

Buổi sáng kia, nàng đem cây đàn đến đứng ngay bên ngoài tịnh thất của vương tử và chạm nhẹ các đầu ngón tay vào đàn, cố ra sức quyến rủ chàng bằng giọng ca êm ái dịu ngọt làm sao.

Bậc Ðạo sư ngâm kệ để giải thích việc này:

  1. Kiều nhi vào tận chốn cung đình,
    Nơi đó nàng riêng đứng một mình,
    Hát khúc ngọt ngào, đầy khát vọng,
    Xuyên vào tim của bạn chung tình.
  2. Xuân nữ đứng kia, cất tiếng oanh,
    Ông hoàng nghe lọt được âm thanh,
    Tức thì bỗng thấy lòng mê mẩn,
    Chàng hỏi quân hầu đứng chực quanh:
  3. “Âm thanh nào đó thật du dương
    Ðưa đến phòng ta rõ lạ thường,
    Ðâm suốt con tim, đầy dục tưởng,
    Bên tai kỳ thú thật khôn lường!”
  4. “- Vương tử, nàng kia ngắm tuyệt xinh!
    Biết bao đùa cợt, vẻ đa tình,
    Ví ngài mong hưởng tình ngon ngọt,
    Thì lạc thú đây, hãy đắm mình!”.
  5. “- Này, bảo nàng kia hãy đến gần,
    Rồi nàng ca hát thật nhiều lần,
    Ðến đây, trước mặt ta rồi hát
    Ngay chính bên trong cánh cửa phòng!”
  6. Cô gái vừa ca ngoại bức tường,
    Ðứng kia, trong thất của ông hoàng,
    Nàng vây chàng chặt như voi nọ
    Bị mắc bẫy giăng giữa núi ngàn!
  7. Chàng hưởng tròn hoan lạc ái ân,
    Kìa xem! Tràn ngập nỗi ghen tương:
    “Không ai được phép yêu nàng cả!
    Chỉ một mình ta được luyến thương!”
  8. Một mình ta, chẳng được người nào!
    Rồi chạy ra, chàng cứ thét gào,
    Cầm kiếm lồng lên như khát máu
    Ði tàn sát hết bọn mày râu!
  9. Lâm nguy, dân chúng thét vang lừng,
    Toàn thể phi thân đến hậu cung:
    “Vương tử giết người bất kể số,
    Chẳng ai khiêu khích!” Họ kêu rần.
  10. Ðại vương truyền bắt lấy chàng ngay,
    Khuất mắt phụ vương, phán lệnh đày:
    “Con chẳng được tìm nơi trú ẩn
    Trong vùng biên địa nước ta này!”.
  11. Chàng đem vợ quý nọ lên đường
    Cho đến khi dừng cạnh đại dương,
    Tại đó chàng xây lều lợp lá,
    Sống bằng của nhặt ở rừng hoang.
  12. Một đạo nhân thanh tịnh lượt ngang
    Bay qua biển cả, giữa không gian,
    Ði vào lều lá sao vừa lúc
    Cơm nước vừa đem dọn sẵn sàng.
  13. Cô nàng kia quyến rủ ngài ngay,
    Xem việc làm sao hạ liệt thay!
    Ngài đọa khỏi con đường Thánh hạnh,
    Mọi thần thông lực thảy xa bay!
  14. Chiều đến, khi vương tử trở về,
    Do chàng thâu nhặt thật tràn trề
    Quả rau, một đống trên đòn gánh,
    Ðồ vật rừng hoang đã phủ phê!
  15. Ẩn sĩ nhìn vương tử đến gần,
    Ngài ra bờ biển vội rời chân,
    Ngỡ là hành cước qua không khí,
    Song chỉ chìm sâu xuống biển dần!
  16. Vương tử vừa khi thấy trí nhân
    Vào trong biển cả cứ chìm thân,
    Từ tâm khởi dậy trong vương tử,
    Liền đó chàng ngâm kệ mấy vần:
  17. Ngài phi hành đến bởi thần thông
    Trên biển không buồm để ruổi dong,
    Chìm xuống giờ đây, vì ác phụ,
    Khiến ngài chịu nhục nhã tiêu vong.
  18. Phản bội, hồng quần cám dỗ ta,
    Khiến người thanh tịnh nhất sa đà!
    Chúng chìm dần xuống và dần xuống,
    Ai biết hồng quần phải tránh xa!
  19. Nói ngọt ngào, song khó thỏa lòng,
    Cũng như khó đổ nước đầy sông,
    Chúng chìm dần xuống và dần xuống,
    Ai biết, nên xa lánh má hồng!
  20. Bất kể hồng nhan phục vụ ai,
    Hoặc vì tham dục hoặc tiền tài,
    Chúng thiêu chàng rụi như nhiên liệu
    Ðược thả cháy trong lửa sáng ngời!
  21. Ẩn sĩ nghe lời thái tử khuyên,
    Chán chê trần thế quả hư huyền,
    Trở về Thánh đạo xưa thanh tịnh,
    Ngay giữa không gian đứng vụt liền.
  22. Vương tử vừa khi đứng ngắm trông
    Cách ngài bay bổng giữa hư không,
    Buồn phiền, vương tử liền cương quyết
    Lựa chọn đời thanh tịnh vững lòng.
  23. Chuyển hướng tu hành, quyết đập tan
    Dục tham và khát vọng nồng nàn,
    Dục tham lắng dịu, chàng thề nguyện:
    “Ðến cõi Phạm thiên, tiến thẳng đàng”.

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, chỉ vì nữ nhân mà ngay những người có tâm thanh tịnh cũng vẫn gây ác nghiệp.

Rồi ngài thuyết giảng các Sự thật, bấy giờ vào lúc kết thúc các Sự thật, vị Tỷ-kheo thối thất kia đãđắc Thánh quả A-la-hán.

Sau đó, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ta chính là Vương tử Anitthigandha

-ooOoo-

  1. Chuyện năm vị Hiền nhân (Tiền thân Panca-Pandita)

Chuyện Tiền thân về năm vị Hiền nhân sẽ được kể trong Tiền thân Mahà-Ummagga (Ðường Hầm lớn) số 546, tập VII.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hiền giả quản tượng (Tiền thân Hatthipàla)

Cuối cùng thấy một Bà-la-môn..,

Câu chuyện này, bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Ðại sự Xuất thế của Ngài.

Rồi cùng với các lời sau đây:

– Này các Tỷ-kheo, không phải đây là lần đầu tiên Như Lai làm Ðại sự xuất thế, mà xưa kia cũng vậy.

Bậc Ðạo sư kể cho Tăng chúng một chuyện quá khứ.

*

Một thời tại Ba-la-nại, có một vị vua cai trị mệnh danh là Esukàri. Vị tế sư của ngài vốn là bạn đồng môn được ngài yêu chuộng từ thuở niên thiếu. Cả hai đều không có con. Một ngày kia trong lúc hai vị đang ngồi chuyện trò thân thiết cùng nhau, hai vị nghĩ thầm: “Chúng ta cùng hưởng cảnh đại vinh quang, song chẳng hề có con trai con gái gì cả, vậy phải làm sao bây giờ?” Vua liền bảo vị tế sư:

– Này hiền hữu, nếu nhà hiền hữu sinh được một công tử thì hài nhi đó sau trở thành chúa tể trong quốc độ ta, song nếu ta sinh được một hoàng nam thì đó sẽ là chủ nhân tài sản nhà hiền hữu vậy.

Cả hai vị giao ước với nhau về các chuyện tiếp theo các điều lệ này.

Một hôm, vị tế sư đi đến ngôi làng có hoa lợi của mình, và vào làng bằng cổng phía nam, vị này thấy ngoài cổng làng một người đàn bà cùng khổ lại sinh nhiều con trai quá: có đến bảy đứa, tất cả đều cường tráng khỏe mạnh, đứa cầm nồi đem chảo đi nấu bếp, đứa thì lấy chiếu trải giường, thằng này đi trước thằng nọ theo sau, thằng khác nắm tay mẹ, thằng kia ngồi trong lòng mẹ, một thằng nữa trèo trên vai bà. Vị tế sư hỏi:

– Thế cha bầy trẻ này đâu?

Bà ấy đáp:

– Thưa ngài, chắc chắn là đám trẻ chẳng có cha nào cả.

Vị này hỏi:

– Vậy thì làm sao bà có được bảy thằng con xinh tốt như thế này?

Người đàn bà không để ý đến cả khu rừng rậm, mà chỉ tay vào cây đa đứng cạnh cổng thành và nói:

– Thưa ngài, tiện thiếp cầu khẩn vị thần sống ở cây này, vị thần ấy đáp lại lời cầu xin của thiếp bằng cách ban cho bảy thằng bé ấy.

Vị tế sư liền bảo:

– Thôi được, bà đi đi.

Rồi vị này xuống xe bước lên cây ấy, cầm một cành mà lắc mạnh, bảo nó:

– Này thần linh, đức vua có thiếu món gì cúng ông, suốt năm này qua năm khác, ngài cúng ông cả ngàn đồng tiền, mà ngược lại ông chẳng ban cho ngài vị vương tử nào cả. Còn mụ ăn mày kia đã làm gì mà ông cho mụ cả bảy đứa con trai hử? Ông phải cho đức vua một đứa con trai này trong vòng bảy ngày, nếu không ta sẽ bảo chặt đốn thân ông xuống và xẻ ra từng khúc đấy.

Khi trách mắng vị thần cây đa như thế xong, vị tế sư ra đi.

Suốt sáu ngày vị tế sư cứ làm như vậy và vào ngày thứ sáu, vừa nắm một cành cây vừa bảo:

– Này thần cây, chỉ còn một đêm nữa thôi đấy, nếu ông không cho đức vua một con trai thì thân ông phải ngã xuống ngay.

Vị nữ thần trên cây suy nghĩ mãi cho đến khi nàng thấy sự việc ấy rõ ràng như thế nào. Nàng nghĩ thầm: “Vị Bà-la-môn kia sẽ phá tan nhà của ta nếu vị ấy không được đứa con trai. Vậy ta biết cho ngài một con trai bằng cách nào đây đã chứ? Sau đó nàng yết kiến Tứ đại Thiên vương, và tâu trình với các ngài. Các ngài phán:

– Này, chúng ta không thể ban cho người ấy một đứa con trai được!

Kế đó, nàng đến gặp hai mươi tám vị thần Dạ-xoa (Yakkha), các thần kia cũng trả lời nàng như vậy, nàng liền đến yết kiến Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ và tâu trình ngài.

Thiên chủ suy nghĩ trong lòng: “Nhà vua nay có sinh được hoàng nam xứng đáng với mình hay chăng?” Rồi ngài nhìn quanh và chợt thấy bốn vị Thiên tử đức độ. Truyện kể rằng các vị này nguyên là thợ dệt ở Ba-na-lại, trong một đời trước, tất cả mọi tiền của kiếm được nhờ buôn bán, các vị ấy chia làm năm phần, bốn phần làm của riêng mỗi người, còn phần thứ năm là của chung được đem ra bố thí hết. Từ thành ấy chư vị tái sanh lên cõi trời (Ba-mươi-ba) sau đó lại tái sinh vào cõi Yama thiên (Dạ-ma), từ đấy cứ tái sinh liên tục lên xuống qua về sáu tầng trời cõi dục và hưởng thọ vô số vinh quang.

Ngay thời bấy giờ là lúc chư vị phải đi từ cõi trời Ba-mươi-ba đến cõi Yama (Dạ-ma). Thiên chủ Sakka liền đi tìm kiếm, đi đến cõi nhân gian và nhập mẫu thai của chánh hậu Ðại vương Esukàri.

– Lành thay, tâu Thiên chủ.

Và các vị cùng nói những lời này:

– Chúng thần sẽ đi, song chúng thần không muốn liên quan gì đến hoàng gia cả: chúng thần sẽ tái sinh vào gia đình vị tế sư và ngay khi còn thanh niên, chúng thần sẽ từ giã thế tục.

Thế là Thiên chủ tán thành các vị ngay về lời cam kết kia, xong ngài trở về, kể lại mọi chuyện cho nữ thần sống trên cây đa ấy. Nữ thần rất vui mừng, tạ từ Thiên chủ Sakka và lui về nơi cư ngụ của mình.

Còn vị tế sư ngày hôm sau lại đến cùng với một đám người lực lưỡng mà vị này đã tập họp lại, mỗi người cầm một cây rìu thật bén hay một vật tương tự. Vị tế sư bước gần cây nắm một cành và kêu to:

– Này thần cây! Ðây là ngày thứ bảy. Kể từ khi ta cầu khẩn ông một đặc ân: nay đã đến phá hoại cây rồi đó!

Vị thần cây dùng đại lực của nàng làm nứt nẻ thân cây và xuất hiện với giọng ngọt ngào, bảo vị ấy như vầy:

– Này vị Bà-la-môn, ngài muốn có một nam tử chăng? Chà! Ta sẽ ban cho ngài cả bốn đứa kia!

Vị tế sư bảo:

– Ta không muốn có con, xin nàng có một đứa con trai cho đức vua của ta thôi.

Nàng đáp:

– Không được đâu, ta chỉ muốn ban cho ngài thôi.

Vậy thì nàng hãy ban cho đức vua hai đứa và ta hai đứa đi.

– Không được, đức vua chẳng thể nào có con đâu, phần ngài phải có cả bốn đứa, mà chúng chỉđược phép ban cho riêng ngài thôi, là vì chúng sẽ không muốn sống cuộc đời thế tục tại gia, nên ngay lúc tuổi còn thanh xuân, chúng sẽ từ giã thế tục này.

– Vậy nàng cứ cho ta các đứa con trai ấy đi, ta quyết chăm sóc để bọn chúng khỏi từ giã thế tục. Vị ấy đáp.

Như vậy là nữ thần đã chấp thuận lợi cầu tự của vị tế sư này và trở về chỗ cư ngụ của nàng. Từ đó về sau, nữ thần kia được trọng vọng tôn vinh lắm.

Bấy giờ vị Thiên tử lớn nhất giáng trần, nhập mẫu thai của phu nhân vị quốc sư kia. Vào ngày đặt tên, gia đình ấy gọi hài nhi là Hatthipala hay Người Quản Tượng, và để ngăn cản con trai rời khỏi thế tục này, họ giao hài nhi cho vài người giữ voi chăm sóc, nên hài nhi lớn lên giữa đám người ấy.

Khi hài nhi mới lớn vừa biết đi chập chững thì hài nhi thứ hai ra đời cũng từ phu nhân ấy. Vào ngày sanh, họ đặt tên hài nhi là Assapàla hay Người Giữ Ngựa, và hài nhi lớn lên giữa bọn người giữ ngựa. Hài nhi thứ ba lúc ra đời được đặt tên là Gopàla hay Người Chăn Trâu và hài nhi lớn lên giữa bầy mục tử. Còn Ajapàla hay Người Chăn Dê, là tên hài nhi thứ tư được gọi lúc ra đời và hài nhi này lớn lên giữa đám người chăn dê. Khi bầy trẻ lớn lên, chúng là những nam tử có đầy đủ tướng mạo tốt lành.

Lúc bấy giờ, vì lo sợ bầy con trai từ bỏ thế tục nên các người tu khổ hạnh xuất gia đều bị đuổi ra khỏi quốc độ này: trong toàn xứ sở Kàsi không còn sót tu sĩ nào cả. Riêng bầy nam tử này tính tình thô bạo lắm: hễ chúng đi trên con đường nào là chúng cướp đoạt những lễ vật cúng cấp đây đó trong vùng.

Khi Hathipàla lên mười sáu tuổi, vua và vị tế sư thấy dung mạo hoàn mỹ của chàng, liền nghĩ thầm: “Các con nay đã khôn lớn mạnh mẽ. Khi đã giương lên chiếc lọng hoàng gia rồi thì ta sẽ làm gì chúng được nữa? Ngay khi làm lễ quán đảnh cho chúng xong, chúng sẽ thống trị tất cả: Các vị tu khổ hạnh sẽ đến, bọn chúng sẽ thấy các vị đó và cũng sẽ trở thành các vị tu khổ hạnh luôn; một khi chúng hành động như thế thì cả nước sẽ loạn lên mất. Vậy trước tiên ta phải thử lòng chúng rồi sau đó mới làm lễ quán đảnh”.

Thế là hai vị này cải trang làm các nhà tu khổ hạnh và đi khất thực cho đến khi vào tận cửa nhà của Hatthipàla đang ở. Chàng trai này vui vẻ thích thú ngay khi gặp hai vị, liền bước đến gần đảnh lễ hai vị rất cung kính, và ngâm vần kệ:

  1. Cuối cùng thấy được Bà-la-môn
    Ðầu tóc búi to, tựa Thánh thần,
    Răng bẩn, hôi dơ đầy bụi bặm,
    Lại gồng gánh nặng nhọc trên lưng.
  2. Cuối cùng thấy được một hiền nhân
    Vui thú theo đường lối chánh chân
    Với vỏ cây làm y phủ kín,
    Và thêm một chiếc nữa màu vàng.
  3. Xin nhận tọa sàng nước rửa chăn,
    Thật là chân chánh lúc đem dâng,
    Tặng nhiều thực phẩm chư hiền khách,
    Xin nhận, vì gia chủ đón mừng.

Chàng trai lần lượt nói như vậy với hai vị. Rồi vị tế sư bảo:

– Này Hatthipàla con hỡi, con nói điều này vì con không biết chúng ta. Con tưởng chúng ta là các bậc hiền nhân từ vùng Tuyết Sơn xuống đây ư, song thật chúng ta không phải như vậy đâu, con ạ. Ðây là Ðại vương Esukàri và ta là thân phụ của con, vị quốc sư đó.

Chàng trai nói:

– Thế thì tại sao Ðại vương và thân phụ đắp y như các bậc hiền giả?

Vị ấy đáp:

– Ðể thử lòng các con đó mà!

Chàng hỏi:

– Tại sao lại thử con chứ?

– Bởi vì, nếu con gặp chúng ta mà không muốn từ giã thế tục thì chúng ta sẵn sàng làm lễ quán đảnh phong vương cho con ngay.

– Ồ thưa phụ vương, chàng đáp, con chẳng ham vương vị, con muốn rời bỏ thế tục.

Thân phụ chàng liền đáp:

– Này con Hatthipàla, đây chưa phải thời để rời bỏ thế tục đâu.

Rồi vị này giải thích ý định của mình qua vần kệ thứ tư:

  1. Học Vệ-đà kinh, việc trước tiên,
    Làm giàu và cướp vợ vầy duyên,
    Nhiều con, hưởng thú vui trần thế,
    Thanh, sắc cùng hương, vị, xúc êm,
    Sau đó ẩn cư rừng khả ái,
    Thế là người trí xứng danh hiền.

Hatthipàla đáp lại với vần kệ:

  1. Chân lý không sao lại đạt thành
    Từ vàng bạc hoặc Vệ-đà kinh,
    Nhiều con chẳng khỏi thành già cả,
    Có lối thoát ra mọi dục tình,
    Như các trí nhân đều thấu suốt:
    Gieo gì gặt nấy kiếp lai sinh.

Bấy giờ vua ngâm kệ đáp lời chàng trai:

  1. Lời tự mồm con quả thật chân:
    Ðời sau ta gặt thứ đang trồng,
    Hai thân con đó, nay già yếu
    Song các người mong muốn thấy rằng
    Cuộc sống trăm năm đầy hạnh phúc
    An khang cho trẻ hưởng riêng phần.

– Tâu Chúa thượng, ngài muốn ám chỉ việc gì thế?

Vương tử hỏi và ngâm hai vần kệ:

  1. Kẻ nào khi chết, tấu Anh quân,
    Có thể tìm ra một bạn thân,
    Ðã ký với tuổi già thỏa ước
    Ðể cho người ấy chẳng từ trần,
    Mong lời cầu nguyện trên Hoàng thượng
    Dành bách niên kẻ đó hưởng phần.
  2. Cũng giống như người lái vượt dòng,
    Con thuyền sang bến nọ bên sông,
    Phàm nhân đều vậy, không sao khỏi
    Bệnh, lão niên, rồi tử, mệnh chung.

Bằng cách trên, chàng trai đã chỉ cho các vị này thấy cuộc sống thế nhân giả tạm phù du ra sao, rồi thêm lời khuyên nhủ:

– Tâu Ðại vương, ngài đứng đó và ngay khi tiểu sinh đang đàm đạo với ngài, ngay bây giờ đây, bệnh tật, tuổi già và thần chết đang tiến gần ta. Vậy xin Ðại vương hãy tỉnh giác!

Sau khi vái chào vua và phụ thân, chàng đem theo đám hầu cận muốn đi cùng chàng, bỏ lại vương quốc Ba-la-nại đằng sau và lên đường với ý định theo sống đời khổ hạnh. Cả một hội chúng đông đảo cùng đi với chàng thanh niên Hatthipàla vì hội chúng bảo:

– Cuộc sống tu hành này chắc hẳn phải cao thượng lắm.

Hội chúng ấy trải dài suốt một dặm đường, chàng nam tử cùng hội chúng tiến lên cho đến tận bờ sông Hằng. Tại đó chàng làm phát khởi Thiền định bằng cách quán sát dòng nước sông Hằng.

Chàng nghĩ thầm: “Tại đây rồi sẽ có hội chúng đông lắm!.. Ba vị hiền đệ của ta sẽ đến, kế là song thân, đức vua và hoàng hậu, tất cả cùng với đám tùy tùng sẽ sống theo đời tu tập. Thành Ba-la-nại sẽ trống vắng. Ta sẽ ở đây cho đến khi các vị đến đủ”. Thế là chàng ngồi tại đó, khích lệ cả đám đông dân chúng đang tụ tập.

Hôm sau, vua và vị tế sư suy nghĩ: “Như vậy vương tử Hatthipàla đã thực sự rời bỏ quyền làm vua và hiện đang ngồi bên bờ sông Hằng, từ đó chàng sẽ đi theo cuộc sống tu hành cùng với một hội chúng đông đảo ở bên chàng. Song ta hãy đi thử Assapàla xem sao, rồi làm lễ quán đảnh phong vương cho chàng”. Vì thế cũng như trước kia vừa khoác bộ y phục của nhà tu khổ hạnh, hai vị cùng đi đến cửa nhà chàng. Chàng rất hoan hỷ khi thấy hai vị, liền bước tới gần hai vị ngâm câu kệ “Cuối cùng..” ấy giống như anh cả của chàng đã ngâm. Hai vị này cùng làm như trước, và báo cho chàng biết nguyên nhân hai vị đến đây. Chàng đáp:

– Tại sao chiếc lọng trắng hoàng gia lại dành ưu tiên cho phần con, khi con có một hoàng huynh như Hatthipàla?

Hai vị đáp:

– Này con, hoàng huynh con đã ra đi để sống đời tu tập, anh con chẳng muốn liên hệ gì với hoàng gia nữa.

– Thế bây giờ anh con đâu rồi? – Chàng hỏi.

– Hiện đang ngồi bên bờ sông Hằng.

– Tâu Chúa thượng và thân phụ, con cũng chẳng đến cái thứ mà anh con đã nhổ khỏi mồm. Chỉ có những kẻ ngu si và thiếu trí mới không đủ năng lực vứt bỏ ác dục này, còn con quyết sẽ vứt bỏ nó.

Sau đó chàng thuyết pháp cho thân phụ và đức vua qua hai vần kệ được chàng ngâm lên:

  1. Dục lạc là bùn bẩn, uế nhơ,
    Tham tâm gây chết chóc, sầu tư,
    Ai chìm trong đám bùn vô trí
    Không thể bước sang đến bến bờ.
  2. Ðây là kẻ đã chịu sầu tư,
    Nó bị bắt giam trước đến giờ,
    Tìm lối thoát thân nào chẳng thấy;
    Ðể không làm những chuyện như xưa
    Từ nay con quyết lòng xây dựng
    Những bức tường không thể lọt vô.

– Tiểu sinh xin thưa: Chúa thượng cùng thân phụ hiện đứng chỗ kia và ngay khi tiểu sinh đang trình với hai vị, thì bệnh tật, tuổi già và cả thần chết cũng đang tiến đến gần ta hơn.

Cùng với lối khuyến giáo này, vừa được một đám đông hộ tống kéo dài cả dặm đường, chàng ra đi tìm gặp vương tử Hatthipàla, vị vương huynh chàng liền đứng ở trên không và thuyết Pháp cho chàng rồi nói:

– Này hiền đệ, sau sẽ có một đám đông dân chúng đến đây, vậy hai ta hãy cùng ở lại chốn này.

Chàng đồng ý ở lại đó ngay.

Hôm sau, vua và vị tế sư cũng theo cách trên đến nhà vương tử Gopala. Khi được chàng hoan hỷ chào đón theo như cách hai vị vương tử trước, hai vị giải thích duyên cớ đến đây. Cũng như Hatthipàla, chàng từ chối lời đề nghị của hai ngài.

– Từ lâu con đã ước mong sống đời tu tập như một bò cái bị lạc trong rừng, còn vẫn đi lang thang tìm lối sống. Nay con nhìn thấy con đường mà hai vương huynh của con đã đi qua, giống như dấu chân kia của con bò bị lạc, nên con cũng theo đường ấy mà ra đi.

Sau đó chàng ngâm kệ:

  1. Như tìm bò cái lạc trên đường,
    Bối rối, loanh quanh mãi giữa rừng,
    Cũng vậy, an vui con đã mất,
    Sao còn do dự với phân vân,
    Xin tâu Chúa thượng E-su rõ,
    Khi bước đi tìm theo dấu chân?

Hai vị đáp:

– Nhưng này Gopàlaka thân yêu, con hãy đến ở cùng chúng ta một ngày, hoặc đến với chúng ta hai ba ngày, để nhà chúng ta được hạnh phúc hân hoan, rồi sau đó con hãy rời thế tục.

Chàng đáp:

– Tâu Ðại vương, xin đừng bao giờ hoãn lại đến ngày hôm sau chuyện gì đáng làm hôm nay, nếu Ðại vương muốn an lành xin hãy hành động ngay hôm nay, đừng trì hoãn nữa.

Sau đó chàng ngâm kệ khác:

  1. Ngày mai! Kêu lớn gã ngu nhân,
    Gã thét: ngày mai! mãi chẳng ngừng,
    “Thời vị lai không còn sự nghiệp!”
    Bậc hiền nhân vẫn cứ khuyên răn,
    Chẳng bao giờ bậc hiền khinh rẻ
    Thiện nghiệp nằm ngay đúng với tầm.

Gopala vừa nói như vậy, vừa thuyết Pháp qua hai vần kệ trên, xong rồi nói thêm:

– Ngay nơi Ðại vương đứng đó, và ngay lúc con thưa trình với Ðại vương thì bệnh tật, tuổi già và cả thần chết nữa cũng đang tiến tới dần.

Sau đó được dân chúng hộ tống cả một dặm đường, chàng ra đi tìm kiếm hai vị hiền huynh. Rồi Tôn giả Hattipàla vừa đứng ở trên không vừa thuyết Pháp cho chàng như trước.

Ngày kế đó, vua và vị tế sư cũng theo cách trên và đi đến nhà vương tử Ajapàla; chàng hoan hỷ đón chào hai vị giống như các vương huynh chàng đã làm. Hai vị nói rõ duyên cớ đến đây và đề nghị giương cho chàng chiếc lọng hoàng gia. Vương tử bảo:

– Thế hai vương huynh con đâu rồi? Hai vị đáp:

– Hai vương huynh của con không muốn liên hệ với giang sơn quốc độ này nữa; cả hai đã khước từ chiếc lọng trắng và cùng với một hội chúng trải rộng cả ba dặm đường đang ngồi trên bờ sông Hằng.

– Thế thì con cũng không muốn đặt lên đầu cái vật mà hai vương huynh nhả ra khỏi mồm và đi theo sống đời tu hành như thế, nhưng con muốn hành trì đời sống xuất gia thôi.

Hai vị bảo:

– Này con, con còn trẻ lắm, hạnh phúc của con là mối quan tâm lo lắng của hai ta, vậy để lúc già hơn rồi con hãy sống theo đời tu tập.

Song chàng trai đáp:

– Ðại vương và thân phụ bảo con điều gì thế kia? Hiển nhiên cái chết vẫn đến với tuổi trẻ cũng như với tuổi già! Không ai có dấu hiệu gì trong bàn tay hay không biết được lúc nào con chết cả, vì vậy con muốn rời thế tục ngay bây giờ đấy.

Rồi chàng ngâm hai vần kệ:

  1. Con thường trông thiếu nữ xinh tươi,
    Mắt sáng, say sưa với cuộc đời,
    Chưa hưởng phần vui xuân mới hé:
    Tử thần mang liễu yếu đi rồi!
  2. Cũng vậy nhiều nam tử thật sang,
    Khôi ngô, cường tráng tuổi xuân quang,
    Bao quanh những chiếc cằm đen nhánh
    Xúm xít chòm râu cứ mọc tràn
    Con giã biệt đời người thế tục
    Cùng bao dục lạc của trần gian,
    Ðể làm ẩn sĩ, xin tha thứ,
    Và hãy trở về chốn cố hương.

Sau đó chàng nói tiếp:

– Nay Ðại vương đứng chỗ kia và ngay lúc tiểu sinh đang tâu trình với Ðại vương cùng thân phụ, thì bệnh tật, tuổi già và thần chết cũng đang tiến tới gần tiểu sinh.

Rồi chàng đảnh lễ cả hai vị, dẫn đầu một hội chúng dài cả dặm đường, chàng ra đi đến bờ sông Hằng. Tôn giả Hatthipàla cũng đứng ở trên không và thuyết Pháp cho chàng, rồi ngồi xuống, đợi đám đại chúng mà ngài mong gặp.

Hôm sau, vị tế sư bắt đầu suy tư trầm ngâm trong lúc ngồi trên bảo tọa. Ông nghĩ thầm: “Các con ta đã sống đời tu tập, nay chỉ còn lại một mình ta là lão già như gốc cây đã cằn cỗi tàn rụi, ta cũng muốn theo cuộc sống tu hành.

Rồi ông ngâm kệ với phu nhân mình:

  1. Cái vật kia đâm lộc trổ cành,
    Người ta gọi đó một cây xanh,
    Chặt cành, chẳng phải là cây nữa,
    Nó chỉ còn trơ trụi khúc mình.
    Người chẳng cháu con gì cũng vậy,
    Hỡi phu nhân quý tộc cao danh,
    Ðây là thời điểm dành cho lão
    Sống cuộc đời tu tập Thánh hành.

Nói lời này xong, vị tế sư triệu tập các Bà-la-môn vào diện kiến mình: sáu mươi ngàn vị đến nơi. Sau đó ông hỏi cả hội chúng muốn làm gì. Họ đồng đáp:

– Ngài là sư phụ của chúng thần.

Ông bảo:

– Ðược lắm, thế thì ta sẽ đi tìm con trai ta và theo đời sống tu hành.

Hội chúng đáp:

– Không chỉ riêng ngài mới thấy địa ngục nóng rực lửa; chúng tiểu thần cũng sẽ làm y như ngài vậy.

Vị tế sư liền giao hết kho tàng châu báu, cả tám trăm triệu đồng tiền cho bà phu nhân, rồi dẫn đầu cả một đoàn Bà-la-môn trải dài suốt một dặm đường, ra đi đến vùng đất hai vị vương tử đang cư trú. Với hội chúng này cũng như trước kia, Tôn giả Hatthipàla đứng ở trên không và thuyết Pháp.

Ngày hôm sau, bà phu nhân nghĩ thầm: “Bốn nam tử của ta đã từ chối chiếc lọng trắng của hoàng gia để theo đời tu tập; trượng phu của ta cũng đã để lại kho tài sản và vứt bỏ luôn chức vụ tế sư của triều đình nữa, rồi đi theo các con, thế ta còn làm gì một thân trơ trọi nữa? Theo cách các con ta đã đi, ta cũng đi luôn”.

Rồi bà ngâm kệ nói lên ước vọng qua câu tục ngữ:

  1. Tháng ngày mưa gió đã qua,
    Lưới kia đã bị thiên nga phá rồi,
    Tự do bay lượn giữa trời,
    Như đàn sếu hạc tung đôi cánh liền,
    Vậy ta theo đúng đường thiêng
    Chồng con đã bước, ta tìm tâm minh.

Bà nhủ thầm: “Vì ta biết rõ điều này, sao ta lại không rời bỏ thế tục?”. Với dự định trên, bà triệu tập các phu nhân Bà-la-môn lại và bảo:

– Các phu nhân định làm gì giờ đây?

Họ bảo bà:

– Thế lệnh bà muốn làm gì?

– Về phần ta, ta sẽ từ giã thế tục.

– Vậy chúng thần thiếp cũng làm việc ấy.

Như thế, bà từ giã mọi cảnh huy hoàng này, ra đi tìm các con mình, đem theo cả một đám nữ nhân trải dài trên một dặm đường. Với hội chúng này, Tôn giả Hatthipàla cũng đứng ở trên không và thuyết Pháp.

Hôm sau, vua hỏi:

– Vị tế sư của trẫm đâu rồi?

Triều thần đáp:

– Tâu Chúa thượng, ngài tế sư và phu nhân đã vứt bỏ hết cảnh phú quý lại đằng sau, rồi ra đi theo các công tử cùng với một hội chúng dài đến hai ba dặm đường.

Vua phán:

– Tiền bạc vô chủ đến tay ta rồi!

Vua truyền lệnh đem tiền bạc từ nhà vị tế sư về cung. Lúc bấy giờ chánh hậu muốn biết nhà vuađang làm gì, bà được trình báo:

– Hoàng thượng đang truyền đem về cả kho báu từ nhà vị tế sư.

Bà hỏi:

– Thế vị tế sư đâu?

– Tâu lệnh bà, ngài đã xuất gia làm ẩn sĩ khổ hạnh, cùng với cả vợ con và gia quyến.

Hoàng hậu nghĩ: “Thế tại sao chúa thượng đây lại truyền theo đem vào nhà mình thứ phân uế và nước bọt mà vị Bà-la-môn này cùng gia quyến vợ con đã nhổ ra thế kia? Thật là một kẻ ngu si mê mờ tham đắm làm sao! Ta sẽ khuyên bảo ngài qua ví dụ này”.

Bà truyền lấy một mớ thịt dành cho chó, chất thành một đống giữa sân hoàng cung, rồi bà đặt một cái bẫy quanh đó, để cho lối ra vào bẫy mở rộng thẳng lên trời. Bầy kên kên thấy thịt, từ xa vội sà xuống. Song những con chim khôn ngoan trong đàn ấy nhận ra cái bẫy đã được giăng quanh đó, và tự biết thân mình quá nặng nề nên không thể bay vụt thẳng được, liền nôn ra hết mọi thứ chúng đã ăn và không để cho mình bị mắc bẫy, chúng lại vút lên không và bay biến mất.

Còn những con chim khác vì ngu si mà giáng xuống, ngốn ngấu hết các thức mửa ra của đàn trước, nên quá nặng nề không thể nào bay thoát được và bị mắc vào bẫy. Quân hầu mang một con chim mắc bẫy vào dâng lên hoàng hậu và bà tự mang đến chỗ vua:

– Tâu Chúa thượng hãy nhìn xuống, bà nói. Trong sân chầu có một cảnh lạ mắt cho ta nhìn đấy!

Rồi bà vừa mở cánh cửa sổ vừa nói:

– Tâu Chúa thượng, hãy nhìn đám kên kên kia kìa!

Sau đó bà ngâm hai vần kệ:

  1. Ðám nọ đã ăn, đã mửa rồi!
    Tự do bay lượn giữa bầu trời:
    Ðám kia ăn nán và lưu lại,
    Giờ bị bắt giam bởi thiếp rồi.
  2. Vị tế sư nôn hết dục tham,
    Vật kia, Chúa thượng muốn ăn phàm?
    Người ăn đồ mửa, tâu Hoàng thượng,
    Xứng đáng chê bai cực tệ tàn!

Nghe những lời này, vua tràn đầy ăn năn hối hận, ba cõi sinh hữu đều chẳng khác nào đám lửa đang cháy bừng bừng, nên vua bảo:

– Ngay chính hôn nay, trẫm phải từ giã vương vị này và sống theo đời ẩn dật tu hành.

Lòng nặng trĩu ưu phiền, ngài tán thán chánh hậu qua vần kệ:

19- Khác nào người lực sĩ can cường
Giúp cánh tay vì kẻ yếu hơn
Bị chìm trong vũng bùn dơ bẩn,
Hay bãi cát lầy đã lún thân.
Chánh hậu Pan-ca này cũng vậy,
Nàng vừa giải cứu đấng quân vương
Bằng nhiều vần kệ ngâm êm dịu
Như mật rót tai trẫm dịu dàng!

Vua vừa nói như thế xong, liền lập tức triệu hồi đám quần thần, lòng nôn nóng theo đuổi cuộc sống tu hành, ngài bảo:

– Còn các khanh sẽ ý sao? – Ngài phán – Trẫm sẽ đi tìm Hatthipàla và trở thành người tu hành.

Quần thần đáp:

– Tâu chúa thượng, vậy chúng thần cũng xin làm việc ấy.

Nhà vua rời bỏ vương quyền khắp Ba-la-nại hình thành vĩ đại rộng cả mười hai dặm và bảo:

– Ai muốn thì cứ giương lên chiếc lọng trắng vương quyền.

Sau đó được đám triều thần vây quanh, ngài dẫn đầu một dòng người dài cả ba dặm, đi đến trình diện vị nam tử kia. Với đám người này, Tôn giả Hatthipàla cũng đứng ở trên không và thuyết Pháp.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ kể chuyện vua này lại xuất hiện thế ra sao:

  1. Như vậy, E-su-kà Ðại vương
    Nắm quyền nhiều lãnh thổ, giang sơn
    Từ vua, ngài hóa thành tu sĩ
    Như thể voi vùng đứt bộ cương .

*

Ngày hôm sau dân chúng còn lại trong kinh thành tụ tập lại trước cung môn, xin trình báo với chánh hậu, rồi họ đi và đảnh lễ chánh hậu xong, liền ngồi sang một bên và ngâm kệ:

  1. An lạc thay là đấng Thánh quân
    Trở thành ẩn sĩ bỏ phàm trần
    Chúng thần nay nguyện cầu hoàng hậu
    Vào ngự trong ngôi vị đế vương
    Xin hãy yêu thương toàn quốc độ,
    Ðược tay phò trợ của quần thần.

Bà lắng nghe những lời hội chúng thỉnh nguyện, xong bà liền ngâm các vần kệ còn lại:

  1. An lạc thay là đấng Thánh Quân
    Trở thành ẩn sĩ, bỏ phàm trần
    Bây giờ hãy biết rằng ta quyết
    Tiến bước đơn thân giữa thế nhân
    Cùng bao lạc thú đủ toàn phần.
  2. An lạc thay là đấng Thánh quân
    Trở thành ẩn sĩ, bỏ phàm trần
    Bây giờ hãy biết rằng ta quyết
    Tiến bước đơn thân giữa thế nhân,
    Bất cứ nơi nào còn ngũ dục
    Ta đều vứt bỏ chúng toàn phần.
  3. Thời gian trôi, sáng tối không ngừng
    Dung sắc thanh xuân phải úa dần
    Nay hãy biết rằng ta đã quyết
    Bước đi đơn độc giữa phàm trần
    Giã từ khát vọng và tham ái
    Cùng các thú vui đủ mọi phàm.
  4. Thời gian trôi, sáng tối qua dần
    Phải úa tàn bao vẻ đẹp xuân
    Nay hãy biết rằng ta quyết chí
    Bước đi đơn độc giữa phàm trần
    Nơi nào bất kể còn tham dục
    Ta cũng rời xa chúng mọi phần
  5. Thời gian trôi, sáng tối xoay vần
    Hương sắc thanh tân phải úa dần,
    Nay hãy biết rằng ta ước nguyện
    Bước đi đơn độc giữa phàm trần
    Mọi dây ràng buộc đều quăng bỏ
    Cũng chẳng còn uy lực dục tâm

Qua các vần kệ trên, bà thuyết Pháp cho hội chúng đông đảo ấy xong, bà triệu tập các vị phu nhân của đám triều thần và bảo:

– Nay các phu nhân muốn làm gì?

– Tâu nương nương , thánh ý định thế nào?

– Ta muốn sống đời tu tập.

– Thế thì chúng thần thiếp cũng làm theo lệnh bà.

Vậy là chánh hậu mở rộng cửa kho vàng trong cung, bà ra lệnh khắc một phiến đá vàng ghi câu: “Nơi ấy là cả một đại kho tàng, bất cứ ai muốn, đều có thể lấy về”. Phiến vàng ấy được bà cho buộc vào một cái trụ trên một đài cao. Sau đó, từ giã bao cảnh vinh quang tráng lệ của hoàng cung, bà ra khỏi kinh thành. Tiếp theo toàn thành nhốn nháo lên với tiếng la hét:

– Ðại vương và chánh hậu đã rời thành đi theo hội chúng tu khổ hạnh, vậy bây giờ ta phải làm gì?

Từ đó về sau dân chúng rời bỏ nhà cửa cùng các đồ vật trong đó, và ra đi, đem theo con cái, các tiệm buôn bán mở rộng cửa hàng, song chẳng ai buồn quay lại nhìn chúng nữa, cả kinh thành trống vắng không một bóng người.

Và chánh hậu cùng với đoàn người hộ tống dài cả ba trăm dặm đường đi đến cùng nơi chốn ấy như các vị trước đây. Với hội chúng này, Tôn giả Hatthipàla cũng đứng ở trên không và thuyết pháp; rồi sau đó cùng toàn thể dân chúng dài hơn mười dặm khởi hành về hướng Tuyết Sơn.

Toàn quốc độ Kàsi náo loạn, la hét vang lừng câu chuyện nam tử Hatthipàla đã làm cho kinh thành Ba-la-nại trống vắng bằng cách nào, với hội chúng dài hơn cả nười hai dặm đường chàng rađi về vùng Tuyết Sơn ra sao, để theo sống đời tu khổ hạnh, dân chúng bảo nhau:

– Thế thì hiển nhiên chúng ta càng nên làm việc ấy!

Cuối cùng hội chúng này cứ tăng dần đến độ chiếm cả ba mươi dặm đường, rồi vương tử cùng cảđại chúng ấy đi đến Tuyết Sơn.

Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ trong luc xét suy, đã nhận biết mọi việc đang xảy ra. Ngài suy nghĩ: “Vương tử Hatthipàla đã làm Ðại sự Xuất thế; quần chúng đông đúc lắm, như thế chúng phải có nơi cư trú”. Ngài liền ra lệnh cho Thiên sứ Vissakamma (Thần xây dựng):

– Này hiền hữu, hãy ra đi xây dựng vùng am tu dài ba mươi sáu dặm và rộng mười lăm dặm, rồi thâu góp về đó tất cả mọi thứ cần dùng cho các vị tu hành.

Vị này tuân lệnh, và dựng bên bờ sông Hằng ở một nơi mát mẻ dễ chịu cả một vùng am thất theo đúng tầm cỡ cần dùng, chuẩn bị trong các am đầy đủ nệm rơm lót bằng cánh lá cây, lại để sẵn sàng mọi vật dụng cần thiết cho các người tu hành. Mỗi am đều có các cửa ra vào, một chốn đi dạo mát, có chỗ ở riêng biệt dùng cho ban ngày và ban đêm, tất cả đều được quét vôi trắng sạch sẽ sáng sủa, lại có thêm các trường kỷ để nghỉ ngơi. Ðó đây rải rác đủ loại trái cây trổ hoa chi chít trên cành khoe đủ sắc hương ngào ngạt; cuối mỗi chốn dạo chơi là một cái giếng để kéo nước, cạnh đó có cây ăn trái, mỗi cây đều mọc đủ mọi thứ. Tất cả những thứ này đều nhờ thần lực hóa ra cả.

Khi Thiên sứ Vissakamma đã xây xong khu ẩn cư này và cung cấp cho các thảo am đủ mọi vật cần thiết, vị ấy ghi các hàng chữ bằng son đỏ trên bức tường: “Ai muốn sống đời tu tập xin mời đến chỗ các vật dụng này”. Sau đó vị ấy lại dùng thần lực xua đuổi ra khỏi vùng ấy mọi thứ tiếng kêu kỳ quái, mọi ác điểu và mãnh thú, những loại phi nhân rồi trở về cõi của mình.

Tôn giả Hatthipàla chợt thấy vùng ẩn am này là tặng vật của Ðế Thích Thiên chủ, ngài đi theo con đường mòn và thấy phiến đá ghi chữ kia. Ngài nghĩ thầm: “Ðế Thích Thiên chủ hẳn đã nhận thấy ta vừa làm Ðại sự Xuất Thế”. Ngài mở một cánh và bước vào am, cầm lên những vật dụng dành cho người tu khổ hạnh, ngài lại bước ra đi dọc theo chốn dạo chơi, và quanh quẩn đó đây vài lần. Sau đó ngài thâu nhận cả hội chúng vào nếp sống tu hành, và đi quan sát cả vùng ẩn cư ấy. Ngài để dành phần giữa là cho phụ nữ có con thơ, phần kế đó cho các bà già, phần kế nữa cho đám phụ nữ không có con cái gì, còn các am thất khác ở chung quanh đều dành cho nam giới.

Thế rồi một hôm vị vua kia nghe tin đồn là không có vua cai trị vì Ba-la-nại liền đi xem và thấy cả kinh thành được trang hoàng rực rỡ với nhiều báu vật. Bước vào cung điện vua ấy thấy vàng bạc nằm ngổn ngang từng đống.

– Kìa! Vị ấy bảo. Rời bỏ kinh thành như thế này để trở thành người tu hành ngay khi cơ duyên tốt lành vừa đến, thật là một việc cao cả thay!

Vị vua ấy vừa hỏi đường một anh chàng say rượu nào đó, liền đi tìm Tôn giả Hatthipàla. Khi Hatthipàla nhận biết vị vua ấy đã đến ven rừng, liền bước ra đón mừng, vừa trên không vừa thuyết Pháp cho toàn hội chúng mới. Sau đó ngài dẫn đám người ấy vào rừng ẩn cư, tiếp nhận cả đoàn vào hội chúng tu tập. Cùng cách trên, sáu vị vua khác gia nhập vào đây. Bảy vị vua này đều từ bỏ mọi phú quí vinh quang. Chốn ẩn cư này rộng cả ba mươi sáu dặm cứ đông đúc dần dần. Mỗi khi có một vị đạo nhân nào khởi tư tưởng tham dục hay các tưởng tượng như thế, ngài thường thuyết Pháp cho vị đó và giảng dạy hội chúng tư duy về các Công hạnh Viên mãn (Các hạnh Ba-la-mật) và thiền định, nên dần dần các vị này tu tập pháp môn nhập định; hai ba phần hội chúng được tái sanh vào cảnh giới Phạm Thiên, còn một phần ba lại được chia ra thành ba nhóm: một nhóm được sanh lên cõi Phạm thiên giới, một nhóm được sanh vào sáu tầng trời dục giới và một nhóm, sau khi hoàn thành sứ mạng của vị kiến giả, được sinh vào thế giới loài người. Như vậy mỗi người trong ba nhóm đều được thọ hưởng công đức của mình. Thế là việc giáo hóa của hiền giả Hatthipàla đã cứu độ mọi người khỏi đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ và khỏi trở thành một Asura (A-tu-la: một loại ác thần hay sân hận, từng gây chiến với chư Thiên dục giới).

*

Trên đảo Tích Lan (Ceylon) này, các vị đã làm Ðại sự Xuất thế là Trưởng lão Dhammagutta, vị này đã làm cho địa cầu chấn động; Trưởng lão Phussa-deva, một thị dân của thành Katakandhakara, Trưởng lão Mahàsamgharakkhita từ vùng Uparimandalakamalay, Trưởng lão Malimahàdeva từ vùng Bhaggiri; Trưởng lão Mahàsìva, từ vùng Vàmantapabbhàra; Trưởng lão Mahànàga từ vùng Kàlavallimandapa; các vị trong hội chúng của ngài Kuddàla, Mùgapakkha, Cùlusutasoma, của Hiền giả Ayohara, và cuối cùng của tất cả hội chúng Hatthipàla.

Do vậy bậc Thế Tôn bảo:

– Hãy vội làm việc lành, các vị sẽ được an lạc! Nghĩa là an lạc chỉ đến với ta nếu ta vận dụng hết công sức mình.

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy này các Tỷ-kheo, ngày xưa, Như Lai làm Ðại sự Xuất thế cũng như bây giờ

Nói xong Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy phụ vương Sudhodana (Tịnh Phạn) là vua Eusari, mẫu hậu Mahàmayà là vị chánh hậu kia; Kassapa (Ca-diếp) là vị tế sư, Bhaddakapilàni là vị phu nhân, Anuruddha (A-na-luật-đà) là Ajapàla, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Gopàla, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Assapala, hội chúng của đức Phật là toàn thể đám người kia, và Ta chính là Hiền giả Hatthipàla.

-ooOoo-

  1. Chuyện vương tử trong ngôi nhà sắt (Tiền thân Ayoghara)

Mầm sống một khi nhập tử cung…

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể về Ðại sự Xuất thế của Ngài. Tại đây một lần nữa, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Như Lai làm Ðại sự Xuất thế, vì trước kia Như Lai cũng đã làm như thế.

Và Ngài kể cho Tăng chúng một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Bramadatta trị vì Ba-la-nại, bà chánh hậu thọ thai, đến thời mãn nguyệt khai hoa, bà sinh một vương tử ngay sau buổi rạng đông. Bấy giờ trong một đời trước có một phụ nữ khác cũng lấy chồng chung với bà, đã thốt lời thề rằng nàng sẽ tìm cách ăn thịt hài nhi của bà đời sau. Chuyện kể lại, vì nàng không sinh sản gì nên đem lòng tức giận cả hai mẹ con bà thuở ấy, mới thốt lên lời nguyền như trên. Bởi duyên cớ đó, nàng tái sinh thành một thứ quỷ cái. Còn người mẹ kia, nay trở thành chánh hậu và sinh hạ hoàng nam này. Con quỷ cái ấy tìm cơ hội hiện hình khủng khiếp chụp lấy hài nhi ngay trước mặt người mẹ và mang đi mất. Hoàng hậu thét lên vang lừng:

– Một con quỷ đã bắt hoàng nam của ta rồi!

Con quỷ kia nhai ngấu nghiến trệu trạo đứa hài nhi như ăn một củ hành sống rồi nuốt trửng hết! Sau đó nó lại biến hóa tay chân ra đủ hình dạng để đe dọa cho hoàng hậu kinh hoảng lên, rồi biến đi. Khi vua hay tin dữ ấy, ngài câm lặng không nói gì được, ngài suy nghĩ: “Còn biết làm sao chống chọi lại con quỷ cái kia chứ?”

Lần kế tiếp hoàng hậu lâm bồn, vua sắp đặt quân canh phòng bên mình bà. Bà hạ sinh một vương tử nữa, con quỷ ấy lại đến vồ lấy đứa bé ăn thịt rồi biến mất.

Làn thứ ba chính là bậc Ðại Sĩ nhập mẫu thai của chánh hậu. Vua triệu tập một số người lại phán:

– Hễ hoàng nhi nào do chánh hậu của trẫm sinh ra đều bị một con quỷ cái đến vồ lấy ăn thịt. Vậy phải làm sao bây giờ?

Sau đó có người tâu:

– Bọn quỷ rất sợ lá thốt nốt, chúa thượng nên cho buộc một ngọn lá ấy vào tay chân hoàng hậu.

Một kẻ khác lại tâu:

– Bọn quỷ cũng sợ cái nhà bằng sắt. Vậy phải dựng lên một cái.

Nhà vua chấp thuận. Ngài triệu tập tất cả thợ rèn trong quốc độ ngài và ra lệnh dựng cho ngài một cái nhà bằng sắt, và cho người giám sát công việc của họ. Ngay trong kinh thành, tại một địa điểm khả ái, họ xây lên một ngôi nhà có cột trụ và mọi bộ phận trong nhà không gì khác ngoài sắt; trong chín tháng ngôi nhà được hoàn tất, thật là một lâu đài vững chắc kiên cố, được đèn chiếu sáng suốt ngày đêm không bao giờ ngưng cả.

Khi vua biết rằng hoàng hậu sắp mãn nguyệt khai hoa, ngài truyền lệnh sắp đặt tiện nghi đầy đủ cho tòa nhà sắt rồi rước bà vào trong đó. Bà hạ sinh một hoàng nam có đầy đủ mọi quý tướng tốt lành, và hai vị đặt tên con là Ayoghara Kumàra hay Vương tử Thiết Thất (Vương tử ở trong ngôi nhà sắt)

Vua giao hài nhi cho các nhũ mẫu trông nom lại sắp đặt một đôi vệ sĩ hùng hậu giữ quanh lâu đài ấy, trong khi ngài cùng chánh hậu đi diễu quanh kinh thành hướng về phía hữu, rồi ngự lên thượng lầu nguy nga lộng lẫy của hoàng cung. Ðồng thời con quỷ cái, vì cần uống nước đã đi tìm thứ nước của Thiên Vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) nên bị giết.

Trong ngôi nhà sắt kia, bậc Ðại Sĩ lớn lên cùng với trí khôn phát triển dần, ngài được dạy đủ mọi môn học thuật cũng tại nơi đó cả.

Vua hỏi các triều thần:

– Nay vương nhi đã mấy tuổi rồi?

Hội chúng đáp:

– Tâu chúa thượng, vương tử vừa lên mười sáu: thật là một trang anh hùng đầy dũng lực cường tráng, đủ để chế ngự cả ngàn con quỷ kia!

Vua liền quyết định giao vương quyền vào tay vương tử. Ngài ra lệnh cho kinh thành trang hoàng rực rỡ, truyền bảo rước vương tử ra khỏi ngôi nhà sắt đến triều kiến ngài. Quần thần tuân lệnh: Toàn thành Ba-la-nại được trang hoàng rực rỡ, kinh đô vĩ đại ấy trải khắp mười hai dặm; họ lại tô điểm cho vương tượng bằng tấm khăn phủ lưng thật lộng lẫy, phục sức cho vương tử cực kỳ sang trọng rồi đặt ngài lên lưng vương tượng và tâu:

– Tâu Ðiện hạ, xin Ðiện hạ ngự du một vòng theo phía hữu quanh kinh thành đang nô nức mở hội này, đây chính là giang sơn sự nghiệp của Ðiện hạ, sau đó sẽ đến đảnh lễ đấng Hoàng thượng là Ðại vương quốc độ Kàsi, vì hôm nay chính là ngày Ðiện hạ đón nhận chiếc Lọng trắng.

Bậc Ðại Sĩ ngự đám rước ngài diễu quanh kinh thành theo về phía bên hữu, ngài thấy các hoa viên tuyệt mỹ, đủ màu sắc xinh tươi với hồ nước, các thửa ruộng, vườn cây, nhà cửa phố xá, khắp nơi đều đẹp mắt, ngài tự nhủ thầm: “Tất cả cảnh sắc thế này mà trong bao lâu vương phụ lại giam giữ ta rất cẩn mật, chẳng hề cho ta thấy kinh thành được trang hoàng rực rỡ thể kia. Ta đã có lỗi gì vậy?” Ngài liền đem câu ấy hỏi các triều thần. Hội chúng đáp:

– Tậu Ðiện hạ, ngài chẳng có lỗi gì. Song có một con quỷ cái đã xé xác ăn hai vương huynh của ngài mất đi nên đức Thượng hoàng cho ngài ở trong ngôi nhà sắt và chính ngôi nhà sắt ấy đã cứu mạng ngài.

Những lời này lại làm ngài suy nghĩ: “Suốt mười tháng ta đã ở trong bụng mẹ, chắc hẳn có khác gì cái địa ngục hình Chảo Sắt (Thiết Oa địa ngục) hay Ðịa ngục phân dơ (Phẩn Ni địa ngục) đâu, rồi khi ta ra khỏi bụng mẹ, cả mười sáu năm trời nay ta sống trong ngục thất kia, không bao giờ có cơ hội nhìn ra ngoài. Mặc dù ta đã thoát được đôi bàn tay của con quỷ kia, ta vẫn không sao thoát được tuổi già và thần chết; vậy ta sẽ xin phép phụ vương đi theo đời sống tu hành, và ta sẽ lên vùng Tuyết Sơn để thực hiện ước nguyện.”

Như vậy sau khi ngài dự đám lễ hội rước ngài ngự quanh kinh thành xong, ngài vào hoàng cung, đảnh lễ phụ vương và đứng chờ lệnh. Vua ngắm dung sắc tuyệt mỹ của ngài, lại nhìn đến đám quần thần với tấm lòng yêu thương mãnh liệt bừng lên trong đôi mắt. Quần thần hỏi:

– Tâu Chúa thượng, Chúa thượng muốn truyền cho chúng thần làm gì?

– Các hiền khanh hãy đưa vương nhi ngự lên đám trân châu báu ngọc, làm lễ quán đảnh cho vương nhi với nước từ ba vỏ ốc xà cừ, xong rồi giương chiếc Lọng trắng viền tua vàng lên che cho vương nhi.

Song Bậc Ðại Sĩ đảnh lễ phụ vương và thưa trình:

– Tâu phụ vương, con không muốn liên hệ gì với vương triều nữa. Con ước ao sống đời tu tập và con tha thiết cầu mong phụ vương cho phép con làm việc ấy.

– Này vương nhi, tại sao con lại muốn rời bỏ vương vị và sống theo đời tu khổ hạnh.

– Tâu phụ vương, suốt mười tháng con nằm trong bụng mẹ chẳng khác nào Ðịa ngục phân dơ, khi đã sinh ra đời, vì sợ con quỷ dữ mà con phải sống trong cảnh giam cầm, chẳng bao giờ có cơ hội nhìn ra ngoài. Con thấy giống như bị nhốt vào ngục Ussada (Ngục có thành sắt bao bọc), nay đã thoát nạn quỷ cái ấy, song con chẳng bao giờ thoát được tưổi già và cái chết, vì không ai có thể chiến thắng thần chết cả. Con nhàm chán sự sinh ra đời rồi. Vậy trước khi già, bệnh, chết kéo đến với con, con quyết theo đời người tu hành, tiến bước trong chánh hạnh. Con không muốn ngai vàng dành cho con. Tâu phụ vương, xin phụ vương ban ơn chấp thuận cho con đi.

Rồi ngài thuyết Pháp cho thân phụ như vầy:

  1. Mầm sống, một khi nhập tử cung
    Mới vừa khởi sự bước đầu xong
    Nó liền tiến mãi hoài liên tục
    Sinh mệnh dòng kia chẳng thể dừng.
  2. Không một quyền năng, chẳng lực hùng
    Giúp người tránh lão tử sau cùng,
    Mọi loài khổ lụy vì sinh lão,
    Con quyết tìm thanh tịnh bản thân
  3. Ðại vương chiến thắng bởi hùng binh
    Bốn đạo quân nhìn thật đáng kinh,
    Song chẳng phá tan quân Diêm chúa
    Nên con nguyền Phạm hạnh phần mình
  4. Dù mã, tượng, xa với đạo quân
    Vây quanh, vài kẻ thoát nhanh chân;
    Song không ai thoát tay thần chết
    Con quyết đời thanh tịnh để phần.
  5. Với mã , tượng xã, các đạo binh
    Anh hùng tiêu diệt thảy tan tành.
    Song không thấy có người nào đủ
    Sức mạnh phá tan được tử hình;
    Vì thế lòng con nay đã quyết
    Cuộc đời Phạm hạnh để cho mình
  6. Voi điên, da đẫm ướt trên đường
    Phố xá dẫm tan, giết hại dân,
    Song chẳng thấy người đầy thế lực
    Dẫm ta, tiêu diệt tử ma vương;
    Cho nên con quyết lòng tu tập
    Thanh tịnh đời riêng với bản thân.
  7. Xạ thủ đại hùng, thiện xảo thay,
    Bắn như tia chớp tự xa bay,
    Song con không thấy người thừa sức
    Làm tổn thương được thần chết này
    Vì thế lòng con giờ quyết định
    Theo đời thanh tịnh để phần đây.
  8. Rừng núi, hồ sông với thạch bàn
    Không lâu để sụp đổ điêu tàn
    Ðúng thời, vạn vật thành không cả,
    Con quyết đời thanh tịnh bước đàng.
  9. Giống như cây ở mé bờ sông
    Bán áo, người say đổi rượu nồng
    Cuộc sống muôn loài đều khổ cả,
    Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần
  10. Tứ đại rã tan , chúng lụi dần,
    Trẻ già, nam nữ, cả nhân quần
    Ngã như trái rụng vì cây đổ;
    Con quyết đời thanh tịnh bản thân
  11. Xuân của thế gian khác nữ thần
    Ngự trên tinh tú ấy cô Hằng
    Chẳng bao giờ tuổi xuân về nữa
    Ðối với lão niên kiệt quệ dần
    Lạc thú ái ân nào có được?
    Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần.
  12. Ác quỷ thần tiên, lúc nổi sân
    Phun luồng khí độc hại phàm nhân,
    Song làn khí độc thần linh ấy
    Chẳng giúp vào xô ngã tử thần
    Vì vậy lòng con giờ đã quyết
    Cuộc đời thanh tịnh để riêng phần.
  13. Khi ác thần, yêu quái quỷ tinh
    Nổi sân, được vuốt dịu làm lành
    Do người cúng bái; song không thể
    Làm tử thần tan hết bất bình
    Vì vậy giờ con đây quyết định
    Cuộc đời thanh tịnh để phần mình.
  14. Những người gây tội ác, hung tàn
    Khi lộ, bị hình phạt chúa ban
    Song với tử thần, không thể phạt
    Nên con nguyền Phạm hạnh lên đàng
  15. Những người gây tội ác đau thương
    Tìm cách cản tay các đế vương
    Song với tử thần tay lưỡi hái
    Việc này xem quả thật vô phương.
    Cho nên con quyết giờ đây chọn
    Thanh tịnh đời con tiến thẳng đường
  16. Quân vương, võ tướng, Bà-la-môn
    Những kẻ mang danh vị tối tôn,
    Những đại phú gia, người thế lực
    Tử thần cũng chẳng rũ lòng thương
    Cho nên con quyết từ đây sống
    Phạm hạnh đời con đã chọn đường
  17. Cọp beo, sư tử chụp con mồi
    Tất cả đều ăn sống nuốt tươi
    Cho dẫu con mồi mong giãy giụa
    Tử thần đâu sợ hổ, sư nhai!
    Cho nên con trẻ từ đây quyết
    Phạm hạnh riêng con sống cả đời
  18. Kẻ xiếc trên sân khấu lộn sòng
    Diễn trò lừa bịp mắt người trông
    Muốn lừa thần chết, không mưu kế;
    Thánh hạnh đời con đã quyết lòng
  19. Nọc độc rắn rồng lúc nổi sân
    Tấn công, giết lập tức người trần;
    Nọc kia, thần chết không hề sợ;
    Thanh tịnh đời con quyết chọn phần
  20. Nanh độc rắn dùng lúc nổi sân,
    Vị lương y có đủ tài năng
    Làm tiêu tan hết xà công lực
    Song chữa vết thương của Tử thần
    Không một anh hùng nào đủ sức
    Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần
  21. Lương y chữa nọc rắn tài tình,
    Ðã chết, giờ đây khuất bóng hình:
    Bố-giạ, Vệ-tài, Ða-mẫn nữa
    Nên con quyết Phạm hạnh cho mình
  22. Vài kẻ tinh thông thuật, chú thần,
    Tàng hình đi trước mặt tha nhân,
    Tuy nhiên không thể tàn hình mãi
    Mà tử thần trông thấy vẫn gần
    Vì vậy lòng con nay quyết định:
    Cuộc đời thanh tịnh để riêng phần
  23. Bất cứ ai theo hạnh phúc chánh chân
    Ðều là người được hưởng bình an,
    Khéo hành chánh đạo nhiều công đức,
    Hạnh phúc thay là bậc chánh nhân!
    Chẳng bao giờ có người chánh hạnh
    Rơi vào trong đọa xứ đau buồn
  24. Ðúng chăng nghiệp quả của riêng mình
    Ðều phải do tà, chánh phát sinh?
    Tà hạnh dẫn người vào địa ngục
    Chánh chân đưa đến cõi thiên đình.

Khi bậc Ðại Sĩ đã thuyết pháp như vậy qua hai mươi bốn vần kệ xong, ngài tiếp:

– Tâu Ðại vương, xin Ðại vương giữ quốc độ cho mình, phần con không màng đến nó chút nào. Ngay khi con đang tâu trình với phụ vương thì bệnh tật, tuổi già và thần chết nữa đều tiến đến gần con hơn. Xin phụ vương ở lại vương vị cũ.

Sau đó, chẳng khác nào con voi điên cuồng bật tung xiềng xích bằng sắt, hoặc như chú sư tử nhỏ bé phá vỡ chiếc lồng vàng, ngài đập tan mọi dục vọng phàm tục trong lòng và đảnh lễ song thân rồi ra đi.

Tiếp theo đó phụ vương của ngài phán:

– Ta cũng không thiết ngai vàng quốc độ nữa!

Rồi vua cha từ giã thế sự, ra đi cùng ngài. Khi các ngài đi rồi, chánh hậu, đám triều thần Bà-la-môn, các gia chủ cùng mọi người khác trong kinh thành đều bỏ nhà cửa ra đi hết.

Thế là một đoàn đại chúng trải dài cả mười hai dặm đường. Cùng với đám đông này, ngài tiến về phía Tuyết Sơn.

Khi Sakka Thiên chủ (Ðế Thích) biết rằng ngài đã xuất gia, liền sai Thiên sứ đi xây dựng một vùng am thất trải dài cả mười hai dặm, bề rộng bảy dặm và truyền bảo vị ấy đem vào đó mọi thứ cần thiết cho cuộc đời tu tập khổ hạnh. Cách thức bậc Ðại Sĩ tiếp tục thâu nhận đám người này vào hội chúng xuất gia của ngài và thuyết giáo cho hội chúng, sau đó hội chúng được sinh lên Phạm thiên giới hay chứng đắc quả Tam quả bất Lai như thế nào, tất cả đều diễn ra giống như trước kia

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy này các Tỷ-kheo, trước kia Như Lai cũng đã làm Ðại sự Xuất thế.

Sau đó Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, song thân của vương tử kia là phụ hoàng và mẫu hậu ngày nay, hội chúng của đức Phật là đám thần dân và Ta chính là Hiền giả Ayoghara (Thiết Thất)

-ooOoo-

Chương XVI

Phẩm Ba mươi bài kệ

  1. Chuyện dục tham kỳ dị (Tiền thân Kimchanda)

Vì cớ sao ngài ở bến sông…,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên hay Thắng Lâm) về việc hành trì ngày trai giới (uposatha: Bố-tát giới hay bát quan trai giới)

Một ngày nọ, một số nam nữ cư sĩ đang hành trì ngày trai giới, đến nghe Pháp và ngồi tại Chánh pháp đường. Bậc Ðạo Sư hỏi xem hội chúng có hành trì ngày trai giới không, và khi họ đáp là có, Ngài nói thêm:

– Các ông hành trì ngày trai giới thật tốt lành thay; ngày xưa, có những người chỉ nhờ hành trì nửa ngày trai giới mà đạt được vinh quang tột bực.

Rồi theo lời thỉnh cầu của hội chúng, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ tại thành Ba-la-nại, vua Brahmadatta cai trị quốc độ rất đúng pháp và là một người sùng đạo, ngài nhiệt tình hành trì mọi thiện sự trong ngày trai giới, giữ đúng giới luật và bố thí. Ngài cũng khuyên các cận thần cùng nhiều người khác giữ hạnh nguyện bố thí, làm phước đức, nhưng vị quốc sư của ngài là một kẻ xấu miệng, ưa gièm pha, tham của hối lộ, nên xử án bất công.

Vào một ngày trai giới kia, vua triệu các quân sư lại và bảo họ giữ giới. Vị quốc sư này không thi hành phận sự của ngày trai giới. Vì vậy trong ngày ấy, lão nhận hối lộ và xử án bất công rồi sau đó đến chầu vua. Sau khi hỏi mỗi vị cận thần xem có giữ giới không, vua hỏi vị quốc sư:

– Này Tôn giả, người có giữ giới không?

Lão nói dối là có, rồi rời cung vua. Lúc ấy một vị cận thần khác quở trách lão:

– Chắc chắn ngài chẳng giữ giới.

Lão đáp:

– Ta đã ăn từ sáng sớm, nhưng khi ta về nhà sẽ súc miệng và giữ giới luật, ta sẽ không ăn gì buổi chiều và suốt đêm ta sẽ giữ giới luật, như thế ta cũng giữ được nửa ngày trai giới.

Họ đáp:

– Thưa Tôn giả, thế thì tốt lắm.

Lão đi về nhà và làm đúng như vậy.

Một ngày kia, khi lão đang ngồi xử kiện, một người đàn bà vốn là kẻ giữ đúng giới luật, đang gặp chuyện thưa kiện, và vì không thể về nhà được, bà ấy nghĩ thầm: “Ta không thể vi phạm hành trì ngày trai giới.”

Nên lúc đến gần giờ trì giới, bá ấy bắt đầu súc miệng. Và lúc ấy có người mang vào một mâm xoài chín biếu tế sư Bà-la-môn. Lão thấy bà ta đang giữ giới liền bảo:

– Bà ăn đi rồi giữ giới.

Bà ấy vâng theo. Hạnh nghiệp của vị Bà-la-môn kia đã tạo được nhiều phước lớn.

Về sau đó, lão chết đi và tái sinh vào vùng núi Tuyết Sơn, trong một nơi phong cảnh tươi đẹp bên bờ sông Kosiki, chi nhánh của sông Hằng, trong một khu rừng xoài rộng ba dặm trên một vương sàn nguy nga của một cung điện bằng vàng. Lão tái sinh như thể một người vừa thức giấc, liềnđược phục sức xiêm y, điểm trang lộng lẫy, với dung mạo tuyệt vời, lại được mười sáu ngàn tiên nữ chầu hầu chung quanh. Suốt đêm trường lão thọ hưởng vinh quang này vì đã được sinh làm vị Thần trong Ma cung, phước lộc của lão cũng tương xứng với hạnh nghiệp xưa của lão.

Vì thế khi bình minh đến, lão vào rừng xoài, ngay lúc vừa bước chân vào, thân thể thần tiên của lão biến mất, lão hóa hình thù to lớn như một cây thốt nốt cao tám mươi cubit (acubit = 45cm), toàn thân rực sáng như một cây phượng vĩ đang trổ hoa đỏ thắm. Lão chỉ có một ngón tay trên mỗi bàn tay, nhưng móng lại to như bàn cuốc, với các móng tay này, lão móc thịt sau lưng, xé thịt mình ra mà ăn, rồi đau đớn điên cuồng lên, lão cứ khóc rống thật to. Mãi vào lúc mặt trời lặn, thân hình này biến mất và phong cách thần tiên của lão hiện ra. Bầy tiên nữ nhảy múa, cầm nhiều nhạc cụ trong tay, hầu hạ quanh lão, trong lúc hưởng đại vinh hiển như vậy, lão bước lên tiên cung trong khu rừng xoài diễm lệ.

Như vậy là do kết quả việc tặng trái xoài cho người đàn bà đang trì giới, lão được hưởng một khu rừng xoài rộng ba dặm, nhưng vì phải thọ lãnh nghiệp quả về việc nhận hối lộ và xử án sai lầm, lão phải xé thịt trên lưng ra mà ăn, đồng thời nhờ việc hành trì nửa ngày trai giới, lão tận hưởng vinh quang mỗi đêm cùng với mười sáu ngàn tiên nữ múa hát hầu hạ quanh mình.

Vào thời ấy, vua xứ Ba-la-nại hiểu rõ tội lỗi do tham dục gây ra, nên xuất gia tu hành, ẩn cư trong một thảo am nọ trên một vùng phong cảnh xinh đẹp miền hạ lưu sông Hằng, sống khổ hạnh với những vật ngài kiếm được.

Một ngày kia, có quả xoài chín trong rừng ấy bằng cái bát, rơi xuống sông Hằng theo dòng sông đến nơi đối diện với chỗ định cư của vị khổ hạnh này. Trong khi ngài đang súc miệng, chợt thấy trái xoài trôi giữa dòng, ngài liền lội qua lấy nó mang về am, cất vào nội thất, nơi ngài đốt ngọn lửa thiêng. Sau đó khi xẻ xoài ra, ngài chỉ ăn vừa đủ sống, rồi gói phần còn lại bằng lá chuối. Ngài cứ ăn dần dần trái xoài như vậy cho đến hết.

Khi đã ăn hết xoài, ngài không thể ăn trái cây nào khác nữa, nhưng bị thói tham ăn của ngon trói buộc, ngài thốt lời thề từ nay chỉ ăn xoài chín mà thôi, liền đến bờ sông nhìn xuống dòng nước, quyết không bao giờ đứng dậy cho đến khi tìm được một trái xoài! Thế là ngài nhịn ăn sáu ngày liền, cứ ngồi đó chờ mong tìm xoài, cho đến khi ngài khô héo vì nắng gió.

Ðến ngày thứ bảy, một vị nữ thần xem xét sự việc ấy, thấy rõ lý do hành động của ngài và suy nghĩ: “Vị tu khổ hạnh này bị thói tham ăn câu thúc, cứ ngồi đó nhịn đói bảy ngày nhìn xuống sông Hằng. Việc ta chối từ ngài một quả xoài là điều sai lầm, vì nếu không có xoài , ngài sẽ chết, vậy ta sẽ cho ngài một trái.”

Thế là nữ thần liền hiện lên giữa không gian trên sông Hằng và nói với ngài vần kệ đầu tiên

  1. Vì cớ sao ngài ở bến sông
    Suốt trong mùa hạ, nắng oi nồng
    Bà-la-môn hỡi, người thầm nguyện
    Chủ đích gì ngài vẫn ước mong

Nhà tu khổ hạnh nghe thế liền đáp lại chín vần kệ:

  1. Bồng bềnh trôi nổi ở trên dòng
    Ta thấy xoài kia, hỡi nữ thần
    Vươn cánh tay dài ta lấy quả
    Ðem về nhà cất ở gian trong
  2. Ngọt ngào hương vị thật thanh tao,
    Ta nghĩ của trời quí giá sao!
    Hình dáng đẹp tươi này sánh với
    Chiếc bình lớn nhất khác chi nào!
  3. Ta dấu xoài trong lá chuối cây
    Cắt ra từng lát với dao này
    Ít oi thực phẩm, phần ăn uống
    Hợp với đời người đạm bạc đây
  4. Phần ăn dần hết, bớt thèm thuồng
    Tuy thế lòng ta vẫn tiếc luôn:
    Trong các trái nào ta kiếm được
    Ta đều không thấy vị thơm ngon!
  5. Héo hắt ta đà mỏi mắt trông
    Xoài ngon ta lượm ở bên dòng
    Sẽ làm ta chết, ta lo sợ
    Chẳng trái cây nào ta ước mong!
  6. Vì sao giữ giới đã trình nàng
    Cho dẫu ta đang ở cạnh dòng
    Sóng vỗ chập chùng, bao loại cá
    Ðầy đàn bơi lội cứ tung tăng
  7. Nay ta cầu khẩn nói cho ta
    Chớ sợ hãi rồi bỏ chạy xa,
    Hỡi nàng tố nữ, là ai đó?
    Tại sao nàng lại đến đây mà?
  8. Thị nữ chư Thiên đẹp tuyệt vời
    Khác nào vàng óng ánh ngời soi!
    Xinh như bầy hổ còn thơ dại
    Dọc các sườn non vẫn giỡn chơi
  9. Cũng ở nơi đây cõi thế gian,
    Muôn vàn vẻ đẹp lắm hồng nhan
    Song không ai giữa nhân Thiên ấy
    Lại dam khoe tươi với nữ hoàng!
    Ta hỏi nữ thần muôn diễm lệ
    Ðược trời phú mọi vẻ thiên quang
    Xin cho ta biết phương danh tánh
    Nơi chốn xuất thân quí tộc nàng

Nữ thần liền đáp tám dòng kệ

  1. Trên dòng sông nước thật xinh tươi
    Bên cạnh Hằng giang đạo sĩ ngồi
    Bá chủ ngôi cao ta ngự trị
    Dưới vùng sâu thắm, thủy triều trôi
  2. Cầm quyền ngàn thạch động chung quanh
    Che phủ rừng cây rậm lá xanh
    Từ đó bao dòng tràn ngập chảy
    Hòa theo với sóng nước sông mình
  3. Mỗi khu rừng, mỗi khóm vườn cây
    Ðưa đến Long cung lắm suối đầy
    Ðổ xuống bao nguồn nước xanh biếc
    Ngập dòng bát ngát của ta này
  4. Lệ thường trên các phụ lưu này
    Nhiều trái sinh từ đủ loại cây
    Ðào đỏ, chà là, sung mít vả
    Với xoài, người thấy rõ ràng ngay
  5. Trái kia đều mọc mỗi bên bờ
    Rơi xuống vừa tầm với của ta
    Ta bảo của trời cho chánh đáng
    Danh ta, ai có thể gièm pha?
  6. Hiểu thông điều ấy lắng nghe đây
    Hỡi đại vương thông tuệ, trí tài
    Chớ đắm tham vào tâm dục vọng
    Bỏ ngay lời nguyện đáng chê bai
  7. Ðại vương xưa ngự trị giang sơn
    Nay việc ngài, ta chẳng tán dương
    Muốn chết giữa mùa xuân tuổi trẻ
    Rõ ràng biểu lộ đại điên cuồng
  8. Giáo sĩ, chư thần, quý hiển linh
    Mọi người biết hạnh nghiệp uy danh
    Của ngài, mọi Thánh nhân thanh tịnh
    Dưới thế đã thành tựu hiển vinh
    Quả thấy việc ngài làm trái đạo
    Hiền nhân tất cả biểu đồng thanh!

Tiếp theo đó vị tu hành ngâm bốn vần kệ:

  1. Ai biết đời người thật mỏng manh
    Mọi loài dục giới thoáng qua nhanh
    Không hề nghĩ đến điều sinh sát
    Mà trú an trong mọi hạnh lành
  2. Xưa nàng được hội Thánh tôn vinh
    Là bậc làm công đức sáng danh
    Nay lại giao du nhiều kẻ ác
    Tiếng xấu nàng đang cố tạo thành!
  3. Ví ta chết cạnh bến sông nàng
    Hỡi nữ thần dung sắc vẹn toàn
    Tiếng xấu trùm lên nàng tất cả
    Khác nào mây phủ giữa không gian!
  4. Vậy kiều tiên hỡi, lão van nàng
    Hãy tránh xa điều ác, sợ rằng
    Mặc lão chết đi, rồi hối tiếc
    Làm trò đàm tiếu giữa trần gian!

Nghe nói vậy , nữ thần đáp lại:

  1. Ta biết ngài thầm kín ước mong
    Và ngài nhẫn nhục thật cam tâm
    Ta cam đành phận làm tỳ nữ
    Ðem đến xoài ngon tặng đạo nhân
    Kìa ác dục từ bao thưở trước
    Khó thay bỏ lạc thú phàm trần
    Ngài đã đạt đến tâm thanh tịnh
    Và trí bình an, phải giữ luôn.
  2. Người nào đã thoát buộc ràng xưa
    Lại bám xiềng gông trước chuyện thừa
    Phóng dật bước vào phi thánh đạo
    Chất chồng ác nghiệp mãi luôn mà.
  3. Ta tặng ngài điều nguyện khát khao,
    Rồi ngài tiêu hết mọi ưu sầu,
    Ta đưa ngài đến nơi êm mát,
    Ngài sống đời an lạc biết bao!
  4. Mây-na, cu-gáy, hạc, hồng nga,
    Say mật quây quần cạnh khóm hoa,
    Từng đám thiên nga cao vút lượn
    Chim đồng, đàn khổng tước kiêu sa
    Cùng nhau hòa tiếng ca êm ái
    Ðánh thức rừng cây tỉnh giấc mơ!
  5. Hoa nghệ, Ka-dam-ba rộ bông
    Khác nào rơm rạ ở trên đồng
    Chà là, thốt nót, nồng nàn chín
    Tô điểm chung quanh lủng lẳng chùm
    Và giữa cây cành đầy trĩu trái
    Xoài cây sung mãn, hãy nhìn trông!

Vừa ca tụng thắng cảnh kia, tiên nữ vừa mang nhà tu hành đến đó, và mời ngài ăn xoài trong rừng này cho đến khi thỏa thích, rồi nàng lại ra đi. Nhà ẩn sĩ ăn xoài mãi đến lúc đã hết cơn thèm, xong nghỉ ngơi chốc lát. Sau đó loanh quanh thơ thẩn trong rừng, ngài thấy vị Thần kia đang lúc chịu khổ sở đau đớn, ngài không còn lòng dạ nào thốt ra lời hỏi han vị ấy, nhưng hoàng hôn đến, ngài thấy vị Thần kia được bầy tiên nữ hầu hạ và thọ hưởng vinh quang của tiên giới, ngài liền ngâm ba vần kệ:

  1. Suốt đêm, quán đảnh tiệc liên hoan
    Vương miện trên mày lại được mang
    Tô điểm cổ tay, đầy ngọc quí
    Sáng ngày đau khổ thật kinh hoàng
  2. Hàng ngàn tiên nữ hộ quanh ngài
    Thần lực ngài kia thật đại tài!
    Kỳ diệu biết bao quyền biến đổi
    Khổ hình lại hóa cảnh bồng lai!
  3. Ngài đã làm sao phải đọa đày?
    Tội gì ngài hối tiếc ngày nay?
    Sao từ lưng nọ nay ngài phải
    Móc thịt mình ăn lại mỗi ngày?

Vị Thần kia nhận ra ngài, liền bảo:

– Ðại vương không nhận ra tiểu thần, nhưng ngày xưa tiểu thần là tế sư của Ðại vương. Hạnh phúc này thần được hưởng hằng đêm là nhờ ơn Ðại vương, đó là kết quả hành trì nửa ngày trai giới của thần, còn nỗi thống khổ thần phải chịu ban ngày là kết quả nghiệp ác mà thần đã làm. Vì khi thần được Ðại vương cho ngồi ghế phán quan, thần đã ăn hối lộ, và phán xét sai trái, thần lại là kẻ xấu miệng, ưa phỉ báng sau lưng người khác, nên kết quả việc ác thần đã tạo những ngày đó, nay thần phải chịu khổ đau này.

Nói xong vị Thần ngâm hai vần kệ:

  1. Xưa thân thọ hưởng thánh tam kinh
    Song ác nghiệp giam hãm đắm mình
    Việc ác đã làm cho bạn hữu
    Bao năm ròng, cuộc sống trôi nhanh
  2. Kẻ nào phỉ báng các tha nhân
    Cứ thích rình mò phá tiếng thơm
    Phải móc thịt mình ăn lại mãi
    Như ta việc ấy hiện đang làm!

Nói xong vị thần hỏi nhà tu khổ hạnh tại sao đã đến đây. Vị này liền kể hết đầu đuôi câu chuyện của mình. Vị Thần lại hỏi:

– Vậy xin thưa Thánh giả, ngài định ở đấy hay lại ra đi?

– Ta không muốn ở lại, ta muốn trở về am.

Vị Thần đáp:

– Thưa Thánh giả, lành thay, thần sẽ dâng cúng ngài trái xoài chín thường xuyên đầy đủ.

Rồi vị ấy dùng thần lực đưa vị vua ẩn sĩ trở về vùng thảo am, khuyên ngài sống thiểu dục ở đó, yêu cầu ngài phải giữ tròn lời nguyền, rồi ra đi. Từ đó vị Thần kia thường xuyên cung cấp xoài cho nhà tu khổ hạnh. Ngài thọ hưởng thứ trái cây ấy, hành trì những pháp môn tu tập để làm phát khởi thiền định và về sau được thọ sinh vào Phạm thiên giới.

*

Bậc Ðạo Sư, sau khi chấm dứt Pháp thoại với các cư sĩ, liền thuyết các Thánh Ðế và nhận diện Tiền thân:

– Vào đoạn kết thúc các Thánh Ðế, một số người đạt Sơ quả Dự Lưu, một số người đạt Nhị quả Nhất Lai, lại có một số người khác đạt Tam quả Bất Lai.

– Vào thời ấy nữ thần ấy là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) và ẩn sĩ khổ hạnh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện bình rượu (Tiền thân Kumbha)

Ngài là Ðại Sĩ ở trên không…,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể lại trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về việc năm trăm nữ nhân, các vị thân hữu của bà Visàkhà (Tỳ-xà-khư), là những kẻ uống rượu nặng.

Lúc bấy giờ truyện kể rằng có một tửu hội được tổ chức tại Savathi (Xá-vệ) và năm trăm nữ nhân này, sau khi đem rượu nồng cho các vị phu quân xong, vào cuối đám hội lại suy nghĩ: “Chúng ta cũng muốn dự tửu hội”.

Họ liền tìm đến bà Visàkhà và bảo:

– Này hiền hữu, chúng ta cũng muốn dự hội.

Bà đáp:

– Ðây là một tửu hội, còn ta không muốn uống rượu nồng.

Họ bảo:

– Thế hiền hữu hãy cúng dường đức Phật tối thượng, còn chúng tôi muốn dự hội này.

Nàng chấp thuận ngay và để họ đi. Sau khi đã cúng dường bậc Ðạo Sư một phẩm vật long trọng, buổi chiều bà đi đến Kỳ Viên, cầm nhiều tràng hoa thơm cùng các nữ nhân kia để nghe thuyết pháp.

Bấy giờ đám nữ nhân kia thèm uống rượu cùng khởi hành với bà, nên lúc họ đứng trong căn phòng có nóc nhọn kia, họ uống rượu mạnh rồi cùng bà Visakhà đến yết kiến bậc Ðạo Sư.

Bà Visàkhà đảnh lễ bậc Ðạo Sư và cung kính ngồi qua một bên. Vài người đàn bà trong bọn ấy dám múa ca ngay trước mặt bậc Ðạo Sư, có người lại lấy tay, chân làm những cử chỉ thô lỗ có người còn cãi nhau nữa. Bậc Ðạo Sư muốn gây chấn động cho bọn này, liền phóng ra một tia hào quang từ chân mày của Ngài.

Tiếp theo đó bầu trời tối đen kịt. Bọn nữ nhân kinh hoàng sợ chết, vì thế tỉnh rượu ngay.

Bậc Ðạo Sư biến mất khỏi bảo tọa Ngài đang ngồi, xuất hiện trên đỉnh núi Tu-di và phóng ra một tia hào quang từ giữa chân mày rực rỡ, khác nào ngàn vầng trăng hiện.

Trong lúc đứng đó, Bậc Ðạo Sư nói lên kệ này để gây kinh động cho đám nữ nhân kia:

Ở đây không phải chốn vui cười
Lửa dục đốt tan mọi cảnh đời
Sao mãi chìm thân trong bóng tối
Không tìm ngọn đưốc, nẻo đường soi

Câu kệ vừa chấm dứt, cả đám năm trăm nữ nhân đều đắc quả Dự Lưu. Bậc Ðạo Sư lại xuất hiện trên bảo tọa dành cho đức Phật dưới bóng mát của Hương phòng. Lúc ấy, bà Visàkhà đảnh lễ Ngài và hỏi:

– Bạch Thế Tôn, việc uống rượu mạnh phát xuất từ đâu đã xâm phạm đến thanh danh và lương tâm con người?

Ðể trả lời bà, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta đang trị vì quốc độ Ba-la-nại có người thợ rừng tên gọi Sura, sống ở quốc độ Kàsi, đến vùng Tuyết Sơn đi tìm hàng buôn bán. Ở đó có một cây mọc lên cao vừa tầm vóc người giơ hai tay lên đầu, và chia làm ba nhánh giữa cái chĩa ba này là một lỗ lớn bằng bình rượu, khi trời mưa lỗ này đầy nước. Chung quanh cây này có hai cây myrobalan (am-ma-lạc) và một bụi tiêu, khi trái chín được cắt xuống lại rơi vào lỗ này. Không xa cây này lại có một ruộng lúa tự mọc lên. Chim sẻ mổ lúa ăn đến đậu trên cây này. Trong lúc chim ăn, lúa và gạo sạch trấu rơi xuống đó, chỗ ấy nước lên men dưới ánh nắng mặt trời, nên có màu đỏ như máu. Mùa nắng, từng đàn chim khát nước, uống nước ấy và say sưa, ngã xuống dưới gốc cây, sau khi ngủ một lát, lại bay đi, kêu chiêm chiếp rất vui tai. Việc này cũng diễn ra với các loài chó hoang, khỉ và nhiều dã thú khác nữa. Người thợ rừng thấy vậy nghĩ thầm: “Nếu đây là thuốc độc thì chúng chết hết rồi, nhưng còn đây sau một giấc ngủ ngắn, chúng bay đi như ý muốn, vậy không phải là thuốc độc.”

Gã uống thứ nước ấy và lúc say rượu, gã thấy thèm ăn thịt, liền nhóm lửa lên, giết chim trĩ và gà gô vừa ngã gục dưới gốc cây, gã nướng con thịt trên đám lửa hồng, rồi một tay gã múa may, tay kia cầm thịt ăn, gã ở lại chỗ đó một hai ngày.

Bấy giờ không xa nơi ấy, có một vị ẩn sĩ tên gọi Varuna, nhiều lúc gã thợ rừng đến viếng ẩn sĩ, gã nghĩ thầm” Ta sẽ uống thứ rượu này với vị ẩn sĩ ấy”

Gã đổ đầy nước vào một ống sậy, cùng một ít thịt nướng, rồi gã đi đến am tranh và bảo:

– Thưa Thánh giả, xin ngài thử nếm rượu này.

Hai người cùng uống rượu và ăn thịt. Vì thứ rượu này do Sura và Varuna phát hiện, nên được đặt tên theo đó: Rượu Surà và Varuni. Cả hai suy nghĩ: “Ðây là cách sử dụng rượu này”

Họ đổ đầy nước vào ống sậy, gánh đi đến làng lân cận, dâng sớ tâu vua rằng có vài người lái buôn rượu đã đến. Nhà vua cho triệu họ vào, và họ dâng rượu lên. Nhà vua uống rượu hai ba lần là say mèm. Rượu này chỉ đủ dùng chừng hai ba ngày, sau đó vua hỏi còn rượu không. Họ bảo:

– Tâu Ðại vương còn.

– Ở đâu thế?

– Tâu Ðại Vương trong vùng Tuyết Sơn..

– Thế đem rượu về đây.

Họ đi tìm rượu kia chừng hai ba lần rồi suy nghĩ: “Ta không thể đến đó mãi.”

Họ nghiên cứu các thành phần chế tạo rượu ấy và bắt đầu dùng thứ vỏ cây kia, họ đổ thêm các thứ kia vào, và làm rượu ngay tại kinh thành. Dân trong thành uống rượu say trở thành những kẻ khốn cùng lười biếng. Vùng ấy trở nên một kinh thành hoang vắng.

Các lái buôn rượu bỏ đi đến Ba-la-nại dâng sớ tâu nhà vua xin trình báo họ đến thành. Nhà vua triệu họ vào, trả tiền cho họ và họ lại làm rượu tại đó. Thành ấy cũng hoang tàn như kiểu trên.

Sau đó họ đến Sàketa, từ Sàketa họ đến Xá Vệ, lúc bấy giờ có vị vua mệnh danh Sabbamitta ngự tại Xá-Vệ. Nhà vua tỏ ra ưu ái họ và hỏi họ muốn gì. Khi họ bảo:

– Chúng tiểu thần muốn có các vật liệu chính cùng gạo xay và năm trăm chiếc bình.

Nhà vua ban đủ mọi thứ họ xin.

Thế là họ cất rượu trong năm trăm bình kia, và họ cột một con mèo vào một bình rượu để canh giữ. Khi rượu lên men và bắt đầu phun ra, bầy mèo uống rượu mạnh chảy ra từ trong bình, khi say mèm, chúng nằm xuống ngủ, bọn chuột đến gặm tai, mũi, răng và đuôi mèo. Quân cận thần đến tâu vua:

– Bầy mèo đã chết vì uống rượu.

Nhà vua phán:

– Chắc chắn hai gã kia đã làm thuốc độc.

Rồi vua ban lệnh chém đầu họ và khi phải chết, họ còn la lớn:

– Xin cho chúng thần rượu mạnh, xin cho chúng thần rượu mật!

Nhà vua, sau khi xử tử bọn kia rồi, ra lệnh mở các bình ra. Còn bầy mèo, khi tác dụng rượu đã hết, tỉnh dậy đi lại chơi đùa. Các cận thần thấy vậy liền tâu vua. Vua bảo:

– Nếu đó là thuốc độc thì chúng đã chết hết rồi, chắc đây là rượu mật ta phải uống mới được.

Thế là vua ra lệnh trang trí kinh thành, dựng ngôi đình trong sân chầu và ngự vào đình nguy nga trên ngai vàng có lọng trắng che đầu, với các cận thần chầu quanh, nhà vua nhập tiệc uống rượu.

Lúc ấy Ðế Thích Thiên chủ bảo:

– Có ai dưới trần là những kẻ phụng dưỡng mẹ cha lại tinh cần giữ trọn ba chánh hạnh chăng?

Rồi nhìn xuống thế gian, ngài thấy nhà vua đang ngồi uống rượu nồng, ngài nghĩ: “Nếu vua ấy cứ uống rượu nồng mãi thì toàn cõi Diêm-phù-đề sẽ bị hủy diệt, ta muốn thấy chắc chắn vua không được uống rượu nữa”.

Thế là đặt bình rượu vào lòng bàn tay, ngài giả dạng một Bà-la-môn, đứng trên không ngay trước mặt vua kêu lớn:

– Mua bình này đi, mua bình này đi.

Vua Sabbamitta thấy ngài đứng trên không và nói như vậy, liền hỏi:

– Bà-la-môn này từ đâu đến đây?

Và nhà vua ngâm vần kệ trò chuyện với ngài:

  1. Ngài là đại sĩ hiện trên không
    Mình phóng hào quang rực ánh hồng
    Như chớp ngang trời đang lóe sáng
    Ðêm đen kịt chiếu ánh trắng trong.
  2. Giữa chốn bao la, lượt nhẹ mình,
    Ði đứng trong khoảng chẳng âm thanh.
    Lực thần ngài đạt, ôi vi diệu,
    Chứng tỏ ngài thần thánh hiển linh
  3. Ðạo Sĩ, xin cho biết bậc nào
    Vật gì trong ấy, chiếc bình cao
    Giữa không trung giáng trần như vậy
    Chắc muốn bán hàng cho trẫm sao?

Lúc ấy Thiên chủ đáp lại:

– Này nhà vua hãy nghe đây

Rồi vừa thuyết giảng mọi đặc điểm xấu xa của rượu nồng, ngài vừa ngâm vần kệ.

  1. Bình không đựng lạc, chẳng dầu hương,
    Chẳng phải mật ong, chẳng mía đường
    Song chuyện xấu xa không kể xiết
    Chứa đây trong bụng quả cầu tròn
  2. Ai uống, tội thay kẻ dại khờ
    Sẽ chìm trong hố thẳm đen dơ
    Ðâm đầu trong vũng bùn ghê tởm,
    Ăn phải vật xưa đã nguyện chừa,
    Ðại đế, xin mua bình rượu nặng
    Ðầy lên tận miệng của nhà ta.

6.Rượu vào trí đảo lộn quay cuồng
Như chú bò ăn cỏ lạc đường
Tâm trí phiêu diêu, người lảo đảo.
Múa men ca hát suốt ngày trường.
Bình ta đầy rượu tràn lên miệng
Cực mạnh, mua ngay, hỡi Ðại vương!

  1. Người uống rượu trơ trẽn chạy rong
    Khắp thành, như ẩn sĩ trần truồng
    Ðến khuya nằm nghỉ , liền đâm hoảng
    Quên cả thì giờ phải ngã lưng
    Bình rượu ta đầy lên tận miệng
    Cực nồng, mua lấy hỡi Quân vương!
  2. Bợm rượu , như người hoảng múa men,
    Ngã nghiêng, dường chẳng đứng ngồi yên
    Tay chân run rẩy, đầu co giật
    Như nộm gỗ nhờ tay kéo lên
    Ðại đế, mua đi bình rượu đó
    Ðầy lên tận miệng, rượu cay men.
  3. Bợm rượu bị thiêu đốt ruột gan,
    Hoặc làm mồi lũ chó rừng hoang,
    Dấn thân tù ngục hay thần chết
    Còn phải chịu hao tốn bạc vàng
    Bình rượu ta đầy lên tận miệng
    Cực nồng, mua lấy, hỡi Vương quân!
  4. Túy ông mất hết vẻ thanh tao
    Trò chuyện những điều bẩn thỉu sao!
    Ngồi đứng trần truồng cùng đám bạn
    Mọi đàng ô trọc , bệnh lao đao
    Bình ta đầy rượu tràn lên miệng
    Cực mạnh, quân vương hãy lấy vào!
  5. Kẻ uống thường hay thói tự cao,
    Nhãn quang chẳng sáng suốt đâu nào,
    “Thế gian của tớ”, lòng thầm nghĩ,
    Chẳng có vua nào sánh kịp đâu!
  6. Rượu nồng là thứ đại kiêu căng
    Ác quỷ nhát gan tựa nhộng trần,
    Kết hợp đánh nhau và phỉ báng
    Ấy nhà cho trộm, điếm dung thân.
  7. Dù gia đình có thật giàu sang
    Hưởng thọ kho vô số bảo tàng
    Giữ của trời cho phong phú nhất
    Rượu này cũng sẽ phá tan hoang
  8. Bạc vàng, đồ đạc ở trong nhà
    Ðồng ruộng, trâu bò, thóc vựa kho
    Ta sợ tiêu vong vì rượu mạnh
    Là mầm suy sụp của toàn gia
  9. Túy ông đầy nặng tính kiêu căng
    Phỉ báng cả hai bậc lão thân,
    Thách đố bà con cùng máu huyết
    Dám làm ô uế mối hôn nhân
  10. Nữ nhân uống rượu cũng kiêu căng
    Phỉ báng chồng mình lẫn phụ thân
    Bất chấp thanh danh nhà quý tộc
    Biến thành nô lệ tính điên khùng
  11. Bợm rượu, gan liều dám sát nhân
    Sa môn chân chính Bà-la-môn,
    Rồi cùng mọi cõi đời đau khổ
    Hối tiếc hành vi quá bạo tàn
  12. Rượu vào, phạm ác nghiệp ba phần:
    Lời nói, việc làm với ý tâm
    Địa ngục chìm sâu đầy khổ não
    Vì hành động ác tạo sai lầm
  13. Có kẻ, người năn nỉ uổng công
    Dù đem dâng mấy đống vàng, song
    Khi say, chúng dụ theo đường chúng
    Lời dối tuôn ra cũng sẵn lòng
  14. Vì người say giữ việc thông tin
    Gặp cảnh gian nguy đến đột nhiên
    Hãy ngắm! Kẻ này thề thốt nặng:
    “Việc này tâm trí chợt quên liền!”
  15. Ngay người thanh lịch nhất, khi say
    Cũng hóa ra phường tục tử ngay
    Ðệ nhất trí nhân mà túy lúy
    Cũng huyên thuyên nói xuẩn ngu đầy!
  16. Uống nhiều, nhịn đói, ngã chơi vơi
    Ðất cứng trần là chỗ nghỉ ngơi
    Lúc nhúc trẽn trơ như lũ lợn
    Chịu bao nhục nhã nhất trên đời
  17. Như bò, bị đánh ngã trên trên sàn
    La liệt nằm từng đống hỗn mang
    Ngọn lửa chứa trong men rượu nặng
    Sức người không thể sánh ngang bằng
  18. Mọi người kinh hoảng vội lùi ra.
    Tránh độc dược kia tựa độc xà
    Dũng sĩ to gan nào giải khát
    Cho mình bằng rượu giết người ta?
  19. Ta chắc sau khi uống rượu nồng
    And-ha tộc, với Vrish-ni cùng
    Lang thang bờ biển rồi nhào xuống
    Vì chiếc chùy kia của họ hàng
  20. Tiên say bị đọa khỏi cung trời
    Thần lực mất liền, Ðại đế ơi!
    Ai muốn nếm mùi ghê tởm ấy,
    Mua đi bình rượu của nhà tôi!
  21. Chẳng phải sữa chua, mật ngọt đây
    Song ngài luôn nhớ mãi từ nay
    Cái gì chứa đựng trong bầu ấy
    Ðại đế xin mua lấy rượu này!

Khi nghe xong bài thuyết giảng trên, vua nhận thấy thống khổ do rượu nồng gây ra, nên lòng hoan hỷ, tán thán Thiên đế qua hai vần kệ sau:

  1. Chẳng song thân dạy khéo như ngài
    Ngài thật nhân tử, thiện hảo thay,
    Chân lý ngài tìm ra tối thượng
    Trẫm vâng lời dạy bảo hôm nay
  2. Năm đệ nhất thôn của trẫm ban
    Bảy trăm bò, thị nữ trăm nàng
    Mười xe tuấn mã thuần cao quý.
    Vì lợi ích ngài đã dạy răn

Ðế Thích nghe vậy liền xuất đầu lộ diện, vừa trụ trên không vừa ngâm hai vần kệ:

  1. Một trăm thị nữ vẫn nhà ngài
    Làng mạc, đàn bò, cũng mặc ai
    Chẳng ngựa xe, đòi thuần chủng quý
    Sak-ka Thiên chủ chính danh này
  2. Hưởng đủ bơ tươi, thịt ướp, cơm
    Vui lòng ăn bánh mật men thơm
    Thích nhiều chân lý ta vừa dạy
    Trong sạch cõi Thiên đến đúng đường.

Ðế Thích Thiên chủ thuyết giáo cho ngài xong lại trở về Thiên giới. Nhà vua liền chừa rượu mạnh và ra lệnh đập vỡ các bình rượu kia. Sau đó ngài kiên tâm giữ Ngũ giới và bố thí, về sau được sinh vào cõi Thiên.

Nhưng việc uống rượu mạnh dần dần phát triển khắp cõi Diêm-phù-đề.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda là nhà vua kia, còn Ðế Thích Thiên chủ chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện vương tử chiến thắng (Tiền thân Jayaddisa)

Kìa, đã nhịn ăn bảy buổi sáng…,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình.

Phần mở đầu cũng giống như chuyện kể trong số 540 Tiền thân Sàma. Nhưng vào dịp này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Các hiền nhân ngày xưa từ bỏ chiếc lọng trắng có các vòng kim hoa để phụng dưỡng song thân.

Nói xong, Ngài liền kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa có một vị vua ở kinh thành phía Bắc Pãncàla, trong quốc độ Kampila, mệnh danh là Pãncàla. Hoàng hậu của ngài có thai, sinh được một hoàng nam. Trong suốt tiền kiếp xưa, bà có một tình địch trong hậu cung đang cơn nóng giận đã thề:

– Một ngày kia ta sẽ ăn thịt con bà.

Và để lời nguyền kia có công hiệu, nàng biến thành một con quỷ cái. Sau đó, ác quỷ tìm cơ hội chụp lấy hài nhi ngay trước mặt hoàng hậu, nhai ngấu nghiến như miếng thịt tươi rồi biến đi. Lần thứ hai cũng làm y hệt như thế, nhưng đến lần thứ ba, khi hoàng hậu đã vào phòng sinh, đám vệ binh liền canh gác quanh hoàng cung rất chặt chẽ.

Vào ngày bà sinh con, quỷ cái lại xuất hiện và chụp lấy hài nhi. Hoàng hậu thét lên:

– Quỷ cái!

Lập tức binh lính cầm khí giới chạy đuổi theo con quỷ cái khi nghe báo động. Vì không kịp ăn thịt hài nhi, quỷ cái chạy trốn, ẩn mình dưới cống. Hài nhi nhận quỷ cái ấy làm mẹ, ngậm vú đòi bú, và quỷ cái kia bỗng sinh lòng thương hài nhi như mẹ thương con, liền đi đến nghĩa địa dấu hài nhi trong hang đá và chăm sóc kỹ lưỡng.

Hài nhi lớn dần, quỷ cái đem thịt người về cho nó ăn, và cả hai đều sống bằng thức ăn này. Ðứa trẻ không biết mình là người, song dù tưởng mình là con của quỷ, cậu bé cũng không thể biến hóa khỏi hình người hay dấu mình được. Ðể thực hiện việc này, con quỷ đưa cho cậu bé cất một loại rễ cây – Nhờ công lực của thứ rễ này, cậu biến hình được và tiếp tục sống bằng thịt người. Lúc bấy giờ quỷ cái có việc đi xa để chầu đại lực quỷ vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) rồi chết luôn tại đó. Còn phần hoàng hậu, lần thứ tư sinh được một hoàng nam bình yên vì quỷ cái đã chết, và do sự kiện hoàng nam sinh ra chiến thắng kẻ thù là quỷ cái kia, nên được đặt tên Jayaddisa (Hoàng tử Chiến Thắng)

Khi hoàng tử khôn lớn, học hành tinh thông mọi mặt, chàng lên nắm quyền theo nghi lễ giương chiếc lọng trắng và trị vì quốc độ. Vào thời ấy, hoàng hậu của vua sinh hạ Bồ-tát được đặt tên là Alinasattu. Khi hoàng tử lớn khôn tinh thông mọi môn học thuật, liền được phong làm phó vương. Còn cậu bé làm con của quỷ cái vì bất cẩn làm hư hỏng rễ cây kia nên không thể dấu mình được nữa, phải sống trong nghĩa địa ăn thịt người nhưng vẫn xuất lộ nguyên hình.

Dân chúng thấy vậy sợ hãi, đến kêu than với nhà vua:

– Tâu Ðại vương, một con quỷ có hình dạng rõ ràng đang ăn thịt người trên nghĩa địa. Dần dần nó sẽ tìm đường vào kinh thành ăn thịt dân. Xin Ðại vương ra lệnh bắt nó đi.

Nhà vua chấp thuận ngay và ra lệnh bắt quỷ nọ. Một đạo binh cầm khí giới đứng quanh thành. Con quỷ ấy trần truồng nom thật khủng khiếp, nhưng lại sợ chết nên thét to và nhảy vào giữa ba quân. Quân sĩ la lên:

– Quỷ đây rồi!

Và họ cũng lo sợ cho mạng sống của họ, nên tan rã thành hai nhóm và bỏ chạy. Con quỷ thoát được và chạy ẩn mình trong rừng, từ đó không dám lai vãng chỗ có người ở.

Nó sống dưới gốc cây đa gần con đường lớn xuyên qua rừng, khi dân chúng qua lại đường đó, nó bắt lấy từng người một đem vào rừng giết ăn thịt. Lúc bấy giờ có một Bà-la-môn dẫn đầu đám, bộ hành, đưa một ngàn đồng tiền cho đám kiểm lâm rồi đi ngang qua đường ấy với năm trăm cỗ xe. Con quỷ có hình người liền rống lên nhảy vào đám người ấy. Họ hốt hoảng chạy trốn ngã lăn lóc dưới đất. Quỷ chụp lấy gã Bà-la-môn nhưng vì bị mảnh gỗ gây thương tích trong lúc đang chạy trốn, lại bị đám kiểm lâm đuổi theo rất gắt, nên nó thả gã Bà-la-môn và đi đến nằm dưới gốc cây thường trú ẩn.

Ðến ngày thứ bảy, vua Jayaddisa truyền lệnh đi săn và khởi hành từ kinh thành. Ngay lúc nhà vua lên đường, một người dân vùng Takkasilà, là một Bà-la-môn tên gọi Nanda, đang phụng dưỡng cha mẹ, đến yết kiến đức vua, mang theo bốn bài kệ, mỗi bài trị giá bốn trăm đồng tiền.

Nhà vua dừng lại để nghe kệ, và ra lệnh làm chỗ nghỉ ngơi cho ngài. Trong lúc đi săn người bảo:

– Người nào để con hươu chạy thoát từ phía mình thì phải trả tiền cho vị Bà-la-môn về các bài kệ ấy.

Sau đó một con hươu sao xuất hiện, chạy thẳng về phía nhà vua để thoát thân. Các cận thần cười rộ lên. Nhà vua chụp lấy kiếm, đuổi theo con hươu chừng ba dặm bắt được nó, liền lấy kiếm xẻ đôi và gánh lên đòn.

Lúc trở về, ngài đi đến chỗ quỷ nhân đang ngồi, nghỉ ngơi một lát trên bãi cỏ kusa rồi định tiếp tục đi, lúc đó quỷ nhân xuất hiện thốt lên:

– Dừng lại, ngươi định đi đâu, ngươi là mồi ngon của ta!

Rồi chụp lấy tay ngài, quỷ ngâm vần kệ:

  1. Kìa! Bảy ngày qua chịu đói lòng
    Mồi ngon bỗng xuất hiện sau cùng
    Phải chăng danh tiếng ngươi lừng lẫy?
    Ta muốn biết tên họ, giống dòng

Nhà vua kinh hoảng khi thấy quỷ nhân, nên đứng sửng như trời trồng, không thể chạy trốn được, song rồi tỉnh trí dần, ngài đáp vần kệ thứ hai:

  1. Nếu ngươi biết Chiến Thắng là vua
    Của xứ Pãn-ca, quốc độ ta!
    Săn bắn trong rừng ta lạc bước,
    Xin dùng hươu nọ thả ta ra.

Con quỷ nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Muốn cứu mạng, ngài đã hiến dâng
    Mồi kia ngon thật đấy Quân vương
    Ta xơi ngài trước và không bỏ
    Thú nếm thịt hươu: chớ nói quàng!

Khi nhà vua nghe vậy liền nhớ đến Bà-la-môn Nanda, và ngâm vần kệ thứ tư

  1. Vì ta chẳng thuộc mạng an toàn
    Ðược thả như ta khẩn thiết van
    Thì hãy cho ta tròn hứa cũ
    Ta đà giao ước Bà-la-môn
    Sáng mai cứu được lời danh dự
    Rồi sẽ trở về với quỷ nhân

Quỷ nhân nghe vậy , lại ngâm vần kệ thứ năm

  1. Ðến gần chỗ chết chẳng an lòng
    Lo lắng việc gì hỡi Ðại vương
    Nói thật cho ta rồi có thể
    Ta bằng lòng thả một ngày ròng

Nhà vua ngâm vần kệ thứ sáu để giải thích sự việc ấy

  1. Ta hứa lời cùng một đạo nhân
    Nợ kia chưa trả, hứa cho xong
    Mong tròn nguyện ước, thanh danh cứ
    Ta sẽ gặp ngài buổi rạng đông

Nghe vậy, quỷ nhân đáp vần kệ thứ bảy:

  1. Ngài đã hứa cùng một đạo nhân
    Nợ kia chưa trả, hứa chưa xong
    Mong tròn nguyện ước thanh danh cứu
    Rồi trở về đây buổi rạng đông

Nói xong con quỷ để cho vua đi, Vua được tha về liền bảo:

– Xin đừng bận tâm vì ta, sáng sớm mai ta sẽ trở lại.

Rồi ghi nhận một số dấu đường xong, ngài trở lại với đám binh sĩ và chúng hộ tống ngài về thành. Sau đó ngài triệu vị Bà-la-môn vào, ngài ban tặng bốn ngàn đồng tiền. Rồi ngài lại truyền đưa vị Bà-la-môn lên ngồi một cỗ xe, ra lệnh cho đám tùy tùng rước vị này thẳng đến Takkasilà. Ngày hôm sau, nôn nóng đến gặp quỷ nhân, ngài gọi hoàng thái tử đến dặn dò.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm hai vần kệ giải thích việc này:

  1. Thoát ác quỷ kia, lại trở về
    Nhà yêu, mộng nước đẹp tràn trề
    Với La-môn bạn, không sai hứa
    Song dặn A-lin quý tử kia
  2. Vương nhi nay nhận chức Quân vương
    Cai trị bạn thù thật chính chân
    Ðừng để bất công làm hại nước
    Cha đành nộp mạng chốn hung thần

Thái tử nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Hoàng nhi mong biết rõ nguyên nhân
    Khiến trẻ mất ân lộc phụ hoàng
    Cha phải đưa con lên kế vị
    Thiếu cha, con chẳng thiết ngai vàng

Nhà vua nghe vậy, ngâm vần kệ tiếp theo:

  1. Này con, cha chẳng thể tìm ra
    Một ác ngôn hay một nghiệp tà
    Song nợ thanh danh, giờ trả trọn
    Còn lời nguyền giữ với yêu ma.

Thái tử nghe thế liền ngâm vần kệ:

  1. Cha ở lại, đây con sẽ đi
    Trở về an ổn, có gì mong
    Nếu cha đi nữa, con theo gót
    Phụ tử cùng nhau chẳng sống chi!

Nghe lời này, nhà vua đáp kệ:

  1. Vương tử , con theo đúng đạo trời
    Song cha mất hết thú yêu đời
    Nếu yêu tinh nọ dùng xiên gỗ
    Nướng thịt con ăn trọn cả đời

Nghe vậy thái tử lại ngâm vần kệ nữa:

  1. Nếu cha thoát được vuốt yêu tinh
    Vì phụ vương, con nguyện bỏ mình
    Hơn nữa con tràn trề hỷ lạc
    Ðược đem đời hiến sinh thành

Nghe vậy vua nhận thấy đức hiếu thảo của con, liền nhận lời cầu mong của con và bảo:

– Tốt lành thay, vương nhi, hãy ra đi.

Thế là thái tử giả từ song thân và rời kinh thành.

*

Bậc Ðạo Sư làm sáng tỏ việc này qua nửa vần kệ:

  1. Thái tử anh hùng, xin vĩnh biệt
    Cúi đầu ngài đảnh lễ song thân.

Lúc ấy, song thân ngài, em gái ngài, vương phi cùng triều thần tiễn ngài đi ra khỏi kinh thành; ngài hỏi vua cha lối đi và sau khi xếp mọi việc cẩn thận cùng dặn dò khuyên nhủ các người thân, ngài lên đường tiến về hang quỷ, oai hùng như con sư tử có bờm. Mẹ ngài thấy ngài ra đi, không thể kềm chế được, liền ngất lịm. Vua cha giơ hai tay khóc lớn.

*

Bậc Ðạo Sư làm sáng tỏ việc này qua nửa vần kệ:

  1. Phụ vương khóc lớn, giơ tay cản,
    Hiền mẫu buồn thương, ngã lịm dần

Như vậy, muốn nêu rõ lời nguyện cầu của vua cha và lời Thề Chân thực của mẹ ngài, em ngài, cùng vương phi, bậc Ðạo Sư lại ngâm thêm bốn vần kệ:

  1. Khi hình thái tử khuất mờ dần
    Trước mắt thảm sầu của phụ thân
    Cầu nguyện chư thần , tay chắp khấn
    Va-rù-na với So-ma vương
    Phạm thiên, nhật nguyệt, chư thần nữa,
    Bảo vệ hoàng nhi được vạn an
    Nhờ các thần linh này, thái tử
    Mong con thoát ác quỷ kinh hoàng

Mẫu hậu:

  1. Như mẹ Ra-ma đẹp dáng người
    Cứu con nàng đã bặt tăm hơi
    Khi vào rừng rậm Dam-da ấy
    Con trẻ ta mong giải thoát thôi
    Nhờ khấn lời chân thành, ước nguyện
    Chư thần cho trở lại an vui

Vương muội:

  1. Hoàng huynh chẳng có lỗi lầm gì
    Dù lộ rõ ràng hoặc giấu che
    Chứng thực lời này, con nguyện ước
    Chư thần mang thái tử quay về

Vương phi:

20 Với thiếp, chàng không phạm lỗi lầm
Lòng đầy yêu dấu, hỡi lang quân
Chứng thực lời này xin ước nguyện
Thần thánh cho chàng trọn tấm thân

*

Về phần thái tử, ra đi theo lời hướng dẫn của vua cha , lên đường đến nơi quỷ nhân ở. Song quỷ nhân nghĩ thầm: “Các vua Sát-dế-ly nhiều mưu mẹo lắm, ai biết được việc gì sẽ xảy ra?” Rồi nó trèo lên cây đợi nhà vua đến.

Khi thấy thái tử, nó nghĩ “Người con đã ngăn cản vua cha và tự dẫn thân đến. Không có gì phải sợ người ấy cả.”

Và quỷ trèo xuống ngồi quay lưng về phía thái tử. Khi đến nơi thái tử đứng trước quỷ nhân, vừa lúc quỷ nhân này ngâm vần kệ:

  1. Chàng từ đâu đến, hỡi hoàng nam
    Có biết rừng này của quỷ chăng?
    Ai đến thật xem thường tính mạng
    Nơi loài quỷ dữ chiếm làm hang

Nghe vậy, thái tử bèn đáp kệ:

  1. Ta biết rõ ngươi, quỷ bạo tàn
    Chốn này ngươi ở giữa rừng hoang
    Ta là đích tử Ja-ya đế,
    Ăn thịt rồi , thả phụ vương

Quỷ nhân lại ngâm vần kệ:

  1. Ta biết con trai chúa Ja-ya
    Dáng chàng để lộ việc kia mà
    Thật là gian khổ cho chàng quá
    Phải chết vì thay mạng của cha

Thái tử liền đáp kệ nữa:

  1. Nghĩ rằng chẳng phải việc anh hùng
    Ðược chết vì ân phước phụ thân
    Và mẹ quý yêu khi bỏ mạng
    Ðời đời hưởng cực lạc thiên cung

Nghe vậy, quỷ liền nói

– Này thái tử, không có kẻ nào không sợ chết. Thế tại sao chàng lại không sợ?

Ngài liền nói lý do cho quỷ nghe qua hai vần kệ:

  1. Nhớ ta không phạm lỗi lầm gì
    Dù lộ ra ngoài hoặc giấu che
    Sinh tử ta đều cân nhắc kỹ
    Dù đây, hay các cõi sau về
  2. Ăn thịt ta đây, hỡi quỷ nhân
    Phải làm công việc ấy cho xong
    Ta buông mình xuống trên cao chết
    Người cứ ăn ta, thỏa nguyện lòng

Qủy kia nghe vậy kinh hoảng liền bảo:

– Ta không thể ăn thịt người này được.

Rồi nghĩ mưu kế cho ngài chạy trốn, quỷ liền bảo:

  1. Nếu chàng tự nguyện muốn liều thân
    Thái tử, đem đời cứu phụ vương
    Ta bảo chàng rời ngay bước vội
    Tìm gom củi đốt lửa than hừng

*

Bậc Ðạo Sư ngâm một vần kệ nữa làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Hoàng nam anh dũng nhặt cây rừng
    Và chất cao lên một cái giàn
    Và thét vừa châm: “Bày tiệc sẵn!
    Hãy xem, ta nhóm lửa cho hừng!”

*

Khi thấy thái tử trở về và nhóm lửa, quỷ nhân nói:

– Người này thật gan dạ không sợ chết. Xưa nay ta chưa từng thấy ai can đảm như vậy.

Nó ngồi sửng sờ, thỉnh thoảng lại nhìn thái tử. Ngài thấy thái độ quỷ nhân như thế, liền ngâm vần kệ:

  1. Ðừng đứng nhìn ta , dáng sửng sờ
    Ta cầu ngươi giết bắt ăn ta
    Khi đang còn sống ta trù tính
    Muốn để ngươi ăn thịt đúng giờ

Quỷ nhân nghe vậy, liền ngâm kệ:

  1. Một hiền nhân, chánh trực, công bằng
    Chắc chẳng bao giờ phải bị ăn
    Hoặc kẻ nào ăn người, ắt hẳn
    Ðầu kia tan nát bảy phần chăng

Thái tử nghe vậy hỏi:

– Nếu ngươi không muốn ăn ta, tại sao ngươi bảo ta bẻ cành về nhóm lửa?

Quỷ nhân nói:

– Ta muốn thử chàng đó thôi, vì ta chắc chàng sẽ bỏ chạy trốn.

Thái tử đáp:

– Bây giờ làm sao ngươi thử ta được, bởi vì lúc còn là súc sinh, ta đã để cho Thiên chủ thử đức hạnh của ta rồi.

Cùng với lời này ngài ngâm vần kệ:

  1. Ðế Thiên giả dạng một La-môn
    Thỏ lấy thịt mình để cúng dâng
    Từ đó mặt trăng in dáng thỏ
    Ta chào nguyệt diện: “Dạ xoa thần!”

Quỷ nhân nghe vậy thả cho thái tử đi về và bảo:

  1. Như trăng thoát vuốt La thần
    Chiếu giữa đêm rằm tỏa ánh quang
    Ngài, chúa Kam-pi anh dũng đã
    Thoát tay quỷ dữ, sáng huy hoàng
    Bạn đang sầu, bỗng tung hô dậy
    Trước mặt ngài xuất hiện vẻ vang
    Phụ mẫu thân yêu , ngài cống hiến
    Bao niềm hạnh phúc ngập hân hoan

Rồi nó nói thêm:

– Hỡi đấng anh hùng, hãy đi đi!

Và nó để Bậc Đại Sĩ lên đường. Sau khi đã hàng phục quỷ nhân xong, ngài còn dạy nó ngũ giới và muốn thử xem nó phải quỷ không, ngài nghĩ thầm: “Mắt bọn quỷ thường đỏ và không chớp. Chúng không đổ bóng xuống đường và không hề biết sợ gì cả. Còn đây không phải quỷ. Ðây là người. Nghe nói cha ta có ba vương huynh bị quỷ dữ tha đi, hai người ắt hẳn đã bị ăn thịt rồi, còn một người được quỷ cái thương yêu với tình mẹ con. Chắc là đây thôi. Ta phải đem vị này về tâu với vua cha để đưa lên ngôi báu mới được.

Nghĩ vậy ngài kêu lên:

– Này Tôn ông, Tôn ông chẳng phải là quỷ đâu, mà là bào huynh của cha ta. Xin mời Tôn ông đi về cùng ta giương chiếc lọng trắng biểu hiện vương quyền trong giang sơn của tổ tiên mình.

Khi quỷ nhân đáp:

– Ta không phải là người.

Thái tử nói:

– Tôn ông chẳng tin ta ư? Vậy kẻ nào cho Tôn ông tin được?

Quỷ đáp:

– Có chứ, có một nơi nọ có một ẩn sĩ đã thành tự thiên nhãn thông.

Thế là ngài dẫn quỷ đến nơi ấy. Vừa trông thấy hai người xuất hiện, vị ẩn sĩ hỏi ngay:

– Hai vị có cùng dòng họ tổ tiên, cần gì mà đến đây?

Nói xong vị ẩn sĩ lại nói rõ về liên hệ dòng họ giữa hai người. Con quỷ ăn thịt người liền tin ngay và bảo:

– Này hiền hữu cứ về triều đi, phần ta, ta sinh ra với hai bản chất trong một hình hài. Ta không muốn làm vua. Ta sẽ đi tu làm ẩn sĩ.

Thế là quỷ thọ giới tu hành với vị ẩn sĩ ấy.

Sau đó thái tử đảnh lễ hai vị và trở về triều.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ làm sáng tỏ thêm vấn đề này:

  1. A-lin thái tử anh hùng
    Nghiêng mình kính lễ quỷ nhân hung tàn
    Thêm lần thoát nạn lên đàng
    Về Kam-pi xứ, an toàn tấm thân.

Khi thái tử về thành, bậc Ðạo Sư giải thích cho dân trong thành cùng toàn thể hội chúng nghe những chuyện thái tử đã làm và ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Từ thành thị đến thôn trang
    Nhân dân lũ lượt lên đàng chen chân
    Kìa! Ðồng nô nức hô vang
    Uy danh thái tử can tràng hùng anh
    Tượng, xa ngất nghểu đăng trình
    Ðến ngài đảnh lễ, cung nghênh khải hoàn

Vua nghe thái tử đã trở về liền đi ra ngoài đón ngài. Thái tử được đám đông hộ tống bước đến đảnh lễ vua cha. Vua cha hỏi:

– Này vương nhi, làm thế nào con thoát được ác quỷ kia?

Ngài đáp:

– Tâu phụ vương, vị đó chẳng phải quỷ đâu. Chính là bào huynh của phụ vương, là bá phụ của conđấy.

Ngài liền kể mọi chuyện cho vua cha nghe và nói:

– Vương phụ nên đi thăm bá phụ ngay.

Vua lập tức ban lệnh khua trống lên rồi cùng đoàn tùy tùng lên đường đi thăm hai vị ẩn sĩ, vị ẩn sĩ trưởng kể lại đầy đủ chi tiết câu chuyện: hài nhi bị quỷ bắt đi ra sao. Thay vì ăn thịt, quỷ cái đem hài nhi về nuôi thành quỷ nhân. Vua và quỷ liên hệ máu huyết như thế nào. Vua liền bảo:

– Này hoàng huynh, hãy về làm vua trị nước.

– Xin cảm tạ Ðại vương. Không được đâu.

Vua lại nói:

– Thế thì hoàng huynh đến ở trong vườn thượng uyển, ta sẽ cung cấp đủ bốn thứ vật dụng.

Nhà ẩn sĩ lại từ chối.

Sau đó vua cho lập ngôi làng trên một ngọn núi, không xa nơi ẩn cư kia, xây hồ, trồng trọt, đất đai và đem một ngàn gia đình cùng nhiều của cải đến lập một ngôi làng lớn cùng ban bố thí cúng dường cho hai vị ẩn sĩ. Ngôi làng lớn dần thành thị trấn Cullakammàsadamma. Vùng có quỷ nhân được bậc Ðại sĩ Sutasoma điều phục mệnh danh là thị trấn Mahàkammàsadamma.

*

Bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại xong liền tuyên thuyết các Thánh đế, và nhận diện Tiền thân: – Vào lúc kết thúc các Thánh đế, vị Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình đã đắc quả Dự Lưu-

– Thời ấy , phụ vương và mẫu hậu là hai thân trong hoàng tộc ngày nay, ẩn sĩ là Sàriputta (Xá-lợi-phất), quỷ nhân là Angulimàla; vương muội là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), hoàng hậu là mẹ của La-hầu-la và thái tử Alinasattu chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện tượng vương ở hồ Chaddanta (Tiền thân Chaddanta)

Ái hậu mắt nhung, đẹp tuyệt trần…,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ-viên) về một Sa-di-ni.

Một thiện gia tín nữ ở Xá vệ nhận thấy nỗi khổ đau của cuộc đời thế tục, đã xuất gia tu hành. Một ngày kia, nàng cùng các Tỷ-kheo-ni khác đi đến nghe Pháp.

Trong lúc đức Phật ngồi thuyết giảng trên bảo tọa uy nghi, nàng chiêm ngưỡng kim thân của Ngài đầy đủ vẻ tối thắng mỹ diệu phát xuất từ công đức vô lượng của Ngài, nàng nghĩ thầm: “Ta không biết trong một đời trước nào ta từng phụng sự là thê thiếp của bậc vĩ nhân này chăng?”

Ngay lúc ấy, nàng chợt nhớ lại các đời trước của nàng. “Vào thời thượng tượng vương Chaddanta, ta đã từng làm vợ vĩ nhân này “. Tâm nàng tràn ngập hân hoan hạnh phúc khi nhớ lại việc ấy. Trong niềm xúc động sung sướng kia, nàng bật cười lớn và nghĩ thầm: “Ít phụ nữ có thiện ý đối với chồng mình, đa số đều có ác ý cả. Ta không biết xưa kia ta có thiện ý hay ác ý đối với vị này.”

Rồi hồi tưởng lại quá khứ, nàng nhận ra là vì cảm thấy bị đối xử thờ ơ lãnh đạm nên nàng đã sinh lòng oán hận Ðại tượng vương Chaddanta có chiều dài một trăm hai muơi cubit ( gần năm mươi mét), và nàng đã nhờ tay thiện xạ Sonuttara dùng tên tẩm thuốc độc bắn trọng thương để giết ngài. Lúc ấy niềm đau khổ khởi lên, lòng nàng bồn chồn nóng rang, rồi không thể kềm chế xúc động kia, nàng bật tiếng khóc nức nở.

Thấy thế, bậc Ðạo Sư nở một nụ cười và khi được hội chúng tỷ-kheo hỏi:

– Bạch Thế Tôn, duyên cớ gì khiến Thế Tôn mỉm cười?

Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, Sa-di-ni này vừa khóc, khi nhớ lại một tội ác đã từng phạm để hại Ta trong một đời trước.

Nói vậy xong Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, có tám ngàn vương tượng nhờ tu luyện thần thông, du hành qua không gian đến an trú gần bên hồ Chaddanta ở vùng Tuyết Sơn. Vào thời ấy Bồ tát tái sinh làm con của Voi chúa. Thân ngài thuần trắng, bàn chân đỏ, da mặt đỏ hồng. Dần dần lớn khôn, ngài cao đến tám mươi tám cubit, và dài một trăm hai mươi cubit. Ngài có cái vòi như cuộn dây thừng bằng bạc dài năm mươi tám cubit, bộ ngà có chu vi mười lăm cubit, dài ba mươi cubit, tỏa ánh sáng lục sắc. Ngài là chúa đàn voi lớn gồm tám ngàn con, thường tôn kính cúng dường các vị Ðộc Giác Phật và Mahàsubhaddà (Tiểu Hiền Phi và Ðại Hiền Phu) Tượng cương với quân thần tám ngàn voi ngự trong Kim động.

Lúc bấy giờ hồ Chaddanta dài năm mươi dặm và rộng năm mươi dặm. Ở giữa hồ khoảng mười hai dặm, chẳng hề có cây Sevàla hoặc Panaka nào mọc, nên nước trong như khối ngọc thần. Bao quanh vùng nước này gần đó là một dải toàn hoa súng trắng tinh khiết rộng chừng một dặm. Tiếp theo đó là loại sen trắng, sen hồng, đến súng trắng, súng hồng và loại súng trắng ăn được, đám súng trắng chen lẫn các loại súng khác, rộng chừng một dặm cứ mỗi lớp bao quanh các lớp trước.

Kế tiếp bảy lớp cây này là một đám súng trắng xen lẫn các loại súng khác cũng rộng chừng một dặm, bao quanh tất cả các lớp trước.

Kế đó trong vùng nước sau vừa cho voi đứng, là một đám lúa đỏ. Tiếp theo trong vùng nước bao quanh là những khu rừng cây nhỏ đầy hoa thơm dịu dàng đủ mầu vàng, xanh, trắng, đỏ. Như vậy mười rừng hoa này rộng chừng một dặm mỗi thứ. Kế đó là rừng đậu đủ loại. Kế nữa là rừng chen lẫn bìm bìm, dưa, bí bầu và nhiều cây leo khác. Tiếp theo là một rừng mía cao bằng cây cau. Rồi đến một rừng chuối có quả lớn bằng chiếc ngà voi. Kế đó là một ruộng lúa. Rồi đến một vườn mít, trái bằng bình nước lớn. Tiếp theo là một vườn me đầy quả ngon ngọt. Sau đó là vườn táo voi. Rồi đến một rừng cây lớn đủ loại. Kế tiếp là một rừng tre. Vào thời ấy, phong cảnh vùng này tráng lệ như thế. Vẻ kỳ vĩ đương thời miêu tả trong bộ Luận Samyatta (Luận giải Bộ Kinh Tương Ưng)

Song vùng bao quanh rừng tre lại là bảy ngọn núi. Từ phía ngoài cùng là ngọn Tiểu Hắc Sơn. Kế đó là Ðại Hắc Sơn, Thủy Sơn, Nguyệt Sơn, Nhật Sơn, Ngọc sơn và núi thứ bảy theo thứ tự là Kim Sơn. Núi này cao bảy dặm, vươn cao lên quan hồ Chaddanta, như đường viền cái chén; vách núi bên trong màu vàng chói. Do ánh sáng tỏa ra từ đó, hồ Chaddanta rực rỡ như mặt trời mới mọc.

Trong số các núi phía ngoài, có một ngọn cao sáu dặm, một ngọn cao năm dặm, ngọn cao bốn dặm, ngọn cao ba dặm, ngọn cao hai dặm và ngọn chỉ cao một dặm. Lúc bấy giờ về phía góc hồ đông, được bao bọc bằng Thất Sơn như vậy, ở một nơi gió thường thổi trên mặt nước, có một cây đa lớn mọc lên.

Thân cây có chu vi năm dặm, cao bảy dặm. Bốn cành vươn ra bốn phía dài sáu dặm. Như vậy từ rễ đến ngọn cao mười ba dặm, từ đầu ngọn cành cây phía này sang đầu ngọn cành cây phía kia rộng mười hai dặm. Cây này sinh ra tám ngàn chồi mọc thẳng tuyệt đẹp, chẳng khác nào Ngọc Sơn lồ lộ kia.

Song về phía Tây hồ Chaddanta trong Kim Sơn, có Kim Ðộng chừng mười hai dặm. Tượng vương Chaddanta cùng đoàn tùy tùng tám ngàn voi, về mùa mưa thường sống ở Kim Ðộng này, về mùa nóng lại đứng dưới gốc đa lớn kia, giữa các nhánh cây để đón gió nhẹ hiu hiu thổi từ mặt hồ nước.

Một ngày kia, đám quần thần tâu với ngài:

Ðại Thọ Sàla vương đang độ nở hoa.

Thế là đám tùy tùng hộ tống, ngài có ý định đi du ngoạn trong vườn Sàla, và khi vừa đến nơi ấy, trán ngài đụng vào một cây Sàla đang nở rộ hoa.

Lúc bấy giờ nàng Cullasubhaddà đứng theo chiều gió, nên một đám cành lá khô cùng kiến đỏ rớt xuống thân nàng. Còn nàng Mahàsubhaddà đứng chỗ khuất gió nên các hoa tươi cùng phấn hoa và cành lá xanh rơi trên thân nàng.

Cullasubhaddà nghĩ thầm:”Ngài để rơi trên mình nàng ái phi của ngài đầy hoa tươi, phấn hoa cùng cành lá xanh, còn trên mình ta, ngài lại làm rớt cả một mớ cành lá khô cùng bầy kiến đỏ lẫn lộn! Ðược lắm, rồi đây ta sẽ biết cách làm gì!”

Và nàng sinh lòng oán hận bậc Ðại Sĩ từ đó.

Một ngày kia, Tượng vương cùng đám tùy tùng xuống hồ Chaddanta để tắm. Lúc ấy, hai chú voi dùng vòi cầm các bó rễ cây usìra để hầu tắm ngài, chà xát cả thân ngài cao như thể núi Kelàsa. Khi ngài bước ra khỏi nước, lên đứng trước mặt bậc Ðại Sĩ.

Sau đó tám ngàn voi kia xuống hồ vui đùa thỏa thích trong nước, hái đủ loại hoa dưới hồ, trang điểm bậc Ðại Sĩ khác nào một ngôi đền bằng bạc; sau đó, chúng trang điểm cả hai hoàng hậu của chúa voi. Lúc ấy có một con voi kia bơi quanh hồ, hái một đóa sen lớn bảy chồi dâng bậc Ðại Sĩ. Ngài dùng vòi cầm hoa sen rảy phấn lên trán mình xong đưa tặng hoa cho chánh hậu Mahàsubhaddà. Thấy việc này, nàng tình địch của chánh hậu lại nghĩ: “Hoa sen bảy chồi này ngài cũng tặng cho ái hậu của ngài, chứ không phải tặng ta!.”

Nàng lại càng sinh lòng căm hờn ngài thêm nữa.

Một ngày kia, khi Bồ-tát đã ướp hoa quả ngon cùng ngó sen và củ sen với mật ong xong, ngàiđem cúng dường năm trăm vị Ðộc Giác Phật thọ thực, nàng Cullàsubhaddà cũng đem các thứ quả rừng nàng đã hái dâng cúng các vị Ðộc Giác Phật ấy, và nàng cầu nguyện như vầy:

– Từ nay, sau khi con lìa trần, ước mong rằng con được tái sinh làm công chúa Subhaddà trong hoàng tộc của vua Madda, và khi đến tuổi trưởng thành, mong rằng con được vinh dự làm hoàng hậu của vua Ba-lai-nại. Lúc ấy con sẽ đầy vẻ diễm lệ trước mắt ngài và được ngài sủng ái. và sẽ có đầy đủ quyền lực thực hiện điều gì con ước muốn. Thế là con sẽ tâu đức vua cho người thợ săn dùng tên độc bắn tử thương Voi chúa này. Và như vậy con ước mong có thể bảo chúng đem về dâng con một cặp ngà tỏa hòa quang lục sắc kia.

Từ đó nàng bỏ ăn uống, nên héo mòn dần, chẳng bao lâu nàng từ trần rồi tái sinh làm con chánh hậu vua Madda và được đặt tên là Subhaddà. Khi nàng đến tuổi dậy thì, song thân nàng liền xe duyên nàng với vua Ba-lai-nại. Nàng làm đẹp lòng vua và được sủng ái, nên được phong làm chánh hậu giữa đám mười sáu ngàn phi tần.

Khi nhớ lại các đời trước của mình, nàng nghĩ thầm: “Lời nguyện cầu của ta đã thành tựu, nay ta phải truyền đem bộ ngà voi ấy dâng ta mới được”.

Thế là nàng xoa dầu khắp người, mặc áo dơ bẩn, nằm lên giường, giả vờ bệnh. Nhà vua hỏi:

– Ái hậu Subhaddà của trẫm đâu rồi?

Khi nghe tin nàng bị bệnh, ngài vội vào hậu cung ngồi bên vương sàng, vuốt nhẹ lưng nàng và ngâm vần kệ đầu tiên:

  1. Ái hậu mắt nhung, đẹp tuyệt trần,
    Nàng xanh xao quá, dáng đau buồn,
    Như tràng hoa dưới chân giày xéo,
    Vì cớ sao nàng héo úa dần?

Nghe lời này, nàng liền đáp vần kệ thứ hai:

  1. Dường như chuyện thấy ở trong mơ,
    Thần thiếp hằng mong mỏi thiết tha,
    Mộng ước hão huyền e khó đạt,
    Cho nên lòng thiếp mãi buồn lo.

Vua nghe thế, lại ngâm vần kệ nữa:

  1. Những lạc thú nào ở thế gian,
    Con người khao khát tận tâm can,
    Ðiều gì mong trẫm đem ban tặng,
    Hãy nói trẫm nghe, ước nguyện nàng.

Nghe vậy, hoàng hậu bảo:

– Tâu Ðại vương, ước nguyện của thiếp thật khó đạt thành, thiếp chưa thể nói được ngay bây giờ ước nguyện ấy, xin cho tất cả các thiện xạ trong nước tụ tập về đây, lúc ấy thiếp sẽ nói ra giữa đám thiện xạ ấy.

Và nàng ngâm vần kệ để giải thích ý nàng muốn nói:

  1. Truyền đám thợ săn phụng mệnh ngay,
    Những người cư ngụ nước non này,
    Ðiều thần thiếp muốn nhờ tay họ,
    Khi diện kiến, xin sẽ giải bày.

Vua chấp thuận và từ hậu cung, ngài ban lệnh cho các đại thần:

– Hãy cho đánh trống ban lệnh rằng tất cả các thợ săn trong quốc độ Kàsi trải dài ba trăm dặm này, phải đến tụ tập tại đây.

Họ tuân lệnh, chẳng bao lâu các thợ săn trong quốc độ Kàsi mang tặng vật tùy theo phương tiện của họ, nhờ tâu trình vua họ xin bệ kiến. Lúc ấy họ đến chừng sáu mươi ngàn người. Vua nghe tin ấy, liền đứng trước cửa sổ mở rộng giơ tay chỉ cho hoàng hậu thấy họ đã trình diện, ngài bảo:

  1. Nhìn đám thợ săn dũng cảm đây!
    Nghề săn mồi lão luyện cao tay,
    Với tài chém giết bầy hoang thú,
    Vì trẫm, sẵn sàng bỏ mạng ngay.

Hoàng hậu nghe thế liền ngâm vần kệ bảo họ:

  1. Lạp hộ can trường tụ tập đây,
    Những lời ta nói, lắng nghe vầy:
    Dường như ta thấy trong cơn mộng
    Bạch tượng sáu ngà tuyệt mỹ thay,
    Ta ước bộ ngà, lòng khắc khoải,
    Chẳng còn gì đáng giá đời này!

Ðám thợ săn nghe nàng nói, đáp lời:

  1. Các bậc tổ tiên thuở đã qua,
    Sáu ngà voi trắng, thấy bao giờ?
    Loài gì thú ấy, xin cho biết,
    Ðã hiện trong mơ của lệnh bà.

Sau đó họ lại còn ngâm thêm vần kệ nữa:

  1. Bốn phương Nam, Bắc, với Tây, Ðông,
    Chính giữa bốn miền cũng họp chung,
    Thiên đỉnh thêm vào thiên đế nữa,
    Nơi nào trong thập hướng không trung,
    Tượng vương này ở, xin cho biết,
    Xuất hiện trong mơ của chánh cung.

Nghe nói thế hoàng hậu Subhaddà nhìn toàn thể đám thợ săn, thấy trong đó có một người chân lớn, bắp chân phồng to như một cái thúng đựng đầy lễ vật, xương sườn, đầu gối đều vạm vỡ, bộ râu rậm, hàm răng vàng khè, mặt mũi méo mó đầy sẹo, là người thật xấu xí, đồ sộ, nổi bật lên giữa đám thợ săn, tên là Sonuttara, trong một đời trước đã từng là kẻ cừu thù của bậc Ðại sĩ. Nàng liền nghĩ: “Người này có thể làm theo lời ta được”.

Và xin phép vua đem gã kia đi lên thượng lầu của cung điện bảy tầng, nàng mở cửa sổ hướng Bắc, chỉ tay thẳng về phía dãy Bắc Tuyết Sơn, rồi ngâm bốn vần kệ:

  1. Hướng Bắc bên kia dãy Thất San,
    Cuối cùng ta đến Vách non Vàng,
    Ðỉnh cao thường có loài ma quỷ,
    Hoa tự chân lên ngọn rỡ ràng.
  2. Dưới núi ma kia lại thấy ngay
    Xanh um cả khối, dáng như mây,
    Một cây đa chúa, từ nhiều gốc
    Sinh tám ngàn cành, tráng kiện thay.
  3. Trú đây, Bạch tượng mạnh vô song
    Có sáu ngà, quân đội tám ngàn,
    Ngà tựa càng xe, tài thiện chiến,
    Hộ phòng, giao đấu, tốc như phong!
  4. Thở phì, Voi đứng, mắt trừng trừng,
    Hơi gió nhẹ đưa cũng nổi sân,
    Nếu chợt thấy người gây mảy gió,
    Ðùng đùng, chúng dẫm nát tan thân!

Sonuttara nghe tả thế, hồn vía bay lên mây, vội đáp vần kệ:

  1. Lam ngọc sáng ngời hoặc bảo trân,
    Biết bao trang sức với kim ngân,
    Việc gì hoàng hậu cần ngà ấy,
    Hay lệnh bà mong giết thợ săn?

Hoàng hậu lại ngâm vần kệ:

  1. Nung nấu lòng ta rẫy giận hờn,
    Mỗi lần nhớ lại vết đau thương,
    Cho ta, lạp hộ, điều ta ước,
    Làng đẹp năm ngôi, sẽ hưởng ơn!

Nói xong nàng thêm:

– Này hiền hữu thiện xạ, ngày trước, khi ta cúng dường các vị Ðộc Giác Phật, ta dâng lời cầu nguyện rằng ta muốn có đủ thần lực giết con voi sáu ngà kia để chiếm một đôi ngà. Ðiều này ta không phải chỉ thấy trong giấc mộng mà thôi đâu, đó còn là lời nguyện ta phải thành đạt. Hiền hữu hãy ra đi, đừng lo sợ gì cả.

Nàng nói vậy để trấn an gã. Gã chấp thuận lời nàng và đáp:

– Xin tuân lệnh hoàng hậu, nhưng trước hết xin lệnh bà chỉ rõ cho thần biết voi ấy hiện ở đâu.

Và gã hỏi qua vần kệ:

  1. Voi ở đâu? Tìm kiếm chốn nào?
    Ðường Voi đi tắm, hướng ra sao?
    Nơi nào Vương tượng thường bơi lội?
    Xin chỉ con đường để bắt mau.

Lúc ấy nàng hồi tưởng lại đời trước của mình và nhớ rõ địa điểm ấy, nên chỉ đường cho gã qua hai vần kệ:

  1. Không xa nơi tắm ấy là bao,
    Thăm thẳm hồ sâu diễm lệ sao,
    Hoa rộ nở, đầy ong bướm lượn,
    Ðấy nơi Vương tượng dễ tìm cầu.
  2. Tắm mát, cài sen, chiếc miện hoa,
    Hân hoan Voi rảo bước về nhà,
    Như cành sen trắng cao vòi vọi,
    Theo gót bà hoàng yêu thiết tha!

Sonuttara nghe vậy chấp thuận ngay và thưa:

– Tâu lệnh bà, tiểu thần xin đi giết Voi này và đem về dâng cặp ngà.

Nàng hoan hỷ ban thưởng gã một ngàn đồng tiền vàng và bảo:

– Hiền khanh cứ trở về nhà đã, sau bảy ngày nữa hãy khởi hành đến đó.

Nàng cho gã lui về và triệu tập đám thợ rèn lại, truyền lệnh:

– Này các khanh, ta cần một cái rìu, một cái xẻng, một cái khoan, một cái búa, dụng cụ để chặt tre, cái liềm cắt cỏ, một gậy sắt, một cái cọc, một cái chĩa ba bằng sắt, hãy làm mọi thứ thật gấp rồi đem đến đây ngay.

Nàng lại cho triệu tập đám thợ đồ da, bảo họ:

– Này các khanh, hãy làm cho ta một cái túi da đủ đựng đồ vật nặng cỡ một đầu heo lớn, ta lại cần các dây da, các lưới da, đôi giày lớn vừa cho voi mang và một cái dù da để nhảy xuống. Hãy làm mọi thứ thật cấp bách rồi đem lại đây ngay.

Cả hai đám thợ rèn và thợ da kia làm gấp mọi vật rồi mang lại cho nàng. Sau khi có đủ mọi vật dụng cần thiết cho cuộc hành trình, cùng lửa củi đủ loại, nàng đặt mọi món trang bị cần thiết như bánh nướng, lương khô.. vào túi da. Tất cả nặng cỡ chiếc đầu heo. Còn Sonuttara, sau khi sắp đặt xong xuôi, đến ngày thứ bảy, cung kính diện kiến hoàng hậu. Nàng bảo:

– Này hiền hữu, tất cả mọi hành trang đã hoàn thành, hãy cầm túi da này đi.

Gã này là một tên hạ đẳng lực lưỡng gan dạ, mạnh bằng năm con voi, nên cầm chiếc túi kia như thể túi đựng bánh đặt lên sườn, rồi đứng lên như thể hai tay không! Nàng Cullasubhaddà trao lương thực cho đám tùy tùng của gã, và tâu trình vua rồi truyền gã lui ra. Gã đảnh lễ vua cùng hoàng hậu xong, xuống thềm cung điện đặt các vật dụng lên một cỗ xe, khởi hành khỏi kinh thành cùng một đoàn tùy tùng đông đảo rầm rộ vượt qua vô số thôn làng, tới vùng biên địa.

Lúc ấy gã bảo dân chúng lui và tiếp tục đi cùng đám dân cư ngụ trên biên giới cho đến khu rừng, qua khỏi những nơi có người ở, gã lại cho dân biên giới lui về và một mình gã tiến lên một khoảng ba mươi dặm đường, băng qua rừng cỏ kusa và nhiều cỏ khác rậm rạp, những đám dàyđặc rau quế, lau sậy, cây đậu, những khóm gai, mía, và cây đủ loại, rồi các rừng rậm toàn lau, mía dày, rậm đến độ rắn cũng không thể bò qua được, rồi các rừng cây lớn, tre nứa, những bãi nước lầy, những dải núi; gã lần lượt đi qua mười tám vùng tất cả.

Qua rừng cỏ, gã cắt bằng lưỡi liềm, qua các đám rau, gai, tre, nứa, gã mở đường bằng dụng cụ đẵn tre, gã chặt các cây lớn bằng cái rìu, còn các cây cổ thụ quá lớn, gã phải đục bằng cái khoan trước tiên.

Sau đó tiếp tục cuộc hành trình, gã làm một cái thang trong rừng tre và trèo lên ngọn cây, gã đặt một cây tre vừa chặt lên trên bụi tre kế đó, cứ thế gã bò dần qua các đọt tre đến một bãi lầy.

Gã lại trải một tấm ván khô trên bùn, bước qua rồi ném một tấm ván khác ra phía trước và cứ như thế đi băng qua bãi lầy. Sau đó gã lại đóng thuyền để vượt qua một vùng ngập nước, cuối cùng đến đứng dưới chân các ngọn núi.

Gã buộc cái móc sắt có chĩa ba vào sợi dây, ném lên cao cho nó dính chặt vào sườn núi. Leo lên sợi dây, gã khoan núi bằng đầu gậy có gắn kim cương, đóng cọc vào lỗ rồi đứng lên đó. Sau gã lại kéo cái móc sắt có chĩa ba ra đóng vào sườn núi cao hơn trước, từ nơi này gã để dây da thòng xuống, xong gã cầm dây trèo xuống, buộc dây vào cọc phía dưới. Rồi tay trái cầm dây, tay phải cầm búa, gã đánh vào sợi dây để kéo cái cọc ra và trèo lên lần nữa.

Bằng cách này gã trèo lên đỉnh núi đầu tiên, rồi bắt đầu đi xuống phía bên kia, sau khi đóng cọc vào đỉnh núi đầu tiên như trước đây, xong buộc dây vào túi da và bao quanh cái cọc, gã ngồi vào trong túi da và thả mình xuống bằng cách buông dần cuộn dây như thể nhện nhả tơ vậy. Gã để cho cái dù da bắt gió và hạ xuống nhanh như chim. Tương truyền ít nhất là thế đấy.

Như vậy bậc Ðạo sư kể chuyện gã thợ săn tuân lệnh nàng Subhaddà, xông pha từ kinh thành băng qua mười bảy địa giới khác nhau cho đến khi vào tận miền núi rừng, những cách gã băng rừng vượt qua sáu vùng nước non như thế nào để leo lên đỉnh Kim Sơn:

  1. Thợ săn nghe lệnh, vững can tràng,
    Nai nịt cung tên, tiến bước đàng,
    Băng vượt bảy tầng non bát ngát,
    Cuối cùng đến thượng đỉnh Kim San.
  2. Ðến núi cao đầy quỷ ẩn thân,
    Khối gì trước mắt, dáng như vân?
    Chính cây đa chúa, thân to lớn
    Ðỡ tám ngàn cành tán trải giăng.
  3. Trú đây Bạch tượng mạnh vô song
    Có sáu ngà, quân đội tám ngàn,
    Ngà tựa càng xe, tài thiện chiến,
    Hộ phòng, giao đấu, tốc như phong!
  4. Gần đó, hồ kia nước tận bờ,
    Xứng nơi vương tượng lội bơi qua,
    Ðôi bờ khả ái muôn hoa đẹp,
    Ong lượn quanh đầy tiếng nhỏ to.
  5. Ðánh dấu đường đi của Tượng vương
    Những khi bơi lội, chí kiên cường
    Gã đào hố, việc làm hèn hạ
    Xúi giục cho vương hậu giận hờn!

Tiếp theo đây là câu chuyện từ đầu đến cuối: chuyện kể rằng, sau bảy năm, bảy tháng, bảy ngày, khi đến tận nơi cư trú của bậc Ðại sĩ theo cách kể trên, gã thợ săn ghi dấu kỹ nơi ấy, và đào một cái hố ở đó, gã bảo:

– Ta sẽ đứng đây và đâm chết Voi chúa.

Gã sắp đặt công việc như vậy xong, vào rừng chặt cây làm cột trụ, cùng chuẩn bị một số vật dụng khác.

Khi đàn voi đến tắm ở nơi Voi chúa thường đứng, gã lại đào một hố vuông bằng một cái cuốc lớn, và đám đất gã đào lên gã rải khắp mặt nước, như thể gieo hạt, và trên đầu các tảng đá hình khối xay, gã trồng một trụ, chôn thêm các vật nặng cùng dây da và trải nhiều ván lên trên. Kế đó gãđào lỗ vừa cỡ một mũi tên rồi ném đất đá, rác rến lên nữa, còn một bên gã làm lối ra vào cho gã.

Thế là khi hố đã xong xuôi, vào lúc tảng sáng gã buộc một chùm tóc giả trên chỏm, mặc hoàng y vào, cầm cung và mũi tên độc, gã bước xuống đứng dưới hố kia.

Bậc Ðạo sư giải thích mọi việc như sau:

  1. Che hố trước tiên đậy ván dày,
    Bước vào, cung nắm ở trong tay,
    Vừa khi Bạch tượng đi qua đó,
    Kẻ ác cho tên dữ vút bay.
  2. Voi bị thương gầm rống thảm thương,
    Cả đoàn đáp lại cũng gầm vang,
    Ngàn cây nghiêng ngã giày tan cỏ,
    Tán loạn đàn voi chạy thẳng đường.
  3. Voi chúa đã gần giết địch nhân
    Vì chứng đau đớn hóa điên cuồng,
    Nhưng kìa! Ðôi mắt ngài vừa gặp
    Biểu tượng thanh cao, chiếc áo vàng,
    Bộ áo tu hành bất khả phạm,
    Ấy điều suy nghĩ của hiền nhân.

Bậc Ðạo sư, trong lúc nói chuyện với thợ săn, ngâm hai vần kệ này:

  1. Người nào vấy phải tội đầy thân,
    Chẳng chế ngự mình, thiếu thật chân,
    Dù chiếc hoàng y, mình nó mặc,
    Chẳng hòng mong đạt tịnh thanh tâm.
  2. Còn kẻ thoát ra mọi lỗi lầm
    Ðầy lòng chân thật, tự điều tâm,
    Vững lòng cương quyết theo công chánh,
    Xứng đáng y vàng khoác tấm thân.

Nói xong, bậc Ðại sĩ dập tắt mọi nỗi hận sân đối với gã kia và hỏi:

– Tại sao ông bắn ta bị thương? Có phải vì lợi ích riêng hay vì bị kẻ nào mua chuộc?

Bậc Ðạo sư giải thích việc này như sau:

  1. Voi trúng tên tàn bạo quỵ chân,
    Trong lòng bình thản, hỏi cừu nhân:
    “Ðích gì khi giết nhằm ta thế,
    Cho biết ai xúi giục, bạn thân?”.

Kế tiếp gã thợ săn đáp kệ này:

  1. Ái hậu Kà-si bậc đại quân,
    Su-bhad-dà, bảo đã từng trông
    Dáng ngài trong mộng, và vì thế:
    “Ta muốn ngà kia, hãy kiếm dâng!”.

Nghe gã nói điều này, ngài nhận ra đây là việc làm của nàng Cullasubhaddà, nên ngài nhẫn nhục chịu đau đớn và suy nghĩ: “Nàng chẳng cần gì đôi ngà của ta đâu, nàng bảo gã đi đến đây chỉ vì muốn giết ta đấy thôi”.

Và để làm sáng tỏ việc, ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Kho báu ta mang ở bộ ngà,
    Hình hài di tích của ông cha,
    Ðiều này ác phụ am tường quá,
    Nên kẻ khốn nhằm đoạt mạng ta.
  2. Trước khi ta chết, thợ săn ôi,
    Cưa lấy bộ ngà của chúa Voi,
    Bảo ác phụ kia mừng mãn nguyện,
    “Ðây ngà, Bạch tượng đã lìa đời!”.

Nghe ngài bảo vậy, gã thợ săn đứng dậy từ nơi gã đang ngồi, cầm cưa trong tay đi đến gần ngài để cắt đôi ngà. Lúc bấy giờ Vương tượng cao như một ngọn núi tám mươi tám cubit (gần bốn mươi mét) nên không thể cưa được như ý muốn, vì gã này không thể lên tới tận đôi ngà. Thấy thế bậc Ðại sĩ phải cúi mình trước gã, nằm xuống kê đầu dưới đất.

Lúc ấy gã mới trèo lên chiếc vòi của bậc Ðại sĩ, dẫm chân lên đó như thể sợi dây thừng bạc, rồi đứng trên trán ngài như thể đỉnh núi Kesàla. Sau đó gã nhét chân gã vào miệng ngài, đầu gối gã đập vào da thịt trong miệng ngài, gã bò xuống từ trán ngài và thọc cây cưa vào miệng ngài. Bậc Ðại sĩ chịu đựng nỗi thống khổ hành hạ và miệng ngài ứa đầy máu.

Còn gã thợ săn đi loanh quanh chỗ này chỗ kia vẫn không thể nào dùng cái cưa cắt được đôi ngà. Vì thế bậc Ðại sĩ để máu rơi ra từ miệng ngài, chịu đựng nỗi đau đớn cực độ, hỏi gã:

– Này tôn ông không cưa được sao?

Và khi nghe gã bảo:

– Không.

Ngài liền lấy lại sự bình tĩnh trong tâm, bảo:

– Vậy thì được rồi, vì ta không còn đủ sức đưa chiếc vòi lên, ông hãy nhắc nó lên cho ta và nó sẽ cầm một đầu cưa.

Gã thợ săn làm theo.

Bậc Ðại sĩ dùng vòi cầm phía đầu cưa, đưa lui đưa tới và đôi ngà được cắt rời ra ngay như đọt cây. Sau đó ngài bảo gã cầm lấy đôi ngà và nói:

– Này hiền hữu lạp hộ, không phải ta cho ông đôi ngà này vì ta không quý trọng chúng, cũng không phải giống như một người mong ước địa vị của Ðế Thích Thiên chủ, Ma vương hay Phạm thiên đâu, nhưng đôi ngà Chánh Ðẳng Chánh Giác còn đáng quý đối với ta gấp cả trăm ngàn lần hơn đôi ngà này, và ta ước mong công đức thiện hành này sẽ làm nhân duyên cho ta chứng đắc quả Vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Vừa khi cho gã đôi ngà, ngài hỏi:

– Ông đến đây phải đi mất bao lâu?

– Bảy năm, bảy tháng, bảy ngày.

– Vậy nhờ thần lực của đôi ngà này, ông sẽ về đến Ba-la-nại trong bảy ngày thôi.

Sau khi ngài bảo gã ra đi và trước khi đàn voi kia cùng hoàng hậu Subhaddà đến nơi, ngài đã qua đời.

Bậc Ðạo sư giải thích sự việc qua vần kệ:

  1. Rồi thợ săn cưa lấy bộ ngà
    Từ hàm Bạch tượng tối cao ra,
    Sáng ngời, bảo vật vô song ấy,
    Gã bước nhanh chân trở lại nhà.

Khi gã đi rồi, đàn voi không còn thấy bóng kẻ thù trở lại nữa.

Bậc Ðạo sư giải thích việc này như sau:

  1. Kinh hãi nhìn Vương tượng bỏ thân,
    Ðàn voi vùng tán loạn, hoang mang,
    Chẳng tìm thấy vết cừu nhân ác,
    Trở lại nhìn vua ngã xuống đàng.

Vương hậu Subhaddà cùng đến với đàn voi, tất cả đều đau đớn than và từ đó đi yết kiến các vị Ðộc Giác Phật trước kia thường rất thân thiết với bậc Ðại sĩ, và thưa:

– Bạch các Tôn giả, đức vua thường vẫn cúng dường các Tôn giả mọi vật dụng cần thiết, đã từ trần vì trúng một mũi tên độc. Xin các Tôn giả đến viếng thi hài của ngài đang được quàng tại nơi kia.

Năm trăm vị Ðộc Giác Phật liền bay qua không trung hạ mình xuống vùng đất thiêng ấy. Vào lúc hai chú voi con lấy ngà nâng thi hài của Voi chúa lên để thi hài tỏ dấu hiệu sùng kính các vị Ðộc Giác Phật, rồi nâng thi hài cao đến tận dàn hỏa thiêu và làm lễ hỏa táng. Suốt đêm ấy các vị Ðộc Giác Phật tụng kinh trong thánh địa này. Tám ngàn voi ấy, sau khi dập tắt các ngọn lửa, liền tắm rửa rồi cùng theo hoàng hậu Subhaddà dẫn đầu, trở lại nơi cư ngụ như cũ.

Bậc Ðạo sư giải thích vấn đề như sau:

  1. Ðàn voi khóc lóc lẫn kêu gào,
    Tất cả chất tro đội đỉnh đầu,
    Chầm chậm trở về nơi cư trú,
    Theo sau hoàng hậu mãi thanh cao.

Còn gã Sonuttara trong bảy ngày đã về tới Ba-la-nại cùng với bộ ngà voi.

Bậc Ðạo sư giải thích việc này như sau:

  1. Thẳng đến Kà-si, gã thợ săn,
    Vô song tặng vật, gã vừa mang:
    Bộ ngà của chúa Voi ngời chiếu
    Làm mọi tâm hoan với ánh vàng;

Ðến trước bà hoàng kia, gã nói:

“Ðây ngà; Vương tượng đã từ trần!”.

Bấy giờ khi mang đôi ngà đến dâng hoàng hậu, gã thưa:

– Tâu hoàng hậu, chúa Voi mà hoàng hậu mang mối thù hận trong lòng chỉ vì một lỗi lầm nhỏ nhặt ấy đã bị tiểu thần giết chết rồi!.

– Ngươi bảo rằng ngài đã chết rồi ư? Nàng kêu lớn.

Gã dâng đôi ngà lên và tâu:

– Hoàng hậu cứ tin chắc rằng ngài đã chết, đây là đôi ngà của ngài.

Nàng nhận lấy đôi ngà có sáu sắc hào quang ấy để lên chiếc quạt nạm ngọc của nàng rồi đặt vào lòng, nàng nhìn đôi ngà của Voi chúa ngày trước trong một đời trước đã là vị quân vương ái kính của nàng, nàng nghĩ thầm: “Gã thợ săn này trở về với đôi ngà gã cưa được từ Bảo tượng mà gã đã giết bằng mũi tên độc”.

Rồi nhớ lại bậc Ðại sĩ, lòng nàng bỗng tràn ngập đau thương đến độ nàng không thể chịu đựng được nữa, tim nàng tan nát ra và nàng từ trần ngay hôm ấy.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ để làm sáng tỏ câu chuyện:

  1. Bà hoàng vừa chợt thấy đôi ngà,
    Chúa thượng dấu yêu thuở đã qua,
    Lòng quá đau thương liền vỡ nát,
    Vì ngài, kẻ ngốc hóa ra ma.
  2. Khi Ðại trí nhân đủ lực thần,
    Mỉm cười trước mắt các hiền Tăng,
    Tức thì Thánh chúng liền suy nghĩ:
    “Chư Phật chẳng cười chuyện bỗng dưng!”.
  3. Ngài bảo: “Các ông thấy nữ nhi
    Làm Sa-di ấy, khoác hoàng y,
    Xưa là hoàng hậu, và Ta nữa,
    Ngài tiếp, “là Voi chúa mất đi”.
  4. Kẻ ác cưa ngà báu trắng tinh,
    Vô song dưới thế, ánh quang minh,
    Ðem về thành phố Ba-la-nại
    Nay chính Ðề-bà-đạt đích danh”.
  5. Phật-đà với trí tuệ riêng Ngài
    Kể lại chuyện xưa ấy thật dài,
    Đủ mọi nỗi buồn đau thống thiết,
    Dù Ngài đã thoát hết bi ai.
  6. “Ngày xưa Bạch tượng chính Ta đây,
    Làm chúa Voi đông đảo cả bầy,
    Như vậy, chư Tăng, ta muốn bảo
    Các ông hiểu rõ Tiền thân này”.

Các vần kệ trên được các Tỷ-kheo ghi nhớ khi Tăng chúng tán dương Ðạo pháp và ca ngợi đấng Thế Tôn đầy đủ mọi thần lực.

*

Khi nghe Pháp thoại này xong, một số trong đại chúng chứng quả Dự Lưu, còn vị Sa-di-ni ấy về sau nhờ tu tập Thiền định đã chứng đắc quả A-la-hán.

-ooOoo-

  1. Chuyện nam tử Sambhava (Tiền thân Sambhava)

Trẫm chẳng màng ngôi vị đế vương..,

Trong lúc trú tại Kỳ Viên, bậc Ðạo sư kể lại câu chuyện này liên quan đến sự Viên mãn của Trí tuệ Tối thắng.

Các chi tiết đưa đến phần mở đầu câu chuyện sẽ được nêu ra trong Tiền thân Mahà Ummagga Ðường Hầm lớn, Chương XXII, tập VII.

*

Ngày xưa có vị vua danh hiệu Dhananjaya Korabya trị vì tại kinh đô Indapatta ở quốc độ Kuru (Câu-lâu). Một Bà-la-môn tên Sucìrata là tế sư cùng là quốc sư của ngài trong mọi vấn đề thánh sự. Nhà vua cai trị rất đúng pháp, thực hành bố thí cùng nhiều thiện sự khác. Một ngày kia ngài chuẩn bị một câu hỏi liên quan việc phụng sự Chân lý, nên sau khi mời Bà-la-môn Sucìrata an tọa xong, và cung kính đảnh lễ vị ấy, ngài đưa vấn đề ra hỏi bằng cách ngâm bốn vần kệ:

  1. Trẫm chẳng màng ngôi vị đế vương,
    Su-cì, và thống trị giang sơn,
    Vì mong trẫm đạt thành cao cả,
    Ngự trị khắp toàn cõi thế gian.
  2. Bằng Chánh chân thôi, tránh lỗi lầm,
    Bởi vì tất cả đấng quân vương,
    Ở trên trần thế cần theo đúng
    Bất cứ điều Chân chánh Thiện lương.
  3. Do đó ta xa lánh lỗi lầm
    Ðời này và mãi mãi ngàn năm
    Ta cầu mong được danh vinh hiển
    Ở giữa chư Thiên lẫn thế nhân.
  4. Này hỡi tế sư, hãy biết rằng
    Những gì Chân thiện, trẫm mong làm,
    Vậy khi được hỏi, xin cho biết
    Những việc làm nào đúng Thiện Chân.

Lúc bấy giờ, đó là cả vấn đề cao siêu thuộc phạm vi tri kiến của một vị Phật. Ðó là vấn đề ta phải đem ra thưa trình lên đức Phật Chánh Ðẳng Chánh Giác, hoặc nếu không có Ngài, thì ta phải trình với một vị Bồ-tát đang mong cầu quả vị Chánh Ðẳng Chánh Giác kia. Còn Sucìrata không phải là một vị Bồ-tát nên không lý giải được vấn đề; vì thế ông chẳng hề làm ra vẻ thông thái, mà đành thú nhận sự bất tài của mình qua vần kệ sau:

  1. Khải tấu Ðại vương, chẳng có ai
    Ngoài Vi-dhu ấy đủ thiên tài,
    Nói điều kỳ diệu là Chân thiện,
    Chúa thượng hằng mong thực hiện hoài.

Nhà vua nghe lời này, liền phán:

– Vậy Tôn giả hãy đi ngay.

Và vua ban một tặng vật để vị tế sư đem theo và trong niềm mong mỏi ông lên đường, ngài ngâm vần kệ:

  1. Hiền hữu, đi ngay lấy phiến vàng
    Ðến Vi-dhu ấy, trẫm nhờ mang
    Tặng phần xứng trí nhân ưu tú
    Dạy trẫm điều Chân thiện tỏ tường.

Nói xong ngài cho ông một phiến vàng đáng giá một trăm ngàn đồng tiền dùng để viết lời giải đáp vấn đề lên trên đó, một xe ngựa để đi đường, một đạo binh hộ tống, một tặng vật và bảo ông đi ngay.

Khởi hành từ thành Indapatta, ông không đi thẳng Ba-la-nại, trước tiên đến thăm nhiều nơi chốn các bậc hiền nhân cư ngụ, vẫn không thấy ai có thể giải đáp vấn đề được, ông đi dần đến Ba-la-nại. Trong khi nghỉ tại đó, cùng vài người tùy tùng đến nhà Vidhura vào giờ ăn sáng, sau khi nhờ thông báo việc đến yết kiến, ông được mời vào và thấy tế sư Vidhura đang dùng điểm tâm tại nhà riêng.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ thứ bảy để giải thích sự việc này:

  1. Bhà-rad vội vã tiến lên đàng
    Ðến gặp Vi-dhu, thấy bạn vàng
    Ngồi tại nhà riêng, sắp sửa dự
    Bữa cơm thanh đạm sáng tinh sương.

Lúc bấy giờ Vidhura là bạn thiếu thời của Sucìrata, đã học chung tại nhà một vị giáo sư, nên sau khi cùng ăn điểm tâm với nhau, tế sư Sucìrata an tọa, và được tế sư Vidhura hỏi:

– Hiền hữu đến đây có việc gì?

Tế sư Sucìrata nêu rõ lý do đến đây và ngâm vần kệ thứ tám:

  1. Ðến vì thánh chỉ chúa Câu-lâu
    Dòng dõi Yu-dhi, hiện thỉnh cầu,
    Hiền hữu, Vi-dhu, cho đệ biết
    Thiện lương, Chân chánh phải là đâu.

Lúc bấy giờ, vị Bà-la-môn này đang đeo đuổi công việc sưu tập các dòng tư tưởng của một số người, việc ấy cứ chồng chất lên cao như thể nước lụt sông Hằng dâng tràn, cho nên chẳng có thì giờ giải đáp vấn đề này được nữa. Vì thế, ông ngâm vần kệ thứ chín nêu rõ trường hợp mình:

  1. Tràn ngập chủ đề quá lớn lao
    Như sông Hằng nước lụt tuôn trào,
    Ta không thể nói đâu là lẽ
    Chân Thiện, hiền huynh đến thỉnh cầu.

Nói vậy xong, ông lại thêm:

– Ta có một con trai rất thông minh, cháu ấy còn mẫn tuệ hơn ta nhiều. Cháu sẽ giải thích rõ cho hiền hữu. Vậy hãy đến gặp tiểu điệt.

Và ông ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Hiện giờ đệ có một con trai
    Tên gọi Bhà-dra ở giữa đời,
    Tìm đến chàng ngay, chàng sẽ nói
    Thiện lương, Chân lý rõ cho ngài.

Nghe điều này, tế sư Sucìrata liền rời nhà vị tế sư Vidhura, đến tư thất của Bhadrakàra, và thấy chàng đang ngồi ăn điểm tâm giữa đám thân nhân của chàng.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ thứ mười một làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Lúc ấy Bhà-rad lại vội vàng
    Ðến Bha-dra gấp tại gia đường,
    Giữa bao bằng hữu đang tề tựu,
    An tọa thong dong được thấy chàng.

Khi đến nơi, vị tế sư được chàng thanh niên Bhadrakàra tiếp đãi nồng hậu, mời lên tọa sàng cùng nhiều tặng vật. Vừa khi an tọa, và được hỏi nguyên cớ đến thăm, ông ngâm vần kệ thứ mười hai:

  1. Ðến vì thánh chỉ Câu-lâu
    Dòng họ Yu-dhi, hiện thỉnh cầu
    Hiền điệt Bhà-dra, cho chú biết
    Thiện lương, Chân lý phải là đâu.

Lúc ấy Bhadrakàra đáp lại:

– Thưa Tôn giả, ngay bây giờ, tiểu điệt đang có dự mưu dan díu với vợ một người khác. Cho nên trí óc của tiểu điệt không được thư thái để giải đáp vấn đề. Song em trai cháu tên là Sanjaya còn thông thái hơn cháu nhiều. Xin Tôn giả đi hỏi chàng, chàng sẽ giải đáp vấn đề của Tôn giả.

Chàng ngâm vần kệ để bảo ông đến đó:

  1. Cháu bỏ thịt nai thật ngọt ngon,
    Và đang theo đuổi tắc kè con,
    Làm sao có thể nào thông hiểu
    Ðâu lẽ Thiện lương với Thật chơn?
  2. Song có em trai, ngài phải biết,
    San-ja tên gọi, hãy lên đường
    Kiếm chàng cho được, chàng tuyên thuyết
    Chân Thiện ngài nghe thật tỏ tường.

Ông liền đi đến nhà Sanjaya ngay và được chàng tiếp niềm nở, khi được hỏi lý do đến đấy, ông nói rõ ra.

Bậc Ðạo sư ngâm hai vần kệ để giải thích sự việc này:

  1. Lúc ấy Bhà-rad phải vội vàng
    Ðến San-jay gấp tại gia đường
    Giữa bao bằng hữu đang tề tựu,
    An tọa thong dong được thấy chàng.
  2. Ðến vì thánh chỉ chúa Câu-lâu,
    Dòng dõi Yu-dhi, hiện thỉnh cầu
    Hiền điệt San-jay, cho chú biết
    Thiện lương, Chân lý phải là đâu.

Nhưng Sanjaya cũng đang bận bày mưu tính kế, chàng liền thưa với ông:

– Thưa Tôn giả, tiểu điệt đang theo đuổi vợ người khác, và lại sắp đi xuống sông Hằng để qua sông. Sáng tối trong lúc tiểu điệt qua sông thường phải gặp nanh vuốt tử thần, cho nên tâm trí tiểu điệt đang rối ren, tiểu điệt không thể giải đáp vấn đề của Tôn giả được, song em trai tiểu điệt là Sambhava, mới lên bảy tuổi đã thông minh tài trí hơn tiểu điệt gấp cả trăm ngàn lần đấy. Em cháu sẽ nói chuyện với Tôn giả, xin hãy đi tìm để hỏi em cháu ngay.

Bậc Ðạo sư ngâm hai vần kệ để giải thích sự việc:

  1. Tử thần há miệng rộng đầy chông
    Sáng tối chờ con, hỡi thúc ông
    Làm thế nào con thưa với chú
    Ðâu là Chân lý với Hiền lương?
  2. Song có em thơ, chú biết chăng,
    Sam-bha tên gọi, hãy lên đường,
    Tìm em, thưa chú, em nêu rõ
    Chân lý, Thiện lương thật tỏ tường!

Nghe vậy, tế sư Sucirata nghĩ thầm: “Vấn đề này ắt là điều kỳ bí nhất trên đời. Ta chắc không ai đủ sức giải đáp cả”.

Nghĩ vậy ông ngâm hai vần kệ:

19 – 20. Việc lạ lùng này phật ý ta,
Chẳng hai con lớn, chẳng ông cha,
Biết phương giải đáp điều mầu nhiệm
Vậy nếu như chàng cũng chịu thua,
Thì phải chăng đây là cậu bé
Biết gì về lý Thiện Chân ư!

Nghe vậy, Sanjaya đáp:

– Thưa Tôn giả, xn ngài đừng tưởng Sambhava chỉ là đứa trẻ thơ dại. Nếu chẳng ai giải đáp được vấn đề của Tôn giả, thì cứ đi hỏi em cháu.

Rồi chàng ngâm mười hai vần kệ nêu lên những đức tính của cậu bé này qua các ví dụ chứng minh trường hợp trên:

  1. Xin ngài đi hỏi Sam-bha,
    Xin ngài chớ vội khinh là trẻ thơ,
    Em đầy thông thái tài ba
    Nói ngay ngài biết đâu là Thiện Chân.
  2. Khác nào ánh nguyệt trong ngần
    Sáng bừng vượt hẳn sao giăng đầy trời,
    Ánh sao le lói mờ soi
    Chim dần trong ánh rạng ngời Hằng nga,
  3. Cũng như chú bé Sam-bha
    Trí tài kiệt xuất vượt xa tuổi vàng,
    Hỏi Sam-bha, biết tỏ tường,
    Xin ngài chớ vội khinh thường tuổi thơ.
  4. Em đầy thông thái tài ba
    Nói rành Chân Thiện đâu là lẽ ngay.
    Tháng tư quyến rủ đắm say,
    Vượt xa tất cả tháng ngày trong năm.
  5. Hoa xuân đâm lộc nảy mầm,
    Màu xanh bát ngát bao trùm rừng cây,
    Bé Sam-bha cũng thế này,
    Vượt xa tuổi trẻ, trí tài tuyệt luân.
  6. Như trên đỉnh tuyết Hương Sơn
    Rừng cây bao phủ, có thần điểm trang
    Tỏa ra ánh sáng huy hoàng,
    Mùi hương ngào ngạt dần lan toàn miền,
  7. Dành cho vô số thần tiên
    Tìm nơi ẩn náu bình yên chốn này.
    Bé Sam-bha cũng như vầy,
    Vượt xa tuổi trẻ, trí đầy khôn ngoan.
  8. Khác nào ngọn lửa huy hoàng
    Cháy tràn lan khắp đồng hoang tung hoành,
    Với cây cột lửa cuộn nhanh,
    Không hề biết thỏa, tan tành cỏ non.
  9. Ðể trơ một lối đen ngòm,
    Bất kỳ nơi chốn lửa bùng lướt qua.
    Cũng vầy chú bé Sam-bha,
    Trí tài kiệt xuất vượt đà ấu niên,
  10. Khác nào một ngọn lửa thiêng
    Ðốt bằng bỏ sống trong đêm tối trời,
    Gặp cây gỗ quý nhất đời,
    Giục cơn thèm cháy sáng ngời cao xa.
  11. Cũng vầy chú bé Sam-bha
    Thông minh trí tuệ vượt xa tuổi vàng,
    Hỏi Sam-bha, chớ coi thường
    Em thông hiểu, nói tận tường Thiện Chơn.
  12. Trâu nhờ sức lực tráng cường
    Ngựa nhờ tốc độ phô trương giống nòi,
    Bò nhờ vắt sữa tuôn vòi,
    Hiền nhân, ta biết nhờ lời khôn ngoan.
  13. Sam-bha cũng vậy, mầm non,
    Thông minh trí tuệ vượt hơn tuổi vàng,
    Hỏi Sam-bha, chớ coi thường
    Em thông thái, nó tận tường Thiện Chân.

Trong khi Sanjaya ca ngợi Sambhava như vậy, tế sư Sucìrata nghĩ thầm: “Ta sẽ đặt vấn đề với cậu bé này là biết ngay”.

Ngài hỏi:

– Thế tiểu hiền điệt ở đâu rồi?

Chàng liền mở cửa sổ giơ tay chỉ và nói:

– Ngài nhìn cậu bé đằng kia, da óng như vàng ròng, đang chơi cùng các trẻ khác bên đường trước cửa, chính đó là tiểu đệ của cháu. Xin cứ đến hỏi, tiểu hiền đệ sẽ giải đáp vấn đề của ngài với mọi lý lẽ huyền diệu của một vị Phật.

Sucìrata nghe thế, liền bước xuống khỏi dinh, đến gần cậu bé vừa đúng lúc cậu bé đang đứng, áo quần xốc xếch vắt qua vai, hai tay đang bốc đất.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ giải thích sự việc này:

  1. Lúc ấy Bhà-rad lại vội vàng
    Ðến Sam-bha gấp tại gia đường
    Ở ngoài công lộ, kìa ngay đó
    Cậu bé đùa chơi thấy rõ ràng.

Bậc Ðại sĩ vừa khi thấy vị Bà-la-môn kia đến đứng trước ngài, liền hỏi:

– Hiền hữu đến đây có việc gì chăng?

Vị tế sư đáp:

– Này tiểu hiền điệt, ta đã đi khắp cõi Diêm-phù-đề mà không tìm ra người nào đủ tài trí giải đáp vấn đề ta đặt ra, nên nay ta đến đây tìm cháu.

Cậu bé nghĩ thầm: “Họ bảo đây là vấn đề khắp cả cõi Diêm-phù-đề chưa giải đáp được, nên vị này đến tìm ta. Còn ta đã am hiểu thông thạo rồi”.

Lúc ấy cậu thấy hổ thẹn, liền vứt cục đất đang cầm trong tay, sửa sang áo quần lại đàng hoàng và bảo:

– Này Tôn giả Bà-la-môn, cứ hỏi đi, ta sẽ giải đáp cho ngài với mức tinh thông lưu loát của một vị Phật.

Rồi với trí tuệ Tối thắng, ngài mời vị kia lựa chọn đề tài để hỏi. Vị Bà-la-môn liền hỏi vấn đề qua các câu kệ:

  1. Ðến vi thánh chỉ chúa Câu-lâu,
    Dòng dõi Yu-dhi, hiện thỉnh cầu,
    Hiền điệt Sam-bha, cho chú biết,
    Thiện lương, Chân lý phải là đâu?

Vấn đề được hỏi kia quá rõ ràng đối với Sambhava như thể vầng trăng tròn giữa bầu trời cao. Ngài bảo:

– Này hãy nghe lời ta.

Và ngài giải đáp vấn đề Phụng sự Chân lý qua các vần kệ:

  1. Hiền hữu, ta nay sẽ bảo ngài,
    Ðúng như bậc trí phải trình bày,
    Vua cần biết rõ điều Chân Thiện,
    Song việc vua làm, ai có hay?

Trong khi ngài đứng giữa đường phố thuyết giảng Chân lý với giọng ngọt như mật, âm thanh vang dội khắp thành Ba-la-nại, mỗi phía vang đến mười hai dặm đường. Nhà vua cùng các phó vương và nhiều vua khác tụ tập lại, bậc Ðại sĩ liền đứng giữa đám đông ấy, tuyên thuyết Chân lý. Sau khi đã hứa giải đáp vấn đề qua vần kệ này, giờ đây ngài nêu lời giải đáp vấn đề Phụng sự Chân lý:

  1. Ðáp lại đức vua, hãy tấu ngài:
    “Ngày nay không hẳn giống ngày mai,
    Thần khuyên Chúa thượng nên thông suốt
    Nắm lấy thời cơ kịp đến tay”.
  2. Ta ước mong hiền hữu tế sư
    Gợi cho vua biết cách suy tư,
    Nhờ đây tâm trí ngài an lạc:
    Vua phải tránh xa mọi oán thù,
    Cũng chớ đi theo đường ác độc
    Như là người độn trí mê mờ.
  3. Ðừng gây tội lỗi mất tâm hồn,
    Ðừng phạm hành vi bất chánh chơn,
    Ðừng có bao giờ theo ác hạnh,
    Ðừng đưa huynh đệ bước sai đường.
  4. Ai biết hoàn thành đúng chánh chân
    Những điều này, giống nguyệt tròn dần,
    Như vua danh tiếng tăng lên mãi,
    Làm ánh sáng soi đám bạn thân,
    Yêu mến họ hàng, khi tận mạng
    Hiền nhân sẽ đạt đến thiên cung.

Như vậy chẳng khác nào đem vầng trăng soi rọi khắp bầu trời, bậc Ðại sĩ giải đáp vấn đề của vị Bà-la-môn này với mọi vẻ tinh thông của một bậc Giác Ngộ. Dân chúng reo hò vỗ tay vang dậy. Hàng ngàn tiếng reo tán thưởng cùng vô số khăn vẫy lên không và tiếng búng tay lách tách. Họ thả luôn cả đồ trang sức trên tay. Vua Ba-la-nại hoan hỷ tỏ lòng tôn kính ngưỡng mộ ngài. Còn vị tế sư Sucìrata, sau khi tặng thưởng ngài một ngàn cân vàng, liền viết câu giải đáp vấn đề trên bằng son đỏ vào phiến vàng ấy và khi đến kinh thành Indapatta, ông tâu trình vua về câu giải đáp Phụng sự Chân lý như trên.

Phần vua nhờ kiên tâm hành trì các pháp chân chánh, về sau được lên thiên giới.

*

Khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ, mà ngay từ xa xưa, Như Lai đã dùng đại trí để giải đáp mọi vấn đề.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời bấy giờ Ànanda (A-nan) là vua Dhananjaya, Anuruddha (A-na-luật-đà) là Sucìrata, Kassapa (Ca-diếp) là Vidhura, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Bhadrakàra, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là thiếu sinh Sanjaya, và Trí giả Sambhava chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện khỉ chúa (Tiền thân Mahàkapi)

Tương truyền đại đế xứ Kà-si..,

Câu chuyện này được bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm, về việc Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) ném đá vào Ngài.

Vì vậy khi Tỷ-kheo quở trách Ðề-bà-đạt-đa về việc xúi giục các thợ săn bắn cung vào đức Phật và sau đó lại ném đá vào Ngài, bậc Ðạo Sư bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa nữa, Ðề-bà-đạt-đa cũng đã ném đá vào Ta.

Nói xong Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Bradhmadatta trị vì xứ Ba-la-nại có một nông dân dòng họ Bà-la-môn trong một làng Kàsi, sau khi cày ruộng xong, thả trâu ra và bắt đầu cuốc đất. Ðàn trâu trong khi gặm lá ở bụi cây dần dần tẩu thoát vào trong rừng. Người ấy nhận thấy trời tối liền đặt cuốc xuống đi tìmđám trâu nhưng chẳng thấy đâu, gã quá buồn khổ đi lang thang vào trong rừng tìm chúng, dần dần đến tận vùng Tuyết Sơn. Vì lạc mất phương hướng, gã lang thang bảy ngày nhịn đói, nhưng khi nhìn thấy cây Tinduka, gã trèo lên hái trái ăn. Rồi tuột khỏi cây này gã rơi xuống một vực thẳm như địa ngục sâu 60 cubit (1 cubit = 45cm) và ở đó cả mười ngày.

Thời bấy giờ Bồ-tát sinh làm thân Khỉ, đang lúc ăn trái rừng, ngài thấy gã kia, liền dùng một hònđá lôi gã ra khỏi vực. Trong lúc Khỉ đang ngủ, gã kia đập đầu Khỉ bằng một cục đá, bậc Ðại Sĩ biết được việc này, liền vùng dậy nhảy lên cành cây, đứng lại và kêu to:

– Này tôn ông, ngài đang ngồi trên đất bằng, ta sẽ chỉ đường cho ngài từ trên ngọn cây này rồi ta sẽ đi ngay.

Thế là ngài cứu gã kia ra khỏi rừng, chỉ đúng đường cho gã rồi biến mất trong rừng núi ấy. Còn gã kia vì đã gây tội ác với bậc Ðại sĩ, nên hóa thành tên hủi, chẳng khác nào ngạ quỷ đội lốt người trên trần thế. Trong bảy năm liền, gã đau đớn chất chồng, lang thang hết nơi này sang nơi khác, gã đến ngự viên Migàcira (Lộc Uyển) tại thành Ba-la-nại, trải ngọn lá chuối trên một góc, gã nằm xuống, lòng đau khổ điên cuồng.

Lúc bấy giờ vua Ba-la-nại đến ngự viên và trong khi dạo chơi, tìm thấy người kia, liền hỏi:

– Ngươi là ai và ngươi đã làm gì đến nỗi phải khổ như vậy?

Gã trình vua toàn thể câu chuyện với đầy đủ chi tiết.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ để làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Tương truyền đại đế xứ Kà-si,
    Một thuở Ba-la-nại trị vì,
    Cùng với hiền thần trên đại lộ
    Vào đến Vườn Nai một bữa kia.
  2. Ðằng kia vua thấy gã La-môn,
    Một bộ xương khô bước chập chờn,
    Da trắng vì mang dòng máu hủi,
    Xù xì xương xẩu tựa cây mun.
  3. Ngạc nhiên trước cảnh tượng đau thương
    Của kẻ không may, nặng khổ buồn:
    “Thật tội nghiệp ngươi”, ngài phán hỏi,
    Tên gì, ác quỷ phận đành mang?
  4. Giống như tuyết trắng cả tay chân,
    Ta chắc đầu ngươi lại trắng hơn,
    Thân thể ngươi tràn đầy vết hủi,
    Bệnh kia ghi dấu ấn riêng phần.
  5. Lưng ngươi như suốt chỉ giăng hàng,
    Lồi lõm, dài ngoằn lại uốn quăn,
    Xương khớp đen điu như mẩu gỗ,
    Chẳng hề ai thấy kẻ ngang bằng!
  6. Ngươi từ đâu đến, kẻ lang thang,
    Khốn khổ bơ vơ, da bọc xương,
    Ðầu đội nắng trời nung bức lửa,
    Chịu bao đói khát quá đau thương?
  7. Hình hài tàn phá thật kinh hoàng,
    Chẳng xứng nhìn lên ánh nhật quang,
    Ngay chính mẹ ngươi chắc cũng chẳng
    Còn mong nhìn trẻ quá tồi tàn!
  8. Ác nghiệp gì xưa ngươi đã gây
    Hay là ngộ sát kẻ nào đây,
    Tội gì người phạm, ta mong biết,
    Xui khiến ngươi mang nỗi khổ này?

Gà Ba-la-môn đáp lại:

  1. Thần xin thưa thật với Tôn quân
    Hành động đúng như một thiện nhân,
    Vì kẻ không bao giờ dối trá,
    Người hiền khen ngợi giữa phàm trần.
  2. Xưa kia thần đến một rừng hoang,
    Tìm kiếm đàn trâu tối lạc đàng,
    Băng mãi lối mòn rừng rậm rạp,
    Nơi loài voi ở, bước lang thang.
  3. Lạc trong rừng rậm quá hoang sơ,
    Chịu đói khát đau khổ xót xa,
    Suốt bảy ngày ròng thần lẩn quẩn,
    Chốn loài hổ dữ mớm con thơ.
  4. Trái độc tối kinh, cũng cứ thèm
    Ô kìa, đôi mắt bỗng bừng lên:
    Cây xinh lắt lẻo ngang bờ vực,
    Lơ lửng trái thơm trĩu nhánh mềm.
  5. Những trái rơi theo gió lạnh rung
    Thần nhai ngấu nghiến nuốt thơm lừng,
    Vẫn còn khao khát, thần leo vội:
    “Cách ấy no nê được vẹn toàn”.
  6. Chưa từng ăn quả chín ngon sao!
    Thần vội giơ tay hái thật nhiều,
    Cành lá, dựa thân vào gãy đứt
    Như là chặt bởi búa ông tiều.
  7. Cành gãy làm cho ngã lộn thân,
    Không gì chặn lại, rớt nhanh dần
    Trên bờ vực thẳm, đầy tường đá,
    Không thoát khỏi hang vực thẳm cùng.
  8. Nước sâu nằm dưới bờ vực kia,
    Cứu mạng không tan nát thảm thê,
    Rồi bất hạnh thay, thần tuyệt vọng,
    Mười đêm nằm đợi thật dài ghê!
  9. Cuối cùng một chú Khỉ dài đuôi
    Trú ẩn trong hang đá, đến nơi,
    Nhảy nhót cành này sang bụi nọ,
    Hái ăn trái chín thật xinh tươi.
  10. Chợt thấy thần vàng vọt héo khô,
    Ðộng lòng trắc ẩn, Khỉ kêu to:
    “Khốn thay! Ta thấy ai nằm đó
    Tuyệt vọng đau thương ngập tận bờ
    Như vậy, ví như người hoặc quỷ,
    Ông là ai đó, nói nguyên do”.
  11. Thần đầy cung kính, vội thưa ngay:
    “Một kẻ khốn cùng chính lão đây,
    Song phước đức dành cho Khỉ hết,
    Nếu tìm được cách cứu thân này”.
  12. Chúa Khỉ chuyển cành ở núi cao,
    Mang hòn đá nặng lực anh hào,
    Ấy nhờ tu luyện tròn công hạnh,
    Mục đích tỏ bày trọng đại sao:
  13. “Tôn ông, trèo đến chỗ lưng này,
    Quanh cổ ta, ghì chặt cánh tay,
    Tức tốc ta đem ông thoát khỏi
    Vách tường đá, chính cảnh tù đày”.
  14. Hoan hỷ, thần ghi nhớ rõ ràng
    Lời khuyên của chúa Khỉ vinh quang,
    Trèo lên lưng nọ, đôi tay bám,
    Quanh cổ trí nhân thật vững vàng.
  15. Chúa Khí lúc này thật mạnh thay,
    Kiên cường can đảm đến như vầy
    Dẫu rằng mệt lả vì hao sức,
    Chốc lát đưa lên vách đá dày.
  16. Kéo thần xong, cất tiếng anh hùng:
    “Ta mệt nhoài: xin đứng hộ phòng,
    Bên cạnh mình ta, tôn giả hỡi,
    Trong khi ta ngủ giấc say nồng.
  17. Các thứ như beo, gấu, hổ, sư,
    Nếu nhìn ta, thấy quá thờ ơ,
    Chúng liền giết hại ta ngay đấy,
    Tôn giả canh phòng, chớ phải lo”.
  18. Trong lúc thần đang đứng hộ phòng
    Hầu vương đánh một giấc an thân,
    Một tư tưởng xấu xa nhen nhúm
    Tiềm ẩn lan dần ở nội tâm:
  19. “Khỉ, vượn, hươu, nai thật ngọt ngon
    Vậy sao ta chẳng giết hầu vương
    Ðỡ cơn đói khát và con thịt
    Cung cấp cho ta món tuyệt trần?
  20. Khi no dạ, chẳng muốn chần chờ,
    Song kiếm thật đầy thực phẩm khô,
    Tích trữ cho nhiều ngày vất vả,
    Từ rừng ta sẽ kiếm đường ra”.
  21. Cầm viên đá suýt đánh tan tành
    Chiếc sọ kia, song bởi phận mình
    Tay vụng về đưa lên loạng quạng,
    Vung ra yếu ớt chẳng nên hình.
  22. Chúa Khỉ nhanh chân nhảy ngọn cây
    Toàn thân bê bết máu tuôn đầy,
    Từ xa trách móc nhìn thần mãi
    Với cặp mắt tuôn lệ chảy dài:
  23. “Cầu trời ban phước lộc tôn ông,
    Ðừng làm như vậy, chỉ cầu mong
    Kẻo sau số phận ngài, ta chắc
    Gặp phải người hành động bất nhân.
  24. Than ôi nhục nhã đến như vầy!
    Sao trả ơn ta cách thế này?
    Vì đã cứu ông ra thoát khỏi
    Vực kia sâu thẳm hãi kinh đầy!
    |
    33-34. Cứu tử, chơi trò phản bội ta
    Âm mưu việc ác với tâm ma,
    Coi chừng, kẻ ác, e đày đọa,
    Khốc liệt xuất từ ác nghiệp kia
    Ðem họa tử vong cho chủ nó,
    Khác nào trái giết gốc tre già.
  25. Ta chẳng còn tin tưởng ở ngươi,
    Vì ngươi làm ác với ta rồi,
    Hãy đi tới trước kia cho khéo,
    Còn để ta nhìn thấy bóng thôi.
  26. Thoát bầy dã thú đói tìm mồi,
    Ngươi trở về nơi sống đời
    Thẳng tắp con đường dài trước mặt,
    Ði theo như ý muốn nhà ngươi”.
  27. Ðến đây, dòng lệ Khỉ lau khô,
    Vội vã nhanh chân nhảy xuống hồ
    Rửa sạch chiếc đầu bê bết máu
    Ôi, vì thần, đã chảy tuôn ra!
  28. Từ đấy, đầy đau khổ đoạn trường,
    Ðốt thiêu, vò xé bởi Hầu vương,
    Lê bước thân tàn, thần thất thểu,
    Tìm nơi giải khát cho mình luôn.
  29. Nhưng khi thần đến vũng hồ kia,
    Mặt nước đều loang lổ máu me,
    Một dòng đỏ sẫm dần dần hiện
    Thành một đám như lửa lập lòe.
  30. Mỗi giọt nước kia dính đến thân,
    Hóa thành mụt nhọt lớn lên dần,
    Như Vil-va trái khô rồi nứt
    Giống hệt sắc da lẫn cỡ tầm.
  31. Máu mủ tràn ra thật đáng nhờm,
    Nơi nào thần muốn được an thân,
    Dù là thành thị hay thôn dã,
    Dân chúng chạy bay hỗn loạn luôn.
  32. Lảng tránh vì mùi quá thối tha,
    Trong khi gậy, đá cứ tung ra:
    “Này tên khốn nạn! Ðừng đi đến
    Gần chúng ta!” Toàn thể hét la.
  33. Như vậy khổ đau thật đáng thương,
    Thần mang theo suốt bảy năm trường,
    Tùy theo hạnh nghiệp mình gây tạo,
    Mỗi người đi đến một con đường.
  34. Thần ước mong chư vị vạn an,
    Mọi người, thần gặp gỡ trên đàng,
    Xin đừng phản bạn, ôi hèn hạ,
    Kẻ phạm tội mưu chống bạn vàng!
  35. Tất cả những ai với bạn mình
    Tỏ ra là kẻ thiếu chân thành,
    Như bầy hủi phải ăn năn tội,
    Thân hoại, vào trong ngục tái sinh.

Và trong lúc kẻ kia đang tâu trình vua, ngay chính thời điểm ấy, mặt đất há miệng rộng ra làm gã mất dạng và được tái sinh vào Ðịa ngục. Khi gã bị trái đất nuốt xong, vua ra khỏi ngự viên và trở về thành.

*

Bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngày xưa nữa, Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) đã némđá vào Ta.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, kẻ phản bạn kia là Ðề-bà-đạt-đa và Ta chính là Khỉ chúa.

-ooOoo-

  1. Tiền thân Dakarakkhasa

Chuyện này sẽ được trình bày trong Tiền thân số 546, Mahà Ummagga (Ðường hầm lớn), tập VII.

-ooOoo-

  1. Chuyện long vương Pandara (Tiền thân Pandara)

Người nào chuyện bí mật đem phơi..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) nói dối và quả đất đã há miệng nuốt sống ông như thế nào.

Thời đó là lúc Ðề-bà-đạt-đa bị chúng Tỷ-kheo quở trách, bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, Ðề-bà-đạt-đa đã nói dối và đã bị quả đất nuốt chửng.

Nói xong, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, có năm trăm thương nhân lên tàu ra khơi. Vào ngày thứ bảy, khi họ đã khuất dạng khỏi đất liền, họ bị đắm tàu giữa biển và tất cả làm mồi cho cá chỉ trừ một người. Người này nhờ gió đẩy đến bờ Karambiya, lên bờ, mình trần trụi, vô cùng khốn khổ, gã lang thang khắp nơi khất thực. Dân chúng nghĩ: “Ðây là bậc tu hành khổ hạnh thiểu dục tri túc”.

Và họ tiếp đãi gã rất ân cần. Song gã bảo:

– Ta đã có đủ sống rồi.

Và khi họ cúng dường y trong y ngoài, gã đều không nhận thứ gì cả. Họ bảo nhau:

– Chẳng có bậc khổ hạnh nào vượt quá vị này về phương diện thiểu dục tri túc.

Và lại càng hân hoan vô cùng vì gã, họ xây am ẩn sĩ cho gã trú ẩn và gã lấy danh hiệu Karambiya đạo sĩ.

Trong khi gã ở đó, gã được nhiều lợi dưỡng vinh quang, cả Long vương lẫn Kim sí Ðiểu vương đều đến bày tỏ lòng tôn kính gã, vị Long vương này có danh hiệu là Pandara. Một ngày kia Kim sí Ðiểu vương đến gặp đạo sĩ, và sau khi đảnh lễ vị này, ngồi xuống một bên và bảo:

– Thưa Tôn giả, dân chúng của ta, khi tấn công loài Rồng rắn, thường hay bị chết đuối. Ta không biết cách nào bắt Rồng rắn cho đúng. Nghe nói có điều bí ẩn chi đây. Ngài có thể dỗ dành chúng nói ra điều bí ẩn ấy chăng?

– Ðược rồi – đạo sĩ nói.

Khi Ðiểu vương từ giã ra về, vừa đúng lúc Long Vương đến tôn kính đảnh lễ xong ngồi xuống, gã hỏi:

– Này Long vương, loài Kim sí Ðiểu nói rằng khi bắt loài Rồng, chúng bị giết chết rất nhiều. Thế lúc đánh bắt Rồng rắn, làm sao cho chúng được an toàn?

Long vương đáp:

– Thưa Tôn giả, đây là điều bí mật của loài ta, nếu ta nói ra, ta sẽ gây tai họa tàn sát cả chủng tộc của ta.

– Sao thế, ngài nghĩ rằng ta nói với kẻ nào chăng? Ta chẳng nói với ai đâu, ta chỉ hỏi cho thỏa thích hiếu kỳ thôi. Ngài cứ tin ta và nói cho ta biết, đừng e sợ gì cả.

Long vương hứa sẽ nói và từ giã.

Ngày hôm sau ẩn sĩ lại gạn hỏi, Long vương cũng không nói ra. Song vào ngày thứ ba, lúc Long vương đến và ngồi xuống, ẩn sĩ bảo ngay:

– Hôm nay là ngày thứ ba ta hỏi ngài rồi. Tại sao ngài không nói?

– Thưa Tôn giả, ta sợ ngài kể lại cho kẻ khác.

– Ta sẽ không hé môi với ai cả, nói đi, đừng sợ gì.

Thế là Long vương bảo ẩn sĩ hứa sẽ không kể lại với ai rồi nói:

– Thưa Tôn giả, loài Rồng rắn chúng ta nuốt đá lớn cho nặng mình và nằm sát xuống, rồi loài Kim sí Ðiểu đến, chúng ta há miệng ra, nhe răng nhào đến chúng. Chúng chụp lấy đầu bọn ta, và trong khi chúng cố nhấc lên mà chúng ta lại nặng và nằm sát đất, nước tràn lên chúng khiến chúng chết chìm giữa biển. Một số Kim sí điểu chết như vậy. Trong lúc bắt bọn ta, tại sao chúng lại chụp lấy đầu? Nếu bọn ngu xuẩn kia chụp lấy đuôi chúng ta và dốc ngược đầu xuống, chúng sẽ bắt bọn ta phải nhả ra những hòn đá đã nuốt ấy, thế là làm cho bọn ta nhẹ đi và tha bọn ta về tổ chúng.

Long vương đã tiết lộ bí mật như vậy với ác nhân này.

Sau đó khi Long vương ra về, Ðiểu vương lại đến đảnh lễ đạo sĩ Karambiya xong, liền hỏi:

– Thưa Tôn giả, thế Tôn giả đã biết điều bí mật của Long vương chưa?

– Thưa ngài, đã.

Và gã kể mọi điều vừa được kể trên cho gã.

Nghe xong, Ðiểu vương bảo:

– Long vương đã sai lầm nặng nề, đáng lẽ không nên nói cho ai biết cách tàn sát chủng tộc mình như vậy.

Thế là vừa nổi gió lên, Ðiểu vương liền chụp lấy đuôi Long vương Pandara và dốc ngược đầu xuống, làm chúa Rồng nay phải nhả những hòn đá đã nuốt vào cổ, rồi Ðiểu vương mang Long vương bay lên không. Rồng Pandara, trong lúc bị treo ngược đầu lên không như vậy, liền than khóc thê thảm:

– Ta tự gây khổ cho ta rồi!

Và chúa Rồng ngâm các vần kệ:

  1. Người nào chuyện bí mật đem phơi
    Bất cẩn, lòng không muốn giữ lời,
    Kẻ ngốc bị kinh hoàng trấn áp,
    Như ta, Rồng chúa ngã nhào thôi!
  2. Người nào ngu xuẩn lộ ra ngoài
    Tư tưởng cần che dấu mặt trời,
    Kinh hoảng ngập tràn vì lẻo mép,
    Như ta, Rồng chúa gặp chim mồi!
  3. Không nên để bạn hữu tham gia
    Ý tưởng thâm trầm nhất của ta,
    Bạn tốt có khi đầy xuẩn ngốc,
    Kẻ khôn lừa dối, phải phòng xa!
  4. Tin tưởng gã, ôi! Có phải chăng?
    Chuyên trì khổ hạnh bậc hiền nhân?
    Phơi bày bí mật, ta lầm lỗi,
    Ta khóc, giờ đây nỗi đoạn trường!
  5. Chuyện riêng tư, gã khốn len vào,
    Bí mật ta không giữ được nào,
    Ta sợ mối nguy từ gã đến,
    Giờ ta khóc chính nỗi thương đau.
  6. Tưởng bạn trung thành tận tủy xương
    Sinh lòng kính sợ, nặng tình thương
    Ân tình tiết lộ cho người khác
    Ngã gục, người ngu chẳng thể vươn!
  7. Ai nói lên cùng đám ác nhân
    Ðiều thầm kín phải giữ trong tâm
    Ðược xem rắn độc nơi trần giới,
    “Kẻ ấy, tránh xa!” Chúng thét rần!
  8. Cẩm y, mỹ nữ, gỗ chiên-đàn
    Hương liệu, vòng hoa, thực phẩm ngon,
    Mọi dục ác kia, ta tránh cả,
    Ðiểu vương, nếu đến giúp Long vương!

Rồng chúa Pandara đã khóc than như vậy qua tám vần kệ trong khi bị dốc ngược trên không. Ðiểu vương nghe tiếng than khóc liền khiển trách Long vương và bảo:

– Này Long vương, tại sao lại than khóc sau khi đã tiết lộ bí mật cho đạo sĩ kia?

Và Ðiểu vương ngâm vần kệ:

  1. Trong chúng ta, ba kẻ sống đây,
    Nói tên ai kẻ đáng trách này?
    Chẳng sư, chẳng điểu, nhưng ngài ngốc,
    Mang họa Long vương nhục nhã đầy!

Nghe vậy, Rồng Pandara liền ngâm vần kệ khác:

  1. Ðạo sĩ, theo ta, một bạn vàng,
    Chuyên trì khổ hạnh, bậc hiền nhân,
    Ẩn tình ta lộ, ta lầm lỗi,
    Ta khóc, giờ đây, chính khổ thân!

Kế đó Ðiểu vương lại ngâm bốn vần kệ khác nữa:

  1. Nhân sinh trần thế phải lìa đời,
    Thánh đạo cho con cháu phải soi,
    Bằng tự điều thân, chân chánh hạnh,
    Con người thành đạt đích cao vời.
  2. Chẳng ai thân thiết vượt song thân,
    Không kẻ thứ ba ái luyến bằng,
    Song ẩn tình, người đừng tỏ lộ,
    E rằng phản bội thật không tưởng!
  3. Mẹ cha, quyến thuộc khắp xa gần,
    Bạn hữu đồng minh, dẫu thiết thân!
    Ẩn ý ngươi đừng nên tỏ lộ,
    Về sau phản bội, phải ăn năn.
  4. Vợ hiền xinh đẹp, tuổi còn xuân,
    Chia xẻ bầy con, đám bạn thân,
    Song chớ tỏ bày điều bí ẩn,
    E nàng phản bội, phải đề phòng.

Tiếp theo là các vần kệ sau:

  1. Ðừng ai đem chuyện kín phơi ra,
    Phải giữ như kho báu của nhà,
    Việc tiết lộ ra điều bí mật,
    Hiền nhân chẳng muốn ngợi khen mà.
  2. Bậc trí không nên lộ tấc lòng,
    Với cừu nhân hoặc với hồng quần,
    Những người nô lệ lòng tham dục,
    Bọn chúng tỏ ra lũ bốc đồng.
  3. Ai hé lộ ra một ẩn tình
    Cho người không có trí thông minh,
    Sợ lòng tin bị người làm phản,
    Phải chịu người kia khống chế mình.
  4. Những người biết được chuyện riêng tư
    Mà bạn chẳng nên để lộ ra,
    Sẽ khiến bất an tâm trí bạn,
    Vậy đừng tiết lộ chuyện riêng mà!
  5. Ban ngày chỉ có một mình ta,
    Cứ bạo gan nêu chuyện kín ra,
    Song giữa đêm khuya trời vắng vẻ,
    Ðừng liều lĩnh lộ chuyện riêng mà.
  6. Bởi vì chắc chắn ở bên lưng,
    Cỏ kẻ phản ta đứng sẵn sàng,
    Lời thoáng đưa đều nghe lọt cả:
    Vậy đừng tin chúng: đệ cầu mong!

Ðây là năm vần kệ sẽ xuất hiện trong vấn đề Năm vị Hiền nhân của Tiền thân Ummagga, số 546, tập VII.

Tiếp theo là các vần kệ này:

  1. Như cổ thành vây bọc tứ phương,
    Với hào, cọc sắt, đã coi thường
    Quân thù xâm nhập vào Tiên giới,
    Bí mật người khôn giữ kín luôn.
  2. Những người dù vội vã nhanh lời,
    Chuyện kín vẫn không hé hở môi,
    Mà quyết giữ mình luôn vững chắc,
    Thật lòng chân chánh, đấy là người
    Cừu nhân phải tránh, như đi trốn
    Lúc rắn độc đang đuổi chạy dài!

Khi Chân lý đã được Ðiểu vương tuyên thuyết như vậy, Long vương Pandara liền ngâm vần kệ:

  1. Lõa thể, cạo đầu, gã xuất gia,
    Lang thang khất thực khắp quê nhà,
    Ôi! Ðem bí mật khai cùng gã,
    Phúc đức tan tành, số phận ta!
  2. Giới hạnh nào, tu sĩ phải trì,
    Phát nguyền nào, tránh lỗi lầm chi?
    Làm sao thoát ác hành vây hãm,
    Ðể đạt thiên cung cuối hạn kỳ?

Ðiểu vương đáp:

  1. Bền lòng, kham nhẫn, tự điều thân,
    Vứt bỏ vọng ngôn, với hận sân,
    Tu sĩ đoạn trừ bao tội lỗi,
    Sau cùng đạt đến cảnh thiên cung.

Long vương Pandara nghe Ðiểu vương thuyết Pháp như vậy liền xin tha mạng và ngâm vần kệ này:

  1. Như trẻ sơ sinh, mẹ ngắm nhìn,
    Khắp người rung động, thú thần tiên,
    Ðiểu vương cũng vậy, xin ban bố,
    Từ ái đàn con, đấng mẹ hiền!

Sau đó Ðiểu vương tha mạng cho Long vương và ngâm vần kệ nữa:

  1. Chúa Rồng, ta thả bạn bây giờ
    Thoát chết, cho ngài được tự do
    Trong các bầy con này, chỉ có:
    Con nuôi, con ruột, học trò ta,
    Là ba trẻ hưởng nhiều sung sướng,
    Quả thật ngài là một giữa ba!

Nói vậy xong, Ðiểu vương hạ cánh từ trên không và đặt Long vương xuống mặt đất liền.

Bậc Ðạo sư ngâm hai vần kệ để làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Nói vậy xong, Chim chúa thả ngay
    Kẻ thù, đáp nhẹ địa cầu này:
    Nay ta giải phóng, mau đi kiếm
    An trú xa nơi hiểm họa đầy,
    Dù bạn lên bờ hay dưới nước,
    Ta nguyền phòng hộ kỹ từ rày.
  2. Như lương y có đủ tài năng,
    Con bệnh hiểm nghèo đã chữa xong,
    Như nước mát trong hồ giải khát
    Cho bao người được thỏa thuê lòng,
    Như nhà trú ẩn trời băng giá
    Ta, chốn bạn nhờ, lúc bại vong.

Ðiểu vương lại bảo:

– Xin hãy đi ngay.

Rồi Chim thần thả Long vương ra. Long vương liền biến mất vào cảnh giới của loài Rồng rắn.

Còn Ðiểu vương trở về nơi cư ngụ của loài Kim sí Ðiểu, tự nhủ:

– Long vương Pandara đã được ta tin tưởng nhờ lời thề nguyền nên được ta thả ra. Bây giờ ta phải thử thách xem tình cảm của vị này đối với ta ra sao.

Rồi đi đến cảnh giới Long vương, Chim thần này nổi cơn thần phong của loài Kim sí Ðiểu lên thật mạnh.

Thấy vậy, Long vương tưởng Kim sí Ðiểu vương đến bắt mình, liền hóa hình dài cả ngàn sải (1 sải: 1m 82) và nuốt cát sỏi cho nặng rồi nằm sâu xuống, vừa dấu đuôi dưới mình xong, vừa vội giương cao mồng lên như thể sẵn sàng cắn Ðiểu vương.

Thấy vậy, Ðiểu vương liền ngâm vần kệ:

  1. Kìa, Long vương trước đã làm lành,
    Nay bỗng dưng ngài há bộ nanh,
    Với địch thủ ngài trong thuở trước,
    Vì đâu ngài phách lạc hồn kinh?

Nghe lời này Long vương ngâm ba vần kệ:

  1. Phải luôn nghi ngại kẻ thù mình,
    Chớ quá tin ngay bạn chí tình,
    Lòng cả tin sinh niềm sợ hãi,
    Giết ngươi từ gốc đến đầu cành.
  2. Sao đặt lòng tin tưởng một người
    Trước kia ta đã cãi tranh rồi?
    Hãy lo phòng hộ mình cho kỹ,
    Yêu kẻ địch à? – Chẳng có ai!
  3. Hãy gây tin tưởng khắp nơi nơi,
    Song chớ tin vào bất cứ ai,
    Ðừng để người nghi ngờ chính bạn,
    Song tâm hướng đến mối nghi hoài;
    Người nào thực sự là người trí,
    Cần phải hết lòng gắng sức thôi,
    Bản tính mình không hề để lộ,
    Phơi bày ra trước mặt người đời!

Hai vị đã trò chuyện với nhau như vậy xong liền hòa giải với nhau và cùng nhau thân thiết đi đến am của ẩn sĩ khổ hạnh kia.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ để làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Này thấy xứng đôi bạn thánh thần,
    Toát ra dáng điệu tịnh tham tâm,
    Như đôi tuấn mã cùng cương chạy,
    Ðến chốn nhàn cư của Thánh nhân.

Về vấn đề này, bậc Ðạo sư ngâm thêm một vần kệ nữa:

  1. Long vương đi thẳng đến thầy tu,
    Rồng chúa báo ngay với kẻ thù:
    “Phải biết hôm nay ta thoát nạn,
    Không nhờ tình Thánh giả dành cho!”.

Tiếp theo, vị khổ hạnh liền ngâm vần kệ khác:

  1. Trịnh trọng ta thề trước Ðiểu vương,
    Với ngài, ta nặng trĩu tình thương,
    Hơn bao giờ cả, song rung cảm
    Vì mối tình thân với đại bàng,
    Ta đã sai lầm vì cố ý,
    Chớ không do bởi tính ngông cuồng!

Nghe vậy, Long vương liền ngâm ba vần kệ:

  1. Người thấy đời này lẫn kiếp sau
    Chẳng hề thương ghét nhọc lòng đâu,
    Tu hành đội lốt, ngài mong dấu
    Hành động phi nhân, ngược thánh bào.
  2. Nhuốm đầy ty tiện, dáng cao siêu,
    Khoác áo tu, lòng chẳng tự điều,
    Bản tính chứa tầm tư hạ liệt,
    Ngài chuyên tạo ác nghiệp bao nhiêu!

Rồi để khiển trách gã, vị này lại ngâm vần kệ nhiếc mắng:

  1. Chỉ điểm, dối lừa, muốn giết oan
    Bạn lành vô tội, vậy ta mong
    Nhờ đây Thề nguyện điều Chân thật:
    Bảy mảnh, đầu ngài phải vỡ tan.

Thế là ngay trước mắt Long vương, đầu kẻ tu khổ hạnh kia bị vỡ nát thành bảy mảnh và mặt đất nứt ra ngay ở nơi gã đang ngồi. Gã biến mất vào lòng đất và tái sinh vào địa ngục Avìci (A-tỳ). Còn Long vương và Ðiểu vương đều trở về cảnh giới của riêng mình.

*

Bậc Ðạo sư làm sáng tỏ sự kiện vị ấy đã bị nuốt trửng vào lòng đất bằng vần kệ sau cùng:

  1. Vì thế ta nay nhắn nhủ rằng
    Chớ bao giờ phản bội thân bằng
    Còn gì tồi tệ hơn nhìn thấy
    Một thứ bạn bè giả dối chăng?
    Bị nuốt trôi vào lòng đất lạnh,
    Kẻ mồm độc ấy ngã nhào lăn,
    Và người khổ hạnh nay đành chết
    Vì chính lời kia của chúa Rồng

*

Ðến đây bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngay cả xưa kia nữa, Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) đã nói dối và bị nuốt trửng vào lòng đất.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, ẩn sĩ là Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa), Long vương là Sàriputta (Xá-lợi-phất), và Kim sí Ðiểu vương chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hoàng hậu Sambulà (Tiền thân Sambulà)

Run rẩy nép mình dáng hãi kinh..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể lại trong lúc Ngài trú tại Kỳ Viên, về Hoàng hậu Mallikà (Mạt-lợi)

Phần khởi đầu được kể đầy đủ trong Tiền thân Kammàsapinda (số 415, tập IV). Lúc bấy giờ nhờ công đức cúng dường ba phần cháo dâng đức Như Lai, ngay hôm ấy bà được sắc phong địa vị chánh hậu, cai quản đám cung tần trung tín, bà đầy đủ năm vẻ nữ sắc yêu kiều, tài trí tột bực, lại là đệ tử của đức Phật, bà tỏ ra là một vợ hiền tận tụy. Lòng nhiệt tình của bà sáng chói tỏa khắp cả kinh thành.

Vì vậy một ngày kia, các Tỷ-kheo bắt đầu bàn luận trong Chánh pháp đường việc hoàng hậu Mallikà là một hiền phụ trung kiên, tận tụy như thế nào. Bậc Ðạo sư, lúc đến đó, liền hỏi các Tỷ-kheo đang bàn luận đề tài gì, và khi được biết, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngay cả ngay xưa nữa, bà ấy đã là một vợ hiền tận tụy.

Nói vậy xong, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, Brahmadatta có một hoàng nam mệnh danh là Sotthisena, và lúc đến tuổi trưởng thành, chàng được phong làm phó vương. Chánh phi của chàng là Sambulà cực kỳ diễm lệ, dung sắc rực rỡ chói lọi như thể ánh đèn chiếu sáng trong chốn tối tăm.

Song dần dần chứng bệnh phong cùi xuất hiện trên mình phó vương Sotthisena và mọi lương y đành bó tay chữa trị. Khi các vết lở loét chảy mủ ra, thật hôi tanh khủng khiếp đến độ phó vương tuyệt vọng kêu lên:

– Ngai vàng có ích gì cho ta đâu? Thôi ta vào rừng sâu này chết một mình không cần bạn bè cho xong.

Khi đã cho trình vua cha, chàng rời hậu cung ra đi.

Mặc dù chàng cố sức ngăn cản, Sambulà vẫn không chịu trở về, mà bảo:

– Thiếp xin nguyện chăm sóc Chúa công trong rừng thẳm.

Rồi nàng cùng chàng ra đi, từ bỏ kinh thành. Khi vào rừng, chàng xây một lều cỏ để trú thân ở một nơi có bóng cây và nước suối, trái rừng đầy đủ. Còn vương phi săn sóc chàng ra sao?

Nàng dậy thật sớm, quét dọn lều sân mang nước đến cho chàng súc miệng. Khi chàng súc miệng xong, nàng nghiền nát nhiều loại cỏ thuốc thoa vào các vết lở loét của chàng rồi đưa trái cây ngon ngọt cho chàng ăn. Khi chàng đã súc miệng, rửa tay, nàng chào chàng và bảo:

– Xin Chúa công hãy chuyên tâm làm việc thiện.

Rồi nàng cầm cái thúng, cái xẻng, và cái móc đi vào rừng hái trái cây cho chàng. Khi chàng ăn hết, nàng đem nước thơm cho chàng uống rồi mới ăn trái cây phần mình.

Nàng lại sắp đặt một tọa sàng có khăn phủ lên, và trong lúc chàng nằm trên đó, nàng rửa chân cho chàng, thay áo quần, tắm gội đầu cho chàng xong, nàng đến nằm xuống cạnh tọa sàng. Nàng chăm sóc Chúa công của nàng như vậy đó.

Một ngày kia, trong lúc đem trái cây về nhà, nàng thấy một hang có con suối, nàng liền đặt thúng trên đầu xuống, đứng bên bờ hang, rồi bước xuống tắm, nàng xoa khắp người với thuốc nhuộm vàng rồi tắm rửa. Xong xuôi nàng trèo lên mặc áo quần bằng vỏ cây và đứng trên bờ suối. Cả khu rừng sáng rực lên vì dung sắc rực rỡ tỏa ra từ thân thể nàng. Lúc ấy có một con ác quỷ Dạ-xoa đi tìm mồi, thoạt trông thấy nàng, liền mê mẩn ngâm đôi vần kệ sau:

  1. Run rẩy nép mình dáng hãi kinh,
    Ai đây đang đứng cạnh hang ghềnh,
    Nói đi, thục nữ thân bồ liễu,
    Quyến thuộc là ai, với quý danh?
  2. Nương tử là ai, đẹp rỡ ràng,
    Ðâu là dòng giống của nhà nàng,
    Khiến nàng chiếu rực khu rừng sáng,
    Chốn lạc cư muôn loại thú hoang?
    Yêu quỷ là ta đầy kính cẩn
    Nghiêng mình, bái phục trước tôn nhan!

Nghe ác quỷ nói thế, nàng đáp lời qua ba vần kệ:

  1. Thái tử Sot-thi kế vị ngai,
    Xứ Kà-si, hãy biết như vầy,
    Ta là vương hậu hoàng nam ấy,
    Thường gọi Sam-bu chính hiệu này.
  2. Vương tử Vi-đề đang ốm đau,
    Khổ thân mê loạn ở rừng sâu,
    Mình ta chăm sóc chàng nằm liệt,
    Không thế, chắc chàng phải chết mau!
  3. Ðây miếng thịt nai thật ngọt ngon,
    Ta vừa kiếm được chốn rừng hoang,
    Ðem về dâng chúa công ta đó,
    Giờ bởi thiếu ăn đã mỏi mòn!

Ác quỷ:

  1. Chúa công bệnh hoạn ích gì chăng?
    Ngài chẳng cần vương hậu, hỡi nàng,
    Mà chỉ cần người nuôi bảo hộ,
    Ta mong chiếm địa vị ông hoàng!

Vương phi:

  1. Lòng ta mòn mỏi với ưu sầu,
    Khốn khổ bơ vơ, đẹp chẳng cầu,
    Nếu quỷ vương tìm nương tử mới,
    Hãy cầu nàng khác đẹp dường nào!

Ác quỷ:

  1. Thê thiếp bốn trăm sẵn của ta
    Tôn vinh lầu các ở đồi xa,
    Xin nàng chiếu cố, ngôi cao ngự,
    Cho thỏa bao nguyền ước thiết tha.
  2. Hỡi mỹ nhân tươi sáng ánh vàng,
    Những gì nàng quý chuộng cho nàng,
    Ta đều ban tặng, xin mời đến,
    Cùng ta tận hưởng thú trần gian.
  3. Nếu chối từ làm vợ quỷ vương,
    Hiển nhiên nàng hóa miếng mồi ngon
    Cho ta thọ dụng hôm nay đấy,
    Ðể lót lòng ta đã nhịn cơm.

Bậc Ðạo sư:

  1. Ác quỷ mày râu rậm bảy chòm,
    Khiến cho người thất đảm kinh hoàng,
    Thấy nàng lạc lỏng bơ vơ bước,
    Liền nắm chặt tay ấy của nàng.
  2. Bị cầm giam bởi quỷ hung tàn,
    Cừu địch nàng kia, ác dục tràn,
    Nàng chỉ khóc thương chàng vắng mặt,
    Chẳng hề quên nỗi khó riêng chàng.

Vương phi:

  1. Ta chẳng buồn vì số phận ta,
    Làm mồi cho quỷ ác căm thù,
    Song vì tình trượng phu tôn quý,
    Ly biệt ta, đành phải héo khô.
  2. Chư thần đi vắng cả rồi chăng?
    Chẳng vị nào cai quản thế gian
    Ðể trấn áp hành vi sỉ nhục,
    Cản ngăn điều phóng đãng dâm loàn!

Lúc ấy cung đình của Ðế Thích Thiên chủ rung động vì công năng đức hạnh của nàng, chiếc ngai bằng hoàng thạch của ngài trông có vẻ nóng lên; ngài suy nghĩ, tìm ra duyên cớ, liềm cầm kim cang chùy phi nhanh đến trước con quỷ và ngâm vần kệ:

  1. Giữa đám quần đệ nhất danh,
    Chính nàng toàn hảo, trí thông minh,
    Khác nào ngọn lửa đang bừng sáng,
    Ví thử ngươi ăn thịt gái lành,
    Ác quỷ, đầu ngươi liền vỡ nát,
    Thành ra bảy mảnh phải tan tành.
    Vậy đừng làm hại nàng, nên thả,
    Nàng, vợ hiền dâng hiến trọn mình.

Nghe vậy, con quỷ liền thả Sambulà. Thiên chủ nghĩ thầm: “Con quỷ này sẽ còn tái phạm một lần nữa”.

Vì thế ngài lấy dây trói, giam lỏng nó trên ngọn núi thứ ba cách xa chỗ ấy, để nó không trở lại đấy được, rồi nồng nhiệt ngợi khen vương phi xong, ngài trở về thiên đình của ngài. Còn vương phi, sau khi mặt trời lặn, phải nhờ ánh trăng trở về lều cỏ.

Bậc Ðạo sư ngâm tám vần kệ giải thích sự việc:

  1. Thoát quỷ kia, nàng vội lại nhà,
    Như chim về thấy chết con thơ,
    Hay bò bị cướp bê con dại,
    Than khóc nhìn hang ổ trống trơ.
  2. Cũng vậy, Sam-bu tiếng tốt vang,
    Hoàng phi liền cất giọng kêu than,
    Thất thần, hoảng hốt, bơ vơ quá,
    Ðơn độc, vô phương giữa núi ngàn:
  3. “Tiện thiếp xin quỳ lạy Ðạo sư,
    La-môn, hiền thánh trí nhân từ,
    Bơ vơ, lạc lỏng thay, thân thiếp
    Chạy đến thần nhân để trú nhờ.

19-20. Cọp beo, sư tử, chúa sơn lâm,
Cùng các loài hoang thú ở giữa rừng,
Tiện thiếp xin chào mừng tất cả,
Cỏ cây, hoa lá mọc um tùm,
Xin chào rừng rậm màu xanh ngắt
Cùng núi cao dốc đứng chập chùng.

  1. Tiện thiếp xin thi lễ Dạ thần,
    Trên cao tinh tú điểm huy hoàng,
    Ðêm dày tựa đóa sen xanh thẳm,
    Nhuốm vẻ đậm đà nhất thế gian!
  2. Thiếp xin thi lễ cả sông Hằng,
    Là mẹ hiền chung của suối sông,
    Ở giữa loài người trên hạ giới,
    Bha-gi-ra mỹ hiệu vang lừng.
  3. Tiện thiếp xin chào đỉnh Tuyết Sơn,
    Là vua ngự trị mọi sơn lâm,
    Ðà chồng chất nhất cao hùng vĩ,
    Vượt hẳn lên toàn cảnh thế gian.

Nhìn thấy nàng đang than khóc như thế, Sotthisena nghĩ thầm: “Nàng than khóc quá lời. Ta không biết có ý gì đây, nếu nàng làm thế vì yêu thương ta, thì tim nàng sẽ tan nát. Thôi ta phải thử nàng xem sao”.

Chàng liền đi đến ngồi ở cửa lều. Nàng đến cửa vẫn còn than khóc, đảnh lễ chàng xong, nàng hỏi:

– Nãy giờ chúa công ở đâu?

Chàng đáp:

– Này vương phi, ngày thường nàng chưa hề về nhà giờ này, hôm nay nàng về quá trễ.

Rồi chàng ngâm vần kệ hỏi nàng:

  1. Này quý phi danh tiếng vọng vang,
    Sao nàng về muộn quá chiều tàn?
    Tình lang yêu dấu nào đâu hẳn
    Ðã giữ nàng lâu hóa trễ tràng?

Nàng đáp lại:

– Tâu chúa công, thiếp đang mang trái cây về nhà thì gặp một con quỷ si tình thiếp, nắm tay thiếp và bảo: “Nếu nàng không nghe lời ta, ta sẽ ăn thịt nàng ngay”.

Và nàng ngâm vần kệ:

  1. Bị cừu địch bắt, nặng sầu tư,
    Thiếp nói lời cùng quỷ Dạ-xoa:
    “Ta chẳng buồn đau vì số phận
    Làm mồi cho ác quỷ tinh ma,
    Song vì tình trượng phu tôn quý
    Ly biệt ta, đành phải héo khô”.

Rồi nàng kể hết mọi chuyện cho chàng nghe và nói:

– Khi thiếp đang bị quỷ bắt giữ như vậy không thể nào thoát thân được, thiếp liền xin sự phò hộ của chư thần, nên Ðế Thích Thiên chủ hiện ra, cầm chùy kim cang trong tay, ở trên không hăm dọa ác quỷ thả thiếp ra. Rồi ngài lại lấy dây thần trói quỷ trên ngọn núi thứ ba xa chỗ ấy, xong biến mất. Thế là thiếp đã được Ðế Thích Thiên chủ cứu mạng.

Thái tử Sotthisena nghe xong liền bảo:

– Này vương phi, chuyện có thể là như vậy. Với nữ nhân thật khó biết được sự thật. Trong vùng Tuyết Sơn có nhiều sơn nhân, ẩn sĩ, và pháp sư. Ai sẽ tin nàng đây?

Nói vậy xong chàng ngâm vần kệ:

  1. Các nàng ngọc nữ quá tinh khôn,
    Thật hiếm khi tìm được thật chơn,
    Cung cách nữ nhân làm rối trí,
    Như đường cá lội giữa trùng dương!

Nghe vậy, nàng đáp:

– Tâu Chúa công, dù chàng không tin thiếp, thiếp vẫn nói nhân danh chân lý và thiếp sẽ chữa bệnh cho chàng.

Thế là khi đã rót đầy một bình nước để thực hiện một lời Ước nguyện Chân lý, nàng đổ nước từ trên đầu chàng và ngâm vần kệ:

  1. Ước mong Chân lý, chốn nương thân,
    Thiếp chẳng yêu ai khác Chúa công,
    Thiếp nguyện cầu xin nhờ Nói Thật
    Bệnh chàng nay được chữa lành chăng?

Khi nàng thực hiện lời Nguyện cầu Chân lý ấy xong, nước vừa được rảy lên đầu Sotthisena thì bệnh hủi liền biến mất như thể rỉ đồng gặp cường toan vậy. Sau khi ở lại đó vài ngày, hai vị rời khu rừng, đi đến Ba-la-nại và vào ngự viên.

Phụ vương biết chuyện hai con đã về, liền vào ngự viên, ngay tại đó, ngài bảo đem chiếc lọng hoàng gia đến che lên đầu Sotthisena, làm lễ quán đảnh sắc phong Sambulà lên ngôi chánh hậu. Sau đó ngài đưa hai con về thành, và chính ngài xuất gia tu hành, lập am trong ngự viên, nhưng vẫn thường dùng ngự thiện trong cung.

Còn vua Sotthisena chỉ phong Sambulà lên ngôi chánh hậu, song chẳng ban huệ gì cho nàng, chàng chẳng quan tâm ngay cả đến đời sống của nàng, mà chỉ ham hưởng lạc thú với những nữ nhân khác. Sambulà hờn ghen với đám tình địch kia nên gầy mòn bạc nhược, cả thân hình nổi gân xanh xao ra dáng bệnh hoạn.

Một ngày kia, phụ hoàng của vua, vi ẩn sĩ đã xuất gia ấy, đến dùng ngự thiện, nàng liền yết kiến ngài cho khuây khỏa nổi buồn. Sau khi ngài dùng bữa xong, nàng đảnh lễ ngài và ngồi xuống một bên. Trông thấy tình trạng suy nhược của nàng, ngài ngâm vần kệ hỏi:

  1. Bảy trăm vương tượng trực bên mình,
    Phòng hộ sẵn sàng khởi chiến binh,
    Thiện xạ hàng trăm ngừa hiểm họa,
    Ðâu cừu nhân đến khiến hồn kinh?

Nghe vậy, nàng đáp lại:

– Tâu phụ vương, chúa thượng không còn như xưa đối với thần thiếp nữa.

Rồi nàng ngâm năm vần kệ:

  1. Chàng yêu mỹ nữ tựa liên hoa,
    Giọng điệu thiên nga cất tiếng thưa,
    Rung động lòng chàng say đắm đuối,
    Khi chàng nghe chúng nhịp nhàng ca,
    Thiếp không còn ngự trong tâm tưởng,
    Tình cảm chàng, như một thuở xưa!
  2. Nữ nhân dáng đẹp tựa thiên nga,
    Trang điểm toàn châu báu sáng lòa,
    Tuyệt sắc cung tần nằm yểu điệu,
    Mê hồn quyến rủ mắt vương gia!
  3. Mong lần nữa lạc bước rừng hoang,
    Kiếm mỗi bữa ăn đỡ dạ chàng,
    Thiếp sẽ được chàng yêu quý lại,
    Rừng xanh ngự trị bỏ ngai vàng!
  4. Gấm vóc lụa là khoác nữ nhi,
    Cao lương mỹ vị đủ tràn trề,
    Diễm kiều, song nếu chàng không chuộng,
    Thà kết lụa đào để chết đi!
  5. Gái nghèo khốn khổ ngủ giường rơm,
    Nếu được yêu thương dưới mắt chồng,
    Cũng hưởng một đôi niềm hạnh phúc,
    Mà người chỉ thiếu tấm tình nồng
    Không hề biết đến, dù đầy đủ
    Tất cả mọi điều, tấu phụ vương!

Khi nàng giải thích cho vị vua ẩn sĩ hiểu nguyên nhân vì đâu nàng héo mòn như vậy, ngài liền triệu vua tới và bảo:

– Này vương nhi Sotthisena, khi vương nhi bị bệnh hủi giày vò khốn khổ phải chốn vào rừng sâu, nàng đã cùng vương nhi vào rừng, săn sóc hầu hạ đủ mọi nhu cầu cho vương nhi, lại nhờ thần lực Chân lý chữa bệnh cho vương nhi nữa; bây giờ sau khi nàng đã làm phương tiện cho vương nhi ngự chiếc ngai vàng, vương nhi không biết đến địa vị của nàng, thật là lỗi đạo lắm. Một hànhđộng phản bội bạn hiền như vậy là một tội lớn.

Rồi ngài ngâm vần kệ:

  1. Khó tìm được vợ chung tình,
    Nam nhi tốt với vợ mình, khó sao,
    Vương nhi đức hạnh dường nào,
    Với chồng, nàng lại dạt dào tình thương.
    Vậy giờ đây, hỡi quân vương,
    Với Sambu, phải trọn đường thủy chung.

Sau khi khiển trách vương nhi xong, ngài đứng dậy bỏ ra về ngay. Khi vương phụ đi rồi, vua triệu Sambulà đến và bảo:

– Này ái hậu, xin hãy tha thứ lỗi lầm của trẫm bấy lâu nay. Từ nay về sau trẫm giao hết quyền hành cho ái hậu.

Và nhà vua ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Hưởng đầy phúc lộc dồi dào,
    Ái khanh vẫn cứ xanh xao héo mòn,
    Vì lòng nặng trĩu ghen hờn,
    Từ nay trẫm với phi tần cung nga,
    Là người dưới trướng Sam-là,
    Sẵn sàng tuân phục lệnh bà phán sai!

Từ đó nhà vua cùng hoàng hậu sống hạnh phúc bên nhau, thực hành bố thí, và các thiện pháp.

Ðến khi từ trần, hai vị đi theo đúng hạnh nghiệp của mình. Còn vị ẩn sĩ khổ hạnh tu tập phát khởi Thiền định, về sau tái sinh vào Phạm thiên giới.

*

Bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại xong lại bảo:

– Không chỉ bây giờ mà ngay cả ngày xưa nữa, Mallikà đã là người vợ thủy chung.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ Sambulà là Mallikà, Sotthisena là vua xứ Kosala, vị ẩn sĩ kia chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện vị thần cây Tindu (Tiền thân Gandatindu)

Lòng nhiệt thành là hướng Niết bàn..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể lại trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc giáo hóa một ông vua.

Việc giáo hóa này được kể đầy đủ trong Tiền thân số 334 Tiền thân Ràjovàda tập III và số 521, Tiền thân Tesakuna, tập V.

*

Ngày xưa tại quốc độ Kampila, trong kinh thành phía Bắc xứ Pancala, có vị vua danh hiệu Pancala, cai trị bất công vì theo ác đạo và phóng dật buông lung, bởi thế các quần thần cũng trở nên bất công như nhà vua. Dân chúng bị thuế má nặng nề áp bức liền đem vợ con lang thang vào rừng như bầy dã thú.

Những vùng trước kia là làng mạc, nay hoang vắng cả, dân chúng ban ngày thì sợ quân sĩ của nhà vua nên không dám ở trong nhà, và lấy hàng rào gai bao bọc lại, khi trời mới tảng sáng, họ đã biến dạng vào rừng. Ban ngày họ bị quân lính của vua tước đoạt của cải còn ban đêm lại bị bọn cướp hoành hành.

Vào thời ấy, Bồ-tát xuất hiện trong thân hình một vị Thần cây Tinduka ở ngoại thành, hằng năm nhận được phẩm vật cúng dường của nhà vua trị giá một ngàn đồng tiền, ngài nghĩ thầm: “Nhà vua thật buông lung phóng dật, quốc độ đang suy tàn, ngoài ta ra, không ai có thể đưa vua trở về chánh đạo. Vua này là kẻ ban ơn cho ta, hằng năm lại dâng tặng ta phẩm vật một ngàn đồng tiền. Vậy ta sẽ giáo hóa cho vị vua này”.

Thế là đang đêm tối, ngài vào hậu cung đứng trên không, ngay phía đầu vương sàng, phóng ra một luồng hào quang. Vua thấy ngài sáng chói như mặt trời mọc, liền hỏi ngài là ai và từ đâu đến. Nghe vua hỏi, ngài đáp:

– Này Ðại vương, ta là thần Tinduka đến đây khuyên nhủ ngài.

Vua hỏi:

– Ngài muốn khuyên trẫm điều gì?

Bậc Ðại sĩ đáp:

– Ðại vương buông lung việc trị nước, cả quốc độ đang điêu tàn như thể làm mồi cho bọn quần thần tay sai. Vua chúa buông lơi việc trị nước không thể nào làm chủ vận mệnh quốc gia được, ngay trong đời này chính họ sẽ bị suy tàn và đời sau phải tái sinh vào địa ngục, một khi vua chúa buông lơi việc cai trị, quần thần bên ngoài lẫn bên trong quốc độ buông lơi theo cả, vì thế nhà vua phải hết sức lo trị nước.

Nói xong, ngài ngâm các vần kệ ghi lại một bài học đạo đức:

  1. Lòng nhiệt tình là hướng Niết-bàn,
    Buông lung thường dẫn đến vong thân,
    Những người tỉnh giác không hề chết,
    Phóng dật khác nào đã mạng vong.
  2. Buông lung có gốc tự kiêu căng,
    Phóng dật sinh hư hỏng, mạng vong,
    Hư hỏng tác thành ra ác nghiệp,
    Ðoạn trừ phóng dật, hỡi Anh quân!
  3. Người hùng phóng dật biết bao phen,
    Bị tước giang sơn lẫn bạc tiền,
    Ðiền chủ trở thành người thất lạc
    Không nhà, trôi giạt, khổ triền miên.
  4. Khi vua buông lỏng việc kinh bang,
    Không đúng theo danh nghĩa, tiếng vang,
    Ví thử bạc vàng đều biến mất,
    Chỉ còn ô nhục với ông hoàng!
  5. Phi thời phóng dật, hỡi quân vương,
    Từ chánh, ngài đi lạc bước đường,
    Quốc độ phồn vinh ngày trước ấy
    Nay làm mồi bọn cướp tan hoang.
  6. Hoàng nam chẳng hưởng được giang san,
    Vàng bạc, lúa ngô, viện bảo tàng,
    Quốc độ làm mồi cho kẻ ác,
    Ngài còn bị tước cảnh vinh quang.
  7. Ông hoàng bị tước đoạt giang san
    Với các kho châu báu, bạc vàng
    Chẳng được niềm tin yêu thuở trước,
    Của thân bằng quyến thuộc, lân bang.
  8. Xe ngựa, quản xa, với vệ binh,
    Lục quân lúc trước thật hùng anh,
    Khi nhìn vua phải tiêu cơ nghiệp,
    Cũng chẳng còn vì nể, kính danh.
  9. Ngu xuẩn sống đời chẳng kỷ cương,
    Bị lời tà dụ dỗ, sai đường,
    Người ngu chóng mất vinh quang cũ
    Như rắn phải quăng lớp vỏ tàn.
  10. Song kẻ nào thức dậy đúng thời,
    Không hề mỏi mệt, kỷ cương noi,
    Cả đàn gia súc đều tăng trưởng,
    Tài sản người kia lớn mãi hoài.
  11. Ðại đế, xin ngài mở rộng tai,
    Lắng nghe dân chúng nói bao lời:
    Nhờ nghe, nhìn được điều Chân lý,
    Thành đạt đường theo phước nghiệp ngài.

Như vậy, bậc Ðại sĩ đã giáo hóa vua mười một vần kệ, rồi bảo:

– Ðại vương hãy đi nuôi dưỡng quốc độ, đừng chậm trễ, chớ để đất nước suy tàn.

Nói xong ngài trở lại cõi của ngài.

Vua nghe các lời khuyên ấy, vô cùng cảm kích, ngay hôm sau, ngài liền giao việc nước cho các vị đại thần và cùng với vị tế sư của hoàng gia, rời kinh thành bằng đông môn và đi được một khoảng chừng vài trăm thước. Nhằm lúc ấy, có một ông lão vốn là dân làng lấy những cành cây gai trong rừng về đặt quanh nhà, sát cửa lớn, rồi cùng vợ con vào rừng. Buổi chiều, khi quân lính vua đã bỏ đi, người ấy trở về nhà đến gần cửa bị đầu gai nhọn đâm vào chân, lão ngồi vắt chân lên, vừa rút gai ra, vừa nguyền rủa vua qua vần kệ:

  1. Mong tên trúng ở chiến trường
    Cho Pan-ca bạo chúa thương khóc đời,
    Như ta có cớ kêu trời,
    Thế này vì bị gai dài đâm da!

Lời nguyền rủa vua này phát ra nhờ thần lực của Bồ-tát, lão già nguyền rủa vua như thể một người được Bồ-tát nhập vào, hành động này của lão phải được hiểu như vậy. Vào lúc đó, vua cùng vị tế sư của ngài đang cải trang đứng trước mặt lão.

Vị tế sư nghe như vậy liền đáp kệ:

  1. Tôn ông nay tuổi đã già,
    Và đôi mắt đã mù lòa, cho nên,
    Chẳng công bằng để xét xem,
    Chính ta đáng bị rủa nguyền đó sao?
    Chúa Brah-ma biết thế nào,
    Khi chân ông bị gai cào đâm da?

Nghe lời này, ông lão ngâm ba vần kệ:

  1. Hiển nhiên vì chúa Brah-ma
    Cho nên mới khổ thân ta thế này!
    Như dân cô thế thường hay
    Bị đem chém giết vì bầy hại dân.
  2. Ban đêm bị trộm ăn phần,
    Ban ngày gặp lũ thuế nhân thu tiền;
    Ác nhân đầy rẫy toàn miền,
    Khi bầy bạo chúa nắm quyền trong tay.
  3. Khổ đau vì sợ nỗi này,
    Dân lành đành phải chạy bay vào rừng,
    Chung quanh nhà rải lung tung
    Ðám gai để được yên phận mình!

Nghe nói vậy vua bảo vị Sư trưởng:

– Này Sư trưởng, lão già này nói đúng lắm, đó là lỗi của ta. Vậy ta hãy trở về cai trị nước chođúng pháp.

Lúc ấy, Bồ-tát nhập vào thân của vị Sư trưởng, đứng trước mặt vua bảo:

– Tâu Ðại vương, ta hãy xem xét vấn đề này cho kỹ.

Rồi từ làng ấy qua một làng khác, hai vị lại nghe lời của một bà già. Nghe nói bà này nghèo khổ có hai con gái đã lớn mà bà không muốn cho hai con vào rừng. Nhưng chính bà phải tìm củi, lá khô về cung cấp cho hai con. Một ngày kia, bà lão trèo lên cây lượm lá, bị té lăn tròn xuống đất, liền nguyền rủa vua phải chết đi và ngâm vần kệ này:

  1. Khi nào vua ấy chết đi?
    Chao ôi, còn chúa trị vì non sông,
    Các con lẻ bóng phòng không,
    Thở than mong kiếm tấm chồng hoài hơi!

Vị tế sư ngâm vần kệ ngăn lời bà lão:

  1. Xấu mồm vô ích, bà ơi!
    Những lời bà mới kêu trời gào la,
    Làm sao vua kiếm đâu ra
    Trong làng cho mỗi gái tơ một chồng?

Bà già nghe nói đáp lại hai vần kệ:

  1. Lời ta chẳng phải ác ngôn,
    Cũng không phải nói hoài công hão huyền;
    Khi còn thất thế dân đen
    Chịu đàn áp bởi lắm tên giết người:
  2. Ðêm nằm cho trộm làm mồi,
    Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!
    Ác nhân đầy rẫy non sông,
    Khi quyền cai trị hôn quân nắm hoài
    Thời suy, bần nữ lắm người
    Buồn tình chẳng kiếm được ai làm chồng!

Nghe bà lão nói, cả hai vị đều nghĩ: “Bà lão này nói đúng vấn đề đây”.

Rồi hai vị đi xa hơn một khoảng đường lại nghe một gã nông dân nói chuyện. Trong lúc gã cày ruộng, con bò của gã tên gọi Saliya ngã lăn ra vì bị lưỡi cày đụng phải, gã chủ bò liền nguyền rủa vua qua vần kệ:

  1. Cầu Pan-ca chúa ngã lăn,
    Trúng nhằm mũi giáo của quân thù hằn,
    Như Sa-li ngã xuống đường,
    Thương thay! Cày đụng bị thương nằm đờ!

Vị Sư trưởng liền ngâm vần kệ chận gã lại:

  1. Ngươi hờn giận chúa Brah-ma
    Song ai có thấy đâu là nguyên do?
    Vì ngươi phỉ báng đức vua,
    Tội kia tất cả đều là của ngươi!

Nghe thế, gã nông phu đáp ba vần kệ:

23-24. Vì vua, ta cứ giận sôi,
Nên ta cương quyết giữ lời thẳng ngay;
Dân đen thất thế như vầy,
Bị tàn sát bởi lắm tay giết người:
Ðêm nằm cho trộm làm mồi,
Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!..

  1. Gia nô phải nấu hai lần
    Rồi mang cơm nước muộn màng cho ta,
    Lúc đang há họng chờ nhà,
    Bò ta bị đụng ắt là mạng toi!

Đi xa hơn một đoạn nữa, hai vị vào một làng kia. Sáng sớm hôm sau, một con bò trở chứng đá người vắt sữa ngã nhào, sữa đổ tung tóe. Người này liền ngâm vần kệ nguyền rủa vua Brahmadatta:

  1. Cầu Pan-ca chúa ngã lăn,
    Vì do một mũi kiếm đâm trận tiền,
    Như ta, bò đá lăn chiêng,
    Ðá luôn thùng sữa đổ liền hôm nay!

Vị tế sư ngâm vần kệ đáp:

  1. Này, bò đá gậy thúc dai,
    Hay là thùng sữa của người đổ ra,
    Việc gì đến chúa Brah-ma,
    Khiến ngài chịu mọi gièm pha thế này?

Nghe vậy người vắt sữa bò ngâm ba vần kệ đáp:

28-29. Pan-ca chúa đáng trách thay
Vì nền cai trị, thưa ngài La-môn,
Dân lành cô thế thấy luôn
Bị tàn hại bởi những quân giết người:
Ban đêm bị trộm rình mồi,
Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!..

  1. Hung hăng là thứ bò rừng,
    Việc đem vắt sữa, chưa từng trước đây,
    Ta đành vắt sữa hôm nay,
    Vì nhu cầu sữa mỗi ngày một tăng!

Hai vị bảo nhau:

– Gã này nói đúng đấy.

Rồi từ làng ấy hai vị đi ra đường cái tiến về kinh thành. Trong một làng nọ, có gã thu thuế giết một con bê con có đốm rồi lột da để làm bao da bọc kiếm, khiến bò mẹ nó quá buồn khổ vì mất con thơ, bỏ cả ăn cỏ uống nước, chỉ lang thang kêu khóc. Thấy vậy trẻ con trong làng nguyền rủa vua:

  1. Cầu Pan-ca chúa héo mòn,
    Hoài công than khóc mất con như vầy,
    Bò kia quẩn trí thương thay,
    Ði tìm bê nhỏ, người nay giết càn!

Vị tế sư liền ngâm vần kệ khác:

  1. Khi bò trâu phải lạc đàn,
    Muốn vơi nỗi khổ, khóc vang kêu gào.
    Vậy thì duyên cớ làm sao
    Khiến ngươi chê trách nhằm vào vua ta?

Lũ trẻ đáp lại hai vần kệ sau:

  1. Tội tình của chúa Bra-hma,
    Việc này con thấy rõ ra rành rành:
    Bơ vơ khốn đốn dân lành,
    Vẫn thường bị bọn bạo hành giết tươi:
  2. Ban đêm bị trộm rình mồi,
    Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!
    Ác nhân đầy rẫy non sông,
    Khi quyền cai trị hôn quân nắm tròn,
    Cớ sao bê hãy còn non,
    Phải đem giết bỏ, chỉ cần bao da?

– Các ngươi nói đúng đấy.

Hai vị nói xong liền ra đi. Trên đường, họ thấy trong một hồ nước khô cạn, bầy quạ đang lấy mỏ bắt ếch nhái ăn thịt. Khi hai vị đến nơi, Bồ-tát vận dụng thần lực nguyền rủa vua qua miệng con nhái:

  1. Cầu Brah-ma chúa chết chùm,
    Cùng bầy con cháu ở trong chiến trường,
    Như ta nhái bén rừng hoang,
    Làm mồi cho lũ quạ làng hôm nay!

Nghe vậy vị tế sư ngâm vần kệ, nói chuyện với con nhái:

  1. Nhái cần biết rõ, nhái này,
    Ðại vương không thể giữ bầy nhái ranh!
    Việc này vua chẳng tội tình,
    Khi bầy quạ đớp em anh nhà mày!

Nghe vậy, nhái đáp lại hai vần kệ:

  1. Tế sư lời nịnh khéo thay,
    Phỉnh lừa vua chúa như vầy ác gian,
    Mặc cho dân bị sát tàn,
    Nhà vua cứ tưởng lối đàng quốc sư
    Quả là đệ nhất tài ba;
    Giá như có phúc mọi nhà phồn vinh.
  2. Nước này an lạc, thái bình,
    Quạ kia được hưởng phần mình cực sang
    Có đâu cần phải giết càn
    Các loài nhỏ mọn như đàn ễnh ương?

Nghe vậy vua và vị Sư trưởng đều nghĩ thầm: “Tất cả mọi loài, ngay cả nhái rừng, đều nguyền rủa ta”.

Vì thế, khi về thành, hai vị lo cai trị nước thật đúng pháp và hành trì theo lời thuyết giảng của bậc Ðại sĩ, hai vị chuyên tâm bố thí và làm các thiện sự khác.

*

Ðến đây, bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại với vua Kosala bằng các lời này:

– Này đại vương, một vị vua phải dứt bỏ các ác đạo và cai trị đúng pháp.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, vị Thần cây Tinduka chính là Ta.

-ooOoo-

Chương XVII

Phẩm Bốn Mười Bài Kệ

  1. Chuyện ba con chim (Tiền thân Tesakuna)

Điều này cha muốn hỏi Ves-san …,

Bậc Đạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên, về việc giáo giới vua Kosala.

Bấy giờ vị vua này đến nghe thuyết pháp và bậc Đạo Sư bảo vua như sau:

– Thưa Đại vương, một vị vua phải cai trị vương quốc chân chánh, vì bất cứ khi nào các quân vương bất chánh thì quần thần cũng bất chánh theo.

Và khi giáo giới vua theo Chánh đạo như đã kể trong Chương Bốn, Ngài nêu ra những khổ đau liên hệ đến việc theo ác đạo, hoặc hạnh phúc liên hệ đến việc từ bỏ ác đạo và trình bày đầy đủ chi tiết nỗi bất hạnh phát sinh từ dục lạc, vừa so sánh dục lạc với cơn mộng hoặc đại loại như thế, Ngài vừa bảo:

– Trong trường hợp những người ở đời này:

Không bạc tiền mua chuộc được Tử thần,

Không từ tâm làm lắng dịu Ma quân,

Không ai thắng trong chiến trường Thần chết,

Vì tất cả đều có ngày tiêu diệt.

Và khi bước sang thế giới bên kia, trừ các thiện nghiệp công đức của riêng mình, con người không có một nương tựa vững chắc nào khác, vì vậy con người cần phải từ bỏ các mối quan hệ hạ liệt, và vì thanh danh của mình, con người không được buông lung phóng dật, mà phải tinh cần thực hành giới luật chân chánh, giống như các vị vua ngày xưa, trước khi Đức Phật ra đời, đã an trú vào lời dạy của các bậc trí, cai trị đúng pháp và lúc từ trần đạt đến cõi thiên.

Và theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại không có con kế vị, và lời vua cầu xin vương tử hoặc công chúa đều không được đáp ứng. Bấy giờ một hôm vua cùng đám quần thần hộ tống đông đảo đến ngự viên, và sau khi du hí nữa ngày trong vùng ấy, ngài bảo trải sàng tọa cho ngài nằm dưới gốc cây Sàla vương giả. Sau một giấc ngủ trưa ngắn, ngài thức dậy và nhìn lên cây Sàla, ngài thấy một tổ chim trên đó. Vừa chợt thấy nó, một ước muốn chiếm tổ chim kia nảy sinh trong lòng, ngài truyền gọi một vị hầu cận đến bảo:

– Hãy trèo lên cây xem thử có gì trong tổ không?

Người ấy trèo lên, thấy có ba quả trứng trong đó, liền trình vua. Ngài phán:

– Vậy khanh hãy cẩn thận đừng thổi hơi vào chúng. Ngài bảo.

Rồi trãi một ít vải trong một cái hộp, ngài dặn người ấy đi xuống nhẹ nhàng, và đặt trứng vào trong đó.

Khi trứng đã được đưa xuống xong, ngài cầm hộp đến hỏi đám cận thần xem các trứng này thuộc giống chim gì. Họ đáp:

– Chúng thần không biết, song đám thợ săn sẽ biết.

Vua truyền gọi các thợ săn đến hỏi. Họ đáp:

– Tâu Đại vương, một trứng chim cú, một trứng khác là chim may nha và trứng thứ ba là chim anh vũ hét.

– Có ba loại trứng khác nhau trong một tổ chim ư?

– Tâu Đại vương, phải, khi không có gì đáng lo ngại thì vật gì được khéo sắp đặt sẽ không hư hoại được.

Vua đẹp ý bảo:

– Chúng nhất định sẽ là các con trẫm.

Rồi giao ba quả trứng cho ba vị quan trong triều chăm sóc, ngài bảo:

– Đây sẽ là các con trẫm. Các khanh hãy cẩn thận chăm nom chúng và khi nào chim non nở ra khỏi vỏ, hãy báo tin cho trẫm.

Ba vị chăm sóc trứng rất chu đáo. Trước tiên trứng chim cú được ấp nở và vị quan đầu đi tìm một người thợ săn bảo:

– Hãy xem chim non này thuộc giống gì, nó là chim trống hay mái.

Khi kẻ ấy xem xét xong, tuyên bố đó là chim trống, vị quan đến trình vua:

– Tâu Đại vương, một vương nhi đã ra đời.

Vua hài lòng, ban thưởng ông nhiều vàng bạc và bảo:

– Hãy chăm sóc các con trẫm cẩn thận và đặt tên nó là Vessantara.

Rồi ngài bảo ông ra về. Ông làm những việc được giao.

Sau đó vài hôm, trứng chim Maynah được ấp nở, vị quan thứ hai cũng vậy, sau khi bảo một thợ săn xem xét nó và nghe đó là chim mái, liền đi tâu trình vua một công chúa ra đời. Vua đẹp ý ban thưởng nhiều vàng bạc và bảo:

– Hãy chăm nom con gái trẫm thật cẩn thận và đặt tên nó là Kundalini.

Ngài lại bảo ông ra về. Ông cũng làm những việc được dặn.

Sau đó vài hôm nữa, trứng chim anh vũ được ấp nở và vị quan thứ ba, sau khi được người thợ săn xem xét kỹ, nói đó là chim trống, liền đi tâu vua một vương tử mới ra đời. Vua hoan hỷ ban thưởng rộng rãi và bảo:

– Hãy làm lễ tôn vinh vương tử của trẫm thật long trọng và đặt tên nó là Jambuka.

Rồi ngài bảo ông ra về. Ông làm theo lời dặn.

Ba con chim này lớn lên trong nhà ba vị quan ấy giữa mọi lễ nghi thích hợp với hoàng gia. Vua thường gọi chúng là “con trai trẫm”, “con gái trẫm”.

Các triều thần thường nói đùa với nhau:

– Hãy xem chúa thượng làm kia: ngài cứ đi quanh nói chuyện về bầy chim như các con của ngài vậy.

Vua suy nghĩ: “Quần thần nầy không biết mức độ trí tuệ của các con ta. Ta muốn chứng tỏ việc nầy cho họ thấy.”

Vì thế ngài truyền một vị cận thần đến bảo Vessantara:

– Phụ vương muốn hỏi vương tử một câu. Vậy khi nào ngài có thể đến hỏi được?

Vị ấy đến chào Vessantara và đưa lời vua truyền. Vessatanra mời vị quan chăm sóc mình đến và nói:

– Họ bảo phụ vương ta muốn hỏi ta một câu. Khi ngài đến, chúng ta phải bày tỏ tất cả lòng tôn kính đối với ngài.

Và chim hỏi thêm:

– Vậy khi nào phụ vương có thể đến?

Vị quan đáp:

– Xin mời Đại vương đến vào ngày thứ bảy kể từ hôm nay.

Vessatara nghe vậy liền bảo:

– Xin mời phụ vương đến vào ngày thứ bảy kể từ nay.

Cùng với những lời này, chim bảo ông ra về. Ông đi đến trình vua. Vào ngày thứ bảy, vua truyền đánh trống khắp kinh thành và đi đến nhà vương nhi của ngài đang cư ngụ.

Vessatara tiếp đãi phụ vương vô cùng cung kính và tỏ ra hết lòng quý trọng ngài cả đám nô tỳ và gia nhân. Sau khi vua ngự yến tiệc tại nhà Vessatara và thọ hưởng mọi sự chiêu đãi trọng thể, ngài ra về cung thất của ngài.

Sau đó ngài truyền dựng một cái đình lớn trong sân chầu và truyền đánh trống khắp kinh thành báo tin xong, ngài ngự vào cái đình nguy nga lộng lẫy được quần thần đông đảo vây quanh, rồi bảo một vị quan đưa Vessatara đến yết kiến ngài. Vị ấy đặt Vessantara lên một kim đôn. Con chim đậu lên lòng phụ vương và chơi với ngài, xong bay qua đậu lên kim đôn ấy.

Rồi giữa đám quần thần, vua ngâm vần kệ đầu hỏi chim về phận sự quân vương:

  1. Điều nầy cha muốn hỏi Ves-san,
    Cầu chúc cho con yêu được lạc an:
    Với một vị vua mong trị nước,
    Sống sao tốt đẹp nhất trần gian?

Vessantara không trả lời trực tiếp câu hỏi trên, mà khiển trách vua cha về tính buông lung phóng dật, và ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Kam-sa, chúa tể xứ Kà-si,
    Phóng dật buông lung đã lắm khi,
    Thúc dục con, dù đầy nhiệt huyết,
    Phải luôn tỏ nhiệt huyết tràn trề.

Chim khiển trách vua qua vần kệ này và bảo:

– Tâu Đại vương, một vị vua phải cai trị đất nước đúng Chánh pháp và tuân thủ ba chân lý này.

Rồi chim ngâm các vần kệ nói về phận sự quân vương:

  1. Trước hết vị vua phải vứt đi,
    Mọi điều giả dối, giận, khinh khi,
    Phải làm những việc cần hành động,
    Nếu chẳng làm xong, sẽ lỗi thề.
  2. Nếu trước kia đi lạc hướng tà,
    Vì tham sân hướng dẫn đường vua,
    Rõ ràng phải sống ăn năn tội,
    Luyện tập để đừng phạm lỗi xưa.
  3. Khi vua trị nước quá buông lung,
    Đối với thanh danh, chẳng thật chân,
    Mọi sự phồn vinh đều biến mất,
    Chỉ còn ô nhục với hôn quân.
  4. Thần nữ Cát tường với Vận may,
    Khi con hỏi, đã đáp như vầy:
    “Chúng ta thích hạng người can đảm,
    Nghị lực, thoát ly tật đố này”.
  5. Rủi ro luôn phá hoại phồn vinh,
    Thích những người làm các ác hành,
    Những kẻ nhẫn tâm đầy độc ác,
    Trong tâm ganh tỵ cứ dần sinh.
  6. Thân thiết mọi người, tấu Đại vương,
    Để cho mọi sự được an toàn,
    Tránh xa Vận rủi, song làm chỗ,
    An trú Vận may thật vững vàng.
  7. Con người tốt số lại can trường,
    Ngự trị Kà-si, chính phụ vương,
    Tiêu diệt địch quân từ gốc ngọn,
    Hiển nhiên sẽ đạt đại vinh quang.
  8. Thiên chủ Ska-ka mãi ngắm trông,
    Tấm lòng can đảm ở phàm nhân,
    Vì ngài giữ vững lòng can đảm,
    Nhận thức đó là chính thiện lương.
  9. Thác-bà, Thiên chúng lẫn loài người.
    Ca ngợi minh quân ấy hết lời,
    Các bậc thần linh đều ủng hộ
    Tán dương nhiệt huyết lẫn anh tài.
  10. Nỗ lực làm bao việc chánh chân,
    Dù ai phỉ báng, chẳng buông lung,
    Chuyên tâm tinh tấn làm điều thiện,
    Phóng dật chẳng mong đạt phước phần.
  11. Đây là phận sự của quân vương,
    Dạy bảo phụ vương bước đúng đường,
    Đủ đạt phước phần cho thiện hữu
    Hoặc mang sầu não đến cừu nhân.

Như thế chim Vessantara đã khiển trách vua phóng dật trong một vần kệ, rồi ngâm mười một vần kệ nữa để trả lời câu hỏi của vua với vẻ kỳ diệu của một vị Phật. Tâm quần chúng tràn đầy thích thú lẫn kinh ngạc chưa từng có và vô số tiếng reo tán thán vang dậy.

Vua xúc động với niềm hân hoan liền hỏi quần thần phải làm gì cho vương tử vì đã nói như vậy. Họ đáp:

– Tâu Đại vương, vương tử phải được phong chức đại tướng quân.

– Tốt lắm, trẫm ban cho vương tử chức đại tướng. Ngài phán.

Và Ngài bổ nhiệm Vessantara vào chức vụ còn trống ấy.

Từ đó về sau, ở địa vị, vương tử thực hành mọi ước của phụ vương. Đến đây chấm chuyện về câu hỏi chim Vessantara.

*

Sau vài ngày nữa, cũng như trước kia, vua gởi thông điệp đến Kundalinì, và vào ngày thứ bảy, ngài ngự đến thăm chim con rồi trở về cung, ngự giữa ngôi đình và truyền đưa Kundalinì đến yết kiến ngài. Khi chim này đã đậu trên kim đôn, ngài ngâm vần kệ hỏi chim về phận sự quân vương:

  1. Kun-da-li, ái điểu hoàng gia,
    Con hãy đáp câu hỏi của cha:
    Kẻ muốn lên ngôi vua trị nước,
    Sống sao tốt nhất cõi người ta?

Khi vua cha hỏi chim về phận sự của một quốc vương như thế, chim con đáp.

– Tâu phụ vương, con chắc phụ vương muốn thử con vì nghĩ rằng: “Nữ nhi có thể bảo ta việc gì nào?”. Vậy con xin đáp lời phụ vương bằng cách đặt mọi phận sự quân vương vào đúng hai phương châm.

Và chim ngâm các vần kệ sau:

  1. Vấn đề được đặt, hỡi thân bằng,
    Trong cặp phương châm thật rõ ràng:
    Gìn giữ những gì ta phải đạt,
    Tránh xa những việc chẳng nên làm.
  2. Quốc sư hãy chọn các hiền nhân,
    Thấy lợi ích vua thật rõ ràng,
    Không phóng đãng và không phí phạm,
    Thoát ly cờ bạc, rượu say nồng.
  3. Người vậy hộ phòng vua chánh chân,
    Nhiệt tình bảo vệ các kho tàng,
    Như người điều ngự vương xa ấy,
    Lèo lái giang sơn đến phú cường.
  4. Luôn trị thần dân thật khéo khôn,
    Giữ gìn đúng đắn các kho lương,
    Đừng giao kẻ khác cho vay mượn,
    Phải tự mình làm đúng kỷ cương.
  5. Những ích lợi hay việc hại mình,
    Đại vương phải biết thật phân minh,
    Phải chê trách kẻ mang lầm lỗi,
    Khen thưởng những người thật xứng danh.
  6. Và chính bản thân, tấu Đại vương,
    Dạy thần dân mọi nẻo hiền lương,
    Kẻo e quốc độ cùng tài sản,
    Phải hóa mồi quan lại ác gian.
  7. Canh phòng hành động của vua quan,
    Cẩn thận, đừng nên quá vội vàng,
    Vì kẻ ngu làm không nghĩ ngợi,
    Về sau chắc chắn sống ăn năn.
  8. Ta chẳng bao giờ được hận sân,
    Vì chưng sân hận vỡ tràn lan,
    Liền đem nguy hại cho vua chúa,
    Đánh bại người kiêu mạn nhất trần.
  9. Phải biết chắc rằng bậc Đại vương,
    Đừng đưa dân chúng bước sai đường,
    E rằng tất cả người nam nữ,
    Sa đọa vào trong biển khổ buồn.
  10. Khi vua dứt bỏ mọi lo toan,
    Dục lạc là nguồn sống bản thân,
    Tài sản, kho tàng đều mất hết,
    Chỉ còn ô nhục với hôn quân.
  11. Đây là nhiệm vụ của quân vương
    Chỉ dạy phụ vương bước đúng đường,
    Thực hiện chuyên tâm toàn thiện nghiệp,
    Chống điều quá độ, thói hoang toàng,
    Hộ phòng giới hạnh, vì lầm lỗi
    Luôn dẫn đến đau khổ đoạn trường.

Như vậy Kundalinì cũng dạy phận sự quân vương trong mười một vần kệ. Vua thích thú hỏi quần thần:

– Phải ban thưởng gì cho ái nữ của trẫm vì đã nói như vậy?

– Tâu Đại vương, ban chức thủ ngân khố.

Và ngài chỉ định Kundalinì vào địa vị còn trống ấy. Từ đó chim này giữ chức vụ trên và làm việc cho vua.

Đến đây chấm dứt chuyện về câu hỏi chim Kundalinì.

*

Sau chừng vài ngày, cũng như trước kia, vua truyền sứ giả đến gặp bậc trí điểu Jambuka, rồi khi ngài đến viếng nhà con vào ngày thứ bảy và đã được chiêu đãi trọng thể tại đó, ngài trở về cung và cũng như trên, ngài ngự vào bảo tọa giữa đình. Một vị triều thần đặt bậc trí điểu Jambuka trên một kim đôn rồi đến mang kim đôn lên đầu mình.

Chim anh vũ thông thái ngồi trong lòng phụ vương, chơi với ngài rồi sau cùng đậu trên kimđôn ấy. Khi đó vua ngâm vần kệ hỏi chim:

  1. Chúng ta đã hỏi đủ hoàng huynh,
    Công chúa Kun-da-li đẹp xinh,
    Đến lượt Jam-bu-ka hãy nói,
    Cho cha biết lực tối cao minh.

Như vậy vua, trong lúc đặt vấn đề với bậc Đại Sĩ, đã không hỏi theo cách vua đã hỏi hai chim kia, mà hỏi theo một cách đặc biệt. Lúc ấy con chim thông thái bảo ngài:

– Tốt lắm, tâu phụ vương, xin hãy lắng nghe kỹ, con sẽ trình phụ vương tất cả.

Rồi giống như một người đặt chiếc túi đựng một ngàn đồng tiền vào một bàn tay mở rộng, chim bắt đầu thuyết giảng phận sự của quân vương:

  1. Giữa bao người vĩ đại trên trần,
    Năm lực này, ta thấy rõ ràng:
    Sức mạnh tứ chi là thấp nhất,
    Kế là quyền lực của kim ngân.
  2. Thứ ba là lực của lời khuyên,
    Giai cấp hiển nhiên đệ tứ quyền,
    Tất cả điều này, người có trí,
    Sẽ đều công bố thật đương nhiên.
  3. Lực tối ưu trong các lực này,
    Khả năng trí tuệ chính là đây,
    Nhờ vào uy lực này, người trí,
    Thành tựu phần mình tốt đẹp thay.
  4. Ví thử quốc gia đại phú cường,
    Rơi vào tay của một ngu nhân,
    Một người khác sẽ dùng cường bạo,
    Chiếm nước, gây bao nỗi oán hờn.
  5. Dù quân vương quý tộc cao sang,
    Phận sự chính là ngự trị dân,
    Vua ấy quả là rất khó sống,
    Nếu vua chứng tỏ trí ngu đần.
  6. Trí tuệ xét xem các việc làm,
    Làm cho danh vọng mãi tăng dần,
    Người nào trí tuệ đầy thông thái,
    Vẫn thấy vui dù gặp khổ buồn.
  7. Không ai sống phóng dật buông lung,
    Lại có thể nào đạt trí thông,
    Nhưng phải theo lời khuyên bậc trí,
    Nếu không, sẽ mãi mãi ngu đần.
  8. Ai dậy sớm, luôn giữ đúng thời,
    Chuyên tâm không mỏi mệt, vui tươi,
    Làm bao phận sự đang mời gọi,
    Chắc chắn thành công ở giữa đời.
  9. Ai hướng tâm vào việc tổn thương,
    Hoặc hành động với trí buông lung,
    Việc gì kẻ ấy hòng theo đuổi,
    Cũng chẳng thể nào đạt ước mong.
  10. Song ai không mỏi mệt, chuyên cần,
    Theo đuổi đường đời thật chánh chân,
    Chắc chắn sẽ đạt thành trọn vẹn,
    Bất kỳ công việc họ đang làm.

37-38. Hộ phòng bảo vệ các kho tàng,
Là tạo nguồn tài lợi lớn dần,
Đây chính những điều con ước muốn,
Phụ vương hãy tạc dạ ghi lòng;
Vì do ác nghiệp, người ngu trí,
Cũng giống như nhà lau sậy rỗng không,
Sụp đổ tan tành trong chốc lát,
Đằng sau để lại cảnh tiêu vong.

Như vậy qua các vấn đề này, Bồ-tát ca ngợi năm uy lực, vừa tán dương uy lực của trí tuệ, như người dùng lời nói gõ vào mặt trăng, ngài khuyến giáo vua trong mười một vần kệ.

  1. Với song thân, hỡi đấng Anh quân,
    Phận sự thi hành thật chánh chân,
    Như vậy, sống theo đời chánh trực,
    Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.

Sau khi ngâm các vần kệ về nếp sống chân chánh, Bồ-tát lại ngâm vần kệ kết thúc để khuyến giáo vua thêm nữa:

  1. Đây là phận sự của quân vương,
    Dạy bảo phụ vương bước đúng đường,
    Theo trí tuệ và luôn hạnh phúc,
    Hiểu điều chân lý thật hoàn toàn.

Như vậy bậc Đại Sĩ đã thuyết Pháp với tất cả vẻ kỳ diệu của một vị Phật, chẳng khác nào đem dải Thiên hà từ trời xuống. Quần thần tỏ ra vô cùng kính trọng ngài và vô số tiếng hò reo tán thán vang dậy. Vua hân hoan hỏi đám quốc sư:

– Làm sao để vương tử của trẫm, bậc trí điểu Jambuka với chiếc mỏ như quả hồng đào tươi mát, được phần thưởng vì đã nói như thế?

– Tâu Đại vương, xin ban chức thống soái.

– Thế thì trẫm sẽ ban cho con trẫm chức vụ ấy.

Vua phán rồi chỉ định vương nhi vào chức vụ còn trống ấy. Từ đó về sau, ở địa vị thống soái, ngài thi hành các mệnh lệnh của phụ vương.

Cả ba chim con đều được tôn vinh trọng thể và cả ba đã khuyến giáo các vấn đề thế sự cũng như thánh sự. Vua an trú vào lời giáo giới của bậc Đại Sĩ, chuyên bố thí làm các thiện sự khác, nên được sinh làm thiên giới.

Sau khi cử hành tang lễ của vua, quần thần nói với ba con chim con:

– Tâu Chúa công Jambu, tiên vương đã ra lệnh giương chiếc lọng hoàng gia lên che Chúa công.

Bậc Đại Sĩ đáp:

– Ta không cần vương quốc, các vị hãy chuyên tâm tỉnh giác lo việc trị nước.

Sau khi an trú quốc dân vào giới đức, ngài bảo:

– Hãy thực hành công lý.

Rồi ngài truyền đem cách xử án công bằng khắc vào một tấm bảng vàng, và biến mất vào rừng.

Lời giáo huấn của ngài đã tiếp tục có hiệu lực trong bốn mươi ngàn năm.

*

Bậc Đạo Sư giảng Pháp thoại này làm phương tiện giáo giới vua và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vua là Ànanda (A-nan), Kundalinì là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), Vessantara là Sàriputta (Xá Lợi Phất) và chim Jambuka chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện đại nhân thiện xạ Sarabhanga (Tiền thân Sarabhanga)

Vòng vàng, xiêm áo thật cao sang …,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư trong lúc trú tại Trúc Lâm về sự diệt độ của Tôn giả Trưởng lão Mahàmoggallàna (Đại Mục Kiền Liên).

Còn về phần Tôn giả Sàriputta (Xá Lợi Phất), sau khi được Đức Như Lai chấp thuận trong thời Ngài trú tại tịnh xá Kỳ Viên, Tôn giả liền đi đến làng Nàla và nhập diệt tại đó, ngay chính trong phòng xưa kia Tôn giả sinh ra đời. Bậc Đạo Sư nghe tin Tôn giả này nhập diệt liền đến thành Ràjagaha (Vương Xá), trú tại Veluvana (Trúc Lâm). Lúc ấy có một Trưởng lão trú ở đó, ngay trên sườn núi Isigili (chư Thánh sơn) tại Hắc Thạch động. Tôn giả này khi đắc Thánh quả, nhờ thần thông có thể lên trời hay xuống địa ngục.

Trên thiên giới, Tôn giả này thấy một vị đệ tử của đức Phật thọ hưởng đại quyền lực; còn trong hạ giới, Tôn giả lại thấy đệ tử của đám ngoại đạo tà giáo chịu đau khổ kinh hồn, nên khi trở về cõi nhân gian, Tôn giả kể cho mọi người nghe chuyện trên một cõi thiên kia, có một Tỷ kheo này hay Tỷ kheo ni nọ được tái sinh thọ hưởng vinh quang cao trọng, còn trong những kẻ theo ngoại đạo tà giáo lại có người thác sinh vào địa ngục hay các đọa xứ đầy đau khổ khác.

Dân chúng hoan hỷ lời dạy của Tôn giả này, bác bỏ lời tà thuyết ngoại đạo. Họ bày tỏ sự tôn kính trọng đại đối với các đệ tử của đức Phật, còn lòng kính trọng đối với các ngoại đạo sư giảm dần. Bọn ấy sinh lòng căm hận vị Trưởng lão này, bảo nhau:

– Bao lâu lão này còn sống, là còn nhiều chia rẽ giữa đám tín đồ của ta. Lòng tôn trọng đối với ta mất dần. Vậy ta phải giết lão đi mới được.

Họ liền đưa một ngàn đồng tiền cho tên cướp thường canh giữ các ẩn sĩ để giết vị này đi, gã liền quyết tâm giết vị Trưởng lão, nên đi đến Hắc Thạch Sơn cùng với đồng bọn đông đảo, vị Trưởng lão khi thấy gã đến liền dùng thần lực bay lên không biến mất. Tên cướp không thấy vị Trưởng lão hôm ấy, đành trở về nhà rồi lại đến trong sáu ngày liền, song vị Trưởng lão vẫn dùng thần thông biến mất dạng như trước.

Vào ngày thứ bảy, một tiền nghiệp do Tôn giả gây ra trong một đời trước, mang theo hậu quả lâu dài ở đời sau, giờ đây đang có cơ duyên xuất hiện để gây tai họa.

Chuyện kể rằng, một thưở xa xưa, vì nghe theo lời vợ mình xúi giục, vị này tìm cách làm cho cha mẹ mình chết đi, đã đem xe chở cha mẹ mình vào rừng, giả vờ như bị bọn cướp tấn công rồi đánh đập song thân. Do tuổi già mắt kém không thấy mọi vật rõ ràng, hai vị không nhận ra chính con mình, cứ tưởng có bọn cướp thật, liền kêu lên:

– Con ơi, bọn cướp đang giết mẹ cha, vậy con hãy trốn đi.

Rồi họ chỉ than khóc vì con mình thôi.

Vị này liền nghĩ: “Dù cha mẹ ta bị ta đánh đập, hai vị chỉ vì ta mà than khóc đó thôi. Ta thật đã làm một việc đáng sĩ nhục”. Vì thế ông an ủi mẹ cha, giả vờ bảo bọn cướp đã bị đánh đuổi đi rồi, và vỗ về tay chân cha mẹ, bảo:

– Xin song thân chớ sợ, bọn cướp trốn cả rồi.

Sau đó ông đem cha mẹ về nhà.

Hạnh nghiệp này mãi từ lâu không tìm được cơ duyên, nhưng vẫn đợi thời, như lòng ngọn lửa ấp ủ dưới tro tàn, bùng dậy bắt lấy Tôn giả này khi tái sinh lần cuối, nên vị Trưởng lão mang nghiệp quá đã chín muồi ấy không thể nào bay lên không được nữa. Thần thông của Tôn giả này ngày xưa đã có lần nhiếp phục Nanda cùng Upananda hai Long vương và làm rung chuyển cả tối thắng điện Vejayanta ở Thiên cung, giờ đây vì chịu nghiệp quả phải suy yếu đi. Thế là tên cướp đập nát xương Tôn giả ra, bắt chịu thứ cực hình gọi là “rơm và bột”, rồi tưởng vị này đã chết, nên cùng đồng bọn bỏ đi.

Nhưng khi Trưởng lão này tỉnh lại liền dùng định lực bao phủ thân mình như đắp y bay lên không trở về yết kiến bậc Đạo Sư, đảnh lễ Ngài và thưa:

– Bạch Thế Tôn! Thọ mạng của con đã tận, con sắp tịch diệt.

Rồi được bậc Đạo Sư chấp thuận. Tôn giả nhập diệt ngay tại chỗ. Vào lúc ấy, sáu cõi thiên giới cùng nổi lên chấn động, chư thiên đồng nhau khóc:

– Đạo Sư của chúng ta đã tịch diệt!

Thiên chúng liền đem hương liệu, tràng hoa ngát mùi hương thiên giới cũng gỗ đủ loại đến và dàn hỏa táng được dựng lên bằng gỗ chiên đàn cùng chín mươi chín bảo vật.

Bậc Đạo Sư bảo Tăng chúng đặt kim thân Tôn giả này vào địa điểm hành lễ, trong lúc Ngài đứng ngay cạnh đó, và suốt trong khoảng một dặm đường quanh dàn hỏa táng, hoa trời rơi xuống như mưa sa, chư Thiên và loài người cũng đứng chen lấn nhau, dự Thánh lễ suốt bảy ngày. Bậc Đạo Sư bảo lượm xá lợi đầy đủ, và dựng đền thờ trong ngôi nhà có gác nhọn tại Trúc Lâm.

Vào lúc ấy trong Chánh pháp đường, Tăng chúng đưa đề tài chuyện ấy ra, bảo nhau:

– Thưa các Hiền hữu, Tôn giả Xá lợi phất vì không diệt độ trong khi yết kiến Như Lai, nên không được hưởng lễ nghi trọng thể từ bàn tay đức Phật, còn Tôn giả Mục Kiền Liên, vì diệt độ cạnh bậc Đạo Sư nên đã được vinh dự cao cả như thế.

Bậc Đạo Sư đến nơi, hỏi các Tỷ kheo đang ngồi đàm luận vấn đề gì, và khi được biết, Ngài bảo:

– Này các Tỷ kheo, không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa nữa Mục Kiền Liên cũng nhận được đủ vinh dự từ bàn tay Ta.

Nói xong Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát nhập mẫu thai phu nhân, vị quốc sư của hoàng gia. Sau mười tháng, Ngài sinh ra đời một sáng sớm kia. Lúc ấy một loạt đủ loại binh khí ở kinh thành Ba-la-nại sáng rực trong khoảng mười hai dặm đường. Vị quốc sư ấy, vào hôm hài nhi ra đời, bước ra khỏi cửa nhìn lên trời để tiên đoán số mạng của con và biết rằng hài nhi sinh ra theo một sự kết hợp các vì sao ở thiên giới, về sau chắc chắn sẽ làm thủ lạnh thiện xạ toàn cõi Diêm-phủ -đề.

Vì thế ông vội đi thật sớm đến hoàng cung vấn an vua. Khi vua phán:

– Này Đạo sư, làm sao trẫm an khang được, hôm nay một loạt vũ khí sáng rực lên trong cung.

Ông tâu:

– Xin Đại vương chớ sợ, không những chỉ trong cung mà khắp kinh thành đều thấy ánh sáng của binh khí. Đó là do một hài nhi ra đời trong nhà chúng thần.

– Này Đạo sư, việc ra đời của một hài nhi trong những cơ duyên như thế sẽ đem lại hậu quả gì?

– Tâu Đại vương, không hề gì cả, nhưng sau này hài nhi ấy là thủ lĩnh các thiện xạ trong cõi Diêm-phủ-đề.

– Tốt lành thay, này Đạo sư, hãy khéo chăm sóc hài nhi và khi nó lớn lên, hãy đem nó đến trình diện trẫm.

Nói xong, vua ra lệnh ban một ngàn đồng tiền để nuôi dưỡng hài nhi. Vị quốc sư nhận lãnhđem về nhà.

Vào ngày đặt tên hài nhi, ông gọi hài nhi là Jotipàla (Hộ Minh) vì có ánh sáng của đám binh khí trong lúc hài nhi ra đời.

Hài nhi được nuôi dưỡng rất sang trọng và đến năm mười sáu tuổi, chàng có dung sắc tuyệt hảo. Thân phụ chàng thấy tướng mạo khác thường như vậy liền bảo:

– Này con, con hãy đi đến thành Takkàsilà, và thọ giáo mọi môn học từ một vị danh sư tiếng tăm lẫy lừng thế giới.

Chàng tuân lệnh, đem theo học phí, giã từ song thân rồi lên đường đến đó. Chàng dâng lên một ngàn đồng tiền, làm lễ nhập học rồi bắt đầu thọ giáo, chỉ trong vòng bảy ngày đã đạt đến tuyệt đích.

Vị tôn sư kia hoan hỷ tặng chàng một bảo kiếm của mình, một chiếc cung sừng dê, và một bao đựng tên, cả hai được buộc vào nhau thật khéo, một áo giáp của ông cùng một chiếc mão, rồi bảo chàng:

– Này con Jotipàla yêu quí, ta đã già, vậy con hãy tập luyện đám môn đồ này.

Vị này lại trao cho chàng năm trăm môn đồ.

Bồ-tát nhận lãnh mọi vật xong, tạ từ sư phụ, trở về Ba-la-nại để thăm viếng song thân. Thân phụ nhìn thấy chàng cung kính đứng trước mặt liền hỏi:

– Này con đã học xong chưa?

– Thưa cha, đã.

Nghe chàng trả lời thế, người cha liền vào cung, và trình vua:

– Tâu Đại vương, con trai của tiểu thần đã học hành xong, bây giờ phải làm gì nữa?

– Đạo sư hãy đem chàng vào chầu Thiên tử.

– Tâu Đại vương, xin ban bổng lộc thế nào?

– Cứ ban cho chàng mỗi ngày một ngàn đồng tiền.

Vị quốc sư tuân lệnh ngay trở về nhà gọi con trai ra bảo:

– Này con, con phải vào chầu đức vua.

Từ đó mỗi ngày chàng hưởng một ngàn đồng tiền, và lo phụng sự nhà vua.

Các quan cận thần lộ vẻ bất mãn:

– Chúng ta không thấy Jotipàla làm gì cả, thế mà hưởng một ngàn đồng tiền mỗi ngày, ta muốn xem chàng có biệt tài gì.

Vua nghe họ nói thế liền nói với quốc sư. Ông tâu:

– Tâu Đại vương, xin vâng lệnh.

Rồi ông trở về nhà nói chuyện với con trai.

– Thưa thân phụ, thế thì tốt quá, vào ngày thứ bảy kể từ nay, con sẽ xin trình diễn tài nghệ, xin đức vua triệu tập tất cả xạ thủ trong nước về đây.

Vị quốc sư đi vào cung, tâu vua mọi chuyện chàng nói. Vua truyền lệnh đánh trống khắc kinh thành triệu tập các xạ thủ, khi họ đến đông đủ tính được tất cả là sáu mươi ngàn người. Vua nghe họ đã tề tựu, liền phán:

– Dân chúng khắp kinh thành hãy đến chứng kiến tài nghệ của Jotipàla.

Sau khi cho trống truyền tin ra, ngài ban lệnh chuẩn bị sân chầu, rồi được đám tùy tùng đông đảo theo hầu, ngài ngự lên bảo tọa nguy nga; vừa khi triệu tập mọi xạ thủ xong, ngài cho vời Jotipàla. Dưới lớp y trong, chàng mang cung, bao tên, áo giáp và mão, những vật đã được vị sư phụ tặng chàng trước kia. Chàng lại bảo mang thanh kiếm cho chàng và đến yết kiến vua trong bộ thường phục của chàng, rồi cung kính đứng sang một bên.

Các xạ thủ kia suy nghĩ: “Người ta đồn Jotipàla đến đây cho chúng ta thấy biệt tài của chàng, nhưng chàng đến mà không mang kiếm chứng tỏ chàng muốn nhận kiếm từ tay ta”. Thế rồi họ lại thỏa thuận với nhau sẽ không trao kiếm cho chàng. Vua bảo Jotipàla:

– Hãy cho ta thấy tài nghệ của khanh.

Thế là chàng tung ra một tấm màn giống túp lều quanh chàng, rồi đứng vào trong đó, cởi áo khoác ra, nịt áo giáp trong, xong mang áo giáp ngoài và buộc mão lên đầu. Sau đó, chàng lại giương sợi dây màn san hô trên chiếc cung sừng dê, buộc bao tên sau lưng và thanh kiếm bên sườn trái, chàng xoay tít mũi tên có đầu nhọn đính kim cương trên móng tay chàng, tung bức màn ra và xuất hiện như một vị Long vương vọt lên từ lòng đất với trang phục huy hoàng rực rỡ và đứng đãnh lễ vua.

Quần chúng thầy chàng liền nhảy lên reo hò vỗ tay vang dội. Vua bảo:

– Này Jotipàla, hãy trình diễn tài nghệ của khanh.

Chàng đáp:

– Tâu Đại vương, trong đám xạ thủ này có những người bắn nhanh như chớp, chẻ được cả sợi tóc hay bắn vào một tiếng động mà không cần nhìn thấy, hoặc làm gãy một mũi tên đang rơi. Xin triệu bốn vị đó đến đây.

Vua liền triệu họ ngay.

Bậc Đại Sĩ dựng rạp trên một khoảng đất vuông trong sân chầu bốn góc chàng để bốn xạ thủ ấy đứng, mỗi vị được phát cho ba mươi ngàn mũi tên, bảo người đưa tận tay mỗi vị, còn chính chàng cầm mũi tên có gắn đầu kim cương ấy, đứng giữa rạp nói lớn:

– Tâu Đại vương, xin cho bốn xạ thủ này bắn tên đâm vào tiểu thần. Tiểu thần sẽ gạt hết tên bắn ấy ra ngoài.

Vua ra lệnh cho họ làm như vậy. Họ đáp:

– Tâu Đại vương, chúng thần bắn tên nhanh như chớp, lại chẻ được cả sợi tóc hay bắn vào tiếng nói mà không cần nhìn thấy, hoặc bắn gãy mũi tên đang rơi, còn Jotipàla chỉ là chàng trai mới lớn, chúng thần không muốn bắn chàng.

Bậc Đại Sĩ bảo:

– Nếu các Ngài bắn được ta thì cứ bắn.

-Đồng ý.

Họ bảo và đồng loạt bắn tên.

Bậc Đại Sĩ gạt chúng tới tấp bằng mũi tên sắt của chàng, bằng đủ cách làm chúng rớt xuống đất, rồi xoay một vòng quanh chúng, chàng chất chúng lên thành một kho đầy tên xếp ăn khớp với nhau, cán khớp với cán, chuôi với chuôi, lông chim với lông chim, cho đến mọi mũi tên của đám xạ thủ được dùng hết cả, chàng thấy vậy mà không muốn đụng vào kho tên kia, chàng liền nhảy lên không đến trước vua.

Dân chúng reo hò vang dậy, la hét nhảy múa vỗ tay, ném cả áo quần đồ trang sức thành mộtđống của cải châu báu có một trăm mười tám triệu đồng. Lúc ấy vua hỏi:

-Này Jotibàla, khanh gọi xảo thuật này là gì?

-Tâu Đại vương, đó là cách đỡ tên.

-Có nhiều người biết cách ấy chăng?

-Tâu Đại vương, không có ai ngoài tiểu thần trong toàn cõi Diêm-phù-đề.

-Khanh hãy biểu diễn xảo thuật khác đi.

-Tâu Đại vương, bốn xạ thủ kia đứng bốn góc không đâm trúng tiểu thần được. Song nếu họ cứ đứng bốn góc ấy, thần sẽ đâm trúng cả bọn họ chỉ bằng một mũi tên thôi.

Bốn xạ thủ kia không dám đứng đó nữa, vì thế bậc Đại Sĩ dụng bốn cây chuối ở bốn góc, buộc mỗi sợi chỉ đó tía trên phần gắn lông chim của mũi tên rồi chàng bắn mũi tên, nhắm vào một cây chuối. Mủi tên đâm vào cây chuối xong qua đến cây thứ hai, cây thứ ba, thứ tư rồi trở lại cây đầu tiên mà nó đã xuyên thủng lần trước xong, trở về trong tay vị xạ thủ; đồng thời các cây chuối đứng vòng quanh theo sợi chỉ đỏ. Dân chúng lại vang hò reo dậy.

Vua hỏi:

-Xảo thuật này gọi là gì, Jotibàta hiền hữu?

-Tâu Đại vương, đó vòng tròn bị xuyên thủng.

-Thế khanh trổ thêm tài nghệ nữa đi.

Bậc Đại Sĩ liền trình diễn các kiểu bắn tên hình gậy, hình dây thừng, hình bện tóc, và biểu diễn các xảo thuật khác gọi là: bắn tên hình cái đài cao, tên hình ngôi đình, tên hình bức tường, tên hình cầu thang, tên hình hồ nước, và bắn tên hình hoa sen nở khiến chúng rơi rào rào như mưa sa.

Như vậy, chàng biểu diễn mười hai tài nghệ vô song và làm gãy bảy vật lớn vô địch. Chàngđâm thủng một tấm ván gỗ sung dày hai tấc, một tấm gỗ asana dày một tấc, một dĩa đồng dày năm phân, một dĩa sắt dày hai phân, và sau khi đâm thủng một trăm tấm ván ghép vào nhau, lần lượt chàng bắn mũi tên vào phía trước vào các toa xe đựng đầy rơm, cát và ván gỗ, rồi làm cho tên xuyên qua ngã sau; rồi lại bắn phía sau các toa xe, và làm cho tên xuyên qua phía trước.

Chàng bắn mũi tên xuyên qua một khoảng độ hai trăm mét dưới nước và hơn bốn trăm mét trên đất liền, chàng lại chẽ sợi tóc ở cách khoảng một trăm mét, ngay dấu hiệu đầu tiên nó vừa lay động theo gió. Khi chàng biểu diễn mọi kỳ công về tài nghệ này xong, mặt trời vừa lặn.

Lúc ấy, vua hứa ban cho chàng chức tổng lãnh binh và bảo:

– Này Jotipàla, nay đã tối rồi, ngày mai khanh sẽ nhận vinh dự làm đại tướng quân. Hãy đi trang điểm râu ria lại và tắm gội.

Cùng ngày ấy, vua ban cho chàng một trăm ngàn đồng tiền để chi tiêu. Bậc Đại Sĩ đáp:

– Tâu Đại vương, tiểu thần không cần tiền.

Rồi chàng ban một trăm tám mươi triệu đồng tiền ấy cho các vị lãnh chúa và các tùy tùng đi tắm, sau khi đã tô điểm râu tóc, và mặc xiêm y với đủ loại trang sức, chàng thưởng thức cao lương mỹ vị xong, chàng đến nằm nghỉ trên vương tọa, ngủ được hai canh, đến canh cuối cùng chàng thức giấc ngối xếp bằng trên vương tọa, suy nghĩ đến phần khởi đầu, phần giữa và phần cuối việc phô diễn kỳ công về tài nghệ của chàng.

Chàng nghĩ thầm: “Tài nghệ của ta hiển nhiên khởi đầu là chết chóc, phần giữa là thọ hưởng ái dục và cuối cùng là tái sinh vào địa ngục; vì hủy diệt mạng sống và buông lung phóng dật trong việc thọ hưởng dục lạc tội lỗi sẽ đưa đến tái sinh vào địa ngục. Vua ban ta chức đại tướng quân, và uy quyền cao trọng sẽ về tay ta. Ta sẽ có vợ con; nhưng nếu các dục lạc cứ tăng mãi thì thật khó thoát được dục tham. Ta muốn một mình xuất thế đi vào rừng, ta sống đời tu hành khổ hạnh là đúng lắm rồi”.

Bậc Đại Sĩ đứng lên khỏi vương tọa, và không cho ai biết cả, ngài bước xuống từ thượng lầu, ra đường bằng cửa hậu vào rừng một mình, đến một nơi trên bờ sông Godhàvari, gần rừng Kavittha, rộng chừng ba dặm.

Sakka (Đế Thích) Thiên chủ nghe tin ngài xuất gia liền triệu sứ thần Vissakamma đến và bảo:

– Này Hiền hữu, Jotipàla đã xuất gia, và một hội chúng đông đảo sẽ hầu ngài. Vậy hãy dựng am ẩn sĩ bên bờ sông Godhàvari, trong rừng Kavittha và cung cấp đủ vật dụng cần thiết cho đời sống tu hành.

Thiên sứ Vissa kamma tuân lệnh.

Còn bậc Đại Sĩ khi đến nơi, thấy con đường vừa cho một người đi bộ, nghĩ thầm: “Chắc đây là nơi dành cho các vị khổ hạnh trú thân”, rồi đi theo con đường đó, ngài không gặp ai, liền bước vào lều cỏ, chợt thấy vật dụng dành cho đời ẩn sĩ, ngài tự bảo: “Chắc Đế Thích Thiên chủ biết ta đã xuất gia”, rồi cỡi áo khoác, ngài đắp thượng y và hạ y bằng vỏ dà, khoác tấm da hươu lên một bên vai. Ngài buộc các cuộn tóc, khoác lên vai ba giạ thóc, cầm gậy khất sĩ, bước ra khỏi am, leo lên thềm đi đi lại lại.

Như vậy, ngài đã làm vinh quang ngôi rừng bằng vẻ cao đẹp của đời khổ hạnh và sau khi thực hành pháp môn thiền định Kàsina xong, vào ngày thứ bảy kể từ khi xuất gia, ngài chuyên tâm tu tập tám Thiền chứng và năm Thắng trí theo hạnh độc cư, chỉ dùng các thức ăn gì ngài kiếmđược và củ quả rừng.

Cha mẹ, thân bằng, bà con quyến thuộc ngài không thấy ngài đâu, đi tìm khắp nơi, lòng buồn phiền thất vọng. Sau đó một sơn nhân đã từng gặp và nhận ra bậc Đại Sĩ trong vùng am thất Kavittha kia, liền đi báo với song thân ngài và họ tâu trình vua. Vua phán:

– Này ta đi thăm chàng ngay.

Rồi cùng với song thân chàng và một đám tùy tùng theo hầu, vua đến bờ sông Goghàvarì theo con đường mà sơn nhân ấy đã chỉ dẫn.

Bồ-tát đến bờ sông, ngồi trên không thuyết Pháp cho hội chúng nghe, sau đó dẫn hội chúng về am, ngài cũng ngồi trên không, giảng rõ cho họ nỗi đau khổ vì tham đắm dục lạc, rồi dạy họ Chánh pháp. Tất cả cùng với vua xuất gia tu hành.

Bồ-tát vẫn tiếp tục sống ở đó cùng hội chúng tu hành chung quanh ngài. Tin ngài ẩn cư tại đó lan rộng khắp cõi Diêm-phù-đề. Vua chúa cùng đám quần thần đến đó sẵn sàng theo lệnh ngài và hội chúng dần dần lên đến hàng người. Hễ ai nghĩ đến tham dục, hay muốn hại người khác, bậc Đại Sĩ liền đi đến, ngồi trên không và thuyết pháp cho người ấy cùng dạy Pháp môn thiền Kàsina.

Bảy đại đệ tử của ngài là Sàlissara, Mendissara, Pabbata, Kàladevala, Kisavaccha, Anusissa va Nàrada. Các vị này nhờ tuân hành lời thuyết giáo của ngài, đều đạt Thiền chứng và đắc Thắng trí viên mãn. Dần dần vùng thảo am Kavittha trở nên đông đúc, không còn chỗ cho các vị ẩn sĩ sống nữa. Bậc Đạo Sĩ liền bảo Sàlissara:

– Này Sàlissara, nơi này không đủ cho các ẩn sĩ ở. Vậy hiền hữu đi cùng hội chúng này đến ẩn cư gần thị trấn Lambacùlaka thuộc thành trì của vua Candapajjota.

Vị này tuân lệnh ấy, đem theo hội chúng hàng ngàn người đến cư trú ở đó. Nhưng nhiều người vẫn đến gia nhập hội chúng khổ hạnh kia, nên thảo am lại đông dần như trước. Bồ-tát nói với Mendissara:

– Trên biên giới xứ Suratha có dòng sông Satodikà, bạn hãy đem chúng ẩn sĩ này đến cư trú trên bờ sông ấy.

Và ngài bảo vị ấy ra đi. Cũng cách ấy, lần thứ ba, ngài gọi Pabbata đến bảo:

– Trong đại lâm có núi Anjana, bạn hãy đến an trú tại đó.

Lần thứ tư, ngài gọi Kàladevala đến bảo:

– Phía nam quốc độ Avanti là núi Ghanasela, bạn hãy đến an trú gần đó.

Dần dần thảo am tại Kavittha lại đông đảo dù đã có năm hội chúng ẩn sĩ đi đến cư trú năm vùng khác nhau, tính được mấy ngàn người. Rồi Kisavaccha xin phép bậc Đại Sĩ đến cư trú trong ngự viên gần vị tổng tướng quân, tại kinh thành Kimbhavatì, trong quốc độ của vua Dandaki, ẩn sĩ Narada cư trú trong địa phận chính của dãy núi Aranjara, còn Anusissa ở lại cùng bậc Đạo Sĩ.

Vào thời ấy, vua Dandaki thất sủng một cung phi mà trước kia vua rất quý trọng, nên trong lúc buồn phiền, nàng đi ngao du đến ngự viên kia, khi thấy ẩn sĩ Kisavaccha, nàng liền nghĩ: “Chắc hẳn đây là kẻ mang vận xui. Ta phải vứt bỏ tội lỗi của ta trên người của kẻ này rồi đi tắm rửa”. Trước hết nàng cầm chiếc tăm xỉa răng rồi nhổ ra một đống nước bọt ngay trên nắm tóc bện lại của vị ẩn sĩ kia, nàng còn ném que tăm trên đầu vị này, rồi đi tắm.

Còn vua nhớ đến nàng, lại cho nàng phục chức như củ. Trong lúc lòng say sưa cuồng nhiệt, nàng kết luận rằng nàng phục hồi vinh dự ấy là do vứt bỏ được tội lỗi của mình trên con người xui xẻo kia. Không lâu sau đó, vua lại cách chức của vị tế sư hoàng gia, lão này cũng đi hỏi nàng cung phi kia, nhờ cách gì nàng được phục chức. Nàng kể lại đó là nhờ nàng vứt bỏ tội lỗi trên con người xui xẻo ở trong ngự viên.

Lão quốc sư cũng đi vứt bỏ tội lỗi của mình theo cách ấy, và cũng được vua phục chức như củ. Thời ấy dần dần có loạn ở biên giới, lão quốc sư đem một đoàn quân đi đánh trận. Lão quốc sưđang cuồng nhiệt hân hoan kia tâu vua:

– Tâu Đại vương, Đại vương muốn thắng hay bại?

Vua bảo:

– Thắng.

Lão liền nói:

– Thế thì có người xui xẻo đang trú ngụ trong ngự viên, xin Đại vương đem tội lỗi đến vứt lên đầu gã ấy.

Vua tán thành ý kiến ấy, phán:

– Đám binh sĩ cùng đi với trẫm đến ngự viên vứt bỏ tội lỗi lên con người xui xẻo kia.

Khi đến nơi, trước tiên vua ngậm chiếc tăm rồi nhổ nước bọt và thả chiếc tăm rơi trên đám tóc bện chặt của vị ẩn sĩ, sau đó còn làm được ướt đầu ngài, cả đám quân lính cũng làm theo như vậy.

Khi vua đi rồi, vị tổng tướng quân đến, thấy vị ẩn sĩ, liền lấy que tăm ra khỏi đám tóc và tắm gội vị này thật sạch sẽ, xong lại hỏi:

– Đức vua sau này sẽ ra sao?

– Thưa ngài, tâm ta không sân hận gì, nhưng chư Thần phẩn nộ nên vào ngày thứ bảy kể từ ngày nay, quốc độ của ngài sẽ tan tành, ngài nên nhanh chân tẩu thoát đi nơi khác.

Vị tướng quân vô cùng kinh hãi, về tâu ūa. Vua không tin, vì thế vị tướng quân đem vợ con trốn sang quốc độ khác. Bậc Đạo sư Sarabhanga (tức Bồ-tát Jotipàla ở đầu câu chuyện) nghe tin ấy, liền báo hai ẩn sĩ trẽ tuối đến mang Kisavaccha trên chiếc cáng bay về trên không. Còn vua đánh trận xong, đem đám phản loạn làm tù binh trở về thành.

Vào lúc vua trở về, trước hết chư thần làm mưa xuống, khi các xác chết được cơn mưa lũ cuốn trôi đi hết, lại có trận mưa hoa trời trên đỉnh cát trắng tinh khiết, trên hoa trời có mưa tiền nhỏ rơi xuống, sau đó có mưa tiền lớn, tiếp theo là trận mưa đầy châu báu cõi trời.

Dân chúng hân hoan lượm báu vật bằng vàng ròng. Sau đó rơi xuống trên người trần một trận mưa đủ loại binh khí, dân chúng bị phân thây tan tành. Kế đến là trận mưa than hồng nóng bỏng trên người họ, và trên các đám lửa cao như núi ấy rơi xuống một trận mưa cát mịn tràn ngập một khoảng rộng chừng sáu mươi cubit (01 cubit = 45cm). Một phần quốc độ rộng sáu mươi dặm bị tàn phá tan tành và tin trận hủy diệt này loan ra khắp toàn cõi Diêm-phù-đề.

Các lãnh chúa trong các xứ chư hầu, ba vị vua Kalinga, Atthaka và Bhìmaratha nghĩ thầm: “Ngày xưa, ở Ba-la-nại, vua xứ Kàsi là Kalàbu đã phạm tội với ẩn sĩ Khantivàdì, truyện kể rằng vua ấy bị nuốt vào lòng đất; cũng vậy vua Nàlikìra đem các ẩn sĩ cho chó ăn thịt; vua Ajjuna có ngàn cánh tay đã phạm tội với trị giá Angìrasa nên cũng chết cách như trên; nay vua Dandaki phạm tội với trí giả Kisavaccha, nên tương truyền cũng bị tan tành quốc độ, hủy diệt hết thảy. Chúng ta không biết các vị vua ấy tái sinh cõi nào; không ai trừ ngài Sarabhanga. Đạo sư của chúng ta có thể nói về điều này. Vậy chúng ta hãy đi hỏi ngài”.

Rồi cả hai ba vị vua theo lễ nghi trọng thể ngự đi hỏi chuyện này. Nhưng dù cả ba vị vua đã nghe tin đồn như vậy như kia, cũng không biết thực hư ra sao, mỗi vị cứ tưởng rằng chỉ riêng mình lên đường, nên khi không còn cách xa Goghàvari mấy, cả ba vị vua gặp nhau, cũng bước xuống các vương xa và ngự lên một chiếc vương xa duy nhất để cùng lên đường đến bờ sông Godhàvari.

Vào lúc ấy, Đế Thích Thiên chủ ngự trên ngai hoàng cẩm thạch, xem xét bảy vấn đề và tự nhủ thầm: “Ngoại trừ ngài Sarabhanga, bậc Đạo sư, không có ai trên trần thế hay thiên giới có thể giải đáp các vấn đề trên. Vậy ta hãy đi hỏi ngài. Ba vị vua kia đã đi đến bờ sông Godhàvari để hỏi ngài Sarabhanga, bậc Đạo sư. Ta cũng sẽ đến hỏi ngài vấn đề ba vị kia hỏi.

Sau đó được chư thiên của hai thiên giới hộ tống, ngài giáng trần. Ngay hôm ấy, ẩn sĩ Kisavaccha từ trần, nên lúc cử hành tang lễ, vô số hội chúng ẩn sĩ cư trú nhiều nơi khác nhau,đến dựng dàn hỏa táng bằng gỗ thiên đàn để hỏa thiêu ngài, và quanh chỗ hỏa thiêu khoảng chừng năm dặm, hoa trời rơi xuống như mưa.

Bậc Đại Sĩ, sau khi xem xét việc cất giữ phần di cốt của vị đệ tử xong, liền vào am cùng các ẩn sĩ theo hầu, và ngồi xuống. Khi các vua đến bờ sông, có tiếng nhạc quân hành trổi. Bậc Đại Sĩ nghe vậy, bảo ẩn sĩ Anusissa:

– Ông hãy ra xem nhạc ấy có ý nghĩa gì?

Rồi cầm bình nước uống, ẩn sĩ đến đó, khi thấy ba vị vua, ngài ngâm vần kệ đầu để thăm hỏi:

  1. Vòng vàng, xiêm áo thật cao sang,
    Chư vị đeo gươm nạm bảo trân,
    Trân trọng kính chào chư đại tướng
    Danh gì, cho biết, giữa trần gian?

Nghe lời ngài, ba vị vua liền xuống xe đảnh lễ ngài. Trong ba vị, có vua Atthaka lên tiếng đáp lời ngài qua vần kệ thứ hai:

  1. Bhi-ma, danh đế Ka-lin-ga,
    Cùng trẫm, At-tha, chính hiệu ta,
    Yết kiến chư hiền nhân khổ hạnh,
    Đến đây tham vấn, đủ ba vua.

Nhà ẩn sĩ bảo ba vị vua:

– Thế thì tâu Đại vương, các ngài đã đến tận nơi các ngài muốn, sau khi tắm rửa, nghỉ ngơi, các ngài vào am, đảnh lễ hội chúng ẩn sĩ rồi đem vấn đề ra hỏi bậc Đạo sư.

Như vậy ngài chuyện trò thân mật cùng ba vị vua, rồi tung lên bình nước và lau hết những giọt nước rớt ra ngoài, ngài nhìn lên thấy Đế Thích Thiên chủ, được chư thiên hộ tống đông đảo, đang giáng trần ngự trên lưng Thiên tượng Eravana, nhà ẩn sĩ liền đối thoại với Thiên chủ qua vần kệ thứ ba:

  1. Ngài ngự trên cao, giữa cõi trời,
    Như vầng trăng tỏa ánh vàng soi,
    Đại Thiên thần, dám xin ngài dạy,
    Danh tiếng ngài sao ở cõi đời.

Nghe thế, Đế Thích Thiên chủ đáp vần kệ thứ tư:

  1. Su-ja, danh tiếng ở trên trời
    Tên gọi Ma-gha ở cõi đời,
    Thiên chủ hôm nay vừa giáng thế
    Thăm hiền nhân khổ hạnh bao người.

Lúc ấy ẩn sĩ Anusissa nói với ngài:

– Tâu Thiên chủ, xin ngài hãy theo chúng thần.

Rồi cầm bình nước, vị ẩn sĩ vào am, cất bình nước xong, liền đến báo tin cho bậc Đại Sĩ biết có ba vị vua cùng Thiên chủ giang lâm để hỏi ngài một số vấn đề. Lúc ấy hội chúng ẩn sĩ vây quanh Đạo sư Sarabhanga đang tọa giữa một khoảng rộng có rào che. Ba vị vua đến đảnh lễ chúng ẩn sĩ, rồi ngài ngồi xuống một bên. Còn Đế Thích Thiên chủ giáng hạ đến gần hội chúng chắp tay vái chào và tán thán hội chúng này qua vần kệ thứ năm:

  1. Chư hiền danh vọng đã lừng vang
    Uy lực thần cao cả sẵn sàng,
    Hoan hỷ ta chào mừng Thánh chúng
    Trí tài siêu việt đám người phàm.

Đế Thích Thiên chủ chào hội chúng như vậy xong liền ngồi riêng ra để tránh khỏi sáu cố tật lúc ngồi. Sau đó ẩn sĩ thấy ngài ngồi phía dưới hội chúng liền ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Thân thể của ngài lão Thánh nhân
    Bốc mùi hôi hám khắp không gian,
    Sak-ka Thiên chủ liền lùi bước
    Tránh các mùi chư Thánh nực nồng.

Nghe nói vậy Đế Thích Thiên chủ đáp vần kệ khác:

  1. Dù các Thánh nhân tuổi đã già
    Gây mùi xúc phạm mũi người ta,
    Nhiễm ô luồng khí đưa hương ngát,
    Ta vẫn yêu mùi Thánh bốc ra
    Hơn các tràng hoa thơm rực rỡ;
    Chư Thiên chẳng ghét chuyện kia mà.

Nói vậy xong, ngài thêm:

– Này Tôn giả Anusissa, ta gắng công đến đây để hỏi một số vấn đề, xin hãy cho phép ta làm việc ấy.

Nghe lời Đế Thích Thiên chủ, ẩn sĩ Anusissa liền đứng dậy cho phép ngài xong, vị ẩn sĩ này liền ngâm hai vần kệ với hội chúng ẩn sĩ:

  1. Su-ja phu tướng. Ma-gha-va, (*)
    Thí chủ lừng danh, chúa quỷ ma,
    Dẹp lủ yêu tinh, Thiên đế ấy,
    Ước ao được hỏi chuyện cùng ta.
  2. Ai đây trong các bậc hiền nhân
    Giải đáp vấn đề thật khó khăn
    Cho cả ba vua đang trị nước
    Và Sak-ka, chúa tể Thiên thần?

(*) Sujampati và Maghava: danh hiệu của Sakka – Thiên chủ.

Nghe vậy cả hội chúng ẩn sĩ đều bảo:

– Này Hiền giả Anusissa, bạn nói chẳng khác nào bạn không thấy quả đất bạn đang ở; ngòai trừ bậc Đạo sư Sarabhanga của chúng ta, còn ai xứng đáng để trả lời các vấn đề kia nữa?

Nói xong, các vị ấy liền ngâm vần kệ khác:

  1. Sa-ra-bha Thánh giả, chân hiền
    Thanh tịnh, thoát ly mọi trược phiền,
    Pháp tử, tinh thông trì giới luật,
    Giải trừ nghi hoặc của nhân thiên.

Nói xong hội chúng bảo ẩn sĩ Anusissa:

– Thưa Hiền giả, xin Hiền giả nhân danh Thánh chúng đến đảnh lễ bậc Đạo sư và tìm cơ hội thưa với ngài về vấn đề Đế Thích Thiên chủ đặt ra.

Vị này chấp thuận ngay rồi tìm được cơ hội, liền ngâm vần kệ khác nữa:

  1. Thánh chúng mong cầu bậc Đạo sư
    Kon-dan-na, xóa sạch nghi ngờ:
    Chủ đề này được nhiều người bảo
    Đè nặng các hiền trí lão gia.

Bậc Đại Sĩ liền chấp thuận và ngâm vần kệ sau:

  1. Cho phép người đem hỏi chuyện gì
    Thực lòng người vẫn ước mong nghe,
    Đời này, đời kế, ta đều biết,
    Trí chẳng nghi nan mọi vấn đề.

Sau khi được bậc Đại Sĩ cho phép, Thiên chủ ra vấn đề ngài chuẩn bị hỏi.

*

Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ sự việc này:

  1. Thiên chủ tìm Chân lý pháp trần,
    Đến chư Hiền giả lượng khoan hồng,
    Để ngài học những điều mong biết,
    Và bắt đầu tham vấn mọi phần.
  2. Cái gì ta phải diệt hoàn toàn
    Mà chẳng bao giờ hối tiếc không,
    Và cái gì ta cần vứt bỏ
    Mà người hiền thiện thảy đồng lòng?
    Lời ai ta phải cần kham nhẫn
    Cho dẫu là thô lỗ tận cùng,
    Đây chính là điều ta ước muốn
    Kon-na Thánh giả nói cho thông.

*

Bậc Đại Sĩ ngâm kệ giải thích vấn đề:

  1. Sân hận là tâm phải diệt trừ
    Mà ta chẳng hối tiếc bao giờ,
    Giả nhân, giả nghĩa cần quăng bỏ,
    Được tán đồng ngay bởi bậc từ.
    Ta phải nhịn lời từ mọi phía
    Dù lời thô lỗ thật vô bờ,
    Lòng kham nhẫn ấy, hiền nhân bảo,
    Đệ nhất ngôi cao quả thật là.

Thiên chủ:

  1. Những lời thô ác của hai người
    Ta phải kiên tâm chịu đựng hoài:
    Là bậc trên, người cùng đẳng cấp;
    Song làm sao nhẫn nhịn bao lời
    Của người thấp kém hơn ta nữa,
    Là việc ta mong học hỏi ngài.

Bậc Đại Sĩ:

  1. Lời ác thô từ các bậc trên,
    Ta thường kham nhẫn bởi lòng kiêng,
    Hoặc không tranh cãi người đồng đẳng;
    Song nhịn lời thô kẻ thấp hèn
    Là chính viên lòng thành nhẫn nhục,
    Như lời hiền Thánh vẫn thường khuyên.

Các vần kệ trên đây là những lời đối đáp giữa hai vị. Khi ngài nói xong, Đế Thích Thiên chủ bảo bậc Đại Sĩ:

– Thưa Thánh giả, trong phần đầu ngài bảo: “Nhẫn nhịn lời thô lỗ của mọi người, đó là lòng kiên nhẫn tối thượng”, song nay ngài lại bảo: “Nhẫn nhịn lời thô lỗ của kẻ dưới, người ta nói, đây mới là lòng kiên nhẫn tối thượng”; lời nói sau không ăn khớp với lời nói đầu tiên của ngài.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ nói với Thiên chủ:

– Thưa Thiên chủ, lời sau cùng này của ta dành cho một người nhẫn nhịn lối nói thô lỗ của một kẻ mà người ấy biết là thấp kém hơn mình, còn lời nói đầu tiên của ta là do khi chỉ nhìn bề ngoài, ta không thể biết chắc hoàn cảnh của người khác có thấp kém hơn ta hay không.

Rồi để nêu rõ thật khó khăn khi chỉ nhìn bề ngoài mà phân biệt người thấp kém hay cao sang, trừ phi là phải qua tiếp xúc thân mật, ngài liền ngâm kệ:

  1. Khó nhìn hào nhoáng vẻ bề ngoài
    Mà đoán hơn, thường hay giả dạng
    Tồi tàn xuất hiện ở trong đời.
    Vậy thì, bạn hỡi, ta khuyên nhủ
    Hãy nhịn lời thô của mọi người.

Khi nghe điều này, Đế Thích Thiên chủ đầy lòng tín thành, cầu xin ngài:

– Thưa Tôn giả, xin Tôn giả thuyết giảng cho chúng ta biết lợi lạc của lòng nhẫn nhục này.

Bậc Đại Sĩ liền ngâm kệ:

  1. Sức mạnh quân vương đến bực nào
    Cũng không thắng lợi chốn binh đao
    Bằng hiền nhân tạo nhờ kham nhẫn:
    Đại nhẫn xóa tan mọi hận cừu.

Khi bậc Đại Sĩ đã thuyết giảng các công đức do nhẫn nhục tạo nên như vậy xong, các vị vua suy nghĩ: Đế Thích Thiên chủ hỏi vấn đề của riêng ngài, mà lại không để cho chúng ta có cơ hội hỏi vấn đề của chúng ta”.

Biết được ước vọng của các vua ấy, Thiên chủ để riêng bốn vấn đề ngài đã chuẩn bị trước đây qua một bên, và khi đưa ra mối hoài nghi của các vị vua kia, Thiên chủ ngâm kệ này:

  1. Lời ngài đang dạy thật êm tai,
    Song muốn nghe thêm một chuyện này:
    Xin hỏi phận Dan-da chúa tể
    Cùng ba tòng phạm lỗi lầm gây,
    Cõi nào phải tái sinh đày đọa,
    Vì phá Thánh hiền thế giới đây.

Bậc Đại Sĩ ngâm năm vần kệ giải đáp các vấn đề trên:

  1. Thưở nọ tan tành cả quốc gia,
    Vì làm ô nhục Thánh Ki-sa
    Dan-da ngã xuống Ku-ku địa
    Tràn ngập than hừng hóa bụi tro.
  2. Nà-li đầy hoảng hốt rơi vào
    Địa ngục trong nanh vuốt chó ngao,
    Vì nhạo báng hiền nhân, đạo sĩ,
    Pháp sư chẳng phạm lỗi lầm nào.
  3. Cũng vậy Aj-ju-na giết ngay
    Thánh nhân thanh tịnh, luyện tu dày,
    An-gi, nên bị xô đầu xuống
    Hành hạ thân trong chốn đọa đày.
  4. Ka-là-bu cháy tại Diêm cung
    Giữa khổ đau thê thảm, hãi hùng,
    Vì đã hại hiền nhân đức hạnh
    “Bậc thầy nhẫn nhục” tiếng vang lừng.
  5. Người trí nghe xong các chuyện trên
    Về miền địa ngục khổ triền miên,
    Chẳng hề hại Đạo Sư hiền trí,
    Nhờ Chánh nghiệp, sau đạt cõi thiên.

Khi bậc Đại Sĩ đã nêu rõ các cõi mà bốn vị vua kia phải thác sinh về, ba vị vua này giải tỏađược hết mối nghi ngờ. Rồi Đế Thích Thiên chủ ngâm vần kệ để nêu lên bốn vấn đề của ngài:

  1. Lời ngài đáng quý trọng êm tai
    Song muốn nghe thêm một chuyện này:
    Ai được người đời xem “đức độ”?
    Thế nhân gọi “trí giả” là ai?
    Người trần xem kẻ nào “thành tín”,
    Ai kẻ vận may chẳng bỏ rơi?

Bậc Đại Sĩ liền ngâm bốn vần kệ trả lời:

  1. Khẩu, hành chứng tỏ tự điều thân,
    Tư tưởng tránh xa mọi lỗi lầm,
    Chẳng dối gian nhằm đích hạ liệt,
    Được xem “đức độ” giữa nhân quần.
  2. Giải đáp vấn đề, trí tuệ thâm,
    Không làm điều ác độc, vô lương,
    Lời hay đúng lúc đem khuyên nhủ,
    Được mọi người xem đúng “trí nhân”.
  3. Biết ơn vì đã nhận ân lành,
    Làm nhẹ buồn đau với nhiệt tình,
    Chứng tỏ bạn hiền lòng vững chắc,
    Mọi người ca ngợi “kẻ tâm thành”.
  4. Kẻ nào tài khéo đủ trong tay,
    Chân thật, dịu dàng, rộng lượng thay,
    Ái ngữ, ân cần, người cảm phục,
    Vận may chẳng bỏ kẻ như vầy.

Bậc Đại Sĩ trả lời bốn vấn đề trên như vậy, chẳng khác nào làm vầng trăng hiện lên bầu trời. Sau đó là những câu hỏi đáp khác nữa:

Thiên chủ:

  1. Lời ngài đáng thán phục êm tai,
    Ao ước nghe thêm một chuyện này
    Đức hạnh, vận may, hiền trí thiện,
    Cái nào tối thắng giữa trần ai?
  2. Người thiện xem hiền trí tối cao,
    Như trăng che khuất các vì sao,
    Đức hạnh, hiền lương cùng vận tốt,
    Rõ ràng bậc trí phải theo mau.
  3. Lời người thân ái thật êm tai,
    Mong ước nghe thêm một chuyện này:
    Muốn đạt thành tâm minh trí tuệ,
    Đường nào hành động phải theo hoài?
    Đâu là trí đạo xin cho biết
    Nhờ việc nào người có trí ngay?

Bậc Đại Sĩ:

  1. Kết bạn người uyên bác lão thành,
    Nhờ tham vấn, học trí thông minh,
    Phải nghe theo các lời khuyên tốt,
    Vì vậy con người trí tuệ sinh!
  2. Bậc trí nhìn tham dục giác quan
    Thấy đầy bệnh khổ, lắm vô thường,
    Giữa tham, ưu não gây kinh hãi,
    An tịnh, hiền nhân dạ chẳng màng.
  3. Vậy điều phục ác nghiệp, ly tham,
    Tu tập từ bi vô lượng tâm,
    Với mọi hữu tình đều quý mến,
    Tâm thanh tịnh, đến Phạm thiên cung.

Trong khi bậc Đại Sĩ thuyết giảng như vậy về các tội lỗi do tham dục gây ra, ba vị vua cùng với đám quân sĩ đều đoạn trừ tham dục nhờ lấy đức tính từ bi để đối trị. Bậc Đại Sĩ biết được việc này, liền ngâm kệ tán thán cả ba vị vua:

  1. Nhờ thần lực nên chúa Bhi-ma
    Cùng với ngài, này chúa At-tha,
    Đại đế Ka-lin-ga hiển hách,
    Đến đây các vị đủ luôn ba,
    Xưa làm nô lệ cho tham dục,
    Nay được tự do giải thoát ra.

Nghe vậy cả ba vị Đại vương ngâm kệ tán thán bậc Đại Sĩ :

  1. Chính ngài là bậc tha tâm thông,
    Nhờ vậy, từ vua đến đạo quân
    Giải thoát khỏi vòng vây dục vọng,
    Xin ngài ban bố một hồng ân
    Chúng ta quả thật đều mong ước
    Đạt đến niềm an lạc Thánh nhân.

Sau đó bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ khác để ban cho các vị đặc ân này:

39 Ta ban điều các vị mong cầu
Để các vị xa ác dục mau,
Hoan hỷ vô biên, tâm thấm đượm,
Đạt thành cực lạc ước về sau.

Nghe vậy các vị ngâm kệ tán đồng:
40. Mọi việc làm theo lệnh của ngài,
Những gì ngài nghĩ tối ưu thôi,
Để tâm thấm đượm vô biên hỷ
Đạt đến lạc an dạ ước hoài.

Sau đó bậc Đại Sĩ ban lệnh truyền đại giới cho đám quân sĩ của ba vị vua và bảo hội chúng khổ hạnh ra về qua vần kệ này:

  1. Vinh dự thay Đã viếng Ki-sa,
    Giờ đây chư vị hãy về nhà,
    Hỡi chư hiền Thánh danh lừng lẫy,
    Hãy trú an trong tịnh lạc kia,
    Niềm hỷ lạc trong đời Thánh hạnh
    Chính là Cực lạc tối cao xa.

Các Thánh nhân này tán đồng ý kiến của ngài bằng cách cung kính đảnh lễ ngài, rồi bay lên hư không trở về cư trú của mình. Còn Đế Thích Thiên chủ từ chổ ngồi chắp tay đảnh lễ bậc Đại Sĩ chẳng khác nào tôn kính vầng nhật, rồi cùng hội chúng ra về.

*

Thấy vậy, bậc Đại Sĩ ngâm các vần kệ sau:

  1. Nghe thuyết toàn Chân lý tối cao
    Bởi hiền nhân giọng điệu thanh tao,
    Chư Thiên trở lại miền thiên giới,
    An lạc, ân tình thắm thiết sao!
  2. Lời lẽ Thánh hiền dạy lọt tai,
    Mang đầy ý nghĩa, giọng thanh bai,
    Ai tinh cần tập trung tâm trí
    Tầm tứ chuyên đề, sẽ thấy ngay:
    Đường nhập tịnh theo từng cấp bực,
    Thoát ly Thần Chết độc quyền oai.

Bậc Đạo Sư đã thuyết giáo như vậy đưa đến quả A-la-hán tối thượng và bảo:

– Không phải chỉ ngày nay, mà ngay cả ngày xưa nữa, cũng có trận mưa hoa trời nhân dịp lễ hỏa táng Thánh thể của Mục-kiền-liên.

Rồi Ngài giảng bày các Thánh đế và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy Salissara là Sàriputta (Xá-lợi-phất), Mendissara là kassapa (Ca-diếp), Pabbata là Anuruddha (A-na-luật-đà), Devala là Kaccàyana (Ca-chiên-diên),Anussisa là ànanda, Kisavaccha là Kolita (tức Mục-kiền-liên), Sarabhanga là Bồ-tát, các ông phải hiểu Tiền thân này như vậy.

-ooOoo-

  1. Chuyện thiên nữ Alambusà (Tiền thân Alambusà)

Thiên chủ In-dra, đấng vạn năng…,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc một Tỷ-kheo bị mê hoặc bởi người của thời kỳ phóng dật trước kia.

Toàn thể đề tài câu chuyện được kể lại đầy đủ trong Tiền thân Indriya số 432. Lúc ấy giờ bậc Đại

Sư hỏi vị Tỷ-kheo:

– Này Tỷ-kheo, có thật ông sinh tâm bất mãn chăng?

– Thưa vâng. Bạch Thế Tôn, quả đúng vậy.

– Do ai gây nên?

– Bạch Thế Tôn, do người vợ cũ của con ngày trước.

-Này Tỷ-kheo, nữ nhân này đã làm hại ông, chính vì kẻ đó mà trước kia ông đã mất Thiền lực, và phải nằm liệt suốt ba năm ròng trong trạng thái tán loạn tâm trí, đến khi hồi tỉnh, ông đã than khóc thảm thiết. Nói xong Ngài kể cho vị này câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa dưới triều vua Brahmadatta ở Ba-la-nại, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở quốc độ Kàsi. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài thông thạo mọi môn học thuật và sau đó ngài xuất gia vào rừng sống bằng củ quả rừng. Lúc bấy giờ, một con nai cái sống trong vùng thảo am của vị Bà La Môn này, ăn cỏ và uống nước suối có hòa lẫn tinh dịch của ngài, rồi lại sinh lòng say mê ngài đến độ nó mang thai và từ đó đến trú luôn ở nơi gần nhà của ẩn sĩ.

Bậc Đại Sĩ xem xét kỹ vấn đề và biết được sự thật của trường hợp trên. Về sau, nai cái sinh một nam nhi, và bậc Đại Sĩ chăm sóc hài nhi ấy với tình phụ tử. Hài nhi được đặt tên là Isisinga.

Khi chàng trai đến tuổi trưởng thành, ngài cho chàng thọ giới tu hành và khi ngài đã già, ngài dẫn chàng đến rừng Nàri và căn dặn :

– Này con yêu quý, ngay trong vùng Tuyết Sơn này có nhiều nữ nhân tươi đẹp như hoa, chúng thường đem tai họa tàn khốc cho những ai rơi vào uy lực của chúng; vậy con đừng để cho chúng chinh phục.

Chẳng bao lâu sau đó, ngài tử trần và sinh lên Phạm thiên giới. Còn ẩn sĩ Isisinga trong lúc tham thiền nhập định, an trú tại vùng Tuyết Sơn kia làm một nhà đại khổ hạnh khắc nghiệt, hành hạ xác thân đủ mặt.Vì uy lực công đức của ẩn sĩ này, cung của Đế Thích Thiên chủ xem xét tìm ra nguyên nhân và suy nghĩ: “Người này sẽ hạ ta xuống khỏi ngôi vị Thiên chủ, vậy ta quyết sai một Thiên nữ đi phá hoại công đức của vị này”.

Sau khi quan sát toàn thế giới chư Thiên, giữa đám hai mươi lăm triệu nàng thị nữ cõi trời, ngài thấy ngoại trừ Thiên nữ Alambusà, không có ai xứng hợp với công việc này hơn cả. Ngài liền triệu nàng đến, và ban lệnh cho nàng phải đi phá hoại công đức của Thánh nhân thanh tịnh kia.

*

Để giải thích vấn đề này, bác Đạo Sư ngâm vần kệ đầu:

  1. Thiên chủ In-dra (*), đấng vạn năng,
    Xưa kia đã giết Va-tra thần,
    Triệu nàng Thiên nữ vào cung điện
    Vì biết nàng mưu chước lẫy lừng.
  2. “Thiên nữ A-lam”, Đế Thích truyền:
    “Ở trên hội chúng của chư Thiên
    Bảo nàng đến gặp I-si nọ
    Quyến rũ chàng say đắm mối duyên”.

(*) Indra và Vàsava: danh hiệu của Sakka

Đế Thích chủ phán bảo Alambusà:

– Nàng hãy tìm gặp Isisinga, dùng uy lực của nàng chinh phục chàng và phá hủy công đức của chàng.

Rồi ngài ngâm vần kệ:

  1. Hãy theo cám dỗ sát bên chàng
    Vì chính chàng là bậc Thánh nhân,
    Trong lúc đi tìm nguồn Cực lạc,
    Lại còn chiến thắng cả Thiên hoàng.

Nghe nói vậy, nàng Alambusà đáp hai vần kệ:

  1. Giữa bao Thiên nữ, tấu Thiên hoàng,
    Sao chỉ riêng nhìn đến tiện nhan,
    Và bảo phận hèn đi quyến rũ
    Thánh nhân đe dọa chiếc ngai vàng?
  2. Vườn Nan-da, cực lạc thần tiên,
    Có biết bao Thiên nữ diệu huyền,
    Đến lượt một nàng trong đám ấy,
    Xin giao việc đáng rủa nguyền trên.

Tiếp theo Đế Thích Thiên chủ ngâm ba vần kệ:

  1. Nàng nói đúng thay, ở Lạc viên
    Nan-da-na, trẫm biết vườn tiên
    Nhiều Thiên nữ diễm kều dung sắc
    Sánh kịp nàng, thường được ngắm xem.
  2. Nhưng này, hỡi tuyệt thế tiên nương,
    Chẳng có ai dùng kế mỹ nhơn
    Điêu luyện như nàng, hàng quyến rũ
    Thánh nhân bằng mọi cách điên cuồng.
  3. Vậy nàng quả thật đóa hoa khôi,
    Hãy bước lên đường, tố nữ ôi,
    Dùng lực thần kia là mỹ sắc
    Buộc hiền nhân nọ phục oai trời.

Nghe lời này, nàng Alambusà ngâm hai vần kệ:

  1. Phận hèn sẽ quyết, tấu Thiên hoàng,
    Tiến bước lên đường phụng mệnh ban
    Song vẫn lo âu phần thiếp dám
    Liều mình hại bậc Thánh nghiêm trang.
  2. Bởi vì lắm kẻ đáng thương thay,
    (Thiếp sợ run vì ý nghĩ này:)
    Làm hại Thánh hiền, nên phải đọa,
    Ăn năn ngục tối khổ đau đầy.
  3. Thiên nữ A-lam nói vậy xong,
    Khởi hành, nàng lướt tóc như phong,
    Đi lôi cuốn tịnh nhân lừng lẫy
    Vào các hạnh vi bất tịnh nhân.
  4. Đến cánh rừng kia nữa dặm sâu,
    Thắm tươi đỏ rực các chùm dâu,
    I-si trú ẩn trong rừng ấy,
    Nàng biến mình đi chẳng thấy đâu.
  5. Tảng sáng tinh mơm chớm nắng đào,
    Trước khi vầng nhật hiện lên cao,
    Nàng Thiên nữ đến gần hiền giả,
    Đang quét thảo am sạch biết bao!

Các vần kệ này phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng.

Lúc ấy, vị khổ hạnh ngâm kệ hỏi nàng:

  1. Ai đó như tia chớp sáng ngời,
    Rõ ràng như thể ánh sao mai,
    Đôi tay đeo ngọc, hoa tai điểm,
    Lấp lánh từ xa rực cả trời?
  2. Như phấn chiên-đàn, tỏa ngát hương,
    Huy hoàng chẳng khác ánh chiêu dương,
    Yêu kiều vóc liễu thanh thanh dáng.
    Tuyệt sắc cho ai được ngắm nàng,
  3. Dịu dàng, trong trắng với lưng thon,
    Nhún nhẩy nhịp nhàng nhón gót son,
    Yểu điệu thân nàng bao diễm lệ,
    Làm ta say đắm cả tâm hồn!
  4. Cặp đùi nàng giống chiếc vòi voi,
    Dài thẳng thon dần thật mảnh mai,
    Mông của nàng êm đềm xúc cảm
    Tròn như mặt gỗ để chơi bài.
  5. Rốn nàng để lộ đám lông mềm,
    Ta tưởng chừng tơ các ngó sen
    Từ phía xa xa nhìn chỉ thấy
    Tựa hồ đầy dược thủy đen huyền!
  6. Đôi vú sữa như nửa quả bầu,
    Căng phồng, khoe cả cặp hình cầu,
    Săn dòn, cho dẫu không cây chống,
    Chúng thật hoàn toàn chẳng dựa đâu!
  7. Môi lưỡi nàng đều đỏ thắm tươi
    Thật là quý tướng hiếm hoi ôi!
    Cổ dài như thể linh dương núi,
    Lại vẽ thêm ba ngấn rạch ròi!
  8. Răng nàng dùng chút gỗ lau chùi.
    Trong sạch, luôn luôn giữ sáng ngời,
    Lấp lánh cả hàm trên lẫn dưới
    Chiếu đầy tia sáng, trắng tinh khôi!
  9. Đôi mắt nàng bầu dục dáng hình
    Khi nhìn, bao vẻ đẹp đa tình,
    Khác nào đôi trái dâu đen láy,
    Tô điểm màu đo đỏ mép vành.
  10. Bím tóc mướt trơn, chẳng quá dài,
    Kết thành từng cuốn, gọn nhất đời,
    Điểm vàng đầu mút, mùi thơm ngát
    Dầu phấn đàn hương quý tuyệt vời!
  11. Giữa mọi người theo nghiệp bán mua,
    Nuôi bầy gia súc hoặc cày bừa,
    Giữa bao hiền thánh đầy uy lực,
    Nguyện sống đời thanh tịnh ẩn cư.
  12. Trong muôn loài giữa cõi trần gian,
    Ta chẳng thấy ai sánh kịp nàng,
    Thân phụ là ai, cùng quý tánh,
    Ta mong nàng thổ lộ cho tường.

Trong lúc vị ẩn sĩ tán tụng nàng Alambusa từ bàn chân lên đến đỉnh đầu, không sót đường tơ kẻ tóc nào, nàng vẫn giữ lời yên lặng và khi nghe chàng nói lời lẽ dài dòng như vậy, nàng nhận thấy tâm trạng của chàng dao động biết dường nào, liền ngâm kệ này:

  1. Vạn phúc trời ban đến bạn lành,
    Thời gian, Ca-diếp hỡi, trôi nhanh,
    Sao chàng mãi hỏi chi vơ vẩn,
    Chẳng phải đôi ta chỉ một mình?
  2. Hãy vào am thất, chốn tu hành,
    Chụp lấy ngay cơ hội chứng minh
    Ngàn thú giao hoan này khét tiếng
    Giữa người sùng báo đạo si tình.

Nói vậy xong, Thiên nữ Alambusà nghĩ thầm: “Nếu ta cứ đứng yên, chàng sẽ không đến gần cho ta được dịp quyển rũ chàng, vậy ta phải làm như thế sắp bỏ chạy”.

Rồi dùng mỹ nhân kế để làm dao động quyết tâm của vị ẩn sĩ, nàng bỏ chạy về hướng ban nãy nàng đã xuất hiện để đến gần chàng.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Nói xong Thiên nữ Lam-bu-sà
    Vội vã tạ từ cất bước xa
    Danh sĩ I-si, hòng quyến rũ
    Thánh nhân vướng phải nghiệp dâm tà.

*

Vị ẩn sĩ thấy nàng bỏ đi, liền kêu lên:

– Nàng đã đi rồi.

Và chàng nhanh nhẹn chận lối nàng, trong khi nàng đang chầm chậm bước ra, rồi lấy tay nắm tóc nàng lại.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Như gió, Thánh nhân lướt vội vàng
    Cố ngăn nàng chạy trốn xa chàng,
    Hăng say đeo đuổi theo Thiên nữ,
    Chụp lấy đầu, lôi mái tóc nàng.
  2. Chính tại nơi chàng đứng lặng yên,
    Hằng nga ôm chặt giữa tay tiên,
    Tức thì công hạnh chàng tiêu hết
    Trước lực thần mê hoặc đảo điên!
  3. Tư niệm nàng bay đến Ngọc cung
    Tại Nan-da Thượng uyển muôn trùng,
    Ngọc hoàng hiểu rõ điều nàng ước,
    Phái vội thiên xa lấp lánh vàng.
  4. Trang hoàng giăng trải đủ yên cương,
    Tô điểm cân đai phủ mấy tầng,
    Tại đó, Thánh nhân nằm khuất phục
    Trong tay Thiên nữ lắm ngày trường!
  5. Ba năm ròng rã lướt qua đầu
    Chẳng khác nào, giây lát bóng câu,
    Cho đến phút sau cùng, Thánh giả
    Trở mình thức khỏi cánh tay mầu!
  6. Cây xanh chàng thấy khắp nơi nơi,
    Và chiếc bệ thờ cạnh đó thôi,
    Thăm thẳm ngàn cây vang vọng mãi
    Tiếng sơn ca lảnh lót ngân dài.
  7. Nhìn quanh, chàng nức nở đau thương,
    Nhỏ lệ đắng cay phận tủi hờn:
    “Ta chẳng cầu kinh, dâng lễ vật
    Nơi đây chẳng cúng tế đăng đàn.

36.Ta trú rừng hoang vắng, độc thân,
Nào ai người cám dỗ mình chăng?
Ai dùng tà hạnh làm tiêu tán
Tất cả lương tâm với trí năng,
Chẳng khác con thuyền đấy báu vật
Bị chìm đắm giữa chốn trùng dương?”

Nghe vậy, Alambusà nghĩ thầm: “Nếu ta không nói rõ, ắt chàng sẽ nguyền rủa ta, vậy ta phải nói cho chàng hay”. Rồi nàng hiện hình ra đứng bên cạnh chàng ngâm kệ:

  1. Thiên chủ Sak-ka phải đến đây,
    Nguyện làm tỳ nữ phục tuân ngài;
    Dù vô tình thiếp không hay biết,
    Đã hại người trong cực lạc này.

Nghe nàng nói vậy, chàng liền nhớ lại lời cha dạy, rồi than khóc về việc chàng đã bị phá tan hết công hạnh chỉ vì bất tuân lời cha, và ngâm kệ:

  1. Thân phụ ta, Ca-diếp Đại nhân,
    Trí hiền khuyên nhủ trẻ buông lung:
    “Nữ nhân cũng giống hoa sen đẹp,
    Thận trọng, thiện nam, trước lực thần!”
  2. Đề phòng nữ sắc mê hồn,
    Hiểm họa đâu đây chực kế gần.
    Do vậy, lòng nhân từ thúc đẩy
    Nghiêm đường khuyên nhủ trẻ phòng thân.
  3. Phóng dật, ta cam chịu bỏ qua
    Những lời thông tuệ của cha già,
    Than ôi, đơn độc, ta đau đớn,
    Nay sống rừng hoang, dạ xót xa!
  4. Đời cũ, ta nguyền rủa lắm thay,
    Vâng lời cha dạy kể từ đây,
    Thà đành vong mạng còn hơn phải
    Trở lại đường xưa lối cũ này.

Sau đó, chàng từ bỏ dục lạc, và tham thiền nhập định. Còn Alambusà thấy rõ công đức tu tập của chàng biết rằng chàng đã đạt Thiền chứng, liền hoảng sợ cầu xin chàng tha tội.

*

Bậc Đạo Sư ngâm hai vần kệ làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Bỗng chốc A-lam hiểu rõ ràng
    Lực chàng kiên định, thật can tràng,
    Vội quỳ đảnh lễ hiền nhân ấy,
    Lập tức nàng ôm lấy gót chàng.
  2. “Xin dẹp lôi đình, đấng Thánh minh,
    Thiếp đã gây một chuyện tày đình,
    Khi chư Thiên cõi trời vinh hiển
    Rúng động kinh hoàng nghe đại danh”.

*

Sau đó, chàng để Thiên nữ ra đi và bảo:

– Này Thiên nữ, ta tha tội cho nàng, thôi nàng hãy đi nơi nào tùy ý.

Rồi chàng ngâm kệ:

  1. Tam thập tam Thiên, hưởng phước lành
    Cùng Và-sa (*), chúa tể quần sinh,
    Và nàng Thiên nữ, xin từ giã,
    Nàng được tự do thỏa nguyện mình.

(*) Indra và Vàsava: danh hiệu của Sakka

Từ tạ chàng xong, nàng trở về thiên giới trong chiếc xe vàng ấy.

*

Bậc Đạo Sư ngâm ba vần kệ làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Ôm lấy đôi chân bậc trí nhân
    Đi về phía hữu, diễu quanh vòng,
    Chắp tay, dáng điệu cầu tha tội,
    Nàng hiện hình đi khỏi mắt chàng.
  2. Nàng Thiên nữ lại cỡi xe vàng,
    Lộng lẫy yên cương được điểm trang,
    Mọi vẻ huy hoàng khăn ngọc phủ,
    Nàng phi nhanh đến cõi thiên đàng.
  3. Như đuốc hồng hay chớp lóe ngang,
    Nàng du hành vượt thẳng trời quang,
    Sak-ka Thiên chủ hân hoan phán:
    “Chẳng ước nguyện nào trẫm chẳng ban”.

Khi nhận được điều ước do ngài ban, nàng ngâm vần kệ kết thúc:

  1. Ví dầu Đế Thích, chúa chư Thiên
    Ban thiếp điều tâm ước nguyện riêng:
    “Xin chẳng bao giờ còn cám dỗ
    Thánh nhân nào phá bỏ lời nguyền”.

*

Đến đây bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thọai dành cho vị Tỷ kheo kia và giảng giải cho các Thánh Đế cùng nhận diện Tiền thân: – Khi cac Thánh Đế kết thúc, vị Tỷ kheo ấy đắc Sơ quả Dự lưu:

– Lúc bấy giờ Alambusà chính là người vợ trong những ngày phóng dật cũ, Isisinga là vị Tỷ kheo thối thất này và bậc đại Thánh, cha chàng, chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện long vương Samkhapàla (Tiền thân Samkhapàla)

Dáng điệu thanh tao, tướng đẹp xinh…,

Câu chuyện này được bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, liên quan đến các phận sự trong những ngày trai giới (Bố-tát giới).

Lúc bấy giờ, nhân dịp này bậc Đạo Sư tán thán một số cư sĩ hành trì trai giới và bảo:

– Các hiền nhân ngày xưa đã từ bỏ cảnh giới huy hoàng của Long vương (Nàga) và hành trì trai giới.

Rồi theo lời thỉnh cầu của các Tỷ kheo, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa một vị vua xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) cai trị thành Ràjagaha (Vương Xá). Thời bấy giờ, Bồ-tát sinh làm vương tử của Chánh hậu, được đặt tên là Duyyodhana. khi đến tuổi trưởng thành, ngài thông đạt các môn học thuật tại Takkasilà và trở về triều thăm vua cha, phụ vương liền truyền ngôi cho ngài và xuất gia tu hành tại ngự viên.

Cứ ba lần trong ngày, Bồ-tát đến yến kiến phụ vương thời bấy giờ được tôn kính và cung phụng trọng thể. Việc này gây trở ngại khiến vua cha không thể thực hành ngay cả những pháp môn làm phát khởi Thiền định, nên ngài suy nghĩ: “Ta đang hưởng đầy lợi dưỡng cùng với sự tôn sùng tột bực, nếu ta còn ở đây thì không thể nào đoạn trừ tham dục được. Vậy ta đừng nói gì với hoàng nhi cả, cứ việc bỏ đi nơi khác”.

Thế là không nói gì với một ai, ngài rời ngự viên và vượt qua biên giới của quốc độ Ma-kiệt-đà, ngài dựng một lều lá trong quốc độ Mahimsaka, gần núi Candaka, bên dòng sông Kannapenà uốn khúc, là nơi nó bắt nguồn từ hồ Samkhapàla. Ngài an trú tại nơi đó đến khi thành tựu các pháp môn làm phát khởi Thiền định, ngài tu tập các Thắng trí, và chỉ thọ thực những gì ngài kiếm được. Một vị Long vương loài Rồng Nàga, có danh hiệu Samkhapàla, sinh trưởng từ dòng sông Kannapennà cùng hội chúng đông đảo loài Rồng, thỉnh thoảng đến yết kiến vị ẩn sĩ này, nên ngài thuyết pháp cho Long vương.

Lúc bấy giờ vương tử nóng lòng gặp cha mà không biết hiện ngài ở đâu, nên thân hành đi tìm. Khi biết được nơi ngài đang cư ngụ như thế, vua cùng đám tùy tùng đông đảo đến yết kiến ngài.

Sau khi dừng lại ở một đoạn đường ngăn cách nơi ấy, vua cùng một số cận thần đi về phía lều ẩn sĩ. Lúc ấy Long vương Samkhapàla đang cùng đám tùy tùng nghe thuyết pháp, nhưng khi thấy vua đến gần, liền đứng dậy vái chào bậc trí giả rồi từ tạ ra về.

Vua vái chào phụ vương và sau các nghi lễ thông thường của đôi bên trao đổi xong, vua hỏi:

– Bạch Tôn giả, vị vua nào vừa yết kiến Tôn giả?

– Này vương nhi, đó là Long vương Samkhapàla.

Vương tử liền mong ước viếng thăm cảnh giới Nàga vì vẻ huy hoàng vĩ đại ở đó. Khi ở lại cùng cha vài ngày, ngài cung cấp phụ vương đủ thực phẩm như thường lệ rồi trở về thành.

Nơi đó, ngài đã cho xây Bố thí đường tại bốn cổng thành, nhờ công đức bố thí ấy, ngài đã gây chấn động khắp cõi Diêm-phù-đề. Vì ước nguyện lên cảnh giới Rồng Nàga, ngài luôn hành trì giới luật và giữ các phận sự trong ngày trai giới nên khi mạng chung, ngài tái sinh vào cảnh giới Rồng Nàga làm Long vương Samkhapàla.

Dần dần qua thời gian, ngài đâm chán cảnh huy hoàng này, nên từ khi ước nguyện tái sinh làm người, ngài lại hành trì các ngày trai giới; nhưng ở trong cảnh giới Rồng Nàga, việc hành trì giới luật không có kết quả gì, giới đức của ngài lại bị hao tổn.

Từ đó, ngài lìa bỏ cảnh giới Nàga và đến một nơi không xa dòng sông Kannapennà ấy, cuộn mình quanh tổ kiến giữa đường cái và đường mòn, ngài quyết tâm giữa ngày trai giới và thực hành giới đức. Và ngài bảo:

– Kẻ nào cần da thịt ta thì cứ lấy hết đi.

Và như vậy theo hạnh bố thí, ngài hy sinh thân mình, nằm trên tổ kiến, an nghỉ tại đó trong các ngày mười bốn và rằm giữa tháng, cứ hai tuần ngài trở về cảnh giới Nàga.

Một ngày kia, khi ngài đang nằm đó, thực hành giới luật xong, có một đám mười sáu nam nhân từ làng bên cạnh, thèm ăn thịt nên lang thang vào rừng, cầm vũ khí trong tay. Khi trở về chẳng kiếm được thú vật gì, chúng thấy ngài nằm trên tổ kiến liền nghĩ: “Hôm nay ta chẳng bắt được một con tắc kè nhỏ nào nữa, vậy ta phải giết rắn chúa này mà ăn thịt”.

Nhưng vì sợ thân mình ngài quá to lớn, dù chúng có bắt được ngài, ngài cũng sẽ thoát ra, nên chúng nghĩ rằng phải đâm ngài bằng các cây cọc ngay khi ngài đang nằm cuộn mình ở đó và sau khi gây thương tích cho ngài như vậy, chúng sẽ bắt ngài đi. Thế là chúng cầm cọc tiến đến gần ngài.

Lúc bấy giờ Bồ-tát biến hình to lớn như chiếc thuyền rộng cực kỳ xinh đẹp tựa vòng hoa làiđặt trên mặt đất, đôi mắt như quả Gunja, chiếc đầu như đóa hoa Jayasumana.

Khi nghe tiếng chân của mười sáu người kia, ngài ngẩng đầu lên từ thân thể cuộn tròn, mở tođôi mắt rực lửa nhìn cả bọn đi đến cầm cả cọc trong tay. Ngài suy nghĩ: “Hôm nay ước nguyện của ta sẽ thành tựu trong lúc ta nằm ở đây, vậy ta phải nhất tâm cao độ và hy sinh thân mạng ta cho bọn chúng, khi chúng lấy dao đâm ta, gây thương tích đầy mình mẩy ta, ta cũng không được mở mắt ra căm hận nhìn chúng”. Rồi để giữ vững quyết tâm này vì sợ phạm giới luật, ngài dấu đầu vào giữa đám mào và nằm yên. Bọn người kia đến gần ngài nắm ấy đuôi kéo lê đi trên mặt đất. Sau đó lại thả ngài xuống, chúng dùng cọc nhọn đâm vào tám chỗ trên thân ngài rồi lấy gậy tre màu đen, gai nhọn đủ thứ đâm vào các vết thương đang nứt nẻ, xong lại tiến bước, lôi ngài theo bằng dây thừng buộc vào tám chỗ ấy.

Bậc Đại Sĩ từ lúc bị thương tích bởi cọc nhọn kia, chẳng hề mở mắt hay căm hận nhìn chúng, song khi ngài bị kéo lê đi bằng tám sợi dây ấy, đầu ngài chúc xuống, đập vào đất. Vì thế khi chúng thấy đầu ngài rủ xuống, chúng đặt ngài trên con đường dốc cao, đâm qua mũi ngài một chiếc cọc mỏng, nhấc đầu ngài lên, luồn sợi dây vào mũi, và sau khi buộc đầu dây xong, chúng lại nhấc đầu ngài tiếp tục kéo đi.

Vừa lúc ấy một vị điền chủ tên gọi là Alàra ở trong thành Mithila thuộc quốc độ Videha, đang ngồi trong một cỗ xe sang trọng du hành cùng năm trăm cỗ xe nữa, trông thấy bọn ác nhân đang cố lôi Bồ-tát trên đường, liền cho cả mười sáu người trong bọn chúng mỗi người một con bò, một nắm tiền vàng, đầy đủ y phục bên trong lẫn bên ngoài, lại cho vợ con chúng đồ kim hoàn để đeo, xong bảo chúng thả ngài ra.

Bồ-tát liền trở về cung điện Nàga, lập tức đem theo đám tùy tùng đông đảo, đến gặp Alàra, và sau khi tán dương cảnh đẹp của Long cung Nàga, ngài đem ông về đó.

Ngài ban tặng đại vinh hoa phú quý cho ông, cùng với ba trăm Long nữ và mời thọ hưởng đủ lạc thú thiên giới. Alàra sống một năm tròn tại cung thất Nàga hưởng mọi thiên lạc xong, liền bảo Long vương:

– Này hiền hữu, ta muốn trở thành ẩn sĩ tu hành.

Rồi đem theo đủ mọi thứ cần dùng cho đời ẩn sĩ, ông rời Long cung Nàga đi đến vùng Tuyết Sơn tu hành, an trú tại đó một thời gian dài. Dần dần, ngài tiếp tục ra đi đến gần thành Ba-la-nại và an trú trong ngự viên.

Hôm sau ngài vào thành đi khất thực, tiến vào cung. Vua Ba-la-nại thấy diện mạo ngài quả thật uy nghi liền cho gọi ngài vào yết kiến, đặt ngài lên chiếc bảo tọa đặc biệt và ban đủ cao lương mỹ vị. Còn vua ngồi trên chiếc bảo tọa thắp hơn, đảnh lễ ngài xong, lại đàm đạo với ngài, vua ngâm vần kệ đầu:

  1. Dáng điệu thanh tao, tướng đẹp xinh,
    Chắc con dòng thế phiệt trâm anh,
    Niềm vui thế tục sao rời bỏ,
    Khoác áo tu, theo luật Thánh hành?

Các vần kệ sau đây là những lời đối đáp xen kẽ giữa vị ẩn sĩ khổ hạnh và vua:

Ẩn sĩ Alàra:

2.Tâu Chúa công, ta nhớ rõ rành
Cung Long vương nọ, dáng oai linh,
Quả lành phát xuất từ thanh tịnh,
Nên nguyện khoác áo Thánh hành.

Đức vua:

  1. Chẳng mối hãi kinh hoặc dục, sân
    Khiến hiền nhân phải bỏ lời chân:
    Nói cho ta rõ điều mong biết,
    Tịnh tín tâm ta phát triển dần.

Ẩn sĩ Alàra:

  1. Tâu Đại vương, trong bước hải hồ,
    Trên đường ta thấy lũ côn đồ
    Đang lôi Rồng lớn, dây xiềng trói,
    Chiến thắng
    cười vui trở lại nhà.
  2. Chúa thượng, ta liền đến hét to:
    – Kinh hoàng, ta sửng sốt không ngờ
    “Các ngài, lôi quái long đâu đó,
    Ác đàng, làm gì nó nữa được?”

Ác đảng:

  1. Rồng lớn ngài đang thấy trói vầy
    Dị hình, cho thực phẩm ta đây
    A-là-ra, chẳng còn mơ ước
    Hưởng món ngon hơn mỹ vị này.
  2. Từ đây ta vụt thẳng về nhà
    Mỗi đứa dùng dao xẻ thịt ra,
    Thưởng thức thịt ngon, vì phải biết,
    Từ thủ rồng rắn chính nhà ta.

Alàra:

  1. Vì Rồng này mới bắt trong rừng
    Đang bị kéo về nấu món ăn,
    Ta tặng mỗi bò cho một vị,
    Các ngài thả nó khỏi dây chăng?

Ác đảng:

  1. Thịt bò nghe quả thật bùi tai,
    Rồng rắn ê hề thịt bấy nay,
    Lời ấy, A-là, ta chấp thuận,
    Từ đây, tình bạn sẽ lâu dài.

Alàra:

10 Chúng thả ngài ra khỏi sợi dây
Buộc xuyên qua lỗ mũi căng thay,
Chúa Rồng thoát được vòng tù tội
Hướng mặt về đông, nghỉ lát giây.

  1. Vẫn nhìn đông, đã sẵn sàng bay,
    Quay lại ngắm ta, mắt lệ đầy,
    Trong lúc ta nhìn theo hướng ấy,
    Như người cầu nguyện chắp đôi tay:
  2. “Nhanh chân chạy trốn, hỡi thân bằng,
    E lại sa vào lũ địch nhân,
    Tránh bọn bạo tàn, dù thoáng thấy,
    Nếu không, ắt phải họa vào thân”.
  3. Ngài vội đến hồ nước đẹp trong,
    Đôi bờ lau sậy lẫn đào hồng,
    Trong lòng hoan hỷ, không còn sợ,
    Lặn xuống vực sâu thẳm mịt mùng.
  4. Vừa khi biến mất, vị Long vương
    Hiển lộ thần thông thực rõ ràng,
    Thái độ ân cần, đầy tin cẩn,
    Lời tri ân cảm động can tràng.

Long vương:

  1. Ngài thân thiết vượt đấng sinh thành,
    Đã cứu đời ta, bạn chí tình
    Đến tận tay xương, nhờ chính bạn
    Niềm hoan lạc trước được hồi sinh,
    A-là, ngài viếng nơi ta ngự,
    Cung điện đầy kho thực phẩm lành.
    Chẳng khác In-dra thành thượng giới,
    Ma-sak-ka, xứ sở lừng danh.

– Tâu Đại vương, sau khi nói xong những lời này, Long vương còn ca tụng thêm cảnh giới của ngài qua các vần kệ:

Long vương:

  1. Quốc độ ta bao cảnh tuyệt vời
    Dưới chân cỏ mướt phủ xanh tươi
    chẳng vươn cát bụi trên đường lộ,
    chốn ấy, ly sầu, hưởng lạc thôi.
  2. Sân bằng, tường ngọc bích bao quanh,
    Xoài đẹp sum suê tứ diện thành,
    Chùm trái chín muồi khoe sắc thắm,
    Bốn mùa thay đổi suốt năm lành.
  3. Giữa rừng xoài ấy, điện bằng vàng
    Ngài ngắm, then cài bạc chắn ngang,
    Rực rỡ cung đình kia nổi bật
    Hơn làn chớp lóe giữa không gian.
  4. Tô điểm bảo châu, đẹp dị thường
    Biết bao tranh vẽ quý trang hoàng,
    Bầy tiên phục sức xa hoa quá,
    Trước ngực đong đưa chuỗi hạt vàng.

Alàra:

  1. Sam-kha đại đế ngự lên mau
    Lầu thượng, quyền uy thật tối cao
    Được dựng lên ngàn hàng cột trụ,
    Ấy cung hoàng hậu được ngài giao.
  2. Nhanh nhẹn một tiên nữ giữa bầy,
    Cầm viên ngọc báu ở trong tay
    Ngọc lam quý hóa đầy thần lực,
    Tự ý mời ta một chiếc ngai.
  3. Rồng chúa nắm tay dẫn đến nơi
    Sừng sững cao sang, một chiếc ngai:
    “Xin ngài an tọa, ta ngồi cạnh
    Như đấng sinh thành, thắm thiết thay!”.
  4. Thêm một nàng theo kịp lệnh ngài
    Đến cùng bình nước ở trong tay,
    Rửa chân, hầu hạ ta chu đáo
    Như chánh hậu chầu Long đế đây.
  5. Thêm nàng tiên nữa thật nhanh chân
    Dâng chén vàng cơm thập cẩm ngon
    Gia vị thơm nồng càng cám dỗ
    Kẻ thèm ăn mỹ vị cao lương.
  6. Trỗi nhạc lên- vì chàng hiểu rằng
    Đó là ý chúa – Chúng hằng mong
    Chiếm lòng ta, cũng như Long đề
    Đem thù thần tiên để tấn công.

Rồi vị chúa rồng đến gần ta ngăm thêm vần kệ:

  1. Ba trăm tỷ thiếp, hỡi A-là,
    Trẫm có sẵn đây cả ấy mà,
    Tất cả đều lưng thon yểu điệu,
    Yêu kiều dung sắc vượt liên hoa,
    Kìa xem! Chúng chỉ chiều tôn ý,
    Xin nhận lời ban tặng của ta.

Alàra nói tiếp:

  1. Một năm thiên lạc hưởng tràn đầy,
    Ta hỏi Long vương một chuyện này:
    “Sao được tiên cung làm nội thất,
    Làm sao cung điện đến phần ngài?
  2. Tiên cảnh này thành tựu ngẫu nhiên,
    Được ngài xây? Tặng vật chư Thiên?
    Long vương xin nói điều chân thật,
    Sao đến an nhàn ở cảnh tiên?

Sau đây là các vấn kệ đối đáp nhau giữa đôi bên:

Long vương:

  1. Chẳng phải tình cờ, chẳng tự nhiên,
    Chẳng do ta tạo, hoặc chư Thiên,
    Chính nhờ thiện nghiệp ta, ngài biết,
    Nhờ đức hạnh, ta hưởng cảnh tiên.

Alàra:

  1. Hạnh nguyện gì, đâu Thánh đạo cao,
    Đức gì tích trữ phước ngày sau?
    Long vương, xin nói, ta mong biết
    Ngài huởng tiên cung bởi cách nào?

Long vương:

  1. Ta nguyện lời kia, sống trọn đời
    Tu nhân tích đức góp gom hoài,
    Cung này, nhờ đó, sau cùng hưởng,
    Thực phẩm tràn đầy chứa khắp nơi.

Alàra:

  1. Cuộc đời dù sáng rực bao ngày,
    Vũ khúc, hoan ca chẳng kéo dài,
    Kẻ yếu hại ngài vì đại lực,
    Lũ hèn làm dũng sĩ xa bay:
    Răng thần sao đấu không cân sức,
    Ngài chịu thua bầy hạ tiện vầy?
  2. Ngài chịu đau vì quá hãi hùng?
    Do đâu nọc độc đã tiêu vong?
    Sao ngài thần lực đầy răng ấy,
    Mà phải chịu đau bởi ác nhân?

Long vương:

  1. Ta chẳng thua vì quá hãi hùng,
    Chẳng ai làm đại lực tiêu vong,
    Mọi người thừa nhận bao công đức
    Như biển bờ cao, chẳng ngập tràn.
  2. Ngày trai mỗi tháng giữ hai lần,
    Chính buổi kia ngăn chặn bước đàng,
    Mười sáu chàng trai, tay nắm đủ
    Dây thừng, thòng lọng cực kỳ sang.
  3. Bọn ác nhân đâm thủng mũi ta
    Xuyên dây thừng ấy, kéo ta qua,
    Đớn đau, ta chịu, ôi đành phận,
    Giữ Thánh nhật cho khỏi phạm mà.

Alàra:

  1. Thấy trên đường vắng, trải giăng dài
    Hình đẹp, khổng lồ, đại lực oai:
    “Bậc trí hiển vinh”, ta thét lớn,
    “Sao nguyền đời khổ hạnh, thưa ngài?”

Long vương:

  1. Ta chẳng cầu con, chẳng ước giàu,
    Chẳng mong thọ mạng được dài lâu,
    Song trên nhân thế ta mong sống
    Nỗ lực anh hùng đạt đích cao.

Alàra:

  1. Tóc râu chải chuốt, dáng oai hùng,
    Phục sức hoàng y, mắt lửa bừng,
    Đỏ thắm chiên-đàn, ngài rực rỡ
    Xa xa, nào khác Nhạc thiên thần.
  2. Hưởng bao ân huệ lộc trời cho,
    Đầy đủ mọi điều dạ ước mơ,
    Ta hỏi Long vương, xin nói thật,
    Cõi người sao lại muốn an cư?

Long vương:

  1. Không đâu trừ thế giới người đời
    Thanh tịnh, điều thân được thấy rồi,
    Chỉ sống giữa đời người thế tục
    Đọan trừ sinh tử kiếp sau thôi.

Alàra:

  1. Dù hưởng đầy hoan lạc dị thường,
    Cùng Long vương sống suốt năm trường,
    Giờ ta vĩnh biệt, ra đi mãu,
    Không ở nữa, vì xa cố hương.

Long vương:

  1. Thê nhi trẫm với lũ cung nhân
    Được luyện hầu ngài, lệnh phục tuân,
    Chắc chẳng kẻ nào gây xúc phạm,
    Vì ngài, trẫm thấy rất thương thân.

Alàra:

  1. Đủ mặt mẹ cha thắm thiết tình,
    Hân hoan tràn ngập cả gia đình,
    Còn nhiều người quý yêu con trẻ,
    Song lạc tối cao giữa chúng sinh
    Ta được thấy đây, Long đế hỡi,
    Vì ngài đầy thắm thiết bên mình.

Long vương:

  1. Bảo châu trẫm có điểm hồng vân
    Đem đại phú cho kẻ thiếu phần,
    Nhận lấy về nhà, khi phú quý,
    Xin đưa trả ngọc lại Long quân.

Ẩn sĩ sau khi nói xong những lời này, liền tiếp tục như sau:

– Tâu Đại vương, sau đó ta đáp lời Long vương: “Tâu Đại đế, ta không mang giàu sang, ta chỉ muốn xuất gia tu hành”.

Sau khi xin ban đủ mọi vật cần thiết cho đời sống tu hành ẩn sĩ, ta từ giã cảnh giới Nàga cùng với Long vương, và khi đã mời ngài trở lui về, phần ta vào vùng Tuyết Sơn tu tập.

Nói xong, ẩn sĩ này lại thuyết giáo cho vua Ba-la-nại và ngâm thêm hai vần kệ :

  1. Dục tham trần thế thoáng qua nhanh
    Chẳng phục tuân quy luật trưởng thành,
    Thấy khổ phát sinh từ ái dục,
    Tín tâm dẫn bước đến tu hành.
  2. Người tàn như trái rụng, tiêu vong,
    Già trẻ, muôn loài rã mục thân,
    Ta chỉ trú an trong Thánh hạnh,
    Tối ưu là Thực thể thuần chân.

Nghe lời này, vua ngâm kệ đáp lời:

  1. Bậc hiền có trí tuệ uyên thâm,
    Chư vị tu Thiền định chú tâm
    Đề mục tối cao, mà tất cả
    Chúng ta phải luyện tập tinh cần;
    Nghe lời ngài dạy, cùng Long đế,
    Trẫm thực hành toàn nghiệp thiện chân.

Vị ẩn sĩ muốn khuyến khích tinh tấn lực của vua, liền ngâm kệ kết thúc:

  1. Bậc hīền, có trí tuệ uyên thâm,
    Chư vị tu thiền định chú tâm
    Đề mục tối cao, mà tất cả
    Chúng ta phải luyện tập tinh cần;
    Nghe lời ta dạy, cùng Long đế,
    Chúa thượng thực hành nghiệp thiện chân.

Vị này thuyết giáo như vậy với vua và sau khi ở lại đó bốn tháng mùa mưa, liền trở về Tuyết Sơn sống và tu tập Tứ Vô lượng tâm đến khi mạng chung, được tái sinh Phạm thiên giới.

Còn vua Samkhapàla. trong suốt quãng đời còn lại, chuyên tâm hành trì các ngày trai giới, bố thí, cùng nhiều thiện sự khác, nên sau khi mạng chung, ngài đi theo nghiệp của mình.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Đạo Sư nhận diện tiền thân:

Thời bấy giờ, vị vua cha trở thành ẩn sĩ khổ hạnh chính là Kassapa (Ca-diếp), vua Ba-la-nại là Ànanda (A-nan), ẩn sĩ Alàra là Sàriputta (Xá-lợi-phất) và Long vương Samkhapàla chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện tiểu Sutasoma (Tiền thân Culla-Sutasoma)

Hiền hữu, thần dân thụ họp đây..,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự tu tập viên mãn hạnh xuất gia của Ngài.

Phần đầu câu chuyện tương ưng với phần đầu của Tiền thân Mahànàrada Kassapa số 544, tập VII.

*

Ngày xưa tại thành Bà-la-nại, ngày nay là kinh thành Sudassana, có vua Brahmadatta trị vì. Chánh hậu của ngài sinh ra Bồ-tát. Khuôn mặt ngài sáng rực như trăng rằm, vì thế ngài được đặt tên Somakumàra (Nguyệt Cung Vương tử). Khi ngài đến tuổi trưởng thành, vì ngài thích uống nước trái cây Soma và hay có thói quen tưới rượu lễ vào đó nên ngài được mệnh danh Sutasoma (người làm rượu Soma).

Đến tuổi khôn lớn, ngài được truyền dạy các môn học thuật tại Takkasilà và khi trở về nhà, ngài được vua cha ban chiếc lọng trắng. Ngài trị vì quốc độ rất đúng pháp, cai quản cả một lãnh thổ rộng lớn cùng mười sáu ngàn cung tần, với nàng Candadevi làm chánh hậu. Dần dần hoàng gia càng thêm đông đúc, ngài đâm nhàm chán với cuộc sống gia đình nên lui vào rừng, mong ước thọ trì giới luật tu hành. Một ngày kia, ngài triệu người hớt tóc vào phán bảo:

– Khi nào khanh thấy sợi tóc bạc trên đầu trẫm, khanh phải nói cho trẫm biết.

Người hớt tóc tuân lệnh, sau đó thấy một sợi tóc bạc, liền tâu với ngài ngay. Vua bảo:

– Vậy khanh hãy nhổ ra và đưa cho trẫm.

Ngừơi hớt tóc lấy cái nhíp vàng nhổ ra và đặt vào tay ngài. Bậc Đại Sĩ thấy sợi tóc bạc, kêu to:

– Thân ta sắp bị tuổi già tàn phá.

Rồi ngài kinh hoảng cầm sợi tóc bạc bước xuống lầu, ngự lên ngai đặt trước thần dân.

Sau đó, ngài triệu tám mươi ngàn triều thần do vị đại tướng cầm đầu và sáu mươi ngàn Bà-la-môn do vị tế sư của triều đình lãnh đạo, cùng nhiều cận thần và dân chúng đến bảo:

– Tóc bạc đã xuất hiện trên đầu trẫm, trẫm đã già rồi, các khanh phải biết rằng trẫm muốn thành ẩn sĩ.

Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Hiền hữu, thần dân tụ tập đây,
    Quân sư tin cẩn, hãy nghe vầy:
    Giờ đầu tóc bạc ta dần hiện,
    Ta muốn trở thành ẩn sĩ ngay.

Nghe vậy, mỗi người trong đám kia đều thất vọng ngâm vần kệ này:

  1. Bất xứng lời kia đã thốt ra,
    Mũi tên Hoàng thượng thấu tim ta:
    Bảy trăm cung nữ, tâu Hoàng thượng,
    Sẽ thế nào khi chúa xuất gia?

Tiếp theo, bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Kẻ khác sẽ khuyên chúng hết buồn,
    Chúng đều kiều diễm, tuổi thanh xuân,
    Còn ta hướng đích lên thiên giới,
    Nên muốn làm tu sĩ ẩn thân.

Các vị quân sư không thể nào đáp lời vua được liền đi yết kiến Thái hậu và trình câu chuyện với bà. Thái hậu liền vội vã đi đến hỏi vua:

– Này vương nhi, quần thần bảo rằng vương nhi muốn làm ẩn sĩ, có đúng chăng?

Bà lại ngâm hai vần kệ:

Than ôi! Ngày bất hạnh như vầy,
Ngày được vương nhi gọi mẹ đây:
Vì quá vô tình nhìn lệ thảm,
Con đành làm ẩn sĩ từ nay.

  1. Bạc phận, than ôi, quả đúng thời
    Sơ-ma yêu quí đã chào đời!
    Vô tình trước lệ sầu cay đắng
    Con quyết tu hành, vương tử ôi!

Trong khi Thái hậu than khóc như vậy, Bồ-tát không thốt lên lời nào. Thái hậu vẫn ngồi một mình khóc lóc mãi. Sau đó quần thần tâu với phụ hoàng. Ngài đi đến ngâm kệ sau:

  1. Pháp nào đây hướng dẫn vương nhi
    Mong ước rời vương quốv biệt ly,
    Bỏ mặc lão thân đời quạnh quẻ,
    Ẩn am tìm đến để tu trì?

Nghe vậy, bậc Đại Sĩ liền trấn an ngài. Phụ vương lại bảo:

– Này vương nhi Sutasoma, cho dù con không thương tiếc gì đến song thân nữa, con vẫn còn nhiều vương tử, công chúa lắm. Chúng không thể nào sống thiều con được. Vậy đợi đến khi chúng trưởng thành rồi vương nhi hãy xuất gia tu hành có được chăng?

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Vương nhi nhiều ấu tử, e rằng:
    Hết thảy còn đang độ búp măng,
    Đến lúc vương nhi vừa vắng bóng
    Nỗi buồn nào sánh chúng hay chăng?

Nghe lời này, bậc Đại Sĩ đáp vần kệ:

  1. Quả thật, thần nhi có lắm con,
    Chúng còn đang độ tuổi măng non,
    Dù bao năm sống gần bên chúng,
    Con phải giờ đây vĩnh biệt luôn.

Thế là bậc Đại Sĩ thuyết Pháp cho phụ vương và khi nghe ngài thuyết Pháp, vua cha bình tâm lại, rồi quần thần thông báo cho bảy trăm cung phi. Họ từ trên thượng lầu bước xuống yết kiến ngài, ôm lấy chân ngài và ngâm vần kệ:

Lòng ngài chắc phải vỡ vì buồn,
Hoặc giả ngài không biết xót thương,
Nên ước nguyện theo đời ẩn sĩ,
Để cung tần khóc nỗi cô đơn!

Bậc Đại Sĩ nghe họ khóc than như vậy trong lúc họ ngã mình dưới chân ngài và gào thét, liền ngâm thêm một vần kệ:

  1. Lòng ta không thể vỡ vì buồn
    Dẫn thấy đau vầy, cũng xót thương,
    Song việc tu hành ta đã quyết
    Để ta hưởng cực lạc thiên đường.

Sau khi, quần thần trình lên chánh cung hoàng hậu. Bà đang mang thai nặng nhọc vì ngày sinh cận kề, bà liền đến gần bậc Đại Sĩ, đảnh lễ ngài và kính cẩn đứng qua một bên rồi ngâm ba vần kệ:

  1. Than ôi! bất hạnh chính là ngày
    Thiếp được xe duyên Chúa thượng đây,
    Vì quá vô tình nhìn lệ thảm,
    Đại vương quyết chí xuất gia ngay.
  2. Bạc phận, than ôi, đó chính ngày
    Cùng So-ma kết tóc xe dây,
    Vì chàng để mặc ai sầu chết,
    Quyết chí theo đời ẩn sĩ đây.
  3. Mãn nguyệt khai hoa đã kế gần,
    Mong chàng ở lại, hỡi vương quân,
    Khi con sinh hạ, ngày sầu thảm
    Thiếp biết từ đây mất Chúa công.

Đến lượt bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ đáp:

  1. Mãn nguyệt khai hoa đã tới hồi,
    Ta chờ đến lúc trẻ ra đời,
    Rồi ta từ giả ngay vương tử,
    Xuất thế, ta thành ẩn sĩ thôi!

Nghe ngài nói vậy, bà không thể nào kiềm chế nỗi sầu thảm được nữa, liền lấy hai tay ôm ngực, bảo ngài:

– Tâu Chúa thượng, từ nay cảnh vinh quang của đôi ta không còn nữa.

Rồi lau dòng lệ xong, bà lại than khóc thảm thiết.

Bậc Đại Sĩ ngâm kệ an ủi bà:

  1. Vương hậu mắt huyền hoa mượt mà,
    Xin nàng đừng khóc nữa vì ta,
    Nguyệt Nga, lên thượng lầu an nghỉ,
    Ta sẽ đi, lòng chẳng thiết tha!

Không thể nào chịu đựng nổi lời nói của ngài được nữa, bà vội bước lên thượng lầu ngồi khóc một mình. Lúc ấy vị thái tử của Bồ-tát thấy vậy, hỏi bà:

– Tại sao mẫu hậu ngồi khóc ở đây?

Và chàng ngâm kệ này hỏi mẹ:

  1. Mẫu hậu có ai khiến mẹ buồn,
    Cớ sao mẹ khóc, lại nhìn con?
    Ai trong hoàng tộc lòng vô đạo,
    Vì mẹ, con đành giết sạch luôn.

Hoàng hậu liền ngâm vần kệ đáp:

  1. Không ai dám hại đến người kia,
    Người khiến ta sầu khổ não nề,
    Vì chính phụ vương con đã nói:
    “Ta không đoái tưởng, sẽ ra đi”.

Nghe lời mẹ, thái tử nói:

– Tâu mẫu hậu, sao mẫu hậu lại nói thế? Nếu quả vậy thì chúng con thật bơ bơ.

Chàng liền than khóc và ngâm kệ:

  1. Có lần ta dạo khắp hoa viên
    Nhìn lũ voi giao đấu trận tiền,
    Vì thử phụ vương thành ẩn sĩ
    Ta làm gì, hỡi kẻ vô duyên?

Sau đó, một vị vương tử vừa lên bảy, thấy anh và mẹ đang khóc, liền đến gần mẹ hỏi:

– Mẫu hậu và hoàng huynh ơi, cớ sao lại than khóc?

Và khi nghe duyên cớ, cậu bé bảo:

– Thôi được, đừng khóc nữa, con sẽ không để phụ vương xuất gia đâu.

Rồi vương tử an ủi hai vị, xong cùng nhũ mẫu bước xuống khỏi thượng lầu, đến yết kiến phụ vương và thưa:

– Tâu phụ vương, thần nhi nghe nói phụ vương sắp rời bỏ chúng con mà xuất gia, mặc dù chúng con không muốn, vậy con không chịu để phụ vương đi tu đâu.

Rồi ôm chặt lấy cổ vua cha, vương tử ngâm vần kệ:

  1. Mẫu hậu đang ngồi khóc nỉ non,
    Vương huynh cũng muốn giữ cha thương,
    Con ôm vương phụ bằng tay vậy,
    Chẳng để cha đi trái ý con.

Bậc Đại Sĩ liền suy nghĩ: “Thằng bé này thật là mối nguy hiểm cho ta, ta làm thế nào để thoát được nó đây?”. Rồi nhìn người nhũ mẫu, ngài bảo:

– Này hiền nhũ mẫu, hãy nhìn viên ngọc trang sức này, ta cho ngươi đấy, chỉ việc đem đứa bé này đi nơi khác, đừng để nó cản trở ta.

Vì ngài không thể tránh được cậu bé đang nắm chặt lấy tay ngài, ngài hứa ban thưởng cho nhũ mẫu ấy và ngâm kệ:

  1. Gắng nuôi vương tử lớn lên dần,
    Đem trẻ vui đùa chốn khác hơn,
    E trẻ phá tan niềm hỷ lạc,
    Cản chân ta vội đến thiên đường.

Nhủ mẫu nhận món quà thưởng và dỗ dành cậu bé rồi dẫn đi nơi khác, bà vừa than khóc vừa ngâm kệ:

  1. Vì ta từ khước hạt minh châu,
    Ta chẳng màng chi – sẽ thế nào?
    Vì Chúa thượng ta làm ẩn sĩ
    Bảo châu còn có nghĩa gì đâu?

Lúc ấy vị đại tướng của ngài suy nghĩ: “Chắc đức vua tưởng ngài chỉ có rất ít bảo vật trong cung thôi. Vậy ta sẽ cho ngài biết có vô số kể”. Vì thế vị này đứng lên đảnh lễ vua và ngâm kệ:

  1. Đại vương đầy ắp mọi kho tàng,
    Chúa thượng tạo nên đại phú cường,
    Toàn cõi thế gian đều khuất phục,
    Chớ làm ẩn sĩ, sống thư nhàn.

Nghe vậy, bậc Đại Sĩ đáp vần kệ:

  1. Kho tàng đầy ắp các kim ngân,
    Ta đã tạo nên đại phú cường,
    Toàn cõi thế gian đều khuất phục,
    Nay làm ẩn sĩ, bỏ phàm trần!

Khi ấy một vị đại phú thương vừa đi đến, có tên là Kulavaddhana, nghe lời liền đứng lại, đảnh lễ vua và ngâm kệ:

  1. Đại vương, thần tột đỉnh giàu sang,
    Chẳng đếm làm sao xiết bạc vàng,
    Xin ngắm hạ thần dâng tất cả,
    đứng làm ẩn sĩ, sống thư nhàn!

Nghe lời này, bậc Đại Sĩ đáp vần kệ:

  1. Này hỡi Ku-la, vẫn biết rằng
    Khanh mong dâng hiến cả kho tàng
    Song ta hướng dịch về thiên giới
    Nên khước từ nhân giới dục tham.

Bậc Đại Sĩ thuyết Pháp như vậy cho dân chúng rồi bước lên thượng lầu của Cung Vạn Hoa, ngài đứng trên tầng thứ bảy, cắt búi tóc và bảo:

– Bây giờ ta không là gì nữa đối với các ngươi, vậy các ngươi hãy chọn một vị vua khácđi.Cùng với những lời này, ngài ném búi tóc của ngài, khăn đội đầu, cùng các bảo vật khác xuống giữa đám quân thần dân chúng. Quần thần cầm lấy búi tóc, lăn lóc trên mặt đất, kêu gào thảm thiết, rồi một đám bụi từ nơi ấy tung lên cao, dân chúng đứng lùi lại nhìn theo bảo nhau:

– Có lẽ đức vua đã cắt búi tóc và ném xuống cùng khăn đội đầu đủ cả vào đám dân chúng, cho nên mới có đám bụi tung lên gần cung điện.

Rồi họ khóc than ngâm kệ:

  1. Nhìn đám bụi kia chợt tỏa cao
    Gần hoàng cung đại Vạn Hoa Lầu,
    Chắc rằng Minh đế lừng danh vọng
    Đã cắt tóc ngài với bảo đao!

Còn bậc Đại Sĩ truyền gọi một quân hầu tìm đủ vật dụng cần thiết của một ẩn sĩ đem đến cho ngài, lại bảo người thợ hớt tóc cạo sạch râu tóc ngài, ném chiếc hòang bào rực rỡ xuống bảo tọa, ngài cắt bỏ mọi dải lụa màu, đắp lên người những miếng vải nối lại màu vàng, buộc cái chén đất lên đầu vai trái, rồi cầm chiếc gậy hành khất trong tay, ngài đi lui đi đi tới trên thượng lầu, sau đó bước xuống lầu đi ra đường, song không ai nhận ra ngài khi ngài đi xuông cả.

Còn bảy trăm cung tần bước lên thượng lầu không tìm thấy ngài, mà chỉ thấy đống xiêm y của ngài; liền bước xuống bảo mười sáu ngàn cung phi khác:

– Đại đế Sutasoma, Chúa thượng tôn quý của ta đã trở thành ẩn sĩ rồi.

Và họ than khóc bước ra. Vừa lúc ấy dân chúng hay tin ngài đã làm ẩn sĩ, cả kinh thành chấnđộng hẳn lên, dân chúng bảo nhau:

– Người ta bảo đức vua đã trở thành ẩn sĩ rồi.

Họ đều tụ tập tại cung môn, kêu lên:

– Chúa thượng chắc đang ở một nơi nào đó.

Rồi họ đổ xô ra khắp nơi ngài thường lui tới, song không tìm được ngài, họ đi lang thang đây đó vừa than khóc, vừa ngâm kệ:

  1. Này đây, cung điện, tháp lầu vàng,
    Lủng lẳng vòng hoa tỏa ngát hương,
    Rộn rịp bao cung tần mỹ nữ,
    Ngày xưa Chúa thượng ngự du thường.
  2. Giăng mắc vòng hoa, dát ngọc vàng,
    Ta nhìn cung điện nóc cao sang
    là nơi hoàng tộc chầu bên cạnh,
    Đại đế kiêu hùng bước dọc ngang.
  3. Đây vườn thương uyển rực muôn hoa,
    Thay đổi quanh năm với các mùa,
    Rộn rịp bao cung tần mũ nữ,
    Ngày xưa Chúa thượng ngự loan xa.
  4. Hồ kia phủ khắp đám sen xanh.
    Nơi chốn chim muông đến lượn quanh,
    Tất cả hoàng gia chầu cạnh đó,
    Ngày xưa Chúa thượng vẫn du hành.

Cứ thế dân chúng vừa đi khắp nơi vừa than khóc rồi trở lại sân chầu, họ ngâm kệ:

  1. Thật buồn thay Chúa thượng So-ma
    Đã bỏ ngai vàng để xuất gia,
    Mặc chiếc hoàng y, ngài rảo bước
    Như voi đơn độc lạc đường xa.

Rồi họ ra đi, bỏ hết nhà cửa đồ đạc, dắt theo con cái đi tìm Bồ-tát và cha mẹ, cháu chắt họ cùng đi theo với mười sáu ngàn cung phi ca múa. Cả kinh thành như bãi sa mạc vì dân chúngđi theo nhau cả. Bồ-tát và dân chúng chiếm cứ một vùng mười hai dặm về núi Tuyết Sơn.

Lúc ấy Đế Thích Thiên chủ, chú tâm đến Đại sự Xuất thế của ngài, liền bảo Vissakamma:

– Này hiền hữu Vissakamma, vua Sutasoma đã từ bỏ thế tục. Ngài phải có nơi ẩn cư, vì dân chúng tụ tập quanh ngài đông lắm.

Ngài lại triệu vị này đến bảo:

– Hãy đi dựng am thất ẩn sĩ dài mười ba dặm, rộng năm dặm trên bờ sông Hằng ở vùng núi Tuyết Sơn.

Vị này tuân lệnh, cung cấp các lều ẩn sĩ đầy đủ mọi vật dụng cần thiết và lại làm một conđường dẫn đến đó, rồi trở về thiên giới.

Bậc ĐạI sĩ theo đường này đến vùng am tranh, sau khi ngài thọ đại giới, ngài lại truyền giới cho đám dân chúng, dần dần đa số được thọ giới nên khu vực mười ba dặm này đông đảo người tu. Lúc bấy gờ, việc Vissakamma xây am ẩn sĩ ra sao, đại chúng được truyền giới như thế nào, vùng am thất của Bồ-tát được sắp đặt ra sao, đều được hiểu theo như kiểu trong Tiền thân Hatthipàla số 509, Tập V. Ở đây, nếu có một dục tưởng hay tà kiến nào khởi lên trong tâm bất cứ người nào, bậc Đại Sĩ liền đến gần người đó ở trên không, ngồi kiết già giữa không gian và thuyết pháp qua hai vần kệ :

  1. Quên đi chuyện ái dục ngày xưa
    Khi vẻ mặt người vẫn cợt đùa,
    Kẻo sợ kinh thành hoan lạc ấy
    Làm bừng dục vọng, phải tiêu ma.
  2. Thoát người tham đắm, tự điều thân,
    Thiện ý ngày, đêm với thế nhân,
    Ngươi sẽ hưởng ngôi nhà thượng giới,
    Nơi người hành thiện đến chung phần.

Hội chúng Thánh nhân này hành trì lời giáo huấn của ngài, nên được tái sinh lên Phạm thiên giới, câu chuyện được kể giống hệt như trong Tiền thân Hatthipàla.

*

Sau khi bậc Đạo Sư chấm dứt thời Pháp thọai, Ngài bảo:

– Này các Tỷ kheo, không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa nữa, Như Lai đã làm Đại sự Xuất thế.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, song thân là vương phụ và mẫu hậu trong triều đình, Candà là mẹ Ràhula (La-hầu-la), Thái tử là Sàriputta (Xá-lợi-phất), tiểu vương tử là Ràhula, nhũ mẫu là Khujjutarà, vị phú thương Kulavaddhana là Kassapa (Ca-diếp), vị đại tướng là Moggallàna (Mục-kiền-liên), hoàng đệ Somadatta là Ànanda (A-nan) và vua Surasoma chính là Ta.

-ooOoo-

Chương XVIII

Phẩm Năm Mươi Bài Kệ

  1. Chuyện công chúa Nalinikà (Tiền thân Nalinikà)

Nhìn kia! Mặt đất cháy khô cằn…,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về việc một Tỳ kheo bị người vợ của thời kỳ phóng dật cũ cám dỗ.

Khi kể chuyện này, Ngài hỏi vị Tỳ kheo vì ai ông đã lạc đường. Ông đáp:

– Vì người vợ cũ.

Bậc Đại Sư bảo:

– Quả vậy, này Tỳ kheo, nữ nhân ấy đã làm hại ông. Ngày xưa chính vì nàng ấy mà ông đã sa đọa mất hết Thiền lực và bị sụp đổ hoàn toàn.

Nói xong, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Bà-la-nại, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn giàu có ở phương Bắc. Khi ngài khôn lớn, và đã được huấn luyện đủ môn học thuật, ngài xuất gia làm ẩn sĩ. Sau khi đạt được thần lực nhờ tu tập Thiền định, ngài vào trú ẩn tại Tuyết Sơn.

Giống như câu chuyện được kể trong Tiền thân Alambusà (số 523), một con nai cái đã thụ thai vì ngài và hạ sinh một nam tử được đặt tên là Isisinga. Khi cậu bé lớn khôn, cha cậu truyền giới cho cậu và dạy cậu đủ mọi pháp môn dẫn đến Thiền định.

Nhờ pháp môn này chẳng bao lâu chàng đạt được thần lực và hưởng thú cực lạc trong miền Tuyết Sơn, rồi nhờ pháp khổ hạnh, chàng trở thành một bậc Hiền trí chuyên tu khổ hạnh đến độ cung của Sakka (Đế Thích) Thiên chủ bị rúng động vì đức độ của chàng.

Thiên chủ suy xét, tìm ra nguyên nhân liền suy nghĩ: “Ta phải tìm cách phá tan công hạnh vị này”. Trong khoảng ba năm liền, trời ngưng đổ mưa xuống quốc độ Kàsi, xứ sở này thành khô cằn nứt nẻ, không một vụ mùa nào kết quả cả. Dân chúng bị nạn đói bức bách liền tụ tập trước sân chầu và oán trách vua.

Đứng trước cửa sổ mở rộng vua hỏi họ có việc gì. Dân chúng tâu:

– Tâu Thánh thượng, trong ba năm liền, mưa trên trời không rơi xuống, cả nước bị khô cháy, dân chúng vô cùng khổ sở, xin Thánh thượng hãy cầu trời mưa.

Vua thề nguyền giữ đức độ, hành trì ngày trai giới, nhưng vẫn không có mưa xuống.

Rồi chính vào lúc nữa đêm, Thiên chủ Đế Thích giáng hạ tại hoàng cung, chiều sáng lòa khắp vùng vừa đứng trên không. Vua thấy ngài liền hỏi:

– Ngài là ai?

Ngài đáp:

– Ta là Đế Thích Thiên chủ.

– Tại sao ngài giáng thế?

– Này Đại vương, mưa có rơi trên quốc độ của ngài chăng?

– Không có mưa rơi.

– Thế ngài có biết tại sao chăng?

– Trẫm không biết.

– Trên vùng Tuyết Sơn, này Đại vương, có một ẩn sĩ tên là Isisinga, Vị này hành trì khổ hạnh hết sức khắc nghiệt, khi trời sắp mưa, ông giận dữ nhìn lên trời khiến mưa ngưng lại.

– Vậy phải làm sao đây?

– Nếu công hạnh vị này sụp đổ thì mưa sẽ rơi xuống.

– Nhưng ai có thể chiến thắng đức độ của vị ấy?

– Này Đại vương, công chúa Nalinikà của ngài có thể làm được việc này. Xin hãy triệu nàng đến đây và bảo nàng đến nơi đó phá tan công hạnh của vị ẩn sĩ kia.

Sau khi khuyên bảo vua như thế xong, Đế Thích Thiên chủ trở về cõi của ngài. Ngày hôm sau, vua hội ý với quần thần và triệu công chúa đến bảo nàng qua vần kệ đầu:

  1. Nhìn kia mặt đất cháy khô cằn,
    Quốc độ chìm trong cảnh lụi tàn,
    Con hỡi, Na-li, đi đến đó,
    Khiến La-môn nọ phải quy hàng.

Nghe lời này, nàng đáp vần kệ thứ hai:

  1. Làm sao con chịu được gian nan,
    Khi giữa bầy voi lạc bước đàng
    Trong chốn rừng xanh xa vắng ấy,
    Làm sao cất bước được bình an?

Vua cha lại ngâm hai vần kệ:

  1. Con hỡi, đi về mỹ lạc cung,
    Rồi từ đấy phải vội rời chân
    Lên xe gỗ được trang hoàng khéo,
    Ngự giá công nương tiến thẳng đường.
  2. Chiến mã tượng, cùng với bộ binh
    Chỉnh tề hàng ngũ hãy bao quanh,
    Với mê hồn sắc con cần kíp
    Khiến đạo nhân kia quy lụy mình.

Như vậy, vì muốn bảo vể quốc độ, vua đã nói với công chúa những việc không nên nói bằng lời như trên. Còn nàng sẵn sàng tuân theo lệnh cha. Thế là sau khi cung cấp cho nàng đủ mọi thứ cần thiết, bảo nàng lên đường cùng đám cận thần kia.

Họ đi đến gần biên giới và sau khi đóng trại ở đó, họ truyền đưa công chúa đi theo con đường do các sơn nhân chỉ dẫn. Rạng ngày hôm sau, họ vào đến vùng Tuyết Sơn, tiến sát vùng ẩn am ấy. Ngay lúc bấy giờ, Bồ-tát để con trai ở lại thảo am, còn ngài đã vào rừng hái quả dại. Các sơn nhân đến gần vùng thảo am, đứng ở nơi có thể nhìn thấy rõ, vừa chỉ lều cho Nalinikà vừa ngâm kệ:

  1. Nổi bật với hàng chuỗi lá xanh,
    Giữa Bhur-ja khóm lắm cây cành,
    Nhìn xem, lều của I-si đấy,
    Xinh đẹp hiện ra một mái tranh.
  2. Chắc rằng lắm khói ở đằng kia
    Phát xuất từ trong lửa tỏa ra
    Được ấp ủ nhờ tay bậc trí
    Nổi danh thần lực thật cao xa.

Đúng lúc Bồ-tát đã đi vào rừng, đám cận thần của vua đã vào bay vây vùng ẩn cư ấy và canh chừng kỹ, họ cho công chúa giả dạng một ẩn sĩ khỗ hạnh, khoát lên mình nàng đủ y trong y ngoài bằng võ cây đẹp có tô điểm mọi thứ trang sức, rồi bảo nàng cầm một quả cầu được vẽ màu, buột vào một sợi dây và đưa nàng vào vùng am tranh kia, còn chính họ đứng canh bên ngoài. Thế là vừa chơi quả cầu, nàng vừa tiến vao am thất ấy.

Lúc bấy giờ, Isisinga đang ngồi trên trường kỷ đặt tại cửa lều, thoạt trông thấy nàng tiến đến, chàng kinh hoảng đứng dậy chạy trốn vào trong. Nàng cứ tiến gần cửa lều và tiếp tục chơi quả cầu.

Bậc Đại Sĩ ngâm ba vần kệ đễ làm sáng tỏ việt này:

  1. Tô điểm bảo châu, tiến lại gần,
    Một nàng kiều nữ sáng huy hoàng,
    I-si tội nghiệp liền kinh hoảng
    Vội bước vào am, chốn ẩn thân.
  2. Lúc đứng trước thềm của đạo quân,
    Công nương đùa với quả cầu tròn,
    Thân hình diễm lệ nàng phô diển
    Lồ lộ hiện ra trước mắt chàng.
  3. Chàng thấy nàng đùa thế thật hay,
    Tứ trong, chàng vội phóng ra ngay,
    Vụt nhanh từ túp lều tranh ấy
    Chàng thốt ra lời lẽ thế này:
  4. “Quả cây gì đó,dám thưa ngài?
    Dù có tung xa tít tận trời,
    Cũng sẽ quay về ngài như vậy,
    Chẳng bao giờ quả bặt tăm hơi?

Nàng đáp vần kệ này, tả cho chàng biết về cây kia:

  1. Đỉnh Hương sơn nọ, chính quê nhà,
    Vốn tự hào khoe chốn tệ gia
    Có thật nhiều cây sinh quả ấy,
    Dù tung cao vút tận trời xa
    Vẫn còn trở lại tay lần nữa,
    Chẳng có bao giờ lạc mất ta.

Nàng nối dối như vậy, nhưng chàng tin nàng ngay, Và cứ tưởng đấy là một vị tu khổ hạnh, nên chàng ân cần chào đón nàng và nhâm vần kệ này:

  1. Xin vào an tọa, hỡi hiền nhân,
    Nhận thức ăn và nước rửa chân,
    An nghỉ đây, cùng nhau thọ dụng
    Chùm dâu, khoai ấy sẵn lòng dâng.

Chàng trai trẻ thanh tân này chưa từng thấy nữ nhân bao giờ cả, nên chàng bị lung lạc liền tin ngay câu chuyện lạ thường nàng vừa kể cho chàng nghe; rồi công hạnh của chàng bị đánh bại vì các trò quyến rũ của nàng và Thiền lực của chàng tiêu tan cả. Sau khi chơi đùa với nàng đến độ mệt mỏi, cuối cùng chàng đứng xuống hồ tắm rửa và khi đã hết cơn mệt, chàng trở vế ngồi trong lều, vẫn còn tưởng là một ẩn sĩ, một lần nữa chàng hỏi nàng ở nơi đâu và ngâm kệ này:

  1. Ngài đã đến đây bởi lối nào?
    Hẳn ngài thích ở núi ngàn cao?
    Đói lòng ăn trái sim, khoai sắn,
    Song thú săn mồi tránh được sao?

Tiếp theo, Nalinikà đáp bốn vần kệ:

  1. Hướng Bắc vùng đây, suối Thái Hòa
    Chảy xuôi từ dãy Tuyết Sơn ra,
    Trên bờ, thắng cảnh ôi kỳ thú,
    Nhìn thấy ẩn am ấy của ta.
  2. Đây xoài, Ti-lak với sà la,
    Nở rộ hoa kèn với quế hoa,
    Khúc hát yên tỉnh văng vẳng lại,
    Thưa ngài nơi ấy thấy nhà ta.
  3. Ta đoán chà là, củ sắn khoai,
    Nhìn đây đủ loại trái cây tươi,
    Một nơi vui, đẹp và thơm ngát,
    Đã lọt phần ta chiếm hết rồi!
  4. Mọi thứ mơ, dâu, đậu mọc tràn ,
    Ngọt ngào tươi đẹp ngát hương lan,
    Song ta sợ lũ cường gian đến
    Sẽ phá nhà ta, chốn lạc an.

Chàng ẩn sĩ nghe nói vậy, muốn cầm chân nàng lại cho tới khi thân phụ chàng về, liền ngâm kệ này:

  1. Thân phụ đi tìm quả thật xa,
    Mặt trời khuất bóng, sẽ về nhà,
    Khi người trở lại từ rừng ấy,
    Ta sẽ cùng đi viếng đại gia.

Lúc ấy nàng suy nghĩ: “Chàng trai này sinh trưởng trong rừng nên không biết ta là nữ nhân, chứ cha chàng sẽ biết ngay điều đó khi vừa thấy ta, và sẽ hỏi ta có việc gì mà đến đây, ngài sẽđánh vỡ đầu ta với cái đòn gánh của ngài. Thôi, chắc ta phải chạy trốn trước khi ngài trở về, vì mục đích ta đến đây đã hoàn thành”. Rồi dặn chàng cách tìm đường đi đến nhà nàng, nàng ngâm thêm một vần kệ nữa:

  1. Ôi! Ta ngại chẳng ở lâu hơn,
    Song tại nơi này, lắm Thánh nhân,
    Xin hỏi một ngài đưa đúng lối,
    Hân hoan ngài hướng dẫn lên đường.

Khi nàng nghĩ ra một kế để thoát thân như vậy, nàng liền rời vùng thảo am, và bảo chàng cứ ở lại nơi này, trong lúc chàng khao khát nhìn theo, nàng trở về gặp các triều thần theo đúng con đường nàng đã đến trước kia, rồi họ đưa nàng về trại và vượt quan nhiều trạm đường, họ đãđến thành Bà-la-nại.

Ngay hôm ấy, Đế Thích Thiên chủ đẹp ý đến độ ngài làm mưa rơi xuống trên khắp quốc độ này.

Nhưng cũng ngay khi nàng từ giã ẩn sĩ Isisinga, chàng bỗng dưng nổi cơn sốt khắp toàn thân và chàng run rẩy bước vào trong lều đắp thêm y ngoài bằng vỏ cây, rồi nằm xuống rên rĩ.

Buổi chiều thân phụ chàng về, không thấy chàng, liền tự hỏi: “Con ta đi đâu rồi?”. ngài vội đặt đòn gánh, bước vào trong am và khi thấy chàng nằm đó liền hỏi:

– Này con thân, con đau gì vậy?

Và vừa xoa bóp lưng con, ngài vừa ngâm các vần kệ:

  1. Bổ củi không, nước chẳng gánh về,
    Lửa không đốt sáng, nói ta nghe,
    Này con sao trẻ người non dạ,
    Mơ mộng suốt ngày mãi thế kia?
  2. Củi rừng vẫn chẻ tự xưa nay,
    Lửa đốt, đem nồi nấu đặt ngay,
    Sắp sẵn tọa sàng rồi lấy nước,
    Con làm bổn phận thật vui vầy.
  3. Nay củi không, mà nước cũng không,
    Lửa không; thức nấu kiếm hoài công,
    Sao con chẳng đón mừng cha nữa,
    Con mất gì? Sao phải nhọc lòng?

Nghe cha hỏi, chàng liền ngâm các vần kệ giải đáp việc này:

  1. Cha hỡi, hôm nay một thiếu niên,
    Xinh trai, sang trọng, dáng ưa nhìn,
    Chàng không thấp quá, không cao quá,
    Làn tóc đen sao tựa hạt huyền!
  2. Chàng trẻ không râu, má mịn màng,
    Sáng ngời trên cổ, ngọc trang hoàng,
    Đôi gò bồng đảo phô kiều diễm
    Sáng tựa kim cầu rực ánh quang.
  3. Mặt chàng tuyệt đẹp, mỗi bên tai
    Có một vành khuyên lủng lẳng cài,
    Chiếc mạng trên đầu chàng tỏa sáng
    Hào quang, khi chuyển nhẹ đôi hài.
  4. Chàng trẻ còn mang đủ bội hoàn
    Đỏ, xanh trên áo, tóc tai chàng,
    Chàng đi mỗi buớc đều rung nhạc,
    Ríu rít như chim gặp nước tràn.
  5. Chẳng áo vỏ cây, dáng đạo nhân,
    Chẳng dây đai cỏ, thắt vào thân,
    Lung linh xiêm áo ôm đùi sát,
    Như chớp sáng lòe giữa khoảng không.
  6. Quả cây gì buộc cạnh sườn ai
    Mềm mại, không nhành, chẳng có gai
    Bên áo kết vào, buông lủng lẳng
    Chạm vào nhau lách tách rung hoài.
  7. Tóc đầu chàng kết đẹp phi thường
    Cuộn tóc hàng trăm, tỏa ngát hương,
    Đôi mái tóc này chàng rẽ giữa,
    Tóc con cũng ước chải như chàng!
  8. Tình cờ chàng thả tóc buông dây,
    Bao vẻ yêu kiều giữ gió bay,
    Sực nức lều ta miền thảo dã
    Như mùi sen thoảng gió lung lay!
  9. Người của chàng xinh, ngắm mỏi mòn,
    Thân chàng cao thật khác thân con,
    Bay mùi thoang thoảng cùng nơi chốn
    Như khóm hoa hè nở ngát hương.
  10. Trái chàng sáng đẹp có nhiều màu,
    Trên đất, dù chàng ném thật cao,
    Nó cũng về nơi chàng đứng mãi,
    Trái gì, con muốn hỏi cha nào.
  11. Răng chàng đều đặn, trắng trong ngần,
    Mọi vẻ yêu kiều sánh bảo trân,
    Chàng hé đôi môi: ôi quyến rũ!
    Thức chàng ăn khác củ, rau rừng!
  12. Tiếng nói chàng êm dịu, rõ, trong,
    Vào tai âm, hưởng tận trong lòng
    Xuyên vào tim, thật du dương điệu,
    Giai khúc sơn ca chẳng sánh bằng!
  13. Giọng kia dịu xuống, lắng thâm trầm,
    Con chắc dành ngâm tụng chú thần,
    Tuy thế chàng ân cần quyến luyến,
    Cùng chàng, con ước kết thân bằng.
  14. Cánh tay chàng ấm, sáng kim ngân
    Như chớp bao lần cuộn lấy thân,
    Được phủ lông tơ mềm, các ngón
    Như san hô đỏ ửng, tròn dần.
  15. Tứ chi mềm dịu, tóc buông lơi,
    Các móng tay tô đỏ, thật dài,
    Với cánh tay mềm ôm siết chặt,
    Trai xinh tạo khoái lạc cho đời!
  16. Tay ngà như lụa chiếu huỳnh quang
    Như tấm gương vàng phản ánh dương,
    Chạm nhẹ làm con bừng rúng động
    Chàng đi, lòng đốt nóng như rang.
  17. Tọa sàng bằng lá kết, giày vò
    Chứng kiến đùa vui, trẻ lắm trò,
    Rồi đến hồ kia con tắm mát,
    Xong thèm nghỉ mệt ở trong nhà.
  18. Thánh kinh, con chẳng đọc nay mai,
    Chẳng đốt lửa thiêng tế lễ đài,
    Con sẽ nhịn ăn dâu, củ, đậu,
    Đến khi con gặp lại chàng trai!
  19. Phụ thân, cho biết, hẳn am tường,
    Nơi chốn đạo nhân ỡ cõi trần,
    Con muốn phi thân ngay đến đó,
    Bằng không, con chết tại tiền đường!
  20. Nghe rừng chàng nói rực tươi hoa,
    Nhộn suốt ngày chim ríu rít ca,
    Con muốn phi thân nhanh đến đó,
    Bằng không, con chết ngay tại đây mà!

Bậc Đại Sĩ nghe chàng trai nói lảm nhảm như vậy, thì hiểu ngay chàng đã đánh mất công hạnh vì một nữ nhân nào đó, nên ngài ngâm sáu vần kệ để giáo huấn con mình:

  1. Ngôi nhà xưa của các hiền nhân
    Ở giữa rừng này ngập ánh quang,
    Nơi ẩn của chư Thần, Thánh nữ,
    Chẳng hề cảm thấy mất an toàn.
  2. Tình bạn phát sinh, sẽ diệt vong;
    Mọi người yêu mến đám thân nhân,
    Song kẻ đáng thương nào có biết
    Nhờ ai, có gốc rễ, tình thân.

46-47. Tình bạn kết nhờ gặp gỡ luôn,
Đoạn giao, tình bạn phải tiêu vong.
Nếu con nhìn lại chàng trai ấy
Như trước, cùng trò chuyện thiết thân,
Như lụt cuốn trôi thóc lúa chín,
Công năng đức hạnh bại vong dần.

  1. Ma quỷ thường đi khắp thế gian,
    Thiên hình giả dạng! Hãy coi chừng!
    Hiền nhân chẳng kết giao cùng chúng,
    Công hạnh tan hoang nếu chúng gần!

Nghe những lời cha dạy, chàng trai suy nghĩ: “Cha ta bảo nàng ấy là một con quỷ cái!”. Sau đó chàng xin cha tha lỗi và nói:

– Thưa thân phụ, xin hãy tha tội cho con, con sẽ không rời nơi này đâu.

Cha chàng liền an ủi chàng, ngài bảo:

– Này con thân, con hãy tu tập Từ, Bi, Hỷ, Xả.

Và ngài thuyết giảng cho chàng pháp môn chứng đắc Tứ Vô lượng tâm này.

Từ đó chàng trai thực hành theo lời dạy bảo trên và tu tập Thiền định như trước.

*

Khi đã chấm dứt Pháp thoại, bậc Đạo Sư thuyết giảng các Thánh đế, và nhận diện Tiền thân: – Vào lúc kết thúc các Thánh đế, vị Tỷ-kheo thối thất đã được an trú vào Sơ quả Dự lưu:

– Thời ấy, người vợ trong những ngày phóng dật cũ của kẻ này là Nalinikà, Tỷ kheo thối thất là Isisinga và Ta chính là người cha.

-ooOoo-

  1. Chuyện kỹ nữ Ummadantì (Tiền thân Ummadantì)

Kia nhà ai đó, hỡi Su-nan?…,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về một Tỷ-kheo thối thất.

Chuyện rằng, một ngày kia, trong khi đi quanh thành Savatthi (Xá-vệ) để khất thực, ông chợt trông thấy một nữ nhân tuyệt sắc, với xiêm y diễm lệ, liền sinh lòng mê mẫn nàng ấy. Khi trở về Tịnh xá, ông không thể nào xua tan hình bóng nàng khỏi tâm tư. Từ lúc ấy, như thể trúng mũi tên độc của dục tình, ông mắc bệnh tương tư, gầy gò như chú nai rừng, gân xanh nổi khắp mình mẩy và mong manh như cành liễu rũ.

Ông không tìm thấy an lạc trong bất cứ pháp nào của tứ oai nghi, cũng không ham thích trầm tư, nhưng một khi xao lãng phận sự đối với vị Giáo thọ, ông xao lãng luôn cả việc học hỏi, suy tư và tham thiền nhập định. Các bạn đồng Phạm hạnh bảo:

– Này Hiền giả, trước đây bạn an tịnh và tự tại trong tứ oai nghi, sao giờ đây không như vậy nữa. Vì cớ gì?

Ông đáp:

– Này các Hiền giả, ta chẳng còn ham thích gì nữa.

Tăng chúng khuyên ông giữ an lạc và bảo:

– Sinh ra làm Đức Phật thật khó lắm thay; được nghe Chánh pháp và làm người là chuyện cũng khó vậy. Song trước đây Hiền giả đã được điều này, và vì mong ước đoạn trừ phiền não, bạn đã mặc thân nhân khóc lóc, và trở thành người tu hành sống đời sống ẩn sĩ. Tai sao nay Hiền giả lại rơi vào vòng tham dục? Những tham dục xấu xa này rất thông thường đối với mọi chúng sinh si ám, từ loài sâu bọ trở lên, những tham dục này có gốc ở sắc pháp hữu vi, vì thế chúng rất đáng nhàm chán, tham dục đầy phiền não, khổ ưu ở đây lại tăng trưởng nhiều hơn nữa. Tham dục giống như xương khô, như miếng thịt. Tham dục như bó đuốc làm bằng cỏ khô hay lửa than hồng. Tham dục tan biến như cơn mơ hay của nợ, hoặc như trái cây. Tham dục làm đau đớn như mũi giáo nhọn hay chiếc đầu rắn. Thế mà Hiền giả thật vậy, sau khi đã thọ trì Giáo pháp sáng ngời như thế này và xuất gia tu tập, giờ đây lại rơi vào vòng tham dục tai hại kia.

Khi thấy những lời khuyến giáo của Tăng chúng không làm ông hiểu được ý nghĩa, Tăng chúng đưa ông đến yết kiến Đức Thế Tôn tại Chánh pháp đường. Đức Thế Tôn hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, tại sao các ông đem người này lại đây dù người đó không muốn?

Tăng chúng đáp:

– Hội chúng bảo rằng vĩ Tỷ-kheo này thối thất.

Bậc Đạo Sư hỏi xem có đúng chăng, khi nghe ông thú nhận quả đúng, Ngài bảo:

– Này Tỷ-kheo, các bậc trí nhân ngày xưa, dù đang trị vì một quốc độ, vậy mà hễ khi nào tham dục khởi lên trong tâm cũng phải bị chi phối một thời gian, nhưng rồi đã cố điều phục nhưng tâm tư tán loạn ấy và không còn phạm vào tà hạnh bất xứng nữa.

Nói xong Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa trong kinh thành Aritthapura của quốc độ dân Sivi, có vị vua trị vì mệnh danh là Sivi. Bồ-tát sinh ra làm con của Chánh hậu và được đặt tên là vương tử Sivi. Vị đại tướng trong triều cũng sinh con trai đặt tên là Ahipàraka. Hai thiếu nhi lớn lên trở thành thân hữu, khiđược mười sáu tuổi, hai vị đến thành Takkasilà học tập thành tài xong liền trở về nhà. Vua giao vương quốc cho vương tử, tân vương này phong bạn Ahipàraka làm đại tướng và cai trị rất đúng pháp.

Trong kinh thành có một phú thương tên gọi Tiritavaccha, gia sản đến tám trăm triệu đồng, sinh được một con gái rất yêu kiều diễm lệ, thân nàng có đủ mọi tướng tốt của phúc phận mai sau, đến ngày lễ đặt tên, nàng được gọi là Ummadantì (Người làm điên đảo say mê). Khi đến mười sáu tuổi, nàng đẹp như tiên nữ với một dung sắc siêu phàm.

Mọi phàm nhân chiêm ngưỡng nàng đều không thể nào chế ngự được lòng mình, và đều say mê nàng như thể say rượu nồng và mất hẳn tính tự chủ, vì thế thân phụ nàng đến yết kiến vua và tâu:

– Tâu Thánh thượng, nhà hạ thần có một nữ báu thật xứng đáng tiến cung hầu hạ Thánh thượng, xin hãy triệu các tiên tri vào, những vị này biết cách xem quý tướng trên thân người, để các vị ấy thử xét đoán nàng xong, xin Thánh thượng cứ tuyển dụng nàng tùy thích.

Vua chấp thận cho triệu các vị Bà-la-môn. Rồi họ đến nhà phú thương ấy, được tiếp đón rất trọng thể linh đình và dự tiệc bánh sữa. Vào lúc ấy Ummadantì ra tiếp kiến quan khách với xiêm y lộng lẫy. Thoạt trông thấy nàng, họ đều mất hết tự chủ, chẳng khác nào bị say rượu mạnh, họ quên mất rằng đang ăn tiệc dở dang. Có người cầm chiếc bánh lên, nghĩ mình sẽ ăn bánh, lại đặt bánh lên đầu! Có người để rớt bánh trên hông, có người lại ném bánh vào tường. Mọi người đều như mất trí.

Nàng thấy bọn họ như vậy, liền bảo:

-Thế mà họ bảo ta rằng các người này đến đây để xem xét các đặc điểm của ta.

Nàng ra lệnh nắm gáy cả bọn ném ra ngoài đường. Họ rất bực tức trở về cung với lòng uất hận Ummadantì và trình:

-Tâu Thánh Thượng, nữ nhân này không xứng với Thánh Thượng, đó là một tay phù thủy.

Vua nghĩ thầm: “Họ bảo ta nàng ấy là một phù thủy”.

Vì thế vua không triệu nàng vào.

Nghe được việc ấy, nàng bảo:

-Ta không được vua tuyển vào làm vương hậu vì họ bảo ta là phù thủy, như vậy bọn phù thủyđều giống ta. Được lắm, nếu ta có dịp vào yết kiếm vua, ta sẽ biết cách hành động.

Nàng lại sinh lòng thù oán vua.

Sau đó cha nàng đem gả nàng cho Ahipàraka, và nàng rất được vị phu quân yêu quí say mê. Nguyên nhân gì khiến nàng thành diễm lệ như vậy? Đó là nhờ một chiếc áo đỏ. Ngày xưa đã có một đời nàng sinh ra trong một gia đình nghèo khổ ở Ba-la-nại. Vào một ngày lễ, nàng trông thấy một vài nữ nhân cao quý phục sức lộng lẫy trong những chiếc y rực rỡ nhuộm màu hoa cúc đỏ thắm đang vui đùa, nàng nói với cha mẹ là nàng cũng muốn mặc áo như vậy và chơi đùa.

Họ bèn bảo:

-Này con, nhà ta nghèo lắm, làm sao kiếm ra áo ấy cho con được?

Nàng đáp:

-Vậy thì cha mẹ hãy cho con đi làm kiếm tiền ở một gia đình giàu có, khi nào họ biết đến công lao của con, họ sẽ thưởng con một chiếc áo.

-Được.

Cha mẹ chấp thuận. Nàng liền đến một gia chủ xin làm việc phục dịch để lấy một chiếc áo đỏ, họ bảo:

-Sau khi làm việc cho ba năm, ta sẽ trả công cho nàng một chiếc áo.

Nàng bằng lòng ngay, bắt đầu làm cho họ. Trước khi mãn hạn ba năm, họ đã thưởng công nàng một chiếc áo nhuộm màu hoa cúc đỏ thật dày cùng với một chiếc xiêm khác và đưa nàng ra về, họ bảo:

-Hãy đi tìm các bạn nàng và sau khi tắm gội xong, hãy mặc các xiêm y này.

Thế là nàng cùng đám bạn ra đi tắm dưới sông, để chiếc áo đỏ trên bờ. Lúc ấy, một vị đệ tử của Đức Phật Kassapa(Ca-diếp), vừa bị cướp mất y, đang mặc những mảnh lá cây dùng làm y trong và y ngoài, đang đi đến chỗ này.

Thấy vị này, nàng nghĩ:

-Vị Thánh nhân này chắc bị cướp mất y. Ngày xưa ta cũng vậy, vì không có ai cho y nên thật khó kiếm ra một chiếc.

Nàng liền quyết định chia chiếc y làm đôi, cho vị này một nửa, vì vậy nàng bước lên bờ mặc chiếc áo cũ vào xong bảo:

-Xin Thánh giả nán lại.

Nàng đảnh lễ vị Tỷ-kheo và xé chiếc y làm đôi, tặng vị kia một nửa.

Sau đó vị này đứng nghiêng một bên trong một nơi kín đáo, ném chiếc y bằng lá cây ra, lấy một mảnh áo làm y trong và mảnh kia làm y ngoài, rồi bước ra giữa khoảng không, cả người chói rực lên nhờ màu sắc huy hoàng của chiếc áo, như thể vầng dương mới xuất hiện.

Thấy vậy nàng suy nghĩ: “Vị Thánh nhân này trước đây trông chẳng sáng chói, thế mà bây giờ ngài rực rỡ như vầng dương mới xuất hiện. Thôi để ta cúng dường ngài thêm cái này nữa”.

Nàng liền cúng nửa áo kia và phát nguyện:

-Thưa Thánh giả, con xin nguyện kiếp sau sẽ được sắc đẹp tuyệt trần, hễ ai thấy con đều không tự chủ được, và không nữ nhân nào đẹp hơn con cả.

Vị Tỷ-kheo cảm tạ nàng và ra đi, sau một kiếp luân hồi trong Thiên giới, nàng tái sinh vào thành Aritthapura và diễm lệ như đã được tả trên đây.

Lúc bấy giờ trong kinh thành dân chúng mở hội Kattika,vào ngày rầm trăng tròn tháng mười âm lịch, họ trang hoàng cả kinh thành.

Khi Ahipàraka ra đi đến trạm canh phòng, chàng dặn dò nàng:

– Phu nhân Ummadantì, hôm nay là ngày hội Kattika, đức vua dự đám rước linh đình khắp kinh thành, trước tiên sẽ đến trước cửa nhà ta. Vậy phu nhân đừng lộ diện e ngài thấy phu nhân, sẽ không chế ngự được tâm tư ngài.

Trong lúc chàng từ giã nàng, nàng đáp:

– Thiếp xin lưu tâm việc ấy.

Vừa khi chàng đi khuất, nàng liền ra lệnh nữ tỳ phải báo cho nàng biết ngay khi vua tới cổng nhà nàng. Thế rồi vào lúc mặt trời lặn, mặt trăng hiện lên, đèn đuốc sáng rực khắp kinh thành vừa được trang hoàng như thể một kinh thành của chư Thiên, đức vua phục sức vô cùng lộng lẫy, ngự trên vương xa thật đẹp do các tuần mã kéo, cùng đám quần thần theo hầu, đi vòng quanh kinh thành với vẻ uy nghi cao cả, trước tiên ngài đến thăm cửa nhà Ahipàraka.

Lúc bấy giờ ngôi dinh thự này đứng trong bức tường bao quanh màu son đỏ thắm với các cổng cao và tháp canh được trang hoàng rất sang trọng rực rỡ. Vừa khi ấy nữ tỳ đưa tin hoàng thượng giáng lâm, nàng Ummadantì ra lệnh đem đến một giỏ hoa, nàng lại đứng gần bên cửa sổ ném hoa xuống khắp mình vua với tất cả dáng điệu mê hồn của một Thiên thần.

Thoạt nhìn lên thấy nàng, vua như ngây ngất điên cuồng và không thể nào tự chủ được tâm trí, nên ngài không còn nhận ra nơi đây là tư thất của đại tướng quân Ahipàraka. Vì vậy ngài ngâm hai vần kệ hỏi người quản xa:

  1. Kia, nhà ai đó, hỡi Su-nan,
    Bao bọc thành cao tỏa ánh vàng?
    Bảo vật này như sao sáng rực,
    Hay thiều quang chiếu đỉnh cao san?
  2. Chắc nàng con gái chốn khuê môn,
    Chính chủ nhà? Hay vợ cậu tôn?
    Chỉ một lời, mau cho trẫm biết,
    Có chồng, hay chửa được cầu hôn?

Người quản xa đáp lời vua qua hai vần kệ:

  1. Chuyện ấy, Đại vương hỏi hạ thần
    Đôi bên cha mẹ, thảy am tường;
    Chồng nàng tận tụy ngày đêm vẫn
    Phụng sự quân vương đủ mọi đường.
  2. Đại thần này chính của Anh quân,
    Phú quý vinh hoa hưởng trọn phần,
    Mệnh phụ A-li lừng lẫy ấy,
    Lọt lòng được gọi Um-ma-dan.

Nghe vậy, vua ngâm kệ tán tụng tên nàng:

  1. Trời hỡi! Tên kia thật bất tường,
    Song thân nàng đã đặt cho nàng,
    Um-ma, từ lúc nàng nhìn trẫm,
    Trẫm bỗng hóa ra kẻ dại cuồng!

Trông thấy vua dao động như thế, nàng vội đóng cửa sổ lại và đi thẳng vào khuê phòng. Còn vua, từ lúc trông thấy nàng, chẳng còn thiết gì đến việc đi dự đám rước linh đình quanh kinh thành nữa. Ngài bảo người quản xa:

– Này hiền hữu Sunanda, hãy dừng xe lại. Ðám hội này không hợp với ta nữa, nó chỉ hợp với Ahipàraka, đại tướng quân của ta thôi. Ngai vàng cũng xứng đáng với vị ấy hơn ta. Và khi vương xa dừng lại, ngài ngự lên hoàng cung vào nằm nghỉ trên long sàng và nói huyên thuyên mê mẩn:

  1. Ngọc nữ mắt nai thật dịu hiền,
    Trăng rằm vằng vặc mới vừa lên,
    Ngắm nàng trong áo bồ câu trắng,
    Ta tưởng đôi vầng nguyệt hiện tiền!
  2. Thu ba gợn sóng mắt long lanh
    Quyến rũ hồn như sét ái tình,
    Nào khác yêu tinh trên đỉnh núi,
    Dáng yêu kiều chiếm trọn tim mình!
  3. Tố nga huyền bí, thật cao vời,
    Bảo ngọc lung linh dưới mỗi tai,
    Mình chỉ khoác xiêm y độc nhất,
    Rụt rè như vẻ một con nai.
  4. Các móng tô son, cuốn tóc mây,
    Chiên- đàn tỏa ngát, dịu đôi tay
    Búp măng duyên dáng, ôi kiều nữ,
    Ðến thuở nào cười với trẫm đây
  5. Bao giờ thục nữ có lưng thon,
    Trước ngực phô trương món bội hoàn,
    Ðôi cánh tay mềm ôm trẫm chặt
    Khác nào cát lũy bám cây rừng?
  6. Nàng điểm chấm son sáng rực lên,
    Ngực tròn, ngọc nữ trắng như sen,
    Bao giờ trao nụ hôn cho trẫm,
    Như rượu nồng đưa đến bợm ghiền!
  7. Nàng đứng kia, ta chợt thấy nàng
    Cực kỳ diễm lệ trước long nhan,
    Không còn tự chủ lòng ta nữa,
    Hồn vía quẳng đâu, trí biến tan!
  8. Khi ta chiêm ngưỡng dáng Um-ma,
    Sáng rực đôi tai điểm ngọc hoa,
    Như kẻ bị đền tiền phạt nặng,
    Ngày đêm chẳng chợp mắt phần ta!
  9. Nếu được trời ban, trẫm ước nguyền:
    Trẫm làm đại tướng một hai đêm,
    Hưởng đời cùng với Um-ma ấy,
    Ðể tướng A-hi trị nước liền.

Sau đó các vị cận thần nói với tướng Ahipàraka:

– Thưa Chủ tướng, đức Thánh thượng đang lúc dự đám rước linh đình khắp kinh thành, đã đi đến cửa dinh ngài rồi trở về cung ngay.

Ahipàraka liền về nhà hỏi Ummadanti xem nàng có xuất hiện trước mắt vua không.

Nàng bảo:

– Thưa phu quân, có một lão bụng bự, răng hô đứng trên vương xa đến đây. Tiện thiếp không biết là đức vua hay vương tử, nhưng nghe bảo đó cũng là một vị vương gia nào đó, nên tiện thiếp đang lúc đứng trên cửa sổ liền ném hoa xuống người ấy. Sau đó người ấy liền quay xe bỏ đi mất.

Nghe nói vậy, chàng bảo:

– Thôi nàng đã hại ta tàn đời rồi!

Sáng sớm hôm sau lên đến cung vua, chàng đứng trước cửa vương thất và nghe vua đang nói huyên thuyên về nàng Ummadantì, chàng suy nghĩ: “Ðức vua đang si tình Ummadantì, nếu không chiếm được nàng, ngài sẽ chết mất, vậy bổn phận ta là phải cứu sống ngài, nếu ta làm việc ấy mà không gây tội lỗi cho ngài hoặc cho ta”.

Thế là chàng trở về nhà, gọi một tên gia nô bạo gan đến và bảo:

– Này hiền hữu, ở chốn kia có một gốc cây thân rỗng, trong ấy là đền thờ thần. Hiền hữu đừng cho ai biết cả, đợi lúc sẩm tối hãy đến ngồi trong bộng cây ấy. Ta sẽ đến đó cúng lễ dâng thần thánh và sẽ cầu nguyện như vầy: “Tâu Thiên vương, đức vua của chúng thần, trong lúc đám rước đang diễn hành, ngài đã không dự vào lại về cung thất nằm nói lảm nhảm không đâu; chúng thần chẳng hiểu cớ gì. Ðức vua đã từng làm đại ân nhân của chư thần, hằng năm đã chi tiêu vào việc cúng tế cả ngàn đồng tiền vàng. Xin Thiên vương cho biết tại sao đức vua lại nói nhảm như vậy và xin ban cho chúng thần một điều ước để cứu mạng ngài”, ta sẽ khấn như vậy và hiền hữu hãy nhớ lập lại những lời này: “Này Ðại tướng, đức vua chẳng bệnh tật gì cả, song ngài đang si tình phu nhân Ummadanti đấy. Nếu ngài chiếm được nàng, ngài sẽ sống, bằng không, e ngài phải chết. Nếu Ðại tướng muốn cho ngài sống, thì hãy dâng nàng Ummadanti cho ngài”. Hiền hữu nhớ nói như vậy.

Sau khi dặn dò gã ấy xong, chàng bảo gã ra đi. Thế là hôm sau, người gia nô đến ngồi trong bộng cây kia và khi vị đại tướng đến nơi cầu khấn, gã ấy đọc lại đủ điều đã đã học trên. Ðại tướng bảo:

– Tốt lắm.

Rồi đảnh lễ vị thần xong, đại tướng đến kể chuyện với các vị đại thần của vua; sau đó vào cung, gõ cửa cung thất của vua.

Vua đã hồi tỉnh và hỏi ai đó.

– Tâu Thánh thượng, chính hạ thần là Ahipàraka.

Rồi chàng mở cửa cung thất, bước vào làm lễ triều kiến vua và ngâm vần kệ:

  1. Quỳ trước đền thiêng, tấu Ðại vương,
    Thần nghe quỷ nói chuyện phi thường:
    – “Um-ma mê hoặc lòng kim thượng”-
    Mong chúa thỏa tâm nguyện tuyển nàng!

Vua liền hỏi:

– Này hiền hữu Ahipàraka, ngay các vị thần Dạ xoa cũng biết trẫm đang nói ngông cuồng vì say mê nàng Ummadanti đấy ư?

– Tâu Thánh thượng, quả vậy.

Vua nghĩ thầm: “Việc hèn hạ xấu xa kia của trẫm đã bị khắp thế gian biết cả rồi”. Và ngài cảm thấy hổ thẹn khôn cùng. Vừa khi lấy lại được lòng chân chính, vững vàng, ngài ngâm vần kệ sau:

  1. Phước trời chẳng hưởng, trẫm đành sa,
    Thế giới đều hay đại tội ta,
    Phải biết, lòng khanh đầy khổ não,
    Nếu khanh chẳng gặp lại Um-ma
    .

Các vần kệ sau đây là do hai vị đối đáp xen kẽ:

Ðại tướng:

  1. Trừ Ðại vương cùng với hạ thần,
    Việc kia, ai biết giữa trần gian?
    Um-ma, tặng vật xin dâng chúa,
    Phỉ nguyện, rồi đem trả lại nàng.

Quân vương:

  1. Kẻ ác nghĩ:?Không một thế nhân
    Hẳn từng chứng kiến tội ta làm?.
    Song toàn việc ấy, đều hay biết
    Bởi các Thánh nhân lẫn quỷ thần.
  2. Dù khanh có bảo: “Chẳng yêu nàng?,
    Ðiều ấy, ai tin giữa thế gian?
    Phải biết, lòng khanh đầy khổ não,
    Nếu khanh chăng gặp lại phu nhâ
    n.

Ðại tướng:

  1. Nàng quý yêu như mạng sống mình
    Thực là vợ thắm thiết bao tình,
    Song hoàng thượng đến Um-ma gấp,
    Như hổ, sư về thạch động nhanh.

Quân vương:

  1. Bậc trí, dù đau khổ ngập tràn
    Cũng không bỏ việc tạo bình an,
    Kẻ ngu dù đắm chìm hoan lạc
    Tội lỗi thế kia, chẳng dám làm!

Ðại tướng:

  1. Tâu Ðại vương là dưỡng phụ thân,
    Là Thiên đế, chúa tể thần dân,
    Thê nhi, xin hiến làm nô lệ,
    Thánh thượng Si-vi hãy đẹp lòng!

Quân vương:

  1. Kẻ làm hại bạn chẳng ăn năn,
    Bảo: “Chính đây là chúa vạn năng?,
    Chỉ nửa đời thôi, e khó sống,
    Thánh thần thấy vậy, chẳng bằng lòng.

Ðại tướng:

  1. Nếu chánh nhân thâu nhận lễ dâng
    Do người tình nguyện, tấu Minh quân,
    Vậy người đem tặng cùng người nhận
    Làm việc thành công, quả vạn toàn.

Quân vương:

  1. Dù khanh có bảo: “Chẳng yêu nàng?,
    Ðiều ấy ai tin giữa thế gian?
    Phải biết, lòng khanh đầy khổ não,
    Ví khanh chẳng gặp lại phu nhân.

Ðại tướng:

  1. Nàng thiết thân như mạng sống thần,
    Thật nàng là vợ quý vô ngần,
    Um-ma, tặng vật, xin dâng hiến,
    Thỏa nguyện, rồi đem trả lại nàng.

Quân vương:

  1. Làm mình khỏi khổ, hại cho người,
    Kẻ khác mất vui, dạ vẫn tươi,
    Chẳng cảm niềm đau người khác khổ
    Như mình, chẳng biết chánh chân rồi!

Ðại tướng:

  1. Nàng quý như đời sống, Ðại vương,
    Thật nàng được ái luyến khôn lường,
    Thần dâng bảo vật, không hoài của,
    Như vậy, người cho đã hưởng phần
    .

Quân vương:

  1. Ta có thể làm hại bản thân
    Vì thèm dục lạc của phàm nhân,
    Song ta quyết chăng bao giờ dám
    Làm hại điêu tàn bậc chánh chân.

Ðại tướng:

  1. Ví thử Minh quân phải khước từ
    Chỉ vì nàng, vợ hạ thần ư?
    Từ nay giải phóng nàng, từ biệt,
    Xin triệu nô tỳ vời chiếu thư!

Quân vương:

  1. Ví dù đại tướng hại thân mình,
    Lìa bỏ phu nhân chẳng tội tình,
    E phải chịu bao lời khiển trách,
    Chẳng hề ai nói đúng công bình.

Ðại tướng:

  1. Mặc lời khiển trách, mặc than phiền,
    Ðể mặc lời bình phẩm, ngợi khen,
    Trút xuống hạ thần như ý muốn,
    Trước tiên ước chúa thỏa tâm nguyền!

Quân vương:

  1. Kẻ không màng đến việc khen, chê,
    Chỉ trích, tuyên dương, chẳng sá gì,
    Tài sản, vinh quang đều biến mất,
    Như cơn lũ rút, đất khô đi.

Ðại tướng:

  1. Bất cứ lạc hay khổ nảy sinh,
    Vượt qua ngay, hoặc não lòng mình,
    Thần xin đón nhận dù ưu, hỷ,
    Như đất khoan dung cả dữ, lành.

Quân vương:

  1. Ta chẳng muốn người khác khổ đau,
    Làm càn, cho bạn phải ưu sầu,
    Gánh sầu mang nặng, mình riêng chịu,
    Chân chánh, không làm vướng bận nhau.

Ðại tướng:

  1. Thiện hành dẫn dắt tới thiên đường,
    Xin chớ cản chân, tấu Ðại vương,
    Tặng vật Um-ma, thần cống hiến
    Như vua ban thưởng bậc Sa-môn.

Quân vương:

  1. Khanh đối cùng ta thật chí thành
    Khanh và hiền nội, bạn chân tình;
    Ðạo nhân, thần thánh đều chê trách
    Nguyền rủa, ta mang mãi nặng mình.

Ðại tướng:

  1. Thần chắc dân quê đến thị dân
    Chẳng hề than chúa thiếu công bằng,
    Vì Um-ma, chính thần dâng hiến,
    Thỏa nguyện, rồi đem trả lại thần.

Quân vương:

  1. Khanh cùng trẫm quả thật ân cần,
    Khanh với phu nhân chính bạn vàng,
    Chánh nghiệp thiện nhân vang vọng khắp,
    Chánh hành khó vượt, tựa triều dâng.

Ðại tướng:

  1. Tâu Chúa công, ban thưởng hạ thần
    Những gì thần ước, đại ân nhân,
    Xin hoàn gấp bảy quà thần tặng,
    Xin nhận Um-ma, của biếu không.

Quân vương:

  1. Tri kỷ A-hi, quả thật tình,
    Theo đường chân chánh tự xuân xanh,
    Ðâu còn ai nữa trong nhân thế
    Nỗ lực cho ta được tốt lành?

Ðại tướng:

  1. Tấu Minh quân, hiển hách vô song,
    Thông hiểu chánh hành, đại trí nhân,
    Vạn tuế Pháp vương, đầy chánh hạnh,
    Tránh đường tà, dạy bảo cho thần.

Quân vương:

  1. Ðến đây, Ðại tướng A-hi-pà,
    Hãy lắng nghe lời nói của ta,
    Ta sẽ dạy thanh toàn chánh đạo
    Thực hành bởi các thiện nhân xưa:
  2. Vua cầu Chánh pháp, được ân trời,
    Bậc trí tối ưu giữa mọi người,
    Không phản bạn lành là thiện hảo,
    Tránh đường tà, cực lạc cao vời!
  3. Dưới quyền đức độ của minh quân
    Như bóng cây che nắng trú thân,
    Tất cả thần dân đều lạc nghiệp,
    Hưởng đời phú quý mãi gia tăng.
  4. Việc ác, nào ta có tán đồng,
    Dù là vô ý vẫn sai lầm:
    Ngu si là tội ta khinh ghét,
    Nghe ví dụ này, khắc tận tâm.
  5. Bò già đi lạc giữa dòng sông,
    Cả đám bò con lạc bước luôn,
    Vậy nếu trưởng đoàn đi lạc lối,
    Mục tiêu hạ liệt lại đưa đường,
    Cả đoàn thấp kém, liền theo gót,
    Cả nước than thời loạn nhiễu nhương.
  6. Song nếu bò cha lái đúng dòng,
    Ðoàn bò thẳng tiếp bước sau lưng;
    Vậy khi tướng lãnh theo chân chánh,
    Dân chúng sẽ cùng tránh bất công,
    Thanh tịnh an bình liền phát khởi
    Khắp miền cương thổ với non sông.
  7. Ví dầu trẫm được cả trần gian
    Cũng chẳng làm sao, hỡi Tướng quân,
    Trẫm chẳng thể nào gây ác nghiệp
    Mà mong đạt đến cõi thiên đàng.
  8. Nhũng gì quý giá giữa nhân gian,
    Nô lệ, bò trâu với bạc vàng,
    Thuấn mã, xiêm y, kho của cải,
    Ngọc châu sáng rực, gỗ chiên-đàn,
    Mọi nơi nhật nguyệt ngày đêm chiếu,
    Ðổi lấy bất công cũng chẳng màng,
    Trẫm vốn Si-vi dòng quý tộc,
    Người cai trị chính đáng công bằng!
  9. Làm cha, lãnh đạo, giữ giang sơn,
    Trẫm bảo tồn quyền lợi nước non,
    Trẫm quyết trị dân theo Chánh đạo,
    Chẳng còn ai lệ thuộc riêng phần.

Ðại tướng:

  1. Luật pháp Ðại vương thật tốt lành!
    Mong ngài ngự trị hưởng trường sinh!
    Dẫn đường đưa nước nhà an lạc,
    Cường thịnh nhờ ngài đại trí minh!
  2. Hân hoan tràn ngập chúng thần dân,
    Vì Ðại vuơng chân chánh nhiệt tâm,
    Các bạo chúa nào quên Chánh đạo
    Từ nay ắt phải mất ngai vàng.
  3. Với xuân huyên là đấng song thân,
    Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
  4. Với hoàng nam, chánh hậu, cung tần,
    Xin thực hành chân chánh Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
  5. Với bao bằng hữu, đám triều thần,
    Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
  6. Trong chinh chiến hoặc bước hành trình,
    Xin Ðại vương chân chính thực hành,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đình.
  7. Nơi thôn dã hoặc chốn kinh thành,
    Xin Ðại vương chân chánh thực hành,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đình.
  8. Mọi miền quốc độ, khắp giang sơn,
    Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
  9. Với La-môn, các bậc Sa-môn,
    Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
  10. Với loài súc vật, các chim muông,
    Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên dường.
  11. Thực hành chân chánh, tấu quân vương,
    Do đấy, nguồn ân phước tưới tràn,
    Nhờ tiến bước theo đời Chánh hạnh,
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đàng.
  12. Chính nhờ tỉnh giác, tấu Quân vương,
    Thiện đạo tiến lên vững bước luôn,
    Giáo sĩ, chư Thiên và Ðế Thích
    Từ xưa đã đạt đến thiên đường.

Khi vua đã nghe đại tướng Ahipàraka của ngài thuyết giảng Chánh pháp như vậy xong, ngài đoạn trừ hết lòng tham đắm đối với nàng Ummadantì.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Thánh đế và nhận diện Tiền thân: vào đoạn kết thúc các Thánh đế, vị Tỷ-kheo kia đã được an trú vào Sơ quả Dự Lưu.

– Thời bấy giờ, Ànanda là người lái xe Sunanda, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là tướng Ahipàraka, Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) là nàng Ummadantì, các đệ tử của đức Phật là đám triều thần và Ta chính là vua Sivi.

-ooOoo-

  1. Chuyện hiền giả đại Bồ đề (Tiền thân Mahà-Bodhi)

Ý nghĩa gì chăng những vật này …,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về sự Viên mãn của Trí tuệ Tối thắng.

Hoàn cảnh câu chuyện sẽ được kể trong Tiền thân số 546. Mahà Ummagga, Tập VII. Vào dịp này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Không phải chỉ bây giờ mà cả xưa kia nữa, Như Lai cũng đã sáng suốt đánh bại mọi kẻ tranh chấp biện luận.

Cùng với các lời nói này, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa trong triều vua Brahmadatta, Bồ-tát được sinh tại Ba-la-nại trong vương quốc Kàsi vào một gia đình Bà-la-môn miền Bắc có thế lực, của cải lên đến tám trăm triệu, cha mẹ đặt tên ngài Nam tử Bodhi (Ðại trí). Khi ngài lớn khôn, ngài được dạy đủ các môn học thuật tại Takkasilà, rồi trở về nhà ngài sống trong sự săn sóc nuông chiều của gia đình.

Dần dần ngài đoạn trừ mọi ác dục thế gian và lui về sống ở vùng Tuyết Sơn, bắt đầu cuộc đời tu hành của một du sĩ khất thực. Ngài ở đó một thời gian thật lâu, ăn toàn củ và trái rừng. Vào mùa mưa ngài hạ sơn đi khất thực dần dần đến gần thành Ba-la-nại.

Tại đấy ngài trú ngụ trong vườn ngự uyển, hôm sau ngài đi vào kinh thành khất thực, vời tư cách của một vị khất sĩ, ngài đến gần hoàng môn. Vua đứng bên cửa sổ trông thấy ngài, và rất hoan hỷ trước dáng điệu thanh thản của ngài, liền mời ngài vào cung và ngồi trên vương tọa.

Sau một hồi đàm đạo thân hữu, vua được nghe ngài thuyết Pháp rồi tiếp đãi cúng dường ngàiđủ thứ cao lương mỹ vị. Bậc Ðại Sĩ nhận vật thực và suy nghĩ: “Thật ra vương triều này đầy hận thù và cừu địch. Ta không biết ai sẽ giải thoát cho ta khỏi nỗi lo sợ đang khởi lên trong lòng ta”.

Vừa nhìn thấy con chó săn màu hung được vua cưng quý đang đứng gần đó, ngài lấy một miếng thịt tỏ vẻ muốn cho con chó. Vua thấy thế liền truyền đem dĩa của con chó lại và bảo ngài lấy thức ăn cho con chó. Bậc Ðại Sĩ tuân lệnh và cũng vừa chấm dứt buổi ăn.

Vua xin ngài chấp nhận việc xây một túp lều tranh cho ngài trong ngự viên của hoàng thành, truyền ban tặng ngài đủ vật dụng của một ẩn sĩ, và mời ngài an trú tại đó. Mỗi ngày hai ba lần, vua đến thăm, tỏ lòng cung kính đối với ngài. Ðến giờ cơm, bậc Ðại Sĩ liên tục được ngồi vào vương tọa thọ dụng các thức ngự thiện cùng với vua. Cứ thế mười hai năm liền trôi qua.

Lúc bấy giờ, vua có năm vị cố vấn đã dạy ngài các thế pháp cũng như thánh sự. Một vị trong số đó không chấp nhận thuyết Nghiệp nhân. Một vị khác tin rằng mọi việc đều do một Ðấng tối cao sắp đặt. Một vị thứ ba chủ trương thuyết Tiền nghiệp. Vị thứ tư tin vào sự Ðoạn diệt sau khi chết. Vị thứ năm chủ trương thuyết Giai cấp Sát-đế-lỵ. Vị không chấp nhận Nghiệp nhân dạy dân chúng rằng con người trong thế gian này sẽ được thanh tịnh hóa nhờ luân hồi. Vị tin vào hành động của Ðấng tối cao dạy rằng thế giới này do vị tối cao ấy sáng tạo. Vị tin vào kết quả của Tiền nghiệp dạy rằng mọi ưu lạc ở đời này là kết quả của một nghiệp quá khứ. Vị tin vào thuyết Ðoạn diệt dạy rằng không ai ở đời này tái sinh vào một thế giới khác, vì thế giới này sẽ bị đoạn diệt. Vị chủ trương thuyết Sát-đế-lỵ dạy rằng quyền lợi của cá nhân mình phảiđược thỏa mãn cho dù phải giết cả cha mẹ mình.

Năm vị này được vua chỉ định ngồi xử án trong triều và vì tham muốn của hối lộ, họ đã tướcđoạt tài sản của những người chủ nhân chính đáng. Một ngày kia, có một kẻ bị sạp nghiệp vì một vụ xử án sai lầm, thấy bậc Ðại Sĩ đi vào cung khất thực liền đảnh lễ và than thở vào tai ngài:

Thưa Tôn giả, tại sao ngài thọ thực trong cung điện, mà lại thờ ơ trước những việc do những vị phán quan cầm cân nẩy mực của Thánh thượng đang làm tan gia bại sản mọi người vì muốn ăn hối lộ? Ngay bây giờ đây năm vị kia nhận của hối lộ từ tay một người vu cáo nên đã tước đoạt hết tài sản của tôi một cách vô lý.

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ động lòng thương hại, đi vào triều xử bản án lại cho đúng và trả quyền tài sản cho người kia. Dân chúng đồng tình hoan nghênh ngài nhiệt liệt.

Vua nghe tiếng ồn ào liền hỏi có việc gì, khi nghe nói vậy, vừa lúc bậc Ðại Sĩ dùng cơm xong, đến ngồi cạnh ngài và hỏi:

– Này Tôn giả, có thực là ngài vừa xử án như dân chúng đồn chăng?

– Tâu Ðại vương, quả vậy.

Vua bảo:

– Nếu ngài xử án, ngài sẽ đem lợi lạc cho dân chúng, vậy từ nay ngài cần phải xử án.

Ngài đáp:

– Chúng thần là những kẻ tu khổ hạnh, việc này không phải là việc của chúng thần.

– Này Tôn giả, ngài phải làm việc đó vì từ tâm đối với dân, ngài không cần xử án suốt ngày, mà chỉ khi nào ngài từ vườn ngự uyển đến đây thì hãy đến công đường từ sáng tinh sương để xử bốn vụ án; rồi trở về ngự viên, sau khi thọ dụng thức ăn xong, lại xử bốn vụ nữa, như vậy dân chúng sẽ được lợi lạc.

Sau khi nghe nài nỉ nhiều lần, ngài nhận lời và từ đó xử án như vậy.

Những kẻ lừa đảo không còn cơ hội làm ăn nữa, các vị cố vấn kia không nhận hối lộ được, lâm vào cảnh khốn đốn, nghĩ thầm: “Từ khi có gã khất thực Bodhi bắt đầu xử án, chúng ta chẳng được gì cả”. Bọn họ gọi ngài là thù địch của vua và bảo nhau:

– Này, chúng ta phải vu cáo nó và làm cho nó chết đi.

Họ liền đến yết kiến vua và tâu:

– Tâu Ðại vương, gã khất thực Bodhi muốn làm hại Ðại vương.

Vua không tin họ và phán:

– Không đâu, ngài là bậc thiện nhân uyên bác, ngài không làm thế được.

Họ lại bảo:

– Tâu Ðại vương, dân chúng đều là người của gã cả, chỉ có năm chúng thần là không ở trong tay gã thôi. Nếu Ðại vương không tin chúng thần, thì lần sau khi gã đến đây, xin Ðại vương để ý đến đám tùy tùng của gã.

Vua ưng thuận, khi đứng bên cửa sổ nhìn ngài đi đến, vua thấy đám người thưa kiện theo sau ẩn sĩ Bodhi mà ngài không biết, vua tưởng đó là tùy tùng của ngài, liền có thành kiến với ngài ngay, nên triệu tập đám quốc sư vào hỏi:

– Ta phải làm sao đây?

Chúng đáp:

– Xin Ðại vương ra lệnh bắt gã lại.

Vua đáp:

– Nếu ta không thấy gã vi phạm lỗi lầm nào hiển nhiên, làm sao ta bắt gã được?

– Vậy thì xin Đại vương giảm bớt ân huệ thường dành cho gã, khi gã thấy vinh dự sa sút, là một khất sĩ khôn ngoan, gã sẽ tự ý bỏ đi không hé răng điều gì với ai đâu.

Vua chấp thuận lời đề nghị ấy và dần dần giảm bớt mọi sự tôn trọng đối với ngài. Ngày đầu tiên sau đó bọn họ mời ngài ngồi trên một tọa sàng không có nệm. Ngài nhận thấy thế hiểu ngay là đám kia đã vu cáo ngài với vua, nên khi trở về ngự viên, ngài định ra đi ngay hôm đó, song ngài lại suy nghĩ: “Khi nào biết chắc chắn ta sẽ ra đi”, nên ngài không bỏ đi.

Ngày hôm sau khi ngài ngồi vào tọa sàng không nệm lót, quân hầu dâng ngự thiện dành cho vua cùng nhiều thực phẩm khác, và đem cho ngài thực phẩm trộn lẫn cả hai thứ trên.

Ngày thứ ba quân hầu không để ngài đến gần bệ rồng mà đặt ngài ngồi ở đầu bệ, rồi chúng đem đến ngài các thức ăn trộn chung lại. Ngài nhận lấy và trở về ngự viên tự làm thức ăn cho mình tại đó.

Ngày thứ tư họ đặt ngài trên hiên nhà phía dưới và đem cho ngài cháo bột gạo, ngài cũng đem về ngự viên tự dọn thức ăn lấy. Vua bảo:

– Mặc dù mọi vinh quang dành cho gã đã giảm sút, khất sĩ đại trí vẫn không bỏ đi. Vậy ta phải làm sao đây?

– Tâu Ðại vương – Họ bảo – không phải gã đến đây để khất thực mà vì gã muốn tranh quyền bá chủ. Nếu gã đến đây để khất thực thì gã đã bỏ đi ngay hôm đầu tiên gã bị coi khinh.

– Vậy ta phải làm gì đây?

– Xin Ðại vương truyền lệnh giết gã ngày mai.

Vua đáp:

– Ðược lắm.

Vua trao kiếm vào tay các vị kia, vừa bảo:

– Ngày mai khi gã đến đứng trong cửa, hãy chặt đầu gã và phanh thây gã ra, chẳng cần nói gì với ai cả, cứ ném xác gã vào đống phân, rồi tắm rửa và trở về đây.

Bọn họ sẵn sàng tuân lệnh ngay và tâu:

– Ngày mai chúng thần xin đến làm như thế.

Sau khi sắp đặt công việc với nhau, họ trở về tư thất. Còn vua sau buổi ăn tối nằm trên vương tọa nhớ lại mọi công đức của bậc Ðại Sĩ, nỗi ưu phiền đột nhiên kéo đến trong tâm, mồ hôi đổ ra khắp thân thể và không thể nào nằm yên trên giường, vua cứ trằn trọc mãi.

Lúc bấy giờ chánh hậu nằm bên cạnh vua, song vua chẳng thốt ra một lời nào với bà. Vì vậy bà hỏi vua:

– Tâu Thánh thượng, tại sao Thánh thượng không nói gì với thần thiếp? Thần thiếp có làm điều gì xúc phạm đến Thánh thượng chăng?

Không đâu ái hậu – Vua bảo – nhưng chúng bảo khất sĩ Bodhi trở thành kẻ thù địch của ta rồi, nên ta đã ra lệnh cho năm vị cố vấn ngày mai phải giết gã đi, giết xong phải phanh thây gã mà vứt vào đống phân. Nhưng trong suốt mười năm trường gã đã giảng dạy ta biết bao chân lý. Trước đây ta không hề thấy gã có một điều xúc phạm mảy may nào mà chỉ vì do sự xúi giục của kẻ khác, ta đã ra lệnh giết gã đi, vì thế ta rất ưu phiền.

Lúc ấy bà vội an ủi vua:

– Tâu Thánh thượng, nếu gã là kẻ thù của ta, tại sao Thánh thượng lại buồn rầu khi giết gã? Phải giữ gìn thánh thể an khang, dù cho kẻ thù phải giết đi chính là vương tử của Thánh thượng. Xin Thánh thượng đừng bận tâm làm gì.

Lời bà khiến vua an tâm và ngủ thiếp đi. Vào lúc ấy con chó săn màu hung được cưng quý kia nghe được câu chuyện nghĩ thầm: “Ngày mai ta phải dùng sức mạnh của ta để cứu người này”.

Thế là sáng sớm hôm sau, con chó từ hiên nhà đi xuống cửa lớn đặt đầu trên bực thềm, canh chừng con đường từ đó bậc Ðại Sĩ đi đến. Nhưng năm vị quốc sư cầm kiếm trong tay đã đến từ tảng sáng và đứng bên trong cửa lớn.

Ẩn sĩ Bodhi thấy đúng giờ, từ ngự viên đi đến cửa cung. Lúc ấy, con chó thấy ngài liền há miệng nhe bốn răng thật lớn ra và suy nghĩ: “Thưa Tôn giả, tại sao Tôn giả không đi khất thực nơi khác ở cõi Diêm-phù-đề? Ðức vua đã sắp đặt cho năm quốc sư cầm kiếm đứng bên trong cửa chực giết ngài. Xin đừng đến cam phận chịu chết, mà phải nhanh chân tẩu thoát”. Rồi nó sủa lớn tiếng.

Nhờ biết rõ ý nghĩa mọi thứ âm thanh nên ẩn sĩ Bodhi hiểu có chuyện chẳng lành, liền trở về ngự viên thu dọn mọi vật cần thiết để lên đường.

Nhưng vua đứng bên cửa sổ, thấy ngài không đến, liền nghĩ: “Nếu người này là kẻ thù của ta thì gã sẽ trở về ngự viên thu thập mọi lực lượng để sẵn sàng hành động. Còn nếu không, chắc chắn gã sẽ lấy mọi thứ cần dùng và chuẩn bị ra đi. Ta muốn đi xem gã sắp làm gì”.

Khi đến ngự viên, vua thấy bậc Ðại Sĩ bước ra khỏi am tranh cùng mọi vật dụng cần thiết đặt ở cuối lối đi trong am thất, sắp sửa lên đường, vua đảnh lễ ngài rồi đứng qua một bên và ngâm vần kệ đầu tiên:

  1. Có nghĩa gì chăng các vật này,
    Lọng, giầy, y, gậy lại cầm tay?
    Thượng y, bình bát, cùng dao quắm,
    Ta muốn hiểu ra cớ sự vầy,
    Ðến xứ sở nào xa cách lắm,
    Sao ngài nóng vội bỏ đi ngay?

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Ta chắc vua không hiểu mình đã làm gì. Ta muốn cho vua biết”. Ngài liền ngâm hai vần kệ này:

  1. Tâu Ðại vương, hơn một thập niên,
    Hạ thần an trú chốn hoa viên,
    Từ nay về trước, chưa hề thấy
    Con chó này cất tiếng sủa lên.
  2. Hôm nay chó nọ lại nhe răng
    Trắng nhởn, kiêu căng thật dữ dằn,
    Vì đã nghe ngài cùng chánh hậu,
    Báo cho thần biết, sủa vang rần!

Lúc ấy vua đành nhận tội, và ngâm vần kệ thứ tư xin ngài tha thứ:

  1. Tội ấy của ta thật đúng phần,
    Ðích ta đà nhắm giết Tôn nhân,
    Song nay ân huệ ban lần nữa,
    Mong ước Tôn nhân hãy nán chân.

Nghe lời trên, bậc Ðại Sĩ đáp:

– Tâu Ðại vương, các bậc trí không ở cùng với một người chẳng nhìn thấy sự việc chính mắt mình, mà lại nghe theo lời chỉ dẫn của kẻ khác.

Nói xong, ngài vạch rõ cách xử thế sai lầm của vua như sau:

  1. Thực phẩm ngày xưa sạch, trắng ngần,
    Kế theo màu sắc tạp nham dần,
    Ðến nay đã hóa thành nâu sẫm,
    Chính lúc này ta phải rút chân.
  2. Buổi đầu tọa thực ở trên ngai,
    Kế đó cầu thang, cuối bệ dài,
    Trước lúc ta chờ dài cổ họng,
    Ta đành tử giã chốn này thôi.
  3. Ngài chớ mến yêu bạn bất trung:
    Khác gì đâu cái giếng khô cùn,
    Dù đào sâu đến bao nhiêu mẫu,
    Dòng nước tuôn ra cũng đục bùn.
  4. Phải lo kết nghĩa bạn trung can,
    Hãy tránh xa liền bạn bất nhân,
    Như kẻ khát đi tìm suối nước,
    Bạn vàng trung tín phải theo gần.
  5. Lưu luyến bạn thân luyến ái ngài,
    Ðem tình ngài đáp lại tình ai,
    Kẻ ruồng bỏ bạn vàng trung tín
    Ðược kể là người đốn mạt thôi.
  6. Kẻ chẳng luyến lưu bạn thủy chung,
    Chẳng đem tình đáp lại tình thân,
    Giữa đời là kẻ đê hèn nhất,
    Ðịa vị không hơn lũ khỉ rừng.
  7. Gặp gỡ quá nhiều cũng xấu xa,
    Khác nào chẳng gặp gỡ bao giờ.
    Hỏi xin ân huệ nào nhanh quá
    Cũng khiến tình thân hóa nhạt nhòa!
  8. Viếng bạn, song đừng đến viếng luôn,
    Cũng không nấn ná bước dừng chân,
    Ðúng thời, ta mới cầu ân huệ,
    Nhờ thế tình thân chẳng lụi dần.
  9. Ai cứ kéo dài cuộc trú chân,
    Thấy thường bằng hữu hóa cừu nhân;
    Trước khi ta mất tình bằng hữu,
    Xin giã biệt ngay, tiến bước đường.

Vua bảo:

  1. Dù trẫm chắp tay khẩn thiết nài,
    Ngài không muốn để lọt vào tai,
    Chẳng dành lời nói cho quần chúng
    Tha thiết cầu ân đức của ngài,
    Trẫm khát khao ngài ban tối huệ
    Xin về đây viếng trẫm nay mai.

Bồ-tát đáp:

  1. Nếu không gì gián đoạn dòng đời,
    Ví thử ngài, ta, Ðại đế ôi!
    Còn sống, hỡi người-nuôi-quốc-độ,
    Ta bay về lại chốn này thôi,
    Rồi ta còn dịp lành tương kiến
    Trong lúc ngày đêm lờ lững trôi.

Bậc Ðại Sĩ nói thế xong còn thuyết giáo cho vua, ngài bảo:

– Xin Ðại vương hãy luôn tỉnh giác.

Sau khi rời ngự viên và đi một vòng khất thực trong khu phố của ngài, ngài rời thành Ba-la-nại và dần dần đi đến một chỗ trong vùng Tuyết Sơn, trú tại đó một thời gian rồi ngài hạ sơn, đến trú trong một khu rừng gần một thôn làng vùng biên địa.

Khi ngài vừa ra đi, các cố vấn lại ngồi xử án, bóc lột dân chúng và suy nghĩ: “Nếu gã Ðại Bồ-đề khất sĩ trở lại đây, ta sẽ mất kế sinh sống, vậy ta phải làm gì để ngăn cản gã ấy trở lại?”. Rồi họ nghĩ đến điều này: “Những người như vậy không thể rời vật mà họ lưu luyến; vậy vật gì làm gã lưu luyến đây?”. Khi thấy chắc chắn đó phải là bà chánh hậu của vua, họ suy nghĩ: “Ðây là lý do khiến gã ấy trở về đây. Ta phải nhanh tay với bọn họ và khiến bà ta phải chết”.

Họ liền nói lại điều này với vua:

– Tâu Ðại vương, hôm nay có một lời đồn đại lan khắp kinh thành.

– Ðồn đại việc gì?

– Khất sĩ Ðại Bồ-đề và chánh hậu vẫn gửi tin tức cho nhau.

– Với mục đích gì?

– Dân chúng bảo, vị ấy nhắn tin với Chánh hậu như vầy: “Lệnh bà có đủ khả năng giết đức vua và trao chiếc long trắng cho ta chăng?”. Chánh hậu nhắn lại vị kia: “Việc giết vua đúng là trọng trách của ta, vậy ngài phải đến đây gấp”.

Bọn họ cứ nói đi nói lại mãi điều này cho đến khi vua tin đó là sự thật liền hỏi:

– Vậy phải làm gì bây giờ?

Họ bảo:

– Ta phải giết chánh hậu đi.

Rồi không cần tìm hiểu sự thật của chuyện này ra sao, vua phán:

– Vậy thì giết chánh hậu đi, rồi phanh thây bà ném vào đống phân.

Họ tuân lệnh ngay, và tin hoàng hậu chết chấn động khắp kinh thành.

Lúc ấy bốn vương tử bảo nhau:

– Mẫu hậu ta dù vô tội, đã bị hành hình do lệnh người này.

Và bọn họ trở thành cừu địch của vua. Và vua vô cùng kinh hãi. Bậc Ðại Sĩ lúc ấy đã hay tin sự việc xảy ra liền suy nghĩ: “Lúc này không có ai ngoài ta có thể làm dịu lòng các vương tử này và khuyên họ tha tội phụ vương, ta sẽ về cứu mạng vua và giải thoát các vương tử khỏi mục đích tội lỗi của họ”.

Vì thế ngày hôm sau, ngài đi vào ngôi làng ở biên địa, sau khi ăn thịt khỉ do dân làng cúng dường, ngài xin miếng da khỉ đem về phơi khô trong am tranh cho đến khi hết mùi hôi rồi làm thành y trong, y ngoài và khoác lên vai. Tại sao ngài làm thế, ngài có thể bảo:

– Nó rất hữu ích vào ta.

Khoác tấm da lên, ngài đi dần vào thành Ba-la-nại, tiến lại gần các vương tử, và bảo họ:

– Giết phụ thân là một việc ác khủng khiếp, các vương tử không nên làm vậy; làm người không ai thoát khỏi mạng vong chết chóc. Ta phải đến đây để hòa giải các vị; khi ta nhắn tin, chư vị phải đến gặp ta.

Sau khi khích lệ các vương tử xong, ngài đi vào ngự viên trong kinh thành, ngồi trên phiến đá trải miếng da khỉ lên trên.

Khi người giữ vườn thấy thế, liền vội phi báo cho vua. Vua nghe xong lòng đầy hoan hỷ, bảo năm vị cố vấn cùng đi với vua đến đảnh lễ bậc Ðại Sĩ, rồi ngồi xuống để chuyện trò vui vẻ cùng ngài.

Bậc Ðại Sĩ chẳng hề đáp lễ thân mật gì cả, cứ tiếp tục vuốt tấm da khỉ. Vua hỏi:

– Này Tôn giả, tại sao không nói một lời nào với trẫm lại cứ vuốt tấm da, vậy nó ích lợi cho ngài hơn trẫm chăng?

– Tâu Ðại vương, chính thế, con khỉ này thật hữu dụng bậc nhất cho bần đạo, khi bần đạo đi đây đó, thường ngồi trên lưng nói. Nó mang bình nước cho bần đạo, nó quét sạch chỗ ở của bần đạo. Nó làm đủ mọi việc lặt vặt cho bần đạo, vì tính khờ khạo của nó, bần đạo đã ăn thịt nó, lấy da phơi khô rồi trải ra, nằm lên trên; thật nó rất ích lợi cho bần đạo.

Ngài nói vậy để đánh tan luận điệu của đám tà đạo kia, gán mọi việc làm của một con khỉ vào tấm da khỉ và với mục đích này, ngài đã nói như trên.

Từ việc khoác tấm da khỉ, ngài bảo:

– Khi bần đạo đi đây đó thường ngồi trên lưng khỉ.

Từ việc đắp da lên vai và mang bình nước, ngài bảo:

– Nó mang bình nước.

Từ việc quét nhà bằng tấm da, ngài bảo:

– Nó quét nhà.

Khi ngài nằm, lưng ngài đụng vào tấm da, khi ngài bước lên tấm da, bàn chân ngài đụng vào nó, ngài bảo:

– Nó làm đủ mọi việc cho bần đạo.

Khi ngài đói lòng, ngài đã ăn thịt nó, nay ngài bảo:

– Nó khờ khạo như thế nên bần đạo đã ăn thịt nói rồi.

Nghe vậy, các quốc sư suy nghĩ: “Người này mang tội sát sinh. Hãy xem hành vi của ẩn sĩ này; gã bảo gã giết con khỉ, ăn thịt nó rồi đi khắp nơi mang theo da khỉ”, họ vỗ tay cười chê ngài.

Bậc Ðại Sĩ thấy họ làm như vậy tự bảo: “Bọn này không biết ta đến đây với tấm da này để đánh bại các tà thuyết của chúng. Ta không bảo cho chúng biết đâu”. Khi nói chuyện với kẻ không chấp nhận nghiệp nhân, ngài hỏi:

– Tại sao Tôn giả khiển trách ta?

– Vì ngài đã phạm tội phản bạn và sát sinh.

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ bảo:

– Nếu người ta tin vào Tôn giả và giáo lý của, rồi hành động theo đó, thì còn gây tội lỗi nào nữa?

Rồi để đánh bại tà thuyết của lão, ngài nói:

  1. Nếu thuyết ngài cho “thiện, ác hành”
    Ðều do duyên cớ tự nhiên sinh,
    Thì trong các việc làm vô ý,
    Tội lỗi làm sao thấy chỗ mình?
  2. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
    Và đây là Giáo pháp như chân,
    Thì hành vi của ta là đúng
    Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
  3. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
    Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
    Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
    Khiển trách việc ta với luận đàm
    .

Bậc Ðại Sĩ đã chỉ trích lão như vậy khiến lão phải im lặng. Vua cảm thấy buồn bực ngồi xuống; còn bậc Ðại Sĩ, sau khi đánh bại tà thuyết của lão ấy, lại nói với kẻ tin rằng mọi việc đều do một Ðấng tối cao tạo ra, ngài bảo:

– Này Tôn giả, tại sao ngài khiển trách ta khi ngài thực sự tin vào lý thuyết cho rằng mọi vật đều do một Ðấng tối cao tạo nên?

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Nếu có Chúa trời đủ vạn năng
    Cho người thiện, ác, lạc, ưu tràn,
    Ðấng kia quả thật mang đầy tội,
    Người theo ý chúa, chỉ chuyên làm.
  2. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
    Và đây là Giáo pháp như chân,
    Thì hành vi của ta là đúng
    Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
  3. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
    Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
    Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
    Khiển trách việc ta với luận đàm.

Như vậy, chẳng khác nào một người đánh ngã cây xoài bằng chính cái gậy chặt ra từ cây xoài ấy, ngài đã đánh bại người tin vào hành động của một Ðấng tối cao bằng chính lý thuyết của lão ta; rồi ngài lại nói với người tin vào các nghiệp quá khứ, ngài bảo:

– Này Tôn giả, tại sao ngài chê trách ta khi ngài tin vào lý thuyết cho rằng các nghiệp đã có sẵn trong quá khứ?

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Lạc, ưu, khởi tự nghiệp duyên xưa,
    Khỉ ấy nay đền tội đã qua,
    Mỗi nghiệp ta làm đều trả nợ,
    Vậy thì tội lỗi ở đâu ra?
  2. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
    Và đây là Giáo pháp như chân,
    Thì hành vi của ta là đúng
    Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
  3. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
    Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
    Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
    Khiển trách việc ta với luận đàm.

Sau khi bác bỏ tà thuyết của người này, ngài quay lại kẻ tin vào thuyết đoạn diệt và bảo:

– Này Tôn giả, ngài chủ trương là không có thưởng phạt, mọi chúng sinh đều phải đoạn diệt ở đời này và không ai tái sinh vào đời sau. Vậy tại sao ngài lại trách ta?

Và ngài ngâm kệ bác bỏ kẻ ấy:

25-26. Tứ đại họp thành mỗi loại sinh,
Mạng chung, mọi bộ phận tan tành,
Mất đi, người chết còn đâu nữa,
Người sống vẫn theo cuộc sống mình,
Ví thử thế gian đều hủy diệt,
Người ngu, bậc trí thảy đi nhanh,
Chẳng ai tội lỗi đầy ô uế
Giữa cõi trần gian đã hoại hình.

  1. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
    Và đây là Giáo pháp như chân,
    Thì hành vi của ta là đúng
    Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
  2. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
    Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
    Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
    Khiển trách việc ta với luận đàm.

Như thế ngài bác bỏ tà thuyết của kẻ này nữa và tiếp theo với kẻ chủ trương thuyết Sát-đế-lỵ, ngài bảo:

– Này Tôn giả, ngài chủ trương là con người phải phục vụ quyền lợi riêng của mình dù phải giết cha mẹ mình đi nữa. Nếu ngài đi truyền bá thuyết này, tại sao ngài còn trách ta?

Và ngài ngâm vần kệ này:

  1. Sát-đế-lỵ kia vẫn bảo rằng:
    – Lũ ngu lại tưởng chúng khôn ngoan-
    Mẹ cha cũng giết, tùy cơ hội,
    Anh chị, vợ con, nếu có cần.

Như vậy ngài đã chống lại quan điểm của kẻ kia và nêu ra quan điểm của ngài:

  1. Bóng mát ta ngồi xuống nghỉ chân,
    Cành cây ta chặt đứt lìa thân,
    Tội kia bội nghĩa vong ơn đấy,
    Bằng hữu dối gian, hãy ghét căm.
  2. Song nếu do cơ hội nảy sinh,
    Thì ta chặt gốc, rễ cây cành,
    Vì cần phục vụ nhu cầu đó,
    Nên giết khỉ kia cũng hợp tình.
  3. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
    Và đây là Giáo pháp như chân,
    Thì hành vi của ta là đúng
    Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
  4. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
    Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
    Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
    Khiển trách việc ta với luận đàm.

Như vậy ngài đã bác bỏ luận thuyết của người này nữa; lúc bấy giờ cả năm vị tà sư ngoại đạo kia đều câm lặng, bối rối. Ngài lại bảo vua:

– Tâu Ðại vương, những kẻ mà Ðại vương đang thân cận đó là những tên đại đạo tặc đang cướp bóc toàn quốc độ của Đại vương. Ôi! Đại vương thật ngu si quá, một người thân cận với những kẻ ác như thế kia sẽ phải gặp đại khổ não trong đời này lẫn đời sau.

Nói vậy xong, ngài dạy vua Chánh pháp :

  1. Người này quả quyết:”Chẳng nguyên nhân”.
    Kẻ khác:”Có trời, Đấng chí tôn”.
    Kẻ nói:”Nghiệp này do nghiệp trước”.
    Người thì:” Thế giới thảy tiêu vong”.
  2. Sát-đế-lỵ cùng ngoại đạo sư,
    Tưởng mình có trí, cả bầy ngu,
    Ác nhân gây tội, khuyên làm ác,
    Truyền bá ác hành, tạo khổ ưu.

Rồi ngài giảng rộng bài thuyết Pháp bằng các ví dụ chứng minh:

  1. Sói đội lốt cừu một thuở xưa,
    Đến gần chuồng nọ chẳng ai ngờ
    Giết đàn cừu hoảng hồn kinh vía,
    Xông tới đồng xanh chạy thẳng giò!
  2. Cũng vậy, Sa-môn hoặc đạo nhân
    Thường dùng chiếc áo gạt lương dân,
    Kẻ nằm trên đất, mình dơ bẩn,
    Chồm hổm người ngồi, kẻ nhịn ăn.

38-39. Bọn thì không uống, bọn thì ăn
Theo luật, tạo ra vẻ thánh thần,
Bọn chúng đều là phường bất thiện,
Người ngu lại tưởng chúng hiền nhân.
Bọn này không những gây bao tội,
Chúng lại khuyên người khác lỗi lầm.
Truyền bá ác hành luôn tạo quả
Khổ đau và hoạn nạn muôn phần.

  1. Bảo rằng: “Mọi vật chẳng nguồn căn”,
    Chúng phủ nhận luôn mọi nghiệp nhân,
    Xem nhẹ nghiệp mình cùng kẻ khác
    Như là huyễn hoặc, hỡi vương quân.
  2. Bọn chúng đều là lũ bất lương,
    Người ngu lại tưởng chúng hiền nhân,
    Chúng gây tội lỗi, còn khuyên ác,
    Truyền bá ác hành, tạo khổ thân.
  3. Nếu chẳng nghiệp nhân ở chốn nào,
    Cũng không có thiện, ác hành, sao
    Vua thường tuyển thợ đầy tài khéo
    Ðể hưởng lợi nhờ kỷ xảo cao?
  4. Vậy cũng chính vì có nghiệp nhân
    Thiện hành, ác nghiệp có thông thường,
    Nên vua chúa tuyển người tài khéo
    Ðể hưởng lợi nhiều bởi kỹ năng.
  5. Ví thử trăm năm chẳng có mưa,
    Tuyết sương chẳng rớt đúng theo mùa
    Ở trong thế giới suy tàn cả
    Dân chúng diệt vong chẳng kẻ chừa.
  6. Song có mưa rơi, với tuyết sương,
    Bốn mùa thay đổi luật thông thường
    Làm cho thóc lúa dần dần chín,
    Ðất nước trải bao thế kỷ trường.
  7. Bò già đi lạc giữa dòng sông,
    Cả đám bò con lạc hướng luôn,
    Vậy trưởng đoàn theo đường hiểm trở,
    Ðưa bầy thuộc hạ đến đường cùng,
    Và toàn quốc độ đều ân hận,
    Thời đại buông lung phóng dật tràn.
  8. Kẻ hái trái còn quá nhỏ nhoi
    Trước khi trái ấy chín cho muồi,
    Chính là hủy hoại bao mầm hạt,
    Chẳng thể biết đâu quả ngọt bùi.
  9. Cũng vậy người nào tri quốc dân
    Bằng nền cai trị chẳng công bằng,
    Chẳng hề thưởng thức bao mùi ngọt
    Phát xuất từ đường lối chánh chân.
  10. Nhưng kẻ nào hay để trái tươi
    Trên cây, khi trái chín cho muồi,
    Là người giữ được bao mầm hạt,
    Biết hưởng trái ngon ngọt tuyệt vời.
  11. Cũng vậy, người nào trị quốc dân
    Bằng đường chân chánh giữ giang sơn,
    Trái cây công lý bao ngon ngọt,
    Có thể hưởng cho thật vẹn tròn.
  12. Quốc vương cai quản cả giang san
    Dùng bạo quyền trị nước bất công,
    Phải chịu mất đi nhiều thảo mộc
    Dù cho đất kết quả bao phần.
  13. Nếu vua làm hại đám thần dân,
    Có đủ tài sinh lợi bán buôn,
    Khi lợi tức kia đà giảm sút,
    Kho tàng vua cũng cạn vơi dần.
  14. Nếu vua quấy nhiễu đám hùng anh
    Có tài điều khiển việc đao binh,
    Ðội quân sẽ giã từ vua ấy
    Và tước của vua mọi bạo hành.
  15. Nếu làm sai, với Thánh hiền nhân
    Vua ấy về sau hưởng xứng phần,
    Dù quý tộc mà gây tội lỗi,
    Cũng đều phải mất cảnh thiên đàng.
  16. Nếu hôn quân giết một vương phi
    Dầu chẳng hề gây tội lỗi gì,
    Vua liền bị khổ đau xâu xé
    Bởi các con cùng địa ngục kia.
  17. Hãy xử công bằng với quốc dân,
    Ân cần tử tế với toàn quân,
    Với thê nhi hãy đầy thân ái,
    Ðể các hiền nhân an trú chân.
  18. Vị vua như vậy, hỡi Vương quân,
    Giải thoát được bao nỗi hận sân,
    Chẳng khác In-dra, Thiên chủ ấy,
    Tạo nên khiếp phục giữa quần thần.

Bậc Ðại Sĩ, sau khi giảng Chánh pháp cho vua xong, liền triệu bốn vương tử lại và dạy bảo họ, giải thích cho họ hiểu hành động của vua, rồi ngài nói:

– Hãy xin vua cha tha tội.

Sau khi thuyết phục vua tha thứ cho họ, ngài bảo:

– Tâu Ðại vương, từ nay xin Ðại vương đừng nghe lời các kẻ vu cáo mà không cân nhắc thực hư, cũng đừng phạm các tội bạo hành tương tự như thế nữa; còn các vương tử, xin đừng phản bội vua cha.

Như vậy, ngài đã thuyết giáo cho tất cả hoàng tộc. Lúc ấy, vua bảo:

– Thưa Tôn giả, chính vì những kẻ này mà trẫm phạm tội với ngài cùng hoàng hậu, chính vì nghe lời chúng mà trẫm gây tội ác, trẫm muốn xử tử chúng luôn cả năm tên.

– Xin Ðại vương đừng làm vậy.

– Thế thì trẫm sẽ ra lệnh chặt tay chân chúng đi.

– Xin cũng đừng làm việc đó.

Vua ưng thuận bảo:

– Thôi cũng được.

Rồi vua tước bỏ mọi tài sản của họ và hạ nhục họ bằng nhiều cách như: buộc tóc họ thành năm chòm, xiềng họ lại và rảy phân bò lên người họ rồi đuổi ra khỏi nước.

Còn Bồ-tát sau khi ở lại vài ngày nữa để thuyết giáo vua, khuyên vua phải tỉnh giác đề phòng xong lại ra đi lên vùng Tuyết Sơn tu tập thần thông phát xuất từ Thiền định, và suốt đời ngài thực hành Tứ Vô lượng tâm nên được tái sinh vào Phạm thiên giới.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa nữa, Như Lai đã có đại trí đánh bại mọi kẻ tranh luận.

Rồi ngài nhân diện Tiền thân:

– Thời bấy giờ, năm vị tà sư đó là: Puràna Kassapa, Makkhali Gosala, Pakudha Kaccàna, Ajita Kesa-kambali, Nigantha Nàthaputta, con chó màu hung là Ànanda, và khất sĩ Ðại Bồ-đề chính là Ta.

-ooOoo-

Chương XIX

Phẩm Sáu Mươi Bài Kệ

  1. Chuyện Hiền giả Sonaka (Tiền thân Sonaka)

Một ngàn đồng trẫm tặng cho người …,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể lại trong lúc Ngài ngụ tại Kỳ Viên, về Ðại Sự Xuất thế viên mãn của Ngài.

Vào dịp này, bậc Chánh Giác ngồi ở Chánh pháp đường giữa các Tỷ-kheo trong lúc Tăng chúng đang tán thán công hạnh viên mãn của việc Ngài xuất thế, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, Như Lai đã thật sự thoát tục và làm Ðại sự Xuất thế.

Nói xong Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa vua Magadha (Ma-kiệt-đà) cai trị tại thành Rajàgaha (Vương Xá). Bồ-tát sinh làm con Chánh hậu, vào ngày đặt tên, hoàng gia gọi ngài là vương tử Arindama. Chính ngày ngài ra đời, một cậu trai khác cũng ra đời tại nhà vị quốc sư, được cha mẹ đặt tên là Sonaka.

Hai cậu bé lớn lên khi đến tuổi khôn lớn đều cực kỳ xinh đẹp lạ thường, hình dáng thật khó phân biệt nhau; họ cùng đến Takkasilà, sau khi luyện tập xong đủ các học thuật, họ ra đi với ý định học các nghề thực dụng và xem các tập tục địa phương, dần dần đi du hành đến tận Ba-la-nại.

Tại đó họ cư ngụ trong ngự viên và hôm sau đi vào kinh thành; chính ngày hôm ấy, một số người dự định cúng dường thực phẩm cho các vị Bà-la-môn, đem ra món cháo và sắp đặt ghế sẵn, khi trông thấy hai vị nam tử này đến gần, liền mời họ vào nhà ngồi trên các ghế đã soạn ra. Trên ghế dành cho Bồ-tát có trải tấm vải trắng, còn ghế dành cho Sonaka trải tấm thảm len đỏ.

Khi thấy điềm ấy, Sonaka hiểu ngay là ngày hôm ấy Arindama, bạn chàng sẽ lên ngôi vua tại Ba-la-nại và phong cho chàng chức đại tướng. Sau khi ăn xong, hai vị cùng trở về ngự viên. Lúc bấy giờ đã đến ngày thứ bảy từ khi vua Ba-la-nại băng hà, hoàng gia không có người kế vị. Vì thế các quân sư cùng hoàng tộc sau khi tắm rửa đầu mình xong, tụ tập nhau lại và bảo:

– Các người hãy đến nhà người xứng đáng lên ngôi vua.

Họ bắt đầu đánh xe hoa ra đi.

Khi rời thành, xe đi dần đến ngự viên và dừng tại cổng ngự viên, sẵn sàng đợi một người bước lên xe. Bồ-tát đang nằm nghỉ với y ngoài đắp quanh đầu, trên phiến đá dành cho vua, trong khi nam tử Sonaka ngồi bên cạnh. Khi nghe tiếng nhạc cụ, Sonaka nghĩ thầm: “Ðây là xe hoa đến đón Arindama, hôm nay ngài sẽ lên ngôi vua và phong ta chức đại tướng. Song thật ra ta không muốn trị dân; khi ngài đi rồi, ta sẽ rời thế tục và làm ẩn sĩ khổ hạnh.

Thế rồi ngài đứng ẩn mình sang một bên. Vị quốc sư đi vào ngự viên thấy bậc Ðại Sĩ nằm đó, liền ra lệnh thổi kèn lên. Bậc Ðại Sĩ thức dậy quay mình nằm thêm một lát rồi ngồi xếp chân trên phiến đá. Lúc ấy vị quốc sư giơ tay ra cầu khẩn ngài:

– Tâu Ðại vương, quốc độ này thuộc quyền ngài.

– Sao thế, không có kẻ thừa kế ngai vàng ư?

– Quả vậy, tâu Ðại vương.

– Thế thì được. Ngài bảo.

Họ liền làm lễ quán đảnh (rảy nước thánh trên đầu) cho ngài lên ngôi vua ngay tại đó. Rồi để ngài lên xe hoa xong, họ rước ngài vào thành cùng đám tùy tùng rầm rộ. Sau lễ rước ngài thật trọng thể quanh kinh thành, ngài đi lên hoàng cung, trong cảnh đại huy hoàng vinh quang ấy, ngài quên bẳn người bạn trẻ Sonaka.

Nhưng khi vua đi rồi, Sonaka trở lại ngồi trên phiến đá, và chính một ngọn lá úa của cây Sà la lìa cành rơi trước mặt ngài, khiến ngài trông thấy, liền kêu lên:

– Thân ta rồi cũng bị hư hoại như chiếc lá này!

Và khi chứng đạt được Thắng trí nhờ Ngài quán sát tính vô thường của các pháp, Ngài đắc quả vị Ðộc Giác Phật và ngay lúc ấy những đặc tính của con người thế tục trong ngài biến mất đi, và những dấu hiệu của một bậc chân tu hiện rõ ra, Ngài bảo:

– Ta không còn tái sinh vào đời sau nữa.

Trong khi thốt lên ý nguyện này, Ngài khởi hành tiến về hang Nandamùla.

Còn bậc Ðại Sĩ, sau bốn mươi năm trôi qua, chợt nhớ đến Sonaka và nói:

– Sonaka nay ở đâu trên đời này?

Dần dần mỗi khi nhớ lại thân bằng, vua không thấy ai báo cho ngài biết: “Hạ thần có thấy vị ấy, hạ thần có nghe nói đến vị ấy”.

Khi lên ngồi xếp bằng trên ngai vàng đặt trên chiếc bệ nguy nga có đám nhạc công và vũ nữ ca kịch vây quanh, tận hưởng cảnh vinh hoa phú quí ấy, vua bảo:

Bất kỳ ai nghe được có người nói Sonaka đang ở nơi này nơi nọ và báo tin cho trẫm, trẫm hứa sẽ ban tặng một trăm đồng tiền; còn ai thấy chàng tận mắt và báo cho trẫm, trẫm hứa tặng một ngàn đồng tiền.

Rồi để làm cho lời cảm khái này được linh động thêm thành một bài ca, ngài ngâm kệ đầu:

Một ngàn đồng trẫm tặng cho người
Trông thấy thân bằng, bạn trẫm chơi,
Tặng một trăm đồng cho kẻ khác
Biết So-na ấy chút tăm hơi.

Lúc ấy một vũ nữ bắt được điệu hát từ miệng vua, liền hát lên khúc ca ấy rồi dần dần một người khác, rồi một người nữa hát lên cho đến khi khắp cả hậu cung cho rằng đó là điệu hát được vua ưa chuộng, nên đồng hát lên.

Dần dần dân chúng khắp thị thành đến thôn quê đều hát bài ấy và chính vua cũng thường hát bài ấy. Sau năm mươi năm, vua đã sinh hạ nhiều vương tử và công chúa, vị thái tử tên là Dighàvu.

Vào lúc ấy vị Độc Giác Phật nghĩ thầm: “Vua Arindama rất nóng lòng gặp lại ta. Vậy ta muốnđi giải thích cho ngài hiểu nỗi khổ đau của tham dục và công đức của việc xuất gia, ta sẽ chỉ cho ngài con đường tu hành ẩn sĩ”.

Rồi nhờ thần lực, Ngài đến đó ngay và an tọa trong ngự viên. Lúc bấy giờ một đứa bé lên bảy để tóc năm chòm, được mẹ sai đến đây vừa lượm củi khô vừa hát đi hát lại bài ấy. Ngài Sonaka gọi cậu bé lại và hỏi:

– Này con, sao con cứ hát mãi bài ấy mà chẳng hề hát bài nào khác, con không biết bài nào khác hay sao?

– Thưa Tôn giả, con biết nhiều bài khác, nhưng bài này đức vua yêu thích lắm, vì thế con cứ hát hoài.

– Thế có ai hát điệp khúc của bài này không?

– Thưa Tôn giả, không.

– Vậy ta muốn dạy con một điệp khúc rồi con đi về hát cho đức vua nghe.

– Thưa vâng.

Thế là Ngài dạy câu bé điệp khúc “Một ngàn đồng” và cả đoạn sau, đến khi cậu bé hát thật thông thạo, Ngài để cậu bé về và bảo:

– Này con, con hãy đi về hát điệp khúc này trước đức vua, ngài sẽ ban cho con nhiều quyền thế. Con cần gì phải lượm củi khô nữa? Thôi hãy đi về hết sức nhanh lên.

– Thế thì tốt lắm.

Cậu bé đáp sau khi đã thông thạo khúc hát, liền từ tạ Tôn giả Sonaka:

– Thưa Tôn giả, xin Ngài ngồi lại đây cho đến khi con thỉnh đức vua đến.

Nói xong, cậu vội vàng chạy thật nhanh về gặp mẹ và bảo:

– Mẹ hãy tắm rửa cho con và mặc áo quần vào thật đẹp, hôm nay mẹ con ta sẽ thoát cảnh nghèo hèn.

Sau khi cậu đã tắm rửa, ăn mặc lịch sự xong, cậu đến cửa cung bảo:

– Này ông lão canh cổng, xin hãy đi trình Ðại vương biết: “Có một cậu bé đến đây, đang đứng ở cửa, chuẩn bị ca một bài dâng lên Thánh thượng”.

Người giữ cổng vội phi báo với vua. Vua triệu cậu bé vào yết kiến và bảo:

– Này hiền hữu muốn hát đối cùng trẫm chăng?

– Tâu Ðại vương, đúng thế.

– Vậy thì hát đi.

– Tâu Ðại vương, con không muốn hát ở đây, mà con muốn xin cho tiếng trống đánh lên khắp kinh thành báo hiệu dân chúng tụ tập tại đây, con mong muốn hát trước mặt dân chúng.

Vua ra lệnh làm như vậy, rồi ngự giữa bảo tọa dưới một ngôi đình thật lộng lẫy và dành một chỗ ngồi xứng đáng cho cậu bé, ngài bảo:

– Bây giờ hãy hát đi.

Cậu bé đáp:

– Tâu Ðại vương, xin Ðại vương hát trước rồi con sẽ xin hát điệp khúc của bài đó.

Vua liền hát trước tiên vần kệ này:

  1. Một ngàn đồng trẫm tặng cho người
    Trông thấy thân bằng, bạn trẫm chơi,
    Tặng một trăm đồng cho kẻ khác
    Biết So-na ấy chút tăm hơi.

*

Lúc ấy bậc Ðạo Sư, muốn làm sáng tỏ việc cậu bé còn để tóc năm chòm này ca điệp khúc do vua khởi xướng; và với Trí tuệ Tối thắng Ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Rồi cậu bé kia bỗng nói rằng:
    – Trên đầu còn để tóc năm chòm –
    “Ngàn đồng xin tặng cho con thấy,
    Và đã nghe xin tặng một trăm,
    Con sẽ đưa tin Tôn giả ấy
    Bạn thân ngày trước của Minh quân
    .

*

Các vần kệ sau đây, được hiểu theo tương quan diễn tiến của câu chuyện:

Ðức vua:

  1. Thành thị, thôn quê, quốc độ gì
    Mà con lê mãi bước chân đi,
    Thấy đâu hiền hữu So-na ấy,
    Con hãy vui lòng nói trẫm nghe?

Tiểu nhi:

  1. Trong quốc độ này, chính ngự viên,
    Nhiều Sà la lớn mọc đua chen
    Xanh tươi cành lá, thân cao vút,
    Phong cảnh đẹp sao trước mắt nhìn.
  2. Cành lá giao nhau, kết thật dày,
    Vươn lên trời tựa các vầng mây,
    So-na nằm dưới gốc, thiền định,
    Ly dục, tâm an, thanh tịnh đầy.

Bậc Ðạo Sư:

6 – 7 . Vua liền khởi sự quyết lên đàng,
Rẽ lối tiến ngay, thực vội vàng
Ðến chốn So-na-ka trú ngụ,
Quẩn quanh vườn ngự rộng thênh thang,
Thân bằng, ngài thấy đà ly dục,
Thánh hạnh an nhiên hỷ lạc tràn.

Vua không đảnh lễ ngài, mà chỉ ngồi xuống một bên, và bởi lẽ bản thân vua đã đắm mình vào ác dục, nên cứ tưởng vị cố bằng hữu này là một kẻ khốn khổ bần hàn lắm, liền ngâm kệ bảo bạn:

  1. Trọc đầu, mất cả mẹ cùng cha,
    Trẫm thấy người kia khoác áo dà,
    Kẻ khó tu hành đang nhập định,
    Trải mình đây, dưới gốc Sà-la.
  2. Nghe thế, So-na-ka bảo rằng:
    “Chẳng là khốn khổ, tấu Vương quân,
    Kẻ nào biết rõ trong hành động
    Luôn hướng về điều phải, lẽ chân”.
  3. Khốn hèn là kẻ bỏ điều chân,
    Và lại thực hành chuyện bất nhân,
    Với kẻ ác kia, ngài phải biết,
    Khổ đau mạt vận để dành phần.

Ngài đã khiển trách Bồ-tát như vậy, còn vua giả vờ không biết mình bị khiển trách, cứ làm vẻ thân hữu trò chuyện cùng Ngài, nêu rõ danh tánh, gia tộc qua vần kệ:

  1. Vua Kà-si nọ chính là ta,
    Ta mệnh danh là A-rin-da,
    Từ lúc đến đây, thưa Thánh giả,
    Có điều chi đáng để phiền hà?

Vị Ðộc Giác Phật liền đáp:

– Không chỉ khi an trú nơi đây, mà bất cứ ở nơi nào khác, ta cũng không gặp điều gì phiền phức cả.

Rồi Ngài bắt đầu ngâm kệ nêu lên các niềm phước lạc của bậc tu hành:

  1. Một kẻ xuất gia chẳng bạc tiền,
    Ðược bao phước lạc, kể đầu tiên,
    Trong bình hay vựa, không tồn trừ,
    Chỉ muốn vật thừa, sống thản nhiên.

13-14. Phước lạc tiếp theo, đáng tán đồng:
Vị này thọ thực chẳng sai lầm,
Thứ ba, hạnh phúc hằng ngày được
Thọ thực an vui, chẳng mếch lòng.

15-16. Phước lạc thứ tư, chốn đến đi,
Thong dong chẳng biết luyến lưu gì,
Thứ năm ví thử thành kia cháy,
Người chẳng thiệt thòi, chẳng mất chi.

  1. Thứ sáu là điều hạnh phúc đây,
    Người tu tính để phận riêng tây:
    Ví dù quốc độ điêu tàn cả,
    Người ấy chẳng hề thiệt mảy may.
  2. Thứ bảy là điều hạnh phúc kia:
    Vì chưng nghèo khó chẳng còn gì,
    Dù bầy cướp chận đường vây hãm,
    Cừu địch dù bao kẻ hiểm nguy,
    Bình bát, hoàng y, người Phạm hạnh
    Bình an vẫn cứ bước chân đi.
  3. Còn đây là hạnh phúc sau cùng:
    Vị ấy lang thang khắp mọi vùng,
    Không cửa không nhà, và khốn khó,
    Lên đường chẳng luyến tiếc băn khoăn.

Như thế vị Ðộc Giác Phật Sonaka đã nêu lên tám phước lạc của một tu sĩ, rồi hơn thế nữa, Ngài có thể kể cả trăm cả ngàn vô lượng phước lạc, nhưng vì vua đang tham đắm dục lạc nên vội ngắt ngang lời Ngài, bảo:

– Trẫm không màng các phước lạc của đời tu hành kia.

Và để làm sáng tỏ việc mình mê đắm dục lạc ra sao, vua ngâm kệ:

20-21. Phước lạc ngài ca, trẫm chẳng màng,
Trẫm truy tầm lạc thú trần gian
Nhân, thiên lạc, trẫm đều yêu thích
Ðạt cả hai ngay, hãy chỉ đàng.

Vị Ðộc Giác Phật liền đáp lời:

  1. Ai cử tham lam muốn hưởng tràn
    Biết bao dục lạc cõi trần gian,
    Tạo nên ác nghiệp trong đời sống,
    Sau phải tái sinh cõi khổ buồn.
  2. Bỏ ái dục kia lại phía sau,
    Suốt đời vô úy tiến lên mau,
    Tham thiền đạt đến tâm thanh tịnh
    Chẳng phải luân hồi cõi khổ đau.
  3. Ta nói Ðại vương ví dụ này,
    A-rin-da hãy lắng nghe đây:
    Những người hiền trí nhờ lời dụ,
    Ý nghĩa cao siêu sẽ hiểu ngay.
  4. Trên sông Hằng sóng thủy triều dâng
    Kìa chú quạ ngu thấy cuốn phăng
    Một xác vật gì to quái lạ,
    Tự nhủ thầm khi nó nổi gần:
  5. “Vật kia tìm được lớn lao thay,
    Ôi thật là kho thực phẩm đầy
    Ðể tận hưởng bao niềm khoái
    Ðây ta sẽ ở suốt đêm ngày”.
  6. Như thế thịt voi, quạ cứ ăn,
    Uống thêm nước mát tự sông Hằng
    Trong khi trôi nổi, không hề thấy
    Rừng miếu thoáng qua giấc mộng vàng
  7. Cứ vậy buông lung chú quạ trôi
    Ðắm mình trên xác chết tanh hôi,
    Sông Hằng cuốn chú lao đầu thẳng
    Vào chốn hiểm nguy của biển khơi.
  8. Song lúc thức ăn đã cạn đi,
    Ôi, chim tội nghiệp cố bay về,
    Ðông Tây, Nam, Bắc nào đâu hướng,
    Chẳng thấy đất đai, biển bốn bề!
  9. Xa giũa trùng dương, đã mệt phờ,
    Trước khi chú quạ đến bên bờ,
    Giữa muôn vàn hiểm nguy trên biển,
    Ngã xuống, không bay nữa bấy giờ.
  10. Nơi chú chim kia khốn khổ rơi,
    Cả đàn sấu, thủy quái đang bơi
    Chung quanh, vội đến và xâu xé,
    Tan xác run run của quạ mồi.
  11. Cũng vậy, Ðại vương với những người
    Tham lam tìm lạc thú kia hoài,
    Tưởng mình có trí như chim quạ,
    Cho đến khi lìa bỏ cuộc đời.
  12. Ví dụ ta bày tỏ thật chân,
    Ðại vương hãy thận trọng quan tâm,
    Danh thơm có được hay danh xấu,
    Tùy thuộc hành vi của Ðại quân.

*

Như vậy nhờ ví dụ kia, Ngài đã khuyến giáo vua và để cho vua ghi nhớ mãi điều này, Ngài ngâm kệ:

  1. Vì từ tâm nói một hai lần,
    Nhắc nhở đôi lời để hộ thân,
    Song chớ nhắc đi nhắc lại mãi,
    Giống gia nô trước chủ nhân ông!
  2. Với trí vô biên, bậc Ðại nhân,
    So-na Giác giả dạy vương quân
    Vừa xong, Ngài thẳng đàng bay biến
    Trong khoảng không gian rộng mịt mùng.

Ðây là vần kệ phát xuất tứ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật.

*

Bồ-tát đứng ngắm Ngài bay qua không gian trong lúc còn nhìn thấy hình bóng Ngài, song khi Ngài đã khuất dạng, Bồ-tát vô cùng xúc động nghĩ thầm: “Người Bà-la-môn này thuộc dòng giống thấp kém thế, mà sau khi phủi bụi bặm trên bàn chân lên đầu ta, một người xuất thân từ quý tộc được kế tục từ đời này qua đời khác, đã biến mất trong bầu trời; vậy hôm nay ta phải giã tứ thế gian và thành người tu khổ hạnh ngay”. Trong niềm ước mong làm ẩn sĩ, và rời quốcđộ, ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Các quản xa nay được lệnh ban
    Ði tìm đâu được đấng minh hoàng?
    Trẫm không muốn ngự trên ngai nữa,
    Trẫm giã từ ngay chiếc miện vàng.
  2. Ta chết ngày mai, ai có hay
    Trẫm mong thọ giới tự hôm nay,
    Sợ rằng như quạ kia ngu dại,
    Ác dục cuốn lôi, trẫm đọa đày.

Nghe vua muốn thoái vị như vậy, các quốc sư tâu:

  1. Ðại vương có Thái tử Dì-ghà
    Vương tử đẹp tươi quả thật là,
    Quán đảnh suy tôn lên bảo tọa
    Sẽ làm Ðại đế của triều ta.

Tiếp theo đây, khởi đầu bằng vần kệ do vua ngâm, các câu sau tuần tự được hiểu theo diễn tiến câu chuyện:

  1. Mau triệu Dì-ghà-vu đến đây,
    Hoàng nhi này thật tốt tươi thay,
    Sắc phong quán đảnh lên vương vị,
    Ấy chính là vua quốc độ này.
  2. Khi quần thần dẫn đến Digha
    Chúa tể tương lai của nước nhà,
    Vương phụ bảo cùng hoàng thái tử,
    Con yêu độc nhất quả chàng là.

Phụ vương:

  1. Thôn làng sáu vạn ấy ngày xưa
    Trẫm đã phán rằng:”Chính của ta”,
    Hãy nhận chúng đi, này Thái tử,
    Từ nay trẫm giã biệt sơn hà.
  2. Ngày mai ta chết, có ai hay?
    Trẫm muốn hôm nay thọ giới ngay,
    Vì sợ ngu si như chú quạ
    Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.
  3. Kìa xem! Vương tượng sáu mươi ngàn
    Ðược điểm tô bao vẻ rỡ ràng,
    Với đủ cân đai vàng chói lọi
    Trang hoàng bảo vật sáng huy hoàng.
  4. Quản tượng ngồi lên cỡi mỗi con,
    Tay cầm giáo có móc câu tròn,
    Nhận đi, Thái tử, cha ban tặng
    Con, kẻ lên ngôi trị nước non.
  5. Ngày mai ta chết, có ai hay?
    Trẫm muốn hôm nay thọ giới ngay,
    Vì sợ ngu si như chú quạ
    Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.
  6. Kìa xem, vương mã sáu mươi ngàn!
    Tô điểm yên cương sáng rỡ ràng,
    Tuấn mã Sindh đều dòng giống quý,
    Bộ binh hùng hậu cả quân đoàn.
  7. Chúng đều mang quản mã oai hùng
    Ðầy đủ trong tay với kiếm, cung,
    Thái tử nhận đi, cha tặng cả
    Cho con, người ngự trị toàn dân.
  8. Ngày mai ta chết, có ai hay?
    Trẫm muốn hôm nay thọ giới
    Vì sợ ngu si như chú quạ
    Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.
  9. Vương xa sáu vạn đủ yên cương,
    Cờ xí tung bay ngập bốn phương
    Da cọp, da beo bao phủ khắp,
    Kìa xem quang cảnh thật huy hoàng!
  10. Quản xa điều ngự, giáp bào mang,
    Cung tiễn cầm tay, thảy vũ trang,
    Thái tử nhận đi, cha tặng cả
    Vì con, người ngự trí giang san.
  11. Ta chết ngày mai, ai có hay?
    Trẫm mong thọ giới tự hôm nay,
    Sợ rằng như quạ kia ngu dại,
    Ác dục đắm mê, trẫm đọa đày.
  12. Sáu vạn bò tơ sắc đỏ hồng,
    Cùng đàn bò đực ở bên lưng,
    Nhận đi, Thái tử, cha ban tặng
    Vì chính con cai trị quốc dân.
  13. Ngày mai ta chết, có ai hay?
    Trẫm muốn hôm nay thọ giới ngay,
    Vì sợ ngu si như chú quạ
    Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.
  14. Sáu vạn cung phi đẹp nõn nà
    Ðứng kia xiêm áo thật xa hoa,
    Ðầy tay vòng ngọc, hoa tai điểm,
    Cha tặng con, người trị quốc gia.
  15. Ta chết ngày mai, ai có hay?
    Trẫm mong thọ giới tự hôm nay,
    Sợ rằng như quạ kia ngu dại,
    Ác dục đắm mê, trẫm đọa đày.

Thái tử:

  1. Chúng bảo con: “Vương mẫu mất rồi”
    Ðáng thương ai tử nọ! Than ôi!
    Làm sao con sống không vương phụ,
    Con đã lìa sinh thú ở đời.
  2. Như ở sau lưng, sát với cha,
    Voi con thường thấy kế voi già,
    Xuyên đèo, xuyên núi hay rừng rậm,
    Bằng phẳng, gồ ghề, cũng vượt qua.
  3. Bình bát trong tay, con bước sau,
    Theo cha dẫn lối bất kỳ đâu,
    Cha không thấy gánh con làm nặng,
    Hay phải nuôi con khó nhọc nào
    .

Phụ vương:

  1. Như thương nhân, chủ các con tàu,
    Kiếm lợi dù cho với giá nào,
    Thường bị cuốn trôi vào vực xoáy,
    Cả thuyền, thủy thủ, thảy tiêu hao.
  2. Sợ rằng ta gặp bước gian nan,
    Con trẻ gây phiền lụy cản đàng,
    Làm lễ phong vương trong bảo điện,
    Cho con hưởng lạc thú trần gian.
  3. Cả bầy cung nữ vuốt ve chàng
    Ngời chói đôi tay với ngọc vàng,
    Như Ðế Thích cùng bầy thị nữ
    Từ đây chàng sẽ được hân hoan.
  4. Họ rước Di-ghà, Thái tử này
    Vào cung điện, chốn lạc hoan đầy,
    Vừa nhìn vương tử, đoàn thanh nữ
    Kiều diễm, liền thưa gửi giải bày:
  5. -“Chàng là ai? Nhạc sĩ, Thiên thần,
    Hay Ðế Thích danh tiếng lẫy lừng,
    Bố thí của tiền khắp thị trấn,
    Xin cho tiện thiếp biết danh xưng?.
  6. “Ta không Nhạc sĩ, chẳng Thiên thần,
    Chẳng Ðế Thích danh tiếng lẫy lừng,
    Vua xứ Kà-si, ta kế vị,
    Di-ghà Thái tử, ấy danh xưng,
    Hãy yêu ta nhé và an lạc,
    Ta sắc vương phi đủ mọi nàng!
  7. Rồi với Di-ghà, vị chúa công,
    Các nàng kiều nữ lại thưa rằng:
    “Thượng hoàng tìm chỗ nào an trú,
    Và kể tử nay sẽ ẩn thân?”.

Thái tử:

  1. – “Phụ vương đã tránh chốn bùn nhơ,
    Ngài đã bình an ở đất khô,
    Thoát khỏi chông gai rừng rậm rạp,
    Cuối cùng ngài đã thấy đường to.
  2. Còn ta mới cất bước lên đường
    Dẫn đến nơi đầy rẫy khổ buồn,
    Qua đám chông gai, rừng rậm rạp
    Tiến lên tìm số phận kinh hoàng”.

Cung phi:

68.- “Cung nghênh Thánh thượng đến hoàng cung,
Như hổ tìm con ở động hang,
Thánh thượng từ đây lên ngự trị,
Chánh chân thừa kế chiếc ngai vàng”.

*

Nói xong cả đoàn cung nữ cùng đánh nhạc cụ vang lừng và biểu diễn đủ loại ca múa, cảnh vinh quang huy hoàng tuyệt diệu đến độ Thái tử say mê quên hết mọi sự về phụ vương.

Nhưng sau đó chàng cai trị đúng Chánh pháp, rồi đi theo nghiệp của mình. Còn Bồ-tát tu tập Thiền định làm phát khởi Thắng trí và khi mạng chung, ngài sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngay cả ngày xưa nữa, Như Lai cũng đã làm Ðại sự Xuất thế.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

Vào thời ấy, vị Ðộc Giác Phật chứng đắc Niết Bàn, vương tử là Ràhula (La-hầu-la) và vua Arindama chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện hiền giả Samkicca (Tiền thân Samkicca)

Vừa thấy Brahmà, bậc Ðế vương…,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể lại trong khi trú vườn xoài của Jivaka, về việc mưu sát phụ vương vua Ajàtasattu (A-xà-thế). Theo sự xúi giục của Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa), vua ấy đã nhờ vị này sát hại phụ vương.

Nhưng khi bệnh tật tràn lan trong đám giáo hội ly khai tiếp theo sau sự chia rẽ trong Tăng chúng, Ðề-bà-đạt-đa quyết đính ra đi và xin đức Như Lai thứ tội trong lúc đi đường đến Sàvatthi (Xá-vệ), trên một chiếc cáng, vị này bị nuốt vào lòng đất ngay tại cổng Kỳ Viên. Khi được tin trên, vua A-xà-thế suy nghĩ: “Vì Ðề bà-đạt-đa thù nghịch với đức Thế Tôn nên phải bị mất xác vào lòng đất và đọa vào địa ngục Avìci (A-tỳ). Vì lão ấy mà ta đã can tội giết hại phụ vương thánh thiện, vị vua của công lý, chắc chắn ta cũng sẽ bị nuốt vào lòng đất”.

Vì thế vua kinh hoàng đến độ không còn hứng thú an hưởng cảnh vương giả trong triều đình và trong khi tưởng rằng chỉ nằm nghỉ ngơi chốc lát, vua đã ngủ thiếp dần, rồi thấy mình dường như rơi vào một cảnh giới toàn bằng sắt dày chín dặm, bị đâm bằng cọc sắt nhọn và bầy chó xâu xé, chúng cứ nhe răng dọa nạt ông, làm ông kêu lớn và giựt mình tỉnh dậy.

Vì vậy vào ngày lễ hội Rằm trăng tròn tháng Mười, khi được đám đông quần thần vây quanh, ông nghĩ đến cảnh vinh quang của mình, lại thấy cảnh vinh quang của phụ vương còn vượt xa hơn mình nữa, mà chỉ vì Ðề-bà-đạt-đa, ông đã giết một vị vua chân chính như vậy, trong khi nghĩ đến điều này, một cơn sốt nổi lên khắp thân thể, mồ hôi đổ ra như tắm.

Rồi ông xem xét ai có thể xua tan nỗi sợ hãi này khỏi lòng mình, ông kết luận là ngoại trừ đấng Thập Lực (danh hiệu của đức Phật), không còn ai nữa, ông suy nghĩ: “Ta đã có tội lớnđối với đức Như Lai, vậy ai có thể đem ta đến yết kiến đức Thế Tôn? 

Và xem ra không còn ai ngoài Jìvaka, ông tìm cách mời vị này cùng đi đến yết kiến đức Phật.

Vua thốt ra một tiếng kêu vui mừng:

– Này Hiền khanh, đêm nay trăng sáng đẹp quá – Vua bảo – hôm nay ta muốn đi cúng dường đảnh lễ một vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, có nên chăng?

Khi nghe các công đức của Puràna và các vị Đạo Sư khác được các đệ tử của họ tán thán, vua không quan tâm mà chỉ hỏi lại Jìvaka, và khi nghe vị này kể các công đức của Như Lai cùng kêu lên:

– Xin Thánh thượng, hãy đi đảnh lễ đấng Thế Tôn.

Vua ra lệnh cho các tượng xa chuẩn bi đi đến vườn xoài của Jìvaka.

Khi đến gần đức Như Lai, vua đảnh lễ và được đức Phật thân ái đáp lễ lại, vua hỏi đức Phật về công quả của việc tu hành trong đời này, và sau khi nghe được bài thuyết Pháp êm dịu về vấn đề này từ đức Như Lai, cuối cùng vua xin làm đệ tử đức Phật, và ra về sau khi đã được hòa hợp với đức Phật.

Từ đó thực hành bố thí và trì giới, vua thường kề cận đức Như Lai, nghe Ngài thuyết Pháp êm dịu và nhờ thân cận bậc thiện hữu tri thức, nỗi lo sợ giảm bớt và cảm giác kinh hoàng của ông dần dần biến mất, ông đã được an tâm trở lại và hân hoan tu tập Tứ Nhiếp pháp.

Một ngày kia, Tăng chúng bắt đầu bàn luận tại Chánh pháp đường, bảo nhau:

– Này các Hiền giả, sau khi giết phụ vương, vua A-xà-thế quá kinh hoàng không còn muốn hưởng cảnh vương giả nữa, cứ luôn luôn bị cảm giác khổ đau trong mọi hành động. Sau đó vua tìm đến đức Như Lai, và nhờ thân cận với bậc thiện hữu, vua đã quên mất hết mọi nỗi lo âu và an hưởng vinh hoa hạnh phúc của đời vương giả.

Bậc Đạo Sư đi đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang bàn luận vấn đề gì?

Và khi nghe các vị ấy nói vấn đề kia, Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, người này sau khi giết cha mình, đã nhờ ta mà phục hồi sự thanh thản tâm trí.

Rồi Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa tại thành Ba-la-nại, vua Brahmadatta sinh được một con trai, đó là vương tử Brahmadatta. Vào thời ấy Bồ-tát được sinh vào nhà của vị quốc sư. Ngày ngài ra đời, họ đặt tên ngài là cậu Samkicca. Hai hài nhi cùng lớn lên trong cung vua nên trở thành đôi bạn chí thân. Khi hai vị đến tuổi khôn lớn, và sau khi đã hoàn tất mọi môn học tại Takkasilà, liền trở về nhà, vua phong cho con làm phó vương và Bồ-tát vẫn sống chung cùng bạn.

Một ngày kia khi vua cha du ngoạn tại lạc viên, phó vương nhìn thấy cảnh đại vinh quang của ngài, sinh lòng ao ước và nghĩ thầm: “Phụ vương còn mạnh khoẻ hơn một vị vương huynh, nếu ta đợi chờ vua cha chết thì ta già nua khi lên ngôi báu. Lúc ấy ta được giang sơn thì có lợi gì? Ta muốn giết cha và làm vua ngay”.

Chàng liền nói với Bồ-tát về dự định sẽ làm gì, Bồ-tát phản đối dự tính đó, và bảo:

– Này hiền hữu, giết cha là một tội trọng. Chuyện ấy sẽ đưa đường đến địa ngục, xin ngài đừng làm việc ấy, xin đừng giết đức vua.

Song phó vương cứ nhắc đi nhắc lại chuyện ấy, và bị bạn thân phản đối đến lần thứ ba. Phó vương liền vấn kế bọn hầu cận, bọn chúng đồng ý, và lập mưu giết vua cha. Nhưng Bồ-tát nghe tin này, nghĩ thầm: “Ta không muốn thân cận với hạng người như thế”. Rồi không kịp từ giã song thân, ngài trốn đi bằng cửa hậu, và sống cảnh ẩn dật trong vùng Tuyết Sơn. Tại đó, ngài theo đời khổ hạnh và chứng đắc các Thắng trí phát xuất từ Thiền định, chỉ nuôi thân bằng các thứ củ quả rừng.

Còn vương tử, khi bạn bỏ đi rồi, đã mưu giết phụ vương và tận hưởng cảnh vinh quang.

Nghe tin nam tử Samkicca xuất gia tu hành, nhiều thiện gia nam tử cũng rời bỏ thế tục và xin thọ giới với ngài để sống đời khổ hạnh. Ngài sống tại đó với hội chúng đông đảo các vị khổ hạnh kia, và tất cả đều đạt các Thiền chứng.

Phần vua, sau khi giết cha và hưởng thọ dục lạc đời đế vương một thời gian ngắn, lại thấy lo sợ và bất an như thể một người đã thấy rõ hình phạt mình trong địa ngục.

Lúc ấy vua nhớ đến Bồ-tát, liền nghĩ: “Bạn ta đã cố ngăn cản ta, bảo rằng giết cha là một việc kinh hoàng, song đã không thuyết phục được ta, nên đã bỏ đi để khỏi vướng lụy; nếu trước kia có bạn ta ở đây, ắt hẳn đã không để ta phạm tội giết cha và đã cứu ta thoát được nỗi kinh hoàng này. Không biết bây giờ bạn ta ở đâu? Nếu ta biết được chàng ở đâu, ta sẽ cho mời chàng về. Ai có thể cho ta biết nơi chàng ở chăng?”.

Tứ đó ở trong hậu cung cũng như ngoài triều đình, vua vẫn thường tán dương Bồ-tát. Một thời gian lâu sau đó, khi đã sống ở Tuyết Sơn cả năm mươi năm, Bồ-tát nghĩ thầm: “Vua đang nhớ đến ta. Ta phải đi tìm bạn và thuyết Pháp để bạn ta khỏi lo sợ”.

Thế là được năm trăm vị khổ hạnh theo hầu, ngài bay qua không gian rồi hạ xuống hoa viên Dàyapassa, và ngài an tọa trên phiến đá, với các hiền nhân vây quanh.

Người giữ vườn thấy ngài , liền hỏi:

– Thưa Thánh giả, vị nào là bậc Thượng thủ của hội chúng hiền nhân này?

Khi được biết đó là Hiền giả Samkicca, và lão cũng nhận ra ngài, liền thưa:

– Thưa Tôn giả, xin ngài ở nán lại đây cho đến khi tôi đi thỉnh hoàng thượng đến. Hoàng thượng đang nóng lòng gặp ngài.

Đảnh lễ ngài xong, lão vội đến cung tâu trình về việc ngài trở về. Vua đến thăm ngài, và sau cung kính đảnh lễ theo đúng phép xã giao xong, liền đưa ra vấn đề hỏi ngài.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ việc này:

  1. Vừa thấy Brah-ma-dat đại vương,
    Ngôi cao chiếm chệ thật huy hoàng,
    Lão tâu: “Chúa thượng, thân bằng cũ
    Chúa thượng vẫn thường dạ luyến thương
  2. Tôn giả Sam-ca đã đến đây,
    Giữa hiền nhân, nổi tiếng vai thầy
    Đại vương, xin vội lên đường sớm,
    Chớ chậm tìm thăm bậc Thánh này.
  3. Vua ngự lên xa giá vội vàng,
    Sẵn sàng theo lệnh của vua ban,
    Triều thần bạn hữu vây quanh đủ,
    Tìm kiếm Thánh nhân, tiến thẳng đàng.
  4. Cả năm biểu tượng của vương gia
    Ví chúa Kà-si vội bỏ ra,
    Lọng, quạt đuôi trâu rừng, mão niệm,
    Đôi hài, bảo kiếm cũng trao qua.
  5. Rồi vua ngự xuống khỏi vương xa,
    Cởi hết bào y rực sáng lòa,
    Đi đến Da-ya-pa ngự uyển
    Là nơi an tọa Thánh Sam-ca.
  6. Và vua vội vã tiến lên gần,
    Đảnh lễ trang nghiêm, lại hỏi thăm
    Nhắc lại hàn huyên câu chuyện cũ
    Cùng nhau trao đổi đã bao lần.
  7. Cạnh bạn, vua an tọa một bên,
    Đến khi dịp tốt bắt đầu lên,
    Hỏi câu liên hệ bao điều ác,
    Vua vội nêu ra với bạn hiền:
  8. “Sam-ca, bậc thượng thủ hiền nhân,
    Đại trí nhân, nay trẫm vấn an
    Tỉnh tọa Dà-ya-pa ngự uyển
    Bao điều trẫm muốn hỏi thân bằng.
  9. Ra sao kẻ ác lúc tử trần,
    Cảnh giới nào đâu phải thọ thân ~
    Trẫm đã đi sai đường chánh đạo,
    Trẫm mong lời giải của hiền nhân.

Bậc Đạo Sư nói thêm để làm sáng tỏ việc này:

  1. Như vậy Sam-ca bảo Đại vương
    Trị Kà-si quốc độ giang sơn,
    Tại Dà-ya ngự viên, an tọa,
    “Đại đế, lắng nghe sẽ tỏ tường”.

11.Ví thử ngài đưa lối chỉ đường
Cho người đi lạc bước vô phương,
Người kia theo đúng lời khuyên nhủ,
Chẳng gặp chông gai cản bước chân.

  1. Nếu kẻ kia đi lạc nẻo tà,
    Nếu ngài dẫn dắt đúng đường ra,
    Kẻ kia tuân thủ lời khuyên nhủ,
    Sẽ thoát ra bao cảnh khổ mà.

*

Ngài đã khuyến giáo vua như vậy, và hơn nữa ngài còn dạy vua Pháp lành:

13-14. Đường cái khác nào lẽ chánh chân,
Còn đường tắt chỉ nẻo tà gian,
Chánh chân đưa lối lên thiên giới,
Ác dẫn người vào địa ngục môn.

  1. Kẻ nào phạm giới, hỡi quân vương,
    Và sống đời bất chánh bất lương,
    Số phận nào chờ trong địa ngục
    Mệnh chung, nghe rõ sẽ am tường:
  2. Sañ-ji-va, Kà-la-sut-ta,
    Ro-ru-va tiểu và đại,
    San-ghà-ta, Đại A-vì-ci,
    Ta-pa-na, Pa-tà-pa-na,
  3. Tám địa ngục kia tiếng lẫy lừng
    Khiến cho người thất đảm kinh hoàng,
    Thoát thân từ đó đều vô vọng,
    Các ngục Us-sa(l) được kể rằng:
    Con số tăng hơn mười sáu nữa,
    Đều là ngục cỡ nhỏ từng phần.
  4. Lửa cháy, hành hình các tội nhân
    Thảy đều tạo ác nghiệp vô ngần,
    Kinh hồn, hoảng hốt, đầy đau đớn,
    Khổ não, hãi hùng ngập bốn phương.
  5. Bốn phía đều xây cửa bốn tầng,
    Chia từng khoảng cách thật cân phân,
    Mái vòm bằng sắt trên che phủ,
    Tường sắt lại còn bọc lấy thân.
  6. Nền sắt này xây mới vững sao
    Vì không lửa dữ đốt tan nào,
    Dù xa trăm dặm chung quanh đó,
    Cũng thấy oai thần tỏa vút cao.
  7. Ai làm thương tổn các hiền nhân,
    Hoặc xúc phạm gì bậc thiện chân,
    Rơi thẳng vào ngay miền địa ngục
    Chẳng còn cơ hội để vươn thân.
  8. Thân thể tả tơi, cảnh hãi hùng
    Khác nào cá nướng, lửa đang nồng,
    Cũng vì ác nghiệp bao năm cũ
    Đày xuống ngục kia phải nướng thân.
  9. Thiêu hủy tứ chi lửa bỏng sôi,
    Hành hình làm hoảng sợ con mồi,
    Dù mong giải thoát ra ngoài ngục,
    Cũng chẳng tìm đâu lối thoát rồi.
  10. Chạy tới chạy lui kiếm lối đi,
    Đông, Tây, Nam, Bắc chẳng mong gì,
    Vì chư thần đó ngăn đường lối,
    Họ cố tìm đường có ích chi.
  11. Hàng ngàn năm số phận đau thương,
    Chúng sống trong miền địa ngục môn,
    Với cánh tay dài vương tới mãi
    Khóc than nỗi khổ ngập tâm hồn.
  12. Cũng như rắn độc giết con mồi
    Nổi giận hung tàn nếu bị khơi,
    Phải tránh tổn thương cho Thánh giả,
    Những người nguyền khổ hạnh trong đời.
  13. Tộc trưởng Ke-ka(2) Aj-ju-na,
    Tan tành vì hại Go-ta-ma,
    Dù ngàn tay, vóc người cường tráng
    Thiện xạ lẫy lừng một thuở xưa.
  14. Dan-da-ki phỉ báng Ki-sa(3),
    Ngài chẳng tội tình, chẳng xấu xa,
    Như chặt cọ dừa từ gốc rễ,
    Hoàn toàn hủy diệt thế kia mà.
  15. Mej-jha vì bậc trí Tan-ga(4)
    Phải rớt từ trên bảo tọa kia,
    Đất nước trở thành hoang phế địa,
    Chúa tôi đều phải hóa ra ma.
  16. Dân chúng Vish-nu tộc tấn công
    Di-pà-ya(5) ấy Hắc hiền nhân
    Cùng tộc An-dha(6) tìm địa ngục,
    Giết nhau dùng dáo trượng tranh hùng.
  17. Bị mắc lời nguyền của trí nhân,
    Cec-ca xưa bước giữa không trung,
    Tương truyền bị nuối vào lòng đất
    Biến mất vào ngày đã định phần.
  18. Kẻ ngu bướng bỉnh chẳng khi nào
    Được tán đồng từ bậc trí cao,
    Song các thiện nhân đầy chánh nghĩa
    Khó lòng nói chuyện dối gian nào.
  19. Kẻ nào nằm sẵn để chờ mong
    Bắt lấy hiền nhân với trí nhân,
    Sẽ bị cuốn chìm vào địa ngục,
    Vì mưu kế độc phải ăn năn.
  20. Kẻ nào lòng phản bội hung tàn
    Xông đến đành càn lão Thánh nhân,
    Sẽ giống gốc cây dừa chết héo,
    Chẳng con thừa kế, phải tàn dần.
  21. Kẻ nào dám giết đại hiền nhân,
    Hoặc bậc tu hành sống chánh chân,
    Sẽ đọa Kà-la-sut địa ngục
    Cực hình phải chịu lắm ngày ròng.
  22. Còn nếu Ma-ga, một ác vương
    Muốn làm điên đảo cả giang sơn,
    Mạng chung, vào ngục Ta-pa ấy
    Phải chịu nhiều đau khổ đoạn trường.
  23. Trăm ngàn năm sống đọa đày thân
    Như cách chư Thiên tính tháng năm,
    Mặc áo làm bằng cây lửa đỏ,
    Giữa đau thương địa ngục muôn phần.
  24. Lửa phun lên rực sáng nơi nơi,
    Tung tóe từ thân thể tả tơi,
    Chân cẳng, tóc râu cùng tất cả
    Chỉ dùng nuôi ngọn lửa làm mồi.
  25. Trong lúc thân kia cháy thật nhanh
    Khổ đau hành hạ đến tan tành,
    Như voi bị quất bằng cây nhọn,
    Kẻ khốn rống lên hết sức mình.
  26. Có kẻ tham sân lại giết cha,
    Ấy người hèn hạ, đại gian tà,
    Chịu nhiều thống khổ trong hầm lửa
    Ở ngục Kà-la-sut mãi mà.
  27. Trong chảo sắt sôi đến lột da,
    Bị đâm tên sắt đến mù lòa,
    Ăn phân, kẻ giết nhằm thân phụ,
    Nước muối chìm thân, chuộc tội xưa.
  28. Quỷ sứ đặt trong miệng kẻ này
    – Vì e nó ngậm chặt hàm ngay –
    Một hòn sắt nóng nung cho đỏ,
    Hoặc một lưỡi cày với sợi dây,
    Rồi buộc lấy mồm cho thật chặt,
    Thả vào trong vũng nước bùn lầy.
  29. Kên kên, diều quạ, cả đen, nâu,
    Chim mỏ sắt kia thật đủ màu,
    Phanh lưỡi nó ra từng mảnh nhỏ,
    Run run từng miếng, máu tuôn trào.
  30. Bay đi, bầy quỷ lại bay về
    Đánh đập kẻ đầy khốn khổ kia,
    Vào ngực cháy, chân tay gãy nát,
    Chúng hành người, độc ác say mê.
  31. Cả bầy quỷ sứ thật hân hoan,
    Song nỗi khổ đau lại ngập tràn
    Những kẻ đọa đày trong ngục ấy,
    Vì đời phạm tội giết nghiêm đường.
  32. Còn nếu kẻ nào giết mẫu thân
    Đọa ngay vào ngục Dạ- ma quân,
    Để đền tội phạm hành vi ác,
    Nhận quả báo kia thật xứng phần.

47-48. Quỷ dữ nắm người giết mẫu thân
Dùng cày sắt rộng ủi mạnh vào lưng,
Tạo thành những luống cày sâu rộng,
Máu tựa đồng tan chảy cả dòng
Từ các vết thương, và chúng lấy
Làm nguôi cơn khát bỏng tù nhân.

49-50. Hồ máu đỏ kia nó ngập mình,
Hít mùi xác chết hoặc bùn tanh,
Bầy sâu khủng khiếp dùng mồm sắt
Xuyên suốt da người chịu cực hình,
Xâu xé thịt kia nhai ngấu nghiến,
Hút ngay máu đỏ thật ngon lành.

51-52. Ngục sâu trăm dặm, ngập chìm thân,
Trăm dặm quanh đầy xác thối nồng,
Bởi chính mùi hôi, ôi! Tội nghiệp,
Xưa dù mắt sáng, cũng mờ dần.

  1. Vượt qua ngục thất Khu-ra-dhà(7),
    Tù ngục tối tăm, khó vượt qua,
    Những kẻ phá thai, sao thoát được
    Dòng sông khủng khiếp Ve-ta-ra(8).
  2. Cây vải có gai sắt thật dài,
    Chừng vài ba tấc, miệng người đời
    Tương truyền trên cả đôi bờ ấy
    Lơ lững giường đen tối của ngài.
  3. Tất cả bọc trong khối lửa hồng
    Vươn lên sừng sững tựa trời trồng
    Cháy bùng rực rỡ như cây tháp
    Cao cả dặm đường giữa cõi không

56-57. Trên lửa gai nung, ngục hiện ra:
Gian phu, dâm phụ, bọn gian tà
Roi da vụt xuống, đầu lăn lóc,
Hỗn loạn quay cuồng chạy trốn xa,
Tơi tả tứ chi nhừ nát cả,
Chúng nằm thức đợi suốt đêm qua.

58-59. Tảng sáng, vào Nồi Sắt ẩn thân
To như núi, ngập nước bừng bừng,
Ngu si vây bọc như y quấn,
Bọn ác nhân kia sáng tối ròng,
Vì ác nghiệp gây từ kiếp trước,
Nay đền nợ cũ xứng cân phần.

  1. Người vợ được mua với bạc vàng
    Đem lòng coi rẻ đức lang quân,
    Hoặc nhìn khinh bỉ người thân thích,
    Lưỡi bị móc ra, thống khổ tràn.
  2. Thấy lưỡi căng đầy đám bọ sâu,
    Kêu than chẳng thể được đâu nào,
    Âm thầm phải gánh bao hình phạt
    Trong ngục Ta-pa chịu khổ đau.

62-63. Kẻ giết heo cừu, bọn thợ săn,
Chài ngư, trộm cướp, lũ tà nhân,
Xem hành vi thiện là hèn kém,
Bị đánh bằng dùi sắt, kiếm cung,
Nhào xuống, cả bầy người khát máu
Bị tên, giáo đuổi, ngã vào dòng.

  1. Thợ rèn làm hại suốt ngày đêm
    Dùng gậy sắt kia để luyện rèn,
    Chỉ sống bằng đồ ăn bẩn thỉu
    Nhả ra bởi các kẻ đê hèn.
  2. Diều quạ, kên kên, với chó rừng
    Hàm nhe toàn sắt sẵn sàng luôn
    Vồ ngay kẻ khốn đang lăn lộn,
    Nuốt sống vào mồm quá hám ăn!
  3. Ai dùng thú dữ giết hươu nai,
    Hoặc giết chim bằng các bẫy mồi,
    Tội lỗi đầy thân chìm đọa xứ,
    Ăn năn ngày tháng khổ đau dài.

Ghi chú: (1) Ussada; (2) Kekakà; (3) Kisavaccha; (4) Màtanga; (5) Dipàyana; (6) Andhaka; (7) Khuradhàra; (8) Vetaranì

Như vậy, ngài đã miêu tả các địa ngục trên và bây giờ vừa mở một chỗ trên mặt đất, ngài vừa chỉ vua thấy thiên giới, vừa bảo:

  1. Nhờ tích đức trên cõi thế gian
    Từ xưa người thiện đến thiên đàng,
    Chư Thiên, Phạm chúng, kìa Thiên chủ,
    Đạt quả công năng chín vẹn toàn.
  2. Ta bảo ngài cai trị chánh chân
    Suốt trong quốc độ, hỡi Quân vương,
    Đạt thành phước đức nhờ công chánh,
    Hối tiếc về sau chẳng phải mang.

Nghe xong bài thuyết giáo của bậc Đại Sĩ, vua bình tâm lại, còn Bồ-tát sau khi ở đó một thời gian nữa, liền trở về nơi an trú của mình.

*

Đến đây, bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:

– Không chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, vua ấy cũng đã được ta làm cho an tâm.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời bấy giờ, vua Ajàtasattu (A-xà-thế) là nhà vua kia, các đệ tử đức Phật là hội chúng của vị khổ hạnh, và Ta chính là Hiền giả Samkicca.

-ooOoo-

Chương XX

Phẩm Bảy Mươi Bài Kệ

  1. Chuyện Đại Đế Kusa (Tiền thân Kusa)

Quốc độ này hoan lạc ngập tràn . . .,

Đây là câu chuyện bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về một Tỷ-kheo thối thất.

Chuyện kể rằng vị ấy thuộc dòng quý tộc, sống ở Sàvatthi (Xá-vệ), vì nhiệt tâm tin vào Chánh pháp nên ông xuất gia tu tập.

Một ngày kia, ông vào thành Sàvatthi để khất thực, lại gặp một nữ nhân xinh đẹp liền đem lòng say mê ngay khi mới thấy nàng. Bị tham dục chi phối, ông sống trong đau khổ, cứ để lông tóc, móng tay chân mọc dài ra, mặc các y trong lẫn y ngoài đều dơ bẩn, và héo mòn dần đến độ xanh xao khác nào cây liễu rũ với các đường gân nổi lên khắp mình mẩy.

Cũng giống như trên thiên giới, khi một vị Thiên tử nào sắp đọa khỏi kiếp sống Thiên thần, thường để lộ ra năm dấu hiệu quen thuộc, đó là: Các vòng hoa của vị ấy mang héo dần, xiêm y dơ bẩn, thân thể trở nên xấu xí, mồ hôi ở nách đổ ra và vị ấy không còn thấy lạc thú gì trong Thiên cung nữa.

Trường hợp các Tỷ-kheo ở thế gian cũng vậy; khi thối thất tín tâm trong Chánh pháp, có năm dấu hiệu tương tự hiện ra: hoa tín tâm héo úa, y chân chánh dơ bẩn, do bất mãn và các hậu quả của cái danh bất thiện mà thân thể các vị ấy trở nên xấu xí dần, mồ hôi bất tịnh cứ tuôn ra đầm đìa khiến họ không còn thấy lạc thú gì trong đời độc cư dưới gốc cây rừng nữa.

Đó là những dấu hiệu đã xuất hiện ở vị này. Vì thế Tăng chúng đưa ông đến yết kiến bậc Đạo Sư, và thưa:

– Bạch Thế Tôn, kẻ này đang thối thất.

Bậc Đạo Sư hỏi có đúng không, và khi nghe ông thú nhận là đúng, Ngài bảo:

– Này Tỷ-kheo, đừng làm nô lệ cho tham dục. Đây là một ác nữ nhân, ông hãy chế ngự dục tham của ông đối với kẻ ấy, hãy hân hoan trong Chánh pháp. Chính vì mê say một nữ nhân, mà các bậc hiền trí ngày xưa, mặc dù có đủ uy lực phi thường, cũng đã mất hết quyền năng và phải chịu khốn đốn đến suy tàn.

Nói vậy xong, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa tại quốc độ Malla, trong kinh thành Kusàvati, vua Okkàka cai trị rất chân chánh. Đứng đầu mười sáu ngàn phi tần của ngài là Chánh hậu Silavatì. Bấy giờ bà không sinh con cái gì nên dân chúng trong kinh đô cùng các triều thần tụ họp tại cửa cung, than vãn rằng quốc độ này sẽ bị diệt vong.

Vua mở cửa sổ ra phán hỏi:

– Trong triều đại trẫm, không có ai làm điều gì bất công trái đạo. Tại sao các ngươi trách móc trẫm?

Họ đáp:

– Tâu Đại vương, quả đúng vậy, không ai làm gì trái đạo lý cả, nhưng Đại vương không có hoàng nam để nối dõi; một kẻ ngoại bang sẽ chiếm lấy vương quốc và hủy diệt đất nước này. Vậy xin Đại vương hãy cầu tự để có hoàng nam trị nước cho đúng pháp.

– Thế khi muốn cầu tự, trẫm phải làm gì?

– Trước tiên, xin Đại vương hãy truyền đưa ra đường một đám cung nữ ca múa hạ đẳng suốt trong một tuần lễ, xem đó như một lễ cúng tế thần, rồi nếu có một nàng nào sinh được con trai thì tốt lắm. Nếu không thì xin hãy đưa một đám nữ nhạc trung lưu và cuối cùng là đám nữ nhạc thượng hạng. Chắc hẳn giữa đám đông như thế sẽ có một nàng đầy đủ đức độ để sinh con trai.

Vua liền làm theo lời họ khuyên ngài, và cứ đến mỗi ngày thứ bảy trong tuần, ngài hỏi thăm đám người ấy trở về cung, sau khi đã hưởng thú vui chơi thỏa thích, xem có nàng nào thọ thai chưa. Và khi tất cả bọn họ đáp:

– Tâu Hoàng thượng, không có ai.

Bấy giờ vua thất vọng kêu lên:

– Ta chẳng có được hoàng nhi nào cả.

Dân chúng trong kinh thành lại trách móc vua như trước. Vua bảo:

– Tại sao các ngươi lại trách trẫm, theo lời các ngươi thỉnh cầu, nhiều đám nữ nhân đã được đưa ra trình diễn ngoài đường, nhưng không nàng nào thọ thai cả. Vậy trẫm phải làm sao bây giờ?

Họ đáp:

– Tâu Hoàng thượng, chắc hẳn đám nữ nhân này đều vô hạnh và thiếu đức cả. Chúng không đủ công đức để sinh con trai. Song vì chúng chưa thọ thai, vậy hoàng thượng đừng nản lòng, Chánh hậu Silavatì là một nữ nhân đầy đủ đức hạnh; xin hãy đưa chánh hậu ra đường, lệnh bà sẽ sinh hoàng nam.

Vua vui lòng chấp thuận, truyền lệnh đánh trống công bố rằng vào ngày thứ bảy kể từ hôm ấy, dân chúng phải tề tựu lại và vua sẽ đưa Chánh hậu Silavatì ra đường làm tế lễ. Rồi vào ngày thứ bảy, vua truyền lệnh trang điểm chánh hậu thật lộng lẫy và rước bà từ cung ra đường phố biểu diễn.

Do uy lực công đức của bà, cung thất của Sakka (Đế Thích) Thiên chủ nóng dần lên. Thiên chủ Sakka xem xét việc này có ý nghĩa gì, và nhận thấy Chánh hậu đang khao khát một hoàng nam, liền suy nghĩ:

– Ta phải ban cho chánh hậu một hoàng nam.

Rồi trong khi tìm hiểu xem có vị nào trên thiên giới xứng đáng làm con bà không, Thiên chủ chợt trông thấy Bồ-tát.

Truyện kể rằng, vào thời ấy, sau khi đã hưởng hết thọ mạng ở cõi trời Ba mươi ba, ngài (Bồ-tát) ước mong được tái sinh ở một cảnh giới cao hơn. Sakka Thiên chủ đền gần cửa cung ngài, triệu ngài ra bảo:

– Này Hiền giả, ngài sẽ phải đến cõi nhân gian, và thọ sinh làm hoàng nam của Chánh hậu vua Okkaka.

Rồi Thiên chủ lại mời được một Thiên tử khác đến và bảo:

– Hiền giả cũng sẽ làm hoàng nam của Chánh hậu.

Và muốn rằng không có một nam nhân nào được phép làm tổn hại đức hạnh của chánh hậu, nên Sakka Thiên chủ giả dạng làm một lão Bà-la-môn, đi đến cửa cung.

Đám dân chúng, sau khi tắm rửa trang điểm cho mình xong, mỗi người đều thầm mong trong trí là sẽ chiếm được hoàng hậu nên tề tựu ngay tại hoàng môn, nhưng khi thấy Sakka Thiên chủ họ cười ầm lên, hỏi ngài tại sao đến đây. Thiên chủ bảo:

– Tại sao lại trách lão? Thân lão già rồi, song dục tình vẫn không giảm xuống, nên lão đến đây với hy vọng đem được hoàng hậu về với lão, giả sử lão chiếm được bà.

Cùng với những lời này, Thiên chủ dùng thần lực tiến lên phía trước cả đám người ấy, và vì công đức của ngài tỏa ra, không ai có thể đứng trước mặt ngài được, và ngay lúc chánh hậu mới bước ra khỏi cung, được trang điểm cực kỳ rực rỡ uy nghi, ngài liền nắm lấy tay bà và đưa đi mất.

Thế rồi đám người kia đứng trơ ra đó mạ lỵ ngài, bảo:

– Thật là nhục nhã, một lão Bà-la-môn đã biến đi mất cùng một bà hoàng hậu dung sắc tuyệt thế. Lão cũng chẳng biết chuyện gì là cân xứng với lão nữa.

Chánh hậu cũng suy nghĩ: “Một ông già đang bắt ta đi mất đây”, bà cũng nổi giận và lại cảm thấy ghê tởm.

Còn vua đứng ở cửa sổ mở rộng, nhìn ra xem ai sẽ cướp được hoàng hậu mang đi, và chợt thấyđó là ai rồi, thì ngài hết sức bất bình.

Khi Sakka Thiên chủ vừa cùng bà thoát ra khỏi cổng thành, ngài liền dùng thần lực hóa hiện ra một ngôi nhà ngay gần đó, cửa đã mở sẵn cùng với một bó củi khô. Bà hỏi:

– Chỗ ở của lão đây chăng?

– Tâu lệnh bà phải, trước kia lão ở đây chỉ một mình, nay có cả đôi ta. Lão sẽ đi quanh đây kiếm ít gạo về trong lúc ấy xin lệnh bà nằm nghỉ trên đống củi này.

Nói vậy xong, ngài vỗ nhẹ trên người bà, khiến bà rúng động vì sự tiếp xúc với Thiên chủ, rồi ngài đặt bà nằm xuống đó, ngài vừa đụng vào người bà là bà thiếp đi ngay. Sau đó, ngài dùng thần lực siêu phàm đưa bà lên cõi trời Ba mươi ba và đặt bà xuống trên thiên tọa trong một cung điện lộng lẫy nguy nga.

Vào ngày thứ bảy, ngay khi vừa thức giấc, bà ngắm cảnh huy hoàng này và hiểu rằng đây không phải là một Bà-la-môn, mà chắc hẳn là chính Sakka Thiên chủ. Vào lúc này Sakka Thiên chủ đang ngự trên bảo tọa dưới cây San hô, được đoàn Thiên nữ ca múa vây quanh.

Bà liền bước ra khỏi thiên sàng, đi đến gần đảnh lễ Thiên chủ và kính cẩn đứng một bên. Sau đó Thiên chủ bảo:

– Ta ban cho bà một điều ước; hãy chọn đi.

– Vậy xin Thiên chủ ban cho thần thiếp một hoàng nam.

– Này hoàng hậu, không chỉ một mà thôi đâu. Ta sẽ ban hai vương tử cho bà. Một người thông minh trí tuệ nhưng xấu xí, người kia đẹp tướng song lại ngu đần, bà muốn có đứa con nào trước?

– Xin đứa con thông minh trước. Bà đáp.

– Được lắm. Ngài bảo.

Rồi đưa cho bà một cọng cỏ Kusa (Cát tường), một chiếc thiên y cùng với gỗ chiên-đàn, một đóa thiên hoa San hô và cây đàn Kokanada màu đỏ cánh sen.

Xong xuôi ngài đưa bà trở lại mội cung của hoàng gia, đặt bà nằm xuống trên cùng một vương sàng với vua và chỉ lấy ngón tay ngài đụng vào người của bà là ngay lúc ấy Bồ-tát nhập mẫu thai, còn Thiên chủ lập tức trở về cõi của ngài ngay. Bà hoàng hậu hiền đức biết rằng bà đã thọ thai.

Lát sau vua tỉnh giấc thấy bà, liền hỏi ai đã đem bà đi.

– Tâu Thánh thượng, chính Sakka Thiên chủ.

– Kia chính mắt trẫm thấy một lão già Bà-la-môn mang khanh đi mất, tại sao khanh muốn đánhlừa trẫm?

– Tâu Thánh thượng, xin hãy tin thần thiếp, chính Sakka Thiên chủ đã đưa thiếp lên thiên giới.

– Trẫm không tin khanh đâu.

Lúc ấy bà đưa vua xem cọng cỏ Kusa mà Thiên chủ đã tặng bà và nói:

– Bây giờ xin Thánh thượng tin lời thần thiếp.

Vua nghĩ thầm: “Cỏ Kusa hái được khắp nơi”, nên ngài vẫn không tin bà. Bà liền đưa cho vua xem các Thiên y của bà. Thấy vậy ngài tin bà và bảo:

– Này ái hậu, nếu Thiên chủ đem khanh đi thì khanh đã có thai chưa?

– Tâu Thánh thượng, thần thiếp đã có thai.

Vua rất hoan hỷ và truyền cử hành lễ mừng thai phụ.

Mười tháng sau, bà hạ sinh một hoàng nam, triều đình không đặt tên gì khác ngoài tên ngọn cỏ Kusa. Vào thời gian vương tử Kusa biết chạy một mình, bà lại có thai một Thiên tử thứ hai, họđặt tên là Jayampati. Hai vương tử được nuôi dưỡng theo cung cách cao sang trọng vọng.

Bồ-tát thật vô cùng thông minh, không cần học với thầy nào cả, mà tự khả năng ngài đã tài giỏi thành thạo mọi môn học thuật.

Vì vậy khi ngài được mười sáu tuổi, vua nóng lòng trao quốc độ cho ngài, liền bảo chánh hậu:

– Này ái hậu, khi trao vương quyền cho vương nhi, ta sẽ cử hành lễ thật trọng thể, ta muốn nhìn thấy vương nhi được an vị trên ngai vàng khi ta còn sống. Nếu có công chúa ở xứ nào trong cõi Diêm-phù-đề mà ái hậu yêu mến, thì khi rước nàng ấy về đây, ta sẽ phong cho nàng làm chánh hậu của vương nhi. Vậy hãy thăm dò xem vương nhi có yêu mến công chúa xứ nào chăng?

Bà ưng thuận ngay và cho một cung nữ đệ trình vấn đề lên thái tử để biết ý kiến ngài. Nàng ấyđến trình vương tử mọi việc.

Nghe nói vậy, bậc Đại Sĩ liền suy nghĩ: “Ta không được tốt tướng, hễ một công chúa diễm lệ nào dù được rước về đây làm tân nương của ta thì khi thấy mặt ta cũng sẽ nói: “Mình sẽ phải làm gì với một người chồng xấu xí như thế này”; rồi nàng ấy trốn đi và chúng ta chỉ thêm mang nhục. Vậy ta còn phải cần gì cuộc sống gia đình thế tục nữa? Ta muốn phụng dưỡng song thân lúc còn sống và khi song thân từ trần, ta quyết xuất gia làm ẩn sĩ”. Vì thế ngài đáp:

– Ta có cần gì quốc độ ngai vàng hay yến tiệc hội hè đâu? Khi song thân ta từ trần, ta quyết xuất gia tu hành.

Nàng cung nữ ấy trở về và kể lại với chánh hậu chuyện ngài vừa nói.

Vua rất buồn bực; sau vài ngày lại gửi một chiếu chỉ khác, nhưng vương tử vẫn không chịu nghe theo. Sau ba lần từ chối lời đề nghị của vua cha; đến lần thứ tư ngài suy nghĩ: “Quyết liệt phản đối mẹ cha mãi là điều không hợp lý, nên ta muốn bày một mưu kế gì đó”.

Rồi ngài triệu người thợ vàng trưởng đoàn vào, đưa cho gã một số vàng và bảo gã làm bức tượng một nữ nhân. Khi gã đi rồi, ngài lấy thêm vàng và chính tay ngài nặn hình một nữ nhân.

Thật vậy, mục đích của chư Phật bao giờ cũng được thành tựu. Bức tượng tuyệt đẹp vượt ngoài mọi lời lẽ con người miêu tả nó. Sau đó, bậc Đại Sĩ truyền đem xiêm y khoác cho tượng ấy và đặt trong cung thất.

Khi thấy bức tượng do người thợ vàng trưởng đoàn đem vào, ngài chê bai, và bảo:

– Ngươi hãy đi tìm xem bức tượng đặt trong hoàng cung.

Gã thợ ấy bước vào, thấy bức tượng lên suy nghĩ: “Chắc đây phải là một Thiên nữ đến hưởng lạc thú cùng với vương tử”.

Gã bỏ đi ra khỏi phòng mà không dám đưa tay ra về phía bức tượng ấy, rồi gã nói:

– Tâu điện hạ, trong cung ngài có một Thiên nữ cao quý của chư Thiên, hạ thần không dámđến gần.

Ngài bảo:

– Hiền hữu, hãy đi đem bức tượng vàng ấy về đây.

Được bảo đến lần thứ hai, gã mới đi mang bức tượng về.

Hoàng tử ra lệnh đem bức tượng do người thợ vàng đúc đặt vào trong cung thất bằng vàng; còn bức tượng do ngài nặn thì được trang hoàng thật đẹp đặt lên một chiếc xe, đem đệ trình mẫu hậu và bảo:

– Khi nào con tìm ra được một nữ nhân như thế này, con xin lấy nàng làm vợ.

Mẫu hậu triệu các quốc sư vào bảo:

– Này các hiền khanh, vương tử có đầy đủ công đức do Sakka Thiên chủ ban cho ta, chàng phải tìm được một công chúa xứng đáng với chàng. Vậy các khanh hãy đem bức tượng này đặt vào vương xa phủ kín, đi khắp cõi Diêm-phù-đề, hễ thấy công chúa của vua nào giống bức tượng thì hãy trao tượng cho vua ấy và bảo: “Quốc vương Okkàka sẽ làm hôn lễ với công chúa của Đại vương”. Rồi hãy thu xếp ngày trở về nước.

– Thật tốt lành thay.

Họ đáp xong cầm bức tượng ra đi cùng một đoàn tùy tùng đông đảo. Trong cuộc hành trình ấy, dù đến kinh thành nào vào lúc hoàng hôn, đoàn người ấy cũng tụ tập lại rồi sau khi trang hoàng xiêm y, vòng hoa, nữ trang cho bức tượng, họ đặt tượng lên chiếc loan xa đưa ra bến tắm, còn chính họ trở lui, đứng bên vệ đường nghe ngóng người qua lại có bàn tán gì chăng.

Dân chúng thấy bức tượng vàng, bảo nhau:

– Bức tượng này chỉ là một nữ nhân cũng thật vô cùng diễm lệ, chẳng khác một vị Thiên nữ. Tại sao nàng đến đây, nàng từ đâu lại? Trong kinh thành này của ta, không có ai sánh bằng nàng được.

Sau khi tán dương sắc đẹp của tượng vàng, họ lại đi đường họ.

Các quốc sư bảo:

– Nếu có một cô gái nào như thế ở đây, dân chúng sẽ bảo: “Bức tượng này giống công chúa nọ, hoặc tiểu thư kia”; chắc tại đây không có cô gái nào như vậy cả.

Họ liền đem bức tượng ra đi đến kinh thành khác; trên bước giang hồ vô định, họ đến kinh thành Sàgala ở quốc độ Madda.

Lúc bấy giờ vua Madda có bảy công chúa đẹp dị thường như bầy tiên trên trời. Công chúa lớn nhất tên là Pabhàvatì (Quang Huy), thân nàng chiếu tỏa ra các tia sáng như thể ánh bình minh. Khi trời tối, trong phòng loan của nàng rộng chừng bốn cubit (1 cubit = 45 cm) không cần thắp đèn, cả căn phòng cũng sáng rực lên.

Lúc bấy giờ, nàng có một bà nhũ mẫu lưng gù, sau khi đã bưng cơm lên hầu Pabhàvatì, lại muốn gội đầu cho nàng vào lúc trời sẩm tối, bà ra đi múc nước cùng với tám nữ tỳ, mỗi người mang một bình đựng nước đến bến tắm, chợt thấy bức tượng, bà tưởng đó là Pabhàvatì liền kêu lên:

– Cô bé này tệ thật, cứ giả vờ muốn gội đầu và bảo ta đi múc nước, lại lẻn đi trước chúng ta, ra đứng ngoài đường kia kìa.

Đang lúc giận dữ, bà kêu lên:

– Tệ quá, nàng làm nhục gia phong, nàng ra đứng kia, trước cả bọn ta nữa. Nếu đức vua biết được, chúng ta sẽ chết mất.

Nói xong, bà đánh vào má bức tượng, làm một khoảng lớn bằng lòng bàn tay bà bị nứt ra. Khi thấy đó là một bức tượng vàng, bà bật cười đến bảo các nữ tỳ:

– Hãy đến xem ta đã làm gì kìa. Ta tưởng đó là dưỡng nữ của ta, nên ta đánh nó, bức tượng kia thật có đáng gì nếu đem so với con gái ta? Ta chỉ làm đau tay ta mà thôi.

Thế là các sứ giả của vua chạy ngay nắm lấy bà bảo:

– Đây là chuyện gì bà bảo cho ta biết, con gái bà đẹp hơn tượng này sao?

– Ta muốn nói đến Pabhàvatì, công chúa của vua Madda, giá trị của tượng này không bằng một phần mười sáu của nàng ấy.

Họ vui mừng trong dạ, tìm lối vào cung nhờ người trình vua rằng sứ giả của vua Okkàka đang đứng ở cung môn.

Vua đứng dậy từ bảo tọa, ra lệnh cho họ vào chầu. Khi vào, họ đảnh lễ vua và tâu:

– Tâu Đại vương, bổn vương xin gửi lời hỏi thăm ngọc thể có được khang an chăng?

Họ được tiếp đón nồng hậu và khi được hỏi tại sao đến đây, họ đáp:

– Bổn vương của chúng thần có một hoàng nam, vương tử Kusa rất dũng cảm, đức vua muốn trao quốc độ cho con nên sai chúng thần đến xin Đại vương gá duyên công chúa Pabhàvatì cho chàng và nhận bức tượng vàng này làm sính lễ.

Nói xong, họ dâng lên tượng vàng ấy. Vua rất đẹp ý, nghĩ rằng được kết thân với một dòng vua cao quý như vậy thật là vạn phúc. Các sứ giả lại tâu:

– Tâu Đại vương, chúng thần không dám chậm trễ ở nán lại đây, chúng thần phải về trình đức vua là chúng thần đã đi cầu hôn công chúa được rồi, ngài sẽ đến đón dâu sau.

Vua chấp thuận, tiếp đãi họ rất nồng hậu, sau đó để họ ra về. Họ về cung trình lại mọi việc lên đức vua và hoàng hậu. Vua cùng đám tùy tùng đông đảo khởi hành từ Kusàvati dần dần theo thời gian đi đến kinh thành Sàgala.

Vua Madda thân hành đón rước ngài vào thành tiếp đãi rất trọng thể. Hoàng hậu Sìlavati là một nữ nhân thông thái, liền suy nghĩ: “Do nguyên nhân gì mà có việc này?”.

Sau một hai ngày, bà bảo vua:

– Chúng ta đang mong được gặp tân nương.

Vua chấp thuận truyền triệu công chúa vào. Nàng Pabhàvati được phục sức cực kỳ lộng lẫy vàđám cung nữ theo hầu bước ra đảnh lễ mẫu hậu tương lai.

Vừa trông thấy nàng, chánh hậu liền suy nghĩ: “Công chúa này tuyệt đẹp, còn con ta lại xấu xí, nếu nàng thấy con ta, nàng sẽ không ở dù chỉ một ngày, và sẽ trốn đi ngay. Vậy ta phải bày mưu mới được”.

Bà liền nói với vua Madda:

– Tân nương thực là đẹp đôi với hoàng nhi ta. Tuy thế hoàng tộc ta có một tục lệ cổ truyền, nếu nàng tuân theo luật đó, chúng ta sẽ rước nàng về làm hoàng phi.

– Đó là tục lệ gì?

– Trong dòng họ ta, người vợ không được phép nhìn chồng ban ngày cho đến bao giờ nàng thọ thai. Nếu nàng chịu làm theo đúng như vậy, chúng ta sẽ đón nàng về.

Vua hỏi công chúa:

– Này con yêu quý, con có làm thế được chăng?

– Tâu phụ vương, được. Nàng đáp.

Sau đó, vua Okkàka đem nhiều sính lễ tặng vua Madda và rước nàng cùng ra đi, vua Madda tiễn đưa công chúa về nhà chồng cùng với một đoàn hộ tống thật đông đảo. Còn vua Okkàka, khi vừa tới thành Kusàvati, liền ban lệnh cho kinh thành trang hoàng thật lộng lẫy, tất cả tù nhân đều được thả ra, và sau khi làm lễ quán đảnh cho tân vương cùng sắc phong nàng Pabhàvati làm chánh hậu, ngài truyền đánh trống loan báo triều đại vua Kusa ra đời.

Tất cả các vua toàn cõi Diêm-phù-đề có công chúa đều gửi đến triều cống vua Kusa hoặc có vương tử thì gửi đến làm cận thần để mong bầu bạn với ngài.

Bồ-tát lại có cả đoàn nữ nhạc đông đảo và trị dân thật oai phong lẫm liệt. Tuy vậy ngài không được phép nhìn Pabhàvatì ban ngày, nàng cũng không được nhìn ngài, chỉ ban đêm ngài mớiđược tự do đi lại với nàng.

Vào thời ấy, thân thể của nàng Pabhàvatì tỏa sáng lạ thường, song Bồ-tát phải rời hậu cung khi trời còn tối. Vài ngày sau, ngài thưa với mẫu hậu rằng ngài muốn nhìn thấy Pabhàvatì vào ban ngày. Bà từ chối , bảo ngài:

– Con không nên ước muốn việc đó, phải đợi đến bao giờ nàng có thai đã.

Ngài van xin mẹ nhiều lần, vì thế bà bảo:

– Thôi được, con hãy đến chuồng voi đứng đó giả làm người quản tượng. Mẹ sẽ đem nàng lạiđó, con sẽ tha hồ ngắm nàng, nhưng hãy cẩn thận đừng để nàng biết con.

Ngài thỏa thuận đi đến chuồng voi, mẫu hậu truyền làm lễ hội voi và bảo Pabhàvatì:

– Này con, ta hãy cùng đi xem bầy voi của đức phu quân con.

Khi đem nàng lại đó, bà chỉ cho nàng tên của voi này, voi nọ; trong lúc Pabhàvatì đi sau lưng mẫu hậu, vua ném vào lưng nàng một cục phân voi. Nàng tức giận bảo:

– Ta sẽ bảo đức vua chặt đầu ngươi.

Nói xong, nàng lại càu nhàu với mẫu hậu khiến bà phải dỗ dành nàng bằng cách xoa lưng nàng.

Lần thứ hai vua mong muốn nhìn thấy hoàng hậu, lại giả dạng làm người giữ ngựa trong chuồng ngựa, cũng như lần trước, ngài ném cục phân ngựa vào mình nàng và khi nàng bực tức, mẫu hậu lại dỗ dành nàng.

Một ngày kia Pabhàvatì tâu với mẫu hậu là nàng mong muốn nhìn thấy bậc Đại Sĩ Bà từ chối lời thỉnh cầu của nàng và bảo:

– Thôi con đừng ước muốn như vậy nữa.

Nàng lại cứ nài nỉ bà mãi, cuối cùng bà bảo:

– Thôi được, ngày mai hoàng nhi sẽ làm đám rước trọng thể khắp kinh thành. Con cứ mở cửa sổ mà nhìn.

Nói xong, hôm sau, bà ra lệnh cho kinh thành trang hoàng rực rỡ, rồi truyền cho hoàng tử Jayampati mặc hoàng bào, cỡi voi cử hành lễ khải hoàn rất trọng thể khắp kinh thành.

Mẫu hậu cùng đứng nơi cửa sổ với nàng Pabhàvatì, bảo nàng:

– Con hãy xem cảnh huy hoàng của đức phu quân con.

Nàng bảo:

– Con đã được một đấng vương quân thật xứng đôi vừa lứa với con.

Lòng nàng vô cùng hoan hỷ. Song cũng ngày đó bậc Đại Sĩ giả dạng làm người quản tượng, ngồi sau vương tử Jayampati, khi nhìn thấy Pabhàvatì cho thỏa lòng ao ước, ngài vui thích đưa tay làm bộ điệu trêu ghẹo nàng.

Khi con voi đi qua, mẫu hậu hỏi nàng có nhìn thấy đức vua chăng, nàng bảo:

– Tâu mẫu hậu, có thấy, song sau lưng đức vua là người quản tượng rất thô lỗ đã lấy tay làm điệu bộ trêu con; tại sao chúng lại để một người xấu xí, có dáng xui xẻo như vậy ngồi sau đức vua chứ?

– Con ạ, chúng muốn sau đức vua phải có người cận vệ.

Nàng suy nghĩ: ‘‘Người quản tượng này thật to gan, không tỏ lòng kính trọng đức vua tí nào, hay đó chính là vua Kusa? Chắc chắn vì đức vua xấu xí nên họ không muốn cho ta thấy mặt ngài”.

Thế là nàng rỉ tai bà nhủ mẫu lưng gù của nàng:

– Này nhũ mẫu, lập tức đi ra xem thử đức vua ngồi trước hay sau.

– Làm thế nào ta biết được điều đó?

– Nếu là đức vua thì ngài sẽ bước xuống voi trước, nhũ mẫu sẽ biết được nhờ dấu hiệu này.

Bà vú đi ra đứng xa xa nhìn thấy bậc Đại Sĩ bước xuống voi trước, và sau đó là vương tử Jayampati. Bậc Đại Sĩ nhìn quanh, hết phía này đến phía kia, nhợt trông thấy bà lão gù lưng, biết ngay tại sao bà ta đã đến, liền triệu bà ta lại và nghiêm khắc bảo bà ấy không được tiết lộ bí mật của ngài, rồi cho bà ta về.

Bà vú về và bảo hoàng hậu:

– Vị ngồi phía trước đã xuống voi trước tiên.

Và Pabhàvatì tin bà ta ngay.

Một lần nữa, vua muốn thấy mặt nàng và cầu xin mẫu hậu sắp đặt việc ấy. Bà không thể từ chối ngài và bảo:

– Thôi được rồi , con hãy vào ngự viên.

Ngài vào đó giấu mình trong hồ sen đến tận cổ, đứng dưới nước lấy lá sen che đầu và hoa sen che mặt. Và mẫu hậu đem Pabhàvati vào ngự viên lức sẩm tối bảo nàng:

– Này con hãy nhìn cây này, chim kia, nai nọ…

Như thế bà dụ nàng đi mãi cho đến khi nàng tới gần bờ hồ sen.

Khi nàng nhìn thấy hồ phủ đầy năm loại hoa sen, nàng muốn tắm, liền bước xuống mé nước cùng các cung nữ. Trong lúc vui đùa nàng thấy hoa sen kia, liền đưa tay ra hái. Lúc đó vua rẽ lá sen ra, nắm lấy tay nàng bảo:

– Ta là vua Kusa.

Vừa thấy mặt ngài, nàng hét to:

– Kìa con quỷ đang chụp lấy ta.

Rồi nàng ngất đi ngay, vì thế vua thả tay nàng ra.

Khi tỉnh lại, nàng nghĩ thầm: “Chúng bảo vua Kusa đã nắm lấy tay ta, ngài chính là người đã ném vào ta một cục phân voi trong chuồng voi, rồi một cục phân ngựa trong chuồng ngựa, cũng chính là người ngồi sau lưng voi và trêu ghẹo ta. Ta còn làm gì nữa với một người chồng xấu xa dị dạng như vậy? Nếu ta sống thì ta phải lấy người chồng khác mà thôi”.

Thế là nàng triệu tập các quan đại thần đã hộ giá nàng đến đây, và bảo họ:

– Hãy chuẩn bị loan xa. Ngay hôm nay ta phải đào tẩu.

Họ liền tâu chuyện này cùng đức vua. Ngài nghĩ thầm: “Nếu nàng không trốn được, lòng nàng sẽ đau khổ tan nát; thôi để nàng đi, với tài năng của chính mình, rồi đây ta sẽ đưa nàng trở lại”.

Thế là ngài cho phép nàng ra đi, nàng liền về ngay kinh thành vua cha nàng. Lúc ấy bậc Đại Sĩ đi từ ngự viên về thành và bước lên cung điện nguy nga của ngài.

Thật ra chính là do kết quả một lời nguyền của nàng trong một đời trước mà nàng không ưng thuận Bồ-tát và cũng vì một nghiệp quá khứ của ngài mà ngài phải chịu xấu xí như thế.

Chuyện kể rằng ngày xưa tại ngoại ô thành Ba-la-nại, ở tại phố trên phố dưới, một gia đình nọ có hai con trai và một gia đình kia có một con gái. Bồ-tát là cậu em trong hai anh em kia, rồi cô gái kết duyên với người anh. Còn cậu em không có gia thất, nên vẫn sống chung với anh.

Một ngày kia, nhà này nướng loại bánh hảo hạng, trong lúc Bồ-tát còn ở trong rừng, nên họ để dành cho ngài một chiếc, rồi chia bánh ra ăn hết. Lúc bấy giờ một vị Độc Giác Phật đến khất thực ở nhà ấy. Người chị dâu của Bồ-tát nghĩ rằng nàng sẽ nướng một chiếc bánh khác cho cậu em, nên đem chiếc bánh để dành phần cậu đưa cho vị Độc Giác Phật.

Ngay lúc ấy cậu trở về từ khu rừng, nàng bảo:

– Này chú em, đừng giận tôi đã đưa phần của chú cho vị Độc Giác Phật rồi.

Cậu em đáp:

– Chị đã ăn hết phần mình rồi lại đem cho phần ta đi, còn bảo sẽ làm cái bánh khác cho ta đấy!

Cậu liền giận dữ bước ra lấy lại chiếc bánh từ bình bát của vị khất sĩ.

Nàng vội trở về nhà mẹ mình lấy một bơ tươi mới tan, có màu như hoa Champac (hoa Sứ) đổ đầy vào bình bát ấy, nó liền tỏa ra một làn ánh sáng. Thấy vậy nàng cầu nguyện:

– Lạy Thánh giả, ước gì khi con tái sinh, thân thể con sẽ phát ra một luồng ánh sáng, con sẽ được xinh đẹp và không bao giờ ở chung nhà với kẻ đê tiện này nữa.

Vì kết quả lời nguyền ngày xưa này, nàng không muốn gặp lại cậu nữa. Và Bồ-tát khi thả chiếc bánh lại vào bình bát, đã khấn:

– Lạy Thánh giả, dù nàng ở cách xa trăm dặm, cũng xin cho con có đủ uy lực bắt nàng về làm vợ.

Vì cậu đã giận dữ lấy chiếc bánh, nên kết quả của nghiệp quá khứ ấy là cậu bị tái sinh rất xấu xí.

Phần vua Kusa vô cùng đau khổ khi Pabhàvatì bỏ ngài ra đi, đến độ các cung phi khác, dù đã phụng sự ngài đủ mọi cách, ngài cũng không còn lòng dạ nào ngó ngàng đến họ; toàn cungđiện ngài thiếu mất Pabhàvatì trông thật vô cùng hiu quạnh. Sau đó ngài nghĩ thầm: “Lúc này chắc nàng đã về đến thành Sàvala”; và ngay sáng ngày hôm sau ngài tìm đến mẹ, và thưa:

– Tâu mẫu hậu, con sẽ đi tìm Pabhàvatì về đây. Xin mẫu hậu trị vì quốc độ thay con.

Và ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Đất nước này hoan lạc ngập tràn
    Ngọc vàng châu báu, vật trang hoàng,
    Thay con, mẫu hậu lên cai trị,
    Con sẽ ra đi để kiếm nàng
    .

Khi nghe ngài nói vậy, mẫu hậu bảo:

– Này vương nhi, con phải thật hết sức tỉnh giác, nữ nhân là giống có tâm bất tịnh.

Sau đó, bà đổ đầy thực phẩm cao lương vào chiếc bát vàng và bảo:

– Vương nhi để dành lương thực lúc đi đường.

Rồi bà từ giã ngài. Cầm lấy bát thức ăn ấy xong, ngài đảnh lễ mẫu hậu rất cung kính rồi nói to:

– Nếu con còn sống, con sẽ có ngày gặp mẹ.

Và ngài trở về cung thất của mình.

Ngài trang bị năm thứ vũ khí cho mình, đặt một ngàn đồng tiền vào túi xách xong cầm cái bát thức ăn, chiếc đàn Kokanada và rời kinh thành. Ngài là người lực lưỡng, nên đến giữa trưa, ngài đã đi được năm mươi dặm đường. Sau khi ăn xong, còn nửa ngày ngài đi thêm năm mươi dặm đường nữa, vì thế chỉ trong vòng một ngày ngài đã đi được cả trăm dặm đường.

Chiều tối ngài tắm rửa và vào kinh thành Sàgala. Khi ngài vừa đến nơi thì do uy lực đức độ của ngài, nên Pabhàvati không thể nằm yên trên vương sàng mà phải bước xuống nằm trên sàn nhà. Bồ-tát lúc ấy đã mệt lã vì cuộc hành trình, khi ngài đang lang thang trên đường ngài gặp một người đàn bà mời vào nhà nghỉ ngơi. Sau khi rửa chân xong, bà ấy mời ngài đi ngủ.

Lúc ngài đang ngủ, bà ấy lo dọn cơm cho ngài, rồi thúc ngài dậy ăn cơm, ngài vô cùng đẹp ý nên đã cho bà ấy luôn cả ngàn đồng tiền và cái bát vàng. Để lại chỗ đó luôn cả năm loại vũ khí, ngài bảo:

– Ta cần phải đi vài chỗ nữa.

Khi cầm cây đàn lên, ngài đi đến chuồng voi và gọi các người quản tượng:

– Hãy cho ta ở đây và ta sẽ chơi nhạc để các anh nghe.

Họ đồng ý. Ngài liền đi ra ngoài, và nằm xuống. Khi đã hết mệt mỏi, ngài đứng dậy mở đàn ra, vừa hát vừa nghĩ: “Dân chúng trong kinh thành sẽ nghe tiếng đàn”.

Trong lúc Pabhàvati nằm trên sàn nhà, nàng nghe tiếng hát và suy nghĩ: “Tiếng đàn này không thể của ai khác ngoài vua ấy”, nàng biết chắc vua Kusa đã đến đây chỉ vì nàng. Vua Madda cũng nghe tiếng đàn, liền nghĩ thầm: “Gã kia chơi đàn thật du dương. Ngày mai ta sẽ gọi gã vào cho làm nhạc công”. Còn Bồ-tát suy nghĩ: “Ta không thể nào thấy Pabhàvatì nếu ta ở đây, chỗ này không phải dành cho ta”.

Sáng hôm sau, ngài dậy thật sớm, ăn điểm tâm trong nhà trọ xong, ngài bỏ đàn, và đi đến người thợ gốm của vua xin làm thợ học việc. Một ngày kia, sau khi đổ đất sét vào đầy nhà, ngài hỏi người kia xem ngài có thể làm một số bình đất được chăng, người thợ gốm đáp:

– Được lắm.

Ngài liền đặt cục đất lên bánh xe quay tròn. Khi đã quay được rồi, bánh xe quay nhanh đến giữa trưa.

Sau khi làm đủ mọi loại bình đất lớn nhỏ, ngài bắt đầu làm một chiếc đặc biệt cho Pabhàvatì có nhiều hình vẽ trên đó. Thật vậy, mục đích của chư Phật bao giờ cũng thành tựu. Ngài quyết định chỉ một mình Pabhàvatì được thấy các hình vẽ này thôi. Khi ngài phơi khô và nung các bình xong, ngôi nhà đầy cả đồ gốm.

Người thợ gốm ấy đem nhiều mẫu hàng đến cung vua. Vua thấy đồ gốm liền hỏi ai đã làm ra chúng.

– Tâu Đại vương, chính hạ thần.

– Trẫm chắc không phải ngươi làm được, vậy thì ai làm?

– Tâu Đại vương, người thợ học việc của hạ thần.

– Không thể là thợ của ngươi được, phải thầy của ngươi mới đúng. Ngươi hãy học nghề với người ấy. Từ nay hãy để người ấy làm bình gốm cho các công chúa của trẫm.

Vua ban cho gã một ngàn đồng tiền và bảo:

– Hãy trao tiền này cho người ấy, và đưa các bình nhỏ đến các công chúa.

Gã cầm các bình nhỏ đến trao các công chúa, và thưa:

– Những thứ này làm riêng để các công nương chơi.

Các công chúa đều có mặt để nhận quà tặng.

Sau đó, người thợ gốm trao cho Pabhàvatì cái bình mà bậc Đại Sĩ đã làm riêng cho nàng. Khi cầm lên, nàng nhận ra ngay hình vẽ nàng và nhũ mẫu lưng gù, và biết đó là công trình bằng tay của không ai khác ngoài vua Kusa, nàng tức giận bảo:

– Ta không cần cái này, đem cho ai muốn lấy nó đi.

Các công chúa kia thấy nàng giận dữ đều cười bảo:

– Đại tỷ tưởng đó là công trình của vua Kusa, chính người thợ gốm làm nó chứ có phải vua ấyđâu, hãy nhận đi.

Nàng không bảo cho các em biết vị vua ấy đã đến đây và làm đồ gốm.

Còn người thợ gốm trao ngàn đồng vàng ấy cho Bồ-tát, và bảo:

– Này con, đức vua rất hài lòng vì con. Từ nay con phải làm đồ gốm cho các công chúa, còn ta sẽ đem chúng đến tặng các nàng.

Ngài suy nghĩ: “Mặc dù ta ở đây, ta cũng không thể thấy Pabhàvati được”. Ngài liền trả tiền lại người thợ gốm và đi đến nhà người đan giỏ cho vua.

Sau khi trở thành thợ học việc với người này, ngài làm một chiếc quạt bằng lá thốt nốt cho Pabhàvatì, trên đó ngài vẽ một chiếc lọng trắng (biểu tượng của vương quyền), và lấy đề tài một phòng đại tiệc có nhiều hình người trong ấy, ngài vẽ hình Pabhàvatì đang đứng giữa.

Người thợ đan giỏ đem những thứ thủ công do vua Kusa làm đến cung điện. Vua thấy, hỏi ai làm chúng như trước và ban một ngàn tiền vàng cho người này, rồi bảo:

– Hãy trao những mẫu đồ đan lát này cho các công chúa.

Ngài lại trao chiếc quạt đặc biệt dành cho Pabhàvatì. Lần này cũng vậy, không ai nhận ra các hình vẽ; song Pabhàvatì, khi thấy chúng, liền hiểu ngay công trình của vua Kusa, và bảo:

– Hãy đưa thứ này cho ai thích nó thì lấy đi.

Rồi nàng giận dữ ném xuống đất.

Các công chúa kia lại cười nàng. Còn người thợ đan giỏ đem tiền về trao cho Bồ-tát. Ngài nghĩ rằng nơi này cũng không phải chỗ dành cho ngài ở được, nên ngài trả tiền lại cho người đan giỏ rồi đi đến gặp người giữ ngự viên của vua và trở thành thợ học việc.

Trong khi làm đủ loại vòng hoa, ngài làm một vòng đặc biệt dành cho Pabhàvati, nổi bật với nhiều hình dáng khác nhau. Người giữ vườn lại đem đến cung điện.

Khi vua thấy, bèn hỏi ai làm các kiểu vòng hoa này.

– Tâu Đại vương, chính hạ thần.

– Ta chắc ngươi không thể làm được, vậy ai?

– Muôn tâu, chính chú thợ học việc của hạ thần.

– Kẻ này không thể là thợ của nhà ngươi mà phải là tay thầy. Ngươi hãy học nghề với người này, từ nay người này phải kết vòng hoa cho các công chúa và trao cho gã ngàn đồng vàng này.

Khi ban tiền cho người thợ, vua phán:

– Hãy đem các vòng hoa đến dâng lên các công chúa của trẫm.

Còn người giừ vườn lại dâng lên Pabhàvati vòng hoa mà Bồ-tát đã làm riêng tặng nàng. Ở đây nữa, nàng lại thấy giữa các hình ảnh khác nhau, có cả hình nàng và vua, nàng lại nhận ra đó là công trình mỹ nghệ của vua Kusa, nên nàng giận dữ ném xuống đất.

Các công chúa em nàng cũng cười nhạo nàng như trước. Người làm vườn đem ngàn đồng tiền về trao cho Bồ-tát và kể hết mọi sự tình đã xảy ra. Ngài suy nghĩ: “Chỗ này cũng không phải của ta”. Ngài trả lại tiền cho người làm vườn rồi đi làm thợ học việc với hỏa đầu quân của vua.

Một ngày kia, người đầu bếp đem đủ loại cao lương mỹ vị đến dâng vua, vào trao cho Bồ-tát một miếng thịt để nấu cho phần ngài. Ngài nấu thịt tuyệt khéo, đến độ mùi thơm bay khắp kinh thành. Vua ngửi mùi thơm, hỏi thử xem người đầu bếp còn nấu thêm món thịt gì trong bếp chăng.

– Tâu Đại vương, không. Song hạ thần có trao cho người thợ học việc một miếng thịt xương đề nấu, chắc đó là mùi thịt mà Đại vương vừa ngửi.

Vua truyền đem món thịt ấy đến và đặt một miếng lên đầu lưỡi, lập tức nó làm bừng dậy và rúng động cả bảy ngàn vị giác! Vua say mê lạc thú được thưởng thức các cao lương nên trao cho người đầu bếp một ngàn đồng tiền và phán:

– Từ nay ngươi phải đem ngự thiện dâng lên trẫm và các công chúa do thợ học viện của ngươi nấu, ngươi đem phần của trẫm đến dâng trẫm, còn thợ học việc của ngươi thì đem dâng phần các công chúa.

Người thợ về kể lại mọi sự; nghe thế ngài suy nghĩ: “Nay ước vọng của ta đã thành tựu. Ta sẽ gặp được Pabhàvatì rồi”. Lòng đầy hân hoan, ngài trao ngàn đồng tiền cho người đầu bếp và hôm sau ngài nấu các món ăn để dâng vua, còn chính ngài đi lên nội cung, nơi Pabhàvatì đang cư ngụ, gánh theo một gánh thức ăn cho các công chúa.

Pabhàvatì thấy ngài đi lên với gánh nặng như vậy liền suy nghĩ: “Ngài đang làm công việc của kẻ gia nô phục dịch thật không xứng đáng với ngài tý nào. Song nếu ta để yên, ngài sẽ tưởng tađồng ý như vậy, rồi không chịu đi nơi khác, cứ ở tại đây mà nhìn ta chằm chặp. Ta phải lập tức nhục mạ phỉ báng ngài và đuổi ngài đi, không cho ngài ở lại đây phút nào nữa!”.

Thế là nàng mở hé cửa ra, để một tay trên cánh cửa, tay kia đè lên then cửa và ngâm vần kệ nhì:

  1. Ku-sa, ngài phải chịu ngày đêm
    Mang gánh nặng này thực chẳng nên,
    Đất nước Ku-sa, mau trở lại,
    Dị hình, ta chẳng chút ưa nhìn!

Ngài liền suy nghĩ: “Ta đã nghe được lời Pabhàvati nói rồi”. Lòng mừng khấp khởi, ngài vội ngâm ba vần kệ:

  1. Pab-hà, say đắm bởi dung nhan,
    Đất nước ta đâu thiết ngó ngàng,
    Mỹ quốc Mạch- đa, niềm lạc thú,
    Bỏ ngai, ta sống để tìm nàng!
  2. Quang Huy kiều nữ, mắt mơ màng,
    Sao chiếm lòng ta đến dại cuồng?
    Hiểu rõ giang sơn là đất mẹ,
    Điên rồ phiêu bạt khắp mười phương!
  3. Mình khoác tấm da rực sáng ngời,
    Vòng lưng đai quấn ánh vàng tươi,
    Tình nàng, kiều nữ, ta khao khát,
    Ta chẳng màng ngôi báu ở đời!

Khi ngài đã nói vậy xong, nàng suy nghĩ: “Ta phỉ báng ngài chỉ vì muốn làm cho ngài uất hận trong lòng; song ngài lại cố dùng lời lẽ hòa dịu với ta. Giả sử ngài bảo: <Ta là vua Kusa>, và bắt lấy ta, thì có ai cản ngài được? E rồi có kẻ nghe lọt được câu chuyện giữa ta và ngài nóiđây”.

Thế là nàng vội đóng cửa lại và cài then kỹ bên trong. Còn ngài cầm đòn gánh lên và đem thức ăn đến các công chúa kia. Pabhàvatì bảo nữ tỳ lưng gù đem cho nàng các món ăn do vua Kusa nấu. Bà vú đem lại và bảo:

– Công chúa ăn đi nào.

Pabhàvatì nói:

– Ta không muốn ăn những thức ăn do vua ấy nấu đâu. Bà hãy ăn rồi đi lấy thức ăn của bà nấu cho ta và đem lại đây. Song đừng nói cho ai biết vua Kusa đã đến rồi đấy nhé.

Bà vú lưng gù từ đó đem về ăn phần thức ăn của công chúa, và đưa cho nàng phần thức ăn của bà ta. Cũng từ đó vua Kusa không thể nào thấy nàng được lại suy nghĩ: “Ta không biết Pabhà có thương yêu ta chút nào chăng, ta muốn thử xem nàng ra sao”.

Thế là sau khi đưa thức ăn đến dâng các công chúa kia, ngài lại gánh thức ăn lên vai, bước ra đạp chân xuống sàn nhà cạnh cửa khuê phòng của Pabhàvatì, làm cho các dĩa thức ăn đụng nhau kêu loảng xoảng, rồi ngài vừa hét lên vừa ngã nhào xuống đất mê man bất tỉnh giữa đống đồ đạc.

Khi nghe tiếng ngài kêu lớn, nàng mở cửa phòng ra nhìn, thấy ngài ngã quỵ dưới sức nặng của gánh đồ ngài đang mang đi, nàng thầm nghĩ: “Đây là vị Đại vương ngự trị toàn cõi Diêm-phù-đề, thế mà vì ta, ngài đã chịu bao khổ sở ngày đêm; bởi trước kia ngài được nâng niu chiều chuộng kỹ lưỡng nên nay đã ngã nhào do gánh nặng thức ăn mà ngài đang mang đây. Thôi để ta xem ngài còn sống không’’.

Rồi bước ra khỏi phòng, nàng nghễnh cổ lên nhìn vào mồm ngài xem hơi thở ra sao. Ngài phì nước bọt ra đầy miệng làm văng cả lên người nàng. Nàng vội rút lui về phòng, và phỉ báng ngài, khi nàng đứng bên cửa hé mở, nàng ngâm kệ sau:

  1. Rủi thay phận kẻ mãi mong cầu
    Thấy bị chối từ mọi ước ao,
    Như Đại vương, theo đòi thắm thiết
    Tình kia chẳng đáp được đâu nào!

Nhưng vì ngài đang si tình nàng đến độ điên cuồng, nên dù ngài bị nàng phỉ báng, mạ ly đến đâu đi nữa, ngài vẫn không tỏ vẻ oán hận mà chỉ ngâm kệ này:

  1. Ai chiếm được người dạ luyến thương,
    Dù tình đáp lại hoặc đơn phương,
    Chỉ thành công ấy làm khâm phục,
    Thất bại là bi thảm đoạn trường!

Trong khi ngài nói như vậy, nàng vẫn không động lòng thương, còn đáp lại với giọng cương quyết như để xua đuổi ngài đi bằng vần kệ sau:

  1. Theo đuổi nữ nhi chẳng thuận lòng
    Khác nào đào đá tảng trên đồng,
    Lưỡi cày bằng gỗ giòn mau gẫy,
    Hay đón gió bằng chiếc lưới không!

Nghe thế, vua ngâm tiếp ba vần kệ nữa:

  1. Như đá trơ trơ, quả dạ nàng,
    Bề ngoài hiền dịu tuyệt trần gian!
    Không lời thăm hỏi dù ta đến
    Theo đuổi tình ai vạn dặm đàng!

10 Nàng cứ cau mày lúc ngắm ta,
Sa sầm dáng điệu, chúa kiêu xa,
Còn ta, chỉ một tên đầu bếp
Trong chốn cung đình xứ Mạch-đa.

  1. Hoàng phi, ví thử xót thương người,
    Hạ cố ban ta một nụ cười,
    Ta chẳng còn làm đầu bếp nữa:
    Ku-sa chúa tể ngự trên đời!

Nghe ngài nói vậy, nàng nghĩ thầm: “Ông vua này thật cứ nói dai dẳng đến cùng. Ta phải tìm mưu nói dối để đuổi ngài đi nơi khác”. Nàng liền ngâm kệ này:

  1. Nếu thầy tướng số nói không sai,
    Thì chính tiên tri đúng thế này:
    “Nàng bị chặt ra thành bảy mảnh,
    Khi nàng lấy chúa Cát Tường đây.

Nghe vậy vua cãi lại ngay:

– Này ái hậu, ta cũng đã hỏi ý các thầy tướng số ở xứ ta và họ tiên đoán chẳng ai có thể làm phu quân của ái hậu trừ vị chúa công có giọng như sư tử, là Đại đế Kusa, và theo trí hiểu biết của ta, ta cũng thấy những điều trên như vậy.

Ngài lại ngâm vần kệ khác:

  1. Nếu thầy tướng số khác cùng ta
    Nói những lời chân thật, quả là:
    Nàng chẳng tôn ai làm chúa tể
    Của nàng, trừ Đại đế Ku-sa!

Nghe ngài nói vậy, nàng tự bảo: ‘Ta không thể làm nhục ngài được! Vậy dù ngài chịu rời bỏ đi hay không thì có nghĩa lý gì đối với ta”. Nàng liền đóng cửa lại để khỏi ló đầu ra nữa. Ngàiđành gánh đồ đạc lên ra đi.

Tứ ngày ấy, ngài không còn trông thấy nàng nữa và ngài trở nên vô cùng chán nản với công việc bếp núc của ngài. Khi ăn điểm tâm xong, ngài phải chẻ củi, rửa bát dĩa, gánh nước rồi nằm nghỉ ngơi trên đống thóc. Ngài dậy thật sớm lo nấu cháo, rồi đem thức ăn đi phục dịch, và ngài chịu đựng mọi sự hành hạ thân xác này chỉ vì quá si tình nàng Pabhàvatì.

Một ngày kia, ngài thấy bà vú lưng gù đi ngang qua cửa bếp, liền chào bàVì sợ Pabhàvatì, bà vú không dám đến gần ngài, chỉ làm ra vẻ đang vội vàng lắm. Thế là ngài chạy ngang đến gần bà ta, bảo:

– Này bà già gù?

Bà vú quay lại hỏi:

– Ai đấy nhỉ? Già này chẳng dám nghe những gì ngài nói đâu!

Ngài liền bảo:

– Cả hai chủ tớ ngươi thật quá ngang bướng! Dù ta ở gần các người lâu nay, ta cũng chẳng nghe già nói gì về ngọc thể của nàng cả.

Bà gù đáp:

– Thế ngài có quà gì cho già này chăng?

Ngài vội đáp:

– Giả sử ta cho ngươi quà, ngươi có gắng sức làm sao Pabhàvatì nguôi lòng và cho ta gặp mặt nàng chăng?

Nghe bà vú ưng thuận, ngài bảo:

– Nếu ngươi làm được việc ấy, ta sẽ chữa cho lưng gù của ngươi thẳng lên, rồi tặng ngươi một vòng vàng đeo cổ.

Rồi để dụ bà vú, ngài ngâm năm vần kệ:

  1. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
    Khi đến Ku-sa, xứ sở nhà,
    Ví thử Pa-bhà thân yểu điệu
    Rủ lòng hạ cố đoái nhìn ta!
  2. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
    Khi đến Ku-sa, xử sở nhà,
    Ví thử Pa-bhà, nàng thục nữ,
    Rủ lòng hạ cố nói cùng ta!
  3. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
    Khi đến Ku-sa, xử sở nhà,
    Ví thử Pa-bhà, nàng thục nữ,
    Rủ lòng cười hé nụ cùng ta!
  4. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
    Khi đến Ku-sa, đất nước nhà,
    Ví thử Pa-bha thân yểu diệu,
    Sẽ tươi cười diện kiến cùng ta!
  5. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
    Khi đến Ku-sa, đất nước nhà,
    Ví thử Pa-bhà nàng thục nữ,
    Đưa tay âu yếm đặt vào ta!

Nghe lời ngài, bà vú bảo:

– Thôi xin Đại vương đi cho rồi, chỉ trong vài ngày nữa thôi, già này sẽ đưa nàng đặt vào tay Đại vương! Đại vương sẽ thấy già này đắc lực ra sao.

Nói vậy xong, bà già quyết định hành động ngay; vừa đi đến gặp Pabhàvati, bà làm bộ lau chùi phòng nàng thật sạch, không còn sót một chút bụi nào, rồi cởi đôi hài của nàng ra, bà quét dọn cả phòng nàng.

Sau đó, bà già đặt một chiếc ghế cao cho bà ở ngay bực cửa (để giữ kỹ phía ngoài cửa), rồi trải nệm trên một chiếc ghế thấp cho nàng, bà bảo:

– Này công chúa yêu ơi, để già bắt chấy trên đầu nàng nhé!

Bà đặt nàng ngồi đó, kê đầu vào lòng bà, xoa nhẹ cho nàng một lát rồi bảo:

– Ô kìa, ta bắt được nhiều chấy quá?

Bà già bắt được vài con chấy trên đầu bà, đặt lên đầu công chúa, rồi nói về bậc Đại Sĩ với lời lẽ yêu thương, bà ca ngợi ngài qua vần kệ này:

  1. Công nương này chẳng thấy lòng vui
    Nhìn chúa Ku-sa chút nữa rồi,
    Dù chẳng thiếu gì, ngài phục dịch
    Kiếm tiền như nấu bếp tôi đòi.

Pabhàvatì liền nổi giận với bà gù ngay. Thế là bà vú già nắm cổ nàng đẩy vào phòng, còn bàđứng phía ngoài đóng cửa lại, đứng sát vào sợi dây thừng kéo cửa. Pabhàvatì không thể tới gần chụp bà vú được, phải đứng sát cửa và mắng nhiếc bà vú qua vần kệ khác:

  1. Mụ già nô lệ lưng gù vầy
    Sao dám buông lời quái dị thay!
    Xứng đáng được ta truyền cắt lưỡi
    Bằng thanh kiếm ngọt nhất đời này!

Bà già gù cứ đứng sát như vậy vào sợi dây thừng buông thả xuống và bảo:

– Này, nàng chỉ là người vô dụng, lại đối xử tàn tệ thế kia, chứ sắc đẹp của nàng có ích lợi cho ai chăng?

Nói xong, bà già cao giọng nêu rõ mọi công đức của Bồ-tát, vừa thét to bằng giọng khàn khàn của một người lưng gù qua mười ba vần kệ sau:

  1. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy gắng làm cho ngài đẹp ý,
    Vinh quang ngài vĩ đại cao vời!
  2. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Triều ngài hưng thịnh nhất trên đời.
  3. Pab-hà hởi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Quyền uy ngài vĩ đại trên đời.
  4. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Quyền ngài cai trị rộng khắp nơi.
  5. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Ngài là vị Đại đế hùng oai.
  6. Pab-hà hỡi, chờ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Giọng của ngài như sư tử hống,
    Hãy làm toại ý đẹp lòng ngài.
  7. Pab-hà hỡi, chờ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Giọng ngài trong trẻo vút ngân dài.
  8. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Giọng ngài trầm lắng tận lòng ai!
  9. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý
    Giọng ngài êm dịu quá, nàng ôi!
  10. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý
    Giọng ngài như mật rót vào tai!
  11. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy gắng làm cho ngài mãn nguyện,
    Vì ngài có cả một trăm tài.
  12. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy gắng làm cho ngài mãn nguyện
    Ngài, vua Sát-đế-lỵ anh tài!
  13. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy gắng làm cho ngài đẹp ý,
    Ku-sa Đại đế, chính là ngài!

Nghe bà vú nói vậy, Pabhàvatì đe dọa:

– Này mụ già gù lưng ơi, sao mụ la to thế kia? Nếu ta chụp được mụ thì ta sẽ cho mụ biết tay ta là chủ đấy nhé.

Bà vú đáp:

– Lâu nay già vị tình nàng nên đã không tâu trình phụ vương về việc vua Kusa đến đây. Được rồi, hôm nay già sẽ đi trình đức vua cha.

Bà ta cũng cất cao giọng để hăm he nàng. Vì sợ có người nghe lọt chuyện này, nên nàng đành hoà dịu với bà già gù lưng ấy.

Thế là Bồ-tát không còn cách nào nhìn thấy nàng được nữa; sau bảy tháng ròng rã, ngài đâm chán ngán cảnh giường thô cơm hẩm, ngài suy nghĩ: “Ta cần gì nàng nữa chứ? Sau bảy tháng ởđây, ta chẳng còn cách nào được giáp mặt nàng, nàng thật quá nhẫn tâm tàn ác. Thôi ta quyết đi về thăm song thân ta mà thôi”.

Vào lúc ấy Sakka Thiên chủ xem xét vấn đề này và nhận thấy vua Kusa đã bất mãn đến độ nào rồi, nên ngài suy nghĩ: “Sau bảy tháng vua Kusa không còn biết làm sao gặp mặt Pabhàvatì, ta cố tìm cách gì để giúp ngài thấy được nàng”.

Sau đó, Sakka Thiên chủ sai các Thiên sứ đi yết kiến bảy vị quốc vương khác làm như thể vừa từ kinh đô vua xứ Madda đến và tâu:

– Nàng Pabhàvatì đã rời bỏ vua Kusa và trở về nhà phụ vương nàng. Vậy xin Đại vương hãy đến cầu hôn nàng gấp.

Cứ mỗi quốc vương, Thiên chủ đều gửi riêng một thông điệp như vậy.

Mỗi vị vua kia đều đi đến kinh thành cùng một đoàn tùy tùng đông đảo, và đều không biết lý do đến đây của các vua khác. Các vị liền hỏi nhau:

– Tại sao Đại vương đến đây?

Và khi khám phá được các sự việc đang diễn tiến ra sao, các vua ấy đều nổi giận và bảo:

– Quốc vương này có ý muốn gả một nàng công chúa cho cả bảy chúng ta ư? Hãy nhìn xem lão đối xử tồi tệ mức nào. Lão nhạo báng chúng ta khi bảo: “Hãy cưới nàng làm vương hậu’’. Vậy lão phải gả Pabhàvatì cho cả bảy chúng ta hoặc là phải chiến đấu với chúng ta mà thôi.

Các vua ấy liền gửi thông điệp cho vua Madda về việc này và bao vây kinh thành.

Khi nghe thông điệp, vua Madda lo ngại và hỏi ý kiến quần thần:

– Ta phải làm sao đây?

Quần thần đáp:

– Tâu Chúa thượng, bảy vua này đến đây tìm công chúa Pabhàvatì. Nếu Chúa thượng từ khước việc gả nàng, các vị ấy sẽ phá thành xông vào kinh đô, rồi sau khi tiêu diệt chúng ta xong, họ sẽ chiếm vương quốc của Chúa thượng. Vậy, trong khi thành chưa bị phá vỡ, ta hãy trao công chúa Pabhàvatì cho họ.

Rồi quần thần ngâm kệ này:

  1. Như thể bầy voi trận vẻ vang
    Dàn binh sừng sững, giáp bào mang,
    Trước khi chúng dẫm tan thành lũy,
    Xin chúa mau mau gửi cống nàng!

Vua nghe vậy liền phán:

– Ví thử trẫm trao Pabhàvatì cho bất cứ một vua nào, thì đám vua kia sẽ giao chiến với trẫm. Vậy không thể nào gả nàng cho bất cứ một ai cả. Sau khi bỏ rơi vị chúa tể tối cao của toàn cõi Diêm-phù-đề, nàng phải lãnh lấy phần thưởng do việc nàng trở về nhà. Trẫm sẽ giết nàng và phân thây làm bảy mảnh để tặng cho bảy vị vua này mỗi người một phần.

Nói xong vua ngâm kệ khác:

  1. Chặt Pa-bhà bảy khúc cho cân,
    Ấy chính lời nguyền của trẫm ban
    Cho bảy vua kia, người một mảnh,
    Những người đến giết phụ vương nàng!

Lời nói này của vua được truyền vang khắp cung điện. Các tỳ nữ của Pabhàvatì đến bảo nàng:

– Người ta đồn rằng Chúa thượng sẽ truyền chặt công chúa ra bảy mảnh rồi gửi cho bảy vị vua ấy?

Nàng kinh hồn bạt vía, vùng đứng lên từ chỗ ngồi, rồi được các cô em gái hộ tống đến cung thất của mẫu hậu.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ để giải thích vấn đề:

  1. Diễm lệ, dù da nhuốm sắc đen,
    Bà hoàng vụt cất bước chân lên
    Trước đoàn thị nữ theo hầu cận
    Mình khoác lụa tơ, tiếng khóc rền.

*

Nàng bước vào yết kiến mẫu hậu, đảnh lễ bà xong liền cất lời than vãn:

  1. Mặt phấn điểm trang, này soi gương sáng
    Khéo gắn khung ngà, quyến rũ, giờ đây
    Bao nét trắng trong biểu lộ thơ ngây
    Sắp bị các vua quăng nằm rừng vắng.
  2. Làn tóc đen huyền cuộn tròn duyên dáng
    Thật dịu mềm, ngào ngạt tỏa chiên-đàn,
    Kền kền tìm, dù che kín rừng hoang
    Dùng móng vuốt xé tan, tung theo gió.
  3. Đôi tay, đầu ngón sơn màu đồng đỏ,
    Tẩm trầm hương sực nức mịn lông măng,
    Chặt vứt rừng hoang bởi chúa kiêu căng,
    Loài sói chụp tha về hang dấu kín.
  4. Đầu vú tròn như chà là muồi chín,
    Ngàt đàn hương người đốn ở Kà-si,
    Sơn cẩu đến gần, chắc sẽ kéo đi,
    Như đứa trẻ ôm ghì bầu sữa mẹ.
  5. Đôi mông đầy, dáng căng tròn, mạnh khỏe,
    Quấn quanh vòng đai rực rỡ vàng ròng,
    Chặt vứt rừng hoang bởi chúa kiêu hùng,
    Loài sói chụp tha về nơi muốn dấu.
  6. Mãnh thú săn mồi: sài lang, sơn cẩu,
    Hễ một khi chúng ăn thịt Pa-bhà,
    Không thể nào còn phải chịu chết già.
  7. Nếu các võ vương đến tử viễn xứ,
    Chặt tấm thân này của nàng thục nữ ,
    Xin lấy xương con, đốt với lửa nồng,
    Ở một nơi nào xa lánh bụi hồng.
  8. Rồi mẹ lập một vườn hoa gần đó,
    Mẹ trồng khóm Ka-ni-kà-ra nhỏ,
    Khi đông tàn, cây ấy sẽ đơm hoa,
    Và mẹ ôi, khi mẹ nhớ con thơ,
    Mẹ hãy chỉ vào hoa mà kể lể:
    “Ái nữ Pa-bhà ngày xưa là thế…”

Như vậy, nàng quá kinh hoàng vì sợ chết nên cứ than khóc nỉ non với mẹ nàng. Còn vua Madda ra lệnh cho đao phủ đến, đem theo cái rìu và tấm thớt. Việc đao phủ sắp đến được đồn vang động khắp hoàng cung, mẫu hậu nghe tin lão đến, liền vùng dậy khỏi chiếc bảo tọa của bà, và đi vào yết kiến vua, lòng tràn ngập đau buồn.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Khi nhìn tấm thớt với gươm trần
    Đã đặt trong vòng tử tội nhân,
    Mẫu hậu như Thiên thần đứng dậy,
    Vội đi tìm gặp đấng vương quân.

*

Rồi mẫu hậu ngâm kệ sau:

  1. Với gươm này, chúa tể Mạch-đa
    Sẽ giết nàng công chúa nõn nà,
    Rồi gửi tấm thân nàng, mỗi mảnh
    Mỗi vua cừu địch để làm quà.

Vua cố trấn an bà và phán:

– Này ái hậu nói gì thế này? Công chúa của ái hậu đã từ bỏ vị Đại đế của toàn cõi Diêm-phù-đề chỉ vì duyên cớ vua ấy xấu xí, và cam phận chịu chết nên vội trở về nhà trước khi dấu chân nàng được xóa sạch trên con đường nàng đã đi qua. Vậy thì nay nàng phải gặt hái lấy hậu quả của lòng ganh tị do sắc đẹp của nàng gây ra đó thôi.

Sau khi nghe vua nói, mẫu hậu đến gặp con gái và than thở như vầy:

  1. Con chẳng nghe lời nói của ta
    Đã khuyên con phận đẹp duyên ưa,
    Nay thân con phải vương màu máu,
    Con sẽ chìm vào cõi Dạ-ma.
  2. Số phận kia ta phải gánh mang
    Hoặc chung cùng gặp lắm bi thương,
    Vì làm ngơ trước lời khuyên tốt,
    Bỏ các lời răn của bạn vàng.
  3. Ví thử hôm nay con sánh vai
    Cùng hoàng tử dũng cảm anh tài,
    Đại vương trang điểm toàn vàng ngọc,
    Sinh trưởng Ku-sa xứ sở ngài,
    Thì hẳn bạn bè không hộ tống
    Con đành mau bước xuống tuyền đài.
  4. Khi trống đánh, vương tượng thét vang,
    Trong cung đình, giữa chốn trần gian,
    Còn nơi nào nữa ta tìm thấy
    Hạnh phúc cao hơn được hởi nàng?
  5. Khi bầy ngựa hí, các ca nhân
    Rền rĩ điệu buồn với chúa công,
    Lạc thú như vầy trong bảo điện
    Còn gì đâu để sánh ngang bằng?
  6. Khi tiếng sơn ca hòa tiếng công
    Cò kêu, hạc sếu gọi lừng vang,
    Như vầy cực lạc sao tìm được
    Nơi khác hay chăng, mẹ hỏi nàng?

Sau khi trò chuyện với nàng như vậy qua các vần kệ này, mẫu hậu suy nghĩ: “Giá bây giờ có vua Kusa ở đây, thì ngài sẽ đuổi bảy vua kia cao chạy xa bay và sau khi giải thoát con gái ta khỏi chịu khổ hình, lại sẽ đem nàng đi về nước”. Rồi bà ngâm kệ:

  1. Nay ở đâu người dẫm nát tan
    Nước thù và chiến thắng cừu nhân?
    Ku-sa cao thượng đầy mưu trí
    Sẽ cứu nhà ta khỏi đoạn trường!

Lúc ấy Pabhàvatì suy nghĩ: “Mẫu hậu không đủ lời lẽ để tán dương vua Kusa. Ta sẽ cho mẹ ta biết ngài đang ở đây làm hết mọi việc của một kẻ đầu bếp”, và nàng ngâm kệ này:

  1. Bậc chiến thắng tiêu diệt kẻ thù,
    Kìa trông! Ngài đã đến bây giờ!
    Ku-sa cao thượng đầy mưu trí
    Sẽ giết cừu nhân cứu liễu bồ!

Mẫu hậu liền suy nghĩ: “Chắc con ta quá kinh hoàng vì sợ chết nên nói lảm nhảm đây’’, rồi bà ngâm kệ:

  1. Phải chăng con đã hóa điên rồ,
    Như kẻ si cuồng nói vẩn vơ?
    Ví thử Ku-sa đà trở lại,
    Thì sao con chẳng nói cùng ta?

Nghe nói lời này, Pabhàvatì suy nghĩ: “Mẹ ta không tin lời ta. Bà chẳng biết là ngài đã trở về và đang sống tại đây từ bảy tháng nay. Ta muốn chỉ cho mẹ thấy việc này”. Thế là nàng vừa dắt tay mẹ vừa mở cửa sổ, dang tay chỉ về phía ngài và ngâm kệ:

  1. Mẹ trông! Kẻ nấu bếp đằng kia
    Đai quấn ngang lưng thật chỉnh tề,
    Đang cúi rửa nồi niêu, bát dĩa,
    Nơi bầy công chúa ngự phòng khuê.

Chuyện kể rằng lúc bấy giờ vua Kusa nghĩ thầm: “Hôm nay tâm nguyện của ta sẽ thành tựu. Thực vậy Pabhàvatì đang kinh hoàng vì sợ chết, nên sẽ báo tin ta đang ở đây. Vậy ta phải rửa bát dĩa và đem cất hết”. Rồi ngài đi lấy nước về và bắt đầu rửa bát. Lúc ấy mẹ nàng mắng nhiếc nàng qua vần kệ:

  1. Con hạ tiện dòng dõi phải chăng?
    Đường đường là một vị công nương
    Hạ mình yêu lấy tên nô lệ
    Điếm nhục Mạch-đa tận tủy xương!

Còn Pabhàvatì suy nghĩ: “Chắc mẹ ta không biết rằng chỉ vì ta mà ngài đã sống khổ như thể này bấy lâu nay”. Và nàng ngâm kệ nữa:

  1. Hạ tiện, con đâu phải giống dòng!
    Con thề chẳng điếm nhục hoàng tông,
    May thay, ngài chẳng là nô lệ,
    Ngài kế vị Ok-ka Đại vương.

Bấy giờ nàng nói tiếp để tán tụng uy danh ngài:

  1. Hai vạn Sa-môn vẫn cúng dường,
    Chính là Thái tử Ok-kà vương,
    Con thề, ngài chẳng là nô lệ,
    Người mẹ thấy đang đứng dưới tường.
  2. Ngài thắng cân đai hai vạn voi,
    Con thề, ngài chẳng phải nô tài,
    Ngài là vương tử Ok-kà đế,
    Người mẹ thấy đang đứng đó rồi!
  3. Ngài thắng cương hai vạn ngựa nòi,
    Con thề, ngài chẳng phải tôi đòi,
    Ok-kà vương tử là ngài đó,
    Người mẹ thấy đang đứng giữa trời!
  4. Ngài vẫn cầm cương hai vạn xe,
    Ngài không nô lệ, đấy con thề,
    Ngài là vương tử Ok-kà đế,
    Người mẹ thấy đang đứng dưới kia.
  5. Hoàng ngưu hai vạn, vẫn cầm cương,
    Ngài chẳng là nô lệ, tiện dân,
    Mà chính Ok-kà-ka Thái tử,
    Là người mẹ thấy đứng bên đường.
  6. Ngài lấy sữa tươi hai vạn bò,
    Con thề, ngài chẳng phải gia nô,
    Mà là Thái tử Ok-kà đế,
    Người mẹ thấy đang đứng dưới nhà.

Như thế là cảnh huy hoàng của bậc Đại Sĩ đã được nàng tán dương qua sáu vần kệ. Lúc ấy mẫu hậu suy nghĩ: “Con ta nói một cách chắc chắn đầy tin tưởng. Hẳn là đúng vậy”, nên bà tin lời nàng và đem kể cho vua nghe đầu đuôi câu chuyện. Vua vội vã đến gặp Pabhàvatì và hỏi:

– Có thật là vua Kusa đã đến đây như chuyện chúng đồn chăng?

– Tâu phụ vương, quả đúng vậy. Đã bảy tháng nay ngài làm hỏa đầu quân cho các công chúa.

Vua cha không tin lời nàng, liền chất vấn bà già lưng gù và khi nghe bà kể mọi việc trong chuyện này, vua quở trách con gái qua vần kệ này:

  1. Như thể voi kia giả ểnh ương,
    Đến đây Thái tử đại hùng cường,
    Con sai lầm quá và khờ dại,
    Dấu chuyện, song thân chẳng tỏ tường.

Vua đã quở trách công chúa như vậy xong, vội vã đi tìm vua Kusa và sau các lễ nghi chào hỏi thông thường giữa hai vị, vua nhìn nhận sự xúc phạm của mình và ngâm kệ này:

  1. Vì trẫm không nhìn thấy được ngay
    Đại vương giả dạng đến như vầy,
    Toàn gia trẫm trót làm sai phạm,
    Đành phận xin tha thứ lỗi này!

Nghe lời này, bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Nếu ta nói nặng lời với vua cha thì lòng ngài sẽ đau đớn nát tan ngay. Nên ta muốn nói lời an ủi vỗ về ngài thôi”; rồi vừa đứng giữa đống bát dĩa, ngài vừa ngâm kệ:

  1. Hỏa đầu quân, muốn đóng tròn vai,
    Mình chính đã làm việc trái sai,
    Ví thử thân này, ngài chẳng biết,
    Yên tâm, lỗi ấy chẳng do ngài!

Sau khi vua cha được nghe những lời ân cần như vậy, liền trở về cung triệu Pabhàvatì đến, bảo nàng đi thỉnh cầu vua Kusa thứ lỗi, và ngài ngâm kệ:

  1. Mau lên, cô bé quá khù khờ
    Cầu khẩn Đại vương thứ tội cho,
    Mong ước ngài nguôi cơn thịnh nộ,
    Vui lòng cứu lấy mạng đào tơ!

Nghe lời vua cha dạy như vậy, nàng liền được cả đoàn công chúa và cung nữ hộ tống đi đến gặp ngài. Đúng ngay lúc ngài đang đứng trong bộ áo quần nô dịch, thấy nàng tiến về phía mình, ngài nghĩ thầm: “Hôm nay ta quyết đánh tan lòng kiêu mạn của Pabhàvatì và khiến nàng phải nằm mọp dưới chân ta trong đám bùn”. Rồi ngài đổ xuống đất hết cả thùng nước mà ngài đã đem đến đó, dẫm chân lên một khoảng rộng bằng cái sàn nhà đập lúa, làm thành một đám bùn. Nàng vừa bước tới liền trượt té dưới chân ngài, phải nằm phủ phục trong đám bùn mà xin ngài thứ tội.

*

Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Pa-bhà trong dáng điệu Thiên thần
    Vâng lệnh truyền kia của phụ vương,
    Đầu cúi xuống, tay ôm chặt lấy
    Đôi chân của chúa tể hùng cường.

*

Rồi nàng ngâm các vần kệ sau:

  1. Chuỗi ngày đêm thiếp sống xa ngài,
    Hoàng thượng, giờ đây đã hết rồi,
    Nhìn thiếp cúi hôn chân Chúa thượng,
    Xin đừng thịnh nộ nữa, ngài ôi!
  2. Thần thiếp giờ xin hứa với ngài,
    Nếu ngài hạ cố để vào tai,
    Chẳng bao giờ lại vì sao nữa
    Thiếp dám làm sai phạm đến trời!
  3. Song nếu lời xin bị khước từ,
    Phụ vương liền giết mạng con thơ,
    Gửi đi từng mảnh thân tan tác
    Khắp các địch vương để tặng quà!

Nghe vậy, vua nghĩ thầm: “Nếu ta bảo nàng: Việc này nàng phải tự lo liệu đấy chứ’, chắc tim nàng phải tan nát mất. Thôi ta chỉ muốn nói lời lẽ an ủi nàng”. Và ngài ngâm các vần kệ đáp lời:

  1. Ta nguyền vâng lệnh của nàng ban,
    Đem hết tâm can để cứu nàng,
    Ta chẳng thấy lòng hờn giận nữa,
    Quang Huy ngọc nữ, chớ kinh hoàng!
  2. Này nghe ta nói, hỡi công nương,
    Ta cũng trao lời hứa thật chơn:
    Ta sẽ không làm gì xúc phạm
    Chẳng bao giờ nữa, với nàng thương!
  3. Ta phải chịu bao nỗi muộn phiền
    Vì yêu nàng quá, hỡi người tiên!
    Ta nguyền giết hết bầy vua chúa,
    Cùng với nàng, ta lại đẹp duyên!

Vua Kusa lúc ấy tràn đầy niềm tự hào của một bậc đế vương khi thấy nàng như thể một thị nữ của Sakka Thiên chủ đang hầu hạ ngài, ngài nghĩ thầm: “Trong lúc ta còn sống đây, còn kẻ nào dám đến cướp mất tân giai nhân của ta được chứ?”. Và ngài liền vùng dậy giữa sân hoàng cung, bảo:

– Toàn dân kinh thành này hãy nghe lệnh truyền báo hiệu ta ngự đến đây.

Rồi ngài nhảy múa, reo hò, và vỗ tay kêu lớn:

– Nay ta muốn bắt sống chúng, hãy bảo quân hầu đem bầy ngựa đến thắng vào các cỗ xe của ta.

Rồi ngài ngâm vần kệ sau:

  1. Đi mau, thắng tuấn mã nhu thuần
    Vào các cỗ xe khéo điểm trang,
    Rồi hãy nhìn ta anh dũng tiến
    Đánh cho tan tác bọn cừu nhân.

Bấy giờ ngài từ giã Pabhàvatì và bảo:

– Việc đi tội các quốc thù của nàng là trách nhiệm của ta. Còn ái khanh hãy đi tắm rửa, điểm trang rồi lên cung của mình mà nghỉ.

Phần vua Madda gửi các quan cố vấn đến làm vệ sĩ danh dự cho ngài.

Quân thị vệ buông màn quanh ngài ngay tại cửa bếp và đem bọn thợ hớt tóc đến chăm sóc ngài. Khí râu mép của tóc ngài đã được tô điểm, và gội đầu xong xuôi, ngài được phục sức đầy đủ mọi vẻ lộng lẫy cùng với đám tùy tùng vây quanh, ngài bảo:

– Ta muốn bước lên cung điện.

Vừa nhìn quanh tứ phương, ngài vỗ tay, hễ ngài nhìn tới nơi nào là mặt đất nơi ấy rung chuyển, và ngài thét lớn:

– Này hãy xem uy lực của ta vĩ đại biết dường nào!

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Công nương nội điện chúa Mad-da,
    Chiêm ngưỡng ngài đang đứng phía xa
    Chẳng khác mãnh sư chồm đứng dậy,
    Đôi tay đấm giữa khoảng bao la.

*

Sau đó vua Madda đưa đến cho ngài một con voi đã được luyện thuần thục có thể giữ vững bình thản khi bị tấn công, và voi ấy được trang hoàng thật rực rỡ. Vua Kusa ngự lên lưng voi với chiếc lọng trắng che đầu ngài, và ra lệnh đem Pabhàvatì đến đó, đặt nàng lên ngồi sau lưng ngài xong, ngài rời kính thành bằng Đông môn, được cả đoàn đầy đủ bốn đạo quân hộ tống, và ngay khi thấy các lực lượng của quân thù, ngài thét lớn:

– Ta là vua Kusa, kẻ nào khôn hồn muốn sống hãy nằm móp xuống sát đất?

Rồi ngài rống lên ba lần tiếng hống sư tử và hoàn toàn đánh bại đám địch quân.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề này:

  1. Ngự mình voi, bà hoàng ngồi sau chúa,
    Vua Ku-sa lâm trận, giọng vang rền,
  2. Muôn loài nghe sư tử rống gầm lên,
    Địch vương thảy bàng hoàng, vùng tán loạn.
  3. Vệ sĩ, bộ binh, pháo, xa, mã, tượng
    Nghe tiếng Ku-sa, rủ liệt hãi hùng,
    Chúng rã rời và tháo chạy đường cùng.
  4. Đế Thích ngắm chiến trường, lòng hoan hỷ
    Tặng hoàng đế Ku-sa viên ngọc quí
    Ve-ro-can là mỹ hiệu bảo trân.
  5. Chiến thắng rồi, vua nhận lấy ngọc thần,
    Ngất nghểu ngự mình voi, về thị trấn
    Của Mạch-đa, các địch vương bắt sống
  6. Bị gông xiềng, đem đến trước phụ vương:
    — “Xin Chúa công hãy ngắm các cừu nhân
    Nay nằm đó, tùy nghi quyền sinh sát,
  7. Chúng chiến bại đầy đắng cay chua chát,
    Nay Chúa công tàn sát cứ thỏa lòng,
    Hay thả ra lần nữa hưởng hồng ân”.

*

Quốc vương đáp:

  1. Các địch vương này thuộc về Thiên tử,
    Nào phải quyền ta; tùy ngài xử sự,
    Chỉ ngài là Chúa tể của thần dân,
    Xin giết đi hoặc thả chúng thoát thân

Khi nghe nói vậy, bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: “Ta còn làm gì được với đám người này một khi chúng chết cả rồi? Không nên để cho chúng mất công đến đây mà chẳng được kết quả gì. Pabhàvatì còn có bảy cô em gái đều là công chúa của vua Madda, ta muốn cho chúng kết duyên với bảy vương tử này”. Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Bảy nàng công chúa tựa tiên nga
    Tuyệt thế giai nhân đẹp mắt ta,
    Gả các nàng cho vua bảy nước
    Để làm phò mã của vương gia.

Quốc vương đáp:

  1. Ngự ngôi tối thượng, trước toàn dân,
    Quyết định ngài nay phải vẹn tròn,
    Xin gả công nương theo thánh ý,
    Ngài là Chúa tể của quần thần.

Thế rồi quốc vương truyền lệnh trang điểm các công chúa thật đẹp và cử hành lễ vu qui cho mỗi nàng được kết duyên với một vua kia.

*

Bậc Đạo Sư ngâm năm vần kệ đề làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Ku-sa sư tử hống vang rền
    Đem Mạch-đa công chúa kết duyên
    Cả bảy nàng ban phần bảy vị,
    Anh hùng sánh với gái thuyền quyên.
  2. Hoan hỷ đón bao nỗi ước mơ
    Từ bàn tay Chúa tể Ku-sa,
    Bảy vương tử nọ liền hồi giá
    Trở lại triều vua mỗi nước nhà.
  3. Cầm lấy bảo châu tỏa sáng bừng,
    Xa giá Ku-sa trở lại cung
    Rước về ngọc nữ Pa-bhà ấy,
    Hoàng đế Ku-sa, bậc đại hùng.
  4. Cùng ngự vào trong một bảo xa,
    Sánh đôi vương giả trở về nhà,
    Chẳng ai sáng chói hơn người khác,
    Vì cả hai đồng đẹp tuyệt mà!
  5. Mẹ hiền ra đón rước hoàng nhi,
    Từ đó quân vương với ái thê
    Hạnh phúc lứa đôi cùng tận hưởng,
    Nước nhà hưng thinh, lạc tràn trề.

*

Khi bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài thuyết giảng các Thánh đế và nhận diện Tiền thân: – Vào lúc kết thúc các Thánh đế, vị Tỷ-kheo thối thất đã chứng Sơ quả Dự Lưu:

– Thời bấy giờ phụ vương và mẫu hậu là song thân trong hoàng gia ngày nay, vương đệ là Ànanda, bà nhũ mẫu gù lưng là Khujjutarà, nàng Pabhàvatì là thân mẫu của Ràhula, và Đại đế Kusa chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện hai hiền giả Sona – Nanda (Tiền thân Sona – Nanda)

Nhạc thần, Thiên tử, phải ngài chăng?…,

Chuyện này do bậc Đạo Sư kể trong lúc đang trú tại Kỳ Viên, về một Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình.

Hoàn cảnh đưa đến chuyện này cũng tương tự như trong Tiền thân Sàma (số 540, tập VII). Nhưng vào dịp này, bậc Đạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, chớ xúc phạm Tỷ-kheo này. Các bậc hiền trí đời xưa, dù được thỉnh cầu thống trị toàn cõi (Diêm-phù-đề), cũng đã từ chối việc ấy và phụng dưỡng song thân.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, thành Ba-la-nại được mệnh danh là Brahmavadhana. Thời ấy, vua Manoja trị vì ởđó, và một Bà-la-môn kia có thế lực và giàu sang, với tài sản lên đến tám trăm triệu đồng, nhưng không có con thừa kế. Bà vợ Bà-la-môn ấy vâng lời chồng đi cầu tự.

Lúc ấy Bồ-tát từ giã Phạm thiên giới và nhập mẫu thai bà; vào ngày sinh, ngài được gọi tên Sona nam tử. Vào thời ấu nhi đã biết chạy một mình, một vị Thiên khác từ giã Phạm thiên giới và cũng nhập mẫu thai bà. Lúc ra đời, vị ấy được gọi là Nanda nam tử.

Ngay khi hai nam tử đã được dạy đủ các Thánh điển Vệ đà và thông thạo mọi môn học thuật, vị Bà-la-môn nhìn thấy hai con trai mình đầy đủ hảo tướng biết bao, liền bảo vợ:

– Này phu nhân, chúng ta cần sắp đặt việc hôn nhân cho nam tử Sona.

Bà vợ chấp thuận ngay và thông báo việc này cho con trai. Chàng đáp:

– Con sống đời gia đình thế này là vừa đủ rồi. Bao lâu cha mẹ còn sống, con muốn phụng dưỡng cha mẹ; đến khi cha mẹ qua đời, con muốn lui về vùng Tuyết Sơn và thành người tu khổ hạnh.

Bà mẹ kể chuyện này với vị Bà-la-môn và khi họ nhắc đi nhắc lại nhiều lần nhưng không thuyết phục được con, liền bảo Nanda:

– Này con yêu, con hãy yên bề gia thất.

Chàng đáp:

– Con không muốn lượm những vật mà anh con đã vứt bỏ như thể một cục đờm. Con cũng nguyện khi cha mẹ từ trần, con cùng anh con gia nhập hội chúng khổ hạnh.

Song thân suy nghĩ: “Nếu các con ta, dù còn thanh xuân, đã từ bỏ mọi dục lạc thân xác thì chúng ta lại càng phải sống đời khổ hạnh”. Và hai vị bảo:

– Này con yêu, sao lại nói chuyện làm người tu khổ hạnh sau khi cha mẹ qua đời? Cả nhà tađều muốn cùng phát nguyện xuất gia.

Khi trình vua về mục đích của mình, họ quyết định phân phát tất cả tài sản theo cách bố thí, giải phóng các gia nhân nô tỳ và đem tặng những tài sản xứng đáng thích hợp với đám thân quyến, rồi sau đó cả bốn vị khởi hành từ kinh thành Brahmavadhana đến lập thảo am trong vùng Tuyết Sơn ở một khu rừng đầy an lạc, cạnh một hồ nước được phủ năm loại sen, các vị sống đời khổ hạnh.

Hai anh em đồng săn sóc cha mẹ. Từ sáng sớm, hai vị đưa tăm xỉa răng và nước súc miệng cho song thân. Hai vị lại quét dọn cả am thất, đem nước uống, dâu rừng ngọt ngào để cha mẹ ăn, nước nóng, nước lạnh để tắm, kết tóc cha mẹ thành từng búi, xoa dầu thơm vào chân cùng phục dịch mọi việc tương tự.

Thời gian cứ trôi qua như thế, hiền giả Nanda suy nghĩ: “Ta sẽ dâng đầy đủ mọi loại trái cây làm thức ăn cho cha mẹ”. Thế là bất cứ loại trái cây nào hái được tại chỗ ấy ngày hôm trước và hôm trước đó nữa vị ấy đều đem dâng cha mẹ sáng sớm hôm sau. Hai vị dùng trái cây xong liền súc miệng và giữ giới kiêng ăn.

Còn hiền giả Sona đi thật xa để hái trái chín ngọt về dâng cha mẹ. Hai vị liền bảo:

– Này con yêu, chúng ta đã ăn từ sáng các thứ em con mang về và bây giờ chúng ta đang kiêngăn nên không cần thứ trái cây này nữa.

Vì thế các thứ trái cây của ngài không được dùng và phải bỏ phí cả. Ngày hôm sau và sau đó nữa cũng vậy.

Và thế là do chứng đắc Năm Thắng trí, ngài đã du hành thật xa để đem trái cây về, nhưng song thân từ chối phần ấy. Sau đó bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Cha mẹ ta giờ đây rất yếu ớt, và Nanda lại đem về toàn trái cây chưa chín hoặc mới chín cho cha mẹ ăn. Nếu thế này mãi, cha mẹ sẽ không sống lâu. Ta quyết ngăn cản em ta làm việc này”. Vì vậy ngài bảo em:

– Này Nanda, từ nay về sau, khi em đem trái cây, em phải đợi đến lúc ta về, và hai chúng tađều muốn dâng cha mẹ các thức ăn cùng một lần.

Mặc dù đã được bảo vậy, Nanda vẫn muốn làm công đức riêng một mình, nên không quan tâm lời anh dặn. Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Nanda hành động không đúng khi bất tuân lời ta. Ta muốn đuổi nó đi xa”.

Rồi nghĩ rằng tự ngài muốn chăm sóc cha mẹ, ngài bảo:

– Này Nanda, em đã bỏ qua lời răn dạy và không lưu tâm đến lời nói của bậc trí. Ta là huynh trưởng. Cha mẹ thuộc về trách nhiệm của ta. Ta muốn chỉ mình ta săn sóc cha mẹ. Em không thể ở đây được nữa. Hãy đi nơi khác.

Rồi ngài búng các ngón tay vào mặt em. Sau khi bị đuổi như vậy, Nanda không thể nào ở lại trước mặt anh nữa, liền đến từ giã cha mẹ và thưa hết mọi việc xảy ra.

Sau đó lui về an thất riêng, ông chú tâm Thiền định và ngay hôm ấy, ông phát khởi Năm Thắng trí và Tám Thiền chứng. Ông suy nghĩ: “Ta có thể đi tìm loại cát quý từ chân núi Sineru (Tu-di) về rải khắp thảo am của anh ta và xin anh ta thứ lỗi; và nếu anh ta chưa hồi tâm, ta sẽ đi tìm nước hồ Anottata về xin anh ta thứ lỗi; và nếu anh ta cũng chưa hồi tâm bằng cách ấy, giả sử vì chư Thiên, anh ta không tha thứ cho ta, thì ta sẽ đem Tứ Thiên vương và Thiên chủ Sakka ra xin anh ta thứ lỗi; và nếu anh ta cũng chưa hồi tâm, ta sẽ mang vị đại đế Manoja của toàn cõi Diêm-phù-đề, cùng các vương hầu khác ra xin anh ta thứ lỗi. Làm như vậy, danh tiếng về đức hạnh của anh ta sẽ vang dậy cả khắp Diêm-phù-đề, và sẽ sáng ngời mọi nơi như đôi vầng nhật nguyệt”.

Lúc bấy giờ, nhờ thần lực, ông bay xuống kinh thành Brahmavaddhana đến trước cung môn của vua và dâng sớ lên tâu vua:

– Có một vị khổ hạnh muốn yết kiến Đại vương.

Vua phán:

– Một vị khổ hạnh muốn gặp ta làm gì chứ? Chắc vị ấy đến khất thực.

Vua truyền bảo đem cơm cho ông, nhưng ông không dùng chút nào. Rồi vua bảo cho gạo, y phục và các loại củ khoai, môn, nhưng ông cũng không muốn gì cả. Cuối cùng vua gửi một sứ giả đi hỏi tại sao ông đến, ông đáp sứ giả:

– Bần đạo đến để hầu hạ đức vua.

Khi nghe vậy, vua gửi lời nhắn lại:

– Ta thiếu gì nô tỳ, bảo vị ấy hãy làm phận sự của một ẩn sĩ khổ hạnh.

Nghe vầy, ông nói:

– Nhờ thần lực riêng, bần đạo sẽ được quyền thống trị toàn cõi Diêm-phù-đề, và xin dâng tất cả lên Đại vương của các vị.

Vua nghe vậy liền suy nghĩ: “Quả thật các vị khổ hạnh rất thông thái. Chắc chắn các vị ấy biết được vài mưu thần”.

Sau đó vua triệu ông vào yết kiến, mời ông ngồi lên bảo tọa, kính lễ và hỏi:

– Thưa Thánh giả, chúng tâu với trẫm rằng ngài sẽ được quyền thống trị toàn cõi Diêm-phủ-đề và muốn ban quyền ấy cho trẫm phải chăng?

– Tâu Đại vương, quả vậy.

– Làm thế nào Thánh giả đạt được việc ấy?

– Tâu Đại vương, không cần đổ một giọt máu của ai cả, dầu là một giọt vừa đủ cho con ruồi tý hon hút được, cũng không cần tiêu phí kho báu của Đại vương, chỉ cần nhờ thần lực của riêng mình, bần đạo sẽ chiếm quyền thống trị và dâng hết lên Đại vương. Chỉ cần ngay lập tức không chút trì hoãn, Đại vương phải khởi hành ngay hôm nay.

Vua tin lời ấy và khởi hành ngay với một đạo quân hộ tống. Nếu đạo quân gặp trời nóng, hiền giả Nanda dùng lực thần tạo bóng cây khiến cho trời mát. Nếu trời mưa, ông không để cho mưa rơi xuống đạo quân. Ông ngăn cản luồng gió oi nồng. Ông phá bỏ gai góc trên đường đi cùng các thứ hiểm nguy khác. Ông làm cho con đường bằng phẳng như vòng tròn dùng trong pháp môn thiền Kasina, rồi trải một tấm da, ông ngồi kiết-già trên không và cứ thế tiến dần phía trước đạo quân.

Theo cách này, trước tiên ông cùng đạo quân trên đến vương quốc Kosala, đóng trại gần kinh thành, gửi sớ lên vua Kosala hoặc bảo tham chiến hoặc đầu hàng trước uy lực của ông. Vua nổi trận lôi đình, quát:

– Thế thì trẫm không phải là quốc vương hay sao? Trẫm sẽ chinh phạt các ngươi.

Vua dẫn đầu bốn đạo quân và hai phe lâm trận. Hiền giả Nanda trải tấm da hươu ra ngồi giữa hai đạo quân, dùng tấm da bắt hết mọi mũi tên do hai phe chiến đấu bắn ra, nên không có một ai trong quân đội nào bị thương vì trúng tên cả. Đến khi tất cả số tên của họ đều dùng hết, haiđạo quân đứng ngẩn ngơ không còn biết nương tựa vào đâu nữa.

Rồi Hiền giả Nanda đến yết kiến vua Kosala và trấn an vua:

– Tâu Đại vương, xin đừng lo âu tuyệt vọng, không có nguy cơ nào đe dọa Đại vương cả. Vương quốc vẫn thuộc về Đại vương. Chỉ cần Đại vương thần phục vua Manoja thôi.

Vua tin lời hiền giả nói và thỏa thuận điều ấy. Sau đó dẫn vua ấy đến yết kiến vua Manoja, hiền giả Nanda thưa:

– Tâu Đại vương, quốc vương Kosala xin thần phục Đại vương. Hãy để yên quốc độ ấy như cũ.

Vua Manoja sẵn sàng chấp thuận và nhận sự quy phục ấy. Vua cùng hai đạo quân tiến đến quốc độ Anga và chiếm Anga, sau đó chiếm Magadha trong quốc độ có tên ấy và nhờ các phương cách này, vua trở thành bá chủ của mọi quốc vương toàn cõi Diêm-phù-đề, rồi được chư hầu hộ tống đi thẳng đến thành Brahmavaddhana.

Bấy giờ, vua chiếm được mọi quốc độ từ các vua này trong bảy năm, bảy tháng, bảy ngày. Từ mỗi kinh thành, vua truyền đem đủ thức ăn loại cứng, loại mềm và mời một trăm lẻ một quốc vương nâng chén rượu khải hoàn suốt bảy ngày đại lễ hội.

Hiền giả Nanda suy nghĩ: “Ta không muốn xuất hiện trước mặt vua cho đến khi ngài đã hưởng mọi lạc thú của vương quyền thống trị trong bảy ngày”.

Rồi khi đi khất thực trong xứ Bắc Kuru, Hiền giả an trú suốt bảy ngày ở Tuyết Sơn, ngay cửa vào Kim Động.

Phần hoàng đế Manoja, vào ngày thứ bảy, sau khi ngắm cảnh đại vinh quang quyền lực của mình, tự nghĩ: “Cảnh huy hoàng này không phải do cha mẹ ta hay người khác trao tặng. Nó xuất phát từ ẩn sĩ Nanda và rõ ràng đã bảy ngày trôi qua từ khi ta thấy ngài. Không biết nay vị hiền hữu đã ban ta cảnh huy hoàng này đang ở đâu trên đời này?”. Và vua nhớ đến hiền giả Nanda.

Còn Hiền giả Nanda khi biết vua đang nhớ mình, liền xuất hiện trước vua trên không. Vua suy nghĩ: “Ta không biết vị khổ hạnh này là người phàm hay thần thánh. Nếu là người phàm, ta sẽ dâng ngài quyền thống trị khắp cõi Diêm-phù-đề. Còn nếu ngài là thần thánh, ta sẽ bày tỏ lòng tôn kính xứng đáng với ngài.

Và để thử vị ấy, vua ngâm vần kệ đầu:

  1. Nhạc thần, Thiên tử, phải ngài chăng,
    Hay ngẫu nhiên ta gặp Ngọc hoàng,
    Hoặc một người thần thông quảng đại,
    Ngự bao thành trị thật vinh quang.
    Nay ta ao ước ngài cho biết
    Quý tánh phương danh thật rõ ràng.

Nghe lời vua, Hiền giả Nanda ngâm vần kệ thứ hai nêu rõ thân thế mình:

  1. Ta chẳng Thiên nhân, hoặc Nhạc thần,
    Cũng không Thiên chủ hoặc quân vương.
    Ta là người đủ thần thông lực,
    Sự thật nay ta đã tỏ tường
    .

Vua nghe vậy, nghĩ thầm: “Ngài bảo ngài là một người; như vậy ngài đã làm nhiều công đức cho ta lắm. Ta sẽ tỏ bày sự tôn kính tối cao với ngài để ngài đẹp ý”. Và vua đáp lời:

  1. Công đức ngài ban bố chúng tôi
    Làm sao nói hết được nên lời,
    Giữa dòng mưa lũ tuôn ồ ạt,
    Chẳng có trên đầu một giọt rơi.
  2. Bóng mát ngài làm cho chúng ta
    Khi luồng gió đốt cháy bay qua;
    Khỏi làn tên ác, ngài bao phủ
    Giữa biết bao cừu địch quốc gia.
  3. Thật nhiều quốc độ lạc an tràn
    Ngài bảo tôn ta Đại đế vương,
    Hơn cả một trăm vị lãnh chúa
    Trở thành tuân phục lệnh ta ban.
  4. Những gì ngài chọn giữa kho tàng
    Hoan hỷ ta trao nhượng sẵn sàng:
    Xe thắng đàn voi hay tuấn mã,
    Cung tần xiêm áo đẹp trang hoàng,
    Vương cung mỹ lệ nào ngài thích
    Đều sẽ trở thành của Đại nhân.
  5. Nếu muốn ngự cung Ma-kiệt-đà,
    Hoặc là quốc độ xứ An-ga
    A-van-ti, trẫm vui lòng nhượng,
    Hoặc đến trị dân As-sa-ka.
  6. Dẫu ngài muốn một nửa giang sơn,
    Trẫm nhượng với tâm hỷ lạc tràn,
    Chỉ nói một lời điều ước muốn,
    Tức thì vật ấy của hiền nhơn.

Nghe vậy, Hiền giả Nanda ngâm vần kệ giải thích ước nguyện của mình:

  1. Vương quốc ta nào có ước ao,
    Kinh thành, lãnh dịa chẳng mong cầu,
    Cũng không tìm kiếm nhiều tài sản
    Từ chính bàn tay Đại đế đâu.

Vị ấy nói tiếp:

– Nhưng nếu Đại vương có lòng ưu ái ta, xin hãy làm theo lời thỉnh cầu của ta về việc duy nhất này:

10-11. Dưới quyền ngài, ngụ lão song thân
Hưởng cảnh am tranh ở núi rừng,
Ta chẳng được làm gì phước đức
Với song thân ấy lão hiền nhân.
Nếu ngài nói hộ điều ta muốn,
Hiền giả So-na hết hận sân.

Vua liền bảo vị ấy:

  1. Hoan hỷ, ta xin sẽ vẹn tròn
    Lệnh ngài, hỡi vị Bà-la-môn,
    Song ai là kẻ ta cần chọn
    Để tiến hành ngay lệnh Đại nhơn?

Hiền giả Nanda đáp:

  1. Hơn trăm phú hộ, Bà-la-môn,
    Võ tướng oai quyền, danh vọng vang,
    Đại đế Ma-no-ja, đủ số
    Làm ta thỏa nguyện ước hoàn toàn.

Vua lại bảo:

  1. Thắng ngay tượng, mã vào vương xa,
    Từ trụ, càng xe, vẫy ngọn cờ
    Theo gió, ta đi tìm ẩn sĩ
    Trú nơi xa vắng, Ko-si-ya.

*

  1. Hộ giá theo hầu, bốn đạo binh,
    Đại vương tiến bước để đăng trình
    Đi tìm chốn thảo am tươi đẹp
    Ẩn sĩ trú an với hạnh lành.

Các vần kệ này xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng.

*

Bấy giờ vào ngày ấy, vua đến vùng thảo am, Hiền giả Sona suy nghĩ: “Lúc này đã hơn bảy năm, bảy tháng, bảy ngày từ lúc tiểu đệ ta ra đi khỏi nhà. Bây giờ em ta đang ở đâu?”

Rồi dùng thiên nhãn, ngài nhìn thấy em, liền tự bảo: “Em ta đang đến đây với một trăm lẻ một vị vua và một đoàn hộ tống gồm hai mươi bốn đạo quân để xin ta thứ lỗi. Các vua này cùng đoàn tùy tùng đã chứng kiến nhiều thần thông do em ta biến hóa, và vì không biết gì về thần lực của ta, nên họ bảo: “Vị ẩn sĩ giả mạo này quá tự cao về thần lực của mình và tự sánh mình với vị chúa tể của chúng ta”. Do lời kiêu mạn này, họ sẽ đọa vào địa ngục. Vậy ta sẽ cho họ xem một điển hình về phép thần thông của ta”.

Rồi đặt đòn gánh giữa không khí, chẳng chạm vào vai ngài một khoảng chừng bốn phân, cứ thế ngài du hành giữa khoảng bao la, bay ngang gần vua, để đi lấy nước từ hồ Anotatta.

Nhưng khi Hiền giả Nanda thấy ngài đến, lại không có can đảm lộ diện, mà lập tức biến mất ngay nơi vị ấy đang ngồi, và tẩu thoát đi ẩn mình trong vùng Tuyết Sơn. Tuy thế, khi vua Manoja thấy Hiền giả Sona đến gần trong dáng điệu uy nghi của bậc tu hành, liền ngâm kệ này hỏi:

  1. Ai đi tìm nước giữa không gian,
    Với bước chân kia thật nhịp nhàng,
    Đòn gánh cách xa chừng một tấc
    Chẳng hề đụng chạm tới mình vàng?

Khi nghe nói vậy, bậc Đại Sĩ liền đáp hai vần kệ:
17. So-na đạo sĩ chẳng bao giờ
Đi lạc ra ngoài luật ẩn cư,
Phụng dưỡng song thân ta sớm tối,
Ngày đêm không mỏi mệt ưu tư.

  1. Khoai sắn, chùm dâu, ấy thức ăn
    Trong rừng ta kiếm để đem dâng,
    Đời đời ghi nhớ ơn hai vị
    Xưa đã cho ta hưởng phước phần.

Nghe lời này, vua muốn bầu bạn với ngài, liền ngâm vần kệ khác:

  1. Ta mong đến tận chốn am tranh
    Đạo sĩ Ko-si-ya ẩn mình,
    Hiền giả So-na xin chỉ lối
    Đưa ta đến tịnh thất an lành
    .

Lúc ấy bậc Đại Sĩ dùng thần lực vạch ra một con đường mòn đưa đến thảo am và ngâm vần kệ này:

  1. Đây lối Đại vương hãy nhờ rành:
    Đằng xa khóm lá. đậm màu xanh
    Giữa lùm mun mọc như rừng nhỏ,
    Nơi ấy thảo am sẽ hiện hình.

*

  1. Như vậy bậc Hiền trí đại hùng,
    Chỉ đường cho các vị vương quân,
    Xong ngài vội vã về am thất,
    Lần nữa du hành giữa cõi không.
  2. Kế đó quét xong chốn thảo am,
    Đi tìm nơi ẩn dật nghiêm đường,
    Ngài vừa thức lão hiền nhân dậy,
    Vừa tặng dâng cha một tọa sàng.
  3. Ngài nói: “Thánh nhân hãy đến ngay,
    Con xin cha tọa lạc nơi này,
    Các vua quý tộc danh lừng lẫy
    Sắp ngự giá qua giữa lối này.
  4. Như vậy sao khi vị lão niên
    Nghe con đòi hiện diện cầu xin,
    Vội vàng chân bước từ am thất
    An tọa ở bên cạnh cửa tiền.

Các vần kệ này phát xuất từ Trí tuệ Tối Thắng.

*

Phần Hiền giả Nanda đi yết kiến vua ngay khi Bồ-tát vừa đến am thất, vừa đem nước về từ hồ Anotatta, rồi Hiền giả Nanda cắm trại không xa am thất ấy.

Sau đó vua tắm rửa và phục sức vô cùng lộng lẫy, liền được một trăm lẻ một tiểu vương hộ tống, vị Đại vương cùng Hiền giả Nanda bước vào am thất trong cảnh huy hoàng trọng thể và cầu khẩn Bồ-tát tha thứ cho hiền đệ của ngài.

Lúc ấy phụ thân của Bồ-tát thấy vị Đại vương ngự đến gần, liền hỏi Bồ-tát và ngài giải thích vấn đề với cha.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ việc này:

  1. Thấy vua đứng đó đại vinh quang
    Được hộ tống quanh bởi tiểu vương,
    Bậc lão hiền nhân liền cất tiếng
    Hỏi thăm con trẻ chuyện trên đường:
  2. “Ai đến đây trong tiếng rộn ràng
    Tù và, trống lớn nhỏ lừng vang,
    Âm thanh làm các vua hoan hỷ,
    Ai đến đây ca khúc khải hoàn?
  3. Ai đây đang đến thật huy hoàng,
    Khăn quấn đầu cao dệt sợi vàng,
    Như chớp sáng ngời, cung tiễn đủ,
    Anh hùng trẻ tuổi thật can tràng?
  4. Ai đây đang đến thật vinh quang,
    Nét mặt vui tươi tỏa ánh vàng
    Như đám lửa tàn, cành phượng vĩ
    Sáng ngời đang cháy ở lò than?
  5. Ai đến đây cùng chiếc lọng cao
    Được giương lên thật khéo làm sao,
    Lọng che với gọng sườn tô điểm
    Xua ánh nắng gay gắt chói vào?
  6. Ai kia xòe quạt để phòng thân,
    Quạt kết lông đuôi trâu chúa rừng,
    Như một vị hiền nhân trí giả
    Cỡi lưng voi nọ dáng oai phong?
  7. Ai đang đến rực rỡ, huy hoàng,
    Các lọng giương cao trắng vẹn toàn,
    Tuấn mã giáp bào dòng quý tộc
    Vây quanh phải trái thật hiên ngang?
  8. Ai kia đang đến tận nơi đây,
    Được cả hơn trăm lãnh chúa này
    Hộ tống một đoàn vua quý tộc,
    Sau lưng và trước mặt như vầy?
  9. Các vương xa với một đàn voi
    Đám bộ binh cùng với đám ngựa nòi,
    Ai đến với oai nghi chiến dấu,
    Bốn đoàn quân bố trận kia rồi?
  10. Ai đến cùng tất cả đạo quân
    Theo sau hộ giá rộng mênh mông
    Không hề gián đoạn, dài vô tận,
    Như sóng đại dương vỗ chập chùng?
  11. “Ma-no đại đế, với Nan-da,
    Ngự giá đến đây viếng, hỡi cha,
    Như thể In-dra Thiên chủ ấy
    Đến đây thăm chốn ẩn am ta.
  12. Hộ tống ngài đang đến cả đoàn
    Sẵn sàng tuân lệnh, thật hùng cường,
    Không hề gián đoạn, dài vô tận,
    Như sóng chập chùng giữa đại dương”.

Đạo Sư lại ngâm:

  1. Lụa tối cao sang, khoác cẩm bào,
    Dầu trầm hương ngát điểm tô vào,
    Các vua này đến gần hai vị
    Thánh giả, dáng cung kính khẩn cầu.

Sau đó vua Manoja kính lễ xong, ngồi xuống một bên, vừa trao đổi những lời chào hỏi ân cần, vừa ngâm đôi vần kệ:

  1. Trẫm vẫn tin rằng các Thánh nhân
    Sống đời thịnh vượng lẫn an khang,
    Kiếm nhiều mễ cốc cùng rau trái
    Phong phú khắp nơi chốn trú an.
  2. Hẳn các ngài không bị bọ rầy,
    Loài bò sát quấy nhiễu lâu nay,
    Các ngài tránh được bao phiền lụy
    Do thú săn mồi ở chốn đây?

Các vần kệ sau đây do hai bên đối đáp nhau:

Ẩn sĩ:

  1. Xin cám ơn ngài, hỡi Đại vương,
    Chúng ta luôn thịnh vượng, an khương,
    Kiếm nhiều mễ cốc cùng rau quả
    Phong phú khắp nơi chốn náu nương.
  2. Bần đạo cũng không bị bọ rầy,
    Loài bò sát quấy nhiễu lâu nay,
    Chúng ta tránh được bao phiền lụy
    Do thú săn mồi đến chốn đây.
  3. Các loại cây cao vẫn mọc đầy
    Cho người ẩn sĩ sống như vầy,
    Cũng không bệnh tật gây tai hại
    Từng thấy xảy ra ở chốn này.
  4. Bần đạo xin nghênh tiếp Đại vương,
    Dịp may nào chỉ lối đưa đường,
    Trông ngài hùng hậu, vinh quang quá,
    Sứ mệnh gì mang, hãy tỏ tường?
  5. Tin-dook, pi-yal, các lá cây,
    Ka-su-ma chín ngọt ngào thay
    Như đường mật, kính dâng ngài ngự
    Thứ tuyệt hảo nhà có sẵn đây.
  6. Và nước mát này ở động sâu
    Ẩn mình trong một ngọn đồi cao,
    Đại vương, xin kính dâng bình nước
    Ngài ngự cho lòng thỏa khát khao.

Đại vương:

  1. Trẫm đây cùng tất cả vị vua
    Xin nhận quà ngài tặng chúng ta,
    Song hãy lắng nghe lời sắp nói
    Của hiền hữu, Trí giả Nan-da.
  2. Chúng ta tất cả bước theo hầu
    Hiền giả Nan-da đến khẩn cầu
    Ngài chiếu cố nghe người khốn khổ
    Van xin quy lụy đáp ơn sâu.

Nghe nói vậy, hiền giả Nanda đứng dậy từ chỗ ngồi, vừa định lễ cha mẹ và huynh trưởng, vừa ngâm kệ đàm đạo với đoàn tùy tùng của mình:

  1. Xin cả toàn dân, lẻ một trăm,
    Những người danh vọng Bà-la-môn,
    Các vua Sát-ly dòng cao quý
    Sáng chói với tên tuổi lẫy lừng,
    Cùng với Ma-no-ja Đại đế,
    Thảy đều công nhận việc cầu ân.
  2. Dạ-xoa Thần ở thảo am này,
    Các vị đang quy tụ ở đây,
    Lão, ấu các sơn thần, thổ địa,
    Lắng nghe ta nói chuyện như vầy.
  3. Tiểu nhi xin kính lễ song thân,
    Kế đến xin thưa bậc Thánh nhân,
    Tiểu đệ là em đây thuở trước
    Ngài xem có mặt tựa tay chân.
  4. Làm sao phụng dưỡng lão song thân
    Ấy chính em cầu nguyện đặc ân,
    Xin Thánh nhân thôi đừng cản trở
    Cho em làm Thánh sự riêng phần.
  5. Ân cần phụng dưỡng cả song thân
    Trước đã được làm bởi Thánh nhân,
    Người thiện tán đồng bao thiện sự,
    Sao phiên tiểu đệ chẳng nhường phần?
    Do vầy em đạt nhiều công đức,
    Đạo lộ lên thiên giới sẵn sàng.
  6. Nhiều người khác biết rõ nơi đây
    Đạo lộ dành cho phận sự này,
    Ấy chính con đường lên thượng giới,
    Xin Hiền nhân nhận thức như vầy.
  7. Song bậc Thánh nhân đã cản ngăn
    Em làm thiện sự thế này chăng?
    Khi em mong muốn nhờ công đức
    Đem lại song thân trọn lạc an
    .

Khi được Nanda nói như vầy, bậc Đại Sĩ bảo:

– Các vị đã nghe những lời Nanda phải nói ra; giờ đây hãy nghe ta.

Và ngài ngâm các vần kệ sau:

  1. Các vị theo hầu tiểu đệ ta
    Hãy nghe ta nói lượt bây giờ:
    Kẻ nào đối xử đầy khinh bỉ
    Nhũng bậc tiền nhân của mẹ cha,
    Phạm tội ác cùng chư trưởng lão,
    Tái sinh địa ngục đốt tiêu ma.
  2. Song kẻ tinh thông đạo Thánh nhân,
    Con dường chân lý hiểu tinh tường,
    Giữ gìn giới luật và công hạnh,
    Quyết sẽ chẳng sa cảnh khổ buồn.
  3. Anh em cùng các bậc thân sinh,
    Tất cả do dây kết hợp thành,
    Nhiệm vụ suốt đời luôn đặt nặng
    Trên vai của vị trưởng hiền huynh.
  4. Làm trưởng huynh, thiên chức nặng sao
    Hân hoan ta gánh vác đi đầu
    Như thuyền trưởng hộ phòng thuyền nọ,
    Chân lý ta không hề lãng xao.

Khi nghe lời này, tất cả các vua đều vô cùng hoan hỷ và nói:

– Hôm nay chúng ta đều biết được rằng toàn thể gia đình là trách nhiệm đặt lên người huynh trưởng.

Rồi các vị rời bỏ Hiền giả Nanda và vừa chú tâm hướng về bậc Đại Sĩ, vừa ngâm hai vần kệ tán dương ngài:

  1. Tri kiến tìm ra tựa lửa bừng
    Sáng ngời chiếu rọi giữa đêm trường,
    Cũng như Thánh giả Ko-si ấy
    Hiển lộ cho ta lý chánh chân.
  2. Như nhật thần kia chiếu ánh quang
    Sáng ngời khắp mặt biển mênh mang
    Phố bày hình thể bao sinh vật,
    Dù chúng xấu xa hoặc thiện lương,
    Cũng vậy Ko-si-ya Thánh giả
    Hiển bày chân lý với quân vương.

Như vậy là mặc dù từ lâu các vua chúa đã tin tưởng vào Hiền giả Nanda vì chứng kiến các kỳ tích thần thông của vị ấy, tuy thế bậc Đại Sĩ nhờ uy lực tri kiến đã phá hủy lòng tin của họ, khiến họ phải chấp nhận lời ngài và do vậy tất cả đều trở thành những người hầu cận tuân phục ngài nhất ở đời.

Lúc ấy Hiền giả Nanda suy nghĩ: “Đại huynh ta là một bậc trí giả tinh thông am tường kinhđiển. Ngài đã chinh phục các vị vua này và đưa họ về phía ngài. Ngoài ngài ra, ta không có nơi nương tựa nào khác. Ta chỉ còn biết khẩn cầu ngài thôi”.

Thế rồi ông ngâm vần kệ này:

  1. Huynh chẳng lưu tâm dáng khẩn cầu,
    Cũng không dang rộng cánh tay đâu,
    Em mong làm kẻ hèn nô lệ
    Đợi lệnh huynh ban, vội đến chầu.

Dĩ nhiên bậc Đại Sĩ không cảm thấy hờn giận hay oán thù đối với Nanda, nhưng ngài đã hành động như một cách khiển trách em để hạ bớt lòng kiêu mạn của vị ấy khi phát biểu tự cao thái quá như vậy. Nhưng bây giờ khi nghe những lời em nói ra, ngài vô cùng hoan hỷ và muốn ban ân huệ cho em, ngài bảo:

– Nay ta tha thứ hiền đệ rồi và sẽ cho phép hiền đệ chăm sóc cha mẹ.

Và ngài ngâm kệ nêu rõ đức tính của hiền đệ:

  1. Em thông Chính pháp, hỡi Nan-da,
    Nhu các Thánh nhân đã dạy mà:
    Duy nhất quý cao là thiện sự,
    Em làm đẹp ý thỏa lòng ta.
  2. Mẹ cha xứng đáng được tôn thờ,
    Em hãy nghe điều ta nói ra:
    Nhiệm vụ phần em lo gánh vác
    Mà không cảm thấy nặng bao giờ.
  3. Mẹ cha ta bảo dưỡng lâu nay
    Cũng để cầu mong hạnh phúc vầy,
    Đến lượt Nan-da nay đã tới
    Cầu xin khúm núm phụng thờ đây.
  4. Vị nào trong nhị Thánh nhân hiền
    Mong muốn Nan-da phụng dưỡng riêng,
    Xin nói một lời, và tiểu đệ
    Phải theo hầu vị ấy ưu tiên
    .

Lúc ấy mẹ ngài từ chỗ ngồi đứng dậy và bảo:

– Sona thân yêu, em con đã vắng nhà lâu nay. Bây giờ rốt cuộc nó đã trở về, ta không đích thân hỏi thăm nó vì chúng ta đều nương tựa vào con cả. Song nếu con cho phép, bây giờ ta xin được ôm lấy nam tử thánh thiện này trong tay và hôn lên trán nó.

Rồi bà ngâm kệ này nêu rõ ý của bà:

  1. So-na, cha mẹ dựa con đây,
    Nếu được con cho phép việc này,
    Mẹ sẽ ôm vào lòng của mẹ
    Nan-da thánh thiện quý cao vầy.

Sau đó bậc Đại Sĩ nói với mẹ:

– Này mẹ yêu quý, con cho phép mẹ rồi, mẹ hãy đi ôm lấy Nanda, con trai mẹ rồi ngửi tóc và hôn đầu nó để xoa dịu nỗi sầu trong lòng mẹ.

Thế là bà đi đến Hiền giả Nanda và ôm choàng lấy con trước toàn thể hội chúng và ngửi tóc, hôn đầu con, làm tiêu tan mọi nỗi khổ trong lòng bà, và ngâm kệ nói chuyện với bậc Đại Sĩ:

  1. Giống như cây yếu ớt bồ-đề
    Rung động vì cơn gió nặng bề,
    Cũng vậy, tim ta vui rộn rã
    Thấy Nan-da đã được quay về.

68 . Dường như ta thấy lại Nan-da
Cũng chẳng khác nào một giấc mơ,
Hóa dại, vui mừng ta hét lớn:
“Nan-da nay trở lại cùng ta!”

  1. Song nếu khi tàn giấc ngủ mê,
    Thấy Nan-da ấy đã ra đi,
    Tâm ta sẽ chịu bao giày xéo
    Do nỗi buồn đau quá não nề.
  2. Trở lại hôm nay với mẹ cha,
    Nan-da rốt cuộc đã về nhà,
    Thân yêu với mẹ cha đồng đẳng,
    Nó tạo ngôi nhà với chúng ta.
  3. Dù nghiêm đường quý mến Nan-da,
    Hãy để em con ở tự do,
    Con phục vụ nhu cầu lão phụ,
    Nan-da cần trọn nghĩa cùng ta.

Bậc Đại Sĩ chấp thuận lời mẹ và nói:

– Con mong được như vậy.

Và ngài khuyến giáo em:

– Này Nanda, em đã lãnh phận sự của người anh cả, quả thật mẫu thân chính là đại ân nhân của ta. Em hãy thận trọng chăm nom mẹ.

Ngài lại ngâm hai vần kệ tán thán công đức của mẹ hiền:

  1. Là nơi nương tựa thật ân cần,
    Mẹ đã nuôi ta với sữa nguồn,
    Mẹ chính là đường lên thượng giới,
    Mẹ thương hiền đệ nhất trên trần.
  2. Mẹ đã chăm lo bảo dưỡng ta,
    Mẹ nhiều ân huệ phát ban ra,
    Mẹ là đường dẫn lên thiên giới,
    Và mẹ yêu hiền đệ nhất nhà
    .

Như vậy bậc Đại Sĩ đã nêu lên công đức của mẹ qua hai vần kệ, và khi mẹ ngài đã về chỗ ngồi một lần nữa, ngài bảo:

– Này Nanda, em có một bà mẹ đã chịu đựng nhiều gian lao khó vượt qua. Cả hai ta đã được mẹ nuôi nấng rất nhọc nhằn. Này em hãy thận trọng chăm sóc mẹ và không được đưa thứ dâu chua cho mẹ ăn nữa.

Và để làm sáng tỏ cho hội chúng thấy rõ những công việc cực kỳ gian khổ được dành cho số phận bà mẹ, ngài ngâm kệ:

  1. Cầu nguyện khát khao một đứa con,
    Mẹ quỳ trước mỗi một đền thần,
    Bốn mùa thay đổi thường quan sát,
    Khảo cứu thiên văn thật tận tường.
  2. Hoài thai theo với khoảng thời gian,
    Mẹ thấy lòng mong đợi dịu dàng,
    Thoáng chốc hài nhi vô ý thức
    Bắt đầu quen biết một thân bằng.
  3. Suốt khoảng thai kỳ ngót một năm,
    Mẹ chăm chút kỹ một kho tàng,
    Rồi sau sinh hạ con yêu quý,
    Ngày ấy vui lòng tiếng “mẹ” mang.
  4. Với bầu sữa, mẹ hát ru con,
    Xoa dịu hài nhi khóc nỉ non,
    Ấp ủ trong vòng tay ấm áp,
    Nỗi đau của trẻ được xua tan.
  5. Trông nom trẻ tội nghiệp thơ ngây,
    Sợ nắng gió làm hại trẻ đây,
    Được gọi vú nuôi, thôi cũng được,
    Nâng niu con trẻ cứ như vầy.
  6. Tài vật nào cha mẹ có đây,
    Mẹ dành cho trẻ để sau này,
    Bà suy: “Cũng có ngày con hỡi,
    Gia sản may ra đến tận tay”.
  7. “Hãy làm này nọ, bé yêu ơi”,
    Bà mẹ lo âu gọi thế hoài,
    Khi trẻ thành người trai lực lưỡng,
    Mẹ còn kêu khóc, thở than dài.
    Nó liều lĩnh dám đi tìm gặp
    Vợ láng giềng nhân lúc tối trời.
    Mẹ giận dữ la rầy cáu kỉnh:
    “Sao không trở lại lúc ban mai?”
  8. Nếu được nuôi đầy khổ nhọc vầy,
    Mà người xao lãng mẹ hiền này,
    Chơi trò gian dối, thì ta hỏi,
    Còn đợi gì ngoài ngục đọa đày?
  9. Nếu được nuôi đầy khổ nhọc vầy,
    Mà người xao lãng phụ thân này,
    Chơi trò gian dối, thì ta hỏi,
    Còn đợi gì ngoài ngục đọa đày?
  10. Kẻ nào tài sản quá mê say,
    Tài sản mất đi cũng có ngày,
    Còn kẻ thờ ơ xao lãng mẹ,
    Hối hận vì tai hại đắng cay.
  11. Kẻ nào tài sản quá mê say,
    Tài sản mất đi cũng có ngày,
    Còn kẻ thờ ơ thân phụ nó,
    Hối hận vì tai hại đắng cay.
  12. An vui nhàn nhã, với cười đùa,
    Giải trí, là tài sản tại gia
    Của kẻ chăm lo đầy tận tụy
    Mẫu thân khi tuổi tác già nua.
  13. An vui nhàn nhã, với cười đùa,
    Giải trí, là tài sản tại gia
    Của kẻ chăm lo đầy tận tụy
    Phụ thân khi tuổi tác già nua.
  14. Quà tặng cùng lời nói dễ thương,
    Ân cần phục vụ cạnh song đường,
    Nhiệt tình tâm trí luôn bình đẳng
    Bày tỏ đúng thời, đúng chốn luôn.
  15. Những đức tính này đối thế nhân,
    Giống như mấu trục bánh xe lăn,
    Nếu không có chúng, thì tên mẹ
    Sẽ phải cầu xin với các con.
  16. Từ mẫu cũng như nghiêm phụ ta
    Phải đều được kính trọng tôn thờ,
    Hiền nhân tán thán người nào có
    Những đức tính này tỏ lộ ra.
  17. Song thân như vậy đáng tuyên dương,
    Giữ địa vị cao cả khác thường,
    Được gọi “Phạm thiên” do cổ đức,
    Uy danh hai vị lớn khôn lường.
  18. Song thân hiền phải được tôn vinh
    Xứng đáng từ con cái của mình,
    Người dưỡng mẹ cha theo chánh hạnh
    Là người có trí tuệ thông minh.
  19. Đem dâng thức uống với đồ ăn
    Sàng tọa và y phục xứng phần,
    Phải tắm mẹ cha, dầu tẩm ướt,
    Rửa cho sạch sẽ cả đôi chân.
  20. Bậc trí tán dương các việc trên,
    Làm con phụng sự mẹ cha hiền,
    Hân hoan tràn ngập trên trần thế,
    Thân hoại, an vui hưởng cõi thiên.

Như vậy bậc Đại Sĩ chấm dứt Pháp thoại khác nào làm cho núi Sineru (Tu-di) rung chuyển. Nghe ngài nói, tất cả các quốc vương cùng đoàn tùy tùng đến trở thành những kẻ mộ đạo. Vì vậy sau đó an trú hội chúng vào Ngũ giới và khuyến giáo họ tính cần bố thí cùng các đức tính tương tự, ngài bảo họ ra về.

Sau khi cai trị quốc độ một cách chân chánh, vào cuối đời tất cả các vua ấy đều đi lên cộng trú với chư Thiên.

Hai Hiền giả Sona và Nanda suốt đời sống phụng sự cha mẹ và về sau được sinh Phạm thiên giới.

*

Đến đây bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Thánh Đế và nhận diện Tiền thân.

Lúc kết thúc các Thánh Đế, vị Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ được an trú vào Sơ quả Dự lưu:

– Thời ấy, song thân là phụ mẫu trong hoàng gia, Hiền giả Nanda là Ànanda, vua Manoja là Sàriputta, một trăm lẻ một vị vua là tám mươi đại Trưởng lão và một số vị khác, hai mươi bốn đạo quân là đệ tử đức Phật, còn Hiền giả Sona chính là Ta.

PHẦN 3 – CHƯƠNG III, CHƯƠNG IV

[01] Chương III – Phẩm Sankappa
251. Chuyện Dục Tầm (Tiền Thân Sankappa)
252. Chuyện Một Nắm Mè (Tiền Thân Tilamutthi)
253. Chuyện Vua Rắn Manikantha (Tiền Thân Manikantha)
254. Chuyện Con Ngựa Quý Ăn Cám Gạo Đỏ (Tiền Thân Kundaka-Kucchi-Sindhava)
255. Chuyện Con Vẹt (Tiền Thân Suka)
256. Chuyện Cái Giếng Cũ (Tiền Thân Jarudapàna)
257. Chuyện Người Hầu Cận Gàmani-Canda (Tiền Thân Gàmani-Canda)
258. Chuyện Đại Vương Mandahàtà (Tiền Thân Mandahàtà)
259. Chuyện Ẩn Sĩ Tirìta-Vaccha (Tiền Thân Tirìta-Vaccha)
260. Chuyện Sứ Giả Của Cái Bụng (Tiền Thân Duta)
[02] Chương III – Phẩm Kosya
261. Chuyện Hoa Sen (Tiền Thân Paduma)
262. Chuyện Bàn Tay Mềm Mại (Tiền Thân Mudupàni)
263. Chuyện Tiểu Dục Tham (Tiền Thân Culla-Palobhana)
[03] Chương III – Phẩm Ba Bài Kệ
264. Chuyện Đại Vương Panàda (Tiền Thân Mahà Panàda)
265. Chuyện Mũi Tên (Tiền Thân Khurappa)
266. Chuyện Con Ngựa Quí Tốc Như Phong (Tiền Thân Vàtagga Sindhava)
267. Chuyện Con Cua (Tiền Thân Kakkatà)
268. Chuyện Kẻ Làm Hại Vườn (Tiền Thân Àràma Dùsa)
269. Chuyện Nàng Sujàta (Tiền Thân Sujàta)
270. Chuyện Con Cú (Tiền Thân Ulùka)
271. Chuyện Kẻ Làm Bẩn Giếng Nước (Tiền Thân Udapàna Dùsaka)
272. Chuyện Con Cọp (Tiền Thân Vyaggha)
273. Chuyện Con Rùa (Tiền Thân Kacchapa)
[04] Chương III – Phẩm Ba Bài Kệ (tt)
274. Chuyện Tham Ăn (Tiền Thân Lola)
275. Chuyện Tham Ăn (Tiền Thân Lola)
276. Chuyện Chánh Pháp Nước Kuru (Tiền Thân Kurrudhamma)
277. Chuyện Chim Bồ Câu (Tiền Thân Romaka)
278. Chuyện Con Trâu (Tiền Thân Mahisa)
279. Chuyện Con Hạc (Tiền Thân Satapatta)
280. Chuyện Kẻ Phá Hư Giỏ (Tiền Thân Puta-Dùsaka)
281. Chuyện Trái Xoài Chính Trung (Tiền Thân Abbhantara)
282. Chuyện Điều Tốt Nhất (Tiền Thân Seyya)
283. Chuyện Con Heo Rừng Của Thợ Mộc (Tiền Thân Vaddaki-Sùkura)
284. Chuyện Vận May (Tiền Thân Siri)
285. Chuyện Heo Rừng Trong Hang Thủy Tinh (Tiền Thân Manisùkura)
[05] Chương III – Phẩm Ba Bài Kệ (tt)
286. Chuyện Con Heo Liên Căn (Tiền Thân Sàlùka)
287. Chuyện Chê Bai Lợi Nhuận (Tiền Thân Làbha Garaha)
288. Chuyện Xâu Cá (Tiền Thân Macch-Uddàna)
289. Chuyện Mong Ước Khác Nhau (Tiền Thân Nàna-Chanda)
290. Chuyện Thử Thách Giới Đức (Tiền Thân Vìnansa)
291. Chuyện Cái Bát Thần (Tiền Thân Bhadra Ghata)
292. Chuyện Vua Quạ Supatta (Tiền Thân Supatta)
293. Chuyện Thân Hư Hoại (Tiền Thân Kàya-Vicchinda)
294. Chuyện Con Chim Ăn Trái Đào (Tiền Thân Jambu-Khàdaka)
295. Chuyện Loài Hạ Liệt (Tiền Thân Anta)
296. Chuyện Biển Cả (Tiền Thân Samudda)
297. Chuyện Dục Tình Nhảm Nhí (Tiền Thân Kàma-Vìpala)
298. Chuyện Trái Sung (Tiền Thân Udumbara)
299. Chuyện Ẩn Sĩ Komàya-Putta (Tiền Thân Komàya)
300. Chuyện Chó Sói (Tiền Thân Vaka)
[06] Chương IV – Phẩm Bốn Bài Kệ
301. Chuyện Tiểu Vương Kàlinga (Tiền Thân Cullakàlinga)
302. Chuyện Đại Kỵ Sĩ (Tiền Thân Maha-Asàroha)
303. Chuyện Vị Thánh Vương (Tiền Thân Ekaràja)
304. Chuyện Rắn Thần Daddara (Tiền Thân Daddara)
305. Chuyện Thử Thách Giới Đức (Tiền Thân Sìlavìmamasana)
306. Chuyện Hoàng Hậu Sujàta (Tiền Thân Sujàta)
307. Chuyện Thân Cây Hồng Diệp (Tiền Thân Palàsa)
308. Chuyện Chim Gõ Kiến (Tiền Thân Javasakuna)
309. Chuyện Người Tiện Dân (Tiền Thân Chavaka)
[07] Chương IV – Phẩm Bốn Bài Kệ (tt)
310. Chuyện Vị Quốc Sư Sayha (Tiền Thân Sayha)
311. Chuyện Cây Nimbo (Tiền Thân Pacimanda)
312. Chuyện Ẩn Sĩ Kassapa Chậm Trễ (Tiền Thân Kassapamandiya)
313. Chuyện Đạo Lý Kham Nhẫn (Tiền Thân Khantivàdi)
314. Chuyện Địa Ngục Nồi Sắt (Tiền Thân Lohakumbhi)
315. Chuyện Miếng Thịt (Tiền Thân Mamsa)
316. Chuyện Con Thỏ (Tiền Thân Sasa)
317. Chuyện Khóc Người Chết (Tiền Thân Mataradana)
[08] Chương IV – Phẩm Bốn Bài Kệ (tt)
318. Chuyện Vòng Hoa Kanavera (Tiền Thân Kanavera)
319. Chuyện Chim Đa Đa (Tiền Thân Tittira)
320. Chuyện Dễ Cho (Tiền Thân Succaja)
321. Chuyện Kẻ Đốt Lều (Tiền Thân Kutidùsaha)
322. Chuyện Tiếng Động Mạnh (Tiền Thân Daddabha)
323. Chuyện Vua Brahmadatta (Tiền Thân Brahmadatta)
324. Chuyện Thầy Tu Mặc Áo Da (Tiền Thân Cammasàtaka)
325. Chuyện Con Tắc Kè (Tiền Thân Godha)
[09] Chương IV – Phẩm Bốn Bài Kệ (tt)
326. Chuyện Thiên Hoa Kakkàru (Tiền Thân Kakkàru)
327. Chuyện Hoàng Hậu Kàkàti (Tiền Thân Kàkàti)
328. Chuyện Khóc Người Chết (Tiền Thân Ananusociya)
329. Chuyện Con Khỉ Đen Lớn (Tiền Thân Kalabahu)
330. Chuyện Thử Thách Giới Đức (Tiền Thân Silavìmamsa)
331. Chuyện Trưởng Lão Kokàlika (Tiền Thân Kokàlika)
332. Chuyện Chiếc Gậy Thúc Xe (Tiền Thân Rathalatthi)
333. Chuyện Con Tắc Kè (Tiền Thân Godha)
334. Chuyện Khuyến Dụ Quốc Vương (Tiền Thân Ràjovàda)
335. Chuyện Chó Rừng (Tiền Thân Jambuka)
336. Chuyện Vương Tử Chatta Vĩ Đại (Tiền Thân Brahàchatta)
337. Chuyện Cái Sàng Tọa (Tiền Thân Pitha)
[10] Chương IV – Phẩm Bốn Bài Kệ (tt)
338. Chuyện Vỏ Trấu (Tiền Thân Thusa)
339. Chuyện Xứ Baveru (Tiền Thân Bàveru)
340. Chuyện Trưởng Giả Visayha (Tiền Thân Visayha)
341. Chuyện Vua Kandari (Tiền Thân Kandari)
342. Chuyệcn Con Khỉ (Tiền Thân Vànara)
343. Chuyện Con Hạc (Tiền Thân Kuntani)
344. Chuyện Người Ăn Trộm Xoài (Tiền Thân Ambacora)
345. Chuyện Con Rùa Lười Biếng (Tiền Thân Gajakumbha)
346. Chuyện Đạo Sĩ Kesava (Tiền Thân Kesava)
347. Chuyện Cái Chày Sắt (Tiền Thân Ayakùta)
348. Chuyện Chốn Rừng Hoang (Tiền Thân Aranna)
349. Chuyện Lời Gièm Pha (Tiền Thân Sandhibheda)
350. Chuyện Vấn Đề Của Chư Thiên (Tiền Thân Devatàpanhà)

PHẨM SANKAPPA

  1. CHUYỆN DỤC TẦM (Tiền thân Sankappa)

Không có người bắn cung…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn.

Nghe nói, một thiện nam tử trú ở thành Xá-vệ, do lòng tin Pháp nên đã xuất gia. Một hôm đi vào thành Xá-vệ để khất thực, vị ấy thấy một nữ nhân trang điểm đẹp đẽ, ái dục khởi lên trong tâm và vị ấy không còn hoan hỷ trong nếp sống xuất gia.

Các vị sư trưởng, giáo thọ thấy vậy, liền hỏi nguyên nhân vì sao vị ấy không được hoan hỷ. Khi được biết ái dục của vị ấy khởi lên và tâm dao động khiến vị ấy có ý muốn hoàn tục, họ liền nói với nhau:

– Thưa các Hiền giả, bậc Ðạo Sư có khả năng đoạn diệt các phiền não của những ai bị ái dục bức bách. Ngài thuyết giảng các Sự thật, và đem lại cho họ các kết quả tu chứng. Chúng ta hãy dẫn Tỷ-kheo ấy đến bậc Ðạo Sư.

Ngài hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, vì sao các ông lại đưa đến đây một Tỷ-kheo ngoài ý muốn của vị ấy?

Các Tỷ-kheo tường thuật rõ sự việc ấy. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Tỷ-kheo, có thật chăng ông thối thất tinh tấn?

Vị ấy trả lời:

– Bạch Thế Tôn, sự thật là như vậy.

Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Do nguyên nhân gì?

Tỷ-kheo ấy kể lại những sự việc đã xảy ra. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, các nữ nhân này thuở trước đã làm uế nhiễm tâm của những bậc thanh tịnh, những người đã nhiếp phục ái dục bằng thiền lực. Còn đối với những hạng người trống rỗng như các ông, khi bị nữ sắc chinh phục thì làm sao không bị ái dục xâm chiếm? Các người thanh tịnh vẫn còn bị uế nhiễm, những vị có danh vọng tối thượng vẫn còn bị ô nhục, thì nói gì đến các người không thanh tịnh? Khi một ngọn gió làm rung chuyển núi Tu-di thì sá gì mà không rung chuyển đống lá già cỗi được sao? Ái dục này đã thử thách tâm bất động của bậc Chánh Giác ngồi dưới cây Bồ-đề thì sao lại không làm dao động tâm mới tu tập của một người như ông được?

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của các Tỷ-kheo, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình Bà-la-môn đại phú, tài sản lên đến tám trăm triệu đồng tiền vàng. Khi lớn lên, Bồ-tát học hết tất cả các tài nghệ ở Takkasilà rồi trở về Ba-la-nại lấy vợ.

Khi cha mẹ mất, Bồ-tát làm tất cả các hiếu sự đối với song thân xong, Bồ-tát quan sát gia sản và nghĩ: “Tài sản cha mẹ tạo vẫn còn đây. Nhưng than ôi, những ai tạo ra gia sản này đâu còn nữa!”. Vì vậy, ngài cảm thấy xúc động mạnh và mồ hôi chảy ra từ thân. Bồ-tát sống trong gia đình một thời gian, rồi bố thí tài sản lớn, ngài bỏ các dục, từ giã bà con thân thuộc và đi vào Tuyết Sơn để làm ẩn sĩ.

Tại đấy Bồ-tát sống theo hạnh lượm rễ củ, trái cây rừng và những loại thực phẩm khác. Không bao lâu ngài đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng, vui thích trong thiền lạc và sống một thời gian dài như vậy.

Sau đó ngài suy nghĩ: “Ta sẽ đi vào con đường của dân chúng, dùng muối giấm, như vậy thân ta sẽ trở thành mạnh mẽ. Ta sẽ đi bộ, và những người cúng dường đồ ăn sẽ đảnh lễ một người giữ giới như ta. Sau khi mạng chung, họ sẽ tràn đầy thiên giới”. Vì vậy, Bồ-tát từ núi đi xuống, tiếp tục đi bộ đến thành Ba-la-nại, và vào lúc hoàng hôn, Bồ-tát tìm chỗ trú ẩn. Khi thấy khu vườn của vua, ngài nghĩ: “Chỗ này rất thích hợp vì yên tịnh, ta sẽ sống tại đây”. Rồi Bồ-tát đi vào khu vườn, ngồi dưới một gốc cây, trải qua một đêm trong thiền lạc.

Ngày hôm sau, khi làm vệ sinh thân thể xong, vào buổi sáng ngài sửa soạn bện tóc, áo da và áo vỏ cây, cầm bát đi khất thực. Với các căn yên tịnh, với ý tịch tịnh, đầy đủ uy nghi, Bồ-tát chỉ nhìn trước mặt khoảng một tầm, viên mãn đủ mọi mặt, với dung sắc sáng chói, ngài lôi cuốn cái nhìn của người đời, Bồ-tát đi vào khất thực và đến cửa cung vua. Bấy giờ vua đang đi qua lại trên sân điện rộng lớn, nhìn ngang qua cửa sổ, thấy Bồ-tát, vua hoan hỷ với uy nghi đức độ của ngài, nghĩ: “Nếu thực sự có pháp an tịnh viên mãn thì pháp ấy phải có trong người này”. Vì vậy, vua ra lệnh cho một đại thần:

– Hãy đi mời vị khổ hạnh ấy.

Vị đại thần đến đảnh lễ, cầm bình bát khất thực của ngài và thưa:

– Thưa Tôn giả, vua cho mời Tôn giả.

Bồ-tát nói:

– Thưa bậc đại phúc, vua không biết chúng tôi.

– Vậy thưa Tôn giả, xin hãy chờ ở đây cho đến khi tôi trở về.

Nói xong, vị đại thần tâu vua lời của vị ẩn sĩ. Vua nói:

– Chúng ta không có vị khổ hạnh thân tín trong gia đình. Hãy đi mời vị ấy về.

Và từ cửa sổ, vua duỗi tay ra vẫy gọi:

– Thưa Tôn giả, hãy đến đây.

Bồ-tát đưa bình bát cho vị đại thần và bước lên sân bằng con đường lớn của cung điện. Rồi vua đảnh lễ Bồ-tát, và mời Bồ-tát ngồi trên long sàng. Sau đó vua mời Bồ-tát ăn cơm cháo và các món đã được sửa soạn cho mình. Khi ngài ăn xong, vua hỏi chuyện và nghe trả lời, vua rất hoan hỷ, đảnh lễ và thưa:

– Thưa Tôn giả, ngài ở đâu? Từ đâu ngài đến đây?

Bồ-tát thưa:

– Tôi sống ở Tuyết Sơn, thưa Ðại vương. Từ Tuyết Sơn, tôi đến đây.

Vua lại hỏi:

– Vì nhân duyên gì ngài đến đây?

Bồ-tát trả lời:

– Thưa Ðại vương, trong mùa mưa, tôi cần có một chỗ nhất định.

Vua nói:

– Thưa Tôn giả, hãy sống trong vườn ngự uyển của trẫm. Tôn giả khỏi lo về bốn vật dụng cần thiết. Trẫm sẽ tạo công đức đưa đường lên thiên giới.

Bồ-tát nhận lời vua. Sau khi ăn sáng xong, vua cùng Bồ-tát đi đến khu vườn. Vua ra lệnh cho dựng đặt chỗ ở ban đêm và ban ngày cho Bồ-tát cũng như các vật cần thiết của một vị xuất gia, rồi nhà vua nói:

– Thưa Tôn giả, hãy sống an lạc ở đây.

Và vua gởi gắm Bồ-tát cho người giữ vườn. Bồ-tát bắt đầu từ đấy sống tự tại suốt mười hai năm.

Một hôm, có cuộc nổi loạn xảy ra ở biên địa. Vua muốn đi dẹp cuộc nổi loạn ấy, liền gọi hoàng hậu và nói:

– Này Hoàng hậu, hoặc khanh hoặc trẫm phải ở lại thành này.

– Thưa Thiên tử, vì sao Thiên tử nói vậy?

– Này hiền thê, vì vị khổ hạnh giữ giới ấy.

– Thưa Thiên tử, thần thiếp sẽ không xao lãng việc săn sóc Tôn giả của chúng ta. Ðại vương hãy đi dẹp loạn, chớ lo lắng gì.

Vì vậy vua ra đi, hoàng hậu hầu hạ Bồ-tát rất chu đáo. Kể từ khi vua ra đi, hàng ngày đến thời đã định, Bồ-tát đi đến cung vua và ăn uống tại đấy.

Một hôm, Bồ-tát đi đến quá trễ, hoàng hậu sửa soạn các món ăn xong, tắm rửa, trang điểm và soạn một chỗ nằm thấp. Trong khi chờ đợi Bồ-tát đến, bà đắp sơ sài một tấm áo trên thân rồi nằm nghỉ. Bố Tát xem giờ, liền cầm bình bát, đi ngang qua hư không và đến cửa sổ.

Nghe tiếng áo vỏ cây sột soạt của Bồ-tát, hoàng hậu hấp tấp đứng dậy, và áo vàng của bà rơi xuống. Bồ-tát để các căn bị chi phối bởi đối tượng đặc biệt khác thường này và đứng nhìn bà như bị thôi miên. Ác dục phiền não đã được chế ngự nhờ Thiền lực trước kia, nay lại khởi lên giống như con rắn hổ phồng mang, ngóc đầu lên từ cái giỏ nó bị cầm giữ, giống như cây vú sữa bị búa chém. Do phiền não khởi lên, thiền định thối thất, các căn trở nên không thanh tịnh, khi ấy Bồ-tát giống như con quạ bị gãy cánh. Bồ-tát không thể ngồi xuống như trước nữa và không thể ăn uống gì được. Dầu được hoàng hậu mời ngồi, Bồ-tát không thể ngồi yên.

Rồi hoàng hậu đặt các món ăn đủ loại cứng loại mềm vào trong bình bát, nhưng Bồ-tát không thể ăn như trước được, và cũng không thể đi ra cửa sổ rồi bay ngang qua hư không. Cầm lấy các thức ăn, Bồ-tát đi xuống bằng thang lầu lớn và đi về khu vườn. Nhưng hoàng hậu biết được tâm của Bồ-tát đã say đắm đối với mình.

Bồ-tát đi về vườn, không ăn được, liền quăng thức ăn dưới chân giường, suốt một tuần, Bồ-tát nằm dài, miệng nói mê sảng:

– Ôi hoàng hậu diễm kiều! Tay hoàng hậu đẹp làm sao! Chân đẹp làm sao! Thân thể đẹp làm sao! Bắp vế đẹp làm sao!

Trong khi bị chi phối bởi sắc đẹp ấy, Bồ-tát để đồ ăn thối và ruồi xanh đậu tràn trên mặt bàn.

Sau khi dẹp loạn về, vua đi vòng quanh thành phố được trang hoàng lộng lẫy, luôn hướng về phía hữu rồi vua tiến về cung điện.

Sau đó vua quyết định sẽ yết kiến Bồ-tát, liền đi đến khu vườn. Khi thấy am thất đầy rác dơ bẩn, nghĩ rằng Bồ-tát đã đi khỏi, vua mở cửa chòi lá và đi vào. Thấy Bồ-tát đang nằm, vua nghĩ: “Chắc Tôn giả có gì không ổn”, liền bảo người hầu quăng các đồ ăn thối, dọn dẹp chòi lá và hỏi:

– Thưa Tôn giả, ngài có việc gì không ổn?

– Thưa Ðại vương, tôi đã bị trúng tên.

Vua nghĩ: “Chắc kẻ thù của ta không tìm được cơ hội hại ta, nên chúng quyết định làm hại người mà ta yêu mến! Chúng đến và gây ra vết thương này”. Rồi vua lật ngửa thân Bồ-tát, tìm kiếm chỗ bị thương, nhưng không thấy vết thương liền hỏi:

– Thưa Tôn giả, ngài trúng tên ở đâu?

Bồ-tát nói:

– Thưa Ðại vương, không ai bắn tôi. Chỉ có tôi tự bắn quả tim mình.

Rồi Bồ-tát đứng dậy, ngồi trên ghế, và đọc những bài kệ này:

Không có người bắn cung
Phóng tên ở bên tai,
Không có tên bằng lông
Ðược nhổ từ cánh công,
Và được trang hoàng đẹp
Bởi người làm tên khéo.

Chính là tâm của ta
Ðược gột sạch tham ái
Liên hệ với dục tầm
Bằng quyết tâm, trí tuệ,
Chính dục tạo vết thương
Thiêu đốt khắp tay chân
Chẳng khác gì ngọn lửa.

Ta không thấy vết thương.
Từ đấy máu rỉ chảy,
Do tâm không chân chính,
Ðã đâm thủng tự thân.

Như vậy, Bồ-tát thuyết pháp cho vua qua ba bài kệ này.

Rồi Bồ-tát khuyên vua đi ra khỏi chòi lá. Còn Bồ-tát chuẩn bị đề tài thiền định, làm phát khởi thiền định đã mất và từ giã chòi lá, ngồi trên hư không, giáo giới cho vua rồi nói:

– Thưa Ðại vương, tôi sẽ đi về Tuyết Sơn.

Vua nói:

– Thưa Tôn giả, ngài không thể đi được.

Bồ-tát nói:

– Thưa Ðại vương, khi tôi sống ở đây, tôi đã đổi thay nhục nhã như vậy. Nay tôi không thể ở đây được.

Mặc dù vua yêu cầu tha thiết, Bồ-tát vẫn bay bổng lên hư không, đến Tuyết Sơn và ở đó cho đến khi mạng chung, rồi sanh lên cõi trời Phạm thiên.

*

Khi bậc Ðạo Sư thuyết Pháp thoại này xong, Ngài giảng các Sự thật. Cuối bài giảng, vị Tỷ-kheo thối thất đã đắc quả A-la-hán, một số khác đắc quả Dự-lưu, Nhất lai và Bất lai. Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vua là Ànanda, và vị ẩn sĩ tu khổ hạnh là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN MỘT NẮM MÈ (Tiền thân Tilamutthi)

Hôm nay ta nghĩ đến…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một người hay phẫn nộ. Nghe nói có một Tỷ-kheo hay phẫn nộ, nhiều phiền não. Dầu nghe ai nói ít bao nhiêu, vị ấy cũng phẫn nộ, nói lời thô lỗ, biểu lộ phẫn uất, ân hận, bất mãn.

Tại Chánh pháp đường, các Tỷ-kheo bắt đầu nói chuyện ấy:

– Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo có tên này hay phẫn nộ, nhiều ưu não, vị ấy thường nạt nộ người xung quanh như muốn đổ dầu vào lửa. Khi giận ai Tỷ-kheo ấy nghiến răng kèn kẹt. Dù xuất gia trong Giáo pháp từ bi và giải thoát, vị ấy không thể chế ngự cơn phẫn nộ của mình.

Bậc Ðạo Sư nghe nói vậy, liền bảo một Tỷ-kheo đi gọi vị ấy đến và hỏi:

– Này Tỷ-kheo, nghe nói ông hay phẫn nộ?

Tỷ-kheo ấy trả lời:

– Bạch Thế Tôn, có thật vậy.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Tỷ-kheo này hay phẫn nộ, mà trước kia vị ấy cũng đã như vậy rồi.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, vua có một con trai tên là hoàng tử Brahmadatta. Theo thông lệ, các vua thời xưa, dầu trong thành của mình có những sư trưởng danh tiếng, vẫn gửi con mình đi đến các nước phương xa để học hỏi các tài nghệ với hy vọng nhờ đó các hoàng tử có cơ hội nhiếp phục kiêu mạn, chịu lạnh nóng và biết được cách sống ở đời.

Do vậy, khi hoàng tử lên mười sáu tuổi, vua gọi hoàng tử đến và cho chàng một đôi dép chỉ có một lớp đế, một cái dù bằng lá, một ngàn đồng tiền vàng và dặn:

– Này con thân, hãy đến Takkasilà và học các tài nghệ cho thật tinh thông.

Hoàng tử đáp lời phụ vương:

– Thưa vâng, tâu phụ vương.

Chàng đảnh lễ phụ vương rồi đi đến Takkasilà. Hoàng tử đến nhà vị Sư trưởng, đúng lúc Sư trưởng vừa dạy các thanh niên Bà-la-môn xong, đang đi qua lại trước cửa nhà. Khi thấy vị Sư trưởng, hoàng tử liền cởi dép, xếp dù lại, đảnh lễ Sư trưởng, rồi đứng một bên. Sư trưởng biết hoàng tử mệt mỏi liền thăm và tiếp đón người mới tới một cách thân tình.

Hoàng tử ăn xong, nghỉ một lát rồi đi đến Sư trưởng, đảnh lễ và đứng đợi. Sư trưởng hỏi:

– Này con thân, con từ đâu đến?

Hoàng tử đáp:

– Con từ Ba-la-nại đến.

– Con là ai?

– Thưa Sư trưởng, con là con vua Ba-la-nại.

– Vì mục đích gì con đến đây?

– Thưa Sư trưởng, vì con muốn học nghề.

– Con có đem tiền nộp học phí cho Sư trưởng không, hay con muốn làm đệ tử hầu hạ Sư trưởng?

Hoàng tử thưa:

– Con có đem tiền học phí dành cho Sư trưởng.

Hoàng tử liền đặt cái túi một ngàn đồng tiền vàng dưới chân vị Sư trưởng rồi đảnh lễ. Các đệ tử thường ở lại hầu thầy, ban ngày làm công việc cho Sư trưởng và buổi tối học nghề. Còn các đệ tử có nộp tiền học phí được xem như con trưởng trong nhà chỉ lo học nghề. Do vậy, vị Sư trưởng thu xếp thì giờ rỗi rảnh và thuận tiện dạy nghề cho hoàng tử.

Một hôm hoàng tử đi tắm với Sư trưởng, thấy một bà già trải mè trắng ra phơi và đang ngồi canh chừng. Hoàng tử thấy mè trắng liền bóc lấy một nắm bỏ vào miệng và ăn. Thấy vậy, bà già nghĩ: “Chắc người này thèm ăn”, nhưng ngồi yên không nói gì. Ngày hôm sau cũng vào giờ ấy, sự việc tương tự lại xảy ra. Bà già cũng không nói gì. Ðến ngày thứ ba, sự việc ấy tiếp tục xảy ra. Khi ấy bà già giơ cánh tay lên khóc và than:

– Ôi! Vị Sư trưởng có danh tiếng để cho các đệ tử của mình lấy cắp mè của tôi!

Sư trưởng quay lại và hỏi:

– Thưa bà, việc gì vậy?

– Thưa Sư trưởng, tôi đang phơi mè trắng, đệ tử của ngài hôm nay ăn một nắm, bữa qua ăn một nắm, bữa trước ăn một nắm, cậu ấy ăn như vậy cho tan nát tất cả gia sản của tôi!

– Thưa bà chớ khóc, ta sẽ trả tiền đền cho bà.

– Thưa ngài, tôi không cần tiền, nhưng hãy dạy cậu ấy chớ làm như vậy nữa.

– Vậy bà hãy xem đây.

Rồi Sư trưởng bảo hai thanh niên nắm chặt hai tay của hoàng tử, lấy roi tre đánh trên lưng hoàng tử ba lần và nói:

– Chớ làm như vậy nữa!

Hoàng tử phẫn nộ Sư trưởng, với cặp mắt đỏ kè, chàng nhìn Sư trưởng từ đỉnh đầu đến bàn chân. Sư trưởng biết với cái nhìn như vậy, hoàng tử đã phẫn nộ như thế nào.

Hoàng tử chú tâm học hành, và khi học xong nghề, vẫn giữ trong tâm niềm sân hận đối với việc Sư trưởng đã đánh, chàng nghĩ: “Ta sẽ trả thù và phải làm cho ông ta chết…”.

Ðến thời từ biệt, hoàng tử đảnh lễ Sư trưởng và thưa:

– Khi nào con được làm vua Ba-la-nại, con sẽ cho mời Sư trưởng, lúc ấy mong rằng Sư trưởng hãy đến.

Trước thái độ khẩn cầu của hoàng tử, Sư trưởng hứa nhận lời mời của chàng. Từ biệt Sư trưởng, hoàng tử đi về Ba-la-nại, đảnh lễ phụ vương, và trình bày những điều mình đã học. Vua suy nghĩ: “Ta còn sống để được thấy con ta. Mong rằng khi ta còn sống, ta sẽ thấy con ta trị vì nước huy hoàng!”. Vì vậy vua đặt con lên ngôi kế vị.

Trong khi hưởng thụ uy lực của vương vị, hoàng tử nhớ đến sự xúc phạm trước đó của Sư trưởng, và khởi tâm phẫn nộ. Với ý định: “Ta sẽ giết người ấy”, vua liền gởi sứ giả đến mời Sư trưởng.

Ông suy nghĩ: “Vị vua này còn trẻ, ta không thể nhiếp phục một tân vương được”, nên ông không đi. Và ông đợi vua đến tuổi trung niên mới có thể đi nhiếp phục vua được.

Một thời gian sau, vua ấy đã bước vào tuổi trung niên, Sư trưởng đến trước cửa cung và nhờ báo tin vị Sư trưởng ở Takkasilà đã đến. Vua rất bằng lòng và cho mời vị ấy vào. Khi thấy Sư trưởng đến gần mình, vua sanh phẫn nộ, con mắt trở thành đỏ ngầu, liền nói với các cận thần:

– Này các khanh, hôm nay, chỗ thầy ta đã đánh ta vẫn còn nhức. Thầy ta đến chắc có mang theo cái chết được ghi ở trên trán. Hôm nay mạng sống của Sư trưởng sẽ không còn nữa.

Rồi vua đọc hai bài kệ đầu:

Hôm nay ta nghĩ đến
Sự việc ông đã làm,
Chỉ vì một nắm mè,
Ông bắt trói tay ta,
Ông lấy cây gậy tre,
Ðánh ta thật đau đớn.

Ông không thích sống à?
Phạm chí không sợ sao
Khi bắt cánh tay ta,
Ðánh ta đến ba lần?
Nay còn dám đến đây?

Vua lấy cái chết dọa Sư trưởng như vậy. Nghe xong, Sư trưởng bình tĩnh đọc bài kệ thứ ba:

Bậc thánh dùng gậy đánh,
Nhiếp phục hạnh không lành,
Như vậy đúng giáo lý,
Ðây không phải hận thù,
Tất cả bậc hiền trí
Ðều biết rõ như vậy.

– Do vậy, thưa Ðại vương, ngài hãy tự biết điều này. Vấn đề này không xứng đáng để ngài khởi hận thù. Thưa Ðại vương, nếu Ðại vương đã không được tôi dạy bảo, ngài thử nghĩ chắc hẳn ngài sẽ tiếp tục lấy của cải người ta như bánh, kẹo, cây trái và các thứ khác. Rồi ham mê các hành vi trộm cướp, dần dần ngài sẽ bị lôi cuốn vào các việc như phá nhà, cướp đường, ám sát trong làng. Cuối cùng chắc ngài đã trở thành kẻ ăn cướp đối nghịch với mọi người và sẽ bị bắt với tang vật, sẽ bị dẫn đến trước vua, và vua sẽ ra lệnh: Hãy đem nó đi, tùy tội phạm của nó mà xử phạt. Và như vậy, chắc ngài sẽ nhận được các hình phạt của nhà vua. Như vậy do đâu Ðại vương hưởng được tất cả thành công tốt đẹp như hôm nay? Có phải Ðại vương nhờ tôi mà đạt được cảnh huy hoàng này không?

Bằng cách ấy, vị Sư trưởng đã thuyết phục vua. Các đại thần đứng xung quanh nghe ngài nói liền thưa:

– Tâu Thiên tử, sự thật là vậy. Tất cả uy lực huy hoàng này đều do vị Sư trưởng mà có.

Trong khoảnh khắc ấy, vua công nhận các đức tánh của Sư trưởng và thưa:

– Thưa Sư trưởng, trẫm xin dâng hiến Sư trưởng mọi sự huy hoàng này. Mong Sư trưởng hãy chấp nhận vương quốc.

Sư trưởng từ chối và nói:

– Tâu Ðại vương, thần không cần vương quốc.

Vua liền sai sứ giả đi đến Takkasilà, mời vợ con của Sư trưởng về, ban cho họ quyền lực lớn, và mời Sư trưởng làm vị quốc sư tế tự, đặt Sư trưởng vào hàng cố vấn của vua.

Từ đó, vua vâng theo lời giáo giới của Sư trưởng và trọn đời làm các công đức như bố thí…, cuối cùng khi mệnh chung, được sanh lên cõi trời.

*

Sau khi thuyết Pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư giảng các Sự thật. Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo hay phẫn nộ đã đắc quả Bất lai và nhiều vị khác đắc quả Dự-lưu, Nhất lai, Bất lai. Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ vua ấy là Tỷ-kheo hay phẫn nộ, còn vị Sư trưởng là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN VUA RẮN MANIKANTHA (Tiền thân Manikantha)

Mọi đồ ăn thức uống…,

Câu chuyện này, khi ở điện thờ Aggàlava gần Àlavi, bậc Ðạo Sư đã kể về học giới xây dựng các am thất.

Bấy giờ, các Tỷ-kheo ở Àlavakà có tánh thích cầu xin, đang làm các chòi lá cho mình. Họ cầu xin nhiều, gợi ý và khi mở miệng, họ luôn luôn nói:

– Hãy cho một người làm công quả. Hãy cho một người phụ giúp làm chòi…

Mọi người quá bực mình vì sự cầu xin, gợi ý này đến nổi khi thấy các Tỷ-kheo, họ liền sợ hãi và hoảng hốt bỏ chạy.

Rồi Tôn giả đại Ca-diếp đến Àlavi, và đi quanh thị trấn để khất thực. Dân chúng thấy Trưởng lão cũng bỏ chạy như trước. Trưởng lão ăn xong, trên đường khất thực trở về, liền gọi các Tỷ-kheo và hỏi:

– Này các Hiền giả, xưa kia Àlavi là nơi dễ nhận đồ khất thực. Nay vì sao nó trở thành khó khất thực như vậy?

Khi Tôn giả nghe nói lý do, liền đi đến gặp Thế Tôn đang ở tại điện Aggàlava và thuật lại câu chuyện. Bậc Ðạo Sư nhân lý do này đã họp chúng Tỷ-kheo, và hỏi các Tỷ-kheo ở Àlavi:

– Có thật chăng, này các Tỷ-kheo, các ông có tánh thích cầu xin mọi người giúp đỡ vì nay đang làm các chòi?

Họ trả lời:

– Bạch Thế Tôn, có thật vậy.

Bậc Ðạo Sư quở trách họ và nói thêm:

– Này các Tỷ-kheo, ngay trong thế giới loài rắn, có đầy đủ bảy món báu, sự cầu xin này cũng làm phật ý chúng còn nói gì loài người? Ðối với dân chúng, lấy cho được một đồng tiền vàng, cũng thật khó không khác gì lột da từ hòn đá!

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn giàu có. Khi Bồ-tát đến tuổi chạy chơi, mẹ Bồ-tát sanh một con trai khác có đức hạnh. Hai anh em vừa đến tuổi trưởng thành thì cha mẹ quá cố. Quá xúc động vì cha mẹ mất và thấy cuộc đời quá mong manh, họ liền xuất gia làm ẩn sĩ.

Cả hai anh em dựng chòi lá trên bờ sông Hằng và trú tại đấy. Người anh cả làm chòi lá phía trên sông Hằng, còn người em dựng chòi lá ở phía dưới sông Hằng.

Một hôm, vua rắn thần tên là Manikantha (Cổ có châu báu) từ cung điện rắn thần đi ra, qua lại trên bờ sông Hằng giả dạng một thanh niên Bà-la-môn, đến am thất của người em, đảnh lễ và ngồi xuống. Họ nói lời thăm hỏi ân cần với nhau rồi trở thành thân thiết đến độ họ không thể xa nhau được.

Vua rắn từ đó luôn luôn đến thăm người em tu khổ hạnh, mải mê trò chuyện và khi ra về, vua rắn quyến luyến vị ấy nên đã xuất lộ nguyên hình của mình, lấy thân cuộn tròn xung quanh vị ấy, ôm ấp vị ấy với cái mào lớn đặt lên trên đầu và nằm đấy trong chốc lát cho đến khi thỏa mãn sự luyến ái, rồi rời thân bạn ra, đảnh lễ từ giã và về cung điện của mình.

Vị tu khổ hạnh vì quá sợ hãi vua rắn, trở thành ốm yếu, tiều tụy xanh xao, vàng vọt, gân nổi trên da. Người em tu khổ hạnh một hôm đi đến thăm người anh.

Người anh hỏi:

– Sao em lại ốm yếu, tiều tụy, xanh xao, vàng vọt, gân nổi trên da như vậy?

Người em tường thuật câu chuyện cho anh rõ. Người anh hỏi:

– Em có thích con rắn ấy đến với em không?

Người em trả lời:

– Em không muốn!

– Vua rắn ấy khi đến với em, có mang đồ trang sức không?

– Nó có mang một hòn ngọc quý.

– Ðược rồi! Vậy khi vua rắn đến thăm em, khi nó chưa ngồi, em liền xin: Hãy cho tôi hòn ngọc! Như vậy con rắn ấy sẽ không quấn thân xung quanh em nữa đâu và nó sẽ bỏ đi. Ngày mai lại, em sẽ đứng nơi cửa am xin hòn ngọc ấy khi nó vừa đến. Ngày thứ ba, khi nó vừa ra khỏi nước, trên bờ sông Hằng, em hãy xin hòn ngọc ấy. Như vậy nó sẽ không đến thăm em nữa.

Người em tu khổ hạnh đáp:

– Lành thay!

Và vị ấy đi về chòi lá của mình.

Theo đúng lời dặn, ngày hôm sau, khi vua rắn ấy đến, chỉ vừa đứng lại, người em liền xin:

– Hãy cho tôi hòn ngọc báu trang sức của bạn.

Vua rắn ấy không kịp ngồi xuống liền vội vàng bỏ chạy. Ngày kế tiếp, người em đứng lại cửa am, khi vua rắn vừa đến, liền hỏi:

– Hôm qua, bạn không cho tôi hòn ngọc báu. Vậy hôm nay, bạn phải cho tôi!

Con rắn không đi vào am mà lập tức bỏ chạy.

Ðến ngày thứ ba, khi vua rắn ấy mới nổi lên trên mặt nước, người em liền nói:

– Hôm nay là ngày thứ ba tôi xin ngọc. Hôm nay, hãy cho tôi ngọc báu này!

Vua rắn đứng ở mặt nước, từ chối qua hai bài kệ này:

Mọi đồ ăn và thức uống
Ðược sung mãn, đầy tràn,
Chính do hòn ngọc báu
Ðem lại cho ta vầy.
Bạn cầu xin quá nhiều,
Ta không muốn cho bạn.
Ta sẽ không đi đến
Am thất bạn nữa đâu.

Như đứa trẻ cầm tay
Một hòn sạn trơn láng,
Bạn làm ta sợ hãi
Khi xin hòn ngọc này!
Bạn cầu xin quá nhiều,
Ta không muốn cho bạn.
Ta sẽ không đi đến
Am thất bạn nữa đâu.

Nói vậy xong, vua rắn lặn xuống nước đi về cung điện của mình, không bao giờ trở lại nữa. Còn người tu khổ hạnh ấy, vì không thấy vua rắn xinh đẹp của mình nên lại ốm yếu, tiều tụy, xanh xao, vàng vọt, gân nổi trên da nhiều hơn nữa. Người anh tu khổ hạnh muốn biết tin tức của em, đi đến thăm, thấy em lại càng vàng vọt hơn trước liền hỏi:

– Tại sao em lại ốm yếu hơn trước?

Vị kia đáp:

– Bởi vì em không còn được thấy con rắn xinh đẹp ấy nữa.

Người anh nghe vậy liền suy nghĩ: “Người tu khổ hạnh này không thể sống mà không có vua rắn ấy!”.

Và vị ấy đọc bài kệ thứ ba:

Chớ cầu xin người nào
Mà mình thường yêu mến,
Vì nếu xin quá nhiều
Mình trở thành đáng ghét!
Phạm chí này xin mãi
Hòn ngọc của rắn thần,
Nên nó không trở lại
Ðể thăm viếng nữa đâu!

Sau đó, người anh tu khổ hạnh an ủi em:

– Thôi từ nay em chớ sầu muộn nữa.

Rồi vị ấy đi về am thất của mình. Sau một thời gian tu tập, cả hai anh em đạt các Thắng trí và các Thiền chứng, cuối cùng khi mệnh chung được sanh lên cõi trời Phạm thiên.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, như vậy ngay tại cung điện loài rắn có đầy đủ bảy báu vật, nhưng các loại rắn cũng rất ghét cầu xin, còn nói gì loài người!

Sau khi thuyết Pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, người em là Ànanda, còn người anh cả là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON NGỰA QUÝ ĂN CÁM GẠO ÐỎ (Tiền thân Kundaka-Kucchi-Sindhava)

Ðã ăn cỏ, và cháo…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Trưởng lão Xá-lợi-phất.

Một thời sau mùa an cư ở Xá-vệ, Thế Tôn đi du hành các xứ rồi Ngài trở về Xá-vệ. Dân chúng đón tiếp bậc Ðạo Sư và tổ chức cúng dường đức Phật cùng Tăng chúng. Họ mời một Tỷ-kheo truyền pháp ở trong tịnh xá và tùy theo số người đến muốn cúng dường bao nhiêu Tỷ-kheo, vị này giới thiệu các vị ấy cho họ.

Có một bà già nghèo chỉ sửa soạn một phần ăn để cúng dường, nhưng các Tỷ-kheo đều đã được giới thiệu với những người đến trước. Khi mặt trời mọc, bà ấy đi đến vị Tỷ-kheo truyền pháp và nói:

– Thưa thầy, hãy giới thiệu cho tôi một Tỷ-kheo.

Vị ấy nói:

– Thưa bà, tất cả Tỷ-kheo đã được tôi giới thiệu. Nhưng ở tinh xá, chỉ còn Trưởng lão Xá-lợi-phất. Bà hãy cúng phần ăn cho vị ấy.

Bà già hoan hỷ nói:

– Lành thay, Tôn giả.

Và bà đứng đợi tại cổng Kỳ Viên. Khi Trưởng lão đến, bà đảnh lễ, tay cầm bình bát, đưa Trưởng lão về nhà và mời ngồi. Nhiều gia đình mộ đạo nghe nói: Một bà già đã mời được vị Trưởng lão quân Chánh pháp ngồi tại nhà của mình! Trong số những người nghe ấy có vua Pasenadi nước Kosala. Vua lập tức gửi bà ấy các loại đồ ăn cùng với một chiếc áo, một túi một ngàn đồng tiền vàng và nói:

– Mong rằng bà đón tiếp vị Tôn giả của chúng tôi thật chu đáo. Xin tặng bà cái áo này và một ngàn đồng tiền vàng để tiêu dùng vào việc tiếp đãi bậc Trưởng lão thật đầy đủ.

Cũng như vua đã làm, ông Cấp Cô Ðộc anh, ông Cấp Cô Ðộc em và đại tín nữ Visàkhà đều gửi thí vật tương tự. Còn các gia đình khác gửi một trăm, hai trăm đồng tiền vàng, tùy theo khả năng của mình. Như vậy, chỉ trong một ngày, bà già ấy nhận được khoảng một trăm ngàn đồng tiền vàng.

Trưởng lão uống xong bát cháo của bà già ấy, ăn món bà ấy làm và dùng cơm bà ấy nấu. Khi vị ấy nói lời tùy hỷ công đức và khích lệ bà, làm cho bà phấn khởi đến độ bà được an trú vào quả Dự-lưu, rồi vị ấy đi về tinh xá.

Tại Chánh pháp đường, các Tỷ-kheo bắt đầu nói chuyện và ca ngợi công đức của Trưởng lão:

– Thưa các Hiền giả, bậc Tướng quân Chánh pháp đã giải thoát một bà gia chủ già khỏi cảnh bần cùng và đã an trú vào quả Dự-lưu. Tôn giả ấy đã trở thành nơi nương tựa chính của bà già. Tôn giả không khinh chê các món ăn mà bà ấy cúng và đã dùng chúng.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, nay các ông tụ họp ở đây và bàn vấn đề gì?

Khi được biết vấn đề trên, ngài nói:

– Này các Tỷ-kheo, Tôn giả Xá-lợi-phất không phải chỉ nay mới trở thành chỗ nương tựa của bà già ấy. Không phải chỉ nay vị ấy mới không khinh chê món ăn mà bà ấy cúng và đã ăn chúng. Thuở trước, vị ấy đã làm như vậy.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình của một người đi buôn ở một tỉnh phương Bắc. Thời ấy có năm trăm người lái buôn thường đưa ngựa đến Ba-la-nại để bán.

Bấy giờ một người buôn ngựa đem năm trăm con ngựa đang đi trên đường đến Ba-la-nại. Giữa đường, cách Ba-la-nại không xa, có một thị trấn. Người ta nghe kể rằng trước kia có một vị triệu phú rất giàu có ở trong một tư thất rất lớn. Nhưng gia đình người ấy dần dần sa sút chỉ còn lại một bà già hiện đang ở tại ngôi nhà ấy. Người buôn ngựa kia đến thị trấn ấy, trả một số tiền thuê phòng trong ngôi nhà ấy để ở và đem cột các con ngựa gần đó.

Ngày hôm ấy, thật là một ngày đầy may mắn, một con ngựa cái thuần chủng đẻ một con ngựa con. Người lái buôn ấy ở đấy hai ba ngày rồi quyết định yết kiến vua, và đem ngựa ra đi. Bà già ấy nói với anh ta:

– Hãy đem trả tiền thuê nhà cho tôi rồi đi.

Anh ta đáp:

– Vâng, tôi sẽ trả.

Bà già nói thêm:

– Này con thân, trả tiền cho ta và hãy trừ bớt số tiền con ngựa con mà con đã nhường cho ta.

Người buôn ngựa làm đúng như vậy rồi ra đi. Bà già thương con ngựa con ấy như con đẻ của mình, cho nó ăn cơm dư phơi khô với thịt vụn, cỏ non và nuôi nó rất cẩn thận.

Sau một thời gian, Bồ-tát đem theo năm trăm con ngựa lên đường và cũng thuê chỗ trọ tại ngôi nhà ấy. Ðàn ngựa của Bồ-tát đánh hơi con ngựa thuần chủng được bà già nuôi bằng bột cám gạo đỏ ấy, nên không một con nào dám vào trong nhà mà Bồ-tát thuê trọ. Bồ-tát hỏi bà già:

– Thưa bà, trong nhà này có con ngựa nào khác không?

Bà già đáp:

– Này con thân, ta chỉ nuôi một con ngựa con mà ta chăm sóc kỹ như là con ruột.

– Thưa bà, con ngựa ấy ở đâu?

Bà già nói:

– Nó đi ra đồng ăn cỏ rồi.

– Khi nào nó trở về?

– Nó sẽ trở về vào buổi chiều.

Bồ-tát ngồi đợi con ngựa con về, còn đàn ngựa của mình được cho ở phía ngoài. Chẳng bao lâu con ngựa thuần chủng đi ăn cỏ xong trở về.

Khi vừa thấy con ngựa quý với cái bụng chứa đầy cám gạo đỏ, Bồ-tát nhìn kỹ các tướng tốt của nó và suy nghĩ: “Con ngựa thuần chủng này thật vô giá. Ta phải cho bà này tiền để mua con ngựa này”. Lúc ấy con ngựa con đã vào nhà và đến chuồng của nó xong, cả đàn ngựa kia mới dám bước vào!

Bồ-tát ở lại đấy hai ba ngày săn sóc đàn ngựa xong, khi ra đi, vị ấy nói:

– Thưa bà, bà hãy lấy số tiền và bán cho tôi con ngựa con này.

Bà già nói:

– Này con thân, con nói gì vậy? Ðâu lại có chuyện bán con mình đi?

Bồ-tát lại hỏi:

– Thưa bà, bà nuôi nó bằng thức ăn gì?

Bà già trả lời:

– Cơm nấu, cháo gạo, cơm khô, thịt vụn và cỏ. Ngoài ra phải có nước cháo để nó uống. Này con, bà nuôi nó như vậy đó.

– Thưa bà, nếu được con ngựa ấy, tôi sẽ cho nó món ăn thượng hạng. Tại chỗ nó đứng, tôi sẽ giăng một cái lều và đặt nệm để nó đứng.

Bà già cảm động và nói:

– Này con thân, nếu sự việc như con nói thì mong rằng con ngựa của ta sẽ được sung sướng. Hãy lấy nó và đem đi.

Bồ-tát trả một giá riêng cho bốn chân, cho cái đuôi và cho cái đầu. Vị ấy đặt sáu túi tiền, mỗi túi một ngàn đồng tiền vàng tại mỗi chỗ trên và mặc cho bà già một tấm áo mới, trang điểm ngọc vàng cho bà rồi đặt bà trước con ngựa con. Con ngựa mở mắt nhìn bà và rơi lệ. Bà già vuốt lưng nó và nói:

– Bà đã nhận được tiền nuôi con lâu nay, này con thân, con hãy đi.

Khi ấy, con ngựa mới chịu đi.

Hôm sau, Bồ-tát muốn thử con ngựa xem nó có biết sức mạnh của nó hay không. Vì vậy vị ấy sửa soạn các món ăn bình thường, cho đổ cháo gạo đỏ trong cái máng để nó ăn.

Nhưng con ngựa ấy không muốn uống nước cháo nên nói:

– Tôi sẽ không ăn món này.

Bồ-tát đọc bài kệ đầu để thử nó:

Ðã ăn cỏ, và cháo
Làm bằng cám gạo đỏ
Món ăn ngon ngày trước
Sao nay con không ăn?

Nghe vậy, con ngựa thuần chủng đọc hai bài kệ tiếp:

Khi người nào không biết
Sanh chủng và huấn luyện,
Ðối với bậc Phạm chí,
Cháo cám đỏ vừa đủ.

Nhưng ông rõ biết tôi
Là ngựa nòi tối thượng,
Do vậy ở chỗ ông,
Tôi không ăn cháo gạo!

Nghe vậy, Bồ-tát nói:

– Ta làm vậy để thử con, thôi con chớ giận dỗi!

Bồ-tát liền nấu các món ngon cho ngựa ăn, rồi đi đến hầu vua. Tại góc của sân chầu, Bồ-tát dựng một trại cho năm trăm con ngựa và một phía khác, Bồ-tát dựng một trại hình nón căng vải lều, trang hoàng thật đẹp. Dưới đất trải một tấm thảm, ở trên giương một cái tán, vị ấy cho con ngựa thuần chủng ở trong đó.

Khi vua đến, nhìn các con ngựa và hỏi Bồ-tát vì sao con ngựa này được ở riêng và đối xử đặt biệt như vậy.

Bồ-tát đáp:

– Thưa Ðại vương, nếu con ngựa Sindth thuần chủng này không được ở riêng biệt, nó sẽ làm sổng mất cả đàn ngựa kia.

Vua lại hỏi:

– Con ngựa thuần chủng này là một con ngựa thật đẹp chăng?

Bồ-tát đáp:

– Thưa phải, tâu Ðại vương.

– Như vậy, trẫm muốn xem tốc lực của nó ra sao.

Bồ-tát nai nịt yên cương vào con ngựa, leo lên lưng nó và thưa:

– Thưa Ðại vương, hãy xem sức ngựa chạy.

Rồi Bồ-tát đuổi mọi người ra khỏi sân chầu và leo lên cưỡi ngựa chạy quanh sân. Tất cả sân trở thành như thể được bao quanh bởi những con đường tròn ngựa chạy không gián đoạn. Rồi Bồ-tát nói:

– Thưa Ðại vương, hãy xem con ngựa thuần chủng phi.

Rồi vị ấy cho con ngựa bắt đầu phi. Không ai thấy vị ấy ở đâu cả! Rồi vị ấy buộc một lá đỏ bên sườn ngựa. Khi ấy, người ta chỉ thấy một vòng tròn lá đỏ. Rồi Bồ-tát cho con ngựa phi trên mặt nước hồ trong một khu vườn của kinh thành. Tại đấy con ngựa phi trên mặt nước và các lá hoa sen và không một lá nào bị nhận chìm xuống nước.

Như vậy, Bồ-tát biểu diễn tốc lực tuyệt diệu của con ngựa, xong liền leo từ lưng ngựa xuống, vỗ tay, rồi đưa bàn tay ra, với lòng bàn tay ngửa lên trên. Con ngựa leo lên bàn tay, chụm bốn chân làm một và đứng trên lòng bàn tay. Rồi Bồ-tát thưa với vua:

– Thưa Ðại vương, tất cả bờ biển cũng không đủ để biểu diễn mọi kiểu phi tài giỏi của con ngựa thuần chủng này.

Vua rất hài lòng, ban cho bậc Ðại Sĩ nửa quốc độ, rảy nước lễ cho con ngựa con, và đặt nó vào địa vị vương mã. Con ngựa ấy được vua ái mộ, thân thiết và được tôn trọng đặc biệt. Chỗ con ngựa ở được trang hoàng như vương phòng, nơi nào cũng đẹp, sàn được rảy bốn loại hương, quanh tường được treo các vòng hoa; phía trên mái lợp một cái tán bằng vải có đính các sao vàng, giống như một cái đình đủ mọi vẻ đẹp chung quanh, luôn luôn có ngọn đèn dầu thơm soi sáng và tại chỗ đi đại tiểu tiện có đặt một cái chậu bằng vàng. Con ngựa ấy ăn các thực phẩm quý dành cho vua.

Từ khi con ngựa ấy đến, quyền cai trị của vua lan rộng khắp cõi Diêm-phù-đề. Rồi vua vâng theo lời giáo giới của Bồ-tát, làm các công đức như bố thí v.v… và cuối cùng khi mệnh chung được sanh lên cõi trời.

*

Sau khi kể Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng ấy, nhiều vị đắc quả Dự-lưu, Nhất lai, Bất lai. Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, bà già ấy là bà già này, con ngựa thuần chủng là Xá-lợi-phất, vua là Ànanda, còn người buôn ngựa là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON VẸT (Tiền thân Suka)

Khi nào con chim ấy…,

Câu chuyện này khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo đã chết vì bội thực. Khi Tỷ-kheo này chết, các Tỷ-kheo ngồi tại Chánh pháp đường bàn luận về sự thất đức của Tỷ-kheo ấy như sau:

– Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo có tên như vậy không biết lượng cái bụng của mình, đã ăn quá nhiều nên không tiêu hóa nổi và đã chết.

Bậc Ðạo Sư đi đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, khi các ông ngồi họp ở đây, các ông nói đến chuyện gì?

Khi nghe vấn đề trên, Ngài nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay, mà trước kia cũng vậy, vị ấy vì ăn quá nhiều và đã mệnh chung.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con vẹt ở núi Tuyết. Bồ-tát là vua của vài ngàn con vẹt, sống ven biển trên sườn núi Tuyết. Vị vua chim vẹt này sanh một đứa con. Khi nó lớn lên mạnh khỏe thì mắt Bồ-tát bị suy yếu. Người ta thường nói các con vẹt bay rất nhanh. Do vậy, khi chúng trở về già, thì các con mắt yếu trước. Con của vua chim vẹt để cha mẹ ở lại tổ, còn mình đi kiếm đồ ăn nuôi dưỡng cha mẹ.

Một hôm, nó đi tìm mồi, đứng trên đỉnh núi nhìn ra biển thấy một hòn đảo, tại đấy có một rừng xoài đầy trái màu vàng. Hôm sau, đến giờ đi tìm đồ ăn, nó bay và hạ xuống rừng xoài, uống nước ngọt của trái xoài, rồi lấy trái xoài chín đem về cho cha mẹ. Bồ-tát ăn trái xoài ấy, biết được vị trái xoài, liền nói:

– Này con thân, có phải trái xoài chín này ở tại đảo tên như vậy không?

Nó trả lời:

– Thưa cha thân, đúng vậy.

Bồ-tát nói:

– Này con thân, các con vẹt đi đến đảo ấy không bảo vệ mạng sống được lâu dài. Con chớ nên đi đến hòn đảo ấy nữa.

Vẹt con không nghe theo lời cha, và vẫn đi đến hòn đảo ấy.

Một hôm, sau khi uống nhiều nước ngọt của xoài, nó mang về một trái xoài chín cho cha mẹ. Khi bay về trên mặt biển, thân trở thành mệt mỏi vì mang nặng, nó buồn ngủ, nên vừa ngủ vừa bay, và trái xoài từ mỏ nó rơi xuống. Dần dần nó bỏ con đường về, bay sà xuống mặt nước rồi rơi xuống nước. Một con cá liền bắt lấy nó ăn thịt.

Bồ-tát đợi con đã quá giờ mà không thấy nó trở về, biết rằng có lẽ nó đã rơi xuống biển và chết rồi. Kể từ đó vẹt cha vẹ mẹ không có đồ ăn, héo mòn rồi chết luôn.

*

Sau khi kể câu chuyện quá khứ xong, bậc Ðạo Sư liền đọc các bài kệ này:

Khi nào con chim ấy
Biết đủ trong ăn uống,
Chim được thọ mạng dài,
Và nuôi dưỡng cha mẹ.

Khi chim ăn quá nhiều,
Không biết sự tiết độ,
Tại đấy chim chìm xuống,
Không còn ai thấy nữa.

Do vậy, thật lành thay
Tiết độ, không tham ăn,
Không biết lường, chìm xuống,
Biết lường đâu có chìm?

Sau khi kể Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết giảng Sự thật. Cuối bài giảng ấy, nhiều vị đắc quả Dự-lưu, Nhất lai, Bất lai và ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo không tiết độ trong ăn uống là con của vua loài vẹt, còn vua loài vẹt là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CÁI GIẾNG CŨ (Tiền thân Jarudapàna)

Các lái buôn cần nước…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về những người lái buôn tại Xá-vệ.

Nghe nói những người lái buôn ấy lấy hàng hóa ở Xá-vệ, chất đầy xe xong, khi đến thời ra đi đến hành nghề, họ mời đức Thế Tôn đến và bố thí cúng dường lớn. Họ thọ Tam qui Ngũ giới và được an trú vào các giới. Sau đó họ đảnh lễ bậc Ðạo Sư và thưa:

– Bạch Thế Tôn, chúng con sẽ lên đường dài để hành nghề. Sau đó con bán hết các hàng hóa, thành tựu được mục đích và trở về được an toàn thì chúng con sẽ đến yết kiến và đảnh lễ Thế Tôn lần nữa.

Rồi họ lên đường.

Trên một đoạn đường khó khăn, họ thấy một cái giếng cũ xưa và nói:

– Giếng này không có nước. Chúng ta đang khát nước vậy chúng ta hãy đào sâu giếng này.

Khi họ đào, họ tìm được nhiều lớp kim loại từ sắt đến lưu ly v.v… Họ thỏa mãn với sự thu hoạch này, liền chở đầy châu báu trên các cỗ xe và trở về Xá-vệ an toàn. Sau khi cất số tài sản mà họ đã đem về, họ nghĩ: “Chúng ta đã được mục đích, vậy chúng ta sẽ cúng dường Tăng chúng các món ăn”.

Họ mời đức Thế Tôn đến để bố thí cúng dường, và đảnh lễ Ngài, rồi họ ngồi xuống một bên và tường thuật với bậc Ðạo Sư cách họ tìm được tài sản như thế nào.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các cư sĩ, các ông biết bằng lòng với các tài sản ấy và chấp nhận tài sản cùng nếp sống với ý thức biết đủ. Còn thời xưa, có những người không thỏa mãn, không tiết độ, không nghe lời bậc hiền trí nên phải mệnh chung.

Rồi theo lời yêu cầu của họ, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình lái buôn. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát trở thành người lãnh đạo một đoàn lữ hành.

Một dịp kia, Bồ-tát lấy hàng hóa chất đầy xe, đem theo nhiều người làm thành một đoàn và tiến bước trên chính con đường khó khăn này, bỗng thấy cái giếng nước như hiện nay. Tại đây các người đi buôn nói:

– Chúng ta muốn uống nước.

Họ bắt đầu đào cái giếng ấy và tình cờ lấy được nhiều kim loại và châu báu v.v… Họ được nhiều kho báu như vậy, nhưng vẫn không thỏa mãn. “Chắc còn kho báu khác ở đây tốt đẹp hơn kho báu này”. Họ suy nghĩ và họ càng đào thêm nữa. Bồ-tát nói với họ:

– Thưa các vị thương gia, tham là nguồn gốc của tai họa, chúng ta đã được nhiều tài sản rồi. Với chừng ấy, chúng ta phải biết vừa đủ. Chớ có đào thêm nữa.

Dầu có sự can ngăn của Bồ-tát, họ vẫn đào.

Bấy giờ giếng ấy là chỗ của loài rắn thần. Vua loài rắn thần ở dưới thấy cung điện của mình bị phá vỡ, đá, bụi rơi xuống, liền phẫn nộ, dùng hơi độc từ lỗ mũi phun ra, giết chết tất cả mọi người chỉ trừ Bồ-tát. Rồi vào các cỗ xe, chất đầy mọi xe với tất cả châu báu và đặt Bồ-tát ngồi trên cỗ xe tốt đẹp nhất, rồi bảo các rắn thần trẻ đánh xe, chở Bồ-tát đến Ba-la-nại. Chúng đưa vị ấy vào nhà, sắp đặt tài sản xong, lại trở về cung điện của loài rắn.

Bồ-tát tiêu dùng tài sản, làm vang danh toàn cõi Diêm-phù-đề bằng cách bố thí, giữ giới, hành trì ngày trai giới, và cuối đời, khi mệnh chung vị ấy được sanh lên cõi trời.

Sau khi kể câu chuyện quá khứ, bậc Ðạo Sư đọc các bài kệ này:

Các lái buôn cần nước,
Ðào cái giếng cũ xưa,
Ở đó họ tìm được
Sắt, đồng, chì và thiếc,
Hoàng kim và bạch ngân,
Nhiều trân châu, lưu ly.

Nhưng họ không biết đủ,
Cứ đào, đào thêm mãi.
Các rắn độc điên tiết,
Phun lửa giết chết tiệt.

Vậy chớ đào quá sức,
Quá mức gây tác hại.
Do đào, được tài sản,
Ðào quá, lại mất sạch!

*

Khi bậc Ðạo Sư kể xong Pháp thoại này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vua loài rắn là Xá-lợi-phất và người lãnh đạo đoàn lữ hành là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN NGƯỜI HẦU CẬN GÀMANI-CANDA (Tiền thân Gàmani-Canda)

Nó không giỏi làm nhà…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về sự tán thán trí tuệ.

Tại Chánh pháp đường, các Tỷ-kheo ngồi họp và tán thán trí tuệ đức Thế Tôn:

– Như Lai là bậc đại tuệ, quảng tuệ, thiệp tuệ, mẫn tuệ, duệ tuệ, đạt tuệ. Ngài vượt thế giới chư Thiên và thế giới này về trí tuệ.

Bậc Ðạo Sư đến và nói:

– Này các Tỷ-kheo, nay các ông ngồi họp tại đây và bàn đến vấn đề gì?

Khi nghe vấn đề trên, Ngài nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay mà xưa cũng vậy, Như Lai đã là bậc đại trí tuệ.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, khi vua Janasandha trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con của bà hoàng hậu chánh cung. Mặt Bồ-tát thanh tịnh, chói sáng, đạt được sắc đẹp tối thượng, như mặt gương bằng vàng được đánh bóng. Ðến ngày lễ đặt tên, ngài được gọi là Àdàsa-Mukha (hoàng tử có khuôn mặt như gương).

Trong thời gian bảy năm, phụ vương đã mời thầy về dạy hoàng tử ba tập Vệ-đà và mọi bổn phận phải làm ở đời. Bồ-tát học xong thì phụ vương mệnh chung. Các đại thần tổ chức lễ tang vua rất long trọng và lập đàn bố thí cho các người chết. Ðến ngày thứ bảy, quần thần hội họp tại triều đình và bàn luận:

– Hoàng tử còn trẻ quá, không thể làm lễ quán đảnh lên ngôi vua được. Chúng ta hãy thử tài hoàng tử rồi sẽ làm lễ quán đảnh cho hoàng tử sau.

Một hôm, họ trang hoàng thành phố, tổ chức một pháp đình, sửa soạn chiếc ngai rồi đi yết kiến hoàng tử và nói:

– Thưa Thiên tử, Thiên tử hãy đến pháp đình.

Hoàng tử chấp thuận cùng với một số đông tùy tùng đến pháp đình và ngồi xuống trên chiếc ngai.

Khi Bồ-tát ngồi xuống để xử án, họ bắt một con khỉ đi hai chân, mặc áo giả làm một vị sư trưởng giỏi nghề chọn vị trí tốt để làm nhà, rồi họ dẫn nó đến pháp đình. Họ nói:

– Thưa Thiên tử, trong thời đại của phụ vương ngài, người này là một sư trưởng có thiên tài tiên đoán vị trí tốt để làm nhà và rất thuần thục trong nghề. Vị này thấy chỗ làm được hay không nên làm, và ngay cả chỗ có khuyết điểm dưới mặt đất sâu đến bảy khuỷu tay, vị này cũng biết. Nhờ sự giúp đỡ của vị ấy, cung điện của vua đã được xây dựng. Thiên tử hãy nhận vị ấy và ban cho vị ấy một chức vụ.

Hoàng tử nhìn nó từ dưới lên và suy nghĩ: “Ðây không phải là người mà chỉ là một con khỉ. Bọn khỉ chỉ biết phá hoại những gì đã được làm ra chứ chúng không biết làm gì cả hay xây dựng những công trình gì cả”. Vì vậy, hoàng tử đọc bài kệ đầu cho các đình thần nghe:

Nó không giỏi làm nhà,
Ðó là khỉ mặt nhăn,
Chỉ phá việc đã làm,
Thói của nòi giống đó.

Các đình thần, nói:

– Thưa Thiên tử, có thể là như vậy.

Và họ dắt khỉ đi ngay.

Sau một hai ngày, họ cho con khỉ ấy mặc y phục sang trọng, dắt nó đến pháp đình và nói:

– Thưa Thiên tử, trong thời phụ vương ngài, người này là pháp quan xử kiện. Thiên tử hãy sử dụng vị ấy và cho vị ấy xử kiện.

Hoàng tử nhìn nó và nghĩ: “Một người có tâm và có trí không có nhiều lông lá như vậy. Nó là con khỉ vô trí, không thể nào xử kiện được”.

Vì vậy, Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Vật đầy lông lá này
Không sao có tâm trí,
Nó chỉ là con thú
Không gây được lòng tin,
Như phụ vương đã dạy:
Con này chả biết gì!

Các đình thần nghe câu kệ này liền nói:

– Thưa Thiên tử, có thể là như vậy.

Rồi họ đem con khỉ ấy đi ngay.

Một ngày khác họ lại mặc y phục và trang điểm cho nó, dắt nó đến pháp đường và nói:

– Thưa Thiên tử, người này trong thời phụ vương ngài đã hầu hạ đầy đủ mẹ và cha, đã kính lễ các bậc lớn tuổi trong gia đình. Hãy sử dụng người này.

Hoàng tử nhìn nó và nghĩ: “Ðây là con khỉ với tâm dao động. Nó không thể làm được công việc ấy”.

Vì vậy, Bồ-tát đọc bài kệ thứ ba:

Con vật ấy không thể
Giúp đỡ mẹ hay cha,
Hay là anh, chị, bạn,
Phụ vương dạy ta vậy.

Các đình thần nói:

– Thưa Thiên tử, có thể là vậy!

Rồi họ đem con khỉ đi ngay và họ nói với nhau:

– Hoàng tử là bậc hiền trí, có thể trị vì vương quốc.

Sau đó, họ làm lễ quán đảnh cho hoàng tử lên ngôi vua, rồi truyền đánh trống khắp thành và rao:

– Ðây là những pháp lệnh của Quốc vương có khuôn mặt như gương sáng.

Từ đấy trở đi, Bồ-tát trị vì theo Chánh pháp, và tiếng đồn Bồ-tát là bậc hiền trí được truyền đi khắp cõi Diêm-phù-đề. Với mục đích làm chói sáng trí tuệ của Bồ-tát, mười bốn vấn đề này được đem đến cho Bồ-tát giải quyết:

Con bò, chàng trai và con ngựa,
Thợ đan giỏ, và vị thôn trưởng,
Kỹ nữ, thiếu phụ và con rắn,
Con nai, chim đa đa, nữ thần,
Rắn chúa, và các vị khổ hạnh,
Cùng các thanh niên Bà-la-môn.

Ở đây, câu chuyện được lần lượt kể như sau.

Trong thời Bồ-tát được làm lễ quán đảnh lên ngôi vua, một người hầu của vua Janasandha tên là Gàmani-Canda đã suy nghĩ: “Vương quốc này thật vinh quang nếu được vua cai trị cùng với sự phò tá của những người đồng lứa tuổi với vua. Ta nay già cả, không thể hầu hạ hoàng tử trẻ tuổi, vậy ta sẽ sống làm nghề nông ở thôn quê”.

Vì vậy ông ta ra khỏi thành phố khoảng ba dặm và sinh sống tại một ngôi làng nhỏ. Nhưng ông không có bò để cày ruộng. Sau khi trời mưa, ông mượn hai con bò của một người bạn, cả ngày ông cày xong, cho các con bò ăn cỏ, rồi dắt bò về trả lại cho người chủ.

Trong lúc ấy, người chủ đang ngồi ăn cơm với vợ ở giữa nhà. Các con bò đi vào nhà, rất quen thuộc. Trong khi các con bò đi vào, người chồng giơ bát lên, và người vợ đặt bát xuống. Gàmani-Canda nhìn thấy suy nghĩ: “Họ không mời ta ăn”, liền bỏ đi và không giao tận tay bạn các con bò. Ðêm đến, bọn ăn trộm phá chuồng bò và dắt các con bò ấy đi.

Vào buổi sáng, người chủ đi vào chuồng bò, không thấy các con bò ấy, biết các con bò bị ăn trộm liền nghĩ: “Ta sẽ tóm cổ Gàmani”, rồi đi đến gặp ông ta và nói:

– Này ông, hãy trả các con bò cho tôi.

– Nhưng các con bò đã vào trong chuồng rồi.

– Nhưng ông có giao trả cho chúng tôi đâu?

– Không, tôi không giao trả.

– Vậy đây là sứ giả của vua đến mời ông đi.

Bấy giờ, những người dân xứ này có tục lệ khi họ lượm một hòn đá hay một vỏ sò và nói: Ðây là sứ giả của vua xin mời đi. Nếu ai nghe nói: Ðây là sứ giả của vua, mà không đi, sẽ bị vua phạt. Do vậy, khi ông ta nghe chữ “sứ giả”, ông liền đi theo.

Trong khi hai người cùng đi đến cung vua họ đi ngang ngôi làng có một người bạn của Gàmani ở. Ông ta nói với người kia:

– Này ông, tôi rất đói. Ông cho tôi vào làng ăn xong và trở lại, ông hãy ở tại đấy!

Nói xong ông ta đi vào nhà người bạn.

Nhưng người bạn không ở nhà. Người vợ bạn nói:

– Thưa ông, đồ ăn chín không có. Hãy chờ một lát, tôi nấu xong sẽ mời ông.

Người vợ leo thang lên kho gạo, vì quá hấp tấp nên té xuống đất khiến cho bà ấy sẩy thai. Vừa lúc ấy người chồng đi về, thấy vậy liền nói:

– Anh đánh vợ ta khiến bà ấy sẩy thai. Ðây là sứ giả của vua, hãy đi ngay.

Anh ta dắt Gàmani-Canda và ra đi. Từ đấy, hai người dắt Gàmani ở giữa cùng đi với nhau.

Tại một ngôi làng nọ, có người giữ ngựa không thể bắt con ngựa quay lại, lúc nó đang chạy đến gần những người ấy. Người giữ ngựa thấy Gàmani liền nói:

– Này cậu Gàmani, hãy đánh con ngựa này với một vật gì khiến nó quay trở lui.

Gàmani cầm hòn đá và ném con ngựa. Hòn đá ném trúng chân con ngựa, làm gãy chân nó như cọng cây y lan, người giữ ngựa kêu to:

– Ông làm gãy chân con ngựa của tôi rồi! Ðây là sứ giả của vua.

Và anh ta dắt Gàmani đi. Trong khi bị ba người dắt đi, ông ta suy nghĩ: “Những người này sẽ tố cáo ta trước mặt vua. Ta không thể trả tiền mấy con bò, còn nói gì đến tiền phạt làm sẩy thai, rồi ta đào đâu ra được tiền đền ngựa? Thà ta chết còn tốt hơn!

Vì vậy khi họ đang đi, ông ta thấy một vực thẳm bên sườn đồi. Dưới bóng ngọn đồi ấy, hai cha con thợ đan giỏ đang dệt một tấm chiếu, Gàmani-Canda nói:

– Thưa các ông, tôi muốn đi vệ sinh, hãy chờ đây một lát cho đến khi tôi trở lại.

Nói xong, ông ta lên lên ngọn đồi, thả mình xuống vực thẳm lại rơi đúng trên lưng cha người thợ đan giỏ. Người thợ đan giỏ già bị thương nặng chết ngay tại chỗ. Gàmani liền đứng dậy. Người con nói:

– Ðồ ác độc, ông đã giết cha ta chết rồi! Ðây là sứ giả của vua.

Anh ta nắm tay Gàmani và đi khỏi lùm cây. Những người kia hỏi:

– Chuyện gì thế này?

Anh ta trả lời:

– Ðây là tên đại ác đã giết cha tôi!

Từ đấy bốn người vây quanh dắt Gàmani đi giữa.

Họ đến trước cửa một ngôi làng khác. Vị thôn trưởng thấy Gàmani liền hỏi:

– Chào cậu Gàmani, cậu đi đâu vậy?

Ông ta trả lời:

– Ði gặp vua.

– Có thật chăng cậu đi đến gặp vua? Tôi muốn trình vua một chuyện, cậu có thể mang đến trình không?

– Vâng tôi sẽ mang.

– Tôi thường có sắc đẹp, tài sản, có danh tiếng, và không có bệnh. Nay tôi nghèo khổ, lại mắc bệnh vàng da. Vì lý do gì vậy? Hãy hỏi vua như vậy. Người ta nói vua là bậc hiền trí, vua sẽ nói với cậu và cậu sẽ đem lời vua về nói cho tôi.

Ông ta nhận lời, rồi tiếp tục đi.

Tại cửa một làng khác, một kỹ nữ thấy ông ta liền gọi:

– Chào cậu Gàmani, cậu đi đâu vậy?

Ông ta bảo đi gặp vua, kỹ nữ ấy nói:

– Người ta nói vua là bậc hiền trí, cậu hãy mang theo câu chuyện của tôi trình vua. Trước kia, tôi thường được nhiều lợi dưỡng. Nay tôi không đáng giá một miếng trầu! Không ai đến tán tỉnh tôi. Cậu hãy hỏi vua tại sao vậy, và về nói lại cho tôi.

Rồi Gàmani lại đi nữa.

Tại cửa một ngôi làng khác, một thiếu phụ thấy ông ta cũng hỏi tương tự và nói:

– Tôi không thể sống trong nhà chồng cũng không thể sống trong gia đình tôi. Vì lý do gì vậy? Cậu hãy hỏi vua và về nói lại cho tôi.

Rồi Gàmani đi nữa.

Từ đấy đi qua một đia phận khác có một con rắn sống trong một gò mối, nó thấy ông ta liền hỏi:

– Này cậu Gàmani đi đâu vậy?

Khi được đáp đi gặp vua, con rắn nói:

– Người ta nói vua là bậc hiền trí. Hãy mang đến trình vua câu chuyện của tôi. Khi tôi đi ra tìm mồi và rời gò mối, tôi ốm yếu, đói lả nhưng thân tôi đầy cả hang mối, tôi phải kéo thân tôi khỏi ổ một cách khó khăn. Còn khi đi tìm mồi xong trở về, tôi được no nê thỏa mãn và thân lớn ra, nhưng bò vào hang thật mau lẹ, thân tôi không chạm sườn hang. Tại sao vậy? Hãy hỏi vua và đem câu trả lời về cho tôi.

Ông ta đi một đoạn nữa, một con nai thấy ông ta cũng hỏi tương tự:

– Tôi không thể ăn cỏ ở một chỗ nào khác ngoại trừ dưới gốc cây này. Vì lý do gì vậy? Hãy hỏi vua.

Ði qua một phần đất khác, một con chim đa đa thấy ông ta liền hỏi:

– Khi tôi đậu dưới chân một gò mối, tôi hót lên tiếng hót rất hay. Nhưng ở bất cứ chỗ nào khác, tôi không thể làm được như vậy. Vì lý do gì vậy? Hãy hỏi vua.

Ông ta đi tới một chỗ khác, một nữ thần cây thấy ông ta hỏi:

– Này Gàmani đi đâu vậy?

Khi được trả lời đi gặp vua, nữ thần cây nói:

– Người ta nói vua là một bậc hiền trí. Trước kia tôi rất được trọng vọng. Bây giờ ngay ca một ít nhánh non tôi cũng không có được. Vì sao vậy? Hãy hỏi vua.

Ði qua một phần đất khác, một con rắn chúa thấy ông ta và hỏi tương tự:

– Người ta nói vua là một bậc hiền trí. Trước kia trong hồ này, nước trong như pha lê. Nay nước hồ vẩn đục với bọt nước trùm khắp. Vì sao lại vậy? Hãy hỏi vua.

Ði tới một chỗ khác, có một số nhà tu khổ hạnh sống tại một khu vườn gần thành phố, thấy ông ta cũng hỏi tương tự:

– Người ta nói vua là một bậc hiền trí, trước kia tại khu vườn này, các loại trái ngọt rất nhiều, nhưng nay chúng trở nên lạt lẽo và lại đắng. Tại sao vậy? Hãy đến hỏi vua.

Từ đấy đi đến một chỗ khác, một số thanh niên Bà-la-môn đang ở trong một gian nhà gần cửa thành, thấy ông ta bèn hỏi:

– Này cậu Gàmani, cậu đi đâu vậy?

Khi được trả lời đi đến gặp vua hỏi nói:

– Vậy cậu hãy mang theo câu chuyện của chúng tôi: Trước kia chúng tôi học bất cứ đoạn kinh nào, chúng tôi đều nhớ rõ ràng. Nhưng nay, điều chúng tôi học không được giữ lại trong trí và không được hiểu rõ ràng, tất cả đều trở thành mù mờ như nước trong một cái ghè nứt rạn. Vì sao sự việc lại vậy? Hãy đến hỏi vua.

Thế là Gàmani-Canda đến yết kiến vua với mười bốn câu hỏi như trên.

Khi ấy vua đang ngồi tại pháp đình. Vua thấy Gàmani-Canda, và nhận ra ông ta: “Người này là người hầu hạ phụ vương ta, thường hay bồng bế ta thuở trước. Từ đấy cho đến nay, ông ta sống ở đâu?”. Vì vậy vua hỏi:

– Này Gàmani, trong thời gian qua khanh sống ở đâu? Ðã lâu rồi khanh không trình diện. Vì mục đích gì khanh đến đây?

Gàmani thưa:

– Tâu thiên tử, từ khi tiên vương lên cõi trời, thần đi về thôn quê làm nghề cày ruộng để sinh sống. Tại đấy, người này vì vấn đề kiện tụng hai con bò đã đem sứ giả của vua ra và kéo thần đến trước Thiên Tử.

– Nếu không bị kéo đi, khanh sẽ không đến đây chứ gì? Nay khanh bị kéo đến, như vậy là tốt rồi, và ta mới thấy khanh. Vậy người kia ở đâu?

– Thưa Thiên tử, đó là người này.

– Có phải chính ông đưa sứ giả của trẫm đến bắt Canda?

– Tâu thiên tử, thật vậy.

– Tại sao?

– Vì ông ta không chịu trả đôi bò của thần!

– Có đúng chăng Canda?

– Tâu thiên tử, hãy nghe chuyện của thần.

Rồi Canda thuật lại tất cả câu chuyện. Nghe xong, vua hỏi người chủ của các con bò.

– Ngươi có thấy các con bò đi vào chuồng nhà ngươi không?

– Tâu thiên tử, thần không thấy.

– Này từ trước ngươi chưa bao giờ nghe mọi nơi gọi ta là Vua có mặt sáng như gương sao? Người hãy nói thật đi.

– Tâu thiên tử, thần có thấy.

– Này Canda, khanh không dắt đôi bò về trả, như vậy khanh mắc nợ đôi bò. Người này có thấy nhưng nói không thấy, tức là cố ý nói láo. Do đó khanh phải tự tay móc mắt người này và phần khanh phải trả cho anh ta hai mươi bốn đồng tiền vàng.

Nghe vua nói vậy, quân hầu dắt người chủ các con bo ra ngoài. Anh ta liền nghĩ: “Khi bị móc mắt, thì ta lấy tiền làm gì!”. Vì vậy, anh ta sụp lạy dưới chân Gàmani và nói:

– Thưa ngài Canda, số tiền các con bò ấy thuộc về ngài. Hãy lấy thêm những đồng tiền này nữa.

Nói vậy xong, anh ta đưa cho Canda một số tiền rồi bỏ trốn chạy.

Người thứ hai nói:

– Tâu thiên tử, người này đánh vợ tôi khiến cho bà ấy sẩy thai.

– Có thật vậy chăng, này Canda?

– Thưa Ðại Vương, xin hãy nghe thần.

Rồi ông ta thuật toàn bộ câu chuyện với các chi tiết. Vua hỏi:

– Có phải khanh đánh vợ người này và làm cho bà ta sẩy thai?

– Thưa thiên tử, thần không làm như vậy.

– Này người kia, ngươi có thể chữa lại sự sẩy thai do người này đã gây ra không?

– Thưa Thiên tử, không thể được.

– Nay ngươi muốn làm gì?

– Tôi muốn phải có một đứa con trai!

– Này Canda, hãy đem vợ người này về nhà của khanh cho đến khi nào bà ta sanh một đứa con trai thì đưa nó đến và trả cho người này.

Người ấy nghe vậy liền sụp xuống lạy dưới chân Canda:

– Thưa ngài, chớ phá vỡ gia đình của tôi!

Rồi anh ta cho Canda một số đồng tiền vàng và bỏ chạy trốn.

Người thứ ba đến và nói:

– Tâu Thiên tử, người này đánh gãy chân con ngựa của tôi.

– Có thực chăng, này Canda?

– Thưa Ðại vương, xin hãy nghe thần.

Rồi Canda tường thuật rõ ràng câu chuyện. Nghe xong, vua hỏi người chủ con ngựa:

– Có phải chính ngươi nhờ Canda đánh con ngựa khiến cho nó quay lui không?

– Tâu thiên tử, tôi không nói.

Nhưng khi được hỏi thêm một lần nữa, anh ta nói:

– Thưa, tôi có nói.

Vua gọi Canda và bảo:

– Này Canda, người này có nói nhưng lại bảo không nói, như vậy là đã cố ý nói láo. Khanh hãy cắt lưỡi của nó rồi cho nó một ngàn đồng tiền vàng để bù lại con ngựa kia! Số tiền này ta sẽ cho khanh.

Nhưng kẻ giữ ngựa liền cho Canda một số tiền rồi bỏ chạy vì sợ bị cắt lưỡi!

Rồi đến con trai của người thơ đan giỏ nói:

– Tâu Thiên tử, người này là kẻ sát nhân đã giết chết cha tôi.

– Có thật như vậy chăng, này Canda?

– Tâu Thiên tử, xin hãy nghe thần.

Rồi Canda thuật lại câu chuyện một cách rõ ràng. Vua gọi người thợ kia:

– Nay ngươi muốn gì?

– Tâu Thiên tử, tôi muốn có được cha tôi!

– Này Canda, người này cần có một người cha. Nhưng khanh không thể đem lại cho nó người cha đã chết, vậy hãy đem mẹ của nó về nhà khanh và trở thành cha nó.

Con người đan giỏ vội nói:

– Thưa ngài, chớ phá vỡ gia đình người cha đã chết của tôi!

Nói xong anh ta cho Canda một số tiền rồi bỏ chạy.

Gàmani đã thắng các vụ kiện nên hoan hỷ rồi thưa với vua:

– Tâu thiên tử, thần có nhiều vấn đề của nhiều người muốn hỏi Thiên tử. Thiên tử có bằng lòng cho thần nói không?

– Hãy nói đi, này Canda.

Canda theo thứ tự đảo ngược bắt đầu từ vấn đề các thanh niên Bà-la-môn trở về trước và kể ra từng vấn đề một.

Nhà vua lần lượt trả lời. Ðối với vấn đề đầu tiên, khi nghe xong, vua đáp:

– Thuở trước, tại chỗ họ ở, có một con gà biết gáy đúng giờ. Khi nghe tiếng gà gáy, họ thức dậy, lấy các bài chú ra đọc lớn tiếng cho đến khi trời sáng. Do đó họ không quên mất điều đã học. Nhưng nay tại chỗ họ ở, có một con gà trống gáy không đúng giờ. Nó gáy vào lúc còn đêm khuya hay đã quá sáng. Khi nghe tiếng gà gáy trong đêm khuya, họ thức dậy, lấy các bài chú ra học, nhưng quá buồn ngủ nên không thể đọc được. Rồi khi nghe tiếng gà gáy quá sáng họ thức dậy, nhưng không còn thì giờ tụng chú nữa. Do vậy, họ không nhớ rõ những điều đã học.

Khi nghe vấn đề thứ hai, vua trả lời:

– Những người ấy thuở trước hành trì Sa-môn pháp và chuyên tâm chuẩn bị các đề tài thiền định. Nhưng bây giờ họ từ bỏ Sa-môn pháp, và chuyên tâm vào các việc không nên làm. Các trái cây sanh ở trong vườn được họ lấy đem cho các người hầu hạ. Còn họ sống bằng tà mạng, thay phiên nhau đi khất thực. Do hòa hợp với nhau như trước, chuyên tâm hành trì các Sa môn pháp, thì các trái cây v.v… của họ sẽ ngọt như cũ. Các vị tu khổ hạnh ấy không biết trí tuệ của các vua chúa. Hãy bảo họ hành trì pháp Sa-môn chân chánh.

Khi nghe vấn đề thứ ba, vua nói:

– Những rắn chúa ấy thường hay cãi nhau nên nước hồ trở thành đục. Nếu chúng hòa hợp với nhau như trước thì nước sẽ trở lại trong.

Khi nghe vấn đề thứ tư, vua nói:

– Nữ thần cây ấy trước kia bảo vệ các người đi qua lại khu rừng, do vậy nhận được nhiều đồ hiến cúng khác nhau. Nay nữ thần cây ấy không bảo vệ họ nên không nhận được đồ hiến cúng thượng hạng. Nữ thần hay dặn nàng bảo vệ những người đi lên khu rừng ấy.

Khi nghe vấn đế thứ năm, vua nói:

– Dưới gò mối mà con chim đa đa ấy đậu và hót với giọng khả ái có một cái ghè lớn chứa châu báu. Hãy đào lên và lấy ghè ấy.

Khi nghe vấn đề thứ sáu, vua nói:

– Dưới gốc cây mà con nai ấy có thể ăn cỏ tức là trên cây có một ong mật lớn. Con nai ấy thèm ăn thứ cỏ được mật rớt dính vào, nên nó không có thể ăn các thứ cỏ khác. Khanh hãy lấy tổ ong, gửi phần mật tốt nhất cho ta. Khanh ăn phần còn lại.

Khi nghe vần đề thứ bảy, vua hỏi:

– Dưới gò mối mà con rắn ấy ở có một ghè lớn chứa châu báu. Con rắn ấy sống ở đó để bảo vệ châu báu ấy. Do vậy, khi nó bò ra, vì lòng tham châu báu, thân nó bám chặt vào hang. Nhưng khi kiếm thức ăn xong, thân không còn bám chặt vào hang vì tham châu báu, nên nó bò vào thật mau và mạnh. Hãy đào ghè châu báu ấy lên và cất giữ kỹ.

Khi nghe vấn đề thứ tám, vua nói:

– Giữa làng người chồng và làng cha mẹ của thiếu phụ ấy, có một ngôi nhà của tình nhân thiếu phụ ấy. Nàng nhớ tình nhân, không thể ở trong nhà người chồng, và vì luyến ái tình nhân, nàng nói nàng sẽ đi thăm cha mẹ. Nàng đi đến sống vài ngày trong nhà của tình nhân, rồi nàng đến nhà cha mẹ. Sau khi ở đấy vài ngày, nàng lại nhớ tình nhân, bèn nói nàng sẽ đi về nhà chồng, và nàng lại đi đến nhà của tình nhân. Khanh nói cho thiếu phụ ấy biết rằng còn có pháp luật của nhà vua. Bảo nàng phải sống với người chồng. Nếu không, vua sẽ truyền bắt nàng và nàng sẽ không còn mạng sống nữa. Hãy nói cho nàng biết phải cẩn thận!

Khi nghe vấn đề thứ chín, vua nói:

– Người phụ nữ ấy trước kia thường lấy một số tiền từ tay một người đàn ông nào, thì nàng không đi với người khác cho đến khi nàng đã để anh ta hưởng lạc xứng với số tiền kia. Do vậy trước kia nàng đã nhận được nhiều tiền. Nay nàng đã từ bỏ nguyên tắc ấy của mình. Khi chưa từ giã một người mà nàng đã nhận tiền, nàng lại lấy tiền từ một người khác! Do vậy, nàng không có tiền vì không ai tìm đến nàng nữa. Nếu nàng duy trì nguyên tắc cũ của mình, sự việc sẽ giống như trước kia. Hãy bảo nàng duy trì nguyên tắc cũ của mình!

Khi nghe vấn đề thứ mười, vua nói:

– Người thôn trưởng ấy trước kia xử kiện đúng pháp và bình đẳng, do vậy được mọi người thương mến và thích thú. Vì thích ý, họ biếu anh ta nhiều quà tặng. Nhờ đó anh ta đẹp trai, có tài sản, và danh vọng. Nay anh ta thích nhận tiền hối lộ và xử kiện không đúng pháp. Do vậy, anh ta trở thành nghèo nàn, khốn khổ và bị bệnh vàng da. Nếu anh ta xử kiện đúng pháp như trước, mọi việc trở lại giống như trước. Anh ta không biết sự có mặt của vua chúa trong nước này. Hãy bảo anh ta phải xử kiện đúng pháp.

Như vậy Gàmani-Canda đã thuật lại tất cả vấn đề được nêu trên. Với trí tuệ của mình, vua đã giải quyết tất cả vấn đề ấy như đức Phật nhất thiết trí và ban cho Gàmani-Canda nhiều tài sản. Và ngôi làng Canda ở được vua ban thưởng ông ta như là một tặng vật anh cho một vị Bà-la-môn. Rồi vua bảo đưa ông ta đi về.

Canda ra khỏi thành, nói lại các câu trả lời của Bồ-tát cho các thanh niên Bà-la-môn, các vị khổ hạnh, con rắn chúa và nữ thần cây. Sau đó ông ta lấy tài sản chôn tất cả tại chỗ chim đa đa đậu. Rồi ông ta lấy tổ ong mật từ thân cây mà dưới đó con nai ăn cỏ và gởi mật về dâng vua. Ông ta phá vỡ gò mối tại chỗ con rắn ở, thâu lượm tài sản chôn cất, và thuật lại cách vua trả lời cho người thiếu phụ, người kỹ nữ và người thôn trưởng.

Rồi Canda đi về làng của mình với danh vọng lớn, và sống tại đấy cho đến hết đời, rồi đi theo nghiệp của mình. Còn vị vua có mặt sáng như gương ấy trọn đời làm các công đức như bố thí v.v… và sau khi mạng chung, ngài đi lên cõi trời làm đông đảo hội chúng chư Thiên.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Như Lai có đại trí tuệ mà thuở trước cũng đã có đại trí tuệ như vậy.

Sau khi kể Pháp thoại này, Ngài thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng ấy, nhiều người chứng quả Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, quả A-la-hán. Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Gàmani-Canda là Ànanđa, còn vị vua có mặt sáng như gương ấy là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN ÐẠI VƯƠNG MANDAHÀTÀ (Tiền thân Mandahàtà)

Dầu có được bao nhiêu…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về chuyện một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn.

Nghe nói Tỷ-kheo ấy đi khất thực ở Xá-vệ, thấy một nữ nhân trang sức đẹp đẽ và sanh tâm luyến ái. Các Tỷ-kheo đưa vị ấy đến Chánh Pháp đường và trình diện với bậc Ðạo Sư:

– Bạch Thế Tôn, đây là một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn.

Bậc Ðạo Sư hỏi vị ấy:

– Có thật chăng ông thối thất tinh tấn?

Vị ấy nói:

– Thưa có thật, bạch Thế Tôn.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, ngay trong khi ông còn đang ở trong gia đình, ông có bao giờ thỏa mãn được ái dục này chăng? Ái dục giống như biển cả, rất khó làm đầy. Thuở trước có những vị Chuyển luân vương ngự trị trên bốn đại châu với hai ngàn dải vây quanh, bao trùm cả loài người, ngay cả khi ngự trị chư Thiên của bốn Ðại Thiên Vương, hay ngự trị chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba, hoặc trên thiên giới của Ba mươi vị Thiên chủ Ðế Thích, các vị ấy cũng không thể nào thỏa mãn được ái dục của mình, rồi mệnh chung trước khi có thể thực hiện được việc ấy. Vậy làm sao ông có thể thỏa mãn ái dục này được?

Nói xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, trong những thời đại tối sơ của thế giới, vua Mahàsammata có mặt ở đời. Vua có con trai tên là Roja. Roja có con trai tên là Vararojà. Vararojà có con trai tên là Kalyàna. Kalyàna có con trai tên là Varakalyàna. Varakalyàna cón con trai tên là Uposatha. Uposatha có con trai tên là Mandhàtà. Mandhàtà có đầy đủ bảy báu vật, bốn thần đồng và là bậc Chuyển luân vương trị vì quốc độ.

Khi tay trái vua co lại, và vỗ nhẹ tay mặt, thì cơn mưa bảy báu vật rơi xuống, ngập đến đầu gối, như một cơn mưa dông từ trời đổ xuống. Vua thật là một người kỳ diệu hy hữu. Ngài làm hoàng tử trong tám mươi bốn ngàn năm, làm phó vương cũng trong tám mươi bốn ngàn năm, làm vị Chuyển luân vương cũng trong tám mươi bốn ngàn năm. Tuổi thọ của ngài thật là vô lượng.

Một hôm, vì không thỏa mãn được ái dục, vua tỏ lộ vẻ bất mãn. Các đình thần thưa:

– Tâu thiên tử, sao Thiên tử lại bất mãn?

– Khi xét đến sức mạnh công đức của ta, thì vương quốc này để làm cái gì? Có trú xứ nào tốt đẹp khả ái hơn chăng?

– Tâu Ðại vương, có Thiên giới.

Vì thế vua chuyển vận hành xe báu, cùng với hội chúng đi lên Thiên giới Bốn Thiên vương. Bốn vị đại vương, với vòng hoa, và hương thiên giới cầm tay; với thiên chúng vây quanh đi đến nghênh đón vua, cùng lên thiên giới của chư vị và giao thiên giới ấy cho vua trị vì.

Vua cùng với hội chúng của mình trị vì thiên giới ấy trong một thời gian dài, nhưng tại đấy, vua không thể thỏa mãn ái dục và bắt đầu lộ vẻ bất mãn.

Bốn Thiên vương hỏi:

– Tâu Ðại vương, sao Ðại vương lại bất mãn?

– Có trú xứ nào đẹp hơn cõi trời này chăng?

– Tâu thiên tử, chúng tôi giống như người hầu hạ của cõi trời trên! Cõi trời Ba mươi ba còn đẹp hơn cõi này nhiều!

Mandhàtà chuyển bánh xe báu, với hội chúng của mình vây quanh đi tới, hướng mặt về cõi trời Ba mươi ba. Thiên chủ Ðế Thích, với vòng hoa và hương trời cầm tay, với Thiên chúng vây quanh, đi đến nghênh đón, hướng dẫn vua và nói:

– Tâu Ðại Vương, hãy đi tới.

Vào thời Vua cha đang du hành ở thiên giới giữa hội chúng chư thiên, thì thái tử của ngài vận chuyển bánh xe báu đi xuống cõi người và ngự vào kinh thành của mình.

Ðế Thích đưa Mandhànà đến cung điện cõi trời Ba mươi ba, chia một nửa vương quốc dâng vua này. Từ đấy trở đi hai vị cùng trị vì cõi trời. Thời gian trôi qua như vậy cho đến khi Ðế Thích đã sống ba mươi sáu triệu năm rồi mệnh chung và tái sánh cõi người. Theo cách thức này ba mươi sáu vị Ðế Thích đã lần lượt mệnh chung. Mandhànà với hội chúng của mình trị vì cõi trời. Như vậy với thời gian trôi qua, lòng ái dục của vua càng tăng thịnh. Vua nghĩ: “Một nửa vương quốc có nghĩa gì đối với ta. Ta sẽ giết Ðế Thích và ngự trị toàn vương quốc”. Nhưng vua không thể giết Ðế Thích được. Ái dục này là nguồn gốc tai họa của vua. Do vậy, thọ mạng của vua bắt đầu suy giảm. Tuổi già xâm chiếm thân ngài. Nhưng một thân người không có thể tan rã trên cõi trời.

Từ Thiên quốc, vua rơi xuống và đi vào một công viên. Người giữ công viên thấy vua liền báo tin cho hoàng gia. Họ liền đến nơi soạn một chỗ nằm cho ngài trong công viên, và vua nằm xuống trong sự mệt mỏi. Các đình thần hỏi:

– Tâu Thiên tử, khi Thiên tử mệnh chung. Thiên tử sẽ nói lên lời dặn dò gì?

– Sau khi ta mệnh chung, hãy nói cho quần chúng lời dặn này của ta: Ðại vương Mandhàta lên ngôi làm vị chuyển luân vương, trị vì bốn đại châu lục được vây quanh với hai ngàn hòn đảo, đã trị vì cõi trời Bốn Thiên vương trong một thời gian dài bằng tuổi thọ của ba mươi sáu vị Ðế thích, nay đang mệnh chung.

Nói vậy xong, vua mệnh chung và đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể câu chuyện quá khứ, bậc Ðạo Sư đọc những bài kệ này:

Dầu có được bao nhiêu
Mặt trăng và mặt trời
Chiếu sáng khắp mọi phương.
Tất cả là nô lệ.

Của vua Man-dhà-nà,
Cùng tất cả chúng sanh
Sống nương tựa cõi đất,
Ðều thuộc quyền Ðại vương.

Dầu có mưa tiền vàng,
Vẫn không thỏa ái dục,
Dục ít vị, khổ nhiều,
Bậc trí ý thức vậy.

Ngay cả các thiên dục
Cũng không đem an lạc,
Ðệ tử bậc Chánh giác
Chỉ thích ái diệt tận.

Sau khi kể Pháp thoại này, bậc Ðạo sư thuyết giảng các sự thật. Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo thối thất và nhiều vị khác đắc quả Dự lưu.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Ðại vương Mandhànà là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN ẨN SĨ TIRÌTA-VACCHA (Tiền thân Tirìta-Vaccha)

Con thấy hạng người này…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Tôn giả Ànanda được cúng dường một ngàn tấm y, năm trăm tấm từ tay các cung nữ của vua Kosala và năm trăm tấm từ chính tay vua.

Hoàn cảnh chuyện này đã được diễn tả trong Tiền thân Guna, số 157.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở nước Kàsi. Ðến ngày lễ đặt tên, Bồ-tát được gọi là Tirìtavaccha.

Ðến tuổi trưởng thành, Bồ-tát đi học các tài nghệ ở Takkasìlà, sau đó lập gia đình. Khi cha mẹ mệnh chung, Bồ-tát quá xúc động nên từ bỏ gia đình, xuất gia trở thành vị ẩn sĩ, tự nuôi sống bằng các thứ rễ cây và trái… ở trong rừng và trú tại đấy. Trong khi Bồ-tát sống tại đấy, thì ở biên giới Bà-la-môn có một cuộc dấy loạn. Chính vua cầm quân đi ra biên địa nhưng thua trận. Vua hốt hoảng vì sợ chết nên leo lên lung voi và bỏ chạy, theo con đường ven núi đi lang thang trong rừng. Vào buổi sáng, trong khi Tirìtavaccha đi tìm các loại trái cây thì vua đi đến am thất của Bồ-tát. Vua nghĩ: “Ðây là trú xứ của các vị ẩn sĩ khổ hạnh”, nên vua xuống voi, mệt mỏi vì gió và nắng. Vua khát nước liền tìm kiếm ghè nước để uống nhưng không thấy. Vua men theo đường kinh hành, và thấy một giếng nước nhưng không tìm ra sợi dây gàu để kéo nước lên. Không chịu đựng nổi cơn khát nước, vua bèn lấy sợi dây nịt bụng con voi, cột dây vào thành giếng và sau đó cột dây vào chân của mình.

Vau leo xuống giếng nhờ dây nịt, nhưng dây nịt không đủ dài nên vua lấy thượng y cột vào đầu dây nịt để leo xuống, và cũng không tới mặt nước. Vua lấy ngón chân chạm đến nước, cũng không uống nước được, liền nghĩ: “Nếu không giải khát được, thà chết còn hơn”, vua thả mình rơi xuống giếng, uống cho đến thỏa thích nhưng rồi không thể leo lên giếng được, bèn đứng tại chỗ ấy.

Con voi được khéo huấn luyện, không đi chỗ khác, nó nhìn xuống vua và cũng đứng đợi vua.

Vào buổi chiều, Bồ-tát đem các trái cây về, và thấy con voi liền nghĩ: “Nhà vua đã đến đây. Nhưng sao chỉ thấy con voi được nai nịt ở đây? Có việc gì vậy?” Vì thế, Bồ-tát đi đến con voi. Con voi biết Bồ-tát đi đến gần, liền đứng qua một bên. Bồ-tát an ủi vua và nói: “Thưa Ðại vương, chớ sợ hãi”. Bồ-tát cột một cái thang kéo vua lên, xoa bóp thân vua, bôi dầu, cho vua tắm, mời vua ăn các trái cây v.v… và cởi áo giáp cho con voi.

Vua nghỉ tại đấy hai, ba ngày, rồi mời Bồ-tát nhận lời đến thăm vua và ra đi. Quân đội của vua đóng trại không xa thành phố, thấy vua đi đến liền vây quanh vua.

Còn Bồ-tát, sau một tháng rưỡi, đi đến Ba-la-nại và trú tại công viên. Sáng hôm sau, Bồ-tát đi đến cung vua khất thực. Lúc ấy vua mở rộng cánh cửa sổ lớn và đang nhìn xuống sân, thấy Bồ-tát, nhận ra ngài, liền từ lâu đài đi xuống, và đảnh lễ ngài. Rồi vua đưa Bồ-tát vào phòng hội lớn, đặt ngài ngồi trên long sàng, có một lọng trắng che phía trên, mời ngài dùng món ăn dành riêng cho mình.

Sau khi ăn xong, vua đưa Bồ-tát về công viên, bảo xây dựng một con đường kinh hành có mái che nắng, một tịnh thất cho Bồ-tát và hiến cúng đầy đủ các vật dụng cần thiết của một vị xuất gia. Sau khi giao Bồ-tát cho người giữ vườn chăm sóc, vua đảnh lễ Bồ-tát rồi ra đi. Từ đấy Bồ-tát ăn tại cung vua. Vua hết sức tôn trọng và cung kính Bồ-tát.

Nhưng các đình thần không chịu nổi việc như vậy, họ nói:

– Nếu một người lính được hưởng vinh dự như vậy thì nó làm được gì?

Rồi họ đi đến gặp vị phó vương và nói:

– Thưa Thiên tử, Ðại vương của chúng thần quá ái mộ một vị tu khổ hạnh, không biết Ðại vương thấy được gì ở vị ấy. Xin ngài bàn luận với Ðại vương về vấn đề này.

Vì phó vương bằng lòng cùng với đình thần đến gặp vua, đảnh lễ và đọc bài kệ đầu:

Con thấy hạng người này
Không có chút trí tuệ,
Nó không phải bà con,
Cũng không phải bạn vua,
Tại sao ẩn sĩ này,
Với ba cây que nhỏ,
Ti-ri-ta-vac-cha,
Lại được ăn thượng vị?

Nghe như vậy, vua nói với hoàng tử:

– Này con thân, trước kia khi cha đi đến biên địa đánh giặc và thất trận, cha đã không về hai ba ngày con có nhớ chăng?

Hoàng tử trả lời:

– Con có nhớ.

Vua nói:

– Lúc ấy cha nhờ người này cứu mạng sống.

Rồi vua kể toàn câu chuyện cho hoàng tử nghe. Vua nói:

– Này con thân, nay người cứu mạng cha đến với cha. Dầu cha có cho vị ấy cả vương quốc, cha cũng không thể đền đáp công đức của ngài.

Và vua đọc các bài kệ:

Trong khi ta gặp nạn,
Vì chiến đấu thất bại,
Ta chỉ có một mình,
Chính vị ấy đưa tay,
Trong rừng sâu ghê rợn,
Nhờ vị ấy, ta thoát,
Ra khỏi cảnh khó khăn,
Cơn đau khổ vây chặt.

Nhờ sự giúp đỡ này
Ta đã trở về đây,
Thoát khỏi hàm thần chết,
Trở lại với đời sống,
Này hoàng tử con thân,
Ti-ri-ta Vac-cha
Xứng đáng được lợi dưỡng,
Hãy cúng dường tài sản
Cùng các lễ tế đàn.

Như vậy vua nói lên công đức của Bồ-tát, như làm trăng mọc lên giữa hư không. Và các công đức của Bồ-tát được tuyên dương khắp mọi nơi, nên ngài nhận được nhiều quyền lợi dưỡng và lòng kính trọng.

Từ đấy về sau, vị phó vương hay các đình thần, hay bất cứ ai khác đều không dám nói gì chống Bồ-tát với vua và vua vâng theo lời dạy của Bồ-tát, làm công đức như bố thí v.v… rồi khi mệnh chung đi lên làm đông đảo hội chúng thiên giới. Còn Bồ-tát đạt được các Thắng trí và Thiền chứng, cuối cùng được sanh lên cõi Phạm thiên.

*

Rồi bậc Ðạo Sư nói thêm:

– Các bậc hiền trí thời xưa cũng đã có lòng giúp đỡ.

Sau khi kể Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ nhà vua là Ànanđa, còn vị tu khổ hạnh là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN SỨ GIẢ CỦA CÁI BỤNG (Tiền thân Duta)

Vì mục đích cái bụng…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo tham lam (Câu chuyện này sẽ được trình bày trong chương sáu, số 395). Bậc Ðạo Sư nói với vị ấy:

– Này Tỷ-kheo, không phải chỉ nay ông mới tham ăn. Thuở trước, ông cũng đã vậy rồi. Do lòng tham ông đã bị gươm chém đầu.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm hoàng tử. Khi đến tuổi trưởng thành, hoàng tử học các tài nghệ ở Takkasilà. Sau khi phụ thân mất, hoàng tử lên ngôi vua, và rất ham thích các món cao lương mỹ vị nên được gọi là Vua thích Mỹ vị.

Người ta nói vua dùng các món ăn một cách hoang phí đến độ chỉ một đĩa cơm cũng đã tiêu hết một trăm ngàn đồng tiền vàng. Khi ăn, vua không ăn trong nhà vì muốn cho quần chúng trông thấy các buổi ăn sáng hoang phí của mình, vua truyền dựng một cái đình được trang hoàng châu báu tại cửa cung và đến giờ ăn vua bảo trang hoàng ngôi đình ấy. Rồi vua ngồi trên long sàng toàn bằng vàng có lọng trắng che phía trên. Hai bên có các công chúa vây quanh, vua dùng các món ăn có trăm vị tuyệt hảo trong các dĩa vàng, trị giá trăm ngàn đồng tiền vàng.

Bấy giờ có một người tham ăn nhìn sự hoang phí trong cách ăn uống của vua và thèm muốn đồ ăn ấy. Không thể đè nén cơn thèm, anh ta tìm ra một phương tiện, liền mặc áo nai nịt quanh bụng thật chặt chẽ, giơ hai tay lên cao và la lớn tiếng:

– Tâu Ðại Vương, tôi là sứ giả! Sứ giả!

Rồi anh ta chạy đi đến gần vua. Lúc bấy giờ, trong quốc lộ ấy, nếu người nào nói: Tôi là sứ giả, thì không ai ngăn cản người ấy. Do vậy dân chúng chia ra làm hai, nhường chỗ cho anh ta đi qua. Anh ta chạy thật mau đến trước vua chụp lấy một miếng cơm từ dĩa của vua và bỏ vào miệng. Một vệ sĩ tuốt gươm ra định chém đầu anh ta. Nhưng vua ngăn cản vị ấy và nói:

– Chớ chém.

Rồi vua bảo anh ta:

– Chớ sợ gì cả, hãy ăn đi!

Sau khi rửa tay, anh ta ngồi xuống. Cuối bữa ăn, vua cho anh ta uống nước và ăn trầu của vua, rồi hỏi:

– Này người kia, vậy ngươi là sứ giả của ai?

– Thưa Ðại vương, tôi là sứ giả của lòng tham. Tôi là sứ giả của Ðại vương. Chính lòng tham sai tôi đến đây.

Nói vậy xong, anh ta đọc hai bài kệ:

Vì mục đích cái bụng,
Người ta đi thật xa,
Ði đến cả kẻ thù,
Ðể cầu xin ân huệ,
Tôi đây là sứ giả
Của chính cái bụng mình.

Xin chớ phẫn nộ tôi,
Ôi, chúa tể vương xa,
Suốt cả ngày lẫn đêm,
Mọi người trên đời này,
Ðều rơi vào uy lực
Của cái bụng tham ăn.

Vua nghe nói vậy liền phán:

– Sự thật là vậy. Những người này là sứ giả của cái bụng. Chúng bị tham dục chi phối, nên chúng phải đi khắp nơi. Kẻ này đã nói lên thật khéo léo làm sao!

Vua bằng lòng với người ấy, và đọc bài kệ thứ ba:

Hỡi này Bà-la-môn,
Ta ban thưởng cho ông
Một ngàn con bò cái đỏ,
Một bò đực thêm vào,
Ðây là phần quà tặng
Giữa sứ giả với nhau,
Vì tất cả chúng ta
Là sứ giả cái bụng!

Nói vậy xong, vua tiếp:

– Ta vừa nghe một điều mà trước kia ta chưa từng nghe hay từng nghĩ đến do vị đại nhân này nêu ra.

Vua hoan hỉ ban cho anh ta danh vọng lớn!

*

Sau khi thuyết pháp thoại này, bậc Ðạo sư giảng các Sự thật, và cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo tham ăn đã đắc quả Bất lai và nhiều người khác đắc các quả kia.

Rồi ngài nhận diện tiền thân:

– Lúc bấy giờ, người tham ăn ấy là vị Tỷ-kheo tham lam này, còn vị vua thích cao lương mỹ vị là Ta vậy.

 

PHẨM KOSYA

  1. CHUYỆN HOA SEN (Tiền thân Paduma)

Như tóc râu bị cắt…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một số Tỷ-kheo cúng dường vòng hoa tại cây bồ đề Ànanda. (câu chuyện sẽ được trình bày ở Tiền thân Kalinga, số 479).

Cây này được gọi là cây Bồ-đề Ànanda, vì Trưởng lão Ànanda đã trồng cây ấy. Tin về cây Bồ-đề được trưởng lão Ànanda trồng ở cổng tịnh xá Kỳ Viên truyền đi khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn độ).

Một số Tỷ-kheo ở thôn quê muốn cúng dường vòng hoa tại cây Bồ-đề Ànanda. Họ đi đến đảnh lễ bậc Ðạo Sư, và ngày hôm sau họ lại đi vào thành Xá-vệ, đến con đường bán hoa sen xanh. Nhưng không nhận được vòng hoa nào, họ liền đi đến Tôn giả Ànanda và thưa:

– Thưa hiền giả, chúng tôi muốn cúng dường vòng hoa tại cây Bồ-đề, và đi đến con đường bán hoa sen xanh, nhưng không nhận được một vòng hoa nào cả.

Vị trưởng lão nói:

– Tôi sẽ đem hoa đến.

Rồi trưởng lão đi đến con đường bán hoa sen xanh, và nhận được nhiều bó hoa sen xanh đem về cho các Tỷ-kheo ấy. Các vị này lấy các bó hoa ấy và làm lễ cúng dường cây Bồ-đề.

Biết được tin này, các Tỷ-kheo ngồi tại Chánh pháp đường nói lên lời tán thán các công đức của Trưởng lão Ànanda:

– Thưa các Hiền giả, các Tỷ-kheo ở thôn quê ít phước đức, nên đã đi đến con đường bán hoa sen xanh mà không nhận được vòng hoa nào. Còn Trưởng lão Ànanda đi đến sau lại đem về nhiều bó hoa.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông nay hội họp ở đây đang bàn luận vấn đề gì?

Khi nghe vấn đề trên, bậc Ðạo sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay những người ăn nói khéo léo nhận được vòng hoa, mà thuở trước họ cũng đã nhận được như vậy.

Rồi bậc Ðạo sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là một vị triệu phú. Trong thành có một hồ sen thường nở hoa. Một người có lỗ mũi sứt canh giữ cái hồ ấy.

Một hôm, một ngày hội lớn được tổ chức ở Ba-la-nại, ba người con trai của triệu phú muốn đeo vòng hoa để vui chơi lễ hội, liền bảo nhau:

– Chúng ta sẽ tán tỉnh con người bị sứt mũi này và xin vài vòng hoa.

Vì vậy, vào giờ người ấy hái hoa sen, họ đi đến gần hồ và đứng đợi một bên. Một người trong bọn nói với người giữ hồ ấy qua bài kệ đầu:

Như tóc râu bị cắt,
Sẽ mọc lên như cũ,
Cũng vậy, lỗ mũi ông
Sẽ mọc lại như tóc,
Nay tôi xin hoa sen,
Hãy cho tôi một bông!

Người giữ hồ tức giận không cho hoa sen. Rồi người thứ hai nói lên bài kệ thứ hai với người giữ hồ ấy:

Như hột giống mùa thâu
Ðược gieo trong thửa ruộng,
Sẽ được mọc lên mau,
Cũng vậy, lỗ mũi ông
Ước mong sẽ mọc lên,
Nay tôi xin hoa sen,
Hãy cho tôi một bông!

Người giữ hồ vẫn tức giận không cho hoa sen. Rồi người thứ ba nói lên bài kệ thứ ba với người giữ hồ ấy:

Hai đứa nói nhảm nhí,
Chúng nghĩ được bông sen,
Dầu nói có, nói không,
Mũi cũng không mọc lại,
Này bạn hãy cho tôi
Hoa sen, tôi xin bạn!

Nghe lời anh ta, người giữ hồ sen nói:

– Cả hai người này đều nói láo. Chỉ có bạn nói đúng sự thật. Bạn xứng đáng được các bông sen.

Rồi người giữ hồ cho anh ta một bó hoa sen và đi về hồ của mình.

*

Khi bậc Đạo sư nói xong pháp thoại này, Ngài nhận diện tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con trai vị triệu phú nhận được hoa sen là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN BÀN TAY MỀM MẠI (Tiền thân Mudupàni)

Một bàn tay mềm mại…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn. Khi Tỷ-kheo ấy được đưa đến Chánh pháp đường, bậc Ðạo Sư hỏi:

– Có thật chăng ông thối thất tinh tấn?

Vị ấy trả lời:

– Có thật vậy.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, không thể nào canh giữ nữ nhân khỏi chạy theo dục vọng của chúng. Ngay cả các bậc hiền trí thuở xưa cũng không thể canh giữ các con gái của họ. Dầu chúng đứng nắm tay cha, chúng vẫn chạy trốn theo người tình mà cha chúng không biết!

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát tái sanh ra làm con hoàng hậu chánh cung. Ðến tuổi trưởng thành, Bồ-tát học các tài nghệ ở Takkasilà, và khi phụ vương mệnh chung, ngài được đặt lên vương vị và trị nước đúng pháp.

Bồ-tát nuôi dưỡng con gái mình và con trai của người chị trong nội cung. Một hôm, vua nói với đình thần:

– Sau khi trẫm qua đời, cháu trai trẫm sẽ làm vua và con gái trẫm sẽ làm hoàng hậu chánh cung.

Sau một thời gian, khi cả hai đều khôn lớn, Bồ-tát ngồi nói với các đình thần:

– Trẫm sẽ đem về một công chúa khác cho cháu trai và sẽ gả con gái trẫm cho một hoàng gia khác. Như vậy chúng ta sẽ có nhiều bà con.

Các đình thần đều đồng ý.

Bồ-tát gởi cháu trai ra ở ngoài và ngăn cấm chàng ra vào nội cung. Nhưng cả hai người ấy đã thương yêu nhau. Chàng trai nghĩ: “Không biết có phương tiện gì đem công chúa ra ngoài? À có phương tiện này”. Chàng trai đem cho bà vú một món quà, bà vú hỏi:

– Thưa hoàng tử, cần phải làm gì?

Hoàng tử đáp:

– Này vú, làm thế nào để chúng tôi có cơ hội đưa nàng ra ngoài?

– Lành thay, thưa hoàng tử. Ðể tôi nói với công chúa rồi sẽ cho hoàng tử biết sau.

– Lành thay, thưa vú.

Rồi vú đi đến công chúa và nói:

– Hãy để tôi bắt những con chấy trên đầu công chúa.

Rồi bà đặt công chúa ngồi xuống một chiếc ghế thấp, và bà ngồi xuống một chiếc ghế cao hơn và kê đầu công chúa trên bắp vế của mình. Trong khi bắt chấy, bà lấy móng tay gãi đầu công chúa. Công chúa hiểu: “Người này không gãi với móng tay của mình mà gãi với móng tay của hoàng tử, con trai của cô ta.” Vì vậy, công chúa hỏi:

– Này vú, vú có đi đến gặp hoàng tử không?

– Thưa công chúa, có!

– Hoàng tử đã nói gì với vú?

– Thưa công chúa, hoàng tử hỏi có phương tiện gì để đưa công chúa ra ngoài.

Công chúa nói:

– Nếu hoàng tử là người hiền trí, hoàng tử sẽ biết.

Rồi công chúa đọc lên bài kệ đầu. Ðọc xong, nàng nói:

– Này vú, hãy học thuộc bài kệ này và nói lại cho hoàng tử:

Một bàn tay mềm mại,
Con voi khéo huấn luyện,
Và đêm tối trời mưa,
Ấy là thời thích hợp.

Bà vú học thuộc lòng bài kệ ấy rồi đi đến hoàng tử. Chàng hỏi:

– Này vú, công chúa nói gì?

Bà đáp:

– Không nói gì khác, chỉ gửi bài kệ này. Và bà vú đọc bài kệ. Chàng hiểu ý bài kệ liền nói với bà vú:

– Thôi vú hãy về đi.

Hoàng tử biết đúng đắn ý nghĩa bài kệ này, liền tìm một người hầu trẻ đẹp trai, có bàn tay mềm mại, và chuẩn bị công việc. Chàng lại hối lộ người nài giữ vương tượng huấn luyện con voi ấy trở thành bình thản, rồi hoàng tử ngồi chờ đợi thời cơ đến.

Ðến ngày trai giới Bồ-tát thuộc phần đêm tối trời, ngay sau canh giữa, mưa rơi xuống từ một đám mây đen dày đặc. Hoàng tử nghĩ: “Ðây là ngày công chúa muốn nói”, rồi chàng leo lên con voi, đặt người hầu trẻ có bàn tay mềm mại ấy ngồi trên lưng voi và ra đi. Ở phía đối diện cung vua, hoàng tử cho cột con voi vào bức tường lớn của cái sân chầu rộng, rồi chàng đứng ở cửa sổ với thân bị ướt đẫm nước mưa.

Bấy giờ vua canh giữ công chúa, không cho phép nàng ngủ chỗ nào khác, trừ một chiếc giường nhỏ gần vua. Công chúa nghĩ: “Hôm nay hoàng tử sẽ đến”, vì vậy, nàng nằm xuống nhưng không ngủ. Rồi công chúa nói:

– Thưa cha thân, con muốn tắm!

Vua nói:

– Hãy đi, này con thân.

Vua nắm tay công chúa, dắt đến gần cửa sổ, và nói:

– Hãy tắm đi con!

Rồi vua bồng công chúa lên, đặt công chúa trên bệ đá hình hoa sen ở ngoài cửa sổ, và nắm một tay công chúa.

Trong khi đang tắm, công chúa đưa tay cho hoàng tử. Hoàng tử cởi các chiếc vòng từ tay công chúa đeo vào tay người hầu trẻ, rồi bồng chàng trai trẻ ấy lên, đặt anh ta trên chỗ tượng hoa sen bên cạnh công chúa. Nàng nắm tay người hầu trẻ ấy và đặt nó vào tay của phụ vương. Vua nắm tay anh ta và thả tay kia của mình và đeo chúng vào tay kia của người hầu trẻ, rồi đặt bàn tay ấy vào tay phụ vương và đi theo hoàng tử.

Nhà vua cứ tưởng rằng người hầu trẻ ấy là con gái mình! Và khi tắm xong, vua cho anh ta nằm trên long sàng, đóng cửa và niêm lại, sau đó đặt một người canh rồi vua đi ngủ.

Vào sáng hôm sau, vua mở cửa thấy cậu trai trẻ liền hỏi:

– Sao lại thế này?

Cậu liền kể cách đi trốn của công chúa với hoàng tử! Vua rất thất vọng suy nghĩ: “Dầu ta có nắm tay, cũng không thể canh giữ nữ nhân khỏi trốn được. Như vậy, không ai có thể canh giữ nỗi đàn bà”.

Rồi vua đọc bài kệ khác.

Dầu lời nói dịu dàng
Chúng không hề biết đủ,
Chúng chìm, chìm sâu xuống,
Rất khó làm đầy tràn,
Ðàn ông hãy lánh xa,
Chạy trốn chúng thật xa!
Nếu chúng phục vụ ai,
Vì dục hay tiền tài,
Chúng thiêu sạch người ấy,
Như chất đốt trong lửa.

Nói vậy xong, Bồ-tát thêm:

– Ta phải nâng đỡ cháu trai ta.

Rồi vua làm lễ gả công chúa cho hoàng tử thật long trọng vinh hiển và đặt hoàng tử lên chức phó vương. Khi người cậu tức vua cha mạng chung, chàng lên kế vị.

*

Khi bậc Ðạo sư kể Pháp thoại này. Ngài thuyết giảng các sự thật. Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo thối thất đã đắc quả Dự lưu. Và Ngài nhận diện tiền thân:

– Lúc bấy giờ, nhà vua là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN TIỂU DỤC THAM (Tiền thân Culla-Palobhana)

Không phải rẽ nước biển…,

Câu chuyện này khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn. Khi Tỷ-kheo ấy được đưa đến Chánh pháp đường, bậc Ðạo Sư hỏi:

– Có thật chăng ông thối thất tinh tấn?

Vị ấy trả lời:

– Sự thật là vậy.

Bậc Ðạo sư nói:

– Các nữ nhân làm uế nhiễm ngay cả các bậc thanh tịnh thuở xưa.

Rồi Ngài kể chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, vua không có con trai. Vua nói với các cung phi của mình:

– Hãy cầu nguyện để sanh con trai.

Và họ liền cầu tự.

Như vậy một thời gian dài trôi qua, Bồ-tát từ Phạm thiện giới đi xuống và nhập thai của bà hoàng hậu chánh cung. Vừa sanh xong, sau khi tắm, Bồ-tát được đưa cho một người vú khác. Khi chạm tay nữ nhân, Bồ-tát lại khóc, không giữ im lặng. Rồi Bồ-tát được đưa cho một người hầu đàn ông. Vừa được người đàn ông ấy bồng hài nhi liền im lặng.

Từ đấy trở đi, chỉ những người đàn ông ẵm hài nhi qua lại. Khi bú sữa, họ nặn sữa rồi cho Bồ-tát uống, hay đặt một cái màn giữa hài nhi và bà vú. Sau một thời gian, Bồ-tát lớn lên, nhưng vẫn không thể nhìn nữ nhân. Vua cha làm cho Bồ-tát một chỗ ngồi riêng biệt và một thiền thất riêng biệt.

Khi Bồ-tát lên mười sáu tuổi, vua suy nghĩ: “Ta không có một con trai nào khác. Còn đứa con trai này lại không hưởng thụ các dục, không muốn cai trị vương quốc. Thật sự ta có đứa con trai như vậy để làm gì?”

Bấy giờ, một kỹ nữ giỏi về múa, hát và nhạc, trẻ tuổi, có khả năng quyến rũ những người đàn ông mà nàng gần gũi. Nàng đến hầu vua và thưa:

– Tâu Thiên tử, ngài đang nghĩ gì vậy?

Vua kể lại sự việc ấy. Nàng kỹ nữ thưa:

– Tâu thiên tử, hãy yên tâm! Thiếp sẽ quyến rũ hoàng tử và làm cho hoàng tử nếm hương vị của ái tình.

– Nếu Nàng có thể quyến rũ con ta, một hoàng tử không hề biết đến hương vị đàn bà, thì khi con ta làm vua, nàng sẽ làm hoàng hậu!

Nàng kỹ nữ ấy nói:

– Tâu Thiên tử, trách nhiệm ấy là của thiếp. Thiên tử chớ lo lắng!

Nói xong, nàng kỹ nữ đi đến những người đàn ông canh gác và nói:

– Sáng sớm tôi sẽ đến đứng ở ngoài thiền thất gần phòng hoàng tử nằm và tôi sẽ hát! Nếu hoàng tử tức giận, hãy nói cho tôi biết, tôi sẽ bỏ đi. Nhưng nếu hoàng tử lắng nghe thì hãy khen ngợi tôi.

Họ bằng lòng.

Sáng hôm sau, nàng đến đứng tại chỗ ấy và cất tiếng hát với giọng ngọt lịm. Rồi tiếng đàn êm dịu trổi lên không kém gì tiếng hát ngọt ngào. Hoàng tử nằm lắng nghe. Ngày kế đó hoàng tử bảo kỹ nữ ấy đứng gần và hát; ngày kế nữa, chàng bảo nàng đứng trong thiền thất và hát. Ngày kế nữa, chàng bảo nàng đứng gần mình và hát. Như vậy, dần dần dục vọng khởi lên trong lòng hoàng tử và hoàng tử đi theo thói thường của người đời, biết được hương vị của ái tình, đến độ hoàng tử cầm gươm và dọa:

– Ta không cho phép một ai khác thấy nữ nhân này!

Hoàng tử chạy ra ngoài đường, đuổi theo các người đàn ông. Vua truyền bắt hoàng tử và thiếu nữ kia rồi đuổi họ ra khỏi thành.

Hai người đi vào rừng, xuống hạ lưu sông Hằng. Tại đó một bên là sông Hằng, một bên là biển, họ dựng lên am thất sống với nhau. Thiếu nữ ngồi trong chòi lá nấu các củ và rau. Còn Bồ-tát mang củ quả từ rừng về.

Một hôm, trong khi Bồ-tát đi tìm quả trong rừng, một ẩn sĩ khổ hạnh từ một đảo trên biển đi ngang qua hư không để tìm đồ ăn khất thực, thấy khói, liền hạ xuống trước am thất. Thiếu nữ ấy nói:

– Hãy ngồi chờ cho đến khi nấu xong.

Nàng mời vị khổ hạnh ấy ngồi xuống, và lấy vẻ duyên dáng của phụ nữ quyến rũ vị ấy, làm vị ấy không thể thiền định và mất Phạm hạnh. Vị tu khổ hạnh ấy giống như con quạ gẫy cánh không thể từ bỏ nàng, trọn ngày đứng tại đấy. Khi thấy Bồ-tát đi về, vị ấy liền chạy ra hướng biển thật mau. Bồ-tát nghĩ: “Ðây chắc là một kẻ thù”, liền rút kiếm đuổi theo, còn vị tu khổ hạnh làm cử chỉ như muốn bay, liền rơi xuống biển. Bồ-tát suy nghĩ: “Vị khổ hạnh này có lẽ đã đến đây ngang qua hư không, nay bị thối thất thiền định nên rơi xuống biển. Ta phải cứu vị ấy!” Vì vậy, vừa đứng trên bờ biển, Bồ-tát đọc những bài kệ này:

Không phải rẽ nước biển,
Nhưng với thần thông lực
Ngài du hành qua đây
Vào buổi mai thật sớm,
Liên hệ ác nữ thần,
Ngài phải chìm xuống biển.
Làm mọi người thối thất,
Ðầy mê hoặc huyễn ảo,
Quyến rũ người thanh tịnh
Khiến họ chìm dần xuống.

Kẻ trí biết nữ thần,
Nên xa lánh, từ bỏ.
Nữ nhân phục vụ ai
Vì dục hay tiền tài,
Chúng đốt sạch người ấy
Như lửa thiêu hủy củi!

Nghe lời Bồ-tát nói vậy, vị tu khổ hạnh đứng giữa biển làm phát khởi thiền lực đã mất, và bay lên hư không, rồi đi về trú xứ của mình. Bồ-tát suy nghĩ: “Vị tu khổ hạnh này với gánh nặng như vậy, đã bay lên hư không như một nhúm bông. Ta cũng phải làm phát khởi thiền lực như vị ấy để có thể bay lên hư không”.

Vì vậy, Bồ-tát về am dẫn nữ nhân ấy trở lại với quần chúng rồi bảo nữ nhân ấy ra đi, còn mình lui vào rừng, dựng am thất tại một nơi xinh tốt, và làm vị ẩn sĩ. Ngài chọn đề tài thiền định, rồi đạt các Thắng trí và các Thiền Chứng, về sau được sanh lên Thiên giới.

*

Sau khi kể Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư giảng các Sự thật. Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo thối thất đã đắc quả Dự Lưu. Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, hoàng tử không hề liên hệ với nữ thần là Ta vậy.

PHẨM BA BÀI KỆ

  1. Chuyện Đại Vương Panàda (Tiền thân Mahà-Panàda)

Vua Panàda có cung điện ấy…,

Chuyện này do bậc Ðạo sư kể khi Ngài ghé đến bên bờ sông Hằng, về thần thông của Trưởng lão Bhaddaji.

Một dịp khác, khi bậc Ðạo Sư đã an cư mùa mưa ở Xá vệ, Ngài nghĩ nên ban ân đức cho một trưởng giả trẻ tuổi tên Bhaddaji. Vì thế, Ngài cùng các Tỳ-kheo lên đường tới thành Bhaddiya và ở lại đó ba tháng trong rừng Jàtiyà, chờ đợi cho đến khi chàng trai ấy thuần thục và kiện toàn về tri thức.

Bấy giờ thanh niên Bhaddaji là một nhân vật cao sang, Con trai độc nhất của một phú thương ở Bhaddaiya hưởng một gia tài tám trăm triệu đồng. Chàng có ba ngôi nhà dùng cho ba mùa khác nhau, mỗi mùa chàng ở bốn tháng trong một ngôi nhà. Sau thời kỳ ở trong một ngôi nhà, chàng cùng với bà con bạn bè dời đến một ngôi nhà khác trong cảnh xa hoa lộng lẫy. Vào các dịp này, cả thành phố thường nô nức đi xem cảnh sang trọng của chàng thanh niên ấy và giữa các ngôi nhà ấy, người ta thường dựng lên biết bao chỗ ngồi theo hình vòng tròn, hàng hàng lớp lớp chồng chất lên nhau.

Sau khi đã trú nơi kia được ba tháng, bậc Ðạo Sư báo cho dân trong thành biết Ngài định ra đi. Dân trong thành xin Ngài hãy nán lại đến ngày mai. Thế là hôm sau, họ góp đủ thứ tặng vật để cúng dường đức Phật và các Tỷ-kheo, đệ tử của Ngài. Họ dựng một cái rạp ở giữa thành phố, trang hoàng đẹp đẽ, sắp xếp các chỗ ngồi rồi thông báo rằng đã đến giờ. Bậc Ðạo Sư cùng đoàn Tỷ-kheo thứ lớp đến ngồi vào đó. Mọi người đều đến cúng dường rất hào phóng. Khi thọ thực xong, bậc Ðạo Sư với giọng ngọt ngào như mật, đã nói lời tùy hỷ công đức với họ.

Vào lúc này, thanh niên Bhaddaji đang từ một ngôi nhà của chàng dời sang ngôi nhà khác. Nhưng hôm đó chẳng có ma nào đến ngắm vẻ lộng lẫy rực rỡ của chàng ngoài những người nhà của chàng. Vì thế chàng hỏi những người của chàng vì sao như thế. Thường thường tất cả thành phố đều nô nức xem chàng đi từ nhà này qua nhà nọ, các chỗ ngồi đã được sắp đặt vòng này trên vòng nọ, dãy này trên dãy kia; ấy thế mà bây giờ chẳng có ai cả ngoài những kẻ tùy tùng của riêng chàng! Lý do gì như vậy?

Chàng được trả lời:

– Thưa chủ nhân, đức Phật đã ở suốt ba tháng gần thành phố và hôm nay Ngài ra đi. Ngài vừa thọ thực xong và đang thuyết pháp. Cả thành phố đều đang ở đó nghe Ngài dạy.

Chàng nói:

– Tốt lắm, chúng ta cũng sẽ đến đó nghe Ngài.

Thế rồi chàng trang sức lộng lẫy cùng với số đông tùy tùng đứng ở mé ngoài đám đông. Khi chàng nghe thuyết pháp, chàng vứt bỏ hết mọi tham dục cấu uế, đắc quả vị cao rồi đạt Thánh quả.

Bậc Ðạo Sư bảo vị thương gia thành Bhaddiya:

– Thưa ngài, con trai của ngài trông vẻ xa hoa, khi nghe Ta thuyết pháp đã trở thành một bậc Thánh; chính ngày hôm nay, vị ấy hoặc sẽ sống đời tu hành, hoặc sẽ nhập Niết-bàn.

– Bạch Thế Tôn, vị thương gia nói – Tôi không muốn con tôi nhập Niết-bàn. Xin Ngài chấp nhận cho nó xuất gia. Rồi ngày mai, xin thỉnh Ngài cùng với nó đến nhà tôi.

Thế Tôn nhận lời mời ấy. Ngài đưa vị trưởng giả trẻ tuổi đến tịnh xá, nhận chàng vào giáo đoàn, sau đó thọ tiểu giới và đại giới. Suốt một tuần, cha mẹ của chàng trai ấy tiếp đãi chàng rất nồng hậu.

Sau bảy ngày như thế, bậc Ðạo Sư mang chàng theo khi đi khất thực, đến một ngôi làng tên là Koti. Dân làng Koti kính cẩn cúng dường đức Phật và đệ tử của Ngài. Sau khi thọ thực xong, bậc Ðạo Sư nói lời tùy hỷ. Trong lúc ấy, chàng trưởng giả đi ra khỏi làng, ngồi bên một bến của sông Hằng dưới một gốc cây mà trầm tư quán tưởng và nghĩ rằng khi nào bậc Đạo Sư đến, chàng sẽ đứng lên. Khi các Trưởng lão cao niên nhất đến gần, chàng vẫn không đứng dậy, nhưng khi bậc Ðạo Sư đến thì chàng đứng lên ngay.

Những người chưa hiểu đạo lấy làm bất bình vì chàng xử sự như thể một Tỷ-kheo thuộc hàng trưởng thượng, chàng đã không đứng dậy khi thấy các Trưởng lão cao niên nhất đến gần.

Dân làng làm những chiếc bè để đức Phật và các Tỷ-kheo sang sông. Sau đó bậc Ðạo Sư hỏi xem Bhaddaja ở đâu.

– Bạch Ngài, kia kìa.

– Ðến đây Bhaddaji, hãy lên bè của Ta.

Trưởng lão đứng lên, theo Ngài đến chiếc bè của Ngài. Khi bè ra tới cửa sông, bậc Ðạo Sư hỏi Bhaddaji:

– Này Bhaddaji, đâu là cung điện mà ông đã ở lúc Ðại vương Panàda là vua?

Bhaddaji đáp:

– Thưa ở đây, phía dưới nước.

Những kẻ chưa hiểu đạo bảo với nhau:

– Trưởng lão Bhaddaji đang tỏ ra mình là một vị Thánh đấy!

Sau đó bậc Ðạo Sư bảo vị ấy hãy đánh tan mối nghi ngờ của các bạn đồng tu.

Lập tức, Trưởng lão cúi mình đảnh lễ bậc Ðạo Sư, và do thần lực, ông nắm toàn bộ khối cung điện trên đầu ngón tay rồi bay vụt lên không, mang theo cả tòa cung điện (bao trùm một khoảng tới hai mươi lăm dặm). Sau đó ông tạo một lỗ hổng bên trong và xuất hiện trước những chúng sanh đang có mặt trong cung điện dưới nước rồi tung cả tòa lâu đài lên khỏi mặt nước một dặm, rồi hai, rồi ba dặm. Những ai từng là bà con thân thích của ông trong tiền kiếp kia vì quá yêu thích cung điện ấy, nay đã trở thành cá, rùa, rắn nước, cóc nhái sinh ra ngay tại nơi ấy.

Bây giờ khi cả tòa cung điện bị tung lên, chúng giãy giụa lăn lóc cả ra ngoài rồi rơi bì bõm xuống nước lại. Bậc Ðạo Sư thấy thế liền bảo:

– Này Bhaddaji các bà con thân thích của ông đang khốn đốn đấy!

Nghe Ngài dạy thế, Trưởng lão liền thả cả tòa cung điện ra, và nó chìm xuống tại chỗ cũ trước đây.

Bậc Ðạo Sư đã sang bên kia sông Hằng. Hội chúng sửa soạn cho Ngài một chỗ trên bờ. Ðức Phật ngồi vào chỗ ấy giống như mặt trời ban mai đang phóng ra những tia sáng. Bấy giờ, các Tỷ-kheo hỏi Ngài rằng Trưởng lão Bhaddaji đã ở trong tòa cung điện ấy vào thời nào. Bậc Ðạo Sư trả lời:

– Vào thời Ðại vương Panàda.

Rồi Ngài kể cho hội chúng nghe một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa có một ông vua tên Suruci trị vì ở Mithilà, một thành phố trong vương quốc Videha. Vua có một con trai cũng tên Suruci, rồi lại có thêm một con trai nữa tên là Ðại Panàda. Họ làm chủ cung điện kia, do một nghiệp trong tiền kiếp. Có hai cha con dựng một túp lều lá cùng các cành cây sung làm nơi cư trú dành cho một vị Ðộc Giác Phật.

Phần còn lại của câu chuyện sẽ được kể trong Tiền thân Suruci số 489, Chương Mười bốn.

*

Sau khi kể xong Pháp thoại, bậc Ðạo Sư với trí tuệ toàn hảo, đọc lên các bài kệ sau:

Vua Pa-nà-da có cung điện ấy
Mười sáu ngàn tầm rộng, một ngàn cao,
Ngàn tầm cao, cờ xí rợp muôn màu,
Ngọc bích kết cả trăm tầng lầu các.
Sáu ngàn văn công tới lui chơi nhạc
Gồm bảy ban, vẫn múa hát đồng thời,
Bhad-da-ji đã nói, đúng như lời:
– Tâu Ðế Thích, nô tài chờ thượng lệnh.

Bấy giờ, những kẻ chưa hiểu đạo không còn nghi ngờ gì nữa.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể xong Pháp thoại, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy Bhaddaji là Ðại vương Panàda, còn Ta là Ðế Thích.

-ooOoo-

  1. Chuyện Mũi Tên (Tiền thân Khurappa)

Khi nhiều cung bắn vèo tên tới…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên (Jetavana), về một Tỷ-kheo mất hết mọi năng lực tinh tấn.

Bậc Ðạo Sư hỏi có thật Tỷ-kheo ấy đã mất năng lực tinh tấn không. Vị ấy trả lời thật như thế. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Tại sao ông lại còn thối thất sau khi đã thọ trì giáo lý giải thoát này? Ngày xưa, các trí giả đã rất tinh tấn ngay cả trong những sự việc không đưa đến giải thoát.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình của một người kiểm lâm. Khi lớn lên, ngài đứng đầu một đoàn gồm năm trăm người kiểm lâm sống trong một ngôi làng, tại lối vào một khu rừng. Ngài thường đứng ra tự nhận dẫn mướn cho những ai muốn qua khu rừng ấy.

Một hôm, có một người ở Ba-la-nại, con của một thương gia, đến ngôi làng ấy cùng với một đoàn gồm năm trăm xe chở hàng. Ông ta gọi Bồ-tát đến, trao cho ngài một ngàn đồng để được ngài dẫn qua khu rừng. Ngài chấp thuận và nhận tiền từ tay thương gia ấy. Cầm tiền xong, Bồ-tát tự xem là đã hiến đời mình để phục vụ vị thương gia. Thế rồi ngài dẫn ông ta đi qua khu rừng.

Vào đến giữa rừng, năm trăm tên cướp đột nhiên xuất hiện. Cả đoàn hộ tống vừa thấy bọn cướp này đã quỳ mọp xuống ngay. Chỉ riêng người trưởng đoàn kiểm lâm la hét lên, nhảy vọt tới và đánh đấm, đuổi được tất cả năm trăm tên cướp chạy trốn để cho vị thương gia kia an toàn thoát khỏi khu rừng.

Qua khỏi khu rừng, thương gia ấy cho cả đoàn cắm trại. Ông cho người trưởng đoàn kiểm lâm ăn những miếng thịt đủ loại ngon nhất và chính ông cũng ăn cho khỏi cơn đói. Ông vui vẻ ngồi bên cạnh người trưởng đoàn và bảo:

– Hãy nói cho tôi biết, làm sao trước cả năm trăm tên cướp đầy đủ khí giới trên tay bao vây dày đặc thế kia, người không cảm thấy chút sợ hãi gì trong lòng thế?

Rồi ông ta đọc bài kệ thứ nhất:

Khi nhiều cung bắn vèo tên tới,
Nhiều bàn tay đưa lưỡi thép gần,
Trước hàng hung hãn Tử-thần,
Sao người chẳng sợ giữa cơn hiểm nghèo?

Nghe thế, người kiểm lâm đọc hai bài kệ sau đây:

Khi nhiều cung bắn vèo tên tới,
Nhiều bàn tay đưa lưỡi thép gần,
Trước hàng hung hãn Tử-thần,
Hôm nay tôi thấy ngập tràn niềm vui.

Niềm vui ấy cho tôi thắng lợi,
Tôi liều thân nếu tới lúc cần,
Hành vi dũng liệt muốn toàn,
Làm anh hùng, phải coi thường đời ta!

Ngài phát biểu những lời trên như một trận mưa tên. Sau khi đã giải thích việc làm anh dũng của mình do đã thoát khỏi lòng ham sống, Bồ-tát từ giã thương gia trẻ tuổi ấy và quay về ngôi làng của mình. Suốt đời bố thí và hành thiện sự, khi mệnh chung, Ngài đi theo nghiệp của mình.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể xong Pháp thoại này, Ngài tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc Tứ Ðế, vị Tỷ-kheo thối thất ấy đắc Thánh quả.

Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Ta là trưởng đoàn kiểm lâm ấy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Ngựa Quí Tốc Như Phong (Tiền thân Vàtagga-Sindhava)

Mẹ chàng vì ốm o vàng vọt..,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên, về một người chủ đất.

Tại Xá-vệ, người ta nghe nói một phụ nữ xinh đẹp thấy chàng này cũng đẹp trai liền đem lòng yêu. Nỗi say mê bừng lên như một ngọn lửa đốt cháy khắp thân thể nàng. Nàng mất hết tri giác, cả thân lẫn tâm, nàng chẳng thiết gì ăn uống, chỉ nằm rũ liệt trên giường.

Các bạn bè và tỳ nữ hỏi vì sao nàng lại phải rối loạn tâm can đến nỗi phải nằm rũ liệt trên giường thế kia. Họ muốn biết nguyên nhân vì sao như vậy. Ban đầu, nàng không chịu trả lời nhưng vì họ cứ thúc ép mãi, nàng đành phải thú thật sự việc.

– Chị đừng buồn, chúng tôi sẽ mang chàng lại cho chị!

Họ bảo như vậy, rồi họ đến nói chuyện với người đàn ông kia. Lúc đầu chàng từ chối nhưng rồi họ cứ năn nỉ mãi nên cuối cùng chàng chấp thuận. Thế là họ được chàng hứa sẽ đến với nàng kia vào ngày, giờ đã định. Họ liền thuật lại cho nàng nghe.

Nàng sửa soạn phòng ốc, mặc quần áo thật đẹp rồi ngồi trên giường chờ chàng đến. Chàng ngồi xuống bên cạnh nàng, bấy giờ nàng bỗng suy nghĩ: “Nếu ta chấp thuận lời chàng tán tỉnh ngay lập tức và tự hạ giá mình thì lòng tự trọng cao của ta sẽ bị dẹp bỏ. Ngày buổi đầu tiên mà để chàng làm theo ý chàng thì thật là không thích hợp. Thôi hôm nay mình cứ làm vẻ khó tính rồi sau này sẽ nhượng bộ”.

Thế là ngay khi chàng mới chạm vào nàng bắt đầu tỏ vẻ âu yếm suồng sã, nàng liền chụp lấy tay chàng và nghiêm nghị trách cứ chàng, bảo chàng đi ra, vì nàng không thích chàng. Chàng giận dữ rút lui và ra khỏi nhà.

Khi các phụ nữ kia biết được sự việc nàng đã làm và thấy rằng người đàn ông kia đã ra đi, thì họ trách nàng:

– Này chị, chị đã yêu người ta đến nỗi phải nằm liệt giường, chẳng thiết gì ăn uống, và chúng tôi cũng đã phải khó khăn lắm mới thuyết phục được chàng để cuối cùng mang chàng đến với chị, thế mà chị chẳng có gì để nói với chàng cả!

Nàng nói cho họ biết tại sao, họ liền bỏ đi và cảnh cáo rằng nàng sẽ bị người ta bàn tán.

Người đàn ông kia chẳng bao giờ đến với nàng nữa. Khi nàng nhận ra rằng nàng đã mất chàng, nàng bỏ cả ăn mà chết. Khi người đàn ông kia được tin nàng chết, chàng mang một bó hoa dầu thơm, hương liệu đến Kỳ Viên. Tại đó, chàng đảnh lễ bậc Ðạo Sư rồi ngồi xuống bên Ngài.

Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này cư sĩ, làm sao mà chúng ta chẳng hề thấy ông đến đây vậy?

Chàng kể lại cho Ngài nghe toàn bộ câu chuyện và thêm rằng lâu nay chàng tránh đến hầu đức Phật vì chàng hổ thẹn. Bậc Ðạo Sư dạy:

– Này cư sĩ, người phụ nữ kia cho mời ông đến là do lòng say mê của nàng, thế rồi nàng chẳng muốn liên hệ gì với ông cả, lại xua đuổi ông đi khiến ông tức giận, và cũng đúng như thế, xưa kia nàng cũng đã yêu thương nhiều bậc trí giả, kêu gọi họ đến và khi họ đến thì lại chẳng muốn liên hệ gì với họ, cứ làm phiền nhiễu họ như vậy rồi xua đuổi họ đi.

Thế rồi do yêu cầu của vị ấy, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi Brakmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là một con ngựa Sindh. Nó được đặt tên là Tốc-như-phong (nhanh như gió) và là con ngựa nghi lễ của vua.

Những người nài thường đem nó đi tắm ở sông Hằng. Nơi đây, một con lừa cái trông thấy nó liền đem lòng yêu nó. Rung động vì nỗi say mê, con lừa cái bỏ cả ăn uống, hao mòn tiều tụy, gầy ốm đến độ chỉ còn xương với da. Một trong những con lừa con của nó thấy mẹ tiều tụy như thế liền hỏi:

– Thưa mẹ, sao mẹ chẳng ăn uống gì cả, sao mẹ lại quá tiều tụy và nằm run rẩy một nơi thế kia? Có chuyện gì thế hở mẹ?

Con lừa cái chẳng nói gì, nhưng con nó cứ hỏi đi hỏi lại mãi, nó mới kể hết chuyện cho con nghe. Thế rồi con lừa con an ủi mẹ:

– Thưa mẹ, mẹ chớ sầu bi, con sẽ mang chú ngựa ấy đến cho mẹ.

Thế rồi khi ngựa quý Tốc-như-phong xuống tắm, chú lừa con đến gần nó và nói:

– Thưa ngài, mẹ tôi yêu ngài: bà chẳng ăn uống gì cả và đang hao mòn sắp chết. Xin hãy cứu sống mẹ tôi!

– Ðược rồi, này bạn, tôi sẽ cứu mẹ bạn. Tốc-như-phong bảo. Khi tôi tắm xong, các anh nài sẽ để tôi thao dượt một chốc bên bờ sông, bạn hãy mang mẹ bạn đến đấy.

Chú lừa con đi kiếm mẹ và đưa mẹ đến nơi ấy, rồi chú núp gần đó.

Người nài để Tốc-như-phong duỗi chân chạy. Nó dò tìm con lừa cái và đến với con kia.

Tốc-như-phong đến gần nó và bắt đầu đưa mũi ngửi. Con lừa cái tự nghĩ: “Nếu ta tự hạ mình và cứ để cho chàng làm theo ý chàng trong lúc chàng vừa mới đến, thì danh dự và lòng tự cao của ta sẽ tiêu tan. Ta phải làm như thể mình không muốn sự việc chàng làm”. Vì thế, nó đã làm vỡ hàm Tốc-như-phong và suýt giết chết chàng ngựa! “Nàng làm gì ta thế?”. Tốc-như-phong tự nghĩ, cảm thấy xấu hổ rồi bỏ chạy đi.

Thế rồi con lừa cái hối hận, nằm vật ra đầy đau khổ. Chú lừa con đến gần và hỏi mẹ như sau:

Mẹ vì chàng ốm o vàng vọt,
Mẹ vì chàng chẳng chút uống ăn.
Ngựa yêu kia mới đến gần,
Cớ sao mẹ bỗng đâm sầm phóng đi?

Nghe con bảo thế, con lừa đọc bài kệ thứ hai:

Chàng kia đến một khi kề sát,
Nếu ban đầu nhường bước tức thời,
Tiêu ma giá ngọc cao vời,
Cho nên mẹ phải vội dời chân ngay!

Qua những lời này, con lừa giải thích bản tính đàn bà cho con trai hiểu.

Bậc Ðạo Sư với Tuệ giác Toàn hảo, đọc bài kệ thứ ba:

Nếu từ chối chàng trai sang trọng
Ðến bên nàng mong ngóng yêu đương,
Nàng đành dằng dặc sầu thương,
Như Công-đa-lợi đau buồn Như phong!

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế. Cuối bài giảng Tứ Ðế, người chủ đất kia đắc quả Dự Lưu.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Người phụ nữ thời ấy là con lừa cái, còn Ta là con ngựa quý Tốc-như-phong.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Cua (Tiền thân Kakkata)

Con vật càng vàng, lồi cặp mắt..,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể lúc Ngài trú tại Kỳ Viên, về một phụ nữ.

Người ta nghe nói một người chủ đất ở Xá-vệ cùng với vợ đi về quê để thâu tiền nợ thì bị bọn cướp vây bắt. Người vợ vốn rất xinh đẹp và khả ái. Tên tướng cướp bị cuốn hút bởi sắc đẹp của nàng, có ý định giết người chồng để chiếm lấy nàng. Nhưng nàng lại là một phụ nữ đoan trang đức độ, một người vợ trung kiên. Nàng phủ phục dưới chân tên cướp và kêu:

– Thưa ngài, nếu ngài giết chồng tôi vì yêu tôi, tôi sẽ dùng độc dược hoặc nín thở mà chết theo luôn! Tôi không thể sống với ngài được đâu! Xin chớ giết chồng tôi một cách vô ích. Nàng van xin tên cướp như vậy.

Cả hai vợ chồng ấy trở về Xá-vệ bình yên. Họ được dịp đi ngang tịnh xá Kỳ-Viên và họ muốn đến tham bái bậc Ðạo Sư. Vì thế họ vào Hương phòng và sau khi đảnh lễ, họ ngồi xuống bên Ngài. Bậc Ðạo Sư hỏi họ từ đâu đến.

– Chúng con đi thâu tiền nợ, họ đáp.

– Các người đi đường có bình yên không? Ngài hỏi tiếp.

– Dọc đường chúng con đã bị cướp bắt – người chồng nói. Thế rồi tên cướp muốn giết con nhưng vợ con đây đã năn nỉ xin tha cho con và con đã mang ơn nàng cứu mạng.

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Này cư sĩ, ông chẳng phải là kẻ độc nhất được nàng cứu mạng đâu! Vào thời xưa nàng cũng đã từng cứu mạng nhiều bậc trí giả khác.

Thế rồi do yêu cầu của vị ấy, bậc Ðạo Sư kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi Brahmadatta làm vua xứ Ba-la-nại, trong dãy Hy-mã-lạp Sơn có một cái hồ rộng nơi đó có một con Cua vàng rất lớn. Vì cua sống ở đó nên nơi ấy được gọi là Hồ Cua. Con Cua lớn lắm, lớn bằng cả cái sân đập lúa. Nó có thể bắt các con voi rồi giết và ăn thịt chúng. Vì sợ nó nên chẳng voi nào dám đến gần đó để ăn đọt non.

Bấy giờ Bồ-tát đầu thai vào lòng một con voi cái là vợ của chúa voi đầu đàn sống gần Hồ Cua. Voi mẹ muốn được an toàn cho đến lúc sinh con, đã tìm đến một nơi khác trong một ngọn núi và tại đó nó đã sinh một con voi đực. Theo thời gian voi con lớn lên rất thông minh, to lớn, khỏe mạnh và thành tựu mọi mặt. Nó oai nghi, sừng sững như trái núi màu tím thẫm.

Nó chọn một con voi khác làm vợ và quyết bắt cho được con cua kia. Vì vậy cùng với vợ và mẹ, nó tìm đến đàn voi và gặp cha nó để xin đi bắt Cua.

– Con không thể làm được việc ấy đâu con ạ! Voi cha bảo.

Nhưng nó cứ nài nỉ xin phép cha mãi, cuối cùng cha nó bảo:

– Thôi được, con cứ thử xem!

Thế là chàng Voi trẻ tập hợp tất cả các voi quanh Hồ Cua lại và dẫn chúng đến gần hồ. Nó hỏi:

– Cua thường bắt voi lúc nào? Lúc voi đang đi tới hồ, hay lúc chúng đang ăn, hay lúc chúng quay trở lên?

Bọn voi đáp:

– Nó bắt lúc chúng quay trở lên.

– Ðược rồi – Voi nói – Tất cả các bạn hãy đi tới hồ và cứ ăn thứ gì tùy thích rồi quay trở lên trước, tôi sẽ theo cuối cùng đằng sau các bạn.

Ðàn voi làm theo như vậy.

Cua thấy Bồ-tát trở lên sau rốt, liền chộp lấy chân Voi, siết chặt vào càng, giống như người thợ rèn kẹp khối sắt trong đôi gọng kềm khổng lồ. Vợ Bồ-tát cũng không rời chồng, nàng vẫn đứng đó, sát bên chồng. Bồ-tát ra sức kéo nhưng vẫn không sao làm Cua nhúc nhích được. Thế rồi Cua kéo và lôi được Voi về phía mình.

Giữa lúc nguy khốn này, Voi rống lên, rống lên. Nghe tiếng rống ấy, các voi khác quá kinh hãi, vụt chạy tán loạn, kêu thét như tiếng kèn đến vung vãi phân. Ngay cả vợ Voi cũng chẳng đứng yên được và toan phóng chạy. Thế rồi để tỏ cho vợ biết mình đang bị bắt giữ và hy vọng làm cho vợ khỏi phóng chạy đi, Voi đọc lên bài kệ đầu:

Con vật càng vàng, lồi cặp mắt,
Sống hồ, trần trụi, bọc trong mai,
Tôi kêu, nó kẹp, nghe đau đớn,
Nàng hỡi, thương tôi, chớ bỏ tôi!

Nghe thế, vợ Voi quay lại đọc bài kệ thứ hai an ủi chồng:

Rời chàng, thiếp quyết chẳng khi nào,
Sáu chục năm đời, chúa tối cao,
Cả bốn phương trời đều chứng tỏ
Chẳng ai thắm thiết sánh chàng đâu!

Vợ Voi khích lệ chồng như thế và nói:

– Này bậc trượng phu, bây giờ thiếp sẽ bảo Cua kia thả chàng ra.

Rồi vợ Voi cầu xin Cua qua bài kệ thứ ba:

Trong các loài Cua ở biển xa,
Hoặc là Ner-bud, hoặc Hằng Hà,
Ngài là tối thượng, nay tôi biết,
Xin để chồng tôi được thoát ra.

Khi nàng đọc xong, lòng kiêu hãnh hung hăng của Cua bị tiếng nói phụ nữ hóa giải. Quên cả sợ, Cua nới lỏng đôi càng, thả chân con Voi ra, chẳng nghi ngờ gì đến việc Voi sẽ làm khi được thả. Thế là Voi nhấc chân lên, đạp lên lưng Cua làm cho đôi mắt Cua phải lòi ra lập tức. Voi sung sướng kêu lên.. Các con voi kia chạy lại, kẹp Cua đi, đặt Cua nằm trên đất rồi dẫm nát nó. Ðôi càng Cua bị gãy rời tả tơi. Thế rồi Hồ Cua, vì ở gần sông Hằng, bị ngập trong một cơn nước dâng. Khi nước hạ, nước rút từ hồ ra tới sông Hằng. Ðôi càng cua bị đẩy đi, bập bềnh trong nước sông Hằng. Một càng trôi ra biển, còn càng kia được mười anh em trong hoàng tộc tìm thấy khi họ đang tắm sông và họ dùng càng này làm cái trống nhỏ, gọi là Ànaka. Các thần Àsura (A-tu-la) tìm được cái càng trôi ra biển kia, và dùng nó làm trống, gọi là Àlambara. Về sau các thần Asura (A-tu-la) bị Thiên chủ Sakka đánh bại, phải chạy đi và bỏ lại cái trống. Sakka bảo giữ trống ấy để làm đồ dùng riêng. Do thế, người ta mới thường nói: “Sấm động như mây Álambara”.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế và cuối bài giảng, cả người chồng và người vợ đều đắc quả Dự Lưu. Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, nữ cư sĩ này là con Voi cái, còn Ta chính là con Voi chồng.

-ooOoo-

  1. Chuyện Kẻ Làm Hại Vườn (Tiền thân Àràma-Dùsa)

Giỏi nhất trong bọn là đây..,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể lúc Ngài trú ở một vùng quê gần Dakkinãgiri (Nam Sơn), về con trai của một người giữ vườn.

Sau mùa an cư, bậc Ðạo Sư rời Kỳ-Viên và đi khất thực ở một vùng gần Dakkinãgiri. Một cư sĩ mời đức Phật và đoàn Tỷ-kheo của Ngài ngồi xuống khu vườn của ông để ông dâng cơm và bánh. Sau đó ông bảo:

– Nếu có ai trong các vị muốn ngoạn cảnh thì xin cứ đi theo người giữ vườn.

Rồi ông sai người giữ vườn mời chư Tăng các trái cây mà họ thích.

Lát sau, họ đến một chỗ trống:

– Tại sao chỗ đất này trơ trụi và chẳng có cây cối gì cả thế? Họ hỏi.

Người giữ vườn đáp:

– Ðó là do con trai của một người giữ vườn đấy! Anh ta phải tưới cây con và nghĩ rằng tốt hơn là anh nên tưới nước thế nào cho hợp với độ dài của rễ cây. Vì thế, anh nhổ hết cây lên xem rễ để tùy theo đó mà tưới nước. Kết quả là nơi đây trở thành trơ trụi.

Các Tỷ-kheo trở về, kể chuyện lại cùng bậc Ðạo Sư. Ngài dạy:

– Chẳng phải chỉ bây giờ người kia mới phá hại vườn cây như vậy, trước đây anh ta cũng đã làm thế.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi một vị vua tên là Vissasena đang trị vì Ba-la-nại, một ngày lễ hội được tuyên bố. Người giữ vườn kia nghĩ rằng anh ta nên đi dự lễ, vì thế anh gọi các con khỉ sống trong khu vườn lại và dặn:

– Khu vườn này là nguồn lợi lớn cho các bạn. Nay ta muốn đi dự lễ, các bạn hãy tưới đám cây con vào ngày thứ bảy nhé.

– Vâng ạ. Chúng đáp.

Anh ta giao các bình tưới cho chúng rồi ra đi.

Bầy khỉ xách nước và bắt đầu tưới rễ cây.

Con khỉ già nhất kêu lên:

– Khoan đã! Có đủ nước luôn luôn đâu phải dễ! Chúng ta phải tính sao cho tốt. Hãy nhổ cây lên và coi kỹ độ dài của rễ, nếu cây có rễ dài, chúng phải cần nhiều nước; còn nếu cây có rễ ngắn, chúng chỉ cần một ít nước thôi!

– Ðúng thế, đúng thế.

Cả bọn khỉ đều đồng ý. Thế rồi vài con khỉ đi nhổ cây lên. Các con khác trồng chúng lại và tưới nước vào.

Bấy giờ Bồ-tát là một trưởng giả trẻ tuổi sống tại Ba-la-nại. Nhân có việc, ngài đi ngang khu vườn và thấy việc các đàn khỉ đang làm.

– Ai bảo các ngươi làm thế? Ngài hỏi.

– Trưởng đoàn của chúng tôi đấy! Bọn khỉ đáp.

– Nếu trí tuệ của trưởng đoàn đã như thế thì còn lại đám chúng bây có ra gì nữa! Ngài nói.

Và để giải thích sự việc, ngài đọc bài kệ đầu:

Giỏi nhất trong bọn là đây,
Thông minh như kiểu thế này được sao?
Khỉ kia nếu chọn tối cao,
Những tên còn lại phận nào định đây?

Nghe phê phán như vậy, bọn khỉ đọc tiếp bài kệ thứ hai:

Lời kia, người cũng chẳng hay,
Thế này trách cứ la rầy chúng tôi!
Nếu không biết rễ ngắn dài,
Làm sao thấy được cây trồi lớn đây?

Nghe thế Bồ-tát liền trả lời bằng bài kệ thứ ba:

Khỉ ơi, ta chẳng trách bây,
Cũng không trách bọn đó đây trong rừng.
Chủ kia mới thật điên khùng,
Ra đi giao hết cây trồng nhờ coi!

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Người phá hoại vườn cây thời ấy là con khỉ đầu đàn, còn Ta là vị trí giả kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Nàng Sujàta (Tiền thân Sujàta)

Kẻ hưởng được bề ngoài duyên dáng..,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ-Viên, về một cô gái, tên là Sujàta, dâu ông Cấp Cô Ðộc, con gái của vị phú thương Dhananjaya và là em út của nữ cư sĩ Visàkhà.

Cô ta về làm dâu nhà ông Cấp Cô Ðộc với lòng đầy kiêu ngạo vì nghĩ rằng cô vốn xuất thân từ một gia đình sang trọng. Cô rất bướng bỉnh, thô lỗ, nóng nảy và hung tợn. Cô từ chối các bổn phận đối với cha mẹ mới hay đối với chồng mình. Cô đi khắp nhà nói năng thô lỗ và còn đánh đập cả mọi người.

Một hôm, bậc Ðạo Sư cùng năm trăm Tỷ-kheo đến viếng ông Cấp Cô Ðộc. Mọi người ngồi xuống, vị đại thương gia ngồi bên cạnh Thế tôn và nghe Ngài thuyết pháp. Lúc ấy, Sujàta đang la mắng những người giúp việc.

Bậc Ðạo Sư ngưng nói và hỏi tiếng gì ồn ào như vậy. Vị thương gia giải thích rằng đó là con dâu thô lỗ của ông, cô ta đã không cư xử đúng đắn với chồng và cha mẹ chồng, cô chẳng hề bố thí và chẳng có điểm nào tốt cả; cô không có lòng tín thành mộ đạo, cô đi khắp nhà, la mắng suốt ngày đêm. Bậc Ðạo Sư truyền gọi cô ta đến.

Người phụ nữ kia đến và sau khi đảnh lễ bậc Ðạo Sư, cô đứng một bên. Rồi bậc Ðạo Sư hỏi cô:

– Này Sujàta, có bảy loại vợ mà một người đàn ông có thể gặp; cô thuộc về loại nào?

Cô ta trả lời:

– Bạch Thế Tôn, Ngài dạy vắn tắt quá, con không hiểu được, xin Ngài giải thích thêm.

– Ðược rồi, – bậc Ðạo Sư dạy – Hãy chú ý nghe đây.

Rồi Ngài đọc các bài kệ sau:

Tâm địa xấu, điều hay chẳng thiết,
Yêu người ngoài, lại ghét bỏ chồng,
Của tiền chồng tạo phá tan,
Vợ này Phá hoại nhà chàng xứng tên.

Vật chồng tặng do tiền mua bán,
Nghề tinh chuyên, cuốc xẻng nông gia,
Cố tình lấy cắp dần dà,
Vợ nào như thế, gọi là Tặc gian.

Quên phận sự, hung tàn lười biếng,
Lại tham lam, xấu miệng sân đầy,
Chuyên quyền với kẻ dưới tay
Mang danh là loại vợ đây Cao cường.

Còn kẻ vẫn mến thương điều tốt,
Chăm sóc chồng như một mẹ hiền,
Của tiền chồng tạo, giữ gìn,
Mẫu nghi mới gọi đúng tên vợ này.

Tôn trọng chồng cũng tày như thế
Ðàn em thơ kính nể người anh,
Nhún nhường, tuân phục chồng mình,
Vợ là Hiền muội, đúng tình chất chơn.

Kẻ luôn mừng đón chồng khi thấy
Như bạn bè sau mấy độ xa,
Hiến dâng, đức độ, nghiêm hòa,
Vợ nào như thế, gọi ra Thân bằng.

Sợ hung tàn, tâm an chịu khổ,
Chẳng cuồng si, đầy đủ kiên trì,
Chân tình, chiều chuộng mãi ghi,
Vợ kia được gọi Nô tỳ chính danh.

Này Sujàta, trên đây là bảy loại người vợ mà một người đàn ông có thể có. Ba loại người vợ bị gọi là vợ phá hoại, vợ bất lương và cao cường phu nhân sẽ tái sinh vào địa ngục. Bốn loại người vợ còn lại sẽ được sanh vào cõi trời thứ năm.

Vợ Cao cường, Tặc gian, Phá hoại,
Giận dữ hoài, chẳng biết kính ai,
Hết đời, bỏ xác, đầu thai
Xuống miền địa ngục khó ngày thoát đi.

Vợ Thân bằng, Mẫu nghi, Hiền muội,
Hoặc Nô tỳ, trong cõi đời này,
Ngoan hiền, tự chủ lâu dài,
Hết đời, bỏ xác, lên trời sống vui.

Khi bậc Ðạo Sư thuyết giảng về bảy loại người vợ như thế, Sujàta đắc quả Dự Lưu, và khi bậc Ðạo Sư hỏi rằng nàng thuộc loại vợ nào, thì nàng thưa:

– Bạch Ngài, con là kẻ nô tỳ.

Nói xong nàng cung kính đảnh lễ đức Phật và được Ngài tha thứ.

Như vậy chỉ với một lời khuyên bảo, bậc Ðạo Sư đã thuần hóa được người phụ nữ xấu tánh kia. Sau bữa ăn, Ngài tuyên thuyết về các bổn phận trong giáo hội và rồi Ngài vào Hương phòng.

Bấy giờ các Tỷ-kheo họp tại Pháp đường và ca ngợi bậc Ðạo Sư:

– Này các pháp hữu, chỉ với một lần khuyên bảo duy nhất, bậc Ðạo Sư đã thuần hóa được người phụ nữ xấu tánh kia và khiến cho nàng đắc quả Dự Lưu.

Bậc Ðạo Sư bước vào và hỏi xem họ ngồi với nhau đang thảo luận chuyện gì. Họ thuật lại như trên. Ngài dạy:

– Ðây chẳng phải là lần đầu tiên Ta thuần hóa Sujàta bằng một lời khuyên bảo duy nhất đâu!

Rồi Ngài kể tiếp một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là thái tử do Chánh cung hoàng hậu sinh ra. Ngài lớn lên và được giáo dục tại Takkasila. Sau khi vua cha băng hà, ngài nối ngôi và trị vì rất công chính.

Mẫu hậu ngài là một người đàn bà nóng nảy, dữ tợn, thô lỗ, gắt gỏng, ác khẩu. Ngài chỉ mong sao khuyên bảo được mẹ, nhưng ngài cũng nhận thấy rằng không nên làm điều gì bất kính đối với mẹ. Vì thế, ngài cố tìm một cơ hội để hé lộ dần ẩn ý.

Một hôm ngài đi vào vườn hoa và mẹ ngài cũng theo ngài. Một con chim cưỡng xanh đang kêu the thé trên đường. Khi ấy, các triều thần đều bịt tai lại và la lên:

– Cái giọng thật kinh khủng! Cái tiếng kêu ấy thật ghê rợn! Ðừng gây ra cái tiếng ấy nữa!

Bấy giờ Bồ-tát đang đi qua vườn hoa với mẹ và đoàn người du lãm. Một con chim Cu đậu trong đám lá rậm của một cây sàla, hót lên âm điệu ngọt ngào. Mọi người đứng đó đều thích thú khi nghe nó hót, vỗ đôi bàn tay rồi chìa tay ra và yêu cầu nó:

– Ôi! Thật là giọng hót êm dịu, một giọng hót tốt lành, một giọng hót thanh lịch! Hót lên, chim ơi, hót lên đi!

Rồi họ cứ đứng đó, rướn cổ lên chờ nghe.

Bồ-tát chú ý đến hai sự việc này, nghĩ rằng đây là dịp may để tiết lộ ẩn ý của mình cho mẫu hậu.

– Thưa mẹ – ngài nói – Tiếng kêu của con chim cưỡng trên đường làm cho ai nghe cũng phải bịt tai và thốt lên: Ðừng gây ra cái tiếng ấy nữa! Ðừng gây ra cái tiếng ấy nữa! Và họ bịt tai lại vì âm thanh dữ dằn chẳng được ai ưa cả.

Thế rồi ngài đọc các bài kệ sau:

Kẻ hưởng được vẻ ngoài duyên dáng,
Thoạt nhìn vào, tươi sáng đẹp thay,
Nhưng buông lời nói chối tai,
Ðời này đời kế chẳng ai yêu vì!

Chim Cu kia, thường khi mẹ thấy,
Lốm đốm đen xấu vậy mặc dầu,
Tiếng kêu êm dịu ngọt ngào,
Bao nhiêu kẻ đón người chào mến thương.

Mong tiếng mẹ dịu dàng thanh lịch,
Lời khôn ngoan bỏ hết tự kiêu,
Âm thanh êm ái mỹ miều
Giảng bày Thánh pháp ý nêu tỏ tường.

Khi Bồ-tát khuyến dụ mẫu hậu bằng ba bài kệ trên, ngài đưa mẹ vào cách suy nghĩ của mình. Sau đó, mẹ ngài sống theo chính đạo. Chỉ bằng một lời nói, Bồ-tát đã làm cho mẹ thành một người phụ nữ biết quên mình. Rồi về sau, khi từ trần, Bồ-tát đi theo nghiệp của mình.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Sujàta là mẹ của vị vua ở Ba-la-nại, còn Ta chính là vị vua ấy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Cú (Tiền thân Ulùka)

Cú là vua của các loài chim….

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể lúc Ngài trú tại Kỳ Viên về sự tranh chấp giữa Quạ và Cú.

Vào thời kỳ ấy, ban ngày Quạ thường ăn thịt Cú, còn ban đêm Cú lại bay tới cắn đứt đầu Quạ khi Quạ đang ngủ và giết đi.

Có một Tỷ-kheo sống trong một cái cốc ở vùng lân cận Kỳ Viên, mỗi lúc quét dọn, thường phải đổ cả bảy tám chậu đầy đầu Quạ rớt từ trên cây xuống. Vị ấy đem sự việc kia kể lại cho các Tỷ-kheo nghe.

Thế là trong Pháp đường, các Tỷ-kheo bắt đầu bàn tán về chuyện ấy.

– Này Hiền hữu, vị Tỷ-kheo kia thấy nhiều đầu Quạ quá, mỗi ngày phải đem chúng đổ đi ngay chỗ mình ở!

Bậc Ðạo Sư đi vào hỏi xem các Tỷ-kheo đang ngồi thảo luận việc gì. Họ kể cho Ngài nghe và hỏi tiếp rằng sự tranh chấp giữa Quạ và Cú đã xảy ra từ bao lâu rồi. Bậc Ðạo Sư trả lời.

– Từ thời nguyên thủy.

Rồi Ngài kể cho họ nghe một câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, loài người sống trong thời nguyên thủy họp nhau lại và bầu một người đẹp đẽ, có tướng tốt, oai nghi hoàn hảo lên làm vua. Các loài bốn chân cũng tụ họp lại và bầu sư tử làm vua. Loài cá dưới biển cũng chọn vua là con cá tên Ànanda.

Thế rồi tất cả chim chóc trên dãy Hy-mã-lạp Sơn cũng tụ họp nhau lại trên một phiến đá phẳng và kêu lên.

– Loài người đã có một ông vua, loài thú và loài cá cũng đã có, còn chim chóc chúng ta thì không. Chúng ta không thể sống hỗn loạn được, chúng ta cũng phải chọn một ông vua. Hãy chọn một con chim xứng đáng với ngôi vua.

Chúng tìm kiếm một con chim như vậy và chọn một con Cú. “Ðây là con chim mà chúng ta muốn”, chúng bảo thế, và một con chim tuyên bố ba lần cho cả bọn biết rằng sẽ có một cuộc bầu cử về việc đó. Sau khi kiên nhẫn nghe thông báo hai lần, đến lần thứ ba một con Quạ đứng dậy la lên:

– Khoan đã, khi anh ta đang được tôn lên làm vua mà mặt mày còn như thế kia, huống chi khi anh ta giận dữ thì trông như thế nào nữa? Nếu anh ta nhìn chúng ta đang giận dữ thì chúng ta cũng tan xác như mè rán trên chảo nóng mà thôi. Tôi không muốn tôn anh ta làm vua đâu.

Và để tán rộng điều này, Quạ đọc bài kệ đầu:

Cú là vua của các loài chim,
Xin phép, cho tôi tỏ nỗi niềm.

Chấp thuận cho Quạ được nói, bọn chim đọc tiếp bài kệ thứ hai:

Giữa bọn trẻ kia, xin cứ nói,
Mong sao tốt đẹp, tỏ tường thêm.

Ðược cho phép nói, Quạ đọc bài kệ thứ ba:

Trân trọng trình bày ý của tôi,
Tôi đây chẳng muốn Cú lên ngôi,
Hãy nhìn mặt mũi kia như thế,
Hắn sẽ làm gì lúc giận sôi?

Ðoạn Quạ bay bổng lên không và kêu:

– Tôi chẳng thích thế đâu! Tôi chẳng thích thế đâu!

Cú bay lên đuổi theo Quạ. Từ đấy về sau, cả hai đều nuôi lòng hận thù nhau. Còn lũ chim kia chọn một con Ngỗng trời vàng lên làm vua rồi giải tán.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế và nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con Ngỗng trời được chọn làm vua chính là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Kẻ Làm Bẩn Giếng Nước (Tiền thân Udapàna-Dùsaka)

Giếng được tạo do người ẩn dật..,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Isipatana (Trú xứ của chư Thiên), về một con chó rừng đã làm bẩn giếng nước.

Người ta nghe nói có một con chó rừng thường đến làm bẩn cái giếng mà các Tỷ-kheo thường đến múc nước, rồi bỏ đi. Một hôm, các chú tiều lấy đất ném nó để đe dọa. Sau đó, nó không bao giờ trở lại nơi ấy nữa.

Các Tỷ-kheo nghe chuyện ấy và bắt đầu bàn tán trong Pháp đường.

– Này các Hiền hữu, con chó rừng thường làm bẩn giếng nước của chúng ta, từ khi bị các chú tiều dùng đất ném đuổi đi, đã không hề quay trở lại nữa.

Bậc Ðạo Sư đi vào và hỏi xem họ đang ngồi với nhau và thảo luận chuyện gì. Họ kể lại cho Ngài nghe. Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, đây chẳng phải là lần đầu tiên con chó rừng kia làm bẩn giếng nước. Trước kia nó cũng đã làm như thế.

Rồi Ngài kể cho họ nghe một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, chính cái giếng kia nằm tại nơi này có tên là Isipatana (Trú xứ của chư Tiên) gần Ba-la-nại. Lúc bấy giờ Bồ-tát sinh ra trong một gia đình thiện hảo. Lớn lên, ngài sống đời tu hành và cư trú tại Isipatana cùng với một nhóm người tùy tùng. Một con Chó rừng làm bẩn giếng nước như đã nói trên rồi phóng chạy đi. Một hôm, các ẩn sĩ vây bắt được nó và dẫn nó tới trước mặt Bồ-tát. Ngài nói với nó qua bài kệ đầu:

Giếng được tạo do người ẩn dật,
Ðộc cư nơi khoảng đất rừng sâu,
Nhọc nhằn khổ cực bấy lâu,
Bạn ơi, sao vấy dơ vào giếng trong?

Nghe vậy Chó rừng đọc tiếp bài kệ thứ hai:

Ðó là luật giống dòng tôi đấy,
Uống nơi nào là vấy cho dơ,
Tổ tiên làm thế đến giờ,
Lời ngài trách cứ, có ngờ sai chăng?

Bồ-tát trả lời bằng bài kệ thứ ba:

Nếu luật ấy chó rừng đã đặt,
Lạ lùng thay, phi pháp mất rồi!
Mong rằng lần cuối thấy ngươi,
Hành vi kia đúng hay sai, chớ làm.

Bậc Ðại Sĩ khuyên nhủ nó như vậy rồi bảo:

– Ðừng đến đó nữa!

Từ đó về sau, ngay cả việc dừng lại để nhìn qua giếng, con Chó rừng cũng không dám.

*

Kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế và nhận diện Tiền thân:

– Cả hai trường hợp làm dơ bẩn nước cũng đều do chính con Chó rừng ấy, còn Ta là vị sư trưởng kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Cọp (Tiền thân Vyaggha)

Nếu do gần bạn tri âm..,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ-Viên về Kokàlika.

Các tình tiết của câu chuyện này sẽ được kể trong chương mười ba và Tiền thân Takkàriya số 481. Ở đây, Kokàlika lại nói:

– Ta sẽ đem Sàriputta (Xá-lợi-phất) và Moggallàna (Mục-kiền-liên) theo với ta.

Vì thế, sau khi rời xứ sở của Kokàlika, ông ta đi đến Kỳ-Viên, vào đảnh lễ bậc Ðạo Sư rồi đi tiếp đến các vị Trưởng lão. Ông ta nói:

– Này các Hiền giả, dân chúng ở xứ của Kokàlika muốn mời các Hiền giả, chúng ta hãy đến đó đi.

– Hiền giả hãy đi đi, chúng tôi không đi đâu! Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên trả lời.

Sau lời từ chối này, Kokàlika ra đi một mình.

Các Tỷ-kheo bắt đầu bàn tán chuyện ấy trong Pháp đường:

– Này Hiền hữu, Kokàlika không thể sống với Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, và cũng không thể sống mà không có các vị ấy! Ông ta không chịu đựng nỗi sự chung đụng với họ.

Bậc Ðạo Sư bước vào và hỏi mọi người đang bàn tán chuyện gì. Họ kể lại cho Ngài nghe. Ngài dạy:

– Xưa kia, cũng như bây giờ, Kokàlika không thể sống với Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên cũng không thể sống mà không có hai vị ấy.

Rồi Ngài kể một câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi Brahmadatta làm vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là một vị thần cây sống trong một khu rừng nhỏ. Không xa trú xứ của ngài bao nhiêu, có một vị thần cây khác sống trong một rừng rậm. Khu rừng rậm này lại là chỗ ở của một con sư tử và con hổ. Vì sợ chúng, không ai dám đến đó gieo trồng hoặc đốn cây, ngay cả dừng chân liếc qua chỗ đó cũng chẳng ai dám. Sư tử và hổ ăn thịt mọi loài. Thịt ăn còn dư, chúng vứt bỏ lại rồi đi. Vì thế khu rừng đầy cả thịt bốc mùi hư thối.

Vị thần kia điên tiết lên, chẳng kể phải quấy gì nữa, một hôm đã đến nói với Bồ-tát:

– Thưa Hiền giả, cả rừng kia đầy mùi hôi thối vì con sư tử và con hổ kia. Tôi sẽ đuổi chúng đi.

Bồ-tát bảo:

– Này Hiền giả, chính hai con thú ấy đã bảo vệ chỗ ở của chúng ta đấy! Một khi chúng bị đuổi đi thì chỗ ở của chúng sẽ bị hoang tàn. Nếu người ta không thấy dấu vết của hổ và sư tử thì họ sẽ tới đốt hết rừng, làm tất cả thành một khoảng đất trống để trồng trọt. Xin Hiền giả chớ làm thế!

Rồi Ngài đọc hai bài kệ đầu:

Nếu do gần bạn tri âm,
Bình an có thể bị làm tiêu tan,
Còn gì cao trọng cho hơn
Như tròng con mắt người khôn giữ gìn.

Nhưng khi bạn tri âm thực sự
Làm tăng thêm mức độ bình an;
Hãy làm đời bạn an khang,
Hãy thương đời bạn như thương đời mình.

Tuy Bồ-tát đã giảng giải như thế, vị thần cuồng si kia cũng chẳng để tâm. Thế rồi một hôm, ông hiện hình thật khủng khiếp, đuổi sư tử và hổ đi. Chẳng bao lâu, dân chúng không thấy vết chân hai con thú kia nữa, họ đoán rằng sư tử và hổ có lẽ đã bỏ đi sang rừng khác và họ chặt đi một phía rừng. Bấy giờ, vị thần kia mới đến gặp Bồ-tát và nói:

– Ôi thưa Hiền giả, tôi đã không theo lời Hiền giả mà lại đuổi hai con thú ác kia đi. Bây giờ người ta nhận ra rằng chúng đã ra đi và họ đang đốn hạ cả khu rừng. Chúng ta phải làm gì bây giờ đây?

Thần được trả lời rằng hai con thú ấy đang sống ở một khu rừng kia, phải đến đó mà tìm chúng về. Vị thần kia làm theo như thế. Ðứng trước hai con thú, thần kính cẩn chào rồi đọc bài kệ thứ ba:

Xin quay trở lại rừng già,
Ðể rừng khỏi bị san ra đồng bằng.
Bạn đi, rìu sẽ hạ rừng,
Không rừng, mãi mãi bạn không có nhà!

Hai con thú khước từ lời thỉnh cầu và bảo:

– Ði đi, chúng tôi không đến đó đâu!

Thế là vị thần kia phải trở về một mình. Chỉ sau một vài ngày, dân chúng đã đốn hết rừng, làm thành một đồng ruộng để cày cấy trồng trọt.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế và nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ Kokàlika là vị thần cuồng si, còn vị thần trí tuệ kia là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Rùa (Tiền thân Kacchapa)

Ai kia đem bát xin ăn..,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài đang trú tại Kỳ Viên về sự tranh cãi giữa hai đại thần trong triều vua Kosala.

Các tình tiết câu chuyện giống như đã được kể ở Chương Hai, số 154 và 165.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình ở Kàsi. Khi lớn lên, ngài được giáo dục tại Takkasilà. Sau khi đã thành tựu về mọi mặt, ngài lui về sống ẩn dật trong một túp lều lá tại dãy Hy-mã-lạp Sơn (Tuyết Sơn) bên bờ sông Hằng. Nơi đây, ngài đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng. Nhờ đó, tâm ngài trở nên an lạc, đạt tới hạnh nhẫn nhục cao vời.

Bồ-tát thường tĩnh tọa ở trước lều. Bấy giờ có một chú Khỉ ngỗ nghịch, trơ láo thường đến chọc phá ngài, nhưng nó không thể nào làm cho tâm ngài dao động. Ngài vẫn ngồi tĩnh lặng an bình.

Bấy giờ có một con Rùa cái, một hôm đang nằm giữa trời, há miệng ngủ thiếp bên dòng nước. Thấy thế, Khỉ trơ tráo kia liền đến và đút ngón tay vào miệng rùa. Rùa chợt tỉnh giấc và ngậm miệng lại, cắn chặt lấy tay Khỉ. Ðến khi chịu không nổi nữa, khỉ tự hỏi: “Ta phải cầu cứu ai giải thoát cho ta khỏi sự đau đớn cực điểm này?”. Khi nghĩ được rằng chỉ còn cách đến cầu cứu Bồ-tát, nó liền mang cả con Rùa đến trước ngài. Với giọng hài hước, Bồ-tát nói với Khỉ qua bài kệ đầu:

Ai kia đem bát xin ăn,
Vốn từ đâu lại, có phần gì chăng?

Khỉ đáp lại qua bài kệ thứ hai:

Con làm quấy, thật điên khùng,
Xin ngài cứu giúp; con mong vào rừng.

Bồ-tát đọc bài kệ thứ ba tiếp lời khỉ:

Qui, Hầu hai giống vốn đồng,
Rùa ơi, tha khỉ cho xong đi nào!

Rùa nghe lời Bồ-tát thả Khỉ ra. Khỉ kính cẩn chào Bồ-tát rồi phóng biệt vào rừng. Rùa cũng xin bái biệt ra đi. Còn Bồ-tát liên tục trú vào an lạc thiền định và sau cùng lên Phạm thiên giới.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế và nhận diện Tiền thân:

– Hai ông quan nọ bấy giờ là con Khỉ và con Rùa, còn Ta là vị ẩn sĩ kia.

PHẨM BA BÀI KỆ (tt)

  1. Chuyện Tham Ăn (Tiền thân Lola)

Cô hạc này là ai thế nhỉ..,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo tham ăn và bị đưa ra trước thính đường.

Bấy giờ, bậc Ðạo Sư dạy:

– Chẳng phải bây giờ ông ấy mới tham ăn, trước kia ông ấy cũng đã vậy rồi. Tính tham ăn đã làm cho ông ấy mất mạng và cũng do thế mà các trí giả thời xưa đã bị đuổi ra khỏi nhà!

Rồi Ngài kể một câu chuyện.

*

Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, người đầu bếp của một phú thương nọ trong thành phố có treo một cái giỏ trong bếp để được công đức nhờ đó. Bấy giờ Bồ-tát là một con Bồ câu bay đến sống trong giỏ ấy.

Một con Quạ tham ăn bay ngang nhà bếp và bị lôi cuốn bởi một số lượng lớn nhiều loại cá khác nhau nằm đây đó. Quạ thấy thèm cá quá, nó tự nghĩ: “Trên thế gian này dễ gì mình kiếm được vài con cá như thế kia!” Thế rồi nó chợt nhìn thấy Bồ-tát và nó lại nghĩ: “Thế nào ta cũng phải được cá. Ta sẽ dùng tên kia làm lợi khí cho ta”. Ðể thực hiện quyết định đó, Quạ đã làm như sau đây.

Khi Bồ câu ra ngoài để kiếm thức ăn hàng ngày, Quạ liền bay theo, theo mãi rồi đến gặp nó.

– Ông muốn gì tôi thế ông Quạ? – Bồ câu nói – Ông và tôi đâu có dùng một thứ thức ăn?

– Ồ, nhưng tôi thích ông – Quạ nói – Hãy cho tôi được làm tôi tớ hèn mọn của ông và cùng đi kiếm thức ăn với ông.

Bồ-câu chấp thuận. Nhưng khi cả hai cùng đi kiếm thức ăn, Quạ chỉ giả bộ cùng ăn với Bồ câu, thỉnh thoảng nó lại quay sau mổ lấy vài miếng phân bò, gắp một hai con sâu. Khi Quạ đã no nê, nó bay lên và kêu:

– Này ông Bồ câu, đến bao giờ ông mới dùng xong bữa chứ? Ông thật chẳng hề biết điều độ là chi cả. Thôi chúng ta hãy quay về đi kẻo muộn quá rồi đấy.

Thế là chúng quay về. Khi hai con chim cùng quay về, người đầu bếp thấy Bồ câu mang theo một chim bạn liền treo lên thêm một cái giỏ nữa.

Sự việc cứ như thế trong bốn hay năm ngày. Thế rồi một số lượng cá lớn được mua vào bếp của vị phú thương. Quạ mong mỏi khát khao được một vài con! Từ lúc tờ mờ, nó đã nằm rên ầm ĩ. Ðến sáng, Bồ câu bảo Quạ:

– Này anh bạn, dậy ăn đi chứ!

– Ông cứ đi đi – Quạ nói – Tôi đang đau bụng vì ăn không tiêu đây.

Một con Quạ lại bị chứng không tiêu à? Thật là vô lý! – Bồ câu nói – Ngay cả khi một cái bấc đèn nằm trong bao tử anh, hay dù cho thứ gì đi nữa, anh vừa ăn xong là tiêu hóa trong nháy mắt. Bây giờ hãy nghe tôi đi. Chớ có làm bộ ra thế chỉ vì thấy một con cá bé!

– Sao? Thưa ông, ông bảo gì chớ? Tôi đã nói với ông là tôi đau bụng mà.

– Ðược rồi, được rồi – Bồ câu nói – Cẩn thận đấy! Và nó bay đi.

Người đầu bếp đã làm xong các đĩa thức ăn. Ông ta ra đứng trước cửa bếp lau mồ hôi. “Bây giờ là lúc của ta đây!” Quạ nghĩ thế rồi bay tới đậu trên một cái đĩa đầy cả thức ăn ngon. “Kịch… Kịch…” Người đầu bếp nghe tiếng động nhìn quanh. A! Trong chớp mắt ông ta chộp lấy Quạ, rồi nhổ trụi lông nó, chỉ còn chừa lại một cái chỏm trên đỉnh đầu. Rồi ông giã gừng, quế, trộn chung với bơ sữa rồi phết khắp mình Quạ. “Ðó là để phạt tội mày làm hư bữa ăn của chủ tao, khiến tao phải đổ đi!” Ông ta bảo thế rồi ném nó vào trong giỏ. Ôi, thực là đau đớn!

Một lát sau, Bồ câu đi kiếm ăn về. Vật đầu tiên nó thấy là chú Quạ, đang lóng cóng khổ sở. Dĩ nhiên tình cảnh trông thật nực cười! Bồ câu cảm hứng ngâm kệ như sau:

Cô Hạc này là ai thế nhỉ,
Cô đâu có thể ở nơi đây?
Ra mau! Bạn Quạ tôi gần đến,
E Quạ sẽ làm hại Hạc ngay!

Nghe thế, Quạ trả lời bằng bài kệ khác:

Không, không, chẳng Hạc chẳng ai mà,
Tên Quạ tham ăn quả thật ta.
Ta chẳng muốn làm như được dặn,
Bạn nhìn, ta bị vặt lông ra.

Và Bồ câu nói tiếp qua bài kệ thứ ba:

Tôi biết bạn còn phải muộn phiền,
Cũng do bản tính bạn gây nên.
Ai đâu để thịt mời chim nhỏ,
Khi đã dọn thành một đĩa lên?

Thế rồi Bồ câu bay đi và nói:

– Ta không thể sống với tên này được.

Và Quạ nằm đó rên la cho đến chết.

*

Kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc, vị Tỷ-kheo tham ăn kia đắc quả Nhất Lai. Và bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Vị Tỷ-kheo tham ăn ấy ngày xưa là Quạ tham ăn, còn Ta là Bồ câu.

-ooOoo-

  1. Chuyện Tham Ăn (Tiền thân Lola)

Hạc kia xinh đẹp là ai..,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo tham ăn.

Chuyện này và chuyện trước cũng chỉ là một, nhưng đây là bài kệ:

Hạc kia xinh đẹp là ai,
Cớ sao chú đến nơi đây mà nằm?
Bạn tôi, anh Quạ dữ dằn,
Tổ anh ta đó, tôi cần chú hay!
– Bạn chẳng nhận ra tôi sao bạn?
Ta cùng nhau thường vẫn đi ăn.
Chẳng làm như được bảo răn,
Nên lông bị vặt, bạn trông rõ ràng!
– Tôi biết bạn hãy còn phiền muộn,
Ðó là do tính bạn mà thôi.
Người ta làm đĩa thịt rồi,
Phải đâu là để đem mời chim ăn!

Cũng như trên, Bồ-tát nói:

– Ta không thể sống ở nơi đây nữa.

Rồi Bồ câu bay đi nơi khác.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc, vị Tỷ-kheo tham ăn kia đắc quả Nhất Lai. Và bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Vị Tỷ-kheo tham ăn kia là Quạ, còn Ta là Bồ câu.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chánh Pháp Nước Kuru (Tiền thân Kurudhamma)

Biết ngài tín hạnh cao sâu..,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo đã giết một con ngỗng trời.

Hai Tỷ-kheo kia là bạn thân với nhau, từ Xá-vệ đến đây tu học. Sau khi đã thọ đại giới, họ thường cùng nhau đi đây đó. Ngày kia, họ đến Aciravati. Sau khi tắm xong, họ đứng phơi nắng trên cát và vui vẻ trò chuyện với nhau. Lúc ấy, có hai con ngỗng trời bay ngang trên đầu họ. Một trong hai Tỷ-kheo trẻ tuổi ấy nhặt một hòn đá và nói:

– Tôi sẽ ném trúng mắt con ngỗng kia.

– Hiền hữu không thể làm thế được đâu! Người kia bảo.

– Ðược chứ!

Người thứ nhất bảo thế rồi nhặt một hòn đá có ba góc và ném theo con ngỗng. Con ngỗng quay đầu lại vì nghe tiếng vút trong không khí. Thế rồi người ấy ném tiếp một viên đá tròn để nó trúng ngay vào mắt bên này và xuyên qua mắt bên kia. Con ngỗng kêu thét lên lăn lộn mấy vòng rồi rơi xuống ngay chân họ.

Các Tỷ-kheo khác đứng gần đó trông thấy thế, chạy đến và trách người ấy:

– Thật đáng xấu hổ vì Hiền hữu đã là kẻ hành trì một Giáo pháp như đạo của chúng ta mà lại còn sát sinh như thế ư?

Thế rồi họ bắt Tỷ-kheo ấy theo họ đến trước đức Như Lai. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Có đúng như lời các Tỷ-kheo này bảo không? Ông có thực đã sát sinh không?

– Bạch Thế Tôn, quả thực như thế. Tỷ-kheo ấy đáp.

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Này Tỷ-kheo sao ông lại có thể làm như thế khi ông đã hành trì Ðại Giáo pháp giải thoát như vậy? Các bậc trí giả ngày xưa trước khi đức Phật ra đời, mặc dù phải sống đời trần tục bất tịnh, họ cũng đã sám hối về những điều rất nhỏ nhặt, thế mà ông, kẻ tu hành theo Ðại Ðạo pháp này lại chẳng biết thận trọng! Một Tỷ-kheo phải biết chế ngự mình trong việc làm, lời nói và ý nghĩ.

Rồi Ngài kể một câu chuyện.

*

Ngày xưa, khi Dhananjaya là vua xứ Indapatta trong vương quốc Kuru, Bồ-tát sanh ra là con của Chánh hoàng hậu, ngài lớn lên và được giáo dục tại Takkasilà. Khi phụ vương qua đời, ngài lên nối ngôi. Người trưởng thành trong chánh pháp Kuru, giữ đầy đủ mười bổn phận của vua. Chánh pháp Kuru chính là Ngũ giới mà Bồ-tát rất tinh cần tuân phục trọn vẹn. Cũng như Bồ-tát, Thái hậu, Vương hậu, các vương đệ, Phó vương, người tu tại gia, Bà-la-môn, người nài coi thú, quan lại, người đánh xe, người thủ kho, người chủ vựa thóc, nhà quý tộc, người gác cổng, nàng kỹ nữ, người nữ tỳ, ai ai cũng đều tuân theo giới luật.

Từ vua, Thái hậu kể đi,
Lại thêm Hoàng hậu, kế vì Phó vương,
Thấy tế tự, kẻ coi lương,
Người nài, cùng kẻ trên đường đánh xe,
Người coi kho báu chuyên bề,
Thêm người gác cổng, ả nghề phấn son.
Mười người lẻ một vừa tròn,
Kuru chánh pháp cung tôn, giữ gìn.

Như vậy tất cả những người này đều chuyên tâm tuân trì Ngũ giới. Nhà vua cho xây sáu nhà bố thí: Bốn nhà ở bốn cổng thành, một nhà ở trung tâm thành phố và một nhà ở ngay trước cung vua. Mỗi ngày ngài phát tới 600.000 đồng tiền bố thí. Toàn cả nước Ấn Ðộ đều phấn chấn và đâu đâu cũng tràn đầy tình yêu thương, đức từ bi hoan hỷ của nhà vua.

Vào thời kỳ ấy, có một vị vua tên là Kàlinga ở thành Dantapura, trong vương quốc Kàlinga. Trong nước ấy, đã lâu trời không mưa. Do hạn hán nên phát sinh nạn đói. Dân chúng nghĩ rằng thiếu lương thực có thể gây nên dịch tả và họ sợ hạn hán, sợ đói khát. Ba mối lo ấy thường xuyên ám ảnh họ. Dân chúng tay dắt con thơ, cùng khổ lang thang đây đó. Rồi tất cả tụ họp lại kéo đến Dantapura, đứng trước cung vua mà kêu than.

Nhà vua đang đứng bên cửa sổ, nghe tiếng ồn ào mới hỏi vì sao dân chúng lại náo động như thế. Ngài được trả lời:

– Ôi, tâu Ðại vương, ba điều đáng sợ đã trùm lên vương quốc của ngài. Trời không mưa xuống, mùa màng hư hại, nạn đói phát sinh. Dân chúng đói khát, mệt mỏi bần cùng, tay dắt con thơ, lang thang khắp chốn! Tâu Ðại vương, xin ngài hãy làm sao cho có mưa!

Nhà vua hỏi:

– Các tiên vương thường phải làm gì khi không có mưa?

– Tâu Ðại vương, nếu trời không mưa thì các tiên vương thường bố thí, giữ ngày trai giới, phát nguyện làm lành, nằm suốt bảy ngày trong phòng, trên đệm cỏ: như thế thì trời sẽ mưa.

– Ðược lắm.

Vua bảo và làm theo như thế.

Dẫu vậy, trời vẫn không mưa. Bấy giờ ngài phán bảo các triều thần:

– Các khanh bảo ta thế nào, ta đều làm thế ấy, vậy mà sao trời vẫn không mưa! Ta còn phải làm sao nữa đây?

– Tâu Ðại vương, trong thành Indapatta có một con voi chúa tên là Anjana-Vasabho-Hắc tượng công. Ðó là con voi của Dhananjaya, vua xứ Kuru. Ta hãy tìm nó đem về thì trời sẽ mưa ngay!

– Nhưng sao ta có thể làm thế được? Dễ gì đánh bại được nhà vua và quân đội của ông ta?

– Tâu Ðại vương, chẳng cần phải đánh nhau với ông ta. Vua ấy rất thích bố thí. Hễ ai xin cái gì, vua đều cho ngay. Ông còn có thể cắt cả cái đầu tôn nghiêm, móc cả đôi mắt từ ái, ngay cả đến ngai vàng của ông để bố thí nữa; huống chi một con voi, ta chẳng cần phải năn nỉ nhiều, ông ta cũng cho nó ngay.

– Nhưng ai có thể đến xin vua ấy? Nhà vua hỏi.

– Tâu Ðại vương, các Bà-la-môn.

Nhà vua chỉ định tám Bà-la-môn từ một ngôi làng Bà-la-môn với mọi nghi lễ trịnh trọng gởi họ đi xin voi. Họ mang theo lệ phí, mặc quần áo lữ hành, không nghỉ đêm tại một nơi nào cả mà cứ đi mãi cho đến vài ngày sau, họ đã dùng bữa tại nhà phát chẩn trước cổng thành. Sau khi đã ăn uống đầy đủ, họ hỏi:

– Khi nào đức vua đến nhà phát chẩn?

Họ được trả lời:

– Cứ mỗi nửa tháng, ngài đến đấy ba ngày: Rằm, mười bốn, mồng tám. Ngày mai là rằm, trăng tròn, thế nào ngài cũng sẽ đến.

Vì thế rạng ngày hôm sau, các Bà-la-môn đến đó theo lối vào cổng phía đông. Bồ-tát tắm rửa, xức dầu thánh, phục sức trang điểm cực kỳ cao sang ngự trên một con voi được tô điểm cân đai rực rỡ. Ngài cùng với một đoàn tùy tùng đến nhà phát chẩn ở cửa đông. Tại đó ngài xuống voi và tự tay bố thí thức ăn cho bảy, tám người.

– Hãy bố thí như thế này.

Ngài bảo thế rồi ngự lên voi, tiến về phía cửa nam.

Ở cửa phía đông, các Bà-la-môn không có cơ hội gặp ngài do lực lượng cận vệ ngăn cản, vì thế họ phải đi về phía cửa nam và chờ nhà vua đến. Khi vua đến một bãi đất cao gần cổng thành, họ giơ cao tay và kính cẩn tung hô ngài. Vua thúc gậy nhọn vào voi để đưa nó đến chỗ họ đứng.

– Chào các Bà-la-môn, các vị muốn gì? Vua hỏi.

Các Bà-la-môn tuyên dương đức độ của Bồ-tát qua bài kệ đầu:

Biết ngài tín hạnh cao sâu,
Chúng tôi đến để mong cầu ngài đây:
Chỉ vì muốn có voi này,
Chúng tôi tiêu hết tiền tài quốc gia.

Nghe thế, Bồ-tát bảo:

– Này các Bà-la-môn, nếu tất cả tài sản của quý quốc lâu nay đã cạn kiệt để mong có được con voi này thì xin chớ ngại gì. Ta sẽ hiến nó cho quý vị cùng với tất cả những đồ trang sức xa hoa của nó.

Nói xong, ngài đọc hai bài kệ này:

Các người có làm sao chăng ấy,
Ta vẫn theo thầy dạy ngày xưa:
Hễ ai đã đến với ta,
Ta luôn chào đón, thiết tha mọc mời!

Trao quý vị thớt voi quà tặng
Ðáng một phần tài sản quân vương,
Voi đây, trang phục, xích vàng,
Và nài, mọi thứ, hãy mang trở về.

Bậc Ðại Sĩ bảo thế, vừa bước lên lưng voi rồi lại bước xuống và bảo các Bà-la-môn:

– Nếu trên mình voi có chỗ nào chưa được trang sức, ta sẽ trang sức chỗ ấy rồi mới trao voi cho quý vị.

Ngài đi quanh con vật ba lần, xem xét mọi chỗ mà vẫn không thấy chỗ nào là không được trang sức. Bấy giờ, ngài trao vòi voi vào trong tay các Bà-la-môn. Ngài dùng nước hoa đựng trong một cái bình bằng vàng rất đẹp tưới vào con vật rồi trao nó cho các Bà-la-môn. Họ nhận voi với đủ đồ trang sức của nó, rồi họ ngồi lên lưng voi cỡi về Dantapura và trao nó cho vua của họ. Nhưng, mặc dầu con voi đã về tới, trời vẫn chưa mưa.

Thế rồi, nhà vua lại hỏi:

– Sao lại thế nhỉ?

Vua được trả lời:

– Dhananjaya, vua Kuru, tuân theo chánh pháp Kuru, do đó, trong vương quốc của ông ta trời mưa cứ mỗi mươi hay mười lăm ngày. Ðó là do uy lực đức hạnh của ông ấy. Nếu con voi này có điều tốt thì cái tốt ấy cũng còn quá ít!

Bấy giờ, vua bảo:

– Hãy đem con voi này trang sức đủ mọi thứ của nó như cũ rồi đem trả nó lại cho ông vua ấy; đồng thời hãy lấy một tấm bảng bằng vàng, viết lên đó chánh pháp Kuru mà ông ta đã hành trì rồi mang về đây.

Nói xong, vua phái các Bà-la-môn và các cận thần ra đi.

Ðoàn người đến trước vua kia, giao trả con voi lại và thưa:

– Tâu Chúa thượng, dù con voi của ngài đã đến với chúng tôi, trời vẫn không mưa. Người ta bảo rằng ngài tuân theo chánh pháp Kuru, vua chúng tôi cũng muốn chấp trì chánh pháp ấy, do đó, ngài sai chúng tôi đến đây chép chánh pháp ấy lên trên một tấm bảng bằng vàng rồi mang về cho ngài. Xin chúa thượng đọc cho chúng tôi chánh pháp này.

– Này các hiền hữu – nhà vua bảo – Thực ra ta cũng đã có lần hành trì chánh pháp ấy, nhưng giờ đây, ta lại đang nghi ngờ về chính điều này. Chánh pháp ấy giờ đây không làm cho tâm ta an lạc, vì thế ta không thể trao cho các bạn.

Các bạn có thể hỏi rằng tại sao đức độ không làm cho nhà vua an lạc nữa. Này hãy nghe đây: Mỗi ba năm một lần, vào tháng Kattika các vua chúa thường tổ chức một buổi lễ gọi là Kattika (lễ hội rằm tháng mười âm lịch).

Lúc dự lễ hội, các vua chúa thường trang sức thật lộng lẫy và phục sức giống các vị thần. Họ đứng trước mặt quỷ Dạ-xoa Cittaràja, là vua của muôn màu, và họ dùng những cây cung được trang hoàng bằng những tràng hoa được tô vẽ đủ màu để bắn đi bốn phương trời.

Bấy giờ, vị vua kia đi dự lễ đứng một bên cái hồ, trước mặt quỷ Cittaràja và bắn tên đi bốn phương. Mọi người đều nhìn thấy chỗ rơi của ba mũi tên đã được bắn đi, còn mũi tên thứ tư, vì đã được bắn phía trên mặt nước nên không ai trông thấy nó rơi vào đâu cả. Nhà vua tự nghĩ: “Có thể mũi tên của ta rơi xuống nước, trúng vào một con cá!” Vì nghi ngờ như thế, tội sát sanh đã tạo một vết nhơ trong đức hạnh của ngài. Và do đó, đức hạnh của ngài không làm cho tâm ngài an lạc như trước nữa.

Kể xong chuyện, vua nói thêm:

– Này các bạn, ta đang nghi ngờ về chính ta, không biết ta có giữ chánh pháp Kuru hay không. Nhưng mẹ ta chấp trì rất tinh chuyên, các bạn có thể đến hỏi bà.

– Nhưng, tâu Ðại vương – họ nói – Ngài không hề có ý định sát sinh. Ðã không có ý định trong lòng thì không thể gọi là sát sinh được. Xin ngài hãy đọc cho chúng tôi nghe chánh pháp Kuru mà ngài đã chấp trì.

– Thế thì chép đi!

Vua bảo thế rồi bảo cho họ chép trên tấm bảng vàng.

– Chớ sát sinh, chớ lấy của không cho, chớ tà dâm, chớ nói dối, chớ uống rượu mạnh.

Rồi ngài nói thêm:

– Tuy thế chánh pháp ấy không làm cho ta an lạc, quý vị hãy đến học hỏi mẹ ta.

Các sứ giả chào vua rồi đến yết kiến Thái hậu. Họ nói:

– Thưa lệnh bà, chúng tôi được nghe rằng lệnh bà chấp trì chánh pháp Kuru, xin lệnh bà truyền dạy nó cho chúng tôi.

Thái hậu bảo:

– Các con ạ, thực ra, ta cũng đã từng chấp trì chánh pháp này, nhưng giờ đây, ta lại đang có những nỗi ngờ. Chánh pháp này không làm ta hạnh phúc, cho nên ta không thể trao truyền nó cho các con được!

Bấy giờ ta biết được Thái hậu có hai con trai, con lớn đang là vua và con kế là phó vương. Một vị vua gởi đến Bồ-tát những thứ dầu thơm làm bằng loại trầm rất quý, trị giá một trăm ngàn đồng và một cái vòng đeo cổ bằng vàng cũng trị giá một trăm ngàn đồng. Bồ-tát nghĩ rằng nên làm vinh dự mẹ, nên ngài gởi cả hai thứ cho mẹ ngài. Thái hậu tự nghĩ: “Ta không xức dầu thơm bằng gỗ trầm, cũng chẳng đeo vòng cổ, vậy ta nên gởi các thứ này cho vợ của các con ta”. Rồi bà lại nghĩ: “Vợ của con trưởng ta lại là Hoàng hậu, nàng là chánh hậu, ta nên gởi cho nàng chiếc vòng cổ bằng vàng, còn vợ của con thứ ta thì nghèo, ta nên gởi cho nàng hương trầm”. Thế là một người bà cho vòng cổ, người kia bà cho hương trầm. Sau đó bà chợt nghĩ: “Ta chấp trì chánh pháp Kuru thì đối với ta, họ nghèo hay không nghèo đâu có thành vấn đề? Có thể rằng ta đã tỏ ra thương yêu đặc biệt con trưởng; như thế thì không thích hợp. Và có thể do thế, ta đã làm tì ố đức hạnh của ta”. Thế là Thái hậu bắt đầu nghi ngờ. Ðó là lý do vì sao bà đã nói như trên.

Các sứ giả nói:

– Một khi thứ gì đã ở trong tay lệnh bà, lệnh bà muốn cho thế nào tùy ý. Một chuyện quá nhỏ nhặt như thế kia mà lệnh bà còn nghi ngại thì làm sao lệnh bà sẽ gây một tội lỗi nào được? Ðức hạnh không bị rạn vỡ vì một điều như thế đâu! Xin lệnh bà hãy truyền cho chúng tôi chánh pháp xứ Kuru.

Thế là họ được Thái hậu truyền chánh pháp và họ chép vào tấm bảng vàng.

– Các con ạ – Thái hậu bảo – tuy vậy, ta cũng chẳng hạnh phúc trong chánh pháp này. Nhưng con dâu ta vẫn tuân phục giới luật rất chuyên nhất, hãy đến hỏi nàng đi!

Thế rồi họ kính cẩn từ giã Thái hậu và đến hỏi xin Hoàng hậu theo cách như trên. Và cũng như trên, bà bảo:

– Ta không thể truyền chánh pháp ấy được vì chính ta đây cũng không chấp trì nó nữa.

Bấy giờ, một hôm Hoàng hậu đang ngồi ở cửa mắt cáo nhìn xuống, bà thấy nhà vua đang tham dự một cuộc diễn hành long trọng quanh kinh thành. Phó vương ngồi trên lưng voi, đằng sau ngài. Bà cảm thấy yêu vị Phó vương và tự nghĩ: “Nếu ta làm bạn với chàng và khi anh chàng mất, chàng sẽ lên làm vua và lấy ta làm vợ thì sao?

Thế rồi, bà chợt nghĩ: “Ta là kẻ chấp trì chánh pháp Kuru, ta lại là kẻ đã có chồng, thế mà ta lại còn để mắt yêu thương một người đàn ông khác. Ðây hẳn là một tì vết trong đức hạnh của ta!”. Hoàng hậu cứ ray rứt ân hận mãi. Bà đã kể cho sứ giả nghe điều này.

Nghe xong, họ bảo:

– Tội lỗi không phải chỉ là sự phát khởi một ý nghĩ. Nếu chỉ vì việc quá nhỏ nhặt như thế mà lệnh bà thấy hối hận, thì lệnh bà đâu có thể phạm tội lỗi nào được? Ðức hạnh không thể bị rạn nứt vì một chuyện quá nhỏ nhặt như thế đâu! Xin hãy truyền chánh pháp Kuru cho chúng tôi.

Thế là Hoàng hậu đọc chánh pháp và họ chép nó vào tấm bảng vàng. Nhưng Hoàng hậu bảo:

– Này quí vị, tuy thế đức hạnh của ta cũng không được hoàn hảo. Nhưng vị phó vương vẫn tuân trì giới luật rất tinh chuyên. Hãy đến nơi ngài mà hỏi.

Thế là đoàn người lại đến với vị phó vương và cũng hỏi xin ngài chánh pháp Kuru như trước. Phó vương vẫn thường mang theo đoàn tùy tùng đến hầu cận vua vào mỗi buổi chiều. Khi xe ngài và đoàn tùy tùng đến sân cung điện, nếu ngài muốn dùng cơm với nhà vua và ngủ đêm tại cung điện, thì ngài sẽ gác dây cương và roi ngựa trên ách xe; đấy là dấu hiệu cho các tùy tùng lui ra và sáng hôm sau họ sẽ trở lại đứng chờ ngài ra đi, còn người đánh xe sẽ ở lại trong xe và mang xe trở lại thật sớm chờ ngài ở cổng cung vua. Nhưng nếu phó vương muốn ra đi ngay sau đó thì ngài để dây cương và roi ngựa trong xe rồi vào yết kiến nhà vua. Rồi đám tùy tùng nhìn thấy dấu hiệu rằng ngài sẽ ra đi ngay, phải đứng chờ ngài trước cổng cung điện.

Một hôm, ngài làm như thế rồi vào yết kiến vua. Nhưng khi ngài vào bên trong thì trời bắt đầu mưa. Vua thấy thế nên không chịu cho ngài ra đi. Do đó, ngài cũng dùng cơm rồi ngủ tại cung điện. Nhưng đoàn tùy tùng đứng chờ phó vương bên ngoài vẫn phải đứng đó suốt đêm trong mưa.

Ngày hôm sau, khi ngài đi ra và thấy cả đám người ướt át đang đứng đó, ngài tự nghĩ: “Ta là kẻ chấp trì chánh pháp Kuru, thế mà ta lại để cho đám người này phải khổ nhọc! Chắc chắn đây là một tỳ vết trong đức hạnh của ta!” Ngài cứ bứt rứt hối hận mãi. Vì thế, ngài bảo các sứ giả:

– Giờ đây ta vẫn nghi ngờ không biết mình có thực sự chấp trì chánh pháp không. Do đó ta không thể truyền nó cho quí vị được.

Rồi ngài kể cho họ nghe vấn đề ấy.

Nghe thế, họ bảo:

– Nhưng ngài đã không hề có ý định làm khổ nhọc những người kia. Ðiều gì không do ý định thì không được kể là tội lỗi. Nếu vì một việc nhỏ nhặt như thế mà ngài còn cảm thấy hối hận thì ngài có thể phạm tội gì được?

Thế rồi họ được phó vương truyền chánh pháp này và họ chép nó vào tấm bảng vàng. Ngài lại nói:

– Tuy thế, chánh pháp này còn khiếm khuyết trong ta. Nhưng vị tế sư của ta vẫn chấp trì nó rất tinh chuyên, hãy đến gặp vị ấy mà xin hỏi.

Thế là sứ giả lại đến đó gặp vị tế sư.

Bấy giờ vị tế sư một hôm đến chầu vua; dọc đường ông trông thấy một chiếc xe màu sặc sỡ như mặt trời ban mai, đó là một chiếc xe do một vị vua nọ gửi đến cho vua.

– Xe của ai thế?

Ông hỏi và được trả lời:

– Xe gửi đến cho đức vua đấy!

Thế rồi ông tự nghĩ: Ta đã già rồi, nếu vua cho ta chiếc xe kia để ta dùng thì hay biết bao!

Khi đến yết kiến vua, ông chúc tụng rồi đứng một bên. Bấy giờ chiếc xe được mang lại cho vua. Vua bảo:

– Chiếc xe đẹp quá, hãy trao tặng thầy ta đi.

Nhưng vị giáo sĩ không thích nhận; dù được nài nỉ nhiều lần, ông cũng vẫn không là không! Tại sao như vậy? Bởi vì ông nghĩ: “Ta là kẻ hành trì chánh pháp Kuru mà lại còn ham muốn của cải người khác, chắc chắn đây là một tỳ ố trong đức hạnh của ta”.

Ông kể chuyện cho các sứ giả nghe và nói thêm:

– Các con ạ, ta đang nghi ngờ chánh pháp Kuru; chánh pháp này giờ đây không làm cho ta an lạc, do đó ta không thể truyền dạy cho các con được.

Nhưng các sứ giả bảo:

– Một chút phát khởi tham dục không thể làm rạn nứt đức hạnh được. Nếu ngài cảm thấy ngần ngại về một điều nhỏ nhặt như thế kia thì ngài đâu có thể gây nên một tội lỗi thực sự nào được?

Thế là họ được ông truyền đọc giới luật và họ chép vào tấm bảng vàng.

– Tuy thế, thiện pháp này giờ đây chẳng làm cho ta an lạc – Vị giáo sĩ bảo – nhưng người quản tượng của hoàng gia vẫn hành trì nó rất cẩn trọng. Hãy đến hỏi ông ta.

Thế là các sứ giả tìm đến hỏi người quản tượng

Một hôm, người quản tượng đang đo một cánh đồng. Ông buộc sợi dây thừng vào một cái cọc và đưa một đầu dây cho người chủ đất cầm, còn ông cầm đầu dây kia. Cây cọc ở cuối sợi dây và ông cầm tới ngay một cái hang cua. Ông tự nghĩ: “Nếu ta cắm cọc vào lỗ thì con cua trong lỗ sẽ bị thương. Nếu ta cắm cọc vào phía bên kia lỗ thì tài sản của nhà vua sẽ bị thiệt và nếu ta đặt cọc phía bên này lỗ thì người điền chủ sẽ bị thiệt. Phải làm sao đây?” Thế rồi ông lại nghĩ: “Con cua hẳn phải ở trong lỗ này, nhưng nếu nó ở trong đó thì nó phải tự lộ ra chứ” Thế là ông ta cắm cọc vào lỗ. Bên trong, con cua phát ra tiếng “cạch”! Ông liền nghĩ: “Chắc hẳn cây cọc đã đâm lên mình cua và rõ ràng là ta đã giết chết nó. Ta là kẻ tuân trì chánh pháp Kuru và nay ta đã gây tỳ ố vào đó rồi!”

Người quản tượng thuật cho các sứ giả nghe như thế và nói thêm:

– Vì vậy, tôi đang nghi ngờ về chánh pháp ấy, tôi không thể trao nó cho quí vị được!

Các sứ giả nói:

– Ông đã không cố ý muốn giết con cua. Làm điều gì mà không cố ý thì không phải tội lỗi. Nếu chỉ vì một chuyện quá nhỏ nhặt như thế kia mà ông còn cảm thấy e ngại thì ông đâu có thể gây một tội lỗi thực sự nào được?

Thế rồi họ được người quản tượng truyền chánh pháp và họ chép vào tấm bảng vàng. Ông ta lại nói:

– Tuy giới luật này không làm cho tôi an lạc, người đánh xe vẫn hành trì nó rất tinh chuyên, quí vị hãy đến hỏi ông ấy đi!

Vì thế đoàn người từ giã để đến gặp người đánh xe.

Bấy giờ một hôm ông ta đánh xe đưa nhà vua đến hoa viên. Nơi đây vua thưởng ngoạn suốt ngày, đến chiều mới trở lại và bước lên xe ra về. Nhưng, vào lúc hoàng hôn, trước khi về đến thành phố, một cơn dông đổ xuống. Người đánh xe sợ nhà vua có thể ướt, ra roi quất vào đôi ngựa quý và chúng phóng thật nhanh về nhà.

Từ đó về sau, trên đường đi đến hoa viên hay từ hoa viên trở về, hễ ngang quãng đó là đôi ngựa phóng nhanh lên. Tại sao vậy? Bởi chúng nghĩ rằng hẳn phải có cái gì nguy hiểm ở quãng đó cho nên người đánh xe tự nghĩ: “Nếu đức vua có bị ướt hay không, thì đó đâu phải lỗi của ta? Thế mà một lúc không đáng, ta ra roi quất vào đôi ngựa quý vốn được luyện tập thuần thục này, khiến chúng cứ phải cố hết sức phóng nhanh lên, cố sức mãi cho đến khi mệt nhoài, đó là tại ta cả! Ta là kẻ tuân trì chánh pháp Kuru, chắc chắn đây là một tỳ vết xấu rồi!

Người đánh xe thuật chuyện cho các sứ giả nghe và bảo:

– Vì lý do như vậy mà tôi nghi ngại về chánh pháp ấy và không thể truyền nó cho quý vị.

Các sứ giả nói:

– Nhưng ông chẳng cố ý làm mệt các con ngựa kia; làm việc gì không cố ý thì không phải là tội lỗi. Nếu chỉ vì một việc quá nhỏ nhặt như thế kia mà ông còn cảm thấy e ngại thì ông đâu có thể gây nên một tội lỗi thực sự nào được?

Thế là các sứ giả được người đánh xe đọc chánh pháp ấy và họ chép nó vào tấm bảng vàng. Nhưng người đánh xe lại đề nghị họ tìm đến một vị trưởng giả kia và nói:

– Tuy chánh pháp này không làm cho tôi an lạc, ông ta vẫn chấp trì nó rất cẩn trọng.

Các sứ giả lại đến gặp các vị trưởng giả và hỏi xin chánh pháp. Bấy giờ vị trưởng giả một hôm ra thăm đồng lúa, thấy một chùm bông lúa nở nứt vỏ, ông đến cột túm lại bằng một túm lúa; và lấy một nắm cột vào một cây gậy. Thế rồi ông chợt nghĩ: “Do từ cánh đồng này, ta phải dâng đức vua số lợi tức của ngài! Thế mà ta lại lấy đi một nắm lúa từ một thửa ruộng chưa chín! Ta là kẻ tuân trì chánh pháp Kuru, chắc chắn ta đã phá vỡ nó rồi!” Ông ta kể chuyện cho các sứ giả và bảo:

– Giờ đây, tôi đang nghi ngại về pháp ấy, do đó tôi không thể truyền cho quí vị được.

Các sứ giả nói:

– Nhưng ông đã không hề có ý lấy cắp, không có ý nghĩ ấy thì không thể bị kết tội ăn cắp. Nếu ông cảm thấy ân hận chỉ vì một việc nhỏ nhặt như thế kia thì làm sao mà ông có thể lấy những gì của kẻ khác?

Thế là họ được vị trưởng giả đọc chánh pháp ấy và họ chép nó vào tấm bảng vàng. Vị trưởng giả nói thêm:

– Mặc dầu tôi chẳng được sung sướng trong việc này, vị giữ kho thóc của nhà vua chấp trì giới luật này rất tinh chuyên. Hãy đến hỏi ông ấy.

Thế là các sứ giả đến hỏi xin viên chức coi kho thóc.

Bấy giờ một hôm ông này đang ngồi trước cửa kho lo việc đếm số thóc nộp thuế cho vua, đã bốc một hột thóc chưa được đong và bỏ nó riêng ra để làm dấu. Lúc ấy mưa bắt đầu rơi. Ông vội đếm các hột thóc dùng để làm dấu xem bao nhiêu và quét gom lại rồi bỏ chúng vào đống thóc đã được đong đếm. Sau đó ông vội chạy vào ngồi trong nhà người giữ cổng: “Ta đã bỏ các hột thóc dùng làm dấu kia vào đống thóc được đong đếm hay vào đống thóc chưa đong đếm nhỉ?”. Ông tự hỏi như vậy và chợt nghĩ: “Nếu ta đã bỏ các hột thóc ấy vào đống thóc đã được đong đếm, thì phần của vua được tăng lên và các chủ điền lại bị thiệt. Ta là kẻ chấp trì chánh pháp Kuru, và nay ta đã có tỳ vết xấu rồi!”.

Vì thế ông ta thuật cho các sứ giả nghe chuyện này và nói thêm rằng vì ông ta nghi ngại về pháp ấy nên không thể truyền nó cho họ. Nhưng các sứ giả nói:

– Ông không có ý định lấy trộm và nếu không có ý định ấy thì không thể bị kết tội là gian dối. Nếu chỉ vì một việc quá nhỏ nhặt như vậy mà ông còn e ngại thì ông đâu có thể lấy đồ vật gì của ai?

Thế là các sứ giả được viên chức coi kho thóc truyền chánh pháp và họ chép nó vào tấm bảng vàng. Ông ta nói thêm:

– Tôi không giữ được toàn vẹn giới đức nhưng người gác cổng tuân trì nó rất tinh chuyên. Hãy đến ông ấy mà hỏi.

Thế là các sứ giả ra đi và đến hỏi người gác cổng.

Bấy giờ người gác cổng, một đêm vào giờ đóng cổng thành, đã gọi lớn lên ba lần. Một người nghèo khổ kia đang lượm củi, lượm lá trong rừng với cô em gái út, nghe tiếng gọi vội cùng em chạy lại. Người gác cổng nói:

– Này anh, há không biết nhà vua đang ở trong thành sao? Anh há không biết rằng đã đến giờ đóng cổng thành sao, thế mà anh lại đi vào trong rừng làm chuyện yêu đương!

Người kia đáp:

– Không đâu, thưa ông, đây không phải vợ tôi mà là em gái tôi.

Người gác cổng chợt nghĩ: “Bảo cô em gái là vợ thì thật là sàm sỡ quá! Ta là kẻ chấp trì giới luật Kuru, rõ ràng giờ đây ta đã phá vỡ nó rồi!” Ông kể chuyện cho các sứ giả và nói thêm:

– Như thế, tôi đang nghi ngờ không biết rằng tôi có thực sự chấp trì chánh pháp Kuru hay không, do đó tôi không thể truyền nó cho quý vị.

Nhưng các sứ giả bảo:

– Ông đã nói như thế vì ông nghĩ như thế, điều ấy không làm rạn vỡ đức hạnh của ông. Nếu ông cảm thấy hối hận vì một điều quá nhỏ nhặt như thế kia thì ông đâu có thể nào buông một lời dối trá?

Thế là họ được người gác cổng đọc các giới hạnh ấy và họ chép chúng vào tấm bảng vàng.

Thế rồi người gác cổng bảo:

– Tuy giới luật này chẳng làm tôi an lạc, nàng kỹ nữ kia lại chấp trì nó rất tinh chuyên, quí vị hãy đến hỏi nàng. Các sứ giả làm theo như vậy. Nàng đã từ chối như những người đã kể trên kia vì lý do sau đây: Sakka, Ðế Thích, Thiên chủ, muốn thử đức độ của nàng, liền hóa ra một chàng trai đến trao cho nàng một ngàn đồng tiền và nói:

– Lát nữa tôi sẽ trở lại.

Thế rồi ngài trở về trời và suốt ba năm không xuống thăm nàng. Còn nàng, vì danh dự, cũng suốt ba năm không nhận dù chỉ một miếng trầu từ bất cứ người đàn ông nào cả. Dần dần, nàng trở nên nghèo khó, rồi nàng tự nghĩ: “Người đàn ông cho ta một ngàn đồng kia đã ba năm nay không hề trở lại, và giờ đây ta trở nên nghèo khó. Ta không thể giữ gìn cả xác thân và tâm hồn cùng một lúc, nay ta phải đến kể cho ngài phán quan và sẽ kiếm tiền như trước đây”. Thế là nàng đến pháp đường và bảo:

– Cách đây ba năm, có một người đàn ông đến cho tôi một ngàn đồng rồi chẳng hề trở lại; tôi không biết ông ta đã chết rồi hay chưa. Tôi không thể giữ trọn vừa thân xác vừa linh hồn được. Thưa ngài, tôi phải làm sao đây?

Vị phán quan trả lời:

– Nếu đã ba năm mà ông ta không trở lại thì cô phải làm gì ư? Hãy kiếm tiền như trước kia đi!

Ngay sau khi nàng rời pháp đường với lời phán quyết kia, một người đàn ông đến trao tặng nàng một ngàn đồng. Trong khi nàng đang đưa tay lấy thì Ðế Thích hiện thành chàng trai nọ. Nàng bảo:

– Ðây là người đã cho tôi một ngàn đồng ba năm trước đấy tôi không nên lấy tiền của ông ta.

Rồi nàng rụt tay lại.

Bấy giờ, Ðế Thích hiện nguyên hình của mình rồi bay lên không, sáng rỡ như mặt trời ban mai và gọi cả thành phố tụ tập lại. Ðứng giữa đám đông, Ðế Thích nói:

– Ðể thử lòng tốt của nàng, cách đây ba năm, ta đã cho nàng một ngàn đồng. Hãy làm như nàng, hãy giữ lấy danh dự của các người như nàng đã từng giữ danh dự của nàng.

Sau lời khuyên bảo ấy, ngài ban cho nhà nàng tràn ngập những châu ngọc đủ bảy loại và nói:

– Từ nay, hãy tỉnh giác hộ phòng.

Ngài khuyến dụ nàng như thế rồi bay lên trời. Vì câu chuyện trên đây nàng kỹ nữ đã từ chối truyền giới luật cho các sứ giả và nói:

– Bởi vì trước kia tôi đã nhận tiền của một người, thế mà sau đó lại đưa tay ra muốn nhận tiền của một kẻ khác, thế là đức hạnh của tôi không được toàn hảo. Do đó tôi không thể trao giới luật cho quý vị được.

Nghe thế, các sứ giả bảo:

– Mới chỉ đưa tay ra thì không xâm phạm gì đến đức hạnh, đức hạnh kia của cô thật là toàn hảo đệ nhất!

Và như vậy, nàng kỹ nữ là người sau cùng đã truyền giao các giới đức cho các sứ giả và họ đã chép chúng vào tấm bảng vàng. Họ mang tấm bảng vàng với các giới luật về thành Dantapura và thuật cho vua nghe mọi chuyện trong chuyến đi vừa qua.

Thế rồi vua Dantapura thực hành theo các giới luật Kuru và tuân theo Ngũ giới. Bấy giờ trong khắp vương quốc Kàlinga, đâu đâu cũng có mưa rơi xuống; ba mối lo sợ kia đã giảm đi, đất đai trở nên màu mỡ tốt tươi. Bồ-tát suốt đời bố thí, hành thiện rồi về sau cùng với quần thần đi lên làm đông đảo các cõi trời.

*

Khi kể xong pháp thoại này, bậc Ðạo sư tuyên thuyết Tứ Ðế và giải thích Tiền thân. Ở phần kết thúc Tứ Ðế, nhiều người đắc quả Dự Lưu, nhiều người đắc quả Nhất Lai, nhiều người đắc quả Bất Lai và nhiều người đắc quả A-la-hán. Và Tiền thân được bậc Ðạo Sư nhận diện như sau:

– Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) là nàng kỹ nữ, Punna là người gác cổng thành, người quản tượng là Kuccàna, Kolita là người coi vựa thóc, vị trưởng giả là Sàriputta, người lái xe là Anuruddha (A-na-luật), vị tế sư là trưởng lão Kassapa (Ðại Ca-diếp); Phó vương là Nandapandita; mẹ của Ràhula (La-hầu-la) là chánh hậu, thái hậu là bà Mayà, còn vị vua Bồ-tát là Ta. Tiền thân rõ ràng là như thế.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chim Bồ Câu (Tiền thân Romaka)

Dãy đồi này năm mươi năm lẻ một..,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Trúc-Lâm về một mưu toan giết hại.

Các chi tiết của chuyện được diễn ta như sau:

*

Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh làm một con Bồ câu, sống với một đàn bồ câu đông đúc ở giữa khu rừng trong một cái động ở dãy đồi. Có một nhà tu khổ hạnh rất đức độ đến dựng một túp lều để ở, bên trong một cái động khác của dãy đồi, gần bìa làng, không xa chỗ ở của đàn bồ câu. Bồ-tát thường đến thăm và được nghe những lời dạy quí giá.

Sau khi sống ở đó một thời gian dài, nhà tu khổ hạnh ra đi. Bấy giờ lại có một người giả làm một nhà tu khổ hạnh đến đó ở. Bồ-tát cũng cùng cả đàn bồ câu đến viếng thăm, kính cẩn chúc tụng người ấy. Ðàn chim cứ nhảy nhót suốt ngày quanh chỗ của người ẩn dật, mổ đồ ăn trước cửa động và đến chiều mới bay về nhà. Người tu khổ hạnh giả mạo kia sống ở đó hơn năm mươi năm.

Một hôm, người làng đến cho ông một số thịt bồ câu đã được nấu chín. Ông rất thích mùi vị ấy và hỏi xem đó là thịt gì thì được trả lời là thịt bồ câu. Ông tự nghĩ: “Từng đàn chim Bồ câu thường đến nơi trú ẩn của ta, ta phải giết vài con để ăn mới được”.

Thế là ông ta lấy gạo, bơ, sữa, ngò, tiêu và để sẵn sàng. Ông dấu một cái gậy trong chéo áo, ngồi trước cửa lều và chờ bầy chim bồ câu đến.

Khi Bồ-tát bay đến cùng đàn bồ câu, ngài phát hiện được việc ác mà người tu khổ hạnh giả mạo kia đang mưu định: “Nhà tu ác độc đang ngồi với bộ tịch giả dối kia, có lẽ ông đã ăn mất một số trong bọn ta rồi, ta sẽ vạch mặt ông ta!”.

Thế rồi ngài đáp xuống phía dưới gió và đánh hơi kẻ ác kia: “Ðúng rồi, – ông nói – người này muốn giết chúng ta mà ăn thịt; chúng ta chớ đến gần ông ta”. Rồi ngài cùng cả đàn chim bay đi. Thấy Bồ-tát bay ra xa, người ẩn dật kia tự nghĩ: “Ta sẽ nói vài lời ngọt ngào với nó để làm thân, rồi giết nó mà ăn thịt”. Rồi ông ta đọc hai bài kệ sau:

Dãy đồi này, năm mươi năm lẻ một,
Lũ chim muông vẫn lui tới thăm ta.
Ở nơi đây bao đầm ấm, an hòa.
Ðâu cần phải e dè hay sợ hãi!

Thế mà nay lũ cháu chắt con cái
Ngại nơi này, bay đến ở đồi kia.
Chúng đã quên niềm kính trọng ngày xưa,
Chúng có phải bầy chim dòng giống cũ?

Bồ-tát liền quay lại đọc bài kệ thứ ba:

Ta chẳng khùng đâu, biết rõ ông,
Ta đây, dòng giống của tôn tông.
Còn ông vẫn thế, rắp tâm hại,
Ẩn giả, ta đây phải ngại ngùng.

“Chúng đã vạch mặt ta rồi”. Nhà tu khổ hạnh giả mạo kia nghĩ thế rồi ném cây gậy vào con chim nhưng ông không ném trúng được.

– Ði đi, ông bảo, ta đã bắt hụt mi! “Ông bắt hụt chúng tôi – Bồ-tát nói – nhưng ông sẽ không bắt hụt bốn địa ngục đâu! Nếu ông còn ở đây, tôi sẽ gọi người làng và bảo họ đến bắt ông về tội trộm. Hãy cút đi nhanh lên!

Bồ-tát dọa ông ta như thế rồi bay đi. Kẻ ẩn dật kia không thể sống ở đó lâu hơn nữa.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể xong Pháp thoại này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Ðề-bà-đạt-đa là nhà tu giả mạo, còn vị tu khổ hạnh đầu tiên, kẻ thiện hạnh, là Xá-lợi-phất và con Bồ câu đầu đàn chính là Ta đây.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Trâu (Tiền thân Mahisa)

Sao ngài vẫn kiên trì..,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một con khỉ ngỗ nghịch.

Tại Xá-vệ, một gia đình kia có một con khỉ. Con khỉ này thường chạy đến chuồng voi, nhảy lên lưng một con voi hiền lành, phóng uế trên đó rồi bắt đầu chạy nhảy lung tung. Con voi kia vừa hiền lành vừa nhẫn nại, chẳng làm gì cả. Nhưng một hôm kia, một con voi trẻ và hung dữ đứng vào chỗ của con voi hiền nọ, khỉ cứ tưởng là con voi thường ngày, liền trèo lên lưng nó. Nó bị voi dùng vòi chộp lấy và quật xuống đất, khiến nó bị vỡ ra từng mảnh.

Các Tỷ-kheo biết được chuyện này và một hôm họ đem ra bàn tán:

– Này các hiền hữu có nghe chuyện con khỉ ngỗ nghịch đã lầm tưởng con voi dữ là con voi hiền nên trèo lên lưng nó để mất mạng không?

Bậc Ðạo Sư bước vào và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông ngồi đây bàn tán chuyện gì thế?

Và khi được các Tỷ-kheo kể chuyện ấy, Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên con khỉ ngỗ nghịch làm như thế, trước kia nó cũng đã làm như thế.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là một con Trâu sinh ra trong vùng Tuyết Sơn (Hy-mã-lạp Sơn) ngài lớn lên, to lớn, khỏe mạnh và thường đi đây đó khắp đồi núi, đỉnh cao, hang sâu, rừng già.

Lần nọ, ngài trông thấy một cái cây thích ý, liền đứng dưới cây để ăn.

Bấy giờ, một con Khỉ ngỗ nghịch từ trên cây nhảy xuống trên lưng Trâu. Khỉ nắm một sừng trâu, móc đuôi và đu đưa thân mình. Bồ-tát tràn đầy kiên nhẫn, đức độ, từ bi đã không để ý tới sự ngỗ nghịch của Khỉ. Con Khỉ kia cứ làm như thế mãi.

Nhưng một hôm, vị thần của cây đứng trên thân cây hỏi Bồ-tát:

– Thưa ngài Trâu chúa, sao ngài cứ để mặc cho con khỉ ngỗ nghịch kia hỗn hào mãi thế? Hãy khiến nó chấm dứt đi thôi!

Và nói rộng điều này, vị thần cây đọc hai bài kệ sau đây:

Sao ngài vẫn kiên trì
Chịu đựng chuyện kỳ quặc,
Khỉ hỗn hào ích kỷ
Quấy phá ngài lắm khi?

Hãy đạp nó bằng chân
Hãy đâm nó bằng sừng,
Phải liền ngăn cản nó
Kẻo bọn trẻ khinh lờn.

Bồ-tát nghe thế liền trả lời:

– Này thần cây, chịu cho nó bạc đãi mà không nguyền rủa thọ sanh, dòng dõi, thế lực của nó, nếu điều ấy ta không giữ được thì nguyện ước của ta sao toàn vẹn? Nhưng rồi con khỉ kia cũng sẽ làm như thế đối với kẻ khác vì tưởng ai cũng như ta. Và nếu nó làm như thế với những con trâu khác thì nó sẽ bị hại ngay. Thế là ta được miễn đi sự phiền nhiễu và việc giết chóc.

Thế rồi ngài đọc tiếp bài kệ thứ ba:

Nếu nó quấy kẻ khác,
Như đã quấy ta đây,
Nó liền bị hạ sát,
Ta sẽ thảnh thơi ngay.

Ít ngày sau, Bồ-tát đi nơi khác. Một con trâu rừng khác hung hãn đến đứng vào chỗ của ngài. Con khỉ ác hiểm kia tưởng con trâu mới đến là con trâu trước kia, liền trèo lên lưng và làm như trước. Con trâu rừng quật nó xuống đất, dùng sừng đâm thủng ngực nó rồi lấy chân dẫm nát nó.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể xong Pháp thoại này, Ngài tuyên thuyết Tứ Ðế và nhận diện Tiền thân:

– Con trâu dữ trước kia là con voi dữ bây giờ đó, con Khỉ ngỗ nghịch trước kia cũng chính là nó bây giờ, còn con Trâu đức độ cao cả ấy chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Hạc (Tiền thân Satapatta)

Như chàng trai trẻ trên đường..,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về Panduka và Lohita.

Có sáu người ngoại đạo, hai người là Mettiya và Bhummaja sống gần Vương Xá; hai người là Assaji và Punabbasu ở gần Kitàriji và hai người sống ở Kỳ Viên gần Xá-vệ là Panduka và Lohita. Họ thường hạch hỏi những vấn đề nằm trong học thuyết. Hễ ai là bè bạn thân thiết với họ thì họ khích lệ và bảo:

– Này bạn, bạn chẳng thua kém ai ở đây về thọ sanh, dòng dõi và phẩm chất, nếu bạn phát biểu ý kiến của bạn, người ta sẽ học hỏi nhiều điều hay ở bạn đấy.

Một mặt họ bảo như thế, một mặt họ lại ngăn cản người kia phát biểu ý kiến của mình. Do đó sinh ra gây gổ, bất hòa tranh cãi. Các Tỷ-kheo kể lại sự việc cho Thế Tôn. Vì thế, ngài họp các Tỷ-kheo để giảng giải, rồi cho mời Panduka và Lohita đến hỏi:

– Này các bằng hữu, có phải chính bạn đòi hỏi một số vấn đề ngăn cản người ta phát biểu ý kiến của họ không?

Họ đáp:

– Thưa vâng.

Ngài dạy:

– Thế thì thái độ của các bằng hữu cũng giống như chàng trai và con Hạc.

Rồi Ngài kể một câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình tại một làng Kàsi. Khi ngài lớn lên, thay vì sinh sống bằng nghề nông hay bằng nghề buôn bán, ngài lại tụ họp năm trăm tên cướp rồi lên làm đầu đảng, sinh sống bằng cách chận đường hoặc vào nhà cướp của.

Bấy giờ có người chủ đất cho người kia vay một ngàn đồng tiền. Nhưng trước khi được trả tiền, ông ta lại chết đi. Ít lâu sau, người vợ đang hấp hối trên giường bệnh, gọi con trai và bảo:

– Này con, cha con có cho người kia mượn một ngàn đồng và đã chết đi khi chưa lấy được tiền lại. Nếu mẹ chết rồi thì người kia sẽ không chịu trả cho con đâu. Bây giờ con hãy đi bảo ông ta kiếm tiền mà trả lại.

Người con ra đi và đòi được tiền.

Trước đó bà mẹ đã chết nhưng vì quá thương con nên bà bỗng tái hiện thành một con Chó rừng chạy trên đường đứa con đang đi. Lúc bấy giờ tên cướp và đồng bọn đang ở trên đường chờ cướp của hành khách. Khi thấy con mình vào tới cửa rừng, con Chó rừng cứ quanh quẩn lui tới tìm cách giữ anh ta lại.

– Con ơi – Chó rừng bảo – chớ vào rừng, bọn cướp đang ở đấy, chúng sẽ giết con và lấy mất tiền của con.

Nhưng người con không hiểu được ý mẹ:

– Thật là xui – anh ta bảo – con Chó rừng này cố cản đường ta!

Thế là anh dùng gậy và dùng vài cục đất để đuổi nó đi, rồi anh ta bước vào rừng.

Lại có một con Hạc bay về phía bọn cướp và kêu lên:

– Người kia đang có trong tay một ngàn đồng đấy, hãy giết nó đi mà lấy tiền!

Anh bạn trẻ kia lại không biết Hạc đang làm gì nên lại nghĩ: “May quá! Ðây là con chim mang điều may! Thế là ta được điều lành đây!” Anh ta kính cẩn chào và la lên:

– Ngài ơi, hót lên đi, hót lên đi!

Bồ-tát vốn hiểu hết mọi thứ tiếng, quan sát các sự việc và nghĩ: “Con Chó rừng kia phải là mẹ của người ấy nên mới cố ngăn anh ta và bảo rằng anh ta sắp bị giết và bị cướp; còn con Hạc phải là kẻ đối nghịch nên mới bảo: “Giết nó đi mà lấy tiền!”; và người kia chẳng biết gì cả, đã đuổi mẹ mình là kẻ cầu mong cho mình được tốt lành; trong khi con Hạc là kẻ chỉ mong anh ta gặp điều hung dữ thì anh ta lại tôn kính, tin rằng đó là kẻ mang cho mình may mắn! Cái anh chàng này thật là rồ dại.

(Các vị Bồ-tát, dù là những bậc Ðại Sĩ, đôi khi do sinh ra làm ác nhân, cũng lấy của cải người khác. Người ta bảo đó là một sự sai lầm trong vận mệnh).

Thế là chàng thanh niên kia tiếp tục đi và chẳng bao lâu rơi vào tay bọn cướp, Bồ-tát bắt anh ta và hỏi:

– Quê anh ở đâu?

– Ở Ba-la-nại.

– Anh vừa từ đâu tới?

– Một người ở trong làng kia nợ tôi một ngàn đồng và tôi từ nơi đó tới đây. – Anh đã lấy được tiền chưa?

– Vâng, tôi lấy được rồi.

– Ai sai anh đi?

– Thưa ngài, cha tôi đã chết, mẹ tôi đang bệnh, chính mẹ tôi đã sai tôi đi vì bà nghĩ rằng tôi sẽ không đòi được tiền khi bà đã chết.

– Anh có biết bây giờ mẹ anh ra sao không?

– Thưa ngài không.

– Bà đã chết sau khi anh ra đi và vì quá thương anh mà bà liền hóa thành một con Chó rừng và cố ngăn anh vì sợ anh sẽ bị giết. Chính bà lại bị anh đuổi đi. Còn con Hạc kia là một kẻ thù của anh, chính nó đến bảo chúng ta hãy giết anh và đoạt tiền của anh. Anh thật là rồ dại vì nghĩ rằng mẹ anh là kẻ cầu họa cho anh trong khi bà chỉ mong anh được tốt lành, và ngược lại, rằng con Hạc kia là kẻ cầu phúc cho anh trong khi nó lại cầu họa cho anh. Con Hạc chẳng làm gì tốt cho anh, còn mẹ anh lại rất tốt với anh. Hãy giữ lấy tiền của anh và đi đi!

Rồi Bồ-tát thả cho anh ta đi.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể xong Pháp thoại này, Ngài đọc các bài kệ sau;

Như chàng trai trẻ trên đường,
Chó rừng ấy đã làm chùng bước chân.
Chàng ta nhầm tưởng ác nhân,
Nào ngờ là kẻ cho chàng điều hay.
Lại nhầm Hạc chính bạn ngay,
Trong khi Hạc lại quyết bày ác mưu.

Nay có kẻ được nhiều bạn tốt,
Lại hiểu lầm sai sót bạn hiền,
Tai không nghe tiếng bạn khuyên
Những điều tốt đẹp dành riêng cho mình.

Hễ người ca tụng mới tin,
Ấy điều hung xấu đã liền hé ra:
Như chàng trai trẻ ngày xưa
Yêu con Hạc nọ bay qua đầu mình.

*

Khi bậc Ðạo Sư diễn giảng xong đề tài này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ tướng cướp chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Kẻ Phá Hư Giỏ (Tiền thân Puta-Dùsaka)

Hẳn chúa đàn có tài khéo léo..,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một kẻ phá hư giỏ.

Ở Xá-vệ, một vị quan nọ mời đức Phật và hội chúng đệ tử của Ngài và đưa các vị đến ngồi trong vườn của ông. Khi ông phân phát đồ dùng trong bữa cơm, ông bảo:

– Vị nào muốn đi dạo trong vườn thì xin cứ đi.

Các Tỷ-kheo đi đây đó trong vườn. Bấy giờ, người giữ vườn leo lên một cái cây rậm lá, hái một nắm lá và bảo:

– Cái này để đựng hoa, còn cái này để đựng quả.

Thế rồi ông kết lá thành những cái giỏ và thả xuống gốc cây. Cứ mỗi cái giỏ rơi xuống liền bị ngay đứa con trai nhỏ của ông ta đến phá hư hết. Các Tỷ-kheo kể chuyện này cùng bậc Ðạo Sư. Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên cậu bé phá hư giỏ, trước kia cậu ấy cũng đã làm như thế.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình nọ ở Ba-la-nại. Ngài lớn lên và trở thành gia trưởng.

Nhân có việc, ngài đi ngang qua một khu vườn trong đó có một bọn khỉ đang sinh sống. Người giữ vườn đang ném xuống những cái giỏ bằng lá như đã kể trên, và con Khỉ đầu đàn đến phá hư giỏ khi chúng vừa rơi xuống, con Khỉ tưởng rằng xé các giỏ ấy là làm vui lòng chủ. Rồi Ngài đọc bài kệ thứ nhất:

Hẳn chúa đàn có tài khéo léo
Làm giỏ kia lắm nẻo công phu,
Ðời nào ông lại làm hư
Trừ phi giỏ khác ông trù làm thêm.

Nghe thế con Khỉ đọc bài kệ thứ hai:

Từ cha mẹ đến tôi nữa đó,
Có thế nào làm giỏ như người?
Người làm, ta xé rã rời
Tính riêng loài khỉ truyền đời là đây!

Và Bồ-tát trả lời bằng bài kệ thứ ba:

Nếu ta tính riêng bầy khỉ đột,
Quả là không thích hợp tính này!
Dù ngươi có đúng hay sai,
Cũng không đáng kể cả hai, cút liền!

Bồ-tát trách rầy như thế rồi ra đi.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ con Khỉ là cậu bé phá hư các giỏ kia, còn người trí nọ là Ta.

  1. Chuyện Trái Xoài Chính Trung (Tiền thân Abkhantara)

Có cây nọ trên cành mang trái..,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về sự việc Trưởng lão Xá-lợi-phất biếu nước xoài cho Tỷ-kheo-ni Bimbàdevi.

Khi đức Phật khai mở Giáo hội trên thế giới, vị chánh thất của đức Cồ-đàm đang sống tại Vesàli (Tỳ-xá-ly), đã cùng với năm trăm phụ nữ Thích ca xin gia nhập Giáo hội và được thọ Ðại giới. Về sau năm trăm Tỷ-kheo-ni này đắc Thánh quả khi nghe Tôn giả Nandaka thuyết pháp.

Bấy giờ trong lúc bậc Ðạo Sư trú gần Xá-vệ, mẹ của Tôn giả La-hầu-la tự nghĩ: “Trượng phu ta sống đời Phạm hạnh, đã trở thành bậc Toàn trí, con ta cũng đã là một vị xuất gia và đang sống cùng Ngài. Ta còn phải làm gì trong gia đình nữa? Ta sẽ sống đời sống Phạm hạnh kia, sẽ đi đến Xá-vệ và sẽ sống mãi theo gương đức Phật và con ta”.

Vì thế bà đến một ni xá gia nhập giáo hội rồi đến sống trong một tịnh thất ở Xá-vệ cùng với các vị sư trưởng và giáo thọ; bà thường chiêm ngưỡng bậc Ðạo Sư và con trai yêu dấu của bà. Sa-di La-hầu-la cũng thường đến thăm mẹ.

Một hôm bà bị đau chứng sình bụng. Khi La-hầu-la đến thăm, bà không thể ra tiếp được; nhưng có người đến báo cho ông hay rằng mẹ ông đang bệnh. Thế rồi ông vào gặp mẹ và hỏi:

– Mẹ phải dùng thứ gì mới khỏi được?

Bà đáp:

– Con ơi, nếu như hồi còn ở nhà thì cơn đau này thường được chữa bằng nước xoài có pha với nước đường; nhưng giờ đây, chúng ta đang sống bằng khất thực thì kiếm đâu ra thứ đó?

Vị Sa-di đáp:

– Con sẽ kiếm thứ ấy cho mẹ.

Và ông ra đi. Bấy giờ sư trưởng của Tôn giả La-hầu-la là Tướng quân Chánh pháp Xá-lợi-phất và giáo thọ của ông là Ðại Mục-kiền-liên, chú ông là Trưởng lão Ànanda và thân phụ ông là đức Phật, như vậy ông thật có phước lớn. Tuy thế ông chỉ đến xin cầu cứu Trưởng lão Xá-lợi-phất, sư trưởng của ông. Sau khi thi lễ, ông đứng trước mặt thầy với vẻ buồn rầu. Trưởng lão hỏi:

– Sao con có vẻ buồn rầu thế La-hầu-la?

– Bạch thầy – ông đáp – mẹ con đang mắc chứng sình bụng.

– Thế người phải dùng thứ gì?

– Có nước xoài ép với đường thì người mới khỏi bệnh.

– Ðược rồi, ta sẽ có, con chớ lo!

Hôm sau Trưởng lão dẫn La-hầu-la đến Xá-vệ, bảo ông ngồi trong phòng đợi, còn Tôn giả đi vào cung vua. Vua Kosala mời Trưởng giả ngồi. Ngay lúc ấy, người giữ vườn mang vào một giỏ xoài chín ngọt. Vua gọt vỏ, rắc đường, tự tay ép xoài rồi đổ đầy bình bát của Trưởng lão. Trưởng lão trở lại phòng đợi, giao xoài cho vị Sa-di bảo đem về cho mẹ. Vị Tỷ-kheo-ni khỏi bệnh ngay sau khi dùng xoài. Nhà vua cũng phái thị giả đến và bảo:

– Trưởng lão không ngồi đây để dùng nước xoài. Hãy đi xem ngài có cho ai chăng.

Người kia đi theo Trưởng lão, khám phá sự việc rồi trở về trình vua. Nhà vua tự nghĩ: “Nếu bậc Ðạo Sư trở về đời thế tục, Ngài sẽ là vị Hoàng đế của cả thiên hạ, Sa-di La-hầu-la sẽ là Hoàng thái tử, Thánh nữ Tỷ-kheo-ni ấy sẽ là hoàng hậu. Tất cả thế giới này đều thuộc quyền các vị ấy. Ta cần phải đến hầu thăm các vị ấy. Các vị đang sống gần đây, không nên để mất thì giờ”. Thế là từ hôm ấy, vua vẫn tiếp tục cúng dường nước xoài cho vị Tỷ-kheo-ni.

Các Tỷ-kheo biết được sự việc Trưởng lão biếu nước xoài cho vị Thánh nữ Tỷ-kheo-ni. Và một hôm họ bắt đầu bàn tán trong Chánh pháp đường:

– Này Hiền hữu, tôi nghe rằng Trưởng lão Xá-lợi-phất đã chữa lành bệnh Tỷ-kheo-ni Bimbàdevi bằng nước xoài.

Bậc Ðạo Sư bước vào và hỏi:

– Các ông đang nói chuyện gì thế?

Và khi các vị ấy thuật lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên mẹ của La-hầu-la được Trưởng lão ấy chữa lành bệnh bằng nước xoài đâu; trước kia cũng đã từng xảy ra sự việc như vậy.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn, sống tại một ngôi làng Kàsi. Lớn lên, ngài được giáo dục ở Takkasilã, rồi thành lập gia đình. Khi cha mẹ mất, ngài sống đời tu hành. Sau đó ngài trú tại một vùng thuộc dãy Hy-mã-lạp Sơn (Tuyết Sơn), tu tập các Thắng trí và Thiền chứng. Một nhóm hiền giả đến tụ tập quanh ngài và ngài trở thành thầy của họ.

Một thời gian lâu sau, ngài xuống núi để kiếm muối, tương. Trên đường đi đây đó, ngài đến Ba-la-nại và trú tại một vườn cây nọ. Ðức hạnh sáng ngời của hội chúng hiền giả này đã làm rung động cung điện của Thiên chủ Ðế Thích. Ðế Thích quán chiếu và thấy được sự việc. Ngài nghĩ: “Ta sẽ làm hại trú xứ của họ, như vậy chỗ ở của họ sẽ bị xáo trộn và họ sẽ chịu nhiều gian khổ nên không thể an định tâm trí. Sau đó, ta mới lại được yên ổn”.

Ngài suy nghĩ phải làm thế nào để thực hiện được việc đó và vạch ra một kế hoạch. “Ta sẽ vào phòng chánh hậu vào đúng lúc nửa đêm rồi bay lên không và nói: “Thưa hoàng hậu, nếu lệnh bà ăn một trái xoài chính trung, bà sẽ có một hoàng nam và hoàng nam ấy sẽ là vị hoàng đế trị vì cả thiên hạ”. Thế là bà ta sẽ kể lại với vua, vua sẽ sai vào vườn hái xoài. Ta sẽ làm cho tất cả trái biến mất đi. Người ta sẽ trình với vua rằng không còn trái nào cả và khi vua hỏi ai đã ăn hết thì sẽ được trả lời: “Các nhà tu khổ hạnh đã ăn hết”.

Ðúng nửa đêm, Thiên chủ Ðế Thích hiện ra trong phòng của hoàng hậu, để lộ đầu của ngài và nói với hoàng hậu, vừa ngâm hai bài kệ đầu tiên:

Có cây nọ trên cành mang trái
Thật diệu kỳ tên gọi Chính trung
Phu nhân ăn trái vào lòng,
Sinh con ngôi báu nắm tròn thế gian.

Thưa Chánh hậu, bà hoàng trọng đại,
Ðấng quân vương sủng ái người thay,
Hãy xin ngài bảo mang xoài
Chính trung trái ấy mà người cần ăn.

Ðế Thích đọc cho hoàng hậu nghe hai bài kệ trên rồi bảo là hãy cẩn thận và chớ trì hoãn, phải đích thân đến nói chuyện với nhà vua. Nói xong Ðế Thích khích lệ bà rồi quay trở về cung điện của mình.

Hôm sau, hoàng hậu nằm liệt như là đang bệnh và gọi các thị nữ đến dặn dò. Nhà vua đang ngồi trên ngai dưới chiếc lọng trắng và xem khiêu vũ. Không thấy hoàng hậu, vua hỏi một nữ tỳ xem bà ở đâu.

– Hoàng hậu đang bệnh. Cô gái đáp.

Nhà vua đến thăm, ngồi bên cạnh và vỗ lưng bà. Ngài hỏi:

– Hoàng hậu làm sao thế?

– Thưa chẳng sao cả – bà đáp – Có điều thiếp đây đang khao khát một chuyện.

– Hoàng hậu muốn gì? Vua lại hỏi.

– Một trái xoài chính trung, thưa Ðại vương.

– Ở đâu có các trái xoài chính trung ấy?

– Thần thiếp không biết trái xoài chính trung là gì, nhưng thần thiếp biết rằng thần thiếp sẽ chết nếu không có được một trái ấy.

– Ðược rồi, ta sẽ mang cho ái khanh một trái, chớ buồn lo.

Nhà vua khuyên bảo bà như vậy rồi ra đi. Ngài ngủ trên vương sàng và cho đòi các cận thần đến rồi bảo:

– Hoàng hậu đang khao khát một trái xoài chính trung, bây giờ phải làm sao đây?

Có người tâu:

– Một trái xoài chính trung là một cây xoài mọc giữa hai cây khác; hãy hái trái của nó rồi dâng cho hoàng hậu.

Thế là nhà vua sai người làm theo như vậy.

Nhưng Ðế Thích dùng quyền lực của mình làm cho tất cả trái cây biến mất như đã bị người ta ăn hết. Những người được phái đi kiếm xoài đã lục xét khắp vườn cây nhưng vẫn không kiếm được một trái xoài nào. Do đó, họ trở về tâu với vua là không còn trái nào cả.

– Ai đã ăn xoài hết thế? Vua hỏi.

– Tâu Ðại vương, các nhà tu khổ hạnh đấy!

– Hãy lấy gậy đánh chúng rồi tống cổ chúng ra khỏi vườn cây!

Vua ra lệnh như thế và người ta thi hành theo. Ðế Thích được toại nguyện, còn hoàng hậu cứ nằm dài khao khát trái xoài.

Nhà vua không biết phải làm gì. Ngài họp các triều thần và các Bà-la-môn lại rồi hỏi:

– Các khanh có biết một trái xoài Chính trung là gì không?

Các Bà-la-môn thưa:

– Tâu Ðại vương, cây xoài Chính trung là vật sở hữu của các vị thần. Nó mọc trong dãy Hy-mã-lạp Sơn, trên Núi Vàng, Chúng thần nghe truyền thuyết như vậy.

– Ðược rồi, ai có thể đi kiếm nó?

– Người thường không thể đi được, ta phải sai một con vẹt trẻ.

Bấy giờ trong cung có một con Vẹt trẻ và đẹp, to bằng cái đùm xe ngựa của các hoàng tử. Nó mạnh khỏe, khéo léo và nhiều mưu lược. Vua cho gọi con Vẹt đến và bảo nó:

– Này vẹt yêu quí, ta đã ban cho con nhiều thứ: con được ở trong một cái lồng bằng vàng, ăn các hạt ngon ngọt trong một cái đĩa bằng vàng, uống nước đường. Giờ đây, ta muốn con làm cho ta một việc.

– Tâu Ðại vương, xin ngài cứ dạy. Con Vẹt nói.

– Này con, hoàng hậu rất thèm một trái xoài Chính trung, cây xoài này mọc trong dãy Hy-mã-lạp Sơn, trên Núi Vàng, đó là nơi của các vị thần, không ai có thể đến đó được. Con phải đến đó và mang trái ấy về đây.

– Tốt lắm, thưa Ðại vương, con sẽ làm như thế. Con vẹt đáp.

Nhà vua lấy một cái đĩa bằng vàng, bỏ vào đó thứ hạt ngon ngọt cho nó ăn, rồi cho nó uống nước đường. Ngài xức dầu thơm ở dưới đôi cánh nó bằng một thứ dầu trăm lần tinh luyện, rồi ngài cầm nó bằng cả hai tay, ra đứng trước cửa sổ và thả cho nó bay đi.

Con Vẹt thực hiện nhiệm vụ nhà vua giao, bay mãi trên cao, vượt xa những lối đi của người, cho đến khi nó đến chỗ những con vẹt trú ở vùng đồi đầu tiên của dãy Hy-mã-lạp Sơn.

Nó hỏi những con vẹt ấy:

– Cây xoài Chính trung ở đâu? Hãy chỉ chỗ cho ta đi!

– Chúng tôi không biết – chúng đáp – nhưng bọn vẹt ở dãy đồi thứ hai sẽ biết nó ở đâu.

Con Vẹt nghe xong liền bay đến dãy đồi thứ hai. Và cứ thế, nó bay đến dãy đồi thứ ba, thứ năm, thứ sáu. Tại đây, bọn vẹt cũng nói:

– Chúng tôi không biết nhưng bọn vẹt ở dãy đồi thứ bảy sẽ biết.

Thế là Vẹt tiếp tục bay đến đó và hỏi cây xoài Chính trung mọc ở đâu.

– Ở tại một nơi kia trên Núi Vàng, chúng đáp.

Vẹt nói:

– Hãy dẫn ta đến đó và kiếm cho ta trái cây kia.

– Ðó là địa phận của vua Vessavana (Tỳ-sa-môn Thiên vương) không thể đến gần được. Toàn bộ cái cây từ rễ trở lên đều được vây bọc bằng bảy lần lưới sắt, nó còn được canh gác bởi hàng ngàn triệu quỷ thần Kumbhanda (Cưu-bàn-trà), hễ thấy kẻ nào là chúng hại ngay. Chỗ ấy giống như lửa thiêu hủy và lửa địa ngục. Xin chớ đòi hỏi một việc như thế!

– Nếu các bạn không muốn đi với tôi, xin hãy chỉ đường cho tôi, Vẹt nói.

Thế rồi bọn chúng chỉ cho con vẹt phải đi lối nào. Nó cẩn thận nghe theo những lời chỉ dẫn. Ban ngày nó dấu mình, rồi đợi đến đêm khuya khoắt, bọn quỷ đã ngủ, nó mới tiến đến gần cây mà nhẹ nhàng trèo lên. Nhưng… “cách!” lưới sắt rung – bọn quỷ thức dậy nhìn thấy con Vẹt, liền vây lấy nó và la lên: “Trộm!”. Rồi chúng bàn nhau phải làm gì với con Vẹt.

Một con quỷ nói:

– Tôi sẽ đè bẹp nó bỏ vào mồm rồi nuốt nó!

Một quỷ khác nói:

– Tôi sẽ đè bẹp nó, nhồi xác nó trong tay rồi làm nó rã ra từng miếng!

Con quỷ thứ ba nói:

– Tôi sẽ cắt nó ra làm hai, sẽ nướng nó trên than rồi ăn nó!

Con Vẹt nghe chúng bàn tính cẩn thận. Nó bình tĩnh nói với bọn chúng:

– Này các bạn quỷ, các bạn là quân hầu của ai?

– Chúng ta thuộc quyền vua Vessavana.

– Này, các bạn có một ông vua làm chủ các bạn và tôi cũng có một ông vua khác làm chủ tôi. Vua xứ Ba-la-nại sai tôi tới đây tìm một trái của cây xoài chính trung. Tôi đã hiến ngay đời mình cho vua tôi và giờ đây, tôi đang làm như thế. Kẻ nào hy sinh đời mình vì cha mẹ hay vì chủ thì lập tức được sinh lên cõi trời. Do đó, tôi sắp thoát xác loài vật để đi đến thế giới của Thiên thần!

Rồi Vẹt đọc bài kệ thứ ba:

Những người dũng cảm quyên mình
Một lòng sốt sắng hy sinh cuộc đời,
Chốn nào họ đạt đến rồi,
Nơi kia chốc lát nữa tôi tới gần.

Con Vẹt thuyết giảng như vậy và đọc bài kệ xong, bọn quỷ lắng nghe và lấy làm vừa lòng. Chúng bảo:

– Này chim Vẹt, bạn được tự do! Hãy an nhiên mà ra khỏi tay chúng ta!

– Xin chớ để cho tôi tay không trở về – Vẹt nói – hãy cho tôi một trái xoài!

– Này Vẹt, bọn quỷ nói – chúng ta không thể lấy ra khỏi cây một trái mà cho bạn được đâu! Tất cả trái trên cây này đều đã được đánh dấu. Nếu thiếu trái nào là chúng ta mất mạng ngay. Hễ Ðại vương Vessavana nổi giận lên và chỉ nhìn một cái là một ngàn quỷ sẽ vỡ vụn, vung vãi ra như đậu rang vung tóe trên chảo nóng. Vì thế, chúng ta không thể cho bạn trái nào được. Tuy nhiên, chúng ta chỉ cho bạn một chỗ bạn có thể lấy vài trái.

– Tôi chẳng cần biết ai cho – con Vẹt nói – Nhưng tôi phải có trái ấy. Hãy cho tôi biết tôi có thể kiếm nó ở đâu.

– Tại một trong những con đường mòn khúc khuỷu của Núi Vàng có một nhà tu khổ hạnh tên là Jotirasa, ở trong một chòi lá, canh chừng ngọn lửa thiêng được gọi là Kancanapatti hay Kim Diệp, ông ấy được Ðại vương Vessavana ưu ái. Ðại vương Vessavana vẫn thường gửi cho ông ta bốn trái cây kia, hãy đi đến đó!

Con Vẹt từ giã rồi đến nhà tu khổ hạnh. Sau khi chào hỏi, nó ngồi xuống một bên. Nhà ẩn dật hỏi:

– Ngươi từ đâu đến?

– Từ cung vua xứ Ba-la-nại.

– Tại sao ngươi đến đây?

– Thưa ngài, hoàng hậu của chúng tôi ao ước một trái xoài chính trung, vì thế mà tôi đến đây. Bọn quỷ đã không cho tôi trái nào nhưng lại bảo tôi đến ngài.

– Ngồi xuống đi nào, ngươi sẽ có một trái.

Vị ẩn sĩ đi lấy bốn trái mà Ðại vương Vessavana vẫn thường gởi cho, ăn hết hai trái, cho con Vẹt ăn một trái, sau đó ông treo trái thứ tư vào một sợi dây rồi cột chắc vào cổ con Vẹt và để nó ra đi. Ông nói:

– Nào đi đi!

Con Vẹt bay trở về và dâng trái xoài lên hoàng hậu. Bà ăn xoài, thỏa mãn điều ao ước kia, nhưng từ đó bà vẫn không có con trai.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể xong Pháp thoại này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc ấy, mẹ của La-hầu-la là hoàng hậu, Ànanda là con Vẹt, Xá-lợi-phất là nhà tu khổ hạnh cho xoài kia, còn nhà tu sống trong vườn cây kia chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Điều Tốt Nhất (Tiền thân Seyya)

Ðiều tốt nhất các khanh nên biết..,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một quan đại thần của xứ Kosala.

Ông này rất đắc lực cho vua và người ta kể rằng ông làm hết mọi việc cần làm. Vì ông rất đắc lực nên vua rất quý trọng ông. Các quan khác ganh tị, âm mưu hạ nhục và vu cáo ông. Vua nghe lời họ mà không tra xét tội trạng. Dù ông rất đức hạnh và vô tội, vua vẫn cho trói ông lại bằng dây xích và bỏ ông vào ngục. Ông sống cô đơn trong ngục, nhưng nhờ đức hạnh ông vẫn an tâm và nhờ tâm an tịnh, ông hiểu được những điều kiện của sự sống và ông đắc quả Dự Lưu. Ít lâu sau, vua nhận ra ông vô tội nên phá bỏ xiềng xích cho ông và tôn quý ông còn hơn trước kia nữa. Ông muốn được bày tỏ lòng tôn kính trước bậc Ðạo Sư nên mang hương hoa đến tịnh xá, đảnh lễ đức Phật rồi kính cẩn ngồi một bên. Bậc Ðạo Sư ân cần nói với ông:

– Chúng tôi có nghe ông gặp vận xui.

Ông thưa:

– Bạch Ngài, vâng, nhưng con đã làm cho vận xui ấy trở thành tốt, trong lúc ngồi tù, con đã đắc quả Dự Lưu.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này Hiền hữu, không phải chỉ có ông là người đã đổi xấu thành tốt; những bậc trí giả ngày xưa cũng đã đổi cái xấu thành cái tốt như ông vậy.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra là con của chánh hoàng hậu. Ngài lớn lên và được giáo dục tại Takkasilà; khi vua cha mất ngài lên ngôi và giữ đúng mười điều luật của một vị vua; ngài bố thí, hành thiện và chấp trì ngày trai giới.

Một quan đại thần kia đã thông gian trong đám cung phi của vua. Các tôi tớ biết được và kể cho vua nghe, một người nọ đang tiến hành một âm mưu. Nhà vua khám phá ra đúng sự thật của việc ấy rồi gọi ông ta lại:

– Ðừng bao giờ để cho ta thấy mặt ngươi nữa.

Vua bảo thế rồi đuổi ông ta đi. Ông quan bỏ đi đến triều đình của một vị vua láng giềng, thế rồi mọi sự việc xảy ra như đã tả ở số 51 Tiền thân Mahàsilava. Ở đây cũng thế, vị vua này ba lần thử ông, tin theo ông và dẫn một đạo quân lớn đến Ba-la-nại để mong xâm chiếm. Ðược tin ấy, các tướng lãnh của vua Ba-la-nại gần năm trăm vị đã nói với vua:

– Ông vua kia đã đến đây, phá hoại xứ sở để mong chiếm lấy Ba-na-lại. Xin cho chúng thần đi bắt ông ta!

– Ta không muốn giữ vương quốc bằng cách giết hại – vua bảo – Ðừng làm gì cả.

Ông vua cướp nước kia bao vây thành phố. Các đại thần lại đến gần vua và nói:

– Tâu Ðại vương, xin hãy lưu tâm. Hãy cho phép chúng thần bắt ông ta!

– Không được làm gì cả – vua phán – Hãy mở các cổng thành.

Rồi vua đoan nghiêm ngồi trên bệ, giữa các đại thần của triều đình.

Vua cướp nước vào thành, hạ các người giữ cổng rồi vào cung điện. Nơi đây, ông bắt giữ vua và các triều thần, trói xích lại rồi tống tất cả vào ngục. Vua ngồi trong ngục thương xót kẻ cướp nước kia, nỗi xót xa cùng cực trào dâng trong ngài. Do lòng thương xót kia mà ông vua nọ bỗng cảm thấy giày vò bứt rứt trong thân, cả người như bị thiêu đốt gấp hai lần lửa bỏng. Bị ray rứt xốn xang vì trọng tội, ông ta hỏi các cận thần vì sao như vậy.

Họ trả lời:

– Ngài đã bắt giam một vị vua công chính, do thế mà ngài bị như thế kia.

Ông ta liền đến xin Bồ-tát thứ lỗi, giao trả lại vương quốc. Ông nói:

– Vương quốc của ngài phải là của riêng ngài. Từ nay về sau, xin hãy để các kẻ thù của ngài cho tôi lo liệu.

Rồi ông trừng phạt quan cố vấn xấu xa kia và quay trở về thành phố của mình.

Bồ-tát nghiêm trang ngồi trên bệ cao, trong lễ phục giữa đám triều thần, đọc cho họ nghe hai bài kệ sau:

Ðiều tốt nhất các khanh nên biết:
Việc tốt hơn hãy quyết lòng làm,
Kẻ kia, ta đối thiện tâm
Nên ta cứu tử được năm trăm người.

Khuyên các khanh, với đời hãy tỏ
Vẻ khoan dung đức độ, hiền hòa,
Cõi trời, vào hết chẳng riêng
Dân Kà-si hỡi, hãy liền nghe ta.

Như vậy, bậc Ðại Sĩ ca ngợi đức hạnh về lòng từ bi đối với đại chúng. Sau đó, ngài rời ngai vàng trong kinh thành đồ sộ Ba-la-nại; rộng tới mười hai dặm để đi vào dãy Hy-mã-lạp Sơn và sống đời tu hành.

Bậc Ðạo Sư với Trí tuệ Toàn hảo, đọc vần kệ thứ ba:

Ta là Ðại đế Ba-la-nại
Vua Kam-sa, có bấy nhiêu lời:
Cung tên ta đã bỏ rời,
Thành người tự thắng, ta thời nên công.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể xong Pháp thoại này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Ànanda là ông vua cướp nước kia, còn vua xứ Ba-la-nại chính là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Heo Rừng Của Thợ Mộc (Tiền thân Vanddahaki – Sùkara)

Mồi ngon nhất bạn luôn luôn được..,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về Trưởng lão Dhanuggàhatissa.

Mahà Kosalã, cha của vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) khi gả con gái là công chúa Kosalà cho vua Bimbisàra (Tần-bà-sa-la) đã cho một ngôi làng Kàsi và một số tiền là một trăm ngàn đồng để làm của hồi môn. Khi Tần-bà-sa-la bị con là Ajàtasattu (A-xà-thế) giết thì công chúa Kosalã cũng chết đi vì sầu khổ. Vua Ba-tư-nặc suy nghĩ: “A-xà-thế giết cha, em gái ta đã phải chết đi vì tiếc thương người chồng bất hạnh; ta sẽ không cho đứa giết cha kia ngôi làng Kàsi ấy nữa”.

Thế là vua không chịu cho A-xà-thế ngôi làng kia. Do đó, chiến tranh thường xảy ra giữa hai bên vì ngôi làng. A-xà-thế rất kiêu căng và rất mạnh mẽ, còn Ba-tư-nặc đã quá già nên cứ bị thua trận mãi và nhân dân của ông vẫn thường bị chinh phục. Bấy giờ, vua mới hỏi các triều thần:

– Chúng ta cứ bị đánh bại mãi, biết làm sao bây giờ?

Vua được trả lời:

– Các vị sư phụ rất thiện xảo về chú thuật. Chúng ta phải nghe lời nói của các Tỷ-kheo đang trú tại tinh xá Kỳ Viên.

Vua phái các cận thần, bảo họ chờ thật đúng lúc nghe các Tỷ-kheo ấy nói chuyện. Bấy giờ Trưởng lão sống trong một túp lều lá gần tinh xá tên là Utta và Trưởng lão Dhanuggahatissa đã ngủ hết canh đầu, canh thứ hai và thức dậy vào canh cuối cùng. Ông bỏ vài cành cây, nhúm lên một ngọn lửa rồi ngồi xuống bảo:

– Này hiền hữu Utta!

– Gì vậy hiền hữu Tissa?

– Hiền hữu không ngủ à?

– Bây giờ chúng ta cùng thức cả rồi, làm gì đây?

– Thì dậy đi nào, hãy đến ngồi cạnh tôi đây.

Thế rồi Dhanuggahatissa bắt đầu nói với Utta:

– Lão bụng bự Kosalã khờ khạo kia chẳng bao giờ có được một bát cơm chín đầy mà không để cho nó thiu thối đi, làm sao mà toan tính một cuộc chiến tranh trong khi lão ta chẳng biết một tí gì cả? Lão luôn luôn bị đánh bại và phải chịu hao tốn.

– Thế thì lão ta phải làm gì nào?

Bấy giờ đúng là lúc các cận thần kia đang đứng nghe hai vị Trưởng lão nói chuyện. Dhanuggahatissa bàn về chiến thuật:

– Chiến thuật ư? Nó gồm ba loại: đạo quân hoa sen, đạo quân bánh xe và đạo quân toa xe. Nếu những ai muốn bắt A-xà-thế thì họ sẽ đóng quân trên hai ngọn đồi cách thẳng nhau và giả bộ yếu mà chạy, chờ cho đến khi quân của hắn đuổi theo thì chận ngay lối đi của hắn. Quân từ hai đồn trên đồi kia vọt ra giữ lấy đằng trước và đằng sau hắn, rồi reo hò ầm ĩ lên. Thế là sẽ nhanh chóng bắt được hắn như bắt một con cá trên đất, một con nhái trong nắm tay. Ðấy, cứ thế là chộp được A-xà-thế ngay!

Các cận thần trở về thuật lại hết như vậy cho vua nghe. Vua cho thúc tiếng trống tấn công, dàn quân theo mẫu toa xe và bắt sống được A-xà-thế. Sau đó, khi vua gả con gái mình là công chúa Vajirã cho con trai của em gái mình (tức A-xà-thế) thì vua cho công chúa ngôi làng Kàsi kia để làm của hồi môn.

Các Tỷ-kheo biết được sự việc trên và một hôm, họ đem ra bàn tán trong Pháp đường:

– Này Hiền hữu, tôi nghe rằng vua Kosalã đã thắng A-xà-thế nhờ những lời chỉ bảo của Dhanuggahatissa.

Bậc Ðạo sư bước vào và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang ngồi đây bàn tán chuyện gì đó?

Khi nghe các vị ấy thuật lại, Ngài dạy:

– Ðây không phải là lần đầu tiên Dhanuggahatissa khéo léo bàn tán về chiến thuật.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một vị thần cây. Bấy giờ có vài người thợ mộc sống trong ngôi làng gần Ba-la-nại. Một người thợ mộc kia lúc vào rừng đốn cây, thấy một con Heo rừng còn nhỏ bị rơi xuống hầm bẫy, liền mang về nhà nuôi. Con Heo lớn lên, mập mạp với những sừng nanh cong vút. Nó là một con vật rất dễ dạy. Vì người thợ mộc nuôi nó, nên nó có thể là con Heo rừng của người thợ mộc. Mỗi khi người thợ mộc đốn cây, con Heo rừng dùng mồm trở cây lại, rồi dùng răng mang rìu, vạt, đục, vồ và cắn một đầu thước đo mà kéo theo. Người thợ mộc sợ người ta bắt nó ăn thịt nên đem nó thả vào rừng.

Con Heo chạy vào rừng sâu, tìm kiếm một nơi an toàn và hợp ý để sống. Sau cùng nó trông thấy một cái hang lớn nằm bên sườn núi, nơi ấy có nhiều củ, rễ, trái thật là một nơi ăn ở rất tốt. Có vài trăm con heo rừng khác trông thấy nó, liền đến gần.

Nó nói với chúng:

– Các bạn đúng là những vật ta đang tìm kiếm và thế là bây giờ ta đã kiếm được rồi. Ðây có lẽ là một chỗ tốt. Bây giờ ta muốn sống ở nơi đây cùng các bạn.

Bọn heo rừng kia đáp:

– Hẳn là một chỗ tốt, nhưng lại nguy hiểm.

– À – con Heo nói – mới thoạt trông thấy các bạn, ta đã ngạc nhiên rằng sao những vật sống ở một nơi trù phú thế này lại gầy ốm, xanh xao như thế kia. Các bạn sợ cái gì vậy?

– Có một con Hổ, cứ buổi sáng nó đến đây và trông thấy ai thì nó vồ ngay rồi mang đi.

– Việc ấy xảy ra luôn luôn hay thỉnh thoảng mới xảy ra?

– Luôn luôn.

– Có cả thảy bao nhiêu con hổ?

– Chỉ có một con thôi.

– Sao? Chỉ có một con mà lại quá nhiều đối với các bạn à?

– Vâng thưa ngài.

– Ta sẽ bắt nó miễn là các bạn chỉ làm theo lời ta. Con Hổ ấy sống ở đâu?

– Trên ngọn đồi kia kìa.

Thế rồi ban đêm, Heo rừng luyện tập bọn ấy và chuẩn bị chiến đấu, nó giảng giải chiến thuật:

– Chiến trận bao gồm ba loại: đạo quân hoa sen, đạo quân bánh xe, đạo quân toa xe.

Rồi nó sắp đặt bọn heo theo mẫu hoa sen. Nó biết được một nơi lợi thế, bèn nói:

– Ta phải tổ chức trận chiến nơi đây.

Các heo mẹ và heo con đang bú được sắp chính giữa, quanh đó là heo cái không có con thơ, vòng kế nữa là bọn heo nhỏ, rồi vòng tiếp theo là bọn heo trẻ và quanh bọn này là bọn heo sẵn sàng chiến đấu, mạnh khỏe, lực lưỡng. Nó sắp đặt từng đội theo nhóm từng chục hay từng hai chục. Phía trước vị trí của chính nó là một cái lỗ tròn, phía sau lỗ là một cái hố thoai thoải sâu dần có hình dạng như một cái giỏ sảy thóc. Nó đứng điều động trong đám heo, theo sau nó là sáu bảy chục con, nó truyền cả bọn phải thật can đảm.

Ðêm đã hết, con Hổ thức dậy và nghĩ: “Tới giờ rồi!” Nó chạy đi rồi bắt gặp đàn heo. Nó đứng lại trên mô đất, trừng mắt thị uy bọn chúng. Con Heo rừng của thợ mộc la lên và ra hiệu cho cả bọn:

– Trừng lại đi!

Tất cả đều trừng mắt nhìn lại hổ. Hổ há miệng gầm gừ một tiếng dài; cả bọn heo cũng làm như thế. Hổ phóng uế, bọn heo cũng vậy. Hễ Hổ làm sao thì bọn heo cũng làm theo nó.

“Sao, việc này là thế nào?” – Hổ tự nghĩ – “Mọi khi chúng nó thấy ta là liền vắt giò lên cổ mà chạy. Thực ra chúng quá sợ hãi đến chạy không nổi nữa. Nay chẳng những chúng không chạy mà lại còn đứng lên chống ta nữa. Ta làm gì chúng đều nhại lại. Có anh chàng kia đang đứng ở vị trí chỉ huy. Chính hắn là kẻ đã tổ chức cái bọn hỗn độn này. Thôi được, ta không thấy cách nào để thắng bọn chúng”. Thế rồi nó quay đi và trở về hang.

Bấy giờ có một ẩn sĩ giả hiệu, thường được Hổ chia cho một phần mồi. Lần này Hổ trở về tay không, ông ta để ý sự việc ấy và đọc bài kệ sau đây:

Mồi ngon nhất bạn luôn luôn được
Mỗi khi đi săn rượt heo rừng.
Bạn nay phiền muộn, tay không,
Nào đâu sức mạnh hào hùng trước đây?

Nghe thế, Hổ đọc một bài kệ tiếp:

Trước kia chúng thường hay tháo chạy,
Tìm về hang, kinh hãi, tả tơi;
Nay thành hàng ngũ hẳn hoi,
Ðứng lên dũng mãnh, quyết đòi ta lui.

-Ồ – đừng sợ chúng – ẩn giả khích lệ – chỉ một tiếng gầm, một cú vồ là đủ làm chúng kinh hãi mất trí khôn và trở nên hỗn loạn ngay.

Hổ xiêu lòng trước lời khuyến dụ ấy, lấy can đảm quay trở lại và đứng lên mô đất kia.

Chú Heo rừng của thợ mộc đang đứng giữa hai cái hố, bọn heo la lên:

– Chủ tướng xem kìa, tên vô lại kia lại đến!

– Ồ, chớ sợ – nó nói – Chúng ta sẽ tóm nó ngay.

Hổ gầm một tiếng rồi phóng tới vồ lấy chú heo rừng của thợ mộc, ngay lúc ấy chàng Heo né tránh và nhảy ngay xuống cái hố tròn. Hổ không dừng lại được, ngã lộn nhào và rơi trọn vào ngàm của cái hố thứ hai kia, nằm chẹt tại đó. Heo nhảy ra khỏi cái hố của nó, nhanh như chớp, thúc sừng vào đùi con Hổ, xé toang đến thận nó, vùi nanh vào khối thịt ngon ngọt của con vật, và thúc cả vào đầu nó. Rồi nó lôi Hổ ra khỏi hố và la lớn:

– Kẻ thù của các bạn đây, dành cho các bạn đây!

Bọn heo đến trước có thịt hổ mà ăn, còn bọn đến sau chỉ ngửi vào mồm bọn kia mà hỏi thịt hổ ăn giống như ăn thứ gì!

Nhưng bọn heo rừng vẫn chưa thỏa dạ. Chú heo kia đã nhận thấy thái độ của chúng, liền hỏi:

– Bây giờ còn điều gì nữa nào?

– Thưa chủ tướng – chúng nói – Giết được một con hổ thì thật là tốt quá, thế nhưng ông ẩn sĩ giả mạo kia còn có thể mang đến cả chục con hổ nữa!

– Hắn ta là ai thế?

– Một nhà tu giả hiệu ác độc.

– Con hổ kia ta còn giết được, thế các bạn cho rằng một con người còn có thể chạm tới ta được chăng? Hãy đến đó đi và chúng ta sẽ tóm được hắn.

Thế là cả bọn tiến lên.

Bấy giờ ông kia đang lấy làm lạ rằng tại sao Hổ lâu quá mà chưa trở về. Không chừng bọn heo đã tóm được nó rồi?” Ông ta tự nghĩ như vậy và quyết ra đón Hổ ở dọc đường. Khi ông ra thì đàn heo đã kéo đến!

Ông ta vội quơ các đồ dùng rồi phóng chạy. Bọn heo đuổi riết theo. Ông ném bỏ các thứ vướng víu rồi vụt trèo lên một cây sung.

Bọn heo la lên:

– Thưa chủ tướng, thế là xong hết cả rồi! Ông kia đã leo lên cây.

– Cây nào? Chú Heo lãnh đạo hỏi.

– Cây sung! Chúng đáp.

-Ồ – thế thì tốt lắm, các chị heo nái mang nước lại, các bạn heo trẻ bới cây, các bạn tráng kiện có sừng nanh bứt rễ, đám còn lại vây quanh mà trông chừng.

Cả bọn làm theo các nhiệm vụ mà nó giao phó. Trong khi ấy nó lao ngay vào một cái rễ to lớn, rồi như một nhát rìu bổ, nó tống ngã cái cây xuống đất. Bọn heo đang chờ sẵn, xông tới kết liễu vị tu sĩ giả mạo kia, xé ông ra từng mảnh và chỉ trong chốc lát, chúng gặm đến sạch xương!

Thế rồi, chúng đặt chàng Heo rừng của thợ mộc trên thân cây; lấy chiếc vỏ sò của kẻ bạc mạng, đổ đầy nước rồi tưới vào chú Heo rừng kia để tôn lên làm vua. Một chị heo trẻ cũng được chúng tôn lên làm hoàng hậu.

Người ta bảo rằng đó là nguồn gốc của tục lệ này vẫn còn được giữ. Ngày nay khi muốn tôn ai lên làm vua, người ta để người ấy ngồi trên một chiếc ghế đẹp bằng gỗ cây sung rồi dùng ba chiếc vỏ sò tưới vào.

Một vị thần sống ở trong rừng ấy chứng kiến sự việc kỳ diệu ấy, hiện ra trước bầy heo, đứng trong lỗ nứt của thân cây và đọc lên bài kệ thứ ba:

Ta đã thấy một kết đoàn kỳ đặc
Vinh quang thay, những bộ tộc hợp quần!
Ðám heo rừng đã đánh hổ tan hoang
Bằng sức mạnh và sừng nanh hợp nhất.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể xong Pháp thoại này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Trưởng lão Dhanuggahatissa là chú Heo rừng của người thợ mộc, còn Ta là vị thần cây.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vận May (Tiền thân Siri)

Những của cải do mình tạo dựng…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể về một vị Bà-la-môn ăn cắp vận may.

Các tình tiết về câu chuyện Tiền thân này giống như ở số 40. Tiền thân Khadiraga.

Cũng như trước kia vị nữ thần tà giáo sống ở tháp cổng nhà ông Anàthapindika (Cấp Cô Dộc), ăn năn hối lỗi đem bỏ vào kho của ông năm trăm bốn mươi triệu đồng tiền vàng và trở thành bạn của ông. Ông dẫn nàng đến trước bậc Ðạo Sư. Ngài thuyết giảng cho nàng, nhờ thế, nàng nhập quả vị Dự lưu. Từ đó, danh tiếng của vị Trưởng giả lại vang lừng như trước.

Bấy giờ, có một Bà-la-môn sống tại Kỳ Viên có tài xem dấu hiệu của vận may, suy nghĩ: “Cấp Cô Ðộc bị nghèo khó rồi lại trở nên nổi danh. Ta giả bộ thăm hắn rồi lấy cắp vận may của hắn xem sao!

Thế là ông ta đến nhà ông Cấp Cô Ðộc và được đón tiếp rất niềm nở. Sau những lần trao đổi xã giao, chủ nhà hỏi lý do cuộc viếng thăm. Vị Bà-la-môn để ý xem vận may của Trưởng giả kia nằm ở đâu. Bấy giờ ông Cấp Cô Ðộc có một con gà trống trắng, trắng như một vỏ sò đã được cọ rửa, con gà được giữ trong một cái lồng bằng vàng, và vận may của vị Trưởng giả đang nằm trong cái mồng của nó. Thế là người Bà-la-môn ấy đã dò tìm được vận may nằm ở đâu rồi.

– Thưa Tôn giả – ông ta nói – tôi dạy thần chú cho năm trăm người bạn trẻ. Chúng tôi đang bực mìmh vì một con gà trống cứ gáy không phải lúc. Con gà của ngài gáy đúng giờ giấc, vì thế mà tôi đến đây để xin nó. Ngài có thể cho tôi không?

– Vâng, Trưởng giả bảo, và ngay khi ông thốt ra lời ấy thì vận may rời khỏi cái mồng gà và đến nằm trong một viên ngọc gắn ở cái gối. Người Bà-la-môn thấy vận may vào trong viên ngọc liền xin luôn viên ngọc. Và ngay khi chủ nhân thuận cho thì vận may lại rời viên ngọc mà vào nằm trong cái gậy dùng để tự vệ đang đặt trên gối. Người Bà-la-môn thấy thế lại xin thêm chiếc gậy.

– Hãy lấy đi rồi ra về. Chủ nhân nói.

Và ngay lúc ấy, vận may lại rời chiếc gậy mà vào nằm trên đầu người vợ chánh của chủ nhân, đó là Phu nhân Punnalakkhanà (Phước tướng). Thấy thế, vị Bà-la-môn gian xảo kia tự nghĩ: “Ðây là thứ không thể nhượng lại, ta đâu có thể xin được!” Thế rồi ông nói với vị Trưởng giả:

– Thưa Trưởng giả, tôi đến nhà ngài chỉ để đánh cắp vận may của ngài. Vận may ấy nằm trong mồng con gà trống của ngài. Nhưng khi ngài cho tôi con gà trống, vận may lại chạy sang viên ngọc; khi ngài cho tôi viên ngọc, vận may lại sang chiếc gậy; khi ngài cho tôi chiếc gậy thì nó lại chạy thoát ra ngoài và vào trong đầu của Phu nhân Phnnalakkanà. Chắc chắn đây là thứ không thể nhượng lại, vậy không bao giờ tôi có thể có được vận may ấy. Không thể nào đánh cắp vận may của ngài được. Vậy thì ngài hãy giữ nó!

Nói xong, ông ta đứng dậy và ra đi. Ông Cấp Cô Ðộc quyết định kể chuyện cùng bậc Ðạo Sư. Vì thế ông đến tịnh xá. Sau khi thành kính đảnh lễ, ông ngồi xuống một bên và kể cùng đức Phật đầu đuôi sự việc. Bậc Ðạo Sư nghe xong và dạy:

– Này thiện nam tử, ngày nay vận may của một người không đi sang người khác. Nhưng ngày xưa vận may của những kẻ kém trí lại đi sang kẻ khôn lanh.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn tại vương quốc Kàsi. Lớn lên, ngài được giáo dục tại Takkasilà và sống trong gia đình của ngài. Nhưng khi cha mẹ mất ngài quá sầu muộn, lui về sống ẩn dật trong dãy Hy-mã-lạp Sơn, tụ tập các Thắng trí và các Thiền chứng.

Một thời gian lâu sau, ngài xuống các làng mạc để kiếm muối và đồ gia vị, rồi trú trong các vườn cây của vua Ba-la-nại. Ngày hôm sau trên đường khất thực, ngài ghé đến cổng nhà của một người dạy voi. Ông này cảm mến cung cách của ngài, cho ngài ăn rồi thuận cho ngài trú trong vườn nhà của ông và đều đặn hầu hạ ngài.

Bấy giờ có một người kia làm nghề kiếm củi, từ trong rừng về muộn quá không kịp đến thành phố. Ông phải ngủ đêm tại một ngôi đền, đặt bó củi dưới đầu để làm gối nằm. Tại ngôi đền, có một số gà trống rừng đang đậu trên một ngọn cây. Ðến sáng, con gà đậu trên cao đã để rơi phân trên lưng con đậu bên dưới.

– Ai đã để rơi phân trên lưng tôi thế? Con ở dưới kêu lên.

– Tôi đấy! Con ở trên đáp.

– Sao vậy chứ?

– Mặc tôi, con đậu trên đáp, rồi lại nhỏ phân xuống. Thế là hai con bắt đầu gây gổ nhau và kêu to:

– Ngươi có quyền gì chứ, ngươi có quyền gì chứ.

Cuối cùng, con đậu phía dưới nói:

– Hễ ai giết ta, đem thịt ta quay trên than mà ăn thì sẽ được một ngàn đồng vào mỗi buổi sáng đấy!

Con gà đậu phía trên trả lời:

– Ồ, chớ quá phách lối vì một chuyện quá nhỏ nhặt như thế! Ta ấy à, hễ ai ăn toàn thịt của ta thì sẽ được làm vua; nếu ai ăn phần da bên ngoài của ta, người ấy sẽ được làm tể tướng hoặc làm chánh hoàng hậu tùy theo người ấy là đàn ông hay đàn bà; còn nếu ai lấy xương ta mà gặm thịt thì sẽ được làm quan coi kho báu của nhà vua nếu người ấy là một gia trưởng, và nếu người ấy là một nhà tu thì sẽ được vua trọng vọng!

Người tiều phu nghe hết mọi sự việc và đắn đo suy nghĩ: “Nếu ta được làm vua thì đâu cần một ngàn đồng?” Thế rồi ông im lặng trèo lên cây, chộp lấy con gà trống đậu phía trên cao và giết nó đi. Ông cột túm con gà nhét vào túi áo rồi tự bảo: “Thế là ta sẽ làm vua!” Khi cổng thành vừa mở, ông đã bước ngay vào. Ông ta nhổ lông gà, rửa sạch rồi đem giao cho bà vợ, bảo bà ta làm món thịt thật ngon. Bà vợ làm món thịt với một ít gạo, rồi đem đặt trước mặt chồng và mời chồng ăn.

Người chồng nói:

– Bà nó này, thịt này có giá trị rất lớn, ăn thịt này tôi sẽ trở thành vua và bà sẽ trở thành hoàng hậu!

Rồi hai vợ chồng mang món thịt nấu với gạo ấy ra để trên bờ sông Hằng, họ định tắm xong rồi mới ăn. Thế là sau khi để thịt trên bờ, họ xuống tắm.

Vừa lúc ấy, một ngọn gió dâng nước lên, cuốn thịt đi. Món thịt trôi bập bềnh trên sông. Một người dạy voi, ấy là một nhân vật quan trọng, trong lúc cho voi tắm ở phía dưới dòng sông đã trông thấy món thịt ấy.

– Cái gì đây? Ông ta bảo vớt nó lên.

Có người trả lời:

– Thưa ngài, đây là món thịt nấu với gạo.

Ông ta sai gói lại, niêm phong và gởi về nhà cho vợ ông, dặn rằng khi ông trở về thì mở ra cho ông ăn.

Còn ông tiều phu cứ chạy rông, từ bụng phung ra cả cát và nước mà ông đã nuốt vào.

Báy giờ một vị khổ hạnh kia là giáo sĩ của người dạy voi ấy, vốn có nhãn thông, tự nghĩ: “Ông bạn chủ ta vẫn giữ chức vụ với bầy voi mãi, biết bao giờ ông ta mới được thăng chức?”. Suy nghĩ như vậy, và nhờ có nhãn thông ông thấy rõ người kia và hiểu cần phải làm gì. Ông liền đến trước, ngồi trong nhà người chủ.

Người chủ trở về, kính cẩn chào giáo sĩ rồi ngồi xuống một bên. Ông ta sai dọn ăn, rồi bảo mang thức ăn, thức uống cho vị khổ hạnh. Vị ấy không nhận đồ ăn mang đến cho ông, và nói:

– Tôi sẽ chia thức ăn này ra.

Người chủ chấp nhận. Vị giáo sĩ chia thịt ra từng phần, các phần thịt đưa cho người dạy voi, phần da đưa cho vợ của ông ấy, và lấy phần thịt dính ở xương cho mình. Bữa ăn chấm dứt, giáo sĩ nói với gia chủ:

– Ba ngày nữa, ông sẽ làm vua, hãy cẩn thận mọi việc ông làm!

Rồi vị ấy ra đi.

Vào ngày thứ ba, một ông vua láng giềng đến vây Ba-la-nại. Vua bảo người dạy voi mặc áo của vua rồi lên voi và ra trận, còn chính ngài giả trang, lẫn lộn trong đám quân lính. Một mũi tên bay vọt tới cắm vào vua, thế là vua chết ngay tại chỗ. Người dạy voi biết rằng vua đã chết, liền bảo đưa đến một số tiền lớn rồi đánh trống lên và tuyên bố:

– Những ai muốn được tiền, hãy tiến lên và chiến đấu!

Ðám chiến sĩ trong nháy mắt đã giết được ông vua đối nghịch kia.

Sau tang lễ của vua, các triều thần thương nghị ai là người được chọn làm vua. Họ bảo:

– Khi đức vua chúng ta còn sống, ngài đã mặc long bào cho người dạy voi. Chính người ấy đã chiến đấu và giữ được vương quốc, vậy thì vương quốc sẽ phải được trao cho người ấy!

Thế rồi họ tôn ông lên ngôi vua và vợ của ông được lên làm chánh hậu. Bồ-tát trở thành người thân tín của vua.

*

Sau khi bậc Ðạo Sư kể xong Pháp thoại này, với trí tuệ toàn hảo, Ngài đọc hai bài kệ sau đây:

Những của cải do mình tạo dựng,
Chẳng phải nhờ may mắn mà thành,
Do ơn thần nữ phúc lành
Người hay, kẻ dở đều dành phần cho.

Trên cuộc thế sờ sờ lắm kẻ
Thiện hiền hay ác tệ hung tàn,
Cuối cùng được hưởng giàu sang,
Ðúng ra nào phải là phần họ đâu?

Sau đó, bậc Ðạo Sư dạy thêm:

– Này Hiền giả, những kẻ ấy chẳng có nguồn lợi nào khác ngoài công đức của họ tạo được trong các đời trước; điều này khiến cho ông đạt được những của báu ngay ở chỗ vốn chẳng có hầm mỏ gì. Rồi ngài đọc bài kệ sau đây:

Kho báu kia muôn điều thiện phúc
Thoả mãn bao nguyện ước trời, người:
Hình dung, tiếng nói, tốt tươi,
Mặt mày xinh đẹp, sống đời quyền uy,

Mọi kiêu sa, oai nghi vương giả,
Hạnh phúc đầy, và cả ngôi trời,
Trời, người phúc lạc đôi nơi,
Niết bàn tự chứng, trí thời tự do,

Tình chân thiết dành cho bè bạn,
Với tự mình chiến thắng lấy mình;
Bích Chi Phật quả nên hình:
Giác tri, giải thoát, tu hành tinh chuyên.

Ấy tất cả ước nguyền vừa dẫn,
Kho báu kia vốn sẵn có rồi,
Diệu kỳ công đức cao vời,
Trí nhân, thắng giả muôn người ngợi ca.

*

Cuối cùng bậc Đạo sư vần kệ thứ ba để giải thích những báu vật ẩn chứa vận may của ông Cấp Cô Ðộc:

Gà kia, ngọc nọ, gậy này,
Rồi người vợ nữa, vận may luân hành.
Cho hay một kẻ thiện lành
Kho tàng kia vẫn được dành phần riêng.

*

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Trưởng lão Ànanda là vị vua, và giáo sĩ của gia đình kia chính là đức Phật.

-ooOoo-

  1. Chuyện Heo Rừng Trong Hang Thủy Tinh (Tiền thân Manisùkara)

Vào địa ngục người ưa nói dối…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về vụ sát hại Sundari.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn rất được trọng vọng kính nể. Các tình tiết cũng giống như ở phẩm Kandhaka (Luật tạng) và đây là phần tóm tắt của các tình tiết ấy.

Các Tỷ-kheo của Thế Tôn thường nhận được phẩm vật cúng dường và sự tôn kính như nước của năm con sông đổ vào biển lớn; các người ngoại đạo thấy rằng phẩm vật cúng dường và vinh danh của họ không còn được như trước nữa, mà trở thành lờ mờ như bầy đom đóm trước lúc bình minh; họ liền hợp nhau lại và bàn:

– Từ khi Sa-môn Gotama xuất hiện, lợi lộc và vinh danh của chúng ta đã rời bỏ chúng ta. Chẳng ma nào biết rằng chúng ta đang có mặt trên đời. Ai có thể giúp ta đem lại tiếng xấu cho Sa-môn Gotama và làm cho ông ta không còn nhận được mọi lợi dưỡng này?

Thế rồi họ bỗng nghĩ: “Sundari có thể giúp ta việc ấy”.

Một hôm Sundari đến thăm rừng cây của người ngoại đạo, họ chào cô ta mà chẳng nói gì cả. Cô ta cứ hỏi đi, hỏi lại mãi mà vẫn không được ai trả lời. Cô liền hỏi:

– Có việc gì mà các thánh phụ lại phiền não thế?

Các người ngoại đạo đáp:

– Này chị, há chị chẳng thấy Sa-môn Gotama đã làm chúng ta phiền não, đã tước đi của chúng ta những phẩm vật bố thí và vinh danh như thế nào ư?

Cô ta hỏi:

– Thế thì tôi có thể làm gì đây nào?

– Này chị, chị xinh đẹp lại đáng yêu. Chị có thể làm ô nhục cho Gotama, lời nói của chị sẽ gây ảnh hưởng đến quần chúng, và như vậy có thể phục hồi cho chúng ta những phẩm vật cúng dường và danh thơm như trước.

Cô ta nhận lời và từ giã ra đi. Sau đó cô thường mang hoa, dầu thơm, hương liệu, long não, đồ gia vị và trái cây, cứ vào mỗi buổi chiều đám đông trở vào thành sau khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp thì cô quay mặt về phía Kỳ Viên. Hễ ai hỏi cô sắp đi đâu thì cô bảo:

– Tôi sắp đến với Sa-môn Gotama, tôi sống với ông ta trong một hương phòng.

Thế rồi cô ngủ đêm tại một xóm ngoại đạo và sáng hôm sau đi theo con đường từ Kỳ Viên vào thành phố. Hễ có ai hỏi cô đi đâu về thì cô bảo:

– Tôi đã ở với Sa-môn Gotama trong một hương phòng và ông ấy đã làm tình với tôi.

Vài ngày sau các ngoại đạo mướn vài tên vô lại giết chết Sundari trước phòng của đức Gotama rồi đem ném xác cô ta trong một đống rác. Bấy giờ các người ngoại đạo mới la ầm lên về Sundari rồi thông báo với nhà vua. Vua hỏi họ nghi ngờ chỗ nào, họ trả lời rằng cách đấy ít ngày Sundari có đến Kỳ Viên nhưng sau đó sự việc xảy ra thế nào thì họ không biết. Vua sai họ đi kiếm cô ta. Ðược lệnh, họ mang theo một số người hầu riêng của vua, và đi đến Kỳ Viên, tại đó họ kiếm quanh quẩn rồi tìm thấy Sundari trong đống rác. Họ gọi một cái cáng mang thi thể cô về thành phố và trình vua rằng các môn đệ của đức Gotama đã giết Sundari rồi ném xác vào đống rác để che giấu tội cho bậc Ðạo Sư của họ.

Vua sai các ngoại đạo ấy đi khắp thành phố. Trên khắp các đường sá họ vừa đi vừa la lớn:

– Hãy đến đây mà xem việc làm của các Tỷ-kheo môn đệ của Thái tử Thích- Ca.

Thế rồi họ trở lại cổng cung điện. Vua cho đặt thi thể Sundari trên tấm bệ rồi đưa vào nghĩa địa canh giữ. Tất cả mọi người trừ các Tỷ-kheo đều đi khắp trong, ngoại thành, khắp các công viên, khắp rừng cây, nhục mạ các Tỷ-kheo và kêu lên:

– Xin tới mà xem công việc làm của các môn đệ của Thái tử Thích-Ca.

Các Tỷ-kheo kể hết đầu đuôi cho đức Phật, bậc Ðạo Sư dạy rằng:

– Ðược rồi. Hãy đi ra và khiển trách những người này bằng các lời sau:

Vào địa ngục người ưa nói dối,
Cùng người nào chối việc mình làm
Cả hai, thần chết đã mang
Như người ác hạnh vẫn thường tái sanh.

Nhà vua sai vài người đi tìm xem Sundari còn bị kẻ nào giết nữa không. Bấy giờ bọn vô lại đang uống rượu bằng thứ tiền vấy máu và gây gổ nhau. Một đứa trong bọn nói:

– Mày đã giết Sundari bằng một cú đập rồi ném xác cô ấy vào trong đống rác, thế rồi giờ đây mày mua rượu bằng số tiền vấy máu ấy!

– Ðúng đây rồi, đúng đây rồi!

Những người được vua sai đi nghe nói thế rồi bắt bọn vô lại kia đem đến trình vua. Vua hỏi:

– Có phải chúng bây đã giết Sundari không?

Chúng thú nhận đã làm như thế.

– Ai sai chúng bây?

– Tâu Ðại vương, các người ngoại đạo.

Vua gọi các người ngoại đạo đến và phán:

– Hãy đỡ thi thể Sundari lên rồi mang nàng đi khắp thành phố, vừa đi vừa kêu lớn:

– Cô Sundari này muốn làm nhục Sa-môn Gotama, chúng tôi đã bảo giết cô ta; đức Gotama cũng như các môn đệ của Ngài không hề có tội lỗi gì; chính chúng tôi mới là có tội!

Bọn người ngoại đạo làm theo lệnh ấy. Số đông những người chưa được giáo hóa cũng đã tin như thế. Bọn ngoại đạo đã không còn gây tội ác vì phải bị trừng phạt về tội giết người. Từ đó về sau, tiếng tăm của đức Phật ngày càng lừng lẫy. Thế rồi một hôm, các Tỷ-kheo bắt đầu bàn tán trong Pháp đường:

– Này Hiền hữu, bọn ngoại đạo tưởng bôi nhọ đức Phật nhưng chính họ chỉ tự bôi nhọ mà thôi. Từ đó, lợi lộc và danh vọng của chúng ta càng tăng thêm.

Bậc Ðạo Sư bước vào và hỏi các Tỷ-kheo đang bàn tán việc gì. Họ thuật cho Ngài nghe. Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, không thể nào gây bất tịnh cho đức Phật được. Cố sức bôi nhọ đức Phật cũng giống như cố sức bôi nhọ viên ngọc thượng hạng mà thôi. Vào thời xưa, người ta cũng đã từng mong làm vẩn đục một viên ngọc đẹp nhưng không cách nào làm được, đành phải chịu thất bại mà thôi.

Rồi Ngài kể một câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi ngài lớn lên thấy rằng tham dục là khổ, ngài liền ra đi, vượt qua ba lớp núi của dãy Hy-mã-lạp Sơn (Tuyết Sơn) và ngài trở thành một ẩn sĩ sống trong một túp lều lá.

Gần lều của ngài có một hang bằng thủy tinh trong đó có ba mươi con Heo rừng đang sống. Một con Sư tử thường lai vãng gần hang ấy. Bọn Heo thường cứ thấy bóng Sư tử phản chiếu vào hang và kinh sợ đến gầy ốm, xanh xao. Chúng liền nghĩ: “Chúng ta thấy cái bóng phản chiếu ấy vì thủy tinh quá trong trẻo. Chúng ta nên làm cho thủy tinh dơ bẩn và mờ đục đi”.

Thế rồi chúng lấy bùn đất ở trong một vũng nước gần đó đem bôi chà vào thủy tinh. Nhưng thủy tinh được đánh bóng bằng lông heo rừng trở thành sáng loáng hơn bao giờ hết. Bọn Heo không biết phải tính sao, liền quyết định đến hỏi vị ẩn sĩ kia làm thế nào để làm dơ bẩn thủy tinh. Chúng đến nơi, sau khi kính cẩn chào, chúng ngồi xuống một bên ẩn sĩ và đọc hai bài kệ:

Ba chục chúng tôi đã sống trong
Vẻ sáng động kia nay nhọc sức,
Chúng tôi chẳng thể vấy dơ xong.
Dù đã tốn công đem hết sức,
Làm lu mờ bóng sáng kia đi,
Bóng kia càng sáng hơn lên mãi,
Xin hỏi chẳng hay duyên cớ gì?

Nghe xong Bồ-tát đọc bài kệ tiếp:
Thủy tinh kia quý giá dường bao,
Trong sáng, luôn luôn rực ánh hào,
Tuyệt chẳng vật gì ngăn vẻ sáng,
Heo nên dời chỗ ở đi nào!

Nghe lời Bồ-tát, bọn heo dời đi ở chỗ khác.

Còn Bồ-tát chuyên tâm thiền định và tái sanh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi kể xong Pháp thoại, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Ta là vị ẩn sĩ nọ.

PHẨM BA BÀI KỆ (tt)

  1. Chuyện Con Heo Liên Căn (Tiền thân Sàlùka)

Chớ ganh với món Liên căn…,

Chuyện này được bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên, về sự cám dỗ của một cô gái mập.

Các tình tiết sẽ được trình bày trong chuyện Callanàrada Kassapa, số 477. Bậc Ðạo Sư hỏi Tỷ-kheo ấy có thật đã yêu không, Tỷ-kheo ấy thưa vâng. Ngài hỏi:

– Yêu ai?

– Yêu cô gái mập.

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Này Tỷ-kheo, cô kia chính là mối họa của ông. Xưa kia cũng như bây giờ, ông đã trở thành đồ ăn cho đám đông vì đám cưới cô ấy.

Thế rồi, do yêu cầu của các Tỷ-kheo, Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một con bò đực, tên là Ðại hồng mao, có một con bò em nó là Tiểu hồng mao. Cả hai con đều làm việc cho một gia đình kia.

Trong gia đình này có một cô gái dậy thì, được một gia đình kia hỏi xin cưới. Gia đình cô gái có một con heo tên là Sàlùka hay Liên căn đang được nuôi mập tròn để làm tiệc trong ngày đám cưới. Con heo thường nằm ngủ trong chuồng.

Một hôm Tiểu hồng mao bảo anh:

– Này anh, chúng ta làm việc cho gia đình này, giúp họ sinh sống. Thế mà họ chỉ cho chúng ta ăn cỏ và rơm; trong khi ấy, họ lại cho con heo kia ăn bột gạo với sữa, còn cho nó ngủ trong chuồng. Thử hỏi nó làm gì cho họ chứ?

Ðại hồng mao bảo em:

– Này em, chớ thèm thứ bột gạo pha sữa ấy của con heo. Người ta muốn làm thịt con heo nhân ngày đám cưới của tiểu thư nhà ta đấy. Hãy chờ vài ngày nữa, em sẽ thấy nó bị lôi ra khỏi chuồng, bị giết chết, bị xẻ ra từng miếng và bị khách khứa ăn thịt cho mà coi.

Nói xong, Ðại hồng mao sáng tác hai bài kệ đầu:

Chớ ganh với món Liên căn,
Ðồ ăn của nó là phần tử vong,
Rạ rơm kia, hãy bằng lòng,
Dài lâu cuộc sống, riêng phần của em.

Chẳng bao lâu khách quen sẽ tới,
Chuyện trò vui, cười nói này kia,
Liên căn sẽ bị chặt ra,
Với mồm há bẹp thật là đáng thương.

Ít ngày sau, khách dự lễ cưới đến. Sàlùka bị giết để làm tiệc. Cả hai con bò thấy số phận heo như vậy, nghĩ rằng rơm rạ của riêng chúng nó vẫn là thứ tốt nhất.

*

Bậc Ðạo Sư với Trí tuệ Toàn hảo, đọc bài kệ tiếp để giải thích sự việc:

Thấy Liên căn trăm đường tội nghiệp
Bị chặt rời, mõm bẹp phơi bày,
Ðôi bò mới tỏ nói lời này:
Rạ rơm thô thiển tốt may hơn nhiều.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế và ở phần kết thúc về Tứ Ðế, vị Tỷ-kheo kia đắc quả Dự Lưu.

Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ cô gái mập mạp kia vẫn là một trong cả hai chuyện. Tỷ-kheo bị ái nhiễm kia là Sàlùka, Ànanda là Tiểu hồng mao, còn chính ta là Ðại hồng mao.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chê Bai Lợi Nhuận (Tiền Thân Làbha-Garaha)

Kẻ cuồng si, kẻ chuyên lời phỉ báng.

Chuyện này được bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo bằng hữu của Trưởng lão Xá-lợi-phất.

Tỷ-kheo này đến chào Trưởng lão rồi ngồi xuống một bên, hỏi Trưởng lão nói cho biết làm cách nào để được lợi nhuận, làm sao để ông ta thâu được y phục vật dụng v.v… Trưởng lão đáp:

– Này Hiền hữu, có bốn cách khiến cho một người thành công trong việc đạt lợi nhuận. Người ấy phải từ bỏ lòng khiêm tốn, phải từ bỏ hội chúng, phải làm ra vẻ điên khùng dù mình chẳng điên khùng, người ấy phải nói ngang ngược; người ấy phải cư xử như phường múa hát; người ấy phải dùng lời ác độc ở khắp nơi.

Trưởng lão giảng cách thức khiến người thu đạt nhiều như vậy. Vị Tỷ-kheo kia không đồng ý với cách này và bỏ đi. Trưởng lão đến thuật chuyện cùng bậc Ðạo Sư. Ngài dạy:

– Ðây không phải là lần đầu tiên vị Tỷ-kheo kia chê bai lợi nhuận. Trước kia ông ta cũng đã chê bai như thế.

Rồi do yêu cầu của Trưởng lão, Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi lên mười sáu tuổi ngài đã tinh thông ba bộ kinh Vệ-đà và mười tám học thuật. Ngài trở thành vị thầy lừng danh, dạy dỗ một đám năm trăm thanh niên. Một thanh niên kia mới học đạo, một hôm đến hỏi thầy:

– Những người này đạt lợi nhuận như thế nào?

Vị thầy trả lời:

– Con ạ, có bốn cách thâu lợi nhuận cho những người này.

Rồi ngài đọc bài kệ thứ nhất:

Kẻ cuồng si, kẻ chuyên lời phỉ báng,
Kẻ tinh ranh như những bọn phường chèo.
Kẻ nói ác, đều thu lợi thật nhiều,
Châm ngôn ấy, giữa đám người điên loạn.

Sau khi nghe lời thầy dạy, người học trò bày tỏ sự phản đối của mình về việc thâu lợi nhuận bằng hai bài kệ sau:

Hổ thẹn thay kẻ nào
Thâu đạt lợi danh vào
Bằng hủy diệt tàn hại,
Bằng tội lỗi gắt gao.

Trong tay một bình bát,
Theo cuộc đời không nhà
Còn hơn theo kiếp sống
Tham lam và ác tà.

Chàng thanh niên ca ngợi đặc tính cuộc đời đạo hạnh như thế; rồi ngay sau đó, trở thành một ẩn sĩ, và ước mong của bố thí bằng cách chính đáng. Chàng tu tập thiền định cho đến khi tái sanh vào cõi Phạm thiên.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, vị Tỷ-kheo phản đối lợi nhuận là người thanh niên kia, còn thầy của người ấy chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Xâu Cá (Tiền thân Macch-Uddàna).

Nào ai tin được chuyện này…,

Chuyện này được bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một thương gia không thật thà.

Các tình tiết câu chuyện như đã kể ở trên.

*

Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong gia đình của một điền chủ.

Khi lớn lên, ngài trở thành một người giàu có. Ngài có một em trai. Khi người cha mất, hai anh em quyết định sắp đặt công việc của cha. Thế rồi họ đến một làng kia, nơi đây họ được trả một ngàn đồng. Trên đường về, trong lúc chờ thuyền bên sông, họ lấy cơm bới ra ăn. Bồ-tát ném phần thức ăn vào sông Hằng cho cá và cúng dường công đức ấy cho vị thần sông. Nữ thần rất vui lòng tiếp nhận việc này vì nó làm tăng thêm thần lực của bà và khi nghĩ đến sự gia tăng năng lực, bà biết được việc đã xảy ra, Bồ-tát cởi áo ngoài để trên cát rồi nằm xuống ngủ.

Người em có tính gian tham. Anh ta muốn lấy tiền của Bồ-tát và giữ cho riêng mình. Thế là anh gói một gói đá trong giống như gói tiền rồi cất cả hai gói.

Hai anh em lên thuyền. Khi thuyền ra giữa sông, người em làm bộ ngã vào mạn thuyền rồi cố ý để rơi cái gói đá ra khỏi thuyền. Thực ra anh ta đã lầm vì đó chính là gói tiền.

– Anh ơi! – anh ta la lên – gói tiền rơi mất rồi. Làm sao đây?

Người anh trả lời:

– Chúng ta biết làm sao được? Thôi việc gì đã qua thì cho qua luôn, đừng nghĩ tới nó nữa!

Nhưng vị thần sông nghĩ rằng bà thực quá vui mừng được nhận sự cúng dường và được gia tăng năng lực nên bà quyết định giữ gìn của cải cho người anh. Do thần lực, bà khiến một con cá miệng rộng nuốt lấy gói tiền và bà giữ gìn con cá cẩn thận.

Khi kẻ gian tham kia về nhà khoái chí về thủ đoạn đã gây cho anh mình, nhưng khi mở gói ra chỉ thấy có sỏi đá mà thôi! Lòng héo hắt, anh ngã vật xuống giường, nằm ôm lấy ván!

Bấy giờ, mấy ngư ông vừa quăng một mẻ lưới. Do năng lực của vị thần sông, con cá kia rơi vào lưới. Các ngư ông đem nó về phố bán. Người ta hỏi giá bao nhiêu.

– Một ngàn đồng bảy hào đấy! Các ngư ông trả lời.

Ai cũng cợt nhạo:

– Kia kìa một con cá với giá một ngàn đồng! Họ cười ầm lên.

Các ngư ông mang con cá đến cửa nhà Bồ-tát và hỏi ngài có mua cá không.

Ngài hỏi:

– Giá bao nhiêu đấy?

– Xin trả bảy hào để lấy cá. Họ đáp.

– Các ông đòi những người khác bao nhiêu chứ?

– Nếu là những người khác thì chúng tôi đòi một ngàn đồng bảy hào. Nhưng ngài chỉ phải trả bảy hào thôi. Họ đáp:

Bồ-tát trả bảy hào để lấy cá, rồi giao cá cho vợ. Bà vợ mổ cá ra và thấy gói tiền. Bà gọi Bồ-tát. Ngài nhìn vào nhận ra các dấu vết và biết đó là gói tiền của chính mình. Ngài tự nghĩ: “Các ngư ông này đòi hỏi những người khác phải trả với giá một ngàn đồng bảy hào, còn ta, vì một ngàn đồng này vốn là của ta nên họ thuận cho ta chỉ trả bảy hào thôi! Nếu một ai khác không hiểu sự việc này thì không gì có thể làm cho người ấy tin được!” Rồi ngài đọc bài thứ nhất:

Nào ai tin được chuyện này
Mấy con cá nọ giá ngay ngàn đồng,
Ta đây chỉ bảy hào con,
Mong gì mua được cá tròn một dây?

Ðọc xong bài, Bồ-tát lấy làm lạ tại sao ngài tìm lại được số tiền ấy. Ngay khi ấy, vị thần sông bay ẩn mình trên không và nói:

– Ta là thần sông Hằng đây. Ngài đã cho bọn cá ăn phần còn thừa và đã cúng dường công đức cho ta, do đó ta đã giữ gìn của cải cho ngài.

Rồi bà đọc một bài kệ:

Người cho lũ cá ăn
Cúng dường ta có phần,
Ta ghi công đức ấy
Và đạo tâm vẹn toàn.

Thế rồi nữ thần kể lại thủ đoạn gian manh của người em. Bà còn nói thêm:

– Hắn nằm kia, lòng héo hon sầu khổ. Chẳng có lợi lộc gì dành cho kẻ gian lận. Ta mang lại cho ngài sở hữu của riêng ngài, đừng để cho mất đi, đừng đem cho đứa em gian tham kia. Hãy giữ tất cả cho mình.

Rồi bà đọc tiếp bài kệ thứ ba:

Tâm địa xấu, dối lừa, trộm cắp,
Gạt anh em mong đạt gia tài;
Ác tâm nào gặp vận may,
Quỉ thần chẳng chút tỏ bày kính tâm.

Vị thần nói như vậy, vì không muốn cho kẻ gian lận xấu xa kia được nhận tiền. Nhưng Bồ-tát nói:

– Không thể như thế được.

Và ngài liền gửi cho em năm trăm đồng.

*

Sau khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế và ở phần kết thúc Tứ Ðế, thương gia kia đắc quả Dự Lưu. Thề rồi bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ người em là thương gia không thật thà kia, còn người anh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Mong Ước Khác Nhau (Tiền thân Nàna-Chanda)

Chúng tôi chung sống một nhà…,

Chuyện này được bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về việc Tôn giả Ànanda nhận một vật phẩm giá trị.

Các tình tiết câu chuyện sẽ được diễn tả trong số 456. Tiền thân Junha, Chương Mười một.

*

Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra làm con trai của chánh hoàng hậu. Ngài lớn lên và được giáo dục tại Takkasilà, rồi lên ngôi vua sau khi phụ vương mất. Một giáo sĩ của hoàng gia bị bãi chức đang sống rất nghèo khổ trong một ngôi nhà cũ kỹ.

Một đêm kia, nhà vua giả trang vi hành trong thành phố để xem xét tình hình. Một đám trộm cướp xong việc, ghé đến uống rượu trong một quán, rồi ra về mang thêm một tí rượu đựng trong một cái bình. Chúng rình thấy vua đang đi trên đường liền la lớn:

– Này anh là ai?

Chúng quật ngài xuống, giật lấy chiếc áo choàng, rồi lượm bình lên và đi, đồng thời mang ngài theo.

Vị Bà-la-môn nói trên bấy giờ đang đứng ngoài đường xem thiên văn. Ông nhìn sao, biết được vua đang rơi vào tay bọn bất lương, liền gọi vợ, bà vội chạy đến hỏi việc gì. Ông bảo:

– Bà nó ạ, đức vua của chúng ta đã rơi vào tay bọn đối nghịch!

Bà vợ nói:

– Sao thưa ông, ông tính thế nào với nhà vua đấy?

– Các Bà-la-môn của ngài sẽ lo việc ấy.

Vua nghe như thế rồi đi được một đoạn, ngài năn nỉ bọn vô lại:

– Thưa các ông, tôi là một kẻ nghèo khó, các ông hãy lấy áo của tôi mà tha cho tôi đi.

Ngài cứ năn nỉ như vậy mãi, cuối cùng bọn chúng thương hại và thả ngài ra. Ngài để ý chỗ ở của hai vợ chồng kia, bèn quay trở lại.

Bấy giờ, vị Bà-la-môn nói với vợ:

– Bà nó ạ, đức vua đã thoát khỏi tay bọn đối nghịch kia rồi.

Vua nghe hết việc này cũng như trước kia. Rồi vua trở về cung điện.

Sáng mai, vua cho gọi các vị Bà-la-môn của ngài và hỏi họ:

– Quí vị có xem thiên văn không?

– Thưa Ðại vương, có.

– May hay rủi thế?

– Thưa Ðại vương, may.

– Không có mây mờ hay nguyệt thực chứ?

– Không, tâu ngài, không có.

Vua phán:

– Ði kiếm đem về cho ta thầy Bà-la-môn ở chỗ nhà kia… Vua chỉ chỗ cho họ.

Thế là họ kiếm đem về vị giáo sĩ già kia. Bấy giờ vua hỏi ông ta:

– Thưa thầy, đêm hôm qua thầy có xem thiên văn không?

– Vâng, tâu Ðại Vương, thần có xem.

– Có mây mờ hay nguyệt thực nào không?

– Thưa Ðại vương có. Ðêm hôm qua, ngài rơi vào tay những kẻ nghịch và một lúc sau ngài thoát ra được.

Nhà vua phán:

– Phải như vậy mới đúng là một chiêm tinh gia.

Ngài bèn đuổi các Bà-la-môn kia và bảo vị lão sư ấy rằng ngài rất bằng lòng rồi ban ông ta một ân huệ. Ông xin phép được về hỏi ý kiến gia đình và vua chấp thuận.

Thầy Bà-la-môn về gọi vợ, con trai, con dâu và cô tớ gái đến và đặt vấn đề với họ:

– Vua ban cho ta một điều ước. Vây ta phải xin gì?

Bà vợ đáp:

– Theo tôi, ông hãy xin một trăm con bò sữa.

Người con trai, tên Chatta nói:

– Theo con, hãy xin một chiếc xe được kéo bởi những con ngựa nòi trắng thực đẹp.

Và người con dâu:

– Còn theo con, hãy xin đủ thứ trang sức, bông tai có gắn ngọc và vân vân…

Rồi đến cô tớ gái (tên là Punnà):

– Theo con, hãy xin một bộ cối chày và một cái rổ sàng thóc.

Còn thầy Bà-la-môn ước được hưởng hoa lợi của một ngôi làng. Thế rồi, ông trở lại chầu nhà vua. Ngài muốn biết vợ ông có được hỏi ý kiến không, ông đáp:

– Tâu Ðại vương, có. Nhưng mọi người được hỏi ý đều không ai đồng ý với nhau.

Rồi ông đọc hai bài kệ sau:

Chúng tôi chung sống một nhà,
Ý này ý nọ chia ra mỗi người!
Trăm bò sữa, ý vợ tôi;
Còn tôi thì muốn một ngôi làng giàu;

Trai ưa ngựa kéo xe sau;
Hoa tai gắn ngọc, mong cầu gái kia;
Punnà bé nhỏ, nữ tỳ
Nói rằng nàng muốn cối đi cùng chày!

Vua phán:

– Ðược rồi! Tất cả đều được như ý.

Rồi ngài đọc bài kệ sau:

Hãy cho người vợ trăm bò;
Người chồng tốt bụng được cho ngôi làng;
Hoa tai ngọc tặng cô nàng;
Xe đôi ngựa kéo gởi chàng trai kia;
Còn cô giúp việc trong nhà
Trao cho chày cối – Thế là thỏa chung.

Thế là vua đã làm thỏa nguyện thầy Bà-la-môn ấy và ban cho cả danh vọng lớn lao. Vua còn ban lệnh từ nay về sau ông được tham dự vào các công việc của vua và giữ ông bên cạnh làm cố vấn riêng cho ngài.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ thầy Ba-la-môn kia là Ànanda, còn vị vua chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thử Thách Giới Đức (Tiền thân Sìla-Vĩmamsa)

Cho rằng đạo hạnh đáng yêu…,

Chuyện này được bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Bà-la-môn thử nghiệm thanh danh của mình.

Các tình tiết đưa đến câu chuyện và ngay cả câu chuyện ở đây đều giống như ở Tiền thân Silavimamsa, số 86.

*

Khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, vị giáo sĩ của vua quyết định thử nghiệm thanh danh của mình về đức hạnh. Trong hai ngày đầu, ông đều mỗi ngày lấy một đồng tiền do người coi kho giữ. Vào ngày thứ ba, ông bị đưa đến trình vua vì bị kết tội ăn cắp. Dọc đường, ông chú ý đến mấy người bắt rắn đang làm cho rắn múa. Vua hỏi tại sao ông làm một việc như vậy. Thầy Bà-la-môn trả lời:

– Ðể thử nghiệm thanh danh của tôi về đức hạnh.

Rồi nói tiếp:

Cho rằng Ðức hạnh đáng yêu
Người ta tôn quí bao nhiêu trên đời.
Xem kia! Rắn độc chết người,
Bảo rằng nó tốt, chẳng đòi chết ngay.

Tôi nay bảo, khắp đầy trần thế
Ðức hạnh là tôn quí đáng yêu:
Kẻ nào đạo đức vẫn nêu
Con đường đạo quả bước theo mãi hoài.

Tình thân thiết, sáng ngời chúng bạn
Rồi đến khi số tận mạng chung,
Kẻ nào tích đức sẵn sàng
Cõi trời, kẻ ấy được phần tái sinh.

Sau khi thuyết giảng về cái đẹp của đức hạnh bằng ba bài kệ trên, giáo sĩ Bà-la-môn ấy nói tiếp:

– Tâu Ðại vương, gia đình tôi đã hiến dâng cho ngài bao nhiêu thứ: tài sản của cha tôi, của mẹ tôi và cả những gì mà tôi đã có: điều ấy chẳng bao giờ dứt. Còn tôi đây, tôi đã lấy mấy đồng tiền kia trong kho báu chỉ để thử nghiệm giá trị của riêng tôi. Bây giờ tôi thấy rằng thọ sanh dòng dõi, huyết thống và gia đình chẳng có giá trị gì trên đời này và chỉ có đức hạnh là tốt nhất. Tôi muốn sống đời Phạm hạnh, xin ngài cho phép tôi được như vậy!

Giáo sĩ cứ năn nỉ mãi, cuối cùng vua đành chấp thuận. Thế là ông lìa bỏ thế gian lui vào dãy Hy-mã-lạp Sơn (Tuyết Sơn) để sống Phạm hạnh, tu tập các Thắng trí và các Thiền chứng cho đến khi tái sanh vào cõi Phạm thiên.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vị giáo sư thử nghiệm thanh danh về đức hạnh kia chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cái Bát Thần (Tiền thân Bhadra-Ghata)

Kẻ vô dụng một lần được bát…,

Chuyện này được bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một người cháu của Trưởng giả Cấp Cô Ðộc.

Người này đã hoang phí số tài sản kế thừa là bốn trăm triệu đồng vàng. Anh ta đến thăm người chú Cấp Cô Ðộc và được Trưởng giả cho một ngàn đồng để làm vốn mua bán. Anh ta tiêu xài hết số tiền rồi lại đến Trưởng giả. Lần này anh được cho năm trăm đồng. Tiêu xài hết xong, anh lại đến và lần này chú anh chỉ cho anh hai bộ quần áo vải thô. Thế là khi anh đã hết luôn hai bộ quần áo kia và đến xin thêm một lần nữa thì bị chú anh tóm cổ ném ra cửa. Anh ta chẳng còn ai giúp đỡ, sau đó đã ngã xuống bên một xó đường và chết. Người ta kéo anh ra rồi ném ở đấy.

Ông Cấp Cô Ðộc đến kể với đức Phật về các sự việc đã xảy ra cho cháu ông, bậc Ðạo Sư bảo:

– Làm sao ông mong làm thỏa mãn một kẻ chính Ta ngày xưa cũng không thể làm thỏa mãn dù rằng Ta đã cho anh ta một cái Bát Ước.

Rồi do yêu cầu của Trưởng giả, Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là con của một thương gia giàu có. Sau khi cha mất, ngài thay cha quán xuyến mọi việc. Trong nhà của ngài có chôn một kho tàng bốn trăm triệu đồng. Ngài có một con trai độc nhất. Bồ-tát bố thí, hành thiện cho đến khi chết và tái sanh làm Thiên chủ Ðế Thích (Sakha).

Con trai của Bồ-tát làm một cái rạp ngoài đường để ngồi uống rượu cùng với đám bạn bè tụ tập quanh anh ta. Anh trả một ngàn đồng cho bọn làm trò chạy nhảy, nhào lộn, bọn ca sĩ, vũ công, suốt ngày ăn nhậu, trác táng. Anh rong chơi đây đó, chỉ đòi đàn địch múa ca, mãi mê theo đám bạn thô lỗ, chìm đắm trong thói nhàn cư lười biếng. Vì thế, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, anh đã tiêu xài cả kho tàng bốn trăm triệu đồng, hết cả mọi sở hữu, của cải, đồ đạc rồi trở nên nghèo khó cực khổ đến độ phải lang thang rách rưới tả tơi.

Thiên chủ Ðế Thích, trong lúc suy xét, biết rõ anh ta nghèo khổ như thế nào. Do lòng thương con thúc đẩy, ngài cho anh ta một cái Bát Ước và dặn:

– Con ạ, hãy giữ gìn, chớ làm vỡ cái bát này. Bao lâu con còn giữ được nó thì tài sản của con sẽ không cạn được. Vì vậy, hãy giữ gìn nó cẩn thận!

Nói xong, ngài quay về trời.

Sau đó, anh chàng kia chỉ lấy bát uống rượu chứ chẳng làm gì cả. Một hôm, trong lúc say sưa, anh ném Bát lên không cho nó rơi xuống mà bắt lấy. Thế rồi có lần anh bắt hụt, Bát rơi xuống đất vỡ tan tành! Thế là anh lại trở nên nghèo khó, rách rưới tả tơi đi khắp đây đó cầm bát ăn xin rồi cuối cùng ngã xuống một bờ tường rồi chết.

Khi kể xong chuyện này, bậc Ðạo Sư đọc tiếp:

Kẻ vô dụng một lần được bát,
Lòng muốn gì, Bát tất thỏa ngay,
Bao lâu còn giữ Bát này,
Tiền tài luôn vẫn còn đầy cho anh.

Trong một lúc ngông nghênh say khướt,
Anh làm tan Bát phước lành rồi!
Lõa lồ, rách rưới tả tơi,
Kẻ rồ tội nghiệp sống đời đắng cay.

Kẻ nào có gia tài đồ sộ
Nhưng hưởng đời, tiết độ chẳng hay,
Phút giây tàn mạt! – cũng tày
Anh chàng khờ khạo vỡ ngay Bát thần.

*

Với Trí tuệ Toàn hảo, bậc Ðạo Sư đọc các bài kệ trên, rồi nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, người cháu của Cấp Cô Ðộc là anh chàng vô lại đã đành vỡ cái Bát phước lành kia, còn chính Ta là Ðế-Thích.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vua Quạ Supatta (Tiền thân Supatta)

Ở nơi đây, thành Ba-la-nại…,

Chuyện này được bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về việc Trưởng Lão Xá-lợi-phất dâng tặng bà Bimbàdevi một bữa cơm trộn bơ tươi và cá hồng.

Các tình tiết câu chuyện cũng giống như ở số 281. Tiền thân Abbhantara đã kể trước đây. Ở đây, vị Tỷ-kheo-ni bị đau bao tử. Tôn giả La-hầu-la đến thuật chuyện với Trưởng lão. Trưởng lão bảo La-hầu-la ngồi ở phòng đợi rồi ngài đến nhà vua, được cúng cơm, cá hồng và bơ tươi. La-hầu-la mang cơm ấy cho vị Tỷ-kheo-ni, mẹ ông. Khi bà dùng xong món ăn ấy thì bệnh dứt ngay. Vua sai người đi dò xem, rồi từ đó luôn luôn bảo đem cúng dường bà món ăn ấy.

Một hôm, các Tỷ-kheo bắt đầu bàn tán trong Pháp đường:

– Này Hiền hữu, Tướng quân Chánh pháp đã làm thỏa lòng vị Tỷ-kheo-ni ấy với món ăn như thế kia.

Bậc Ðạo Sư bước vào, hỏi các Tỷ-kheo đang bàn tán chuyện gì. Khi được thuật lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Xá-Lợi-Phất đã tặng mẹ của La-hầu-la món bà cần; trước kia, vị ấy cũng đã làm như thế.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một con Quạ, lớn lên trở thành vị lãnh đạo của tám mươi ngàn con quạ, tức là Vua Quạ (Ô vương), tên Supatta hay Hoàng Dực (Cánh vàng). Vợ chánh của vua Quạ tên là Suphassã hay Nhu Hòa; vị Ðại tướng là Sumukho, Mỹ Chủy (Mỏ đẹp). Vua Quạ sống với đàn tám mươi ngàn con gần Ba-la-nại.

Một hôm, vua Quạ và vợ đi kiếm ăn bay qua bếp của nhà vua. Người đầu bếp của vua vừa làm xong một số đĩa thức ăn gồm đủ các loại cá. Ông chưa đậy các đĩa vì muốn để như thế một lát cho nguội. Ô hoàng hậu ngửi thấy mùi thơm của thức ăn và khao khát được một miếng. Nhưng hôm đó nàng chẳng nói gì.

Thế nhưng đến ngày hôm sau, khi Vua Quạ đến rủ vợ đi ăn thì nàng bảo:

– Hãy đi một mình! Thiếp đang quá thèm muốn một thứ!

– Thứ gì vậy?

– Thiếp muốn ăn một ít đồ ăn của nhà vua và vì không thể có được nên thiếp sắp chết đây.

Vua Quạ ngồi xuống và suy nghĩ. Mỹ Chủy đến gần vua và hỏi xem vua đang buồn về việc gì. Vua Quạ kể lại sự việc.

-Ồ-, sẽ được ngay mà!

Quạ Tướng quân bảo thế, rồi nói thêm để cả hai được yên tâm:

– Hôm nay các ngài cứ ở đây, thần sẽ đi kiếm đồ ăn về.

Thế rồi, Quạ Tướng quân họp đàn Quạ lại và kể lại mọi việc cho chúng.

– Nào chúng ta hãy đi lấy thứ ấy!

Rồi tất cả cùng bay đến Ba-la-nại. Quạ Tướng quân cắt đặt từng nhóm quạ đậu đó đây gần nhà bếp để trông chừng, còn nó cùng với tám tên giỏi nhất, ngồi trên mái bếp. Trong khi chờ thức ăn của vua được dọn ra, nó ra lệnh cho chúng:

– Khi người kia mang thức ăn đi, ta sẽ làm cho ông ta để rơi các cái đĩa xuống. Một khi đã làm như thế là xem như đời ta tàn rồi. Vậy thì bốn đứa trong bọn phải mổ và ngậm cơm đầy miệng, còn bốn đứa kia ngậm cá rồi bay về dâng cho vua và hoàng hậu của ta ăn; các ngài có hỏi ta đâu thì bảo rằng ta sắp về tới.

Người đầu bếp bấy giờ đã làm xong nhiều thức ăn cao lương móc vào đòn gánh và đem tới phòng của vua. Khi ông băng qua sân, Quạ Tướng ra hiệu cho bọn tùy tùng rồi bay đâm vào ngực ông, tấn công bằng những cái vuốt trương ra, bằng chiếc mỏ nhọn như mũi thương, nó mổ vào chóp mũi và bằng hai bàn chân nó khóa chặt hai hàm của ông ta.

Nhà vua đang đi dạo ở tầng trên, khi nhìn ra cửa sổ lớn trông thấy con quạ đang làm như thế, liền gọi người đầu bếp:

– Này, thả mấy cái đĩa xuống và bắt lấy con quạ!

Người kia liền thả đĩa xuống rồi nắm chặt con quạ.

– Ðến đây! Vua kêu lên.

Thế là các quạ kia tha hồ ăn, rồi mổ lấy phần còn lại như đã được dặn dò và mang đi. Sau đó cả bọn quạ tụ tập lại và ăn phần dư thừa. Tám con quạ giỏi nhất kia mang đồ về cho Quạ Vua và hoàng hậu. Thế là cơn thèm khát của Nhu Hòa lắng xuống.

Người hầu mang bữa ăn kia đem con quạ đến trình vua.

– Này Quạ! – Vua bảo – Ngươi tỏ ra chẳng kính trọng gì ta! Ngươi đã làm vỡ mũi người hầu của ta! Ngươi đã liều lĩnh ném đi cả cuộc sống của ngươi! Ðiều gì khiến ngươi đã làm như thế?

Quạ trả lời:

– Tâu Ðại vương! Vua của tôi sống gần Ba-la-nại, tôi là chánh tướng quân của ngài. Vợ ngài (tên Nhu Hòa) quá khao khát muốn nếm thử đồ ăn của Ðại vương. Vua của tôi nói cho tôi biết bà ấy đang thèm muốn thứ gì và liền đó tôi quyết hy sinh đời mình. Giờ đây, tôi đã gởi thức ăn về cho hoàng hậu rồi, nguyện ước của tôi đã trọn. Ðó là lý do khiến tôi đã hành động như thế.

Về để giải thích sự việc đó, nó đọc ba bài kệ sau đây:

Ở nơi đây, thành Ba-la-nại,
Tâu Ðại vương, có vị Quạ Vua,
Tên Hoàng Dực, với đàn kia,
Tám mươi ngàn quạ đều là thần dân.

Nhu Hoàng hậu muôn phần mơ ước:
Bà khát khao có được bữa cơm,
Cá kia riêng của Ðại vương
Bắt tươi nấu chín vừa mang lên bàn.

Xin xem tôi như hàng sứ giả,
Vua tôi sai nên đã đến đây.
Kính Vua, tôi tỏ lòng này,
Mũi người kia bị tôi gây đau phiền.

Nghe thế, vua liền nói:

– Ta đây đã ban danh vọng lớn lao cho lắm người, nhưng không thể khiến họ thân thiết được. Ngay cả việc ban các tặng vật như toàn thể một ngôi làng đi nữa, ta cũng chẳng tìm thấy một kẻ dám hy sinh mạng sống cho ta. Thế mà con vật này, vốn chỉ là một con quạ, lại hy sinh đời mình cho vua của nó. Nó rất cao cả, nhu hòa, thiện hảo.

Rất đẹp lòng vì các tình nết tốt của Quạ, vua tặng nó một cái lọng trắng để tỏ lòng sùng ái trân trọng. Quạ chỉ lễ bái vua về tặng vật kia, rồi lại ca ngợi đức hạnh của Hoàng Dực, vua nó.

Nhà vua cho mời Hoàng Dực tới, nghe các lời giáo huấn của Vua Quạ rồi gửi cho vợ chồng Vua Quạ thức ăn của chính ngài, còn về phần bọn quạ kia thì mỗi ngày ngài đều sai nấu thực nhiều cơm để cho chúng. Chính ngài đi theo lời giáo huấn của vị Bồ-tát, che chở mọi loài sinh vật và hành thiện. Những lời giáo huấn của Quạ Hoàng Dực được ghi nhớ suốt bảy trăm năm.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vua là Ànanda, tướng quạ là Xá-lợi-phất, còn vua quạ Supatta chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thân Hư Hoại (Tiền thân Kàya-Vicchinda)

Bị cơn bệnh trầm kha quật xuống…,

Chuyện này được bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một người đàn ông kia sống tại Xá-vệ.

Ông ta bị bệnh hoàng đản và các thầy thuốc bảo rằng đây là trường hợp không hy vọng chữa khỏi được. Vợ con ông không biết ai có thể chữa lành bệnh cho ông. Ông ta tự nghĩ: “Nếu ta được lành bệnh ta sẽ sống đời tu hành”.

Thế rồi vài ngày qua, sau khi dùng một thứ gì đó, ông thấy khá rồi được lành bệnh. Bấy giờ ông đến Kỳ Viên và xin gia nhập Giáo đoàn. Ông được bậc Ðạo Sư truyền tiểu giới (Sa-di) và đại giới (Tỷ-kheo) rồi ít lâu sau, ông chứng Thánh quả.

Sau đó, một hôm các Tỷ-kheo bàn tán với nhau trong Pháp đường:

– Này Hiền hữu, người kia bị bệnh hoàng đản và thệ nguyện rằng nếu lành được bệnh sẽ sống đời Phạm hạnh. Ông ta đã làm như thế và giờ đây đã đắc Thánh quả.

Bậc Ðạo Sư bước vào, hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi đây với nhau bàn tán chuyện gì. Sau khi họ thuật lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ riêng người ấy đã làm thế. Xưa kia, các trí giả, khi được lành bệnh, cũng sống đời Phạm hạnh rồi được phần lợi cho riêng mình.

Rồi ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Ngài lớn lên rồi bắt đầu thu góp của cải: nhưng ngài lại mắc bệnh hoàng đản. Các thầy thuốc cũng không thể làm gì cho ngài được, vợ ngài và cả gia đình cũng hết cả hy vọng. Ngài định rằng nếu được lành bệnh Ngài sẽ sống đời tu hành. Thế rồi ngài dùng một thứ gì đó, cảm thấy khỏe rồi lành bệnh. Ngài ra đi lên dãy Hy-mã-lạp Sơn (Tuyết Sơn) và trở thành một ẩn sĩ. Ngài tu tập các Thắng trí và các Thiền chứng rồi an trú trong thiền lạc.

Ngài tự nghĩ: “Từ lâu nay, ta chưa hề được hạnh phúc lớn lao như thế này!” Rồi ngài nói lên niềm cảm hứng:

Bị cơn bệnh trầm kha quật xuống,
Ta nằm dài đau đớn sầu bi.
Thân ta chóng héo tàn đi
Như hoa trên đất khô vì nắng kia.

Cao sang cũng như là hèn nhục,
Tinh khiết cùng vẩn đục như nhau.
Kẻ nào mù quáng biết đâu
Tưởng vùng hư thối là mầu đẹp tươi.

Thân bệnh hoạn này thời đáng thẹn
Quá thối hư, bất tịnh mà thôi.
Kẻ cuồng si hễ biếng lười,
Lang thang khắp lối, cõi trời chẳng sinh.

Bậc Ðạo Sĩ diễn tả bằng nhiều cách tính chất của bất tịnh và của đau khổ thường hằng, rồi chán chê thân xác và tất cả những thành phần của nó, ngài suốt đời tu tập Bốn Vô lượng tâm cho đến khi tái sanh vào cõi Phạm thiên.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế. Lúc ấy nhiều vị Tỷ-kheo đắc quả Dự Lưu v.v… Rồi bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Ta chính là vị ẩn sĩ ấy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Chim Ăn Trái Đào (Tiền Thân Jambu-Khàdaka)

Ai đó ngồi cây đào đỏ hồng…,

Chuyện này được bậc Ðạo Sư kể tại Trúc-Lâm về Ðề-bà-đạt-đa và Kokàlika.

Bấy giờ, khi Ðề-bà-đạt-đa bắt đầu mất vật phẩm cúng dường và thanh danh, Kokàlika đi từ nhà này sang nhà khác bảo:

– Trưởng lão Ðề-bà-đạt-đa là dòng dõi Sơ tổ Hoàng đế, thuộc hoàng tộc Okkàka, là hàng quý tộc đích truyền, đặc tài về mọi kinh điển, sung mãn thần thông, nói năng ngọt ngào, là một luật sư thiên hảo. Hãy cúng dường Trưởng lão, hãy giúp đỡ ngài!

Kokàlika ca ngợi về Ðề-bà-đạt-đa bằng những lời như thế. Mặt khác Ðề-bà-đạt-đa lại ca ngợi Kokàlika như sau:

– Kokàlika vốn thuộc một gia đình Bà-la-môn ở phía Bắc, ông sống đời tu hành, thâm nhập kinh điển, là một luật sư có tài. Hãy cùng dường ông ấy, hãy giúp đỡ ông ấy.

Họ đi khắp nơi, người này ca ngợi người kia như thế để được nhận đồ ăn của từng nhà. Một hôm, các Tỷ-kheo bắt đầu bàn tán chuyện ấy trong Pháp đường:

– Này Hiền hữu, Ðề-bà-đạt-đa và Kokàlika đi khắp nơi ca ngợi đức hạnh của nhau trong khi họ chẳng có đức hạnh gì cả, và cứ thế, họ kiếm được lương thực.

Bậc Ðạo Sư bước vào và hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi bàn tán việc gì. Nghe họ thuật lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên các người ấy nhận được lương thực bằng cách ca ngợi nhau. Xưa kia, họ cũng đã làm như thế.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là một Thần cây trong một khu rừng hồng đào (Diêm-phù) kia. Một con Quạ cái kia đậu trên cành cây của ngài và bắt đầu ăn quả. Một con Chó rừng đến, nhìn lên và theo dõi quạ. Nó tự nghĩ: “Nếu ta nịnh tên này thì có lẽ ta sẽ được ăn vài quả đấy!” Vì thế để nịnh Quạ, nó đọc bài kệ đầu:

Ai đó ngồi cây đào đỏ hồng,
Giọng ca thanh lịch rót vào lòng,
Dáng nàng uyển chuyển như công múa
Và vẫn ngồi yên, vẫn lặng không!

Quạ lấy làm tự mãn, trả lời bằng bài kệ thứ hai:

Kẻ nào gia thế cao sang
Mới khen kẻ khác là hàng quý cao.
Chàng cùng mãnh hổ khác nào,
Ðến đây! Ăn thứ tôi trao tặng chàng!

Ðọc xong bài kệ, Quạ rung cành cho vài trái rơi xuống. Bấy giờ vị Thần của cây chứng kiến hai con vật đang ăn, sau khi nịnh hót ve vãn nhau như thế, liền đọc bài kệ thứ ba:

Quân nói dối, ta đây rõ quá!
Tên Quạ kia, tên Chó rừng kia,
Chuyên ăn xác chết thối tha,
Nịnh nhau qua lại nghe ra om sòm!

Ðọc xong bài kệ, vị thần cây liền hóa ra một hình thù hung tợn đuổi cả hai con vật kia đi.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, con Chó rừng là Ðề-bà-đạt-đa, con Quạ là Kokàlika, còn vị Thần cây kia chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Loài Hạ Liệt (Tiền Thân Anta)

Như chàng bò mộng, tấm thân ông…,

Ðây là một chuyện nữa do bậc Ðạo Sư kể tại cùng một nơi, về cùng những người ấy và các tình tiết câu chuyện cũng giống như trên đây.

*

Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là Thần một cây thầu dầu mọc ở gần một ngôi làng kia. Ở trong làng, có một con bò già bị chết. Người ta kéo xác bò và ném vào rừng cạnh cổng làng. Một con Chó rừng đến ăn thịt xác ấy. Thế rồi, một con Quạ cái đến đậu trên cây. Khi thấy Chó rừng, Quạ tìm cách nịnh hót xem có thể được một vài miếng thịt xác bò kia để ăn không. Vì vậy nó đọc bài kệ thứ nhất:

Như chàng bò mộng, tấm thân ông,
Sinh hoạt như sư tử mạnh hùng,
Vinh hiển thay ông, vua các thú!
Ðừng quên một miếng tặng tôi cùng.

Nghe thế, Chó rừng đọc bài kệ thứ hai:

Những ai gia thế trọng cao
Mới ca ngợi đúng kẻ nào quí sang.
Cổ cô giống cổ chim công.
Quạ ơi, bay xuống mà dùng thịt đây.

Vị Thần cây thấy như vậy liền đọc bài kệ thứ ba:

Loài thú hèn nhất, là Chó rừng,
Trong loài chim, Quạ bét sau cùng,
Thầu dầu hạ liệt nhất loài mộc,
Ba thứ chung đây, tối hạ tầng!

*

Khi kể xong Pháp Thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa là con Chó rừng kia, Kokàlika là con Quạ, vị Thần cây ấy là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Biển Cả (Tiền Thân Samudda).

Trên sóng biển ai bay qua đó…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về Trưởng Lão Upananda.

Vị Tỷ-kheo này là kẻ ăn uống quá thô bạo, bao nhiêu cũng không đủ cho ông được, dù cả vài xe thực phẩm cũng chẳng thỏa lòng ông. Trong thời an cư mùa mưa, ông thường sống tại nhiều trú xứ, nơi thì ông để giày dép, nơi thì ông để gậy, nơi thì ông để bình nước, còn ông lại ở một nơi khác. Khi đến viếng một tinh xá ở một vùng quê và thấy các Tỷ-kheo đã đủ sẵn các đồ dùng, ông bắt đầu giảng về bốn loại Sa-môn tri túc rồi lấy y phục của họ; khiến họ lượm đồ rách trong đống rác mà dùng; khiến họ dùng bát đất, cho ông những cái bát kim loại của họ và bất cứ bát nào mà ông thích. Thế rồi ông bỏ các thứ ấy vào một xe rồi mang chúng về Kỳ Viên.

Một hôm các Tỷ-kheo bắt đầu bàn tán trong Pháp đường:

– Này Hiền hữu, Upananda thuộc bộ tộc Thích-ca là một kẻ ăn bạo, một Tỷ-kheo tham lam, đi thuyết pháp cho người ta rồi mang về đầy cả một xe vật dụng của Tỷ-kheo!

Bậc Ðạo Sư bước vào và muốn biết các Tỷ-kheo đang ngồi bàn tán việc gì. Họ thuật chuyện xong, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, trước kia thuyết giảng về hạnh tri túc, Upananda đã sai lầm rồi! Trước nhất ta phải tiết độ trong tham ái của ta rồi mới ca ngợi đức hạnh của kẻ khác:

Trước tiên an định phần mình

Rồi sau giảng dạy, khỏi thành nhiễm ô.

Bậc Ðạo Sư trích lời kệ trên từ Kinh Pháp cú số 158 và quở trách Upananda, rồi dạy tiếp:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Upananda tham lam. Xưa kia ông ta đã nghĩ rằng ngay cả nước biển cũng cần được tiết kiệm kia.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là một vị Thần biển. Có một con Quạ nước bay qua biển. Nó vừa bay đây đó, vừa la lên cố ngăn chặn các bầy cá, các đàn chim:

– Ðừng uống quá nhiều nước biển đấy! Phải giữ gìn nước biển chứ!

Thấy nó như vậy, vị Thần biển đọc bài kệ đầu:

Trên sóng biển ai bay qua đó?
Ai cố công cản trở thủy loài,
Ngăn đàn cá lội ngoài khơi,
Sợ rằng biển cả sẽ vơi dần dà?

Quạ nghe thế liền trả lời bằng bài kệ thứ hai:

Trên thế giới người ta vẫn nói
Rằng tôi đây uống mãi chẳng vừa,
Ra công uống hết biển kia
Làm cho biển chúa giang hà cạn khô.

Nghe thế, Thần biển đọc bài kệ thứ ba:

Dù biển cả có vơi dần nước,
Cũng lại đầy cùng một ngày thôi,
Nào ai làm biển được vơi?
Uống vào nước ấy kể thời thấm chi!

Nói vậy rồi, Thần hiện thành hình một hình thù dữ tợn và đánh đuổi con Quạ nước đi.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Upananda là con Quạ nước, còn vị Thần kia chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Dục Tình Nhảm Nhí (Tiền Thân Kàma-Vìlapa)

Chim ơi, bay ở trên trời…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo đau khổ vì thương nhớ người vợ trước kia của ông.

Các tình tiết câu chuyện được diễn tả ở số 147. Tiền thân Puppharatta, và câu chuyện quá khứ sẽ được kể ở số 423. Tiền thân Indriya.

*

Người ấy bị xiên sống trên cọc như vậy. Trong lúc bị treo, anh ta nhìn lên và thấy một con Quạ đang bay qua không gian. Chẳng quản gì đến nổi đau đớn thống thiết, anh gọi con Quạ để gửi lời nhắn nhủ đến cô vợ thân yêu của mình bằng ba bài kệ sau:

Chim ơi, bay ở trên trời,
Chim mang cánh nọ, cao vời xa bay.
Vợ tôi, đùi đẹp lắm thay,
Nhắn dùm nàng, đã lâu rày phải chăng?

Nàng đâu biết tới đao, thương,
Giận hờn, nàng hẳn lắm đường so đo.
Việc kia, tôi sợ, tôi lo,
Chứ không do bị treo giò nơi đây!

Áo hoa sen, tôi nay bỏ lại,
Cùng ngọc ngà trên gối nằm kia.
Lụa Ba-la-nại mượt mà,
Ðể nàng thỏa ý cửa nhà giàu sang.

Anh ta than thở như vậy rồi chết.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế. Và ở phần kết thúc về Tứ Ðế, vị Tỷ-kheo ái nhiễm đắc quả Dự Lưu.

Bấy giờ, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền Thân:

– Người vợ thời trước là người vợ bây giờ; còn vị Thần chứng kiến sự việc ấy là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Trái Sung (Tiền Thân Udumbara)

Sung đã chín trên cây ngon đẹp…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo sống ẩn dật ở biên địa một ngôi làng nọ.

Trú xứ an lạc này nằm trên một phiến đá phẳng tại một gò đất được quét dọn sạch sẽ, có đủ nước để dùng, gần làng, tiện cho việc đi vào làng khất thực và tiện cho người thân đến biếu thực phẩm. Một Tỷ-kheo kia trên đường đi ghé lại nơi ấy. Vị Trưởng lão sống tại đó tiếp rước người mới đến theo đúng bổn phận của chủ nhân. Ngày hôm sau, Trưởng lão mang theo người bạn mới đi khất thực. Người ta cúng dường thực phẩm cho họ và mời họ hôm sau đến nữa. Vị Tỷ-kheo mới đến này, sau vài ngày sống như vậy, liền nghĩ cách đuổi vị Tỷ-kheo kia đi để chiếm lấy chỗ ẩn cư nọ.

Một hôm ông ta đến thăm vị Trưởng lão và bảo:

– Này Hiền giả, có bao giờ Hiền giả đến tham bái đức Phật chưa?

-Ồ -, chưa, Hiền giả! Vì không có ai coi sóc túp lều của tôi, nếu không thì tôi đã đến lâu rồi!

-Ồ -, tôi sẽ coi sóc túp lều trong khi Hiền giả đến tham bái đức Phật.

Trưởng lão nghe nói thế liền ra đi sau khi căn dặn người làng hãy lo chăm sóc vị Tỷ-kheo kia cho đến khi ông trở về. Vị Tỷ-kheo mới đến ấy bày mưu gièm pha Trưởng lão bằng cách nói xa gần đến mọi tật xấu của Trưởng lão với dân làng.

Vị Trưởng Lão đi viếng bậc Ðạo Sư rồi quay trở về. Nhưng vị Tỷ-kheo mới đến không cho ông ghé lại chỗ ở kia nữa. Trưởng lão phải kiếm một chỗ khác để trú ẩn và sáng hôm sau, ông vào làng khất thực. Nhưng người làng lại từ chối cúng dường ông nữa. Ông ta buồn nản quá, liền quay trở về Kỳ Viên và kể hết đầu đuôi cho các Tỷ-kheo nghe. Họ bắt đầu bàn tán việc ấy trong Pháp đường:

– Này Hiền hữu, Tỷ-kheo kia đã đuổi Tỷ-kheo nọ ra khỏi trú xứ của vị này để rồi chiếm lấy cho riêng mình!

Bậc Ðạo Sư bước vào, và muốn biết các Tỷ-kheo đang bàn tán việc gì. Họ kể chuyện cho Ngài nghe. Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên người nọ đuổi người kia ra khỏi trú xứ của vị này.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là một Thần cây ở trong rừng. Bấy giờ là mùa mưa, mỗi lần mưa thường kéo dài tới bảy ngày. Một con Khỉ nhỏ bé mặt đỏ sống trong một cái hang đá, tránh được mưa. Một hôm, nó đang ngồi trước cửa hang, khô ráo và rất sung sướng. Bấy giờ một con Khỉ mặt đen to lớn, ướt đầm đìa, rã rời vì lạnh, nhìn thấy nó, rồi tự nghĩ: “Làm sao ta có thể đuổi anh bạn kia để sống trong hang của nó nhỉ?” Thế rồi nó trương bụng ra, làm như thể mới được ăn no một bữa thịnh soạn, nó dừng lại trước con Khỉ kia và đọc bài kệ đầu:

Sung đã chín trên cây ngon đẹp,
Khỉ nhà ta được dịp no nê.
Cùng ta đến đó ăn đi,
Bạn ơi, nào phải sợ gì đói đâu?

Khi mặt đỏ nghe thế liền tin ngay. Nó muốn có những trái cây ấy để ăn. Vì vậy nó ra đi, săn đây, kiếm đó, vẫn chẳng thấy trái cây nào. Thế là nó quay trở về, và bấy giờ con Khỉ mặt đen đã ngồi trong hang rồi! Khỉ mặt đỏ quyết đánh lừa con kia, nên đến trước nó đọc bài kệ thứ hai:

Hạnh phúc thay kẻ nào cảm phục
Và tôn sùng những bậc niên cao,
Tôi đây hạnh phúc làm sao!
Bao nhiêu trái ấy ăn vào thỏa thuê!

Con Khỉ lớn nghe vậy liền đọc bài kệ thứ ba:

Người Hy Lạp gặp nhau sinh chiến,
Khỉ gặp nhau, ngửi chuyện mưu xa,
Dù cho trẻ nọ tinh ma,
Ðời nào lừa bắt chim già được đâu.

Thế là con Khỉ mặt đỏ đành bỏ đi.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Tỷ-kheo chủ túp lều kia là con Khỉ nhỏ, kẻ đến lấy phần kia là con Khỉ đen lớn, còn vị Thần cây chính là Ta.

-ooOoo

  1. Chuyện Ẩn Sĩ Komàya-Putta (Tiền Thân Komàya)

Lúc trước đây ngươi thường nghịch phá…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Pubbàràma (Ðông Viên), về một số Tỷ-kheo có tư cách thô lỗ cộc cằn.

Các Tỷ-kheo này ở tầng bên dưới phòng của bậc Ðạo Sư. Họ cứ đem bàn tán những gì nghe thấy được rồi cãi cọ mắng nhiếc nhau. Bậc Ðạo Sư gọi Trưởng lão Moggallàna (Mục-kiền-liên) đến và sai đi làm cho họ biết kinh hãi. Trưởng lão bay lên trên không rồi chạm vào nền nhà bằng ngón chân to lớn của ông làm rung động tới cả bờ xa nhất của đại dương. Các Tỷ-kheo ấy sợ chết, vội chạy cả ra ngoài.

Các Tỷ-kheo bắt đầu biết tư cách thô lỗ của những kẻ ấy, một hôm đem ra bàn trong Pháp đường:

– Này Hiền hữu, có một số Tỷ-kheo đã ẩn cư vào ngôi nhà cứu độ này, lại là những kẻ thô lỗ cộc cằn; họ không thấy sự vô thường, khổ và vô ngã của cuộc đời và cũng chẳng làm bổn phận của họ.

Bậc Ðạo Sư bước vào và hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi bàn tán việc gì. Nghe thuật chuyện ấy, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên họ thô lỗ cộc cằn. Trước kia họ cũng đã như thế.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là con trai của một Bà-la-môn trong một ngôi làng kia. Người ta gọi tên ngài là Komàyaputta. Ít lâu sau, ngài bỏ nhà đi tu tập trong dãy Hy-mã-lạp Sơn (Tuyết Sơn). Có mấy vị khổ hạnh hời hợt đã làm am ẩn dật tại vùng ấy, nhưng họ chẳng dùng phương tiện để phát khởi Thiền định. Họ kiếm trái cây trong rừng để ăn rồi suốt ngày cứ cười đùa chọc ghẹo nhau. Họ có một con Khỉ cung cách cũng thô lỗ như họ, cứ mãi làm cho họ vui bằng cách nhăn mặt và nhảy nhót nhào lộn.

Sau một thời gian dài sống nơi ấy, họ lại đến với dân làng để kiếm muối và các đồ gia vị. Khi họ đi rồi, Bồ-tát đến sống ở trú xứ của họ. Con Khỉ lại diễn các trò đùa cho ngài vui như với những người kia. Bồ-tát búng tay chế nhạo nó và cho nó một bài học:

– Kẻ nào sống với những vị khổ hạnh tinh tấn tu tập thì phải có phẩm cách thích hợp, phải có thiện ý trong hành động và phải chuyên tâm quán tưởng.

Sau đó con Khỉ luôn giữ phẩm hạnh tốt và cư xử đúng đắn.

Thế rồi Bồ-tát ra đi. Các vị khổ hạnh kia lại trở về mang theo muối và các đồ gia vị. Nhưng con Khỉ không còn diễn trò đùa cợt nữa. Họ hỏi:

– Sao thế anh bạn? Sao bạn lại không chơi đùa như bạn vẫn thường làm?

Một người trong bọn đọc bài kệ thứ nhất:

Lúc trước đây người thường nghịch phá
Trong lều cùng ẩn giả chúng ta,
Hãy làm trò khỉ như xưa,
Thành người đức hạnh chẳng vừa lòng đây!

Nghe thế, Khỉ đọc bài kệ thứ hai:

Ko-mà-ya, bậc thầy trí tuệ,
Tôi đã nghe lời lẽ tuyệt vời.
Tôi nay đã khác xưa rồi,
Giờ đây suy tưởng tôi thời noi theo.

Thế rồi người ẩn sĩ đọc bài kệ thứ ba:

Nếu hạt kia người gieo trên đá,
Dù trời mưa, hạt chả nên cây.
Dù người Tuệ Giác tròn đầy,
Suy tư ngươi chẳng mảy may được nào.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, Ngài tuyên thuyết Tứ Ðế và nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo này là các ẩn sĩ hời hợt kia, còn Komàyaputta chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chó Sói (Tiền Thân Vaka)

Chó Sói nọ chuyên bắt sống thú …,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại KỳViên về tình bạn xưa cũ.

Các tình tiết giống như trong bộ Luật tạng (Vinaya Ðại phẩm) đây chỉ là phần trích.

Tôn giả Upasena bấy giờ tu được hai năm, dẫn theo một Tỷ-kheo cùng trong tinh xá, mới tu được một năm, đến tham bái bậc Ðạo Sư. Người ấy bị bậc Ðạo Sư quở trách rồi lui về. Sau đó, ông đạt Thiền quán đắc Thánh quả, với hạnh tri túc và các đức tính khác và đã thực hiện Mười ba pháp tu tập của một Sa-môn, ông dạy chúng cho các bằng hữu. Khi Thế Tôn an cư ba tháng, ông cùng các Tỷ-kheo đồng trú bị đức Phật quở trách trước tiên vì nói sai và làm không đúng, nhưng lần sau được bậc Ðạo Sư khen với những lời này:

– Từ nay, hễ Tỷ-kheo nào muốn viếng thăm Ta thì cứ để cho họ đến, miễn là họ thực hiện Mười ba pháp tu tập của một Sa-môn.

Ðược khích lệ như vậy, ông trở về thuật chuyện cho các Tỷ-kheo ấy. Sau đó, các Tỷ-kheo ấy đều theo đúng các hạnh nguyện trước khi đến tham bái bậc Ðạo Sư.

Thế rồi khi bậc Ðạo Sư hết thời kỳ an cư, các Tỷ-kheo liền vứt bỏ các quần áo rách cũ và mặc y phục sạch sẽ. Khi bậc Ðạo Sư cùng tất cả hội chúng Tỷ-kheo đi quanh các phòng để xem xét, Ngài chú ý tới đồ rách rưới kia đang rải rác đây đó, liền hỏi tại sao. Nghe họ kể lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, việc hành trì của các vị ấy chẳng được lâu dài, cũng giống như việc con chó Sói giữ ngày trai giới.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-Tát sinh làm Thiên chủ Sakka (Ðế Thích). Bấy giờ có một con Chó Sói sống trên một phiến đá cạnh bờ sông Hằng. Nước lũ mùa đông tràn tới, vây quanh phiến đá. Con Chó Sói nằm trên phiến đá, chẳng có gì để ăn và cũng chẳng có cách nào để kiếm đồ ăn cả. Nước cứ dâng lên, và Chó Sói tự nghĩ: “Ðây chẳng có đồ ăn, cũng chẳng có cách gì kiếm được đồ ăn. Ta nằm đây, chẳng biết làm gì cả. Tốt hơn ta nên giữ ngày trai giới (Bồ-tát). Thế là nó quyết định giữ ngày trai giới. Nó nằm xuống, trang trọng quyết giữ giới luật. Ðế Thích trong lúc suy xét thấy sự quyết định yếu đuối của con sói. Ngài tự nghĩ: “Ta sẽ quấy phá con Sói kia”. Rồi ngài hóa thành một con Dê rừng, tới đứng gần cho con Sói trông thấy.

” Ðể hôm khác rồi ta giữ ngày trai giới!” Sói nghĩ vậy khi nhìn thấy dê. Nó đứng lên và vồ lấy Dê. Nhưng Dê liền nhảy tránh nên Sói không chộp được nó. Sói thấy rằng nó không thể bắt con vật kia được, nó chẳng biết làm gì hơn đành quay trở về, nằm xuống lại và tự nghĩ: “Ðược rồi, dù sao ngày trai giới của ta vẫn không bị phá”.

Bấy giờ, Ðế Thích, do thần lực bay lên không và nói:

– Quá thiếu cương quyết như ngươi thì làm sao giữ được ngày trai giới? Ngươi đã không biết ta là Ðế Thích và ngươi đã muốn một bữa thịt dê!

Sau khi chế nhạo, khiển trách Sói xong, Ðế Thích quay về thiên giới

Chó Sói nọ chuyên bắt sống thú
Làm bữa ăn với máu thịt kia.
Một lần phát thành nguyện ra,
Giữ ngày trai giới quyết là chẳng sai.

Thần Ðế Thích biết ngay chuyện ấy
Hóa thành dê đến đấy thử coi.
Sói kia khát máu vồ mồi,
Hạnh liền ném mất, quên lời nguyện ngay.

Người trên thế gian này cũng vậy,
Ðịnh việc mà chẳng thấy sức mình,
Sai đường mục đích chẳng thành,
Như khi Sói nọ thấy hình Dê kia.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, Ngài liền nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ chính ta là Ðế Thích.

PHẨM BỐN BÀI KỆ

  1. Chuyện Tiểu Vương Kàlinga (Tiền thân Cullakàlinga)

Hãy mở cổng cho các nàng thiếu nữ …,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên, về việc thâu nhận bốn nữ du sĩ ngoại đạo vào Giáođoàn.

Theo truyền thuyết dòng họ Licchavi, một gia tộc cai trị gồm tới bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy người, đều sống tại Vesàli (Tỳ-xá-ly). Họ là những người rất ham thích tranh biện.

Bấy giờ có một du sĩ theo đạo Kỳ-na có thể biện thuyết trôi chảy năm trăm đề tài khác nhau. Ông ta đến Vesàli và được đón nhận nồng nhiệt. Một nữ tu Kỳ-na khác cũng có đặc tài như vậy và cũng đến Vesàli. Những người trưởng thượng Licchavi tổ chức một cuộc tranh luận giữa hai người ấy. Khi cả hai đều chứng tỏ là những nhà biện luận đặc tài, thì những người Licchavi nghĩ rằng cả hai người chắc chắn sẽ có những đứa con tài giỏi. Thế rồi họ sắp đặt hôn nhân cho hai người. Bốn con gái và một con trai ra đời do sự kết hợp này.

Các cô gái tên là Saccà, Lolà, Avavàdakà và Patàkàrà; còn cậu con trai tên là Saccaka. Năm người con này, khi đến tuổi trưởng thành, đã học được một ngàn đề tài khác nhau; năm trăm đề tài do mẹ dạy và năm trăm do cha. Hai vợ chồng căn dặn các con gái như sau:

– Nếu có người tại gia nào bài bác được các đề tài của các con thì các con hãy làm vợ người ấy; còn nếu một tu sĩ đánh bại các con thì các con hãy tôn vị ấy làm thầy.

Sau đó, hai vợ chồng chết đi. Chàng Kỳ-na Saccaka tiếp tục sống tại nơi ấy ở Vesàli, học tập kiến thức của dòng họ Licchavi, còn bốn chị em chàng cầm trong tay một cành hồng đào nhàn du đây đó, từ thành phố này sang thành phố khác để tranh luận. Cuối cùng họ đến Xá-vệ. Họ cắm cànhđào ở cổng thành và bảo mấy cậu trai ở đó:

– Nếu có người đàn ông nào, dù là cư sĩ hay tu sĩ, tranh luận ngang ngửa với chúng tôi về một đề tài thì cứ việc đá tung đống đất này và dẫm lên cành cây này.

Nói xong họ vào thành để nhận đồ bố thí.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất (Sàriputta), sau khi đã quét tước sạch sẽ những nơi cần thiết, đổ nước vào các bình và săn sóc các người bịnh, liền đi vào Xá-vệ để khất thực. Khi trông thấy và nghe kể về cành cây kia, Tôn giả bảo các cậu trai hạ nó xuống và dẫm lên. Tôn giả nói:

– Bảo với mấy người trồng cành cây này rằng khi họ đã dùng bữa xong, hãy đến gặp ta tại phòng có nóc nhọn trên cổng Tinh xá Kỳ Viên.

Thế rồi, Tôn giả vào thành. Sau khi dùng bữa xong, Tôn giả đứng trong căn phòng phía trên cổng Tinh xá. Các nữ tu sĩ khổ hạnh, sau khi đi khất thực về, trông thấy cành cây bị dẫm lên. Họ hỏi aiđã làm như thế và được các cậu trai kia bảo rằng chính là Xá-lợi-phất, rằng nếu họ muốn tranh luận thì cứ đến căn phòng phía trên cổng Tinh xá.

Họ quay trở lại thành phố, theo sau họ là một đám đông người đến tháp cổng Tinh xá. Sau đó họ đưa ra cho Tôn giả Xá-lợi-phất một ngàn đề tài. Vị Tỷ-kheo giải đáp mọi khó khăn khúc mắc của các đề tài ấy và sau đó hỏi xem họ còn biết gì nữa không.

Họ trả lời:

– Thưa ngài, không còn gì nữa!

Tôn giả nói:

– Thế thì ta sẽ hỏi các ngươi một điều.

Họ đáp:

– Thưa ngài, xin ngài cứ hỏi; nếu chúng tôi biết, chúng tôi sẽ trả lời

Vị Tỷ-kheo đưa ra một câu hỏi. Họ không trả lời được. Tôn giả liền giải đáp cho họ.

Sau đó họ bảo:

– Chúng tôi đã thua rồi, phần thắng đã về ngài.

– Các người sẽ tính sao đây? Tôn giả hỏi.

Họ đáp:

– Cha mẹ chúng tôi có khuyên dạy như vầy: Nếu một cư sĩ đánh bại được các con tranh luận, các con hãy làm vợ người ấy; nhưng nếu đó là một tu sĩ thì các con hãy tôn vị ấy làm thầy. Do đó – Họ nói tiếp – Xin ngài nhận chúng tôi vào đời sống Phạm hạnh.

Vị Tỷ-kheo chấp thuận và đưa họ vào nhà của Tỷ-kheo-ni tên gọi là Upplavannà (Liên Hoa Sắc). Cả bốn người ấy chẳng bao lâu đều đạt Thánh quả.

Thế rồi một hôm, các Tỷ-kheo bắt đầu bàn tán việc ấy trong Pháp đường. Họ bảo rằng Tôn giả Xá-lợi-phất đã cho bốn nữ ngoại đạo ấy chỗ an trú như thế nào, rằng nhờ Tôn giả mà cả bốn đều đạt Thánh quả ra sao. Khi bậc Ðạo Sư đến và nghe họ bàn tán, Ngài dạy:

– Không phải chỉ ngày nay mà từ xưa kia, Xá-lợi-phất đã cho bốn người ấy chỗ an trú. Ngày nay ông đưa họ vào đời Phạm hạnh, còn ngày xưa ông đưa họ lên ngôi chánh hậu.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Kàlinga đang trị vì tại thành phố Dantapura trong vương quốc Kàlinga, Assaka làm vua thành Potali trong xứ Assaka. Bấy giờ, vua Kàlinga có một quân đội tinh nhuệ và chính ông cũng mạnh như con voi, nhưng ông chẳng tìm thấy ai có thể đánh nhau với ông được. Quá khao khát được đánh nhau, ông bảo các đại thần:

– Ta muốn chiến đấu nhưng chẳng tìm được ai có thể chiến đấu với ta cả.

Các đại thần nói:

– Tâu Ðại vương có một cách cho ngài: Ngài có bốn cô con gái đẹp tuyệt trần, ngài hãy bảo họ trang sức ngọc ngà và bảo họ ngồi trong một chiếc xe đóng kín rồi cho một đạo quan hộ tống đi từng làng, từng thành phố, từng kinh đô. Nếu có vị vua nào muốn đưa họ vào hậu cung thì chúng ta sẽ đánh nhau với ông ta.

Vua nghe theo ý kiến ấy. Nhưng đoàn người đi đến xứ nào, vua xứ ấy cũng sợ họ vào thành phố, liền gởi tặng vật và xin họ đóng quân ở bên ngoài tường thành. Cứ thế, họ đi ngang dọc khắp nước Ấn Ðộ cho đến khi tới thành Potali trong xứ Assaka. Nhưng vua Assaka cũng đóng chặt cửa thành và chỉ gửi cho họ một tặng vật.

Bấy giờ vua xứ này có một đại thần rất thông minh, đa năng và nhiều mưu lược, tên là Nandisena. Nandisena tự nghĩ: “Người ta bảo rằng các công chúa này đã đi khắp nước Ấn Ðộ mà không tìm được ai chịu chiến đấu để chiếm lấy họ. Nếu đúng như thế thì Ấn Ðộ chỉ là cái tên rỗng. Ta sẽ chiến đấu với vua Kàlinga”.

Thế rồi ông ta đến bảo các lính gác mở cổng thành cho họ vào và đọc vần kệ đầu:

Hãy mở cổng cho các nàng thiếu nữ,
Chúng ta đây đã giữ chắc được thành,
Nan-di-se-na sức lực vững vàng
Sư tử của vua A-ru-na đó.

Nandisena nói như thế để sai mở cổng thành, rồi đưa các cô gái đến ra mắt vua Assaka. Ông nói với vua:

– Ðại vương chớ sợ. Nếu phải chiến đấu, thần xin lo liệu. Hãy cho các công chúa xinh đẹp này làm chánh hậu.

Thế rồi ông xức nước thánh cho họ để tôn họ lên ngôi hoàng hậu. Ông cho các người hầu ra về, dặn họ bảo với vua Kàlinga rằng các con gái của ông đã được làm chánh hậu. Khi người hầu về kể lại, vua Kàlinga bảo:

– Ta đoán rằng ông ấy chẳng biết ta mạnh như thế nào.

Liền đó vua đốc suất một đạo quân lớn. Nandisena nghe ông đến gần, liền gởi sứ điệp như vầy:

– Kàlinga hãy dừng chân, đừng lấn vào đất của chúng ta, và trận chiến sẽ xảy ra ở biên thùy của hai nước.

Vua Kàlinga nhận được sứ điệp liền dừng lại ở ranh giới nước ông. Assaka cũng giữ quân của mình ở phía bên này ranh giới.

Bấy giờ Bồ-tát đang theo đời tu khổ hạnh và sống ẩn dật trên một khoảng đất nằm giữa hai vương quốc. Vua Kàlinga tự nghĩ: “Những nhà tu này là những người thông tuệ. Ai bảo rằng giữa hai bên, kẻ nào sẽ thắng, kẻ nào sẽ bại? Ta sẽ đi hỏi nhà tu kia.” Thế là ông giả trang đi gặp Bồ-tát và kính cẩn ngồi một bên ngài. Sau khi chào hỏi chúc tụng theo thông lệ, vua bảo:

– Thưa Tôn giả, Kàlinga và Assaka, mỗi bên đều dàn quân lực ở biên thùy hai nước, chờ đánh nhau. Giữa hai bên, ai sẽ thắng, ai sẽ thua?

Bồ-tát trả lời:

– Thưa Ðại vương bên này sẽ thắng bên kia sẽ thua? Tôi không thể nói cho ngài biết gì hơn nữa. Nhưng Thiên chủ Ðế Thích, vua của cõi trời, sẽ đến đây. Tôi sẽ hỏi Thiên chủ và sẽ cho ngài biết nếu ngày mai ngài trở lại đây.

Khi Ðế Thích đến tham bái Bồ-tát, ngài nêu câu hỏi kia Ðế Thích trả lời:

– Kính thưa Tôn giả, Kàlinga sẽ thắng, Assaka sẽ thua. Có những triệu điềm sẽ báo trước sự việc ấy.

Hôm sau, vua Kàlinga đến và lặp lại câu hỏi ấy. Bồ-tát đưa ra câu trả lời của Ðế Thích. Bấy giờ vua Kàlinga chẳng cần hỏi những triệu điềm ấy sẽ là gì, tự nghĩ: “Họ bảo rằng ta sẽ thắng”. Rồi ông trở về, hoàn toàn thỏa mãn. Tin đồn lan ra. Khi vua Assaka nghe được, liền cho mời Nandisena đến và nói:

– Người ta bảo rằng Kàlinga sẽ thắng và chúng ta sẽ thua. Phải làm sao đây?

Nandisena trả lời:

– Thưa Ðại vương, ai biết được điều ấy? Xin ngài chớ lo lắng về người nào sẽ thắng người nào sẽ thua.

Ông trấn an vua xong, liền đến gặp Bồ-tát, kính cẩn ngồi xuống một bên và hỏi:

– Kính thưa Tôn giả, ai sẽ thắng, ai sẽ bại?

Bồ-tát trả lời:

– Kàlinga sẽ thắng và Assaka sẽ bị đánh bại.

Nandisena hỏi:

– Kính thưa Tôn giả điềm gì sẽ thuộc kẻ thắng và điềm gì thuộc người bại?

– Thưa ngài – Bồ-tát đáp- Thần bảo hộ của kẻ thắng sẽ là một con voi đực toàn trắng, còn thần bảo hộ của người bại sẽ là một con voi đực toàn đen. Hai vị thần bảo hộ của hai vị vua ấy sẽ đánh nhau và sẽ có bên thắng, bên bại.

Nghe thế, Nandisena đứng dậy rồi đi họp các bạn đồng minh của vua Assaka lại. Họ gồm khoảng một ngàn người và tất cả đều là những chiến sĩ. Ông đưa họ lên một ngọn núi gần đó và hỏi họ:

– Các người có chịu hy sinh đời mình cho đức vua không?

– Thưa ngài, chúng tôi sẵn lòng. Họ đáp.

– Thế thì các người hãy gieo mình xuống dốc núi này đi.

Khi họ định làm theo lời ấy thì Nandisena ngăn họ lại và nói:

– Không cần phải thế. Các người tỏ ra là những người bạn trung kiên của đức vua và hãy dũng cảm chiến đấu vì ngài.

Tất cả đều thề sẽ làm như thế. Khi chiến trận sắp bắt đầu, vua Kàlinga vẫn yên chí ông sẽ thắng. Quân lính của ông cũng nghĩ: “Phần thắng sẽ về ta”. Thế là họ mặc áo giáp, sắp xếp đội hình rời rạc, rồi mạnh ai nấy tiến lên. Ðến lúc cần phải dốc toàn lực thì họ không thể nào làm được!

Rồi cả hai vua leo lên lưng ngựa xáp vào định đánh nhau. Còn hai vị thần bảo hộ của họ thì đánh nhau phía trước họ. Thần của Kàlinga hiện hình là một con voi đực toàn trắng, còn thần của vua kia là một con voi đực toàn đen, cả hai cũng xáp gần nhau và đang đánh nhau. Nhưng chỉ riêng hai vua trông thấy hai con voi ấy, ngoài ra chẳng ai trông thấy được chúng. Bấy giờ Nandisen hỏi vua Assaka:

– Tâu Ðại vương, Ðại vương có trông thấy hai vị thần bảo hộ không?

– Có, ta có trông thấy họ, vua đáp.

– Trông họ thế nào? Ông hỏi.

Thần bảo hộ của Kàlinga hiện hình là một con voi đực trắng, còn thần của chúng ta hiện hình một con voi đen và có vẻ đang nguy khốn.

– Xin Ðại vương đừng sợ, chúng ta sẽ thắng và vua Kàlinga sẽ thua. Ngài chỉ cần xuống khỏi con ngựa Sindh khôn lanh của ngài và cầm lấy cây thương này, rồi dùng tay trái đấm một cú vào sườn nó. Thế rồi ngài cùng với một ngàn người này xông ào lên. Ngài sẽ dùng cây thương đâm vào thần bảo hộ của vua Kàlinga cho ngã xuống. Trong lúc ấy, chúng tôi với một ngàn cây thương sẽ đâm vào thần ấy. Thế là thần bảo hộ của Kàlinga sẽ chết, Kàlinga sẽ thua và chúng ta sẽ thắng.

– Ðược rồi! Vua trả lời

Khi Nandisena ra hiệu, vua dùng cây thương đâm vào thần bảo hộ của Kàlinga cùng lúc với các vị triều thần đâm một ngàn cây thương kia. Thần bảo hộ của vua Kàlinga chết ngay tại chỗ.

Khi ấy vua Kàlinga bị thua, phải bỏ chạy. Thấy thế, một ngàn người kia la lớn lên:

– Kàlinga đã bỏ chạy.

Kàlinga sợ chết. Vừa khi chạy thoát, ông đến trách cứ nhà tu khổ hạnh và đọc bài kệ thứ hai:

Quân Kà-lin-ga kiên cường thắng lợi
Quân As-sa-ka thất bại ê chề?
Ẩn giả ơi ngài đã nói tôi nghe.
Người chân thật chớ bao giờ nói dối.

Khi vua Kàlinga chạy trốn, ông đến trách cứ vị ẩn sĩ như vậy, rồi từ chiến trận, ông chạy thẳng một mạch về kinh đô của mình, chẳng dám ngoảnh lại một lần.

Ít ngày sau, Ðế Thích đến thăm vị ẩn giả. Nhà tu khổ hạnh nói với Thiên chủ bài kệ thứ ba:

Quí nhất của thần linh là chân thật
Các vị thần chẳng chịu nói sai ngoa,
Thế mà nay, ngài nói dối, Sak-ka,
Xin ngài nói lý do cho tôi biết.

Nghe thế, Ðế Thích đọc bài kệ thứ tư:

Bà-la-môn, há chẳng nghe:
Thần linh nào chẳng yêu vì hùng anh?
Những người dũng cảm, to gan
Ở nơi chiến trận chiếm phần thắng ngay.
Kiên cường mạo hiểm dạn dày,
As-sa-ka thắng trận này đúng thôi.

Sau cuộc đào tẩu của vua Kàlinga, vua Assaka trở về kinh thành của mình với nhiều chiến lợi phẩm. Nandisena gởi một sứ điệp cho vua Kàlinga bảo vua ấy phải gởi phần hồi môn cho bốn công chúa. Ông còn thêm:

– Nếu không, ta sẽ biết cách đối xử với ông ta.

Vua Kàlinga nghe thế, vội báo rằng ông sẽ gởi phần xứng đáng cho họ. Thế là từ đó về sau, hai vua sống thân hữu với nhau.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, bốn nữ du sĩ trẻ tuổi kia là các con gái của vua Kàlinga, Xá-lợi-phất là Nandisena, còn chính Ta là vị ẩn sĩ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Đại Kỵ Sĩ (Tiền thân Mahà-Assàroha)

Giúp cho kẻ dại người ngoa …,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên, về Trưởng lão Ànanda.

Các tình tiết đưa đến câu chuyện đã được trình bày trước kia. Bậc Ðạo Sư dạy:

– Ngày xưa cũng thế, các trí giả hành động theo nguyên tắc một nghĩa cử đáng được đền đáp.

Rồi Ngài kể cho họ nghe một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, Bồ-tát là vua xứ Ba-la-nại, cai trị công chính, bố thí và giữ đúng luật lệ đạo đức.

Ðể dẹp yên một vụ rối loạn ở biên thùy, ngài đốc suất một lực lượng lớn. Nhưng bị thất bại, ngài lên ngựa chạy mãi cho tới khi ngài tới một ngôi làng ở biên địa. Bấy giờ có ba mươi người dân trung thành sống ở đó. Họ đã họp nhau lại từ rất sớm tại trung tâm ngôi làng để làm công việc. Ngay lúc ấy, vua cỡi con ngựa có mặc giáp với đầy đủ trang phục và tiến đến gần cổng làng. Mọi người đều sợ hãi và nói:

– Gì thế kia?

Rồi ai nấy đều chạy về nhà mình, chỉ còn một người kia không chạy về nhà, đến đón tiếp vua. Ông ta kể cho người khách lạ hay rằng ông nghe nói vua đã ra tới biên thùy và hỏi khách là kẻ bảo hoàng hay là kẻ phiến loạn. Vua bảo:

– Thưa ngài, tôi theo đức vua.

– Thế thì hãy theo tôi.

Ông ta nói thế rồi dẫn vua về nhà ông, bảo vua ngồi vào chỗ của riêng mình. Ông nói với vợ:

– Hãy rửa chân bạn của chúng ta.

Khi bà vợ làm theo lời ông xong, ông dâng vua đồ ăn ngon nhất mà ông có thể làm được, rồi chuẩn bị sẵn giường cho vua, bảo vua nghỉ một chốc. Vua nằm xuống giường. Rồi ông chủ nhà cởi giáp ngựa, thả nó ra, cho nó uống nước, ăn cỏ và lấy dầu lau rửa nó. Ông săn sóc vua ba bốn ngày chu đáo như thế. Rồi vua bảo:

– Này bạn, bây giờ tôi đi đây.

Người chủ lại làm đủ mọi việc để chuẩn bị cho vua và con ngựa của ngài. Sau khi dùng bữa xong và sắp từ giã, vua nói:

– Người ta gọi tôi là Ðại kỵ sĩ. Nhà tôi ở tại trung tâm thành phố. Nếu khi nào bạn có công việc gì đến đó, hãy đứng ở cái cửa bên tay phải và hỏi người gác cổng Ðại kỵ sĩ ở chỗ nào, rồi hãy cùng người ấy đến nhà tôi.

Nói xong vua lên đường.

Bấy giờ đạo quân kia không thấy vua ở đâu, vẫn đóng trại ở bên ngoài thành. Nhưng khi thấyđược vua, họ đến đón tiếp ngài rồi hộ tống ngài về. Khi vào thành, vua đứng ở lối vào cổng, gọi người gác cổng và ra lệnh cho mọi người lui ra. Ngài bảo:

– Này bạn, có một người kia sống tại một làng ở biên địa sắp đến đây để mong được gặp ta. Người ấy sẽ hỏi nhà của Ðại kỵ sĩ ở đâu. Hãy dắt tay người ấy và dẫn đến ra mắt ta. Làm xong việc bạn sẽ có một ngàn đồng.

Nhưng rồi người kia mãi không đến. Vua tăng thuế ở ngôi làng mà ông sống. Thuế đã lên cao, vẫn không thấy ông ta đến. Vì thế, vua lại tăng thuế lần thứ hai, rồi lần thứ ba, ông ta vẫn không đến. Bấy giờ dân làng ấy họp nhau lại và nói với ông ta:

– Thưa ông, từ khi kỵ sĩ kia đến với ông, chúng ta bị sưu thuế đè nặng đến nỗi chúng ta không cất đầu lên được. Ông hãy đến gặp Ðại kỵ sĩ để nhờ ông ta làm đỡ bớt gánh nặng cho chúng ta.

– Ðược rồi, tôi sẽ đi – ông ta đáp – nhưng tôi không thể đi với tay không đâu đấy! Bạn tôi có hai đứa con trai, vậy các người hãy chuẩn bị đồ trang sức, quần áo cho vợ con bạn tôi và cho cả chính anh ta nữa.

– Tốt lắm, họ trả lời.

Rồi họ chuẩn bị đầy đủ mọi thứ để làm quà tặng.

Người chủ nhà kia mang cả quà tặng ấy cùng với một cái bánh rán tại nhà ông. Khi ông đến cửa bên tay phải, ông hỏi người gác cổng xem nhà của Ðại kỵ sĩ ở đâu. Người gác cổng đáp:

– Hãy lại đây tôi sẽ chỉ cho.

Rồi người gác cổng dắt ông tới cổng cung vua và nhắn:

– Người gác cổng đã đến và mang theo người đàn ông trú tại ngôi làng ở biên địa.

Vua nghe thế, liền đứng dậy và nói:

– Hãy để cho bạn ta vào cung cùng các thứ ông mang theo.

Rồi ngài ra đón tiếp và ôm lấy ông. Sau khi hỏi thăm vợ con ông ta, ngài dắt tay ông bước lên bệ, đưa ông ngồi vào ngai, dưới cây lọng trắng. Ngài gọi chánh hoàng hậu đến và bảo:

– Hãy rửa chân cho bạn ta.

Thế là hoàng hậu rửa chân cho ông. Trong khi hoàng hậu rửa chân ông xong, vua tưới nước trong một cái bình bằng vàng rồi xức dầu thơm vào chân ông ta. Vua hỏi:

– Bạn có gì cho chúng ta ăn không?

Ông ta đáp:

– Thưa ngài, có.

Rồi ông lấy bánh trong xách ra. Vua nhận bánh bỏ vào một cái đĩa bằng vàng và để tỏ lòng biết ơn, vua bảo:

– Hãy ăn các thứ bạn ta mang đến.

Rồi ngài lấy bánh cho hoàng hậu và các đại thần và chính ngài cũng ăn bánh ấy. Sau đó người khách lạ mang tặng vật khác ra. Vua muốn chứng tỏ ngài rất vui lòng nhận quà, liền cởi bỏ y phục lụa gấm của ngài ra và mặc vào bộ quần áo do ông ta mang tới . Hoàng hậu cũng bỏ áo lụa ra một bên rồi mặc áo và đồ trang sức do ông mang tới cho bà. Rồi vua dọn cho ông thức ăn dành cho vua, và gọi một đại thần đến bảo:

– Hãy đến cắt tỉa râu của ông ta như kiểu của ta vậy và để ông tắm trong bồn tắm nước hoa. Sau đó cho ông ta mặc một chiếc áo giá trị một trăm ngàn đồng, trang sức cho ông ta theo cách vương giả rồi đưa ông ta đến đây!

Mọi sự đều được thi hành theo như thế. Vua cho đánh trống trong thành, họp các triều thần lại rồi cho may một sợi chỉ bằng châu sa thuần chất xuyên qua chiếc lọng trắng. Vua nhường cho ông ta một nửa vương quốc của mình. Từ đó hai vị cùng ăn, uống, ở với nhau và trở nên đôi bạn vững bền, bất ly.

Thế rồi vua cho mời vợ ông ta và gia đình đến, xây cho họ một ngôi nhà trong thành phố. Vua và người ấy lãnh đạo vương quốc thật hài hòa, tuyệt hảo. Bấy giờ các đại thần tức giận đến và nói với thái tử:

– Thưa Ðiện hạ, đức vua cho người gia trưởng kia một nửa vương quốc. Ngài ăn, uống và ở chung với ông ta, ra lệnh cho chúng ta phải kính chào các con của ông ta. Ông ta đã làm gì cho đức vua, chúng ta cũng chẳng rõ. Sao đức vua lại làm thế chứ? Chúng tôi cảm thấy thật hổ thẹn. Xin ngài hãy tâu chuyện với đức vua xem.

Thái tử chấp thuận ngay và tâu lại hết các lời trên cùng vua và nói:

– Tâu Ðại vương, ngài chớ làm như thế.

– Con ơi, – vua bảo – Con có biết sau khi bại trận, ta đã trú ở đâu không?

– Tâu phụ vương, con không biết, thái tử đáp.

Vua nói:

– Ta đã sống trong nhà của người này, và khi sức khỏe bình phục ta trở về và tiếp tục trị vì, làm sao ta lại không ban vinh dự cho ân nhân của ta chứ?

Rồi Bồ-tát nói tiếp:

– Con ạ, kẻ nào cho kẻ không xứng đáng cho và không cho kẻ xứng đáng thì kẻ ấy lâm hoạn nạn, chẳng được ai giúp đỡ.

Và để nêu rõ đạo lý ấy, ngài đọc các bài kệ sau:

Giúp cho kẻ dại người ngoa
Ðến khi khẩn cấp, ai mà cứu cho?
Thi ân cho kẻ hiền hòa,
Ðến khi khẩn cấp, người đà giúp ngay.

Bao nhiêu công của dù dày,
Giúp cho kẻ xấu, cũng tày như không.
Những ai là kẻ có lòng
Ta tuy giúp ít mà công được bền.

Một lần việc nghĩa gây nên,
Ngai vàng xứng giá đáp đền cung nghênh.
Như từ mầm nhỏ, tái sinh trái;
Từ hành vi tốt, hiển vinh đời đời.

Nghe thế, các đại thần và thái tử trẻ tuổi kia chẳng biết trả lời sao cả.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, chính Ànanda là người trú ở ngôi làng biên địa kia, còn Ta là vua xứ Ba-lai-nại.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vị Thánh Vương (Tiền Thân Ekaràja)

Xưa Ðại vương sống trong vương quốc …,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một cận thần của vua sứ Kosala.

Các tình tiết đưa đến câu chuyện đã được kể trong số 282, Tiền thân Seyyamsa. Lần này bậc Ðạo Sư dạy:

– Ông chẳng phải là người độc nhất tạo được cái tốt từ trong cái xấu, các trí giả ngày xưa cũngđã tạo được cái tốt từ trong cái xấu.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, một quan cận thần của vua xứ Ba-la-nại phạm tà hạnh trong hậu cung của vua. Sau khi chính mắt chứng kiến lỗi lầm của ông, vua đuổi ông ra khỏi vương quốc. Ông ta đã đầu phục vua xứ Kosala tên là Dabbasena như thế nào, tất cả đều đã được kể trong số 51, Tiền thân Mahàsilava.

Nhưng trong chuyện này, Dabbasena bắt vua xứ Ba-la-nại khi vua đang ngồi trên ngai, giữa đám triều thần, rồi trói ngài và treo ngược đầu bằng một sợi dây mắc vào thanh cửa. Vua vẫn phát triển lòng từ đối với ông vua phản nghịch kia và nhờ định lực tinh tấn, ngài nhập trạng thái thiền định, làm bung các dây trói và ngồi tréo chân trên không. Ông vua phản loạn bị tấn công bởi cơn đau đốt cháy cả thân xác, lăn lộn trên đất và la:

– Ta bị đốt cháy, ta bị đốt cháy.

Khi ông hỏi các triều thần tại sao như thế thì họ trả lời:

– Ðó là vì ông vua mà ngài treo ngược đầu xuống bằng một sợi dây mắc ở thanh cửa kia là một người vô tội và là một vị thánh nhân.

Vua liền phán:

– Hãy thả vua ấy ra nhanh lên.

Quân hầu đến đó và thấy vua ấy đang ngồi tréo chân trên không, liền trở về kể lại cho vua Dabbasena. Thế là vua này vội vã chạy đến cúi mình xin lỗi vị vua kia và đọc bài kệ đầu:

Xưa Ðại vương sống trong vương quốc
Hưởng bao nhiêu hạnh phúc, ai bằng!
Mặt ngài sao quá khinh an
Giữa cơn địa ngục nhọc nhằn đớn đau?

Nghe thế, Bồ-tát đọc tiếp các bài kệ còn lại:

Xưa ta đã nguyện cùng trời đất
Nhập vào hàng ẩn dật, chẳng dừng.
Ta nay vinh hiển sáng lừng,
Mặt ta há lại ra tuồng héo hon?

Ðạt cứu cánh, ta tròn bổn phận,
Vua thù ta còn hận ta đâu?
Vinh danh, ta đạt mong cầu,
Mặt ta há lại đổi màu xấu xa?

Khi vui sướng chuyển ra khổ cực,
Kẻ bền lòng lọc được an khang.
Khổ, vui, nào phải hai đàng,
Khi người đời đạt Niết-bàn tịch không.

Nghe kệ xong, Dabbasena xin Bồ-tát tha thứ và thưa:

– Xin ngài hãy trị dân của chính ngài và tôi sẽ đánh đuổi bọn phiến loạn nghịch chống ngài.

Sau khi trừng phạt ông quan gian ác kia, vua Dabbasena trở về xứ. Nhưng Bồ-tát lại trao vương quốc cho các đại thần rồi sống đời khổ hạnh của một ẩn sĩ và sau đó tái sinh vào cõi Phạn thiên.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể xong Pháp thoại này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Ànanda là Dabbasena, còn Ta là vua xứ Ba-la-nại.

-ooOoo-

  1. Chuyện Rắn Thần Daddara (Tiền Thân Daddara)

Dad-da-ra, ai mà chịu nổi …,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo giận dữ.

Các tình tiết đã được kể trước đây.

Ở đây, khi các Tỷ-kheo đang bàn tán tại Pháp đường về tính sân si của Tỷ-kheo ấy thì bậc Ðạo Sư đến. Ngài hỏi và khi được nghe thuật lại, Ngài cho gọi Tỷ-kheo ấy đến và hỏi:

– Này Tỷ-kheo, có thực rằng ông đã sân si như họ bảo không?

– Vâng, bạch Thế Tôn, đúng như thế. Ông ta trả lời.

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ, mà ngày xưa ông này cũng đã rất sân si, và do thái độ sân si của ông ta, các trí giả xưa kia mặc dầu vẫn sống cuộc đời hoàn toàn trong lành của những hoàng tử Rắn thần (Nàga), đã sống ba năm nơi đống rác dơ bẩn.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, dòng giống Rắn thần trú ở chân núi Daddara trong vùng Tuyết Sơn. Bồ-tát sinh ra là con trai của Sùradaddara, vua xứ ấy. Ngài tên là Mahàdaddara, và có một em trai tên là Culladaddara, có tính sân si, hung dữ, thường la mắngđánh đập các nàng Long nữ. Vua rắn thần Nàga nghe nó hung dữ như thế, liền đuổi nó ra khỏi xứ Nàga. Nhưng Mahàdaddara xin cha tha thứ cho em, và cứu em khỏi bị đuổi. Lần thứ hai đứa em lại bị vua giận, và cũng được anh xin vua tha thứ cho. Nhưng đến lần thứ ba vua bảo:

– Ngươi cứ ngăn ta đuổi đứa vô tích sự này mãi; bây giờ cả hai chúng bây phải rời khỏi xứ Nàga mà đến sống ba năm trên một đống rác ở Ba-la-nại.

Vua đuổi cả hai ra khỏi xứ Nàga, va hai anh em đến sống tại Ba-la-nại. Khi bọn trẻ trong làng thấy chúng đang kiếm ăn trong một rãnh nước vây quanh đống rác, thì bọn này lập tức đánh chúng, lấy đất đá, que gậy ném chúng, dùng ná, nỏ bắn chúng và la lên:

– Cái gì thế kia, mấy con rắn nước đầu to, đuôi nhỏ như kim?

Rồi chúng nói đủ lời mắng nhiếc. Culladaddara, do bản tính giận dữ sân si, không thể chịu được sự vô lễ như thế, liền nói:

– Anh ơi, bọn trẻ này nhạo báng chúng ta. Chúng không biết rằng ta là rắn có nọc độc. Em không thể chịu sự xúc phạm của chúng đối với chúng ta như thế. Em sẽ phun hơi ra và giết chúng.

Rồi nó đọc bài kệ đầu để nói với anh nó:

Dad-da-ra, ai mà chịu nỗi
Chúng nhiếc ta: ” Ăn nhái, ở bùn”
Bọn kia khờ dại đáng thương,
Trước nanh rắn độc, dám nhờn mặt sao?

Nghe thế, Mahàdaddara đọc tiếp phần kệ sau:

Kẻ lưu đầy bị vào chốn lạ
Phải chịu bao nhục mạ tân toan
Bậc hàng giai cấp ta mang,
Hạnh hiền đức độ há từng ai hay?

Kẻ ngu muốn tỏ bày ra dáng
Rằng ta đây là hạng cao vời.
Trong nhà dù sáng như trời,
Ra ngoài phải chịu đựng người hạ lưu.

Cả hai anh em sống nơi đó ba năm. Thế rồi vua cha gọi chúng về nhà. Từ đó lòng tự phụ của chúng giảm hẳn đi.

*

Khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc về Tứ Ðế, vị Tỷ-kheo giận dữ kia đắc quả Bất Lai. Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ vị Tỷ-kheo giận dỗi này là Culladaddara, còn Ta là Mahàdaddara.

-ooOoo-

305 Chuyện Thử Thách Giới Đức (Tiền thân Sìlavìmamasana)

Thật ra chẳng việc nào tội lỗi …,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ-Viên về sự chê trách tội lỗi.

Các tình tiết sẽ được kể trong số 459. Tiền thân Pànìya, trong Chương Mười một. Sau đây là phần tóm tắt.

Năm trăm Tỷ-kheo sống ở Kỳ Viên, gần đến lúc nửa đêm hôm ấy, đi sâu vào cuộc thảo luận về dục lạc. Bấy giờ bậc Ðạo Sư vẫn luôn luôn trông chừng các Tỷ-kheo suốt sáu thời khắc của đêm ngày, giống như kẻ chột cẩn thận giữ gìn con mắt còn lại của mình, như người cha chăm sóc đứa con một, như con trâu rừng giữ kỹ cái đuôi của nó. Giữa đêm khuya, do thiên nhãn Ngài quan sát khắp Kỳ Viên và chứng kiến việc các Tỷ-kheo bàn thảo kia; tựa như bọn cướp đã tìm thấy lối vào cung điện của một đại vương, Ngài mở cửa Hương phòng, gọi Ànanda và sai ông họp các Tỷ-kheo trong Tinh xá trên con đường lát vàng (tức Kỳ Viên) và bảo dọn cho Ngài một chỗ ngồi trước Hương phòng. Tôn giả Ànanda làm theo lời dạy rồi báo cho Ngài hay. Bấy giờ, bậc Ðạo Sư ngồi vào chỗ ngồi đã chọn sẵn, bảo các Tỷ-kheo họp lại rồi dạy:

– Này các Tỷ-kheo, các trí giả ngày xưa nghĩ rằng không thể che dấu hành động sai trái và vì vậy họ cố tránh làm điều xấu.

Rồi Ngài kể cho họ một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên, ngài được một vị thầy nổi danh thiên hạ trú trong thành phố ấy dạy dỗ. Ngài đứng đầu số năm trăm học trò. Bấy giờ ông thầy ấy có một con gái đã đến tuổi dậy thì, ông ta nghĩ: “Ta sẽ thử đức hạnh của các thanh niên này, ta sẽ gả con gái ta cho kẻ nào có đức hạnh cao nhất”.

Một hôm, ông bảo các học trò:

– Này các bạn, ta có một con gái mới lớn, ta muốn kén chồng cho nó, nhưng ta phải có quần áo đẹp và đồ trang sức thích hợp cho nó. Các bạn hãy lấy cắp vài thứ ấy mà đừng cho các bạn khác biết rồi mang đến cho ta. Khi nào không ai trông thấy thì ta sẽ nhận, còn nếu các bạn mang món đồ bị người ta trông thấy thì ta sẽ từ chối.

Các học trò đều đồng ý và nói:

– Tốt lắm.

Thế là từ hôm ấy, họ lấy cắp quần áo, đồ trang sức mà các bạn bè không biết rồi mang đến cho thầy. Ông sắp xếp các thứ mà mỗi người mang đến ở từng nơi riêng biệt. Về phần Bồ-tát, ngài chẳng lấy cắp thứ gì cả.

Thấy thế, ông thầy bảo:

– Còn bạn, bạn ơi, bạn chẳng mang đến gì cho ta ư?

Ngài đáp:

– Thưa thầy, đúng thế.

Thầy hỏi:

– Sao thế bạn?

Ngài trả lời:

– Nếu lấy đồ vật mà không kín đáo thì thầy không nhận. Nhưng con thấy rằng không thể nào che giấu hành động xấu của mình được.

Và để chứng minh chân lý này, ngài đọc hai bài kệ sau đây:

Thật ra chẳng việc nào tội lỗi
Lại kín bưng đối với đời này.
Kẻ ngu tưởng kín đáo thay,
Thần linh cũng đã thấy ngay hết rồi.

Ðiều bí mật chẳng nơi giấu được,
Với tôi đây không nốt cái không.
Ở nơi chẳng có ai cùng
Nhưng tôi có đó, hết luôn không rồi!

Ông thầy rất bằng lòng với lời lẽ ấy, liền bảo:

– Này bạn, nhà ta không thiếu của cải, nhưng ta muốn gả con gái ta cho một người có đức hạnh và ta đã làm như thế để thử các thanh niên ấy. Bây giờ chỉ có bạn là xứng đáng với con gái ta.

Thế rồi ông trang sức cho con gái và đem gả cho Bồ-tát, còn với những người kia ông bảo:

– Hãy lấy lại mọi thứ mà các anh đã mang đến cho ta và đưa về nhà của các anh đi.

*

Sau đó, bậc Ðạo Sư dạy:

– Này các Tỷ-kheo, thế đấy, những người học trò xấu kia vì tính không thật thà đã không lấy được cô thiếu nữ ấy, trong khi chàng trai trẻ khôn ngoan kia, do đức hạnh tốt, đã lấy được nàng làm vợ.

Rồi ngài đọc bài kệ khác:

Cậu Hoang, cậu Khánh, cậu Vui
Lại thêm cậu Dễ, cậu Tồi, cậu Vinh
Thảy mong được vợ cho mình
Lầm đường lạc nẻo mà thành lông bông.

Thấy rõ Pháp từ trong tuổi trẻ,
Luôn chấp trì Chân đế mà thôi.
Do lòng can đảm cao vời,
Bà-la-môn lấy được người vợ kia.

*

Sau khi chấm dứt bài thuyết giảng trang trọng này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế và ở các phần kết thúc về Tứ Ðế, năm trăm vị Tỷ-kheo kia đạt được Thánh quả.

Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Xá-lợi-phất là người thầy, còn chính Ta là chàng trai trẻ tuổi sáng trí kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hoàng Hậu Sujàta (Tiền thân Sujàta)

Dáng như cái trứng, trái gì đây? …,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về hoàng hậu Mallikà (Mạt-lợi).

Một hôm, tương truyền có xảy ra việc cãi cọ giữa hoàng hậu và vua. Người ta thường bảo đó là một chuyện xích mích trong hậu cung. Vua giận quá đến độ không cần biết tới có sự có mặt của hoàng hậu nữa. Mallikà tự nghĩ: “Chắc bậc Ðạo Sư không biết rằng vua giận ta đến thế nàođâu!”.

Nhưng bậc Ðạo Sư đã biết hết và quyết định sẽ giảng hòa giữa hai người. Vì thế tờ mờ sáng, Ngài đã mặc áo trong khoác áo ngoài rồi cầm bình bát, dẫn theo năm trăm Tỷ-kheo vào Xá-vệ và đến cổng cung điện. Vua đỡ lấy bình bát của Ngài, đưa Ngài vào nội điện và mời Ngài ngồi vào chỗđược dọn sẵn cho Ngài. Vua rưới nước cúng dường trên tay trái Ngài và các Tỷ-kheo ở sau Ngài, rồi đem cơm bánh ra mời. Nhưng bậc Ðạo Sư lấy tay che bình bát của Ngài lại và nói:

– Thưa Ðại vương, hoàng hậu đâu rồi?

Vua đáp:

– Bạch Thế Tôn, Ngài hỏi bà ấy làm gì? Bà ấy còn biết phải trái gì đâu! Bà đang say sưa vì danh dự mà bà được hưởng.

– Tâu Ðại vương – bậc Ðạo Sư nói – Trước kia chính ngài ban vinh dự cho người phụ nữ ấy; bây giờ ngài lại lấy hết đi và không chịu xóa bỏ lỗi lầm mà bà đã phạm đối với ngài thì ngài đã sai rồi.

Nghe bậc Ðạo Sư dạy như thế, vua cho mời hoàng hậu đến. Bà đến hầu cận bậc Ðạo Sư. Ngài dạy:

– Các vị phải sống với nhau hòa thuận.

Sau khi ca ngợi hạnh phúc của sự hòa hợp, Ngài ra đi. Từ đó vua và hoàng hậu sống hạnh phúc bên nhau.

Các Tỷ-kheo bàn tán trong Pháp đường rằng chỉ cần một lời, bậc Ðạo Sư đã hòa giải được vua và hoàng hậu. Bậc Ðạo Sư bước vào. Sau khi hỏi các Tỷ-kheo đang bàn tán việc gì và được họ kể lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, không phải bây giờ mà xưa kia, Ta cũng hòa giải họ bằng một lời khuyến dụ.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là đại thần của vua, vừa là cố vấn về thế sự và thánh sự.

Một hôm, vua đứng ở cửa sổ nhìn xuống sân cung điện. Ngay lúc ấy một thiếu nữ thanh xuân xinh đẹp đang đội trên đầu một rổ táo và rao:

– Táo đây, táo chín đây, ai mua táo không?

Nhưng nàng không dám vào sân cung điện.

Vua vừa nghe tiếng nàng, đã yêu nàng ngay. Khi biết rằng nàng chưa có chồng, vua gọi nàng đến và cho lên ngôi chánh hoàng hậu, lại ban cho nàng vinh dự lớn lao. Bấy giờ, dưới mắt vua, nàngđược yêu thương và làm vua hài lòng.

Một hôm, vua đang ăn táo đựng trong một cái đĩa bằng vàng. Thấy thế, hoàng hậu Sujàta hỏi:

– Tâu Chúa thượng, ngài đang ăn cái gì vậy?

Và bà đọc bài kệ đầu:

Dáng như cái trứng, cái gì đây
Trong đĩa vàng kia đặt trước ngài,
Sắc đỏ xinh thay – Tâu thánh thượng,
Trái cây này mọc ở đâu vầy?

Vua tức giận và nói:

– Này cô gái nhà bán rau quả kia, cô chuyên bán táo chín, cô lại há không nhận ra trái táo là trái đặc biệt của chính gia đình cô hay sao?

Rồi vua đọc hai bài kệ tiếp theo:

Áo quần mộc mạc, đầu không mão,
Ngày ấy nào cô hổ thẹn đâu?
Vạt áo đựng đầy bao trái táo,
Bây giờ lại hỏi trái cây nào!

Cô quá tự cao, hư hỏng ra,
Ðời cô chẳng thấy thú đâu mà!
Ði đi, táo ấy, lui về lượm,
Cô chẳng còn là vợ của ta.

Thế rồi Bồ-tát tự nghĩ: “Chẳng có ai ngoài ta ra có thể hòa giải đôi vợ chồng này được. Ta sẽ làm dịu cơn giận của vua và ngăn ngài đuổi bà ấy ra khỏi cửa”. Rồi ngài đọc bài kệ thứ tư:

Ðây là tội của người phụ nữ
Tăng trưởng theo ngôi thứ mà ra.
Xin ngài thôi giận, thứ tha,
Vì ngài đã tặng cho bà ngôi cao.

Vua nghe thế bèn bỏ hết lỗi lầm của hoàng hậu phục hồi ngôi cũ của bà. Từ đó hai người sống với nhau rất hòa ái.

*

Kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân.

– Bấy giờ vua Kosala là vua xứ Ba-la-nại, hoàng hậu Mallikà là Sujàtà, còn chính Ta là quan cận thần kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thần Cây Hồng Điệp (Tiền thân Palàsa)

Bà-la-môn, sao người có trí …,

Bậc Ðạo Sư lúc sắp diệt độ đã kể chuyện này về Trưởng lão Ànanda.

Tôn giả Ànanda biết rằng ngay trong đêm ấy, bậc Ðạo Sư sẽ diệt độ bèn tự bảo: “Ta còn phải giữ giới luật, còn nhiều công hạnh phải thực hiện. Bậc Ðạo Sư chắc chắn sẽ diệt độ rồi. Thế là công việc trong suốt hai lăm năm qua ta cung phụng Ngài sẽ chẳng có kết quả gì”. Tràn ngập sầu bi, Trưởng lão gục vào then cửa có chạm hình đầu khỉ của phòng chứa đồ trong vườn và khóc nức nở.

Bậc Ðạo Sư thấy vắng Ànanda liền hỏi các Tỷ-kheo vị ấy ở đâu. Sau khi nghe thuật lại, Ngài gọi vị ấy vào và bảo:

– Này Ànanda, ông đã tích trữ cả một kho công đức. Hãy tiếp tục tinh cần rồi ông sẽ được thoát khỏi khổ đau của đời người. Chớ nên sầu bi. Làm sao sự phụng dưỡng của ông đối với Ta bây giờ không có kết quả được, bởi vì những sự phụng dưỡng của ông trước kia trong những ngày ông còn mang tội lỗi đã không phải là không được đáp đền.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra mang hình hài của một Thần cây hồng điệp. Bấy giờ, dân chúng ở Ba-la-nại rất sùng kính các vị thần như thế và vẫn thường đến cúng kiến.

Một người Bà-la-môn nghèo khó kia tư nghĩ: “Ta cũng sẽ đi cúng bái thần linh”. Rồi ông ta tìmđược một cây hồng điệp lớn mọc trên chỗ đất cao. Ông rải sỏi đá rồi quét tước xung quanh, săn sóc rễ cây sạch sẽ, nhổ cỏ … Ông dâng cúng một tràng đủ năm loại hoa thơm rồi đốt một cây nến làm lễ dâng hương hoa. Sau khi cung kính dâng thánh lễ, ông nói:

– Mong ngài được an bình.

Rồi ông bỏ đi. Ngày hôm sau ông lại đến thật sớm và ân cần chúc hỏi.

Một hôm, Thần cây chợt nghĩ: “Người Ba-la-môn này chăm sóc ta rất kỹ lưỡng. Ta sẽ thử lòng ông ta và tìm xem tại sao ông ta tôn kính ta rồi sẽ ban cho ông điều ước muốn của ông”. Thế là khi người Bà-la-môn ấy đến quét tước quanh gốc rễ cây, Thần liền hóa thành một Bà-la-môn lớn tuổi đứng gần đó và đọc bài kệ đầu:

Bà-la-môn, sao người có trí
Lại hỏi han cây chỉ vô tri?
Lời cầu, lời chúc ra chi!
Cây trong thảm ấy đáp gì người đâu!

Nghe thế, người Bà-la-môn ấy trả lời bằng bài kệ thứ hai:

Cây nổi tiếng từ lâu vẫn đứng
Chỗ an cư của những vị thần.
Thần kia tôi kính muôn vàn,
Chắc rằng thần giữ kho tàng nơi đây.

Vị Thần cây nghe thế rất bằng lòng về ông ta liền bảo:

– Này Bà-la-môn, ta sinh ra là vị Thần của cây này. Ðừng sợ ta, ta sẽ cho người kho tàng ấy.

Và để làm an lòng ông, Thần thể hiện thần lực, đứng lơ lửng trên không tại cổng vào lâu đài của mình và đọc thêm hai bài kệ:

Bà-la-môn tâm đầy từ ái
Chính ta đây ghi lấy việc người
Hành vi sùng đạo trên đời,
Bao giờ kết quả cũng thời xứng cân.

Cây sung kia đổ tràn bóng mát
Xứng cùng bao tặng vật, cúng dường.
Dưới cây chôn một kho tàng
Phần người được thưởng, đào vàng mà xin.

Ngoài ra, Thần còn nói thêm:

– Này Bà-la-môn, nếu người phải đào kho tàng lên và mang theo thì người sẽ vất vả quá. Vậy hãy ra đi trước, rồi ta sẽ mang kho tàng về nhà người và để tại chỗ kia. Thế là người được hưởng kho báu ấy suốt đời; hãy bố thí và hãy giữ tròn đạo hạnh.

Sau khi khuyên dụ người Bà-la-môn như thế, vị Thần cây liền thực hiện thần lực chuyển kho tàng vào trong nhà của người ấy.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài thuyết giảng và nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Ànanda là người Bà-la-môn, còn Ta là vị Thần cây.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chim Gõ Kiến (Tiền Thân Javasakuna)

Bao nhiêu lòng tốt trong tôi…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về sự vô ơn của Ðề-bà-đạt-đa.

Cuối cùng, Ngài dạy:

– Chẳng phải chỉ bây giờ mà từ xưa kia, Ðề-bà-đạt-đa cũng đã tỏ ra vô ơn.

Sau đó, Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vị xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một con chim Gõ kiến sống trong vùng Tuyết Sơn.

Bấy giờ, có một con Sư tử, trong khi ăn mồi, bị một miếng xương mắc trong cổ. Cổ nó sưng lên đến độ nó không thể ăn gì được và đau đớn khôn cùng. Chim Gõ kiến đang kiếm đồ ăn, đậu trên một cành cây, trông thấy Sư tử và hỏi nó:

– Này bạn, cái gì làm bạn đau thế?

Nghe Sư tử bảo cho biết, chim nói:

– Bạn ạ, tôi có thể lấy cái xương ra khỏi cổ họng bạn nhưng tôi không dám chui đầu vào mồm bạn và sợ bạn ăn tôi luôn!

– Bạn ơi, đừng sợ, tôi sẽ không ăn bạn đâu. Xin bạn hãy cứu sống tôi.

– Ðược rồi.

Chim nói thế và bảo Sư tử nằm xuống một bên nó. Rồi nó nghĩ: “Ai biết được anh bạn này sẽ làm sao chứ?” Và để ngăn ngừa Sư tử ngậm miệng lại, nó cắm một khúc cây giữa hàm trên và hàm dưới Sư tử, thò đầu vào miệng con này rồi dùng mỏ gắp đầu mút xương. Cái xương rớt ra ngoài rồi mất đi. Gõ kiến rút đầu ra khỏi miệng Sư tử, lấy mỏ đập khúc cây cho rớt ra rồi nhảy lên đậu trên chóp một cành cây.

Sư tử được khỏi bệnh. Một hôm nó đang ăn một con bò rừng mà nó vừa giết. Chim Gõ kiến liền nghĩ: “Ta sẽ thử lòng hắn xem sao?”. Ðậu trên một cành cây phía trên đầu Sư tử, nó nói với Sư tử qua bài kệ sau:

Bao nhiêu lòng tốt trong tôi,
Tôi đây đã tỏ cho ngài lần kia.
Phần ngài chẳng nguyện cao xa,
Cho tôi đôi chút gọi là hảo tâm.

Nghe thế, Sư tử trả lời bằng bài kệ thứ hai:

Ngươi gởi đầu vào hàm Sư tử
Loài vuốt nanh rực thứ máu hồng
Nhưng ngươi vẫn sống như thường:
Hảo tâm ta đã tỏ tường cho ngươi.

Chim Gõ kiến nghe thế, liền đọc thêm bài kệ nữa:

Bao việc tốt trên đời
Thi hành để giúp ngươi.
Giúp loài vô ơn nghĩa
Mong chi được đền bồi?

Ðừng khởi ý chua cay
Ðừng buông lời gắt gay.
Phường xấu xa như thế,
Ta cần lánh xa ngay!

Nói vậy xong, chim Gõ kiến bay đi.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa là con Sư tử, còn Ta chính là con chim Gõ kiến.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Tiện Dân (Tiền thân Chavaka)

Thưa Ðạo sư, thưa Vương đệ tử…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về hội chúng của nhóm Sáu Tỷ-kheo.

Chuyện được kể với đầy đủ chi tiết trong bộ Luật Tạng (Vinaya) đây chỉ là phần tóm tắt.

Bậc Ðạo sư gọi Sáu Tỷ-kheo ấy đến và hỏi xem có thật họ đã ngồi giảng Giới luật ở chỗ thấp trong khi các đệ tử của họ ngồi ở chỗ cao hơn. Họ thú nhận rằng thật như thế. Bậc Ðạo Sư quở trách họ về sự thiếu tôn trọng của họ đối với Giới luật của Ngài và bảo rằng các trí giả xưa kia cũng đã phải quở trách người ta về việc ngồi ở chỗ thấp mà giảng dạy, dù là giảng dạy các học thuyết ngoại đạo đi nữa.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là con của một phụ nữ hạ tiện. Chàng lớn lên và trở thành gia trưởng. Vợ chàng đang mang thai, rất thèm muốn ăn xoài, và bảo chồng:

– Chàng ơi, em muốn ăn xoài quá.

– Này em yêu, – chàng đáp – mùa này không có xoài, ta sẽ đem về cho em một vài trái chua khác.

Nàng bảo:

– Chàng ơi, nếu được ăn xoài thì em sống. Nếu không, thì em sẽ chết mất!

Người chồng quá mê say vợ liền nghĩ: “Ta kiếm đâu ra được một trái xoài bây giờ?” Bấy giờ, trong vườn của vua Ba-la-nại có một cây xoài ra trái quanh năm. Vì thế, chàng nghĩ: “Ta sẽ đến đó hái một trái xoài chín để làm dịu cơn thèm của nàng”. Ban đêm, chàng đến khu vườn ấy rồi trèo lên cây, bước từ cành này sang cành nọ mà tìm trái. Trong khi chàng miệt mài như thế thì trời bắt đầu sáng. Chàng tự bảo: “Nếu bây giờ ta tụt xuống mà ra đi, ta sẽ bị trông thấy và bị bắt như một tên trộm, ta nên chờ cho đến khi trời tối đã!” Thế rồi chàng trèo lên chỗ chĩa của cây và vào ngồi đó.

Lúc ấy, vua đang nghe vị giáo sư của ngài giảng kinh. Khi hai người vào vườn cây, vua ngồi xuống ở một chỗ cao nơi gốc cây xoài, để giáo sĩ ngồi một chỗ thấp hơn và nghe giáo sĩ thuyết giảng. Bồ-tát ngồi ở phía trên họ, tự nghĩ: “Ông vua này thật bậy quá, đang nghe giảng kinh mà lại ngồi chỗ cao. Còn Bà-la-môn kia cũng bậy không kém, ngồi ở chỗ thấp mà dạy. Còn ta cũng bậy nốt vì ta đã rơi vào uy lực của đàn bà, chẳng kể chi mạng sống của ta mà đi ăn trộm xoài thế này”.

Thế rồi chàng đu vào một cành cây đang treo lơ lửng, buông người xuống khỏi cây, đứng trước vua và giáo sĩ và nói:

– Tâu Ðại vương, tôi là một kẻ đọa đày, ngài là kẻ cuồng si thô tục và giáo sĩ này là một người chết.

Vua hỏi chàng bảo như thế nghĩa là gì, chàng liền đọc bài kệ đầu:

Thưa Ðạo sư, thưa Vương đệ tử,
Tôi thấy kia mọi sự lỗi lầm,
Hai ngài đọa khỏi thiên ân,
Hai ngài giới luật đều làm sai hư.

Giáo sĩ Bà-la-môn nghe thấy, liền đọc bài kệ thứ hai:

Gạo ta ăn lấy từ đồi nọ
Mùi thơm ngon như có thịt vào.
Kẻ kia tội lỗi, tại sao
Thánh đang dùng bữa, lại rao giới điều?

Bồ-tát nghe thế, liền đọc thêm hai bài kệ nữa:

Hãy dọc ngang mọi chiều mặt đất,
Bà-la-môn, người sẽ thấy ra
Xem kia, đau khổ ấy là
Số phần chung của người ta trên đời.

Do tội lỗi, đời người tàn ố
Giá còn thua mảnh vỡ chiếc bình
Coi chừng tham ý, dục tình,
Chúng đưa tới cõi khổ hình đau thương.

Vua rất hài lòng về việc trình bày giới luật của chàng, hỏi chàng thuộc giai cấp nào. Chàng thưa:

– Tâu Ðại vương, tôi là hạng tiện dân.

Vua bảo:

– Này bạn, nếu bạn thuộc một gia đình có đẳng cấp cao thì ta đã đưa bạn lên làm vị vua độc nhất rồi. Nhưng từ nay, ta là vua ban ngày, còn bạn sẽ là vua ban đêm.

Vua nói xong, quàng vào cổ chàng tràng hoa mà ngài vẫn đeo và phong chàng làm quan tổng trấn. Từ đó các quan trong thành có lệ mang một tràng hoa đỏ ở cổ. Cũng từ ngày đó trở đi, vua an trú trong lời dạy của ngài, rất kính trọng thầy dạy mình và vẫn ngồi ở chỗ thấp mà nghe thầy dạy kinh điển.

*

Thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Anànda là vị vua, còn Ta chính là người tiện dân kia.

PHẨM BỐN BÀI KỆ (tt)

  1. Chuyện Vị Quốc Sư Sayha (Tiền thân Sayha)

Trên đời chẳng ngai vàng, vương quốc…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo thối thất.

Tỷ-kheo này trong khi đi khất thực ở Xá-vệ, đã trông thấy một phụ nữ đẹp, rồi từ đó trở nên buồn chán và mất hết an lạc trong Ðạo pháp. Các Tỷ-kheo đưa ông ra trước đức Thế Tôn. Ngài dạy:

– Này Tỷ-kheo, Ta nghe nói ông cứ buồn chán, có thật thế không?

Ông thú thật quả như thế. Sau khi biết được lý do buồn chán của ông, bậc Ðạo Sư dạy:

– Này Tỷ-kheo, tại sao ông lại khao khát cuộc đời sau khi đã thọ trì giới luật của một Giáo pháp dưa đến Giải thoát? Các trí giả ngày xưa, khi được ban vinh dự làm giáo sĩ hoàng gia, đã từ bỏ chức vị ấy và sống đời khổ hạnh.

Rồi Ngài kể cho các Tỷ-kheo nghe một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát nhập mẫu thai bà vợ một Bà-la-môn giáo sĩ của hoàng gia và ra đời cùng một ngày với thái tử con vua. Khi vua hỏi các quan rằng có đứa trẻ nào sinh cùng ngày với thái tử không thì họ bảo:

– Tâu Ðại vương có, đó là một đứa con của giáo sĩ hoàng gia.

Thế là vua truyền mang Bồ-tát đến giao cho các nhũ mẫu săn sóc cẩn thận cùng với thái tử ấu thơ kia. Cả hai cùng có đồ trang sức, cùng ăn, cùng uống các thứ như nhau. Khi lớn lên, họ cùng đến học ở Takkasilã và chẳng bao lâu đều thành đạt mọi khoa học rồi trở về.

Vua phong cho con làm phó vương và ban danh dự lớn lao cho Bồ-tát. Từ đó Bồ-tát cùng ăn, cùng uống, cùng sống với thái tử. Giữa hai người nảy nở một tình bằng hữu vững bền. Ít lâu sau, vua cha mất, thái tử lên nối ngôi và hưởng phú quí khôn cùng. Bồ-tát tự nghĩ: “Giờ đây bạn ta trị vì vương quốc; khi có dịp thích đáng thế nào ông cũng phong cho ta ngôi vị giáo sĩ hoàng gia. Ta phải làm gì với cuộc đời của một gia trưởng đây? Ta muốn trở thành một nhà tu khổ hạnh, dấn thân vào đời độc cư”.

Vì thế, ngài đến đảnh lễ cha mẹ, xin được chấp trì giới hạnh. Ngài chối bỏ mọi của cải của trần gian và từ đó xuất gia một mình đi vào vùng Tuyết Sơn. Tại đó, trên một khoảnh đất thích hợp, ngài tự dựng một túp lều sống đời Phạm hạnh của một ẩn sĩ, ngài phát huy các thắng trí và các Thiền chứng và hưởng an lạc của cuộc sống huyền nhiệm.

Bấy giờ, vua nhớ đến ngài và bảo:

– Không biết bạn ta thế nào rồi nhỉ? Sao không hề thấy ông ta đâu cả?

Các cận thần bảo rằng ngài đã chấp trì giới hạnh và nghe nói ngài đang sống trong một khu rừng tịnh lạc nào đó. Vua hỏi trú xứ của ngài và bảo một quốc sư tên Sayha:

– Hãy đi mang bạn ta về đây. Ta sẽ phong cho ông ấy làm giáo sĩ của ta.

Sayha sẵn sàng tuân lệnh. Từ Ba-la-nại ông đi mãi đến một làng ở biên địa và trú ở đó, rồi cùng với vài người kiểm lâm đến nơi Bồ-tát ở. Ông thấy Bồ-tát ngồi như một bức tượng vàng trước túp lều của ngài. Sau khi chào hỏi, cung chúc theo thường lệ, ông ngồi xuống, cách một khoảng để tỏ lòng kính cẩn, và bảo:

– Thưa Tôn giả, đức vua muốn ngài quay trở về vì đang nóng lòng phong ngài lên ngôi vị giáo sĩ của hoàng gia.

Bồ-tát trả lời:

– Nếu ngoài chức giáo sĩ ra, ta còn được trao thêm cả nước Kàsi và Kosala, cả vương quốc Ấn Ðộ, cả sự vinh quang của một đế quốc hoàn vũ, ta cũng không chấp nhận đâu. Bậc trí giả không mang lấy những tội lỗi mà họ đã từng từ bỏ cũng giống như họ không nuốt cục đàm mà họ đã khạc lên.

Ðoạn ngài đọc các bài kệ sau:

Trên đời chẳng ngai vàng, vương quốc
Chiếm lòng ta, gây nhục ta nào!
Xấu thay, danh lợi mong cầu
Ðưa người vào cảnh khổ đau ngập tràn.

Kiếp không nhà lang thang đây đó,
Cầm bát xin nhà nọ nhà kia,
Hơn làm vua, tạo phiền hà,
Trị vì độc đoán theo đà ác tham.

Mặc dù Sayha cứ năn nỉ mãi, Bồ-tát cũng không chấp nhận yêu cầu của ông ta. Không thể nào khuyên nhủ được Bồ-tát, Sayha đành tạ từ quay về trình vua là ngài từ chối trở lại.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể xong Pháp thoại này, Ngài tuyên thuyết Tứ Ðế. Khi kết thúc Tứ Ðế, Tỷ-kheo thối thất kia đắc quả Dự Lưu, và nhiều Tỷ-kheo khác cũng đạt các quả vị như thế. Thế rồi bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Ànanda là vị vua, Xá-lợi-phất là Sayha, còn Ta là vị giáo sĩ hoàng gia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cây Nimbo (Tiền thân Pucimanda)

Anh trộm, dậy đi thôi…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Trúc Lâm về Tôn giả Mục-kiền-liên (Moggallàna).

Bấy giờ Trưởng lão Mục-kiền-liên đang sống tại một túp lều trong khu vườn gần thành Vương Xá. Một tên trộm kia, sau khi bẻ khóa vào một nhà tại một ngôi làng ở ngoại ô, đã chạy thoát đi, mang theo đầy các đồ vật trộm được. Khi chạy đến địa phận trú xứ của Trưởng lão, nó nghĩ rằng thế là thoát được rồi, bèn nằm xuống tại lối vào túp lều lá của Tôn giả. Trưởng lão thấy nó nằmđó liền nghi ngờ ngay tư cách của nó và tự nhủ: “Nếu ta dính líu đến một tên trộm thì sẽ phiền cho ta lắm. Vì vậy, Tôn giả bước ra khỏi lều, bảo tên trộm đừng nằm đó và đuổi nó đi”.

Tên trộm nhanh như cắt vụt chạy trốn đi. Mọi người đuốc trên tay, theo sát tên trộm mà đuổi, đến nơi họ nhìn thấy các chỗ đất ghi dấu vết tên trộm và nói:

– Nó đến đây theo lối này, nó đã đứng nơi đây. Nó không còn ở đây nữa đâu!

Thế là họ đổ xô đến chỗ này chỗ nọ và cuối cùng đành quay về vì không tìm thấy tên trộm.

Sáng hôm sau, Trưởng lão đi khất thực ở Vương Xá và khi trở về, Tôn giả ghé đến Trúc Lâm và kể cho bậc Ðạo Sư sự việc đã xảy ra. Bậc Ðạo Sư dạy:

– Này Mục-kiền-liên, ông không phải là người độc nhất đã nghi ngờ trong một trường hợp nghi ngờ là phải. Các trí giả ngày xưa cũng đã nghi ngờ theo cách như thế.

Rồi do yêu cầu của Trưởng lão, bậc Ðạo Sư kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát ra đời là một Thần cây Nimbo trong một khu rừng nghĩa địa của thành phố.

Bấy giờ, một tên trộm vừa phạm tội trộm trong một xóm lẻ kia trong thành phố rồi chạy vào khu rừng nghĩa địa, nơi đây có một cây Nimbo (cây có trái làm dầu thơm) và một cây Ða đều đã già cỗi mọc cạnh nhau. Tên trộm đặt các đồ vật dưới gốc cây Nimbo rồi nằm xuống đó. Vào thời ấy, bọn trộm cướp bị bắt đều bị xử xiên người treo trên một cành cây Nimbo. Vì thế, Thần cây Nimbo tự nghĩ: “Nếu người ta đến đây và bắt tên trộm này, họ sẽ chặt một cành cây Nimbo này để làm cái gậy mà xiên người nó. Thế là cây sẽ bị hủy hoại. Vậy ta cần phải đuổi anh bạn này đi”.

Thần bèn đọc bài kệ đầu để nói với tên trộm:

Anh trộm, dậy đi thôi,
Ngủ chi, gấp lắm rồi,
Người của vua sắp đến,
Tội anh họ quyết đòi.

Thần lại còn nói thêm:

– Chạy đi kẻo người của vua đến bắt anh bây giờ!

Thế rồi Thần đuổi tên trộm đi. Tên trộm vừa chạy trốn đi thì Thần cây Ða đọc bài kệ thứ hai:

Tên trộm táo gan ấy
Bị bắt hay thoát đi,
Thần cây Nimbo xin hỏi:
Với ngài, đâu khác chi?

Thần cây Nimbo nghe thế liền đọc bài kệ thứ ba:

Ngài đâu biết ta lo thầm kín:
Quân nhà vua sẽ đến nơi đây,
Bắt tên trộm, chặt cành cây
Phạt xiên tội phạm cây này còn chi!

Trong lúc hai vị Thần trong rừng đang nói chuyện với nhau thì những người chủ gia sản, tay cầmđuốc theo dấu tên trộm đã đến nơi, họ nhìn thấy chỗ tên trộm đã nằm và nói:

– Xem kia, tên trộm vừa thức dậy rồi chạy trốn ngay từ chỗ này. Chúng ta chưa tóm được nó đấy, chứ nếu tóm được thì chúng ta sẽ quay trở lại đây, xiên người nó dưới gốc cây Nimbo này hoặc treo nó trên một trong những nhánh cây này.

Nói xong họ đổ xô vào chỗ này chỗ nọ nhưng vẫn không tìm ra tên trộm, họ liền bỏ đi.

Nghe mọi người bàn tán như trên, Thần cây Nimbo đọc bài kệ thứ tư:

Mối nguy chưa thấy, vẫn lo ngay,
Cân nhắc so đo kẻo muộn thay.
Kẻ trí bao giờ trong hiện tại
Cũng nhìn tình trạng của tương lai.

*

Sau khi chấm dứt bài thuyết giảng, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Xá-lợi-phất là Thần cây Ða và Ta là thần cây Nimbo ấy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ẩn Sĩ Kassapa Chậm Trễ (Tiền thân Kassapamandiya)

Trẻ khờ dại có điều sai trái…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo lớn tuổi.

Tương truyền một nhà quí phái trẻ tuổi ở Xá-vệ thấy hậu quả xấu xa của các tham vọng tội lỗi, được bậc Ðạo Sư cho nhập Giáo đoàn, và do tinh tấn tu tập pháp môn thiền quán, chẳng bao lâuđạt Thánh quả. Về sau, khi mẹ mất, ông đưa cha và em trai vào Giáo hội và cả ba người cùng trú tại Kỳ Viên.

Khi mùa mưa bắt đầu; nghe nói tại một trú xứ trong làng kia họ có thể được cúng dường pháp y dễ dàng, cả ba người đều đến đó nhập hạ và sau khi mùa kiết hạ chấm dứt, họ về thẳng Kỳ Viên, vị Tỷ-kheo trẻ bảo chú tiểu yên lặng đưa vị Tỷ-kheo già đi, còn chính ông đi nhanh trước để đến Kỳ Viên sửa soạn phòng xá. Vị Tỷ-kheo già đi thực chậm, chú tiểu cứ thúc đầu vào, dùng sức kéo thầy đi và la lên:

– Nhanh lên thầy!

Tỷ-kheo già nói:

– Người cứ ép ta mà kéo ta đi tới trong khi ta không muốn đi như thế.

Rồi ông quay lại, bắt đầu đi từ khởi điểm. Họ cứ cãi nhau như thế. Mặt trời đã lặn và bóng tối đã kéo tới. Vị Tỷ-kheo trẻ sau khi quét tước lều, đổ nước đầy các bình vẫn chưa thấy họ đến, liền cầm đuốc đi tìm. Khi gặp họ, ông hỏi vì sao họ chậm trễ như vậy. Vị Tỷ-kheo già cho biết lý do. Ông bảo họ nghỉ rồi chậm rãi đưa họ đi tiếp. Thế là hôm ấy, ông không có thì giờ để đến tham bái đức Phật. Vì thế, hôm sau, khi ông đến tham bái đức Phật, đảnh lễ Ngài và ngồi vào chỗ xong, bậc Ðạo Sư hỏi:

– Ông về đến lúc nào?

– Bạch Ngài, hôm qua.

– Ông về đến từ hôm qua mà hôm nay mới đến tham bái Ta ư?

– Bạch Ngài, vâng.

Trả lời như thế xong, ông kể lại lý do. Bậc Ðạo Sư quở trách vị Tỷ-kheo lớn tuổi kia:

– Không phải chỉ bây giờ ông ấy mới làm như thế. Ngày xưa ông ấy cũng đã làm thế rồi. Giờ đây chính ông bị ông ấy làm phiền. Ngày xưa ông ấy đã làm phiền các trí giả.

Rồi do yêu cầu của vị Tỷ-kheo ấy, Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn, tại một thành phố ở nước Kàsi. Khi ngài lớn lên thì mẹ ngài mất. Sau khi thực hiện các nghi thức tang lễ, ngài đem bố thí hết tất cả tiền bạc trong nhà, ngài mặc quần áo cũ rách xin của người khác, mang cha và em trai đi sống cuộc đời đạo hạnh của một ẩn sĩ tại vùng Tuyết Sơn. Tại đó, ngài trú trong một khu rừng an lạc và sống qua ngày bằng cách mót lượm, ăn rễ cây, trái rừng.

Bấy giờ, ở vùng Tuyết Sơn, suốt trong mùa mưa, mưa rơi không dứt. Không thể đào bới củ, rễ, không thể hái lượm trái rừng gì được cả và lá bắt đầu rụng đi, các nhà tu khổ hạnh phần lớn đều phải rời bỏ dãy Tuyết Sơn và tìm đến trú tại nơi có người ở.

Bồ-tát cũng thế, ngài cùng cha và em trai dời về sống nơi có người ở, và khi vùng Tuyết Sơn bắt đầu ra hoa, kết trái trở lại thì ngài cùng cha và em quay về chỗ ẩn dật của mình trong dãy Tuyết Sơn. Khi họ còn cách lều không xa thì trời chiều, ngài rời họ và nói:

– Cha và em cứ thủng thẳng mà đi. Con phải về trước để lo sắp xếp các thứ trong chỗ ở của chúng ta.

Vị ẩn sĩ trẻ kia cứ thấy cha tiếp tục đi thật chậm, liền thúc đầu vào hông cha. Người cha nói:

– Ta không thích cái lối ngươi đưa ta về nhà như thế đâu!

Rồi ông quay trở lại và bắt đầu đi từ chỗ hồi nãy. Họ cứ tranh cãi như thế và trời đã tối đen. Bồ-tát quét lều, xách nước xong, liền cầm một cây đuốc và quay lại tìm. Khi gặp cha và em, ngài hỏi tại sao họ quá chậm trễ như thế. Người em liền kể lại việc cha đã làm. Nhưng Bồ-tát vẫn yên lặng đưa họ về nhà.

Sau khi đã cất chứa các vật dụng cần thiết của người tu sĩ, ngài đưa cha đi tắm, rửa và xức dầu thơm vào hai bàn chân cha, chà tẩy lưng cha. Rồi ngài đem ra một chảo than hồng và khi cha ngài khỏe khoắn trở lại, ngài ngồi bên cạnh cha và bảo:

– Thưa cha, bọn trẻ cũng giống như cái bình lọ bằng đất, chẳng mấy chốc là vỡ ngay và khi đã vỡ thì không thể nào chắp gắn lại được. Người già nên kiên nhẫn chịu đựng chúng khi chúng có điều sai quấy.

Và để khuyến dụ cha ngài tên là Kassapa, ngài đọc hai bài kệ sau đây:

Nếu trẻ dại nói làm sai trái,
Phần người khôn nhẫn nại bền lòng
Người hiền tranh cãi chóng xong,
Kẻ rồ tan vỡ như hòn đất khô.

Kẻ cầu học biết cho mình lỗi,
Chẳng hề phai, tỏ mối thân tình,
Như mang gánh của em anh,
Và làm nhẹ bớt xung quanh láng giềng.

Bồ-tát khuyên cha như vậy. Và từ đó trở đi ngài luôn luôn giữ mình trong giới hạnh.

*

Kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, vị Tỷ-kheo lớn tuổi này là người cha ẩn sĩ, chú tiểu là chú bé ẩn sĩ, còn Ta là người con đã khuyến dụ cha mình.

-ooOoo-

  1. Chuyện Đạo Lý Kham Nhẫn (Tiền thân Khantivàdi)

Kẻ nào xẻo mũi, cắt tai…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo nóng giận.

Các tình tiết của câu chuyện đã được tả trước đây. Bậc Ðạo Sư bảo Tỷ-kheo ấy:

– Ông đã chấp trì giới luật theo Giáo pháp đức Phật, người chẳng hề biết nóng giận là gì, thế mà sao ông lại tỏ ra nóng giận? Các trí giả ngày xưa nghĩ rằng họ phải chịu trăm ngàn đau đớn, bị chặt chân tay, bị cắt tai, mũi vẫn không hề tỏ ra nóng giận người khác.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi một ông vua Kàsi trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn, thừa hưởng gia tài tám trăm triệu đồng. Bấy giờ, ngài là một thiếu niên tên Kundakakumàra. Khi lớn lên, ngài thành tựu mọi kiến thức về các ngành khoa học tại Takkasilã và sau đó trở thành một gia trưởng.

Khi cha mẹ mất đi, ngài nhìn đống tiền bạc và tự nghĩ: “Những người thân của ta đã tích nên tài sản này rồi lại ra đi mà chẳng mang theo được. Giờ đây, ta lại sở hữu tài sản này và lại đến lượt ta ra đi.” Thế rồi ngài cẩn thận chọn những người có đức bố thí xứng đáng và cho họ hết tất cả tài sản rồi ngài vào vùng Tuyết Sơn tu khổ hạnh. Ngài trú ở đó một thời gian lâu, sống bằng trái cây rừng. Sau đó ngài xuống các nơi có người ở để kiếm muối và dấm và đi lần đến Ba-la-nại, tại đó, ngài trú trong vườn cây của vua.

Ngày hôm sau, ngài đi khất thực trong thành phố và đến cửa nhà quan đại tướng. Vị quan này rất bằng lòng trước phong thái đặc biệt của vị ẩn sĩ liền mời ngài vào nhà, dâng ngài các thức ăn dành riêng cho chính ông. Sau đó, ông đưa ngài trở lại trú xứ của ngài trong vườn cây của vua.

Một hôm, vua Kalàbu bị khích động vì rượu mạnh, đến vườn cây với đầy đủ mọi nghi trượng xa hoa, bao quanh ông là một đám vũ công. Ông cho đặt vương sàng tại đó và nằm gối đầu trên đùi một ái phi trong khi các nghệ nữ thiện xảo về đàn sáo nhảy múa trình diễn. Cả một khung cảnh thật là tráng lệ chẳng khác cảnh của Thiên chủ Ðế Thích, vua cõi trời! Rồi nhà vua ngủ thiếp đi. Các phụ nữ kia bảo:

– Chính vì đức vua mà chúng ta tấu nhạc, nay ngài đã ngủ rồi. Chúng ta cần chi phải đàn hát nữa?

Rồi họ ném bỏ đàn sáo đó đây, đi vào vườn cây và mải mê vui chơi với cây trái, bông hoa trong vườn.

Bấy giờ, Bồ-tát đang ở trong vuờn này dũng mãnh như một vương tượng. Ngài ngồi dưới gốc một cây Sàla đang nở hoa, hưởng hạnh phúc tối đa của kẻ từ bỏ thế tục. Các phụ nữ kia trong khi lang thang trong vườn, đến chỗ Bồ-tát ngồi. Họ bảo với nhau:

– Này các chị ơi, lại đây, chúng ta hãy ngồi xuống nghe vị tu sĩ đang ngồi dưới gốc cây này thuyết giảng cho đến khi đức vua thức dậy.

Họ đến chào ngài rồi ngồi vòng quanh ngài và nói:

– Xin giảng cho chúng tôi những điều đáng nghe.

Bồ-tát giảng đạo lý cho họ. Trong khi ấy, nàng vương phi sủng ái kia trăn trở thân mình làm vua thức dậy. Không thấy các phụ nữ kia đâu, vua hỏi:

– Bọn tiện tỳ ấy đi đâu cả rồi?

Nàng ái phi đáp:

– Tâu Ðại vương, họ bỏ đi và đang ngồi quanh một nhà tu khổ hạnh.

Nhà vua cầm kiếm vội vã ra đi và nói:

– Ta sẽ cho tên ẩn sĩ giả hiệu kia một bài học.

Những người được vua sủng ái nhất trong đám phụ nữ kia thấy vua giận dữ liền đến nắm lấy kiếm của vua xin vua bớt giận. Vua bước tới đứng bên cạnh Bồ-tát và hỏi:

– Này, nhà tu kia, ông giảng đạo lý gì thế?

Ngài đáp:

– Tâu Bệ hạ, tôi giảng về đạo lý kham nhẫn.

Vua hỏi:

– Kham nhẫn là gì?

– Là không giận hờn khi người ta rầy la, đánh đập, mắng chửi mình.

Vua bảo:

– Ðược rồi, ta sẽ xem đức kham nhẫn của ông thực sự như thế nào.

Rồi vua cho gọi quan hành hình lại. Ông này đang đi hành sự, cầm một cái rìu và một cái roi gai, mặc áo vàng, mang một tràng hoa đỏ. Ông đến chào vua và thưa:

– Tâu Ðại vương, tôi phải làm gì để vừa lòng ngài?

Vua phán:

– Tóm lấy và lôi cổ tên thầy tu xảo quyệt đê tiện ấy đi, ném nó xuống đất, dùng roi gai mà đánh nó đằng trước, đằng sau và cả hai bên, quất cho nó hai ngàn roi.

Lệnh ấy được thi hành. Da trong, da ngoài của Bồ-tát bị xé rách tới thịt, máu tuôn xối xả. Vua lại hỏi:

– Này thầy tu kia, ông dạy đạo lý gì?

– Tâu Ðại vương, đức kham nhẫn – Bồ-tát đáp.

– Ngài tưởng rằng đức kham nhẫn của tôi chỉ nằm dưới da; không phải thế đâu, nó nằm bên trong tim tôi, ngài không thể trông thấy được đâu.

Viên quan hành hình lại hỏi vua:

– Tâu Ðại vương, tôi phải làm gì để vừa lòng ngài?

Vua nói:

– Hãy cắt đứt hai bàn tay của tên thầy tu giả hiệu ấy đi.

Thế là người kia xách rìu, đặt tội nhân vào bên trong vành tử tội rồi chặt đứt cả hai bàn tay Bồ-tát. Vua lại nói:

– Chặt hai bàn chân luôn.

Thế là hai bàn chân của ngài cũng bị chặt đứt. Máu vọt từ đầu các bàn tay chân như nước tuôn từ một cái bình thủng. Vua lại hỏi ngài thuyết giảng đạo lý gì. Ngài đáp:

– Tâu Chúa thượng, đức kham nhẫn. Tâu Ðại vương, ngài tưởng rằng đức kham nhẫn của tôi nằm tại các đầu bàn tay, bàn chân, thực không phải ở đó đâu, nó nằm ở nơi khác nữa kìa.

Vua nói:

– Hãy xẻo mũi và tai nó đi.

Viên quan hành hình làm theo như thế. Toàn thân Bồ-tát bây giờ nhuốm đầy máu. Vua lại hỏi đến đạo lý của ngài. Vị ẩn sĩ nói:

– Ngài chớ tưởng rằng đức kham nhẫn của tôi nằm ở chóp mũi và chóp tai của tôi; đức kham nhẫn của tôi nằm sâu trong tim tôi kia.

Vua nói:

– Tên thầy tu giả mạo kia, nằm xuống đi rồi hãy ca ngợi đức kham nhẫn của ngươi.

Nói thế xong, vua dẫm lên ngực, chỗ phía trái tim của Bồ-tát, rồi bỏ đi.

Khi vua đã đi rồi, vị đại tướng kia đến lau chùi máu trên thân thể của Bồ-tát, băng bó các đầu bàn tay, bàn chân, tai mũi ngài và nhẹ nhàng đặt ngài ngồi vào một chỗ, đảnh lễ ngài rồi ngồi xuống một bên. Ông bảo:

– Kính thưa Tôn giả, nếu ngài có giận hờn kẻ gây tội ác với ngài thì xin ngài hãy giận hờn đức vua, chớ đừng có giận hờn một ai khác.

Ông yêu cầu Bồ-tát qua bài kệ đầu:

Kẻ nào xéo mũi, cắt tai,
Cùng là chặt đứt của ngài tay chân.
Xin hờn kẻ ấy riêng phần,
Tâm hồn oanh liệt, xin đừng hờn chung!

Bồ-tát nghe thế liền đọc bài kệ thứ hai:

Mong vua vẫn được mạng trường,
Tay hung hủy hoại chẳng thương thân này,
Nhưng lòng thanh tịnh, ta đây,
Chẳng hề căm giận kẻ gây ác nào!

Khi vua rời khỏi vườn cây và ngay lúc ông vừa ra khỏi tầm nhìn của Bồ-tát, vùng đất kiên cố, dày hai trăm bốn mươi ngàn dặm bỗng nứt ra làm hai, lửa từ ngục A-tỳ (Avìci: Vô gián Ðịa ngục) vọt lên ập tới vua, trùm cả người ông như chiếc long bào hổ hoàng. Như vậy vua chìm trong đất ngay chỗ cổng vườn cây và bị tống hẳn vào đại ngục A-tỳ. Bồ-tát cũng chết vào cùng ngày ấy. Triều thần của vua và dân chúng mang các tràng hoa, dầu thơm, hương liệu đến làm lễ tống táng Bồ-tát. Có người bảo rằng Bồ-tát đã đi thẳng về dãy Tuyết Sơn. Nhưng theo bài kệ sau đây thì người ta lại bảo không phải như vậy:

Cổ thánh nhân – người đời truyền tụng –
Vẫn tỏ ra đại dũng đại uy.
Thánh kia kham nhẫn kiên trì,
Bị vua của xứ Kà-si giết rồi.

Ôi món nợ chẳng hồi tiếc nuối,
Vua kia đành trả lại liền sau.
Tháng ngày ân hận dài lâu,
Một khi trú địa ngục sâu tận cùng.

Hai bài kệ trên được sáng tác từ Trí tuệ toàn hảo của đức Phật.

*

Khi bậc Ðạo Sư thuyết giảng xong, Ngài tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc Tứ Ðế, vị Tỷ-kheo nóng giận kia đắc quả Nhất Lai, và nhiều vị khác đắc quả Dự Lưu. Sau đó, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa là Kalàbu, vua xứ Kàsi; Xá-lợi-phất là quan tổng trấn; còn Ta là vị ẩn sĩ, người thuyết giảng về đức kham nhẫn.

-ooOoo-

  1. Chuyện Địa Ngục Nồi Sắt (Tiền thân Lohakumbhi)

Ðúng phần của, ta nào ban bố…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một vị vua xứ Kosala.

Hồi ấy, nhân một đêm kia, vua xứ Kosala nghe một tiếng do bốn sinh linh ở địa ngục phát ra, đó là bốn âm, mỗi âm do một sinh linh phát ra: du, sa, na, se. Truyền thuyết bảo rằng trong một đời trước họ vốn là bốn hoàng tử ở Xá-vệ và đã phạm tội gian dâm. Sau khi làm điều xấu xa với vợ của các láng giềng vốn được trông giữ cẩn thận và cứ buông mình theo tham ái dục lạc, họ đã bị bánh xe của thần chết cắt đứt ngang cuộc sống xấu xa kia gần Xá-vệ. Họ tái sinh vào địa ngục Bốn Nồi sắt. Sau khi chịu đau đớn sáu nghìn năm, họ trồi được lên cao và trông thấy bờ miệng của cái nồi, họ liền tự nghĩ: “Biết đến bao giờ chúng ta mới thoát khỏi cảnh khổ này?”. Thế rồi cả bốn người lần lượt phát lên một tiếng kêu lớn. Vua sợ muốn chết vì những âm thanh ấy, cứ ngồi yên không nhúc nhích và chờ cho đến sáng.

Lúc bình minh, các vị Bà-la-môn đến vấn an vua. Vua bảo:

– Này các thầy, hôm nay chính ta đây phải nghe những tiếng kêu kinh khủng như thế kia thì làm sao ta khỏe khoắn cho được?

Các Bà-la-môn nhún vẫy tay. Vua hỏi:

– Gì thế hở các thầy?

Họ đoan chắc với vua rằng những tiếng kia là điềm rất hung xấu. Vua hỏi:

– Có cách gì chữa trị không?

Họ đáp:

– Tâu Ðại vương, ngài có thể bảo rằng không! Nhưng chúng tôi đã lắm từng trải về các sự việc như thế.

Vua nói:

– Bằng cách nào các thầy có thể xua tan được các điều xấu ấy chứ?

– Tâu Ðại vương – họ đáp – chúng tôi vốn có quyền năng chữa trị hiệu nghiệm và nhờ cuộc tế lễ tứ phần gồm đủ các loại sinh linh chúng tôi sẽ xua tan hết mọi điều xấu.

Vua phán:

– Vậy thì nhanh lên, hãy bắt hết mọi sinh linh mỗi thứ bốn con: người, bò, ngựa, voi xuống cho tới chim cút cùng các loài chim khác, và nhờ tế lễ tử sinh như thế, tâm ta được an bình trở lại.

Các Bà-la-môn tuân lời, họ lấy đủ mọi thứ họ cần rồi cho đào một hố để tế lễ và trói đủ loại sinh linh khốn khổ kia vào các cột. Họ bắt các vật hy sinh nhiều hơn số cần thiết vì nghĩ rằng họ sẽ được ăn nhiều món ngon và hưởng nhiều lợi lộc. Họ đi khắp chỗ này chỗ nọ và bảo:

– Này, tôi phải có thế này, thế kia…

Hoàng hậu Mallikà đến hỏi vua tại sao các Bà-la-môn lại vui mừng đến thế. Vua đáp:

Này hoàng hậu, bà có liên hệ gì tới chuyện này chứ? Bà đang say đắm trong vinh quang của riêng bà và chẳng biết rằng ta đã đau khổ như thế nào.

– Sao thế, thưa Ðại vương.

– Ta đã nghe những tiếng kêu khủng khiếp và khi ta hỏi các Bà-la-môn rằng kết quả việc nghe những tiếng kêu ấy là thế nào, thì họ bảo vương quốc của ta, tài sản của ta đang bị đe dọa, nhưng nhờ tế lễ tứ sinh, họ sẽ làm cho tâm ta an bình. Giờ đây họ đang theo lệnh ta, đào một hố tế lễ vàđang tìm kiếm các vật hy sinh mà họ cần.

Hoàng hậu nói:

– Tâu Hoàng thượng, thế ngài đã hỏi ý kiến vị Bà-la-môn trưởng ở thiên giới về nguồn gốc của những tiếng kêu này chưa?

Vua đáp:

– Hoàng hậu, ai là Bà-la-môn trưởng ở thiên giới?

– Tâu ngài, đó là đức Ðại Cồ đàm – hoàng hậu trả lời – là đức Phật tối cao.

– Ta đã không hỏi ý kiến đức Phật.

Hoàng hậu nói:

– Thế thì xin hãy đến hỏi Ngài đi.

Vua nghe theo lời hoàng hậu. Sau bữa ăn sáng, vua lên Vương Xá và đến Tinh xá Kỳ Viên. Sau khi đảnh lễ bậc Ðạo Sư, vua nói:

– Bạch Thế Tôn, trong đêm gần đây, trẫm có nghe bốn tiếng kêu và hỏi các thầy Bà-la-môn, họ cam đoan sẽ làm cho tâm trẫm an bình trở lại bằng cách tế lễ tứ sinh đối với mỗi loài và bây giờ họ đang sửa soạn tế lễ. Sự việc trẫm nghe các tiếng kêu như thế khiến điều gì xảy ra cho trẫm?

– Chẳng xảy ra điều gì cả – Bậc Ðạo Sư dạy – Một số sinh linh ở địa ngục vì phải chịu đựng thống khổ nên kêu lớn lên. Những tiếng ấy không phải riêng ngài nghe đâu. Các vị vua ngày xưa cũngđã nghe như thế. Và họ cũng vậy, sau khi hỏi ý các Bà-la-môn, đã nóng lòng tổ chức lễ tế các vật hy sinh, nhưng rồi được các trí giả chỉ bảo, họ không làm như thế nữa. Các trí giả giảng cho họ tính chất của những tiếng kêu này và khuyên họ thả hết đám vật hy sinh đáng thương kia ra, cùng làm cho tâm họ an bình trở lại.

Rồi do yêu cầu của vua, bậc Ðạo Sư kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn, tại một làng nọ thuộc xứ Kàsi. Khi đến tuổi trưởng thành ngài từ bỏ các dục lạc và sống đời tu hành. Ngài phát huy những thần lực do thiền định và an hưởng thiền lạc. Ngài trú tại một khu rừng tịnh lạc trong vùng Tuyết Sơn.

Vua Ba-la-nại bấy giờ rất kinh sợ vì nghe bốn tiếng kêu do bốn sinh linh trú trong địa ngục phát ra. Và khi các thầy Bà-la-môn bảo cũng y như thế rằng một trong ba tai họa phải xảy đến cho nhà vua, vua liền thuận theo đề nghị của họ là cử hành tế lễ tứ sinh để ngăn chặn tai họa. Vị giáo sĩ của hoàng gia được các Bà-la-môn giúp chuẩn bị một hố tế lễ và một số lớn vật hy sinh được mang lại, cột vào các cọc.

Thế rồi Bồ-tát, do lòng từ thúc đẩy, quan sát thế giới bằng thiên nhãn. Khi ngài thấy sự việc xảy ra, liền nghĩ: “Ta phải đến để lo an toàn cho các sinh linh này”.

Rồi do thần lực, ngài bay lên không và hạ xuống trong vườn cây của vua Ba-la-nại. Ngài ngồi trên phiến đá của vua, trông giống như một tượng vàng. Người đệ từ trưởng của vị giáo sĩ đến gần thầy và hỏi:

– Thưa thầy, trong kinh Vệ-đà há chẳng viết rằng không có hạnh phúc cho những ai sát sinh đấy sao?

Giáo sĩ đáp:

– Ngươi cứ việc mang phẩm vật của vua lại đây và chúng ta sẽ có lắm thứ ngon để ăn. Cứ an tâm!

Ông nói thế và đuổi anh ta đi.

Nhưng chàng trai tự nghĩ: “Ta sẽ không dự phần vào việc này đâu,” rồi anh ta vào vườn cây của vua và thấy Bồ-tát nơi đây. Sau khi thân ái chào ngài, anh ngồi xuống cách ngài một khoảng để tỏ lòng kính trọng. Bồ-tát hỏi anh:

– Này chàng trai, vua trị nước có công chính không?

Anh đáp:

– Thưa Tôn giả, vua trị nước rất công chính, nhưng trong đêm, ngài nghe bốn tiếng kêu và khi vua hỏi các thầy Bà-la-môn thì ngài được họ đoan chắc rằng họ sẽ làm cho tâm ngài an bình trở lại bằng cách tế lễ tứ sinh. Do đó, vua muốn lấy lại niềm an lạc, đang chuẩn bị đem các loài vật tế lễ và một số lớn các vật hy sinh đã được mang lại trói vào các cột tế lễ. Bây giờ, đối với những đạo nhân như Tôn giả, há chẳng nên giải thích nguyên do của các tiếng kêu kia mà cứu số đông sinh mạng đáng thương này khỏi nanh vuốt của tử thần ư?

Bồ-tát nói:

– Này anh bạn trẻ, vua chẳng biết ta, ta cũng chẳng biết vua, nhưng chính ta đây biết được nguồn gốc của tiếng kêu la ấy. Nếu vua đến đây hỏi ta nguyên do, ta sẽ giải quyết mối nghi cho ngài.

Chàng trai đáp:

– Thế thì thưa Tôn giả, xin Tôn giả chờ một lát, con sẽ đưa đức vua lại.

Bồ-tát chấp thuận. Chàng trai đến trình với vua mọi sự và dẫn vua đến gặp Bồ-tát. Vua đảnh lễ ngài, ngồi xuống một bên và hỏi có thật ngài biết nguồn gốc của các tiếng kêu ấy không. Bồ-tátđáp:

– Tâu Ðại vương, thật thế.

Vua nói:

– Vậy thì thưa Tôn giả, xin ngài hãy nói cho ta nghe.

– Tâu Ðại vương – ngài nói – những người kia, trong một đời trước đã phạm tội gian dâm với những người phụ nữ ở gần Ba-la-nại, vốn là vợ của những người láng giềng, được canh giữ rất kỹ lưỡng. Và do đó về sau họ bị tái sinh vào địa ngục Nồi sắt. Nơi đây, sau khi phải chịu thống khổ suốt ba mươi ngàn năm trong một chất lỏng ăn mòn dầy đặc được nấu sôi, có lúc họ bị chìm đụng đến đáy nồi, có lúc họ trồi lên đỉnh như một cái bọt nước. Sau những năm như thế, họ thấy được miệng nồi và khi nhìn qua mép nồi, cả bốn người đều muốn đọc lên bốn bài kệ trọn vẹn nhưng họ không thể nào làm được như thế. Và khi mỗi người chỉ mới phát ra được một âm thì bị chìm trở lại trong nồi sắt. Bấy giờ một người trong bọn bị chìm xuống sau khi phát ra âm “du” vốn muốn nói như sau:

Ðúng phần của, ta nào ban bố,
Lại sống đời nhiễm ố, tà gian,
Không tìm cứu rỗi vững vàng,
Giờ đây phước lạc một đường bay xa.

Người ấy không thể đọc lên bài kệ trên, nhưng Bồ-tát nhờ có trí tuệ riêng nên đã đọc lại toàn bộ bài kệ ấy. Và đối với ba người kia cũng thế. Người mới chỉ phát âm “sa” vốn muốn đọc bài kệ sau:

Sầu thảm thay, số này chịu cả
Ðến khi nào buông thả ra cho?
Qua vô số kiếp khôn dò
Cực hình địa ngục bao giờ ngưng đâu!

Còn trường hợp người phát ra âm “ha” thì đây là bài kệ ông ta muốn đọc:

Nào dứt được khổ sầu đau đớn,
Số phận kia đã gán cho ta,
Ở trần gian tạo ác ra,
Chính phần ta phải nhận mà đền đây.

Và người đã phát ra âm “se” thì muốn đọc bài kệ sau đây:

Số phận này một mai thoát nhẹ,
Mang kiếp người, ta sẽ vươn lên,
Quyết làm nhiều việc thiện hiền,
Bằng công đức tự trang nghiêm lấy mình.

Sau khi đọc trọn từng bài kệ Bồ-tát bảo:

– Tâu Ðại vương, kẻ ở trong địa ngục muốn đọc cả bài kệ trọn vẹn nhưng vì tội của họ nặng quá nên họ không thể làm như thế được. Và khi lãnh nhận hậu quả ác nghiệp của họ như vậy, họ la lớn lên. Nhưng ngài chớ sợ; sẽ không một nguy hại nào đến gần ngài vì ngài đã nghe tiếng kêu ấy đâu.

Ðược Bồ-tát làm cho an tâm, vua truyền đánh trống vàng của ngài và tuyên bố rằng đám đông các vật hy sinh kia phải được thả ra và hố tế lễ bị phá bỏ.

Còn Bồ-tát sau khi đã cứu bao nhiêu sinh vật khổ nạn kia, ở lại đó ít ngày rồi quay về chốn cũ và không hề ngừng tu tập Thiền định, ngài được sinh vào cõi Phạm thiên.

*

Khi bậc Ðạo Sư thuyết giảng xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Xá-lợi-phất bấy giờ là người tu sĩ trẻ tuổi, còn Ta là vị ẩn sĩ kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Miếng Thịt (Tiền thân Mamsa)

Ðối với kẻ cầu xin ân huệ…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên, về cách Trưởng lão Xá-lợi-phất đã kiếm thức ăn ngon cho các Tỷ-kheo bị bệnh đang được chữa trị.

Bấy giờ, một số Tỷ-kheo ở Kỳ Viên sau khi dùng dầu để làm thuốc xổ, muốn được một ít đồ ăn ngon. Những người chăm sóc bệnh đã đến Xá-vệ tìm các thức ăn ngon, nhưng sau một vòng khất thực trên con đường tại các khu hàng quán ăn, họ đành trở về, không có được các thức ấy. Ðến gần trưa, Trưởng lão Xá-lợi-phất vào làng khất thực, gặp các Tỷ-kheo ấy liền hỏi họ vì sao quay về sớm như thế. Họ kể cho Tôn giả nghe. Tôn giả nói:

– Thế thì theo ta đây.

Rồi Tôn giả đưa họ đến cũng chính con đường ấy.

Bấy giờ, dân chúng ở đó cúng dường Tôn giả đủ mọi thức ăn ngon. Những thị giả mang thức ăn về cho các Tỷ-kheo bị bệnh và họ đã thọ dụng chúng.

Thế rồi một hôm, cuộc bàn tán lại bắt đầu trong Pháp đường, rằng các thị giả đã phải rời thành mà không kiếm được thức ăn cho thầy của họ đang bị bệnh như thế nào, còn Trưởng lão Xá-lợi-phất trên đường khất thực đã mang họ theo trên một con đường thuộc khu quán xá thế nào, và Tôn giả đã gởi họ về với bao nhiêu là thức ăn ngon…

Bậc Ðạo Sư bước vào và hỏi các Tỷ-kheo đang bàn tán việc gì và sau khi nghe thuật lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, chẳng phải chỉ riêng Xá-lợi-phất kiếm được thức ăn như thế đâu, ngày xưa, các trí giả cũng đã có giọng dịu ngọt, đã biết nói năng vừa lòng người và đã nhận được các thứ như vậy.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là con trai của một thương gia giàu có.

Một hôm, một người bẫy nai kia săn được thịt, chở đầy xe, quay về thành phố định đem thịt ra bán. Bấy giờ bốn người con trai của các trưởng giả giàu có đang sống tại Ba-la-nại, ra khỏi thành, gặp nhau tại ngã tư đường. Họ ngồi xuống và nói chuyện với nhau về những gì họ đã nghe thấy được. Một trong những chàng trai ấy trông thấy chiếc xe chở đầy thịt kia liền đề nghị đến người bẫy nai kiếm một miếng thịt nai. Các chàng kia bảo anh ta cứ đến thử xem. Anh ta đến gặp người đi săn ấy và nói:

– Chào ông mãnh, cho tôi một miếng thịt nào!

Người đi săn trả lời:

– Người nào xin người khác thứ gì thì phải nói năng lịch sự; bạn sẽ có một miếng thịt xứng hợp với cách nói năng của bạn.

Rồi ông ta đọc bài kệ đầu:

Ðối với kẻ cầu xin ân huệ,
Lời sao thô lỗ thế bạn ơi?
Món thô xứng đáng cùng lời,
Chỉ xương da đấy, thứ tôi treo này.

Một trong những người bạn kia hỏi anh ta đã dùng lời lẽ thế nào để xin một miếng thịt, anh ta đáp:

– Tôi nói: chào ông mãnh!

Người kia nói:

– Tôi cũng sẽ đến xin ông ta.

Rồi anh ta đến người đi săn và nói:

– Này ông anh, hãy cho tôi một miếng thịt nai nào!

Người đi săn đáp:

– Bạn sẽ nhận được một miếng xứng hợp với lời lẽ bạn dùng.

Rồi ông ta đọc bài kệ thứ hai:

Tên người anh, mối dây mạnh mẽ
Nối tình thân những kẻ với nhau…
Lời hay của bạn vừa trao
Khiến tôi tặng chỗ nối vào hai xương.

Nói thế xong, người đi săn ném cho anh ta một miếng khớp xương nai. Chàng trẻ thứ ba hỏi người vừa rồi đã xưng hô thế nào khi đến xin thịt anh kia đáp:

– Tôi gọi ông ta là ông anh.

Anh này nói:

– Tôi cũng sẽ đến xin anh ta.

Rồi anh ta đến gần người đi săn và kêu:

– Này cha thân, hãy cho con một miếng thịt nai.

Người đi săn nói:

– Bạn sẽ được một miếng xứng hợp với lời bạn vừa nói.

Và ông đọc bài kệ thứ ba:

Tim người cha xót thương động chuyển
Khi nghe kêu lên tiếng “cha thân”!
Ðáp lời bạn khẩn cầu ân,
Trái tim nai đấy tôi mang tặng liền.

Nói như thế xong, ông ta liền cho người ấy một miếng thịt ngon, nguyên phần cả trái tim con nai. Thế rồi chàng trai thứ tư hỏi chàng thứ ba rằng anh đã dùng lời lẽ ra sao mà hỏi xin thịt. Người kia đáp:

-Ồ – tôi gọi anh ta là cha thân!

Người thứ tư bảo:

– Thế thì tôi cũng sẽ xin một miếng.

Rồi anh đến gần người đi săn và nói:

– Này bạn của ta ơi, hãy cho ta một miếng thịt.

Ông ấy bảo:

– Bạn sẽ nhận phần tùy theo lời bạn vừa thốt.

Rồi ông đọc bài kệ thứ tư:

Tôi dám nghĩ: cuộc đời không bạn
Chắc phải là hoang vắng đìu hiu!
Gồm trong tiếng “bạn” niềm yêu,
Nên tôi tặng hết bao nhiêu thịt này.

Ông ta nói thêm:

– Này bạn, tôi sẽ chở cả xe thịt này về nhà bạn.

Thế là người con trai của thương gia ấy được cả xe mang về và anh ta đến lấy thịt ra. Anh đối đãi với người đi săn, đầy thịnh tình và kính trọng. Anh cho gọi vợ con ông ta, và đem ông ta ra khỏi nghề độc ác ấy và đến ở tại tư dinh chính anh. Từ đó, họ trở thành đôi bạn bất ly và sống thân ái với nhau suốt đời.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt bài thuyết giảng, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Xá-lợi-phất là người đi săn, còn Ta đây là con trai của người thương gia, kẻ đã được chia trọn cả phần thịt nai ấy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Thỏ (Tiền thân Sasa)

Bảy cá hồng tôi đã gọn mang…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về sự cúng dường vật dụng cho các Tỷ-kheo.

Một người chủ đất nọ tại Xá-vệ cung cấp đủ mọi thứ cần thiết cho Giáo đoàn, đứng đầu là đức Phật. Ông ta dựng một cái rạp ở trước cửa nhà ông rồi mời các Tỷ-kheo cùng đức Phật, Giáo chủ của họ đến ngồi vào chỗ trang nghiêm đã chuẩn bị sẵn và cúng dường các vị đủ mọi thức cao lương thượng hạng. Ông còn nói:

– Ngày mai, xin quý vị trở lại.

Ông khoản đãi họ trọn một tuần và đến ngày thứ bảy, ông dâng cúng đức Phật cùng năm trăm vị Tỷ-kheo của Ngài đủ mọi thứ vật dụng cần thiết. Vào cuối bữa tiệc, bậc Ðạo Sư nói lời tùy hỷ công đức:

– Này cư sĩ, ông tạo sự thỏa lòng mãn ý do sự bố thí này thật là đúng lý. Vì đây là một truyền thống của hàng trí giả ngày xưa, những vị đã hiến cả thân mạng mình cho bất cứ kẻ hành khất nào mà họ gặp, họ còn cho những kẻ ấy ăn cả thịt của chính họ nữa.

Rồi do yêu cầu của gia chủ, Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một con Thỏ sống trong một khu rừng. Một phía rừng này là chân một ngọn núi, ở phía kia là một con sông và ở phía thứ ba là một ngôi làng biên địa. Thỏ có ba bạn: một con Khỉ, một con Chó rừng và một con Rái cá. Bốn con vật khôn ngoan này sống với nhau, mỗi con săn tìm thức ăn của mình trong một khu riêng biệt và đến chiều tối, chúng đến họp lại với nhau. Thỏ rất thông tuệ, có tài khuyến dụ, thường thuyết về Chân lý cho ba bạn kia; dạy các bạn ấy nên bố thí, nên tuân hành luật đạo đức và giữ gìn ngày trai giới. Chúng đều tiếp thu lời khuyến dụ ấy và mỗi con đến trú ở chỗ riêng của mình trong khu rừng ấy.

Thời gian trôi qua, một hôm Bồ-tát quan sát bầu trời, nhìn mặt trăng và biết rằng hôm sau là ngày trai giới liền dặn ba bạn kia:

– Ngày mai là trai nhật. Cả ba bạn hãy thực hành giới luật và giữ gìn ngày trai. Ai tỏ ra kiên định trong việc thực hiện đạo đức thì việc bố thí sẽ mang lại cho vị ấy kết quả xứng đáng. Thế thì hễ có kẻ nào đến xin bạn, bạn hãy cho họ ăn bằng chính thức ăn của bạn.

Tất cả đều đồng ý, rồi ai nấy về chỗ của mình.

Tờ mờ sáng hôm sau, Rái cá ra đi tìm mồi, xuống tới bờ sông Hằng. Bấy giờ có một người đánh cá bắt được bảy con cá hồng, xâu cá vào một sợi mây rồi đem chôn chúng dưới cát trên bờ sông. Sau đó, ông ta lại xuống sông để bắt thêm cá. Rái cá đánh hơi được mấy con cá đang được chôn vùi kia, liền bới cát lên, trông thấy cá liền lôi ra và kêu lớn lên ba lần:

– Cá của ai đây?

Không thấy chủ nhân đâu, nó liền lấy răng cắn xâu cá ấy mang vào rừng đem về để vào nơi nó ở, định sẽ ăn vào lúc thích hợp. Thế rồi nó nằm xuống suy nghĩ mình thật đạo hạnh quá!

Con Chó rừng cũng ra đi kiếm thức ăn và tìm thấy trong túp lều của một người trông coi đồng ruộng hai xiên nướng thịt, một con rắn mối và một lọ sữa đông. Nó kêu lớn lên ba lần:

– Các thứ này của ai đây?

Sau đó không thấy ai là chủ nhân, nó tròng dây vào cổ mang cái lọ, dùng răng cắn con rắn mối và hai cái xiên mang về cất vào hang của nó. Nó tự nghĩ: “Vào lúc thích hợp, ta sẽ ăn các thứ này”. Rồi nó nằm xuống, suy nghĩ vừa rồi nó giữ đạo hạnh thật tốt.

Con Khỉ cũng vào trong lùm cây, lượm một cành xoài rồi mang lên cất vào khu của nó trong rừng, định sẽ ăn các trái xoài ấy vào lúc thích hợp. Rồi nó nằm xuống, suy nghĩ nó đã giữ đức hạnh thật đúng.

Còn Bồ-tát vào lúc cần, ra ngoài để định ăn đọt non trên bãi cỏ Kusa và trong lúc nằm trong rừng, ngài chợt nghĩ: “Ta chẳng có dầu, chẳng có cơm, chẳng có các thứ như thế. Nếu có ai đến đây xin ta, ta đâu có thể lấy cỏ mà cho họ được. Nếu có người hành khất nào đến với ta, ta sẽ cho người ấy thịt của chính ta vậy”. Sự biểu lộ đức hạnh sáng ngời ấy làm cho chiếc ngai bằng cẩm thạch trắng của Thiên chủ Ðế Thích nóng lên.

Ðế Thích quán tưởng và khám phá ra duyên cớ, rồi quyết định thử lòng con Thỏ chúa này. Trước hết, Thiên chủ giả là một Bà-la-môn đến đứng gần nơi ở của con Rái cá. Rái cá hỏi tại sao ông đứng đó, ông đáp:

– Này Hiền giả, tôi vừa nhịn đói giữ trai giới, nếu có được thứ gì để ăn, tôi sẽ hoàn tất mọi bổn phận của một đạo sĩ.

Rái cá nói:

– Tốt lắm, tôi sẽ cho ngài thức ăn.

Rồi nó đọc bài kệ đầu để nói với Ðế Thích:

Bảy cá hồng tôi đã gọn mang
Từ dòng nước cả của sông Hằng,
Bà-la-môn hỡi, ăn cho thỏa,
Và ở lại đây chốn núi ngàn.

Vị Bà-la-môn bảo:

– Hãy để đến ngày mai rồi tôi sẽ tính.

Rồi ông đến với con Chó rừng. Khi được hỏi vì sao ông đứng đó, ông cũng trả lời như trước kia. Chó rừng cũng sẵn sàng hứa tặng ông đồ ăn và nói với ông bằng bài kệ thứ hai:

Người coi đồng dành thức ăn tối
Bình sữa kia; rắn mối nữa đây.
Hai xiên để nướng thịt này
Tôi đây trót dại lấy ngay ấy mà.

Có bao nhiêu tôi đà tặng đấy,
Bà-la-môn xin hãy ăn thôi!
Nếu ngài hạ cố đến nơi
Rừng này ở lại cùng tôi một hồi.

Vị Bà-la-môn bảo:

– Hãy để đến mai rồi tôi sẽ tính.

Rồi ông đến với con Khỉ. Khi được hỏi vì sao ông đứng đó, ông cũng trả lời như trước. Khỉ sẵn sàng cho ông đồ ăn và nói với ông bài kệ thứ ba:

Dòng nước lạnh với cành xoài mọng,
Chốn rừng xanh rợp bóng yên lành,
Ðể ngài vui hưởng, sẵn dành,
Nếu ngài thỏa ý, rừng xanh nương mình.

Vị Bà-la-môn bảo:

– Hãy để đến mai rồi tôi sẽ tính.

Rồi ông đến con Thỏ rừng tinh khôn. Khi được hỏi vì sao ông đứng đó, ông cũng trả lời như trên. Khi nghe ông ta muốn gì, Bồ-tát rất thỏa ý, liền nói:

– Này Bà-la-môn, ngài đến với tôi để kiếm đồ ăn thì thật là đúng lắm. Hôm nay, tôi muốn trao tặng một thứ mà trước đây tôi chưa bao giờ trao tặng, và ngài sẽ không phải phạm giới sát sinh. Này bằng hữu, khi ngài chất củi và nhóm lên một ngọn lửa xong thì hãy đến báo cho tôi biết, tôi sẽ hiến mạng sống của tôi và nhảy vào trong lửa. Khi thân tôi đã được nướng chín, ngài hãy ăn thịt tôi rồi hoàn thành các bổn phận tu sĩ của ngài.

Rồi Thỏ nói với ông bài kệ thứ tư:

Tôi chẳng có thức ăn mè, đậu,
Cùng gạo cơm để hậu đãi ngài.
Thịt tôi hãy nướng lửa thôi,
Nếu ngài sống với chúng tôi chốn này.

Thiên chủ Ðế Thích nghe bảo thế, liền dùng thần lực tạo nên một đống than cháy đỏ rồi đến báo cho Bồ-tát hay, Bồ-tát từ chỗ nằm bằng cỏ Kusa đứng lên và đến nơi ấy, ngài lắc mình ba lần để nếu có côn trùng vào nằm trong bộ lông của ngài rơi ra mà thoát chết.

Rồi để hiến dâng toàn cả thân mình, Bồ-tát nhảy vọt lên, trong một niềm hoan lạc tràn trề. Ngài rơi xuống đống than cháy rực giống như một con thiên nga vương giả đáp xuống cụm hoa sen. Nhưng ngọn lửa tắt ngay khi chạm đến những lỗ chân lông trên toàn thân ngài giống như ngài rơi vào vùng sương giá. Ngài liền hỏi Ðế Thích:

– Này Bà-la-môn, ngọn lửa ngài vừa nhóm lên giá lạnh quá, nó chẳng làm nóng được các lỗ chân lông trên thân thể tôi. Tại sao thế?

Ðế Thích đáp:

– Thưa Hiền giả, ta chẳng phải là một Bà-la-môn, ta là Ðế Thích, ta đến đây để thử đức hạnh của ngài.

Bồ-tát nói:

– Thưa Ðế Thích, không những chỉ riêng ngài mà nếu tất cả mọi người trên thế gian này đến đây để thử tôi về cung cách bố thí như thế kia thì họ cũng sẽ không bao giờ thấy rằng tôi từ bỏ một ý định bố thí nào.

Nói xong, Bồ-tát thốt lên tiếng reo sảng khoái như tiếng rống của sư tử.

Bấy giờ, Ðế Thích nói với Bồ-tát:

– Này Thỏ hiền trí, mong cho đức hạnh của ngài được sáng tỏa muôn đời.

Rồi Thiên chủ ép một trái núi, lấy nước tinh từ đó ra mà vẽ hình một con Thỏ tên mặt trăng. Sau khi đặt Thỏ vào chỗ nằm bằng cỏ non Kusa, Thiên chủ quay về cung điện của mình ở trên trời.

Bốn con vật khôn ngoan kia sống hạnh phúc hài hòa bên nhau, giữ tròn giới luật, tuân hành các ngày trai giới, rồi sau đó đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc Tứ Ðế, người gia trưởng đã cúng dường các vật dụng cần thiết cho các Tỷ-kheo kia đắc quả Dự Lưu và bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Ànanda là con Rái cá, Mục-kiền-liên là con Chó rừng, Xá-lợi-phất là con Khỉ, còn Ta là con Thỏ hiền trí ấy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Khóc Người Chết (Tiền thân Matarodana)

Khóc người sống hơn khóc kẻ chết…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một người chủ đất tại Xá-vệ.

Khi người anh của ông chết, ông quá đau đớn đến độ bỏ ăn, bỏ tắm rửa, xức dầu thơm. Quá sầu khổ, cứ mỗi chiều là ông đến nghĩa địa khóc than. Bậc Ðạo Sư vào lúc sáng sớm, phóng tầm mắt nhìn khắp thế gian, quan sát thấy người có khả năng đắc quả Dự Lưu, liền nghĩ: “Ngoài Ta ra chẳng ai có thể làm dịu nỗi sầu đau của ông ta và đưa ông đến quả Dự Lưu bằng cách kể cho ông ta chuyện xảy ra thời xưa được. Ta phải là nơi an trú cho ông”.

Vì thế hôm sau, khi đi khất thực về, Ngài mang theo một Tỷ-kheo trẻ tuổi đến nhà ông ấy. Nghe có bậc Ðạo Sư đến, người chủ đất liền sai sửa soạn một chỗ ngồi và mời Ngài vào. Sau khi đảnh lễ Ngài, ông ngồi xuống một bên. Khi bậc Ðạo Sư hỏi vì sao ông sầu não như thế, ông bảo rằng ông buồn khổ từ khi anh ông chết. Bậc Ðạo Sư dạy:

– Tất cả mọi hiện hữu do kết hợp mà nên đều vô thường, cái gì phải tan rã thì tan rã. Ta chẳng nên phiền não vì điều này. Các trí giả ngày xưa vì biết như vậy nên không hề sầu khổ khi anh họ chết.

Rồi do yêu cầu của ông ta, bậc Ðạo Sư kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát tái sinh trong một gia đình phú thương, có gia tài đến tám trăm chục triệu. Khi ngài trưởng thành thì cha mẹ chết. Thế rồi người anh của Bồ-tát quản lý tài sản của gia đình và ngài sống phụ thuộc vào ông ta. Chẳng bao lâu người anh cũng chết do một cơn bạo bệnh. Bà con, bè bạn gần xa đã đến than khóc thảm thiết. Chẳng ai kiềm chế nỗi xúc động của mình. Nhưng Bồ-tát lại chẳng sầu chẳng khóc gì cả. Mọi người đều bảo:

– Coi kìa, anh nó chết mà nó vẫn thản nhiên như không, thực là một kẻ tâm hồn quá sắt đá. Chắc là nó muốn anh nó chết để mong được hưởng gấp đôi phần gia tài đấy.

Một người thân thích cũng trách cứ ngài:

– Này, anh của anh chết mà anh cũng chẳng nhỏ một giọt nước mắt nào cả ư?

Nghe thế ngài bảo:

– Do ngu dại mù quáng, chẳng biết gì đến Tám pháp ở thế giới (được – mất, khen – chê, vui – buồn, vinh – nhục) các người khóc than: Ôi anh ta đã chết! nhưng tôi và cả các người đều cũng sẽ chết hết. Tại sao các người lại không khóc khi nghĩ đến cái chết của chính mình? Mọi sự hiện hữu đều giả tạm, do đó không một vật kết hợp nào có thể giữ nguyên điều kiện bản chất của nó được. Dù các ngươi, những kẻ ngu dại mù quáng, do vô minh không biết đến Tám pháp ở thế giới” mà cứ khóc than sầu khổ, còn tại sao tôi đây phải khóc chứ?

Nói xong, ngài đọc các bài kệ này:

Khóc người sống hết khóc kẻ chết,
Mọi sinh linh đều kết một thân,
Loài chim, loài thú bốn chân,
Rắn, người, thần thảy bước chung một đàng.

Chống số phận, ta càng bất lực,
Vui chết không khổ lạc thăng trầm.
Sao chìm trong mối thương tâm
Vì người anh chết, lệ đầm đìa rơi?

Chuyện lừa đảo, chuyện đời phóng dật,
Kẻ dại cuồng hay bậc hùng oai,
Khôn ranh, chẳng biết điều ngay,
Khôn ngoan như thế cũng tày ngu si.

Bồ-tát thuyết giảng Chân lý cho những người kia như thế và giải trừ mọi phiền não cho họ.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giáo lý, Ngài tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc bài giảng Tứ Ðế, người chủ đất đắc quả Dự Lưu. Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, bậc trí giả giải trừ phiền não cho mọi người bằng cách thuyết giảng giáo lý kia chính là Ta.

PHẨM BỐN BÀI KỆ (tt)

  1. Chuyện Vòng Hoa Kanavera (Tiền thân Kanavera)

Giữa ngày vui đẹp của xuân thời…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo cứ mơ tưởng đến người vợ mà ông đã rời bỏ.

Các tình tiết đưa đến câu chuyện sẽ được kể trong số 423. Tiền thân Indriya. Bậc Ðạo Sư nói với Tỷ-kheo ấy:

– Trước kia, đã một lần vì kẻ ấy mà ông bị chém đầu!

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Bala-nại, Bồ-tát sinh ra tại một làng Kàsi, trong nhà một gia trưởng nọ. Ngài ra đời dưới ngôi sao chiếu mạng của một kẻ cướp. Khi trưởng thành, ngài sống bằng nghề cướp bóc. Tiếng tăm ngài vang động khắp nơi rằng ngài là một kẻ táo bạo và mạnh như voi. Không ai có thể bắt được.

Một hôm, tên cướp ấy bẻ khóa vào nhà một phú thương nọ và mang đi bao nhiêu của cải. Dân chúng trong thành đến kêu với vua:

– Tâu Ðại vương, có một tên cướp táo tợn đang vơ vét cả thành phố, xin ngài hãy sai bắt nó.

Vua ra lệnh cho quan tổng trấn bắt tên cướp. Trong đêm tối, quan tổng trấn bố trí người ở các nơi và bắt được tên cướp đang mang tiền bạc trong mình rồi mang y đến trước vua. Vua ra lệnh chém đầu. Quan tổng trấn trói quặt hai cánh tay tên cướp ra đằng sau, cột vào cổ y một vòng hoa kanavera đỏ, rắc bụi gạch đá trên đầu y, lấy roi da quất vào y và đưa đi khắp công viên rồi dẫn y tới nơi hành quyết giữa những hồi trống vang động. Mọi người bảo:

– Tên cướp ngang tàng đã cướp khắp cả thành phố này bị bắt rồi.

Cả thành phố đều nô nức xôn xao.

Bấy giờ, tại Ba-la-nại có một kỳ nữ tên Sàmà, giá mỗi ngày phải trả cho nàng là một ngàn đồng. Nàng rất được vua sủng ái và có cả một đoàn người hầu gồm năm trăm nữ tỳ. Nàng đang đứng bên cửa sổ ở từng trên của lâu đài, trông thấy tên cướp đang bị dẫn đi. Bấy giờ, y có vẻ đứng đắn dễ thương, sừng sững giữa đám người, thật oai vang, và sáng chói như một Thiên thần. Thấy y bị dẫn đi qua như thế, nàng bỗng đâm ra yêu y và trong thâm tâm, nàng tự nghĩ: “Ta phải làm sao để chiếm được chàng làm chồng ta nhỉ?” Nàng lại bảo: “Có cách này đây”.

Rồi nàng sai các cô hầu gái đem một ngàn đồng đến cho quan tổng trấn và bảo:

– Hãy nói với ông ta rằng tên cướp ấy là anh của Sàmà, anh ta chỉ có thể trú ẩn tại nhà Sàmà mà thôi chứ không thể ở đâu khác được. Hãy xin ông ta nhận tiền này và để cho người tù ấy trốn thoát.

Cô hầu gái làm theo lời nàng. Nhưng quan tổng trấn bảo:

– Ðây là một tên cướp khét tiếng, y đã bị bắt như thế rồi, ta không để cho y tự do ra đi như vậy. Nhưng nếu ta tìm thấy được một người nào thay thế y, ta sẽ để y vào một chiếc xe phủ kín và gửi đến cho nàng.

Người nô tỳ về thuật lại cho chủ nghe như vậy.

Lúc bấy giờ có một phú thương trẻ tuổi nọ rất say mê Sàmà, mỗi ngày đều đến trao nàng một ngàn đồng. Vào lúc hoàng hôn của chính ngày hôm ấy, tình nhân của nàng lại đến nhà nàng như thường lệ cùng với số tiền kia. Sàmà nhận lấy tiền, đặt trên đùi và ngồi khóc. Khi được hỏi vì cớ sao nàng sầu bi như thế, nàng đáp:

– Chàng ơi, tên cướp ấy là anh của em, anh ấy không bao giờ đến thăm em vì người ta bảo em làm một nghề xấu xa. Khi em liên lạc với quan tổng trấn thì ông ta nhắn lại rằng nếu trao cho ông một ngàn đồng thì ông sẽ để cho tù nhân tự do ra đi. Bây giờ em chẳng kiếm đâu được người mang tiền đến cho quan tổng trấn?

Chàng tuổi trẻ vì quá yêu nàng, liền bảo:

– Tôi sẽ đi.

– Thế thì đi – nàng nói – và hãy cầm theo số tiền mà chàng đã mang đến cho em.

Thế là anh ta cầm lấy tiền và đến nhà quan tổng trấn. Quan tổng trấn giấu anh chàng phú thương vào một chỗ kín đáo rồi sai chở tên cướp trong một chiếc xe đóng kín đến nhà Sàmà. Rồi ông tự nghĩ: “Khắp xứ, ai cũng đều biết tên cướp này. Trước tiên phải chờ thật tối, khi mọi người đều lui về nghỉ, ta sẽ hành quyết người này”.

Ông ta kiếm cớ để hoãn lại cuộc hành quyết một lúc, rồi chờ cho ai nấy lui về nghỉ, ông mới cho một đại đội hộ tống chàng thương gia đến pháp trường. Ông sai lấy gươm chém đầu anh ta, xiên vào thân anh ta rồi quay về thành phố.

Từ đó, Sàmà không chịu tiếp một người đàn ông nào nữa cả. Nàng dành hết thời để vui thú với riêng tên cướp này mà thôi. Thế rồi tên cướp chợt nghĩ: “Nếu người đàn bà này đâm ra yêu một người nào khác nữa, nàng sẽ đưa ta đến chỗ chết để nàng vui thú với người ấy. Ta không nên ở đây lâu hơn nữa mà phải gấp gấp thoát đi mới được”.

Khi sắp ra đi, y lại nghĩ: “Ta không nên tay trắng mà ra đi, hãy lấy của nàng một số nữ trang”. Thế là một hôm y bảo nàng:

– Này em yêu, chúng ta cứ sống mãi trong nhà như những con vẹt được nuôi trong lồng. Hôm nàođó chúng ta nên đến giải trí trong vườn cây nhỉ?

Nàng thuận ý và chuẩn bị các thức ăn loại cứng và loại mềm, và đeo hết đồ trang sức cùng với y ngồi trên một chiếc xe đóng kín đi đến vườn cây. Trong lúc cả hai đang tiêu khiển, y tự nghĩ: “Bấy giờ là lúc ta nên trốn thoát”. Rồi tỏ ra say mê nàng mãnh liệt, y đưa nàng vào trong những bụi cây kanavera rậm rồi ôm chầm lấy nàng, siết chặt nàng cho đến khi nàng bất tỉnh. Thả nàng xuống, ỵ lột hết nữ trang, gói vào trong chiếc áo ngoài của nàng và đặt gói lên vai rồi nhảy qua tường của vườn cây mà đi.

Khi hồi tỉnh, nàng đứng dậy và đến hỏi các người hầu gái xem phu quân trẻ tuổi của nàng ra sao rồi thì họ nói:

– Thưa phu nhân, chúng tôi không biết.

Nàng tự bảo: “Chàng nghĩ rằng ta đã chết nên sợ mà chạy trốn rồi”.

Sầu muộn vì nghĩ như thế, nàng quay về nhà và tự bảo:

– Chừng nào ta chưa gặp lại được trượng phu yêu dấu của ta thì ta quyết không nằm trên một giường nào sang trọng.

Thế là nàng vẫn nằm trên đất mà thôi.

Kể từ hôm ấy, nàng không mặc quần áo đẹp, không đeo hoa, không xức dầu thơm, và mỗi ngày nàng chỉ ăn một bữa cơm. Ðể quyết tìm lại người yêu bằng mọi cách, nàng gọi vài người diễn viên và cho họ một ngàn đồng. Họ hỏi:

– Thưa phu nhân, lấy tiền này chúng tôi phải làm gì?

Nàng trả lời:

– Hãy viếng khắp mọi nơi. Hãy đến từng làng, từng thành phố, từng kinh đô, tụ tập đám đông lại quanh các anh và cần nhất là phải hát bài hát này giữa mọi người.

Nàng dạy cho họ bài kệ đầu rồi dặn tiếp:

– Khi các anh hát bài hát ấy nếu chồng ta là một người trong đám đông thì chàng sẽ đến nói chuyện với các anh ngay. Bấy giờ, các anh hãy nói với chàng rằng ta hoàn toàn khỏe mạnh, rồi mang chàng về đây cho ta, còn nếu chàng từ chối hãy gởi tin cho ta hay.

Nàng cho họ tiền phí tổn trong cuộc hành trình rồi bảo họ ra đi.

Họ bắt đầu đi từ Ba-la-nại, cứ đến nơi này chỗ nọ kêu gọi dân chúng, cuối cùng họ đến một ngôi làng ở biên địa. Tên cướp từ khi tẩu thoát, đang sống ở nơi ấy. Các diễn viên tụ tập đám đông quanh họ và hát lên bài kệ đầu:

Giữa ngày vui đẹp của xuân thời,
Cây cối mang hoa rực ánh tươi,
Tỉnh dậy sau cơn mê ngất ấy,
Sà-mà đang sống, sống vì người.

Tên cướp nghe thế liền đến gần người diễn viên và nói:

– Bạn bảo Sàmà đang còn sống nhưng ta không tin đâu.

Rồi y đọc bài kệ thứ hai:

Gió dữ lung lay được núi đâu?
Gió làm đất vững chãi rung sao?
Thấy người đã chết đang còn sống,
Chuyện ấy hóa ra quá nhiệm mầu!

Người diễn viên nghe các lời trên liền đọc bài kệ thứ ba:

Sà-mà quả thực sống đời này,
Nàng chẳng kết duyên với một ai,
Nhịn hết, mỗi ngày ăn một bữa,
Riêng người, nàng giữ mối mê say.

Nghe xong, tên cướp liền bảo:

– Dù nàng còn sống hay đã chết, ta cũng không thích nàng.

Rồi y đọc bài kệ thứ tư:

Sà-mà thay đổi mãi tình thôi,
Tha thiết yêu đương, lại hợt hời.
Cũng vậy, với ta nàng sẽ phản,
Nếu ta chẳng quyết phải xa rời.

Các diễn viên trở về kể lại cho Sàmà mọi điều y đã nói với họ. Và nàng tràn đầy tiếc nuối, một lần nữa, nàng lại theo cuộc sống cũ của nàng.

*

Khi bậc Ðạo Sư thuyết giảng xong, Ngài tuyên thuyết Tứ Ðế, và ở phần kết thúc Tứ Ðế, Tỷ-kheo có tâm thế tục kia đắc quả Dự Lưu. Sau đó, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Tỷ-kheo này là con trai của phú thương, người vợ mà ông ta đã rời bỏ là Sàmà, còn chính Ta là tên cướp.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chim Đa Đa (Tiền thân Tittira)

Ðời hạnh phúc suốt ngày tôi sống…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Tinh Xá Badarka gần Kosambĩ về Trưởng lão Ràhula (La-hầu-la).

Câu chuyện mở đầu đã được kể đầy đủ trong Chương Một số 16. Tiền thân Tipallattha. Bấy giờ ở trong Pháp đường, các Tỷ-kheo đang ca ngợi Tôn giả La-hầu-la, bảo rằng Tôn giả rất tinh cần, cẩn trọng, nhẫn nhục. Bậc Ðạo Sư bước vào và khi nghe kể lại đề mục luận bàn của các Tỷ-kheo, Ngài dạy:

– Không phải chỉ nay mà xưa cũng thế, La-hầu-la đã có các đức tính này.

Rồi Ngài kể cho họ nghe một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên, ngài theo đuổi các học nghệ tại Takkasilà rồi ngài từ bỏ cuộc đời, sống đời khổ hạnh trong vùng Tuyết Sơn và tu tập các Thắng trí và các Thiền chứng. Ngài thọ hưởng hạnh phúc của Thiền định, sống trong một khu rừng tịnh lạc. Sau đó, ngài đến một làng ở biên địa để kiếm muối và giấm. Nhiều người khi trông thấy ngài đã trở thành các tín đồ, họ dựng cho ngài một túp lều lá ở trong rừng và cung cấp cho ngài đủ mọi vật dụng cần thiết của một người tu hành rồi làm cho ngài một ngôi nhà ở nơi ấy.

Bấy giờ, một người bẫy chim trong làng ấy bắt được một con chim Ða đa mồi, bỏ nó vào trong một cái lồng và luyện tập, săn sóc nó cẩn thận. Ông ta mang nó vào rừng để cho nó kêu lên nhử các con đa đa khác đến gần. Con Ða đa tự nghĩ: “Do ta mà đồng loại phải lâm vào cái chết. Về phần ta đây là một hành vi ác độc”. Vì thế nó cứ lặng thinh không kêu nữa. Khi chủ nó thấy nó cứ lặng thinh liền lấy một miếng tre đập vào đầu nó. Con Ða đa bị đau quá phải kêu lên. Thế là người bẫy chim cứ sinh sống bằng cách dùng nó để nhử các con Ða đa khác.

Rồi con Ða đa lại nghĩ: “Ừ, dẫu chúng nó có chết đi, về phần ta, ta không hề có ý định xấu. Nhưng những hậu quả xấu do hành động của ta có tác dụng đến ta không? Khi ta lặng thinh thì chúng không đến, khi ta kêu lên thì chúng đến. Và hễ con nào đến đều bị người kia bắt và giết chết. Về phần ta, hành động như thế là có tội hay không có tội?”

Từ đó ý nghĩ độc nhất của con Ða đa là: “Ai chính là kẻ có thể giải quyết mối nghi của ta?” Thế là nó cứ tìm kiếm khắp nơi một bậc trí giả để giải quyết mối nghi ấy.

Một hôm người bẫy chim bẫy được một số đa đa bỏ đầy giỏ rồi đến căn lều của Bồ-tát xin một ngụm nước. Ông ta đặt lồng chim xuống bên cạnh Bồ-tát uống nước rồi nằm dưới đất và lăn ra ngủ. Thấy người ấy ngủ, con Ða đa tự nghĩ: “Ta sẽ hỏi vị ẩn giả này về mối nghi của ta, nếu ngài biết, ngài sẽ giải quyết nỗi khó khăn của ta”. Thế là nằm trong lồng, bằng hình thức một câu hỏi, nó đọc lên bài kệ đầu:

Ðời hạnh phúc suốt ngày tôi sống
Ðến cùng tôi đầy những thức ăn.
Nhưng tôi gặp cảnh khó khăn,
Tương lai tôi ấy, số phần ra sao?

Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai để giải quyết câu hỏi:

Nếu lòng chẳng tơ hào xấu ác
Khiến bạn gây nên việc nhục hèn.
Do phần thụ động mà nên,
Bạn nào bị tội trói lên số phần!

Ða đa nghe thế liền đọc bài kệ thứ ba:

Chúng bảo rằng: “Họ hàng ta đấy!”
Cả đám đông đổ lại trông coi,
Phải chăng là tội của tôi
Khiến cho chúng chết? Xin ngài giải nghi.

Nghe Bồ-tát đọc bài kệ thứ tư:

Nếu tội không ẩn trì lòng bạn
Thì hành vi sẽ chẳng tội tình.
Kẻ nào thụ động phần mình,
Thoát bao tội lỗi trở thành thong dong.

Bậc Ðại sĩ an ủi con chim Ða đa như vậy. Và nhờ ngài con chim ấy không còn bị ray rứt ân hận nữa. Thế rồi, người bẫy chim thức dậy, chào Bồ-tát và xách lồng ra đi.

*

Khi bậc Ðạo Sư thuyết giảng xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, La-hầu-la là con Ða đa, còn Ta là vị ẩn giả kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Dễ Cho (Tiền thân Succaja)

Ngài có thể ban phần nhỏ nhặt …,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một người chủ đất nọ.

Một hôm ông ta cùng với vợ đến làng kia để đòi một món nợ. Ông lấy một chiếc xe xứng với ông và đem gửi xe cho một gia đình kia định rằng sau này sẽ đến lấy. Trên đường về Xá-vệ, hai vợ chồng thấy một trái núi. Người vợ hỏi ông ta:

– Giả như trái núi này biến thành toàn vàng, chàng có cho em một ít không nào?

Ông ta trả lời:

– Cô là cái thứ gì? Tôi chẳng cho cô mảy may nào đâu!

Nàng kêu lên:

– Ôi chàng thật là một kẻ có lòng sắt đá. Dù trái núi trở thành vàng ròng, chàng cũng chẳng cho ta một tí ti nào.

Thế là nàng rất buồn nản.

Khi đến gần Kỳ Viên, họ cảm thấy khát nước nên vào Tinh xá xin một ít nước để uống. Vào chiều hôm ấy, bậc Ðạo Sư thấy rằng họ có khả năng được giải thoát. Ngài ngồi trong Hương phòng chờ họ đến và phóng hào quang sáu sắc của đức Phật. Sau khi đã thỏa cơn khát, hai vợ chồng đến hầu bậc Ðạo Sư, kính cẩn đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống. Sau những lời ân cần thăm hỏi thường lệ, bậc Ðạo Sư hỏi họ từ đâu lại.

– Bạch Thế tôn, chúng con đi đòi nợ về đây.

Ngài dạy:

– Này nữ cư sĩ, Ta mong rằng chồng bà muốn bà được lợi ích và sẵn sàng tỏ lòng tốt đối với bà.

Nàng thưa:

– Bạch Thế Tôn, con rất yêu chàng nhưng chàng chẳng có chút tình nào với con cả. Hôm nay khi trông thấy một trái núi, con hỏi chàng: Giả như trái núi kia toàn bằng vàng ròng, chàng có cho em một ít không? Chàng đáp: Cô là cái thứ gì? Tôi chẳng cho cô mảy may nào đâu! Chàng quả là có tấm lòng sắt đá!

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Này nữ cư sĩ, ông ấy bảo như thế, nhưng nếu ông nhớ lại đức hạnh của bà thì ông sẵn sàng trao cho bà quyền thế cao nhất.

– Bạch Thế Tôn, xin Ngài giảng điều ấy cho chúng con.

Họ kêu lên và do yêu cầu của họ, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là đại thần của vua, phục vụ vua mọi việc đắc lực.

Một hôm vua thấy thái tử bấy giờ đang là phó vương đến tỏ lòng cung tôn đối với mình thì tự nghĩ: “Anh chàng này có thể hại ta nếu nó gặp cơ hội thuận tiện”. Vì thế vua gọi thái tử lại và bảo:

– Chừng nào ta còn sống, con không được ở lại kinh đô này. Hãy đi sống ở một nơi nào đó rồi đến khi ta chết thì hãy về trị vì vương quốc.

Thái tử thuận theo điều kiện ấy. Chàng từ biệt vua cha rồi cùng với người vợ chánh rời khỏi Ba-la-nại. Khi đến một làng ở biên thùy, chàng tự dựng một túp lều lá trong một khu rừng rồi ở đó, sinh sống bằng rễ và trái cây rừng. Chẳng bao lâu nhà vua chết đi. Vị phó vương trẻ tuổi kia, quan sát tinh tú biết rằng vua cha đã chết. Và trên đường về Ba-la-nại, hai vợ chồng trông thấy một trái núi. Người vợ nói với chàng:

– Thưa trượng phu, giả sử trái núi kia biến thành vàng ròng, chàng có cho em một ít không?

– Cô là cái thứ gì chứ? chàng la lớn – Ta chẳng cho cô một tí ti nào đâu!

Nàng tự nghĩ: “Ta đã yêu thương chàng như thế, đã vào sống trong khu rừng kia và không hề có tâm từ bỏ chàng, thế mà nay chàng nói với ta như thế. Chàng thực là một kẻ lòng dạ sắt đá. Nếu chàng làm vua, chàng sẽ làm gì tốt cho ta chứ?” Rồi nàng sầu muộn cả lòng.

Khi đến Ba-la-nại, người chồng được tôn lên làm vua, chàng phong cho vợ lên làm chánh hoàng hậu. Vua chỉ cho nàng chức vụ trên danh nghĩa mà thôi chứ chẳng tỏ ra kính trọng hay trao vinh dự cho nàng, cũng chẳng đoái hoài đến sự có mặt của nàng nữa.

Bấy giờ Bồ-tát tự nghĩ: “Hoàng hậu vốn là người vợ tận tụy của vua, chẳng kể khổ cực, sống cùng ngài ở nơi hoang vu vắng vẻ. Thế mà vua không nghĩ đến điều đó, cứ vui thú với những phụ nữ khác . Nhưng ta sẽ mang lại chức quyền cao nhất cho hoàng hậu”.

Nghĩ như vậy, một hôm ngài đến chào hoàng hậu và nói:

– Tâu hoàng hậu, chúng thần chẳng hề được lệnh bà cho một miếng cơm nào cả. Tại sao lệnh bà lại có lòng dạ cứng cỏi, quá hững hờ với chúng thần như vậy?

Hoàng hậu đáp:

– Này bạn ơi, nếu ta có nhận thứ gì thì ta mới cho bạn được, nhưng ta không được gì cả thì lấy chi mà cho bạn chứ? Ðức vua ban cho ta thứ gì nào? Trên đường về đây, ta đã hỏi ngài: Nếu trái núi kia toàn bằng vàng ròng thì chàng sẽ cho em gì nào? Thì ngài trả lời: Cô là cái thứ gì, ta sẽ chẳng cho cô gì đâu!

Bồ-tát nói:

– Ðược rồi, lệnh bà có thể lặp lại chuyện này trước mặt đức vua không?

– Bạn ơi, sao lại không chứ? Hoàng hậu đáp.

Bồ-tát nói:

– Thế thì khi đứng chầu đức vua, thần sẽ hỏi, lệnh bà sẽ trả lời như thế nhé.

– Ðồng ý. Hoàng hậu trả lời.

Thế là khi Bồ-tát đến chầu vua, và tỏ lòng kính cẩn đối với vua, ngài hỏi hoàng hậu:

– Tâu lệnh bà, sao chúng thần chẳng được tự tay lệnh bà cho thứ gì cả?

Hoàng hậu đáp:

– Này khanh, ta đây có nhận được gì thì ta mới cho khanh chứ. Nhưng xem kìa, đức vua có thể cho ta gì nào? Khi ngài và ta ở trong rừng ra và trông thấy một trái núi, ta hỏi ngài: Nếu trái núi kia toàn bằng vàng ròng, thì chàng có cho em một ít không? Ngài đáp: Cô là cái thứ gì? Ta chẳng cho cô một chút gì cả! Khi nói như thế, ngài từ chối cả những thứ dễ cho.

Ðể nêu rõ điều ấy, hoàng hậu đọc bài kệ đầu:

Ngài có thể ban phần nhỏ nhặt,
Ðối với ngài có mất mát gì đâu!
Núi vàng, tôi cũng tặng trao,
Tôi xin mọi thứ, ngài đều bảo không!

Nghe thế vua đọc bài kệ thứ hai:

Khi có thể, bảo “vâng” sẽ tặng
Chớ hứa suông khi chẳng thể kham,
Lời ngoa khi hứa không làm,
Hiền nhân khinh ghét kẻ xàm dối thôi.

Hoàng hậu nghe thế, chấp hai tay đưa lên tỏ lòng kính cẩn và đọc bài kệ thứ ba:

Tâu quân vương, chúng tôi cầu chúc
Ngài ngôi cao chính trực vững vàng.
Sang giàu có thể tiêu tan,
Chỉ riêng Chân lý ngài hằng hưởng vui.

Sau khi nghe hoàng hậu chúc tụng vua, Bồ-tát liền nêu lên các đức hạnh của bà và đọc bài kệ thứ tư:

Danh vợ hiền lệnh bà đã tỏ,
Chia xẻ bao vui khổ cuộc đời,
Phận bà xứng đáng lắm rồi.
Cùng hàng vương giả kết đôi bạn lòng.

Bồ-tát ca ngợi hoàng hậu như thế và bảo:

– Tâu Ðại vương, lệnh bà này lúc ngài đang gặp nghịch cảnh, đã sống cùng ngài, chia xẻ cùng ngài bao sầu khổ trong rừng. Ngài nên làm vinh dự cho lệnh bà.

Khi nghe Bồ-tát nói, vua liền nhớ đến những đức hạnh của hoàng hậu và bảo:

– Này hiền khanh, nhờ hiền khanh mà ta nhớ lại các đức hạnh của hoàng hậu.

Vua nói thế rồi trao mọi quyền lực vào tay hoàng hậu. Ngoài ra, vua còn ban quyền hạn lớn lao cho Bồ-tát. Vua bảo:

Chính nhờ khanh mà ta nhớ lại các đức hạnh của hoàng hậu vậy.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể xong Pháp thoại này, Ngài tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần cuối bài giảng Tứ Ðế, người chồng cùng người vợ đắc quả Dự Lưu.

Rồi bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Bấy giờ người chủ đất này là vua xứ Ba-la-nại, nữ cư sĩ này là hoàng hậu, còn Ta là vị quan hiền trí nọ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Kẻ Đốt Lều ( Tiền thân Kutidùsaka)

Khỉ ạ, chân tay mặt mũi ngươi …,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên, về một chú tiểu đốt túp lều lá của trưởng lão Mahàkassapa (Ðại Ca-diếp).

Nhân duyên đưa đến câu chuyện vốn từ Vương Xá. Bấy giờ, Trưởng lão ấy sống trong một túp lều ở gần Vương Xá. Có hai chú tiểu lo giúp việc cho Tôn giả, một chú rất được việc, còn chú tiểu kia có tánh hạnh xấu. Bất cứ việc gì chú kia làm, chú này làm như thể do chính chú làm vậy. Chẳng hạn như khi chú kia lấy nước cho Trưởng lão súc miệng, thì chú này lại đến gặp trưởng lão và thưa:

– Bạch thầy nước đã sẵn, xin thầy súc miệng.

Và khi bạn chú lo thức dậy sớm để lo quét dọn lều của Trưởng lão, thì ngay khi Trưởng lão xuất hiện, chú cứ đụng tay vào thứ này vật nọ, làm như là toàn túp lều được chính chú dọn dẹp vậy.

Chú tiểu lo tròn nhiện vụ kia tự nghĩ: “Anh bạn xấu tính này, hễ ta làm cái gì thì anh ta cứ nói như thể chính anh ta làm. Ta sẽ phơi bày tính xấu của anh ấy mới được”.

Vì thế khi anh chàng dối trá kia từ làng trở về, ăn xong liền đi ngủ, chú tiểu này nấu nước nóng rồi đem dấu trong phòng và chỉ để lại ít nước trong nồi đun. Chú tiểu kia thức dậy, đi đến và thấy hơi bốc lên liền tự nghĩ: “Chắc chắn anh bạn ta đã đun nước và để trong buồng tắm:” Thế là chúđến gặp Trưởng lão và thưa:

– Thưa thầy, nước đã sẵn trong buồng tắm, xin thầy vào tắm.

Trưởng lão theo chú đi tắm, nhưng chẳng thấy có nước trong buồng tắm, liền hỏi chú nước đâu, chú vội trở vào bếp, bỏ gáo vào nồi trống và múc nước, chiếc gáo chạm vào đáy nồi kêu lạch cạch (từ đó về sau chú bị người ta gọi là Gáo-lạch-cạch)

Vào lúc ấy chú tiểu kia vào lấy nước trong phòng sau rồi bảo:

– Thưa thầy, xin thầy vào tắm.

Trưởng lão tắm xong và bây giờ Tôn giả đã biết tánh hạnh xấu của Gáo-lạch-cạch. Chiều hôm ấy khi chú ta đến dọn cơm, Tôn giả khiển trách chú:

– Khi kẻ nào đã phát nguyện tu hành, tự mình đã làm điều gì thì kẻ ấy mới có quyền báo: “Tôi đã làm điều ấy”. Nếu không, thì đó chỉ là một lời nói dối có toan tính. Từ nay trở đi chớ có phạm ác hạnh như thế nữa.

Chú tiểu giận Trưởng lão và hôm sau chú không chịu theo Tôn giả về thành phố khất thực. Nhưng chú tiểu kia đi theo Tôn giả.

Còn Gáo-lạch-cạch đến viếng một gia đình thủ hộ của Trưởng lão. Người nhà hỏi Trưởng lãođâu, thì chú bảo ngài bị bệnh, phải ở nhà. Họ hỏi chú cần gì, chú bảo:

– Hãy cho tôi các thứ như thế… như thế…

Rồi chú mang các thứ ấy đến một nơi chú thích và ăn xong trở về lều.

Hôm sau, Trưởng lão đến thăm gia đình ấy và ngồi xuống với họ. Họ nói:

– Phải chăng ngài không được khỏe? Nghe nói hôm qua ngài phải ở trong phòng. Chúng tôi có gởi ít thức ăn nhờ chú tiểu kia mang về, ngài có dùng các thứ ấy không?

Trưởng lão giữ vẽ bình thản không nói gì và sau khi dùng xong bữa. Tôn giả trở về Tinh xá.

Vào buổi chiều, khi chú ấy đến hầu thầy, vị Trưởng lão bảo chú:

– Này chú, chú đến xin gia đình kia, trong làng kia, chú bảo: “Trưởng lão cần phải ăn các thứ như thế… như thế…” rồi họ nói chính chú ăn các thứ ấy. Khất thực như thế là hết sức bất chánh. Hãy giữ gìn, chớ phạm ác hạnh như vậy nữa.

Thế là chú ấy cứ mãi nuôi lòng thù hận Trưởng lão, chú nghĩ: “Hôm qua chỉ do một chút nước, ông ấy mắng xối vào mình, còn bây giờ tức giận vì ta đã ăn một nắm cơm ở nhà thủ hộ của ông, ông ta gây sự với ta nữa, ta sẽ tìm cách cư xử xứng hợp với ông ấy”.

Ngày hôm sau, khi Trưởng lão vào thành phố khất thực, chú ta lấy búa đập vỡ hết các bình bát để đựng thức ăn và châm lửa đốt túp lều lá rồi phóng chạy đi. Lúc còn sống, chú trở thành kẻ cùng khổ đói khát giữa đời này và tàn tạ dần cho đến khi chết chú bị sinh vào Ðại địa ngục A-tỳ (Avici). Mọi người đều biết đến hành vi xấu xa của chú.

Một hôm vài Tỷ-kheo từ Vương Xá đến Xá Vệ. Sau khi cất bình bát và áo ngoài vào trong phòng chung, họ đến đảnh lễ bậc Ðạo Sư và ngồi xuống.

Bậc Ðạo Sư vui vẻ trò chuyện với họ và hỏi họ từ đâu đến.

– Bạch Thế Tôn, từ Vương Xá.

– Thế ai là Pháp sư ở đó? – Ngài hỏi.

– Bạch Thế Tôn , Tôn giả Mahàkassapa (Ðại Ca-diếp).

– Này các Tỷ-kheo, Kassapa có được an lành không? Ngài hỏi.

– Bạch Thế Tôn, Trưởng lão vẫn khỏe mạnh. Nhưng một chú tiểu giận dữ vì bị Trưởng lão quở trách đã nổi lửa đốt túp lều của vị ấy rồi bỏ đi.

Bậc Ðạo Sư nghe thế liền bảo:

– Này các Tỷ-kheo, Kassapa độc cư còn tốt hơn là sống chung với một kẻ ngu dại như thế.

Nói xong Ngài đọc một bài kệ, được ghi lại trong Kinh Pháp cú:

Ðừng đi cùng với bọn tầm thường,
Nên tránh giao du với lũ dại cuồng,
Chọn bạn bằng ta hay vượt trội,
Hoặc là đơn độc tiến trên đường.

Sau đó Ngài lại bảo các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo không phải bây giờ chú ấy mới phá hoại túp lều và cảm thấy căm giận người đã quở trách mình. Ngày xưa chú ấy cũng đã căm giận như thế.

Rồi Ngài kể cho họ nghe một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một con chim Singila (loài chim có sừng). Khi trở thành một con chim lớn, ngài đến trú tại vùng Tuyết Sơn và xây một cái tổ đúng ý thích, có thể chống chọi với mưa gió.

Bấy giờ vào mùa mưa, mưa hoài không dứt, một con Khỉ kia ngồi gần bên Bồ-tát, răng đánh lập cập vì trời lạnh quá. Trông thấy Khỉ khổ sở như vậy, Bồ-tát nói chuyện với nó và đọc bài kệ đầu:

Khỉ ạ, tay chân mặt mũi ngươi,
Xem ra thật giống với người thôi.
Sao không xây lấy nơi cư trú
Ðể núp khi giông bảo đến nơi?

Khỉ nghe thế liền đọc bài kệ thứ hai:

Chim hỡi, tay chân mặt mũi ta
So cùng người thật giống, không xa
Trí khôn, lợi nhất người thừa hưởng
Phần ấy ta đây bị loại ra.

Bồ-tát nghe xong liền đọc bài kệ nữa:

Kẻ nào vẫn trơ tráo hoài,
Tâm hồn hời hợt đổi thay không ngừng.
Tỏ ra cung cách thất thường,
Thì niềm hạnh phúc chẳng đường tìm ra.

Khỉ ơi, hạnh muốn tiến xa,
Ngươi cần gắng sức thật là tinh chuyên
Ði đi, lều lá dựng lên
Ðể mà trú ẩn tránh phiền gió đông.

Khỉ tự nghĩ: “Con vật này nhờ trú ẩn một nơi tránh được mưa tỏ ra khinh dễ ta”. Thế rồi quyết bắt cho được Bồ-tát, nó phóng tới vồ lấy ngài. Nhưng Bồ-tát đã bay lên không, tung cánh đi nơi khác. Còn con khỉ, sau khi đập phá tổ chim, liền bỏ đi.

*

Sau khi chấm dứt bài thuyết giảng, bậc Ðạo Sư nhận diện, Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, chú tiểu nổi lửa đốt túp lều là con Khỉ, còn Ta là con chim Singila.

-ooOoo-

  1. Chuyện Tiếng Động Mạnh (Tiền thân Daddabha)

Từ nơi trú ẩn của tôi đây …,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một số tà sư ngoại đạo.

Các tà sư ngoại đạo này, tại nhiều nơi khác nhau gần Kỳ Viên, nằm trên gai, chịu năm cách lửa đốt (bốn ngọn kửa chung quanh và mặt trời ở trên) và thực hành tà khổ hạnh về nhiều loại khác nhau. Bấy giờ có một số Tỷ-kheo trên đường khất thực từ xa về, trông thấy các tà sư ngoại đạo ấy đang thể hiện những khổ hạnh giả hiệu kia, liền đến hỏi bậc Ðạo Sư:

– Bạch Thế Tôn các tà sư ngoại đạo ấy thực hành khổ hạnh như vậy có công đức gì không?

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Này các Tỷ-kheo, chẳng có công đức gì, cũng chẳng có giá trị đặc biệt nào trong việc ấy cả. Khi được quán xét và thử nghiệm, nó cũng giống như một đường mòn ở trên đống phân hay giống như tiếng động mà con thỏ rừng đã nghe thôi.

Rồi do yêu cầu của các Tỷ-kheo, Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một con Sư tử. Khi đã trưởng thành ngài sống trong một khu rừng. Bấy giờ ở gần biển Tây có một khu rừng cây kè (thốt nốt) lẫn với cây vilva. Một con Thỏ rừng sống ở đây, dưới một cây kè nhỏ, bên một gốc cây vilva.

Một hôm sau khi ăn xong, Thỏ đến nằm bên dưới cây kè nhỏ ấy, thế rồi nó chợt nghĩ: “Nếu đất này bị hủy hoại, ta sẽ ra làm sao nhỉ?” Ngay lúc ấy một trái vilva chín rơi xuống trên ngọn lá kè. Nghe tiếng động ấy Thỏ liền nghĩ: “Ðất vững chắc này đang sụp xuống”. Thế là nó vụt chạy, chẳng ngoái cổ nhìn lui. Một con thỏ rừng khác nhìn thấy nó phóng đi và có vẻ hãi hùng sắp chết như vậy, liền hỏi nó vì sao mà nó phải kinh hoàng vụt chạy. Thỏ đáp:

– Xin đừng hỏi tôi.

Con Thỏ kia la lên:

– Này cái gì vậy chớ?

Rồi cứ chạy theo nó. Nó dừng lại một chốc, chẳng quay nhìn lui mà nói:

– Ðất ở đây đang vỡ ra đấy.

Nghe thế con thỏ thứ hai chạy theo nó. Rồi cứ thế con thỏ này chạy theo con thỏ khác nối nhau thành một trăm ngàn con phóng chạy. Rồi một con nai, một con heo rừng, một con hoẵng, một con trâu, một con bò rừng, một con tê giác, một con cọp, một con sư tử và một con voi trông thấy chúng chạy qua. Khi chúng hỏi làm sao mà chạy như thế vì đều trả lời rằng đất sắp vỡ ra, chúng cũng phóng chạy với nhau luôn. Thế là cả đám loài vật ấy kéo ra dài cả một dặm.

Khi Bồ-tát trông thấy đám loài vật cứ cắm đầu phóng chạy và nghe duyên cớ là đất sắp đến lúc diệt tận, ngài liền nghĩ. Chẳng có đâu đất đến lúc diệt tận cả. Chắc chắn phải có một tiếng động nào đó mà chúng đã hiểu lầm và nếu chính ta không nỗ lực thật nhiều thì chúng sẽ chết hết. Ta phải cứu mạng chúng mới được.”

Với tốc độ của một con sư tử. Bồ-tát phóng đến chân núi trước chúng và ba lần rống lên tiếng rống của Sư tử. Chúng quá kinh hãi trước sư tử bèn dừng lại đứng đùn nhau thành một đám hỗn loạn. Sư tử bước vào trong bọn chúng và hỏi tại sao chúng phóng chạy như vậy.

– Ðất đang sụp. Chúng trả lời.

– Ai thấy đất sụp? Sư tử hỏi.

– Bọn voi biết rõ hết. Chúng đáp.

Sư tử liền hỏi bọn voi, chúng đáp:

– Chúng tôi không biết, bọn sư tử biết.

Nhưng bọn sư tử lại nói:

– Chúng tôi không biết, bọn cọp biết.

Bọn cọp nói:

– Bọn tê giác biết.

Bọn tê giác nói:

– Bọn bò rừng biết.

Bọn bò rừng nói:

– Bọn trâu.

Bọn trâu nói:

– Bọn hoẵng.

Bọn hoẵng nói:

– Bọn heo rừng.

Bọn heo rừng nói:

– Bọn nai.

Bọn nai nói:

– Chúng tôi không biết, bọn thỏ rừng biết.

Khi bọn thỏ rừng được hỏi, chúng chỉ vào một con thỏ và nói:

– Tên này đã bảo chúng tôi như thế.

Bồ-tát hỏi:

– Này ông bạn có phải đất đang vỡ ra chăng?

Thỏ đáp:

– Vâng, thưa ngài, tôi đã thấy như thế.

– Khi bạn thấy thế bạn đang ở đâu? Bồ-tát hỏi.

Thỏ nói:

– Thưa ngài ở gần biển trong một khu rừng kè xen lẫn với cây vilva tôi chợt nghĩ, “Nếu đất này vỡ ra, ta sẽ đi đâu?” Ngay lúc ấy tôi nghe tiếng đất vỡ rồi phóng chạy.

Sư tử nghĩ: “Rõ ràng là một trái vilva chín đã rơi trên một ngọn lá kè gây nên một tiếng “thụp” và chú Thỏ này vội kết luận rằng đất đang đến lúc diệt tận, rồi chú liền chạy đi. Ta muốn tìm cho ra sự thật chính xác như thế nào?”

Sư tử an ủi bầy thú kia và bảo:

– Ta sẽ mang chú Thỏ này đi khám phá thật chính xác ngay tại chỗ mà chú ta đã chỉ để xem đất ở đó có sắp diệt tận hay không. Các bạn hãy ở đây cho đến khi ta quay trở lại.

Thế rồi đặt Thỏ lên lưng mình, với tốc độ của Sư tử ngài phóng tới, để con Thỏ xuống khi tới khu rừng kè và nói:

– Hãy đi chỉ chỗ mà bạn đã muốn nói.

– Thưa ngài, tôi không dám đâu. Thỏ nói.

– Ði đi, đừng sợ. Sư tử đáp.

Con thỏ không dám đến gần cây vilva, cứ đứng xa mà kêu lên:

– Thưa ngài, đằng kia kìa, đó là nơi tiếng động khủng khiếp ấy.

Rồi nó đọc bài kệ đầu:

Từ nơi trú ẩn của tôi đây,
Tiếng thụp bỗng nghe kinh hãi thay.
Tiếng ấy là gì không thể nói,
Cũng không hiểu được bởi gì gây.

Sau khi nghe Thỏ nói, Sư tử liền đến gốc cây vilva, trông thấy chỗ Thỏ đã nằm dưới bóng cây kè và thấy trái vilva chín đã rơi trên ngọn lá kè kia. Sau khi đã cẩn thận xác nhận rằng đất không bị vỡ, Bồ-tát liền đặt Thỏ lên lưng và với tốc độ của Sư tử, phóng về chỗ bọn thú đang đứng.

Thế rồi ngài kể cho chúng nghe toàn bộ sự việc và nói:

– Ðừng sợ hãi nữa.

Sau khi an ủi bọn thú, ngài để cho chúng ra đi. Quả thật nếu lúc ấy không nhờ Bồ-tát thì tất cả các con thú kia đều đổ xô vào biển mà chết. Chính tất cả đều nhờ Bồ-tát mà thoát chết.

Hãi hùng vì tiếng trái rơi ra,
Thỏ nọ, một lần đã chạy xa.
Tất cả thú kia đều nối gót,
Rúng lòng vì thỏ hoảng kinh mà

Chúng không xem rõ việc là gì,
Chuyện nhảm, không đâu, lắng tai nghe,
Cả đám, đều vô cùng rối loạn
Với niềm kinh hoảng rất ngu si.

Những ai đạt được hạnh thông cao,
Trí tuệ lạc an nhập được vào,
Việc xấu dù cho còn xúi gọi.
Kinh hoàng, như thế xá chi nào!

Ba bài kệ được sáng tác ra từ Trí Tuệ Toàn hảo của đức Phật.

*

Sau khi chấm dứt bài thuyết giảng, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, chính Ta là con Sư tử.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vua Brahmadatta (Tiền thân Brahmadatta)

Như thế này là đúng tính chất…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại đền thờ Aggàlava, gần Àlavi, về các điều lệ phải giữ trong việc xây tinh xá.

Câu chuyện khởi đầu đã được kể trước đây, trong số 253. Tiền thân Manikantha. Nhưng ở bậc Ðạo Sư dạy:

– Này các Tỷ-kheo, có phải các ông sống ở đây bằng cách gây phiền hà khi xin đồ vật và khất thực chăng?

Khi họ đạp “vâng”, Ngài quở trách họ và bảo:

– Các bậc hiền trí ngày xưa, khi được vua ban cho họ thứ mà họ thích, dù họ muốn xin đôi giày đế đơn, và vì sợ vi phạm bản tính tinh tế cẩn trọng của họ, nên trước mọi người, họ không dám nói một lời, mà chỉ nói riêng thôi.

Rồi Ngài kể cho họ một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, trong vương quốc Kampillaka, khi một vị vua xứ Pãncàla trị vì trong kinh thành ở phía bắc Pãncàla, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn, tại một thị trấn nọ. Khi lớn lên, ngài tiếp thu kiến thức về các học nghệ tại Takkasilã. Sau đó ngài thọ giới luật của một ẩn sĩ và trú trong vùng Tuyết Sơn. Ngài sống ở đó một thời gian lâu và sống bằng cách lượm nhặt trái, củ rừng.

Rồi khi lai vãng các nơi có người ở để kiếm muối và giấm, ngài đến phía bắc Pãncàla và trú trong vườn cây của nhà vua. Ngày hôm sau, ngài vào thành khất thực và đến cổng nhà vua. Vua rất hài lòng về cử chỉ thái độ của ngài nên mời ngài ngồi trên bệ và dâng ngài các thức ăn xứng với vị vua. Vua long trọng hứa kết thân với ngài và giao cho ngài một chỗ ở trong khu rừng vườn ấy.

Ngài ở mãi trong ngôi nhà vua và khi mùa mưa chấm dứt, muốn trở lại vùng Tuyết Sơn, ngài tự nghĩ: “Nếu ta lên đường, ta cần có một đôi giầy đế đơn và một cái dù lá. Ta hỏi xin đức vua các thứ ấy”.

Một hôm, ngài đến vườn cây và thấy vua đang ngồi đó, ngài chào vua và định hỏi xin vua giày và dù. Nhưng ngài lại nghĩ: “Khi một người xin người khác và nói: Hãy cho tôi thứ ấy, thứ ấy…., thì người ấy muốn khóc lên được và khi người kia từ chối và nói: Tôi không có thứ ấy …, thì phần mình cũng muốn khóc lên được”. Và để cho mọi người khỏi phải thấy ngài hoặc vua khóc, ngài nghĩ: “Cả hai chúng ta sẽ yên ổn khóc ở một nơi kín đáo”. Vì thế ngài nói:

– Tâu Ðại vương, tôi muốn nói chuyện riêng với ngài.

Các cận thần của vua nghe thế liền bỏ đi. Nhưng Bồ-tát lại nghĩ: “Nếu vua từ chối lời thỉnh cầu của ta thì tình bạn giữa vua và ta sẽ chấm dứt. Vậy ta không nên hỏi xin vua thứ gì cả”.

Hôm ấy, vì không dám nêu vấn đề, ngài bảo:

– Tâu Ðại vương, xin ngài hãy đi, để tôi xem lại chuyện này đã.

Hôm khác, khi vua vào vườn cây, cũng như trước, Bồ-tát nói thế này rồi thế kia và không thể bày tỏ lời thỉnh cầu của mình được. Và cứ thế, mười hai năm trôi qua.

Bấy giờ, vua tự nghĩ: “Vị giáo sĩ này bảo: Tôi muốn nói riêng, và khi các quan bỏ đi, ngài lại không có can đảm nói. Ngài mong muốn như thế đã mười hai năm qua. Ta nghĩ rằng sau mười hai năm sống đời tu hành lâu như thế, ngài đang tiếc nhớ cuộc đời này. Ngài muốn hưởng lạc thú và khao khát quyền cao. Nhưng vì không thể bày tỏ ra được tiếng “vương quốc” nên người đành giữ im lặng. Hôm nay, từ vương quốc của ta trở xuống, hễ ngài muốn gì, ta đều trao cho cả.

Thế là vua vào vườn cây, chào Bồ-tát và ngồi xuống, Bồ-tát xin được nói riêng với vua và khi các cận thần ra đi, ngài lại không thể nói ra lời nào. Vua bảo:

– Ðã mười hai năm nay, ngài cứ xin nói chuyện riêng với ta, thế mà khi có cơ hội thuận tiện, ngài lại không thể thốt lên được một lời, ta thuận cho ngài mọi thứ, từ vương quốc của ta trở xuống. Ngài chớ có e ngại, cứ hỏi xin thứ gì mà ngài thích đi!

– Tâu Ðại vương, – Bồ-tát nói – Ngài có vui lòng cho tôi cái mà tôi thích chăng?

– Vâng thưa Tôn giả, vui lòng.

– Tâu Ðại vương, khi tôi lên đường ra đi, tôi cần có một đôi giày đế đơn và một cái dù lá.

– Ngài ơi, thế mà suốt mười hai năm qua, ngài đã không thể nào hỏi xin một điều quá nhỏ nhặt như thế được ư?

– Tâu Ðại vương, thế đấy ạ.

– Tại sao ngài lại làm như thế chứ?

– Tâu Ðại vương, khi một người bảo: “Hãy cho tôi thứ ấy …,” người ấy phải rơi nước mắt và kẻ từ chối: “Tôi khômg có thứ ấy” thì về phần mình, kẻ ấy cũng phải khóc. Nếu khi tôi xin mà ngài từ chối, tôi sợ rằng người ta có thể thấy chúng ta hoà lẫn nước mắt. Ðó là lý do khiến tôi xin được kín đáo hỏi.

Thế rồi ngài mở đầu bằng cách đọc ba bài kệ:

Như thế này đúng là tính chất,
Của lời xin, kính bạch Ðại vương,
Nó luôn luôn vẫn sẽ mang
Hoặc lời từ chối, hoặc phần tặng trao.

Tâu chúa công, kẻ nào thỉnh nguyện,
Nước mắt kia đã muốn trào ra;
Còn người từ chối lời kia
Cũng là khó giữ đầm đìa lệ rơi.

Tôi sợ rằng mọi người thấy được
Chúng ta đây nhỏ nước mắt suông
Nêu điều tôi hỏi xin mang
Bên ngài thầm kín, tôi cần rỉ tai.

Vua rất đẹp lòng vì sự biểu lộ lòng kính trọng kia ở phần Bồ-tát. Ngài ban tặng ân huệ cho Bồ-tát và đọc bài kệ thứ tư:

Ta tặng ngài một bầy bò đỏ,
Gồm ngàn con, thêm có người chăn
Lời ngài cao quí muôn vàn,
Phần ta xúc cảm rộng lòng phát ban.

Nhưng Bồ-tát bảo:

– Tâu Ðại vương, tôi không muốn những thú vui vật chất. Hãy cho tôi thứ tôi xin mà thôi.

Rồi ngài mang đôi giày đế đơn, cầm chiếc dù lá và khích lệ vua nhiệt tâm trong đạo, giữ giới luật và tuân hành ngày trai tịnh. Thế rồi dù vua nài nỉ ngài ở lại, ngài vẫn ra đi vào dãy Tuyết Sơn, ởđây ngài phát huy các Thắng trí và các Thiền chứng, sau đó tái sinh vào cõi Phạm thiên.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài thuyết giảng và nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Ànanda là vị vua ấy; còn ta là ẩn sĩ nọ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thầy Tu Mặc Áo Da (Tiền thân Cammasảtaka)

Con vật hảo tâm tỏ ra vâng phục …,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo mặc áo bằng da.

Áo ngoài áo trong của ông đều bằng da cả. Một hôm, khi ra khỏi Tinh xá để đi khất thực ở Xá Vệ, ông đến đấu trường của cừu đực. Một con cừu đực trông thấy ông, liền thối lui định húc ông. Vị Tỷ-kheo tự nghĩ: “Nó làm như thế là để tỏ kính phục ta đấy”. Và ông không chịu lùi bước. Con cừu phóng tới húc vào đùi ông, làm ông ngã xuống đất. Trường hợp kính chào ảo tưởng kia được đồn đại trong chúng Tỷ-kheo. Ðề mục được các Tỷ-kheo đem bàn tán trong Pháp đường là vị khất sĩ mặc áo da kia tưởng được kính chào như thế nào và gặp cái chết ra sao. Bậc Ðạo Sư bước vào và hỏi họ đang bàn tán việc gì. Sau khi nghe kể lại. Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà từ xưa kia cũng thế, tu sĩ ấy tưởng mình được kính chào và rồi phải mang lấy cái chết.

Rồi Ngài kể cho họ một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình thương gia và hành nghề buôn bán. Bấy giờ có một khất sĩ nọ, mặc quần áo bằng da đang đi khất thực, đến đấu trường của cừu đực và cừu đực thối lui khi đối diện với ông, ông tưởng nó làm thế là tỏ dấu hiệu kính trọng nên ông không rút lui. Ông nghĩ: “Trên toàn cõi đời này, chỉ riêng con cừu này nhận biết các công hạnh của ta.” Ông đứng đó, chấp tay giơ lên kính chào và đọc bài kệ đầu:

Con vật hảo tâm tỏ ra khâm phục
Trước Bà-la-môn đạo thức, đẳng cao.
Thú kia, ngươi thiện hảo biết là bao,
Mong ngươi được vang danh khắp loài vật.

Bây giờ một vị thương gia có trí tuệ đang ngồi trong cửa hàng mình, muốn can ngăn vị khất sĩ, liền đọc bài kệ thứ hai:

Bà-la-môn, chớ kinh thường, tin nó,
Nó sẽ húc, người ngã xuống đất ngay.
Cừu đực kia đang lui lại như vầy,
Ðể phóng mạnh tới tấn công người đó.

Trong lúc vị thương gia có trí tuệ ấy còn đang nói, con cừu đực phóng tới thật nhanh và húc vào đùi khất sĩ, làm ông ngã xuống. Ông muốn cuồng lên vì đau đớn, và cứ nằm đó kêu than. Sự việc ấy được bậc Ðạo Sư diễn tả bằng bài kệ thứ ba:

Bình bát lật úp và chân bị gãy,
Người tiếc than thân phận ấy đau buồn.
Ðừng dang tay khóc lóc thật hoài công,
Mau cứu chữa trước khi người bị giết!

Và vị khất sĩ đọc bài kệ thứ tư:

Kẻ nào tỏ kính cung nơi chẳng xứng,
Ðều xẻ chia số phận của tôi nay,
Bị cừu kia húc ngã xuống đất đây.
Tôi phải chết vì lòng tin vụng dại.

Ông ta than vãn như thế rồi sau đó chết đi.

*

Sau khi chấm dứt bài thuyết giảng, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Người mặc áo da hôm nay và thời xưa ấy cũng là một. Còn ta là vị thương gia có trí tuệ kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Tắc Kè (Tiền thân Godha)

Kẻ nào đóng vai tu ẩn dật …,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ-Viên về một Tỷ-kheo xảo quyệt.

Câu chuyện mở đầu đã được kể đầy đủ trước đây. Trong dịp này các Tỷ-kheo đưa ông ra trước bậc Ðạo Sư và thưa:

– Bạch Ngài, Tỷ-kheo này gian xảo.

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Không phải chỉ bây giờ, xưa kia cũng thế, ông ta đã xảo quyệt.

Rồi Ngài kể cho họ nghe một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một con Tắc kè. Khi lớn lên và trở nên khỏe mạnh, lực lưỡng, ngài trú trong một khu rừng.

Bấy giờ một ẩn sĩ độc ác nọ dựng một túp lều lá trú gần ngài. Bồ-tát trong khi đi đây đó kiếm ăn, trông thấy túp lều lá và tự nghĩ: “Túp lều này hẳn phải là của một nhà tu khổ hạnh”.

Ngài đến chào và hỏi nhà tu rồi quay về chỗ của mình.

Một hôm ẩn sĩ giả mạo kia ăn một món ăn hợp khẩu do người thủ hộ nấu cho, bèn hỏi người ấy thịt gì thế. Khi nghe nói rằng đó là thịt tắc kè, ông trở thành nô lệ cho lòng ham muốn được ăn ngon, đến độ ông tự nghĩ: “Ta sẽ giết con tắc kè vẫn thường đến lều ta và nấu nó theo khẩu vị của ta mà ăn”.

Thế là ông lấy ra một ít bơ, sữa đông, gia vị v.v … Rồi ông dấu kín chiếc gậy bên trong tấm y màu vàng của ông và đến ngồi ngay cửa lều , cố hết sức im lặng chờ Bồ-tát đến.

Khi Bồ-tát trông thấy con người tồi tệ ấy, ngài liền nghĩ: “Kẻ xấu này đã từng ăn thịt đồng loại ta. Ta sẽ thử xem có phải thế không”. Thế rồi ngài đứng dưới gió để đánh hơi kẻ xảo quyệt ấy. Khi biết ông ta đã từng ăn thịt một con tắc kè, ngài không đến gần mà quay lại bỏ đi. Ẩn giả kia thấy ngài không đến, liền ném gậy vào người. Chiếc gậy không trúng vào thân thể ngài mà chỉ chạm vào chóp đuôi. Ẩn giả nói:

– Cút đi, ta để hụt mất ngươi.

Bồ-tát bảo:

– Vâng, ông đã trượt mất ta nhưng ông không hụt mất Bốn cảnh khổ đâu.

Rồi ngài chạy chui biến vào trong một bụi kín ở cuối lối đi và thò đầu ra bằng một lỗ khác mà nói với ẩn giả bằng hai bài kệ sau:

Kẻ nào đóng vai tu ẩn dật,
Chế ngự mình, cần được tỏ ra.
Chính người ném gậy vào ta,
Người tu ẩn dật hẳn là giả danh.

Tóc bện ấy, da trần không áo
Ðể che trùm, tội giấu kín hoài.
Khùng thay! Lo sạch bề ngoài,
Bỏ quên mọi thứ xấu tồi bên trong.

Ẩn giả nghe thế liền đọc bài kệ thứ ba:

Tắc kè ơi, mau vòng quay lại,
Muối, dầu, ta chẳng phải thiếu đâu.
Cả tiêu, ta nảy ý cầu
Một phần thích khẩu thêm vào món cơm.

Bồ-tát nghe thế liền đọc bài kệ thứ tư:

Ta ẩn náu êm đềm ấm cúng
Giữa đám đông trong đụn kiến này.
Muối, dầu, chuyện nhảm chớ bày
Cả tiêu kia nữa, ta đây chán rồi.

Ngoài ra, ngài còn dọa:

– Này nhà tu giả mạo kia, thật đáng kinh tởm! Nếu ông còn ở đây, ta sẽ khiến mọi người sống trong vùng ta đi kiếm ăn bắt ông như một kẻ trộm và ông sẽ bị hại. Thế thì hãy lo mau mau cút đi.

Thế là nhà tu giả mạo kia liền bỏ chạy khỏi nơi ấy.

*

Thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Tỷ-kheo xảo quyệt này là nhà tu giả hiệu kia, còn ta là vua Tắc kè.

PHẨM BỐN BÀI KỆ (tt)

  1. Chuyện Thiên Hoa Kakkàru (Tiền thân Kakkàru)

Kẻ nào giữ mình không trộm cắp …,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên, cách Ðề-bà-đạt-đa đã gây ra sự ly gián trong Giáo đoàn như thế nào, rồi sau đó bỏ đi với các đệ tử trưởng của ông, và khi đám này tan rã, ông hộc ra một dòng máu nóng.

Các Tỷ-kheo đem chuyện ấy bàn trong Pháp đường và bảo rằng Ðề-bà-đạt-đa đã dùng vọng ngôn gây nên sự ly gián kia, sau đó mang bệnh, và chịu bao nhiêu đau đớn. Bậc Ðạo Sư bước vào hỏi các Tỷ-kheo đang họp nhau ngồi bàn tán chuyện gì. Sau khi nghe kể lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà từ xưa kia, ông ta cũng đã là một kẻ nói dối; và không phải chỉ bây giờ mà từ xưa kia, ông ta cũng đã phải chịu khổ đau vì nói dối.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-lai-nại, Bồ-tát là một vị thần ở cõi trời Ba mươi ba. Bấy giờ có một cuộc lễ lớn tại Ba-la-nại, Một đám đông rắn thần Nàga và chim Kim sí điểu Garuda cùng các địa thần đến dự lễ. Và bốn Thiên thần từ cõi trời Ba mươi ba mỗi vị mang một tràng thiên hoa Kakkàru cũng đến dự lễ. Suốt trong khoảng mười hai dặm của thành phố đều sực nước hương thơm của các hoa ấy. Mọi người đều xôn xao, tự hỏi không biết các vị mang các bông hoa ấy là ai. Các Thần nói:

– Họ đang nhìn chúng ta đấy.

Rồi từ sân điện bay lên và dùng thần lực đứng ngay trên không. Ðám đông tụ tập lại, vua cùng các hoàng tử theo vua đến hỏi các vị thần ấy từ cõi nào đến:

– Chúng ta từ cõi trời Ba mươi ba đến .

– Các ngài định đến đây để làm gì?

– Ðể dự lễ.

– Các hoa này là hoa gì thế?

– Chúng tên là thiên hoa Kakkàru.

– Thưa các ngài, ở thế giới thiên thần,các ngài có thể đeo hoa khác. Hãy cho chúng tôi hoa này đi.

Các thần trả lời:

– Các hoa này chỉ xứng với những vị thần có đại lực; còn đối với hạng thấp kém, những kẻ ngu si, tội lỗi trong cõi người thì hoa này không xứng hợp. Nhưng những ai trong cõi người có được những đức hạnh như thế … như thế… thì những bông hoa này xứng hợp với họ.

Rồi vị trưởng các Thần ấy đọc lên bài kệ đầu:

Kẻ nào giữ mình không trộm cắp.
Miệng lưỡi luôn tránh tật dối lời
Ðạt nên danh vọng cao vời.
Giữ tâm yên ổn – xứng đòi hoa đây.

Nghe thế, một vị giáo sĩ hoàng gia tự nghĩ: “Ta chẳng có một đức tính nào trong các đức tính nói trên, nhưng ta sẽ nói dối để có được những bông hoa này. Ðược như thế mọi người sẽ tin rằng ta có các tính hạnh ấy”. Rồi ông ta nói:

– Tôi có đủ những đức tính ấy.

Thế là ông ta được trao hoa để mang. Rồi ông ta đến xin vị thần thứ hai, vị này đọc bài kệ thứ hai:

Kẻ nào kiếm tiền tài chân thật
Tránh gian manh để đạt giàu sang
Thú vui quá độ, tránh luôn,
Xứng phần được đóa thiên hương đây này.

Giáo sĩ nói:

– Tôi đầy đủ những đức tính ấy.

Và thế là ông ta được trao hoa để mang. Rồi ông đến xin vị thần thứ ba, vị này đọc bài kệ thứ ba:

Kẻ nào chẳng lệch xa mục đích,
Và lòng tin bất dịch chẳng rời,
Thức ăn ngon chẳng đoái hoài,
Chánh chân đòi hỏi hoa trời này đây.

Vị giáo sĩ nói:

– Tôi đầy đủ những đức tính ấy.

Thế là ông ta được trao hoa để mang. Rồi ông đến xin vị thần thứ tư, vì này đọc bài kệ thứ tư:

Kẻ nào chẳng phê bình người tốt
Dù sau lưng hay trước mặt người
Làm tròn việc đúng như lời,
Xứng đòi phần thưởng hoa trời này đây.

Giáo sĩ nói:

– Tôi đầy đủ các đức tính này.

Và ông được trao hoa để mang.

Như vậy các vị Thần tặng bốn tràng hoa cho giáo sĩ rồi quay về cõi trời. Khi các Thần vừa ra đi, giáo sĩ bị một cơn đau khốc liệt tấn công, ở trong đầu như có mũi nhọn đâm và như có đồ vật bằng sắt đập vào. Cuồng trí vì đau đớn, ông lăn lộn vật vã và kêu la ầm ĩ. Khi mọi người hỏi:

– Thế này là sao?

– Tôi tự xưng có những đức hạnh mà tôi vốn không có. Tôi đã nói dối để xin các Thần ấy những bông hoa này, hãy gỡ hoa ra khỏi đầu tôi.

Họ liền gỡ hoa ra nhưng không được vì hoa đã gắn chặt như một vành sắt. Thế rồi họ đỡ ông ta lên và đưa ông về nhà. Vua bảo các cận thần:

– Bà-la-môn ác hạnh kia sắp chết, ta nên làm gì đây?

– Tâu Ðại vương – các quan đáp – chúng ta hãy tổ chức một lễ hội. Các Thiên Thần sẽ trở lại.

Vua liền tổ chức một lễ hội và các Thiên Tử ấy trở lại và làm ngập tràn thành phố với hương thơm của các bông hoa kia, họ đứng tại chỗ cũ trong sân chầu. Dân chúng tụ tập và mang Bà-la-môn ác hạnh kia, đặt nằm sấp xuống trước các Thiên thần. Ông ta van xin các Thần:

– Kính lạy các ngài, xin hãy tha mạng cho tôi.

Các Thần bảo:

– Các bông hoa này không thích hợp với một kẻ độc ác xấu xa. Trong tâm, ông đã định lừa dối chúng ta và ông đã phải nhận lấy hậu quả của những lời ông nói dối.

Sau khi quở trách mọi người, các Thần gỡ tràng hoa khỏi đầu ông, khuyến dụ mọi người rồi quay về trú xứ riêng của họ.

*

Khi bậc Ðạo Sư thuyết giảng xong. Ngài nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa là Bà-la-môn ấy, Ca-diếp là một trong các Thiên thần, Mục-kiền-liên là vị Thần thứ hai, Xá-lợi-phất là vị Thần thứ ba, còn ta là vị Thần Trưởng chúng.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hoàng Hậu Kàkati (Tiền thân Kàkati)

Hương quyện quanh tôi là hơi thở …,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo hối tiếc vì đã thọ giới xuất gia.

Vào dịp này, bậc Ðạo Sư hỏi Tỷ-kheo ấy rằng có thật ông đã buồn chán không và khi ông trả lời:

– Bạch Thế Tôn thật thế.

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Không thể canh phòng phụ nữ. Không có cách gìn giữ họ an toàn. Các trí giả ngày xưa đã đặt một phụ nữ ở giữa biển, trong một cung điện gần hồ Simbalì (trên đỉnh núi Tu-di) mà vẫn không thể giữ danh tiết của nàng.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là thái tử, con của chánh hoàng hậu. Ngài lớn lên và khi vua cha mất, ngài nối ngôi, Kàkàti là chánh hoàng hậu của ngài, xinh đẹp như một tiên nữ. Hình thức cũ của huyền thoại này sẽ được kể đầy đủ trong số 536, Tiền thân Kunàla. Sau đây chỉ là phần vắn tắt của chuyện.

Bấy giờ có một vua Garuda (Kim sí điểu: chim thần cánh vàng) giả trang làm ông người đàn ông đến chơi súc sắc với vua Ba-la-nại. Vua chim thần Garuda đâm ra yêu hoàng hậu Kàkàti, nên mang nàng về trú xứ của loài Gadura và sống hạnh phúc với nàng ở nơi ấy. Vua Ba-la-nại mất nàng liền bảo một nhạc công tên là Natakuvera đi tìm nàng. Nataluvera thấy vua chim đang nằm trên đệm cỏ eraka ở một cái hồ nọ. Khi chim thần Garuda sắp rời nơi ấy, chàng liền ngồi giữa đám lông của vương điểu và nhờ cách ấy mà chàng được chở đến trú xứ của loài chim thần Garuda.

Tại đây, chàng được hưởng những đặc ân của hoàng hậu, sau đó chàng lại ngồi trên cánh chim thần kia và trở về nhà. Thế rồi vào lúc vua chim Garuda đến chơi súc sắc với vua Ba-la-nại, chàng nhạc công cầm đàn bước lên chỗ hai người chơi súc sắc, đứng trước vua và chàng đọc bài kệ đầu dưới hình thức một bài ca:

Hương quyện quanh tôi là hơi thở
Của mối tình người ở nơi xa.
Kà-kà-ti đẹp ấy mà
Khiến tôi rung động sâu xa trong lòng.

Nghe thế, chim thần Garuda trả lời bằng bài kệ thứ hai:

Vượt qua biển, qua dòng Ke-buk,
Phải chăng người đến được đảo ta?
Bảy vùng biển rộng bay qua.
Sim-bal rừng ấy người đà đến nơi?

Natakuvera nghe thế, liền đọc bài kệ thứ ba:

Khắp trời rộng, nhờ ngài tôi vượt,
Và tôi đây đến được Sim-bal,
Bay ngang bao biển, bao sông,
Mối tình tôi gặp, nhờ phần ngài thôi.

Vương điểu Garuda đọc bài kệ thứ tư:

Thật cuồng si, việc tôi xảo trá,
Khiến tôi thành một gã ngu đần
Người yêu nên giữ riêng phần,
Kìa! Tôi phục vụ như hàng mối mai.

Thế rồi chim Garuda nọ mang hoàng hậu trả về cho vua Ba-la-nại và không bao giờ trở lại nữa.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giảng và tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc Tứ Ðế, Tỷ-kheo bất mãn đắc quả Dự Lưu.

Và Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Tỷ-kheo bất mãn kia là Natakuvera, còn Ta là vua ấy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Không Khóc Người Chết (Tiền thân Ananusociya)

Sao ta nhỏ lệ vì em chứ …,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một người chủ đất có vợ chết. Chàng chẳng thiết tắm rửa, ăn uống, bỏ bê công việc nông trại. Quá sầu đau, chàng lang thang khắp nghĩa địa mà than vãn trong khi nghiệp lực từ đời trước đưa đến quả Dự Lưu đang bừng cháy như một ngọn lửa trong đầu chàng.

Bậc Ðạo Sư vào lúc sáng sớm, quan sát khắp thế gian, đã thấy được chàng. Ngài tự nghĩ: “Ngoài Ta ra, không ai có thể giải được nỗi sầu muộn của người này và ban năng lực cho chàng nhập Dự Lưu. Ta sẽ là chỗ an trú cho chàng”.

Thế là khi Ngài đi khất thực trở về và thọ thực xong. Ngài đem theo Tỷ-kheo thị giả và đi đến nhà người chủ đất ấy. Khi nghe bậc Ðạo Sư đến, chàng liền ra đón Ngài, cung kính mời Ngài ngồi vào chỗ đã soạn sẵn rồi đảnh lễ Ngài và ngồi xuống bên.

Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này cư sĩ, vì sao ông im lặng thế?

Chàng đáp:

– Bạch Thế Tôn, con đang sầu muộn vì nàng.

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Này cư sĩ, cái gì có thể tan rã thì tan rã, nhưng khi điều này xảy ra, người ta không nên phiền muộn. Các bậc hiền trí ngày xưa, khi mất vợ, họ biết chân lý này và do đó họ không đau buồn.

Rồi do yêu cầu của chàng, bậc Ðạo Sư kể một chuyện đời xưa.

*

Câu chuyện này sẽ được kể trong số 443. Tiền thân Cullabodhi ở Chương Mười. Sau đây chỉ là phần tóm tắt của câu chuyện.

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên, ngài theo đuổi tất cả các môn học nghệ tại Takkasilà rồi trở về với cha mẹ ngài. Ở Tiền thân này, bậc Ðại Sĩ trở thành môn đồ của đạo Thánh hiền. Cha mẹ ngài bảo ngài là họ sẽ tìm cho ngài một người vợ. Bồ-tát nói:

– Con không muốn sống đời có vợ con. Khi cha mẹ qua đời, con sẽ sống đời của một nhà tu khổ hạnh.

Vì cha mẹ cừ nài nỉ mãi, ngài sai làm một bức tượng bằng vàng và bảo:

– Nếu cha mẹ kiếm cho con được một thiếu nữ giống như trong tượng này thì con sẽ lấy làm vợ.

Cha mẹ ngài liền sai vài thám tử cùng với một số lớn tùy tùng và bảo họ đặt tượng vàng trong một xe đóng kín rồi đi tìm kiếm khắp các đồng bằng nước Ấn Ðộ, đến khi nào tìm thấy được một tiểu thư Bà-la-môn giống như vậy thì đem tượng vàng đổi lấy và đem thiếu nữ về cho họ.

Bấy giờ có một thánh giả kia từ cõi Phạm Thiên tái sinh dưới hình thức một thiếu nữ ở một thành phố thuộc vương quốc Kàsi, trong ngôi nhà của một Bà-la-môn gia sản tới tám trăm triệu đồng. Thiếu nữ tên là Sammillabhàsini. Ở tuổi mười sáu, nàng là một thiếu nữ tươi đẹp, dễ thương, giống như một tiên nữ mang đủ mọi nét đẹp nữ giới.

Mãnh lực của đam mê tội lỗi không hề nảy sinh được một ý nghĩ xấu nào trong nàng nên nàng thật là hoàn toàn thuần khiết. Những người kia mang tượng vàng đi khắp đó đây cho đến khi họ tới ngôi làng ấy. Dân làng trông thấy tượng liền hỏi:

– Tại sao Simmillabhàsini, con gái của người Bà-la-môn ấy lại được đặt ở đó?

Các thị giả nghe thế liền tìm đến gia đình Bà-la-môn ấy và chọn Sammillabhàsini làm hôn thê cho chủ của họ. Nàng nhắn với cha mẹ.

– Khi cha mẹ mất, con sẽ sống đời tu hành, con không muốn lập gia đình.

Cha mẹ nàng bảo:

– Này cô, cô nghĩ gì thế chứ?

Rồi họ nhận tượng vàng và gởi con gái đi cùng với một đoàn tùy tùng đông đảo. Lễ cưới được cử hành trái với ý nguyện Bồ-tát và Sammillabhàsini. Dù phải chia xẻ chung một phòng, một giường, cả hai vẫn không nhìn nhau bằng con mắt dục lạc tội lỗi, mà cùng sống với nhau như hai nam hay hai nữ tu sĩ thanh tịnh.

Chẳng bao lâu cha mẹ của Bồ-tát qua đời, ngài lo tang lễ, rồi gọi Sammillabhàsini đến và bảo:

– Này em yêu, tài sản của gia đình ta lên tới tám trăm triệu đồng và tài sản của gia đình em cũngđáng giá tám trăm triệu đồng nữa. Em hãy lấy hết đi và hãy sống cuộc đời của một gia trưởng. Ta sẽ trở thành một người tu khổ hạnh.

Nàng trả lời:

– Chàng ơi, nếu chàng trở thành một ẩn sĩ thì em cũng sẽ trở thành một ẩn sĩ, em không thể bỏ chàng được.

– Thế thì nàng hãy làm như thế đi. Chàng nói.

Như vậy họ tiêu hết gia sản bằng cách bố thí và vứt bỏ gia tài của họ như nhổ bỏ một búng đàm, rồi cả hai người đi vào vùng Tuyết Sơn và theo cuộc đời khổ hạnh. Sau khi đã sống một thời gian lâu bằng cách lượm hái trái, rễ cây, họ rời dãy Tuyết Sơn đi xuống kiếm muối và giấm, rồi dần dần họ tìm thấy đường đến Ba-la-nại và sau đó họ trú trong vườn cây của nhà vua.

Trong khi họ sống ở đó, vị ẩn sĩ trẻ tuổi mảnh mai này vì phải ăn cơm nhạt của loại gạo trộn mà bị bịnh kiết lỵ hành hạ và không có được thuốc chữa nên nàng trở nên quá gầy yếu. Bồ-tát trong khi đi khất thực phải ẵm nàng theo, mang nàng đến cổng thành và đặt nàng nằm trên một cái ghế dài trong một tiền đường rồi vào thành khất thực. Khi Bồ-tát vừa mới ra đi thì nàng tắt thở. Mọi người thấy vị nữ tu khổ hạnh sắc đẹp phi thường, liền tụ họp đến quanh nàng khóc lóc tiếc thương. Sau khi đi khất thực trở về, Bồ-tát nghe nàng đã chết liền bảo:

– Cái gì có tính chất tan rã thì tan rã. Mọi hiện hữu vô thường đều thuộc loại này cả.

Nói thế xong, ngài ngồi xuống chiếc ghế dài nàng đang nằm và ăn thức ăn trộn rồi súc mịệng. Mọi người đứng gần đó tụ tập lại quanh ngài và nói:

– Bạch Tôn giả, vị nữ tu khổ hạnh này là gì của ngài?

Ngài đáp:

– Khi tôi còn là cư sĩ, nàng đã là vợ tôi.

Họ nói:

– Bạch Tôn giả, trong khi chúng tôi khóc lóc tiếc thương và không thể ngăn được xúc động, tại sao ngài lại không khóc?

Bồ-tát bảo:

– Khi nàng còn sống, nàng đã thuộc về tôi theo một số phận nào đó. Khi nàng sang thế giới khác, chẳng có gì thuộc về nàng cả. Nàng đã bước vào lãnh vực của các vị khác. Thế thì tại sao tôi lại phải khóc nàng?

Rồi ngài thuyết giảng Chân lý cho mọi người qua các bài kệ sau đây:

Sao ta nhỏ lệ vì em chứ,
Hỡi Sam-mil-la-bhà-si-ni.
Em xinh đẹp đã chết đi
Từ nay ta hẳn còn gì em đâu?

Kẻ yếu đuối âu sầu gì chớ?
Khóc lóc làm chi những thứ mượn vay?
Tử vong đã hơi thở này,
Thì từng giờ phút trao tay tử thần.

Dầu ai đứng hay đang ngồi đó,
Ðang nằm hay dời chỗ, gì chăng,
Chỉ trong chớp mắt qua ngang,
Chỉ trong một lúc tử thần kề ngay.

Ðời bất ổn ta đây đã tính,
Mất bạn bè chẳng tránh được ra.
Hãy yêu mọi thứ còn kia,
Chớ buồn khi chúng phải lià xa ta.

Bậc Ðại Sĩ thuyết giảng Chánh pháp qua các bài kệ này sẽ giải thích sự vô thường của vạn vật. Mọi người hoàn tất lễ tang cho vị nữ tu ấy. Còn Bồ-tát quay về dãy Tuyết Sơn, đạt tuệ giác cao hơn do Thiền định, rồi ngài tái sanh cõi Phạm thiên.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc Tứ Ðế, người chủ đất đắc quả Dự Lưu. Sau đó bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ mẹ của La-hầu-la là Sammillabhàsini, còn Ta là nhà tu khổ hạnh ấy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Khỉ Đen Lớn (Tiềnthân Kàlabàhu)

Ta từng hưởng lắm thức ăn …,

Chuyện này do bậc Ðại Sư kể khi Ngài trú lại Trúc Lâm về việc Ðề-bà-đạt-đa mất các lợi dưỡng và danh vọng.

Khi Ðề-bà-đạt-đa đã nuôi lòng hiềm thù đức Phật một cách phi pháp và sai một xạ thủ giết Ngài, tội lỗi của ông ai ai cũng biết qua việc ông thả con voi Nàlàgiri (để làm hại đức Phật). Thế rồi mọi người lấy mất trú xứ và các khẩu phần của ông và vua chẳng đoái hoài đến ông nữa. Khi đã mất nguồn lợi dưỡng và danh vọng, ông ta đi khắp nơi sống bằng cách xin các nhà quyền quí.

Các Tỷ-kheo bắt đầu bàn tán trong Pháp đường rằng Ðề-bà-đạt-đa đã nghĩ ra cách thu đạt lợi dưỡng và danh vọng thế nào và khi đã kiếm được chúng thì ông ta lại không thể giữ được chúng. Bậc Ðạo Sư đến và hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi bàn việc gì; khi nghe kể lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, chẳng phải chỉ bây giờ mà xưa kia cũng thế, Ðề-bà-đạt-đa đã bị tước mất các lợi dưỡng và danh vọng.

Rồi Ngài kể cho họ nghe một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một con vẹt tên là Ràdha. Ngài là một con vẹt khỏe mạnh, chân và cánh đều toàn hảo. Con vẹt em trai ngài tên là Potthapàda. Một người bẫy chim kia bẫy được đôi chim này và mang chúng đến dâng vua Ba-la-nại. Vua bỏ cả hai con vào trong một chiếc lồng bằng vàng, chăm sóc chúng, cho chúng ăn mật và bắp rang đựng trong một chiếc đĩa bằng vàng và cho uống nước đường. Chúng được chú ý chăm sóc đặc biệt, và đạt lợi dưỡng danh vọng cao vời nhất.

Thế rồi một người thợ rừng nọ mang đến dâng vua một con khỉ đen lớn tên là Kàlabàhu (Ðen lớn). Vì khi đến sau các con vẹt nên nó nhận được lợi dưỡng và cung kính nhiều hơn, trong khi ấy đôi vẹt lại không còn được trọng vọng như trước.

Bồ-tát nhờ có các đức tính của bậc Giác Ngộ nên chẳng nói một lời, nhưng em ngài vì không cóđức tính ấy nên không thể chịu nổi sự trọng vọng mà người ta dành cho con khỉ, liền nói:

– Anh ơi, trước kia, ở cung điện vua, họ cho chúng ta thức ăn ngon, còn bây giờ chúng ta chẳngđược gì cả, họ dâng hết mọi thứ cho con khỉ Kàlabàhu. Vì chúng ta không nhận được lợi dưỡng trọng vọng do vua ban. Nơi đây, chúng ta phải làm gì chứ? Này chúng ta hãy đi vào rừng mà sống.

Vẹt em nói thế và đọc bài kệ đầu:

Ta từng hưởng lắm thức ăn,
Khỉ kia nay lại được phần ta xưa.
Rà-dha hãy đến rừng già,
Cách người xử tệ sửa ra thế nào?

Ràdha nghe thế liền đọc bài kệ tiếp:

Dù là được, mất ra sao,
Khen, chê, vui, khổ, vinh cao, nhục dày,
Ðều là giả tạo, đổi thay.
Sao em lại cứ ngập đầy sầu đau?

Nghe thế, Potthapàda vẫn không thể bỏ được hiềm thù với con khỉ liền đọc bài kệ thứ ba:

Rà-dha, chim trí tuyệt cao,
Hẳn anh phải biết việc nào xảy ra.
Ai sẽ là người đuổi tên kia
Từ triều vua trở lại nhà nó xưa?

Ràdha nghe thế liền đọc bài kệ thứ tư:

Mặt nhăn, tai động ấy mà,
Sẽ làm bầy trẻ vương gia hãi hùng.
Khỉ kia tinh quái lạ thường,
Ngày kia sẽ chạy tìm đường kiếm ăn.

Chỉ ít lâu sau, khỉ ta lúc lắc đôi tay, chọc phá làm cho các vương tử bé nhỏ sợ hãi la ré lên. Vua hỏi xem việc gì đã xảy ra và khi nghe kể lý do, ngài phán:

– Ðuổi nó đi!

Thế là con khỉ bị đuổi đi và đôi vẹt lại trở về hoàn cảnh như trước, được lợi dưỡng và trọng vọng.

*

Khi thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa là Kàlabàhu, Ànanda là Potthapàda, còn Ta là Ràdha.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thử Thách Giới Đức (Tiền thân Silavìmamsa)

Quyền lực trên đời khó sánh tày …,

Chuyện này do bậc Ðại Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Bà-la-môn từng thử thách đức hạnh của mình.

Hai câu chuyện tương tự đã được kể trước đây (số 86 và 290). Ở đây, Bồ-tát là vị giáo sĩ hoàng gia của vua Ba-la-nại.

*

Ðể thử thách đức hạnh của mình, luôn trong ba ngày, mỗi ngày ngài lấy một đồng tiền trong kho của vua. Ngài bị cáo là gian trộm và bị đưa ra trước nhà vua. Ngài nói:

Quyền lực trên đời khó sánh tày,
Ðức hiền uy lực diệu kỳ thay.
Khi mang lấy dáng dấp hiền hậu,
Rắn độc tránh điều tổn hại ngay.

Sau khi ca ngợi đức hạnh bằng bài kệ trên và được vua thỏa ý, ngài sống đời tu khổ hạnh. Bấy giờ có một con diều hâu chộp được một miếng thịt trong một hàng bán thịt kia, cắp thịt vào chân và bay vù lên không. Bọn chim liền vây lấy nó, tấn công nó bằng chân, bằng vuốt và mỏ. Không chịu nổi đau đớn, diều hâu ấy đành thả miếng thịt. Một con khác chộp lấy thịt, con này cũng bị tấn công, bị đau như trước đành thả rơi miếng thịt. Rồi một con khác sà xuống vồ miếng thịt. Hễ con nào được thịt thì bị đám còn lại đuổi theo và con nào nhả thịt ra thì được yên thân. Bồ-tát thấy thế liền nghĩ: “Những tham dục của chúng ta cũng giống như những miếng thịt. Ai nắm lấy chúng thì bị đau khổ, ai thả chúng ra thì được an bình”.

Và ngài đọc bài kệ thứ hai

Chim cắt đang khi có thức ăn,
Bọn chim mồi đến mổ đau ran;
Khi chim đành thả rơi phần thịt,
Bọn chúng liền thôi, chẳng ngó ngàng.

Rồi vị khổ hạnh đi ra khỏi thành phố.

Trên đường dong ruổi, ngài đến một ngôi làng kia và vào lúc chiều tối, ngài nằm nghỉ trong nhà của một người nọ.

Bấy giờ có một nữ tỳ tên Pingalã hẹn hò với một nam nhân: “Anh hãy đến vào giờ ấy, giờ ấy …” Sau khi rửa chân cho chủ và gia đình chủ và khi mọi người đều nằm ngủ, cô ta ngồi ở bậc cửa chờ tình nhân đến. Suốt canh một và canh hai cô đều tự bảo: “Bây giờ chàng sắp đến rồi!.”

Nhưng khi trời sáng, cô hết hy vọng và tự bảo: “Thế là chàng không đến!” Rồi cô ta nằm xuống và ngủ ngon.

Bồ-tát thấy chuyện xảy ra như thế liền tự bảo: “Người phụ nữ này từng ngồi quá lâu như thế hy vọng người tình sẽ đến; nhưng bây giờ nàng biết anh ta không đến, trong cơn thất vọng, nàng ngủ thật an bình. Ngài liền đọc bài kệ thứ ba:

Vui thay mơ ước được hoàn thành.
Trái ngược dường bao, mộng vỡ nhanh.
Hy vọng tiêu tan, dù chán nản.
Pin-ga-là đấy! Ngủ an lành.

Ngày hôm sau, ngài ra khỏi làng và đi vào một khu rừng trông thấy một vị ẩn sĩ đang ngồi trên đất chuyên tâm thiền định. Ngài nghĩ: “Ở đời này và cả đời sau, không có hạnh phúc nào hơn niềm cực lạc của thiền định”.

Rồi ngài đọc bài kệ thứ tư:

Ở cõi này hay ở cõi nào,
Không gì vượt hỷ lạc thiền đâu
Kẻ nào miệt mài tu thanh tịnh
Thân được bình an, hại chẳng vào.

Thế rồi, ngài đi sâu vào rừng, sống cuộc đời ẩn dật của một vị Rishi (Tiên nhân chứng đạo) phát huy thắng trí do thiền định rồi được vào cõi Phạm thiên.

*

Thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Ta đây là vị giáo sĩ nọ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Trưởng lão Kokàlika (Tiền thân Kokàlika)

Kẻ phạm lỗi nói không thích đáng…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về Trưởng lão Kokàlika. Câu chuyện khởi đầu được kể đầy đủ ở số 481, Tiền thân Takkàrika.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một vị đại thần rất được vua trọng vọng. Bấy giờ vua có tính lắm lời. Bồ-tát tự nghĩ: “Ta sẽ làm dứt tính huyên thuyên của vua”. Và ngài chờ đợi dịp thuận tiện để giảng giải cho vua.

Một hôm vào trong vườn cây và ngồi trên một phiến đá dành cho mình. Vua ngồi xuống gốc cây xoài, trên đó có một con chim cu đen đẻ trứng vào tổ của một con quạ rồi bỏ đi. Con quạ mái chăm lo cái trứng con chim cu. Chẳng bao lâu, trứng nở ra một chim cu con. Quạ tưởng rằng đấy chính là con của nó nên nó chăm sóc chim cu, mang mồi về cho nó ăn. Con chim nhỏ còn chưa đủ lông đủ cánh, đã kêu lên tiếng chim cu non nớt. Quạ liền nghĩ: “Con chim non này ngay bây giờ đã thốt lên giọng lạ lùng. Khi nó lớn lên nó sẽ còn làm gì nữa? “Thế là quạ lấy mỏ mổ chết chim cu và ném nó ra khỏi tổ. Xác chim cu rơi xuống chân vua. Vua hỏi Bồ-tát:

– Này khanh, thế này là nghĩa gì?

Bồ-tát nghĩ: “Ta đang tìm việc tốt để giảng cho vua một bài học, và nay ta đã được dịp ấy rồi”. Vì vậy ngài nói:

– Tâu Ðại vương, những hạng lắm lời, nói quá nhiều không đúng lúc, đều phải gặp như thế. Tâu Ðại vương, chim cu nhỏ bé này được quạ nuôi nấng, khi còn chưa đủ lông cánh, nó đã thốt lên một tiếng kêu quá sớm. Thế là quạ biết rằng đấy không phải là con của nó liền mổ chết và ném nó ra khỏi tổ. Tất cả những ai nói không đúng lúc và nói nhiều quá, dù cho đó là người hay vật đều phải chịu đau khổ như thế cả.

Rồi ngài đọc bài kệ sau:

Kẻ phạm lỗi nói không thích đáng,
Như chim cu tận mạng oan thôi.
Dù cho thuốc độc, gươm mài,
Cũng không tàn hại bằng lời nói sai

Người khôn đắn đo hoài lời nói,
Với người thân không vội tỏ lòng.
Muốn trao lời, xét tận cùng
Như Kim sí điểu bắt Thần rắn kia.

Từ khi Bồ-tát thuyết giáo như thế, vua trở nên đắn đo trong lời nói. Vua càng trọng vọng Bồ-tát và ban ân tứ cho ngài càng nhiều hơn mãi.

*

Sau khi thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Kokàlika là con chim cu nhỏ ấy, còn Ta là vị thần hiền trí.

-ooOoo-

332 Chuyện Chiếc Gậy Thúc Xe (Tiền thân Rathalatthi)

Hại người lại tỏ mình bị hại …,

Chuyện này do bậc Ðại Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về vị giáo sĩ của vua Kosala.

Tương truyền khi vị giáo sĩ đang đánh xe đến một ngôi làng thuộc địa phận của ông bỗng gặp phải một đoàn xe trên một con đường hẹp. Ông la lên:

– Tránh ra các người!

Khi một chiếc xe không tránh ra ngoài đường đi, ông tức giận quá, liền ném chiếc gậy thúc ngựa vào người đánh xe ấy. Chiếc gậy chạm vào ách xe ấy và dội trở lại trúng vào trán ông, khiến ông bị u đầu. Giáo sĩ quay trở về và đến tâu với vua rằng ông bị bọn đánh xe làm bị thương. Những người đánh xe ấy được gọi đến. Các phán quan tra cứu trường hợp ấy và thấy rằng chỉ riêng giáo sĩ có lỗi.

Một hôm chuyện ấy được bàn tán trong Pháp đường. Các Tỷ-kheo bàn về việc giáo sĩ của vua bảo rằng ông ta bị một số người đánh xe tấn công và khi được vua xử, ông ta bị thua kiện. BậcÐạo Sư đến và hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi bàn việc gì. Khi được nghe kể lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngày xưa người kia cũng đã hành động giống y như thế.

Rồi ngài kể cho họ nghe một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là vị phán quan của nhà vua. Vị giáo sĩ của vua đánh xe về ngôi làng do ông đứng đầu, thế rồi cũng hành động giống y như chuyện trên đây. Nhưng ở chuyện này khi vua nghe giáo sĩ kể chuyện, liền gọi những người đánh xe lại và chính vua ngồi xử. Vua chẳng có xem xét gì đến sự việc mà lại nói:

– Các ngươi đã đánh giáo sĩ của ta và làm cho trán của ông sưng lên.

Rồi vua ra lệnh thâu hết tài sản của họ.

Bấy giờ, Bồ-tát nói với vua:

– Tâu Ðại vương, ngài không tra xét sự việc mà lại phán rằng họ phải bị tịch thu hết của cải. Nhưng có nhiều người sau khi tự làm tổn thương mình lại tuyên bố rằng họ bị người khác làm tổn thương. Do đó, người nào thi hành luật pháp mà không xét vụ án thì thật là sai lắm. Vị ấy không nên hành động cho đến khi nghe hết mọi sự.

Rồi ngài đọc các bài kệ sau đây:

Hại người, lại tỏ mình bị hại
Mình đánh người, than phải đòn thoi.
Trí nhân thận trọng xét soi,
Nghe hai bên trước, tuyên lời chánh chân.

Ghét thế nhân dục tầm, biếng nhác,
Người giả tu dối gạt rành rành!
Hôn quân thường quyết định nhanh,
Mà không nghe rõ sự tình ra sao.

Nóng giận không đời nào có thể
Trong người hiền hợp lẽ biện minh.
Ðời đời công chính vang danh,
Quân vương cân nhắc ban hành lệnh ra.

Nhà vua nghe lời Bồ-tát, liền phán xét thật công minh và vụ án kia được xét xử đúng đắn, phần lỗi thuộc về giáo sĩ ấy mà thôi.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt thuyết giảng và nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, vị Bà-la-môn đóng cùng một vai trong cả hai câu chuyện, còn Ta là vị quan hiền trí.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Tắc Kè (Tiền thân Godha)

Ngài cho tôi biết rõ ra…,

Chuyện này do bậc Ðại Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một người chủ đất nọ. Câu chuyện khởi đầu đã được kể đầy đủ trước đây (số 328). Nhưng ở đây, khi hai vợ chồng đi đòi nợ trở về, trênđường họ gặp một số người đi săn, những người này cho họ một con tắc kè quay và bảo cả hai hãy ăn món ấy. Người chồng bảo vợ đi kiếm nước, rồi anh ta ăn hết cả con tắc kè. Khi vợ trở lại, anh ta nói:

– Này em, con tắc kè đã chạy mất rồi!

Nàng nói:

– Ðược rồi, thưa chàng, con tắc kè chạy rồi thì ai làm gì được?

Nàng uống một ít nước, sau đó cả hai đến Kỳ Viên. Khi ngồi hầu bậc Ðạo Sư, Ngài hỏi người vợ như sau:

– Này cư sĩ, ông này có ân cần, thương yêu và giúp đỡ bà không?

Nàng trả lời:

– Con thương yêu, ân cần với chàng, nhưng chàng chẳng hề thương yêu con.

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Ðược rồi, giả như ông đã cư xử với bà như thế thì cũng chớ buồn rầu. Khi ông nhớ lại các đức hạnh của bà, ông sẽ ban riêng cho bà quyền lực tối cao.

Rồi do yêu cầu của hai vợ chồng. Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Chuyện kể này cũng giống chuyện kể trên, nhưng ở đây, khi hai vợ chồng thái tử đang trên đường trở về cung vua, một đám thợ săn thấy họ quá khốn khổ, đã cho họ một con tắc kè quay và bảo họ chia nhau ăn. Người vợ lấy một cây leo làm dây cột nó rồi xách nó theo dọc đường. Khi đến một cái hồ, họ rời đường chính và đến ngồi dưới một gốc cây đa. Thái tử bảo:

– Này em, hãy đi xuống hồ, dùng một ngọn lá sen mà kiếm nước, sau đó chúng ta sẽ ăn phần thịt này.

Người vợ treo con tắc kè lên một cành cây và đi kiếm nước. Người chồng ăn hết cả con tắc kè, ngồi quay mặt đi. Khi nàng mang nước về, chàng nói:

– Này em, con tắc kè đã tụt xuống cành cây và chui vào một đụn kiến. Ta chạy theo và chộp được chóp đuôi nó. Nhưng nó đứt đôi ra và nó chui biến vào trong lỗ, để lại phần đuôi mà ta nắm được đây.

– Ðược rồi chàng ạ – nàng nói – chúng ta biết tính sao được khi con tắc kè đã nướng lại chạy thoátđi? Nào,chúng ta hãy lên đường!

Uống nước xong, hai vợ chồng đi đến Ba-la-nại. Thái tử lên ngôi, phong cho vợ làm chánh hoàng hậu nhưng đó chỉ là một cái chức hờ, vua chẳng ban cho nàng danh vọng gì cho nàng cả.

Bồ-tát muốn chiếm danh dự cho nàng nên đứng trước vua, ngài hỏi nàng:

– Tâu hoàng hậu, chẳng có lúc nào chúng thần được lệnh bà cho thứ gì cả? Tại sao lệnh bà lại chẳng kể gì đến chúng thần thế?

Hoàng hậu đáp:

– Này hiền khanh, ta chẳng nhận được gì của đức vua cả thì làm sao ta có thể ban tặng cho khanh được? Ðức vua có thể ban tặng cho ta thứ gì nào? Hồi chúng ta còn trong rừng, ngài đã một mìnhăn hết con tắc kè nướng.

– Tâu hoàng hậu, – Bồ-tát nói, – Có lẽ đức vua không làm như thế đâu, lệnh bà chớ nói về đức vua như thế.

Hoàng hậu đáp:

– Này khanh, sự việc này còn chưa rõ đối với khanh nhưng đã quá rõ đối với vua và ta.

Rồi hoàng hậu đọc bài kệ đầu:

Ngài cho tôi biết rõ ra
Ở trong rừng thẳm, trước kia, tâu ngài:
Tắc kè nướng bứt dây gai,
Từ cành đa nọ thoát ngay ấy mà.
Bên trong lớp áo vỏ dà,
Giáp dày, gươm sắc, tôi đà rõ soi.

Hoàng hậu bày tỏ lỗi lầm của vua như thế trước các triều thần. Bồ-tát nghe xong liền nói:

– Tâu hoàng hậu, từ khi đức vua không còn yêu lệnh bà nữa, tại sao bà còn tiếp tục sống nơi đây làm cho cả hai người phải phiền hà như thế?

Rồi ngài đọc hai bài kệ:

Ai trọng ta, ta thời xứng trọng,
Tỏ hảo tâm, hành động đáp đền;
Chẳng nên tốt với bọn hèn,
Kẻ nào tránh mặt, chẳng nên yêu vì.

Kẻ bỏ ta, ta thì bỏ hẳn,
Chớ yêu thương kẻ chẳng thương ta.
Như chim lìa bỏ cây khô,
Bay tìm trú xứ nơi xa trong rừng.

Khi nghe Bồ-tát nói, vua nhớ lại những đức hạnh của hoàng hậu, liền bảo:

– Này ái hậu, đã lâu ta không để ý đến đức hạnh của nàng, nhưng qua lời nói của bậc Hiền trí này, ta nhận biết các đức hạnh ấy. Hãy thứ lỗi cho ta. Trọn vương quốc này của ta, ta tặng riêng nàngđấy.

Rồi vua đọc bài kệ thứ tư:

Chức quyền cao quân vương có sẵn
Nên tỏ bày tình nặng nghĩa thâm,
Ta đem vương quốc tặng nàng
Hãy ban tặng phẩm cho hàng ái ưu.

Nói xong vua ban quyền lực tối cao cho hoàng hậu và tự nghĩ: “Chính nhờ người ấy mà ta nhớ lại các đức hạnh của nàng”. Vua cũng ban quyền cao cho vị Hiền trí ấy.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài thuyết giảng và tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc Tứ Ðế, cả hai vợ chồng ấy đều đắc quả Dự Lưu.

Và bậc Ðaọ Sư nhận diện Tiền thân:

– Hai vợ chồng trong chuyện ngày nay cũng chính là hai vợ chồng trong chuyện ngày xưa, còn Ta chính là vị Hiền trí.

-ooOoo-

  1. Chuyện Khuyến Dụ Quốc Vương (Tiền thân Ràjovada)

Con bò đực vượt dòng đi lạc hướng …,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về việc khuyến dụ một ông vua. Câu chuyện khởi đầu sẽ được kể đây đủ trong số 521. Tiền thân Tesakuna. Nhưng ở đây, bậc Ðạo Sư dạy:

– Tâu Ðại Vương, các vị vua ngày xưa, khi được nghe những lời dạy của bậc hiền trí, đã trị vì rất công chính và đã đạt đến cõi trời.

Rồi theo yêu cầu của vua, Ngài kể một câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên, ngài theo đuổi tất cả các học nghệ rồi ngài sống đời tu hành phát huy các Thắng trí và các Thiền chứng. Ngài trú trong một nơi tịnh lạc của dãy Tuyết Sơn, sống bằng trái và rễ cây rừng.

Lúc bấy giờ, vua rất mong muốn tìm ra các khuyết điểm của mình, liền đi khắp nơi xem ai có thể nêu ra các lỗi lầm của ngài chăng. Nhưng ngài không tìm được ai nói đến khuyết điểm của ngài cả; trong triều, ngoài triều cũng không; trong thành, ngoài thành cũng không nốt. Ngài nghĩ: “Tìm trong nước xem sao?”

Rồi ngài giả trang đi khắp nước nhưng cũng không tìm được ai nói tới khuyết điểm, chỉ nghe nói tới công hạnh của ngài. Vua lại nghĩ: “Ở vùng Tuyết Sơn thì sao?” Thế là vua vào rừng và lang thang đây đó cho đến khi gặp nơi ẩn dật của Bồ-tát. Nơi đây vua chào Bồ-tát, thân mật hỏi han ngài và ngồi xuống một bên. Bấy giờ Bồ-tát đang ăn mấy trái sung chín mà ngài đã mang từ trong rừng về. Sung ngon và ngọt như đường mịn. Bồ-tát nói với vua:

– Thưa Ðại vương, ngài hãy dùng trái sung này và uống một ít nước.

Vua theo lời, rồi hỏi Bồ-tát:

– Thưa Tôn giả, sao trái sung chín này ngọt quá đến như vậy?

Bồ-tát đáp:

-Thưa Ðại vương, vua hiện nay trị vì công chính, vì vậy trái sung này ngọt như thế đấy.

– Thưa Tôn giả, thế thì trong một đời vua bất chính, sung sẽ mất vị ngọt của nó chăng?

– Thưa Ðại vương, đúng thế. Trong các thời vua bất chính thì dầu, mật, đường v.v… ngay cả rễ cây, trái rừng cũng đều mất đi vị ngon ngọt của chúng. Chẳng những thế mà, toàn cả vương quốcđều trở nên dở dang, vô vị; nhưng khi những nhà lãnh đạo công chính thì những thứ này trở nên ngon ngọt thơm tho, và toàn thể vương quốc đầy vẻ thanh tao, và hương ngào ngạt.

Vua nói:

– Thưa Tôn giả, chắc hẳn là như thế.

Rồi chẳng để cho Bồ-tát biết rằng mình là vua, ngài chào Bồ-tát và quay về Ba-la-nại.

Ðể chứng nghiệm lời nói của vị ẩn sĩ, vua trị vì bất chính và tự nghĩ: “Ta sẽ biết rõ mọi việc đúng sai như thế nào?. Chỉ ít lâu sau, vua quay trở lại rừng, chào Bồ-tát và kính cẩn ngồi xuống một bên. Bồ-tát cũng nói đúng như những lời trước kia, và mời ngài ăn một trái sung chín, nhưng sung lại chát. Thấy sung chát, vua nhổ ra và nói:

– Thưa Tôn giả, sung chát quá!

Bồ-tát nói:

– Thưa Ðại vương, hẳn vua là kẻ bất chính, vì khi các người lãnh đạo bất chính thì mọi vật, khởiđầu từ các trái cây trong rừng, mất hết vị ngọt ngào thơm ngon của chúng.

Rồi ngài đọc bài kệ sau:

Con bò đực vượt dòng đi lạc hướng,
Ðàn cái theo, hàng ngũ rối tan tành.
Người cầm đầu theo các lối loanh quanh,
Dẫn bọn kém đến đường cùng hèn mạt,
Toàn vương quốc, hận một đời phóng dật.

Bò đực kia, nếu hướng dẫn thẳng đường,
Bầy cái theo sau nó sẽ ngay hàng.
Người cầm đầu, nếu theo đường công chính
Cả đám đông sẽ tránh điều bất hạnh
Khắp nước nhà sẽ hưởng lạc tịnh an.

Sau khi Bồ-tát trình bày về Chánh pháp, vua cho ngài biết rằng mình là vua, và nói:

– Thưa Tôn giả, trước đây chính do ta mà những trái sung được ngọt, rồi sau đó trở thành chát, nhưng nay ta sẽ làm cho chúng ngọt trở lại.

Rồi vua chào Bồ-tát và trở về, trị vì công chính, làm cho mọi sự trở lại trạng thái nguyên thủy của nó.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chó Rừng (Tiền thân Jambuka)

Chó rừng, coi chừng đấy…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về việc Ðề-bạt-đạt-đa bắt chước đức Phật. Tình tiết dẫn đến câu chuyện đã được kể ở phần trước (số 204). Ðây là bản tóm tắt.

Khi bậc Ðạo Sư hỏi Xá-lợi-phất rằng Ðề-bà-đạt-đa đã làm gì khi Trưởng lão đến gặp ông ta. Trưởng lão đáp:

– Bạch Thế Tôn, khi muốn bắt chước Ngài, ông ấy đặt một cái quạt vào tay con và nằm xuống rồi Kokàlika lấy đầu gối thúc vào ngực ông ta. Thế đấy, khi bắt chước Ngài, ông ta phải gặp nạn.

Bậc Ðạo Sư dạy

– Ðiều ấy trước đã xảy đến với Ðề-bà-đạt-đa rồi.

Rồi do yêu cầu của Trưởng lão, Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một con Sư tử, trú tại một cái động trong dãy Tuyết Sơn. Một hôm, sau khi giết chết một con Bò và ăn thịt nó xong, Sư tử uống một ngụm nước rồi quay về hang. Một con Chó rừng trông thấy Sư tử và vì không thể chạy thoát được, nó nằm sấp xuống.

Sư tử hỏi:

– Này anh Chó rừng, anh làm gì thế?

Chó rừng đáp:

– Thưa ngài, tôi mong làm tôi tớ của ngài.

Sư tử nói:

– Ðược, hãy làm thế đi.

Rồi Sư tử dẫn nó về nơi mình ở, hàng ngày mang thịt về cho nó ăn. Chó rừng mập ra nhờ thịt vụn do Sư tử mang về.

Một hôm, cảm thấy niềm tự hào nổi lên trong mình, Chó rừng liền đến gần Sư tử và bảo:

– Thưa ngài, tôi là một vật chướng ngại cho ngài. Ngài cứ phải mang thịt về nuôi sống tôi mãi. Hôm nay, ngài hãy ở lại đây. Tôi sẽ đi giết một con voi và sau khi ăn no nê xong, tôi sẽ mang thịt về cho ngài.

– Này bạn Chó rừng, chớ nuôi ý nghĩ ấy. Bạn đâu có phát xuất từ một dòng giống giết voi mà ăn thịt? Voi chắc chắn là thân thể to lớn. Ðừng mang lấy điều gì trái với bản chất của bạn, hãy nghe lời ta đi.

Và Sư tử liền đọc bài kệ đầu:

Chó rừng, coi chừng đấy!
Ðôi ngà voi dài ấy.
Loài bạn bé tí hon
Khó có được một con
Dám đối mặt thú nọ
Oai hùng và đồ sộ.

Mặc dầu Sư tử can ngăn, Chó rừng vẫn ra khỏi hang. Hú lên ba lần tiếng hú của chó rừng. Nó nhìn xuống núi và trông thấy một con voi đang đi dưới ấy. Nó định nhảy xuống đầu voi, liền phóng lên, lộn nhào trên không rồi rớt xuống chân voi. Voi nhấc chân trước đạp vào đầu Chó rừng vỡ ra từng mảnh. Chó rừng nằm đó rên la. Voi rống lên và bỏ đi.

Bồ-tát đến và đứng trên đỉnh dốc thấy Chó rừng đã phải chuốc lấy cái chết như thế nào, liền tự bảo: “Chó rừng này bị giết vì quá tự phụ.”

Rồi ngài đọc ba bài kệ sau:

Chó rừng nọ mang oai Sư tử,
Ðã một lần toan cự voi kia.
Ngã nhào, ngực vỡ kêu la,
Mới hay tiếc đã vội ra đối đầu.

Ai thích đấu kẻ nào siêu đẳng
Sức mạnh kia nếu chẳng nhận ghi,
Sẽ đành chia xẻ tức thì
Chó rừng số phận sầu bi thế này.

Kẻ biết lượng sức tài mình có,
Biết e dè khi tỏ lời ra,
Sống tròn bổn phận đời ta,
Bao nhiêu cừu địch cũng là thắng thôi.

Bồ-tát đọc các bài kệ trên, tuyên thuyết những phận sự đúng đắn phải làm trong cõi đời này.

*

Sau khi chấm dứt bài thuyết giảng, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Ðề-bà-đạt-đa là con chó rừng, còn ta là con sư tử.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vương Tử Chatta Vĩ Đại (Tiền thân Brahachatta)

“Cỏ ” vẫn là tiếng ngài kêu mãi…,

Chuyện này do bậc Ðạo sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một kẻ xảo quyệt.

Tình tiết đưa đến câu chuyện đã được kể trước đây.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là quan đại thần và là cố vấn của vua về thế sự và thánh sự. Vua Ba-la-nại mang một đạo quân lớn đi đánh vua Kosala, đến Xá-vệ và sau trận chiến, đã vào thành bắt vua Kosala làm tù nhân. Bấy giờ vua Kosala có một con trai là vương tử Chatta. Chàng giả trang thoát đi.

Ðến Takkasilà chàng học được ba bộ Vệ-đà và mười tám ngành văn học nghệ thuật. Thế rồi chàng rời Takkasilà và trong khi nghiên cứu cách ứng dụng các học nghệ, chàng đến một làng ở biênđịa. Ở một khu rừng gần đó có năm trăm ẩn sĩ sống trong các lều lá của họ. Vương tử đến với họ. Chàng mong mỏi học hỏi họ nên chàng cũng trở thành ẩn sĩ và sau đó chàng học được mọi kiến thức của họ. Chẳng bao lâu chàng trở thành người lãnh đạo của đám môn đệ ấy.

Một hôm chàng gọi các đạo hữu của chàng lại và nói:

– Này các hiền giả, tại sao các bạn không đi đến vùng trung tâm?

Họ bảo:

– Thưa Tôn giả, chúng tôi nghe nói vùng trung tâm là nơi những người khôn ngoan sống. Họ đặt cho mình những câu hỏi, họ khiến mình phải cảm ơn, phải chúc tụng và họ trách cứ những kẻ thô lậu. Vì thế chúng tôi không dám đến đó.

– Chớ sợ, chàng bảo – tôi sẽ lo các thứ ấy cho các bạn.

Họ bảo:

– Thế thì chúng tôi sẽ đi.

Rồi tất cả đều mang theo các vật dụng cần thiết để đi đường và đến Ba-la-nại.

Bấy giờ vua Ba-la-nại, sau khi chiếm lĩnh toàn thể vương quốc Kosala, đặt các viên chức tâm phúc ở lại làm quan cai trị, còn vua gom góp mọi tài sản quý giá rồi mang chiến lợi phẩm quay về Ba-la-nại. Vua bỏ đầy các vật quý giá kia trong các bình bằng sắt rồi đem chôn trong ngự viên và vẫn sống ở nơi ấy.

Các ẩn sĩ kia ngủ đêm ở trong ngự viên ấy, hôm sau vào thành khất thực, đến cổng cung điện. Vua rất thích cung cách của họ đến độ gọi họ vào và mời họ ngồi trên bệ, hỏi họ nhiều vấn đề như vậy, như vậy… Chatta chiếm được lòng vua nhờ chàng đáp được hết mọi câu hỏi của vua. Vua lại càng bằng lòng hơn nữa, và hứa cho tất cả được ở trong vườn cây của mình.

Bấy giờ, Chatta biết thần chú tìm ra kho tàng được chôn dấu. Trong lúc trú tại đó, chàng cứ tự nghĩ: “Ðâu là chỗ ông ấy có thể cất giấu tiền bạc của cha ta nhỉ?” Rồi đọc thần chú và kiếm tìm khắp nơi, chàng khám phá ra rằng của cải ấy được chôn trong vườn cây. Nghĩ rằng với tiền bạc ấy, chàng có thể khôi phục vương quốc của mình, chàng liền gọi các ẩn sĩ kia lại và bảo:

– Này các bằng hữu, tôi là con của vua Kosala. Khi vương quốc của chúng tôi bị vua Ba-la-nại chiếm, tôi đã giả trang trốn thoát và toàn mạng đến nay, giờ đây, tôi đã chiếm được tài sản thuộc về gia đình tôi. Với tài sản này, tôi sẽ khôi phục vương quốc của tôi. Các bạn định sẽ làm gì nào?

– Chúng tôi sẽ cùng đi với ngài. Họ đáp.

– Ðồng ý.

Chàng bảo, rồi sai làm những cái bao lớn bằng da. Ðêm đến, chàng đào lỗ ở khoảng đất kia và lấy các bình chứa tiền bạc lên. Chàng bỏ tiền vào các bao và lấy cỏ đựng đầy các bình kia. Chàng ra lệnh năm trăm đạo hữu cùng mang tiền bạc rồi chạy về Xá-vệ.

Nơi đây, chàng bắt hết các quan chức của vua và khôi phục vương quốc của chàng. Chàng xây thành, tháp canh và thực hiện nhiều công việc khác nữa. Chàng xây dựng một thành phố vững chắc chống lại cuộc tiến công của bất cứ một ông vua cừu địch nào, và chàng ở tại đó.

Vua Ba-la-nại nghe trình:

– Các nhà tu khổ hạnh đã lấy kho tàng trong vườn của ngài và chạy đi rồi.

Vua vào vườn, mở các bình ra và thấy chỉ có cỏ trong đó mà thôi. Vì mất kho báu, vua ngập tràn sầu muộn. Vua vào thành phố vừa lang thang khắp nơi vừa thì thầm: “Cỏ, cỏ”. Chẳng có ai có thể làm vơi nỗi sầu muộn của vua được.

Bồ-Tát tự nghĩ: “Vua đang gặp lúc quá khổ. Ngài cứ lang thang đây đó và nói nhảm mãi. Ngoài ta ra, không ai đủ sức để xua nỗi sầu muộn của ngài được. Ta sẽ giải thoát cho ngài khỏi cơn đau khổ.

Thế rồi, một hôm Bồ-Tát ngồi im lặng cùng với vua, khi vua bắt đầu nói nhảm, ngài đọc bài kệđầu:

“Cỏ” vẫn là tiếng ngài kêu mãi,
Kẻ nào giành cỏ ấy của ngài?
Ngài cần chi với cỏ vầy?
Tại sao ngài cứ lời này thốt ra?

Vua nghe Bồ-Tát nói thế liền trả lời bằng bài kệ thứ hai:

Chính đạo sĩ Chat-ta nổi tiếng.
Như thế này câu chuyện xảy ra;
Nó đem cỏ thế vàng ta,
Ta đây trách cứ riêng nhà nó thôi.

Nghe thế, Bồ-Tát đọc bài kệ thứ ba:

Bọn tinh ma vẫn noi đường lối:
“Cho ít thôi, nhưng đổi lấy nhiều”.
Của riêng phần nó mang theo,
Cỏ kia để lại, há điều khôn ngoan?

Nghe thế, vua đọc bài kệ thứ tư:

Ðức hạnh chẳng theo đàng lối nọ,
Ðức này dành cho lũ ngu si,
Ðức kia chắc hẳn đáng nghi,
Học theo cũng chẳng ích chi, hão huyền!

Khi vua trách cứ Chatta như vậy và nghe những lời ấy của Bồ-tát, vua liền thoát khỏi cơn sầu muộn và từ đó trị vì vương quốc của mình rất công chính.

*

Bậc Ðạo sư chấm dứt bài thuyết giảng và nhận diện tiền thân:

– Bấy giờ Tỷ-Kheo xảo quyệt kia là đạo sĩ Chatta, còn Ta là vị quan hiền trí nọ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cái Sàng Tọa (Tiền thân Pìtha)

Ôi, tôi đã chẳng mời ngồi…,

Câu chuyện này do bậc Ðạo sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-Kheo.

Tương truyền ông ta từ vùng quê đến Kỳ Viên. Sau khi cởi bỏ y bát, ông đến đảnh lễ bậc Ðạo sư và hỏi các chú tiểu:

– Này các chú, ai chăm lo các Tỷ-Kheo ở nơi khác đến Xá-vệ?

Các chú tiểu đáp:

– Trưởng giả Cấp Cô độc và nữ đại cư sĩ Visàkhà trông nom cả Tăng đoàn thay thế bậc phụ mẫu của họ.

– Tốt lắm, ông ta nói như thế.

Và lờ mờ sáng hôm sau, trước hơn ai hết, ông đến nhà ông Cấp Cô Ðộc. Vì ông đến vào giờ không hơp lý nên chẳng có ai chăm sóc ông cả. Không nhận được thứ gì nơi đây, ông liền bỏ đi và đến nhà bà Visàkhà. Nơi đây, cũng vì đến quá sớm nên không nhận được gì cả. Sau khi quanh quất đó đây, ông trở lại và khi thấy cháo sữa đã hết, ông liền quay bỏ đi. Ông lại đi quanh quẩn đó đây, và khi trở về, thấy cơm đã hết, ông quay lại Tinh xá và bảo:

– Các Tỷ-Kheo ở đây nói rằng hai gia đình ấy thuộc những tín hữu thuần thành, nhưng thật ra cả hai đều chẳng tín thành và cũng chẳng là người mộ đạo.

Như thế ông cứ đi khắp nơi trách cứ hai gia đình ấy.

Vì vậy một hôm các Tỷ-Kheo bắt đầu bàn tán trong Pháp đường rằng Tỷ-Kheo ấy từ vùng quê đến cửa nhà của các gia trưởng kia lúc quá sớm, nên đã không nhận được các thứ cúng dường vàđi khắp nơi mắng nhiếc các gia đình ấy.

Bậc Ðạo sư đến và hỏi các Tỷ-Kheo đang ngồi bàn tán việc gì. Khi nghe kể lại, Ngài gọi Tỷ-Kheo kia đến và hỏi ông ta có thực như thế không. Tỷ-Kheo ấy nói:

– Bạch Thế tôn, thật như thế.

Bậc Ðạo sư dạy:

– Này Tỷ-Kheo, tại sao ông lại giận chứ? Ngày xưa, trước khi đức Phật xuất hiện trên thế gian này, khi các nhà tu khổ hạnh viếng thăm một gia đình mà không nhận được tặng vật, họ không hề tỏ ra tức giận.

Cũng với lời này, Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-Tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên, ngài theo đuổi các học nghệ tại Takkasilà và sau đó ngài sống đời Phạm hạnh của một nhà tu ẩn dật. Sau khi sống một thời gian dài trong dãy tuyết Sơn, ngài đến Ba-la-nại để kiếm muối và giấm. Ngài trú trong một vườn cây và sáng hôm sau vào thành mà khất thực. Bấy giờ, có một thương gia ở Ba-la-nại là một tín hữu thuần thành. Bồ-Tát hỏi tìm một gia đình thành tín và khi nghe nói đến gia đình thương gia nọ, liền đến nhà ông ta. Bấy giờ vị thương gia đã đi bái kiến vua và người nhà của ông cũng chẳng có ai gặp ngài. Vì vậy ngài quay trở ra.

Sau đó thương gia ấy từ cung về trông thấy ngài, chào ngài rồi cầm lấy bình bát của ngài và mời vào nhà. Nơi đây ông mời ngài ngồi và chăm sóc ngài, rửa và xức dầu thơm đôi bàn chân ngài, mang cơm, bánh và các thức ăn khác ra mời. Trong lúc ngài dùng bữa, ông hỏi ngài điều này, điều nọ.

– Thưa Tôn giả, mọi khách lạ đến nhà chúng tôi, dù là hành khất, đạo sĩ hay Bà-la-môn, đều chẳng bao giờ phải ra đi mà không nhận những tặng vật biểu lộ sự cung tôn. Thế mà hôm nay người của chúng tôi lại không trông thấy ngài, khiến ngài phải ra đi mà không được dâng chỗ ngồi, nước uống, không được rửa chân, không được dâng cơm, cháo để ngài dùng. Ðấy là lỗi của chúng tôi. Xin ngài tha thứ cho chúng tôi về điều ấy.

Rồi ông đọc bài kệ đầu:

Ôi, tôi đã chẳng mời ngồi,
Chẳng mang nước uống, chẳng mời ngài ăn.
Tôi đây thú thật tội phần.
Cầu xin Tôn giả một lần thứ tha.

Bồ-Tát nghe thế liền đọc bài kệ thứ hai:

Thứ tha tôi có chi mà!
Tôi nào cảm thấy phiền hà gì đâu!
Lần kia, một ý thoáng mau:
“Người đây, thói tục phần nào lạ xa”.

Vị thương gia nghe xong, liền trả lời bằng hai bài kệ nữa:

Thói tục từ lâu đời
Truyền tận đến chúng tôi
Mỗi lần khác lạ đến
Ân cần vẫn đón mời.

Chỗ khách ngồi, mời mọc,
Cung cấp thứ khách cần,
Mang nước đến rửa chân,
Ðãi khách như thân tộc.

Bồ-Tát ở lại nơi ấy ít ngày, giảng dạy cho vị thương gia thành Ba-la-nại về bổn phận của mình. Sau đó ngài lui vào dãy Tuyết sơn. Nơi đây, ngài phát huy các Thắng trí và các Thiền chứng.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài thuyết giảng và tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc Tứ Ðế, vị Tỷ-Kheo kia Ðắc quả Dự Lưu và Ngài nhận diện Tiền thân.

– Bấy giờ, Ànanda là vị thương gia ở Ba-la-nại, còn Ta là vị ẩn sĩ nọ.

PHẨM BỐN BÀI KỆ (tt)

  1. Chuyện Vỏ Trấu (Tiền thân Thusa)

Giác quan nhạy, chuột kia tinh xảo…,

Chuyện này do bậc Ðạo sư kể khi Ngài trú tại Trúc Lâm về thái tử Ajàtasattu (A-xà-thế).

Trong thời gian mang thai thái tử, con gái vua Kosala thường xuyên thèm khát uống máu ở đầu gối của chồng bà là vua Bimbisàra (Tàn-bà-sa-la). Bị các phu nhân hầu cận hỏi, bà kể rõ sự việc ấy cho họ nghe. Vua cũng nghe được, liền gọi các chiêm tinh gia của ngài đến và nói:

– Hoàng hậu bị ám ảnh bởi nỗi khát khao như thế, như thế. Kết quả sẽ ra sao?

Họ đáp:

– Ðứa bé nằm trong bào thai sẽ giết ngài và chiếm lấy vương quốc của ngài.

Vua nói:

– Nếu con trai có giết ta và chiếm vương quốc của ta thì đâu có tai hại gì?

Rồi ngài lấy gươm khoét đầu gối bên phải của ngài cho máu chảy vào trong một cái dĩa bằng vàng và trao cho hoàng hậu uống. Bà tự nghĩ: “Nếu đứa con trai do ta sinh ra sẽ giết cha nó thì làm sao ta yêu thương nó được?” Thế là bà muốn trục thai ra. Vua nghe được liền gọi bà đến hỏi:

– Này ái hậu, họ nói rằng con trai ta sẽ giết ta và chiếm lấy vương quốc của ta. Nhưng ta đâu có thoát được tuổi già và cái chết? Hãy chịu cho ta thấy mặt con ta. Từ nay, đừng làm như thế nữa.

Thế nhưng hoàng hậu vẫn đi vào vườn cây mà làm như trước. Vua nghe liền cấm hoàng hậu vào vườn. Khi đủ ngày đủ tháng, bà sinh ra một đứa con trai. Vào ngày lễ đặt tên, vì đứa bé đã là kẻ thù của cha nó từ khi chưa ra đời nên nó được đặt tên là A-xà-thế. Nó lớn lên giữa cuộc sống vương giả.

Một hôm, bậc Ðạo Sư cùng với năm trăm Tỷ-Kheo đến cung điện vua và ngồi xuống. Chúng Tỷ-Kheo cùng đức Phật được vua đãi thức ăn ngon, gồm cả loại cứng và loại mềm. Sau khi đảnh lễ bậc Ðạo sư, vua ngồi xuống nghe Ngài thuyết pháp. Bấy giờ thái tử bé bỏng kia được ăn mặc đẹp đẽ và được mang đến cho vua. Vua bày tỏ tình cảm nồng nàn đón tiếp đứa bé, đặt nó lên đùi, vuốt ve nó với tình thương yêu tự nhiên của một người cha đối với con. Thế là vua không còn nghe Pháp nữa. Bậc Ðạo sư thấy vua lơ đãng liền bảo:

– Tâu Ðại Vương, ngày xưa, khi các vị vua ngờ vực các con trai của mình, đã bắt giữ riêng chúng ở một nơi kín đáo và ra lệnh rằng khi nào họ chết đi thì chúng mới được mang về và lên nối ngôi.

Rồi do yêu cầu của vua, Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-Tát là một giáo sư nổi tiếng ở Takkasilà, dạy các học nghệ cho nhiều vương tử trẻ và nhiều con cái của các Bà-la-môn.

Bấy giờ, con trai của vua Ba-la-nại lúc được mười sáu tuổi đã đến học với ngài. Sau khi tinh thông ba tập Vệ-đà và đủ mọi ngành văn học nghệ thuật, chàng từ giã thầy ra về. Do đặc tài tiên tri, vị giáo sư nhìn chàng và nghĩ: “Người này sẽ gặp nguy hiểm vì đứa con trai. Bằng thần lực, ta sẽ giải thoát cho chàng thoát khỏi họa ấy”.

Giáo sư sáng tác bốn bài kệ, trao cho hoàng tử và dặn:

– Con ơi, sau khi con lên ngôi vua, khi con trai của con lên mười sáu tuổi, con hãy đọc bài kệ thứ hai trong buổi đại yến tiệc, đọc bài thứ ba ngay đầu tầng trên cùng khi con lên mái điện và đọc bài thứ tư ngay ở ngưỡng cửa lúc con vào vương phòng.

Thái tử rất hài lòng nghe lời thầy. Chàng từ giã giáo sư ra đi.

Sau một thời gian làm phó vương, khi vua cha mất, chàng lên nối ngôi. Con trai của vua khi lên mười sáu tuổi, nhân lúc vua đang dạo chơi trong vườn cây, nhận thấy cảnh cha mình cao sang, quyền lực bèn tha thiết muốn giết vua để chiếm lấy vương quốc của ngài. Chàng tỏ ý ấy cùng các quan hầu cận mình. Họ bảo:

– Thưa Ðiện hạ, đạt được quyền lực khi người ta đã già rồi thì có tốt lành gì đâu? Bằng cách này hay cách nọ, ngài phải giết đức vua để chiếm lấy vương quốc cho riêng ngài.

Thái tử nói:

– Ta sẽ giết vua bằng cách bỏ thuốc độc vào thức ăn của ngài.

Rồi chàng lấy thuốc độc và ngồi ăn cơm tối với vua cha. Khi cơm được dọn ra bát, vua đọc bài kệ đầu:

Giác quan nhạy, chuột kia tinh xảo,
Trong phần cơm, nhận thấu rõ ra:
Tránh ăn nhiều vỏ trấu kia,
Lựa cơm từng hạt để mà ăn thôi.

“Ta bị lộ tẩy rồi”, thái tử nghĩ thế và không dám bỏ thuốc độc vào bát cơm. Chàng đứng dậy cúi mình chào vua và đi ra. Chàng kể lại cho các vị hầu cận của chàng:

– Hôm nay ta bị lộ rồi, ta sẽ làm sao mà giết vua đây?

Từ đó, họ vào nằm ẩn trong vườn cây, bàn bạc thì thầm với nhau:

– Còn một cách nữa, trong buổi đại tiệc, ngài hãy mang gươm, đứng lẫn giữa các quan, rồi khi thấy đức vua rời khỏi cận vệ thì ngài phải lấy gươm đâm vua một phát và giết chết vua.

Họ sắp đặt nhứ thế, thái tử sẵn sàng chấp thuận. Trong buổi đại tiệc, chàng mang gươm vào, xê dịch từ chỗ này đến chỗ khác để tìm dịp mà đâm vua. Bấy giờ, vua đọc bài kệ thứ hai:

Chuyện bí mật ở trong rừng đó,
Chính ta đây hiểu rõ còn chi!
Trong làng, mưu định thầm thì,
Bao nhiêu cũng đã rõ ghi tai này.

Thái tử nghĩ: “Cha ta biết ta là kẻ địch của ngài rồi”. Chàng liền bỏ chạy và kể lại cho các vị cận thần nghe. Sau một thời gian bảy, tám ngày, họ bảo:

– Thưa Ðiện hạ, đó là ngài chỉ tưởng tượng ra trong trí ngài như thế chứ cha ngài không biết ngài toan tính gì đâu. Hãy giết đức vua đi.

Thế rồi một hôm chàng cầm gươm đứng trong căn phòng của vua ở trên cùng các bậc cầu thang. Vua đứng trên đầu cầu thang đọc bài kệ thứ ba:

Con khỉ nọ ra tay một bận,
Làm những điều tán tận ác nguy.
Khi con bé bỏng biết chi,
Sức kia há đủ để bì được chăng?

Thái tử nghĩ: “Cha ta muốn bắt ta”. Quá sợ hãi, chàng phóng chạy đi và kể lại cho đám người hầu cận là chàng đã bị cha hăm dọa. Nửa tháng sau, họ lại bảo:

– Thưa Ðiện hạ, nếu đức vua biết điều này, ngài đã không để quá lâu như thế. Tất cả là do trí tưởng tượng của ngài khởi ra đấy. Hãy giết vua đi.

Thế là một hôm, chàng lại cầm gươm vào vương phòng ở trên tầng cao của cung điện và chui nằm dưới giường, định chờ vua đến mà giết ngay. Vua dùng cơm tối xong, đuổi người hầu đi để vào phòng nằm. Khi ngang ngưỡng của phòng, ngài đọc bài kệ thứ tư:

Ngươi thận trọng trườn thân, giống với
Dê chột kia, đồng cải lạc bầy,
Ngươi đang ẩn nấp dưới đây.
Là ai, ta cũng biết ngay cả rồi!

Thái tử nghĩ: “Cha ta đã nhận ra ta rồi. Bây giờ ngài định sẽ giết ta đây”. Quá sợ hãi chàng chui ra khỏi giường, ném gươm dưới chân vua và nói:

– Xin phụ vương tha thứ cho con.

Và chàng nằm mọp trước vua cha. Vua phán:

– Ngươi tưởng rằng không ai biết ngươi toan tính gì ư?

Sau khi quở trách thái tử, vua ra lệnh xích chàng lại, bỏ vào ngục và cho người canh gác cẩn thận. Rồi vua suy tưởng về các đức hạnh của Bồ-Tát. Về sau, ngài băng hà. Khi người ta làm lễ an táng ngài xong, họ đưa thái tử ra khỏi ngục và tôn lên làm vua.

*

Ðến đây bậc Ðạo sư chấm dứt bài thuyết giảng và nói:

– Thế đấy, tâu Ðại vương, các vua chúa ngày xưa đã nghi ngờ trong những trường hợp nghi ngờ là đúng.

Và Ngài nêu sự kiện này nhưng vua cũng không lưu ý đến lời Ngài. Rồi bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vị giáo sư nổi danh ở Takkasilà chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Xứ Baverù (Tiền thân Bàveru)

Trước khi Công có chỏm…,

Chuyện này do bậc Ðạo sư kể tại Kỳ Viên về một số ngoại đạo sư mất các lợi dưỡng và vinh dự mà họ đã có. Các ngoại đạo sư này vốn nhận được lợi dưỡng và cung tôn nhưng đến khi đức Phật ra đời thì họ không còn được như thế nữa. Họ trở nên giống như những con đom đóm giữa lúc bình minh.

Các Tỷ-Kheo bàn luận về số phận của họ trong Pháp đường. Bậc Ðạo sư đến và hỏi các Tỷ-Kheođang họp nhau bàn tán vấn đề gì. Khi nghe họ thuật lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-Kheo, không phải chỉ bây giờ mà xưa kia cũng thế, trước khi những ngưới có đức hạnh xuất hiện, những kẻ vô danh đạt được lợi dưỡng và cung tôn cao nhất; nhưng đến khi những người có đức hạnh xuất hiện thì những kẻ vô hạnh mất lợi dưỡng và cung tôn.

Rồi Ngài kể một chuyện ngày xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-Tát sinh ra là một con Công. Khi lớn lên, ngài rất xinh đẹp và sống trong một khu rừng nọ. Bấy giờ có một số thương gia đến Bàveru mang theo trên tàu một con quạ lạ. Vào thời ấy, không có chim chóc nào ở Bàveru cả. Những người sinh trưởng ở xứ Bàveru thỉnh thoảng đến và thấy con chim này đậu trên chóp cột buồm. Họ bảo:

– Hãy để ý đến màu da của con chim này. Hãy nhìn cái mồm ở cuối cổ họng nó, đôi mắt giống như hai viên ngọc của nó.

Họ ca ngợi con Quạ như thế và nói với các thương gia ấy:

– Này các ông, hãy cho chúng tôi con chim này đi. Chúng tôi cần nó, các ông có thể kiếm được một con khác trong xứ các ông.

Các thương gia bảo:

– Thế thì hãy theo giá cả mà lấy nó đi.

Họ bảo:

– Hãy bán nó cho chúng tôi với giá một đồng nhé!

Các thương gia trả lời:

– Chúng tôi không bán nói với giá ấy đâu!

Rồi cứ tăng dần giá tiền, những người kia bảo:

– Hãy bán cho chúng tôi với giá một trăm đồng.

Các thương gia nói:

– Con chim này rất lợi ích cho chúng tôi, nhưng thôi hãy tạo tình bằng hữu giữa chúng ta vậy.

Và họ bán nó với giá một trăm đồng tiền.

Những người dân địa phương ấy nhận lấy con Quạ và bỏ nó vào trong một cái lồng vàng, cho nóăn đủ thứ, cá, thịt, trái cây rừng. Ở một nơi không có chim, một con quạ có mười đặc tính xấu lại được lợi dưỡng và trọng vọng cao nhất. Lần kế, những thương gia kia lại đến vương quốc Bàveru họ mang theo một con Công chúa mà họ dạy nó kêu lên khi họ búng ngón tay và nhảy múa khi họ vỗ tay. Khi đám đông tu tập lại, con Công đứng ở phần trước chiếc tàu, vỗ cánh kêu lên thật êm ái và nhảy múa. Mọi người trông thấy nó rất thích thú, và họ bảo:

– Con vương điểu này thật đẹp và được khéo dạy quá. Hãy cho chúng tôi đi.

Các thương gia nói tiếp:

– Lần đầu, chúng tôi mang đến một con Quạ, các ông đã lấy nó đi. Lần này, chúng tôi mang đến con Công chúa này, các ông cũng đòi lấy nữa. Thiệt là không thể đến mà nêu tên bất cứ con chim nào tại xứ của các ông nữa!

Họ nói:

– Thưa các ông, hãy vui lòng cho chúng tôi con chim này và hãy kiếm một con khác trong xứ của các ông.

Sau khi tăng mãi giá lên, cuối cùng họ mua được con Công chúa với giá một ngàn đồng. Họ bỏ nó vào trong một cái lồng được trang hoàng bằng bảy viên ngọc, cho nó ăn cá, thịt và trái cây rừng, cũng như mật, bắp chiên, nước đường v.v… con Công chúa đã tiếp nhận được lợi dưỡng và trọng vọng cao nhất. Từ khi con Công đến, con Quạ không còn được lợi dưỡng và trọng vọng nữa. Chẳng còn ai muốn nhìn tới nó nữa. Quạ không còn được đồ ăn loại cứng và loại mềm nữa, “quạ, quạ” rồi bay đi, đậu trên một đống phân.

*

Bậc Ðạo sư liên kết hai câu chuyện và với trí tuệ Toàn hảo, Ngài đọc các bài kệ sau đây:

Trước khi công có chỏm
Xuất hiện ở nơi đây.
Quạ được thịt, trái cây,
Làm quà cung dâng đến.

Giọng ngọt ngào trìu mến,
Công đến Bà-ve-ru,
Quạ liền bị khước từ,
Lợi dưỡng và danh vọng.

Người ta rất kính trọng
Nhiều đạo sĩ tu hành.
Ðến khi Phật khai minh
Ánh hào quang chân lý.

Khi với giọng từ ái,
Ðức Phật thuyết pháp ra;
Ngoại đạo bị người ta
Tước đi mọi danh lợi.

Sau khi đọc bốn bài kệ này, bậc Ðạo sư nhận diện tiền thân:

– Bấy giờ đạo sĩ Kỳ-na Nàthaputta là con Quạ, còn Ta là con Công chúa.

-ooOoo-

  1. Chuyện Trưởng Giả Visayha (Tiền thân Visayha)

Vi-say-ha, xưa người ban tặng…,

Chuyện này do bậc Ðạo sư kể tại Kỳ Viên về Trưởng giả Cấp Cô Ðộc. Trường hợp dẫn đến câu chuyện đã được kể rõ trong số 40. Tiền thân Khadiragàra. Ở đây, bậc Ðạo sư gọi cư sĩ Cấp Cô Ðộc và bảo:

– Này cư sĩ, các bậc hiền trí ngày xưa vẫn cứ bố thí, không nghe lời khuyên bảo của Thiên Chủ Ðế thích, vua cõi trời, khi Thiên chủ đứng trên không vừa cố can ngăn họ vừa nói: Ðừng bố thí.

Rồi do yêu cầu của Trưởng giả, bậc Ðạo sư kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở xứ Ba-la-nại, Bồ-Tát là một đại thương gia, tên là Visayha, tài sản tới tám trăm triệu đồng. Có đầy đủ Năm đức hạnh, ngài rất rộng rãi về tiền bạc và ưa thích bố thí. Ngài cho xây các nhà bố thí tại bốn cổng thành, ở trung tâm thành phố và trước nhà riêng của ngài. Ở tại sáu nơi này, ngài đều đích thân đi đến bố thí, và mỗi ngày sáu trăm ngàn người đến xin. Thức ăn của Bồ-Tát và thức ăn của các hành khất đều cùng một thứ y như nhau.

Ngài đã làm rung động nhân dân khắp nước Ấn Ðộ vì các tặng phẩm của ngài, nên trú xứ của Thiên Chủ đế thích bị rung chuyển vì kết quả phi thường do lòng bác ái của ngài và chiếc ngai vàng bằng hoàng thạch của vị Thiên đế ấy đã nóng lên.

Ðế-thích kêu lên:

– Ta chẳng biết ai muốn làm ta rời khỏi chỗ ngồi của ta ở trên trời thế này?

Thiên chủ nhìn quanh ngài, thấy vị đại thương gia ấy và tự nghĩ: “Visayha này bố thí và vì phân phát tặng phẩm ở khắp nơi nên làm rung động toàn cả nước Ấn Ðộ. Bằng cách bố thí, không chừng y sẽ hạ bệ ta và tự trở thành Ðế Thích đấy. Ta sẽ tiêu hủy của cải y, sẽ làm y thành một kẻ nghèo và do đó sẽ khiến y không thể tiếp tục bố thí nữa được”.

Thế là Ðế thích làm cho dầu, đường, mật… cả kho chứa thóc cũng như các nô lệ, người làm côngđều biến mất. Những người bị mất các tặng phẩm do Trưởng giả bố thí đến nói với ông.

– Thưa ngài, nhà bố thí đã biến mất ở khắp nơi, chúng tôi không tìm thấy thứ gì do ngài cung cấp.

Vị trưởng giả nói:

– Từ nay hãy lấy tiền vậy. Ðừng bỏ mất sự bố thí.

Rồi ông gọi vợ, bảo hãy giữ trọn lòng từ thiện. Bà tìm khắp nhà mà cũng không thấy được một đồng lẻ nào. Bà nói:

– Thưa ông, ngoài quần áo chúng ta đang mặc, tôi chẳng thấy gì nữa cả. Toàn cả nhà đều trống rỗng.

Mở bảy kho ngọc ra, họ cũng không tìm thấy được gì. Chẳng còn thấy ai cứu giúp vợ chồng vị thương gia cả, nô lệ cũng không, người làm cũng không nốt. Bồ-Tát lại bảo vợ:

– Bà ơi, chúng ta không thể dứt bỏ nhiều việc từ thiện của chúng ta. Bà hãy kiểm khắp nhà cho đến khi bà tìm được một thứ gì đó.

Bấy giờ, một người cắt cỏ ném liềm hái, đòn và dây thừng bó cỏ trong phòng và chạy. Bà vợ của phú ông tìm thấy các thứ ấy và bảo:

– Ông ơi, đây là tất cả các thứ tôi tìm thấy được.

Rồi bà mang trao chúng cho ông. Bồ-Tát nói:

– Bà ơi, suốt mấy năm nay tôi không hề cắt cỏ, nhưng hôm nay tôi sẽ cắt cỏ mang đi bán và nhờđó sẽ chi tiêu vào việc bố thí thích đáng.

Vì sợ sẽ phải ngừng việc từ thiện, vị thương gia cầm lấy liềm hái, đòn và dây thừng rời khỏi thành phố, đến một nơi có nhiều cỏ và cắt, bó cỏ lại thành hai bó và tự bảo: “Một bó là của gia đình ta, còn bó kia ta sẽ dùng cho việc bố thí”.

Ông mang cỏ vào đòn, gánh đi bán ở cổng thành và nhận được hai đồng tiền nhỏ. Ông liền cho các hành khất phân nửa số tiền. Lúc ấy, có nhiều hành khất và họ cứ kêu xin:

– Hãy cho chúng tôi với.

Thế là ông cho luôn phần tiền còn lại và ngày hôm sau ông cùng với vợ phải nhịn đói. Cứ như thế, sáu ngày trôi qua. Sang đến ngày thứ bảy, trong khi ông đang nhặt cỏ, vì ông vốn đã mảnh mai lại phải chịu đói trong suốt bảy ngày, mặt trời chiếu nóng trên trán ông khiến mắt ông đảo lộn trong đầu, ông bất tỉnh ngã xuống, làm vung cả cỏ. Quan sát việc Visayha làm, Ðế Thích rất cảm động. Ngay lúc ấy, Thiên chủ hiện đến, đứng trên không và đọc bài kệ đầu:

Vi-say-ha, xưa người ban tặng,
Bố thí nhiều, mất hẳn giàu sang.
Nay giữ mình, chớ trao ban
Niềm vui bền vững, người hằng sống luôn.

Bồ-Tát nghe những lời ấy, liền hỏi:

– Ngài là ai thế?

Thiên chủ nói:

– Ta là Ðế Thích

Bồ-Tát bảo:

– Chính Ðế Thích đã bố thí, hành trì những bổn phận đạo đức của mình, nhờ giữ gìn các ngày trai giới, làm tròn bảy hạnh nguyện nên đạt ngôi vị Ðế Thích. Thế mà nay lại ngăn cấm việc bố thí đã tạo ra sự cao cả của chính ngài đây. Như vậy quả thực ngài đã phạm vào một hành vi không xứng đáng rồi.

Nói thế xong, ngài đọc ba bài kệ sau đây:

Thế không đúng – đời thường vẫn bảo:
Hành vi hèn làm xấu cho danh.
Ðấng nghìn mắt, hãy ngó ngàng
Cho tôi khỏi lỗi, dù đang khổ sầu.

Xin chớ để bao nhiêu của cải
Tôi chi tiêu, ngu dại, phóng cuồng
Chìm vào dục lạc, hư danh
Chỉ xin như trước, thêm phần phúc may.

Theo xe xưa, xe nay vững tiến,
Còn sống đây, tôi vẫn trao ban
Dù đang cảnh khổ tôi mang,
Ý tôi cao thượng xin đừng cản ngăn.

Ðế thích không thể nào khiến cho Bồ-Tát ngưng bỏ ý định của ngài được, liền hỏi tại sao ngài bố thí. Ngài đáp:

– Tôi không ham muốn trở thành Ðế Thích, thành Phạm thiên, mà chính là mong tìm Giác ngộ.

Nghe nói thế, Ðế thích tỏ vẻ hân hoan, lấy tay vuốt ve lưng Bồ-Tát. Ngay lúc được hưởng ân huệ ấy, toàn thân Bồ-Tát tràn ngập cả niềm vui. Do năng lực siêu phàm của Ðế Thích, toàn bộ tài sản của ngài trở lại với ngài. Ðế Thích bảo:

– Này đại thương gia, từ nay ngài hãy cứ bố thí, phân phát mỗi ngày một triệu hai trăm ngàn phần.

Sau khi tạo cho nhà Bồ-Tát tài sản vô lượng, Ðế thích từ giã ngài và đi thẳng về trú xứ riêng của mình.

*

Bậc Ðạo sư chấm dứt bài thuyết giảng và nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, mẹ của La-hầu-la là vợ của vị thương gia, còn Ta chính là Visayha.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vua Kandari (Tiền thân Kandari)

Câu chuyện Tiền thân này sẽ được kể đầy đủ trong số 536. Tiền thân Kunàla.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Khỉ (Tiền thân Vànara)

Ta từ nước, cá ơi…,

Chuyện này do bậc Ðạo sư kể khi ngài trú tại Trúc Lâm về cách Ðề-bà-đạt-đa định giết đức Phật. Tình tiết dẫn đến câu chuyện đã được kể chi tiết trước đây.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-Tát sinh ra là một con khỉ ở vùng Tuyết sơn. Khi lớn lên ngài sống trong sông Hằng.

Bấy giờ, một con cá sấu cái sống trong sông Hằng, rất khao khát được ăn trái tim của Bồ-Tát, liền ngỏ ý với chồng. Cá sấu đực tự nghĩ: “Ta sẽ giết con khỉ bằng cách nhận chìm nó xuống nước rồi lấy trái tim cho vợ ta”.

Vì vậy nó đến nói với Bồ-Tát:

– Này bạn, chúng ta hãy đi ăn trái cây rừng trên một hòn đảo kia.

– Làm sao mà tôi đến đó được? Bồ-Tát nói.

– Tôi sẽ đặt bạn trên lưng tôi và mang bạn đến đó.

Cá sấu trả lời. Bồ-Tát không biết ý định của cá Sấu, liền nhảy lên ngồi trên lưng nó. Cá sấu sau khi bơi một đoạn ngắn, liền bắt đầu lặn xuống. Khỉ bảo:

– Này ông, sao ông nhận chìm tôi xuống nước thế?

Cá sấu nói:

– Ta sắp giết ngươi và cho vợ ta trái tim của ngươi.

Bồ-Tát nói:

– Hỡi ông bạn khờ khạo, bộ ông tưởng rằng trái tim của tôi ở bên trong tôi đấy à?

– Thế thì ngươi để nó ở đâu?

– Ông không thấy nó đang treo ở cây sung đằng kia ư?

– Ta thấy rồi, Cá sấu đáp. Nhưng ngươi có chịu cho ta không?

– Vâng, chịu chứ. Khỉ đáp.

Thế là cá sấu thật là ngu, mang khỉ và bơi đến gốc cây sung trên bờ sông. Bồ-Tát phóng khỏi lưng cá sấu và đứng trên cây sung và đọc các bài kệ:

Ta từ nước, cá ơi!
Lên tới đất khô này,
Há chỉ để sau tốt
Rơi vào thế lực ngươi?

Mít, hồng đào đó kìa,
Khi ta đã chán ra,
Sung đây ta nên hái,
Hơn trái xoài đằng xa.

Kẻ nào gặp dịp tốt
Mà chẳng vươn lên được,
Dưới chân kẻ nghịch thù,
Thảm thương nằm lạy lục.

Kẻ nào biết ngay liền
Nỗi nguy biến phần mình,
Không hề bị uy hiếp.
Trước kẻ nghịch cường quyền.

Bồ-Tát đọc bốn bài kệ trên về sự thành công trong các việc đời, rồi liền ngay đó vụt biến vào đám cây rậm.

*

Sau khi chấm dứt bài thuyết giảng, bậc Bồ-Tát nhận diện tiền thân.

– Bấy giờ Ðề-bà-đạt-đa là con cá Sấu, còn ta là con Khỉ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Hạc (Tiền thân Cuntani)

Lâu nay tôi giúp đỡ nhà này…,

Chuyện này do bậc Ðạo sư kể tại Kỳ Viên về một con hạc sống trong cung vua xứ Kosala.

Tương truyền con hạc mái này mang thư tín cho vua, nó có hai con nhỏ. Vua sai hạc mang thư đến cho một ông vua nọ. Khi hạc đi xa, hai nam tử trong vương gia lấy tay bóp chết hai hạc con. Hạc mẹ trở về không thấy hai con, liền hỏi ai đã giết con nó. Người ta kể lại sự việc như vậy.

Bấy giờ trong cung vua có nuôi con hổ dã man, dữ dằn, bị cột bằng dây xích rất chắc. Hai cậu bé kia đến coi hổ, con hạc đi theo và tự nghĩ: “Hai con nhỏ của ta bị hai đứa bé này giết, vậy ta sẽ thanh toán chúng”. Rồi nó nắm lấy hai cậu bé ném vào chân con hổ. Hổ gầm gừ một tiếng rồi nhai trọn cả hai. Hạc tự hỏi: “Thế là ta được thỏa lòng mong ước”. Rồi hạc bay lên không, thẳng tới dãy Tuyết Sơn.

Các Tỷ-Kheo nghe chuyện ấy, bắt đầu bàn tán trong Pháp đường:

– Này các Hiền giả, nghe nói một con hạc kia trong điện vua đã ném hai cậu bé vào một con hổ vì hai cậu bé này đã giết chết hai con nhỏ của nó; và sau khi đã gây cái chết cho chúng, hạc bỏ đi.

Bậc Ðạo sư đến và hỏi các Tỷ-Kheo đang bàn tán chuyện gì. Rồi Ngài dạy:

– Này các Tỷ-Kheo, không phải chỉ bây giờ mà xưa kia cũng thế, con hạc ấy đã mang lại cái chết cho những kẻ đã giết con nó.

Và liền đó, Ngài kể lại một câu chuyện ngày xưa.

*

Ngày xưa, Bồ-Tát ở Ba-la-nại trị vì vương quốc của ngài rất công chính. Một con Hạc nọ ở trong điện của ngài, thường mang thư tín cho ngài. Câu chuyện xảy ra y như ở trên. Ðiểm đặc biệt ở đây là sau khi con Hạc để cho con hổ giết chết các cậu bé, liền tự nghĩ: “Ta không thể ở đây mà. Ta sẽ ra đi, nhưng dù ta bỏ đi, ta cũng sẽ không ra đi mà không nói với đức vua. Nói với vua xong, ta sẽ bỏ đi”. Vì vậy nó đến ngồi gần vua, vái chào và đứng xa xa một tí rồi thưa:

– Tâu Ðại vương, chính ngài bất cẩn mà các hoàng tử đã giết các con nhỏ của tôi và vì quá căm giận tôi đã khiến cho họ chết để báo thù. Bây giờ tôi không thể sống ở đây nữa.

Rồi nó đọc bài kệ đầu:

Lâu nay tôi giúp đỡ nhà này
Như chính nhà tôi – được trọng thay,
Nhưng chính vì ngài làm thế đấy.
Bây giờ tôi phải bỏ đi ngay.

Vua nghe thế liền đọc bài kệ thứ hai:

Người ta thanh toán nỗi cừu oan,
Hại nọ, hại này phải xứng cân,
Thù hận thế là nên dẹp bỏ,
Hạc hiền, hãy ở lại, ta van.

Nghe thế, hạc đọc bài kệ thứ ba:

Kẻ bị hại cùng người tác hại.
Không bao giờ hòa hợp như xưa
Tâu vua chớ giữ tôi đây nữa,
Thôi nhé, tôi đây đến chốn xa.

Vua nghe xong liền đọc bài kệ thứ tư:

Nếu họ khôn ngoan chẳng dại khờ,
Có cơ sống an ổn, hài hòa,
Kẻ gây hại với người mang hại,
Này hạc hiền ơi, ở lại mà.

Chim Hạc nói:

– Tâu Ðại vương, sự việc đã như vậy, tôi không thể ở lại nữa.

Rồi nó chào vua, bay lên không và về thẳng dãy Tuyết Sơn.

*

Bậc Ðạo sư chấm dứt bài thuyết giảng và nhận diện Tiền thân.

– Con hạc trong chuyện cổ là con hạc ngày nay, còn vua Ba-la-nại chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Ăn Trộm Xoài (Tiền thân Ambacora)

Cô nào đã ăn xoài ngài đó…,

Chuyện này do bậc Ðạo sư kể tại Kỳ Viên về một ông già trông coi các trái xoài.

Tương truyền khi đã già, ông trở thành một nhà tu khổ hạnh, dựng một túp lều lá trong một vườn xoài ở ngoại ô Kỳ Viên. Chẳng những ông chỉ ăn trái xoài chín từ trên cây rụng xuống mà cònđem cho bà con của ông nữa. Trong khi ông bận đi khất thực, một bọn trộm đến hái xoài của ông xuống, ăn một số rồi mang theo một số còn lại. Bấy giờ có bốn cô gái của một thương gia giàu có kia, sau khi tắm ở sông Aciravati về, lang thang đây đó lạc vào trong vườn xoài ấy. Tu sĩ già kia trở về, thấy các cô ở đó liền buộc tội rằng các cô đã ăn xoài của ông.

– Thưa ngài họ bảo- chúng tôi vừa mới đến, chúng tôi không ăn xoài của ngài.

– Vậy các cô hãy thề đi, ông ấy nói.

– Thưa ngài, chúng tôi sẽ thề. Họ bảo thế và nói lời thề.

Tu sĩ già ấy làm nhục họ bằng cách khiến họ phải thề như thế rồi để cho họ đi.

Các Tỷ-Kheo nghe ông ấy làm như vậy, bắt đầu bàn tán trong Pháp đường rằng ông già ấy đã buộc các cô gái của một thương gia phải thề khi các cô vào trong vườn xoài mà ông ở, và sau khi làm họ phải hổ thẹn bằng cách bắt họ thề, ông ta đã để cho họ đi.

Bậc Ðạo sư đến và hỏi các Tỷ-Kheo đang bàn tán về việc gì. Nghe thuật xong, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-Kheo, không phải chỉ bây giờ mà xưa kia cũng thế, ông già ấy đã trông coi xoài, đã khiến các cô gài của một phú thương phải nói lời thề, ông ta để họ đi.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-Tát là thiên chủ Ðế thích. Bấy giờ có một vị khổ hạnh xảo quyệt dựng một túp lều lá để trú ẩn trong vườn xoài trên một bờ sông gần Ba-la-nại. Ông ta trông giữ xoài cho các đồng bạn của ông. Ông trú ở đó và kiếm sống bằng nhiều cách dối gạt khác nhau.

Bấy giờ Ðế Thích, vua cõi trời, tự nghĩ: “Ta muốn biết ai trong cõi người đã phụng dưỡng cha mẹ, cung kính đối với các bậc trưởng thượng trong gia đình, bố thí, giữ giới hạnh và hành trì các ngày trai giới? Những ai trong bọn họ sau khi đã sống đời tu hành, vẫn tiếp tục tận tụy làm các bổn phận xứng đáng với người tu? Những ai trong đám tu hành ấy lại cón phạm ác hạnh?”

Quan sát thế gian, nhìn thấy nhà tu ác hạnh này đang trông giữ vườn xoài của ông, Thiên chủ bảo: “Vị khổ hạnh giả mạo này bỏ bê các bổn phận của một tu sĩ như tinh tấn để thiền định phát sinh v.v… mà lại cứ trông giữ một vườn xoài. Ta sẽ đe dọa cho lão sợ mới được”. Thế là khi nhà tu hành kia vào làng khất thực, Ðế thích dùng thần lực làm rụng xoài xuống và làm như thể xoài bị bọn trộm vơ vét ấy.

Bấy giờ có bốn cô gái con một thương gia ở Ba-la-nại vào vườn, tu sĩ giả mạo kia trông thấy liền chận lại và hỏi:

– Các cô đã ăn xoài của ta.

Họ nói:

– Thưa ngài, chúng tôi vừa mới đến. Chúng tôi không ăn xoài của ngài đâu!

– Vậy thì hãy thề đi. Ông ta nói.

Họ hỏi:

– Thề xong, chúng tôi được phép đi chứ?

– Chắc chắn là như thế.

– Tốt lắm, thưa ngài. Họ nói.

Rồi cô lớn nhất trong bọn tuyên thệ bằng bài kệ đầu:

Cô nào đã ăn xoài ngài đó
Sẽ gặp chồng thô lỗ cục cằn,
Râu lông xoắn xám, xảo giảm,
Tóc kia từng lọn uốn quăn trên đầu.

Vị khổ hạnh bảo:

– Cô hãy đứng sang một bên.

Rồi ông bảo cô con gái thứ hai của thương gia nêu lời thề. Cô này đọc bài kệ thứ hai:

Hãy cho cô trộm cây xoài ấy,
Kiếm mãi chồng chẳng thấy ai ra.
Mười ba, mười chín tuổi qua,
Ba mươi gần đến biết là làm sao.

Cô này sau khi nêu lời liền đứng sang một bên, cô thứ ba đọc bài kệ thứ ba:

Kẻ nào đã vào ăn xoài ngọt
Sẽ cô đơn khổ nhọc lên đường,
Ðến nơi hò hẹn muộn màng,
Sầu đau khi thấy tình lang đi rồi!

Thế rồi cô đứng sang một bên. Cô gái thứ tư đọc bài kệ thứ tư:

Cô nào đã làm hư cây hết,
Mặc đồ xinh, đầu kết hoa cài.
Dầu chiên-đàn vẫn xức hoài,
Nhưng giường kia vẫn miệt mài gái tân!

Nhà tu nói:

– Các cô đã thề bồi rất trang trọng, hẳn là những kẻ khác đã ăn xoài chứ không phải các cô. Bây giờ các cô hãy đi đi.

Nói thế xong, ông ta cho họ ra đi. Lúc ấy Ðế Thích liền hiện ra một hình hài hung tợn đuổi nhà tu hành giả mạo kia ra khỏi nơi ấy.

*

Sau khi thuyết giảng xong bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, nhà tu sĩ giả mạo kia là ông già trông coi vườn xoài. Bốn cô gái của thương gia cũng chính là các cô gái này, còn ta là Thiên chủ Đế thích.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Rùa Lười Biếng (Tiền thân Gajakumbha)

Một khi lửa cháy lan rừng…,

Chuyện này do bậc Ðạo sư kể tại Kỳ Viên về một Tỷ-Kheo lười biếng.

Nghe nói ông ta là một người thuộc dòng cao quí và sống ở Xá-vệ. Sau khi đã nhất tâm theo Giáo pháp và thọ giới, ông lại trở nên lười biếng. Ðối với việc học đạo, thuyết pháp, thiền định, đi khất thực thuộc bổn phận của tu sĩ, ông ta đã không thực hiện đầy đủ, bị tội lỗi tấn công trấn áp và người ta luôn luôn trông thấy ông ở các chỗ nghĩ chân công cộng.

Các Tỷ-Kheo bàn tán tính lười biếng của ông trong Pháp đường:

– Này các Hiền hữu, người ấy sau khi thọ giới trong một Giáo pháp cao vời dẫn đến giải thoát lại tiếp tục lười biếng, giải đãi và bị tội lỗi tấn công trấn áp.

Bậc Ðạo sư đến và hỏi các Tỷ-Kheo họp lại bàn tán việc gì. Khi nghe thuật chuyện xong, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-Kheo, không phải chỉ bây giờ mà từ xưa kia, ông ấy cũng đã lười biếng.

Rồi Ngài kể một câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-Tát là quan đại thần được trọng vọng của vua. Nhà vua có khuynh hướng lười biếng và Bồ-Tát đang tìm mọi cách để vua tỉnh ngộ.

Một hôm, vua vào trong vườn cây cùng với quan đại thần của mình và trong lúc đang dạo chơi, vua trông thấy một con Rùa lười biếng. Người ta bảo rằng những con vật biếng nhác như con này, dù di chuyển suốt cả ngày, cũng chỉ nhích đi được một hai phân mà thôi.

Vua trông thấy nó bèn hỏi:

– Này bạn, con vật ấy tên gì thế?

Bồ-Tát trả lời:

– Tâu Ðại vương, đây là một con Rùa; nó quá lười chậm đến nỗi dù nó di chuyển suốt cả ngày cũng chỉ dịch được một hai phân mà thôi.

Rồi ngài gọi con Rùa và nói:

– Này anh Rùa, bộ dáng anh thật chậm chạp. Giả như có hỏa hoạn phát sinh trong rừng thì anh làm gì đây?

Rồi ngài liền đọc bài kệ đầu:

Một khi lửa cháy lan rừng,
Phải rời đi tránh con đường khói sau,
Hỡi anh Lệt-bệt, làm sao
Tìm ra cho được cách nào an thân?

Rùa nghe thế liền đọc bài kệ thứ hai:

Nơi nào cũng lắm lỗ hang,
Cây nào cũng nứt ra từng hốc kia.
Ðấy đều chỗ trú ấy mà,
Nếu không tìm được đành là chết luôn!

Bồ-tát nghe xong liền đọc hai bài kệ tiếp:

Ai hấp tấp khi cần nghĩ lại,
Và chậm lâu khi phải thực nhanh
Sẽ làm tiêu phúc mong manh,
Như cành lá nọ dưới chân đạp đầy.

Nhưng hễ ai chờ ngay đúng lúc,
Thực hành không hấp tấp vội vàng,
Làm tròn mục đích mình mang,
Như vần trăng vẫn trọn đường nó đi.

Vua nghe các lời này của Bồ-tát, từ đó không còn biếng nhác nữa.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài thuyết giảng rồi nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Tỷ-kheo biếng nhác kia là con Rùa, còn Ta là vị hiền trí nọ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Đạo Sĩ Kesava (Tiền thân Kesava)

Ngài vừa sống cùng hàng vương giả…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về sự đãi ngộ của tình bằng hữu.

Trong nhà của Trưởng giả Cấp Cô Ðộc luôn luôn có năm trăm Tỷ-kheo được cấp dưỡng. Ngôi nhà thường vẫn giống như là một chỗ nghỉ ngơi dành cho chúng Tỷ-kheo rực rỡ màu sắc của các y vàng và ngào ngạt hương thơm thánh thiện.

Một hôm vua tham dự một cuộc diễn hành quanh thành phố, trông thấy chúng Tỷ-kheo trong nhà của Trưởng giả liền tự nghĩ: “Ta sẽ cúng dường đều đặn cho hội chúng Thánh nhân này”. Vua đến Tinh xá và sau khi đảnh lễ bậc Ðạo Sư, liền đặt vấn đề cúng dường thường trực cho năm trăm Tỷ-kheo. Từ đó trong cung vua luôn luôn có cuộc bố thí, thức ăn hảo hạng, cơm gạo thơm tho, nhưng lại chẳng có ai tự tay trao tặng vật với vẻ trìu mến thương yêu. Các vị quan cứ việc phân phát thức ăn và các Tỷ-kheo cũng chẳng muốn ngồi đó để ăn, mà lại lấy các thức ăn ngon đủ loại rồi mỗi vị đến từng nhà thủ hộ riêng của mình, cho họ các thức ăn ấy và ăn các thức ăn do chủ nhà dọn cho, không kể đạm bạc hay cao sang gì cả.

Một hôm người ta mang đến dâng cho vua nhiều trái cây rừng. Vua bảo:

– Hãy mang cho hội chúng các Tỷ-kheo.

Họ mang trái đến phạn đường và trở về tâu vua:

– Không có một Tỷ-kheo nào ở đó.

– Sao? Chưa đúng giờ thọ thực ư? Vua hỏi.

– Tâu, đúng giờ đấy ạ, – họ đáp – nhưng các Tỷ-kheo lấy thức ăn ở đây rồi mang đến nhà các thị giả trung tín của các vị, và cho họ thức ăn, còn chính các vị ấy dùng bất cứ thức ăn gì được dọn ra, không kể đạm bạc hay cao sang gì cả.

Vua bảo:

– Thức ăn của ta thì cao sang. Thế mà tại sao trên đời này có người nhận lấy thức ăn từ chúng ta để rồi ăn thức khác?

Ròi vua tự nghĩ: “Ta sẽ hỏi bậc Ðạo Sư”.

Rồi vua đến Tinh xá và hỏi Ngài.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Thức ăn tốt nhất là thức ăn được cho với tình yêu thương. Vì thiếu những người tạo mối thân tình bằng cách bố thí với niềm yêu thương nên các Tỷ-kheo đã lấy thức ăn ở đó và mang đến ăn tại các nhà thân hữu của họ. Tâu Ðại vương, không có vị ngọt nào bằng vị ngọt của tình thương. Thứ gì được cho mà không tình thương thì dù nó gồm bốn thứ ngon ngọt cũng không xứng bằng gạo rừng được cho với tình thương. Các giá trị ngày xưa, khi họ bị bệnh dù vua cùng với năm gia đình ngự y chữa trị thuốc men, nếu bệnh vẫn không giảm, thì họ đến với các bằng hữu thân tình. Rồi nhờ ăn cháo gạo rừng và hạt cỏ không có muối, và ngay cả rau cũng không muối, chỉ đổ nước vào thôi, thế mà họ được lành bệnh.

Nói xong, do yêu cầu của mọi người, bậc Ðạo Sư kể một câu chuyện ngày xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn tại vương quốc Kàsi, người ta gọi ngài là Nam tử Kappa. Khi lớn lên, ngài hoàn tất mọi học nghệ tại Takkasilà và sau đó sống đời tu hành.

Bấy giờ có một nhà tu khổ hạnh tên là Kesava được năm trăm nhà tu hành khác theo hầu, rồi trở thành sư trưởng của một đám môn đệ và trú trong dãy Tuyết Sơn. Bồ-tát đến với ông rồi trở nên môn trưởng của năm trăm đồ đệ, trú tại đó và tỏ ra trìu mến thương yêu Kesava. Sau đó hai người trở nên đôi tri kỷ.

Chẳng bao lâu, Kesava cùng với các nhà tu hành ấy đến Ba-la-nại để kiếm muối, giấm và trú trong vườn cây của vua. Hôm sau họ vào thành và đến cổng cung vua. Vua trông thấy đoàn tu sĩ liền mời họ dùng bữa tại cung vua, hứa hẹn với họ, cho họ ở trong vườn cây của vua. Thế rồi khi mùa mưa chấm dứt, Kesava từ giã nhà vua. Vua bảo:

– Thưa Trưởng lão, ngài đã già rồi, ngài nên ở gần chúng tôi và để các tu sĩ trẻ kia về Tuyết Sơn.

Kesava chấp thuận bảo đoàn tu sĩ cùng người trưởng môn về Tuyết Sơn và trú ở đó với các tu sĩ kia. Kesava đau khổ vì bị tách khỏi hội chúng của Kappa, ông cứ mong mỏi gặp Kappa nên không ngủ được. Vì mất ngủ, ông ăn không tiêu, ông bị chứng đi tiêu ra máu đau đớn vô cùng. Nhà vua cùng năm gia đình ngự y săn sóc vị ẩn sĩ, nhưng bệnh của ông không bớt được. Vị ẩn sĩ hỏi vua:

– Tâu Ðại vương, ngài muốn tôi chết đi hay lành bệnh?

Vua đáp:

– Thưa, tôi muốn ngài được lành bệnh.

– Thế thì hãy cho tôi về dãy Tuyết Sơn. Ông nói.

– Vâng, vua đáp.

Rồi vua sai một đại thần tên gọi Nàrada, bảo ông ta đi cùng với một số thợ rừng đưa vị tu sĩ ấy về Tuyết Sơn. Nàrada đưa Kesava đến đó rồi quay về. Kesava chỉ mới trông thấy Kappa, tâm bệnh của ông liền dứt và nỗi khổ đau lắng xuống ngay. Thế rồi Kappa dâng cho ông cháo nấu bằng hạt cỏ và gạo rừng trộn chung với rau rồi đổ nước vào. Không muối, không gia vị, ngay lúc dùng thứ ấy, bệnh kiết lỵ của ông thuyên giảm liền.

Vua lại gọi Nàrada đến và bảo:

– Hãy đi hỏi thăm tin tức của ẩn sĩ Kesava.

Nàrada đến nơi, thấy Kesava đã lành bệnh liền bảo:

– Thưa Trưởng lão, đức vua Ba-la-nại cùng với năm gia đình ngự y chữa trị ngài mà vẫn không thể chữa lành bệnh của ngài. Kappa đã chữa trị ngài như thế nào vậy? Rồi ông đọc bài kệ đầu:

Ngài vừa sống cùng hàng vương giả
Vua sẵn lòng cho thỏa nguyện ngài
Lều Kap-pa có gì hay
Ke-sa-va phải nơi đây lui về?

Kesava nghe thấy liền đọc bài kệ thứ hai:

Mọi thứ đây, tràn trề yêu mến,
Nà-ra-da, yêu đến cả cây
Lời Kap-pa, hỷ lạc đầy
Dâng lên âm hưởng vui vầy lòng ta.

Sau lời ấy, Kesava lại nói:

– Kappa muốn làm cho ta hài lòng, đã cho ta ăn cháo nấu bằng hạt cỏ và gạo rừng trộn với rau rồi thêm nước vào, không có muối, gia vị và nhờ thế bệnh tật của thân ta được ngăn chận và ta đã lành hẳn.

Nàrada nghe thế liền đọc bài kệ thứ ba:

Quen gạo tinh nấu pha với thịt,
Món nhạt kia, ngài biết sao ăn?
Làm sao hạt cỏ, gạo hoang,
Ngài chia xẻ được với đoàn ẩn tu?

Nghe xong, Kesava liền đọc bài kệ thứ tư:

Thức ăn có thể là ngon, dở,
Chỉ ít ỏi hay có rất nhiều;
Nhưng ăn đầy đủ thương yêu,
Thương yêu, nước chấm tuyệt chiêu được tìm.

Nàrada nghe thế liền quay về kể cho vua nghe:

– Kesava nói như thế, như thế…

*

Sau khi chấm dứt bài thuyết giảng, bậc Ðạo Sư nhận Tiền thân:

– Bấy giờ, vua là Ànanda, Nàrada là Sàriputta, Kesava là Bakabrahmà, và Kappa chính là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cái Chày Sắt (Tiền thân Ayakùta)

Tại sao giữa không trung ngươi đang đứng…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về bổn phận phải hành thiện đối với mọi người.

Trường hợp dẫn đến câu chuyện đã được kể trong số 469. Tiền thân Mahàkanha.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là con của chánh hoàng hậu. Khi lớn lên, ngài học đủ các học nghệ và khi vua cha mất, ngài được tôn lên ngôi và trị vì vương quốc rất công chính.

Bấy giờ người ta rất sùng kính các thần linh, thường giết nhiều dê, cừu v.v… để tế thần. Bồ-tát cho đánh trống tuyên bố:

– Không được giết hại sinh vật nào cả.

Bọn quỷ Yakkha (Dạ-xoa) mất các tế vật rất căm giận Bồ-tát, liền rủ nhau họp lại trong dãy Tuyết Sơn rồi sai một quỷ Yakkha hung ác đi giết Bồ-tát. Nó cầm một khối sắt sáng loáng to bằng cái vòm nhà và ngay sau lúc nửa đêm, nó đến đứng đầu giường Bồ-tát để đập chết ngài. Ngay lúc ấy, ngai của Ðế Thích nóng lên. Sau khi quan sát, Thiên chủ biết được nguyên nhân, liền cầm lưỡi tầm sét của mình đứng phía trên quỷ Yakkha kia. Bồ-tát thấy quỷ ấy liền nghĩ: “Sao nó lại đứng đây nhỉ? Ðấy là nó muốn bảo vệ ta hay muốn giết ta?”

Bồ-tát nghĩ như thế rồi đọc bài kệ đầu:

Tại sao giữa không trung, ngươi đang đứng
Hỡi Dạ-xoa, chày sắt lớn trên tay,
Phải chăng ngươi ngăn kẻ hại ta đây,
Hay chính lúc ta bị ngươi làm hại?

Bấy giờ Bồ-tát chỉ trông thấy quỷ Yakkha mà không trông thấy Ðế Thích nên không dám đập Bồ-tát.

Nghe Bồ-tát bảo thế, con quỷ nói:

– Tâu Ðại vương, không phải tôi đứng đây để canh giữ ngài, tôi định đập ngài bằng khối sắt sáng ngời này nhưng vì sợ Ðế Thích nên tôi không dám đập.

Ðể giải thích ý mình, con quỷ đọc bài kệ thứ hai:

Là sứ giả của các thần La-sát
Hiện ra đây, tôi nhằm giết ngài thôi,
Chày không vung đập xuống được đầu ngài,
Vì đầu ấy, chính Ind-ra bảo vệ.

Nghe thế, Bồ-tát đọc thêm hai bài kệ nữa:

Nếu Ind-ra là Su-jà Chúa tể
Ðấng Ðại vương, Thiên chủ đoái giúp ta,
Dù xé trời, yêu quỷ thét gầm la,
Cũng chẳng đủ sức làm ta sợ hãi.

Hãy để bọn ma bùn, yêu tinh ấy
Mặc sức mà xàm bậy nói lung tung
Bọn chúng đâu đủ sức sánh ngang cùng
Khi có cuộc đối đầu rất nghiêm trọng!

Thế rồi Ðế Thích đuổi Dạ-xoa chạy. Thiên chủ khích lệ Bồ-tát và nói:

– Ðại vương đừng sợ, Từ nay chúng ta sẽ bảo vệ ngài. Ðừng sợ.

Nói xong, Thiên chủ quay thẳng về trú xứ của mình.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài thuyết giảng ở đây rồi nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Anuruddha (A-na-luật-đà) là Ðế Thích, còn Ta là vua Ba-la-nại.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chốn Rừng Hoang (Tiền thân Aranna)

Mối nghi này, thưa cha, xin giải tỏa…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một cô gái thô tục quyến rủ một chàng trai.

Tình tiết đưa đến câu chuyện sẽ được kể trong số 477. Tiền thân Cullànàradakassapa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi ngài lớn lên và hoàn tất các học nghệ ở Takkasilã thì vợ ngài mất, ngài sống đời tu hành và cùng với con trai vào trú trong dãy Tuyết Sơn.

Tại đó, ngài để con ở lại lều lá và đi hái lượm mọi thứ trái rừng. Bấy giờ có một bọn cướp phá một ngôi làng ở biên địa rồi bỏ đi, mang theo nhiều tù nhân. Một cô gái kia chạy trốn vào túp lều ấy. Thế rồi nàng ta quyến rủ chàng trai, làm hư đức hạnh của chàng. Nàng hỏi:

– Này chúng ta hãy cùng đi với nhau!

Chàng đáp:

– Hãy chờ cha tôi trở về đã. Gặp ngài xong, tôi sẽ đi với cô.

Nàng nói:

– Ðược rồi, sau khi gặp ngài xong, hãy đến em nhé.

Rồi nàng ra ngồi chính giữa đường. Khi cha chàng trở về, ẩn giả trẻ tuổi kia đọc bài kệ đầu:

Mối nghi này, thưa cha xin giải tỏa
Nếu từ rừng, con lạc tới làng kia,
Người tông môn, hay trường phái đâu là,
Con phải chọn để kết giao làm bạn?

Người cha muốn căn dặn con, liền đọc ba bài kệ đây:

Kẻ được con yêu mến,
Ðem tâm tình trao đến,
Là kẻ tin lời con,
Nhẫn nhịn con trọn vẹn.

Ai tư tưởng, lời nói,
Hành vi không phạm lỗi,
Con hãy chọn người này,
Làm bạn lòng mãi mãi.

Với người hay thay đổi,
Như loài khỉ lông bông,
Thà chịu phận cô đơn,
Ðừng hướng về kẻ ấy.

Nghe thế, ẩn giả trẻ tuổi liền nói:

– Thưa cha, làm sao con có thể tìm thấy một người có những đức tính ấy được. Con sẽ không đi nữa. Con chỉ sống cùng cha mà thôi.

Nói xong chàng quay lại. Thế rồi cha chàng dạy cho chàng những pháp môn làm phát triển thiền định. Cả hai cha con không hề xa rời niềm an lạc thiền đạo và được sanh vào cõi Phạm thiên.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài thuyết giảng và nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, chàng trai và cô gái này cũng chính là chàng trai và cô gái của chuyện trên kia. Vị ẩn giả ấy chính là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Lời Gièm Pha (Tiền thân Sandhibheda)

Cặp này chẳng có gì chung…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về giới luật dành cho sự gièm pha.

Hồi ấy bậc Ðạo Sư nghe rằng nhóm Sáu Tỷ-kheo ấy cứ gom góp những chuyện nói xấu, liền gọi họ đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông gom góp những chuyện nói xấu của một số bằng hữu có tính hay gây gổ, cãi cọ, tranh chấp nhau, và vì vậy những tranh cãi đáng lẽ không xảy ra đã xảy ra và khi đã xảy ra thì những tranh cãi ấy lại có xu hướng lớn lên chăng?

Họ đáp:

– Thật như thế.

Ngài quở rầy họ và dạy:

– Lời nói gièm pha cũng giống như một nhát gươm nhọn đâm. Tình bằng hữu bền vững chóng đổ vỡ vì sự nói xấu và kẻ nào gièm pha có thể bị bạn hữu ghét giận giống như trường hợp con sư tử và con bò mộng.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện đời xưa

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là con vua. Ngài hoàn tất mọi học nghệ ở Takkasilà, và sau khi vua cha mất, ngài lên nối ngôi và trị vì rất công chính.

Bấy giờ có người giữ bò kia chăn dắt bầy bò ở các chuồng trong rừng, khi quay về nhà, ông ta vô ý để lạc ra sau một con bò cái đang có chửa. Giữa con bò cái ấy và con sư tử cái kia phát sinh một tình bạn bền vững. Khi đã trở thành đôi bạn thân thiết, chúng thường đi chung với nhau.

Thế rồi sau một thời gian, bò cái sinh ra một con bê và sư tử sinh ra một con sư tử con. Hai chú thú nhỏ mới sinh này theo xu hướng của gia đình trở nên đôi bạn thân thiết, đi đâu không rời nhau.

Một người thợ rừng thường mang các lâm sản đến Ba-la-nại để dâng vua. Một hôm vua hỏi ông ta:

– Này bạn, bạn có thấy điều gì kỳ diệu khác thường không?

Ông đáp:

– Tâu Ðại vương, tôi chẳng thấy điều gì kỳ diệu ngoài một con sư tử đực và một con bò mộng đi với nhau rất thân ái.

Vua bảo:

– Nếu có một con vật thứ ba xuất hiện thì sẽ xảy ra tác hại ngay. Nếu bạn thấy hai con vật ấy liên kết với một con thứ ba thì hãy đến đây bảo cho ta hay.

Ông ấy đáp:

– Tâu Ðại vương, chắc chắn tôi sẽ theo lời ngài.

Khi người thợ rừng rời Ba-la-nại, một con chó rừng đến phục vụ sư tử và bò mộng kia. Ông ta trở về rừng và thấy thế liền tự nhủ: “Ta sẽ báo với đức vua rằng con vật thứ ba đã xuất hiện”.

Rồi ông đến thành phố. Bấy giờ con chó rừng tự nghĩ: “Ta chẳng có thịt nào để ăn ngoài thịt sư tử và bò. Bằng cách gây bất hòa giữa hai con vật này, ta sẽ được ăn thịt chúng…”

Rồi nó nói:

– Tên kia nói về ông thế này này….

Thế là chó rừng chia rẽ hai con vật kia ra, rồi nó gây ra một cuộc tranh cãi khiến sư tử và bò đi đến tình trạng đấu nhau trí mạng.

Người thợ rừng đến tâu vua:

– Tâu Ðại vương, con vật thứ ba đã đến.

Vua hỏi:

– Con gì thế?

– Tâu Ðại vương, một chó rừng.

Vua nói:

– Nó sẽ khiến cho hai con kia tranh cãi và làm cho chúng chết. Khi chúng ta đến nơi sẽ thấy chúng chết rồi!

Nói xong, vua lên xe, đi theo con đường mà người thợ rừng đã đi. Ngài đến nơi đúng lúc hai con vật gây gổ nhau, giết chết nhau. Chó rừng khoái chí, khi thì ăn thịt con sư tử, khi thì ăn thịt con bò mộng. Khi thấy cả hai con đều chết, vua vẫn đứng trên xe, gọi người đánh xe và đọc các bài kệđây:

Cặp này chẳng có gì chung
Vợ con, ăn uống, chẳng cùng xẻ chia.
Nhưng kìa, lời nói gièm pha
Như gươm hai lưỡi thật là bén thay.

Xảo gian thủ thuật khéo bày
Phân chia bằng hữu lâu ngày kết thân.
Thú kia hèn kém nhất trần
Nhưng bò, sư tử phải thành mồi ngon:

Bạn lòng cũng sẽ khổ buồn
Như đôi thú nọ một tuồng mà thôi;
Nếu như tai cố nghe lời
Khiêu khích to nhỏ của người gièm pha.

Gièm pha vốn vẫn chia xa
Những người bằng hữu thật là thiết thân.
Gièm pha nếu chẳng quan tâm,
Sẽ như tiên ở thiên đàng vinh quang.

Vua đọc các bài kệ trên xong liền nhặt lấy bờm, da, móng, răng của con sư tử rồi quay thẳng về thành.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài thuyết giảng và nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Ta là vị vua nọ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vấn Đáp Của Chư Thiên (Tiền thân Devatàpanhã)

Chuyện này sẽ được kể trong số 546. Tiền thân Mahà-Ummagga.

PHẦN 2 – CHƯƠNG 2

***

MỤC LỤC

[01] PHẨM DALHA
151. Chuyện Lời Giáo Giới Cho Vua (Tiền Thân Ràjovàda)
152. Chuyện Con Cho Rừng (Tiền Thân Sigàla)
153. Chuyện Con Heo Rừng (Tiền Thân Sùkara)
154. Chuyện Con Rắn (Tiền Thân Uraga)
155. Chuyện Nhảy Mũi (Tiền Thân Gagga)
156. Chuyện Hoàng Tử Có Tâm Thâu Phục (Tiền Thân Alìnacitta)
157. Chuyện Công Đức (Tiền Thân Guna)
158. Chuyện Con Ngựa Suhanu (Tiền Thân Suhanu)
159. Chuyện Con Công (Tiền Thân Mora)
160. Chuyện Con Ngỗng Xanh Sẫm (Tiền Thân Vinìlaka)
[02] PHẨM SANTAHAVA
161. Chuyện Ẩn Sĩ Indasamànagotta (Tiền Thân Indasamànagotta)
162. Chuyện Mối Thâm Giao (Tiền Thân Santhava)
163. Chuyện Vua Susìma (Tiền Thân Susìma)
164. Chuyện Chim Diều Hâu (Tiền Thân Gijjha)
165. Chuyện Con Chuột Rừng (Tiền Thân Nakula)
166. Chuyện Bà-La-Môn Upasàlha (Tiền Thân Upasàlha)
167. Chuyện Trưởng Lão Samiddhi (Tiền Thân Samiddhi)
168. Chuyện Chim Diều Hâu (Tiền Thân Sakunagghi)
169. Chuyện Đạo Sư Araka (Tiền Thân Araka)
170. Chuyện Con Kỳ Nhông (Tiền Thân Kakantaka)
[03] PHẨM THIỆN PHÁP
171. Chuyện Thiện Pháp (Tiền Thân Kalyàna Dhamma)
172. Chuyện Núi Daddara (Tiền Thân Daddara)
173. Chuyện Con Vượn (Tiền Thân Makkata)
174. Chuyện Con Vượn Lừa Dối (Tiền Thân Dubhidamakkata)
175. Chuyện Đảnh Lễ Mặt Trời (Tiền Thân Àdiccupatthàma)
176. Chuyện Một Nắm Đậu (Tiền Thân Kalàya – Mutthi)
177. Chuyện Cây Tinduka (Tiền Thân Tinduka)
178. Chuyện Con Rùa (Tiền Thân Kacchapa)
179. Chuyện Bà-La-Môn Satadhamma (Tiền Thân Satadhamma)
180. Chuyện Khó Cho (Tiền Thân Duddada)
[04] PHẨM ASADISA
181. Chuyện Hoàng Tử Vô Địch (Tiền Thân Asadisa)
182. Chuyện Con Voi Thiện Chiến (Tiền Thân Sangàmàvacara)
183. Chuyện Đồ Tàn Thực (Tiền Thân Vàlodakka)
184. Chuyện Người Luyện Ngựa Giridanta (Tiền Thân Giridanta)
185. Chuyện Tâm Bất Tịnh (Tiền Thân Anabhirati)
186. Chuyện Vua Mang Sữa Đông (Tiền Thân Dadhivàhana)
187. Chuyện Bốn Vẻ Đẹp (Tiền Thân Cantumatta)
188. Chuyện Sư Tử Lai Chó Rừng (Tiền Thân Sìhakottuka)
189. Chuyện Tấm Da Sư Tử (Tiền Thân Sìhacamma)
190. Chuyện Giữ Giới (Tiền Thân Sìlànisamsa)
[05] PHẨM RUHAKA
191. Chuyện Tế Sư Ruhaka (Tiền Thân Ruhaka)
192. Chuyện Thiên Nữ Siri Và Kàlakanni (Tiền Thân Sirikàlakanni)
193. Chuyện Hoàng Tử Liên-Hoa (Tiền Thân Cullapaduma)
194. Chuyện Kẻ Trộm Ngọc (Tiền Thân Manicora)
195. Chuyện Hòn Núi Đẹp (Tiền Thân Pabbatupatthara)
196. Chuyện Con Ngựa Bay (Tiền Thân Valàhassa)
197. Chuyện Bạn – Thù (Tiền Thân Mittàmitta)
198. Chuyện Con Vẹt Ràdha (Tiền Thân Ràdha)
199. Chuyện Người Gia Chủ (Tiền Thân Gahapati)
200. Chuyện Giới Hạnh Tốt Lành (Tiền Thân Sàdhusìla)
[06] PHẨM NATAMDAIHA
201. Chuyện Nhà Tù Trói Buộc (Tiền Thân Bandhanàgara)
202. Chuyện Tánh Nghịch Ngợm (Tiền Thân Kilisìla)
203. Chuyện Tu Tập Từ Tâm (Tiền Thân Khandha -Vatta)
204. Chuyện Con Quạ Viraka (Tiền Thân Viraka)
205. Chuyện Cá Sông Hằng (Tiền Thân Gangeyya)
206. Chuyện Con Nai Núi (Tiền Thân Kurungamiga)
207. Chuyện Vua Assaka (Tiền Thân Assaka)
208. Chuyện Con Cá Sấu (Tiền Thân Sumsumara)
209. Chuyện Con Chim Mồi (Tiền Thân Kakkara)
210. Chuyện Con Chim Gõ Mõ (Tiền Thân Kandagalaka)
[07] PHẨM BIRANATTHAMBAHAKA (Ðám cỏ thơm)
211. Chuyện Chàng Trai Somadatta (Tiền Thân Somadatta)
212. Chuyện Thức Ăn Thừa (Tiền Thân Uchitthabhatta)
213. Chuyện Vua Bharu (Tiền Thân Bharu)
214. Chuyện Con Sông Đầy (Tiền Thân Punna-Nadi)
215. Chuyện Con Rùa (Tiền Thân Kachapa)
216. Chuyện Con Cá (Tiền Thân Maccha)
217. Chuyện Người Bán Rau (Tiền Thân Seggu)
218. Chuyện Người Lái Buôn Lừa Đảo (Tiền Thân Kùtavànija)
219. Chuyện Đáng Chỉ Trích (Tiền Thân Garahita)
220. Chuyện Tế Sư Dhammadhaja (Tiền Thân Dhammaddhaja)
[08] PHẨM KÀSÀVA
221. Chuyện Tấm Y Vàng (Tiền Thân Kàsàva)
222. Chuyện Con Khỉ Cùllanandiya (Tiền Thân Cùllanandiya)
223. Chuyện Thức Ăn Đi Đường (Tiền Thân Puta-Bhatta)
224. Chuyện Con Cá Sấu (Tiền Thân Kumbhila)
225. Chuyện Đề Cao Tính Kham Nhẫn (Tiền Thân Khanti-Vannana)
226. Chuyện Con Cú (Tiền Thân Kosiya)
227. Chuyện Con Bọ Ăn Phân (Tiền Thân Gùthapàna)
228. Chuyện Bà-La-Môn Kàmanita (Tiền Thân Kàmanita)
229. Chuyện Du Sĩ Palàyi (Tiền Thân Palàyi)
230. Chuyện Du Sĩ Palàyi Thứ Hai (Tiền Thân Palàyi)
[09] PHẨM UPÀHANA
231. Chuyện Chiếc Giày (Tiền Thân Upàhana)
232. Chuyện Không Được Hướng Dẫn (Tiền Thân Vinàthùna)
233. Chuyện Mũi Tên (Tiền Thân Vikannaka)
234. Chuyện Nàng Asitàbhù (Tiền Thân Asitàbhù)
235. Chuyện Vị Ẩn Sĩ Vaccha-Nakha (Tiền Thân Vaccha-Nakha)
236. Chuyện Con Cò (Tiền Thân Baka)
237. Chuyện Thành Sàketa (Tiền Thân Sàketa)
238. Chuyện Một Chữ (Tiền Thân Ekapada)
239. Chuyện Con Nhái Xanh (Tiền Thân Harita-Màta)
240. Chuyện Vua Mahàpingala (Tiền Thân Mahàpingala)
[10] PHẨM SIGÀLA(Chó rừng)
241. Chuyện Vua Chó Rừng Sabbadàtha (Tiền Thân Sabbadàtha)
242. Chuyện Con Chó (Tiền Thân Sunakha)
243. Chuyện Nhạc Sĩ Guttila (Tiền Thân Guttila)
244. Chuyện Ly Dục (Tiền Thân Viticcha)
245. Chuyện Kinh Pháp Môn Căn Bản (Tiền Thân Mùlapariyàya)
246. Chuyện Lời Phỉ Báng (Tiền Thân Telovàda)
247. Chuyện Hoàng Tử Pàdanjali (Tiền Thân Pàdanjali)
248. Chuyện Thí Dụ Cây Kimsuka (Tiền Thân Kimsukopama)
249. Chuyện Con Khỉ Sàlaka (Tiền Thân Sàlaka)
250. Chuyện Con Khỉ (Tiền Thân Kapi)

PHẨM DALHA

  1. CHUYỆN LỜI GIÁO GIỚI CHO VUA (Tiền thân Ràjovàda)

Cứng rắn đối cứng rắn…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về lời giáo giới cho vua. Câu chuyện sẽ được nói đến trong Tiền thân Tesakuna (số 512).

Một hôm vua Kosala, vừa xét xử một vụ kiện rất khó liên hệ đến pháp luật xong, tay chưa khô ráo, vua ngự lên xe được trang hoàng, đi đến bậc Ðạo Sư, đảnh lễ dưới chân Ngài, những ngón chân tuyệt đẹp như hoa sen nở rộ, rồi ngồi một bên. Bậc Ðạo Sư nói với vua Kosala:

– Thưa Ðại Vương, Ðại Vương từ đâu đi đến quá sớm như vậy?

– Bạch Thế Tôn, mấy hôm nay trẫm phải xét xử một vụ kiện rất khó liên hệ đến luật pháp, nên không có được cơ hội đến yết kiến Thế Tôn. Nay công việc đã được giải quyết, ăn uống xong, với tay chưa khô ráo, trẫm đi đến hầu Thế Tôn.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Thưa Ðại Vương, xét xử một vụ kiện đúng pháp và công bằng là một việc thiện, đây là con đường đưa đến chư Thiên. Thật không có gì vi diệu khi vua nhận được lời giáo giới từ một vị Nhất thiết trí như ta và đã xét xử vụ kiện đúng pháp và công bằng. Thật là vi diệu, thuở xưa khi các vua nghe lời các vị hiền triết không phải Nhất thiết trí, vẫn xét xử vụ kiện đúng pháp và công bằng, từ bỏ con đường đi đến ác thú, tuân theo mười Vương pháp và đã đi lên thiên giới làm đông đảo hội chúng chư Thiên.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của vua, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát nhập thai làm con bà chánh hậu của vua, và thai được săn sóc chu đáo, nên đã sanh ra từ lòng mẹ an toàn. Ðến ngày lễ đặt tên, Bồ-tát được đặt tên là hoàng tử Brahmadatta. Hoàng tử tiếp tục lớn lên, khi được mười sáu tuổi đã trưởng thành, hoàng tử đến thành Takasilà để học tập và tinh thông tất cả các tài nghệ.

Sau khi thân phụ mất, Bồ-tát được đặt lên vương vị, và trị nước đúng pháp và công bằng phán quyết các vụ kiện, không dựa theo ý muốn của riêng mình. Bồ-tát trị vì đúng pháp như vậy nên các đại thần cũng xét xử các vụ kiện công bằng. Khi các vụ kiện được xét xử đúng pháp luật thì không còn ai tạo ra các vụ kiện lừa đảo nữa, do đó, các sự ồn ào trong sân vua do các vụ kiện tụng gây ra cũng được chấm dứt. Các đại thần ngồi cả ngày trong pháp đình, không thấy có một vụ kiện nào đưa đến để xét xử, cũng bỏ đi. Các pháp đình trở thành trống vắng.

Bồ-tát suy nghĩ: “Vì ta trị vì đúng pháp, không có ai đến kiện tụng, các tiếng ồn ào được chấm dứt, xem pháp đình trở thành trống vắng. Nay ta cần phải tìm xem ta có khuyết điểm gì, nếu có, ta sẽ từ bỏ nó và sẽ sống trong an lạc”. Từ đấy, Bồ-tát đi tìm cùng khắp xem có ai nói lên khuyết điểm của mình không, nhưng trong các nội cung, ngài không tìm được ai nói lên khuyết điểm, chỉ nghe ca tụng công đức của mình. Bồ-tát suy nghĩ: “Những người này vì sợ ta, không nói lên khuyết điểm, chỉ nói lên công đức”.

Bồ-tát đi ra ngoài nội cung để tìm, tại đấy cũng không thấy một ai, liền tìm trong nội thành, rồi ra tìm ở ngoại thành, hỏi những người ở tại bốn cửa thành. Tại đây cũng không thấy một ai nói lên khuyết điểm, chỉ nói lên công đức. Bồ-tát suy nghĩ: “Nay ta sẽ đi tìm tại các tỉnh thành”.

Vua giao quốc độ cho các đại thần ngự lên xe, chỉ đem theo người đánh xe, ra khỏi thành giả dạng để vẫn không một ai biết và đi khắp đất nước, cho đến khi đến biên địa vẫn không thấy một ai nói lên khuyết điểm, chỉ nghe nói đến công đức của mình. Từ biên địa, theo đường đại lộ vua trở về kinh thành.

Trong lúc ấy, vua nước Kosala tên là Mallika trị vì quốc độ đúng pháp, cũng đi tìm khuyết điểm, từ trong nội cung v.v… không thấy một người nào nói lên khuyết điểm, chỉ nghe nói về công đức của mình, liền đi tìm khắp nước và đến chỗ ấy. Cả hai người gặp mặt nhau trên một con đường chật hẹp chỉ đủ một xe đi chứ không có chỗ để xe này tránh xe kia. Rồi người đánh xe của vua Mallika nói với người đánh xe của vua Ba-la-nại:

– Hãy tránh ra xe của bạn.

Người đánh xe kia nói:

– Này bạn đánh xe, hãy cho xe của bạn tránh ra. Trên xe này là vua nước Ba-la-nại, đại vương Brahmadatta đang ngồi.

Người đánh xe trước nói:

– Này bạn đánh xe, trên xe này là vua Kosala, Ðại vương Mallika đang ngồi, hãy cho xe của bạn tránh ra. Hãy nhường chỗ cho xe vua chúng tôi đi.

Người đánh xe của vua Ba-la-nại suy nghĩ: “Ðây cũng là vua. Vậy phải làm sao đây? À, có phương tiện này. Sau khi hỏi tuổi, xe của vị nào trẻ hơn sẽ nhường chỗ cho vị lớn tuổi”. Suy nghĩ và thi hành như vậy, người ấy biết được cả hai vua đều đồng tuổi với nhau. Lại hỏi về diện tích vương quốc, thế lực tài sản, danh vọng và những vấn đề liên hệ đến sanh chủng, dòng họ, gia đình, trú xứ, sau khi hỏi tất cả, người ấy được biết rằng cả hai đều làm chủ vương quốc rộng đến ba trăm dặm, đều đồng đẳng về uy lực, tài sản, danh vọng, và những vấn đề đều liên hệ đến sanh chủng, dòng họ, gia đình, trú xứ. Rồi người đánh xe ấy suy nghĩ: “Ta sẽ nêu lên trường hợp ai thù thắng về giới đức”, và hỏi:

– Giới đức của vua bạn như thế nào?

Người đánh xe kia trả lời:

– Vua của chúng tôi có giới đức như thế này.

Và anh ta đọc bài kệ thứ nhất:

Mal-li-ka xử sự
Cứng rắn đối cứng rắn,
Mềm mỏng đối mềm mỏng,
Thiện đức đối thiện đức,
Bất thiện đối bất thiện,
Vua này là như vậy,
Này bạn đánh xe ơi,
Hãy nhường đường vua ta.

Người đánh xe của vua Ba-la-nại nói:

– Này bạn, có phải đấy là giới đức của vua bạn?

Khi được biết đúng như vậy, người ấy nói:

– Ðấy là những công đức, còn những khuyết điểm gì?

– Như thế này, thế này… Nhưng hãy nói các công đức vua của bạn?

– Vậy hãy nghe.

– Và người đánh xe của vua Ba-la-nại đọc bài kệ thứ hai (Pháp Cú, 233):

Lấy không giận thắng giận,
Lấy thiện thắng không thiện,
Lấy thí thắng xan tham,
Lấy chân thắng hư ngụy.
Vua này là như vậy,
Này bạn đánh xe ơi!
Hãy nhường đường vua ta.

Khi nghe nói như vậy, vua Mallika và người đánh xe, cả hai đều xuống xe, mở dây các con ngựa, đẩy xe sang một bên, và nhường đường cho vua Ba-la-nại. Rồi vua Ba-la-nại giáo giới cho vua Mallika:

– Ðây là những việc cần phải làm.

Sau đó vua đi về Ba-la-nại và suốt đời làm các công đức như bố thí v.v…, sau khi mệnh chung, vua đi lên thiên giới làm đông đảo hội chúng chư Thiên.

Còn vua Mallika ghi nhớ lời giáo giới trong lòng. Sau khi đi khắp đất nước và không tìm thấy ai chỉ trích mình, vua trở về thành. Tại đó, vua trọn đời làm thiện sự cho đến khi mệnh chung, vua cũng lên thiên giới làm đông đảo hội chúng chư Thiên.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện và thuyết pháp để giáo giới vua Kosala xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, người đánh xe của vua Mallika là Mục-kiền-liên, vua là Ànanda, người đánh xe của vua Ba-la-nại là Xá-lợi-phất, còn vua Ba-la-nại là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON CHÓ RỪNG (Tiền thân Sigàla)

Làm việc không đắn đo…,

Câu chuyện này, khi ở ngôi nhà có nóc nhọn, bậc Ðạo Sư kể về con một người cạo tóc trú ở Tỳ-xá-ly (Vesàli). Cha người ấy cạo râu, cắt tóc, uốn tóc cho vua, hoàng hậu, thái tử, và các công chúa. Ông ta có đạo tâm, tín thành, quy y Ba ngôi báu, giữ Năm giới, thỉnh thoảng để thì giờ nghe pháp của bậc Ðạo Sư.

Một hôm, khi làm việc trong cung vua, ông ta đem theo đứa con trai của mình. Cậu trai, thấy một công chúa Licchavi phục sức và trang điểm đẹp, như tiên nữ, liền sanh tâm luyến ái và bị phiền não chinh phục. Sau khi ra khỏi cung vua, cậu nói với cha:

– Nếu được thiếu nữ ấy, con sẽ sống. Nếu không, con sẽ chết.

Nói vậy xong, cậu bỏ ăn lên giường nằm.

Người cha nói:

– Này con thân, chớ ái luyến không phải chỗ. Con thuộc hạ sanh, con một người thợ hớt tóc! Công chúa Licchavi là con gái thuộc dòng Sát-đế-ly, dòng họ cao quý, con không xứng đôi với công chúa. Ta sẽ hỏi cho con một thiếu nữ khác cùng giai cấp với con.

Nhưng cậu không nghe lời của cha. Rồi mẹ, anh, chị, dì, cậu, tất cả bà con, bạn bè thân hữu hội họp lại nhưng vẫn không khuyên giải cậu được. Cậu ngày càng héo mòn, xanh xao dần cho đến chết.

Sau khi tang lễ con vừa xong và cơn sầu muộn đã nhẹ bớt, người cha suy nghĩ: “Ta sẽ đến đảnh lễ bậc Ðạo Sư”. Ông ta đem nhiều hương thơm, vòng hoa, hương sáp, đi đến Ðại Lâm cúng dường, đảnh lễ bậc Ðạo Sư rồi ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này cư sĩ, sao mấy lúc này ông vắng mặt?

Ông ta liền thuật lại câu chuyện ấy. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này cư sĩ, không phải chỉ nay con của ông mới luyến ái không đúng chỗ và bị nạn. Thuở xưa, nó cũng đã như vậy rồi.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của vị cư sĩ, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con sư tử ở núi Tuyết. Là con út, Bồ-tát có sáu sư tử anh và một sư tử chị. Tất cả đều sống trong hang Vàng. Không xa hang Vàng có hang Pha lê trên núi Bạc. Tại đấy có một con chó rừng. Sau một thời gian, sư tử cha và sư tử mẹ đều chết. Các con sư tử đực thường để sư tử cái, chị của chúng, ở lại hang Vàng, còn chúng ra đi tìm mồi, đem thịt về cho chị ăn.

Một hôm, con chó rừng thấy con sư tử cái ấy, liền sanh tâm luyến ái. Bấy giờ khi sư tử cha và sư tử mẹ còn sống, chó rừng không có cơ hội đi đến. Nhưng nay khi bảy con thú đã ra đi tìm mồi, từ hang Pha lê, nó đi đến miệng hang Vàng, đứng trước con sư tử cái nhỏ, nói lên những lời đường mật cám dỗ một cách thầm kín:

– Này em! Ta là thú bốn chân, em cũng là thú bốn chân. Ta rất thương yêu em, và muốn em làm vợ ta. Ta sẽ là chồng em. Chúng ta sẽ sống hòa hợp hạnh phúc và em cũng sẽ thương yêu ta mãi mãi!

Sư tử cái nghe lời nói của chó rừng, suy nghĩ: “Chó rừng là loại thú hạ liệt trong các loại thú bốn chân, đê tiện giống như hạng người cùng đinh. Còn ta thuộc gia đình hoàng tộc ưu việt. Nó đã nói những lời không thích hợp, không tốt đẹp với ta. Sau khi nghe lời như vậy, ta còn sống làm gì? Ta sẽ nín hơi thở mà chết.

Nhưng rồi nó lại nghĩ: “Ta chết như vậy thật không xứng đáng. Chờ đến khi ta gặp các em của ta, nói cho họ nghe, rồi ta sẽ chết”.

Con chó rừng không nghe sư tử cái trả lời, suy nghĩ: “Nàng không thương ta”, liền ưu sầu đi vào hang Pha lê và nằm xuống.

Sau khi giết một con trâu, hay con voi, một con sư tử con liền ăn thịt, rồi đem phần về cho chị nó, và nói:

– Này chị thân, thịt đây, chị hãy ăn đi.

– Này em, chị không ăn thịt, vì chị sẽ chết.

– Vì sao vậy?

Con sư tử chị kể lại câu chuyện đã xảy ra. Nó hỏi chị:

– Nay con chó rừng ở đâu?

Sư tử chị thấy chó rừng nằm trong hang Pha lê, tưởng rằng nó ở trên trời nên nói:

– Này em, sao em không thấy? Con chó rừng nằm ở trên tại núi Bạc.

Con sư tử tưởng thật nói:

– Ta sẽ giết nó.

Nó liền nhảy đến hang Pha lê mà nó tưởng trên trời với tốc độ của con sư tử săn mồi, tim nó đập vào hang Pha lê và rơi xuống chân núi chết tại chỗ ấy.

Một con sư tử khác đi đến. Con sư tử chị cũng nói lại như vậy. Con sư tử ấy cũng làm như con trước và rơi xuống chết ngay chân núi. Như vậy sáu anh em sư tử con đều chết. Cuối cùng khi Bồ-tát (tức sư tử út) đến, sư tử chị kể lại lý do. Bồ-tát hỏi:

– Nay con chó rừng ấy ở đâu?

Sư tử chị nói:

– Nó nằm ở trên trời, trên đỉnh núi Bạc.

Bồ-tát suy nghĩ: “Các loài chó rừng không trú trên không. Chắc nó nằm ở hang Pha lê”.

Bồ-tát đi xuống chân núi, thấy sáu sư tử anh đã chết, liền nghĩ: “Ta biết những anh này vì ngu si, không có trí tuệ, không biết đây là hang Pha lê, đã đập quả tim vào đó nên bị giết chết. Như vậy là việc làm không đắn đo, và quá vội vã.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ thứ nhất:

Ai làm không đắn đo,
Hấp tấp làm vội vã,
Như ăn đồ ăn nóng,
Bị bỏng miệng mà chết.

Sư tử út nói bài kệ này xong, suy nghĩ: “Các anh của ta muốn giết con chó rừng nhưng không có thiện xảo phương tiện, nhảy tới nhanh chóng quá nên đã tự tạo cái chết. Ta sẽ báo thù cho các anh ta”. Nó thấy chó rừng nằm trong hang Pha lê. Bồ-tát theo dõi con đường lên xuống của con chó rừng, rồi hướng về phía ấy, rống lên ba lần tiếng rống của sư tử khiến cho tất cả đất và trời dội vang tiếng rống. Con chó rừng nằm trong hang Pha lê hoảng hốt run sợ vỡ tim ngay tại chỗ ấy mà chết.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Như vậy con chó rừng chết khi nghe sư tử rống.

Và bậc Chánh Giác đọc bài kệ thứ hai:

Chính trên Da-da-ra
Sư tử rống tiếng rống
Khiến núi ấy vang động,
Nghe tiếng con sư tử,
Con chó rừng ở núi,
Hoảng hốt, sợ khiếp đảm,
Quả tim nó vỡ đôi,
Tại đấy, nó mệnh chung.

Sư tử đã làm chó rừng chết như vậy. Sau đó nó chôn các anh vào một nấm mộ chung và kể cho chị nghe rằng chúng đã chết, rồi an ủi chị. Sư tử sống trọn đời trong hang Vàng cho đến khi mạng chung, nó đi theo thiện nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư liền thuyết giảng các Sự thật và khi kết thúc bài giảng, vị cư sĩ được an trú vào quả Dự lưu, rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con chó rừng là con trai người hớt tóc, sáu sư tử con là sáu vị Trưởng lão, sư tử chị là công chúa Licchavi, còn sư tử trẻ nhất là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON HEO RỪNG (Tiền thân Sùkara)

Này bạn, ta bốn chân…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Trưởng lão lớn tuổi. Một hôm, trong một thời thuyết pháp ban đêm, bậc Ðạo Sư đứng trên tam cấp thang lầu bằng châu báu trước cửa Hương phòng và sau khi giáo giới cho chúng Tỷ-kheo, đã đi vào Hương phòng. Cùng lúc, Trưởng lão Xá-lợi-phất, vị Tướng quân Chánh pháp, đảnh lễ bậc Ðạo Sư rồi cũng đi vào phòng của mình. Ðại Mục-kiền-liên, sau khi đi về phòng nghỉ một lát, lại đi đến Trưởng lão ấy để hỏi các câu hỏi. Ðược hỏi từng câu hỏi, bậc Tướng quân Chánh pháp giải đáp, trình bày rõ ràng như mặt trăng mọc trên hư không. Cả bốn hội chúng ngồi nghe pháp. Trong hội chúng có một Trưởng lão lớn suy nghĩ: “Nếu giữa hội chúng này, ta hỏi một câu hỏi làm Xá-lợi-phất lúng túng, hội chúng này sẽ nghĩ ta là người thông thái và ta sẽ đạt danh vọng lớn!”. Vị ấy liền từ hội chúng đứng dậy, đi đến bậc Trưởng lão, đứng một bên và thưa:

– Thưa Hiền giả, chúng tôi chỉ hỏi Hiền giả một câu. Hãy cho chúng tôi được phép hỏi. Hãy cho chúng tôi một quyết định về diễn dịch hay quy nạp, bác bỏ hay chấp nhận, về thù thắng hay nghịch thù thắng.

Trưởng lão Xá-lợi-phất nhìn người lớn tuổi ấy và nghĩ: “Người này lớn tuổi, sở hành còn ham muốn, trống rỗng không biết gì”. Rồi Trưởng lão không trả lời cho người ấy, khiêm tốn đặt quạt xuống, từ chỗ ngồi đi xuống, về phòng. Những người đứng bên ngoài vùng dậy, đuổi theo Trưởng lão lớn tuổi ấy và nói lớn:

– Thầy không cho chúng ta được nghe pháp dịu ngọt.

Người lớn tuổi ấy chạy trốn, rơi vào đường nứt trong nhà xí tại biên địa ngôi tinh xá và khi đứng dậy, mình dính đầy phân. Mọi người thấy vậy, hối hận và đi đến bậc Ðạo Sư. Ngài hỏi:

– Này các cư sĩ, sao các ông đến vào giờ bất thường như vậy?

Họ tường thuật sự việc lên bậc Ðạo Sư. Ngài nói:

– Này các ông, không phải chỉ nay kẻ lớn tuổi này mới kiêu mạn, không biết sức của mình, muốn đối nghịch với sức mạnh lớn hơn nên đã bị dính đầy phân. Thuở xưa, chính người ấy cũng kiêu mạn, không biết sức của mình, đối địch với sức mạnh hơn, nên đã bị dính đầy phân.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của họ, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con sư tử, trú ở trong hang núi, tại Tuyết Sơn. Không xa chỗ ấy bao nhiêu, nhiều con heo rừng sống gần một bờ hồ. Cũng gần cái hồ ấy, một số nhà tu khổ hạnh sống trong những am bằng lá.

Một hôm, con sư tử giết một con trâu rừng v.v… và ăn thịt thật thỏa thích xong, nó đi xuống hồ uống nước rồi đi lên. Trong lúc ấy, một con heo to lớn bắt mồi gần hồ nước ấy. Con sư tử thấy nó, liền suy nghĩ: “Ta sẽ ăn thịt nó một ngày khác, nhưng nếu thấy ta hay ở đây, nó sẽ không đến nữa!”. Vì vậy, sư tử từ hồ nước đi lên, và tránh né một bên. Con heo rừng nhìn thấy vậy, liền suy nghĩ: “Nó thấy ta, sợ ta, nên không dám đến gần, và chạy trốn. Hôm nay, sẽ có cuộc đối địch giữa ta và con sư tử ấy”. Vì vậy, nó ngẩng đầu lên thách thức sư tử với bài kệ đầu tiên:

Này bạn, ta bốn chân,
Bạn cũng vật bốn chân.
Sư tử hãy quay lại,
Sao bạn sợ, chạy trốn?

Con sư tử nghe vậy liền nói:

– Này bạn heo rừng, hôm nay ta không đánh nhau với bạn. Nhưng hẹn sau bảy ngày, hãy đánh nhau chính tại chỗ này.

Nói vậy xong, con sư tử bỏ đi. Con heo rừng suy nghĩ: “Ta sẽ đánh nhau với con sư tử”, và nó hân hoan thích thú báo tin cho bà con biết. Bà con nó nghe vậy, hoảng hốt nói:

– Chính ngươi sẽ làm hại tất cả chúng ta. Không biết sức mạnh của mình, ngươi lại muốn đánh nhau với con sư tử. Khi con sư tử đến, nó sẽ giết mạng sống của tất cả chúng ta. Chớ hành động hấp tấp như vậy.

Con heo rừng ấy sợ hãi, hốt hoảng hỏi:

– Nay tôi phải làm gì?

Các con heo rừng nói:

– Hãy đi đến bãi phân của các nhà tu khổ hạnh ấy, lấy thân lăn lộn trên chỗ ấy trong bảy ngày, phơi cho thân khô, đến ngày thứ bảy tắm ướt với những giọt sương, rồi đến chỗ hẹn trước khi con sư tử tới, tìm hiểu hướng gió thổi, và đứng trước ngọn gió. Con sư tử tánh ưa sạch sẽ, ngửi mùi hôi từ thân của bạn, sẽ tha cho bạn và bỏ đi.

Con heo rừng ấy làm theo như vậy, vào ngày thứ bảy nó đến đứng ở đấy. Con sư tử vừa ngửi mùi hôi trên thân con heo rừng, biết nó bôi phân, liền nói:

– Này bạn heo rừng, mưu chước ngươi nghĩ khá tốt đấy! Nếu ngươi không bôi phân thì ở đây ngươi đã bị ta giết hại rồi. Ta không thể cắn thân ngươi với miệng của ta, cũng không thể đánh ngươi với chân của ta. Do vậy ta sẽ tha cho ngươi.

Nói vậy xong, con sư tử đọc bài kệ thứ hai:

Lông da ngươi dơ bẩn,
Heo rừng, ngươi hôi thối,
Nếu ngươi muốn đánh nhau,
Ta cho ngươi thắng trận!

Con sư tử quay trở lui, và bắt được mồi, sau đó uống nước hồ rồi đi về hang núi. Còn con heo rừng báo cho bà con biết:

– Con sư tử đã bị ta đánh bại!

Chúng sợ hãi hoảng hốt liền nói:

– Một ngày kia con sư tử lại đến và sẽ đoạt mạng sống của tất cả chúng ta.

Vì vậy chúng liền chạy trốn đi đến nơi khác.

*

Sau khi thuyết pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc ấy, con heo rừng là Trưởng lão lớn tuổi này và con sư tử là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON RẮN (Tiền thân Uraga)

Ở đây, đã trốn vào…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về sự tranh chấp của các võ quan. Cùng phục vụ vua Kosala và cầm đầu binh lính, hai bậc đại thần này thấy mặt tại chỗ nào thì cãi lộn nhau ở chỗ ấy. Sự thù hằn của họ được tòan thành biết rõ. Ngay cả vua, bà con, thân hữu cũng không thể giảng hòa họ được.

Một hôm, bậc Ðạo Sư, vào buổi sáng sớm, nhìn xem ai có khả năng giác ngộ, và thấy hai người này có duyên chứng được Dự lưu đạo. Hôm sau, bậc Ðạo Sư đi một mình vào Xá-vệ để khất thực, đứng trước cửa nhà của một trong hai người ấy. Người này đi ra, cầm lấy bát, mời bậc Ðạo Sư vào nhà, sửa soạn chỗ ngồi và mời Ngài. Bậc Ðạo Sư ngồi xuống, thuyết về lợi ích tu tập Từ tâm, sau khi biết tâm người ấy đã sẵn sàng, liền thuyết về các Sự thật. Cuối bài giảng, người ấy chứng quả Dự lưu. Bậc Ðạo Sư biết người ấy đã chứng quả Dự lưu, liền bảo người ấy cầm bình bát đứng dậy và đi đến nhà của người kia. Người này thấy bậc Ðạo Sư đến liền ra đảnh lễ và mời Ngài vào nhà. Người này cũng cầm bình bát đi theo bậc Ðạo Sư và vào nhà với Ngài. Bậc Ðạo Sư tán thán mười một lợi ích của Từ tâm, và khi biết tâm của người sau này cũng đã thuần thục, liền thuyết giảng về các Sự thật. Cuối bài giảng, người này được an trú vào quả Dự lưu. Như vậy cả hai đều đắc quả Dự lưu, thú nhận với nhau về lỗi lầm của mình, thứ lỗi cho nhau, hòa hợp, hoan hỉ với nhau trước mặt Thế Tôn. Sau khi ăn xong, bậc Ðạo Sư liền đi về tịnh xá. Cả hai vị đem theo nhiều vòng hoa, hương thơm, bơ chín, mật, đường phèn, v.v… cùng đi với bậc Ðạo Sư về tịnh xá. Sau khi nêu rõ các trách nhiệm và giáo giới cho các Tỷ-kheo, bậc Ðạo Sư đi vào Hương phòng. Các Tỷ-kheo, vào buổi chiều, nói về câu chuyện ấy tại Chánh pháp đường:

Thưa các Hiền giả, bậc Ðạo Sư đã nhiếp phục những người không thể nhiếp phục. Hai vị đại thần ấy chống đối với nhau đã lâu ngày, vua và bà con thân hữu không thể làm họ hòa hợp. Nhưng chỉ trong một ngày, Như Lai đã nhiếp phục được họ.

Bậc Ðạo Sư đến Chánh pháp đường và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo các ông ngồi ở đây nói câu chuyện gì?

Khi nghe câu chuyện ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo không phải chỉ nay Ta mới làm cho hai người này hòa hợp. Xưa kia Ta cũng làm cho họ hợp rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, một số quần chúng lớn tụ họp để vui chơi ngày lễ hội. Nhiều đám người, chư thần, các loại rắn thần, kim sí điểu (chim thần cánh vàng) v.v… tụ họp lại để xem đại hội.

Tại một chỗ, một con rắn và một con kim sí điểu xem hội cùng đứng với nhau. Con rắn không biết là con kim sí điểu đứng bên cạnh, liền đặt tay lên vai nó. Con kim sí điểu xoay mình lại để xem ai đã đặt tay lên vai nó, và khi nhìn, nó biết đó là con rắn. Con rắn cũng nhìn, biết là con kim sí điểu, hoảng hốt vì sợ chết, vội đi ra khỏi thành và chạy trốn trên mặt sông. Con kim sí điểu quyết định bắt lấy con rắn liền đuổi theo.

Lúc bấy giờ Bồ-tát là vị tu khổ hạnh, sống trong một chòi lá bên bờ sông ấy. Ðể làm dịu sức nóng ban ngày, ngài cởi áo ngoài bằng vỏ cây, mặc áo tắm và xuống sông tắm. Con rắn suy nghĩ: “Ta sẽ nhờ vị xuất gia này cứu mạng sống”, liền từ bỏ nguyên hình, biến thành hòn ngọc và trốn vào giữa áo bằng vỏ cây. Con kim sí điểu đuổi theo thấy nó đi vào trong ấy, nhưng vì kính trọng áo bằng vỏ cây, nó không chạm cái áo và thưa với Bồ-tát:

– Thưa Tôn giả, hãy cầm lấy áo bằng vỏ cây. Trong đó có con rắn mà con muốn ăn.

Và để nêu rõ ý nghĩa này, nó đọc bài kệ đầu tiên:

Ở đây đã trốn vào
Vị vua các loài rắn,
Con muốn giải thoát nó,
Khỏi hình hòn đá ngọc,
Và vì trọng Phạm hạnh,
Dầu đói, con không bắt.

Bồ-tát đứng dưới nước, nói lời tán thán vua kim sí điểu qua bài kệ thứ hai:

Mong ngươi sống lâu ngày
Ðược Phạm thiên hộ trì,
Luôn hưởng món chư Thiên,
Mong ngươi được đầy đủ,
Vì kính trọng Phạm hạnh,
Dầu đói, chớ ăn nó.

Như vậy, Bồ-tát đứng dưới nước nói lên lời tùy hỷ. Rồi Bồ-tát đi lên, mặc áo vỏ cây, và đem cả hai cùng đi về thảo am. Ngài tán thán hạnh tu tập Từ tâm, khiến cả hai hòa hợp. Từ đấy trở đi, cả hai đều sống hòa hợp, vui vẻ với nhau.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc ấy, con rắn và con chim sí điểu là hai vị đại thần này, còn vị tu khổ hạnh chính là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN NHẢY MŨI (Tiền thân Gagga)

Này cha, sống trăm năm…,

Câu chuyện này, khi trú ở Ràjakàramado (Vương Lâm) do vua Ba-tư-nặc xây dựng gần Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể như sau:

Một hôm, ngồi giữa bốn hội chúng ở Ràjakàrama, trong khi thuyết pháp, bậc Ðạo Sư nhảy mũi. Các Tỷ-kheo lớn tiếng nói lên:

– Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn sống lâu! Mong Thiện Thệ sống lâu!

Và họ tạo ra một tiếng ồn lớn. Do tiếng ồn ấy, pháp thoại bị chấm dứt. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, khi có ai nhảy mũi, nếu ta nói: Mong hãy sống lâu, thì do nhân duyên ấy, một người có thể sống hay chết không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Này các Tỷ-kheo, khi nhảy mũi, chớ nói: Mong hãy sống lâu! Ai nói vậy thì phạm ác hạnh.

Lúc bấy giờ, khi các Tỷ-kheo nhảy mũi, các cư sĩ thường nói: – Mong Tôn giả sống lâu!

Các Tỷ-kheo cảm thấy ray rứt nhưng không đáp lại. Các cư sĩ bực tức nói:

– Sao các Sa-môn Thích tử khi được chúc: “Mong Tôn giả sống lâu!”, đã không đáp lại?

Họ trình sự việc này lên Thế Tôn. Ngài nói:

– Này các Tỷ-kheo, các gia chủ hay mê tín ở điềm lành, vì vậy, khi các gia chủ nói: Mong Tôn giả sống lâu, các ông được phép trả lời: Mong các người sống lâu!

Các Tỷ-kheo hỏi Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, từ khi nào khởi lên tục lệ đáp lời chúc sống lâu?

Bậc Ðạo Sư trả lời:

– Tục lệ được khởi lên từ ngàn xưa.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình Bà-la-môn ở xứ Kà-si. Thân phụ Bồ-tát làm nghề buôn để sống. Khi Bồ-tát lên mười sáu tuổi, người cha giao cho Bồ-tát hòn ngọc có bùa chú cùng đi từ làng này qua thị trấn khác rồi đến Ba-la-nại. Sau khi ăn cơm xong tại nhà người gác cổng, hai cha con không tìm được nhà để ở, bèn hỏi:

– Những người đi đến trễ trú ở chỗ nào?

Các người khác trả lời họ:

– Ngoài thành có một ngôi nhà. Nhưng nhà ấy có một phi nhân (quỷ thần) đang ở. Nếu các ông muốn, cứ đến đấy mà ở.

Bồ-tát nói:

– Thưa cha thân, hãy đi, chớ sợ Dạ-xoa, con sẽ nhiếp phục nó, làm cho nó quỳ lại dưới chân cha.

Nói xong Bồ-tát đưa cha đến chỗ ấy. Rồi người cha nằm trên tấm ván, còn Bồ-tát ngồi bóp chân cho cha. Bấy giờ, con quỷ Dạ-xoa trú tại đấy, sau mười hai năm phục vụ vua Vessavana (Tỳ-sa-môn, một trong bốn Thiên vương), được cho ngôi nhà này với điều kiện: Trừ những người nào vào trong ngôi nhà này, khi nhảy mũi, nếu được chúc: “Mong sống lâu!” và đáp lại: “Mong sống lâu!”, con quỷ ấy có thể ăn thịt những người khác không chúc sống lâu.

Con Dạ-xoa ấy ở tại cột của cây kèo chính. Nó nghĩ: “Ta sẽ làm cho người cha Bồ-tát nhảy mũi”. Vì vậy, với thần lực của mình, nó làm đám bụi mịn bốc lên. Bụi ấy bay vào mũi người cha. Người cha nằm trên tấm ván nhảy mũi. Người con không nói: Mong cha sống lâu! Con Dạ-xoa muốn ăn thịt người cha, nên từ cột cây kèo đi xuống. Bồ-tát thấy nó xuống liền nghĩ: “Cha ta bị con quỷ này làm cho nhảy mũi. Con quỷ này, khi ai nhảy mũi mà không đáp: “Hãy sống”, sẽ trở thành mồi cho nó ăn thịt!” Vì vậy, Bồ-tát nói lên bài kệ đầu với cha:

Mong cha sống trăm năm,
Cộng thêm hai mươi tuổi,
Mong quỷ không ăn cha,
Mong cha sống trăm thu!

Khi nghe lời Bồ-tát nói, con Dạ-xoa nghĩ: “Vị thanh niên này trả lời; Mong cha sống lâu! Ta không thể ăn thịt nhưng ta sẽ ăn thịt người cha!”. Vì vậy, nó đi đến gần người cha. Thấy con Dạ-xoa đi đến gần, ông liền suy nghĩ: “Con quỷ này sẽ ăn thịt những ai không đáp: “Mong sống lâu”. Vậy ta sẽ đáp lại: “Mong con sống lâu”. Và người cha nói câu kệ thứ hai với con:

Mong con sống trăm năm,
Cộng thêm hai mươi tuổi,
Mong quỷ ăn thuốc độc
Còn con sống trăm thu!

Con Dạ-xoa suy nghĩ: “Cả hai người này, ta không thể ăn thịt được”, liền quay trở lui. Nhưng Bồ-tát hỏi nó:

– Này Tôn giả Dạ-xoa, vì sao ngươi ăn thịt những người đi vào trong ngôi nhà này?

– Do tôi phục vụ vua Vessavana mười hai năm, nên được phép ăn tất cả mọi người, trừ những ai đáp lời chúc: Hãy sống lâu!

– Này Dạ-xoa, ngươi trước kia làm điều bất thiện, nên phải sanh ra hung dữ, độc ác, làm hại người. Nay nếu ngươi làm hành động tương tự, ngươi sẽ đi từ cảnh đen tối này đến cảnh đen tối khác. Do vậy từ nay, ngươi hãy từ bỏ sát sanh v.v…

Sau khi nhiếp phục con Dạ-xoa, làm cho nó hoảng sợ với cảnh khổ của địa ngục, khuyên nó giữ Năm giới, Bồ-tát thu phục con Dạ-xoa trở thành người giúp việc.

Ngày hôm sau, nhiều người đi đến thấy con Dạ-xoa, biết rằng nó đã được Bồ-tát nhiếp phục, liền báo cáo lên vua:

– Thưa Thiên tử, có một thanh niên, đã nhiếp phục con Dạ-xoa, và đã làm nó trở thành người chạy việc.

Vua cho mời Bồ-tát, đặt Bồ-tát vào chức vụ Ðại tướng quân, và thưởng cho thân phụ Bồ-tát nhiều danh vọng. Sau khi con Dạ-xoa được vua phong làm người thu thuế, vua tuân theo lời khuyên răn của Bồ-tát, làm các công đức như bố thí v.v… và khi chết, vua được sanh lên cõi trời làm đông đảo hội chúng chư Thiên.

*

Sau khi bậc Ðạo Sư kể pháp thoại này, để giải thích phong tục trả lời: “Mong sống lâu”, Ngài nói:

– Tục lệ này từ xưa đã có rồi.

Và bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, nhà vua là Ànanda, người cha là Ca-diếp và người con trai là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN HOÀNG TỬ CÓ TÂM THÂU PHỤC (Tiền thân Alìnacitta)

Chính nhờ Tâm thâu phục…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn. (Câu chuyện sẽ được nói lên trong Chương XI, Tiền thân Samvara số 462). Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Có phải chăng ông đã thối thất tinh tấn?

Tỷ-kheo ấy trả lời:

– Có thật, bạch Thế Tôn.

Bậc Ðạo Sư nói với vị ấy:

– Này Tỷ-kheo, thuở xưa chính ông đã tinh tấn lấy được vương quốc thành Ba-la-nại cách xa mười hai dặm, và đã giao vương quốc ấy cho một đứa trẻ như cho một miếng thịt. Và nay, vì sao ông đã xuất gia trong Giáo pháp giải thoát như vậy, lại thối thất tinh tấn?

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, có một làng thợ mộc không xa thành Ba-la-nại bao nhiêu. Tại đấy, có năm trăm người thợ mộc ở. Họ đi thuyền ngược dòng sông, đốn cây góp lại để làm sườn của những ngôi nhà một tầng, hoặc hai tầng. Họ đánh dấu tất cả khúc gỗ, kéo gỗ đến bờ sông rồi đem lên thuyền chờ về thành. Những ai muốn ngôi nhà thế nào, họ làm đúng như vậy rồi lấy tiền để sinh sống.

Trong khi họ đang làm việc như vậy, thì một con voi đạp phải một miếng dăm gỗ vụn của cây keo. Miếng dăm gỗ ấy đâm vào chân con voi làm cho nó rất đau đớn. Chân nó bị sưng lên và làm mủ. Con voi nghe tiếng đốn suy nghĩ: “Ta có thể nhờ những người thợ mộc này làm cho lành chăng?” Nghĩ vậy nó liền đi ba chân đến gần đám thợ mộc và nằm xuống. Các người thợ mộc thấy chân nó sưng, đi đến xem thì thấy miếng dăm gỗ. Họ lấy một con dao, kéo bật miếng dăm gỗ ra, lấy hết mủ, rửa với nước nóng và xức với nước thích hợp, không bao lâu thì vết thương được lành lại. Con voi lành mạnh suy nghĩ: “Nhờ những người thợ mộc này, ta được sống lại. Nay ta cần phải trả ơn họ”.

Từ đấy trở đi, con voi nhổ các cây giúp những người thợ mộc, lăn tròn các khúc cây hoặc giúp họ đẽo gỗ. Hoặc nó mang đến cho họ bất cứ dụng cụ nào họ cần và cầm mọi vật bằng chiếc vòi một cách cương quyết không sờn lòng. Vào giờ ăn, các người thợ mộc mỗi người đem đến một phần ăn và con voi được cả năm trăm phần. Bấy giờ con voi ấy có một voi con toàn trắng, một con voi thuần chủng tuyệt đẹp. Voi cha suy nghĩ: “Ta hiện tại đã lớn tuổi. Nay ta nên cho con ta làm các công việc giúp họ”. Vì vậy, không thông báo cho các người thợ mộc biết, nó đi vào rừng, dắt voi con ra, và nói với họ:

– Voi con này là con của tôi. Các người đã giúp tôi. Nay tôi giao nó cho các người như trả tiền chữa trị. Bắt đầu từ nay, nó sẽ làm cho các người.

Rồi nó dạy con:

– Bắt đầu từ nay, những việc gì cha đã làm, con hãy làm thế.

Voi cha nói xong, để voi con ở với những người thợ mộc rồi đi vào rừng. Từ đó, voi con phục tùng làm theo lời nói của các người thợ mộc, kham nhẫn chịu đựng tất cả mọi công việc và họ nuôi nó với năm trăm phần ăn như họ đã nuôi voi cha.

Khi voi con làm xong công việc, nó xuống sông chơi rồi trở lại. Những đứa con của người thợ mộc thường nắm vòi nó, và chơi với nó dưới nước và trên bờ. Thời ấy, các con voi, con ngựa được loài người thuần hóa không đi đại tiện hay tiểu tiện trong nước chỉ đại tiện ở ngoài, trên bờ sông.

Một hôm trời mưa, một bãi phân khô của voi này rơi xuống sông, trôi đến bến nước của thành Ba-la-nại, mắc vào một bụi cây, và đứng lại. Những người nài của vua dắt năm trăm con voi đến để tắm. Khi các con voi ngửi mùi bãi phân của con voi thuần chủng, không một con voi nào chịu xuống sông, chúng cong đuôi lên và cắm đầu bỏ chạy. Các người giữ voi báo cáo lên các người huấn luyện voi. Những người này nói:

– Chắc có gì chướng ngại trong nước.

Họ ra lệnh làm cho sạch nước thì thấy bãi phân của con voi thuần chủng ở bụi cây ấy và biết được đây là nguyên nhân của sự việc. Họ đem đến một cái chum chứa đầy nước, chà nát bãi phân ấy và rưới nước sạch lên thân các con voi. Thân các con voi trở thành có mùi thơm, lúc bấy giờ, các thuyền bè cột lại, đi ngược dòng và đến chỗ những người thợ mộc ở. Voi con chơi trên sông, nghe tiếng trống, liền đến gần các người thợ mộc. Họ liền đi đến đón vua và thưa:

– Thưa Thiên tử, Thiên tử cần loại gỗ nào, cần gì ngài lại đến đây cho nhọc? Sao không đưa tin báo cho chúng thần đem về?

– Này các khanh, ta đến đây không phải vì gỗ. Ta đến vì con voi này.

– Thưa Thiên tử, Thiên tử hãy bắt nó đem đi.

– Nhưng con voi không muốn đi.

Vua hỏi:

– Này bạn voi, bạn muốn gì?

– Thưa Thiên tử, hãy đem tiền cho các người thợ mộc này đã nuôi dưỡng tôi.

– Tốt lắm, này bạn.

Vua ra lệnh đem lại trăm ngàn đồng tiền vàng và cho đặt gần bốn chân voi và đuôi con voi với đống tiền ấy, nhưng con voi vẫn không đi. Nó đòi cho mỗi người thợ một cặp áo, cho các người vợ vải đủ để mặc, cho trẻ con tiền nuôi dưỡng. Rồi con voi quay mình lại, nhìn và chào các người thợ mộc, các người đàn bà và các đứa trẻ rồi mới ra đi với vua.

Vua đem voi về, đi vào thành. Vua cho trang hoàng thành phố và chuồng voi, bảo con voi đi vòng quanh thành, rồi đưa con voi vào chuồng, và trang hoàng chuồng voi thật lộng lẫy. Vua làm lễ quán đảnh cho voi, phong cho nó làm Vương tượng, đặt voi vào hàng bạn thân của mình, cho voi nửa vương quốc, và lo săn sóc con voi như săn sóc chính mình. Từ khi con voi đến, toàn cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) nằm trong tay trị vì của vua.

Theo thời gian Bồ-tát nhập mẫu thai của bà chánh hậu. Khi bà hoàng hậu sắp sửa sanh, thì vua mệnh chung. Sợ rằng nếu con voi biết được vua mệnh chung, chắc quả tim nó có thể vỡ ra, nên người ta không nói gì cho con voi biết và vẫn hầu hạ nó như trước.

Nhưng ông vua láng giềng, vua xứ Kosala, biết được vua kia đã băng hà, suy nghĩ: “Vương quốc đã trống không”, liền đi đến với một đạo quân lớn và vây hãm thành. Quân bảo vệ cho đóng cửa thành và đưa tin cho vua Kosala:

– Hoàng hậu của chúng tôi sắp sanh. Từ đây đến bảy ngày, bà sẽ sanh con, các người đoán tướng số đã nói như vậy. Nếu hoàng hậu sanh con trai vào ngày thứ bảy, chúng tôi sẽ giao chiến, không nhường vương quốc. Vậy hãy đợi đến ngày ấy.

Vua Kosala chấp nhận. Vào ngày thứ bảy, hoàng hậu sanh được một hoàng nam. Ðến ngày lễ đặt tên, thái tử được đặt tên Hoàng tử có Tâm thâu phục vì người ta tiên đoán hài nhi ra đời để thâu phục nhân tâm.

Bảy ngày sau, khi thái tử sanh, toàn dân giao chiến với vua Kosala. Vì thiếu người lãnh đạo, nên khi giao chiến quân đội dù lớn cũng dần dần thất thế, và thối lui. Các đại thần trình sự việc này lên hoàng hậu:

– Tình thế thật hiểm nguy, quân đội bị thất thế thối lui, chúng tôi sợ thất trận. Vua đã mệnh chung, hoàng tử mới sanh, nhưng vua Kosala kéo quân đến giao tranh, còn Vương tượng bạn thân thiết của vua chưa hay biết gì, tâu hoàng hậu. Chúng tôi muốn báo tin cho voi biết. Xin chờ ý kiến hoàng hậu.

Bà hoàng hậu chấp thuận, trang điểm cho thái tử, đặt nó nằm trên một tấm vải mịn, từ lâu đài đi xuống với các đại thần vây quanh, đến chuồng con voi, đặt thái tử nằm dưới chân voi và thưa:

– Thưa chúa voi, bạn của chúa voi đã mệnh chung. Chúng tôi sợ chúa voi vỡ tim nên không tin cho chúa voi biết. Ðây là con trai của bạn chúa voi. Vua Kosala đã đến bao vây thành, giao chiến với con của bạn chúa voi và quân đội phải thối lui. Hoặc là chúa voi giết con của bạn mình, hay là lấy lại vương quốc cho con của bạn mình.

Ngay lúc ấy, con voi lấy cái vòi rờ thái tử, đỡ nó lên, đặt lên trên đầu mình và than khóc lớn tiếng, rồi đỡ thái tử xuống, đặt nó nằm trong tay bà hoàng hậu, đi ra khỏi chuồng voi và nói:

– Ta sẽ bắt sống vua Kosala.

Các đại thần mặc áo giáp cho voi, trang hoàng mình voi và mở cửa thành, vây quanh con voi và hộ tống nó ra trận. Con voi ra khỏi thành liền rống lên, làm cho quần chúng khiếp sợ bỏ chạy, và đánh tan quân thù rồi nắm chỏm tóc của vua Kosala, bắt vua đặt nằm dưới chân thái tử. Một số người đứng dậy muốn giết vua Kosala. Con voi ngăn chận, và thả vua ấy đi với lời khuyên:

– Bắt đầu từ nay, chớ phóng dật. Chớ kiêu ngạo vì nghĩ rằng hoàng tử còn trẻ.

Từ đấy trở đi, toàn cõi Diêm-phù-đề đều nằm trong tay Bồ-tát, và không một kẻ thù địch nào dám nổi lên chống đối.

Vào lúc bảy tuổi, Bồ-tát được làm lễ quán đảnh, trở thành vị vua với tên Tâm thâu phục, trị vì nước đúng Chánh pháp, và khi mạng chung, được sanh lên thiên giới làm đông đảo hội chúng chư Thiên.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ xong, là bậc Ðạo Sư, Ngài nói lên hai bài kệ:

Chính vì Tâm thâu phục,
Ðội quân lớn hân hoan,
Bắt vua Ko-sa-la,
Tham lam, không biết đủ
Với những gì mình có,
Làm quân đội bằng lòng.

Cũng vậy vị Tỷ-kheo
Tinh cần, nương tựa đủ,
Tu tập theo thiện pháp,
Ðạt an ổn khổ ách,
Tuần tự chứng đạt được
Ðoạn diệt mọi kiết sử.

Sau khi bậc Ðạo Sư trình bày các Sự thật tối thượng, đưa đến đỉnh cao là Niết-bàn bất tử, Ngài cho biết như sau:

– Khi kết thúc các Sự thật, vị Tỷ-kheo thối thất đã chứng quả A-la-hán.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, bà mẹ là hoàng hậu Ma-gia (Mayà), vua cha là đại vương Tịnh Phạn, con voi lấy lại quốc độ rồi dâng thái tử là Tỷ-kheo thối thất tinh cần, cha của con voi là Xá-lợi-phất, và thái tử có Tâm thâu phục chính là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CÔNG ÐỨC (Tiền thân Guna)

Muốn gì, làm cho được…,

Câu chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Tôn giả Ànanda đã nhận được một ngàn tấm y. Câu chuyện Trưởng lão này thuyết pháp trong nội cung vua Kosala đã được nói đến ở Tiền thân Mahàsàra (số 92). Khi Trưởng lão đang thuyết pháp cho nội cung vua, một ngàn tấm y đáng giá mỗi tấm một ngàn đồng tiền vàng được đem đến dâng vua. Vua lấy năm trăm tấm, và cho các cung phi năm trăm tấm. Tất cả cung phi để các tấm y một bên, và hôm sau đem cúng cho Trưởng lão Ànanda, còn mình đắp tấm y cũ, đi đến chỗ nhà vua dùng điểm tâm. Vua hỏi:

– Ta có ban cho các nàng các tấm y đáng giá mỗi tấm một ngàn đồng tiền vàng, sao các nàng không đắp?

– Thưa Ðại vương, chúng thần thiếp đã cúng các tấm y cho Trưởng lão.

– Trưởng lão Ànanda đã nhận tất cả sao?

– Thưa Thiên tử, vâng.

– Bậc Chánh Ðẳng Giác chỉ cho phép ba y, ta nghĩ rằng Trưởng lão Ànanda tính chuyện buôn bán vải, nên mới nhận quá nhiều y như vậy.

Nhà vua tức giận Trưởng lão ấy, ăn điểm tâm xong, liền đi đến tinh xá, vào phòng Trưởng lão, đảnh lễ, ngồi xuống rồi hỏi:

– Thưa Tôn giả, các nữ nhân trong cung của trẫm có đến học Pháp hay nghe Pháp với Tôn giả không?

– Thưa Ðại vương, có. Các nữ nhân ghi nhận, và nghe những gì họ đáng nghe.

– Thế nào, họ chỉ nghe Pháp hay họ cúng dường cho Tôn giả các thượng y và hạ y?

– Thưa Ðại vương, hôm nay họ đã cúng năm trăm y đáng giá một ngàn đồng tiền mỗi tấm.

– Tôn giả có nhận tất cả không?

– Thưa Ðại vương, có.

– Thưa Tôn giả, nhưng bậc Ðạo Sư chỉ cho phép nhận ba y thôi?

– Vâng, thưa Ðại vương. Thế Tôn cho phép mỗi Tỷ-kheo chỉ sử dụng ba y, nhưng không ngăn cấm nhận lấy những gì được cúng dường. Do vậy, tôi nhận lấy các tấm y để cho những vị khác đang mang y mòn cũ.

– Nhưng khi các Tỷ-kheo ấy nhận các tấm y từ Tôn giả, họ sẽ làm gì với những tấm y cũ?

– Với các tấm y cũ, họ sẽ làm thượng y.

– Với các thượng y cũ, họ sẽ làm gì?

– Họ sẽ làm tấm nệm.

– Với những tấm nệm cũ, họ sẽ làm gì?

– Họ sẽ làm tấm thảm trải đất.

– Với những tấm thảm trải đất cũ, họ sẽ làm gì?

– Họ sẽ làm khăn lau chân.

– Với khăn lau chân cũ, họ sẽ làm gì?

– Thưa Ðại vương, họ không được phép phí phạm đồ tín thí cúng dường. Do vậy, họ lấy dao cắt nhỏ các khăn lau chân cũ, trộn với bùn, đất và làm thành vôi hồ để làm nhà cửa.

– Thưa Tôn giả, ngay cả khăn lau chân được cúng dường cho Tôn giả cũng không được hủy hoại?

– Vâng, thưa Ðại vương, chúng tôi không hủy hoại đồ cúng dường cho chúng tôi. Chúng đều được sử dụng.

Vua bằng lòng hoan hỷ, mang năm trăm tấm y còn lại được cất trong cung cúng dường Trưởng lão. Rồi vua nghe lời tùy hỷ công đức, đảnh lễ Trưởng lão, thân hướng về phía hữu, và ra đi.0

Trưởng lão cúng năm trăm tấm y nhận được lần đầu cho các vị có y đã cũ kỹ. Nhưng số Tỷ-kheo đồng trú với Trưởng lão là khoảng độ năm trăm. Một trong các vị này là một Tỷ-kheo trẻ tuổi, hầu hạ Trưởng lão nhiều việc, quét phòng, múc nước, dọn dẹp đồ ăn, đem tăm đánh răng, nước rửa mặt, dọn dẹp sạch sẽ nhà vệ sinh, đem nước nóng đến các phòng ở, và làm các công việc cần khác, như bóp tay, bóp chân, đấm lưng.

Trưởng lão lấy năm trăm tấm vải được nhận lần sau đem cho Tỷ-kheo ấy, vì xứng đáng với tất cả sự hầu hạ giúp đỡ cho mình. Tỷ-kheo này, chia tất cả tấm vải ấy cho những vị đồng sự với mình. Như vậy, tất cả Tỷ-kheo đều nhận các tấm vải cúng dường. Họ cắt những tấm vải ấy rồi nhuộm vàng như bông Kanikàra. Họ đến bậc Ðạo Sư đảnh lễ, ngồi xuống một bên và thưa:

– Bạch Thế Tôn, một Thánh đệ tử đã chứng quả Dự lưu có phải là một người nhìn mặt để bố thí không?

– Này các Tỷ-kheo một Thánh đệ tử không phải là một người nhìn mặt để bố thí.

– Bạch Thế Tôn, giáo thọ sư chúng con, vị Trưởng lão Thủ kho Chánh pháp đã đem năm trăm tấm vải trị giá một ngàn đồng tiền vàng mỗi tấm cho một Tỷ-kheo trẻ tuổi, và vị ấy đem chia các tấm vải đã nhận cho chúng con.

– Này các Tỷ-kheo, Ànanda không phải là người nhìn mặt để bố thí. Tỷ-kheo thị giả ấy đã giúp đỡ thầy mình nhiều. Do vậy, vì hầu hạ, vì công đức, vì thích ứng đối với người đã hầu hạ mình nên vị ấy đã làm như vậy để giúp đỡ lại những ai đã giúp đỡ, vị ấy cho như vậy để báo đáp trả ân. Các bậc hiền trí thời xưa cũng đã giúp đỡ lại những ai đã giúp đỡ mình.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của các Tỷ-kheo ấy, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con sư tử sống trong một hang núi. Xung quanh chân núi ấy, có một hồ nước lớn bao bọc. Trên một mảnh đất nổi lên của hồ nước, đất bùn dày đặc, cỏ mọc xanh mềm và trên đám bùn ấy, các loài thỏ nai v.v… các con vật nhanh nhẹn khác qua lại để ăn cỏ. Ngày hôm ấy, có một con nai đi qua lại ăn cỏ. Ở đấy, sư tử muốn ăn thịt con nai, từ trên núi nhảy xuống, với sức nhanh của mình, nó nhảy tới. Con nai hoảng sợ kêu lớn tiếng rồi bỏ chạy, Sư tử không có thể chạy mau hơn và rơi trên mặt bùn, bị lún xuống, không đứng dậy được, vì bốn chân đâm sâu như cây cột, bảy ngày đứng như vậy không ăn không uống gì.

Một con chó rừng đi tìm mồi, chợt thấy sư tử, liền hoảng sợ chạy trốn. Nhưng sư tử kêu nó lại:

– Này bạn chó rừng, chớ chạy, ta nay bị mắc dính trong bùn. Hãy cứu ta sống.

Chó rừng đi đến gần sư tử và nói:

– Nếu tôi kéo ngài lên, tôi sợ rằng ngài sẽ ăn thịt tôi!

– Chớ sợ, ta sẽ không ăn thịt ngươi. Trái lại ta sẽ phục vụ giúp đỡ người rất nhiều. Hãy tìm một phương tiện kéo ta lên.

Chó rừng chấp nhận lời hứa, liền bới đất bùn xung quanh bốn chân sư tử, đào bốn mương nước ở đó, dẫn nước chảy vào làm cho đất bùn mềm. Khi ấy chó rừng bò dưới bụng sư tử và nói:

– Hãy cố gắng lên, thưa ngài.

Rồi dùng cái đầu húc cái bụng sư tử lên. Sư tử vận hết sức mạnh, vươn lên khỏi bùn, nhảy lên đứng trên đất cứng. Sư tử nghỉ ngơi một lát rồi đi xuống hồ, rửa sạch bùn. Tắm xong, nó giết một con trâu và với những nanh ngoạm sâu vào thịt trâu, nó xé thịt ra đặt một số thịt trước mặt chó rừng:

– Này bạn hãy ăn đi!

Sau khi chó rừng ăn, sư tử mới ăn. Rồi chó rừng cất giữ lại một miếng thịt.

– Này bạn giữ miếng thịt để làm gì?

Chó rừng trả lời:

– Có bạn gái giữ nhà cho tôi, miếng thịt này dành cho nàng.

Sư tử nói:

– Ðược lắm, hãy lấy đi.

Rồi sư tử cũng lấy một miếng thịt cho vợ mình. Cả hai cùng đứng trên chóp núi và đồng ý sẽ về chỗ ở của hai bạn gái. Nói xong, sư tử đi đến đấy, đem thịt cho sư tử cái và chó rừng cái, rồi cùng nói:

– Bắt đầu từ nay, ta sẽ săn sóc các nàng.

Sau đó, sư tử đưa cả hai vợ chồng chó rừng vào chỗ ở của mình, để chúng ở tại một hang khác gần cửa hang của mình.

Từ đó trở đi, khi đi săn mồi, sư tử để sư tử cái và chó rừng cái ở lại, còn mình đi với chó rừng đực, giết chết nhiều loại thú. Cả hai ăn thịt ngay tại chỗ, rồi đem về hai phần cho hai con cái ăn. Như vậy, thời gian qua , sư tử cái sanh hai đứa con. Chó rừng cái cũng vậy. Tất cả bọn chúng sống hòa hợp với nhau. Một hôm, sử tử cái suy nghĩ: “Con sư tử này quá thương yêu chó rừng cái và các chó rừng nhỏ. Có thể nó có gian tình với chó rừng cái. Do đó, nó mới luyến ái như vậy. Vậy ta hãy hành hạ con này, làm cho nó hoảng sợ, và bỏ trốn đi”.

Trong khi sư tử đem chó rừng đi săn mồi, sư tử cái bắt đầu hành hạ, làm cho chó rừng cái hoảng sợ:

– Tại sao ngươi cứ ở đây? Tại sao không đi nơi khác?

Các sư tử con cũng làm cho các chó rừng con hoảng sợ như vậy. Chó rừng cái nói lại với chồng sự việc này:

– Rõ ràng Sư tử muốn ám chỉ chúng ta đã ở đây quá lâu. Nay mai Sư tử giết chúng ta. Vậy ta hãy trở về hang cũ đã sống trước kia.

Chó rừng gặp sư tử đực và thưa:

Thưa ngài, chúng tôi đã ở với ngài quá lâu. Ai ở lâu cũng làm mất sự lưu luyến. Trong khi chúng ta đi săn mồi, sư tử cái hành hạ và dọa nạt vợ tôi và nói: Sao các ngươi ở chỗ này, hãy trốn đi! Các sư tử con cũng dọa các chó rừng con như vậy. Nếu ai không ưa bạn láng giềng thì nên bảo họ đi làm ăn chỗ khác chứ hành hạ như vầy có ích gì?

Sau khi nói vậy, chó rừng đọc bài kệ đầu:

Muốn gì làm cho được,
Là thường pháp kẻ mạnh,
Con cái rống, tôi biết,
Trước tôi nương, nay sợ.

Nghe chó rừng nói, sư tử bảo vợ:

– Này hiền thê, trong thời ấy ta đi săn mồi bị kẹt trong bùn đến ngày thứ bảy…, ta mới về với hai vợ chồng chó rừng này. Hiền thê có nhớ không?

– Vâng, tôi có nhớ.

– Hiền thê có biết lý do nào sau bảy ngày ta mới về không?

– Thưa chàng, tôi không biết.

– Này hiền thê, ta nhảy vồ bắt một con nai, bị dính mắc vào bùn, không thể ra khỏi chỗ ấy được. Trong bảy ngày ấy, ta đứng đó, không ăn uống gì. Ta đã nhờ con chó rừng này cứu sống.Con này là bạn của ta, đã cứu mạng sống ta. Bạn nào có khả năng trung kiên trong tình bạn, bạn ấy không yếu hay nhỏ. Bắt đầu từ nay, hiền thê chớ có khinh thường như vậy đối với bạn ta, vợ bạn ta các con bạn ta.

Rồi con sư tử nói bài kệ thứ hai:

Dù nhỏ bé, yếu đuối,
Vẫn kiên trì tình bạn,
Chính bà con thân thích,
Này vợ răng nanh ta!
Chớ khinh miệt bạn ấy,
Chính con chó rừng này
Ðã cho ta mạng sống.

Sư tử cái nghe lời chồng, giảng hòa với gia đình chó rừng, và từ đấy về sau, sống hòa thuận với chó rừng cái và các con của nó. Các sư tử con chơi giỡn với các con chó rừng con. Khi cha mẹ qua đời, chúng không chấm dứt tình bạn, vẫn sống hoan hỷ với nhau. Thật vậy, tình bạn của chúng kéo dài cho đến bảy đời.

*

Sau khi kể câu chuyện này, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài thuyết giảng, một số vị Tỳ-kheo đắc quả Dự lưu, một số đắc quả Nhất lai, một số đắc quả Bất Lai, và một số đắc quả A-la-hán.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ con chó rừng là Ànanda, và con sư tử là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON NGỰA SUHANU (Tiền thân Suhanu)

Loài vật tính không khác…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về hai Tỷ kheo hung bạo, độc ác. Ở tỉnh thành, cũng có một vị như vậy. Một hôm, Tỷ-kheo ở tỉnh thành, vì một vài công việc, đi đến Kỳ Viên. Các Sa-di và các Tỷ-kheo trẻ biết tánh hung bạo của Tỷ-kheo ấy, họ nói:

– Chúng ta muốn thấy hai Tỷ-kheo hung bạo ấy cãi nhau.

Họ cười khúc khích dẫn Tỷ-kheo ấy đến phòng Tỷ-kheo ở Kỳ Viên. Cả hai vị hung bạo, vừa thấy nhau liền mến nhau, xoa bóp tay, chân và lưng cho nhau. Các Tỷ-kheo ở tại Chánh pháp đường nói về câu chuyện như sau:

– Thưa các Hiền giả, những Tỷ-kheo hung bạo này đối với người khác thường hay lỗ mãng, độc ác. Nhưng đối với nhau, cả hai lại hòa thuận, hoan hỷ, thương mến nhau.

Bậc Ðạo Sư đến Chánh pháp đường hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, hôm nay ở đây, các ông ngồi họp đang bàn vấn đề gì?

Khi nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay là như vậy. Thuở xưa, họ cũng là người hung bạo, độc ác đối với những người khác. Nhưng họ đối với nhau lại hòa hợp hoan hỷ, sống thân ái.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là vị đại thần của vua, làm tất cả mọi việc, cố vấn cho vua về thế sự và thánh sự. Vua có tánh hơi tham. Trong chuồng ngựa của vua có một con ngựa lỗ mãng tên là Mahàsona (hạt dẻ lớn). Một số người buôn ngựa từ phương bắc đem đến năm trăm con ngựa và báo cho vua biết. Từ trước, vị đại thần thường bảo họ tự định giá ngựa rồi trả tiền đầy đủ mà không đòi bớt lui gì. Nhà vua không được vui, cho gọi một đại thần khác và nói:

– Này khanh, hãy cho họ định giá các con ngựa. Trước hết hãy thả con ngựa Mahàsona vào giữa đàn ngựa ấy, khiến nó cắn các con ngựa mới đến làm chúng bị thương và yếu sức, rồi bảo họ hạ giá và trả bớt tiền.

– Thưa vâng.

Ðaị thần ấy vâng lời làm như đã bảo. Các người buôn ngựa không hoan hỷ, báo cho Bồ-tát việc làm của vị đại thần ấy. Bồ-tát hỏi:

– Các ngươi có con ngựa lỗ mãng ở trong chuồng ngựa của các ngươi không?

– Thưa ngài có. Con ngựa lỗ mãng ấy tên là Suhanu (quai hàm mạnh), nó rất hung bạo, độc ác.

– Vậy khi nào các ngươi trở lại, hãy đem con ngựa ấy đến.

Một hôm vua nghe nói đoàn người buôn ngựa và bảo thả con ngựa Mahàsona ra. Các người buôn thấy con ngựa Mahàsona đến, liền thả con ngựa Suhanu. Hai con ngựa ấy gặp nhau, liền đứng lại và liếm thân nhau. Vua hỏi Bồ-tát:

– Này khanh, hai con ngựa lỗ mãng này thật hung hãn, độc ác, bạo hành với con ngựa khác. Còn chúng đối với nhau lại đứng liếm thân và hoan hỷ với nhau, sao lại như vậy?

Bồ-tát thưa:

– Thưa Ðại vương, vì tính của loài vật không khác nhau. Khi tính của chúng cùng loài với nhau, thì chúng thương yêu nhau.

Và Bồ-tát đọc hai bài kệ:

Loài vật tính không khác,
So-na, và Su-ha-nu,
Cả hai đều hòa hợp,
Su-ha-nu giống như vậy,
Cùng loài với So-na.

Hoang dã và ác độc,
Thường cắn những dây cương,
Như vậy ác, ác đồng,
Bất thiện, bất thiện đồng.

Sau đó, Bồ-tát thưa:

– Thưa Ðại vương, một vị vua chớ nên quá tham lam. Chớ nên làm hại tài sản của người khác.

Sau khi khuyên răn nhà vua, Bồ-tát cho định giá ngựa và trả tiền đúng giá. Các người buôn ngựa nhận được tiền đúng giá, vui vẻ ra đi. Còn nhà vua tuân hành lời khuyên răn của Bồ-tát, rồi khi mệnh chung, đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, hai con ngựa là hai Tỷ-kheo độc ác, vua là Ànanda, và vị đại thần hiền trí là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON CÔNG (Tiền thân Mora)

Hãy mọc lên, mặt trời…,

Câu chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn. Tỷ-kheo ấy được các Tỷ-kheo, có phải ông đã thối thất tinh tấn?

Tỷ-kheo đáp:

– Bạch Thế Tôn, thật vậy.

Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Vì thấy gì?

Tỷ-kheo ấy đáp:

– Vì thấy một nữ nhân có thân thể trang sức đẹp đẽ.

Bậc Ðạo Sư nói với vị ấy:

– Này Tỷ-kheo, không lạ gì một nữ nhân rất dễ làm rối loạn tâm của một người như ông. Ngay các bậc hiền trí thuở xưa, sau khi nghe tiếng nữ nhân, dầu tu hành trong bảy trăm năm không phạm giới, vẫn bị uế nhiễm tức khắc. Ngay cả các bậc thanh tịnh cũng như vậy. Các vị đạt được danh vọng cùng tột khi đam mê nữ sắc cũng sẽ tiêu vong danh dự, còn nói gì các vị không thanh tịnh như ông?

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát tái sanh làm con chim công.

Khi còn ở trong vỏ trứng màu vàng như nụ hoa Kanikàra, Bồ-tát làm vỡ trứng thoát ra. Bồ-tát thành một con chim công vàng đẹp đẽ mỹ miều, dưới cánh có những đường viền đỏ chói. Ðể bảo vệ sự sống của mình, sau khi vượt qua ba dãy núi, và trong dãy núi thứ tư, chim công lông vàng mới lựa chọn chỗ ở trên cao nguyên của ngọn núi vàng ở Dandaka. Khi trời rạng đông, đậu trên chỏm núi nhìn mặt trời mọc lên, Bồ-tát đọc một câu chú để hộ trì cho mình bình an trước khi bay đi tìm mồi. Thần chú ấy bắt đầu với câu:

Hãy mọc lên, mặt trời,
Vua độc nhất có mắt,
Với màu sắc vàng chói,
Sáng rực cả đất liền.
Và ta đảnh lễ ngài,
Bậc chói vàng quả đất,
Nay hãy bảo hộ ta
Sống an toàn trọn ngày.

Như vậy, sau khi đảnh lễ mặt trời với bài kệ này để bảo vệ mình, Bồ-tát lại đảnh lễ các đức Phật đã nhập diệt trong quá khứ và các công đức của chư Phật với bài kệ thứ hai:

Các vị Thánh, chân nhân,
Bậc tuệ tri mọi pháp,
Con đảnh lễ các Ngài
Hãy hộ trì cho con.
Ðảnh lễ chư Phật-đà,
Ðảnh lễ Bồ-đề vị,
Ðảnh lễ bậc giải thoát,
Ðảnh lễ giải thoát vị.

Sau khi đọc lên bài chú bảo hộ này, chim công liền đi tìm mồi. Như vậy ban ngày, chim công đi tìm mồi; vào buổi chiều, chim công đậu trên chóp núi, nhìn mặt trời lặn, sau khi tưởng nhớ các công đức của Phật, con công lại làm bài chú khác để hộ trì xứ của mình, bài kệ bắt đầu với chữ: Hãy lặn xuống mặt trời:

Hãy lặn xuống mặt trời,
Vua độc nhất có mắt,
Với màu sắc vàng chói,
Sáng rực cả đất liền;
Và ta đảnh lễ ngài,
Bậc chói vàng quả đất,
Nay hãy bảo vệ ta
Sống an toàn trọn đêm.

Chư vị thánh, chân nhân,
Bậc tuệ trí mọi pháp,
Con đảnh lễ các ngài,
Hãy hộ trì cho con.
Ðảnh lễ chư Phật-đà,
Ðảnh lễ Bồ-đề vị,
Ðảnh lễ bậc giải thoát,
Ðảnh lễ giải thoát vị.

Sau khi đọc bài chú này để bảo vệ mình, chim công đi ngủ.

Bấy giờ không xa Ba-la-nại bao nhiêu, có một người thợ săn ở tại một ngôi làng. Trong khi đi săn ở khu vực Tuyết Sơn, thấy Bồ-tát đang đậu trên ngọn núi vàng ở Dandakha, anh ta báo cho con trai biết.

Một hôm, hoàng hậu của vua Ba-la-nại tên là Khemà (Thái Hòa) nằm mộng thấy một con công sắc vàng thuyết pháp, liền tâu vua:

– Thưa đại vương, thiếp muốn nghe con công sắc vàng thuyết pháp.

Vua hỏi các đại thần việc ấy. Các đại thần đáp:

– Chắc các Bà-la-môn biết việc ấy.

Các Bà-la-môn thưa:

– Có loài chim công sắc vàng.

Vua lại hỏi:

– Chúng ở đâu?

Họ trả lời:

– Chắc chắn những người thợ săn có thể biết.

Vua cho họp các thợ săn lại để hỏi họ. Con trai của người thợ săn ấy thưa:

– Thưa có, tâu Ðại vương, tại hòn núi vàng ở Dandaka, con chim công sắc vàng đang ở tại đấy.

– Vậy chớ giết chim công ấy, bắt nó đem về đây.

Người thợ săn đi, đặt bẫy lưới tại chỗ tìm mồi của chim công. Nhưng tại chỗ chim công bước lên, lưới bẫy không sập. Người thợ săn không bắt được chim công, trải bảy năm đi săn như vậy, và đã mệnh chung. Hoàng hậu Khema không đạt được ước nguyện cũng mệnh chung. Nhà vua tức giận bảo:

– Vì một con chim công, hoàng hậu của ta đã mệnh chung.

Vua bảo khắc trên một tấm vàng những dòng chữ sau đây:

– Trên dãy Tuyết Sơn, có ngọn núi vàng tên là Dandaka. Tại đấy có con chim công sắc vàng ở. Ai ăn thịt con chim công ấy sẽ trẻ mãi không bao giờ già.

Họ viết vậy xong, vua bỏ lá vàng ấy trong một cái hộp. Sau khi vua mệnh chung, vị vua khác lên kế vị, đọc tấm lá vàng, và ước: “Ta sẽ không bao giờ già”. Vua liền cho gọi một thợ săn khác. Thợ săn ấy ra đi, không bắt được Bồ-tát, và cũng mệnh chung tại đấy. Theo diễn tiến như vậy, sáu vua lần lượt băng hà.

Rồi vị vua thứ bảy lên kế vị, cũng cho gọi một thợ săn. Người thợ săn ấy đi, nhận xét rằng tại chỗ chim công đạp lên, bẫy lưới không sập, và biết chim công đã đọc câu bùa chú trước khi đi đến chỗ tìm mồi. Anh ta liền xuống chỗ đầm lầy ở biên địa, bắt một chim công mái, dạy nó múa hát và đem chim công mái ấy đến nơi này, vào buổi sáng trước khi chim công đọc bùa chú. Người thợ dựng lên cái cọc bẫy sập, đặt bẫy lưới và khiến chim công mái kêu.

Chim công nghe tiếng con mái kêu khác thường, liền bị tiếng sét ái tình khơi dậy dục vọng trong lòng nên không thể đọc bùa chú, đi đến công mái và bị mắc vào bẫy. Thợ săn bắt được chim công, đem dâng cho vua Ba-la-nại. Vua thấy sắc đẹp con chim công, rất bằng lòng. Sau khi ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, Bồ tát liền hỏi:

– Thưa Ðại vương, sao Ðại vương bảo bắt thần?

Vua nói:

– Ta nghe rằng những ai ăn thịt ngươi sẽ không bao giờ già. Ta muốn trường xuân bất lão, nên ta bảo bắt ngươi để ăn.

– Như vậy những ai ăn thịt thần sẽ được trường xuân bất lão. Như thế là thần sẽ chết.

– Phải, ngươi sẽ chết.

– Nhưng nếu thần chết thì người làm thần chết cũng sẽ chết theo.

Vua nói:

– Ngươi có sắc vàng, do vậy ta nghe nói những ai ăn thịt ngươi sẽ trẻ mãi không bao giờ già.

– Thưa Ðại vương, thần sanh ra sắc vàng không phải là không có lý do. Thuở xưa, thần là vị vua Chuyển luân ngự trị tại thành phố này. Thần giữ gìn Năm Giới, và khiến cho dân chúng trong toàn cõi thế giới giữ Năm Giới. Sau khi mệnh chung, thần được sanh tại lâu đài cõi Trời Ba mươi ba, sống tại đấy cho hết tuổi thọ, và mệnh chung. Chính vì kết quả của một nghiệp bất thiện, thần phải sanh làm con chim công, nhưng nhờ sức mạnh của giới hạnh cũ, thần có màu sắc vàng.

– Nhà ngươi là vua Chuyển luân đã giữ Giới! Do kết quả của Giới sanh ra sắc vàng, điều này làm sao chúng ta tin được? Có gì làm bằng chứng?

– Thưa Ðại vương, thần có một bằng chứng.

– Bằng chứng gì?

– Thưa Ðại vương, khi thần làm vua Chuyển luân, thần thường ngồi trên xe bằng vàng bạc, đi ngang qua hư không. Cỗ xe ấy của thần nay nằm chôn trong đất, dưới cái hồ của Ðại vương. Hãy cho đào dưới hồ lên, và cái xe ấy sẽ làm chứng cho thần.

Vua chấp thuận việc ấy và đáp:

– Lành thay.

Rồi vua cho tát nước ra khỏi hồ, đào lên được cỗ xe và tin lời Bồ-tát thưa:

– Thưa Ðại vương, trừ Niết-bàn bất tử, tất cả pháp khác đều là pháp hữu vi, không có thực tánh, vô thường, chịu sự hoại diệt.

Sau khi nói xong, Bồ-tát thuyết pháp cho vua, và khuyên vua giữ Năm Giới. Nhà vua hoan hỷ, cúng dường quốc độ cho Bồ-tát, và tỏ lòng hết sức cung kính. Bồ-tát không nhận vương quốc nhưng khuyên vua:

– Ðại vương chớ phóng dật.

Rồi bay lên hư không đi về núi Vàng Dandaka.

Còn vua tuân theo lời khuyên của Bồ-tát làm các công đức như bố thí v.v… rồi khi mạng chung, đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại này, Bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng, vị Tỷ-kheo thối thất đã đắc quả A-la-hán.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ nhà vua là Ànanda và Ta là con chim công vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON NGỖNG XANH SẨM (Tiền thân Vinìlaka)

Giống vua Vi-đề-ha…,

Câu chuyện này, khi trú ở Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa bắt chước bậc Thiện Thệ.

Khi hai vị đại đệ tử đi Gayàsisa, tại đấy Ðề-bà-đạt-đa bắt chước bậc Thiện Thệ và gặp nạn. Hai vị Trưởng lão thuyết pháp và đem các vị Tỷ-kheo y chỉ mình đi về Trúc Lâm. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Xá-lợi-phất, khi thấy các ông, Ðề-bà-đạt-đa đã làm gì?

Hai vị thưa:

– Bạch Thế Tôn, Ðề-bà-đạt-đa đã bắt chước bậc Thiện Thệ và đã gặp đại nạn.

Bậc Ðạo sư nói:

– Này Xá-lợi-phất, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới bắt chước Ta và gặp nạn, mà thuở xưa, cũng đã như vậy rồi.

Nói xong, theo lời Trưởng lão yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa trong nước Videha, khi vua Videha trị vì ở thành Mithilà, Bồ-tát nhập mẫu thai bà hoàng hậu. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài được học tất cả tài nghệ ở Takkasalà, rồi khi vua cha mệnh chung, Bồ-tát lên ngôi kế vị.

Lúc bấy giờ, một vị vua ngỗng trời sắc vàng sống chung với một con quạ cái ở bãi mồi và đẻ ra một ngỗng đực. Con chim ấy không giống mẹ, cũng không giống cha, toàn màu xanh tối và được gọi là Vimìlaka. Vua ngỗng trời thường đi đến thăm con. Rồi hai ngỗng trời con khác được sanh rất giống cha. Thấy cha thường hay đi đến thế giới loài người, chúng bèn hỏi cha lý do. Ngỗng cha nói:

– Các con thân, cha đã sống chung với một con quạ cái, và sanh một ngỗng đực tên là Vinìkala. Vì thế ta hay đi đến thăm nó.

– Thế bọn chúng sống ở đâu? Ngỗng con hỏi.

– Hiện nay nó sống ở nước Videha, không xa Mithilà bao nhiêu, trên ngọn cây cọ dừa (Ta-la).

– Thưa cha thân, sống giữa thế giới loài người thật nguy hiểm đáng sợ hãi. Cha đừng đi đến đó. Chúng con sẽ đi và đem nó về cho cha.

Hai ngỗng trời con được chấp thuận, liền đi đến chỗ ấy, bảo con ngỗng Vinìkala ngồi trên một thanh cây, rồi chúng cắn hai đầu thanh cây và bay ngang qua thành Mithilà.

Trong lúc ấy, vua Videda đang ngồi trên cỗ xe lộng lẫy được đàn ngựa Sindh thuần chủng gồm bốn con toàn trắng, kéo đi vòng quanh thành phố. Vinìkala thấy vua liền suy nghĩ:” Ta và Vua Videha nào có khác gì. Vua ngồi trên cỗ xe được 4 ngựa Sindh kéo đi vòng quanh thành phố; con ta ngồi trên cổ xe được các con ngỗng trời kéo, và đi trên hư không!”. Khi nó đi ngang qua hư không, nó đọc lên bài kệ đầu:

Giống vua Vi-de-ha
Ðược các ngựa thuần chủng
Kéo ngang các ngôi nhà
Tại thành Mi-thi-là,
Cũng vậy, Vi-nì-là
Ðược hai ngỗng trời chở
Giữa hư không bao la!

Các ngỗng trời con nghe lời nói ấy của Vinìlaka rất phẫn nộ. Trước tiên chúng có ý định: “Chúng ta sẽ bỏ nó rơi xuống ở đây và bay đi”. Nhưng nghĩ lại:”Làm vậy, cha chúng ta thế nào cũng la mắng chúng ta”. Vì sợ bị cha mắng, chúng đưa Vinìkala đến với cha và kể cho cha nghe việc ngỗng kia đã làm. Ngỗng trời cha tức giận nói:

– Mày hơn các anh mày sao? Mày làm ra vẻ cao sang, tưởng mình là chúa tể và xem các anh mày như ngựa kéo xe à? Mày không biết tự lượng sức? Ðây không phải chỗ tìm mồi của mày. Hãy đi về chỗ ở của mẹ mày!

Sau khi mắng nó, ngỗng cha đọc bài kệ thứ hai:

Vi-ni-ka, con thân,
Sống ở đây nguy hiểm,
Ðây không chỗ cho mày,
Hãy sống tại cổng làng,
Nơi mẹ mày mong đợi,
Hãy đến đó vội vàng!

Cùng với lời la mắng Vinìkala như vậy, ngỗng trời bảo các con:

– Hãy mang con này đem ra chỗ phóng uế là bãi phân ngoài thành Mithilà.

Và chúng làm theo lời cha bảo.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ Vinìlaka là Ðề-bà-đạt-đa, các ngỗng trời con là hai đệ tử đầu tay, ngỗng trời cha là Ànanda, còn vua Videha là Ta vậy.

PHẨM SANTAHAVA

  1. CHUYỆN ẨN SĨ INDASAMÀNAGOTTA (Tiền thân Indasamànagotta)

Chớ giao du thân mật…,

Câu chuyện này, khi trú tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một người tánh tình khó bảo. Hoàn cảnh câu chuyện sẽ được nói đến trong tiền thân Gijjha (Số 427) Chương IX. Bậc Ðạo Sư nói với Tỷ-kheo ấy:

– Thuở trước, ông là một người khó bảo, vì không nghe lời các bậc hiền trí, nên đã bị con voi điên chà đạp đến chết.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài từ bỏ đời sống gia đình, xuất gia làm vị ẩn sĩ, sống tại dãy núi Tuyết. Lúc bấy giờ, trong các vị ẩn sĩ có một vị tu khổ hạnh tên là Indasamànagotta là người khó bảo, không nghe lời khuyên răn. Người này có nuôi một voi con. Bồ-tát nghe nói vậy cho gọi vị ấy đến và hỏi:

– Có đúng sự thật chăng, con có nuôi một voi con?

– Thưa Sư trưởng, con có nuôi một voi con đã mất mẹ.

Bồ-tát bảo:

– Loài voi khi lớn lên thường giết hại người nuôi dưỡng. Vậy chớ nên nuôi dưỡng con voi ấy.

– Không có nó, con không thể sống được, thưa Sư trưởng.

– Vậy con sẽ thấy rõ.

Con voi được nuôi dưỡng, sau một thời gian, nó lớn lên rất nhanh. Một thời, các ẩn sĩ ấy đi lấy rễ và hái trái cây v.v… trong rừng và ở tại đấy vài ngày. Khi gió nam bắt đầu thổi, con voi trở thành điên cuồng, có ý định: “Ta sẽ phá hoại chòi lá, đập vỡ ghè nước quăng bỏ chiếc ghế nằm, xé nát giường nằm và giết người tu khổ hạnh này và ra đi!” Vì vậy, nó núp vào trong một lùm cây và đứng nhìn theo dõi con đường họ về.

Sau khi lấy các đồ ăn cho con voi, Indasamana đi về trước tất cả mọi người, thấy con voi, tưởng rằng mọi việc vẫn như cũ nên đi đến gần con voi. Con voi từ lùm cây chạy vụt ra, lấy vòi quấn vị ẩn sĩ, quật ngã xuống đất, lấy chân đạp lên đầu, chấm dứt mạng sống của vị ấy, rồi rống lên và chạy vào rừng. Các ẩn sĩ còn lại báo tin nầy lên cho Sư trưởng. Bồ-tát nói:

– Không nên làm thân với kẻ ác.

Rồi Bồ-tát đọc hai bài kệ:

Chớ giao du thân mật
Với kẻ ác, bất thiện,
Bậc Thánh biết rõ ràng
Xu hướng kẻ phi thánh,
Chóng hay chầy kẻ ác
Cũng sẽ làm điều ác,
Như voi với ẩn sĩ
In-da-sa-mà-na.

Nếu ngươi thấy người nào
Biết kẻ ấy như mình
Về giới, về trí tuệ,
Và cả về nghe nhiều,
Hãy lựa người như vậy
Làm bạn thân giao du,
Sống với bậc chân nhân
Là sống chân hạnh phúc.

Như vậy, Bồ-tát khuyến giáo chúng ẩn sĩ:

– Chớ trái lời khuyến giáo, nên sống theo lời khéo dạy:

Rồi Bồ-tát làm tang lễ của Indasamàna.

Sau đó Bồ-tát tu tập Tứ vô lượng tâm và được sanh lên thế giới Phạm thiên.

*

Sau khi kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Indasamànagotta là Tỷ-kheo khó bảo này, còn Sư trưởng chúng ẩn sĩ là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN MỐI THÂN GIAO (Tiền thân Santhava)

Không gì độc hại hơn…,

Câu chuyện này, khi trú tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về việc tế lễ lửa thần. Câu chuyện này giống như câu chuyện trước đã kể trong Tiền thân Naguttha (số 144). Các Tỷ-kheo thấy các vị tế lễ lửa thần liền hỏi Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, các vị bện tóc hành trì nhiều loại tà khổ hạnh. Việc ấy có lợi ích gì?

Bậc Ðạo Sư đáp:

– Này các Tỷ-kheo, việc ấy không có lợi ích gì. Các bậc hiền trí thuở xưa tưởng rằng có lợi ích trong sự tế lễ lửa thần nên đã tế lễ lửa thần trong một thời gian dài. Sau khi thấy được việc ấy không lợi ích, liền đổ nước dập tắt lửa, và lấy những cành cây dập cho tan lửa rồi quay lưng lại không nhìn lui nữa.

Sau khi nói vậy, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Lúc Bồ-tát được mười sáu tuổi, cha mẹ lấy ngọn lửa khi Bồ-tát mới sanh nói với Bồ-tát:

– Này con thân, con muốn cầm lấy ngọn lửa đản sanh này, đi vào rừng và nuôi dưỡng ngọn lửa ấy; hay là học ba tập Vệ-đà, xây dựng gia sản và sống đời gia đình?

Bồ-tát nói:

– Con không thích đời sống gia đình. Con sẽ nuôi dưỡng ngọn lửa trong rừng để được sanh lên Phạm thiên giới.

Bồ-tát lấy ngọn lửa đản sanh, đảnh lễ mẹ cha, rồi đi vào rừng, sống trong một chòi lá và nuôi dưỡng ngọn lửa thần.

Một hôm đi đến chỗ mời ăn, Bồ- tát nhận được bơ chín và cháo sữa, bèn đem cháo sữa về, đốt lửa lên và nghĩ: “Ta sẽ đổ cháo sữa với bơ chín để cúng dường lửa thần”. Bồ-tát đổ cháo sữa trên ngọn lửa, nhưng vì đổ quá nhiều dầu trên lửa, ngọn lửa bừng cháy lớn lên và thiêu luôn chòi lá. Vị Bà-la-môn hoảng sợ chạy trốn, đứng ngoài xa và nói:

– Không nên thân giao với những kẻ ác. Nay chòi lá mà ta dựng lên một cách mệt nhọc đã bị ngọn lửa này đốt cháy.

Và Bồ-tát đọc bài kệ đầu:

Không gì độc hại hơn
Là thân với kẻ ác,
Ðược đổ vào nuôi dưỡng
Với bơ chín, cháo sữa,
Ngọn lửa thiêu chòi lá
Ta dựng thất khó khăn.

Rồi Bồ-tát nói thêm:

– Ta không còn gì liên hệ với ngươi nữa, này bạn giả dối kia!

Nói vậy xong, Bồ-tát lấy nước dập tắt ngọn lửa, và cành cây dập tan ngọn lửa, rồi đi sâu vào trong núi Tuyết. Tại đó ngài thấy một con hươu cái liếm mặt con sư tử, con cọp và con báo. Ðiều ấy khiến Bồ-tát nghĩ rằng không gì tốt hơn là thân giao với những bạn chân thật, rồi Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Không gì tốt lành hơn
Thân giao bạn chân thật;
Hãy xem con hươu đen
Thân mật liếm mặt mày,
Con sư tử, con cọp,
Và cả con báo nữa.

Nói vậy xong, Bồ-tát đi sâu vào trong núi Tuyết, sống đời xuất gia của vị ẩn sĩ, chứng được các Thắng trí và các Thiền chứng, đến khi mạng chung, ngài sanh lên Phạm thiên giới.

*

Sau khi kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vị tu khổ hạnh là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN VUA SUSÌMA (Tiền thân Susìma)

Hơn trăm voi toàn đen…,

Câu chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về sự bố thí tùy theo ý muốn. Tại Xá-vệ, đôi khi một gia đình cúng dường cho chúng Tỷ-kheo do đức Phật lãnh đạo; đôi khi họ bố thí cho các ngoại đạo, đôi khi nhiều người hội họp thành một tổ chức, chung nhau bố thí; đôi khi cùng chung một con đường, đôi khi toàn thể dân ở thành quyên góp tùy nguyện rồi bố thí.

Trong trường hợp này, toàn dân trong thành quyên góp tùy nguyện, nhưng khi sắp đặt tất cả vật dụng để bố thí, họ chia thành hai phe. Một số người muốn bố thí tất cả vật dụng cho các ngoại đạo. Một số người muốn bố thí cho chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị lãnh đạo. Vì vậy có sự cãi vã, đệ tử các ngoại đạo binh vực các ngoại đạo, đệ tử đức Phật binh vực chúng Tỷ-kheo. Khi quyết định lấy số đông, thì những người nói “Chúng tôi bố thí cho chúng Tăng với đức Phật là vị lãnh đạo” chiếm đông hơn nên được chấp nhận. Ðệ tử các ngoại đạo không thể ngăn chận các sự bố thí cúng dường đức Phật. Các người thị dân mời chúng Tăng với đức Phật là vị lãnh đạo. Họ tổ chức bố thí lớn trong bảy ngày, và đến ngày thứ bảy, họ cúng dường tất cả các vật dụng. Bậc Ðạo Sư nói lời tùy hỷ công đức. Rồi Ngài chỉ dạy cho đại chúng về các quả tu chứng.

Tại tinh xá Kỳ Viên vào buổi chiều, các Tỷ-kheo hội họp tại Chánh pháp đường, và nói lên câu chuyện này:

– Thưa các Hiền giả, đệ tử các ngoại đạo cố gắng ngăn chận sự cúng dường đức Phật, nhưng họ không thể ngăn chận. Tất cả vật dụng bố thí ấy đều được đặt dưới gót chân của đức Phật. Ôi, vĩ đại thay là sức mạnh của đức Phật!

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông họp tại đây và đang bàn vấn đề gì?

Khi được trả lời vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay ngoại đạo mới cố gắng ngăn chận sự bố thí cho Ta. Thuở xưa, họ đã cố gắng như vậy rồi. Nhưng các vật dụng bố thí trong tất cả trường hợp rồi cũng được đặt dưới gót chân của Ta.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, có một thời vua Susìma trị vì ở Ba-la-nại. Lúc bấy giờ Bồ-tát nhập mẫu thai một nữ Bà-la-môn là vợ của vị cố vấn tế tự cho vua. Khi Bồ-tát lên mười sáu tuổi, người cha mệnh chung. Khi còn sống, người cha là vị chủ trì hội lễ voi. Tất cả những đồ trang bị, trang sức cho các con voi đi dự hội đều thuộc sở hữu người cha. Nhờ vậy, sau ngày hội lễ voi, người cha thâu hoạch được mười triệu đồng tiền vàng. Lúc bấy giờ, hội lễ voi đã đến. Các Bà-la-môn đi yết kiến vua và thưa:

– Tâu Ðại Vương, lễ voi năm nay đã đến. Chúng ta cần phải chuẩn bị tổ chức lễ cho thật tốt. Nay con trai của vị Bà-la-môn cố vấn tế lễ còn quá trẻ, lại không biết ba tập Vệ-đà và không biết tượng kinh (những vấn đề kiến thức liên hệ đến voi). Hãy để cho chúng thần tổ chức hội lễ voi.

Vua chấp thuận việc này. Các Bà-la-môn nghĩ:”Chúng ta không cho người con của vị cố vấn tế tự tổ chức hội lễ voi, chính chúng ta đứng ra tổ chức. Chúng ta sẽ thâu nhiều tiền”. Họ hoan hỷ đi ra.

Còn bốn ngày nữa sẽ đến ngày lễ hội. Mẹ Bồ-tát được tin, suy nghĩ: “Suốt bảy đời truyền thống này sẽ chấm dứt ở gia đình chúng ta; và tài sản sẽ bị tổn giảm”. Vì vậy, bà mẹ buồn sầu muộn và gào khóc. Bồ-tát hỏi:

– Vì sao mẹ khóc?

Và khi nghe rõ lý do, Bồ-tát nói:

– Thưa mẹ, khi nào họ tổ chức lễ hội voi.

Bà mẹ nói:

– Này con thân, con không biết ba tập Vệ-đà lại không biết tượng kinh, làm sao con có thể tổ chức hội lễ được?

– Thưa mẹ, khi nào họ tổ chức hội lễ voi?

– Này con thân, còn bốn ngày nữa.

– Thưa mẹ, các Sư trưởng thuộc lòng ba tập Vệ-đà và tượng kinh sống ở đâu?

– Này con thân, Sư trưởng có tiếng nhiều phương, đang sống ở Takkasilà tại nước Gandhara, cách xa khoảng hai ngàn dặm.

– Thưa mẹ, con sẽ không để huỷ hoại truyền thống của gia đình chúng ta. Trong một ngày, con sẽ đi đến Takkasilà; trong một đêm, con sẽ học xong ba tập Vệ-đà và tượng kinh. Ngày sau, con sẽ trở về và đến ngày thứ tư, con sẽ tổ chức hội lễ voi, mẹ chớ khóc nữa!

Với những lời này, Bồ-tát an ủi mẹ. Sau khi ăn xong, sáng sớm hôm sau Bồ-tát ra đi một mình. Chỉ trong một ngày đi đến Takkasilà, Bồ-tát đảnh lễ vị sư trưởng hỏi Bồ-tát:

– Này con thân, con từ đâu đến?

– Thưa Sư trưởng, con từ Ba-la-nại đến.

– Vì mục đích gì?

– Vì mục đích học ba tập Vệ-đà và tượng kinh từ Sư trưởng.

– Lành thay, này con thân, ta sẽ dạy cho con. Bồ-tát thưa:

– Thưa Sư trưởng, con có công việc khẩn cấp.

Bồ-tát báo cho Sư trưởng biết mọi sự việc và thưa:

– Trong một ngày, con đã đi 2000 dặm đến đây. Hãy cho con cơ hội học một đêm nay. Ðến ngày thứ ba, sẽ là ngày lễ hội voi rồi. Con sẽ học tất cả qua một bài thôi.

Sau khi thưa vậy, Bồ-tát được Sư trưởng bằng lòng, liền rửa đôi chân Sư trưởng, rồi đặt 1000 đồng tiền vàng, đảnh lễ Sư trưởng, và ngồi xuống một bên. Bồ-tát chăm chú học thuộc lòng cho đến lúc rạng đông, đã xong ba tập Vệ-đà và tượng kinh, rồi hỏi:

– Thưa Sư trưởng, có gì khác nữa không?

Khi được trả lời:

– Này con thân, không có gì khác, tất cả đã xong.

Bồ-tát muốn sửa cách dạy của Sư trưởng, liền nói:

– Thưa Sư trưởng, trong quyển sách này, câu kệ ấy đến quá trễ, câu này đọc sai, từ nay về sau thầy phải dạy đệ tử như thế này.

Sau khi sửa sai xong, Bồ-tát ăn thật sớm, đảnh lễ bậc Sư trưởng, và trong một ngày đi về Ba-la-nại, đảnh lễ bà mẹ. Bà mẹ hỏi:

– Này con thân, con đã xong học nghề chưa?

Bồ-tát thưa:

– Con đã học xong.

Và Bồ-tát làm cho bà mẹ vui lòng. Ngày hôm sau, ngày hội lễ voi được sửa soạn. Khoảng 100 con voi được đem ra sắp hàng, mọi thứ trang sức bằng vàng, cờ xí cũng bằng vàng, tất cả được bao phủ với một lưới bằng vàng mịn. Cả sân chầu ở cung điện vua cũng được trang hoàng tuyệt đẹp. Các Bà-la-môn nghĩ: “Chúng ta sẽ cử hành lễ voi, tất cả đều được trang sức tốt đẹp”. Vua Susìma trang sức rất lộng lẫy rực rỡ ngự đến và truyền cho đem theo các vật dụng làm lễ. Còn Bồ-tát trang sức như một hoàng tử với hội chúng của mình vây quanh, đi đến vua và thưa:

– Tâu Ðại Vương, có đúng sự thật chăng Ngài chấm dứt truyền thống của gia đình chúng thần và cho các Bà-la-môn khác tổ chức hội lễ voi, và cho họ các thứ trang sức trang bị của voi?

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ đầu:

Hơn 100 voi toàn đen
Với những ngà trắng bạch,
Bao phủ với lưới vàng,
Thần đều cúng Ðại vương!

Hỡi vua Su-si-ma,
Có phải Ngài đã nói,
Ngài có nhớ đến chăng
Quyền lợi tổ tiên thần?

Vua Susìma nghe lời Bồ-tát, liền thốt lên bài kệ thứ hai:

Hơn 100 voi vàng đen
Với những ngà trắng bạch
Bao phủ với lưới vàng,
Ðều thuộc sở hữu ta,
Ta nói, này thanh niên,
Ta cho khanh, cho khanh!
Ta thật có nhớ đến
Quyền lợi tổ tiên khanh.

Rồi Bồ-tát thưa với vua:

– Thưa Ðại vương, nếu Ðại vương nhớ đến truyền thống của chúng thần, vì sao Ngài bỏ thần một bên và giao cho người khác tổ chức hội lễ voi?

– Này khanh thân, ta được báo cáo khanh không biết ba tập Vệ-đà và tượng kinh, nên ta cho các Bà-la-môn khác tổ chức lễ hội voi.

– Vậy tâu Ðại vương, nếu một vị nào giữa các Bà-la-môn ấy có thể đọc lên một phần của ba tập Vệ-đà và tượng kinh với thần, xin hãy đứng lên. Trong toàn cõi Diêm-phù-đề không một ai khác trừ thần ra có thể biết ba tập Vệ-đà và tượng kinh để tổ chức hội lễ voi.

Như vậy Bồ-tát rống lên tiếng rống con sư tử đáp lời vua! Không một Bà-la-môn nào có thể đứng dậy để địch lại Bồ-tát. Sau khi đòi lại truyền thống gia đình của mình, Bồ-tát liền tổ chức hội lễ voi, rồi mang theo nhiều tài sản và đi về trú xứ của mình.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể pháp thoại này xong, Ngài thuyết giảng các Sự thật. Sau bài thuyết giảng, một số Tỷ-kheo đắc quả Dự lưu, một số đắc quả Nhất Lai, một số đắc quả Bất Lai, một số đắc quả A-la-hán.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ bà mẹ là Mahàmàyà, người cha là Tịnh phạn vương (Suddhodana), người cha là Ànanda, vị Sư trưởng có danh tiếng khắp nơi là Xá-lợi-phất (Sàriputta), và thanh niên Bà-la-môn là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CHIM DIỀU HÂU (Tiền thân Gijjha)

Diều hâu thấy xác chết…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo nuôi dưỡng mẹ. Hoàn cảnh câu chuyện sẽ được kể trong Tiền thân Sàma (số 532).

Bậc Ðạo Sư hỏi Tỷ-kheo ấy:

– Này Tỷ-kheo, có phải ông nuôi dưỡng một nữ gia chủ?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

– Họ có liên hệ gì với ông? Bậc Ðạo Sư hỏi tiếp.

– Bạch Thế Tôn, đó là mẹ con.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Lành thay, lành thay! Chớ tức giận Tỷ-kheo này. Các bậc hiền trí thuở xưa đã hầu hạ giúp đỡ ngay cả những người không phải bà con của mình, chỉ vì muốn làm công đức. Còn người này giúp đỡ mẹ cha mình.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con diều hâu ở núi Linh Thứu, nuôi dưỡng mẹ và cha.

Một hôm có cơn gió thổi mạnh và mưa lớn. Các con diều hâu không thể chịu đựng gió và mưa, liền bay đến Ba-la-nại. Khi đến gần bức thành, chúng liền đậu trên bức thành, run lên vì lạnh. Lúc bấy giờ, vị triệu phú Ba-la-nại từ thành đi ra, đi đến sông tắm, thấy các con diều hâu khốn khổ này liền dụ chúng lại một chỗ không mưa, cho đốt lửa, sai người đi đến bãi tha ma của bò, đem thịt bò về, cho chúng ăn và đặt người bảo vệ chúng.

Khi mưa gió chấm dứt, thân thể các con diều hâu lành mạnh, chúng liền bay về núi. Tại đấy, chúng hội họp lại và bàn tính như sau:

– Chúng ta được người triệu phú Ba-la-nại giúp đỡ. Chúng ta phải trả ơn người đã giúp đỡ chúng ta. Do vậy bắt đầu từ nay, nếu có ai lượm được tấm vải hay đồ trang sức gì, hãy bay đến Ba-la-nại và thả rơi trong sân nhà triệu phú.

Từ đó trở đi, nếu các con diều hâu thấy người ta phơi vải hay đồ trang sức giữa nắng, chúng liền chờ đợi một phút lơ đãng, rồi nhanh như cắt, chụp lấy đồ vật như chụp miếng thịt và bay đến thả rơi trong sân nhà người triệu phú Ba-la-nại. Khi người triệu phú biết được là đồ vật do các con diều hâu mang lại, ông cất giữ chúng tại một chỗ.

Mọi người trình vua là các con diều hâu đang đánh cắp đồ vật trong thành phố. Vua ra lệnh:

– Hãy bắt cho được một con diều hâu, ta bảo chúng mang trả lại tất cả.

Vì vậy khắp nơi, dân chúng đặt bẫy sập và lưới, rồi con diều hâu nuôi dưỡng mẹ bị mắc vào bẫy.

Bắt được con diều hâu, dân chúng đưa nó đến trình vua. Người triệu phú Ba-la-nại đang đi đến hầu vua, thấy các người ấy bắt được con diều hâu, liền đi theo họ vì sợ họ làm nó bị thương.

Vua hỏi con diều hâu:

– Có phải các ngươi ăn cắp, mang đi vải và đồ vật khác trong thành phố?

– Thưa vâng, tâu Ðại vương.

– Các ngươi cho ai những vật ấy?

– Chúng tôi cho vị triệu phú Ba-la-nại.

– Vì nguyên nhân gì?

– Vì vị ấy cho chúng tôi mạng sống. Chúng tôi phải trả ơn người đã làm ơn cho mình, nên chúng tôi đem cho vị ấy.

Rồi vua nói:

– Này diều hâu, nghe nói đứng xa một trăm dặm, các con diều hâu có thể thấy xác chết, vậy sao ngươi không thấy bẫy sập được bày ra?

Nói xong vua đọc bài kệ đầu:

Diều hâu thấy xác chết
Cách xa một trăm dặm,
Sao ngươi lại không biết
Va chạm lưới và bẫy?

Con diều hâu nghe hỏi vậy, liền thốt lên bài kệ thứ hai:

Chúng sanh gặp tai họa,
Mạng sống gần tiêu vong,
Khi ấy không thể biết,
Nên va chạm lưới bẫy.

Nghe con diều hâu đáp lại, vua hỏi vị triệu phú:

Có thật chăng, này nhà đại triệu phú, các con diều hâu mang thả vào nhà ông các thứ vải và đồ vật?

– Thưa Ðại vương, sự thật là vậy.

– Những đồ vật ấy nay ở đâu?

– Thưa Ðại vương, tất cả đã được tôi góp lại một chỗ. Những ai là chủ của chúng, tôi sẽ trả lại, nhưng xin ngài hãy thả con diều hâu này.

Sau khi can thiệp để thả con diều hâu, nhà đại triệu phú trả lại tất cả đồ vật cho chủ của chúng.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư liền thuyết giảng các Sư Thật. Sau bài giảng, vị Tỷ-kheo nuôi dưỡng mẹ đã đắc quả Dự lưu.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ vua là Ànanda, nhà triệu phú là Xá-lợi-phất, còn con diều hâu nuôi dưỡng mẹ là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON CHUỘT RỪNG (Tiền thân Nakula)

Này vật sanh bào thai…,

Câu chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về hai viên chức cãi lộn nhau. Hoàn cảnh câu chuyện này giống như câu chuyện đã kể trong Tiền thân Uraga (Số 154). Ở đây, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, hai viên chức cao cấp này không phải nay mới được Ta làm cho hòa hợp. Thuở trước, Ta cũng đã làm cho họ hòa hợp rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình Bà-la-môn, tạo một ngôi làng nhỏ ở Kàsi. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát đi học tất cả tài nghệ ở Takkasilà. Rồi ngài từ bỏ gia đình, xuất gia làm vị ẩn sĩ, đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng. Ngài sống ở vùng Tuyết Sơn bằng rễ cây và trái cây hái được trong rừng.

Tại cuối đường kinh hành của Bồ-tát, một con chuột rừng hay ăn rắn trú ở trong một ổ mối. Gần hang đó trong một hốc cây, có con rắn trú ẩn. Cả hai con chuột hoang và con rắn luôn luôn cãi lộn nhau. Bồ-tát khuyên dạy chúng về nguy hại của sự cãi lộn và những lợi ích của lòng từ bi:

– Chớ cãi lộn, nên sống hòa hợp với nhau.

Khi con rắn đi ra ngoài, con chuột hoang thò đầu ra miệng hang lỗ mối ở cuối đường kinh hành, mở miệng thở ra thở vô và nằm ngủ. Bồ-tát thấy con chuột hoang nằm ngủ như vậy bèn hỏi:

– Vì sao ngươi lại sợ hãi?

Và Bồ-tát đọc bài kệ đầu:

Này vật sanh bào thai,
Ngươi đã kết bạn được
Với kẻ thù của ngươi
Sanh ra từ hòn trứng,
Sao lại ngủ nhe răng?
Từ đâu ngươi sợ hãi?

Nghe Bồ-tát nói, con chuột hoang trả lời:

– Thưa Tôn giả, chớ khinh thường kẻ dịch, phải luôn cảnh giác và đề phòng nó.

Nói vậy xong, con chuột hoang đọc bài kệ thứ hai:

Chớ khinh thường kẻ thù,
Chớ tin tưởng bè bạn,
Từ không sợ, sợ sanh,
Cái gốc bị cắt đứt.

Bồ-tát nói:

– Chớ sợ, Ta đã khuyên nhủ con rắn không hại ngươi. Bắt đầu từ nay, ngươi chớ nghi ngờ nó.

Sau khi khuyên răn như vậy, Bồ-tát chuyên tu tập từ, bi, hỷ, xả và hướng đến Phạm thiên giới.

Và khi hai con vật kia mạng chung, chúng cũng đi theo nghiệp của mình.

*

Sai khi kể pháp thoại này, Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy con rắn và con chuột hoang là hai viên chức cao cấp này, còn vị tu khổ hạnh là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN BÀ-LA-MÔN UPASÀLHA (Tiền thân Upasàlha)

Có đến mười bốn ngàn…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Bà-la-môn quá khó tánh đối với nghĩa trang. Vị này giàu có tài sản, nhưng theo tà kiến, tuy sống gần tịnh xá, vẫn không có cảm tình với chư Phật. Nhưng người con trai là bậc Hiền trí, có trí tuệ. Khi vị Bà-la-môn về già, ông nói với con trai.

– Chớ thiêu đốt ta tại nghĩa trang nào của kẻ hạ tiện. Hãy thiêu đốt ta tại chỗ nào thật sự không có uế nhiễm.

– Thưa cha thân, con không biết chỗ nào thích hợp để thiêu đốt cha. Lành thay, nếu cha dắt con đến một chỗ và nói: Hãy thiêu đốt tại chỗ này.

Vị Bà-la-môn nói:

– Lành thay, này con thân.

Người triệu phú dắt con đi ra khỏi thành, leo lên chóp núi Linh Thứu và nói:

– Này con thân, đây không phải là nơi thiêu đốt người hạ tiện, hãy thiêu đốt ta ở đây.

Nói xong ông ta bắt đầu đi xuống núi với con.

Trong ngày ấy buổi sáng, Bậc Ðạo Sư nhìn xem những bà con nào đủ căn duyên giác ngộ và thấy cha con người ấy có căn duyên chứng quả Dự Lưu. Ngài đi theo con đường của họ, đến chân núi và ngồi chờ họ từ chóp núi xuống. Hai cha con đi xuống nhìn thấy bậc Ðạo Sư. Ngài mở lời chào đón và hỏi:

– Này các Bà-la-môn, các ông từ đâu về?

Người thanh niên kể lại sự việc và nói:

– Bạch Thế Tôn, cha tôi chỉ khoảng giữa ba ngọn núi này.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này cậu trai, không phải chỉ nay cha cậu mới khó tánh, khắt khe đi tìm nghĩa trang, không phải chỉ nay cha cậu mời chỉ: Hãy thiêu đốt ta tại chỗ này. Thuở trước, cha cậu cũng chỉ chính chỗ này.

Và theo lời yêu cầu của cậu trai, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa tại Vương Xá này có một vị Bà-la-môn tên là Upasàlhaka. Người này có một con trai. Lúc bấy giờ, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở nước Ma-kiệt-đà, học đầy đủ các tài nghệ rồi xuất gia làm vị ẩn sĩ, chứng được các Thắng trí và Thiền chứng, thích thú trong thiền định. Sau khi sống lâu ngày trong khu vực núi Tuyết, vì vấn đề muối và các gia vị, Bồ-tát đến sống trong một chòi lá ở Linh Thứu. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn ấy nói với con trai đi tìm nghĩa trang đúng như cách thức đã nói ở trên. Người con trai yêu cầu:

– Cha hãy chỉ cho con địa điểm thích hợp.

Người cha chỉ chính chỗ này, rồi cùng con đi xuống núi, thấy Bồ-tát và đi đến gần ngài. Bồ-tát hỏi như cách thức đã kể ở trên. Sau khi nghe người con trai trả lời, Bồ-tát nói:

– Hãy đi! Chúng ta sẽ biết chỗ cha cậu chỉ là uế nhiễm hay không uế nhiễm.

Bồ-tát bảo họ trèo lên chóp núi. Cậu thanh niên nói:

– Ðây là địa điểm không bị uế nhiễm giữa ba ngọn núi.

Bồ-tát đáp:

– Này cậu trai, chính tại địa điểm này, đã có vô lượng người được thiêu đốt. Cha cậu sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Vương xá này, với tên là Upasàlhaka, chính giữa ngọn núi này, đã được thiêu đốt mười ngàn lần. Trên toàn thế giới, không có một chỗ nào không phải là chỗ thiêu xác, không có một chỗ nào không tràn đầy những đầu lâu.

Sau khi chỉ rõ, phân tích sự việc này với trí biết các đời trước, Bồ-tát đọc hai bài kệ này:

Có mười bốn ngàn người
Tên U-pa-sàl-ha,
Bị thiêu tại chỗ này
Không chỗ nào trên đời
Lại không có người chết.

Chỗ nào có chân lý,
Chánh pháp và bất hại,
Có tiết chế, điều ngự,
Chỗ ấy, bậc Thánh sống.
Chính chỗ ấy, thần chết
Không thể tìm lối vào.

Nói xong, Bồ-tát thuyết pháp cho hai cha con, khiến họ tu tập Từ, Bi, Hỷ, Xả, và khi chết được sanh lên cõi trời Phạm thiên.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể pháp thoại này xong, Ngài thuyết giảng các Sự thật. Sau bài giảng các Sự thật, hai cha con ấy đắc quả Dự lưu.

Và ngài nhận diện Tiền thân:

– Cha con thời ấy là cha con hiện tại, còn vị tu khổ hạnh là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN TRƯỞNG LÃO SAMIDDHI (Tiền thân Samiddhi)

Tỷ-kheo đi khất thực…,

Câu chuyện này khi trú ở Vương Xá, tại vườn Tapodàràma, bậc Ðạo Sư kể về Trưởng lão Samiddhi. Một hôm, Tôn giả Samiddhi trọn đêm tinh cần, tụ tập. Khi trời rạng đông, Tôn giả tắm xong, quấn nội y, cầm thượng y trên tay, đứng phơi cho khô, thân mình có sắc màu vàng chói giống như một tượng vàng được tạc tuyệt đẹp vì thế có tên gọi Samiddhi (thân hình tuyệt đẹp)

Thấy thân sắc tuyệt đẹp của Tôn giả, một thần nữ sanh tâm say đắm, nói như sau với Trưởng lão:

– Này Tỷ-kheo, chàng còn trẻ với tuổi niên thiếu, tóc đen nhánh, với tuổi thanh xuân đầy nhựa sống, đẹp mắt, khả ái như vậy, sao chàng không hưởng thụ các dục, vì mục đích gì lại xuất gia? Hãy hưởng thụ các dục lạc trước, rồi sau sẽ xuất gia và hành Sa-môn pháp.

Trưởng lão nói với thần nữ ấy:

– Này thần nữ, đến một tuổi nào đó, ta sẽ chết. Ta không biết thời nào ta sẽ chết. Thời ấy đối với ta bị che kín. Do vậy, trong tuổi trẻ, ta hành trì Sa-môn pháp để chấm dứt đau khổ.

Thần nữ không cám dỗ được Trưởng lão liền biến mất tại chỗ. Trưởng lão đi đến bậc Ðạo Sư, và thuật lại câu chuyện. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Samiddihi, không phải chỉ nay ông bị thần nữ luyến ái. Thuở trước, các thần nữ cũng luyến ái các vị xuất gia rồi.

Sau đó, theo lời yêu cầu của vị trưởng lão, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn tại một làng ở Kàsi. Khi đến tuổi trưởng thành, và đạt thành công trong tất cả tài nghệ, Bồ-tát xuất gia làm vị ẩn sĩ, đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng, rồi sống gần một hồ thiên nhiên trong khu vực Tuyết sơn.

Bồ-tát suốt đêm tinh tấn tu tập. Ðến rạng đông, sau khi tắm xong, Bồ-tát quấn tấm y làm bằng vỏ cây, còn tấm y kia cầm tay, và đứng phơi thân cho khô. Rồi một thần nữ nhìn thân thể tuyệt đẹp của Bồ-tát, tâm tư say đắm, sanh luyến ái Bồ-tát và đọc bài kệ đầu:

Tỷ-kheo đi khuất thực,
Có biết hưởng dục chăng?
Chàng theo hạnh khất thực,
Không hưởng thọ dục lạc,
Tỷ-kheo, hãy hưởng dục,
Rồi sẽ hành khất thực,
Chàng chớ để thời gian
Trôi qua thật uổng phí.

Bồ-tát nghe lời nói của thần nữ, liền nêu lên chí nguyện của mình, qua bài kệ thứ hai:

Thời chết, ta không biết,
Thời gian bị ngăn che,
Do vậy, không hưởng thọ,
Ta hành trì khất thực,
Ta không để thời gian
Trôi qua thật uổng phí.

Thần nữ nghe lời Bồ-tát nói liền biến mất tại chỗ.

*

Sau khi kể pháp thoại này bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, thần nữ ấy là thần nữ này, còn Ta là vị tu khổ hạnh.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CHIM DIỀU HÂU (Tiền thân Sakunagghi)

Diều hâu với sức mạnh…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ viên,bậc Ðạo Sư kể về ý nghĩa bài kinh Khuyên dạy loài chim của Ngài (Sakunovàda)

Một hôm, bậc Ðạo Sư gọi các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, khi các ông đi khất thực, mỗi người hãy giữ đúng địa hạt của mình.

Rồi Ngài đọc bài kinh ấy từ Ðại phẩm phù hợp với trừng hợp này và nói thêm:

– Thuở xưa, các loài bàng sanh từ bỏ địa hạt nhà của mình, đi tìm ăn không phải chỗ, và rơi vào tay kẻ thù. Rồi nhờ trí tuệ và phương tiện thiện xảo của mình, chúng thoát khỏi tay của kẻ thù.

Nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bà-la-môn, Bồ-tát sanh làm chim cun cút sống tìm mồi tại những mô đất do cày bừa để lại. Một hôm, chim cun cút ấy từ bỏ khu vực tìm mồi quen thuộc của mình để đi nơi khác, và nó đi đến biên địa ngôi rừng. Thấy chim cun cút đang đi tìm mồi, tại chỗ ấy, một con diều hâu nhanh như cắt bay sà xuống chụp lấy cun cút và tha đi. Khi bị bắt, chim cun cút than:

– Ta thật đại bất hạnh! Ta thật là ít phước! Ta đã đi tìm mồi không phải chỗ, vào địa hạt của loài khác. Nếu nay ta đi tìm mồi trong khu vực tìm mồi của ông cha ta, trong địa hạt nhà của mình, thì con diều hâu này không đối địch với ta được, khi có đánh nhau.

Nghe vậy, diều hâu hỏi:

– Này chim cút nhỏ bé kia, chỗ nào là chỗ tìm mồi trong địa hạt nhà của ngươi, nơi mà ông cha ngươi đã tìm mồi?

– Tại chỗ này, chỗ những mô đất do cày bừa để lại.

Rồi con diều hâu nới lỏng sức mạnh của mình và nói:

– Hãy đi, chim cun cút bé nhỏ kia, dù đi đến đấy, ngươi cũng không thoát khỏi ta đâu.

Con chim cun cút bay đến đấy, đậu lên một mô đất lớn và gọi:

– Này diều hâu, ta cám ơn ngươi, nay ngươi hãy đến đây!

Con diều hâu tập trung sức mạnh của mình, vận dụng cả hai cánh lại, mau lẹ sà xuống chụp lấy con chim cút. Con chim cút biết: ” Con diều hâu này vồ bắt ta với tất cả sức mạnh”, liền xoay lại tránh qua phía những mô đất ấy. Chim diều hâu không thể trì hãm sức lực, đập mạnh cánh vào đấy, liền vỡ tim, lòi mắt và chết toi mạng.

Sau khi trình bày câu chuyện quá khứ này, bậc Ðạo Sư nói thêm:

– Như vậy này các Tỷ-kheo, các loài bàng sanh, khi đi tìm mồi không phải chỗ, đã rơi vào tay kẻ thù. Nhưng khi chúng đi tìm mồi trong địa hạt của mình, chúng đánh bại được kẻ thù. Do vậy, các ông chớ có đi không đúng chỗ, và đến địa hạt của người khác. Khi ta rời địa hạt của mình, Ác-ma sẽ đợi cơ hội, Ác-ma sẽ được thuận duyên. Này các Tỷ-kheo, chỗ nào là không đúng chỗ của Tỷ-kheo, là địa hạt của người khác? Ðó chính là năm dục lạc. Thế nào là năm? Sắc do mắt nhận thức… Này các Tỷ-kheo, đấy không phải là chỗ của Tỷ-kheo, là địa hạt của người khác.

Nói vậy xong, đấng Chánh Giác đọc bài kệ đầu:

Diều hâu với sức mạnh
Sà xuống chụp con cút,
Con cút đang tìm mồi
Trên địa hạt của mình,
Vì sà chụp quá mạnh,
Diều hâu chết toi mạng.

Khi diều hâu chết, chim cút mới đi ra và tuyên bố:

– Ta đã thấy được lưng kẻ thù.

Rồi đứng trên quả tim của con diều hâu, nó nói lên lời hứng qua bài kệ thứ hai:

Ta biết phương tiện hay,
Vui trên địa hạt nhà,
Ta mừng kẻ thù bại,
Thọ hưởng lợi ích mình.

*

Bậc Ðạo Sư kể pháp thoại này xong, liền thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng, nhiều Tỷ-kheo được an trú vào các Ðạo và Quả.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con diều hâu là Ðề-bà-đạt-đa, còn chim cút là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN ÐẠO SƯ ARAKA (Tiền thân Araka)

Ai chính với Từ tâm…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về kinh Từ bi.

Một thời, bậc Ðạo Sư nói như sau với các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, Từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm sung mãn, được làm như cỗ xe, được làm thành căn cứ địa, được thực hiện, được khéo nỗ lực, thì được mười một lợi ích. Thế nào là mười một? Ngủ an lạc, thức dậy an lạc, không thấy ác mộng, loài người kính yêu, chư Thiên bảo hộ, lửa, thuốc độc hay gươm không đến gần, tâm mau chóng được thiền định, sắc mặt tịnh tín, không hôn ám khi mệnh chung, trí tuệ minh mẫn, sanh lên Phạm thiên giới. Này các Tỷ-kheo, Từ tâm giải thoát được thực hành sẽ được mười một lợi ích này.

Tán thán Từ tâm giải thoát đem lại mười một lợi ích này, Ngài còn dạy thêm:

– Một Tỷ-kheo cần phải tu tập Từ bi đối với tất cả chúng sanh, dù được bảo làm hay không, cũng phải hướng lòng từ, lòng bi đối với mọi loài. Như vậy đối với tất cả chúng sanh, dù được bảo làm hay không, một Tỷ-kheo cũng phải được tu tập từ tâm, bi tâm, hỷ tâm, xả tâm. Ðó là bốn Vô lượng tâm. Làm như vậy, khi thân hoại mạng chung vị ấy sẽ sanh lên Phạm thiên giới dù không đạt Ðạo hay Quả. Các bậc thiền trí thời xưa tu tập Từ tâm trong bảy năm, đã an trú ở Phạm thiên giới trong suốt bảy thành kiếp hoại kiếp.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, trong một đời, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài từ bỏ các dục, xuất gia làm vị ẩn sĩ, chứng được Bốn Vô lượng tâm và trở thành bậc Ðạo Sư tên là Araka. Bồ-tát sinh sống trong khu vực núi Tuyết với một hội chúng lớn và Bồ-tát khuyên dạy giáo hội chúng ẩn sĩ:

– Người xuất gia phải tu tập Từ tâm, phải tu tập bi tâm, hỷ tâm, xả tâm. Từ tâm chứng được nhờ chú tâm trên đối tượng sửa soạn đưa vị ấy đến Phạm thiên giới.

Ðể nêu rõ những lợi ích của Từ tâm, Bồ-tát đọc các bài kệ:

Ai chính với Từ tâm
Thương xót mọi thế giới
Trên, dưới và bề ngang,
Vô lượng trùm tất cả
Tâm từ bi vô lượng
Viên mãn, khéo tu tập,
Với nghiệp có hạn lượng
Tâm ấy không chất chứa.

Như vậy, Bồ-tát nói lên những lợi ích tu tập Từ tâm cho các đệ tử. Rồi không từ bỏ thiền định, ngài sanh lên Phạm thiên, và trong suốt bảy thành kiếp, hoại kiếp, ngài không trở lại thế giới này.

*

Sau khi kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, hội chúng ẩn sĩ là hội chúng đức Phật, và Ðạo Sư Araka là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON KỲ NHÔNG (Tiền thân Kakantaka)

Người này không cúi đầu …,

Câu chuyện Tiền thân Kakantaka sẽ được trình bày trong Tiền thân Mahà Ummagga, số 538.

PHẨM THIỆN PHÁP

  1. CHUYỆN THIỆN PHÁP (Tiền thân Kalyàna-dhamma)

Thưa Nhân chủ, ở đời…,

Câu chuyện này khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một bà mẹ vợ điếc. Ở Xá-vệ, một điền chủ có lòng tin, tinh tấn, quy y Ba ngôi báu và giữ gìn Năm giới. Một hôm, người ấy đem theo nhiều phẩm vật như bơ chín, hoa, hương, và vải đi đến tinh xá để nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp. Trong khi người ấy đi, bà mẹ vợ đem theo các món ăn loại cứng loại mềm đến thăm con gái bà. Bà già ấy có hơi điếc. Sau khi ăn với con gái, bà muốn xua đuổi sự buồn ngủ, bèn hỏi con gái:

– Này con, con sống với chồng có hoan hỷ hoà hợp không?

– Thưa mẹ sao mẹ hỏi vậy? Thật khó tìm được một người như anh ấy. Dù nhiều người xuất gia có giới đức và có đạo hạnh cũng khó sánh với con rể của mẹ.

Bà già nghe con gái nói, không phân biệt được rõ ràng, chỉ nắm lấy chữ “xuất gia” và la to:

– Sao con? Chồng con trở thành người xuất gia rồi ư?

Mọi người sống ở trong nhà nghe bà ta nói, bèn la lớn:

– Nghe nói người điền chủ của chúng ta đã xuất gia rồi!

Nghe tiếng la, quần chúng tụ họp ở cửa và hỏi :

– Sao, sự việc gì xảy ra vậy?

Và họ được trả lời:

– Nghe nói người chủ của nhà này đã xuất gia rồi!

Người điền chủ nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp xong, đi ra khỏi tinh xá và vào thành. Khi đi giữa đường, một người thấy ông liền hỏi :

– Thưa ông chủ, nghe nói ông xuất gia rồi phải không? Ở nhà ông, vợ con và những người phục vụ đang khóc đó!

Người điền chủ ấy suy nghĩ :

– Ta không xuất gia mà người này nói ta xuất gia. Một tiếng nói tốt về ta đã khởi lên, không nên để cho mất đi. Vậy hôm nay, ta phải xuất gia.

Người điền chủ quay trở lại, đi đến bậc Ðạo Sư, và Ngài hỏi:

– Này cư sĩ, nghe Như Lai thuyết giảng xong, Ta thấy ông đã đi về, sao nay ông còn trở lại?

Người điền chủ kể câu chuyện và thưa :

– Bạch Thế Tôn, một tiếng nói tốt khởi lên không nên để biến mất. Do vậy con muốn xuất gia, và con đã trở lại.

Thế Tôn cho người ấy được xuất gia, thọ đại giới, và chơn chánh hành trì, không bao lâu vị ấy chứng quả A-La-Hán. Câu chuyện này được chúng Tỷ- kheo biết. Một hôm, các Tỷ- kheo đang ngồi họp ở Chánh pháp đường và nói về câu chuyện sau đây:

– Này các Hiền giả, người điền chủ với tên này, được nghe một lời nói tốt khởi lên. Không muốn cho nó biến mất, vị ấy đã xuất gia và chứng quả A-la-hán.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi :

– Này các Tỷ-kheo, câu chuyện gì đang được các ông ngồi họp và bàn luận?

Khi nghe thuật câu chuyện trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, các bậc Hiền trí thuở xưa, vì không muốn một lời nói tốt đã khởi lên bị bỏ phí, nên đã xuất gia.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì nước Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình triệu phú. Khi đến tuổi trưởng thành, cha chết, Bồ-tát được đặt vào địa vị người triệu phú. Một hôm, Bồ-tát đi đến nhà vị ấy để thăm người con gái. Bà ta có hơi điếc. Câu chuyện xảy ra giống như câu chuyện hiện tại. Khi Bồ-tát hầu vua xong, đang đi về nhà, một người thấy Bồ-tát và hỏi:

– Nghe nói ông đã xuất gia rồi. Tại nhà ông mọi người đang than khóc lớn.

Bồ-tát suy nghĩ: “Một tiếng tốt khởi lên không nên để cho mất đi”. Vì thế, Bồ-tát đã trở lại và đi đến cung vua. Vua hỏi:

– Này nhà triệu phú, ông đã đi rồi sao còn trở lại?

– Thưa Ðại vương, tôi chưa xuất gia, nhưng dân chúng lại đồn tôi đã xuất gia nên khóc than. Một tiếng tốt đã khởi lên không nên để cho biến mất. Vì thế tôi sẽ xuất gia. Mong Ðại vương cho phép tôi xuất gia.

Ðể nói lên ý nghĩa này, Bồ-tát đọc những bài kệ:

Thưa Nhân chủ, ở đời,
Ðược danh xưng Thiện pháp,
Người có trí không nên
Ðể thối thất tổn giảm,
Hãy vì sự xấu hổ,
Chấp nhận gánh nặng ấy.

Thưa Nhân chủ, tên này
Nay được tặng cho tôi,
Ở đời, chính tại đây,
Tôi được tên Thiện pháp,
Thấy vậy, tôi xuất gia,
Tôi không ham dục lạc.

Bồ-tát nói vậy xong, liền được phép vua cho xuất gia. Sau đó, ngài đi đến khu vực Tuyết Sơn xuất gia làm vị ẩn sĩ, đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng, rồi khi mất, ngài được sanh lên Phạm thiên giới.

*

Bậc Ðạo Sư kể pháp thoại này xong, liền nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vua là Ànanda và vị triệu phú ở Ba-la-nại là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN NÚI DADDARA (Tiền thân Daddara)

Ai đã rống lớn tiếng…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Tỷ-kheo Kokàlika. Lúc bấy giờ tại cao nguyên Manosilà, nhiều Tỷ-kheo học rộng, rống tiếng của sư tử trẻ khiến cho sông Hằng thiên giới (Ngân Hà) gần như rơi xuống và đọc lên những câu kinh ở giữa Tăng chúng. Kokàlika không biết sự ngu dốt của mình đối với những câu kinh mà các Tỷ-kheo đã tụng đọc, và suy nghĩ: “Ta sẽ đọc những đoạn kinh đó”. Kokàlika đi vào giữa chúng Tỷ-kheo, nhưng không biết được danh hiệu dành cho mình, cứ đến chỗ này chỗ kia và nói:

– Các Tỷ-kheo không yêu cầu ta đọc kinh. Nếu họ yêu cầu, ta sẽ đọc.

Chúng Tỷ-kheo đã rõ biết khả năng đọc kinh của Kokàlika rồi, nhưng họ nghĩ: “Chúng ta sẽ thử Kokàlika”, nên họ nói như sau:

– Này Hiền giả Kokàlika, hôm nay Hiền giả hãy đọc một vài đoạn kinh cho chúng Tăng.

Kokàlika không biết sự ngu dốt của mình, chấp nhận và nói:

– Lành thay, hôm nay tôi sẽ đọc.

Kokàlika uống nước cháo, ăn một số món ăn và dùng một món canh hợp khẩu vị. Khi mặt trời lặn, thời kỳ nghe pháp đã báo hiệu, chúng Tỷ-kheo đã họp, Kokàlika quấn hạ y màu “vàng”, lại xanh như cây Kantakurania (hoa kèn xanh), đắp thượng y toàn trắng như bông Kanikàra, đi vào giữa chúng Tăng, đảnh lễ các vị Trưởng lão, bước lên pháp toạ đã được trang hoàng đặt dưới một cái đình lớn đính châu báu, cầm một cái quạt có màu sắc rực rỡ và ngồi trên ấy với ý định: “Ta sẽ tụng đọc một đoạn kinh”.

Chính khi ấy, những hạt mồ hôi bắt đầu toát ra khắp thân của Kokàlika, vị ấy đọc câu kệ thứ nhất trong đoạn thứ nhất, nhưng vị ấy không thể nhớ được câu kế tiếp. Run rẩy, từ chỗ ngồi đi xuống, cảm thấy xấu hổ, Kokàlika đi ra khỏi hội chúng và về phòng của mình. Một Tỷ-kheo khác có học nhiều đã đọc đoạn kinh kế tiếp. Từ đấy trở đi, tất cả các Tỷ-kheo đều biết được sự trống rỗng của Kokàlika.

Một hôm, các Tỷ-kheo tại Chánh pháp đường bắt đầu nói về câu chuyện ấy:

– Này các Hiền giả, ban đầu thật khó biết được sự trống rỗng của Kokàlika. Nhưng nay, Kokàlika đã tự mình rống lên và tự phơi bày sự kém cỏi của mình.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông nay ngồi họp bàn câu chuyện gì?

Sau khi nghe câu chuyện ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Kokàlika mới phơi bày sự trống rỗng của mình. Trước kia, kẻ ấy cũng đã rống lên và phơi bày sự trống rỗng như vậy rồi.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con sư tử ở khu vực Tuyết Sơn, là vua loài sư tử đông đảo sống trong hang Bạc. Gần đấy, một con chó rừng sống trong một cái hang khác.

Một hôm trời mưa, không đi được, tất cả sư tử họp tại cửa hang sư tử chúa, rống lên tiếng rống sư tử và chơi các trò sư tử. Trong khi chúng rống lên và chơi như vậy, con chó rừng cũng lên tiếng. Các con sư tử nghe tiếng của nó, suy nghĩ: “Ðây là con chó rừng cũng rống lên với chúng ta”. Chúng cảm thấy xấu hổ, nên im lặng. Khi thấy chúng im lặng, con của Bồ-tát, một sư tử con, hỏi cha:

– Thưa cha thân, các sư tử thường rống lên và chơi trò sư tử , nhưng khi nghe thấy tiếng con chó rừng lại xấu hổ và im lặng. Con vật ấy là con gì đã tự phơi bày tiếng rống hạ liệt của mình?

Sư tử con đọc bài kệ đầu để hỏi:

Ai đã rống lớn tiếng,
Vang dội Dad-da-ra,
Vì sao các sư tử
Lại không rống đáp lại?
Con thú rống như vậy
Tên nó gọi là gì?

Khi nghe vậy, sư tử cha đọc bài kệ thứ hai:

Chính là con chó rừng
Ðã rống, này con thân,
Con vật bần tiện nhất
Giữa các loại sanh thú,
Ghê tởm hạ sanh nó,
Sư tử ngồi im lặng.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Kokàlika với tiếng rống đã phơi bày sự kém cỏi của mình ta. Thuở trước, kẻ ấy cũng làm như vậy rồi.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con chó rừng là Kokàlika, sư tử con là La-hầu-la, còn sư tử chúa là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON VƯỢN (Tiền thân Makkata)

Có một kẻ khốn cùng…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ-Viên, bậc Ðạo Sư kể về một kẻ gian trá. (Hoàn cảnh câu chuyện này sẽ được trình bày trong Chương XIV, Tiền thân Uddàla (số 487)). Lúc bấy giờ, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Tỷ-kheo này mới gian trá. Thuở xưa, kẻ ấy là con vượn, vì ngọn lửa, cũng đã gian trá như vậy rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahamadatta trị vì ở Bà-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn tại một làng ở Kàsi. Khi đến tuổi trưởng thành, và đã đi học đủ các tài nghệ ở Takkasilà, Bồ-tát lập gia đình. Nữ Bà-la-môn ở nhà, sanh được một con trai. Khi đứa con bắt đầu chạy qua chạy lại, nữ Bà-la-môn mệnh chung. Bồ-tát làm xong tang lễ cho người chết, liền suy nghĩ: “Nay ta còn sống ở gia đình làm gì?” Và dắt con đi với ý định: “Chúng ta sẽ xuất gia”.

Từ giã bà con bạn bè tiễn đưa khóc lóc, Bồ-tát đem theo con đi vào Tuyết Sơn, làm vị ẩn sĩ, và sinh sống trong rừng với các thứ rễ và trái cây.

Một hôm, trong khi trời mưa, Bồ-tát đốt lửa củi lên, nằm xuống trên một tấm phản và hơ lửa cho ấm. Cậu con trai ngồi xoa bóp chân cha. Có một con vượn rừng bị lạnh hành hạ, chợt thấy ngọn lửa trong chòi lá của Bồ-tát, liền suy nghĩ: “Nếu ta vào đấy, chúng sẽ đập ta và la: Ôi con vượn, con vượn, và đuổi ta ra ngoài. Như vậy ta không sưởi lửa được. Nay ta có một phương tiện. Ta sẽ khoác áo một người tu khổ hạnh, và trá hình đi vào”. Vì vậy, nó choàng áo bằng vỏ cây của một người tu khổ hạnh đã chết, cầm lấy cái rổ và cái gậy có móc của nó, dựa vào một cây cọ dừa ở cửa chòi lá, và đứng đấy co ro cúm rúm. Cậu trai khổ hạnh thấy nó, không biết nó là con vượn, suy nghĩ: “Có một vị tu khổ hạnh lớn tuổi, bị rét muốn đến hơ lửa! Ta sẽ nói với cha ta cho vị này vào chòi lá và hơ lửa”. Vì vậy, cậu gọi cha và đọc bài kệ đầu:

Có một kẻ khốn cùng
Dựa vào cây cọ dừa,
Ðây ta có chòi lá,
Cho nó vào, cha thân.

Bồ-tát nghe con nói liền đứng dậy, ra cửa chòi lá nhìn, biết đấy là con vượn, ngài bảo:

– Này con thân, bộ mặt như vậy không phải là người thường, nó là con vượn, chớ gọi nó vào.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Con thân, chớ gọi nói,
Nó làm nhớp nhà ta!
Bộ mặt vậy không phải
Hạnh tốt Bà-la-môn.

Bồ-tát cầm một nhánh củi, ném nó và la lớn:

– Người đứng đấy làm gì?

Và đuổi nó đi. Con vượn quăng bỏ áo bằng vỏ cây, leo lên cây và đi vào trong khóm rừng.

Sau đó Bồ-tát tu tập Bốn Vô lượng tâm từ, bi, hỷ, xả, và khi mạng chung được sanh lên Phạm thiên giới.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ con vượn là Tỷ-kheo gian trá, con trai vị tu khổ hạnh là La-hầu-la và vị tu khổ hạnh là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON VƯỢN LỪA DỐI ( Tiền thân Dubhidamakkatta)

Ta đã cho nhà ngươi…,

Câu chuyện này, khi ở Trúc lâm, bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa. Một hôm, các Tỷ-kheo ngồi tại Chánh pháp đường, nói chuyện về Ðề-bà-đạt-đa không nhớ ơn và phản lại bạn bè. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới không nhớ ơn và phản lại bạn bè. Thuở trước, kẻ ấy cũng vậy rồi.

R ồi bậc Đạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn, tại một làng ở Kàsi. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát lập gia đình.

Lúc bấy giờ, trên một đại lộ trong xứ Kàsi có một cái giếng sâu, không ai xuống được. Những người qua lại con đường có các loài thú ở, muốn tạo công đức, thường dùng dây dài và cái gàu, múc nước đổ vào cái máng và cho các loài thú uống. Xung quanh giếng ấy có rừng lớn bao bọc, và nhiều con vượn sống tại đấy.

Rồi trên con đường ấy, trong hai ba ngày số nước do người qua lại cung cấp đã cạn. Các loại thú không có nước uống. Một con vượn bị cơn khát hành hạ, cứ đi qua lại gần cái giếng để tìm nước. Bấy giờ vì một vài công việc, Bồ-tát đi ngang qua đường ấy, kéo nước lên uống xong, Bồ-tát rửa tay chân và thấy con vượn ấy. Biết con vượn khát nước, Bồ-tát liền kéo nước lên, đổ đầy máng nước và cho nó uống. Rồi Bồ-tát nằm xuống một gốc cây để xem con vượn làm gì. Con vượn uống nước xong, ngồi xuống không xa với bộ mặt làm các trò khỉ để doạ Bồ-tát. Bồ-tát thấy nó làm vậy liền nói:

– Ôi, con vượn ác độc kia, ta thấy ngươi mệt mỏi khát nước đã cho ngươi uống. Nay ngươi lại lấy bộ mặt này làm các trò khỉ dọa nạt ta. Ôi, giúp đỡ kẻ làm ác không có lợi ích chỉ nhọc công toi.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ đầu:

Ta đã cho nhà ngươi
Ðược nhiều nước như vậy,
Ngươi bị nóng bức bách,
Ngươi bị khát hành hạ,
Nhưng nay đã uống xong,
Ngươi ngồi làm trò khỉ,
Tốt nhất, vậy không nên
Liên hệ với kẻ ác.

Nghe vậy, con vượn phản bạn ấy nói:

– Ngươi tưởng rằng ta chỉ làm vậy thôi sao?Ta sẽ làm rơi phân trên đầu ngươi trước khi đi.

Rồi nó đọc bài kệ thứ hai:

Ai từng nghe hoặc thấy
Khỉ nào có giới đức?
Nay thả phân đầu ngươi,
Thói chúng ta là vậy.

Nghe vậy, Bồ-tát đứng dậy bắt đầu đi. Con vượn ngay lúc ấy, leo lên ngồi trên một nhành cây thả phân trên đầu Bồ-tát như vòng hoa rơi xuống và kêu lớn tiếng, rồi bỏ đi vào khóm rừng. Bồ-tát tắm xong rồi ra đi.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới như vậy. Thuở trước, kẻ ấy cũng không biết công đức Ta làm.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con vượn là Ðề-bà-đạt-đa, còn vị Bà-la-môn là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN ÐẢNH LỄ MẶT TRỜI (Tiền thân Àdicupatthàna)

Nghe nói mọi chúng sanh…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một kẻ man trá.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bà-la-môn, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài học mọi tài nghệ ở Takkasilà. Rồi ngài xuất gia làm vị đạo sĩ, đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng và trở thành một sư trưởng của một hội chúng đông đảo sống tại Tuyết Sơn. Bồ-tát ở đấy lâu ngày, rồi vì mục đích lấy muối và giấm, ngài đi xuống núi, và sống trong một chòi lá gần một làng ở biên địa.

Trong khi chúng đạo sĩ đi khất thực, một con vượn tham lam đến chỗ am thất, xáo trộn chòi lá, đổ nước ở các ghè ra, đập vỡ các bình, và phóng uế vào căn nhà có thờ lửa. Sau khi an cư mùa mưa, các vị tu khổ hạnh nghĩ: “Nay ở Tuyết Sơn đang thời kỳ nở hoa kết trái rất là đẹp mắt. Chúng ta sẽ đi về Tuyết Sơn”.Vì vậy họ báo tin cho dân làng sống ở biên địa. Các dân làng nói:

– Thưa các Tôn giả, ngày mai chúng tôi sẽ đem theo thức ăn đi đến am thất. Các Tôn giả sẽ ăn rồi ra đi.

Ngày hôm sau, họ đem theo nhiều đồ ăn loại cứng và loại mềm, và đi đến chỗ ấy. Thấy vậy, con vượn ấy suy nghĩ: “Ta sẽ lừa dối các người này khiến chúng hoan hỷ, đem cho ta các món ăn loại cứng và loại mềm”. Rồi làm ra vẻ như người sống khổ hạnh đang giữ giới, nó đứng đảnh lễ mặt trời không xa các vị tu khổ hạnh. Các dân làng thấy nó, liền nói:

– Những ai sống gần các bậc giới hạnh cũng có giới hạnh.

Rồi họ đọc bài kệ đầu:

Nghe nói mọi chúng sanh
Ðều có giữ giới hạnh,
Hãy xem vượn khốn khổ
Sống ở trên cành này,
Ðang đảnh lễ mặt trời.

Thấy các người ấy tán thán công đức của nó, Bồ-tát nói:

– Các ông không biết tánh hạnh của con khỉ tham lam này, nên hoan hỷ khen ngợi nó không có căn cứ.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Không biết tánh hạnh nó,
Các người cứ ngợi khen,
Nó làm bẩn lửa thiêng,
Ðập vỡ các ghè nước.

Khi biết được sự man trá của con vượn, họ lấy đá và gậy đánh nó rồi cúng đồ ăn cho các đạo sĩ. Rồi các đạo sĩ đi về Tuyết Sơn, tu tập Thiền định không gián đoạn, cuối cùng khi thân hoại mạng chung, được sanh lên Phạm thiên giới.

*

Sau khi kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con vượn là kẻ man trá này, hội chúng đạo sĩ là hội chúng đức Phật, và vị Sư trưởng hội chúng là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN MỘT NẮM ÐẬU (Tiền thân Kalàya-Mutthi)

Thưa Nhân chủ, vượn này…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về vua Kosala.

Một thời, trong mùa mưa, bạo loạn bùng nổ ở biên địa. Quân lính đến đóng đồn tại đó và sau hai ba trận giao chiến, họ không thể đánh bại quân địch, liền dâng sớ trình vua. Mặc dù đang mùa mưa, vua vẫn ra đi và cắm trại trước Kỳ Viên. Rồi vua bắt đầu suy nghĩ: “Khởi binh trong mùa mưa, các khe đá hang đá đều ngập nước, đường sá rất khó đi. Ta sẽ đi đến viếng thăm bậc Ðạo sư”. Khi ngài hỏi: “Thưa Ðại vương, Ðại vương đi đâu?” ta sẽ trình sự việc cho Ngài biết. Bậc Ðạo Sư không chỉ che chở làm lợi ích cho ta trong đời tương lai, mà còn che chở cho ta trong hiện tại. Do vậy, nếu việc ra đi của ta không được thuận tiện, Ngài sẽ nói với ta: “Thưa Ðại vương, nay không đúng thời. Còn nếu việc ra đi được thuận tiện, ngài sẽ im lặng”. Vì vậy, vua đi vào Kỳ Viên, đảnh lễ bậc Ðạo sư và ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Thưa Ðại vương, Ðại vương đi từ đâu đến quá sớm như vậy?

Vua trả lời:

– Bạch Thế Tôn, trẫm sắp đi dẹp loạn ở biên địa. Ðảnh lễ Thế Tôn xong, trẫm sẽ đi.

Bậc Ðạo sư nói:

– Thuở xưa, trước khi ra trận, nghe lời nói của các bậc Hiền trí, các đại vương đã không xuất quân phi thời.

Rồi theo lời yêu cầu của vua, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một vị đại thần tâm phúc của nhà vua và cố vấn giúp vua về các vấn đề tục sự và thánh sự. Thời ấy có một cuộc nổi loạn tại biên địa, và các lính biên phòng gửi cho vua một bức thư. Vua xuất quân vào mùa mưa, và đóng trại ở ngự viện. Bồ-tát đứng cạnh vua. Lúc ấy có người nấu sôi một loại đậu cho ngựa ăn, và đem đậu đổ vào máng. Một con vượn ở trong vườn, từ cây leo xuống, lấy những hạt đậu từ nơi máng ấy, ngậm đầy miệng và nắm đầy tay, leo lên cây, lại ngồi đấy và bắt đầu ăn.

Trong khi nó đang ăn, một hạt đầu từ tay rơi xuống đất, nó quăng bỏ tất cả hột đậu lấy từ miệng và từ tay, rồi từ cây leo xuống, tìm hột đậu bị rơi ấy. Nhưng không thấy hạt đậu nó lại leo lên cây, ngồi trên cành, buồn bã, xịu mặt, như thua vụ kiện cả ngàn đồng. Vua thấy việc con vượn làm, chỉ cho Bồ-tát và hỏi:

– Này khanh, khanh nghĩ thế nào về việc làm này của con vượn?

Bồ-tát thưa:

– Thưa Ðại vương, kẻ ngu kém trí bỏ ra nhiều tiền để mua được ít, chính là như vậy.

Rồi Bồ-tát đọc lên bài kệ đầu:

Thưa Nhân chủ, vượn này
Ngu si sống trên cành,
Trí tuệ nó không có,
Nó đã quăng tất cả
Nắm đậu nằm trong tay,
Ðể tìm một hột rơi.

Sau đó vị đại thần đi đến gần vua và đọc bài kệ thứ hai:

Chúng ta và người khác
Tham lam cũng như vậy,
Thưa Ðại vương, chúng ta
Mất nhiều để được ít,
Chẳng khác con vượn ấy
Xử sự với hột đậu.

Vua nghe Bồ-tát nói vậy, liền quay trở lại, và vào thành Ba-la-nại. Các bọn ăn cướp nghe tin vua xuất quân chinh phạt kẻ thù và đã đi ra khỏi thành, liền chạy trốn khỏi biên địa.

Vào thời có câu chuyện hiện tại, bọn ăn cướp nghe tin Vua Kosala đã đi ra khỏi thành, liền chạy trốn.

Vua nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp xong, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài với thân bên hữu hướng về Ngài rồi đi về Xá-vệ.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, nhà vua là Ànanda, và vị đại thần có trí là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CÂY TINDUKA (Tiền thân Tinduka)

Tay cầm cung, ống tên…,

Câu chuyện này khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo sư kể về trí tuệ Ba-la-mật. Bậc Ðạo Sư nghe tán thán trí tuệ của mình như ở trong Tiền thân Mahàbodhi (số 528) và trong Tiên thân Ummagga (số 538) đã nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Như Lai mới có trí tuệ. Thuở xưa, Như Lai cũng có trí tuệ và thiện xảo phương tiện rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con khỉ, với tám mươi ngàn khỉ con vây quanh, sống tại núi Tuyết. Gần đấy, có một làng nhỏ ở biên địa, khi thì có người ở, khi thì không. Giữa ngôi làng ấy, có một cây Tinduka sanh trái ngọt, và cành lá sum suê. Khi không có người ở, đàn khỉ đến ăn trái cây.

Một thời, trong mùa có trái, làng ấy đầy người đến ở, một hàng rào được dựng lên xung quanh và có cửa canh gác. Cây ấy đứng tại đấy, với cành cây nặng trĩu quả. Bầy khỉ suy nghĩ: “Trước kia tại làng ấy ta thường ăn trái cây Tinduka. Cây ấy nay có nhiều trái hay không và có nhiều người ở đó hay không?” Nghĩ vậy, chúng cử một con khỉ đi thăm dò.

– Hãy đi và tìm cho biết tin này.

Con khỉ ấy đi, biết được cây ấy đầy trái, và làng có nhiều người, liền về và báo tin lại. Ðàn khỉ nghe cây đầy trái, chúng quyết đi hái trái để ăn, liền đến tìm khỉ chúa và báo tin ấy. Khỉ chúa hỏi:

– Làng có người ở hay không có người ở?

– Thưa chúa đàn, có người ở!

– Vậy chớ nên đi, vì loài người rất xảo quyệt.

– Thưa chúa đàn, vào nửa đêm trong lúc loài người nằm ngủ, chúng tôi sẽ đến ăn!

Cả đàn khỉ đông đảo xin được phép của khỉ chúa, từ núi Tuyết đi xuống, nằm trên mặt một tảng đá, không xa làng bao nhiêu, chờ cho đến lúc mọi người đi ngủ. Vào nửa đêm, khi mọi người đã ngủ say, chúng leo cây và ăn trái. Một người kia có việc cần ra khỏi nhà, đến giữa làng thấy các con khỉ, liền báo cho mọi người biết. Nhiều người nai nịt cung, tên, tay cầm nhiều loại vũ khí, cầm đá, gậy, và nghĩ: “Khi trời đã sáng, chúng ta sẽ bắt những con khỉ”. Họ vây quanh cây và đứng chờ.

Tám mươi ngàn con khỉ thấy những người này, sợ chết, suy nghĩ: “Không có nơi nương tựa nào khác ngoài khỉ chúa”, bèn đi đến gần khỉ chúa và đọc bài kệ đầu:

Tay cầm cung, ống tên,
Mang các loài gươm tốt,
Chúng bao vây chúng tôi,
Làm sao được giải thoát?

Nghe chúng nói, khỉ chúa an ủi:

– Chớ sợ. Loài người có nhiều việc phải làm.

Khỉ chúa an ủi chúng xong, liền đọc bài kệ thứ hai:

Loài người có nhiều việc,
Sẽ giải tán đám đông,
Những gì cây còn lại,
Hãy ăn Tin-du-ka.

Bậc Ðại Sĩ an ủi đàn khỉ. Nếu chúng không được sự an ủi như vậy, tất cả sẽ vỡ tim và chết. Bậc Ðại Sĩ an ủi đàn khỉ, rồi bảo họp lại tất cả bọn. Khi chúng đã họp, chúng không thấy con khỉ Senaka, cháu trai của khỉ chúa. Chúng báo cho khỉ chúa biết Senaka không đến, khỉ chúa nói:

– Nếu Senaka không đến, các ngươi chớ lo. Nay nó sẽ đem lại an toàn cho các ngươi đó.

Còn Senaka vẫn ngủ khi đàn khỉ ra đi. Sau khi thức dậy, không thấy ai, nó đi theo dấu chân chúng, thấy mọi người đến, và biết rằng đàn khỉ sẽ gặp nạn.

Khi thấy một ngôi nhà ở biên địa có lửa đốt lên và một bà già đang ngủ say, nó đi đến, và làm như một đứa trẻ ở làng đi ra đồng, nó cầm lấy một que lửa, và đứng theo chiều gió thổi, nó đốt làng cháy. Các người ấy liền bỏ đàn khỉ, vội vàng chạy đến dập tắt lửa. Trước khi chạy, mỗi con khỉ hái một trái cây mang theo về cho Senaka.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Senaka, cháu của khỉ chúa, là Mahànàma, đàn khỉ là hội chúng đức Phật, còn khỉ chúa là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON RÙA (Tiền thân Kacchapa)

Tại đây ta sanh ra…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một người được chữa khỏi bệnh thổ tả. Một thời, tại một gia đình ở Xá-vệ, có bệnh thổ tả lan đến. Cha mẹ nói với con trai:

– Này con thân, chớ sống trong nhà này. Hãy phá tường và trốn đi, đến một chỗ nào đó và bảo vệ sự sống. Sau khi về, tại chỗ này có nhiều của chôn cất, con hãy đào lên, dựng lại cơ nghiệp và sống hạnh phúc.

Nghe nói vậy, người con trai vâng theo và phá bức tường chạy trốn. Khi chứng bệnh của mình đã chấm dứt, anh ta trở về, đào của cải lên và sống đời sống gia đình. Một hôm, anh ta đem theo bơ chín, dầu, vải và áo ấm… đi đến Kỳ Viên, đảnh lễ bậc Ðạo Sư và ngồi xuống. Sau khi tiếp đón anh ta, bậc Ðạo Sư liền hỏi:

– Chúng ta nghe nhà của con có bệnh dịch tả lây lan làm thế nào con thoát được?

Anh ta kể lại sự tình. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này cư sĩ, thuở xưa khi tai hoạ khởi lên, có những kẻ quá luyến tiếc trú xứ của mình và không đi chỗ khác, nên đã không giữ được mạng sống. Còn những kẻ không quá luyến tiếc trú xứ và bỏ đi nơi khác thì đã cứu được mình.

Nói như vậy xong, theo lời yêu cầu của người con trai, bậc Ðạo Sư kể chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình làm đồ gốm ở một ngôi làng nhỏ. Bồ-tát cũng làm nghề gốm để nuôi dưỡng vợ con.

Lúc bấy giờ, có một hồ nước lớn gần một con sông lớn ở Ba-la-nại. Trong thời nước lớn, hồ ngập nước từ con sông tràn vào; trong thời nước yếu, hồ nước tách riêng. Các con cá và rùa biết: Trong năm nay sẽ có mưa nhiều, hay trong năm nay sẽ có hạn hán. Vào thời có chuyện này có con cá và rùa sanh trong hồ ấy biết: Trong năm nay, sẽ hạn hán.

Vì vậy trong khi nước hồ còn hợp thành một với sông, chúng từ trong hồ bơi ra và đi đến con sông. Nhưng có một con rùa nghĩ: “Chỗ này ta sanh ra, chỗ ta lớn lên, chỗ ở của cha mẹ, ta không thể bỏ chỗ này được”. Nghĩ vậy, nó không đi ra sông.

Trong thời kỳ mùa hạ, ở đấy, nước bị khô cạn, con rùa ấy đào đất tại chỗ Bồ-tát thường đến lấy đất sét. Bồ-tát đi đến đấy để lấy đất sét với cái cuốc lớn và đào đất lên, đập trên lưng con rùa, với cái cuốc hất nó lên và quăng nó trên mặt đất như một cục đất. Trong khi cảm thọ đau đớn, con rùa ấy nói:

– Do ta không từ bỏ chỗ ở, nên phải gặp nạn diệt vong như vậy.

Nói vậy xong, nó khóc với những bài kệ:

Tại đây, ta sanh ra,
Trong bùn này ta sống,
Ta yếu đuối thế này,
Thế Tôn, con van Ngài,

Hãy nghe tiếng con thưa.
Ở làng hay tại rừng,
Chỗ nào được an lạc,
Với người có trí thức,
Là chỗ sanh, chỗ lớn.

Chỗ nào có sự sống,
Hãy đi đến chỗ ấy,
Tốt hơn chỗ trú ẩn
Ðem lại sự hủy diệt.

Như vậy, con rùa nói với Bồ-tát rồi chết. Bồ-tát lượm nó lên, họp mọi người trong làng lại, khuyến dạy họ như sau:

– Hãy xem con rùa này! Trong khi các loài cá, loài rùa khác đi ra trên sông lớn, nó không thể cắt đứt sự luyến ái đối với trú xứ, không cùng đi ra sông, đào đất ở chỗ ta đến lấy đất sét, với các cuốc lớn, ta đập vỡ lưng của nó và quăng nó lên mặt đất như một cục đất. Nó nhớ đến việc làm của mình, than khóc với hai bài kệ rồi chết. Như vậy, do luyến ái trú xứ của mình, nó phải chết. Các ngươi chớ làm như con rùa này. Bắt đầu từ nay, đừng nghĩ rằng: “Sắc của ta, tiếng của ta, chớ có tham ái, vì thọ hưởng chấp thủ chúng. Mọi chúng sanh đến phải trải qua ba hiện hữu (dục hữu, sắc hữu, và vô sắc hữu).

Như vậy với sự tinh thông của một bậc Giác ngộ, Bồ-tát khuyên dạy đại chúng. Lời khuyên dạy của Bồ-tát lan rộng toàn cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) và tồn tại đến bảy trăm năm. Ðại chúng nghe lời Bồ-tát khuyên dạy, làm các công đức như bố thí v.v… rồi khi mạng chung, họ sanh lên Thiên giới.

*

Sau khi thuyết pháp thoại này, bậc Ðạo Sư liền giảng các Sự thật. Cuối bài giảng, người thanh niên đã đắc quả Dự lưu.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con rùa là Ànanda, còn người làm đồ gốm là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN BÀ-LA-MÔN SATADHAMMA (Tiền thân Satadhamma)

Nhỏ thay dư tàn ấy…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về hai mươi mốt sinh kế phi pháp. Một thời, nhiều Tỷ-kheo làm nghề thầy thuốc, nghề sứ giả, nghề đưa tin, nghề liên lạc đường bộ, đổi đồ ăn khất thực v.v… (Những pháp này sẽ được nói đến trong Tiền thân Saketa (237 và 68)). Khi bậc Ðạo Sư biết được các Tỷ-kheo đã sinh sống như vậy, Ngài nói:

– Nay nhiều Tỷ-kheo đã sinh sống phi pháp. Sinh sống như vậy, sẽ không giải thoát mà còn đọa làm Dạ-xoa, hay ngạ quỷ. Họ sẽ sanh làm những trâu bò chở nặng, một số sẽ thác sanh vào địa ngục. Vì hạnh phúc và an lạc cho họ, ta cần phải nói lên một bài pháp liên hệ đến cá nhân.

Vì vậy bậc Ðạo Sư bảo họp các Tỷ-kheo lại và nói:

– Này các Tỷ-kheo, các ông chớ làm hai mươi mốt sanh kế phi pháp. Ðồ ăn khất thực nhận được phi pháp, giống như hòn sắc nung đỏ, ví như nọc rắn độc, các sanh kế phi pháp này đã bị các đệ tử chư Phật, các Ðộc giác Phật chỉ trích và bài xích. Hưởng thọ các món ăn khất thực nhận được do sanh kế phi pháp không đem lại vui cười hoan hỷ. Các đồ ăn khất thực nhận được như vậy trong Giáo hội của Ta, chẳng khác gì món ăn tàn dư của kẻ hạ tiện.

Sau khi nói vậy, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahamadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con một người ở đẳng cấp hạ tiện. Khi đến tuổi trưởng thành, vì một vài công việc Bồ-tát lên đường ra đi và đem theo một giỏ gạo làm lương thực. Lúc bấy giờ, tại Ba-la-nại có một thanh niên tên là Satadhamma, là con một gia đình đại Bà-la-môn nhưng không đem theo gạo để làm lương thực. Cả hai cũng gặp nhau trên con đường lớn. Thanh niên ấy hỏi Bồ-tát:

– Ngươi ở giai cấp gì?

Bồ-tát đáp:

– Tôi thuộc giai cấp hạ tiện.

Bồ-tát hỏi:

– Cậu ở giai cấp gì?

Anh ta đáp:

– Tôi thuộc giai cấp Bà-la-môn phương bắc.

– Lành thay, chúng ta cùng đi.

Cả hai cùng đi. Khi đến giờ ăn sáng, Bồ-tát ngồi xuống tại chỗ có nước tốt, rửa tay, mở giỏ cơm, và nói với thanh niên ấy:

– Hãy ăn cơm!

– Này tiện dân, ta không cần cơm.

Bồ-tát nói:

– Lành thay!

Rồi không để cho dư cơm thừa, Bồ-tát bỏ cơm vừa đủ cho mình ăn trên một cái lá khác, cột cái giỏ lại, để nó một bên. Bồ-tát ăn xong, uống nước, rửa tay chân, rồi cầm lấy cơm gạo còn lại và nói với thanh niên:

– Này cậu, chúng ta cùng đi.

Rồi họ lại lên đường. Cả ngày hai người cùng đi, đến chiều cả hai tắm tại một chỗ có nước tốt. Sau khi tắm xong, họ lên bờ. Bồ-tát ngồi một chỗ thoải mái, mở giỏ cơm, không mời cậu thanh niên kia và bắt đầu ngồi ăn. Cậu trai kia cả ngày đi mệt mỏi, lại đói bụng, đứng nhìn và nghĩ: “Nếu nó cho ta cơm, ta sẽ ăn”. Bồ-tát không nói gì, vẫn ăn. Cậu trai nghĩ: “Kẻ hạ tiện này không mời gì ta, lại ăn hết cả đồ ăn. Ðể khỏi bị đói bức bách, ta lấy một miếng, quăng đi phần cơm dơ bẩn ở trên và phần cơm còn lại.” Anh ta làm như anh đã nghĩ, và ăn phần cơm đươc làm cho sạch sẽ. Vừa ăn xong, anh ta hết sức hối hận ăn năn. Anh nôn hết thức ăn và máu trào ra theo đó:

– Ôi vì ta phóng dật, đã làm một việc không thích đáng. Ta đã làm nhục dòng họ, gia tộc cao quý của ta. Ta đã ăn phần cơm dư thừa của một tên hạ đẳng!

Sau khi khóc than, sầu muộn, anh ta nói lên bài kệ đầu:

Nhỏ thay, dư tàn ấy,
Nó cho rất khó khăn!
Ta sanh là Phạm chí,
Món ăn, bị nôn ra.

Cậu trai ấy than khóc như vậy:

– Hôm nay ta đã làm một việc không thích đáng chỉ vì sự sống!

Nói vậy xong, anh ta đi sâu vào rừng, không để một ai thấy mình, rồi anh ta sầu muộn và chết cô độc.

*

Sau khi kể câu chuyện quá khứ bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, giống như thanh niên Satadhamma, sau khi ăn đồ ăn dư tàn của kẻ hạ tiện, đã tự trách mình đã ăn không xứng đáng, nên không vui cười, không hoan hỷ. Cũng vậy, ai xuất gia trong Giáo hội này và sống với sinh kế phi pháp, khi hưởng thọ thức ăn đã nhận được do cách thức như trên, đã sống một nếp sống bị đức Phật bài bác và chỉ trích, kẻ ấy sẽ không vui cười và hoan hỷ.

Rồi bậc Ðạo Sư đọc bài kệ thứ hai:

Ai hủy hoại chánh pháp,
Sinh sống theo phi pháp,
Như Sa-ta-dham-ma,
Sống không được hoan hỷ.

Như vậy, bậc Ðạo Sư thuyết pháp thoại này xong, liền thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng, nhiều Tỷ-kheo đã đắc các Ðạo và Quả.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Ta là kẻ tiện dân ấy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN KHÓ CHO (Tiền thân Duddada)

Cho những gì khó cho…,

Câu chuyện này khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về sự bố thí của hội chúng. Ở Xá-vệ, có hai người bạn là con trai của những điền chủ, cùng nhau đi quyên, rồi sắp đặt tất cả các món vật dụng, mời chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị lãnh đạo và tổ chức đại bố thí trong bảy ngày. Ðến ngày thứ bảy, họ bố thí tất cả các món vật dụng, mời vị cao niên nhất trong hội chúng đảnh lễ bậc Ðạo Sư, rồi ngồi xuống một bên và thưa:

– Bạch Thế Tôn, trong sự bố thí này, có người cho nhiều, có người cho ít. Mong rằng bố thí này sẽ có quả báo lớn cho tất cả mọi người.

Vị cao niên dâng lễ cúng dường tác bạch như vậy. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các cư sĩ! Các ông cúng dường chúng Tăng với đức Phật là vị lãnh đạo, dâng cúng như vậy là thiện nghiệp lớn. Các bậc Hiền trí thuở xưa, khi bố thí như vậy cũng tác bạch cúng dường như vậy.

Nói xong, theo lời yêu cầu của các vị ấy, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở xứ Kàsi. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát được học tập tại Takkasilà, sau đó xuất gia sống đời đạo sĩ, cùng với một hội chúng đệ tử đến sống ở vùng Tuyết Sơn. Hội chúng sống lâu ngày trong khu vực Tuyết Sơn, khi cần muối và giấm chua, đã đi xuống quốc lộ, họ đi đến Ba-la-nại và sống trong ngự uyển của vua.

Ngày hôm sau, Bồ-tát cùng với hội chúng đi khất thực tại ngôi làng gần cửa thành để dân làng bố thí đồ ăn. Ngày tiếp, Bồ-tát đi khất thực tại Ba-la-nại. Dân chúng vui vẻ bố thí đồ ăn. Họ họp thành đoàn thể, thâu góp đồ quyên được, sửa soạn bố thí, và tổ chức một cuộc bố thí lớn cho hội chúng đạo sĩ. Cuối cuộc bố thí, bậc cao niên nhất nói về cách thức dâng đồ cúng dường. Bồ-tát nói:

– Này các Hiền giả, khi nào tâm hoan hỷ, thì không có bố thí nào nhỏ cả.

Nói xong lời tùy hỷ, Bồ-tát đọc các bài kệ này:

Cho những gì khó cho,
Làm những việc khó làm,
Kẻ xấu khó làm được,
Pháp kẻ thiện khó theo.

Do vậy kẻ thiện, ác,
Từ đây đi khác nhau.
Kẻ ác xuống địa ngục,
Bậc thiện lên Thiên giới.

Như vậy, Bồ-tát nói lời tùy hỷ, rồi sống tại đấy trong bốn tháng mùa mưa. Sau khi mùa mưa đã qua, ngài đi đến Tuyết Sơn tu tập, thiền định không gián đoạn và sau khi mạng chung, được sanh lên cõi Phạm thiên.

*

Bậc Ðạo Sư kể pháp thoại này xong, liền nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, chúng đạo sĩ là hội chúng đức Phật, và Sư trưởng hội chúng là Ta vậy.

PHẨM ASADISA

  1. CHUYỆN HOÀNG TỬ VÔ ÐỊCH (Tiền thân Asadisa)

Vị thiện xạ, hoàng tử…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về cuộc xuất gia vĩ đại.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Như Lai mới thực hiện cuộc xuất gia vĩ đại. Thuở xưa, Như Lai cũng đã từ bỏ vương vị và xuất gia.

Nói vậy xong, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát làm con Hoàng hậu được sanh an toàn, và trong ngày đặt tên, được gọi là hoàng tử Asadisa (Vô Ðịch). Khi hoàng tử bắt đầu biết chạy, vị hữu tình khác có công đức cũng nhập thai làm con hoàng hậu, được sanh ra an toàn, và trong ngày đặt tên, được gọi là hoàng tử Brahmadatta (Phạm Thọ).

Khi được mười sáu tuổi, Bồ-tát đi Takkasilà, học ba tập Vệ-đà và mười tám tài nghệ với một sư trưởng có danh tiếng nhiều phương. Trong nghề bắn cung, Bồ-tát là vô địch. Học xong Bồ-tát trở về Ba-la-nại.

Khi vua mệnh chung, vua có di chúc tôn thái tử Asadisa làm vua và hoàng tử Brahmadatta làm phó vương. Sau khi vua băng hà, thái tử Asadisa từ chối vương vị và nói:

– Ta không muốn vương vị.

Và Brahmadatta được làm lễ quán đảnh. Bồ-tát không cần danh vọng, không muốn gì hết. Trong khi người em trị nước, Bồ-tát sống như một ông hoàng. Những người hầu cận vu cáo Bồ-tát với vua:

– Thái tử Asadisa muốn chiếm vương quốc.

Vua tin lời nói của họ, tâm tư bị mê hoặc, sai người đi bắt Bồ-tát. Một người hầu Bồ-tát báo cho ngài biết tin này. Bồ-tát tức giận em, liền đi đến một nước khác và báo tin cho vua này biết rằng có một người bắn cung đang đứng đợi trước hoàng môn. Vua hỏi:

– Kẻ ấy muốn bao nhiêu tiền lương?

– Mỗi năm, một trăm ngàn đồng.

– Ðược, hãy đưa kẻ ấy đến.

Khi Bồ-tát đến yết kiến và đứng chầu, vua hỏi:

– Khanh là người bắn cung?

– Thưa vâng, tâu Ðại vương.

– Lành thay, hãy phục vụ ta.

Từ đấy trở đi Bồ-tát phục vụ nhà vua. Nhưng các người bắn cung cũ lấy làm bất mãn, vì lương của Bồ-tát quá cao.

Một hôm vua đi đến ngự uyển, tại chỗ đó dưới gốc xoài được dựng lên một lều vải trước bàn thạch dùng làm nghi lễ. Vua nằm trên sàng tọa lộng lẫy dưới gốc cây xoài, nhìn lên thấy một chùm xoài trên ngọn cây và suy nghĩ: “Không thể leo cây để hái chùm xoài quá cao”, liền cho gọi các người bắn cung đến và nói:

– Các khanh có thể dùng mũi tên cắt đứt chùm xoài này và làm nó rơi xuống không?

Họ đáp:

– Tâu Ðại vương, làm việc này không khó gì đối với chúng thần. Ðại vương đã thấy tài nghệ chúng thần nhiều lần trước rồi. Người bắn cung mới tới nhận tiền lương nhiều hơn chúng thần, xin hãy bảo kẻ ấy bắn rơi chùm xoài.

Vua truyền Bồ-tát đến và hỏi:

– Khanh có thể bắn rơi chùm xoài ấy không?

– Thưa vâng, tâu Ðại vương. Nếu được chọn chỗ đứng, thần có thể.

– Chỗ đứng nào?

– Chỗ đứng tại tọa sàng mà Ðại vương nằm!

Vua bảo dời tọa sàng và nhường chỗ cho Bồ-tát.

Bồ-tát không có cung tầm tay, nhưng thường nai nịt nó trong bộ áo sát thân, do vậy cần phải có cái lều để thay quần áo. Vua ra lệnh mang lều vải và cắm lều. Rồi Bồ-tát đi vào trong lều, cởi tấm vải trắng đã mang trên mình, rồi mặc một áo đỏ sát da, buộc dây nịt và khoác một áo cánh ngang hông màu đỏ.

Từ một cái túi, Bồ-tát lấy ra một cây kiếm được tách rời từng mảnh, ráp chúng lại và đeo vào phía bên trái. Kế đó ngài mang một áo giáp bằng vàng, đeo ống tên sau lưng, lấy ra cái cung lớn bằng sừng dê được làm bằng nhiều mảnh. Bồ-tát lắp chúng lại, buộc dây cung đỏ như màu san hô, đội một chiếc khăn trên đầu, lấy móng tay quay mũi tên hai ba vòng và vén màn đi ra giống như hoàng tử rắn từ hang hiện lên. Bồ-tát đi đến chỗ bắn cung, lắp tên vào cung và hỏi vua:

– Tâu Ðại vương, thần có thể cắt chùm xoài này với mũi tên bắn lên hay tên rơi xuống?

– Này khanh, ta thường thấy một vật rơi xuống do một mũi tên bắn lên, chứ chưa hề thấy mũi tên từ trên rơi xuống. Vậy khanh nên làm mũi tên rơi xuống chùm xoài.

– Thưa Ðại vương, mũi tên này sẽ được bắn lên xa đến tận trời của Bốn Thiên vương, rồi mới rơi xuống. Xin Ðại vương chịu khó chờ đợi.

– Lành thay.

Vua chấp nhận. Rồi Bồ-tát nói:

– Thưa Ðại vương, mũi tên này khi bắn lên sẽ cắt đứt cành xoài ở chính giữa, và khi rơi xuống, nó không rơi trật ra bên này bên kia, dù chỉ một sợi tóc, nhưng rơi đúng chỗ mình muốn và mang theo chùm xoài. Ðại vương hãy xem.

Với sự nhanh nhẹn, Bồ-tát bắn lên mũi tên ấy đâm đúng chỗ giữa của chùm xoài. Ngay khi biết mũi tên ấy đã lên đến cung điện của Bốn Thiên vương, ngài bắn thêm một mũi tên khác, đi nhanh hơn cả mũi tên trước, và chạm vào lông của mũi tên đầu, khiến nó quay trở lại, còn mũi tên sau bay thẳng đến lâu đài ở cõi trời Ba mươi ba. Tại đây, chư Thiên giữ lại mũi tên ấy. Tiếng xé gió của mũi tên rơi xuống vang động như tiếng sấm. Ðại chúng hỏi:

– Ðó là tiếng gì?

Bồ-tát trả lời:

– Ðó là tiếng của mũi tên rơi xuống.

Bồ-tát biết rằng mọi người sợ mũi tên rơi trúng mình bèn an ủi họ:

– Chớ sợ hãi. Ta sẽ không cho mũi tên rơi xuống đất đâu.

Mũi tên rơi xuống, không đi trật ra bên này bên kia dù chỉ một sợi tóc, nhưng rơi đúng chính giữa và cắt đứt chùm xoài. Bồ-tát không cho chùm xoài và mũi tên rơi xuống đất, một tay bắt lấy chùm xoài, một tay bắt lấy mũi tên. Ðại chúng thấy sự kiện kỳ diệu ấy tán thán bậc Ðại Sĩ:

– Chúng ta chưa bao giờ thấy sự kiện hy hữu này.

Họ la lên, vỗ tay, búng ngón tay và vẫy hàng ngàn khăn tay qua lại trên không. Trong sự hân hoan thỏa thích, hội chúng quần thần góp được mười triệu đồng tặng cho Bồ-tát.

Còn vua ban Bồ-tát nhiều tặng vật và danh vọng lớn.

Trong khi Bồ-tát sống ở đây được vua này cung kính, tôn trọng, thì bảy vua khác nghe Hoàng tử Vô Ðịch không có mặt ở Ba-la-nại, liền đi đến vây kinh thành và gửi tin cho vua:

– Phải đầu hàng hay giao chiến.

Vua hoảng hốt sợ chết và hỏi:

– Hiền huynh của ta nay ở đâu?

Khi được nghe ngài đang phục vụ một vua láng giềng, vua nói:

– Nếu anh ta không đến, ta sẽ mất mạng. Hãy ra đi và nhân danh ta, đảnh lễ dưới chân hiền huynh ta, xin lỗi và rước anh ta về.

Vua sai sứ giả ra đi báo tin ấy cho Bồ-tát.

Ngài xin phép vua của mình trở về Ba-la-nại, an ủi em đừng sợ, rồi cho khắc những chữ sau đây trên một mũi tên: “Ta, hoàng tử Asadisa, đã trở về. Chỉ bắn một mũi tên, ta có thể giết tất cả các ngươi. Ai còn yêu mạng sống hãy chạy trốn đi”.

Rồi đứng trên tháp canh, Bồ-tát bắn mũi tên này làm nó rơi vào chính giữa cái đĩa vàng mà bảy ông vua ấy đang ăn chung. Khi họ đọc các chữ ấy, họ hoảng hốt sợ chết và tất cả đều tháo chạy.

Như vậy bậc Ðại Sĩ không làm rơi một giọt máu để một con ruồi nhỏ có thể uống được và đã khiến cho bảy vua bỏ chạy. Rồi nhìn em trai, ngài từ bỏ các dục, xuất gia làm vị đạo sĩ, ngài đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng, đến khi mạng chung, ngài được sanh lên Phạm thiên giới.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, sau khi đuổi bảy vua chạy, và thắng trận, hoàng tử Asadisa đã xuất gia làm vị đạo sĩ.

*

Rồi nhận danh bậc Chánh Giác, bậc Ðạo Sư đọc những bài kệ:

Vị thiện xạ, hoàng tử,
Tên A-sa-di-sa,
Bậc đại hùng vô địch,
Bắn xa, nhanh như chớp,
Ðã phá vỡ tan tành
Ðại bộ phận quân địch.

Giao chiến giữa quân thù,
Nhưng không hại một ai,
Cứu người em an toàn,
Bồ-tát tự chế ngự.

Sau khi bậc Ðạo Sư nói xong Pháp thoại này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, người em trai là Ànanda, còn hoàng tử Asadisa là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON VOI THIỆN CHIẾN (Tiền thân Sangàmàvacara)

Anh hùng quen chiến trận…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Tôn giả Nanda.

Từ khi trở về thành Kapila lần đầu tiên, cho người em trai, hoàng tử Nanda, xuất gia xong, bậc Ðạo Sư đã đi ra khỏi thành Kapila, tuần tự đi đến Xá-vệ và sống tại đây. Tôn giả Nanda nhớ lại, khi cầm lấy bình bát của Thế Tôn, cùng với Thế Tôn đi ra khỏi nhà, thì một Thích nữ có tình cảm đối với Nanda, nhìn ra cửa sổ, với đầu tóc đang chải dở, thấy vậy nàng nói:

– Sao, hoàng tử Nanda lại đi ra với bậc Ðạo Sư? Mong Tôn giả hãy sớm trở về.

Nhớ tiếng nói của nàng, Tôn giả sanh luyến ái, không vui vẻ, trở thành vàng vọt và tay chân nổi gân. Bậc Ðạo Sư biết được tin này, suy nghĩ: “Ta sẽ khuyên dạy Nanda từ bỏ tiếng sét ái tình và tu đạo giải thoát”.

Ngài đi đến phòng Nanda ở, ngồi xuống chỗ soạn sẵn và hỏi:

– Này Nanda, ông có an vui trong Pháp và Luật này không?

– Bạch Thế Tôn, tâm con bị nàng chi phối. Con không an vui.

– Này Nanda, trước đây ông đã đến chiêm bái Tuyết Sơn chưa?

– Bạch Thế Tôn, con chưa đến.

– Vậy chúng ta hãy đi.

– Bạch Thế Tôn, nhưng con không có thần thông, làm sao con đi được?

– Này Nanda, Ta sẽ đưa ông đi với thần lực của Ta!

Rồi bậc Ðạo Sư cầm lấy ta vị Trưởng lão bay lên hư không.

Giữa đường hai vị đi qua một đám ruộng bị cháy, trên một khúc cây bị cháy, một con khỉ cái ngồi với mũi và đuôi bị sứt lông trụi hết, da ngoài bị cháy, chỉ còn da trong bê bết máu. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Nanda, ông có thấy con khỉ không?

– Dạ có, bạch Thế Tôn.

– Hãy nhìn nó cho kỹ.

Rồi bậc Ðạo Sư dắt Nanda và chỉ cho Nanda thấy trải dài sáu mươi dặm là cao nguyên Manosìla, bảy hồ lớn, như hồ Anotatta kỳ vĩ v.v…, năm con sông lớn, toàn bộ núi Tuyết có hàng trăm cảnh trí tuyệt đẹp, với núi Vàng, núi Bạc, núi Bảo châu. Rồi bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Nanda, trước đây ông có thấy cung điện cõi trời Ba mươi ba chưa?

– Bạch Thế Tôn, con chưa thấy.

– Hãy đi, này Nanda, Ta sẽ chỉ cho ông thấy cung điện cõi trời Ba mươi ba.

Rồi bậc Ðạo Sư dắt Nanda đến đấy và ngồi trên Hoàng thạch tọa. Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) liền đi đến với chư Thiên của hai thiên giới, đảnh lễ bậc Ðạo Sư và ngồi xuống một bên. Hai mươi lăm triệu tiên nữ của Ðế Thích và năm trăm Thiên nữ với bàn chân bồ câu cũng đến đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư làm cho Nanda khởi tâm say đắm nhìn năm trăm Thiên nữ ấy không chớp mắt.

– Này Nanda, ông có thấy các Thiên nữ với bàn chân bồ câu này không?

Bạch Thế Tôn, con đã thấy.

– Này Nanda, những Thiên nữ này đẹp hay Thích nữ của ông đẹp?

– Bạch Thế Tôn, ví như con khỉ cái tàn phế so sánh với cung nữ của vua, cũng vậy, nếu so sánh Thích nữ của vua với các Thiên nữ này.

– Này Nanda, nay ông sẽ làm gì?

– Bạch Thế Tôn, làm thế nào để được các Thiên nữ ấy?

– Làm Sa-môn pháp sẽ được các Thiên nữ ấy.

– Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn hứa với con rằng do hành trì pháp Sa-môn, con sẽ được các tiên nữ ấy, thì con sẽ hành trì pháp Sa-môn.

Này Nanda, Ta hứa với ông đó, hãy hành trì đi.

Như vậy, vị Trưởng lão đứng giữa thiên chúng, sau khi được lời hứa của Thế Tôn, liền thưa:

– Bạch Thế Tôn, chớ quá chậm trễ. Chúng ta hãy đi về và con sẽ hành trì pháp Sa-môn.

Bậc Ðạo Sư đưa Nanda trở về Kỳ Viên và vị Trưởng lão bắt đầu hành trì pháp Sa-môn. Bậc Ðạo Sư gọi vị Tướng quân Chánh pháp và bảo:

– Này Xá-lợi-phất, Nanda, em của ta, giữa Thiên chúng cõi trời Ba mươi ba, vì thích thú các Thiên nữ, đã khiến ta lấy lời hứa của ta để khích lệ vị ấy.

Cùng cách ấy, bậc Ðạo Sư báo tin cho Trưởng lão đại Mục-kiền-liên, Trưởng lão đại Ca-diếp, Trưởng lão A-na-luật-đà, Trưởng lão Ànanda, vị Thủ Kho Chánh pháp, tất cả tám mươi vị đại đệ tử và lần lượt các Tỷ-kheo còn lại đều biết. Trưởng lão Xá-lợi-phất, vị Tướng quân Chánh pháp đi đến Trưởng lão Nanda, và nói:

– Có thật chăng, này Hiền giả Nanda, nghe nói giữa Thiên chúng cõi trời Ba mươi ba, Hiền giả đã khiến bậc Ðạo Sư hứa là Hiền giả sẽ hành trì pháp Sa-môn để được các Thiên nữ?

Rồi Trưởng lão nói tiếp:

– Nếu sự việc như vậy, thì Phạm hạnh của Hiền giả tùy thuộc nữ nhân và hệ lụy đến phiền não. Nếu Hiền giả hành trì pháp Sa-môn vì mục đích được các nữ nhân ấy, thì có gì khác giữa Hiền giả và một người làm thuê để lấy lương?

Lời nói ấy khiến Tôn giả Nanda xấu hổ và liền dập tắt mọi ham muốn. Cũng với phương tiện này, tất cả tám mươi vị đại đệ tử và các Tỷ-kheo còn lại đều khuyên răn khiến Tôn giả Nanda xấu hổ. Tôn giả Nanda suy nghĩ: “Ðiều ta làm thật không xứng đáng” và với tàm quý, Tôn giả Nanda kiên trì nỗ lực, tăng trưởng Thiền quán và chứng quả A-la-hán.

Rồi Tôn giả Nanda đi đến Thế Tôn và thưa:

– Bạch Thế Tôn, con xin giải tỏa Thế Tôn khỏi lời hứa.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Nanda, khi ông đã đạt quả A-la-hán, thì ta được giải tỏa khỏi lời hứa rồi.

Biết được sự việc này, các Tỷ-kheo tại Chánh pháp đường bắt đầu nói chuyện về Hiền giả Nanda:

– Hiền giả Nanda thật là dễ dạy. Chỉ một lời khuyên răn đã khiến vị ấy xấu hổ. Hiền giả Nanda liền hành trì pháp Sa-môn và chứng quả A-la-hán.

Bậc Ðạo Sư đi đến Chánh pháp đường và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang họp ở đây bàn câu chuyện gì?

Khi nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay mà thuở xưa, Nanda cũng đã nghe lời khuyên dạy như vậy.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một người huấn luyện voi. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát đạt được sự thiện xảo trong nghề nghiệp và phục vụ một vị vua thù nghịch với vua Ba-la-nại. Bồ-tát được bảo huấn luyện con voi quý của vua và đã huấn luyện nó tốt đẹp.

Vua ấy quyết định xâm chiếm quốc độ Ba-la-nại liền đem Bồ-tát đi theo, cưỡi lên con voi quý cùng với quân đội lớn đi đến Ba-la-nại bao vây thành và gửi tối hậu thư cho vua Ba-la-nại:

– Hãy giao quốc độ hay chiến đấu.

Vua Brahmadatta quyết định đánh, liền triệu tập đội binh hùng hậu tại các cửa thành, tháp canh và chiến đấu. Vua thù định cho con voi quý mặc áo giáp, rồi tự mình mặc áo giáp cưỡi lên đầu con voi, cầm một câu móc sắc bén, thúc con voi tiến đến trước mặt thành và nói lớn:

– Ta sẽ công phá thành, giết mạng sống của tên vua thù địch, khiến vương quốc nó rơi vào trong tay ta.

Khi thấy các quân giữ thành đổ bùn sôi, ném các hòn đá từ máy ném, con voi ấy sợ chết, nên không có thể tiến tới và lùi bước. Tức thì vị tượng sư đến và nói:

– Này voi thân, con là bậc anh hùng đã quen thuộc chiến trận. Tại trận địa như vậy, nếu con lùi bước thì thật là không xứng đáng.

Bồ-tát khuyên con voi với bài kệ này:

Anh hùng quen chiến trận,
Voi được tiếng lẫy lừng,
Tấn công các cửa thành,
Sao voi lại lùi bước?
Phá mau thanh cửa sắt,
Nhổ lên các cột trụ,
Ðạp nát các cửa thành,
Hỡi voi, mau vào thành!

Nghe nói vậy, theo lời khuyên, con voi quay trở lại, lấy cái vòi quấn vào các cột trụ, nhổ chúng lên như nhổ các cọng nấm. Nó đạp nát cửa thành, bẻ gãy thanh cửa, đi vào thành và chiếm lấy vương quốc cho vua.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể Pháp thoại này xong, Ngài liền nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy con voi là Nanda, vua là Ànanda và Sư trưởng huấn luyện voi là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN ÐỒ TÀN THỰC (Tiền thân Vàlodakka)

Nước tồi tệ, ít vị…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về năm trăm người sinh sống bằng cách ăn đồ ăn dư thừa.

Nghe nói ở Xá-vệ có năm trăm cư sĩ giao gánh nặng gia đình cho vợ con rồi sống với nhau và đến nghe pháp bậc Ðạo Sư giảng. Giữa họ có một số chứng quả Dự lưu, một số chứng quả Nhất lai, một số chứng quả Bất lai, không một người nào là không chứng quả.

Dân chúng mời bậc Ðạo Sư thọ thực và thường mời luôn các cư sĩ ấy. Nhưng họ có năm trăm người hầu hạ, đem que xỉa răng, nước rửa mặt, hương thơm, vòng hoa, và những người này sinh sống với đồ ăn dư thừa của chủ. Sau buổi ăn sáng, bọn ấy nằm ngủ, rồi khi thức dậy cả bọn đến sông Aciravati, la hét trên bờ sông và vật lộn nhau như những người Mallà. Còn năm trăm cư sĩ không làm ồn, không la hét và sống yên lặng tịnh cư. Bậc Ðạo Sư nghe tiếng ồn ào của những người hầu ăn tàn thực ấy, liền hỏi Trưởng lão Ànanda:

– Tiếng ồn này là gì vậy?

Ngài được đáp lại:

– Bạch Thế Tôn, đây là tiếng ồn của những người hầu ăn tàn thực.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Ànanda, không phải chỉ nay những người hầu này ăn tàn thực xong và làm ồn ào quá. Còn những người cư sĩ này không phải chỉ nay mới quy tụ với nhau và giữ im lặng, thuở xưa họ cũng đã như vậy rồi.

Rồi theo lời Trưởng lão yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahamdatta khi vua trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một vị đại thần. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát làm người cố vấn cho vua về các vấn đề thánh sự và tục sự.

Một thời, vua nghe nói ở biên địa có nổi loạn, liền chuẩn bị năm trăm con ngựa Sindh, cùng với bốn loại binh chủng ra đi và bình định biên địa. Sau khi trở về Ba-la-nại, vua ra lệnh:

– Vì các con ngựa Sindh đã mệt mỏi, hãy cho chúng ăn đồ tươi và uống nước nho.

Các chú ngựa Sindh uống nước thơm ngon rồi đi vào chuồng ngựa, và đứng yên lặng trên chỗ của mình. Nhưng còn nhiều đồ ăn cặn bã với các chất ngon ngọt đã bị vắt hết. Các người ấy hỏi vua:

– Nay chúng con phải làm gì với những vật này?

Vua nói:

– Hãy nhồi chúng với nước, vắt khô với vải lọc và cho đàn lừa.

Các con lừa uống nước cặn bã, trở thành say sưa, kêu vang và chạy quanh khắp sân vua. Vua mở cửa sổ lớn, nhìn xuống sân gọi Bồ-tát đang đứng gần và nói:

– Hãy nhìn xem những con lừa này uống nước cặn bã xong trở thành say sưa, la hét, nhảy chồm lên và chạy quanh. Còn các con ngựa Sindh sanh ra thuần chủng, sau khi uống nước thơm, lại im lặng và đứng một chỗ, không chạy nhảy qua lại.

Vua hỏi vì sao như vậy và Bồ-tát đọc bài kệ đầu:

Nước tồi tệ, ít vị,
Chất tươi bị vắt sạch.
Uống vào lừa say sưa,
Thưa Nhân chủ, ngài hỏi,
Ngựa Sindh, loài thuần chủng,
Uống loại nước thượng vị,
Ðứng yên lặng tại chỗ,
Không chạy nhảy say sưa.

Rồi Bồ-tát giải thích vấn đề qua bài kệ thứ hai:

Cũng vậy, người hạ đẳng,
Dù ăn món dư tàn,
Vẫn say sưa nhảy nhót,
Sống thoải mái an nhàn.
Còn hạng người thuần tánh,
Giữ tâm trí vững vàng,
Cho dù được uống cạn,
Rượu thượng vị cao sang.

Vua nghe lời Bồ-tát nói, liền cho đuổi các con lừa ra khỏi sân chầu. Sau đó, vua tuân theo lời khuyên dạy của Bồ-tát, làm các công đức như bố thí v.v… rồi khi mạng chung vua đi theo nghiệp của mình.

*

Khi bậc Ðạo Sư nói Pháp thoại này xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, năm trăm con lừa là các người ăn tàn thực này, năm trăm con ngựa Sindh là năm trăm cư sĩ này, vua là Ànanda, còn vị đại thần hiền trí là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN NGƯỜI LUYỆN NGỰA GIRIDANTA (Tiền thân Giridanta)

Con ngựa Pan-da-va…,

Câu chuyện này, khi ở Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư kể về một người thân cận kẻ ác. Hoàn cảnh câu chuyện đã được kể trong Tiền thân Mahilàmukha (số 26). Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Tỷ-kheo này mới thân cận kẻ ác. Thuở xưa, Tỷ-kheo này cũng đã thân cận kẻ ác rồi.

Rồi bậc Ðạo Sư kể chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, vào thời vua Sàma trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình đại thần và khi đến tuổi trưởng thành, trở thành cố vấn cho vua về các vấn đề thánh sự và tục sự.

Bấy giờ vua có con ngựa quý tên Pandava, và một người huấn luyện ngựa tên Giridanta, là người què chân. Con ngựa thường thấy người cầm dây cương đi phía trước suy nghĩ: “Người ấy muốn dạy ta đi cà nhắc” nên nó học theo và đi cà nhắc. Người ta trình cho vua biết là con ngựa què. Vua sai mời thú y. Thú y không thấy bệnh gì trên thân ngựa, liền thưa với vua:

– Hạ thần không thấy bệnh gì trên thân ngựa.

Vua cho gọi Bồ-tát:

– Hãy đến, này khanh, và tìm nguyên nhân việc ấy.

Bồ-tát đi đến, biết con ngựa ấy què do thân cận với người huấn luyện bị què, liền tâu vua biết sự kiện này:

– Ðây là cái hại do thân cận người xấu.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ đầu:

Con ngựa Pan-da-va,
Của Ðại vương Sà-ma,
Bị tật nguyền tai hại,
Vì Ga-ri-dan-ta,
Nó bỏ bản tánh xưa,
Học theo người huấn luyện.

Vua hỏi Bồ-tát:

– Này khanh, nay phải làm gì?

Bồ-tát đáp:

– Hãy tìm một người huấn luyện tốt, không què và con ngựa sẽ trở lại như xưa.

Nói xong, Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Tìm người đáng tin cậy,
Có phong cách tốt lành,
Thắng dây cương vào ngựa,
Tập nó chạy vòng tròn,
Nó mau bỏ tật cũ,
Học theo người huấn luyện.

Vua làm theo như vậy. Con ngựa dần trở lại tốt lành như xưa. Vua khen Bồ-tát hiểu biết tánh tình các loài súc sanh, liền ban thưởng Bồ-tát nhiều danh vọng lớn.

*

Sau khi bậc Ðạo Sư kể Pháp thoại này, Ngài liền nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Giridanta là Ðề-bà-đạt-đa, con ngựa là Tỷ-kheo thân cận người ác, vua là Ànanda, còn vị đại thần hiền trí là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN TÂM BẤT TỊNH (Tiền thân Anabhirati)

Như nước đục, không trong…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một thanh niên Bà-la-môn.

Chàng tinh thông ba tập Vệ-đà, giảng dạy thánh điển cho nhiều thanh niên Sát-đế-ly và Bà-la-môn. Sau một thời gian, thanh niên ấy xây dựng gia đình, tâm tư suy nghĩ đến y phục, trang sức, nam nô, nữ tỳ, ruộng đất, trâu bò, vợ con v.v… Bị tham sân si chi phối, tâm tư vẩn đục, chàng không thể đọc các chân ngôn theo thứ tự rõ ràng. Một hôm, người ấy đem theo nhiều hương, vòng hoa, đi đến Kỳ Viên cúng dường, đảnh lễ bậc Ðạo Sư, rồi ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư ân cần nói chuyện với người ấy và hỏi:

– Này cư sĩ, ông dạy học các chân ngôn. Ông có thuộc lòng các chân ngôn ấy chăng?

– Bạch Thế Tôn, lúc trước con thuộc lòng các chân ngôn ấy, nhưng từ khi con lập gia đình, tâm con trở nên vẩn đục, do vậy, con không thuộc lòng các chân ngôn ấy như trước nữa!

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này cư sĩ, không phải chỉ nay ông mới như vậy. Thuở trước tâm ông không vẩn đục, ông đã thuộc lòng các chân ngôn. Nhưng khi ông bị các dục vọng chi phối, thì ông không nhớ các chân ngôn nữa.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của cư sĩ ấy, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát sanh vào một gia đình Bà-la-môn giàu có. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát học thuộc lòng các chân ngôn ở Takkasilà và trở thành bậc sư trưởng có danh tiếng. Khi trở về Ba-la-nại, Bồ-tát dạy các chân ngôn ấy cho một số đông thiếu niên Sát-đế-ly và Bà-la-môn.

Trong số ấy có một thanh niên Bà-la-môn học thuộc lòng ba tập Vệ-đà mà không ngập ngừng một câu nào cả và trở thành phụ tá cho sư trưởng dạy các chân ngôn. Sau một thời gian, vị ấy lập gia đình, luôn luôn bận tâm vì gia sự, nên tâm trở thành vẩn đục, không thể tụng đọc thuộc lòng các chân ngôn nữa. Rồi vị sư trưởng đi đến thăm thanh niên ấy và hỏi:

– Này thanh niên, con có còn thuộc lòng các chân ngôn không?

Chàng đáp:

– Từ khi con lập gia đình, tâm con trở thành vẩn đục, con không thể đọc thuộc lòng các chân ngôn.

Vị sư trưởng nói:

– Này con thân, khi tâm bị vẩn đục, dù con cố học kỹ lưỡng đến đâu đi nữa, cũng không thể đọc thuộc lòng các chân ngôn được. Nhưng khi tâm trong sáng thì có thể nhớ chúng rõ ràng.

Sau đó Bồ-tát đọc hai bài kệ này:

Như nước đục, vấy bùn,
Không thấy sò, hến, cá.
Sạn, cát nằm phía dưới,
Cũng vậy, tâm vẩn đục
Không thấy được lợi mình,
Không thấy được lợi người.

Như nước lặng trong suốt,
Thấy sò, cá nằm dưới,
Cũng vậy, tâm thanh thản
Thấy lợi mình, lợi người.

*

Sau khi bậc Ðạo Sư kể Pháp thoại này, Ngài trình bày các Sự thật. Cuối bài giảng ấy, thanh niên Bà-la-môn đắc quả Dự-lưu và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, thanh niên này là thanh niên Bà-la-môn kia và vị Sư trưởng là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN VUA MANG SỮA ÐÔNG (Tiền thân Dadhivàhana)

Ðẹp, thơm và vị ngọt…,

Câu chuyện này, khi ở Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư kể về sự thân cận với kẻ ác. (Câu chuyện này giống như câu chuyện trước). Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, thân cận kẻ ác là không tốt và có hại. Tại sao ta phải nói đến tác hại của bạn ác đối với con người? Trong thời gian quá khứ, do thân cận với cây Nimba không ngọt và không tốt lành, một cây xoài dù thuộc loài vô tri, với vị ngọt sánh bằng thực phẩm chư Thiên, cũng trở thành chua và đắng.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ:

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, bốn anh em Bà-la-môn tại xứ Kàsi xuất gia làm đạo sĩ. Họ làm một dãy am thất bằng lá ở khu vực Tuyết Sơn và sống tại đấy. Người anh cả mệnh chung và sanh làm Thiên chủ Sakka (Ðế Thích). Biết rõ thần lực của mình, sau khoảng bảy hay tám ngày, Ðế Thích thường đến thăm và giúp đỡ đồ chúng.

Một hôm Thiên chủ đi đến thăm vị khổ hạnh lớn tuổi nhất, đảnh lễ, ngồi xuống một bên, rồi hỏi:

– Thưa Tôn giả, Tôn giả cần gì?

Vị này mắc bệnh hoàng đản đáp:

– Tôi cần lửa.

Ðế Thích cho một con dao kiếm có búa (con dao kiếm có búa được gọi như vậy là vì khi lắp cán vào có thể dùng như con dao hay cây búa). Vị tu khổ hạnh hỏi:

– Với dụng cụ này, ai mang củi lại cho ta?

Ðế Thích nói:

– Thưa Tôn giả, khi Tôn giả cần củi, chỉ lấy tay gõ lên cây búa này và nói: Hãy đem củi cho ta và nhen lửa, cây búa sẽ đem củi lại và nhen lửa cho Tôn giả.

Sau khi cho vị ấy con dao kiếm có búa thần ấy, Ðế Thích đi đến vị thứ hai và hỏi:

– Thưa Tôn giả, Tôn giả cần gì?

Gần chòi lá vị này có con đường voi đi. Các con voi làm vị này bực phiền. Vị này nói:

– Các con voi này làm ta khổ sở. Hãy đuổi chúng đi.

Ðế Thích giao cho vị ấy một cái trống và nói:

– Thưa Tôn giả, đánh mặt phía này, Tôn giả sẽ đuổi các kẻ thù. Ðánh mặt phía bên kia, kẻ thù sẽ trở thành bạn tốt và bao vây Tôn giả với bốn loại binh chủng.

Nói vậy xong, Ðế Thích cho vị này cái trống và đi đến vị trẻ tuổi nhất và hỏi:

– Thưa Tôn giả, Tôn giả cần gì?

Vị này cũng bị bệnh hoàng đản nên nói:

– Tôi cần sữa đông.

Ðế Thích cho vị này một ghè sữa đông và nói:

– Nếu Tôn giả muốn gì, hãy lật ngược ghè này, nó sẽ trở thành sông lớn, chảy dòng nước lớn, và có thể chiếm một quốc độ cho Tôn giả.

Nói vậy xong, Ðế Thích ra đi. Từ đó trở đi, con dao kiếm có cây búa được dùng để đốt lửa cho người anh trưởng. Người thứ hai nhờ đánh mặt trống đuổi các con voi đi, còn người em út dùng sữa đông.

Lúc bấy giờ, một con heo rừng sống trong một ngôi làng cũ, chợt thấy một hòn ngọc có thần lực. Khi nó lấy miệng cắn hòn ngọc, nhờ thần lực hòn ngọc, nó bay lên hư không, đi đến một hòn đảo ở giữa biển, và nghĩ: “Nay ta sẽ ở lại đây”. Nó đi xuống một chỗ tốt đẹp, dưới gốc cây Udumbara, và nó sống tại đấy.

Một hôm, con heo rừng để hòn ngọc trước mặt và nằm ngủ dưới gốc cây ấy. Có một người sống ở nước Kà-si, bị cha mẹ đuổi ra khỏi nhà vì không giúp ích được gì, bèn đi đến bờ biển, leo lên một chiếc tàu làm người giúp việc cho chủ tàu. Khi tàu bị chìm giữa biển, anh ta nằm trên tấm gỗ, trôi đến hòn đảo ấy. Trong khi đi tìm trái cây, thấy con heo rừng nằm ngủ, anh ta đi nhẹ đến gần và lấy hòn ngọc.

Nhờ thần lực hòn ngọc, anh ta bay lên hư không, ngồi trên cây Udumbara và suy nghĩ: “Con heo rừng này nhờ thần lực hòn ngọc, đi được trên hư không. Ta nghĩ có lẽ nó muốn sống ở đây. Trước hết, ta hãy giết nó, ăn thịt rồi sẽ đi”. Anh ta bẻ một cây gậy và phóng cây gậy rơi xuống trên đầu con heo rừng. Con heo rừng thức dậy, không thấy hòn ngọc, hoảng sợ chạy nhanh. Anh ta ngồi trên cây cười lớn. Con heo rừng nhìn lên, thấy anh ta liền húc đầu vào cây và chết tại chỗ. Anh ta trèo xuống đốt lửa, nấu thịt con heo rừng, ăn xong, liền bay lên hư không.

Khi bay ngang qua dãy Tuyết Sơn, anh ta thấy am thất các đạo sĩ liền xuống am thất của người lớn tuổi nhất, ở đấy hai ba ngày, và được vị tu khổ hạnh chiêu đãi. Thấy thần lực của con dao kiếm có cây búa, anh ta nghĩ: “Ta phải lấy vật dụng này”. Anh ta chỉ cho vị tu khổ hạnh thần lực của hòn ngọc và nói:

– Tôn giả hãy lấy hòn ngọc này của tôi và cho tôi con dao kiếm có búa.

Vị tu khổ hạnh mong muốn đi trên hư không, bèn lấy hòn ngọc và trao đổi con dao kiếm có búa với anh ta. Người ấy lấy con dao kiếm có búa, đi một lát, gõ vào vật ấy và nói:

– Này con dao kiếm có búa, hãy chém đầu người tu khổ hạnh và đem lại hòn ngọc cho ta.

Con dao kiếm có búa liền đi chém đầu người tu khổ hạnh và đem lại hòn ngọc. Anh ta cất con dao kiếm có búa tại một chỗ kín, đi đến gần vị đạo sĩ thứ hai và sống tại đấy vài ngày. Anh ta thấy được thần lực cái trống bèn gạ đổi hòn ngọc để lấy cái trống. Với cách thức trước anh ta bảo cái búa chém đầu người ấy, rồi đi đến người em út. Thấy thần lực của ghè sữa đông, anh ta cho hòn ngọc, đổi lấy cái ghè sữa đông, và với phương tiện trước, anh ta bảo cái búa chém đầu người ấy. Anh ta lấy lại hòn ngọc, con dao kiếm có búa, cái trống và cái ghè sữa đông, rồi bay lên hư không. Ðứng không xa Ba-la-nại, anh ta gửi thư nhờ một người cầm tay mang đến cho vua:

– Hãy giao quốc độ cho ta hay muốn bị chém đầu .

Vua được tin liền nói:

– Ta sẽ bắt tên đạo tặc kia.

Và vua đi ra khỏi thành. Tên cướp ấy đánh trên một mặt trống, khiến bốn loại binh chủng vây quanh mình. Khi biết vua đã dàn bày thế trận, anh ta lật ngược cái ghè sữa đông, khiến dòng sông lớn tuôn chảy. Ðại quân của vua bị sữa đông chìm ngập không thể ra được. Rồi anh ta gõ cây kiếm có búa, bảo con dao chặt đầu vua. Con dao bay đi, đem đầu vua lại và quăng dưới chân anh ta. Không một ai có thể đưa binh khí lên chống anh ta. Với quân lực bao quanh, anh ta vào thành, làm lễ quán đảnh, trở thành vua tên là Dadhivahana (Vua mang sữa đông) và trị nước.

Một hôm, trong khi đang chơi thả lưới trên sông lớn, một trái xoài chín, được chư thần sử dụng, trôi từ hồ Kannamundà (ở Tuyết Sơn) xuống và mắc vào lưới. Khi lưới được kéo lên, thấy trái xoài ấy, các quan liền dâng vua. Trái xoài ấy lớn bằng cái ghè, tròn trịa, màu sắc vàng. Vua hỏi các người đi rừng:

– Trái cây gì vậy?

Khi nghe đáp là trái xoài, vua ăn xong, bảo đem gieo hột xoài vào vườn của mình, và tưới nước sữa. Cây mọc lên, đến năm thứ ba đã sanh trái. Cây xoài được kính trọng, được tưới nước sữa, được cho hương liệu dày đến năm phân, các vòng hoa được giăng xung quanh. Cây được đốt đèn với dầu thơm, có màn vải bao bọc xung quanh đến bảo vệ các trái chín có vị ngọt và sắc vàng.

Khi vua Dadhivahana gửi các trái xoài để tặng các vua khác, vì sợ sau này hột xoài sẽ mọc lên thành cây xoài, vua lấy gai chích tại chỗ mộng sanh cây. Các vua ấy ăn xoài xong, gieo hạt, nhưng nó không mọc. Họ hỏi nguyên do và biết được sự việc. Một vị vua cho gọi người giữ vườn và hỏi:

– Người có thể phá hoại hương vị trái xoài của vua Dadhivahana, khiến nó trở thành đắng được không?

Người ấy đáp:

– Tâu Ðại vương, có thể được.

Vua liền sai người ấy đi và cho một ngàn đồng tiền vàng. Người ấy đi đến Ba-la-nại, báo tin cho vua này biết có một người giữ vườn đến. Khi được vua cho gọi, anh ta vào thành, đảnh lễ vua. Vua hỏi:

– Ngươi có phải là người giữ vườn không?

Anh ta thưa:

– Tâu Ðại vương, phải.

Và anh ta bắt đầu ca tụng khả năng của mình. Vua nói:

– Ngươi có thể làm phụ tá cho người giữ vườn của ta.

Từ đấy trở đi, hai người săn sóc ngự viên.

Người giữ vườn mới tới không bao lâu đã làm cho cây trổ hoa trái mùa và sanh quả trái mùa, khiến cho khu vườn càng thêm xinh đẹp. Vua rất bằng lòng bèn đuổi người giữ vườn cũ đi, và giao khu vườn cho anh ta. Ngay khi người giữ vườn ấy chiếm được ngôi vườn vào trong tay mình, anh ta liền bao vây cây xoài bằng cách trồng các cây nimba và các loại cây leo.

Dần dần các cây nimba lớn lên, rễ với rễ, cành với cành, chúng xen lẫn chằng chịt với cây xoài. Do xen lẫn với vị không tốt, trái xoài có vị ngọt trở thành đắng giống như là nimba. Vừa khi biết được trái xoài đã trở thành đắng, người làm vườn bỏ chạy trốn.

Vua Dadhivahana đi đến thăm vườn và ăn trái xoài. Khi nước của trái xoài vào miệng, có vị đắng như trái nimba không thể nào nuốt nổi, vua phải khạc nhổ ra. Lúc bấy giờ Bồ-tát là vị cố vấn của vua về thánh sự và tục sự. Vua cho gọi Bồ-tát và hỏi:

– Thưa bậc Hiền trí, cây này được săn sóc cẩn thận như xưa, sự việc là vậy, sao trái trở thành đắng? Vì lý do gì vậy?

Và vua đọc bài kệ đầu:

Ðẹp, thơm và vị ngọt,
Trái xoài xưa là vậy,
Vẫn được ta tôn quý,
Sao lại có vị đắng?

Ðể nêu lý do, Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Da-dhi-va-ha-na,
Trái xoài chín của ngài,
Bị vây bởi nim-ba,
Rễ xen lẫn với rễ,
Cành xen lẫn với cành,
Chính cây đắng bao quanh
Ðã làm hư trái ngọt,
Do sống với bạn ác,
Trái ngọt trở thành đắng.

Vua nghe lời Bồ-tát, bảo chặt tất cả các cây nimba và cây leo, nhổ rễ lên, đào bỏ đất bùn không tốt xung quanh và đổ đất bùn tốt vào gốc cây ấy. Rồi cây được nuôi dưỡng cẩn thận với sữa, nước ngọt, nước thơm. Sau đó, nhờ được thấm nhuần đủ mọi vị ngọt nên trái cây trở lại ngọt như trước, vua liền giao khu vườn cho người giữ vườn trước kia săn sóc. Sau khi sống hết thọ mạng, vua đi theo nghiệp của mình.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể Pháp thoại này xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ Ta là vị đại hiền trí.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN BỐN VẺ ÐẸP (Tiền thân Catumatta)

Cánh đẹp cùng cánh đẹp…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo lớn tuổi.

Một hôm, trong khi hai vị đệ tử thượng thủ đang ngồi cùng nhau hỏi đáp về Chánh pháp, một Tỷ-kheo lớn tuổi đi đến gần hai vị này, trở thành người thứ ba, ngồi xuống và nói:

– Thưa các Tôn giả, chúng tôi sẽ hỏi câu này. Nếu các Tôn giả khó trả lời, hãy hỏi lại chúng tôi.

Các vị Trưởng lão chán ngấy vị này, nên đứng dậy bỏ đi. Hội chúng ngồi nghe pháp từ các vị Trưởng lão, sau khi giải tán, đi đến yết kiến bậc Ðạo Sư. Họ được bậc Ðạo Sư hỏi:

– Vì sao đến giờ phi thời vậy?

Họ thuật lại câu chuyện ấy. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên nhàm chán vị ấy, không trả lời và bỏ đi. Thuở xưa, hai vị cũng đã bỏ đi rồi.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một thần cây trú ở trong rừng. Một hôm có hai ngỗng trời con từ núi Cittakùta bay ra, đến đậu trên cây ấy để tìm mồi. Khi tìm mồi xong, chúng trở về nghỉ ngơi tại chỗ ấy rồi bay về núi Cittakùta. Trong khi đi qua đi lại, Bồ-tát trở thành quen thuộc với chúng. Ði đi về về nhiều lần, họ hoan hỷ kết bạn với nhau, nói pháp cho nhau nghe rồi ra đi. Một hôm, hai ngỗng con đậu trên ngọn cây nói chuyện với Bồ-tát, một con chó rừng đứng dưới gốc cây nói bài kệ này với hai ngỗng trời con ấy:

Leo nhánh cây chỗ cao,
Một mình, ngồi ca hót,
Hãy xuống đây ngâm kệ,
Cho vua loài thú nghe!

Các ngỗng trời con chán ngấy chó rừng, liền bay lên và trở về núi Cittakùta. Bồ-tát nói với chó rừng bài kệ thứ hai:

Cánh đẹp cùng cánh đẹp,
Chư Thiên cùng chư Thiên,
Có đủ bốn vẻ đẹp,
Sao chó lại ở đây?
Hỡi con chó rừng kia,
Hãy về hang của chó!

*

Sau khi bậc Ðạo Sư kể xong Pháp thoại này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo lớn tuổi là chó rừng, hai ngỗng trời con là Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, còn vị thần cây là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN SƯ TỬ LAI CHÓ RỪNG (Tiền thân Sìhakottuka)

Ngón chân và móng chân…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Kolàlika.

Một hôm, khi nhiều vị đa văn đang nói pháp, Kokalika cũng muốn tự mình nói pháp (mọi việc đều giống các chi tiết ở chuyện trước (Số 172). Khi nghe việc này, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không chỉ nay Kokalika mới phô bày bản chất qua tiếng nói của mình. Thuở trước, kẻ ấy cũng đã làm như vậy rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một con sư tử ở khu vực Tuyết Sơn, do cùng sống với một con chó rừng cái đã sanh một thú con. Con sư tử lai này về ngón chân, móng, lông bờm, màu sắc, hình dáng, mặt mày đều giống cha, nhưng tiếng hú thì giống mẹ.

Một hôm, trời mưa, các sư tử họp lại, rống lên, chơi các trò chơi sư tử, và con sư tử này cũng muốn rống lên giữa bọn chúng, nhưng chỉ hú lên tiếng hú của chó rừng. Nghe nó hú, các sư tử đều im lặng. Khi nghe tiếng ấy, một sư tử con cũng được sanh từ Bồ-tát, liền hỏi:

– Thưa cha, con sư tử này về dung sắc v.v… giống chúng con, nhưng tiếng hú lại khác. Con thú ấy là ai?

Rồi nó đọc bài kệ đầu:

Ngón chân và móng chân
Là ngón, móng sư tử,
Nó có chân sư tử,
Ðể đứng dựa lên trên,
Nhưng giữa chúng sư tử,
Tiếng kêu nó lại khác.

Nghe vậy, Bồ-tát nói:

– Này con thân, em con là con một chó rừng cái, giống cha về dung sắc, giống mẹ về tiếng.

Rồi Bồ-tát nói với con sư tử có mẹ là con chó rừng cái.

– Này con thân, bắt đầu từ nay, sống ở đây, chớ lên tiếng. Nếu con lên tiếng, chúng sẽ biết con là giống chó rừng.

Khuyên dạy vậy xong, Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Này con thân, chớ hú,
Sống im lặng trong rừng,
Với tiếng, chúng biết con,
Tiếng con không giống bố!

Sau khi nghe lời khuyên dạy này, con thú ấy không bao giờ thử rống nữa.

*

Khi bậc Ðạo Sư thuyết Pháp thoại này xong, Ngài liền nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con chó rừng là Kokalika, con sư tử cùng một cha là La-hầu-la, còn vua các loài thú là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN TẤM DA SƯ TỬ (Tiền thân Sìhacamma)

Tiếng hí này không phải…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Kokàlika.

Trong thời này, Kokàlika, muốn tự tán tụng. Bậc Ðạo Sư biết được sự việc này, liền kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một người nông phu. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát sống với nghề nông. Lúc bấy giờ, một nhà buôn làm nghề bán rong đồ vật do một con lừa chở. Khi ông đến một chỗ nào, ông lấy xuống các hàng hóa, trùm lên con lừa một da con sư tử và thả nó giữa ruộng lúa gạo và lúa mì. Các người chủ ruộng thấy nó, tưởng là con sư tử, không dám lại gần.

Một hôm, người lái buôn ấy đến trú tại một cửa hàng. Trong khi nấu cơm sáng, ông trùm lên con lừa một tấm da sư tử và thả nó vào ruộng mì… Các người chủ ruộng nghĩ đó là con sư tử, không dám đến gần bèn về nhà thông báo. Toàn dân trong làng cầm các binh khí, thổi tù và, đánh trống đi đến gần ruộng và la hét. Con lừa hoảng hốt vì sợ chết, vội hí lên tiếng lừa. Biết được nó là con lừa, Bồ-tát đọc bài kệ đầu:

Tiếng hí này không phải
Tiếng sư tử, hay cọp,
Cũng không phải tiếng beo.
Con vật ty tiện này,
Dù trùm da sư tử,
Cũng chỉ hí tiếng ngựa!

Các người làng biết nó là con lừa, đánh cho nó gãy xương, rồi lấy tấm da sư tử và bỏ đi. Người lái buôn ấy đến, thấy con lừa lâm nạn, liền đọc bài kệ thứ hai:

Ðã lâu, lừa khôn khéo,
Ăn lúa gạo, lúa mì,
Da sư tử trùm lên,
Do tiếng kêu, bị đánh!

Trong khi người lái buôn nói vậy, con lừa tắt thở. Người ấy bỏ con lừa lại và ra đi.

*

Bậc Ðạo Sư thuyết Pháp thoại này xong, liền nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con lừa là Kokàlika và người nông phu hiền trí là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN GIỮ GIỚI (Tiền thân Sìlànisamsa)

Hãy nhìn kết quả này…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một nam cư sĩ có lòng tin.

Một Thánh đệ tử có lòng tin, một hôm, trên đường đi đến Kỳ Viên, xuống con sông Aciravati vào buổi chiều, chứng kiến dân chài kéo thuyền lên bờ để nghe thuyết pháp. Không thấy thuyền nào đậu tại bến, vị cư sĩ ấy sanh hoan hỷ, lấy đức Phật làm đề tài tu niệm nên khi bước xuống sông, chân không chìm xuống nước.

Vị ấy đi như trên đất liền, nhưng khi đến giữa sông, thấy sóng, nên đề tài tu niệm trở thành yếu và chân bắt đầu chìm xuống. Vị ấy liền kiên trì gìn giữ hỷ tâm, lấy đức Phật làm đề tài tu niệm, nên vẫn đi trên mặt nước. Vào Kỳ Viên, đảnh lễ bậc Ðạo Sư, vị ấy ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư tiếp đón thân tình và hỏi:

– Này nam cư sĩ, mong rằng trên con đường đi đến đây, ông không mệt mỏi.

Vị ấy trả lời:

– Bạch Thế Tôn, nhờ hỷ tâm với đức Phật làm đề tài tu niệm, con đi trên mặt nước như đặt chân trên đất liền, và đến đây.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này cư sĩ, ông không phải là người đầu tiên nhờ niệm các công đức Phật mà được an toàn. Thuở trước, có những nam cư sĩ, khi tàu bị chìm, nhờ niệm các công đức Phật mà được an toàn.

Rồi theo lời yêu cầu của vị này, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, trong thời đức Phật Ca-diếp, có vị Thánh đệ tử đã chứng quả Dự lưu lên tàu đi cùng với một thợ hớt tóc giàu có. Người vợ nói với chồng:

– Này ông, ông hãy lo giúp đỡ săn sóc vị cư sĩ này trong bất cứ hoàn cảnh vui buồn nào nhé.

Người thợ đi trên chiếc thuyền ấy. Sau một tuần, thuyền bị đắm giữa biển. Cả hai người nằm trên một tấm ván và trôi đến được một hòn đảo. Tại đấy người hớt tóc giết các con chim, nấu ăn một phần và đem một phần cho vị nam cư sĩ. Người cư sĩ tự cho là vừa đủ, nên không ăn thêm. Vị ấy nghĩ: “Tại chỗ này, ngoài Ba ngôi báu, chúng ta không có sự giúp đỡ nào khác”. Rồi vị ấy niệm tưởng công đức của Ba ngôi báu. Trong khi người ấy niệm như vậy, một con rắn chúa đã sanh ở đảo ấy biến hóa thành một chiếc thuyền lớn, có một vị thần biển làm thuyền trưởng. Chiếc thuyền chứa đầy bảy báu: Ba cột buồm làm bằng ngọc xanh, cái neo làm bằng vàng, sợi dây làm bằng bạc và các tấm ván bằng vàng. Vị thần biển đứng trên thuyền gọi lớn:

– Có ai đi đến Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) không?

Vị nam cư sĩ nói:

– Có chúng tôi về đó.

– Vậy hãy leo lên tàu.

Vị cư sĩ lên tàu và gọi người hớt tóc. Vị thần biển nói:

– Ngài thì được, nhưng người kia thì không.

– Vì sao?

– Người ấy không có công đức. Vì vậy tôi đưa ngài lên tàu nhưng không đưa người này.

– Thôi được, các công đức bố thí ta đã làm, các giới ta đã giữ, các sức mạnh ta đã tu tập, ta cho người này kết quả tất cả các hạnh ấy của ta.

Người hớt tóc nói:

– Thưa ông chủ, con rất hèn.

Vị thần biển nói:

– Nay ta nhận thêm người này lên tàu.

Rồi vị thần đưa cả hai người vượt biển và ngược dòng sông đi đến Ba-la-nại. Sau đó, với thần lực của mình, vị thần tạo ra tài sản trong nhà của hai người ấy và nói:

– Hãy thân cận những bậc hiền trí. Nếu người thợ hớt tóc không cẩn thận với vị cư sĩ này, người ấy đã chết giữa biển rồi.

Ðể tán thán công đức thân cận của người hiền trí, vị thần nói lên những bài kệ này:

Hãy nhìn kết quả này
Của tín, giới, và thí,
Biến hình thành chiếc thuyền,
Con rắn chở thiện nam.
Hãy thân cận bậc lành,
Hãy giao du kẻ tốt;
Chung sống với bậc thiện,
Người hớt tóc an toàn.

Vị thần biển đứng trên hư không, sau khi thuyết pháp xong, liền cùng với con rắn chúa bay về cung điện của mình.

*

Sau khi bậc Ðạo Sư thuyết Pháp thoại này xong, Ngài giảng các Sự thật. Cuối bài giảng ấy, vị nam cư sĩ có lòng tin đắc quả Nhất lai và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vị nam cư sĩ đắc Niết-bàn, rắn chúa là Xá-lợi-phất và vị thần biển là Ta vậy.

PHẨM RUHAKA

  1. CHUYỆN TẾ SƯ RUHAKA (Tiền thân Ruhaka)

Dây cung, dù bị đứt…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về sự luyến ái người vợ cũ. Hoàn cảnh câu chuyện sẽ được đề cập ở Chương tám, Tiền thân Indriya (số 423). Bậc Ðạo Sư nói với Tỷ-kheo ấy:

– Này Tỷ-kheo, nữ nhân ấy đã làm hại ông. Thuở xưa, cô ta đã làm nhục ông trước mặt vua và triều đình. Ngay sau đó, ông đã đuổi cô ta ra khỏi nhà.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con của hoàng hậu chánh cung. Khi đến tuổi trưởng thành, phụ vương mệnh chung, Bồ-tát được đặt trên vương vị và trị nước theo Chánh pháp.

Bồ-tát có một cố vấn tế tự tên là Ruhaka. Ông ta có bà vợ già là một nữ Bà-la-môn. Vua cho vị Bà-la-môn một con ngựa với đầy đủ đồ trang sức, leo lên ngựa đi đến chầu vua. Khi ông ngồi trên lưng ngựa được trang sức như vậy, dân chúng đứng khắp nơi đều khen con ngựa ấy:

– Ôi chói sáng thay con ngựa! Nó đẹp làm sao!

Người Bà-la-môn đi về nhà, lên lầu và nói với bà vợ:

– Này hiền thê, con ngựa của chúng ta tuyệt đẹp. Người đứng hai bên đường đều khen nó.

Nữ Bà-la-môn là người có chút ác tánh, và hay lừa phỉnh, liền nói với chồng:

– Ông có biết nguyên nhân nào làm cho con ngựa này đẹp không? Con ngựa này đẹp là nhờ các thứ trang hoàng cho loài ngựa. Nếu ông muốn đẹp như con ngựa, hãy trang sức như con ngựa, rồi đi xuống giữa đường, vừa đi vừa nhún chân như con ngựa. Khi ông đến yết kiến vua, vua sẽ tán thán ông, và mọi người ai cũng đều khen ông cả.

Vị Bà-la-môn ấy bản tánh ngu ngốc, nghe lời bà vợ, không biết ý đồ của vợ, cứ làm đúng như vậy. Những ai thấy người Bà-la-môn ấy đều cười lớn và nói:

– Ðẹp thay là bậc Sư trưởng!

Vua nói với người Bà-la-môn:

– Này Sư trưởng, có phải ông nổi giận rồi sao? Ông có điên không?

Câu nói của vua chê vậy khiến ông sanh hổ thẹn. Lúc bấy giờ, vị Bà-la-môn biết: “Ta làm một việc không thích đáng”, liền sinh lòng căm tức nữ Bà-la-môn:

– Nó đã làm ta xấu hổ trước mặt vua và quân đội. Ta sẽ đánh nó và đuổi nó ra khỏi nhà.

Ông đi về nhà với ý nghĩ trả thù như vậy. Nữ Bà-la-môn ác tánh biết chồng trở về với lòng căm giận mình, liền trốn ra khỏi nhà bằng một cửa nhỏ, đi đến cung điện của vua, và ở tại đấy bốn, năm ngày. Vua biết được tin ấy, cho gọi vị cố vấn tế tự, khuyên ông tha thứ:

– Này Sư trưởng, đàn bà đầy lỗi lầm, ông nên tha thứ cho nữ Bà-la-môn.

Rồi với mục đích khuyến giáo vị ấy tha thứ, vua nói lên bài kệ đầu:

Dây cung dù bị đứt,
Cũng có thể nối liền,
Hãy giảng hòa với vợ,
Chớ để tâm hận hiềm.

Nghe xong, Ruhaka đọc bài kệ thứ hai:

Có vỏ, làm dây khác,
Lại có thợ biết làm.
Tôi sẽ tìm vợ mới,
Vợ cũ, tôi chán nhàm!

Nói vậy xong, ông đuổi nữ Bà-la-môn ấy và cưới một nữ Bà-la-môn khác.

*

Sau khi bậc Ðạo Sư kể Pháp thoại này, Ngài trình bày các Sự thật. Cuối bài giảng, vị Tỷ-kheo có tâm luyến ái đã đắc quả Dự lưu.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, người vợ cũ là nữ Bà-la-môn, Ruhaka là Tỷ-kheo có tâm luyến ái, còn vua Ba-la-nại là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN THIÊN NỮ SIRIKÀLAKANNI (Tiền thân Sirikàlakanni)

Nữ nhân có thể đẹp…,

Tiền thân Sirikàlakanni sẽ được trình bày ở Tiền thân Mahà-Ùmmagga (số 538).

-ooOoo-

  1. CHUYỆN HOÀNG TỬ LIÊN HOA (Tiền thân Cullapaduma)

Nàng chính là người ấy…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn. Hoàn cảnh chuyện này sẽ được trình bày trong Tiền thân Ummadanti (số 527). Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Tỷ-kheo, có thật chăng ông thối thất tinh tấn?

Vị ấy trả lời:

– Bạch Thế Tôn, con thấy một nữ nhân mặc áo quần rất đẹp, nên bị ái nhiễm và thối thất tinh tấn.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, các nữ nhân đều vô ơn, phản bội tình bạn. Các bậc hiền trí thuở xưa, với tâm tư điên cuồng đến độ cho họ uống máu đầu gối phải của mình, trọn đời mang tặng phẩm hiến dâng cho họ, nhưng vẫn không chinh phục được tâm của nữ nhân.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con trai của bà hoàng hậu chánh cung, khi đến ngày đặt tên, được gọi là hoàng tử Paduma (Liên Hoa). Sau Bồ-tát, còn có sáu người em trai nữa. Bảy người ấy tiếp tục lớn lên, lập gia đình sống bên cạnh nhà vua. Một hôm vua đứng nhìn xuống sân thấy họ đi đến hầu vua với một tùy tùng đông đảo, vua sinh lòng nghi ngờ: “Những người này có thể giết ta và cướp lấy quốc độ”. Nghĩ vậy, vua cho gọi họ đến và nói:

– Này các con thân, các con không thể sống trong thành này. Hãy đi đến một chỗ khác, và sau khi ta băng hà, hãy trở về cai trị vương quốc, vì vương quốc là sở hữu của gia đình.

Các con vâng theo lời cha.

Họ khóc than, đi về nhà, đem theo vợ con mình và nói:

– Chúng ta hãy đi bất cứ nơi nào và sống tại đấy.

Họ ra khỏi thành, lên đường, đi đến một chỗ hoang vu, không có đồ ăn nước uống, chịu đựng đói khát không nổi, và nghĩ: “Chúng ta còn sống sẽ được nữ nhân khác”.

Họ giết vợ của người em út, chia thành mười ba phần, rồi ăn thịt. Bồ-tát và vợ lấy phần mình chia làm ba, để lại một phần và ăn hai phần. Như vậy trong sáu ngày, họ giết sáu nữ thân để ăn thịt. Mỗi ngày kế tiếp Bồ-tát để lại một phần, vì vậy có được sáu phần. Ðến ngày thứ bảy, họ có ý định giết vợ của Bồ-tát. Nghe vậy, Bồ-tát cho họ ăn sáu phần còn lại, và nói:

– Hãy ăn sáu phần này, ngày mai sẽ tính.

Cho họ ăn thịt xong, khi họ nằm ngủ, Bồ-tát đem vợ chạy trốn. Người vợ đi một lát, rồi nói:

– Thưa chàng, em không thể đi được.

Bồ-tát cõng vợ lên vai, đi đến rạng đông, ra khỏi được cảnh hoang vu. Khi mặt trời mọc, người vợ nói:

– Thưa chàng, em khát.

Bồ-tát nói:

– Này hiền thê, không có nước.

Nghe nàng nói đi nói lại, Bồ-tát lấy gươm đâm đầu gối chân phải của mình và nói:

– Này hiền thê, không có nước uống. Ðây là máu đầu gối phải của ta. Hãy ngồi xuống và uống nó đi.

Người vợ làm như vậy. Họ tiếp tục đi, đến sông Hằng Hà hùng vĩ, họ uống nước, tắm, ăn các loại trái và rau v.v… rồi nghỉ ngơi tại một chỗ thoải mái. Gần một khúc quanh của sông Hằng, họ dựng lên một am thất và sống tại đấy.

Một hôm, một tên cướp ở thượng lưu sông Hằng, phạm tội phản nghịch vua nên tay chân, tai mũi đều bị cắt đứt, bị quăng nằm trong chiếc xuồng nhỏ và thả trôi trên sông Hằng Hà rộng lớn, rên la vì đau đớn, và trôi đến chỗ ấy. Bồ-tát nghe tiếng than đau thương bi ai của nó, liền đi đến bờ sông Hằng, kéo nó lên bờ, dắt nó đến am thất, và xức thuốc chữa trị vết thương. Người vợ nói:

– Một đứa què lười biếng như thế này mà chồng ta lại mang từ sông Hằng về để săn sóc và cứu sống!

Nói vậy xong, nàng khinh bỉ nhổ vào mặt người què ấy. Khi các vết thương của nó được lành mạnh, Bồ-tát cho nó ở tại am thất với vợ mình, rồi đem trái cây và các loại khác từ rừng về, nuôi nó và người vợ. Trong khi họ chung sống như vậy, nữ nhân ấy sanh ái luyến người què, thông dâm với nó và muốn giết Bồ-tát với phương tiện ác độc, liền nói với chồng:

– Thưa chàng, khi em ngồi trên lưng chàng ra đi khỏi khu vực hoang vu, em nhìn hòn núi này, và cầu xin như sau: Thưa vị thần núi, nếu con được sống an lành với chồng, con sẽ làm lễ cúng tạ ngài! Nay thần ấy làm em hoảng sợ. Em phải làm lễ cúng tạ thần ấy.

Bồ-tát không biết vợ mình lừa đảo liền bằng lòng, sửa soạn lễ cúng, giao cho vợ dĩa đựng đồ cúng, rồi leo lên chóp núi. Người vợ nói với chồng:

– Thưa chàng, không phải vị thần mà chính chàng mới là vị thần tối thượng. Trước hết, em sẽ cúng dường chàng hoa rừng, đi nhiễu xung quanh chàng, đảnh lễ chàng, rồi sau đó em cúng lễ cho vị thần núi.

Nói vậy xong, nàng đặt Bồ-tát đứng trên bờ vực thẳm, cúng dường Bồ-tát hoa rừng, đi nhiễu xung quanh, và làm như muốn đảnh lễ chồng, nàng đứng phía sau đánh Bồ-tát trên lưng, rồi xô Bồ-tát rơi xuống vực thẳm, và la lên vì thỏa mãn:

– Ta đã thấy cái lưng kẻ thù ta rồi!

Và nàng xuống núi đi với người què ấy.

Bồ-tát rơi từ trên núi xuống vực thẳm nhưng bị mắc vào một chùm lá không có gai trên chóp cây sung nên không thể xuống núi được. Bồ-tát ăn trái cây sung và sống giữa các cành cây.

Một con kỳ-đà chúa có thân to lớn, từ chân núi thường leo lên ăn trái của cây sung ấy. Nó thấy Bồ-tát và chạy trốn. Ngày sau nó lại đến, ăn những trái ở một bên cây rồi bỏ đi. Nó đến nhiều lần như vậy cho đến khi nó kết thân với Bồ-tát và hỏi:

– Làm thế nào anh đến được chỗ này?

Khi được Bồ-tát nói cho biết lý do, nó nói:

– Thôi được, anh chớ sợ.

Rồi nó bảo Bồ-tát ngồi trên lưng mình, sau đó nó bò xuống núi, ra khỏi khu rừng, đặt Bồ-tát trên con đường lớn và nói:

– Hãy đi theo con đường này.

Bồ-tát đi đến một ngôi làng nhỏ và sống tại đấy. Khi nghe tin phụ vương đã mệnh chung, Bồ-tát đi đến Ba-la-nại, lên ngôi kế vị trong vương quốc thuộc quyền sở hữu của gia đình và trở thành vua Paduma. Nguyện theo Mười vương pháp trị nước đúng luật, Bồ-tát cho xây sáu hội trường bố thí tại bốn cửa thành, tại chính giữa thành, tại trước cửa cung điện và mỗi ngày bố thí sáu trăm ngàn đồng tiền.

Trong lúc ấy, nữ nhân độc ác kia cõng người què trên lưng, đi ra khỏi rừng, xin ăn giữa con đường có người qua kẻ lại, thâu lượm cháo cơm để nuôi dưỡng người tình. Có người hỏi:

– Người này là ai đối với cô?

Nàng nói dối:

– Mẹ người này là chị của cha tôi. Người này là anh họ tôi. Người ta cho tôi người này. Dầu cho chàng bị đọa đầy đến chết, tôi cũng sẽ mang chồng tôi trên vai đi khất thực, và nuôi dưỡng chàng.

Mọi người khen:

– Thật là người vợ trung tín với chồng!

Từ đấy trở đi, người ta cho nàng cháo và cơm nhiều hơn trước. Những người khác nói với nàng:

– Chớ sống như thế này. Vua Paduma trị vì ở Ba-la-nại, công đức bố thí của ngài vang dội toàn cõi Diêm-phù-đề. Vua thấy nàng sẽ hoan hỷ, và sẽ cho nàng nhiều tài sản. Hãy để chồng nàng ngồi trong cái giỏ này và cõng đi.

Họ cổ võ nàng và cho nàng một cái giỏ tre. Người đàn bà ác hạnh kia đặt người què ngồi trên lưng mình, rồi đi đến Ba-la-nại, xin ăn tại các nhà bố thí và sống như vậy.

Bấy giờ Bồ-tát thường hay ngồi trên lưng voi với trang sức lộng lẫy, đi đến nhà bố thí và sau khi tự tay bố thí cho tám hay mười người, ngài lại đi về cung. Nữ nhân ác hạnh ấy đặt người què ngồi trong cái giỏ, mang nó trên lưng và đứng trên đường vua đi qua. Vua thấy họ bèn hỏi:

– Người này là ai vậy?

– Thưa Ðại vương, một người vợ trung tín.

Vua cho gọi nàng đến, nhận diện nàng, liền bảo đưa người què ra khỏi cái giỏ, và hỏi:

– Người này là gì của nàng?

Nàng trả lời:

– Người này là con của người chị cha tôi. Gia đình đó cho tôi và tôi nhận người này làm chồng tôi.

Các người không biết nội dung câu chuyện liền nói to:

– Ôi, thật là người vợ trung tín!

Và họ tán thán nữ nhân ác hạnh ấy. Vua hỏi thêm:

– Có phải người què này do gia đình cho nàng làm chồng không?

Nữ nhân ấy không nhận diện được vua nên mạnh dạn nói:

– Thưa Ðại vương, đúng vậy.

– Và đây có phải là con vua Ba-la-nại không? Nàng có phải là con gái của một vị vua, là vợ của hoàng tử Paduma?

Sau khi dằn mặt nàng, vua vạch mặt nàng:

– Chính nàng uống máu từ đầu gối của ta và vì luyến ái với người què này, nàng đã xô ta xuống vực thẳm. Nàng nghĩ rằng ta đã chết, nhưng ta vẫn còn sống! Nay nàng đến đây với dấu hiệu tử thần in trên trán đấy!

Rồi vua nói với các triều thần:

– Hỡi các triều thần, trước kia các khanh hỏi trẫm và trẫm đã trả lời như sau: Sáu người em trai trẫm đã giết vợ họ và đã ăn thịt vợ họ. Nhưng trẫm đã bảo vệ vợ mình an toàn, đưa nàng đến bờ sông Hằng, và sống tại một am thất. Ở đấy trẫm cứu một kẻ què bị xử tội chết và nuôi dưỡng nó. Còn nữ nhân đã sanh tâm luyến ái nó, và xô trẫm xuống vực sâu, không ai khác mà chính là nữ nhân ác hạnh này. Nhưng trẫm đã tự cứu mình nhờ tỏ bày tình thân ái. Còn người què bị xử tội chết không ai khác mà chính là tên này!

Rồi Bồ-tát đọc những bài kệ này:

Nàng chính là người ấy,
Còn ta không ai khác,
Người què chính là nó,
Bị chặt tay, chính nó.
Tuy vậy nàng vẫn nói:
– Là chồng tôi lúc trẻ.
Ðàn bà thật đáng chết,
Chúng không có sự thật!
Hãy lấy một cái chày.
Ðánh chết tên khốn nạn,
Kẻ độc ác rình rập
Ðể cướp lấp vợ người.
Sau đó bắt người vợ
Ác độc, tà hạnh này,
Chấm dứt mạng sống nó,
Cắt cả mũi lẫn tai!

Bồ-tát không có thể dẹp được cơn phẫn nộ và ra lệnh trừng phạt chúng, nhưng rồi không thi hành như đã ra lệnh. Ðể làm nguôi giận, Bồ-tát bảo cột cái giỏ vào đầu nàng thật chặt, để nàng không cởi nó ra được rồi quăng kẻ què vào giỏ và đuổi cả hai ra ngoài quốc độ của mình.

*

Sau khi kể Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Sự thật và cuối bài giảng, vị Tỷ-kheo thối thất đã đắc quả Dự lưu.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Sáu anh em thời ấy là sáu vị Trưởng lão, người vợ là thiếu nữ Cinca, người què phạm tội là Ðề-bà-đạt-đa, con kỳ đà chúa là Ànanda, còn vua Paduma là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN KẺ TRỘM NGỌC (Tiền thân Manicora)

Không có Thiên thần nào…,

Câu chuyện này, khi ở Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa muốn sát hại mình.

Khi nghe Ðề-bà-đạt-đa đang âm mưu sát hại mình, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay mà thuở xưa cũng vậy, Ðề-bà-đạt-đa đã âm mưu sát hại ta. Nhưng kẻ ấy cũng không có thể làm như vậy được.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình của một gia chủ tại một ngôi làng nhỏ không xa Ba-la-nại bao nhiêu. Khi Bồ-tát đến tuổi trưởng thành, người ta đi cưới con gái của một gia đình từ Ba-la-nại về gả cho Bồ-tát. Nàng dễ thương, xinh đẹp, mỹ lệ giống như Thiên nữ, yểu điệu giống như cây leo nở hoa, yêu kiều như con chim thần Kinnàri, có tên là Sujàta. Nàng thủy chung, có giới hạnh, luôn luôn làm tròn bổn phận đối với chồng. Nàng được Bồ-tát thương mến và quý trọng, vì vậy cả hai sống với nhau hoan hỷ, đồng tâm, và thuận hòa.

Một hôm Sujàtà thưa với Bồ-tát:

– Em muốn về thăm cha mẹ em.

– Lành thay, hiền thê. Hãy chuẩn bị thật đầy đủ lương thực đi đường.

Rồi Bồ-tát bảo nấu đủ loại đồ ăn và sắp đặt các lương thực đi đường. Chuẩn bị xong, Bồ-tát ngồi phía trước đánh xe, còn vợ ngồi phía sau. Cả hai đi đến gần thành Ba-la-nại, tháo đôi bò khỏi xe, tắm rửa và ăn uống. Rồi Bồ-tát cột bò vào xe lại và ngồi phía trước, còn Sujàtà đã thay áo, trang điểm, và ngồi phía sau.

Khi cỗ xe đi vào thành, vua Ba-la-nại ngồi trên lưng con voi đẹp, đang đi xung quanh thành và đến chỗ ấy. Sujàtà vừa xuống xe và đi bộ sau xe. Vua thấy nàng, sanh tâm luyến ái, bảo một vị cận thần đi theo dò hỏi nàng đã có chồng, và về tâu với vua:

– Thần nghe nàng ấy đã có chồng, và chồng nàng đang ngồi phía trước xe.

Vua không thể chế ngự tâm ái luyến của mình, và tham dục đã tràn ngập trong lòng, vua suy nghĩ: “Với mọi phương tiện, ta sẽ giết tên này và lấy nữ nhân”.

Vua gọi một người và bảo:

– Này người kia, hãy cầm lấy viên ngọc này, giả bộ đang đi trên đường, rồi bỏ rơi hòn ngọc trong xe của người ấy.

Nói vậy xong, vua giao cho anh ta một hòn ngọc, và thúc giục anh ta đi. Người ấy vâng lời lấy hòn ngọc, đi đến thả nó vào trong xe rồi trở về thưa:

– Thưa Thiên tử, tôi đã thả hòn ngọc xong.

Vua la lớn:

– Ta đã mất một hòn ngọc!

Mọi người làm ầm ĩ lên và vua ra lệnh:

– Hãy đóng tất cả, cắt đứt mọi đường đi ra, và bắt tên ăn trộm.

Các người hầu vua làm theo đúng lệnh. Còn người kia đem theo một số người, đi gần đến Bồ-tát và nói:

– Này ông, hãy để xe lại. Vua mất hòn ngọc trên vương miện. Chúng tôi phải khám xe của ông.

Anh ta khám xe, lấy hòn ngọc mà chính anh ta đã bỏ rơi vào, rồi bảo Bồ-tát là kẻ ăn cắp hòn ngọc, lấy tay chân đánh đá ngài, cột ngài ra đàng sau, dẫn đến trình vua và thưa:

– Hãy xem đây là tên trộm hòn ngọc!

Vua ra lệnh:

– Hãy chặt đầu nó!

Các người của vua tại các ngã tư đường, đánh Bồ-tát bằng roi, rồi dẫn ngài ra ngoại thành qua cửa phía nam.

Bấy giờ Sujàtà bỏ xe, giơ tay lên trời than khóc chạy theo chồng:

– Ôi chồng tôi! Vì tôi mà chồng tôi phải chịu cảnh đau khổ này!

Nàng đi theo và khóc than như vậy. Các người hầu của vua bắt Bồ-tát nằm ngửa với ý định chặt đầu ngài. Thấy vậy, Sujàtà nghĩ đến công đức giới hạnh của mình và nói thầm: “Ta chắc rằng trong đời này không vị Thiên thần nào có khả năng chận đứng bàn tay những người độc ác dã man làm hại những người có giới hạnh”.

Rồi nàng than khóc và đọc bài kệ đầu:

Không có Thiên thần nào,
Chắc các ngài đi vắng,
Có lẽ không một ai.
Bảo vệ cõi đời này
Kẻ bạo ngược hung hãn
Muốn làm gì thì làm,
Có lẽ không một ai
Chận đứng được bọn chúng!

Vì nàng là người có giới hạnh than khóc như vậy nên chiếc ngai của Thiên chủ Ðế Thích trở thành nóng. Ðế Thích nghĩ: “Ai lại muốn ta rời khỏi ngôi vị Thiên chủ của ta đây?”. Rồi Ðế Thích xem xét địa giới, biết sự việc đã xảy ra và nói:

– Vua Ba-la-nại đang làm một điều thật ác độc, khiến cho Sujàtà có giới hạnh phải đau đớn. Nay ta cần phải đi xuống đó!

Ðế Thích từ thiên giới đi xuống, với thần lực của mình bắt ông vua độc ác đang ngồi trên lưng voi phải rời khỏi voi và đặt vua nằm ngửa tại chỗ hành quyết thay Bồ-tát. Rồi Ðế Thích đỡ Bồ-tát dậy, trang điểm ngài với mọi thứ đồ trang sức, rồi mặc áo mũ của vua, và đặt ngài ngồi trên lưng voi của vua.

Quân hầu của vua giơ cao búa lên chém đầu. Khi chém xong, họ mới biết là đầu của vua! Thiên chủ Ðế Thích hiện hình có thể thấy được, đi đến Bồ-tát, làm lễ quán đảnh cho ngài và đặt Sujàtà lên ngôi hoàng hậu. Các vị đại thần và các Bà-la-môn gia chủ v.v… thấy Thiên chủ Ðế Thích, sung sướng nói:

– Vua phi pháp đã bị giết, chúng ta nay được vua đúng pháp do Ðế Thích ban cho chúng ta!

Ðế Thích đứng giữa hư không nói:

– Ðây là vua của các ngươi do Ðế Thích ban cho. Bắt đầu từ nay, vua ấy sẽ trị vì quốc độ đúng pháp. Nếu vua làm việc phi pháp, trời sẽ mưa phi thời, đúng thời trời không mưa, và có ba tai nạn về đói, về bệnh, về chiến tranh. Ba tai nạn này sẽ đến cho dân chúng vì vua ác.

Rồi Ðế Thích thuyết giáo họ với bài kệ thứ hai:

Với nó, mưa phi thời,
Ðúng thời, trời không mưa,
Từ trời, vua xuống đất,
Hãy nhìn rõ nguyên nhân
Kẻ này đã bị giết.

Như vậy, Ðế Thích thuyết giáo đại quần chúng xong, liền trở về cõi thiên của mình. Còn Bồ-tát trị nước đúng pháp và về sau đi lên thiên giới làm đông đảo hội chúng chư Thiên.

*

Sau khi kể Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vua phi thời là Ðề-bà-lạt-đa. Ðế Thích là A-na-luật-đà, Sujàtà là mẹ của La-hầu-la (Ràhulamàtà), còn vị vua do Ðế Thích đặt lên ngôi là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN HÒN NÚI ÐẸP (Tiền thân Pabbatupatthara)

Trải dài hòn núi đẹp…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về vua Kosala.

Có tiếng đồn một vị đại thần thông dâm trong nội cung. Vua cho điều tra, biết được sự việc ấy có thật, liền đi đến Kỳ Viên, đảnh lễ bậc Ðạo Sư và thưa:

– Bạch Thế Tôn, nay trẫm phải làm gì với nó?

Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Thưa Ðại vương, đại thần ấy có giúp ích Ðại vương không, và Ðại vương có thương nữ nhân ấy không?

Vua đáp:

– Bạch Thế Tôn, đại thần ấy đã giúp ích nhiều cho trẫm, vị ấy cai quản toàn bộ triều đình, và trẫm yêu nữ nhân ấy.

Khi nghe nói vậy, bậc Ðạo Sư nói:

– Thưa Ðại vương, khi các người hầu cận có lợi ích cho mình và khi các nữ nhân được thương yêu thì không có thể hại họ được. Thuở xưa, các vua nghe theo lời các bậc hiền trí đã giữ một thái độ thản nhiên đối với các việc như vậy.

Rồi theo lời yêu cầu của vua, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình vị đại thần, khi trưởng thành trở thành vị cố vấn cho vua trong các vấn đề thế sự và thánh sự. Bấy giờ có một đại thần thông dâm trong nội cung. Khi biết được sự việc này, vua suy nghĩ: “Viên đại thần giúp ích nhiều cho ta, và ta yêu nữ nhân ấy, nên ta không thể làm hại hai người này được. Ta hãy hỏi vị đại thần hiền trí. Nếu cần phải kham khẫn, ta sẽ kham nhẫn; nếu không cần, ta sẽ không kham nhẫn”. Vua truyền mời Bồ-tát đến, rồi hỏi:

– Thưa bậc Hiền trí, trẫm muốn hỏi một câu.

– Thưa Ðại vương, xin hãy nói đi và thần sẽ trả lời.

Vua liền hỏi qua bài kệ đầu:

Trải dài hòn núi đẹp,
Có hồ nước trong xanh,
Biết sư tử bảo vệ,
Chó rừng uống nước lành.

Nghe bài kệ, Bồ-tát suy nghĩ: “Chắc hẳn có đại thần thông dâm trong nội cung”; và đọc bài kệ thứ hai:

Tất cả loài có chân,
Ðều uống nước sông lớn.
Sông vẫn là con sông,
Nếu quý, hãy kham nhẫn.

Bậc Ðại Sĩ khuyên bảo vua như vậy. Vua vâng theo lời chỉ dạy của Bồ-tát và nói:

– Chớ làm tội lỗi như vậy nữa.

Rồi vua tha thứ cho hai người. Từ đấy về sau họ không làm như vậy nữa. Còn vua trọn đời làm các công đức như bố thí v.v…, và khi mạng chung, vua đi lên thiên giới làm đông đảo hội chúng chư Thiên.

Sau khi nghe pháp thoại này, vua Kosala đã tha thứ cho cả hai người ấy, và giữ thái độ thản nhiên.

*

Sau khi kể Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vua là Ànanda, còn vị đại thần hiền trí là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON NGỰA BAY (Tiền thân Valàhassa)

Những ai không làm theo…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Tỷ-kheo có thật chăng ông thối thất tinh tấn?

Tỷ-kheo ấy đáp:

– Thưa có thật.

Ngài lại hỏi:

– Vì nguyên nhân gì?

Vị ấy đáp:

– Vì thấy một nữ nhân trang sức xinh đẹp, nên con bị phiền não chinh phục.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, các nữ nhân này, với sắc, tiếng, hương, vị, xúc của mình, với mưu chước cám dỗ của mình, đã làm đàn ông tham đắm, khiến đối phương rơi vào thế lực của mình, và khi đã bị chi phối, các nữ nhân ấy phá hoại giới đức, tài sản của kẻ si tình bằng các ác hạnh. Do vậy, nữ nhân được gọi là nữ Dạ-xoa.

Thuở xưa, các nữ Dạ-xoa đi đến một đoàn lữ hành, với mưu chước nữ nhân, làm các thương nhân tham đắm, khiến họ rơi vào thế lực của chúng rồi khi chúng thấy những người đàn ông khác, chúng liền giết và ăn thịt những người trước, chúng gặm xương nghe rạo rạo, với máu thịt chảy dài hai bên má.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể chuyện quá khứ

*

Thuở xưa, tại đảo Tambapanni thuộc xứ Tích Lan, có một thành phố Dạ-xoa trú ẩn. Khi các tàu đắm, chúng ra sức trang điểm, đem theo các đồ ăn loại cứng loại mềm, với nữ tỳ vây quanh, với trẻ con ôm bên nách, và đi đến gần các người lái buôn. Nhằm mục đích làm cho các người ấy tưởng đó là thành phố có loài người ở, chúng tạo ra khắp nơi những người đang cày bừa chăn bò, những đàn bò đang ăn cỏ và đàn chó chạy qua lại v.v… Rồi chúng đi đến gần các người lái buôn và nói:

– Hãy uống cháo này, hãy ăn cơm này, hãy chia đồ ăn này, hỡi các vị khách phương xa.

Các người lái buôn không biết, nên cứ thọ hưởng các món ăn do chúng cho. Khi các người lái buôn ăn xong, và trong lúc họ nghỉ ngơi, các nữ Dạ-xoa thân mật hỏi:

– Các người ở đâu? Các người từ đâu lại? Các người sẽ đi đâu? Các người đến đây để làm gì?

Họ trả lời:

– Chúng tôi bị vỡ tàu nên đến đây.

Các nữ Dạ-xoa nói:

– Tốt lắm, thưa các ông. Chồng của chúng tôi lên tàu ra đi đã quá ba năm. Chắc họ đã chết rồi. Các ông là những lái buôn, chúng tôi sẽ là những người hầu hạ các ông.

Sau khi nói vậy, chúng dùng mưu chước của đàn bà cám dỗ, làm các người lái buôn say đắm rồi đưa họ đến thành Dạ-xoa. Nếu những người bị bắt trước còn xót lại, chúng trói họ với những sợi dây chuyền thần bí, và quăng họ vào nhà cực hình. Nếu chúng không tìm được những người đắm tàu để ăn thịt, chúng thường sục sạo dọc theo bờ biển xa cho đến tận sông Kalyàni phía bên kia và đảo Nàga phía bên này. Ðây là việc làm hàng ngày của chúng.

Một hôm, năm trăm người lái buôn bị đắm tàu, lên được bờ gần thành của nữ Dạ-xoa này. Các nữ Dạ-xoa đi đến và làm cho họ say đắm, rồi đưa họ đến thành Dạ-xoa. Chúng trói những người đã bị bắt trước kia với những sợi dây chuyền thần bí và quăng họ vào nhà cực hình. Nữ chúa Dạ-xoa lấy người thuyền trưởng, và các nữ Dạ-xoa còn lại lấy những người kia, như vậy năm trăm nữ Dạ-xoa lấy năm trăm người đi buôn ấy làm chồng.

Rồi ban đêm, khi các thương nhân đã ngủ say, nữ chúa Dạ-xoa liền dậy, đi đến nhà cực hình giết những người tại đấy, ăn thịt rồi trở về. Các nữ Dạ-xoa còn lại cũng làm như vậy. Sau khi ăn thịt người, nữ chúa Dạ-xoa trở về, thân thể trở thành lạnh. Người lái buôn trưởng ôm nàng là nữ chúa Dạ-xoa, liền nghĩ: “Năm trăm nàng này là nữ Dạ-xoa. Chúng ta phải chạy trốn”.

Sáng sớm hôm sau, khi đi rửa mặt, anh ta nói với các người đi buôn kia:

– Những nàng này là nữ Dạ-xoa, không phải là người. Khi có các người bị đắm tàu khác đến, chúng sẽ lấy những người ấy làm chồng và ăn thịt chúng ta. Vậy chúng ta hãy chạy trốn.

Hai trăm năm mươi người trong bọn nói:

– Chúng tôi không thể bỏ các nữ Dạ-xoa này được. Nếu các ông muốn, thì hãy đi đi. Nhưng chúng tôi sẽ không chạy trốn đâu.

Sau đó, người lái buôn trưởng đem theo hai trăm năm mươi người nghe lời của mình chạy trốn.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát sanh làm con ngựa toàn trắng, với đầu như con quạ, với tóc như cỏ munja, có thần thông, có thể bay trên hư không. Bồ-tát từ Tuyết Sơn bay lên hư không, đến hòn đảo Tambapanni, trên các ao, hồ ở Tambapanni và ăn các loại lúa mọc tại đấy. Trong khi bay qua như vậy, vì lòng từ bi, ba lần Bồ-tát nói lớn tiếng với giọng người:

– Có người nào muốn trở về tổ quốc không?

Các người đi buôn nghe lời Bồ-tát, đi đến chấp tay và thưa:

– Thưa ngài, chúng con muốn trở về.

– Vậy hãy leo lên lưng ta.

Một số người leo lên thân ngựa, một số người nắm đuôi ngựa, một số người chấp tay và đứng im lặng kính cẩn. Bồ-tát dùng thần lực đem hai trăm năm mươi người ấy về tổ quốc của họ, rồi sau đó trở lại trú xứ của mình.

Và khi có những người khác đến đấy, các nữ Dạ-xoa liền giết hai trăm năm mươi người còn lại tại chỗ để ăn thịt.

*

Bậc Ðạo Sư nói với các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, giống như những người lái buôn bị rơi vào thế lực của các nữ Dạ-xoa, và đã mạng chung, nhưng những người khác làm theo lời của con ngựa thần biết bay đều trở về trú xứ của mình; cũng vậy, những ai không làm theo lời khuyên dạy của các đức Phật, dù là Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo ni, các nam, nữ cư sĩ, đều bị đau khổ lớn trong bốn địa ngục và chịu các hình phạt trong năm loại xiềng xích. Còn những ai biết vâng lời khuyên đều đạt được ba sanh loại tốt đẹp, sáu cõi trời dục giới, hai mươi Phạm thiên giới và đạt trạng thái Niết-bàn bất tử, cực lạc.

Sau khi nói vậy, bậc Chánh Ðẳng đọc các bài kệ:

Những ai không làm theo
Lời dạy của đức Phật,
Họ sẽ gặp tai nạn,
Họ giống các lái buôn
Bị các nữ Dạ-xoa
Ăn thịt và mạng chung.
Còn những ai làm theo
Lời dạy của đức Phật,
Họ sẽ được an toàn,
Họ giống các lái buôn
Ðược ngựa bay cứu giúp,
Ðưa về tận trú xứ.

Sau khi bậc Ðạo Sư kể Pháp thoại này, Ngài thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo thối thất đã đắc quả Dự-lưu và nhiều vị khác đắc quả Dự-lưu, Nhất lai, Bất lai và A-la-hán và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, hai trăm năm mươi người lái buôn làm theo lời con ngựa bay là hội chúng đức Phật, còn con ngựa bay là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN BẠN-THÙ (Tiền thân Mittàmitta)

Khi thấy, nó không cười…,

Câu chuyện này, khi ở Xá-vệ, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo.

Vị ấy nghĩ: “Nếu ta lấy cái này, vị giáo thọ sư của ta sẽ không tức giận”. Vì vậy, Tỷ-kheo ấy lấy một miếng vải do giáo sư để dành và làm thành một cái túi đựng dép, rồi sau mới xin phép thầy mình. Vị giáo thọ sư hỏi:

– Vì lý do gì ông lấy vật ấy?

– Con tin tưởng rằng khi con lấy vật này, thầy sẽ không tức giận.

Sau khi nghe Tỷ-kheo nói vậy, vị giáo thọ sư nổi nóng, đứng dậy đánh Tỷ-kheo ấy và nói:

– Có sự tin tưởng gì giữa ông và ta được chứ?

Việc làm ấy được các Tỷ-kheo biết.

Một hôm, các Tỷ-kheo họp tại Chánh pháp đường nói chuyện ấy với nhau:

– Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo trẻ tuổi có tên này với lòng tin tưởng vị giáo thọ sư, đã lấy tấm vải làm thành cái túi đựng dép. Sau đó vị giáo thọ sư đã nổi nóng và đứng dậy đánh Tỷ-kheo ấy.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông ngồi họp ở đây và đang bàn chuyện gì?

Khi được kể chuyện ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Tỷ-kheo này mới mất tin tưởng đối với vị đồng trú của mình. Thuở xưa, vị ấy cũng đã như vậy rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra tại nước Kàsi trong một gia đình Bà-la-môn. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát xuất gia làm vị đạo sĩ, đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng, rồi làm vị sư trưởng tại khu vực Tuyết Sơn.

Trong chúng đạo sĩ ấy, có một vị tu khổ hạnh không nghe lời Bồ-tát, nuôi dưỡng con voi đã mất mẹ. Khi con voi lớn lên, nó giết vị tu khổ hạnh ấy và đi vào rừng. Chúng đạo sĩ chôn cất vị tu khổ hạnh ấy, rồi đến vây quanh Bồ-tát và hỏi:

– Thưa Tôn giả, vì lý do gì, Tôn giả có thể biết thế nào là bạn, thế nào không phải là bạn?

Bồ-tát trình bày lý do qua các bài kệ:

Khi thấy, nó không cười,
Không hoan hỷ tiếp đón,
Không đưa cặp mắt nhìn,
Và làm điều trái nghịch.
Với những hình tướng này,
Biết nó không phải bạn,
Bậc trí thấy nghe vậy,
Biết nó là kẻ thù.

Như vậy, Bồ-tát nói lên ý nghĩa thế nào là bạn và không phải là bạn. Sau đó, ngài tu tập bốn Vô lượng tâm, rồi đi lên Phạm thiên giới.

*

Sau khi kể Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vị tu khổ hạnh nuôi con voi là vị Tỷ-kheo đồng trú, con voi là vị giáo thọ sư, hội chúng đạo sĩ là hội chúng đức Phật và Sư trưởng hội chúng là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON VẸT RÀDHA (Tiền thân Ràdha)

Này con, ta đi xa…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn. Nghe nói, bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Tỷ-kheo, có thật chăng ông thối thất tinh tấn.

Vị ấy đáp:

– Bạch Thế Tôn, thật vậy.

Khi được hỏi vì lý do gì, vị ấy đáp:

– Vì con thấy một nữ nhân trang sức đẹp đẽ nên phiền não khởi lên.

Bậc Ðạo Sư nói với Tỷ-kheo ấy:

– Này Tỷ-kheo, không thể canh giữ đàn bà được. Thuở xưa, có người đã sắp đặt việc canh cửa nhưng không có thể giữ được. Dầu ông có chiếm được đàn bà đi nữa, ông cũng không thể canh giữ họ được.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con vẹt, tên Ràdha, và con vẹt em tên là Potthapàda. Khi còn trẻ, hai con vẹt bị một người thợ săn bắt được và đem cho một vị Bà-la-môn ở Ba-la-nại. Chúng được Bà-la-môn ấy săn sóc như con đẻ. Nhưng người vợ vị ấy theo ác giới, không ai canh giữ bà ta được.

Vị Bà-la-môn ấy có công việc phải đi xa và nói với hai con vẹt:

– Này các con thân, ta có công việc phải đi, dầu ban ngày hay ban đêm, các con hãy xem mẹ con làm gì. Hãy xem kỹ có người đàn ông nào khác đến thăm mẹ không.

Sau khi giao cho hai vẹt con coi sóc nữ Bà-la-môn, người cha ra đi. Nữ Bà-la-môn ở nhà liền hành động bất chánh, đêm ngày đều có vô số người đến và đi. Thấy vậy Potthapàda nói với Ràdha:

– Vị Bà-la-môn ra đi đã giao nữ Bà-la-môn cho chúng ta canh giữ. Nay bà đang làm ác hạnh, em sẽ nói với bà ấy.

Ràdha bảo đừng, nhưng vẹt em không nghe. Rồi Potthapàda nói với nữ Bà-la-môn:

– Thưa mẹ, vì sao mẹ làm ác hạnh?

Nữ Bà-la-môn ấy rất muốn giết Potthapàda, nhưng làm bộ vỗ về nó và hỏi:

– Này con thân, con là con của ta, từ nay về sau, ta sẽ không làm như vậy nữa. Vậy này con thân, hãy đến đây.

Nữ Bà-la-môn làm bộ thương yêu gọi Potthapàda lại gần. Khi nó lại gần, nữ Bà-la-môn bắt nó và thét:

– Sao, mày lại khuyên dạy ta à! Mày không biết lượng sức mình!

Nữ Bà-la-môn nắm cổ con vẹt, giết nó và quăng xác vào lò.

Khi vị Bà-la-môn trở về, nghỉ ngơi xong, ông liền hỏi Bồ-tát:

– Này Ràdha thân, mẹ của chúng con như thế nào? Bà có làm tà hạnh hay không?

Hỏi vậy xong, vị Bà-la-môn đọc bài kệ đầu:

Này con, ta đi xa,
Nay ta mới về nhà,
Mẹ con như thế nào,
Có theo người khác không?

Ràdha trả lời:

– Thưa cha thân, bậc hiền trí không nói điều gì không đưa đến hạnh phúc, dầu sự việc ấy có xảy ra hay không.

Ràdha giải thích việc này với bài kệ thứ hai:

Ðây không phải khéo nói,
Dù nói đúng sự thật,
Như Pot-tha-pà-da
Nay đã phải nằm chết
Bị cháy dưới than hồng,
Con sợ chung số phận.

Như vậy Bồ-tát thuyết pháp cho vị Bà-la-môn, và nói:

– Nay con cũng không thể sống trong nhà này.

Sau khi xin phép vị Bà-la-môn, Bồ-tát bay đi vào rừng.

*

Sau khi kể Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng, vị Tỷ-kheo thối thất đã đắc quả Dự lưu và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Potthapàda là Ànanda, còn Ràdha là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN NGƯỜI GIA CHỦ (Tiền thân Gahapati)

Cả hai, ta không nhẫn…,

Câu chuyện này khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn. Trong lúc nói chuyện, bậc Ðạo Sư bảo:

– Không bao giờ có thể canh giữ nữ nhân được. Sau khi làm ác, chúng dùng mọi cách lừa dối chồng.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sanh ra làm con một người gia chủ ở nước Kàsi. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát lập gia đình. Người vợ mới cưới theo ác giới, thông gian với một người thôn trưởng. Bồ-tát biết được, tìm cách bắt quả tang.

Lúc bấy giờ, tất cả thóc lúa đều bị trôi mất trong mùa mưa, vì thế có nạn đói. Nhưng đó cũng là thời các cây lúa bắt đầu mọc. Tất cả dân làng cùng đi đến vị thôn trưởng và thưa:

– Chúng tôi đang đói, hãy cho chúng tôi mượn cái gì để ăn. Hai tháng nữa, khi chúng tôi gặt hái, chúng tôi sẽ trả lúa.

Họ nhận được từ tay thôn trưởng một con bò già và ăn thịt con bò ấy. Một hôm người thôn trưởng chờ Bồ-tát đi ra ngoài, liền đi vào nhà. Trong khi chúng đang hưởng hoan lạc với nhau thì Bồ-tát từ cổng làng đi về nhà. Người đàn bà ấy hướng mặt về phía cổng làng, thấy Bồ-tát đi về, liền báo cho thôn trưởng biết. Thôn trưởng hoảng hốt run sợ. Nữ nhân ấy nói:

– Chớ sợ, em đã có cách và bày mưu. Hãy làm như ông đang đến đòi tiền thịt. Em sẽ leo lên vựa lúa đứng trước cửa và nói: Không có lúa! Còn ông đứng giữa nhà đòi nằng nặc: Nhà chúng tôi có trẻ con. Hãy trả tiền thịt đây!

Nói vậy xong, nữ nhân ấy leo lên vựa lúa, ngồi trước cửa vựa lúa. Người kia đứng giữa nhà và la to:

– Hãy trả tiền thịt đi!

Nữ nhân ấy nói:

– Trong vựa không có lúa. Khi nào gặt lúa, tôi sẽ trả. Hãy đi đi!

Khi vào nhà, Bồ-tát thấy chúng làm như vậy, liền suy nghĩ: “Ðây là mưu mô do ác nữ nhân này bày ra”, liền gọi người thôn trưởng và nói:

– Này ông thôn trưởng, chúng tôi ăn thịt con bò già của ông, có hứa đến hai tháng nữa chúng tôi mới trả lúa. Nửa tháng chưa qua, sao nay ông lại đến đòi? Ông đến đây phải vì lý do khác. Tôi không ưa hành động của ông làm. Nữ nhân vô hạnh ác giới này biết rằng trong vựa không có lúa, nay lại leo lên vựa lúa và nói to: Không có lúa! Còn ông lại bảo: Hãy đưa đây! Ta không ưa hành động của hai người!

Ðể nêu rõ ý nghĩa này, Bồ-tát đọc những bài kệ:

Cả hai, ta không nhẫn,
Cả hai, ta không ưa.
Nữ nhân này leo lên
Ðứng một bên vựa lúa,
Lại nói lớn lên rằng:
Tôi không thể trả được!
Nghe đây, ông thôn trưởng,
Ta sống cực khổ thay,
Mượn con bò già, gầy,
Sau hai tháng mới trả,
Thời chưa đến, đòi nợ,
Ta không thích chuyện đó!

Nói vậy xong, Bồ-tát nằm lấy cái búi tóc người thôn trưởng, kéo ra sân quăng gã xuống và nói:

– Mày là thôn trưởng lại vi phạm của cải trong nhà người khác!

Bồ-tát nói lên những lời mỉa mai, đánh gã cho đến kiệt sức, nắm cổ gã và tống ra ngoài nhà. Còn nữ nhân ác hạnh kia, Bồ-tát nắm lấy tóc, lôi nó từ vựa lúa xuống, đánh ngã nhào và dọa:

– Nếu ngươi còn làm như vậy nữa, ngươi sẽ biết tay ta!

Từ đấy trở đi tên thôn trưởng không dám nhìn ngôi nhà ấy nữa, còn người vợ không dám phạm tội, cho đến ý nghĩ cũng không!

*

Sau khi nói lên Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng, vị Tỷ-kheo thối thất đắc quả Dự-lưu. Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, người gia chủ trừng phạt tên thôn trưởng là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN GIỚI HẠNH TỐT LÀNH (Tiền thân Sàdhusìla)

Một người trẻ đẹp trai…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một vị Bà-la-môn.

Vị ấy có bốn con gái và cũng có bốn người đàn ông đến cầu hôn. Một người trai trẻ, thân hình đẹp. Một người tuổi đã già. Một người sanh trong gia đình quý phái. Một người có đức độ. Vị Bà-la-môn suy nghĩ: “Khi con gái có nhiều người cầu hôn, không biết nên gả cho người nào?”. Vị Bà-la-môn suy nghĩ không thể quyết đoán được, nên tự bảo: “Sự việc này cần phải trình bậc Chánh Giác Ðẳng biết! Ta sẽ hỏi Ngài và ta sẽ gả cho ai là người xứng đáng trong những người ấy”. Nghĩ vậy xong, vị Bà-la-môn đem theo hương liệu và vòng hoa đi đến tịnh xá. Ðảnh lễ bậc Ðạo Sư xong, vị ấy ngồi xuống một bên, bắt đầu kể lại việc và thưa:

– Bạch Thế Tôn, giữa bốn người này, con không biết chọn ai.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Thuở trước cũng vậy, các bậc hiền trí đã hỏi câu này, nhưng tái sanh nhiều lần, ông không nhớ được.

Rồi theo lời Bà-la-môn yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bà-la-nại, Bồ-tát được sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát đi học các tài nghệ ở Takkasilà, và khi về, trở thành vị sư trưởng nổi tiếng nhiều phương.

Bấy giờ, một vị Bà-la-môn có bốn con gái. Và bốn người cầu hôn các cô gái ấy như trên đã nêu. Vị Bà-la-môn không biết nên gả cho người nào, tự nghĩ: “Sau khi hỏi sư trưởng, ta sẽ gả chúng cho người nào xứng đáng nhất. Người Bà-la-môn đi đến sư trưởng, hỏi việc ấy và đọc bài kệ đầu:

Một người trẻ đẹp trai,
Một người tuổi lại lớn,
Một người sanh quý phái,
Một người có giới hạnh,
Tôi hỏi bậc Sư trưởng,
Chúng tôi nên chọn ai?

Nghe nói vậy, vị sư trưởng trả lời:

– Một người đẹp trai và các đức tánh khác, nhưng nếu không có đạo hạnh thì cũng đáng chê trách. Chúng tôi chỉ thích những người có đạo hạnh.

Ðể nêu lên ý nghĩ này, Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Thật tốt, người đẹp xinh,
Người lớn tuổi nên trọng,
Cũng tốt, người thiện sanh,
Nhưng ta thích đức hạnh.

Vì Bà-la-môn nghe theo lời của sư trưởng, và gả tất cả các con gái cho người đức hạnh.

*

Bậc Ðạo Sư kể Pháp thoại này xong, liền thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng, vị Bà-la-môn đắc quả Dự-lưu và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ người này là vị Bà-la-môn, còn vị Sư trưởng có danh tiếng nhiều phương là Ta vậy.

PHẨM NATAMDAIHA

  1. CHUYỆN NHÀ TÙ TRÓI BUỘC (Tiền thân Bandhanàgara)

Bậc trí đã nói rằng…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một nhà tù.

Nghe nói, thời ấy một số đông kẻ trộm cướp là những người phá nhà, cướp đường, giết người, đã bị bắt với cùm sắt, dây thừng và xích sắt.

Khoảng ba mươi Tỷ-kheo ở quê muốn yết kiến bậc Ðạo Sư, đã đi đến thăm viếng và đảnh lễ ngài. Ngày hôm sau, trong khi đi khất thực, họ đi đến nhà tù và thấy các tên trộm cướp ấy. Sau khi họ đi khất thực trở về, vào buổi chiều, họ yết kiến đức Như Lai, và hỏi:

– Bạch Thế Tôn, hôm nay trong khi chúng con đi khất thực, chúng con được thấy nhiều tên trộm cướp trong nhà tù, bị cùm sắt v.v… trói buộc, chịu đựng nhiều đau khổ. Chúng không thể chặt đứt các còng sắt trói buộc ấy để chạy trốn. Có sự trói buộc nào khác kiên cố hơn các dây trói buộc ấy chăng?

Bậc Ðạo Sư đáp:

– Này các Tỷ-kheo, đấy là những dây trói buộc về thân, tuy đau khổ nhưng còn nhẹ. Trái lại, những dây trói như tham ái đối với tài sản, lúa gạo, vợ con v.v… còn mạnh hơn trăm lần, ngàn lần những dây trói buộc trên. Tuy vậy, những trói buộc ấy, dầu to lớn và khó chặt đứt, cũng đã bị các vị hiền trí thuở xưa chặt đứt khi họ quyết chí đi đến Tuyết Sơn và trở thành ẩn sĩ.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình nghèo khổ. Khi Bồ-tát đến tuổi trưởng thành, người cha mệnh chung. Bồ-tát làm thuê để nuôi mẹ. Bồ-tát không bằng lòng khi bà mẹ hỏi một người con gái cho Bồ-tát lập gia đình. Sau một thời gian, bà mẹ mất, thì người vợ đã có thai, Bồ-tát biết vợ mình có thai nói với vợ:

– Này hiền thê, hãy làm thuê để sống. Tôi sẽ xuất gia.

Người vợ nói:

– Em đang có thai. Chờ em sanh con và bố nó thấy đứa bé rồi hãy xuất gia.

Bồ-tát bằng lòng. Khi người vợ sanh xong, Bồ-tát nói:

– Này hiền thê, hiền thê đã sanh xong an toàn. Nay tôi sẽ xuất gia.

Người vợ nói:

– Nay đứa con trai còn bú. Chờ cho nó hết bú, hãy đi.

Nhưng rồi người vợ lại có thai, Bồ-tát suy nghĩ: “Nếu ta chấp nhận lời yêu cầu của vợ, ta sẽ không thể đi được. Vậy không cho nàng biết, ta sẽ trốn và xuất gia”. Bồ-tát không nói cho nàng biết, ban đêm thức dậy và ra đi. Những người giữ cửa thành bắt Bồ-tát, Bồ-tát nói:

– Thưa các ông, tôi có bà mẹ phải nuôi, hãy thả tôi ra!

Bồ-tát làm cho họ thả mình ra, tạm trú tại một chỗ, rồi ra khỏi thành bằng cổng chánh, đi vào Tuyết Sơn, và sống đời xuất gia làm vị đạo sĩ. Sau thời gian tu tập, đã đắc được các Thắng trí và các Thiền chứng, Bồ-tát sống sung sướng với cảnh giới thiền. Sống tại đấy, Bồ-tát suy nghĩ: “Như vậy, ta đã cắt đứt dây trói buộc của phiền não, dây trói của vợ con thật khó chặt đứt”, và nói lên nguồn cảm hứng của mình với những bài kệ:

Bậc trí đã nói rằng
Không phải trói buộc chặt,
Còng sắt và gông gỗ,
Cùng các loại dây trói.
Chính dục ái cường thịnh
Ðối với ngọc, bông tai,
Ðối với vợ và con,
Mới thật chính buộc ràng!
Bậc hiền trí đã nói rằng
Chính chúng trói buộc chặt,
Chúng kéo lui, lôi xuống,
Mềm mỏng nhưng khó thoát.
Bậc trí chặt đứt chúng,
Tất cả trói buộc này,
Ðoạn tận các dục lạc,
Không chờ đợi, ước mong.

Như vậy, sau khi nói lên lời cảm hứng, Bồ-tát hành trì thiền định không gián đoạn rồi sanh lên thế giới Phạm thiên.

*

Sau khi thuyết Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư giảng các Sự thật. Cuối bài giảng, một số vị đắc Dự-lưu đạo, một số đắc Nhất lai đạo, một số đắc Bất lai đạo, một số đắc A-la-hán đạo.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ người mẹ là Mahàmayà, người cha là vua Tịnh phạn, người vợ là mẹ của Ràhula (La-hầu-la), người con trai là La-hầu-la. Vị từ bỏ vợ con và trở thành người xuất gia là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN TÁNH NGHỊCH NGỢM (Tiền thân Kelisìla)

Thiên nga, cò, chim công…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo sư kể về Tôn giả Lakuntala hiền thiện.

Tôn giả được danh tiếng trong Giáo pháp của Ðức Phật là người có trí tuệ, nói lời dịu ngọt, thuyết pháp dịu ngọt, đạt được biện tài, hoàn toàn đoạn tận các phiền não. Nhưng trong tám mươi bậc Trưởng lão, Tôn giả là vị nhỏ nhất về thân hình, như một người lùn. Tôn giả Lakuntaka có dạng như một Sa-di, nhỏ bé, như được nuôi để làm trò chơi.

Một hôm Tôn giả đi đến cổng Kỳ Viên để đảnh lễ đức Như lai. Lúc ấy cũng có khoảng ba mươi Tỷ-kheo ở quê lên với mục đích lễ bậc Ðạo sư. Khi vào Kỳ Viên, thấy Trưởng lão ấy trong khu vực tinh xá, họ tưởng Tôn giả là một Sa-di. Họ nắm góc y của Trưởng lão, nắm tay, xoa đầu, bóp mũi, xách tai, ôm run Tôn giả và đối xử nặng nề với Tôn giả.

Rồi các Tỷ-kheo để y bát một bên, đi đến đảnh lễ bậc Ðạo sư, và ngồi xuống một bên. Sau khi được bậc Ðạo sư dịu dàng thân mật hỏi thăm, các Tỷ-kheo ấy hỏi:

– Bạch Thế Tôn, chúng con nghe nói có Tôn giả Lakuntaka hiền thiện là đệ tử của Thế Tôn, một vị thuyết pháp rất dịu ngọt, nay Tôn giả ở đâu?

– Này các Tỷ-kheo, các ông có muốn yết kiến Tôn giả ấy không?

– Thưa có, Bạch Thế Tôn.

– Này các Tỷ-kheo, người mà các ông đã thấy ở gần cổng, người mà các ông đã nắm góc y, đã đối xử nặng nề, thô lỗ khi các ông đến, chính là Tôn giả ấy!

– Bạch Thế Tôn, vì sao một đệ tử đã được những gì cao thượng, thành tựu đầy đủ đại nguyện, mà không có một chút uy lực?

Ðạo sư nói:

– Vì tự mình đã làm ác nghiệp.

Rồi theo yêu cầu của các Tỷ-kheo ấy, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ tát làm thiên chủ Ðế Thích (Sakka). Lúc bấy giờ vua Brahmadatta không thể chịu đựng khi nhìn thấy con voi, con ngựa hay con bò đã già yếu. Vua có tánh nghịch ngợm, thấy người và vật như vậy liền đánh đuổi đi, thấy cỗ xe cũ kỹ liền cho đập nát, thấy các bà già, vua gọi vào và đánh trên bụng, khiến họ ngã rồi dựng đứng họ lên và doạ nạt họ. Thấy những ông già, vua bắt họ lăn lộn giữa đất, và chơi đùa như những người nhào lộn.

Nếu không thấy ai nhưng nghe tại một nhà nọ có một người già, vua bèn cho gọi vào và đùa giỡn. Mọi người xấu hổ đưa cha mẹ mình ra khỏi nước. Không còn có người hầu hạ cha mẹ. Các người hầu cận cũng nghịch ngợm như vậy. Vì thiếu đạo đức nên khi họ chết, họ bị đọa vào bốn đọa xứ (Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh và A-tu-la) còn hội chư Thiên bị tổn giảm.

Ðế Thích không thấy các Thiên tử mới sanh, liền tìm hiểu nguyên nhân và quyết định: “Ta sẽ nhiếp phục nhà vua ấy”. Ðế Thích hóa thân làm một ông già, đặt hai ghè sữa bơ trên một cỗ xe gỗ cũ kỹ tồi tàn, thắng vào xe hai con bò già và đi dự ngày hội lớn. Vua Brahmadatta cưỡi trên lưng voi được tô điểm rực rỡ, đi nhiễu xung quanh thành được trang hoàng lộng lẫy khắp nơi.

Khi ấy, Ðế Thích mặc áo rách rưới, đánh cỗ xe này đi đến gặp vua. Vua thấy cỗ xe cũ kỹ liền sai đuổi nó đi. Quân hầu nói:

– Thưa Thiên tử, cỗ xe nào, chúng con không thấy.

Do thần lực của mình, Ðế Thích chỉ để riêng vua thấy cỗ xe mà thôi. Ðế Thích đánh xe nhiều lần trên đầu vua, rồi đập cái ghè sữa bơ trên đầu vua, và quay xe trở lại đập vỡ ghè sữa bơ thứ hai. Và từ trên đầu của vua, khắp nơi mọi phía sữa bơ chảy xuống. Như vậy, Ðế Thích quấy rầy, hành hạ vua trông thật đáng thương. Sau khi thấy vua khống khổ như vậy, Ðế Thích làm cỗ xe biến mất, rồi hiện thân Ðế Thích, tay cầm cái chùy kim cương, đứng trên hư không và nói:

– Này tên vua ác hạnh và phi pháp kia, ngươi sẽ không già sao? Thân của ngươi sẽ không bị tuổi già tấn công sao? Nhưng ngươi lại thích đùa nghịch, hành hạ làm khổ nhục những người lớn tuổi. Chính do các việc của ngươi làm mà dân chúng chết đi tràn đầy bốn đọa xứ vì chúng không thể nuôi dưỡng cha mẹ. Nếu ngươi không từ bỏ hành động này, ta sẽ đánh vỡ đầu ngươi với chùy kim cương. Bắt đầu từ nay, ngươi chớ làm như vậy nữa.

Sau khi dọa nạt, Ðế Thích nói lên công đức của cha mẹ và trình bày những lợi ích của các hành động kính trọng lớn tuổi. Giáo huấn xong, Ðế Thích trở về trú xứ của mình. Từ đấy, vua không còn khởi tâm làm các việc như trước nữa.

*

Sau khi kể câu chuyện quá khứ, bậc Đạo sư nhân danh bậc Chánh Ðẳng Giác, đọc những bài kệ này:

Thiên nga, cò, chim công
Voi và nai có đốm,
Tất cả sợ sư tử,
Dù chúng không ngang bằng.
Cũng vậy, giữa mọi người,
Còn trẻ nhưng có trí,
Vị ấy thật vĩ đại,
Kẻ ngu dầu thân lớn,
Không hề được như vậy.

Khi pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo sư thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng ấy, một số Tỷ-kheo đắc quả Dự-lưu, một số đắc quả Nhất lai, một số đắc quả A-la-hán và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vua là Lakuntaka hiền thiện, vì tánh nghịch ngợm đối với người khác nên bị trêu ghẹo lại, còn Ðế Thích là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN TU TẬP TỪ TÂM (Tiền thân Khandha-Vatta)

Ta khởi lên từ tâm…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên bậc Ðạo sư kể về một Tỷ-kheo.

Trong khi đang ngồi chẻ củi ở cửa nhà tắm, một con rắn bò từ khúc cây mục ra cắn vào ngón chân của Tỷ-kheo ấy và vị ấy chết ngay tại chỗ. Tỷ-kheo ấy chết như thế nào cả tinh xá đều biết rõ. Các Tỷ-kheo ngồi Chánh pháp đường bắt đầu nói chuyện sau đây:

– Thưa Hiền giả, nghe nói Tỷ-kheo tên này đang ngồi chẻ củi tại cửa nhà tắm, bị rắn cắn và chết tại chỗ.

Bậc đạo sư đi đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, nay các ông ở đây đang bàn vấn đề gì?

Khi được biết vấn đề này, bậc Ðạo sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy đối với bốn loại gia đình vua rắn, có khởi lên lòng từ thì con rắn đã không cắn vị ấy. Các vị tu khổ hạnh xưa, khi đức Phật chưa ra đời, tu tập lòng từ đối với bốn loại gia đình vua rắn, nên đã thoát khỏi sự sợ hãi khởi lên cho bốn loại gia đình vua rắn ấy.

Nói vậy xong, bậc Ðạo sư kể câu chuyện quá khứ

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Bà-la-nại, Bồ tát sanh ra trong gia đình một Bà-la-môn ở nước Kàsi. Khi đến tuổi trưởng thành Bồ-tát đoạn tận các dục, xuất gia làm đạo sĩ, đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng, rồi xây dựng am thất tại một khúc quanh của sông Hằng gần chân núi Tuyết và sống tại đấy, vui hưởng cùng thiền lạc với chúng đạo sĩ vây quanh.

Lúc bấy giờ, có nhiều loại rắn trên bờ sông Hằng làm hại các vị đạo sĩ, và phần lớn các vị ấy mệnh chung. Các vị tu khổ hạnh trình chuyện ấy với Bồ-tát. Ngài liền họp tất cả vị tu khổ hạnh lại, và nói:

– Nếu các ông tu tập từ tâm đối với bốn loại gia đình vua rắn này, các con rắn sẽ không cắn các ông, do vậy, bắt đầu từ nay, hãy tu tập từ tâm như vậy đồi với bốn loại vua rắn.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ đầu:

Ta khởi lên từ tâm
Với Vi-rù-pak-kha,
Ta khởi lên từ tâm
Với E-rà-pa-tha,
Ta khởi lên từ tâm
Với Chab-byà-put-ta,
Ta khởi lên từ tâm
Kan-hà-go-ta-ma.

Như vậy, sau khi nêu tên bốn gia đình vua rắn, Bồ-tát nói:

– Nếu các ông có thể tu tập từ tâm đối với những loài vật này, thì các con rắn không cắn, và không bức hại các ông.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Với các loài không chân,
Ta khởi lên lòng từ,
Với các loài hai chân,
Ta khởi lên lòng từ,
Với các loài bốn chân,
Ta khởi lên lòng từ,
Nhiều chân hoặc không chân,
Ta khởi lên lòng từ.

Như vậy, sau khi nêu rõ sự tu tập từ tâm của mình, Bồ-tát nói lên lời cầu nguyện với bài kệ:

Hỡi các loài không chân
Chớ có làm hại Ta,
Hỡi các loài hai chân,
Chớ có làm hại Ta,
Hỡi các loài bốn chân
Chớ có làm hại Ta,
Hỡi các loài nhiều chân
Chớ có làm hại Ta.

Rồi nêu rõ sự tu tập không hạn chế, Bồ-tát đọc thêm bài kệ này:

Tất cả loài chúng sanh,
Tất cả loài hữu tình,
Phàm tất cả sanh loại
Có mặt ở trên đời,
Mong được thấy tốt lành,
Chớ có làm điều ác.

Như vậy, Bồ tát nói:

– Hãy tu tập từ tâm đối với tất cả mọi loài chúng sanh không có hạn chế.

Rồi Bồ-tát tán thán công đức của Ba Ngôi Báu với thính chúng:

– Vô lượng là Phật, vô lượng là Pháp, vô lượng là Tăng.

Bồ-tát nói tiếp:

– Hãy ghi nhớ công đức của Ba Ngôi Báu này.

Sau khi trình bày công đức Ba Ngôi báu là vô lượng, Bồ-tát nêu rõ các chúng sanh đều có hạn lượng, Bồ-tát nói thêm:

– Các loài bò sát, các loài rắn, các loài bò cạp, các loài một trăm chân, các loài nhện, các loài rắn mối, các loài chuột, đều có hạn lượng.

Rồi Bồ-tát lại nói:

– Vì tham dục trong nội tâm của những chúng sanh này khiến chúng có hạn lượng.

Sau khi nêu rõ như vậy, Bồ-tát nói thêm:

– Mong rằng chúng ta sẽ được bảo vệ ngày đêm đối với các chúng sanh có hạn lượng này nhờ uy lực của ba Ngôi Báu vô lượng. Vì vậy hãy nhớ ghi công đức của Ba Ngôi Báu.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ này để nêu rõ việc cần phải làm thêm nữa:

Nay ta được bảo vệ,
Nay ta được che chở,
Hỡi các loài sanh vật,
Hãy đi xa, tránh xa!
Con đảnh lễ Thế Tôn,
Và bảy đức Phật-đà,
Chư Phật đã tịch diệt.

Như vậy Bồ-tát khuyên:

– Trong khi đảnh lễ, hãy ghi nhớ bảy đức Phật.

Rồi Bồ-tát trao thần chú che chở này cho các đạo sĩ.

Bắt đầu từ đấy, các đạo sĩ vâng theo lời khuyên dạy của Bồ-tát, tu tập từ tâm, ghi nhớ công đức chư Phật. Như vậy, nhờ các đạo sĩ ấy ghi nhớ các công đức chư Phật, tất cả các loài rắn đều bỏ đi. Còn Bồ-tát tu tập các Phạm trú (Bốn Vô lượng tâm) và được sanh lên Phạm thiên giới.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, hội chúng đạo sĩ là hội chúng đức Phật, còn sư trưởng hội chúng là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON QUẠ VIRAKA (Tiền thân Viraka)

Hỡi này Vi-ra-ka…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo sư kể về sự bắt chước bậc Thiện Thệ.

Sau khi hai vị trưởng lão đưa hội chúng của Ðề-bà-đạt-đa về, bậc Ðạo sư hỏi các trưởng lão:

– Này Xá-lợi-phất, khi Ðề-bà-đạt-đa thấy các ông, kẻ ấy phải làm gì?

Họ đáp:

– Ðề-bà-đạt-đa bắt chước bậc Thiện Thệ.

Bậc Ðạo sư nói:

– Này Xá-lợi-phất, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới làm theo ta và gặp nạn. Thuở trước, kẻ ấy cũng đã như vậy rồi.

Rồi theo lời Trưởng lão yêu cầu, bậc Ðạo sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con quạ nước ở dưới chân núi Tuyết, và sống gần một cái hồ. Viraka là tên của Bồ-tát.

Lúc bấy giờ, tại nước Kàsi có nạn đói. Dân chúng không thể cho quạ ăn hay làm lễ cúng cho các Dạ-xoa và các loại rắn. Phần lớn các con quạ từ bỏ các địa phương có nạn đói và đi vào rừng.

Tại đấy, có con quạ trú ở Ba-la-nại tên là Savitthaka, đem theo quạ mái, đi đến chỗ của Viraka và dựa vào hồ nước ấy, làm chỗ một bên.

Một hôm con quạ ấy tìm mồi ăn tại hồ, thấy Viraka lặn xuống hồ ăn cá rồi đi lên, và phơi thân cho khô. Nó nghĩ: “Nương tựa con quạ này có thể được nhiều cá, vậy ta hãy hầu nó”. Nghĩ vậy xong, quạ Savitthaka đến gần Viraka. Viraka hỏi:

– Này bạn, bạn đến có việc gì?

Savitthaka đến gần đáp:

– Thưa ngài, tôi muốn hầu hạ ngài.

Khi được Viraka ưng thuận, quạ Savitthaka bắt đầu hầu hạ Viraka. Từ đấy về sau Viraka ăn vừa đủ cá để nuôi sống, số còn lại nó đem cho Savitthaka ngay khi vừa bắt được cá, và khi Savitthaka đã ăn vừa đủ để nuôi sống, nó đem số còn lại cho con quạ mái vợ nó. Sau một thời gian, Savitthaka khởi lên lòng tự ái. “Con quạ nước này màu đen, ta cũng màu đen. Nó có mắt, có mỏ, có chân, ta cũng không khác gì nó. Bắt đầu từ nay, ta không cần những con cá nó bắt, ta sẽ tự bắt cá”. Nó đi đến Viraka và nói:

– Này bạn, bắt đầu từ nay, tự tôi sẽ đi xuống hồ bắt cá.

Viraka nói:

– Này bạn, bạn sanh ra không thuộc gia đình loài quạ xuống sông bắt cá, vậy chớ tự hại mình!

Dầu được Viraka ngăn chặn, quạ Savitthaka vẫn không nghe lời. Nó xuống hồ, lặn vào trong nước, nhưng nó bị mắc vào giữa đám rong, chỉ trồi lên cái mỏ. Savitthaka không thể thở được, và đã chết dưới nước. Con quạ cái không thấy nó trở về, liền đi đến tìm Viraka để hỏi tin:

– Thưa ngài, Savitthaka không thấy về, không biết chàng ở đâu?

Rồi nó đọc bài kệ đầu:

Hỡi này Vi-ra-ka,
Bạn có thấy con chim,
Với giọng nói dịu ngọt,
Ðấy là chồng của tôi,
Cổ như cổ chim công,
Tên Sa-vit-tha-ka?

Nghe quạ mái nói, Viraka trả lời:

– Này bạn, tôi biết chồng bạn đi đâu rồi.

Nói vậy xong, Viraka đọc bài kệ thứ hai:

Con chim có thể đi
Trong nước, trên đất liền,
Luôn luôn nó được ăn
Các loại cá tươi sống.
Còn Sa-vit-tha-ka
Bắt chước loài chim ấy,
Mắc vướng trong đám rong,
Và đã chết tại đấy.

Nghe nói vậy, con quạ mái than khóc và bay trở về Ba-la-nại.

*

Sau khi kể Pháp thoại này, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Savitthaka là Ðề-bà-đạt-đa, còn Viraka là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CÁ SÔNG HẰNG (Tiền thân Gangeyya)

Bầy cá sông Hằng đẹp…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về hai Tỷ-kheo trẻ. Tương truyền có hai thiện nam tử trú ở Xá-vệ xuất gia trong Giáo pháp, nhưng không tu tập quán bất tịnh, tham đắm sắc đẹp của mình và đi chỗ nào cũng khoe khoang sắc đẹp.

Một hôm, hai người ấy tranh nhau khoe sắc đẹp và bắt đầu tranh luận. Thấy một Trưởng lão già ngồi không xa bao nhiêu, họ nghĩ: “Vị này sẽ biết giữa hai chúng ta ai đẹp, ai không đẹp”. Họ đến hỏi:

– Thưa Tôn giả, giữa chúng tôi ai đẹp hơn?

Vị ấy trả lời:

– Này các Hiền giả, ta đẹp hơn các ông.

Các Tỷ-kheo nói:

– Ông già này, không trả lời điều chúng ta hỏi, lại trả lời điều chúng ta không hỏi.

Sau khi mắng nhiếc vị ấy, họ bỏ đi. Câu chuyện ấy được chúng Tỷ-kheo biết rõ. Rồi một hôm, tại chánh pháp đường, họ bắt đầu nói chuyện ấy:

– Thưa các Hiền giả, nghe nói vị Trưởng lão già cả làm xấu hổ các Tỷ-kheo trẻ ấy vì họ quá say mê sắc đẹp của mình.

Bậc Ðạo sư đến Chánh pháp đường và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông ngồi họp ở đây đã bàn luận chuyện gì?

Khi nghe câu chuyện ấy, bậc Ðạo sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay các người trẻ ấy mới tán thán sắc đẹp của mình. Thuở xưa, chúng đi chỗ nào cũng khoe khoang sắc đẹp như vậy.

Rồi bậc Ðạo sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm một thần cây ở trên sông Hằng. Lúc bấy giờ ở tại chỗ sông Hằng và sông Yamuna giao nhau, có hai con cá gặp nhau, một con ở sông Hằng, một con ở Yamuna. Vì cãi nhau: “Tôi đẹp, bạn đẹp” chúng bắt đầu cuộc tranh luận. Chúng thấy một con rùa nằm không xa bao nhiêu trên bờ sông Hằng, liền nói:

– Vị này sẽ cho biết giữa chúng ta, ai đẹp hơn ai?

Nghĩ vậy chúng đi đến gặp con rùa và hỏi:

– Thưa bác rùa, con cá ở sông Hằng đẹp, hay con cá ở sông Yamuna đẹp?

Con rùa đáp:

– Con cá ở sông Hằng đẹp, con cá ở sông Yamunà cũng đẹp, nhưng ta đẹp hơn rất nhiều so với hai chú!

Rồi để nêu rõ ý nghĩa này, con rùa đọc bài kệ đầu:

Bầy cá sông Hằng đẹp,
Yà-mu-na cũng đẹp,
Nhưng vật bốn chân này,
Cổ dài như đòn gánh,
Tròn trịa như cây bàng,
Tuyệt đẹp hơn tất cả!

Hai con cá nghe rùa nói vậy, liền kêu to:

– Ôi lão rùa ác độc kia, lão không trả lời câu chúng ta hỏi, lại trả lời khác đi!

Rồi chúng đọc bài kệ thứ hai:

Ðiều hỏi, không phải hỏi,
Trả lời khác câu hỏi,
Chỉ biết tự khen mình,
Ta không ưa điều ấy!

*

Sau khi kể Pháp thoại này, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, hai con cá là các Tỷ-kheo trẻ, con rùa là vị Trưởng lão, còn vị thần cây ở trên bờ sông Hằng đã chứng kiến câu chuyện này là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON NAI NÚI (Tiền thân Kurungamiga)

Này rùa, hãy dùng răng…,

Câu chuyện này, khi ở Trúc Lâm, bậc Ðạo sư kể về Ðề-bà-đạt-đa. Lúc bấy giờ, bậc Ðạo sư nghe Ðề-bà-đạt-đa âm mưu sát hại Ngài, Ngài liền nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới âm mưu sát hại ta. Trong thời quá khứ, kẻ ấy cũng đã như vậy rồi.

Rồi bậc Ðạo sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con nai núi, sống tại một bụi cây ở trong rừng không xa một cái hồ bao nhiêu. Trên một ngọn cây gần hồ có một con chim gõ mỏ làm tổ. Trong hồ lại có một con rùa, như vậy ba con vật làm bạn với nhau, và sống chung trong tình thương yêu nhau.

Một người thợ săn đang đi trong rừng nhận thấy dấu chân của Bồ-tát gần bến nước. Anh ta đặt một cái bẫy thòng lọng bằng da vững chắc như sợi dây bằng sắt, rồi bỏ đi. Bồ-tát đi đến uống nước trong canh một, bị mắc vào bẫy, liền lớn tiếng kêu cứu. Nghe tiếng kêu của Bồ-tát, lập tức chim gõ mỏ từ ngọn cây bay xuống và con rùa từ dưới nước bò lên và bàn bạc chuyện phải làm. Con chim gõ mỏ nói với con rùa:

– Này bạn, bạn có răng, hãy cắn đứt cái bẫy này.Còn tôi sẽ đi lập kế làm thế nào cho người thợ săn không thể đến đây được. Như vậy, hai chúng ta nỗ lực tối đa để bạn chúng ta khỏi mất mạng.

Ðể nêu rõ ý nghĩa của việc này, con chim gõ mỏ đọc bài kệ đầu:

Này rùa, hãy dùng răng
Cắn đứt cái bẫy da,
Ta sẽ làm thợ săn
Không thể đến gần ta.

Con rùa bắt đầu nhai cắn sợi dây bằng da. Còn con chim gõ mỏ đi vào làng người thợ săn để lập kế hoãn binh. Trời vừa tảng sáng, người thợ săn đã cầm con dao ra đi. Ngay khi con chim thấy anh ta ra khỏi trước cửa, nó kêu lên, đập đôi cánh và đánh vào miệng anh ta. Người thợ săn suy nghĩ: “Ta bị một con chim điềm xấu đánh”, liền trở vào nằm một lát, rồi cầm dao đứng dậy.

Con chim suy nghĩ: “Người này lần đầu đi ra bằng cửa trước, nay sẽ đi ra bằng cửa sau”. Biết vậy, nó liền bay đậu phía sau nhà. Người thợ săn cũng nghĩ: “Khi ta đi ra cửa trước, ta thấy một con chim điềm xấu. Nay ta sẽ đi ra bằng cửa sau”. Vì vậy anh ta đi ra bằng cửa sau. Nhưng con chim lại kêu lên, bay đến và đánh anh ta vào miệng. Người thợ săn thấy mình bị con chim điềm xấu đánh lần thứ hai ở miệng, suy nghĩ: “Con chim này không cho ta ra đi”. Vì vậy anh ta trở vào nằm xuống cho đến sáng và khi mặt trời đã lên cao, anh ta mới cầm dao ra đi.

Con chim gõ mỏ vội vàng bay đi trước và nói với Bồ tát:

– Người thợ săn sắp tới.

Lúc bấy giờ, con rùa đã nhai đứt tất cả sợi dây da, chỉ trừ một sợi. Cái răng của nó như sắp bị rụng ra và miệng nó lấm đầy máu. Bồ-tát thấy người thợ săn trẻ cầm dao trong tay đi đến nhanh như chớp, liền giựt đứt sợi dây và chạy vào rừng. Con chim gõ mỏ bay lên đậu trên ngọn cây. Con rùa quá yếu nên nằm tại chỗ. Người thợ săn quăng con rùa vào cái túi và treo túi ấy trên một khúc cây. Bồ-tát trở lui nhìn, biết con rùa bị bắt, liền quyết định sẽ cứu sống bạn. Vì thế nai liền giả vờ mất sức đứng ra để người thợ săn thấy. Người thợ săn nghĩ: “Con vật này yếu đuối rồi, ta sẽ giết nó”, liền cầm dao đuổi theo Bồ-tát.

Bồ-tát dụ anh ta chạy vào rừng. Khi anh ta chạy đã xa, Bồ-tát tẩu thoát khỏi anh ta và dùng một con đường khác trở về nhanh như gió. Nai lấy cặp sừng, nhấc bổng cái túi rơi xuống đất, rồi phá bỏ cái túi và cứu con rùa ra. Con chim gõ mỏ từ trên cây bay xuống, Bồ-tát khuyến bảo cả hai bạn:

– Tôi nhờ hai bạn cứu mạng sống, tôi đã làm những gì cần phải làm để cứu hai bạn. Nay người thợ săn sắp tới bắt các bạn, vậy này bạn chim gõ mỏ, hãy đem các con của mình dời đi nơi khác. Còn rùa bạn, hãy lặn xuống nước.

Và chúng làm đúng như vậy.

Bậc Ðạo sư nhân danh bậc Giác ngộ đọc bài kệ thứ hai:

Con rùa bò xuống nước
Con nai chạy vào rừng,
Còn con chim gõ mỏ,
Từ trên ngọn cây cao
Vội đem bầy con nhỏ,
Bay xa thật là mau!

Người thợ săn đi đến chỗ ấy, không thấy con vật nào cả. Anh ta thấy cái túi rách, đành lượm túi lên, lòng đầy buồn bực và đi về nhà.

Con ba con vật ấy làm bạn với nhau trọn đời sống trong tình bạn không bị gián đoạn và rồi lúc chết, chúng đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi nói lên Pháp thoại này, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ người thợ săn là Ðề-bà-đạt-đa, con chim gõ mỏ là Xá-lợi-phất, con rùa là Mục-kiền-liên và con nai là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN VUA ASSAKA (Tiền thân Assaka)

Chính chỗ này, tôi sống…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo sư kể về một người luyến ái vợ cũ. Tỷ-kheo ấy được bậc Ðạo sư hỏi:

– Này Tỷ-kheo có thật chăng ông bị ái nhiễm?

Vị ấy đáp:

– Thưa có thật vậy.

Bậc Ðạo sư hỏi:

– Ông luyến ái ai?

Tỷ-kheo đáp:

– Con luyến ái vợ cũ.

Bậc Ðạo sư nói:

– Này Tỷ-kheo, không phải chỉ nay ông luyến ái nữ nhân ấy. Thuở trước, vì luyến ái nữ nhân ấy, ông đã gặp đau khổ lớn.

Rồi bậc Ðạo sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, tại nước Kàsi, vua Assaka trị vì thành Potali. Hoàng hậu tên Ubbarì rất được vua yêu thương. Hoàng hậu khả ái, kiều diễm vượt xa sắc đẹp của các nữ nhân, dù chưa là một Thiên nữ. Sau một thời gian, bà bị bệnh và mệnh chung. Khi hoàng hậu mệnh chung, vua sầu khổ, đau đớn, ưu tư. Vua để xác hoàng hậu nằm trong một cái hòm, ướp với dầu và chất dẻo đặt dưới long sàng. Vua đau khổ nằm dài, không ăn, khóc lóc, than thở. Mẹ cha, các bà con khác, thân hữu và các cận thần, Bà-la-môn, gia chủ…đều đến khuyên giải:

– Thưa Ðại vương, chớ sầu muộn. Cuộc đời là vô thường.

Nhưng họ không thể làm vua nghe lời. Trong khi vua than khóc như vậy bảy ngày đã trôi qua.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát là vị tu khổ hạnh đã đạt được năm Thắng trí và tám Thiền chứng, trú dưới chân núi Hy-mã. Ngài đầy đủ trí tuệ giác ngộ, và với thiên nhãn nhìn cõi Diêm phù đề, ngài thấy vua than khóc như vậy, liền quyết định giúp đỡ cho vị vua này. Bồ-tát dùng thần lực bay trên hư không rồi hạ xuống khu vườn của vua, và ngồi xuống trên phiến đá tế lễ, như một hình tượng bằng vàng. Rồi một thanh niên Bà-la-môn trú ở thành Polati đi đến khu vườn, thấy Bồ-tát, đảnh lễ ngài và ngồi xuống. Bồ-tát nói chuyện thân mật với thanh niên ấy, và hỏi:

– Này cậu thanh niên, nhà vua có theo Chánh pháp không ?

– Thưa có, bạch Tôn giả, vua theo Chánh pháp. Nhưng hoàng hậu của vua vừa mệnh chung, vua cho đặt thân hoàng hậu trong một cái hòm, nằm dài bên cạnh than khóc, nay đã là ngày thứ bảy. Sao Tôn giả không giải thoát vua khỏi nỗi đau khổ lớn như vậy? Nay là thời gian thích hợp để Tôn giả nhiếp phục nỗi đau khổ của nhà vua.

– Này cậu, ta không biết nhà vua, nhưng nếu vua đến hỏi ta, ta sẽ nói cho vua biết chỗ đầu thai của hoàng hậu và khiến nàng nói cho vua nghe.

– Vậy thưa Tôn giả, hãy ngồi lại đây cho đến khi tôi đưa vua đến.

Thanh niên ấy được Bồ-tát hứa, liền đi đến cung vua, báo tin ấy và khuyên vua:

– Ðại vương nên đi đến gặp vị có thiên nhãn ấy.

Vua nói:

– Trẫm sẽ thấy hoàng hậu!

Vua vô cùng hoan hỷ ngự lên xe, đi đến đảnh lễ Bồ-tát, ngồi xuống một bên và hỏi:

– Có đúng sự thật chăng, trẫm nghe nói Tôn giả biết được chỗ đầu thai của hoàng hậu?

– Tôi có biết, thưa Ðại vương.

– Hoàng hậu thọ sanh ở đâu?

– Thưa Ðại vương, hoàng hậu say mê sắc đẹp của mình, vì vậy đã sống phóng dật, không làm các thiện nghiệp, nay sanh làm con sâu nhỏ ăn phân ngay chính trong vườn này.

– Trẫm không tin chuyện ấy.

– Nay tôi sẽ chỉ hoàng hậu cho Ðại vương và bảo hoàng hậu nói cho Ðại vương rõ.

Bồ-tát dùng thần lực của mình, và ra lệnh:

– Cả hai con vật đang lăn một hòn phân bò hãy đi đến trước mặt vua!

Bồ-tát sai khiến hai con sâu đi đến như vậy rồi chỉ một con và nói:

– Thưa Ðại vương, đây là hoàng hậu Ubbarì của Ðại vương. Nó bỏ Ðại vương đi theo sau con sâu ăn phân làm chồng nó. Ðại vương hãy nhìn xem.

– Thưa Tôn giả, hoàng hậu Ubbarì sanh ra làm con sâu ăn phân ư? Trẫm không tin được chuyện ấy !

– Thưa Ðại vương, tôi sẽ bảo nó nói lên.

– Thưa Tôn giả, hãy bảo nó nói đi.

Bồ-tát nói với thần lực của mình.

– Này Ubbarì!

Con sâu nói bằng tiếng người, đáp lại:

– Thưa Tôn giả, cái gì ạ ?

Bồ-tát hỏi:

– Ngươi hãy nói tiền thân của ngươi tên là gì ?

– Thua Tôn giả, trước tôi là Ubbarì, hoàng hậu của vua Assaka. Con sâu đáp.

Bồ-tát hỏi tiếp:

– Nay ngươi thương yêu vua Assaka hay con sâu ăn phân này là chồng của ngươi ?

– Thưa Tôn giả, trong đời sống trước đây của tôi, tôi đã sống với vua, và cùng thưởng thức sắc, tiếng, hương, vị, xúc trong ngôi vườn này. Nhưng vì qua nhiều đời sống chết cho đến nay, tôi không biết vua là ai !Tôi sẵn sàng giết vua Assaka và lấy máu từ cổ vua để bôi hai bàn chân con sâu ăn phân là chồng của tôi !

Rồi giữa hội chúng của vua, con sâu đọc những bài kệ này bằng tiếng người:

Chính chỗ này tôi sống
Với vua A-sa-ka
Yêu thương, được yêu thương
Tôi đi dạo quanh vườn.
Nay các khổ lạc mới
Làm mờ cảm giác cũ,
Vậy đối với sâu chồng,
Tôi yêu hơn Ðại vương!

Nghe nói vậy, vua cảm thấy hối hận ngay tại chỗ, lập tức truyền lệnh đem xác hoàng hậu ra ngoài và gội đầu. Vua đảnh lễ Bồ-tát, rồi sau đó đi vào thành cưới một hoàng hậu khác và trị nước đúng Chánh pháp.

Còn Bồ-tát khuyến dạy vua xong, khiến vua hết sầu muộn, rồi đi về Hy-mã-lạp Sơn.

*

Sau khi thuyết Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư giảng các Sự thật và cuối bài giảng, vị Tỷ-kheo luyến ái đã đắc quả Dự lưu. Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ Ubbarì là người vợ cũ, vua Assaka là Tỷ-kheo bị ái nhiễm, thanh niên Bà-la-môn là Xá-lợi-phất, còn vị tu khổ hạnh là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON CÁ SẤU (Tiền thân Sumsumàra)

Thôi đủ rồi, các trái…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa âm mưu sát hại mình.

Khi nghe các âm mưu này, Ngài nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới âm mưu sát hại ta. Trước kia, kẻ ấy cũng đã làm như vậy rồi. Nhưng dù chỉ làm ta sợ hãi, kẻ ấy cũng không làm được.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahamadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con khỉ ở khu vực Tuyết Sơn. Bồ-tát lớn lên lực lưỡng, thân thể cường tráng, dung sắc tươi đẹp, sống ở trong rừng tại khúc quanh của sông Hằng.

Bấy giờ một con cá sấu cũng sống ở sông Hằng. Vợ nó thấy thân thể Bồ-tát, sinh thèm thuồng quả tim Bồ-tát, liền nói với con cá sấu đực:

– Này chàng, em muốn ăn quả tim con khỉ chúa này.

Sấu đực nói:

– Này hiền thê, chúng ta tìm ăn dưới nước, nó tìm ăn trên cạn, làm sao chúng ta có thể bắt được nó?

– Hãy tìm mọi phương tiện bắt cho được con khỉ, nếu em không được ăn tim nó, em sẽ chết.

– Thôi được, chớ lo lắng. Ta đã có một mưu kế và ta sẽ cho em ăn thịt quả tim nó. Con cá sấu đực an ủi con cá sấu cái.

Khi Bồ-tát uống nước sông Hằng xong, đang ngồi trên bờ, con cá sấu đi lại gần và nói:

– Thưa ngài khỉ chúa, tại nơi này bạn chỉ ăn được các trái cây hư thối, sao bạn lại thường đến chỗ cũ này? Ở bên kia bờ sông Hằng không bao giờ hết các loại quả ngọt như xoài, mít v.v… sao bạn lại không qua bên ấy để ăn đủ loại quả?

Khỉ đáp:

– Này vua cá sấu, sông Hằng sâu và rộng. Làm sao tôi đi qua đó được?

– Nếu bạn muốn đi, tôi mời bạn leo trên lưng tôi và tôi đưa bạn qua.

Con khỉ tin lời con cá sấu, nói:

– Lành thay, bạn cá sấu.

Cá sấu bảo:

– Vậy hãy leo lên lưng ta

Bồ tát liền lên lưng con cá sấu. Con cá sấu bơi đi một lát, rồi lặn xuống nước. Bồ tát kêu to:

– Này bạn, sao bạn làm tôi chìm xuống? Ðể làm gì vậy?

Sấu đực đáp:

– Ta đưa người qua, có phải vì bản chất chơn chánh đâu? Vì vợ ta thèm quả tim của người, nên ta muốn lấy nó cho nàng ăn!

Khỉ nói:

– Này bạn, thật là tốt lành khi bạn nói với tôi như vậy. Cá sấu ạ, nếu trái tim nằm trong bụng chúng tôi thì khi tôi nhảy từ đầu cành này qua đầu cành khác, nó đã bị vỡ vụn ra như bột rồi!

Sấu đực hỏi:

– Vậy ngươi để quả tim ngươi ở đâu ?

Bồ-tát chỉ một cây sung không xa bao nhiêu, đầy những chùm sung và nói:

– Hãy xem, đấy là những quả tim của chúng tôi đang treo lủng lẳng ở cây sung.

Sấu bảo:

– Nếu ngươi chỉ cho ta quả tim, ta sẽ không giết ngươi đâu.

– Vậy hãy đưa ta lại đấy, ta sẽ chỉ cho bạn quả tim đang treo lủng lẳng trên cây.

Con cá sấu đưa Bồ-tát đến chỗ ấy. Bồ-tát từ lưng cá sấu nhảy lên, ngồi trên cây sung và nói:

– Này bạn cá sấu ngu đần ơi, bạn nghĩ rằng các loài vật để các quả tim ở đầu cành cây sao? Bạn thật là ngu !Ta đã lừa bạn đấy bạn có thể giữ lại các trái cây này cho bạn. Thân của bạn to lớn, nhưng bạn không có trí khôn.

Ðể làm sáng tỏ ý nghiã này, Bồ-tát đọc các bài kệ sau:

Thôi đủ rồi, các trái
Hồng đào, mít và xoài
Ðược thấy bờ bên kia.
Ta không ham chúng nữa,
Cây sung ta tốt hơn.
Thân của bạn thật lớn,
Nhưng trí bạn quá nhỏ!
Này sấu, ta lừa bạn.
Hãy đi như bạn muốn.

Như đánh mất một ngàn đồng tiền, sấu đực buồn khổ, sửng sờ đi về chỗ ở của mình.

*

Sau khi thuyết Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con cá sấu đực là Ðề-bà-đạt-đa, con cá sấu cái là thiếu nữ Cinca, còn khỉ chúa là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON CHIM MỒI (Tiền thân Kakkara)

Ta thấy nhiều cây rừng…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo trẻ tuổi đồng trú với Trưởng lão Xá-lợi phất, vị Tướng quân Chánh pháp.

Nghe nói, vị này khéo săn sóc thân mình, không dám ăn đồ quá lạnh, hay quá nóng, vì sợ thân sẽ không an lạc, không dám đi ra ngoài, vì sợ nóng và lạnh sẽ làm thân mệt mỏi. Và vị ấy không ăn cơm nấu quá nhão hay quá cứng.

Sự khéo léo săn sóc thân thể của Tỷ-kheo ấy được chúng Tăng biết đến. Các Tỷ-kheo ngồi ở Chánh pháp đường và nói chuyện:

– Này các Hiền giả, nghe nói Tỷ-kheo tên này khéo săn sóc thân thể lắm!

Bậc Ðạo Sư đến Chánh pháp đường và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông ngồi hội họp ở đây, đang bàn luận vấn đề gì?

Và khi nghe vấn đề ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Tỷ-kheo trẻ này mới khéo léo săn sóc thân thể. Thuở xưa, vị ấy cũng đã như vậy rồi.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một thần cây ở trong rừng. Có một người thợ săn chim, với một con chim mồi, đem theo sợi dây thòng lọng làm bằng tóc và cây gậy vào rừng bắt chim. Khi đuổi theo một con chim già, anh ta bắt đầu cột con chim mồi và cho nó bay theo vào rừng. Con chim già ấy khéo biết bẫy sập, không để mình bị bắt, cứ bay lên rồi đậu xuống. Vì vậy, kẻ đi săn giấu mình dưới cành lá, tiếp tục dựng cây gậy và giơ bẫy mồi. Nhưng con chim muốn làm cho người thợ săn xấu hổ, dùng giọng người đọc bài kệ đầu:

Ta thấy nhiều cây rừng
Như A-sa-kan-na,
Các cây ấy không làm
Như ông đã làm đâu!

Nói vậy xong, con chim ấy bay đến một chỗ khác.

Khi con chim đã bay đi rồi người thợ săn đọc bài kệ thứ hai:

Chim cũ phá cái lồng
Ðã bay đi mất rồi,
Khéo biết về bẫy sập
Thoát bẫy, nói giọng người!

Nói vậy xong, người thợ săn đi sâu vào rừng, lấy những gì có thể kiếm được rồi đi về nhà.

*

Sau khi thuyết Pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, người thợ săn là Ðề-bà-đạt-đa, con chim là Tỷ-kheo trẻ khéo léo săn sóc thân mình, còn vị thần cây đã chứng kiến mọi việc là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON CHIM GÕ MỎ (Tiền thân Kandagalaka)

Này bạn, cây gì đây…,

Câu chuyện này, khi ở Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư kể về sự bắt chước bậc Thiên thệ.

Lúc bấy giờ bậc Ðạo Sư nghe Ðề-bà-đạt-đa bắt chước bậc Thiên thệ, Ngài nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới bắt chước Ta và bị hại. Thuở xưa, kẻ ấy cũng đã làm như vậy rồi.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahamdatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ tát sanh ra làm con chim gõ mỏ ở khu vực Tuyết Sơn. Bồ tát kiếm ăn ở trong rừng cây keo gai và có tên là Khadiravaniya (chim gõ mỏ ở rừng cây keo). Bồ tát có một con chim bạn tên là Kandagalaka (chim ăn cây mềm) và con chim này kiếm ăn trong một khu rừng đầy trái tốt.

Một hôm, con chim này đi đến gặp Khadiravaniya. Khadiravaniya thấy bạn đến liền dắt bạn đi vào rừng, lấy mỏ mổ khúc cây keo, khiến các con sâu từ cây bò ra và cho bạn ăn. Kandagala mổ các con sâu được bạn cho như ăn bánh ngọt. Trong khi ăn, Kandagala sinh lòng tự ái: “Con này là con chim gõ mỏ, ta cũng vậy. Sao ta ăn các thứ do nó cho ta? Ta sẽ tự kiếm ăn trong rừng cây keo”. Nó liền nói với Khadiravaniya:

– Này bạn chớ chịu cực mãi. Tôi sẽ tự đi kiếm đồ ăn trong rừng cây keo.

Bố tát nói với bạn:

– Này bạn, bạn thuộc gia đình chim đi tìm đồ ăn ở các cây bông, không có lõi cây, tại rừng cây có trái tốt. Nhưng cây keo có lõi cứng rắn. Bạn chớ nên làm như vậy.

Kandagalaka nói:

– Tôi là con gì? Tôi không phải là con chim gõ mỏ sao?

Kandagalaka không nghe lời bạn, bay thật mau mổ vào cây keo. Trong chốc lát mỏ nó bị gẫy, mắt như muốn lồi ra, và đầu như bị vỡ. Nó đứng trên thân cây không vững, phải rơi xuống đất và đọc bài kệ đầu:

Này bạn, cây gì đây,
Lá mát lại có gai,
Tại đây, mổ một cái,
Ðầu tôi bị vỡ nát?

Nghe vậy, Khadiravaniya đọc bài kệ thứ hai:

Loại chim này chỉ quen
Mổ ăn loại cây mềm,
Và các khúc gỗ mục,
Không có lõi cây cứng.
Rủi thay, mổ cây keo,
Loại cây có lõi cứng,
Tại đấy con chim chết,
Ðầu như bị vỡ ra.

Khadiravaniya nói thêm:

– Này bạn Kandagalaka, cây làm bạn vỡ đầu tên là cây keo gai, loại cây có lõi cứng như thép.

Còn con chim không nghe lời bạn phải chết tại chỗ.

*

Thuyết Pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Kandagalaka là Ðề-bà-đạt-đa, còn Khadiravaniya là Ta vậy.

PHẨM BIRANATTHAMBHAKA (Ðám cỏ thơm)

  1. CHUYỆN CHÀNG TRAI SOMADATTA (Tiền thân Somadatta)

Thường xuyên học thuộc lòng…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Trưởng lão Làludàyi (Udàyì khờ dại).Tương truyền khi ở trước mặt hai ba người, vị ấy không thể nói được một lời. Vị ấy nhút nhát đến độ nghĩ thế này, lại nói thế khác.

Các Tỷ-kheo ngồi trong Chánh pháp đường, bàn luận về vấn đề này của Trưởng lão. Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông ngồi họp tại đây đang bàn luận vấn đề gì?

Khi nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Làludàyi mới nhút nhát quá đáng. Thuở trước, vị ấy cũng đã như vậy. Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở xứ Kàsi. Khi lớn lên, Bồ-tát học nghề ở Takkasilà xong đi về nhà, biết được cha mẹ nghèo khổ, và quyết định:” Ta sẽ xây dựng lại gia đình bị sa sút”.

Bồ-tát xin phép cha mẹ đi đến Ba-la-nại và trở thành người hầu hạ vua, được vua thương mến.

Bấy giờ người cha Bồ-tát làm nghề cày ruộng với hai con bò, nhưng một con vừa chết. Ông đi đến gặp Bồ-tát và nói:

– Này con thân, một con bò chết rồi, không thể cày ruộng được nữa. Hãy xin vua một con bò khác.

– Thưa cha thân, con mới hầu vua không lâu. Nay con xin bò không thích hợp. Cha hãy xin đi.

– Con thân, con không biết cha nhút nhát quá đáng. Trước mặt hai ba người, cha không thể nói lên một lời. Nếu cha đi đến xin vua một con bò, cuối cùng cha sẽ cho vua con bò còn lại này.

– Thưa cha thân, cha đừng giận con. Con không thể xin vua nên con phải tập cho cha xin.

– Vậy thì hay lắm! Hãy tập cho cha xin đi.

Bồ-tát đem cha đến một nghiã địa có đám cỏ thơm, cột từng nắm cỏ lại, rải cỏ chỗ này chỗ kia, và lần lượt chỉ cho cha:

– Ðây là vua, đây là phó vương, đây là tướng quân. Và rồi Bồ-tát nói:

– Thưa cha thân, khi đi đến gặp vua, trước tiên cha nhớ nói: Ðại vương muôn năm, và đọc bài kệ này, rồi xin con bò.

Và Bồ-tát dạy cha học thuộc lòng bài kệ này:

Thưa Ðại vương, thần có
Hai con bò cày ruộng,
Một con bị chết đi,
Thưa bậc Sát-đế-ly,
Hãy cho con bò khác!

Vị Bà-la-môn cần một năm để học thuộc lòng câu kệ này, rồi nói với Bồ-tát:

-Này con thân ! Cha đã thuộc lòng những bài kệ này, cha có thể nói lên bài kệ ấy với bất cứ ai. Hãy đưa cha đến hầu vua.

– Lành thay, thưa cha thân,

Vì vậy Bồ-tát đem theo quà tặng thích hợp, đưa cha đến yết kiến vua. Vị Bà-la-môn nói:

– Ðại vương muôn năm!

Và ông dâng vua tặng phẩm. Vua hỏi:

– Này Somadatta, vị Bà-la-môn là gì đối với khanh?

– Thưa Ðại vương đó là cha thần.

– Ông đến đây có việc gì?

Lúc bấy giờ vị Bà-la-môn đọc bài kệ để xin bò:

Thưa Ðại vương, thần có Hai con bò cày ruộng, Một con bị chết đi. Thưa bậc Sát-đế-ly, Hãy lấy con bò kia!

Vua biết vị Bà-la-môn nói sai, liền cười và nói:

– Này Somadatta, hình như ở nhà khanh có nhiều bò lắm ư?

– Tâu Ðại vương, nếu có vậy là do Ðại vương ban cho.

Vua bằng lòng với câu trả lời Bồ tát, liền cho vị Bà-la-môn mười sáu con bò với các dây đai trang sức, một ngôi làng để ở và bảo đưa người cha về với nhiều nghi lễ long trọng. Vị Bà-la-môn leo lên cỗ xe do ngựa Sindh toàn trắng kéo đi về làng với một số tùy tùng đông đảo trong cảnh huy hoàng. Bồ tát ngồi trong xe cùng với cha và nói:

– Thưa cha thân, cả năm con đã dạy cha học thuộc lòng. Khi thời cơ đến, cha lại cho vua con bò!

Rồi Bồ tát đọc bài kệ đầu:

Thường xuyên học thuộc lòng,
Không bao giờ phóng dật.
Cả năm trường như vậy,
Học với chùm cỏ thơm,
Khi đứng trước triều thần,
Trả lời sai ý nghĩa,
Thực hành không ích lợi
Vì trí tuệ ít ỏi.

Nghe Bồ tát nói vậy, vị Bà-la-môn đọc bài kệ thứ hai:

Sô-ma-đát-ta thân,
Người yêu cầu điều gì,
Giữa hai điều được một.
Hoặc không được gì cả,
Hoặc có được tài sản,
Pháp yêu cầu là vậy.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Udàyi mới nhút nhát quá đáng. Thuở xưa vị ấy cũng nhút nhát quá đáng như vậy rồi.

*

Sau khi thuyết Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, cha của Somadatta là Làludàyi, còn Somadatta là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN THỨC ĂN THỪA (Tiền thân Uchitthabhatta)

Trên đầu sắc lại khác…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về sự luyến ái người vợ cũ.

Tỷ-kheo ấy được bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Tỷ-kheo, nghe nói ông bị ái nhiễm?

Vị ấy đã trả lời:

– Có thực vậy.

– Ông luyến ái ai?

– Con luyến ái người vợ cũ.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, nữ nhân này thuở trước đã làm hại ông và khiến ông ăn đồ ăn thừa của nhân tình nó.

Nói xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ tát sanh ra trong gia đình một người nhào lộn nghèo khổ, sống bằng cách ăn xin. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ tát nghèo khổ, thiếu thốn, và xin ăn để sống.

Lúc bấy giờ trong nước Kàsi, tại làng nhỏ, người vợ của một Bà-la-môn có tà hạnh, theo ác pháp, thường hành động tội lỗi. Một hôm, vì một vài công việc, vị Bà-la-môn đi ra ngoài, và người tình của nữ nhân ấy được cơ hội liền lẻn vào nhà. Sau khi hành lạc với nữ nhân ấy xong, gã nói:

– Ta muốn ăn một chút gì rồi sẽ đi.

Bà ta liền sửa soạn đồ ăn, dọn cơm, hâm canh và cho người tình ăn, còn mình đứng ở cửa canh chồng đi về.

Tại chỗ người tình ấy đang ăn, Bồ tát đứng chờ xin cơm, và chứng kiến câu chuyện. Khi vị Bà-la-môn xong việc, ông trở về nhà. Nữ Bà-la-môn thấy chồng về, liền đi nhanh vào nhà nói:

– Hãy đứng dậy, vị Bà-la-môn đang đi về!

Người vợ bảo tình nhân đi trốn vào kho chứa đồ, và đón vị Bà-la-môn vào nhà. Khi vị Bà-la-môn ngồi xuống, bà vợ sửa soạn chỗ ngồi, đưa nước rửa tay, và trên phần cơm nguội lạnh do người kia ăn thừa, bà thêm phần cơm nóng và mời ông ăn. Vị Bà-la-môn đặt tay xuống cơm, thấy cơm dưới nguội trên nóng suy nghĩ: “Cơm này có thể là cơm thừa của một người khác đã ăn rồi”. Ông liền hỏi nữ Bà-la-môn với bài kệ đầu:

Trên đầu sắc lại khác,
Phía dưới sắc lại khác,
Ta hỏi nữ Phạm chí,
Sao dưới vậy, trên vậy?

Nữ Bà-la-môn sợ việc làm của mình bị bại lộ, dầu vị Bà-la-môn hỏi đi hỏi lại, vẫn giữ im lặng. Lúc bấy giờ, con người nhào lộn đang đứng xin ăn ở ngoài cửa suy nghĩ: “Người đàn ông núp trong kho chứa đồ chắc là tình nhân. Người này chắc là chủ nhà. Nữ Bà-la-môn sợ việc làm của mình bị bại lộ nên không nói gì. Vậy ta hãy phô bày việc làm của nữ Bà-la-môn ấy, nói cho vị Bà-la-môn biết chỗ nấp của người tình trong kho chứa đồ”.

Bồ-tát liền đem toàn bộ câu chuyện nói cho vị Bà-la-môn biết, từ khi ông đi ra khỏi nhà, người kia đi vào nhà, hành lạc, ăn cơm ngon, và nữ Bà-la-môn đứng ở cửa nhìn ra đường bảo người kia núp xuống trong kho chứa đồ. Người nhào lộn nói như vậy cho ông chủ nhà biết và đọc bài kệ thứ hai.

Kính thưa bậc Tôn giả
Tôi là người nhào lộn
Tôi đã đi đến đây,
Chỉ là để xin ăn,
Người núp trong kho chứa
Là người Tôn giả tìm.

Bồ-tát nắm búi tóc người tình địch, kéo gã ra khỏi kho chứa, dặn nó chớ có làm việc ác như vậy nữa, rồi ra đi. Còn vị Bà-la-môn, đánh và dạy cả hai người chớ làm ác như vậy nữa.

Rồi về sau ông mạng chung và đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi thuyết Pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư giảng các Sự thật. Cuối bài giảng, vị Tỷ-kheo ấy đắc quả Dư lưu. Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, nữ Bà-la-môn là người vợ trước, vị Bà-la-môn là vị Tỷ-kheo bị ái nhiễm, còn người nhào lộn là Ta vậy.

-ooOoo-

213.CHUYỆN VUA BHARU (Tiền thân Bharu)

Ta nghe vua Bharu…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về vua Kosala.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn được vua Kosala cung kính tôn trọng đảnh lễ, cúng dường, nhận các tặng vật dồi dào như đồ ăn khất thực, sàng toạ, dược phẩm trị bệnh. Chúng Tỷ-kheo cũng được cúng dường.

Hội chúng ngoại đạo thấy lợi dưỡng, danh vọng của họ bị giảm thiểu bèn hội họp bí mật, ngày đêm thảo luận như sau:

– Từ khi Sa-môn Gotama xuất hiện, các lợi dưỡng danh vọng của chúng ta bị tổn giảm. Sa-môn Gotama được lợi dưỡng và danh vọng tối thượng. Vì nhân duyên gì, Sa-môn ấy được thành công như vậy ?

Một người trong hội chúng nói:

– Sa-môn Gotama có một trú xứ tối thượng, an toàn nhất ở cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ). Do vậy, Sa-môn Gotama được lợi dưỡng cung kính. Ðể có lợi dưỡng, chúng ta cũng xây dựng một tịnh thất ngoại đạo ở bên cạnh Kỳ Viên, như vậy chúng ta sẽ được cúng dường nhiều tặng vật.

Tất cả đi đến kết luận chung là như vậy.

Nhưng rồi họ nghĩ:”Nếu chúng ta không báo tin cho vua biết việc xây tịnh thất này, thì các Tỷ-kheo sẽ ngăn chận chúng ta. Còn nếu vua nhận được quà tặng, vua sẽ không ngần ngại phá trú xứ của họ. Do vậy chúng ta phải hối lộ vua, và chúng ta sẽ lấy được chỗ làm tịnh thất.

Họ thỏa thuận yêu cầu các cận thần đem dâng vua một trăm ngàn đồng và thưa:

– Thưa Ðại vương, chúng tôi muốn làm một tịnh thất ngoại đạo ở bên cạnh Kỳ Viên. Nếu các Tỷ-kheo nói với Ðại vương: Chúng tôi không cho phép làm, thì Ðại vương chớ trả lời họ.

Vì tham của hối lộ, vua chấp thuận việc ấy.

Hội chúng ngoại đạo được vua chấp thuận, liền mời một kiến trúc sư bắt đầu công trình xây dựng, và gây tiếng ồn ào. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Ànanda, tiếng ồn ào ầm ĩ này là tiếng gì?

– Bạch Thế Tôn, các người ngoại đạo đang xây dựng tịnh thất bên cạnh Kỳ Viên. Tiếng ồn ào nổi lên từ đấy.

– Này Ànanda, chỗ ấy không thích hợp cho tịnh thất ngoại đạo. Các phái ngoại đạo ưa lớn tiếng ồn ào. Không thể sống với họ được.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư họp chúng Tỷ-kheo lại và nói:

– Này các Tỷ-kheo, hãy đi báo cho vua biết, yêu cầu vua ngăn chận việc làm tịnh thất ngoại đạo.

Chúng Tỷ-kheo đi đến và đứng tại cửa hoàng cung. Vua nghe chúng Tỷ-kheo đến, biết rằng họ đến để ngăn việc xây tịnh thất ngoại đạo. Nhưng tự mình đã nhận tiền hối lộ, nên vua bảo người hầu cận ra nói rằng vua không có ở nhà. Các Tỷ-kheo trở về trình bậc Ðạo Sư. Ngài biết vua nhận hối lộ nên làm vậy. Ngài cử hai vị đại đệ tử ra đi. Vua nghe hai vị đại đệ tử đến, cũng bảo người trả lời như trước. Hai vị đại đệ tử ấy trở về trình bậc Ðạo Sư. Ngài nói:

– Này Xá-lợi phất, chắc chắn hôm nay vua không ở trong nhà. Có lẽ vua đi ra ngoài.

Vào sáng hôm sau, bậc Ðạo Sư đắp y, cầm bát, cùng với năm trăm Tỷ-kheo, đi đến cửa cung. Vua nghe chư vị đến, liền từ trên lầu bước xuống cầm lấy bình bát của bậc Ðạo Sư. Vua cúng dường các món cơm cháo lên chúng Tăng với đức Phật là vị lãnh đạo, và đảnh lễ bậc Ðạo Sư, rồi vua ngồi xuống một bên.

Bậc Ðạo Sư bắt đầu thuyết giảng cho vua:

– Thưa Ðại vương, các vua thuở trước đã nhận của hối lộ, do đó gây ra sự đấu tranh giữa các vị có giới đức, nên đã mất chủ quyền nước mình và gặp đại nạn.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của vua, bậc Ðạo Sư kể lại câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, tại nước Bharu, vua Bharu trị vì quốc độ. Lúc bấy giờ, Bồ-tát là vị khổ hạnh, đã đạt được năm Thắng trí và tám Thiền chứng, là bậc sư trưởng một hội chúng, cư trú lâu ngày tại khu vực Tuyết Sơn.

Vì cần dùng muối và giấm, Bồ-tát cùng năm trăm vị tu khổ hạnh từ Tuyết Sơn theo thứ tự đi đến thành Bharu. Tại đấy hội chúng khất thực xong, đi ra khỏi thành, ngồi xuống gần cổng phương bắc, dưới gốc một cây bàng đầy cành lá. Họ dùng cơm và trú ở đấy.

Bấy giờ, khi chúng đạo sĩ ấy sống tại đấy khoảng nửa tháng, một vị sư trưởng hội chúng khác với năm trăm đạo sĩ cùng đi đến khất thực trong thành xong, đi ra khỏi thành, ngồi xuống tại cổng phía nam, dưới một gốc cây bàng tương tự. Sau khi ăn uống xong, họ cũng trú tại đấy. Như vậy hai hội chúng đạo sĩ ăn uống ở đấy cho đến thỏa thích, rồi đi về Tuyết Sơn.

Khi hội chúng đi rồi, cây bàng ở cổng phía nam bị khô héo. Lần sau, hai hội chúng ấy lại đến. Những vị trú ở cây bàng tại cổng nam đến trước, và thấy cây bàng của mình bị khô héo. Sau khi đi khất thực, họ ra khỏi thành đến gốc cây bàng tại cổng phía bắc. Ăn uống xong, họ sống ở tại đấy. Các đạo sĩ của hội chúng kia đến sau, khất thực trong thành xong, đi đến gốc cây của mình, ngồi ăn uống và cũng muốn trú tại đấy. Họ nói:

– Cây này không phải là cây của các ông. Chính là cây của chúng tôi.

Như vậy, vì cái cây họ bắt đầu tranh cãi nhau. Cuộc tranh cãi trở thành lớn chuyện. Một số đạo sĩ này nói:

– Các ông không được lấy chỗ của chúng tôi ở trước kia.

Một số đạo sĩ khác nói:

– Lần này chúng tôi đến đây trước. Các ông không được lấy chỗ này. Như vậy chúng tôi là chủ.

Và vì vấn đề gốc cây, cả hai hội chúng đi đến hoàng cung. Vua quyết định cho hội chúng đạo sĩ đến ở trước tiên là chủ nhân của gốc cây ấy. Nhóm kia nói với nhau:

– Nay chúng ta không thể nhịn thua những người này.

Với thiên nhãn họ nhìn xung quanh, thấy một hòm xe xứng đáng là sở hữu của một vị đại vương, liền mang xe báu ấy hối lộ cho nhà vua và thưa:

– Thưa Ðại vương, hãy làm cho chúng tôi thành người chủ cái cây.

Nhà vua nhận hối lộ và quyết định cả hai hội chúng ở đây đều là chủ nhân. Nhóm đạo sĩ kia đem lại những bánh xe bằng bạc của chính hòm xe ấy, hối lộ vua và thưa:

– Thưa Ðại vương, hãy làm chúng tôi trở thành người chủ độc nhất.

Vua làm đúng như vậy. Sau đó hai hội chúng đạo sĩ suy nghĩ: “Chúng ta là những người đã đoạn tận dục về sở hữu và các dục gây phiền não, xuất gia tu hành, nay lại vì một gốc cây mà sanh ra đấu tranh, rồi đem của hối lộ. Ðây là việc không xứng đáng.”

Họ ăn năn hối lỗi, và vội vã đi về Tuyết Sơn.

Chư thần trú trong toàn nước Bharu đều nhất trí phẫn nộ đối với vua Bharu vì vua đã làm các vị có đức hạnh tranh đấu với nhau, một việc làm không thích đáng. Họ liền dâng nước lên tràn ngập xứ Bharu đến ba trăm dặm khiến cả nước ấy không còn nữa. Như vậy, chỉ vì vua Bharu toàn dân trong nước Bharu gặp nạn diệt vong.

Sau khi kể câu chuyện quá khứ, bậc Ðạo sư nhân danh bậc Chánh Ðẳng Giác, nói lên những bài kệ này:

Ta nghe vua Bha-ru,
Làm đạo sĩ đấu tranh,
Tự mình gặp đại nạn,
Cùng với cả quốc độ,
Như vậy vì tội ấy,
Vua đi đến diệt vong.
Vậy bậc trí không khen,
Dục chinh phục nội tâm,
Vị có tâm không nhiễm,
Nói toàn lời chân thật.

Khi bậc Ðạo sư thuyết Pháp thoại này xong, Ngài nói với đức vua:

– Thưa Ðại vương, chớ để lòng dục ngự trị, làm cho hai hội chúng xuất gia đấu tranh với nhau là việc không nên.

*

Rồi bậc đạo sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Ta là người lãnh đạo nhóm các vị hiền trí.

Khi cúng dường đức Như Lai xong, và bậc Ðạo sư đã ra về, vua sai người đến phá hủy tịnh thất ngoại đạo, khiến các phái ngoại đạo không có trú xứ.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON SÔNG ÐẦY (Tiền thân Punna-Nadi)

Vật gì người ta nói…,

Câu chuyện này khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo sư kể về trí tuệ Ba-la-mật.

Một thời đại chánh pháp đường, các Tỷ-kheo nói chuyện liên hệ đến trí tuệ của Như lai:

– Thưa các Hiền giả, bậc Chanh đẳng giác có trí tuệ vĩ đại, trí tuệ rộng rãi, minh trí, mẫn tiệp, trí tuệ sắc bén, trí tuệ thấu triệt, và đầy đủ phương tiện.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông hội họp ở đây đang bàn luận vấn đề gì?

Khi nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay, mà thuở trước cũng vậy, Như Lai đã có trí tuệ và thiện xảo phương tiện.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình của vị cố vấn tế tự. Khi trưởng thành, vị ấy đi học tất cả các nghề ở Takkasilà. Sau khi phụ thân mất, vị ấy nhận được chức vụ cố vấn tế tự cho vua về thánh sự và tục sự.

Sau một thời gian, vua nghe theo lời gièm pha của các nịnh thần, phẫn nộ không cho Bồ-tát ở gần, và tẩn xuất vị ấy ra khỏi thành Ba-la-nại. Bồ-tát đem vợ con đi, và sống tại một làng nhỏ ở Kàsi.

Sau một thời gian, vua nhớ lại công đức của Bồ-tát, suy nghĩ: “Nếu ta cử một sứ giả đi mời sư trưởng về, như vậy không thích hợp. Ta hãy làm một bài kệ, viết trên lá cây, cho nấu thịt quạ, gói cả lá và thịt trong miếng vải trắng, đóng dấu ấn của vua rồi gửi đi. Nếu sư trưởng là bậc hiền trí, sau khi đọc tấm lá, và biết là thịt quạ, sư trưởng sẽ đến. Nếu không, vị ấy sẽ không đến”.

Vì vậy, nhà vua viết bài kệ này trên tấm lá:

Vật gì người ta nói
Uống được nước sông đầy?
Vật gì người ta nói
Ðược lúa mì che lấp?
Vật gì người ta nói
Người lữ hành đi xa?
Vật ấy, nay đã đến,
Hãy ăn, Bà-la-môn!

Như vậy vua viết bài kệ này trên lá, rồi gửi cho Bồ tát. Bồ tát đọc thư tự nghĩ: “Vua muốn gặp ta” và đọc bài kệ thứ hai:

Vì vua còn nhớ ta,
Nên mới gởi cho quạ,
Ngỗng trời, hạc, chim công,
Vua cũng sẽ gửi thôi,
Nếu vua không gửi gì
Ấy là điều đáng ngại.

Bồ tát cho thắng bò vào xe và đi đến yết kiến vua. Vì thế vua thoả mãn, đặt Bồ tát vào chức vụ cố vấn tế tự như cũ.

*

Bậc Ðạo Sư kể Pháp thoại này xong, liền nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vua là Ànanda, còn vị tế tự là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON RÙA (Tiền thân Kachapa)

Con rùa nói lên lời…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Kokàlika. Câu chuyện sẽ được kể trong Tiền thân Mahàtakkàra (số 481). Bấy giờ, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Kokàlika mới bị hại vì lời nói. Thuở trước, kẻ ấy cũng đã bị hại như vậy.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một đại thần, khi lớn lên, trở thành vị cố vấn của vua về thánh sự và thế sự. Nhưng vua có tánh hay nói nhiều. Khi vua nói, không cho ai cơ hội xen vào. Và Bồ tát muốn ngăn chận vua nói nhiều, nên cố tìm một cơ hội.

Lúc bấy giờ, trong khu vực Tuyết Sơn, một con rùa sống ở một hồ nước. Hai con ngỗng trời trẻ đi tìm mồi, đến kết thân với con rùa ấy. Dần dần, chúng trở thành rất thân thiết. Một hôm ngỗng trời con nói với rùa:

– Này bác rùa, chỗ chúng tôi ở tại Tuyết Sơn, trên cao nguyên núi Cittakùta, trong một cái hang bằng vàng, trú xứ rất đẹp. Hãy đi với chúng tôi nhé!

– Làm sao tôi đi được?

– Chúng tôi sẽ đưa bác đi, nếu bác có thể giữ gìn cái miệng của bác và đừng nói một điều gì hết.

– Ðược, tôi sẽ giữ gìn. Hãy đem tôi đi.

Chúng chấp thuận, bảo con rùa ngậm một cây gậy, còn chúng cắn vào hai đầu gậy, rồi bay lên hư không.

Bọn trẻ con trong làng thấy con rùa được các con ngỗng trời trẻ đưa đi như vậy, liền la lên:

– Hai con ngỗng trời mang con rùa lên cái gậy!

Con rùa muốn nói lên: Nếu bạn ta đưa ta đi thì có can hệ gì đến các ngươi, đồ bọn vô loại kia?

Trong khi ấy, hai con ngỗng trời đã bay mau đến khoảng trên cung điện vua trong thành Ba-la-nại. Con rùa vừa nhả cây gậy định nói, liền rơi xuống trong sân trống và bị vỡ làm hai. Khi ấy tiếng ồn ào nổi lên:

– Con rùa rơi trên sân trống đã bị vỡ làm hai rồi!

Vua đem theo Bồ tát, cùng với các đại thần vây quanh, đi đến chỗ ấy, thấy con rùa, hỏi Bồ tát:

– Này bậc Hiền trí, vì sao con rùa này rơi xuống?

Bồ tát suy nghĩ: “Chờ đợi đã lâu, ta muốn giáo huấn vua và đang tìm một phương tiện. Nay thời cơ đã đến. Chắc con rùa này kết thân với những con thiên nga, được chúng đưa đi đến Tuyết Sơn. Chúng bảo rùa ngậm cây gậy và đưa nó đi giữa hư không, rồi có lẽ con rùa nghe lời ai đó nói, không thể giữ gìn cái miệng, nó muốn nói nên nhả cái gậy ra, liền rơi từ hư không xuống như vậy, và đi đến chỗ chết”. Và Bồ tát thưa với vua:

– Thưa Ðại Vương, những ai lắm mồm miệng, nói không dừng nghỉ, đều phải gặp tai họa như vậy.

Rồi Bồ-tát đọc các bài kệ này:

Con rùa nói lên lời,
Lời nói tự hại mình,
Tuy khéo ngậm cái gậy,
Mở miệng tự sát hại.
Hãy thấy rõ điều này,
Bậc Nhân chủ vĩ đại,
Hãy nói lên vừa phải,
Cẩn thận nói đúng thời.
Kẻ nào nói nhiều lời,
Như con rùa gặp nạn.

Vua biết Bồ-tát kể chuyện này vì mình liền nói:

– Thưa bậc Hiền trí, có phải vì trẫm mà bậc Hiền trí nói vậy?

Bồ-tát trình bày rõ ràng và trả lời:

– Dù Ðại vương hay người khác, nếu nói quá lượng đều gặp nạn như vậy.

Từ đấy trở đi, vua bỏ tánh nói nhiều và trở thành nguời ít nói.

*

Sau khi thuyết Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con rùa là Kokàlika, hai con ngỗng trời là hai vị Trưởng lão lừng danh, vua là Ànanda, còn vị đại thần hiền trí là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON CÁ (Tiền thân Maccha)

Không vì lửa này đốt…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một người luyến ái với vợ cũ. Thế Tôn hỏi Tỷ-kheo ấy:

– Này Tỷ-kheo, có thật chăng ông bị ái nhiễm?

Tỷ-kheo đáp:

– Bạch Thế Tôn, có thật vậy.

Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Vì ai?

– Bạch Thế Tôn, vì người vợ cũ.

Bậc Ðạo Sư nói với vị ấy:

– Này Tỷ-kheo, nữ nhân này đã đem tai hoạ cho ông. Thuở xưa, vì nữ nhân này, ông gần bị cây cọc đâm và bị nướng trên lửa để làm đồ ăn. Nhờ các bậc Hiền trí, ông được cứu mạng.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là vị cố vấn tế tự cho vua ấy. Một hôm, các người đánh cá kéo lên một con cá bị mắc trong lưới, liền quăng con cá trên mặt cát nóng.

Họ đẽo nhọn một cái que và nghĩ:”Chúng ta sẽ nướng con cá này trên than đỏ và ăn”. Con cá nghĩ đến con cá cái, khóc than và đọc hai bài kệ này:

Không vì lửa này đốt,
Không vì dùi nhọn đâm,
Vì cá cái nghi tôi
Vui chơi với cá khác!
Chính lửa tình đốt tôi!
Làm khổ tâm tư tôi.
Các ngài hãy thả tôi,
Ái dục không đáng chết!

Lúc bấy giờ Bồ-tát đi đến bờ sông nghe con cá ấy than khóc, liền đi đến gặp các người thợ săn và can thiệp để họ thả con cá ấy.

*

Sau khi thuyết Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo bị ái nhiễm đã đắc quả Dự lưu.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con cá cái là người vợ thuở trước, Tỷ-kheo bị ái nhiễm là con cá, còn vị cố vấn tế tự là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN NGƯỜI BÁN RAU (Tiền thân Seggu)

Thế giới thích hoan lạc…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một nam cư sĩ bán rau trái. Câu chuyện này đã được nói đến trong Chương một (số 102). Tại đây, bậc Ðạo Sư hỏi nam cư sĩ ấy:

– Này nam cư sĩ, sao lâu ngày ông không đến?

– Bạch Thế Tôn, con gái của con thường hay cười. Sau khi thử thách nó, con đã gả nó cho con trai một gia đình quý tộc. Vì phải làm việc này, con không có dịp đến yết kiến Ngài.

Rồi bậc Ðạo Sư nói với nam cư sĩ ấy:

– Này nam cư sĩ, không phải chỉ nay con gái ông có giới hạnh. Thuở trước, nàng cũng có giới hạnh rồi. Không phải chỉ nay ông mới thử thách nàng. Thuở trước, ông cũng đã thử thách nàng.

Rồi theo lời nam cư sĩ yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát làm một vị thần cây.

Lúc bấy giờ, người nam cư sĩ buôn bán rau trái này nghĩ: “Ta sẽ thử con gái của ta”. Rồi ông đem cô vào rừng, cầm tay cô làm như thể ông có ham muốn tội lỗi với cô. Sau đó người cư sĩ đọc bài kệ đầu với con gái đang than khóc:

Thế giới thích hoan lạc,
Còn con gái của ta
Lại không khéo hiểu biết
Ðối với chuyện hạ liệt.
Nay con còn được gọi
Thiếu nữ đồng trinh chăng?
Bị ta bắt trong rừng,
Thôi con đừng khóc nữa!

Nghe vậy, cô con gái nói:

– Thưa cha thân, con vẫn là con gái! Con không biết gì về dâm dục cả.

Rồi vừa khóc, cô vừa đọc bài kệ thứ hai:

Người đáng bảo vệ con
Khỏi buồn phiền đau khổ,
Người ấy là cha con,
Lại ác ý trong rừng,
Nay con khóc với ai,
Giữa núi rừng thanh vắng,
Người đáng bảo vệ con,
Lại muốn dùng sức mạnh?

Như vậy, người bán rau trái ấy thử con gái mình xong, liền đưa cô về nhà, và gả cô cho một chàng trai tốt. Về sau, ông mạng chung và đi theo nghiệp của mình.

*

Khi bậc Ðạo sư kể Pháp thoại này xong, Ngài thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng, người bán rau chứng quả Dự lưu và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bây giờ người cha và cô con gái là hai người hiện tại, còn vị thần cây chứng kiến câu chuyện ấy là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN NGƯỜI LÁI BUÔN LỪA ÐẢO (Tiền thân Kùtavànija)

Man trá trị man trá…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một người đi buôn lừa đảo.

Có hai người lái buôn ở Xá-vệ, một người lừa đảo và một người lương thiện. Hai người này hùn vốn với nhau, chất đầy hàng hóa trên năm trăm cỗ xe, di chuyển từ đông sang tây, buôn bán thâu hoạch lợi tức nhiều, rồi đi trở về Xá-vệ.

Người lái buôn lương thiện nói với người lái buôn lừa đảo:

– Thưa bạn, chúng ta sẽ chia hàng hoá.

Người lái buôn lừa đảo suy nghĩ:”Người này lâu ngày mệt mỏi vì thiếu ăn thiếu ngủ. Nay về nhà, được ăn uống đầy đủ các món ngon đặc biệt khác nhau sẽ chết vì không tiêu hóa được. Khi ấy tất cả hàng hóa thuộc về ta”. Vì vậy, anh ta nói:

– Sao các trời hôm nay không được tốt. Ngày cũng không được lành. Mai mốt chúng ta sẽ tính việc ấy.

Anh ta cố tìm cớ trì hoãn. Nhưng người lương thiện cứ thúc bách mãi nên họ cũng chia hàng hoá. Sau đó, vị ấy đem theo hương và vòng hoa đi đến cúng dường bậc Ðạo Sư, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Ông về từ bao giờ?

– Bạch Thế Tôn, con về khoảng nửa tháng.

Ngài lại hỏi:

– Tại sao ông chậm đến thăm Như Lai?

Vị ấy trình câu chuyện trên. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này nam cư sĩ, không phải chỉ nay kẻ ấy lừa đảo như vậy. Thuở xua, kẻ đó cũng là người lái buôn lừa đảo.

Rồi theo lời yêu cầu của vị ấy, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại. Bồ-tát sanh ra trong gia đình của một đại thần. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài đuợc cử làm quan tư pháp.

Lúc bấy giờ có hai người lái buôn, một người ở làng, một người ở thành phố làm bạn với nhau. Người ở làng giao cho người ở thành phố năm trăm lưỡi cày. Người ở thành phố bán những lưỡi cày ấy giữ lấy tiền, và tại chỗ cất những luỡi cày ấy, anh ta rải phân chuột.

Sau một thời gian, người ở làng đến và nói:

– Hãy trả các lưỡi cày cho ta.

Người lái buôn lừa đảo nói:

– Các lưỡi cày của bạn đã bị chuột ăn hết!

Và anh ta chỉ những đống phân chuột. Người kia nói:

– Ôi! Những con chuột! Chúng mày đã ăn thì ta còn làm gì được nữa?

Khi đi tắm, anh ta đem theo con trai của người lái buôn lừa đảo, gửi nó trong nhà một người bạn và dặn không cho đứa bé đi đâu cả, cứ bắt nó ngồi trong phòng. Sau khi tắm xong, anh ta đến nhà người lái buôn lừa đảo. Người này hỏi:

– Con tôi đâu?

– Thưa bạn, tôi để con bạn trên bờ sông. Trong khi tôi lặn dưới nước, thì một con diều hâu đến, giơ móng vuốt bắt con bạn và bay lên không rồi. Tôi cố gắng đập nước, la lớn tiếng, nhưng không thể cứu nó được.

– Bạn nói láo con diều hâu không thể bắt đứa trẻ đem đi được!

– Này bạn sự thật là vậy. Việc không đáng xảy ra lại xảy ra, thì tôi làm gì được ? Con bạn đã bị con diều hâu bắt đi mất rồi!

Người kia mắng nhiếc:

– Ôi tên lừa đảo độc ác! Ôi kẻ giết người! Nay ta sẽ đi đến quan tòa và kéo mày đến đấy!

Rồi anh ta ra đi. Người lái buôn ở làng nói:

– Hãy làm như ý bạn muốn.

Và anh ta đi đến pháp đường trình quan. Người lái buôn lừa đảo nói với Bồ-tát:

– Thưa quan lớn, người này dắt con tôi đi tắm. Khi tôi hỏi con tôi đâu rồi, anh ta nói nó đã bị con diều hâu bắt đi rồi. Xin ngài xử vụ kiện này cho tôi.

Bồ-tát nói với người kia:

– Này ông, hãy khai sự thật.

– Thưa quan lớn, vâng đúng vậy. Tôi dẫn con nó đi, con nó bị diều hâu tha rồi. Sự thật là như vậy, thưa ngài.

– Nhưng ở đời làm sao diều hâu lại tha đứa trẻ đi được.

– Thưa quan lớn, tôi có một câu muốn hỏi ngài: Nếu các con diều hâu không thể bắt đứa trẻ và bay lên không được, thì làm sao các con chuột lại ăn những lưỡi cày?

– Ông muốn nói gì thế?

– Thưa quan toà, tôi có cất tại nhà người này năm trăm lưỡi cày. Khi tôi hỏi, anh ta nói những lưỡi cày ấy đã bị chuột ăn. Rồi anh ta chỉ cho tôi đống phân của các con chuột đã ăn các lưỡi cày. Thưa quan lớn, nếu các con chuột ăn được lưỡi cày thì các con diều hâu cũng có thể mang đi các đứa trẻ. Nếu các con chuột không ăn được thì các con diều hâu cũng sẽ không mang đứa trẻ đi được. Anh ta nói các con chuột đã ăn các lưỡi cày, xin ngài hãy phán xét chúng có thể bị ăn hay không thể bị ăn. Hãy xử vụ kiện này cho tôi.

Bồ-tát biết anh ta nghĩ ra cách man trá để đối trị với cách man trá của tên kia, nên ngài nói:

– Thật là một sự suy nghĩ khôn ngoan!

Rồi Bồ-tát đọc hai bài kệ này:

Man trá trị man trá,
Ðây thật suy tính hay,
Dùng lừa đảo phản công
Ðối trị kẻ lừa đảo
Nếu cho rằng loài chuột
Có thể ăn lưỡi cày,
Thì sao các diều hâu
Lại không mang đứa trẻ?
Có những kẻ lừa đảo,
Lừa đảo kẻ lừa đảo,
Có những kẻ lường gạt
Lường gạt kẻ lường gạt!
Mất con, ông hãy cho
Lưỡi cày kẻ đã mất.
Người đã mất lưỡi cày,
Hãy trả con người khác!

Như vậy kẻ mất con nhận lại con, và kẻ mất lưỡi cày nhận lại lưỡi cày. Và về sau, cả hai đi theo nghiệp của mình khi mạng chung.

*

Sau khi kể Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Người lái buôn lừa đảo thời bấy giờ và người ngày nay là một, người lái buôn lương thiện cũng là người hiện tại. Và vị quan tư pháp là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN ÐÁNG CHỈ TRÍCH (Tiền thân Garahita)

Vàng ròng là của tôi…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ viên, bậc Ðạo sư kể về một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn và không hoan hỷ.

Vị này không thể tập trung tư tưởng vào một đối tượng độc nhất, và sống với tâm luôn luôn bất mãn. Tăng chúng đưa Ty-kheo ấy đến bậc Ðạo Sư. Ngài hỏi:

– Có thật chăng ông thối thất tinh tấn ?

Vị ấy trả lời:

– Thật vậy, vì con bị phiền não chi phối !

Bậc Ðạo Sư nói với Tỷ-kheo ấy:

– Này Tỷ-kheo, phiền não này, thuở trước, đã bị ngay các loài bàng sanh khinh miệt. Ông đã xuất gia trong Giáo pháp này, sao lại thối thất tinh tấn, vì bị chi phối bởi thứ phiền não mà ngay các loài bàng sanh cũng khinh miệt?

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con khỉ chúa ở khu vực Tuyết Sơn. Bồ-tát bị một người đi rừng bắt đem về dâng vua. Sống lâu ngày trong cung vua, làm đầy đủ các bổn phận, Bồ-tát rõ biết việc làm, nếp sống trong thế giới loài người. Vua bằng lòng với sự phục vụ của khỉ chúa, liền cho gọi người thợ rừng và ra lệnh thả khỉ chúa tại chỗ trước kia nó đã bị bắt. Người đi rừng làm đúng như lệnh truyền. Khi đàn khỉ biết được Bồ-tát đã về, chúng đến thăm, và hội họp trên một tảng đá lớn. Sau khi chào đón hỏi thăm Bồ-tát, chúng nói:

– Thưa chúa khỉ, trong thời gian dài như vậy, ngài sống ở đâu ?

– Trong cung vua tại Ba-la-nại, vua dùng ta như con khỉ làm trò mua vui và bằng lòng vì sự phục vụ của ta, nên đã thả ta.

Các con khỉ ấy hỏi:

– Chắc ngài biết cách sống của loài người. Hãy nói cho chúng tôi biết. Chúng tôi muốn nghe chuyện ấy.

– Chớ có hỏi ta về nếp sống của loài người.

– Hãy nói đi, chúng tôi muốn nghe.

Bồ-tát nói:

– Loài người dầu là Sát-đế-ly hay Bà-la-môn đều nói: Ðây là tài sản của tôi!. Họ không hiểu tánh vô thường làm cho mọi vật biến hoại. Các bạn hãy nghe những hành động của những kẻ mù lòa ngu si ấy.

Rồi Bồ-tát đọc những bài kệ này:

Vàng ròng là của tôi,
Vàng quý là của tôi !
Như vậy suốt ngày đêm,
Chúng rêu rao lớn tiếng,
Những người ngu si ấy
Không nhìn đến Chánh pháp.
Trong nhà, có hai chủ,
Một chủ không có râu,
Vú dài, có tóc bện,
Hai tai có đâm lỗ,
Ðược mùa với nhiều tiền,
Làm khổ đau mọi người.

Nghe vậy, tất cả đều nói:

– Chớ nói, chớ nói nữa chúng tôi vừa nghe điều không đáng nghe !

Chúng bịt chặt tai với hai tay. Và chúng không ưa chỗ ấy vì chúng nói:

– Tại chỗ này chúng ta đã nghe một điều không xứng đáng nghe!

Vì vậy chúng đi chỗ khác. Tảng đá chúng ngồi được gọi là tảng đá bị chỉ trích, người ta nói như vậy.

*

Khi bậc Ðạo sư kể Pháp thoại xong, Ngài thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo đắc quả Dự lưu và ngài nhận diện tiền thân:

– Lúc bấy giờ, đàn khỉ là hội chúng đức Phật, còn khỉ chúa là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN TẾ SƯ DHAMMADHAJA (Tiền thân Dhammadhaja)

Ngài sống vẻ an lạc…,

Câu chuyện này, khi ở Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư kể về những âm mưu sát hại Ngài, Lúc bấy giờ Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay, mà thuở trước cũng vậy, Ðề-bà-đạt-đa đã âm mưu sát hại ta, nhưng dù chỉ làm Ta sợ hãi cũng không thành.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở trước, vua Yasapàni trị vì ở Ba-la-nại, vua có một vị tướng quân tên là Kàlaka (Hắc nhân). Lúc bấy giờ, Bồ-tát là vị cố vấn tế tự tên là Dhammaddahaja (Ngọn cờ Chánh pháp). Vua có một người thợ hớt tóc và làm đồ trang sức đầu tóc cho vua tên là Chattapànì (Người cầm dù).

Vua trị vì theo Chánh pháp. Nhưng vị tướng quân lo việc xử kiện thường ăn hối lộ và hay gièm pha. Khi đã lấy hối lộ, ông lừa đảo và chiếm đoạt tài sản của những người sở hữu chủ chính đáng.

Một hôm, một người bị thua trong một vụ kiện, hoa tay khóc lóc, khi đi ra khỏi pháp đình, thấy Bồ-tát đang hầu vua, liền gieo mình xuống chân Bồ-tát và thưa:

– Thưa ngài, trong khi ngài khuyến giáo vua về thánh sự và tục sự, thì tướng quân Kàlaka lấy hối lộ, làm các người sở hữu chủ phải mất tài sản.

Và ông ta thuật lại vụ kiện của mình. Bồ-tát động mối bi tâm nói:

– Này bạn, hãy đi theo ta, ta sẽ xử vụ kiện cho bạn.

Bồ-tát đưa người ấy đến pháp đường. Một số đông quần chúng tụ họp lại. Bồ-tát xử vụ kiện của người ấy, và khiến người sở hữu chủ được lấy lại tài sản. Quần chúng đều hoan hô. Tiếng hoan hô làm thành tiếng ồn ào lớn. Vua nghe tiếng ồn ào liền hỏi:

– Tiếng ồn ào gì vậy?

– Thưa Ðại vương, một vụ kiện xử sai đã được bậc trí Dhammaaddhaja xử lại đúng pháp, vì vậy đó là tiếng ồn ào do quần chúng hoan hô.

Vua bằng lòng, bảo mời Bồ-tát đến và hỏi:

– Thưa Sư trưởng, trẫm nghe nói Sư trưởng mới xử kiện?

– Thưa Ðại vương, phải. Thần vừa xử xong một vụ kiện mà tướng quân Kàlaka đã xử sai.

Vua nói:

– Bắt đầu từ nay, Sư trưởng hãy xử các vụ kiện. Ðôi tai trẫm sẽ sung sướng, và thế giới sẽ tăng thịnh.

Bồ-tát không muốn xử kiện. Nhưng vua yêu cầu:

– Vì thương xót mọi loài hữu tình, Sư trưởng hãy ngồi xử kiện.

Vì vậy Bồ-tát nhận lời.

Từ đấy trở đi Bồ-tát ngồi xử kiện, và xử cho người sở hữu chủ chính đáng được thắng kiện. Còn Kàlaka không được tiền hối lộ, lợi dưỡng bị hao hụt nên bắt đầu gièm pha Bồ-tát trước mặt vua. Ông ta tâu với vua:

– Thưa Ðại vương, Dhammaddhaja muốn đoạt quốc độ của ngài.

Vua không tin và bảo ông ta đừng nói như vậy nữa. Kàlaka nói:

– Nếu Ðại vương không tin thần, khi nào Dhammaddhaja đi đến hầu, Ðại vương hãy nhìn qua cửa sổ, rồi Ðại vương sẽ thấy Dhammaddhaja đã làm cho toàn thành phố nằm trong tay của ông ta.

Vua thấy đám người được Bồ-tát xử kiện, tưởng rằng đấy là hội chúng của Bồ-tát. Vua sinh lòng nghi ngờ Bồ-tát và hỏi:

– Này tướng quân, nay chúng ta phải làm gì?

– Thưa thiên tử, hãy giết nó.

– Chúng ta không thấy nó phạm trọng tội nào, làm sao ta giết nó được?

– Ðã có một cách.

– Cách gì vậy?

– Hãy bảo nó làm một việc không thể làm được. Khi nó làm không được, ta lấy tội ấy, và ta sẽ giết nó.

– Nhưng việc gì không thể làm được?

– Thưa Ðại vương, một khu vườn có đất tốt, được trồng cây và chăm sóc phải cần từ hai đến bốn năm mới sanh trái được. Ðại vương hãy cho gọi nó đến và bảo: “Ngày mai, trẫm muốn đến chơi tại một khu vườn. Hãy làm cho trẫm một khu vườn”. Nó sẽ không thể làm được. Chúng ta nhân tội ấy sẽ giết nó.

Vua mời Bồ-tát đến nói:

– Thưa bậc Hiền trí, Trẫm đến chơi tại khu vườn cũ lâu ngày đã chán. Nay trẫm muốn đến chơi ở một khu vườn mới. Hãy xây dựng cho trẫm một khu vườn mới. Nếu khanh không làm được việc ấy, khanh sẽ mất mạng.

Bồ-tát biết: “Có lẽ vì Kàlaka không nhận được tiền hối lộ, nên nó làm cho vua chống đối ta”. Bồ-tát nói với vua:

– Thưa Ðại vương, thần biết thần sẽ lo việc ấy.

Rồi đi về nhà, sau bữa ăn, Bồ-tát nằm trên giường suy nghĩ.

Lúc ấy chiếc ngai của Ðế Thích (Thiên chủ Sakka) trở thành nóng. Ðế Thích hướng tâm suy nghĩ, biết rằng Bồ-tát đang gặp khó khăn, liền vội vàng hiện đến phòng ngủ của ngài, đứng trên không và hỏi:

– Thưa bậc Hiền trí, ngài đang suy nghĩ gì?

– Người là ai?

– Ta là Ðế Thích.

– Vua bảo ta làm một khu vườn, nên ta suy nghĩ về vấn đề ấy.

– Thưa bậc Hiền trí, chớ lo âu, tôi sẽ làm cho ngài một khu vườn như rừng Nandana, như rừng Cittalata ở thiên giới. Ta sẽ làm tại chỗ nào?

– Hãy làm tại chỗ ấy.

Ðế Thích làm khu vườn xong, đi về thành chư Thiên.

Ngày hôm sau, tận mắt thấy khu vườn, Bồ-tát đi bảo cho vua:

– Thưa Ðại vương, khu vườn đã làm xong cho ngài, xin hãy đi đến tiêu khiển.

Vua đi đến, thấy khu vườn có thành bao vây, rộng mười tám khuỷu tay, có sắc đỏ, có các cửa và vọng lầu, được tô điểm với nhiều loại cây nặng trĩu hoa và trái! Vì vậy vua nói với Kàlaka:

– Bậc hiền trí đã làm như lời ta nói. Nay chúng ta phải làm gì?

– Thưa Ðại vương, nếu nó có thể làm một ngôi vườn trong đêm, thời sao nó không thể cướp đoạt vương quốc?

– Nay chúng ta phải làm cái gì?

– Chúng ta có thể bảo nó làm một việc khác không thể làm đưọc.

– Việc gì vậy?

– Chúng ta bảo nó làm một cái hồ bằng bảy báu.

Vua nói:

– Tốt lắm,

Và vua cho gọi Bồ-tát đến và bảo:

– Thưa Sư trưởng, Sư trưởng đã làm xong khu vườn. Sư trưởng hãy làm một cái hồ bảy báu tương xứng với khu vườn này. Nếu không thể làm được, mạng sống của khanh không còn nữa.

Bồ-tát thưa:

– Tốt lắm, thưa Ðại vương, có thể thần sẽ làm được.

Rồi Ðế Thích làm một cái hồ tuyệt đẹp, có một trăm cái bến, có một ngàn khúc cong, trên che kín với sen năm sắc, giống như hồ trong vườn Nandana ở thiên giới.

Hôm sau, Bồ-tát tận mắt thấy cái hồ ấy liền báo cho vua biết:

– Thưa thiên tử, cái hồ đã làm xong cho ngài.

Vua thấy cái hồ, lại bảo Kàlaka:

– Nay chúng ta phải làm gì?

– Thưa Ðại vương, hãy bảo nó làm một cái nhà tương xứng với khu vườn.

Vua bảo Bồ-tát:

– Thưa Sư trưởng, nay hãy làm một ngôi nhà toàn bằng ngà tương xứng với khu vườn và cái hồ này! Nếu khanh không làm đưọc, mạng sống của khanh sẽ không còn.

Và Ðế Thích làm một ngôi nhà đúng như vậy.

Hôm sau, Bồ-tát tận mắt thấy ngôi nhà liền báo cho vua biết. Vua thấy ngôi nhà ấy hỏi Kàlaka:

– Nay chúng ta phải làm gì?

Thưa Ðại vương, hãy bảo nó làm một hòn ngọc tương xứng với ngôi nhà.

Vua bảo Bồ-tát:

– Này bậc hiền trí, hãy làm một hòn ngọc tương xứng với ngôi nhà bằng ngà này. Với ánh sáng hòn ngọc, trẫm sẽ đi dạo chơi trong nhà. Nếu khanh không làm đưọc, khanh sẽ không còn mạng sống nữa.

Rồi Ðế thích làm xong hòn ngọc. Hôm sau Bồ-tát tận mắt thấy hòn ngọc, liền trình vua. Vua hỏi Kàlaka nên làm gì, Kàlaka thưa:

– Thưa Ðại vương, thần nghĩ có một vị thần nào đó đã làm theo ý muốn của Bà-la-môn Dhammaddhaja, nay hãy bảo nó làm một cái gì mà ngay các vị thần cũng không làm được. Các vị thần không thể làm được một con người đầy đủ bốn đức tánh. Do vậy, Ðại vương hãy bảo nó làm một con người giữ vườn đầy đủ bốn đức tính.

Vua bảo Bồ-tát:

– Này Sư trưởng, Sư trưởng đã làm xong cho chúng ta một khu vườn, một cái hồ, một cung điện bằng ngà, một hòn ngọc chiếu tỏa ánh sáng. Nay khanh hãy làm một người giữ vườn đầy đủ bốn đức tánh để bảo vệ khu vườn của ta. Nếu khanh không thể làm được, khanh sẽ mất mạng.

Bồ-tát đáp:

– Thưa vâng, nếu có thể, sẽ lo làm việc ấy.

Rồi ngài đi về nhà. Sau buổi ăn ngon, ngài nằm nghỉ. Sáng sớm, ngài thức dậy ngồi trên mặt giường suy nghĩ: “Thiên chủ Ðế Thích đã làm những gì có thể làm được, nhưng Ðế Thích không có thể làm con người giữ vườn đầy đủ bốn đức tánh. Sự việc là như vậy, thà chết cô độc trong rừng tốt hơn là chết trong tay người khác”.

Vì vậy, không nói với một ai, Bồ-tát từ lầu đi xuống, ra khỏi thành bằng cổng chính, vào rừng và ngồi dưới một gốc cây suy tư về thiện pháp. Ðế Thích biết sự việc ấy, hóa làm một người thợ rừng, đến gặp Bồ-tát và thưa:

– Thưa ngài Bà-la-môn, ngài được nuôi dưỡng tế nhị, sao lại đi vào rừng này ngồi làm gì?

Ðể hỏi ý nghĩa này, Ðế thích đọc bài kệ đầu:

Ngài sống vẻ an lạc,
Sao bỏ nước vào rừng?
Như một người khốn khổ
Một mình dưới gốc cây,
Ngồi thẫn thờ sầu muộn?

Nghe vậy, Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Ta sống vẻ an lạc
Nhưng bỏ nước vào rừng,
Như một người khốn khổ
Cô độc ngồi gốc cây
Suy tư về Thánh pháp.

Rồi Ðế Thích thưa:

– Thưa ngài Bà-la-môn, sự việc là như vậy, sao ngài ngồi tại chỗ này?

– Vua bảo làm một người giữ vườn đầy đủ bốn đức tánh và vì không có thể làm được một người như vậy, nên ta suy nghĩ: Sao ta lại chết trong tay người khác? Ta sẽ vào rừng, và chết cô độc ở đó. Vì vậy nên ta đến đây.

– Thưa ngài Bà-la-môn, tôi là thiên chủ Ðế Thích, tôi đã làm ngôi vườn v.v… cho ngài. Tôi không thể làm một người đầy đủ bốn đức tánh, nhưng trong nước của vua có một thợ hớt tóc tên là Chattapàni đầy đủ bốn đức tánh. Nếu phải có một người giữ vườn, hãy giới thiệu người hớt tóc này là người giữ vườn.

Ðế Thích khuyên nhủ Bồ-tát, an ủi Bồ-tát chớ sợ gì nữa, rồi đi về thành phố chư Thiên.

Bồ-tát về nhà, ăn sáng xong đi đến cửa cung, thấy Chattapàni tại đấy. Ngài cầm tay anh ta và hỏi:

– Thưa bạn Chattapaàni, nghe nói bạn có đủ bốn đức tánh phải không?

Chattapàni nói:

– Ai bảo ngài tôi có đầy đủ bốn đức tánh?

– Chính thiên chủ Ðế Thích!

– Vì nguyên nhân gì Ðế Thích nói vậy?

Bồ-tát kể lại tất cả câu chuyện và nói lý do ấy.

Anh ta đáp:

– Thưa vâng, tôi có bốn đức tánh.

Bồ-tát liền cầm tay Chattapàni đi đến yến kiến vua và thưa:

– Thưa Ðại vương, Chattapàni nầy có đủ bốn đức tánh. Nếu cần một người giữ vườn, Ðại vương hãy bảo người này giữ vườn.

Vua hỏi Chattapàni:

– Có thật là khanh đầy đủ bốn đức tánh?

– Thưa vâng, tâu Ðại vương.

– Khanh có bốn đức tánh nào?

Vị ấy đọc bài kệ này:

Tôi không có ganh tị,
Tôi cũng không uống rượu,
Tôi không có ái nhiễm,
An trú không phẫn nộ,
Thiên tử, tôi là vậy.

Vua hỏi:

– Này Chattapàni, có phải khanh nói: Tôi không có ganh tỵ?

– Ðúng vậy, thưa Thiên tử.

– Thấy những duyên cớ gì, khanh không có ganh tỵ?

– Thưa Ðại vương, hãy nghe đây.

Chattapàni đọc bài kệ này, nói lên tính không ganh tỵ của mình:

Xưa vì một nữ nhân,
Là vua, tôi ra lệnh
Bắt trói vị tế sư,
Nhưng vị ấy dạy tôi
An trú vào Thánh pháp,
Do vậy tôi không ganh.

Rồi vua hỏi Chattapàni:

– Này Chattapàni, do thấy tác hại gì, khanh là người không uống rượu?

Chattapàni đọc bài kệ này:

Kính thưa bậc Ðại vương,
Xưa tôi uống rượu say,
Tôi đã ăn cả thịt
Chính đứa con trai tôi,
Tôi khổ đau sầu muộn,
Thề từ bỏ uống rượu.

Rồi vua lại hỏi:

– Này bạn, do thấy duyên cớ gì bạn không còn ái nhiễm?

Chattapàni nói lên duyên cớ ấy với một bài kệ này:

Xưa tôi chính Ðại vương
Tên Kì-ta-và-sa,
Con tôi đã làm vỡ
Bình bát Ðộc Giác Phật,
Và nó phải mệnh chung.
Do vậy, không ái nhiễm.

Vua tiếp tục hỏi Chattapàni:

– Do duyên cớ gì, bạn trở thành người không phẫn nộ?

Chattapàni nói lên duyên cớ ấy với một bài kệ này:

Tôi là A-ra-ka,
Bảy năm tu từ tâm,
Bảy kiếp sống Phạm thiên,
Do vậy, không phẫn nộ.

Khi Chattapàni đã nói lên bốn đức tánh của mình, vua khen ngợi Bồ-tát trước hội chúng. Ngay lúc ấy, các vị đại thần, Bà-la-môn, gia chủ v.v… đều đứng dậy, và la lớn:

– Ôi, đồ ăn hối lộ! Ôi kẻ ăn trộm ác độc! Ngươi không được của hối lộ, nên nói xấu bậc hiền trí và muốn giết vị ấy.

Họ bắt giữ Kàlaka, kéo ông ta ra khỏi cung vua, rồi chụp lấy bất cứ vật gì, kẻ lấy đá, người lấy côn, họ đánh ông ta vỡ đầu và chết ngay. Xong họ nắm chân ông ta lôi đi và quăng xác trên đống phân.

Từ đó về sau, vua trị nước thật đúng pháp, rồi đi theo nghiệp của mình lúc mệnh chung.

*

Sau khi kể Pháp thoại này, bậc Đạo sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, tướng Kàlaka là Ðề-bà-đạt-đa, người thợ hớt tóc Chattapàni là Xá-lợi-phất, còn Dhammaddaja là Ta vậy.

PHẨM KHÀSÀVA

  1. CHUYỆN TẤM Y VÀNG (Tiền thân Kàsàva)

Ai đầy những uế nhiễm…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa.

Một thời, vị Tướng quân Chánh pháp Xá-lợi-phất sống với năm trăm Tỷ-kheo ở Trúc Lâm. Ðề-bà-đạt-đa sống với hội chúng Tỷ-kheo theo ác giới ở tại Gàyasisa.

Lúc bấy giờ dân chúng ở Vương Xá thường chung nhau lại để bố thí. Một thương gia đến đây để buôn bán, đem theo một tấm y vàng đượm mùi thơm có giá trị lớn và nói:

– Xin hãy cho tôi dự phần vào sự cúng dường, tôi xin cúng dường tấm y này.

Dân ở thành Vương Xá tổ chức một cuộc bố thí lớn. Tất cả những phẩm vật tùy nguyện đóng góp đều được phân phát hết, chỉ còn lại tấm y. Quần chúng hội họp lại và bàn tính:

– Chỉ còn tấm y đẹp và thơm tho nầy, chúng ta sẽ cúng dường cho ai? Cúng cho Trưởng lão Xá-lợi-phất hay Trưởng lão Ðề-bà-đạt-đa?

Một số người nói:

– Trưởng lão Xá-lợi-phất chỉ sống ở đây một vài ngày rồi đi tùy theo sở thích. Còn Trưởng lão Ðề-bà-đạt-đa luôn luôn sống gần thành phố của chúng ta trong lúc may mắn cũng như lúc rủi ro. Chúng ta hãy cúng dường Ðề-bà-đạt-đa.

Khi so sánh xem nên cúng cho ai giữa hai Trưởng lão, thì những người muốn cúng cho Ðề-bà-đạt-đa chiếm đa số. Vì vậy, họ cúng dường tấm y ấy cho Ðề-bà-đạt-đa. Vị ấy cắt may và nhuộm tấm y vàng. Sau khi hoàn thành, Ðề-bà-đạt-đa đắp tấm y ấy.

Lúc bấy giờ có ba mươi Tỷ-kheo đi từ Vương Xá về đảnh lễ bậc Ðạo Sư. Sau khi nói những lời chào đón hỏi thăm, các Tỷ-kheo báo tin ấy cho bậc Ðạo Sư:

– Bạch Thế Tôn, Ðề-bà-đạt-đa tự mình không xứng đáng, lại đắp biểu tượng của A-la-hán.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa không xứng đáng đắp biểu tượng của bậc A-la-hán.

Thuở trước, Ðề-bà-đạt-đa cũng đã như vậy rồi.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra làm voi trong một đàn voi, ở khu vực Tuyết Sơn. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát là chúa đàn cùng với 80 con voi sống ở trong rừng.

Một người nghèo khổ sống ở Ba-la-nại thấy các thợ ngà tại một con đường đang làm các loại vòng tay v.v… bằng ngà liền hỏi:

– Nếu ta có ngà voi, các người có mua không?

Họ nói:

– Vâng, chúng tôi sẽ mua.

Rồi anh ta cầm binh khí, mặc một tấm vải vàng, giả dạng một vị Phật Ðộc Giác, buộc một búi tóc giả, đứng nấp tại con đường voi đi, dùng binh khí giết voi, lấy ngà bán tại Ba-la-nại và sinh sống với cách ấy.

Ngày này qua ngày khác, khi đàn voi đi qua, anh ta chỉ rình giết con voi đi cuối cùng đàn voi do Bồ-tát làm chủ. Với thời gian, số voi dần dần giảm thiểu, và chúng hỏi Bồ-tát vì nguyên nhân gì, số voi giảm thiểu. Bồ-tát tìm hiểu và suy nghĩ: “Có thể một người nào đó đội lốt Ðộc Giác Phật, đứng ở cuối đường các con voi đi qua, có thể nó đã giết các con voi. Ta sẽ tìm cho ra manh mối”.

Một hôm, Bồ-tát cho các con voi đi đầu và mình đi sau cùng. Người ấy thấy Bồ-tát, liền cầm binh khí xông ra. Bồ-tát quay lại, đứng dương vòi ra và nghĩ: “Ta sẽ quật nó ngã xuống đất và giết nó!”

Nhưng khi thấy tấm áo vàng người ấy mặc, Bồ-tát nghĩ: “Ta phải kính trọng biểu tượng của bậc A-la-hán mà nó lạm dụng để mặc”.

Bồ-tát cuốn vòi lại và nói:

– Này ngươi, sao ngươi lại mặc biểu tượng của bậc A-la-hán khi ngươi không xứng đáng mặc?

Rồi Bồ-tát đọc những bài kệ này:

Ai đầy những uế nhiễm,
Lại mặc áo cà-sa,
Tự mình không chế ngự,
Không tôn trọng sự thật,
Kẻ ấy không xứng đáng
Ðược mặc áo cà-sa.
Ai gột sạch uế nhiễm,
Vững vàng trong giới luật,
Tự mình có chế ngự,
Biết tôn trọng sự thật,
Vị ấy thật xứng đáng
Ðược mặc áo cà-sa.

Như vậy Bồ-tát nói lên những lời giáo hóa này với người ấy, rồi hăm dọa như sau:

– Bắt đầu từ nay chớ đến đây nữa. Nếu ngươi đến, ngươi sẽ mất mạng.

Và Bồ-tát đuổi anh ta đi.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể Pháp thoại này xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, người giết voi là Ðề-bà-đạt-đa, còn chúa voi là ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON KHỈ CÙLLANANDIYA (Tiền thân Cùllanandiya)

Ðây là lời sư trưởng…,

Câu chuyện này, khi ở Trúc Lâm, bậc Ðại Sư đã kể về Ðề-bà-đạt-đa.

Một hôm, các Tỷ-kheo ngồi lại Chánh pháp đường, bắt đầu nói chuyện:

– Thưa các Hiền giả, Ðề-bà-đạt-đa khắc nghiệt, độc ác, tàn nhẫn, thúc đẩy tên tướng cướp hại bậc Chánh Ðẳng Giác. Rồi vị ấy xô hòn đá, thúc đẩy con voi Naàlagiri, không có kham nhẫn, từ bi, lân mẫn đối với đức Như Lai.

Bậc Ðạo Sư đến tại Chánh pháp đường và hỏi;

– Này các Tỷ-kheo, các ông hội họp ở đây đang bàn vấn đề gì?

Khi được nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không chỉ nay, mà trước kia cũng vậy, Ðề-bà-đạt-đa đã khắc nghiệt, độc ác, không có từ bi.

Nói xong bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi Brahamadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con khỉ tên là Nandiya (Hoan hỷ), trú ở khu Tuyết Sơn. Con khỉ em của Bồ-tát tên là Cùllanandiya (Tiểu Hoan hỷ), cả hai được tám trăm ngàn con khỉ vây quanh và sống săn sóc mẹ mù.

Chúng đặt mẹ nằm trong bụi cây, và đi vào rừng hái những trái cây ngọt v.v.. gửi về cho mẹ, nhưng những con khỉ đem về không đưa trái cây cho bà nên bà bị đói hành hạ, chỉ còn da bọc xương.

Khi về, Bồ-tát nói với mẹ:

– Thưa mẹ, chúng con có gửi cho mẹ các loại trái cây ngon ngọt, sao mẹ ốm yếu thế này?

Bà mẹ trả lời:

– Này con thân yêu, mẹ không nhận được gì cả.

Bồ-tát suy nghĩ: “Nếu ta săn sóc đàn khỉ, mẹ ta sẽ chết mất. Ta sẽ rời đàn khỉ để săn sóc cho mẹ ta”.

Bồ-tát gọi Cùllanandiya và nói:

– Này em thân, hãy săn sóc đàn khỉ. Còn ta, ta sẽ săn sóc mẹ!

Cùllanandiya nói:

– Thưa anh, em không thể lo lắng cho đàn khỉ. Em chỉ muốn săn sóc mẹ.

Như vậy, cả hai đều đồng một ý muốn, đi xuống Tuyết Sơn, lựa một gốc cây bàng tại biên địa làm chỗ trú ẩn, và nuôi dưỡng khỉ mẹ.

Bấy giờ một thanh niên Bà-la-môn sống ở Ba-la-nại, sau khi học tất cả các nghề với một sư trưởng có danh tiếng nhiều phương ở Takkasilà, anh ta đến xin phép sư trưởng để ra đi.

Vị sư trưởng có tài đoán tướng, biết người đệ tử này độc ác, tàn nhẫn, khắc nghiệt liền nói:

– Này con thân, người độc ác, tàn nhẫn sẽ gặp tai nạn đau khổ lớn. Con chớ nên khắc nghiệt, chớ làm gì ác độc để sau phải hối hận.

Vị sư trưởng khuyên dạy như vậy rồi để đệ tử ra đi. Thanh niên ấy đảnh lễ vị sư trưởng rồi trở về Ba-la-nại và lập gia đình. Anh ta không thể sống với các nghề khác nên quyết định sống nhờ mũi nhọn cung tên. Anh ta trở thành một người thợ săn, và rời khỏi thành Ba-la-nại để kiếm sống tại một làng ở biên địa. Hàng ngày nai nịt với cung tên, anh ta đi vào rừng, giết các loài thú, và đem về bán thịt và sống qua ngày.

Một hôm anh ta không săn được gì trong rừng khi về, anh ta thấy một cây bàng đứng ở cuối một khoảng rừng trống. Anh ta đi đến hướng cây bàng ấy với hy vọng tìm được vật gì ở đấy. Lúc bấy giờ, hai anh em nhà khỉ đang cho bà mẹ các loại trái ngọt, và đặt bà ngồi trên thân cây. Khi thấy người thợ săn đi đến, hai anh em liền núp giữa các cành cây, xem anh ta sẽ làm gì. Con người tàn nhẫn ấy, khi đến gốc cây thấy khỉ mẹ của chúng mù loà, già yếu liền nghĩ: “Sao ta lại về tay không? Bắn con khỉ này xong ta sẽ đi”. Rồi anh ta liền cầm cung lên để bắn. Thấy vậy, Bồ-tát nói:

– Này em Cùllanandiya thân, người này muốn giết mẹ chúng ta. Anh sẽ thay thế mạng sống cho mẹ. Sau khi anh chết, em sẽ săn sóc mẹ.

Nói xong, Bồ-tát từ giữa cành cây đi ra, và nói:

– Này người kia, chớ có bắn mẹ ta. Mẹ ta mù, già yếu, ta sẽ đổi mạng sống cho mẹ ta. Ông chớ giết mẹ ta, hãy giết ta.

Sau khi hứa với kẻ ấy, Bồ-tát liền ngồi xuống tại chỗ. Tên thợ săn ấy không có lòng từ nhắm bắn khỉ mẹ. Cùllanandiya thấy vậy, suy nghĩ: “Người độc ác này muốn bắn cả mẹ ta nữa. Nếu mẹ ta sống thêm một ngày, là một ngày mẹ ta tăng thêm tuổi thọ, vậy ta sẽ cứu sống mẹ ta”. Nó từ giữa cành cây đi ra và nói:

– Này người kia, chớ giết mẹ ta, ta sẽ chết để cứu mẹ được sống. Hãy bắn ta, bắt cả hai anh em chúng ta để mẹ chúng ta được sống.

Sau khi hứa với thợ săn, khỉ em ngồi xuống trong tầm mũi tên. Kẻ săn bắn độc ác giết luôn khỉ em và suy nghĩ: “Ta còn mấy đứa con ở nhà nữa. Ta phải bắn luôn khỉ mẹ, để đem thịt về cho chúng”. Khi đã hạ sát ba mẹ con khỉ, anh ta mang cả ba xác khỉ trên một đòn gánh và về nhà. Trong lúc ấy sấm sét nổi lên đánh xuống nhà kẻ độc ác, thiêu cháy vợ, con và cả cái nhà. Cái nhà bị sét đánh thiêu rụi chỉ còn lại bộ sườn nhà và các cây cột tre cháy đen.

Tại cổng làng, một người thấy anh ta liền báo tin ấy cho anh ta biết. Quá sầu khổ vì vợ con, ngay tại chỗ anh ta quăng đòn gánh, thịt, cây cung, bỏ cả áo mặc trần truồng, hoa tay, khóc than đi vào nhà. Khi ấy, một cây cột bị gãy, rơi xuống và đánh vỡ đầu anh ta. Cùng lúc ấy, đất mở rộng, lửa từ địa ngục A-tỳ phun lên đốt tan xác anh ta. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, anh ta nhớ lời khuyên giáo của vị sư trưởng: “Ðây là lời dạy mà Bà-la-môn Pàràsariya đã cho ta”. Rồi anh ta than khóc và đọc hai bài kệ này:

Ðây là lời sư trưởng,
Pà-rà-sa-ri-ya:
Chớ nên làm điều ác
Khiến ngươi phải hối tiếc.
Việc gì con người làm,
Sẽ thấy nó trên thân;
Làm việc ác, gặp ác.
Như gieo hột giống nào,
Ðem lại quả giống ấy.

Anh ta vừa đọc kệ xong, đất liền vùi lấp anh ta và ngay lúc ấy anh ta đọa vào địa ngục A-tỳ (Vô gián).

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới cay nghiệt, độc ác. Thuở trước, kẻ ấy cũng đã cay nghiệt, độc ác, không có lòng bi như vậy rồi.

Sau khi kể Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, kẻ đi săn là Ðề-bà-đạt-đa, vị sư trưởng danh tiếng nhiều phương là Sàriputta, Cullanandiya là Ànanda, bà mẹ là Mahàpajàpati, còn khỉ chúa Mahànandiya là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN THỨC ĂN ÐI ÐƯỜNG (Tiền thân Puta-Bhatta)

Cung kính người cung kính…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một điền chủ.

Tương truyền một người điền chủ sống ở thành Xá-vệ có giao thiệp buôn bán với một người điền chủ ở thôn quê. Ông ta đem theo vợ, đi đến gặp người có mắc nợ. Người mắc nợ nói:

– Tôi không thể trả được.

Và anh ta không trả gì. Người điền chủ này tức giận đi về, và không ăn cơm.

Trên đường đi, vài người thấy anh ta có vẻ đói quá liền cho một nồi cơm và nói:

– Hãy ăn và cho vợ anh ăn với.

Anh ta lấy nồi cơm ấy, nhưng không muốn chia phần cho vợ ăn nên nói:

– Này em, chỗ này là chỗ trú ẩn của bọn ăn cướp.

Em hãy đi trước.

Anh ta bảo vợ đi trước, rồi ăn hết phần cơm và khi đưa vợ xem cái nồi trống, anh ta nói:

– Này em, người ta cho một cái nồi không có cơm.

Người vợ biết chồng đã ăn hết cơm một mình nên lòng rất buồn bã.

Khi đi đến gần tinh xá Kỳ Viên, cả hai người muốn vào đó và xin nước uống.

Bậc Ðạo Sư ngồi chờ đợi họ đến, dưới bóng mát của Hương phòng, như người thợ săn đang đứng chờ mồi. Thấy bậc Ðạo Sư, hai vợ chồng đi đến, đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư thân mật đón tiếp và hỏi:

– Này nữ cư sĩ, chồng con có thương con, và muốn con được hạnh phúc không?

– Bạch Thế Tôn, con thương chồng con, nhưng chuyện tệ bạc khác, ngay hôm nay, bạch Thế Tôn, giữa đường có một người cho anh ta một nồi cơm, nhưng anh ta không cho con gì cả, mà chỉ ăn một mình.

– Này nữ cư sĩ, con luôn luôn thương chồng con, và con muốn anh ta hạnh phúc. Nhưng chồng con lại không thương con. Tuy vậy, nếu các bậc hiền trí cho chồng con biết các đức tánh quý báu của con, thì anh ta sẽ hết sức thương yêu kính trọng con.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của người vợ, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahamaddatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một vị đại thần. Khi lớn lên, ngài trở thành cố vấn cho vua về các vấn đề thánh sự và tục sự. Lúc bấy giờ vua sợ con mình có âm mưu chống mình, nên đuổi con đi. Hoàng tử đem vợ con theo, đi ra khỏi thành và đến sống tại một ngôi làng nhỏ ở nước Kàsi.

Một thời gian sau, hoàng tử nghe vua cha từ trần, và suy nghĩ: “Nay ta sẽ nhận lấy vương quốc thuộc quyền, sở hữu của gia đình”. Hoàng tử trở về. Giữa đường, có một người cho hoàng tử một nồi cơm và nói:

– Hãy ăn và cho vợ cậu ăn với.

Hoàng tử nhận lấy nồi cơm nhưng không cho vợ, chỉ ăn hết một mình. Vợ chàng suy nghĩ: “Người này thật là cay nghiệt!”, và nàng cảm thấy lòng đầy sầu muộn.

Sau đó, hoàng tử về đến Ba-la-nại, nhận được vương quốc, phong vợ lên địa vị hoàng hậu và nghĩ: “Như vậy là đủ với vợ ta rồi”.

Vua đối với hoàng hậu không tỏ thêm một sự quan tâm, hay tôn trọng gì khác, cho đến độ hoàng hậu đến hầu, vua cũng không hỏi: Hiền thê sống ra sao?

Lúc ấy, Bồ-tát là cố vấn của vua suy nghĩ: “Hoàng hậu này giúp ích vua nhiều và thương yêu vua. Nhưng vua không nghĩ gì đến hoàng hậu. Ta sẽ làm cho vua tôn trọng kính nể hoàng hậu”. Vì vậy, Bồ-tát đi đến gần hoàng hậu chào hỏi cung kính, và đứng một bên.

Hoàng hậu hỏi:

– Này khanh, có việc gì?

Bồ-tát nói:

– Thưa hoàng hậu, làm sao chúng thần có thể hầu lệnh bà được? Lệnh bà phải cho các người già cả một miếng vải hay một vắt cơm chứ?

– Này khanh thân, chính ta cũng không hề có một vật gì, làm sao ta có thể cho các người được? Khi ta có của, ta đâu có hà tiện? Nhưng nay đức vua không cho ta gì cả. Ðừng nói cái gì khác, ngay khi đức vua đi về để nhận quốc độ, giữa đường được người cho một nồi cơm, đức vua cũng không cho ta một chút cơm, chỉ một mình ăn hết!

– Thưa hoàng hậu, lệnh bà có thể đi đến yết kiến vua, và nói lên như vậy không?

– Này khanh thân, ta có thể nói.

– Vậy hôm nay, khi thần đứng gần vua và khi thần hỏi, lệnh bà hãy trả lời như vậy. Thần sẽ làm cho vua biết được công hạnh của lệnh bà.

Nói vậy xong, Bồ-tát đi đến đứng một bên vua. Hoàng hậu cũng đến và đứng gần vua. Rồi Bồ-tát hỏi:

– Thưa hoàng hậu, lệnh bà thật là keo kiệt. Ðúng ra, lệnh bà nên bố thí cho những người cha già một miếng vải hay một vắt cơm chứ?

Bà liền đáp:

– Này khanh, ta không nhận được từ đức vua một cái gì cả, làm sao ta có thể cho các người được?

– Phải chăng lệnh bà không phải là hoàng hậu chánh cung?

– Này khanh, khi không được một chút tôn trọng, thì địa vị chánh cung hoàng hậu để làm gì? Nay đức vua có thể cho gì ta được nữa? Khi về nước, giữa đường đức vua được cho nồi cơm nhưng đức vua không cho ta một chút gì, chỉ ăn một mình!

Bồ-tát hỏi:

– Thưa Ðại vương, có phải như vậy chăng?

Vua xác nhận là có. Bồ-tát nghe vua xác nhận liền thưa:

– Thưa hoàng hậu, khi đức vua không yêu thương lệnh bà, sao lệnh bà còn ở đây? Ở đời, khổ thay là chung sống không có tình thương! Khi lệnh bà ở đây, hết lòng chung thủy với đức vua, nhưng đức vua không có tình thương, việc ấy chắc chắn sẽ đem lại khổ đau cho lệnh bà.

Bồ-tát khuyên dạy tiếp.

– Các loài chúng sanh san sẻ với những ai biết san sẻ. Ngay khi biết ai không có tánh san sẻ, ta cần phải bỏ đi chỗ khác vì còn có rất nhiều người sống ở đời này!

Nói vậy xong, Bồ-tát đọc các bài kệ này:

Cung kính người biết kính,
Chia với người biết chia,
Với ai làm bổn phận,
Hãy làm đủ bổn phận,
Với ai làm lợi mình,
Hãy làm lợi người ấy.

Với ai không san sẻ,
Chớ nên san sẻ lại!
Hãy xử sự khinh xuất
Với những ai khinh xuất,
Chớ giữ lòng thương yêu
Với ai hết thương yêu,
Phải có lòng chia sẻ,
Chung sống để an ủi.

Khi loài chim biết được
Cây không còn trái nữa,
Chúng bay đến cây khác,
Thế giới thật lớn thay!

Nghe nói vậy, vua Ba-la-nại liền dành cho hoàng hậu tất cả sự kính trọng và uy quyền. Từ đó trở đi, vua và hoàng hậu sống hòa hợp, hoan hỷ và thương yêu nhau hơn.

*

Sau khi thuyết Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư giảng các Sự thật. Cuối bài giảng, hai vợ chồng ấy đắc quả Dự lưu. Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Hai vợ chồng này là hai vợ chồng thuở trước, còn vị đại thần hiền trí là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON CÁ SẤU (Tiền thân Kumbhila)

Ai đủ bốn pháp này…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa. (Như Tiền thân số 57 Chương một).

Ai đủ bốn pháp này,
Hỡi vua các loài khỉ,
Chân thật và chánh nghĩa,
Kiên trì và xả thí,
Vị ấy vượt thắng lên
Các tà kiến bất chánh.

Ai không có đủ
Công đức thiện thù thắng,
Chân thật và chánh nghĩa,
Kiên trì và xả thí,
Vị ấy không vượt lên
Các tà kiến bất chánh.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN ÐỀ CAO TÍNH KHAM NHẪN (Tiền thân Khanti-Vannana)

Thưa Thiên tử, thần có…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðại Sư kể về vua Kosala.

Bấy giờ một vị đại thần giúp ích nhiều cho vua đã lợi dụng chức vụ và thông gian trong nội cung. Vua biết được kẻ phạm tội nhưng vì đại thần ấy giúp nhiều cho vua, nên vua chịu đựng tội lỗi kia và thưa chuyện với bậc Ðạo Sư. Ngài nói:

– Các vua thuở trước, thưa Ðại vương, cũng chịu đựng như vậy.

Rồi theo lời vua yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở trước, khi vua Brahmadata trị vì ở Ba-la-nại, có một đại thần thông gian trong nội cung. Vị đại thần ấy cũng có một người hầu cận thông gian trong nhà mình. Ðại thần ấy không thể chịu đựng tội phạm ấy, vì thế đã đem nó đến trước vua và hỏi:

– Thưa Thiên tử, thần có một người hầu cận làm tất cả mọi việc cho thần nhưng nó lại thông gian tại nhà thần. Nay phải làm gì với nó?

Và vị ấy đọc bài kệ đầu:

Thưa Thiên tử, thần có
Một người giỏi nhiều việc,
Người ấy đã phạm tội,
Ngài nghĩ phải làm gì?

Nghe vậy, vua đọc bài kệ thứ hai:

Và chính ta cũng có
Người như vậy đứng đây.
Người tốt thật khó tìm,
Nên ta cần kham nhẫn!

Vị đại thần biết lời vua nói ám chỉ mình, và từ đấy trở đi không dám thông gian trong nội cung nữa. Còn người hầu hạ ấy biết vấn đề đã được tâu với vua, nên từ đấy trở đi không dám hành động sai quấy nữa.

*

Sau khi nói Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Ta là vua Ba-la-nại.

Còn vị đại thần ấy biết vua đã thưa với bậc Ðạo Sư câu chuyện về mình, nên từ đấy trở đi, không dám hành động sai quấy nữa.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON CÚ (Tiền thân Kosiya)

Lành thay, nếu xuất hành…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về vua Kosala.

Vua ấy đi dẹp loạn ở biên địa, nhưng xuất hành không đúng thời. Câu chuyện đã được kể ở số 176, Chương hai.

Cũng như trước, bậc Đạo Sư kể câu chuyện quá khứ theo lời yêu cầu của vua.

*

Thuở xưa, vua Ba-la-nại xuất hành phi thời cắm trại ở một khu ngự viên. Lúc bấy giờ, một con chim cú bay vào một khóm tre và nấp tại đấy. Một đàn quạ cũng đến, vây quanh nó với ý định: “Khi nào nó ra, chúng ta sẽ bắt nó”.

Không chờ đợi mặt trời lặn, chim cú đi ra không đúng thời và bắt đầu chạy trốn. Các con quạ vây quanh, lấy mỏ đánh nó, làm nó rơi xuống đất. Nhà vua gọi Bồ-tát và hỏi:

– Này bậc Hiền trí, vì sao những con quạ lại tấn công và đánh ngã con cú?

– Thưa Ðại vương, hễ ai đi ra khỏi trú xứ của mình không đúng thời, đều phải gặp khổ nạn như vậy. Do vậy, chớ nên đi ra khỏi trú xứ của mình phi thời.

Và để nêu lên ý nghĩa này, Bồ-tát đọc hai bài kệ:

Lành thay nếu xuất hành
Ðúng thời, không phi thời,
Khi xuất hành phi thời,
Nhiều người hay chỉ một
Thế nào cũng gặp nạn,
Vì không rõ nghĩa này,
Như con cú khốn khổ
Phải chết vì quạ bầy.
Bậc trí biết quy luật,
Biết nhược điểm người khác,
Chinh phục mọi kẻ thù,
Như cú, nếu khôn ngoan
Sẽ được nhiều an lạc.

Vua nghe lời Bồ-tát, liền quay về nhà, không đem quân đi đánh nữa.

*

Khi bậc Ðạo Sư thuyết pháp thoại này xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vua là Ànanda, và vị đại thần Hiền trí là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON BỌ ĂN PHÂN (Tiền thân Gùthapàna)

Anh hùng địch anh hùng…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo.

Lúc bấy giờ cách xa Kỳ Viên khoảng hơn nửa dặm, tại một thị trấn, có nhiều đồ ăn được phát theo thẻ và theo hạn kỳ. Ở đây có một kẻ thô lỗ hay hỏi khiêu khích. Những ai đến để lãnh món ăn được phát theo thẻ hay định kỳ đều bị nó hỏi:

– Những ai nhai, những ai uống, những ai ăn?

Nếu không trả lời được, họ sẽ bị nó làm cho xấu hổ. Vì sợ kẻ ấy, nhiều người không đi đến làng ấy để lấy phần ăn nữa:

Một hôm, một Tỷ-kheo đi đến chỗ phát thẻ và nói:

– Thưa các Tôn giả, tại làng kia có đồ ăn phát theo thẻ và định kỳ phải không?

Có người trả lời:

– Thưa Hiền giả, có. Nhưng tại đấy có một kẻ cật vấn thô lỗ hỏi các câu và nếu ai không trả lời được sẽ bị nó mắng nhiếc chửi rủa. Vì sợ nó, nên không ai đi.

Tỷ-kheo ấy nói:

– Thưa các Tôn giả, hãy cho tôi đi lấy đồ ăn tại đấy, tôi sẽ nhiếp phục kẻ ấy, làm cho kẻ ấy khiêm tốn, khiến từ đây trở đi, khi thấy các Tôn giả, kẻ ấy sẽ xấu hổ và bỏ trốn.

Các Tỷ-kheo chấp thuận cho vị ấy đi lấy đồ ăn tại chỗ kia. Tỷ-kheo ấy đắp y đi đến cửa hàng. Thấy Tỷ-kheo ấy, tên cật vấn thô lỗ liền đi mau đến như con cừu điên, và nói:

– Này Sa môn, hãy trả lời ta.

– Này cư sĩ, sau khi đi vào làng lấy cháo và trở lại phòng đợi này, tôi sẽ trả lời.

Khi Tỷ-kheo ấy lấy cháo và trở lại phòng đợi, kẻ ấy cũng hỏi như trước. Tỷ-kheo ấy nói:

– Hãy để ta ăn cháo xong ta quét phòng và đi lấy phần cơm phát theo thẻ của ta!

Sau đó Tỷ-kheo ấy đi lấy phần cơm về rồi đưa bình bát cho người ấy cầm và nói:

– Hãy đi theo ta, ta sẽ trả lời câu hỏi của anh. Tỷ-kheo ấy dắt nó ra ngoài làng, xếp y lại, đặt y trên vai, lấy bình bát từ tay nó và đứng chờ đợi. Nó nói:

– Này Sa-môn, hãy trả lời câu hỏi của ta.

– Này cư sĩ, ta trả lời cho anh đây.

Tỷ-kheo ấy nói xong, với một cú đấm, đánh ngã tên ấy, đánh nó nhừ xương rồi quăng phân vào mặt nó, và dọa nó:

– Từ nay trở đi, nếu có Tỷ-kheo nào đến làng này, và anh còn hỏi câu nào thì anh biết ta.

Tỷ-kheo ấy nói vậy rồi bỏ đi.

Từ đấy chỉ vừa thấy bóng các Tỷ-kheo, nó liền chạy trốn.

Sau một thời gian, việc này được chúng Tăng biết rõ. Một hôm, tại Chánh pháp đường, họ bắt đầu nói chuyện ấy:

– Này các Hiền giả, nghe nói Tỷ-kheo đánh tên này, quăng phân vào mặt kẻ thô lỗ rồi bỏ đi.

Bậc Ðạo Sư đi đến và hỏi:

– Này, các Tỷ-kheo, các ông họp tại đây đang bàn vấn đề gì?

Và khi nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Tỷ-kheo này tấn công kẻ ấy với đồ dơ. Thuở trước, vị này cũng đã như vậy rồi.

Nói xong, bậc Ðạo Sư kể lại câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, dân chúng hai nước Anga và Magadha thường hay đi qua lại thân thiết với nhau. Một ngày nọ, họ đến ở tại một ngôi nhà giáp ranh giữa hai nước để uống rượu, ăn thịt, cá suốt đêm. Vào buổi sáng, khi tỉnh rượu, họ thắng bò vào xe rồi ra đi.

Khi họ đi rồi, một con bọ ăn phân, vì mùi phân bay đến, thấy rượu còn đọng lên đống phân, bèn uống cho đã khát. Rồi say rượu, nó leo lên đống phân nằm. Trong khi nó leo lên, một viên phân nhỏ rơi xuống, nó la to:

– Trái đất không có thể đỡ ta nổi!

Ngay lúc ấy có một con voi điên đi đến, ngửi thấy mùi phân, ghê tởm bỏ đi lui. Con bọ ăn phân thấy vậy tưởng rằng con voi sợ mình, liền nghĩ: “Nay ta phải đánh con vật lớn xác này một trận mới được”, nó liền gọi con voi ấy qua bài kệ đầu:

Anh hùng địch anh hùng,
Dũng mãnh, ta đánh nhau,
Hãy quay lại, voi kia,
Sao sợ, và bỏ chạy?
Hãy cho dân hai nước
An-ga, Ma-ga-dha,
Thấy được sức hùng mạnh
Của bác và của ta.

Con voi lắng tai nghe tiếng con bọ nói, rồi trở lại gần nó, và mắng trách nó với bài kệ thứ hai:

Ta không cần giết bọ
Bằng chân, ngà hay vòi,
Ta giết bọ bằng phân,
Hỡi vật đầy hôi thối,
Hãy chết với đồ dơ!

Rồi con voi trút xuống một bãi phân lớn ngay trên đầu con bọ và đái trên đó. Con bọ bị giết ngay tại chỗ ấy. Rồi con voi rống lên như tiếng kèn và chạy vào rừng.

*

Khi bậc Ðạo Sư thuyết Pháp thoại này xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con bọ ăn phân là kẻ thô lỗ này. Con voi là Tỷ-kheo và vị thần cây trong rừng tận mắt chứng kiến việc ấy là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN BÀ-LA-MÔN KÀMANÌTA (Tiền thân Kàmanìta)

Ta tham muốn ba thành…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Bà-la-môn có tên Kàmanìta (Dục tham chi phối). Hoàn cảnh chuyện này sẽ được nêu rõ trong Tiền thân Kàma số 467, Chương mười hai.

*

Thuở xưa, vua Ba-la-nại có hai hoàng tử. Trong hai hoàng tử ấy, người anh cả đi đến Ba-la-nại và làm vua còn người em làm phó vương. Người anh làm vua ham mê của cải, dục lạc, và tham lam thắng lợi.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát làm Thiên chủ Ðế Thích nhìn xuống cõi Diêm-phù-đề, biết vua đắm say các loại dục lạc này, liền nghĩ: “Ta sẽ khiển trách vua, và làm cho vua xấu hổ”.

Bồ-tát hiện thân làm một thanh niên Bà-la-môn, và đi đến đứng nhìn vua. Vua hỏi:

– Này thanh niên Bà-la-môn, ngươi đến với mục đích gì?

Thiên chủ Ðế Thích trả lời:

– Thưa Ðại vương, thần thấy ba thành phố an ổn, phú cường, nhiều voi, ngựa, cỗ xe, bộ binh, đầy những thứ trang sức bằng vàng ròng. Ba thành ấy có thể được chiếm lấy chỉ với một đội quân rất nhỏ. Thần sẽ đến lấy những thành ấy và dâng Ðại vương:

Vua hỏi:

– Này thanh niên, khi nào chúng ta khởi binh?

– Ngày mai, thưa Ðại vương!

– Vậy ngươi hãy đi và mai đến.

– Thưa vâng, Ðại vương. Hãy mau chóng chuẩn bị quân đội.

Thiên chủ Ðế Thích nói vậy rồi đi về trú xứ của mình.

Ngày hôm sau, vua truyền đánh trống chuẩn bị quân đội, rồi gọi các đại thần và nói:

– Hôm qua, có một thanh niên Bà-la-môn đến và nói: Thần sẽ chiếm đất của ba thành Uttarapancàla, Indapatta và Kekaka dâng ngài. Nay ta sẽ đem nó đi để chiếm lấy ba thành ấy. Hãy gọi nó đến mau!

– Thưa Thiên tử, Thiên tử đã cho nó ở nơi nào?

– Ta không cho nó ở nơi nào hết.

– Nhưng Thiên tử đã cho nó tiền để trả nhà trọ không?

– Ta cũng không cho.

– Vậy sao chúng thần kiếm nó được?

– Hãy tìm nó tại những con đường trong thành.

Họ đi tìm nhưng không thấy vị ấy, liền trở về trình vua:

– Thưa Ðại vương, chúng thần tìm không thấy nó.

Vua suy nghĩ: “Một vinh quang lớn như vậy đã bị tiêu tan”. Nỗi sầu muộn khủng khiếp khởi lên, tâm vua trở thành nóng bức, máu bị dao động, và bệnh kiết lỵ phát ra tấn công vua, các thầy không thể chữa trị được.

Sau ba bốn ngày, Ðế Thích nghĩ đến vua, biết vua bị bệnh, ngài tự bảo: “Ta sẽ chữa trị cho vua”.

Ðế Thích giả dạng một Bà-la-môn đi đến đứng trước cửa cung và báo tin: Một thầy thuốc Bà-la-môn xin đến chữa bệnh Ðại vương.

Khi nghe vậy vua nói:

– Các đại danh sư của triều đình cũng không thể chữa lành trẫm được. Thôi hãy cho nó một số tiền lộ phí rồi bảo nó đi.

Ðế thích nghe vậy, liền đáp:

– Ta không cần tiền trả nhà trọ, ta không lấy tiền chữa trị, ta sẽ chữa bệnh cho vua mau lành. Hãy để ta gặp vua.

Khi nghe vua nói:

– Vậy hãy để nó đến.

Ðế Thích đi vào, chúc vua thắng trận và đứng một bên. Vua hỏi:

– Ngươi muốn chữa bệnh cho trẫm đó ư?

– Thưa Thiên Tử, vâng.

– Vậy hãy chữa đi!

– Thưa Thiên tử, vâng. Hãy cho thần biết triệu chứng bệnh trạng. Do nhân duyên nào bệnh khởi lên. Do Ðại Vương ăn gì, uống gì hay do Ðại Vương thấy gì, nghe gì?

– Này khanh, bệnh của trẫm phát ra do nghe một chuyện.

– Thiên tử nghe chuyện gì?

– Này khanh, một thanh niên Bà-la-môn đến và nói: Thần sẽ lấy ba thành dâng Ðại vương. Nhưng trẫm không cho nó trú xứ ở, cũng không cho tiền để trả nhà trọ, chắc nó giận trẫm, và đã đi đến một ông vua khác rồi! Trẫm nghĩ rằng một sự vinh quang lớn như vậy đã bị tiêu tan, nên chứng bệnh phát ra. Nếu có thể, khanh hãy chữa trị chứng bệnh do tâm trẫm tham muốn.

Ðể rõ ý nghĩa này, vua đọc bài kệ đầu:

Ta tham muốn ba thành,
Mỗi thành xây trên núi,
Thành tên Pan-ca-la,
Cu-ru, Ke-ca-ca,
Hỡi chàng Bà-la-môn,
Ta còn muốn hơn nữa,
Hãy chữa ta căn bệnh,
Nô lệ của dục tham.

Ðế Thích nói:

– Thưa Ðại vương, bệnh của ngài không thể chữa bằng thuốc rễ cây v.v… bệnh của ngài chữa bằng thuốc tri kiến.

Rồi Ðế Thích đọc bài kệ thứ hai:

Có người chữa trị được,
Vết cắn của rắn đen,
Bậc hiền trí chữa trị,
Người bị ma quỷ ám,
Không ai chữa trị được
Người nộ lệ dục tham.
Làm sao chữa trị được,
Kẻ thối thất tinh cần?

Như vậy, bậc Ðại Sĩ nêu rõ ý nghĩa này rồi nói thêm như sau:

– Thưa Ðại vương, nếu ngài có lấy được ba thành ấy, và cai trị đất nước của bốn thành này, Ðại vương có thể mang bốn bộ áo một lần chăng? Có thể ăn trong bốn đĩa bằng vàng chăng? Và nằm ngủ trên bốn long sàng lộng lẫy chăng? Thưa Ðại Vương, không nên để dục tham chi phối. Dục tham là cội gốc của tội ác. Ai để dục tham tăng trưởng sẽ bị đọa vào tám địa ngục lớn, mười sáu địa ngục nhỏ cùng với nhiều loại khổ đau khác.

Như vậy, bậc Ðại Sĩ dọa vua ấy với những cảnh địa ngục rồi thuyết pháp cho vua nghe. Vua nghe pháp, hết sầu muộn, và trong chốc lát được khỏi bệnh.

Ðế Thích khuyến giáo vua xong, an trú vua vào giới luật, và đi về thiên giới. Còn vua, từ đấy về sau làm các công đức bố thí v.v… và khi mệnh chung, đi theo nghiệp của mình.

*

Khi thuyết Pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Lúc bấy giờ, nhà vua bị tham dục chi phối là Tỷ-kheo này, còn Ðế Thích là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN DU SĨ PALÀYI (Tiền thân Palàyi)

Với các voi tối thắng…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về du sĩ ngoại đạo Palàyi. Vì mục đích biện luận, vị này đi khắp mọi nơi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) và không gặp ai có khả năng đối thoại, liền đi đến Xá-vệ và hỏi các người tại đây:

– Có ai đủ khả năng biện luận với ta không?

Họ nói:

– Có một người đủ khả năng biện luận với một ngàn người như ông. Vị ấy là bậc Nhất thiết trí, bậc tối thắng giữa những loài hai chân, Ðạo Sư Gotama, bậc Pháp Vương, bậc nhiếp phục mọi đối thủ ngoại đạo trong toàn cõi Diêm-phù-đề, không người ngoại đạo nào có khả năng biện luận với bậc Thế Tôn ấy. Như các ngọn sóng tràn vào bờ biển, tất cả biện luận ngoại đạo chạm đến gót chân Ngài đều bị tan tác vỡ vụn.

Họ nói lên các công đức của các đức Phật như vậy.

Du sĩ ngoại đạo ấy hỏi:

– Vị ấy nay ở đâu?

– Ở Kỳ viên.

– Nay ta sẽ có cuộc đối thoại với vị ấy.

Rồi được vây quanh với một đám đông người, du sĩ ấy đi vào Kỳ viên, thấy cửa thành ngoài do vương tử Jeta (Kỳ-đà) đã dùng chín mươi triệu đồng vàng để xây dựng liền hỏi:

– Ðây có phải lâu đài trú xứ của Sa-môn Gotama không?

Khi được trả lời đây chỉ là cửa thành ngoài, du sĩ ấy nói:

– Cửa thành còn như vậy, thì trú xứ của vị ấy để như thế nào nữa?

Khi nghe nói các Hương phòng thật là vô lượng, vị ấy liền nghĩ: “Với một Sa-môn như vậy, ai có thể biện luận được”. Nói vậy xong, vị ấy liền bỏ trốn. Quần chúng la ó và ùa vào Kỳ Viên. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Các ngươi đến phi thời như vậy vì mục đích gì?

Họ trình Ngài chuyện ấy. Ngài nói:

– Này các cư sĩ, không phải chỉ nay, nhưng thuở trước cũng như vậy, chỉ thấy cửa thành ngoài trú xứ của Ta, vị ấy cũng bỏ chạy rồi.

Rồi theo yêu cầu của các cư sĩ, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, tại xứ Gandhàra, Bồ-tát làm vua ở Takkasilà, còn Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại. Brahmadatta quyết định lấy Takkasilà, và mang đến một đạo quân lớn, cắm trại không xa thành bao nhiêu.

Brahmadatta truyền lệnh bày binh bố trận xa như sau:

– Ðây là chỗ các con voi, đây là chỗ các con ngựa, đây là chỗ các con xe, đây là chỗ các bộ binh. Như vậy các ngươi hãy tấn công và đánh phá với mọi vũ khí. Như trời đổ mưa xuống, các ngươi hãy làm một trận mưa tên đổ xuống.

Rồi vua đọc hai bài kệ này:

Với các voi tối thắng,
Như mây bão trên trời!
Với các ngựa tối thắng,
Quây tròn như vòng hoa!
Với xe như đợt sóng,
Với tên như mưa rào,
Với quân kiếm cầm tay,
Bủa vây chém dữ dội,
Chúng bao vây trọn vẹn,
Thành Tak-ca-si-là,
Cho đế khi địch quân
Phải ngã nhào xuống đất!

Hãy xông tới đánh chúng,
Hãy nhào tới đạp chúng!
Hãy la lớn khởi binh,
Hãy hát khúc hành quân!
Trong khi các đàn voi,
Ðồng thét lên vâng dội.
Hãy cất cao giọng nói
Náo động giữa chiến trường,
Như sấm chớp lóe sáng,
Ầm ầm giữa không gian.

Như vậy, vua la hét cho quân chuyển động, và tiến đến gần cửa thành. Khi thấy cửa thành với lâu đài, tháp canh, Brahmadatta liền hỏi:

– Ðây có phải cung điện của vua chăng?

Họ trả lời:

– Ðây là cửa thành với lầu tháp.

Vua ấy liền nói:

– Tháp ở cửa thành như vậy thì cung điện của vua sẽ như thế nào?

Họ trả lời:

– Cung điện giống như lâu đài Vejayanta của Thiên chủ Ðế Thích!

Vua nghe vậy liền kết luận:

– Ta không bao giờ có thể chiến đấu với một vị vua vinh quang như vậy!

Và chỉ thấy lầu tháp ở cửa thành ngoài, vua liền quay trở lui, bỏ chạy về Ba-la-nại.

*

Sau khi thuyết pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vua Ba-la-nại là du sĩ ngoại đạo Pa-là-yi, còn vua Takkasilà là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN DU SĨ PALÀYI THỨ HAI (Tiền thân Palàyi)

Cờ xí ta vô lượng…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một du sĩ ngoại đạo. Trong câu chuyện này, du sĩ ngoại đạo ấy đi vào Kỳ Viên. Lúc bấy giờ, bậc Ðạo Sư được hội chúng đông đảo vây quanh, ngồi trên pháp tọa được trang hoàng rực rỡ trên tấm thảm đỏ, đang rống tiếng rống sư tử. Du sĩ ngoại đạo thấy thân hình bậc Ðạo sư như thân hình Phạm Thiên, thấy mặt Ngài sáng chói như trăng rằm, với cái trán như một dĩa bằng vàng, liền nghĩ: “Ai có thể chiến thắng một người như vậy”, liền quay trở lui, lẫn vào trong đám đông và bỏ chạy. Ðại chúng đuổi theo kẻ ấy rồi quay vào, báo cáo câu chuyện cho bậc Ðạo Sư rõ. Ngài nói:

– Không phải chỉ nay du sĩ ngoại đạo ấy làm như vậy. Thuở trước, thấy mặt ta sáng chói, kẻ ấy cũng bỏ chạy như vậy rồi.

Rồi Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, Bồ-tát làm vua trị vì Ba-la-nại. Còn tại Takkasilà, có một vị vua của xứ Gandhàra. Vua ấy nói:

– Ta sẽ đánh chiếm Ba-la-nại.

Rồi vua đi đến vây thành với bốn loại binh chủng. Ðứng trước cửa thành, nhìn quân đội của mình. Vua tự bảo:

– Ai có thể đánh thắng được một quân đội như vậy?

Rồi vua tán thán quân đội của mình với bài kệ:

Cờ xí ta vô lượng,
Không ai đối địch nổi,
Dầu quạ bay từng đàn,
Ðâu chận đứng được biển!
Chẳng khác gì ngọn núi
Không bị bão thổi bạt,
Nay ta cũng như vậy,
Không ai chinh phục ta.

Bồ tát nghe lời khoe khoang của vua xứ Gandhàra như vậy, liền xuất hiện trước cửa thành với gương mặt chói sáng như trăng rằm, và nói:

– Này kẻ ngu si kia, đừng nói lảm nhảm vô ích! Nay ta sẽ đạp nát quân đội của ngươi như con voi điên đạp nát cánh rừng cây lau.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Chớ nói lời ngu muội
Chẳng có ai bằng ngươi!
Ngươi lảm nhảm mất trí,
Sao chế ngự được ta?
Chẳng khác ngươi tấn công
Con voi dữ độc hành,
Với chân chà ngươi nát
Như chà nát cọng lau!

Khi vua xứ Gandhàra nghe lời Bồ-tát dọa chà nát, liền ngẩng đầu lên, thấy vầng trán của Bồ-tát như cái dĩa bằng vàng, ông hoảng hốt vì sợ bị bắt liền quay lùi, bỏ chạy về thành của mình.

*

Khi bậc Ðạo Sư thuyết pháp thoại này xong. Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, vua xừ Gandhàra là du sĩ ngoại đạo Palàyi, còn vua Ba-la-nại là Ta vậy.

PHẨM UPÀHANA

  1. CHUYỆN CHIẾC GIÀY (Tiền thân Upàhana).

Như người mua giày hư…,

Câu chuyện này, khi ở Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa.

Các Tỷ-kheo họp tại Chánh pháp đường, bắt đầu nói chuyện này:

– Thưa ngài Hiền giả, Ðề-bà-đạt-đa phản lại bậc Sư trưởng, trở thành kẻ chống đối, kẻ thù địch của đức Như Lai và gặp tai nạn.

Bậc Ðạo Sư đi đến Pháp đường và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông ngồi họp đang luận bàn vấn đề gì?

Khi nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới phản lại bậc Sư trưởng, trở thành kẻ chống đối, kẻ thù địch của Như Lai, và gặp đại nạn. Thuở trước, kẻ ấy cũng đã như vậy.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một người huấn luyện voi. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát được thành thục trong nghề huấn luyện voi. Một thanh niên Bà-la-môn ở một làng của nước Kàsi đến học nghề với Bồ-tát. Trong khi dạy nghề, các vị Bồ-tát thường không giấu giếm điều gì cả. Những gì các vị hiểu biết đều đem dạy cho tất cả. Do vậy, thanh niên ấy học mọi nghề với Bồ-tát và hiểu biết không sót một chút gì. Khi người thanh niên học xong, liền thưa vời Bồ-tát.

– Thưa Sư trưởng, nay con xin đi phục vụ vua.

Bồ-tát nói:

– Lành thay!

Rồi Bồ-tát đi đến yết kiến vua và thưa:

– Thưa Ðại vương, đệ tử của thần muốn phục vụ ngài.

– Tốt lắm, hãy để nó phục vụ trẫm.

– Nhưng Ðại Vương có biết tiền lương là bao nhiêu?

– Ðệ tử của khanh sẽ không nhận được tiền lương như khanh. Nếu khanh nhận được một trăm, nó sẽ nhận năm mươi. Nếu khanh nhận được hai, nó sẽ nhận một!

Bồ-tát đi về nhà báo tin cho đệ tử của mình. Anh ta nói:

– Thưa Sư trưởng, con biết nghề giống như Sư trưởng, nên tay nghề bằng nhau. Nếu tiền lương bằng nhau, thì con sẽ phục vụ. Nếu không, con sẽ không phục vụ.

Bồ-tát trình cho vua biết. Vua nói:

– Nếu nó làm được việc bằng khanh, nếu nó có thể cho thấy tài nghệ của nó bằng tài nghệ của khanh, thì nó sẽ nhận lương bằng khanh.

Bồ-tát báo tin ấy cho đệ tử biết. Anh ta nói:

– Tốt lắm, con sẽ trổ tài.

Bồ-tát lại trình vua.

Vua nói:

– Vậy ngài mai, các khanh sẽ trổ tài nghệ.

– Lành thay, chúng thần sẽ trổ tài.

Nhà vua liền ra lệnh đánh trống báo tin.

– Ngày mai cả Sư trưởng và đệ tử đều trổ tài nghệ huấn luyện voi. Ngày mai, những ai muốn xem hãy họp tai sân của hoàng cung để xem.

Vị sư trưởng suy nghĩ: “Ðệ tử của ta qua huyênh hoang tự mãn, nó tưởng nó có cái tài năng bằng ta trong khi nó chưa biết hết mọi phương tiện thiện xảo của ta”.

Sư trưởng chọn một con voi và trong một đêm, vị ấy dạy nó làm mọi việc trái ngược. Sư trưởng dạy nó đi lui trong khi bảo nó đi tới, và dạy nó đi tới trong khi bảo nó đi lui; dạy nó nằm khi bảo nó đứng dậy; dạy nó đứng khi bảo nó nằm; dạy nó thả rơi khi bảo nó nhặt lên; và dạy nó nhặt lên khi bảo nó thả xuống.

Ngày hôm sau, sư trưởng leo lên con voi ấy đi đến sân của hoàng cung. Người đệ tử cũng cưỡi một con voi thật đẹp. Một đám đông người tụ họp tại đó. Cả hai đều trổ tài nghệ giống nhau. Rồi Bồ-tát bảo con voi của mình làm việc trái ngược với mệnh lệnh. Khi bảo nó đi tới, nó lại đi lui. Khi bảo nó đứng, nó lại nằm. Khi bảo nó nằm, nó lại đứng dậy. Khi bảo nó nhặt lên, nó thả rơi. Khi bảo nó thả rơi, nó lại nhặt lên. Ðại chúng la ó lên:

– Kẻ đệ tử độc ác kia, chớ đối địch với sư trưởng của ngươi. Ngươi không biết lượng sức mình, khi ngươi nghĩ: “Ta biết trổ tài như sư trưởng”.

Quần chúng đánh anh ta với gạch, gậy gộc và giết chết anh ta ngay tại chỗ.

Bồ-tát từ trên voi bước xuống đi đến trước mặt vua và thưa:

– Thưa đại vương, người ta học nghề để mưu cầu an lạc cho mình. Nhưng có một người do học nghề tự đem lại đại nạn, giống như chiếc giày hư đem lại khổ đau.

Nói vậy xong, Bồ-tát đọc bài kệ:

Như người mua giày hư
Mong giày đem an lạc,
Không ngờ, giày đem khổ,
Bị nóng bức đốt cháy
Gót chân bị bức bách,
Chân người ấy bị thương.
Cũng vậy kẻ phàm phu,
Sanh gia đình hạ tiện,
Ðến người để học nghề,
Và học cả mọi việc,
Chính do thiếu hiểu biết,
Trở lại làm hại mình,
Kẻ nông nổi nóng vội
Giống như chiếc giày hư.

Vua vô cùng hoan hỷ và đem thưởng Bồ-tát nhiều danh vọng vinh hiển.

*

Sau khi thuyết Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, người đệ tử là Ðề-bà-đạt-đa và vị sư trưởng là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN KHÔNG ÐƯỢC HƯỚNG DẪN (Tiền thân Vinàthùna)

Việc này do con nghĩ…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một thiếu nữ.

Nàng ấy là một triệu phú ở Xá-vệ, thấy trong nhà mình một con bò đực được cung kính, liền hỏi người vú:

– Này vú, ai lại được cung kính như vậy?

– Thưa cô, đó là con ngưu vương.

Rồi thiếu nữ ấy đứng trong lâu đài nhìn ra đường, thấy một kẻ lưng gù và suy nghĩ: “Giữa loài bò, con đầu đàn có một cái bướu trên lưng. Người đứng đầu loài người chắc cũng như vậy. Người này sẽ làm chủ loài người. Ta sẽ trở thành kẻ hầu hạ của người này”.

Thiếu nữ ấy sai nữ tì báo cho người lưng gù này biết:

– Con gái nhà triệu phú muốn đi với chàng. Hãy đi đến chỗ ấy và đứng đợi.

Rồi nàng thu góp và đem theo các thứ nữ trang vật dụng của mình, rồi cải trang, từ lầu bước xuống và đi trốn với người gù lưng.

Sau một thời gian việc làm ấy được thành phố và chúng Tỷ-kheo biết đến. Tại Chánh pháp đường, các Tỷ-kheo bắt đầu nói chuyện này:

– Này các Hiều giả, con gái nhà triệu phú đã trốn đi với một người lưng gù.

Giữa lúc ấy, bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang họp bàn vấn đề gì?

Khi nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay cô ta mới đam mê người lưng gù. Thuở trước cô ta cũng như vậy rồi!

Và bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình một vị triệu phú ở một thị trấn.

Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát lập gia đình, sanh được một con trai và một con gái. Bồ-tát muốn cưới con gái một của một triệu phú ở Ba-la-nại cho con trai mình và chọn ngày làm lễ cưới. Con gái vị triệu phú ấy thấy trong nhà mình một con bò đực được cung kính, liền hỏi người vú:

– Ai đấy?

Ngưới vú nói:

– Ðây là con bò chúa.

Sau đó cô gái thấy một người lưng gù đang đi giữa đường lại nghĩ: “Ðấy là người tối thượng giữa loài người”, bèn đem theo mọi thứ trang sức vật dụng và trốn theo người ấy.

Còn Bồ-tát suy nghĩ: “Ta sẽ rước con gái vị triệu phú về nhà”, liền lên đường đi đến Ba-la-nại, với một đám tùy tùng lớn.

Người gù lưng và cô gái cũng đi trên con đường ấy. Suốt đêm người gù lưng bị lạnh, vào lúc rạng đông, anh ta bị cảm gió, thân thể run rẩy vô cùng đau khổ. Anh ta ngã xuống, nằm co quắp bên đường như cần cây đàn cầm bị gãy, con cô gái nhà triệu phú ngồi dưới chân anh ta. Bồ-tát và người tùy tùng nhận ra nàng, đi đến, nói chuyện với con gái nhà triệu phú qua bài kệ đầu:

Việc này do con nghĩ,
Ngu si, không người dắt,
Ở một bên kẻ ngu,
Không xứng đáng với con.

Nghe Bồ-tát nói vậy, con gái nhà triệu phú đọc bài kệ thứ hai:

Nghĩ là người tối thượng,
Con yêu kẻ gù lưng,
Nay nó nằm cong queo,
Như đàn cầm dây đứt.

Bồ-tát biết rằng nàng chỉ hóa trang đi theo người gù nên cho nàng tằm rửa, trang điểm cho nàng rồi đưa nàng lên xe về nhà.

*

Khi bậc Ðạo Sư thuyết pháp thoại này xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ chính người này là con gái nhà triệu phú và vị triệu phú thành Ba-la-nại là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN MŨI TÊN (Tiền thân Bikannaka)

Ngươi muốn đi chỗ nào…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo thối thất tinh tần.

Vị ấy được đưa đến Chánh pháp đường và được bậc Ðạo Sư hỏi:

– Có thật thế chăng?

Tỷ-kheo ấy trả lời:

– Thật có vậy.

– Vì sao thối thất tinh tấn?

Vị ấy trả lời:

– Vì nhân duyên các dục.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Các dục, này Tỷ-kheo, giống như mũi tên có ngạnh đâm vào trong tim. Khi đã đâm vào đấy, nó có thể giết người như mũi tên giết con cá sấu.

Nói xong, bậc Ðạo Sư kể một câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, Ðạo Sư làm vua trị vì đúng pháp ở Ba-la-nại.

Một hôm vua đi vào công viên, đến trên bờ hồ xem những người thiện xảo về múa hát trên bờ hồ xem những người thiện xảo về múa hát bắt đầu biểu diễn. Ðàn cá và đám rùa thích nghe tiếng hát, tụ tập lại và đi theo vua. Vua thấy đàn cá dài bằng thân cây cọ dừa, liền hỏi các đại thần.

– Sao những con cá này lại đi theo ta như vậy?

Các đại thần trả lời:

– Chúng đang hầu Thiên tử.

Vua bằng lòng với lời nói ấy, và ra lệnh cho chúng ăn cơm thường xuyên hàng ngày. Một số cá vào giờ ăn, một số khác không đến và cơm bị phí phạm. Các người hầu tâu với vua sự kiện này. Vua ra lệnh:

– Bắt đầu từ nay, vào giờ cơm hãy đánh trống. Khi nghe tiếng trống, các con cá tụ họp lại hãy cho chúng cơm.

Từ đấy người nào cho cá ăn cơm cũng đánh trống và khi đàn cá họp lại, anh ta cho chúng ăm cơm. Khi các con cá đang ăn cơm, một con cá sấu đến ăn vài con cá. Người cho cơm trình vua việc ấy. Vua nghe nói vậy liền ra lệnh:

– Khi con cá sấu ăn cá, hãy bắn nó với mũi tên có ngạnh và bắt nó.

– Thưa vâng, tốt lắm. Người ấy nói.

Rồi anh ta lên một chiếc thuyền và ngay khi con cá sấu đến ăn cá, anh ta đâm nó bằng một mũi tên có ngạnh. Mũi tên bắn vào lưng, con cá sấu đau đớn điên cuồng mang theo mũi tên chạy trốn. Người cho cơm biết mũi tên đã trúng con cá sấu, gọi nó với bài kệ đầu:

Ngươi muốn đi chỗ nào,
Hãy đi đến chỗ ấy,
Mũi tên ta có ngạnh,
Ðã bắn trúng ngươi rồi.
Nghe tiếng trống gọi cơm,
Ngươi tham lam đã đến,
Ðuổi bắt ăn đàn cá,
Nên ngươi phải mạng chung.

Con cá sấu đi về chỗ ở của mình và chết tại đấy.

Bậc Ðạo Sư là bậc Chánh Giác muốn giải thích sự việc này, liền đọc bài kệ thứ hai:

Các thú vật trong đời,
Khi đã bị cám dỗ
Và chúng bị chinh phục
Bởi dục vọng của mình,
Chúng sẽ bị giết hại
Giữa bà con, bạn bè,
Như con các sấu ấy
Ði theo ăn đàn cá.

*

Sau khi thuyết pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng, vị Tỷ-kheo thối thất đã đắc quả Dự lưu, và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vua Ba-la-nại là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN NÀNG ASITÀBHÙ (Tiền thân Aistàbhù)

Nay chính nhờ chàng làm…,

Câu chuyện này, bậc Ðạo Sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về một thiếu nữ.

Ở Xá-vệ, trong gia đình một người hầu hạ hai vị Ðại đệ tử của bậc Ðạo Sư, có một thiếu nữ tuyệt sắc. Khi nàng lớn lên, nàng được gả cho một gia đình tương xứng. Nhưng người chồng không nghĩ gì đến nàng, thường tham đắm vui chơi các chỗ khác. Nàng không để ý đến sự vô lễ của chồng đối với mình, đã mời hai vị Ðại đệ tử đến để cúng dường bố thí, nghe pháp và chứng quả Dự lưu. Từ đấy trở đi nàng sống an lạc trong đạo và quả. Về sau nàng nghĩ: “Chồng ta không cần ta, ta không có việc gì phải sống trong gia đình, vậy ta sẽ xuất gia”. Vì vậy, nàng báo tin cho cha mẹ rồi xuất gia và chứng quả A-la-hán.

Việc làm của nàng được các Tỷ-kheo biết đến. Một hôm, tại Chánh pháp đường, các Tỷ-kheo bắt đầu nói chuyện này:

– Thưa các Hiền giả, người con gái của gia đình ấy cố gắng đi tìm mục đích tối thượng. Biết được người chồng không kể gì đến mình, nàng cúng dường hai vị Ðại đệ tử, rồi nghe pháp với hai vị ấy và được an trú trong quả Dự lưu. Sau đó nàng xin phép mẹ cha, xuất gia và chứng quả A-la-hán. Như vậy, này các Hiền giả, thiếu nữ ấy đã đạt mục đích đối thượng.

Trong lúc ấy, bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông hội họp và bàn vần đề gì?

Khi nghe vấn đề trên, Ngài nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay thiếu nữ gia đình này đi tìm mục đích tối thượng. Thuở trước, nàng cũng đã làm như vậy rồi.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát xuất gia làm vị ẩn sĩ khổ hạnh đạt được các Thắng trí, và các Thiền chứng rồi sống tại khu vực Hy-mã-lạp-sơn. Lúc bấy giờ, vua Ba-la-nại thấy con mình là hoàng tử Brahmadatta đầy uy nghi, oai vệ, sinh nghi ngờ, và đuổi con ra khỏi quốc độ.

Hoàng tử đem theo vợ mình tên Asitabhù, đi vào Tuyết sơn, ăn cá, thịt, các loại rau quả và trú tại một am thất bằng lá. Hoàng tử thấy một nữ thần chim và đam mê nàng; chàng muốn lấy nàng làm vợ, không đếm xỉa đến Àsitàbhù.

Aistàbhù thấy chồng mình đi theo nữ thần liền nghĩ: “Người này không đếm xỉa gì đến ta, và đi theo nữ thần, vậy cần nó làm gì?”

Nghĩ vậy tâm nàng không vui, nàng đi đến gặp Bồ-tát, đảnh lễ, và xin ngài dạy cho nàng một đối tượng để quán tưởng.

Nàng nhìn vào đối tượng ấy, rồi phát triển các Thắng trí và các Thiền chứng. Nàng đi đến Bồ-tát, và đảnh lễ rồi trở về đứng trước cửa thảo am của mình.

Bấy giờ Brahmadatta đi theo nữ thần chim, nhưng tìm khắp không thấy được con đường nữ thần chim ấy đi, chàng thất vọng, hướng mặt về phía chòi lá của mình. Asitàbhù thấy chồng đi đến, bèn bay lên hư không, đứng trên tầng trời có màu sắc châu báu, và nói:

– Này Tôn giả trẻ tuổi, nhờ chàng ta đã chứng được an lạc thiền định này.

Và nàng đọc bài kệ đầu:

Nay chính nhờ chàng làm,
Ta hết say đắm dục,
Như ngà bị cưa đứt,
Không thể gắn lại được.

Nói vậy xong, trước mắt chàng, nàng bay lên hư không và đến một chỗ khác. Khi nàng đi rồi, hoàng tử Brahmadatta than thở qua bài kệ thứ hai:

Như tham lam quá độ,
Làm tâm trí si mê
Cướp đi mọi công đức,
Ta đánh mất vợ ta!

Hoàng tử khóc than với bài kệ này, rồi sống một mình trong rừng. Khi vua cha băng hà, chàng trở về nhận vương quốc.

*

Khi thuyết Pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, hoàng tử và công chúa là hai người này, còn vị ẩn sĩ khổ hạnh là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN VỀ ẨN SĨ VACCHA-NAKHA (Tiền thân Vaccha-Nakha)

Này Vac-cha-Na-kha…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Roja, một người của bộ tộc Malla.

Người này là bạn cư sĩ của Tôn giả Ànanda, một hôm, gởi một bức thư nhắn tin mời Tôn giả đến thăm mình. Tôn giả xin phép bậc Ðạo Sư và ra đi. Sau khi đãi Tôn giả ăn các món thượng vị khác nhau, vị ấy ngồi xuống một bên, nói chuyện thân mật với Tôn giả, và mời Tôn giả thọ hưởng cuộc sống đầy đủ dục lạc ở nhà mình:

– Thưa Tôn giả Ananda, nhà tôi rất nhiều kho động sản và bất động sản. Tôi sẽ chia tài sản này làm hai và tặng Tôn giả một nửa. Hãy đến đây, chúng ta chung sống trong một gia đình.

Vị Trưởng lão nói cho bạn biết sự nguy hiểm của các dục, rồi từ chỗ đứng dậy, đi về tinh xá.

Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Ànanda, ông có gặp Roja không?

Trưởng lão trả lời:

– Thưa có, bạch Thế Tôn.

– Roja nói chuyện gì với ông?

Trưởng lão trả lời:

– Bạch Thế tôn, Roja mời con sống đời gia đình. Con nói lên những nguy hiểm của một đời sống gia đình cho bạn con.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Ànanda, không phải chỉ nay Roja, người Malla ấy mời các vị xuất gia sống đời gia đình. Lúc trước kẻ ấy cũng đã làm như vậy rồi.

Rồi theo yêu cầu của Tôn giả Ànanda, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở một thị trấn. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài xuất gia làm vị ẩn sĩ sống lâu ngày tại khu vực Tuyết sơn.

Vì mục đích lấy muối và giấm, ngài đi đến Ba-la-nại trù ở công viên của vua. Hôm sau vị ẩn sĩ đi vào thành.

Bấy giờ một vị triệu phú ở Ba-la-nại hoan hỷ với uy nghi của Bồ-tát, đưa ngài về nhà, mời ngài thọ trai.

Ngay khi được ngài nhận lời ở lại với mình, vị ấy đem ngài vào ở trong hoa viên và thường đến phục vụ ngài đủ mọi nhu cầu.

Hai người nảy sinh tình thân mến với nhau.

Một hôm vị triệu phú Ba-la-nại, vì thương mến Bồ-tát, suy nghĩ như sau: “Ðời sống xuất gia thật cực khổ. Ta sẽ khuyên bạn ta từ bỏ xuất gia. Ta sẽ chia tất cả tài sản ta làm hai và cho bạn một nửa, rồi hai chúng ta cùng chung sống với nhau”.

Vị vậy, một hôm sau khi ăn uống xong, nói chuyện thân mật với bạn, vị triệu phú Ba-la-nại nói:

– Thưa Tôn giả Vacchanakha, đời sống xuất gia đầy phiền toái. Ðời sống gia đình đầy an lạc. Hãy hoàn tục, và hai chúng ta cùng thọ hưởng các dục lạc với nhau.

Nói vậy xong, vị triệu phú đọc bài kệ đầu:

Này Vac-cha-na-kha,
An lạc thay gia đình,
Ðầy đủ thứ vàng bạc,
Ðầy đủ các món ăn,
Ở đây, ăn và uống,
Rồi nằm dài thỏa thích!

Nghe vậy, Bồ-tát nói:

– Này đại triệu phú, bạn đắm say dục lạc, vì không có trí, bạn tán thán công đức của đời tại gia, không tán thán công đức của đời xuất gia. Tôi sẽ nói với bạn mọi phiền toái của đời sống gia đình. Nay hãy lắng nghe. Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Người sống trong gia đình,
Không bao giờ an lạc,
Người ấy thường nói láo,
Người ấy thường lừa đảo,
Người ấy thường đánh đập,
Làm hại những người khác,
Các tội lỗi như vậy,
Làm sao chế ngự được,
Vậy ai nay còn muốn
Sống ở trong gia đình?

Với những lời này bậc Ðại sĩ nới lên những khuyết điểm của đời sống gia đình, rồi đi đến hoa viên như cũ.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vị triệu phú Ba-la-nại là Roja, người của bộ tộc Malla, còn ẩn sĩ Vacchanakha là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON CÒ (Tiền thân Baka)

Thật trắng thay chim này…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một kẻ giả dối. Khi kẻ ấy được đưa đến trước mặt bậc Ðạo sư, Ngài nói:

– Này các Tỷ-kheo, người này không những nay mà thuở xưa đã là một kẻ giả dối.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là con cá vua sống trong cái hồ ở khu vực Tuyết Sơn cùng với một số lớn cá tùy tùng.

Lúc ấy một con cò muốn ăn các con cá tại chỗ gần hồ nước. Vì vậy nó cúi đầu, dang cánh ra, nhìn các con cá một cách mơ màng, chờ đợi khi nào chúng mất cảnh giác thì bắt chúng.

Bấy giờ, Bồ-tát cùng với đàn cá đi tìm mồi, đến tại chỗ ấy. Ðàn cá thấy con cò đang rình mồi liền đọc bài kệ đầu:

Thật trắng thay chim này,
Loài chim hai lần sanh,
Chẳng khác gì hoa súng,
Lặng lẽ dang hai cánh,
Im lặng, mơ màng nhìn,
Như trầm tư mặc tưởng!

Bồ-tát nhìn con cò, và đọc bài kệ thứ hai:

Con cò ấy làm gì,
Các ngươi đâu biết được,
Vì không biết rõ ràng,
Nên có lời tán tụng
Chim hai lần tái sanh ấy
Ðang đợi giết chúng ta,
Do vậy hai cánh nó
Không vẫy, không động đậy.

Nghe nói vậy đàn cá vẫy nước và đuổi con cò đi.

*

Sau khi thuyết pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con cò là kẻ giả dối này, còn vua cá là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN THÀNH SÀKETA (Tiền thân Sàketa)

Thế Tôn, do nhân gì…,

Câu chuyện này, khi ở gần Sàketa, bậc Ðạo Sư kể về sự sanh khởi luyến ái. (Chuyện hiện tại và quá khứ giống như Tiền thân số 68, Chương năm).

*

Khi đức Như Lai đi vào tinh xá, các Tỷ-kheo hỏi:

– Bạch Thế Tôn, luyến ái bắt đầu như thế nào?

Và họ đọc bài kệ đầu:

Thế Tôn, do nhân gì,
Ở đời có số người,
Tâm hết sức lạnh nhạt.
Nhưng đối với kẻ khác,
Tâm lại rất yêu thương?

Bậc Ðạo Sư giải thích bản chất của luyến ái qua bài kệ thứ hai:

Xưa do vì sống chung,
Nay, do vì hạnh phúc,
Như vậy, luyến ái sanh,
Như sen mọc trong nước.

*

Sau khi kể Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Hai người này là hai vợ chồng vị Bà-la-môn thời xưa và con trai của họ là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN MỘT CHỮ (Tiền thân Ekapada)

Cha thân, hãy nói lên…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể kể về một vị điền chủ ở Xá-vệ.

Một hôm, đứa con trai của vị ấy ngồi trên bắp vế của cha và hỏi vị ấy về ý nghĩa cái cửa. Người điền chủ ấy nói:

– Câu chuyện này, trừ đức Phật không một ai khác có thể trả lời.

Vì vậy, ông dắt con đi đến Kỳ Viên, đảnh lễ bậc Ðạo Sư thưa:

– Bạch Thế Tôn, đứa con trai của con ngồi trên bắp vế con và hỏi về ý nghĩa cái cửa. Con không biết trả lời nên đến đây. Mong Thế Tôn trả lời câu hỏi này.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này nam cư sĩ, đứa trẻ này, nay đang đi tìm lý tưởng. Thuở trước, nó cũng đã đi tìm lý tưởng, và hỏi các hiền trí câu hỏi này rồi. Các nhà hiền trí đã trả lời nó. Nhưng qua nhiều lần tái sanh chồng chất, nó không nhớ.

Rồi theo lời yêu cầu của người điền chủ, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở trước, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình triệu phú. Lúc lớn lên, cha chết, Bồ-tát được hưởng địa vị của người triệu phú.

Bấy giờ con trai của Bồ-tát ngồi trên bắp vế cha và hỏi:

– Thưa cha thân, hãy nói cho con một việc chỉ gồm có một chữ nhưng bao hàm nhiều ý nghĩa.

Rồi nói đọc bài kệ đầu:

Cha thân, hãy nói lên
Một chữ gồm nhiều nghĩa,
Với chữ ấy, chúng ta
Thành đạt được lý tưởng.

Người cha nói lên bài kệ thứ hai:

Một chữ đáng kính trọng,
Một chữ gồm nhiều nghĩa,
Ðó chính là tài năng,
Liên hệ với giới đức,
Gắn liền với nhẫn nhục,
Ðể con giúp bạn hữu,
Và cảnh giác kẻ thù.

Như vậy, Bồ-tát đã trả lời câu hỏi của con trai. Ðứa con trai ấy dùng phương pháp mà người cha nêu ra để thành tựu lý tưởng. Về sau, khi mệnh chung nó đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi thuyết Pháp Thoại này, bậc Ðạo Sư giảng các Sự thật. Cuối bài giảng ấy, cả hai cha con đắc quả Dư lưu. Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, người con trai ấy là người con trai ngày nay, còn Ta là triệu phú Ba-la-nại.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON NHÁI XANH (Tiền thân Harita-Màta)

Khi ta là con rắn…,

Câu chuyện này, khi ở Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư kể về vua Ajàtasttu (A-xà-thế).

Khi phụ thân của vua Pasenadi nước Kosala gả con gái cho vua Bimbisàra (Tần-bà-sa), có cho nàng một làng ở Kàsi như món tiền sắm lễ. Khi A-xà-thế giết cha là vua Bimbisàra, không bao lâu, mẫu hậu mệnh chung vì thương chồng. Sau khi mẹ mất, vua A-xà-thế vẫn hưởng lợi tức của ngôi làng ấy. Vua Kosala quyết định không để ngôi làng thuộc tài sản gia đình mình cho nghịch tử đã giết cha, và vua gây chiến với A-xà-thế.

Khi thì người cậu (tức là vua Pasenadi) chiến thắng, khi thì người cháu (tức A-xà-thế) chiến thắng. Khi A-xà-thế thắng trận, vua dương cờ lên khắp trong nước và đi về thành với khí thế tưng bừng. Khi vua thất trận, vua về sầu muộn và không cho ai biết.

Một hôm tại Chánh pháp đường, các Tỷ-kheo ngồi nói chuyện này:

– Thưa các Hiền giả, khi A-xà-thế thắng người cậu thì hân hoan, còn khi thất trận thì sầu muộn.

Bậc Ðạo Sư đến Chánh Pháp đường và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang ngồi họp bàn vấn đề gì?

Khi được nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Không phải chỉ nay, ngày xưa cũng vậy, khi nào ai thắng trận cũng hân hoan, khi nào ai thất trận cũng sầu muộn.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con nhái. Lúc bấy giờ khắp nơi tại những hang lỗ sâu dưới sông, dân chúng thường đặt các lưới nơm để bắt cá. Một bầy cá lội vào trong một cái nơm ấy và một con rắn nước cũng bò vào thân chảy máu. Con rắn không thấy ai cứu mình, sợ chết, vội bò ra khỏi miệng rơm, và nó vô cùng đau đớn, nằm nấp một bên bờ nước.

Lúc bấy giờ, con nhái xanh nhảy đến và rơi vào miệng cái lưới. Con rắn biết không ai có thể phán xử cho mình, thấy nhái xanh nằm đấy liền hỏi:

– Này bạn nhái xanh, bạn có bằng lòng với việc làm của đàn cá này không?

Rồi nó đọc bài kệ đầu:

Khi ta là con rắn
Đi vào trong miệng nơm,
Các con cá cắn ta,
Bạn nhái có hoan hỷ
Với việc đàn cá làm?

Con nhái xanh nói:

– Vâng, thưa bạn, tôi hoan hỷ. Vì sao vậy? Khi những con cá đi vào khu vực của bạn, bạn ăn chúng. Khi bạn vào khu vực đàn cá, chúng ăn bạn. Tại khu vực của mình, tại chỗ mình kiếm ăn, không ai là không có sức mạnh.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Loài người thường ăn cướp,
Khi nào thấy được lợi,
Khi người khác ăn cướp,
Kẻ bị cướp, cướp lại.

Khi Bồ-tát phân xử vụ kiện này, đàn cá thấy chỗ yếu của con rắn nước, liền nói:

– Chúng ta sẽ bắt kẻ thù.

Ðàn cá đi ra khỏi miệng nơm, giết con rắn ngay tại chỗ rồi bỏ đi.

*

Sau khi nói pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con rắn nước là A-xà-thế, còn con nhái xanh là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN VUA MAHÀPINGALA (Tiền thân Mahàpingala)

Chính vua Pin-ga-la…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa.

Trong chín tháng Ðề-bà-đạt-đa đã tìm mọi cách hãm hại bậc Ðạo Sư, sau đó đất nứt nẻ và chôn vị ấy vào trong lòng đất của Kỳ Viên. Những ai sống tại Kỳ Viên và toàn dân sống ở trong vùng ấy nghe tin đều hân hoan và nói:

– Ðề-bà-đạt-đa, kẻ thù của bậc Ðạo Sư là đức Phật Chánh Giác, đã bị đất nuốt sống!

Khi nghe những lời này được lan truyền khắp nơi, dân chúng ở toàn cõi Diêm-phù-đề, các Dạ-xoa, các loài hữu tính, và chư Thiên cũng đều hân hoan vui vẻ như vậy.

Một hôm, các Tỷ-kheo họp tại Chánh pháp đường, và bắt đầu nói chuyện:

– Thưa các Hiền giả, khi Ðề-bà-đạt-đa bị nuốt vào lòng đất, quần chúng sanh hoan hỷ và nói: Ðề-bà-đạt-đa đã bị nuốt vào lòng đất rồi.

Bậc Ðạo Sư đến Chánh pháp đường và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông ngồi họp đang bàn vấn đề gì?

Khi nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa chết, đại chúng hân hoan vui mừng. Thuở trước, đại chúng cũng hân hoan, vui mừng như vậy.

Và bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, tại Ba-la-nại, vua Mahàpingala (Ðại hoàng nhãn) trị vì phi pháp và bất công, làm các nghiệp ác theo ý muốn của mình. Vua dùng hình phạt thuế má, còng chân, bức hiếp quần chúng như nghiền mía trong máy ép. Vua cay nghiệp, độc ác, hung bạo, không có một chút tình thương đối với kẻ khác. Ở nhà, vua cư xử hà khắc, nghịch ý đối với vợ, con trai, con gái, đại thần, Bà-la-môn, gia chủ v.v… Vua như là hột bụi đời vào mắt, như viên sạn trong vắt cơm, như mũi dao đâm vào gót chân.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát sanh ra làm hoàng tử của vua Mahàpingala. Suốt một thời gian dài, vua Mahàpingala trị vì rồi mệnh chung. Khi ấy dân chúng toàn thành Ba-la-nại hân hoan vui sướng, cười thật lớn, thiêu đốt thi hài vua với ngàn xe củi, và dập tắt lửa với hàng ngàn ghè nước.

Khi làm lễ quán đảnh tôn Bồ-tát lên ngôi vua, họ hân hoan vui sướng vì được một vị vua trị vì đúng pháp, dân chúng đánh trống khắp nơi ở trong thành. Dân chúng treo cờ xí trang hoàng thành phố. Tại mỗi cửa nhà, họ dựng lều, trải dầu lúa và hoa, và ngồi ăn uống trong các lều được trang hoàng đẹp đẽ ấy trên các bục gỗ được tô điểm rực rỡ.

Còn Bồ-tát ngồi trên một vương sàng tuyệt đẹp, đặt trên một cái bệ cao, dưới chiếc lọng trắng che trên đầu thật oai phong lẫm liệt. Các đại thần, Bà-la-môn, gia chủ, người đánh xe, người giữ cửa đứng bao vây xung quanh ngài. Một người giữ cửa đứng không xa, đang khóc và thở dài. Bồ-tát thấy vậy hỏi:

– Này bạn giữ của, cha ta chết, mọi người đều hân hoan vui sướng, chơi đùa ồn ào, còn bạn lại đứng khóc vậy? Cha ta có tử tế với bạn và yêu quý bạn sao?

Bồ-tát hỏi xong, đọc bài kệ đầu:

Chính vua Pin-ga-la,
Làm hại khắp mọi người,
Nay vua đã chết đi,
Ai cũng thấy thoải mái,
Phải chăng vua Hoàng nhãn
Ðã được ngươi thương yêu?
Khiến ngươi phải than khóc,
Hỡi người giữ cửa kia?

Nghe câu nói của Bồ-tát, người giữ cửa ấy nói:

– Tôi khóc không phải vì vua Mahàpingala chết làm tôi buồn. Nay tôi rất được an lạc. Trước kia mỗi khi vua Mahàpingala đi từ lầu xuống hay lên lầu, thường dùng nắm tay đánh tôi tám cái trên đầu, như cái đánh của cây búa thợ rèn. Khi vua đi đến thế giới bên kia, vua sẽ đánh tám cái trên đầu của thần Yàma giữ địa ngục như đã đánh đầu tôi. Dân chúng ở đấy sẽ nói: vua này quá ác đối với chúng tôi, và chúng sẽ gởi vua lên trên này lại. Tôi sợ vua sẽ đến và nắm tay lại đánh trên đầu tôi, nên tôi khóc.

Ðể nêu rõ ý nghĩa này, anh ta đọc bài kệ thứ hai:

Tôi không hề thương mến
Vua có con mắt vàng,
Tôi chỉ sợ một việc
Vua sẽ trở lại đây.
Vì làm hại thần Chết,
Nên từ đây vua đi,
Thần Chết bị vua hại,
Lại đưa vua trở về.

Bồ-tát nói với anh ta:

– Vua ấy bị đốt với ngàn xe củi, được tưới với trăm ghè nước, và chỗ đất được đào lên xung quanh, Chúng sanh đi đến thế giới bên kia, do sức mạnh của nghiệp không thể trở lại với thân trước được. Ngươi chớ sợ:

Rồi để an ủi anh ta, Bồ-tát đọc bài kệ này:

Bị ngàn xe củi đốt,
Bị trăm ghè nước tưới,
Ðất đã bị đào quanh,
Chớ sợ vua trở lại.

Từ đấy trở đi, người giữ cửa được an tâm. Còn Bồ-tát trị vì đúng pháp và trọn đời làm công đức như bố thí v.v… rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể Pháp thoại này xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vua Pingala là Ðề-bà-đạt-đa và vị hoàng tử là Ta vậy.

PHẨM SIGÀLA (Chó rừng)

  1. CHUYỆN VUA CHÓ RỪNG SABBADÀTHA (Tiền thân Sabbadàtha)

Kiên trì trong kiêu mạn…,

Câu chuyện này, khi ở Trúc Lâm bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa. Sau khi vua A-xà-thế tín nhiệm, Ðề-bà-đạt-đa được lợi dưỡng và cung kính, nhưng tình cảm ấy không thể duy trì lâu ngày. Từ khi quần chúng thấy thần thông thị hiện khi con voi Nàlàgiri được thúc đẩy chống đức Phật thì lời dưỡng và danh vọng của Ðề-bà-đạt-đa cũng mất. Một hôm, các Tỷ-kheo trong Chánh pháp đường bắt đầu nói chuyện:

– Thưa các Hiền giả, Ðề-bà-đạt-đa đã cố gắng tạo được lợi nhuận và danh vọng, nhưng không thể duy trì chúng lâu ngày!

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông tụ tập ở đây, và đang bàn vấn đề gì?

Khi được biết vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa làm mất các lợi dưỡng danh vọng của mình. Lúc trước kẻ ấy cũng đã làm mất chúng như vậy.

Rồi, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát làm cố vấn tế tự cho vua, thông đạt ba tập Vệ-đà và mười tám học nghệ. Bồ-tát biết được thần chú “Chiến thắng thế giới”. (Bấy giờ thần chú này liên hệ đến thiền định).

Một hôm, Bồ-tát có ý nghĩ: “Ta sẽ tụng bài chú nầy!” Rồi ngồi tại góc sân, trên một tảng đá phẳng, Bồ-tát bắt đầu tụng chú. Nghe nói, bài chú ấy không được đọc cho người khác nghe nếu không dùng một nghi lễ đặc biệt. Do vậy, Bồ-tát đọc tại chỗ ấy. Khi Bồ-tát đang đọc chú, một con chó rừng nằm trong hang nghe bài chú ấy và đã học bài chú thuộc lòng. Nghe nói con chó rừng ấy trong một đời sống trước đã là một Ðề-bà-đạt-đa tự học thuộc bài chú Chiến thắng thế giới ấy rồi.

Bồ-tát đọc chú xong, đứng dậy và nói:

– Ta chắc chắn đã học thuộc lòng bài chú này.

Con chó rừng từ trong hang đi ra, và kêu to:

– Này Bà-la-môn, bài chú ấy, ta đã thuộc lòng tốt hơn ông rồi!

Nói xong, con chó rừng bỏ chạy, Bồ-tát đuổi theo nó một khoảng cách và nói:

– Con chó rừng này sẽ làm điều đại bất hạnh, hãy bắt lấy nó!

Con chó rừng chạy trốn vào rừng, tìm được một con chó rừng cái, liền cắn nhẹ vào thân nó. Chó rừng cái hỏi:

– Thưa ngài, có việc gì?

Con chó rừng nói:

– Ngươi có biết ta hay không?

Con chó rừng cái trả lời:

– Tôi không biết.

Con chó rừng liền đọc bài chú, ra lệnh cho hàng trăm con chó rừng, tất cả voi, ngựa, sư tử, cọp, heo rừng, các con thú và tất cả các loài bốn chân tụ họp lại xung quanh nó, và con chó rừng trở thành vua của chúng tên là Sabbadàtha (Tất cả nanh vuốt) và tôn chó rừng cái làm hoàng hậu. Trên lưng hai con voi có con sư tử, và trên con sư tử, vua chó rừng Sabbadàtha ngồi với hoàng hậu. Muôn loài vật đều tôn sùng kính trọng nó. Say mê danh vọng, con chó rừng sinh ra kiêu mạn và nói:

– Ta sẽ lấy thành Ba-la-nại.

Ðược vây quanh với tất cả loài thú bốn chân, dài đến mười hai dặm, nó đứng không xa và đưa tin cho vua:

– Hãy giao quốc độ hay giao chiến!

Dân chúng Ba-la-nại hốt hoảng lo sợ, đóng các cửa thành và đứng chờ bên trong. Bồ-tát đi đến gần vua và thưa:

– Thưa Ðại Vương, chớ sợ. Thần chịu trách nhiệm giao chiến với con chó rừng Sabbadàtha. Ngoài thần ra, không một ai khác có thể đánh nó được cả.

Như vậy, Bồ-tát trấn an vua và dân chúng ở trong thành. Bồ-tát leo lên một tháp canh trên cửa thành và hỏi to:

– Này Sabbadàtha, ngươi làm gì để lấy thành?

– Ta sẽ ra lệnh cho các con sư tử rống lên làm đại chúng hoảng sợ và ta sẽ lấy thành!

Bồ-tát biết được như vậy, bèn từ tháp canh đi xuống bảo đánh trống ra lệnh:

– Toàn dân ở thành Ba-la-nại trong khoảng muời hai dặm hãy lấy bột gạo bịt tai lại.

Ðại chúng vâng lệnh, bịt tai với bột gạo, cho đến khi họ không thể nghe tiếng của người khác, và họ cũng bịt tai các con mèo và các thú nhà khác.

Rồi Bồ-tát leo lên tháp canh lần thứ hai và gọi to:

– Này Sabbadàtha! Ngươi làm gì để đánh lấy thành?

– Ta sẽ bảo các con sư tử rống lên, làm đại chúng hoảng sợ đến chết hết và ta sẽ lấy thành.

– Ngươi không có thể làm cho các con sư tử rống lên được. Các con sư tử thuộc chủng tộc cao quý, với bốn chân vững mạnh, với bờm lông rậm rạp, sư tử sẽ không vâng lệnh một con chó rừng già như ngươi!

Con chó rừng cứng đầu kiêu mạn nói:

– Không chỉ các con sư tử khác, mà ta sẽ làm cho con sư tử hiện ta đang ngồi trên lưng phải rống lên!

– Ngươi hãy làm cho sư tử rống lên nếu có thể được.

Con chó rừng liền lấy chân ra hiệu cho con sư tử mà nó đang ngồi lên lưng:

– Hãy rống lên!

Con sư tử liền kề miệng vào trán con voi, rống lên ba lần tiếng rống sư tử không đứt đoạn. Các con voi hoảng sợ làm cho con chó rừng rơi xuống dưới chân, chúng liền lấy chân dẫm lên trên đầu chó rừng và chà nó nát vụn như bột. Như vậy Sabbadàtha bị tiêu diệt. Và các con voi nghe tiếng rống sư tử đã kinh hoàng sợ chết, đạp lên nhau và chết tại chỗ. Trừ các con sư tử, tất cả các con thú còn lại như nai, heo rừng cho đến các con thỏ, con mèo, đều chết tại chỗ. Các con sư tử chạy trốn vào rừng. Suốt muời hai dặm đường được phủ bằng đống thịt thú vật.

Lúc ấy Bồ-tát từ tháp canh đi xuống, cho mở rộng cửa thành, đánh trống và tuyên bố như sau:

– Tất cả mọi người hãy rút bột gạo ra khỏi tai của mình, và những ai muốn ăn thịt hãy đem thịt về.

Dân chúng ăn các loại thịt tươi và các thịt còn lại được họ phơi khô và để dành.

Tương truyền cách cất giữ thịt khô bắt đầu từ thời ấy.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể Pháp thoại này xong. Ngài đọc những bài kệ đầy trí tuệ sau đây:

Kiên trì trong kiêu mạn
Chó rừng ham hội chúng,
Làm vua cả đại địa,
Cả muôn loài có răng.
Cũng vậy là người nào
Ðược nhiều người vây quanh,
Tạo nên danh vọng lớn,
Giống như vua chó rừng,
Với các loài bốn chân.

Rồi ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con chó rừng là Ðề-bà-đạt-đa, vua là Ànanda, còn vị đại thần tế tự là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON CHÓ (Tiền thân Sunakha)

Ngu thay, con chó này…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về con chó được ăn cơm tại một nhà nghỉ gần cửa lầu Ambala.

Người ta nói rằng từ khi nó mới sanh, nó được mấy người gánh nước đem về nuôi tại đó. Sau một thời gian, con chó ăn cơm tại đấy và thân thể trở thành to lớn. Một hôm, một người sống ở làng đến tại chỗ ấy, thấy con chó, liền cho những người gánh nước một thượng y và một đồng tiền, rồi lấy dây thừng cột nó và dắt nó đi. Con chó bị dắt đi, không cưỡng lại, không kêu; nó ăn các đồ ăn được cho, và đi theo người ấy. Người ấy nghĩ: “Con chó này đã thương mến ta, nên tháo dây thừng cho nó?” Con chó vừa được thả, liền mau chóng chạy một mạch về ngôi nhà cũ.

Các Tỷ-kheo thấy con chó, biết rõ đầu đuôi sự việc, vào buổi chiều, tại Chánh pháp đường, họ bắt đầu nói chuyện này:

– Thưa các Hiền giả, con chó, vừa khéo thoát khỏi dây trói buộc nay đã trở về ngôi nhà này.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông ngồi tại đây đang bàn luận vấn đề gì?

Khi được biết vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay con chó ấy khéo thoát khỏi dây trói buộc. Thuở xưa, nó cũng đã như vậy.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình giàu có ở nước Kàsi. Khi trưởng thành, Bồ-tát xây dựng một nhà riêng cho mình.

Lúc bấy giờ, ở Ba-la-nại, một người có một con chó. Con chó ấy được cơm ăn đầy đủ cho đến khi thân thể trở thành to lớn. Một người ở làng đi đến Ba-la-nại, thấy con chó ấy, cho người kia một thượng y và một đồng tiền, rồi bắt con chó, lấy dây da cột nó lại và dắt nó đi. Ðến cửa rừng, anh ta đi vào một cái chòi, cột con chó lại và nằm ngủ trên tấm thảm. Lúc bấy giờ, Bồ-tát có việc, đi vào rừng, thấy con chó ấy bị dây da cột chặt, liền đọc bài kệ đầu:

Ngu thay, con chó này,
Sao không cắn dây da?
Và thoát khỏi trói buộc,
Hân hoan chạy về nhà!

Khi nghe nói vậy, con chó đọc bài kệ thứ hai:

Ý ta đã quyết định,
Ta ghi nhớ trong tâm,
Ta chờ đợi thời cơ,
Khi mọi người đi ngủ.

Nó nói vậy xong, chờ khi mọi người đã ngủ, nó cắn dây thừng và sung sướng chạy trốn về nhà chú nó.

*

Khi bậc Ðạo Sư kể Pháp thoại này xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Con chó lúc bấy giờ là con chó này, còn vị hiền trí là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN NHẠC SĨ GUTTILA (Tiền thân Guttila)

Ta có một đệ tử…,

Câu chuyện này, khi ở Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa. Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo nói với Ðề-bà-đạt-đa:

– Này Hiền giả Ðề-bà-đạt-đa, nhờ bậc Chánh Ðẳng Giác, Hiền giả học xong Ba tạng Giáo điểm và chứng được Bốn Thiền. Thật không xứng đáng nếu Hiền giả trở thành kẻ thù của bậc Sư trưởng.

Ðề-bà-đạt-đa đáp:

– Này các hiền giả, Sa-môn Gotama đâu có phải là Sư trưởng của ta? Chính do tự lực của ta, ta học Ba tạng Giáo điển và chứng được Bốn Thiền.

Nói vậy xong, Ðề-bà-đạt-đa từ bỏ bậc Sư trưởng.

Các Tỷ-kheo ngồi tại Chánh pháp đường bắt đầu nói chuyện này:

– Hiền giả Ðề-bà-đạt-đa từ bỏ bậc Sư trưởng, trở thành kẻ thù của bậc Chánh Ðẳng giác, và đã gặp đại nạn!

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, nay các ông đang họp bàn vấn đề gì?

Khi được biết vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới từ bỏ Sư trưởng, trở thành kẻ thù của Ta và gặp nạn. Thuở trước kẻ ấy cũng như vậy rồi.

Và bậc Ðạo Sư kể chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh vào một gia đình nhạc sĩ và được đặt tên là Thanh niên Guttila. Khi lớn lên, Bồ-tát thành đạt tất cả các ngành âm nhạc, và trở thành nhạc sĩ Guttila. Bồ-tát không lấy vợ và nuôi dưỡng cha mẹ mù lòa.

Lúc bấy giờ, một số thương nhân sống ở Ba-la-nại, đi đến Ujjeni để buôn bán. Nhân ngày lễ hội được tổ chức, họ họp nhau đem theo nhiều vòng hoa, hương thơm, dầu sáp, các thức ăn, và đến một chỗ vui chơi. Họ nói:

– Hãy trả tiền thuê để gọi các nhạc sĩ đến.

Lúc bấy giờ nhạc sĩ Mùsila là vị nhạc trưởng ở Ujjeni. Họ mời Mùsila đến đàn cho họ nghe. Mùsila chơi đàn tỳ bà, vặn dây rất căng rồi gảy đàn. Nhưng họ đã từng nghe nhạc sĩ Guttila chơi đàn, nên nhạc của Mùsila chơi chẳng khác gì gảy trên chiếu. Vì vậy không một ai tỏ vẻ hài lòng.

Khi Mùsila thấy họ tỏ vẻ không hài lòng, ông ta nghĩ: “Có lẽ ta chơi đàn căng thẳng quá”, ông ta vặn dây xuống bậc trung và gảy tiếp. Các người nghe vẫn tỏ vẻ thản nhiên, ông lại nghĩ: “Những người này không biết một chút gì về nhạc”, và làm như vẻ mình không biết, ông ta gảy đàn với hết sức dùng. Ðến đây, họ cũng không nói một lời gì. Rồi Mùsila nói với họ:

– Này các thương nhân, tôi gảy đàn tỳ bà không làm cho các ông thích thú sao?

Họ nói:

– Nhưng ông gảy đàn tỳ bà đó sao? Chúng tôi nghĩ rằng ông chỉ lên dây đàn!

– Vậy các ông biết một nhạc trưởng nào giỏi hơn tôi, hay vì các ông không biết gì nên các ông không thích nghe tôi gảy?

Các thương nhân nói:

– Chúng tôi trước đây đã nghe tiếng đàn tỳ bà của nhạc sĩ Guttila ở Ba-la-nại. Còn tiếng đàn của ông chẳng khác gì bà mẹ ru ngủ con nít!

– Vậy các ông hãy lấy lại tiền mướn. Tôi không cần tiền ấy. Chỉ khi nào các ông đi Ba-la-nại, hãy đem tôi theo!

Họ bằng lòng, và khi ra đi, họ đem theo Mùsila đến Ba-la-nại, chỉ cho ông ta biết chỗ ở của Guttila, rồi họ về nhà.

Mùsila đi vào nhà của Bồ-tát, thấy cây đàn tỳ bà xinh đẹp của Bồ-tát được treo trên dây, liền lấy xuống và đàn. Bây giờ cha mẹ của Bồ-tát do mù nên không thấy Mùsila, nghĩ rằng có lẽ các con chuột đang ăn dây đàn tỳ bà, liền nói:

– Xuỵt, xuỵt! Các con chuột ăn dây đàn tỳ bà!

Lúc ấy, Mùsila đặt đàn xuống, chào cha mẹ Bồ-tát, và hai vị hỏi:

– Ông từ đâu đến?

Ông ta đáp:

– Tôi từ Ujjeni đến học nghề dưới chân sư trưởng.

Hai vị nói:

– Lành thay!

Mùsila hỏi:

– Sư trưởng ở đâu?

– Này con thân, nó không có ở nhà, nhưng hôm nay nó sẽ về.

Rồi Mùsila ngồi xuống đợi đến khi Bồ-tát về, liền nói lên những lời hỏi thăm và cho Bồ-tát biết lý do mình đến. Bồ-tát là người giỏi xem tướng, thấy người này không phải bậc chân nhân, liền từ chối:

– Này con thân, nghề này không phải là nghề của con.

Mùsila ôm chân cha mẹ Bồ-tát van lơn yêu cầu giúp đỡ.

– Hãy bảo con của ông bà dạy cho con học với!

Trước lời yêu cầu của cha mẹ, Bồ-tát không thể cưỡng lại, và dạy cho ông ta nghề nhạc. Rồi Mùsila đi với Bồ-tát không phải là vị Sư trưởng giấu nghề, những gì mình biết, Bồ-tát đều dạy cho Mùsila.

Dạy xong, Bồ-tát nói:

– Này con thân, nghề con đã học xong.

Mùsila suy nghĩ: “Nay ta học thành tài xong. Thành Ba-la-nại này là kinh đô tối thượng trong cõi Diêm-phù-đề. Sư trưởng đã già. Nay ta phải sống tại đây”.

Vì vậy ông ta liền thưa với Sư trưởng:

– Thưa Sư trưởng, nay con sẽ hầu vua.

Sư trưởng nói:

– Lành thay, con thân. Ta sẽ tâu với vua.

Bồ-tát đi tâu với vua:

– Ðệ tử của thần muốn hầu hạ Ðại vương. Hãy trả tiền lương cho nó!

– Nó sẽ nhận phân nửa lương của khanh.

Sư trưởng báo cho Mùsila biết tin này, Mùsila nói:

– Nếu con được trả tiền bằng lương của thầy, con sẽ hầu hạ vua. Nếu không được, con sẽ không hầu hạ!

– Vì sao?

– Phải chăng con biết tất cả nghề của Sư trưởng?

– Phải, con biết như vậy.

– Tại sao vua lại cho con phân nửa lương?

Bồ-tát tâu việc ấy với vua. Vua nói:

– Nếu nó có thể chứng tỏ tài nghệ nó bằng khanh, nó sẽ nhận lương ngang bằng.

Bồ-tát tin cho Mùsila biết. Ông ta đồng ý:

– Lành thay! Con sẽ trổ tài!

Khi vua được tin báo về việc này, vua nói:

– Lành thay ! Ngày nào ngươi sẽ trổ tài?

– Tâu Ðại vương, từ nay đến ngày thứ bảy.

Vua hỏi:

– Có thật chăng ngươi sẽ thi tài với Sư trưởng của ngươi?

– Thưa Ðại vương, thật vậy!

Vua muốn ngăn chận ông ta nên nói:

– Không nên có sự cạnh tranh giữa đệ tử và Sư trưởng! Chớ làm như vậy!

– Thôi vừa rồi, tâu Ðại vương. Ðến ngày thứ bảy sẽ có cuộc thử tài giữa thần với Sư trưởng của thần.

Vua chấp thuận và cho người đánh trống truyền rao khắp kinh thành lời bố cáo này:

– Từ nay cho đến ngày thứ bảy, Sư trưởng Guttila và đệ tử Mùsila có cuộc tranh tài với nhau tại cung vua để trình bày tài nghệ. Quần chúng ở thành hãy hội họp lại để xem tài nghệ của họ.

Bồ-tát suy nghĩ: “Mùsila còn trẻ đang độ thanh niên. Còn ta đã già, sức khoẻ yếu kém. Việc làm của người già không thể thành công. Nếu đệ tử thất bại, thì cũng không có gì vinh dự cả. Nhưng nếu đệ tử thắng cuộc, thì vào rừng mà chết còn tốt hơn sự ô nhục mà ta phải gánh chịu!”

Vì vậy, Bồ-tát đi vào rừng, nhưng rồi sợ chết liền quay trở về, và rồi sợ nhục, lại đi vào rừng. Như vậy Bồ-tát đi đi, về về và sáu ngày trôi qua. Cỏ dưới chân Bồ-tát đã héo úa, và con đường mòn do dấu chân ngài đi đã hiện ra. Trong lúc ấy, chiếc ngai của Thiên chủ Ðế Thích trở thành nóng. Ðế Thích hướng tâm tìm hiểu và biết sự việc xảy ra. Ðế Thích suy nghĩ: “Nhạc sĩ Guttila đang chịu nhiều đau khổ trong rừng vì người đệ tử. Ta phải giúp đỡ nhạc sĩ Guttila”.

Ðế Thích vội vàng đi đến đứng trước Bồ-tát và hỏi:

– Thưa Sư trưởng, sao Sư trưởng lại đi vào rừng?

Bồ-tát hỏi:

– Ông là ai?

Ðế Thích đáp:

– Ta là Ðế Thích.

Bồ-tát thưa:

– Thưa Thiên chủ, tôi sợ đệ tử đánh bại nên trốn vào rừng.

Nói rồi Bồ-tát đọc bài kệ đầu:

Tôi có một đệ tử
Ðã học đàn với tôi,
Ðàn tỳ bà bảy dây,
Thật du dương êm ái,
Nó thách tôi biểu diễn.
Thiên chủ Ko-si-ya,
Xin hãy giúp đỡ tôi!

– Ðừng sợ, Thiên chủ Ðế Thích đáp. Ta là chỗ nương tựa và bảo vệ bạn.

Rồi Thiên chủ đọc bài kệ thứ hai:

Ðừng sợ, ta sẽ giúp,
Khi nào bạn cần ta,
Danh dự là phần thưởng
Xứng đáng với giáo sư,
Ðừng sợ, vì đệ tử
Không thể đối địch thầy,
Và bạn sẽ chiến thắng.

Rồi Ðế Thích dặn:

– Khi bạn gảy đàn tỳ bà, hãy cắt đứt một dây và chơi với sáu dây. Tiếng đàn tỳ bà của bạn vẫn hay như cũ. Mùsila cũng sẽ cắt đứt một dây, nhưng tiếng đàn tỳ bà của nó sẽ mất đi. Khi ấy, nó sẽ thua cuộc. Biết nó thất bại, bạn hãy cắt đứt dây thứ hai, dây thứ ba, dây thứ tư, dây thứ năm, dây thứ sáu, dây thứ bảy. Bạn sẽ gảy đàn với cái trục đàn mà thôi, tiếng đàn sẽ phát ra từ các đầu dây bị đứt và sẽ vang dội toàn thành Ba-la-nại rộng đến mười hai dặm. Sau đó, Ðế Thích cho Bồ-tát ba cây đũa thần và nói tiếp:

– Khi tiếng đàn tỳ bà vang dội toàn thành, hãy quăng một đũa thần lên hư không. Khi ấy ba trăm Thiên nữ sẽ hiện xuống và múa trước mặt bạn. Khi chúng múa như vậy, bạn sẽ quăng đũa thần thứ hai, ba trăm Thiên nữ khác sẽ hiện xuống và múa trước đàn tỳ bà của bạn. Rồi hãy quăng chiếc đũa thần thứ ba, khi ấy ba trăm Thiên nữ khác sẽ hiện xuống và múa tại sân tròn của đấu trường. Ta cũng sẽ đến cùng với chúng. Hãy đi lên nào, chớ sợ hãi.

Vào buổi sáng Bồ-tát đi về nhà. Tại cửa cung vua, một cái đình tròn được dựng lên và đặt một chiếc ngai. Vua từ trên lầu xuống, ngồi chính giữa trên sàng tọa ở trong cái đình được trang hoàng rực rỡ. Mười ngàn nữ nhân phục sức diễm lệ, cùng với các đại thần Bà-la-môn, nhân dân v.v… vây xung quanh vua. Tất cả những người ở trong thành đều tụ họp lại. Trong sân chầu, họ sắp chỗ ngồi theo hình vòng tròn, hàng hàng lớp lớp chồng chất lên nhau.

Bồ-tát được tắm rửa, trang sức và xoa dầu thơm; sau khi ăn nhiều món thượng vị, ngài cầm cây đàn tỳ bà và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Còn Ðế Thích cũng đến, với phép tàng hình đứng trên hư không, được một hội chúng đông đảo vây quanh, nhưng chỉ Bồ-tát có thể thấy Ðế Thích. Mùsila cũng đến và ngồi trên chỗ của mình. Ðại quần chúng bao vây xung quanh họ.

Ðầu tiên, cả hai đều gảy đàn giống nhau. Ðại quần chúng thích thú với hai người gảy đàn và vỗ tay không ngớt. Ðế Thích đứng trên hư không nói với Bồ-tát:

– Hãy cắt đứt các dây!

Bồ-tát cắt đứt sợi dây Bhamra (sợi dây ong). Dù sợi dây bị cắt, đầu sợi dây đứt vẫn phát ra tiếng thiên nhạc. Mùsila cũng cắt đứt một dây, nhưng từ sợi dây bị đứt, tiếng không phát ra.

Sư trưởng cắt đứt dây thứ hai, lần lượt đến sợi dây thứ bảy, tiếng vẫn phát ra từ cây đàn và vang dậy cả kinh thành. Quần chúng vẫy hàng ngàn khăn tay trên hư không, hàng ngàn người vỗ tay tán thưởng.

Bồ-tát liền quăng một đũa thần lên hư không. Ba trăm Thiên nữ liền hiện xuống và bắt đầu nhảy múa.

Cũng vậy, khi Bồ-tát quăng đũa thần thứ hai, thứ ba, chín trăm Thiên nữ hiện xuống và cùng múa như Thiên chủ đã nói trước.

Lúc bấy giờ, vua ra dấu cho quần chúng. Quần chúng đứng dậy la to:

– Ngươi muốn đánh bại Sư trưởng! Ngươi phản thầy phản bạn, tưởng mình có thể đối địch thầy! Ngươi không biết lượng sức mình!

Họ la hét phản đối kẻ đối địch thầy! Ngươi không biết lượng sức mình!

Họ la hét phản đối, Mùsila, và đá với gậy v.v… hay bất cứ cái gì đến tay, họ đánh ông ta đến chết và cầm chân ông, quăng xác trên một đống rác.

Vua rất hoan hỷ ban cho Bồ-tát rất nhiều tặng phẩm như trời đổ mưa xuống và thị dân cũng làm như vậy.

Ðế Thích thân mật chào mừng Bồ-tát và nói:

– Thưa bậc Hiền trí, ta sẽ cho thắng cỗ xe với một ngàn con ngựa thuần chủng, rồi gởi thần đánh xe Màtali xuống đây. Ngài sẽ ngự lên cỗ xe Vejayanta thù thắng có ngàn ngựa kéo và ngài sẽ du hành thiên giới.

Nói xong, Ðế Thích ra đi. Khi Ðế Thích trở về và ngồi trên ngai vàng của mình toàn bằng đá quý, (ngai hoàng bảo thạch), các Thiên nữ liền hỏi:

– Thưa Thiên chủ, ngài đi ở đâu về?

Ðế Thích kể lại cho Thiên chúng rõ toàn câu chuyện với các chi tiết, rồi tán thán giới hạnh và công đức của Bồ-tát. Các Thiên nữ thưa:

– Thưa Thiên chủ, chúng con muốn thấy Sư trưởng ấy. Hãy đưa Sư trưởng đến đây!

Ðế Thích bảo Màtali:

– Này khanh, các Thiên nữ muốn thấy nhạc sĩ Guttali. Hãy đi mời Bồ-tát ngồi trên cỗ xe Vejayanta và đưa vị ấy đến đây.

Thần lái xe Màtali vang lời ra đi và đưa Bồ-tát đến. Ðế Thích hoan hỷ chào đón vị ấy và nói:

– Thưa Sư trưởng, các Thiên nữ muốn nghe nhạc của Sư trưởng.

Bồ-tát nói;

– Chúng tôi là nhạc sĩ, nương tựa vào nghề để sống. Hãy trả công rồi tôi sẽ chơi nhạc.

– Hãy chơi nhạc đi, ta sẽ trả công cho ngài!

– Tôi không cầu trả món gì khác trừ việc này: Hãy để cho các Thiên nữ này nói lên thiện nghiệp của mình, rồi tôi sẽ chơi nhạc.

Các Thiên nữ thưa:

– Sau khi được nghe nhạc thoải mái, chúng con sẽ nói lên các thiện nghiệp chúng con đã làm. Thưa Sư trưởng, vậy trước tiên hãy đánh nhạc.

Suốt bảy ngày Bồ-tát đánh nhạc, và nhạc của Bồ-tát vượt hơn cả thiên nhạc. Vào ngày thứ bảy, Bồ-tát hỏi các Thiên nữ về thiện nghiệp của họ. Một Thiên nữ, trong thời đức Phật Ca-diếp, đã cúng một thượng y cho một Tỷ-kheo. Sau khi tái sanh làm thị giả của Ðế Thích, nàng trở thành Thiên nữ có một ngàn tiên nữ khác hầu hạ. Bồ-tát hỏi nàng:

– Trong một đời trước, nàng đã làm gì khiến nàng được sanh tại đây?

Cách thức hỏi và câu hỏi và câu trả lời của nàng đã được kể trong Chuyện Thiên cung (Vimàna Vatthu) như sau:

Với dung sắc thù thắng,
Ôi thiên nữ vinh quang,
Nàng chiếu khắp mọi hướng,
Chẳng khác gì sao mai,
Từ đâu, này huy hoàng,
Từ đâu, các lạc thú
Xuất hiện ra cho nàng?
Các sở hữu khả ái
Làm tâm trí ưa thích?

Hỡi Thiên nữ đại lực!
Ta hỏi nàng điều này
Nàng tạo công đức gì,
Khi nàng là nữ nhân,
Khiến nay nàng đạt được
Ðại thần lực chói sáng,
Và dung sắc rực rỡ
Chiếu tỏa khắp mười phương?

Nàng là bậc nữ nhân
Ðã cúng dường thượng y,
Tối thắng giữa nam nhân,
Tối thắng giữa nữ nhân,
Khiến nay nàng đạt được
Tối thắng giữa nữ nhân,
Chính nàng đã bố thí
Vật khả ái như vậy,
Nên được sanh thiên cung,
Mỹ lệ và khả ái,
Hãy ngắm lâu đài ta!
Ta, Thiên nữ đẹp nhất,
Hãy xem quả dị thục
Các công đức ta làm,
Do vậy, ta tuyệt mỹ,
Do vậy, ta huy hoàng,
Ta được các sở hữu
Khả ái, tâm ưa thích,
Do vậy, ta huy hoàng,
Ta được các sở hữu
Khả ái, tâm ưa thích,
Do vậy ta đạt được
Tối thắng về uy lực,
Và dung sắc của ta
Chiếu tỏa khắp mười phương.

Sau khi đọc các bài kệ, các Thiên nữ tiếp tục kể:

– Một Thiên nữ khác đã cúng dường hoa cho một Tỷ-kheo đang đi khất thực. Một Thiên nữ khác được yêu cầu cúng dường năm loại vòng hoa thơm ở điện thờ Phật Ca-diếp, và nàng đã cúng dường chúng. Một Thiên nữ đã cúng dường các loại trái có vị ngọt. Một Thiên nữ khác đã nghe pháp từ các Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni đang hành đạo hay đang an cư mùa mưa tại nhà của một gia đình. Một Thiên nữ khác đứng trong nước cúng dường một Tỷ-kheo thọ trai trong một chiếc thuyền. Một Thiên nữ khác sống trong gia đình đã hầu hạ mẹ chồng, cha chồng, và không bao giờ tức giận. Một Thiên nữ khác chia phần món ăn mình nhận được cho một Tỷ-kheo và giữ giới hạnh. Một Thiên nữ là nữ tỳ trong một gia đình, không phẫn nộ, không kiêu mạn, đã san sẻ phần ăn của nàng, nên được sanh làm thị giả của Thiên chủ. Như vậy, tất cả ba mươi bảy Thiên nữ đã được Bồ-tát hỏi do họ đã làm nghiệp của mình làm.

Khi nghe chuyện này, Bồ-tát nói:

– Thật lợi ích cho ta, thật vô cùng lợi ích cho ta! Ta đã đến đây va nghe các thành tích đạt được nhờ các thiện nghiệp nhỏ nhặt biết bao. Từ nay khi trở về thế giới loài người, ta sẽ làm các thiện nghiệp như bố thí v.v…

Rồi, Bồ-tát thốt lên lời cảm hứng này:

Hôm nay ta may mắn
Rạng đông thật tốt lành
Ta thấy các Thiên nữ,
Diễm lệ và cao sang,
Và nghe pháp dịu ngọt!
Ta sẽ làm điều thiện,
Bố thí và chân thật,
Tự chế và khắc kỷ,
Ta sẽ đến chỗ kia,
Nơi không còn sầu muộn.

Bảy ngày đã qua, Thiên chủ Ðế Thích ra lệnh cho thần lái xe Màtali mời Guttila lên ngồi và đưa ngài về Ba-la-nại. Khi đến Ba-la-nại, ngài nói cho mọi người biết những việc mình đã thấy ở thiên giới. Từ đấy, mọi người quyết định làm việc lành với nỗ lực của họ.

*

Khi thuyết Pháp thoại này xong, bậc Ðạo sư nhận diện tiền thân:

– Mùsila là Ðề-Bà-đạt-đa, Ðế Thích là A-na-luật-đà (Anuruddha), vua là Ànanda và nhạc sĩ Guttila là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN LY DỤC (Tiền thân Viticcha)

Cái thấy, nó không muốn…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một du sĩ đã chạy trốn.

Người ta nói vị này không tìm được một người đối thoại với mình trong toàn cõi Diêm-phù-đề, nên đã đến Xá-vệ và hỏi:

– Ai có thể cùng với ta thảo luận?

Khi được nghe có bậc Chánh Ðẳng Giác, vị ấy liền đi Kỳ Viên với quần chúng vây quanh, và hỏi Thế Tôn một câu trong khi Thế Tôn đang thuyết pháp giữa bốn hội chúng.

Bậc Ðạo Sư trả lời cho vị ấy xong liền hỏi lại một câu. Du sĩ ấy không thể trả lời liền đứng dậy và bỏ chạy. Hội chúng đang ngồi đồng nói to:

– Bạch Thế Tôn, du sĩ ấy bị Thế Tôn đánh bại chỉ với một câu.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các nam cư sĩ, không phải chỉ nay, Ta mới đánh bại kẻ ấy với một câu hỏi. Thuở xưa, ta cũng đã làm như vậy rồi.

Và bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở nước Kàsi. Lúc lớn lên, ngài từ bỏ các dục, xuất gia trở thành vị ẩn sĩ du hành, sống lâu ngày trong núi Tuyết. Rồi Bồ-tát xuống núi, sống trong một chòi lá tại một khúc quanh sông Hằng, gần một thị trấn nhỏ.

Bấy giờ có một du sĩ không tìm được một người đối thoại với mình trong toàn cõi Diêm-phù-đề, đã đến thị trấn ấy và hỏi:

– Ai có khả năng đối thoại với ta không?

Khi được trả lời có người và nghe nói đến uy lực của Bồ-tát, vị ấy cùng đại chúng vây quanh đến trú xứ của Bồ-tát và sau khi chào hỏi ngài, vị ấy liền ngồi xuống. Bồ-tát hỏi:

– Ông có uống nước sông Hằng được pha trộn với các loại hương rừng hay không?

Du sĩ ấy dùng lời mở rộng vấn đề và nói:

– Cái gì là sông Hằng? Cát là sông Hằng? Nước là sông Hằng? Bờ bên này là sông Hằng? Bờ bên kia là sông Hằng chăng?

Bồ-tát nói:

– Hãy để một bên cát, nước, bờ bên này, bờ bên kia! Thế ông có được sông Hằng gì?

Du sĩ không trả lời câu ấy được, liền đứng dậy và bỏ chạy.

Khi kẻ ấy đã đi rồi, Bồ-tát thuyết pháp cho đại chúng ngồi nghe, và đọc các bài kệ này:

Cái thấy, nó không muốn,
Cái không thấy, nó muốn,
Ta nghĩ nó đi lâu,
Không được điều nó muốn.
Cái được, nó không thỏa,
Ðược rồi, nó không muốn,
Ước muốn nó không cùng,
Ta kính bậc ly dục.

*

Khi thuyết Pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ du sĩ ấy là du sĩ ngày nay, còn vị ẩn sĩ khổ hạnh là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN KINH PHÁP MÔN CĂN BẢN (Tiền thân Mùlapariyàya)

Thời gian ăn hữu tình…,

Câu chuyện này, khi ở rừng Subhaga gần Ukkatthà, bậc Ðạo Sư kể về kinh Mùlapariyàya.

Nghe nói lúc bấy giờ có năm trăm Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà, đã xuất gia trong Giáo pháp, đã học Ba Tạng kinh điển và sanh lòng ngã mạn.

Họ suy nghĩ “Bậc Chánh Ðẳng Giác biết Ba tạng Kinh điển, chúng ta và bậc Chánh Ðẳng Giác nào có khác gì? Họ không đi đến hầu Thế Tôn, và họ sống với một hội chúng đệ tử ngang bằng hội chúng của bậc Ðạo Sư.

Một hôm, bậc Ðạo Sư đi đến gặp họ, và khi họ đã ngồi gần mình, bậc Ðạo Sư Thuyết Kinh Căn bản pháp môn và tô điểm thêm tám thứ bậc tu chứng. Họ không hiểu được một lời gì. Trước kia, họ kiêu mạn nghĩ rằng không có bậc hiền trí nào bằng họ. Nay đứng trước mặt Phật, họ thấy họ không hiểu một tí gì. Họ tự bảo: “Thật không có ai hiền trí như chư Phật. Ôi công đức chư Phật thật tối thắng!”

Từ đấy trở đi, họ không còn kiêu mạn, trở thành hiền lành như rắn bị rút nanh.

Bậc Ðạo Sư trú ở Ukkatthà cho đến khi thỏa thích, rồi đi Vesàli, đến điện thờ Gotama và giảng Kinh Gotama. Cả ngàn thế giới đều rung động! Khi nghe kinh ấy xong, các Tỷ-kheo nầy trở thành các vị A-la-hán.

Nhưng khi bậc Ðạo Sư giảng xong Kinh Căn bản pháp môn và trú ở Ukkatthà, các Tỷ-kheo hội họp tại Chánh pháp đường, bắt đầu nói chuyện như sau:

– Thưa các Hiền giả, ôi uy lực của đức Phật thật vĩ đại. Các du sĩ Bà-la-môn ấy thường vẫn kiêu mạn tự đắc như vậy, nay đã diệt trừ kiêu mạn nhờ bài thuyết pháp về Căn bản pháp môn của Thế Tôn.

Bậc Ðạo Sư đến tại Pháp đường và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông hội họp ở đây đang bàn luận vấn đề gì?

Khi biết vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay mới như vậy. Thuở xưa những người này sống vói đầy giương cao tự đại, ta cũng đã nhiếp phục lòng kiêu mạn của họ.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vị ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài tinh thông ba tập Vệ-đà, trở thành bậc sư trưởng có danh tiếng nhiều phương và giảng dạy chú thần cho năm trăm thanh niên Bà-la-môn. Năm trăm thanh niên ấy chú tâm học tập cho đến thành tựu viên mãn, rồi lòng kiêu mạn khởi lên, họ tự nghĩ: “Chúng ta hiểu biết chừng nào, vị sư trưởng cũng hiểu chừng ấy thôi. Không có gì khác.”

Vì vậy họ không đi đến hầu sư trưởng, cũng không làm các bổn phận đối với sư trưởng.

Một hôm, họ thấy sư trưởng ngồi dưới gốc cây táo; muốn nhạo báng sư trưởng, họ lấy móng tay gõ vào cây táo và nói:

– Cây này thật sự không có lõi!

Bồ-tát biết họ nhạo báng mình, liền nói:

– Này các đệ tử, ta sẽ hỏi các anh một câu.

Họ thích thú nói:

– Hãy nói lên, chúng tôi sẽ trả lời.

Sư trưởng hỏi bằng cách đọc bài kệ đầu:

Thời gian ăn hữu tình,
Ăn tất cả, ăn mình,
Ai là hữu tình ấy
Ăn cả đến thời gian,
Ai là người nấu chín
Thời gian nấu hữu tình?

Nghe câu hỏi này, không một ai trong đám thanh niên Bà-la-môn có thể hiểu được. Rồi Bồ-tát nói với chúng:

– Chớ tưởng rằng câu hỏi này nằm trong ba tập Vệ-đà! Các anh tưởng rằng mình biết tất cả mọi điều ta biết. Các anh hành động giống như cây táo. Các anh không biết rằng ta biết được nhiều hơn mọi điều các anh biết. Hãy đi đi! Ta cho các anh bảy ngày. Hãy nghiền ngẫm câu hỏi này suốt thời gian ấy.

Họ đảnh lễ Bồ-tát, rồi đi về nhà của mình. Họ suy nghĩ suốt bảy ngày, nhưng cuối cùng không giải quyết được câu hỏi. Sau bảy ngày, họ đi đến gặp sư trưởng, đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Sư trưởng hỏi:

– Này các đệ tử với mặt mày hiền thiện kia, các anh có đáp câu hỏi ấy được không?

Họ trả lời:

– Thưa không, chúng tôi không biết.

Rồi Bồ-tát quở trách họ với bài kệ thứ hai:

Loài người có nhiều đầu,
Trên đầu tóc mọc lên,
Ðầu dính lên trên cổ,
Bao nhiêu đầu có tai?

Bồ-tát tiếp tục chê trách các thanh niên Bà-la-môn ấy:

– Các anh là người ngu si, tai của các anh chỉ có lỗ chứ không có trí tuệ.

Sau đó, Bồ-tát trả lời câu hỏi. Nghe xong, họ nói:

– Ôi, Sư trưởng thật vĩ đại thay!

Họ liền xin lỗi, rồi nhiếp phục lòng kiêu mạn và hầu hạ Bồ-tát.

*

Khi bậc Ðạo Sư thuyết Pháp thoại này xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ năm trăm thanh niên Bà-la-môn là những Tỷ-kheo này, còn vị sư trưởng là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN LỜI PHỈ BÁNG (Tiền thân Telovàda)

Người ác không tự chế…,

Câu chuyện này, khi ở tại ngôi nhà có nóc nhọn gần Vesàli (Tỳ-xá-ly) bậc Ðạo Sư đã kể về tướng quân Siha. Sau ngày quy y đức Thế Tôn, vị này đã mời Ngài dùng cơm có thịt. Các Ni-kiền tử nghe vậy liền phẫn nộ, không hoan hỷ. Muốn làm hại đức Như Lai, họ đã phỉ báng như sau:

– Samôn Gotama tuy biết món thịt bất tịnh được làm cố ý vì mình mà vẫn ăn.

Do đó các Tỷ-kheo ngồi tại Chánh pháp đường bắt đầu nói chuyện này:

– Này các Hiền giả, Ni-kiền tử Nàthaputta đi khắp nơi với hội chúng của mình và phỉ báng như sau: “Sa môn Gotama, tuy biết món thịt bất tịnh được làm cố ý vì mình mà vẫn ăn”.

Nghe vậy bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ni-kiền-tử Nàtaputta mới phỉ báng ta ăn món thịt được làm cố ý vì mình, mà trước kia vị ấy cũng hành động như vậy.

Rồi, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở trước, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài xuất gia làm vị ẩn sĩ.

Vì mục đích lấy muối và giấm, ngài từ vùng Tuyết Sơn đi đến Ba-la-nại, và ngày hôm sau, vào thành khất thực.

Có một điền chủ muốn làm hại vị tu khổ hạnh liền mời ngài vào nhà, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, và đãi món thịt cá. Sau buổi ăn, gia chủ ngồi xuống một bên vị ẩn sĩ thưa:

– Khi làm món thịt này, chính vì ngài mà tôi giết các loài vật hữu tình. Việc bất thiện này không thuộc chúng tôi, mà chỉ thuộc về ngài thôi.

Rồi ông ta đọc bài kệ đầu:

Người ác không tự chế,
Bảo giết, nấu, mời ăn,
Người ăn món thịt này,
Bị ác làm ô nhiễm.

Nghe vậy, vị ẩn sĩ đọc bài kệ thứ hai:

Nếu người không tự chế,
Giết vợ con, mời ăn,
Người có trí tuy ăn,
Không bị ác làm nhiễm.

Bồ-tát thuyết pháp như vậy rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

*

Khi thuyết Pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân.

– Lúc bấy giờ, người điền chủ là Ni-kiền-tử Nàtaputta, còn vị tu khổ hạnh là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN HOÀNG TỬ PÀDANJALI (Tiền thân Pàdanjali)

Thật sự hoàng tử này…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Trưởng lão Làludàyi (Udàyi khờ dại).

Một hôm, hai vị đại đệ tử đang bàn luận một câu hỏi. Các Tỷ kheo nghe cuộc bàn luận đều tán thán các Trưởng lão ấy.

Trưởng lão Làludàyi ngồi trong hội chúng bĩu môi và suy nghĩ: “Làm sao họ hiểu biết bằng ta được!” Thấy vậy, các Trưởng lão đứng dậy và đi. Hội chúng liền giải tán.

Sau đó, các Tỷ kheo ngồi Chánh pháp đường bắt đầu nói chuyện ấy:

– Này các Hiền giả, Làludàyi chỉ trích hai vị đệ tử tối thượng và bĩu môi.

Nghe chuyện ấy bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ kheo, không phải chỉ nay mà trước kia cũng vậy, ngoại trừ bĩu môi, Làludàyi không biết gì khác.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một đại thần cố vấn cho vua về thế sự và thánh sự. Vua có một hoàng tử tên là Pàdanjali, ngu đần và biếng nhác.

Sau một thời gian, vua mệnh chung. Khi tang lễ của vua đã xong, các đại thần suy nghĩ: “Chúng ta hãy làm lễ quán đảnh lên ngôi cho hoàng tử Pàdanjali”. Nhưng Bồ-tát nói:

– Hoàng tử này ngu đần và biếng nhác. Chúng ta lựa hoàng tử ấy làm lễ quán đảnh lên ngôi vua sao?

Sau đó, các đại thần tổ chức một cuộc xử án, đặt hoàng tử ngồi gần, và xử không đúng đắn. Họ xử người sở hữu chủ trở thành người mất tài sản và hỏi hoàng tử:

– Thưa hoàng tử, chúng tôi xử án như vậy có đúng không?

Hoàng tử bĩu môi. Bồ-tát suy nghĩ: “Ta tưởng hoàng tử ngu! Nhưng không phải, hoàng tử là người có trí biết vụ xử án không đúng đắn”, và Bồ-tát đọc bài kệ:

Thật sự hoàng tử này
Trí tuệ sáng hơn người,
Hoàng tử bĩu môi vậy,
Chắc thấy rõ chúng ta!

Ngày hôm sau, các đại thần lại tổ chức một cuộc xử án khác. Lần này họ xử đúng đắn và hỏi:

– Thưa hoàng tử, xử án như vậy có đúng không?

Hoàng tử cũng bĩu môi. Biết rằng hoàng tử chỉ là người ngu đần, Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Kẻ này không biết được
Pháp, phi pháp, chân, vọng,
Ngoài cái bĩu môi ra,
Nó không biết gì cả.

Các đại thần biết được Pàdanjali chỉ là kẻ ngu đần, nên họ làm lễ quán đảnh tôn Bồ-tát lên làm vua.

*

Khi bậc Ðạo Sư thuyết Pháp thoại này xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Pàdanjali là Làludàyi, còn vị đại thần hiền trí là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN THÍ DỤ CÂY KIMSUKA (Tiền thân Kimsukopama)

Tất cả các con ta…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Kinh Kimsukopama (Thí dụ cây Kimsuka).

Một hôm bốn Tỷ-kheo đi đến gặp đức Như Lai và xin đề tài thiền quán để tu tập. Bậc Ðại Sư gợi ý cho các vị ấy về đề tài thiền quán. Họ nhận được đề tài thiền quán Sáu xứ, đi về trú xứ của mình. Một vị trong số họ liễu tri Sáu xứ đã chứng quả A-la-hán. Một vị liễu tri Năm uẩn. Một vị liễu tri Bốn đại. Một vị liễu tri Mười tám giới đều chứng quả A-la-hán.

Bốn vị Tỷ-kheo trình lên bậc Ðạo Sư các quả chứng của mình. Khi ấy một Tỷ-kheo khởi lên tư tưởng: “Những đề tài thiền quán này có khả năng đưa đến Niết-bàn, vì sao tất cả lại đạt được quả A-la-hán?”, và vị này hỏi bậc Ðạo Sư.

Ngài đáp:

– Này các Tỷ kheo, sự kiện này có khác gì những người anh em thấy cây Kimsuka.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của họ, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, vua có bốn con trai. Một hôm, họ gọi người đánh xe và nói:

– Này bạn, chúng tôi muốn thấy cây Kimsuka. Hãy chỉ cây ấy cho chúng tôi.

Người đánh xe nói:

– Lành thay, tôi sẽ chỉ.

Nhưng người đánh xe không chỉ cây ấy cho bốn người cùng một lần. Anh ta đem người anh cả lên xe đi vào rừng, và chỉ cây Kimsuka vào thời nó chỉ là một thân cây với các nụ mới mọc, rồi nói:

– Ðây là cây Kimsuka.

Sau đó anh ta chỉ cho người thứ hai một cây Kimsuka có lá còn xanh, rồi chỉ cho người thứ ba một cây đang trổ hoa, và chỉ cho người thứ tư một cây Kimsuka đã sanh trái.

Sau một thời gian, bốn anh em ngồi với nhau, và nói câu chuyện này:

– Cây Kimsuka giống như cây gì?

Một người nói:

– Giống như một khúc cây bị cháy!

Người thứ hai nói:

– Giống như cây bàng!

Người thứ ba nói:

– Giống như miếng thịt!

Người thứ tư nói:

– Giống như cây keo.

Họ không đồng ý với câu trả lời của mỗi người, liền đi đến vua cha và hỏi :

– Thưa Phụ Vương, cây Kimsuka giống cây gì ?

Vua cha nói:

– Các con trả lời thế nào ?

Và họ trình bày với Vua cha câu trả lời của mình.

Vua nói:

– Bốn con đã thấy Kimsuka. Nhưng khi người đánh xe chỉ cây Kimsuka cho các con, các con không phân tích và hỏi: Trong thời gian này, cây Kimsuka giống cái gì? Trong thời gian khác, cây Kimsuka giống cái gì? Trong thời gian khác, cây Kimsuka giống cái gì? Do không hỏi vậy, nên các con sinh nghi ngờ.

Rồi, vua đọc bài kệ đầu:

Tất cả các con ta
Ðã thấy Kim-su-ka,
Nhưng chính ở nơi đây,
Cái gì làm con nghi?
Không hỏi người đánh xe,
Cây ấy ở thời nào?

Sau khi nêu rõ sự việc, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ kheo, giống như bốn anh em ấy, vì không biết phân tích và không hỏi, nên sinh nghi ngờ đối với cây Kimsuka, cũng vậy các ông đã phát sinh nghi ngờ về Chánh pháp này.

Rồi bậc Chánh Ðẳng giác đọc bài kệ thứ hai:

Như vậy những kẻ nào
Thiếu hiểu biết Chánh pháp,
Cũng phát sinh nghi ngờ
Ðối với các Chánh pháp,
Giống như các anh em
Với cây Kim-su-ka.

*

Khi bậc Ðạo Sư thuyết Pháp thoại này xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, vua Ba-la-nại là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON KHỈ SÀLAKA (Tiền thân Sàlaka)

Con là con độc nhất…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một đại Trưởng lão có danh tiếng.

Vị này đã truyền giới xuất gia cho một chàng trai và đã hành hạ người ấy. Sa-di này không chịu nổi sự hành hạ, bèn hoàn tục. Trưởng lão ấy đến và dỗ dành:

– Này chàng thanh niên, y của con sẽ là của con. Bát của con sẽ là của con. Y và bát của ta ấy cũng sẽ trở thành y và bát của con. Hãy xuất gia.

Chàng thanh niên nói:

– Con không muốn xuất gia.

Nhưng vị Trưởng lão nói đi nói lại mãi nên cuối cùng, thanh niên ấy xuất gia. Khi thanh niên ấy trở lại với Tăng chúng, Trưởng lão ấy bắt đầu hành hạ anh ta như trước. Thanh niên ấy không chịu nổi sự hành hạ, liền từ bỏ Tăng chúng một lần nữa và dầu được yêu cầu nhiều lần, anh ta vẫn nói:

– Ông không chịu nổi tôi, và cũng không chịu nổi không có tôi. Hãy đi đi. Tôi không muốn xuất gia.

Các Tỷ-kheo ngồi tại Chánh pháp đường bắt đầu nói chuyện này:

– Thưa các Hiền giả, chàng thanh niên ấy thật có tâm bén nhạy. Anh ta biết được tâm tánh của đại Trưởng lão này nên không xuất gia lại.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ kheo, nay các ông họp ở đây và bàn đến chuyện gì?

Khi nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay thanh niên ấy có tâm bén nhạy. Lúc trước anh ta cũng như vậy rồi. Một lần anh ta thấy được lỗi lầm của người ấy nên không chấp nhận người ấy nữa.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một người điền chủ. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát sống bằng nghề buôn bán lúa gạo. Một người khác làm nghề dụ rắn, đã dạy một con khỉ, bắt nó uống thuốc giải độc, rồi cho nó chơi với một con rắn, và sống với nghề ấy.

Vào ngày hội vui chơi được tổ chức, người dụ rắn muốn tham dự cuộc vui, liền giao con khỉ cho người buôn gạo này và dặn:

– Chớ xao lãng nó.

Sau khi vui chơi, đến ngày thứ bảy anh ta trở về, đến nhà người bán gạo và hỏi:

– Con khỉ ở đâu?

Con khỉ nghe tiếng nói của chủ, mau chóng từ nơi tiệm bán gạo đi ra. Lập tức người chủ lấy que đánh nó trên lưng, đưa nó vào vườn, trói nó một bên và nằm ngủ.

Ngay khi con khỉ biết người ấy đã ngủ, nó liền tự cởi trói, bỏ trốn và leo lên một cây xoài. Nó ăn trái xoài chín, rồi liệng hột xoài trên thân người dụ rắn. Anh ta thức dậy nhìn lên, thấy con khỉ liền nghĩ: “Với lời dịu ngọt, ta sẽ dụ dỗ con khỉ ấy xuống và sẽ bắt nó”. Vì vậy, anh ta đọc bài kệ đầu:

Con là con độc nhất,
Sẽ là chủ nhà ta,
Hãy từ cây leo xuống,
Hỡi con, Sà-la-ka!
Này con hãy về nhà,
Hãy sống chung với cha!

Nghe vậy, con khỉ đọc bài kệ thứ hai:

Phải chăng ông quá biết
Tâm tôi là thế nào!
Chính ông đã đánh tôi,
Với cây gậy bằng tre,
Tôi vui sống rừng xoài,
Có trái cây chín muồi,
Hãy đi về nhà ông,
Vậy tôi xin từ biệt!

*

Khi bậc Ðạo Sư thuyết Pháp thoại này xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con khỉ là Sa-di ấy, người dụ rắn là Trưởng lão này và người buôn lúa gạo là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN CON KHỈ (Tiền thân Kapi)

Ẩn sĩ này vui thích…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo lừa đảo.

Tánh lừa đảo của vị này được các Tỷ-kheo biết rõ. Tại Chánh pháp đường, họ bắt đầu nói chuyện này:

– Này các Hiền giả, Tỷ-kheo ấy, sau khi xuất gia trong Giáo pháp giải thoát của đức Phật, lại đầy những hành vi lừa đảo.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông họp ở đây đang luận bàn vấn đề gì?

Khi nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay kẻ ấy mới lừa đảo, mà thuở trước cũng đã như vậy rồi. Chỉ vì muốn hơ lửa mà khi còn là con khỉ, nó đã lừa gạt.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở nước Kà-si. Khi Bồ-tát đến tuổi trưởng thành và đã có một con trai biết chạy chơi, thì bà vợ, một nữ Bà-la-môn, mệnh chung. Bồ-tát ẵm con trai đi vào Hy-mã-lạp-sơn, xuất gia làm vị ẩn sĩ, cùng con trai hành trì khổ hạnh, và sống trong một chòi lá.

Trong mùa mưa, khi mưa rơi không dứt, một con khỉ bị lạnh bức bách, đi lang thang, răng đánh khớp và run cầm cập. Bấy giờ Bồ-tát mang về một đống củi lớn, đốt lửa, nằm trong giường nhỏ. Ðứa con trai ngồi bóp chân cha.

Con khỉ ấy tìm được áo choàng của một người tu khổ hạnh đã chết, liền quấn vào đắp lên vai. Nó cầm cái gậy và ghè nước trong cái áo của ẩn sĩ, nó đi đến chòi lá. Vì muốn được hơ lửa, nó đứng tại đấy, giả dạng một ẩn sĩ. Cậu bé tu khổ hạnh thấy nó, liền nói với cha:

– Này cha thân, có một nhà tu khổ hạnh đang đứng, bị lạnh bức bách, đang run cầm cập. Hãy gọi vị ấy đến hơ lửa.

Rồi cậu đọc bài kệ đầu:

Ẩn sĩ này vui thích
An tịnh và chế ngự,
Nay đang đứng run rẩy,
Ướt át và lạnh lẽo,
Hãy mời vị ấy vào,
Trong nhà của chúng ta
Ðể chế ngự cơn lạnh,
Và tất cả khổ đau.

Bồ-tát nghe con nói liền đứng dậy nhìn, biết nó là con khỉ, bèn đọc bài kệ thứ hai:

Nó không phải ẩn sĩ
Vui an tịnh, chế ngự,
Nó chỉ là con khỉ,
Tìm ăn giữa cành cây,
Nó thuộc loài độc ác
Sân hận và tham lam,
Nếu để nó vào đây,
Nó làm bẩn nhà này.

Nói vậy xong, Bồ-tát lấy một que lửa, dọa con khỉ và đuổi nó chạy. Con khỉ vội leo lên, và dầu nó có ưa thích hay không ưa thích rừng núi, nó cũng không bao giờ trở lại chỗ ấy nữa.

Còn Bồ-tát làm sanh khởi các Thắng trí và các Thiền chứng. Ngài dạy cho cậu thanh niên khổ hạnh ấy một đề tài thiền quán và giúp cậu tu tập Thiền quán và cậu cũng làm phát khởi các Thắng trí và các Thiền chứng. Cả hai không bao giờ thối thất Thiền định, nên sau khi mạnh chung, được sanh lên Phạm thiên giới.

*

Bậc Ðạo Sư thuyết Pháp thoại này và nêu rõ:

– Này các Tỷ-kheo, người này không phải chỉ nay mà thuở xưa cũng đã lừa đảo.

Sau đó Ngài thuyết giảng các Sự thật. Lúc chấm dứt bài giảng, một số đắc quả Dự-lưu, một số đắc quả Nhất lai, một số đắc quả Bất lai.

Và bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con khỉ là Tỷ-kheo lường gạt này, đứa con trai là Ràhula, và người ẩn sĩ là Ta vậy.

PHẦN 1 – CHƯƠNG I

[01] PHẨM APANNAKA
1. Chuyện Pháp Tối Thượng (Tiền Thân Apannaka)
2. Chuyện Bài Sa Mạc (Tiền Thân Vannupatha)
3. Chuyện Người Buôn Chè (Tiền Thân Serivànija)
4. Chuyện Tiểu Triệu Phú (Tiền Thân Cullakasetthì)
5. Chuyện Ðấu Gạo (Tiền Thân Tandulanàli)
6. Chuyện Thiên Pháp (Tiền Thân Devadhamma)
7. Chuyện Nàng Lượm Củi (Tiền Thân Katthahàri)
8. Chuyện Vua Gàmani (Tiền Thân Gàmani)
9. Chuyện Vua Makhàdeva (Tiền Thân Makhàdeva)
10. Chuyện Trưởng Lão Sukhavihàri (Tiền Thân Sukhavihàri)
[02] PHẨM GIỚI
11. Chuyện Con Nai Ðiểm Lành (Tiền Thân Lakkhana)
12. Chuyện Con Nai Cây Ða (Tiền Thân Nigrodhamiga)
13. Chuyện Mũi Tên (Tiền Thân Kandina)
14. Chuyện Con Nai Gió (Tiền Thân Vàtamiga)
15. Chuyện Con Nai Kharàdiya (Tiền Thân Kharàdiya)
16. Chuyện Con Nai Có Ba Cử Chỉ (Tiền Thân Tipallthamiga)
17. Chuyện Gió Thổi (Tiền Thân Màluta)
18. Chuyện Ðồ Ăn Cúng Người Chết (Tiền Thân Matakabhatta)
19. Chuyện Lễ Cúng Do Có Lời (Tiền Thân Àyàcitabhatta)
20. Chuyện Hồ Nalakapàna (Tiền Thân Nalakapàna)
[03] PHẨM KURUNGA
21. Chuyện Con Nai Sơn Dương (Tiền Thân Kurunga)
22. Chuyện Con Chó (Tiền Thân Kukkura)
23. Chuyện Con Ngựa Thuần Chủng (Tiền Thân Bhojaniya)
24. Chuyện Ðôi Ngựa Nòi Tốt (Tiền Thân Àjanna)
25. Chuyện Bến Tắm (Tiền Thân Tittha)
26. Chuyện Con Voi Ma Hilàmukha (Tiền Thân Mahilàmuka)
27. Chuyện Ðôi Bạn Thân Thiết (Tiền Thân Abhinha)
28. Chuyện Con Bò Ðại Hỷ (Tiền Thân Nandivisàla)
29. Chuyện Con Bò Ðen (Tiền Thân Kaniha)
30. Chuyện Con Heo Munika (Tiền Thân Munika)
[04] PHẨM KULAVAKA
31. Chuyện Tổ Chim Con (Tiền Thân Kulàvaka)
32. Chuyện Múa Ca (Tiền Thân Nacca)
33. Chuyện Sống Hoà Hợp (Tiền Thân Sammodamàna)
34. Chuyện Con Cá (Tiền Thân Maccha)
35. Chuyện Con Chim Cút (Tiền Thân Vattaka)
36. Chuyện Con Chim (Tiền Thân Sakuna)
37. Chuyện Con Chim Trĩ (Tiền Thân Tittira)
38. Chuyện Con Cò (Tiền Thân Nanda)
39. Chuyện Người Nô Lệ Nanda (Tiền Thân Nanda)
40. Chuyện Hố Than Lửa Cây Keo (Tiền Thân Khadirangàra)
[05] PHẨM LỢI ÁI
41. Chuyện Trưởng Lão Losaka (Tiền Thân Losaka)
42. Chuyện Chim Bồ Câu (Tiền Thân Kapota)
43. Chuyện Con Rắn Tre (Tiền Thân Veluka)
44. Chuyện Con Muỗi (Tiền Thân Makasa)
45. Chuyện Nữ Tỳ Rohini (Tiền Thân Rohini)
46. Chuyện Kẻ Làm Hại Vườn (Tiền Thân Ràmadùsaka)
47. Chuyện Rượu Mạnh (Tiền Thân Vàruni)
48. Chuyện Bà-La-Môn Vedabbha (Tiền Thân Vedabbha)
49. Chuyện Các Vì Sao (Tiền Thân Nakkhatta)
50. Chuyện Những Kẻ Vô Trí (Tiền Thân Dummedha)
[06] PHẨM ÀSIMSA
51. Chuyên Vua Ðại Giới Ðức (Tiền Thân Màhàsìlavà)
52. Chuyện Tiểu Janaka (Tiền Thân Cùla-Janaka)
53. Chuyện Bình Rượu Ðầy (Tiền Thân Punnapàti)
54. Chuyện Trái Cây (Tiền Thân Phala)
55. Chuyện Năm Vũ Khí (Tiền Thân Pancàyudha)
56. Chuyện Khối Vàng (Tiền Thân Kancanakkhandha)
57. Chuyện Khỉ Chúa (Tiền Thân Vànarinda)
58. Chuyện Ba Pháp (Tiền Thân Tayodhammà)
59. Chuyện Tiếng Trống (Tiền Thân Bherivàda)
60. Chuyện Thổi Tù Và (Tiền Thân Sankkhadhama)
[07] PHẨM NỮ NHÂN
61. Chuyện Bài Kinh Khổ Ðau (Tiền Thân Asàtamanta)
62. Chuyện Cô Gái Trên Bảy Tầng Lầu (Tiền Thân Andabhuta)
63. Chuyện Hiền Sĩ Chà Là (Tiền Thân Takka)
64. Chuyện Người Vợ Khó Hiểu (Tiền Thân Duràjàna)
65. Chuyện Nỗi Bất Mãn (Tiền Thân Anabhirati)
66. Chuyện Hoàng Hậu Từ Tâm (Tiền Thân Mudulakkhana)
67. Chuyện Người Ðàn Bà Thôn Quê (Tiền Thân Ucchanga)
68. Chuyện Thành Saketa (Tiền Thân Saketa)
69. Chuyện Con Rắn Phun Nọc Ðộc (Tiền Thân Visavanta)
70. Chuyện Hiền Giả Cái Cuốc (Tiền Thân Kuddàla)
[08] PHẨM VARANA
71.Chuyện Cây Varana (Tiền Thân Varana)
72. Chuyện Tượng Vương Ðức Hạnh (Tiền Thân Silavanàga)
73. Chuyện Ðúng Vậy Chăng (Tiền Thân Saccankira)
74. Chuyện Luật Cây Rừng (Tiền Thân Rukkhadhamma)
75. Chuyện Con Cá (Tiền Thân Maccha)
76. Chuyện Người Không Sợ Hãi (Tiền Thân Asankiya)
77. Chuyện Giấc Mộng Lớn (Tiền Thân Mahàsupina).
78. Chuyện Vị Triệu Phú Illìsa (Tiền Thân Illìsa)
79. Chuyện Tiếng Trống Ồn Ào. (Tiền Thân Kharasara).
80. Chuyện Người Thợ Dệt Bhimasena (Tiền Thân Bhimasena)
[09] PHẨM APAYIMHA
81. Chuyện Uống Rượu (Tiền Thân Suràpàna)
82. Chuyện Nam Tử Mittavida (Tiền Thân Mittavinda)
83. Chuyện Ðiềm Xui Xẻo (Tiền Thân Kàlakanni)
84. Chuyện Cửa Ngõ Hạnh Phúc (Tiền Thân Atthassadvàra)
85. Chuyện Cây Có Trái Lạ (Tiền Thân Kimpakka)
86. Chuyện Thử Thách Giới Ðức (Tiền Thân Sìlavìmamsana)
87. Chuyện Ðiềm Lành Dữ (Tiền Thân Mangala)
88. Chuyện Con Bò Sàrambha (Tiền Thân Sàrambha)
89. Chuyện Kẻ Lừa Ðảo (Tiền Thân Kuhaka)
90. Chuyện Kẻ Vong Ân (Tiền Thân Akatannu)
[10] PHẨM LITTA
91. Chuyện Chơi Súc Sắc Ngộ Ðộc (Tiền Thân Litta)
92. Chuyện Ðại Ðảo Vật (Tiền Thân Mahàsàra)
93. Chuyện Ngộ Ðộc Do Luyến Ái (Tiền Thân Vissàsabhojana)
94. Chuyện Nỗi Kinh Hoàng (Tiền Thân Lomahamsa)
95. Chuyện Vua Ðại Thiện Kiến (Tiền Thân Mahàsudassana)
96. Chuyện Bát Dầu (Tiền Thân Telapatta)
97. Chuyện Ðiềm Lành Của Tên (Tiền Thân Nàmasiddhi)
98. Chuyện Người Lái Buôn Lừa Ðảo (Tiền Thân Kùtavànija)
99. Chuyện Hơn Một Ngàn Kẻ Ngu. (Tiền Thân Parosahassa)
100. Chuyện Sắc Thân Bất Lạc (Tiền Thân Asàtarùpa)
[11] PHẨM PAROSSATA
101. Chuyện Hơn Một Trăm Kẻ Ngu (Tiền Thân Parosafa)
102. Chuyện Người Bán Rau (Tiền Thân Pannika).
103. Chuyện Kẻ Ngu. (Tiền Thân Veri)
104. Chuyện Chàng Trai Mittavinda (Tiền Thân Mittavida).
105. Chuyện Con Voi Sợ Chết (Tiền Thân Dubblakattha)
106. Chuyện Múc Nu&Ớc (Tiền Thân Udancani)
107. Chuyện Nghề Ném Ðá (Tiền Thân Sàlittaka)
108. Chuyện Kỳ Lạ (Tiền Thân Bàhiya)
109. Chuyện Bánh Bột Trấu Ðỏ (Tiền Thân Kundakapùva)
110. Chuyện Câu Hỏi Bao Quát Tất Cả (Tiền Thân Sabbasanhàraka-Panha)
[12] PHẨM HAMSA
111. Chuyện Câu Hỏi Của Con Lừa (Tiền Thân Gadrabha-Panha).
112. Chuyện Câu Hỏi Của Hoàng Hậu Bất Tử (Tiền Thân Amaràdevi-Panha)
113. Chuyện Con Chó Rừng (Tiền Thân Sigàla)
114. Chuyện Con Cá Nghĩ Vừa (Tiền Thân Mitacinti)
115. Chuyện Người Giáo Giới (Tiền Thân Anusàsika)
116. Chuyện Người Múa Giáo (Tiền Thân Dubbaca)
117. Chuyện Chim Ða Ða (Tiền Thân Tittira)
118. Chuyện Chim Cun Cút (Tiền Thân Vattaka)
119. Chuyện Con Gà Gáy Phi Thời (Tiền Thân Akàlaràvi)
120. Chuyện Giải Thoát Sự Trói Buộc (Tiền Thân Bandhanamokkha).
[13] PHẨM KUSANÀLI
121. Chuyện Thần Cây Cỏ Kusa (Tiền Thân Kusanàli)
122. Chuyện Kẻ Ngu (Tiền Thân Dummendha)
123. Chuyện Cái Cán Cày (Tiền Thân Nangalisa)
124. Chuyện Trái Xoài (Tiền Thân Amba)
125. Chuyện Người Nô Lệ Katàhaka (Tiền Thân Katàhaka)
126. Chuyện Tướng Của Kiếm (Tiền Thân Asilakkhana)
127. Chuyện Người Nô Lệ Kalanduka (Tiền Thân Kalanduka)
128. Chuyện Con Mèo (Tiền Thân Bilàra)
129. Chuyện Kẻ Thờ Lửa (Tiền Thân Aggika)
130. Chuyện Nữ Bà-La-Môn Kosiya (Tiền Thân Kosiya)
[14] PHẨM ASAMPADÀNA
131. Chuyển Kẻ Vong Ân (Tiền Thân Asampadàna)
132. Chuyện Ngũ Dục Lạc (Tiền Thân Pancagaru)
133. Chuyện Lửa Cháy (Tiền Thân Ghatàsana)
134. Chuyện Thiền Quán (Tiền Thân Thànasodhana)
135. Chuyện Nguyệt Quang (Tiền Thân Candàbha)
136. Chuyện Con Thiên Nga Vàng (Tiền Thân Suvannahamsa)
137. Chuyện Con Mèo (Tiền Thân Babbu)
138. Chuyện Con Cắc Kè (Tiền Thân Godha)
139. Chuyện Cả Hai Mặt Thất Bại (Tiền Thân Ubhatobhattha)
140. Chuyện Con Quạ (Tiền Thân Kàka)
[15] PHẨM KAKANTAKA
141. Chuyện Con Cắc Kè (Tiền Thân Godha)
142. Chuyện Con Chó Rừng (Tiền Thân Sigàla)
143. Chuyện Chiếu Sáng Như Mặt Trời (Tiền Thân Virocana)
144. Chuyện Cái Đuôi Bò (Tiền Thân Nanguttha)
145. Chuyện Con Vẹt Radha (Tiền Thân Radha)
146. Chuyện Con Quạ (Tiền Thân Kaka)
147. Chuyện Áo Vải Màu Đỏ (Tiền Thân Puppharatta)
148. Chuyện Con Chó Rừng (Tiền Thân Sigàlà)
149. Chuyện Cây Một Lá (Tiền Thân Ekapanna)
150. Chuyện Thanh Niên Sanjiva (Tiền Thân Sanjiva)


PHẨM APANNAKA

  1. CHUYỆN PHÁP TỐI THƯỢNG (Tiền thân Apannaka)

Có những người nói lên…

Ðức Thế Tôn, khi ở Tinh xá Kỳ Viên, gần Xá-vệ, đã thuyết pháp thoại này. Vì ai, pháp thoại này được đề cập? Vì năm trăm người bạn của vị triệu phú Cấp Cô Ðộc (Anàthapindika) đều là đệ tử ngoại đạo.

Một ngày kia, vị triệu phú Cấp Cô Ðộc đem năm trăm người bạn của mình đều là đệ tử ngoại đạo, cho mang theo nhiều vòng hoa, hương thơm, dầu hương cùng dầu thắp, mật ong, mật mía, vải và áo choàng, đi đến Kỳ Viên đảnh lễ Thế Tôn, cúng dường Ngài các vật liệu như vòng hoa v.v… và phân phát cho chư Tăng dược phẩm trị bịnh và vải mặc. Làm xong việc ấy, ông ngồi xuống một bên và tránh sáu tật xấu trong lúc ngồi.

Cũng vậy, các đệ tử ngoại đạo đảnh lễ Thế Tôn, và ngồi xuống một bên gần ông Cấp Cô Ðộc, nhìn lên gương mặt đức Bổn Sư chói sáng như trăng rằm, vẹn toàn các tướng tốt chính và phụ, nhìn lên Phạm thân tỏa ánh sáng rộng một tầm và nhìn lên hào quang rực rỡ của đức Phật, những hào quang phóng ra như thể từng đôi vòng, từng cặp một.

Rồi giống con sư tử trẻ rống như sấm động ở thung lũng Ðỏ, như mây bão tố trong mùa mưa, như sông Hằng thiên giới (dải Thiên Hà) ào ào đổ xuống, và như đan dệt một chuỗi châu báu, tuy vậy, với một Phạm âm đầy đủ tám phần tuyệt hảo, kỳ diệu làm tai thích thú, Ngài thuyết pháp cho họ, một pháp thoại dịu ngọt và chói sáng với nhiều vẻ đẹp khác nhau.

Họ nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, tâm được tịnh tín, liền đứng dậy đảnh lễ bậc Ðạo Sư, phá vỡ pháp quy y ngoại đạo, rồi quy y Phật. Từ đấy, họ luôn luôn đi đến tinh xá với ông Cấp Cô Ðộc, tay cầm hương thơm, vòng hoa v.v… nghe pháp, bố thí, trì giới và thọ Bát quan trai giới.

Rồi Thế Tôn từ Xá-vệ lại đi đến Vương Xá. Trong thời gian Như Lai đi vắng, họ phá vỡ pháp quy y Phật. Rồi họ lại quy y ngoại đạo, trở lui nguyên trạng của họ.

Sau bảy tám tháng, Thế Tôn về lại Kỳ Viên. Ông Cấp Cô Ðộc đem năm trăm người bạn đồng tu đi đến yết kiến bậc Ðạo Sư, cúng dường Ngài với hương thơm v.v… đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên. Ông Cấp Cô Ðộc báo cáo cho Thế Tôn biết sau khi Ngài ra đi, họ phá vỡ pháp quy y đã thọ, chấp nhận lại quy y pháp ngoại đạo, trở lui nguyên trạng của họ.

Mở miệng hoa sen của Ngài, như mở hộp châu báu, đầy những hương thơm sai biệt, thơm với hương thơm chư Thiên, do uy lực nói lời chơn thực, trải vô lượng ức kiếp không gián đoạn, Thế Tôn phát ra âm thanh dịu ngọt và hỏi:

– Này các nam cư sĩ, có thật chăng các ông đã phá vỡ Tam quy y, và đi theo quy y ngoại đạo?

Và khi không thể che giấu, họ thú nhận:

– Thật vậy, bạch Thế Tôn.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các cư sĩ, không có một chỗ nào dưới từ đáy địa ngục, trên cho đến chư Thiên, không có một chỗ nào trong các thế giới vô lượng trải rộng bề ngang, không có ai bằng, chớ đừng nói cao hơn đức Phật về những công đức như giữ giới v.v…

Rồi Ngài trình bày cho họ những công đức của Ba ngôi báu, như đã được nói đến trong kinh điển:

– Này các Tỳ-kheo, giữa các chúng sanh không chân, hai chân, hay bốn chân, Như Lai được gọi là tối thượng. Nếu có những tài sản nào ở đời này hay đời sau… Và thật vậy, tối thượng giữa những tín đồ…

Rồi Ngài nói tiếp:

– Không có một cư sĩ nào, nam hay nữ đã quy y Ba ngôi báu, những ngôi báu đầy đủ công đức tối thượng như vậy, phải tái sanh trong các địa ngục v.v… nhưng họ được thoát khỏi sanh vào đọa xứ, họ được sanh vào thế giới chư Thiên và đắc Thiền chứng lớn. Do đó, khi các ông phá vỡ quy y như vậy, và đi đến quy y ngoại đạo, các ông đã làm một việc sai lạc.

Và ở đây, để nêu rõ rằng không có ai đã quy y Ba ngôi báu với sự giải thoát tối thượng, lại phải sanh vào đọa xứ, những đoạn kinh này phải được nói lên:

Những ai quy y Phật
Sẽ không đi đọa xứ,
Từ bỏ thân làm người
Sẽ tràn đầy thiên giới.

Những ai quy y Pháp
Sẽ không đi đọa xứ,
Từ bỏ thân làm người
Sẽ tràn đầy thiên giới.

Những ai quy y Tăng
Sẽ không đi đọa xứ,
Từ bỏ thân làm người
Sẽ tràn đầy thiên giới.

Loài Người sợ hoảng hốt,
Tìm nhiều chỗ quy y,
Hoặc rừng rậm, núi non,
Hoặc vườn cây, đền tháp,
Quy y ấy không ổn,
Không quy y tối thượng,
Quy y các chỗ ấy
Không thoát mọi khổ đau.

Ai quy y đức Phật,
Chánh Pháp và chư Tăng,
Ai dùng chánh tri kiến
Thấy được Bốn sự thật,
Thấy Khổ và Khổ tập,
Thấy sự khổ vượt qua,
Thấy đường Thánh tám ngành
Ðưa đến khổ não tận.
Thật quy y an ổn,
Thật quy y tối thượng,
Có quy y như vậy
Mới thoát mọi khổ đau.

Bậc Ðạo Sư không chỉ thuyết pháp cho họ như vậy, Ngài còn nói tiếp:

– Này các nam cư sĩ, pháp hành niệm Phật, pháp hành niệm Pháp, pháp hành niệm Tăng đem lại Dự lưu đạo, Dự lưu quả, Nhất lai đạo, Nhất lai quả, Bất lai đạo, Bất lai quả, A-la-hán đạo, A-la-hán quả.

Và sau khi Ngài thuyết pháp cho họ với nhiều phương thức, Ngài nói:

– Với sự phá vỡ quy y như vậy, các ông đã làm một việc sai lạc.

Và ở đây, sự đem lại các Dự lưu đạo, Dự lưu quả v.v… cho những ai hành trì niệm Phật v.v… cần phải được nêu rõ với những đoạn kinh như sau:

– Này các Tỷ-kheo, có một pháp, nếu được tu tập, và được làm cho viên mãn, đưa đến hoàn toàn yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, Giác ngộ, Niết-bàn. Thế nào là một Pháp? Chính là niệm Phật v.v… Như vậy, Thế Tôn với các phương tiện khác nhau, thuyết giảng cho các nam cư sĩ:

– Này các nam cư sĩ, cũng vậy, trong thời quá khứ, những ai chấp chặt tà luận, chấp chặt điên đảo luận, nghĩ rằng cái gì không phải là chỗ quy y, lại xem là chỗ quy y chân thật, những người ấy sẽ bị quỷ Dạ-xoa ăn thịt trong cảnh sa mạc, chỗ trú của phi nhân, và bị lâm vào đại nạn. Còn những ai chấp chặt sự thật vô hý luận, chấp chặt pháp tối thượng, chấp chặt pháp không điên đảo, thì trong cảnh sa mạc ấy, họ đạt được yên ổn, an toàn.

Khi nói đến đây, Ngài im lặng. Rồi gia chủ Cấp Cô Ðộc từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, tán thán Ngài với hai tay đặt trên đầu và thưa như sau:

– Bạch Thế Tôn, nay thật rõ ràng cho chúng con thấy trong thời hiện tại, những người nam cư sĩ ấy, sau khi phá vỡ pháp quy y tối thượng, đã rơi vào rừng rậm tà luận. Nhưng trong quá khứ, đại nạn của những ai chấp chặt tà luận tại sa mạc, chỗ trú của phi nhân, và sự yên ổn an toàn của những người chấp chặt pháp vô hý luận, đối với chúng con đang bị che lấp, chỉ rõ ràng đối với Ngài. Lành thay, nếu Thế Tôn, như thể khiến mặt trăng tròn mọc lên, làm sáng tỏ sự kiện này cho chúng con.

Rồi Thế Tôn nói:

– Này gia chủ, chính vì mục đích loại bỏ các nghi nan ở đời, nhờ sự thực hành trọn vẹn mười hành Ba-la-mật trải vô lượng kiếp mà Ta chứng đắc Nhất thiết trí. Hãy cẩn thận lắng tai nghe, như thể các ông đang đổ tủy của sư tử vào một cái ống bằng vàng!

Sau khi khích lệ sự chú ý của người trieäu phú, Ngài nói lên câu chuyện đã bị tái sanh che lấp, như mặt trăng tròn được giải tỏa, sau khi phá tan đám mây tuyết.

*

Thuở xưa, trong nước Kàsi, tại thành Ba-la-nại, có vị vua tên là Brahmadatta. Khi ấy, Bồ-tát được sanh trong gia đình thương gia làm chủ đoàn lữ hành, và tiếp tục lớn lên, đi chỗ này chỗ kia buôn bán với năm trăm cỗ xe, khi thì đi từ đông qua tây, khi thì đi từ tây qua đông. Tại thành Ba-la-nại, có một người chủ đoàn lữ hành khác còn trẻ và ngu si, không giỏi tùy cơ ứng biến.

Lúc bấy giờ, sau khi chất đầy năm trăm cỗ xe với hàng hóa có giá trị lớn, Bồ-tát sẵn sàng lên đường. Người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu kia cũng chất đầy hàng hóa tương tự trên năm trăm cỗ xe khác, sẵn sàng lên đường. Bồ-tát suy nghĩ: “Nếu người chủ đoàn lữ hành ngu si và trẻ này đi với Ta, với một ngàn cỗ xe, cùng đi một lần trên con đường, thì con đường sẽ không thể chịu nổi; thật sẽ khó tìm được củi, nước cho đoàn người, và cỏ cho các con bò. Hoặc là nó, hoặc là ta phải đi trước”.

Ngài nhắn tin mời người ấy đến, trình bày sự việc và nói:

– Hai chúng ta không thể đi cùng một lần được. Vậy bạn sẽ đi trước hay đi sau?

Kẻ ấy suy nghĩ: “Nếu ta đi trước, sẽ có nhiều lợi ích. Ta sẽ đi con đường chưa bị hư phá, các con bò sẽ ăn cỏ chưa bị động chạm; còn các người nhà ta sẽ hái được các ngọn lá nấu cà-ri chưa bị động chạm, nước được trong lặng; và sau cùng định giá bán theo sở thích, ta sẽ bán các hàng hóa”.

Nghĩ vậy, kẻ ấy nói:

– Này bạn, tôi sẽ đi trước.

Còn Bồ-tát thấy đi sau có nhiều lợi ích vì ngài lý luận như vầy: “Những người đi trước sẽ san bằng con đường chưa được san bằng. Ta sẽ đi con đường đã được họ đi qua. Các con bò của ta sẽ ăn cỏ mới mọc và ngọt; người của ta sẽ tìm được các lá ngọt nấu cà-ri mới mọc tại chỗ các lá đã được hái đi. Tại chỗ không có nước, họ phải đào để lấy nước, chúng ta sẽ uống nước trong các giếng được người khác đào lên. Việc định giá giống như sát hại mạng sống con người, ta đi sau sẽ bán hàng hóa theo giá thông thường đã quy định”. Khi thấy những lợi ích như vậy, Bồ-tát nói:

– Này bạn, bạn hãy đi trước.

– Lành thay, này bạn.

Người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu si nói vậy rồi cho thắng các cỗ xe, ra đi, thứ lớp vượt qua các thôn xóm, và bắt đầu đến biên giới sa mạc. Thuở bấy giờ, các sa mạc có năm loại: sa mạc trộm cướp, sa mạc thú dữ, sa mạc không có nước, sa mạc phi nhân và sa mạc không có đồ ăn.

Trước tiên, con đường nào có trộm cướp trú ẩn, chỗ ấy được gọi là sa mạc trộm cướp; thứ hai, con đường nào có sư tử v.v… trú ẩn, được gọi là sa mạc thú dữ; thứ ba, chỗ nào không có nước để tắm hay uống, được gọi là sa mạc không có nước; thứ tư, con đường nào có các loài phi nhân (quỷ thần) trú ẩn, được gọi là sa mạc phi nhân; thứ năm, con đường nào không tìm thấy các loài rễ có thể ăn được v.v… được gọi là sa mạc không có đồ ăn.

Trong năm loại sa mạc này, có hai loại sa mạc nguy hiểm là sa mạc không có nước và sa mạc phi nhân. Do vậy, người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu si ấy cho đặt lên xe những ghè rất lớn, đổ đầy nước, và bắt đầu di chuyển vào bãi sa mạc dài sáu mươi dặm này.

Khi họ đã đi được nửa đường, con quỷ Dạ-xoa trú ở sa mạc nghĩ: “Ta sẽ làm cho những người này quăng nước cất giữ, làm cho họ yếu sức, rồi ta sẽ ăn thịt tất cả bọn họ”. Rồi nó hóa hiện một cỗ xe đẹp đẽ với những con bò mộng trắng trẻo. Ðược hộ vệ với mười mười hai phi nhân, tay cầm cung, tên, khiêng và binh khí, nó trang sức với vòng hoa sen xanh và hoa súng trắng trên đầu, với tóc ướt và áo ướt, ngồi trên cỗ xe ấy như một vị chúa tể, nó dấn bước trên đường với các bánh xe dính bùn. Còn đoàn tùy tùng đi trước và đi sau, với tóc ướt, áo ướt, trang sức với vòng hoa sen xanh và hoa súng, với những bó sen trắng, sen đỏ cầm tay, nhai những cọng sen, củ sen, nhỏ giọt nước và bùn.

Bấy giờ, khi gió thổi trước mặt, những người chủ đoàn lữ hành, theo lệ thường ngồi trong cỗ xe đi trước với những người hầu hạ bao vây để tránh bụi. Khi gió thổi đàng sau, họ đi xe phía sau. Nay gió thổi phía trước, do vậy, người chủ đoàn lữ hành trẻ đi xe ở phía trước. Con quỷ Dạ-xoa thấy người ấy đến gần, liền cho đậu xe ở một bên đường, chào đón một cách thân tình và hỏi đi đâu. Người chủ đoàn lữ hành cũng cho đậu xe của mình một bên đường và nói với quỷ Dạ-xoa:

– Thưa ông bạn, chúng tôi đi từ Ba-na-lại tới. Các ông trang sức với hoa sen xanh và hoa súng, tay cầm hoa sen trắng và đỏ, đang nhai những cọng sen và củ sen, lấm bùn vừa đi vừa chảy những giọt nước. Vậy phải trên đường các ông đi có mưa, có những hồ ao phủ đầy với hoa sen xanh chăng? v.v..

Quỷ Dạ-xoa, nghe hỏi, liền nói lớn:

– Này bạn, bạn nói gì vậy? Ðàng kia đã hiện rõ đường lằn sẩm của rừng xanh. Từ đó trở đi, toàn là rừng không có gì ngoài nước. Luôn luôn trời mưa, ở đó các hồ đều ngập; khắp nơi đều có những ao nước đầy hoa sen.

Sau khi nói như vậy và đoàn xe đã đi ngang qua, nó hỏi:

– Những cỗ xe này đi đâu vậy?

Và họ trả lời:

– Ði tới chỗ này, chỗ kia.

– Trong mỗi cỗ xe này, có hàng hóa gì vậy?

– Nhiều loại hàng hóa.

Rồi khi cỗ xe cuối cùng đi qua, chở rất nặng nề, nó hỏi:

– Trong cỗ xe này chơû gì vậy?

– Chở nước trong ấy.

– Từ chỗ khởi hành cho đến chỗ này, bạn đã mang nước là tốt. Nhưng từ chỗ này trở đi, không cần phải mang nước nữa. Từ phía trước mặt có nhiều nước. Hãy đập vỡ các ghè nước, để đi cho thoải mái.

Và nó nói thêm:

– Các ông hãy đi. Chúng tôi lên đường kẻo chậm trễ rồi!

Rồi nó đi một lát, đến chỗ khuất dạng, liền trở về thành Dạ-xoa. Người chủ lữ hành ngu si ấy, do sự ngu si của mình, nghe theo lời quỷ Dạ-xoa, cho đập vỡ các ghè, không để dành lại dù chỉ một bụm nước, cứ đổ tất cả và ra lệnh các xe đi. Càng đi về phía trước, một giọt nước cũng không có. Bọn họ không được nước uống trở thành mệt mỏi. Họ vẫn tiếp tục đi cho đến khi mặt trời lặn.

Khi ấy, họ tháo dây buộc xe ra, xếp thành một vòng tròn, và buộc các con bò vào bánh xe. Nhưng chúng cũng không có nước uống. Còn bọn họ không có cháo, không có cơm, nên yếu sức, nằm xuống khắp nơi rồi ngủ. Khi đêm vừa xuống, quỷ Dạ-xoa từ thành Dạ-xoa đi đến, diệt tất cả mạng sống bò và người, ăn thịt chúng, chỉ để lại xương rồi bỏ đi. Như vậy, chỉ vì một người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu si, tất cả đã mắc vào đại nạn, xương cốt của người và vật rải khắp nơi, chỉ năm trăm cỗ xe còn đứng yên với đầy đủ hàng hóa.

Phần Bồ-tát, đợi từ ngày người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu si ra đi, độ một tháng rưỡi trôi qua, với năm trăm cỗ xe từ thành phố ra đi, dần dần đi đến biên giới sa mạc. Vị ấy cho đỗ đầy nước vào các ghè nước, cho lấy thêm nhiều nước dự trữ rồi đánh trống hội họp đoàn người lại và nói như sau:

– Nếu không hỏi ta, thì một bụm nước cũng không được dùng. Có nhiếu cây độc trong bãi sa mạc, không một ai trong các chú được ăn lá, hoa, hay quả chưa ăn từ trước, mà không hỏi ta.

Sau khi chỉ dạy cho họ như vậy, Bồ-tát mới bắt đầu đi vào bãi sa mạc với năm trăm cỗ xe. Khi đi đến giữa sa mạc, quỷ Dạ-xoa ấy hiện hình ra trên con đường cửa Bồ-tát, như cách thức trước. Bồ-tát thấy nó liền nhận ra ngày và suy nghĩ: “Nơi này không có nước và được gọi là sa mạc không có nước. Người này có con mắt đỏ, bộ dạng không sợ hãi, lại không có bóng chiếu. Không nghi ngờ gì nữa, người chủ đoàn lữ hành ngu si và trẻ tuổi đi trước bị nó xúi giục, đã đổ tất cả nước, nên kiệt sức, và bị nó ăn thịt cùng cả đoàn tùy tùng. Nhưng nó không biết ta có tài trí và khéo dùng phương tiện”.

Vì vậy, Bồ-tát nói to với con quỷ:

– Ông hãy đi đi, chúng tôi là người lái buôn. Chưa thấy được nước khác, chúng tôi không đổ nước đã được dự trữ. Chỗ nào thấy nước, chúng tôi mới yên lòng đổ nước đi, làm cho nhẹ các cỗ xe.

Quỷ Dạ-xoa đi một lát, đến chỗ khuất dạng, liền về thành Dạ-xoa. Khi Dạ-xoa đã đi, đoàn người hỏi Bồ-tát:

– Thưa ông chủ, những người này chỉ cho thấy đằng kia là dãy rừng xanh. Phía ngoài xa khu rừng ấy, trời luôn luôn mưa. Họ đội trên đầu những vòng hoa sen xanh và hoa súng; họ cầm những bó hoa sen đỏ và trắng; họ hái các củ sen và cọng sen; áo bị ướt, đầu bị ướt; họ đi với những giọt nước rơi chảy. Vậy chúng ta hãy đỗ nước đi, khiến cho các cỗ xe được nhẹ, chúng ta đi mau hơn.

Bồ-tát nghe họ nói như vậy, liền cho dừng các cỗ xe, họp tất cả bọn người lại và hỏi:

– Trong các chú, có ai trước đây nghe nói rằng bãi sa mạc này có ao hay hồ không?

– Thưa ông chủ, không có ai nghe cả. Vì thế nơi này được gọi là bãi sa mạc không có nước.

– Nay có một số người nói rằng xa hơn dãy rừng xanh đàng kia, trời có mưa. Gió mưa có thể thổi xa được bao nhiêu?

– Thưa ông chủ, khoảng độ một dặm (do-tuần).

– Gió mưa có thể thổi đến chạm thân của một ai trong các chú không?

– Thưa ông chủ, không.

– Cách xa bao nhiêu, đầu mây có thể thấy được?

– Khoảng độ một dặm, thưa ông chủ.

– Có ai trong các chú được thấy một đầu mây không?

– Thưa ông chủ, không có ai.

– Xa bao nhiêu, ánh sáng chớp có thể thấy được?

– Thưa ông chủ, khoảng bốn năm dặm.

– Có ai trong các chú thấy được ánh sáng chớp?

– Thưa ông chủ, không có ai!

– Tiếng sấm xa bao nhiêu có thể nghe được?

– Thưa ông chủ, khoảng hai ba dặm.

– Có ai trong các chú nghe được tiếng sấm?

– Thưa ông chủ, không có ai.

– Chúng không phải là người. Chúng là quỷ Dạ-xoa. Dạ-xoa đến và nghĩ: “Chúng ta xúi đoàn người đổ nước, và khi đoàn người yếu sức, chúng ta sẽ ăn thịt họ! Vì người chủ đoàn lữ hành ngu si và trẻ tuổi đi trước không có thiện xảo phương tiện, chắc chắn bị chúng xui đổ nước đi và khi mệt nhọc, họ đã bị quỷ Dạ-xoa ăn. Còn năm trăm cỗ xe được để lại đựng đầy hàng hóa như trước. Hôm nay, chúng ta sẽ thấy chúng nó. Ðừng đổ đi, ngay cả một bụm nước cũng phải gìn giữ. Hãy đi tới, càng mau càng tốt.

Ðốc thúc đoàn người của mình đi tới, Bồ-tát tiếp tục đi cho đến khi thấy được năm trăm cỗ xe đầy hành hóa, xương cốt của các con bò và đoàn người bất hạnh trước rải rác khắp mọi nơi. Ngài cho tháo dây buộc các xe, đặt các xe thành vòng tròn, họp lại thành trại, cho đoàn người và bò ăn chiều sớm, rồi sắp các con bò nằm nghỉ giữa bọn họ.

Rồi ngài tuyển một số người lãnh đạo mạnh mẽ, tự mình đứng canh gác với gươm cầm tay, suốt ba canh ban đêm cho đến khi rạng đông. Sáng sớm ngày kế tiếp, ngài cho làm xong các công việc cần thiết, cho các con bò ăn, quăng bỏ các cỗ xe yếu ớt, lấy các cỗ xe vững mạnh, quăng bỏ loại hàng hóa ít có giá trị, chất lên hàng hóa có giá trị, đi đến chỗ đã định trước, và bán các hàng hóa với giá tiền bằng hai ba giá vốn. Sau đó, ngài cùng với đoàn tùy tùng trở về thành phố của mình.

*

Câu chuyện chấm dứt, bậc Ðạo Sư nói:

– Này cư sĩ, như vậy trong thời quá khứ, những ai chấp chặt tà luận, phải gặp đại nạn. Còn những ai chấp nhận sự thật vô lý luận đã thoát khỏi tay các phi nhân, và đến chỗ mình muốn một cách an toàn.

Và sau khi kết hợp hai câu chuyện với nhau, vì mục đích giới thiệu lời dạy về sự thật vô hý luận này, bậc Chánh Giác bài kệ:

Có những người nói lên
Sự thật vô hý luận,
Nhưng các hạng người khác
Tuyên bố về tà luận.
Kẻ trí biết điều này,
Giữ chặt pháp tối thượng.

Như vậy Thế Tôn dạy về pháp chân thật vô hý luận này, rồi Ngài nói thêm:

– Con đường chân chánh này không những đem lại ba thiện sự thành tựu, sáu cõi Trời ở dục giới, sự thành tựu Phạm Thiên giới, mà cuối cùng đem quả A-la-hán. Còn con đường gọi là tà luận đem đến tái sanh trong bốn đọa xứ và trong năm gia đình thấp kém.

Tiếp đó Ngài giảng thêm về Bốn Sự thật với mười sáu hành tướng. Cuối bài giảng ấy, tất cả năm trăm nam cư sĩ chứng quả Dự lưu.

Sau khi thuyết pháp, bậc Ðạo Sư nêu rõ những bài học và kể hai câu chuyện rồi kết hợp chúng với nhau, Ngài nhận diện Tiền thân như sau:

– Trong thời ấy, người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu si là Ðề-bà-đạt-đa (Devadatta), tùy tùng của kẻ ấy là tùy tùng của Ðề-bà-đạt-đa, tùy tùng của người chủ đoàn lữ hành hiền trí là tùy tùng của đức Phật, còn người chủ đoàn lữ hành Hiền trí là Ta vậy.

  1. CHUYỆN BÃI SA MẠC (Tiền thân Vannupatha)

Không quản mệt, họ đào…,

Pháp thoại này được Thế Tôn nói lên khi Ngài ở Xá-vệ. Vì ai mà Ngài nói? Vì một Tỳ-kheo đã từ bỏ tinh tấn. Khi Thế Tôn ở tại Xá-vệ, có một thiện gia nam tử trú ở Xá-vệ đi đến Kỳ Viên, nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, tâm sanh tịnh tín, thấy nguy hiểm trong các dục, nên xin xuất gia. Sống năm năm chờ thọ Cụ túc giới, người ấy học thuộc lòng hai bài tóm tắt, tu tập pháp môn Thiền quán, nhận lấy từ bậc Ðạo Sư một đề tài Thiền quán mà mình ưa thích, rồi đi vào một ngôi rừng.

Trải qua một kỳ an cư mùa mưa, sau ba tháng, vị ấy không thể khởi lên một tia sáng hay một quán tưởng gì. Rồi vị ấy suy nghĩ: “Bậc Ðạo Sư dạy có bốn hạng người. Trong họ, ta có phải là hạnh thấp kém nhất không? Ta nghĩ rằng không thể có Ðạo và Quả cho tự thân ta, vậy ta sống trong rừng làm gì? Hãy đi về bậc Ðạo Sư, sống để chiêm ngưỡng thân Phật với dung sắc tối thượng, để nghe thuyết pháp dịu ngọt còn hơn.

Nghĩ vậy, vị ấy trở về Kỳ Viên. Các bạn thân tín nói với vị ấy:

– Này Hiền giả, bạn đã nhận được từ bậc Ðạo Sư một đề tài Thiền quán, đã đi với quyết tâm thực hiện pháp Sa-môn. Nay bạn lại trở về, sống vui thích với hội chúng. Hay là bạn đã đạt được mục đích tối thượng của bổn phận người xuất gia, và đã chấm dứt tái sanh?

– Này các Hiền giả, tôi không chứng được cả Ðạo lẫn Quả, tự nghĩ mình là người không có khả năng, nên tôi từ bỏ tinh tấn và về đây.

– Này Hiền giả, bạn đã làm một việc không phải, khi đã xuất gia trong Giáo pháp của bậc Ðạo Sư kiên trì tinh tấn, bạn lại từ bỏ tinh tấn. Hãy đi đến yết kiến Như Lai. Chúng ta sẽ trình bày để Ngài rõ chuyện này.

Họ đưa vị này đến gần bậc Ðạo Sư. Khi Ngài thấy vị ấy, liền nói:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đem Tỷ-kheo này đến đây ngoài ý muốn của vị ấy. Người này đã làm gì?

– Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này, sau khi xuất gia trong Giáo pháp chân chánh giải thoát như vậy, sau khi thực hành Sa-môn pháp, lại từ bỏ tinh tấn và trở về đây.

Thế Tôn nói với Tỷ-kheo ấy:

– Này Tỷ-kheo, có thật chăng ông đã từ bỏ tinh tấn?

– Thưa thật vậy, bạch Thế Tôn.

– Này Tỷ-kheo, vì sao sau khi xuất gia trong Giáo pháp như vậy, ông lại không biết sống ít dục, tri túc, viễn ly hay tinh tấn, nhưng lại là người từ bỏ tinh tấn? Do sự tinh tấn của một mình ông, mà trong bãi sa mạc toàn cát, đoàn người và đàn bò của năm trăm cỗ xe đã được nước uống, đã sống an lạc. Nay vì sao ông lại từ bỏ tinh tấn?

Với những lời như vậy, vị Tỷ-kheo ấy cảm thấy được khích lệ sách tấn. Nghe nói như vậy, các Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, chúng con đã rõ sự từ bỏ tinh tấn hiện này của vị Tỷ-kheo này. Nhưng thuở trước, do sự tinh tấn của một mình người này, trong bãi sa mạc toàn cát, các đàn bò và đoàn người đã uống nước và sống an lạc. Câu chuyện ấy đang còn bị che đậy đối với chúng con, chỉ được rõ ràng với Thế Tôn là bậc Nhất thiết trí. Hãy nói cho chúng con câu chuyện này.

– Vậy này các Tỷ-kheo, hãy lắng nghe.

Sau khi gợi sự chú ý của các Tỷ-kheo, Thế Tôn nêu lên rõ ràng sự việc đã xảy ra trong quá khứ.

*

Thuở trước, trong khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại nước Kàsi, Bồ-tát sanh ra trong gia đình chủ đoàn lữ hành thương gia, lớn lên và thường đi buôn bán với năm trăm cỗ xe. Một thời Bồ-tát đi vào bãi sa mạc toàn cát, dài sáu mươi dặm, với năm trăm cỗ xe. Trong sa mạc ấy, cát rất mịn, khi được vốc trong nắm tay, thì nó sẽ chảy xuống hết. Khi mặt trời mọc lên, cát trở thành nóng như đống than hừng, không thể nào đi lên trên được. Do vậy, những ai đi qua bãi sa mạc ấy, đem theo củi, nước, dầu, gạo… trên các cỗ xe, chỉ đi ban đêm; khi mặt trời mọc, họ xếp các cỗ xe thành hình vòng tròn, làm một cái tàn che trên đầu, sau khi ăn xong thật sớm, họ thường ngồi trong bóng mát trọn ngày.

Khi mặt trời lặn, họ ăn chiều sớm, cát đã nguội, họ cho thắng các cỗ xe lại và ra đi. Ði qua bãi sa mạc này giống như đi biển vậy. Người hướng dẫn, được gọi là “địa lý trưởng” hướng dẫn đoàn lữ hành đi qua nhờ sự hiểu biết các ngôi sao. Người chủ đoàn lữ hành này thời bấy giờ đi qua bãi sa mạc với phương tiện như vậy.

Sau khi đi hết năm mươi dặm, vị ấy nghĩ: “Hôm nay, còn một đêm nữa, ta sẽ ra khỏi sa mạc này”. Sau khi ăn chiều, vị ấy ra lệnh vứt bỏ củi và nước, thắng các xe và ra đi. Người lữ hành trưởng cho trải tấm vải trong cỗ xe đi đầu để ngồi nhìn các ngôi sao và từ đó nói lên con đường sẽ đi, rồi nằm xuống. Vị ấy đã có một thời gian dài không ngủ, nên mệt mỏi, ngủ say, không biết rằng các con bò đã đi vòng quanh và trở lại con đường cũ. Các con bò suốt đêm đi như vậy.

Khi trời rạng đông, vị lãnh đạo thức dậy, nhìn các ngôi sao và bảo:

– Hãy cho quay các cỗ xe trở lại gấp!

Nhưng khi các cỗ xe đã quay trở lại, và xếp thành hàng thì trời đã sáng. Các người trong đoàn nói:

– Hôm qua, chúng ta đã cho các cỗ xe cắm trại ở đây. Củi và nước chúng ta đã vứt bỏ hết. Nay chúng ta bị nguy khốn rồi.

Họ tháo dây buộc các xe, xếp thành vòng tròn, dăng một màn che trên đầu, mỗi người nằm xuống dưới cỗ xe của mình, sầu muộn tuyệt vọng. Bồ-tát suy nghĩ: “Nếu ta từ bỏ tinh tấn, tất cả sẽ bị nguy hại”. Vào buổi sáng, khi trời đang mát, vị ấy đi qua đi lại, thấy một đám cỏ dabbha, tự nghĩ: “Dưới đám cỏ này, chắc thế nào cũng có nước mạch, cỏ mới mọc được”, bèn cho lấy cuốc và đào chỗ ấy. Họ đào đến sáu mươi khuỷu tay; đến đây, cuốc chạm vào hòn đá ở dưới. Khi ấy, tất cả đều thất vọng, không cố gắng nữa. Bồ-tát nghĩ rằng thế nào cũng có nước dưới hòn đá. Ngài đi xuống, đứng trên hòn đá. Cúi xuống, Ngài lắng tai nghe. Nghe được tiếng nước chảy dưới hòn đá, ngài leo lên lại, nói với người thị giả hầu cận:

– Này bạn thân, nếu bạn từ bỏ tinh tấn, thì tất cả chúng ta sẽ bị nguy hại. Bạn chớ từ bỏ tinh tấn. Hãy cầm cái búa lớn, đi xuống và đập trên hòn đá ấy!

Vâng theo lời chủ, trong khi tất cả mọi người đều đứng chán nản, người này không từ bỏ tinh tấn, leo xuống và đập hòn đá. Hòn đá bị vỡ ở giữa, rơi xuống và dòng nước phun đứng lên, cao ngang thân cây thốt nốt. Tất cả mọi người đều uống nước và tắm, rồi chặt phát các bánh xe, trục xe dư thừa, nấu cháo và cơm. Khi ăn xong, họ cho bò ăn.

Ðến khi trời lặn, họ buộc một cây cờ cắm gần dòng nước, rồi đi đến chỗ đã định. Tại đấy, họ bán hành hóa lấy được tiền lòi gấp hai, gấp bốn lần tiền vốn, rồi trở về nhà. Họ sống hết tuổi thọ, và khi mệnh chung đi theo nghiệp của mình. Còn Bồ-tát, trọn đời bố thí và làm các công đức, cũng đi theo nghiệp của mình.

*

Khi nói xong pháp thoại này, bậc Chánh Ðẳng Giác đọc bài kệ:

Không mệt mỏi, họ đào,
Họ đào con đường cát
Ðến khi có dòng nước
Tại đấy, họ được nước!
Cũng vậy, bậc ẩn sĩ
Với sức mạnh tinh tấn,
Không thối chí mệt mỏi,
Tìm được tâm an tịnh.

Rồi Ngài giảng về Bốn Sự thật. Cuối bài giảng, vị Tỷ-kheo đã từ bỏ tinh tấn ấy chứng quả tối cao, quả A-la-hán.

Sau khi bậc Ðạo Sư kể xong hai câu chuyện và kết hợp chúng với nhau, Ngài kết luận bằng sự nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, người thị giả không từ bỏ tinh tấn, đập vỡ hòn đá và đem lại nước cho đoàn người tức là vị Tỷ-kheo đã từ bỏ tinh tấn này. Tùy tùng của vị chủ đoàn lữ hành là tùy tùng của đức Phật, còn vị chủ đoàn lữ hành là Ta vậy.

  1. CHUYỆN NGƯỜI BUÔN CHÈ (Tiền thân Serivànija)

Nếu đây ông thối thất…

Thế Tôn thuyết pháp thoại này khi ở Xá-vệ, cũng liên hệ đến một Tỷ-kheo từ bỏ tinh tấn. Khi vị ấy được các Tỷ-kheo đưa đến bậc Ðạo Sư, trong trường hợp giống như câu chuyện trươùc, bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, ông xuất gia trong Giáo pháp đem lại Ðạo và Quả như vậy, lại từ bỏ tinh tấn, ông sẽ sầu muộn lâu dài, như người lái buôn Seriva đã mất một cái bát bằng vàng trị giá trăm ngàn đồng tiền vàng.

Các Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn phân tích sự việc này. Thế Tôn làm sáng tỏ ý nghĩa qua câu chuyện quá khứ sau đây:

*

Thuở xưa năm kiếp về trước, Bồ-tát ở trong nước Seri, làm nghề đi buôn ghè bát và được gọi là Serivan. Serivan cùng với một người lái buôn bán ghè bát tham lam khác, vượt qua con sông Talavaha đi vào thành Andhapura, phân chia những con đường trong thành, bán hàng hóa của mình tại con đường đã được phân chia. Còn người kia nhận con đường phần mình. Trong thành ấy, có một gia đình triệu phú bị sa sút. Tất cả con trai, anh, em và tài sản đều bị mất sạch. Những người sống sót là một người con gái và một bà nội, cả hai bà cháu sống bằng nghề làm thuê cho các người khác. Nhưng trong nhà có một cái bát bằng vàng, xưa kia người đại triệu phú dùng để ăn cơm. Bát ấy lâu ngày bị quăng vào giữa các chén bát khác không được dùng đến và bụi nhớp dính đầy. Họ không biết cái bát ấy bằng vàng. Lúc bấy giờ, người lái buôn tham lam kia, đang vừa đi vừa rao:

– Hãy lấy ghè nước, hãy lấy ghè nước.

Và đến cửa ngôi nhà. Người con gái thấy kẻ ấy liền nói với bà nội:

– Thưa bà, hãy lấy cho con một đồ trang sức.

– Này con thân, chúng ta rất nghèo, đem đổi cái gì để lấy ghè nước?

– Có một cái bát không giúp ích gì cho chúng ta. Hãy đem cái này đổi lấy ghè.

Bà cho gọi người lái buôn, lấy ghế mời ngồi, đưa cái bát cho kẻ ấy và nói:

– Này ông, hãy lấy vật này và đổi cho chị một chút gì.

Người lái buôn cầm bát suy nghĩ: “Bát này có thể bằng vàng”, xoay bát trên tay, cạo một đường với một cây kim sau lưng bát, biết được bát bằng vàng, kẻ ấy nghĩ: “Không cần cho những người này một cái gì cả, ta sẽ lấy cái bát”, bèn nói:

– Vật này mà giá bao nhiêu? Giá của nó không đáng nửa đồng xu.

Kẻ ấy quăng bát xuống đất, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi bỏ đi. Bấy giờ, giữa hai người lái buôn có sự thỏa thuận rằng khi một người đã vào con đường rồi bỏ đi, người kia có thể vào con đường ấy được. Vì thế Bồ-tát đi vào con đường ấy, rao hàng:

– Ai lấy ghè nước không?

Và đi đến cửa ngôi nhà ấy. Cô con gái nói với bà nội như trước. Bà nội nói với cô:

– Này con thân, người lái buôn đến trước đã quăng bát xuống đất và bỏ đi, nay chúng ta có thể cho cái gì để lấy được?

– Thưa bà, người lái buôn kia ăn nói thô ác. Còn người này có dáng mặt dễ thương, ăn nói dịu dàng. Rất có thể người này nhận lấy.

– Vậy hãy gọi họ lại.

Cô gái gọi người này lại.

Khi vị này vào nhà và ngồi, họ đưa cái bát cho xem. Vị này biết cái bát là bằng vàng liền nói:

– Thưa mẹ, cái bát này đáng giá trăm ngàn đồng tiền vàng. Tôi không có trong tay tôi hàng hóa giá trị bằng cái bát này.

– Này ông, người lái buôn đi đến trước nói rằng cái này không đáng giá nửa đồng xu, đã quăng bát xuống đất bỏ đi. Nay bát này nhờ công đức của ông, trở thành bằng vàng. Vậy chúng tôi cho ông cái bát này. Hãy cho chúng tôi một chút ít thứ gì, lấy cái bát và ra đi.

Lúc đó Bồ-tát có trong tay tám trăm đồng tiền vàng và hàng hoá trị giá năm trăm đồng tiền vàng, liền đem cho tất cả và nói:

– Hãy cho tôi giữ lại cái cân, cái giỏ và tám đồng tiền vàng.

Sau khi xin như vậy rồi, ngài cầm lấy cái bát và ra đi. Ngài đi mau đến bờ sông, cho người chủ thuyền tám đồng tiền và leo lên thuyền. Khi ấy, người lái buôn tham lam trở lại và nói:

– Hãy đem cái bát ra đây, ta sẽ cho các người một ít thứ gì.

Nhưng bà già mắng lại kẻ ấy:

– Chú cho rằng cái bát bằng vàng của chúng ta trị giá một trăm ngàn đồng lại không đáng giá nửa đồng xu! Nhưng một người lái buôn chân chánh, giống như thầy của chú, đã cho chúng ta một ngàn đồng vàng, lấy cái bát và ra đi rồi.

Nghe nói như vậy, kẻ ấy than:

– Ta đã mất đi cái bát bằng vàng trị giá một trăm ngàn đồng tiền vàng rồi. Nó thật là tên ăn cướp đã hại ta.

Người lái buôn tham lam ấy sanh khởi ưu tư sầu muộn, không thể tập trung tâm trí, trở thành điên loạn, tự tay vung vãi đồng tiền vàng và hàng hóa trước cửa nhà ấy, quăng bỏ áo mặc, áo choàng, và tay cầm cán cân như cái gậy đi theo con đường của Bồ-tát, đến bờ sông. Thấy Bồ-tát đã đi qua sông, kẻ ấy liều kêu:

– Hỡi bạn lái đò, hãy quay lại.

Nhưng Bồ-tát ngăn chận và nói:

– Ðừng quay lại.

Thấy Bồ-tát dần dần đi xa, sầu muộn ưu tư của kẻ ấy khởi lên, quả tim nóng ran, máu nóng trào ra miệng và quả tim ấy bị nứt ra như bùn dưới đáy của một bể nước. Do hận tâm chống Bồ-tát, kẻ ấy mệnh chung ngay tại chỗ. Ðây là lần đầu tiên Ðề-bà-đạt-đa có hận tâm chống Bồ-tát. Còn Bồ-tát, trọn đời làm các công đức như bố thí… rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi thuyết pháp thoại này xong, bậc Chánh Giác đọc bài kệ:

Nếu đây ông thối thất
Không hướng đích diệu pháp,
Ông sẽ khổ lâu dài
Như người buôn Se-ri.

Như vậy, sau khi bậc Ðạo Sư thuyết pháp thoại này đưa đến tột đỉnh A-la-hán, Ngài giảng Bốn Sự thật. Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo từ bỏ tinh tấn chứng quả tối cao A-la-hán.

Sau khi kể hai câu chuyện và kết hợp chúng với nhau, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, người lái buôn ngu si là Ðề-bà-đạt-đa, còn người lái buôn hiền trí là Ta vậy.

  1. CHUYỆN TIỂU TRIỆU PHÚ (Tiền thân Cullakasetthì)

Bậc trí với ít vốn…

Pháp thoại này được Thế Tôn thuyết khi Ngài ở Rừng xoài Jivaka, gần Vương Xá (Rajagaha), về Trưởng lão Cullapanthaka. Ở đây, cuộc đời của Cullapanthaka cần được nói đến. Ở Rajagaha, con gái của một triệu phú giàu có thông gian với người nô lệ của mình. Sợ việc làm này bị người khác biết, cô gái nói với người nô lệ:

– Chúng ta không thể sống ở chỗ này. Nếu cha mẹ ta biết được tội lỗi này, sẽ xé xác chúng ta. Chúng ta nên đi sống một chỗ khác.

Với đồ đạc tư trang cầm tay, cả hai cùng trốn ra khỏi cửa ít khi được mở, thỏa thuận với nhau tìm chỗ nào không ai biết đến họ và sẽ sống tại đấy. Sau một thời gian sống với nhau, cô gái thụ thai. Ðến khi sinh nở, người vợ nói với chồng:

– Nay em đã gần tới kỳ sinh nở, ở chỗ này lại không có bà con. Ðến khi em sinh nở, hai chúng ta sẽ gặp khổ sở. Vậy chúng ta hãy đi về nhà.

Người chồng cứ hẹn lần hết ngày này qua ngày khác, và để ngày tháng trôi qua. Người vợ suy nghĩ: “Người ngu này, ý thức tội lỗi quá lớn của mình, nên không dám đi. Cha mẹ là bạn tốt nhất của mình. Chồng ta đi hay ở lại, ta cũng phải đi”.

Ðợi người chồng đi ra khỏi nhà, người vợ sắp đồ đạc trong nhà, và tin cho những người sống kế cận biết là nàng trở về nhà cha mẹ,, rồi nàng lên đường.

Khi người chồng về, không thấy nàng, hỏi người láng giềng, biết nàng đã trở về gia đình, liền vội vã đi theo và bắt gặp nàng giữa đường. Tại đấy, nàng sinh con. Người chồng hỏi:

– Này em thân, việc gì vậy?

– Này chàng, em đã sinh đứa con trai.

– Vậy chúng ta sẽ làm gì?

Cả hai đồng ý rằng mục đích đi về nhà là để sinh đẻ, nhưng giữa đường việc ấy đã giải quyết xong nay còn đi về làm gì nữa. Họ liền trở về chỗ trọ cũ.

Vì đứa con sinh ra giữa đường, nên được đặt tên là Panthaka (Lữ khách). Không bao lâu, người vợ lại có thai. Tất cả sự việc như lần trước đã diễn tiến lại. Vì đứa con thứ hai này cũng được sinh giữa đường, họ đặt tên đứa đầu là Mahàpanthaka (Ðại Lữ Khách) và đứa sau là Cullapanthaka (Tiểu Lữ Khách). Rồi họ đem cả hai đứa con trở về nhà của họ. Trong khi họ sống tại chỗ ấy, đứa trẻ Panthaka nghe các đứa trẻ khác gọi các cậu, các ông nội, bà nội, nó về hỏi mẹ:

– Thưa mẹ, các đứa trẻ khác gọi các cậu, các ông nội, bà nội. Vậy chúng ta không có bà con sao?

– Chúng ta cũng có. Bà mẹ đáp. Nhưng bà con của con không ở đây. Ông của con là một triệu phú ở Vương Xá. Tại đấy, con có rất nhiều bà con.

– Thưa mẹ, vì sao chúng ta không đi đến đấy?

Nàng nói cho con biết lý do vì sao không đi về nhà của mình, và khi các con hỏi nữa, nàng nói với chồng:

– Những đứa trẻ con này làm cho em rất mệt. Không lẽ cha mẹ thấy chúng ta, lại ăn thịt chúng ta? Hãy đi về để cho mấy đứa trẻ biết nhà ông chúng nó.

– Ta không thể đứng giáp mặt với cha mẹ em được, nhưng ta sẽ đưa chúng đến đấy.

Nàng nói:

– Như vậy cũng được, làm cách nào cho mấy đứa trẻ thấy nhà ông của chúng là được.

Hai vợ chồng đem hai đứa trẻ về đến Vương Xá, tạm trú tại một quán trọ gần cửa thành Vương Xá. Rồi người vợ đem hai con nhờ người đưa tin cho cha mẹ nàng biết là họ đã đến. Khi nghe được tin này, cha mẹ nàng nói:

– Sống ở đời mà không có con trai, con gái là một việc không thể có được. Nhưng chúng đã có tội quá lớn đối với chúng ta. Chúng ta không thể giáp mặt được. Ðây là số tiền cho chúng. Chúng hãy lấy số tiền ấy mà sống thoải mái tại một chỗ nào đó. Nhưng phải giao hai đứa trẻ ở lại đây.

Người con gái vị triệu phú lấy số tiền cha mẹ cho, và giao hai đứa trẻ tận tay người đưa tin. Hai đứa trẻ lớn lên trong gia đình ông ngoại chúng. Cullapanthaka còn nhỏ, nên Mahàpanthaka thường đi với ông ngoại đến nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp. Thường nghe thuyết pháp, và thấy bậc Ðạo Sư, tâm của Mahàpanthaka thiên về xuất gia. Nó nói với ông ngoại nó:

– Nếu ông chấp thuận, cháu sẽ xuất gia.

-Này cháu thân, cháu nói gì vậy? Ôi ! Ta sẽ vô cùng vui sướng được thấy cháu xuất gia, còn hơn là thấy toàn thế giới xuất gia! Này cháu thân, nếu có thể được, hãy xuất gia.

Ông ngoại chấp nhận và đưa cháu đi gặp bậc Ðạo Sư. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này triệu phú, ông mang theo đứa trẻ nào vậy?

– Bạch Thế Tôn! Ðứa trẻ này là cháu của con, nó muốn xuất gia với Thế Tôn.

Bậc Ðạo Sư bảo một vị Khất sĩ cho đứa trẻ xuất gia. Vị Trưởng lão, đọc đề tài Thiền quán gồm năm phần, từ da trở đi … và làm phép xuất gia cho đứa trẻ. Ðứa trẻ học nhiều lời dạy của đức Phật, và khi cậu đến tuổi, cậu được thọ Ðại giới. Nhờ chuyên tâm tinh cần, làm đủ các bổn phận tu tập, Mahapanthaka chứng quả A-la-hán. Trong khi thọ hưởng an lạc Thiền định và an lạc Thánh đạo, người anh nghĩ nên cho em là Culla-panthaka cũng hưởng được an lạc ấy. Rồi người anh đi đến gọi ông ngoại triệu phú và nói:

– Nếu ông ngoại chấp thuận, con sẽ làm lễ xuất gia cho Cullpanthaka.

– Thưa Tôn giả, hãy làm lễ xuất gia cho nó.

Vị Trưởng lão làm lễ xuất gia cho Cullapanthaka và cho thọ Mười giới. Nhưng Sa-di Cullapanthaka, sau khi xuất gia, tỏ ra rất ám độn. Người em trong bốn tháng không thể học thuộc lòng bài kệ này:

Như bông sen thơm dịu,
Vào rạng đông buổi sáng,
Hoa được nở toàn diện
Với mùi hương bát ngát.
Nhìn đức Phật chói sáng
Với hào quang chiếu diện,
Như mặt trời rực sáng
Trên bầu trời quang đãng.

Chúng ta được kể rằng, trong thời đức Phật Kassapa, Cullapanthaka xuất gia, có trí tuệ, đã cười khinh bỉ một Tỷ-kheo ám độn đang học thuộc lòng một đoạn kinh. Tỷ-kheo ấy hổ thẹn vì bị khinh bỉ đến nổi không thể nhớ và đọc lên đoạn kinh ấy. Do kết quả nghiệp ấy, Cullapanthaka trở thành ám độn, những câu vị ấy mới học làm vị ấy quên đi những câu đã học trước; và bốn tháng đã trôi qua, trong khi vị ấy đang cố gắng học một câu kệ, Mahàpanthaka nói với em:

– Này Panthaka, em không có khả năng trong Giáo pháp này. Bốn tháng trôi qua, em không thể học thuộc lòng một câu kệ, làm sao em có thể đạt được sự nghiệp tối thượng của người xuất gia? Hãy đi ra khỏi tinh xá.

Như vậy người anh đuổi người em. Nhưng Cullapanthaka đã gắn bó đặc biệt với giáo pháp của đức Phật, nên không muốn trở thành một người tại gia.

Trong thời ấy, Mahapanthaka đang làm người phân phối bữa ăn. Một hôm Jivaka Komàrabhacca đem theo nhiều hương thơm và vòng hoa, đến vườn xoài của mình, để cúng dường Thế Tôn. Sau khi nghe pháp, Jivaha từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ bậc Mười Lực (Dasabala), rồi đi đến gần Mahapanthaka và hỏi:

– Thưa Tôn giả, có bao nhiêu Tỷ-kheo ở gần bậc Ðạo Sư?

– Khoảng năm trăm.

– Vậy ngày mai, xin Tôn giả hãy mời năm trăm Tỷ-kheo, với đức Phật là người dẫn đầu, dùng bữa ăn tại nhà tôi.

– Này cư sĩ, Cullapanthaka là kẻ ám độn, không thể lớn mạnh trong Giáo pháp. Tôi chấp nhận lời mời tất cả, trừ nó ra.

Nghe vậy, Cullapanthaka suy nghĩ: “Vị Trưởng lão nhận lời mời tất cả Tỷ-kheo và loại ta ra ngoài. Không nghi ngờ gì nữa, tình cảm của anh ta đối với ta đã bị đỗ vỡ. Nay ta còn ở trong Giáo pháp này làm gì nữa? Vậy ta sẽ làm người cư sĩ, sống làm các công đức như bố thí, …

Rạng ngày hôm sua Cullapanthaka ra đi với ý nghĩ: “Ta trở lại đời sống gia chủ”. Bậc Ðạo Sư, vào sáng sớm, khi nhìn khắp thế giới, thấy sự kiện này, nên ra đi sớm hơn Cullapanthaka. Ngài đi qua đi lại trước cửa ngõ, trên con đường của Cullapanthaka và đứng lại. Cullapanthaka, từ nhà đi ra, thấy bậc Ðạo Sư, đến gần Ngài và đảnh lễ. Thấy Cullapanthaka, Thế Tôn hỏi:

– Này Cullapanthaka, con đi đâu vào giờ này?

– Bạch Thế Tôn, anh con đuổi con, cho nên con đi lang thang.

– Này Cullapanthaka, con xuất gia với Ta. Khi anh con đuổi, sao con không đến gặp Ta? Con sống tại gia để làm gì? Hãy đến sống gần Ta.

Rồi Thế Tôn đem Cullapanthaka đi, bảo ngồi trước Hương phòng. Ngài đưa Cullpanthaka một miếng vải sạch mà Ngài đã tạo bằng thần thông, rồi nói:

– Này Cullapanthaka, hãy hướng mặt về phía đông, dùng miếng vải này lau qua lau lại và nói: Ðồ vật lau bụi, đồ vật lau bụi.

Ðúng giờ đã định, đức Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo vây quanh, đi đến nhà Javaka và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Còn Cullapanthaka, với mặt hướng phía mặt trời, ngồi cầm miếng vải lau qua lau lại và nói: Ðồ vật lau bụi, đồ vật lau bụi, cho đến khi miếng vải trở thành dơ bẩn. Rồi Cullapanthaka suy nghĩ: “Vừa rồi, tấm vải này rất là sạch sẽ. Nhưng này vì bản thân ta, nó đã bỏ nguyên trạng của nó, và trở thành dơ bẩn. Thật sự các hành là vô thường”. Ngay khi Cullapanthaka thông hiểu tính đoạn diệt, Thiền quán được tăng trưởng. Bậc Ðạo Sư biết tâm thiền quán của Cullapanthaka đã đạt viên mãn, bèn nói với Cullapanthaka:

– Chớ để ý đến miếng vải này đã bị bụi làm bẩn. Nhưng trong con có bụi tham … hãy tẩy trừ chúng.

Rồi Thế Tôn phóng hào quang, hóa hiện một danh sắc do trí tuệ tạo thành, ngồi trước mặt vị ấy, và đọc các bài kệ này:

Tham mới gọi là bụi,
Chớ không phải bụi này;
Tham mới thật đồng nghĩa
Với chữ bụi thường dùng;
Hỡi này các Tỷ-kheo,
Hãy từ bỏ bụi này,
Hãy sống trong Giáo pháp
Của vị không bụi bẩn.

Sân mới gọi là bụi,
Chớ không phải bụi này,
Sân mới thật đồng nghĩa
Với chữ bụi thường dùng.
Hỡi này các Tỷ-kheo,
Hãy từ bỏ bụi này,
Hãy sống trong Giáo pháp
Của vị không bụi bẩn.

Si mới gọi là bụi,
Chớ không phải bụi này;
Si mới thật đồng nghĩa
Với chữ bụi thường dùng.
Hỡi này các Tỷ-kheo,
Hãy từ bỏ bụi này,
Hãy sống trong Giáo Pháp
Của vị không bụi bẩn.

Cuối câu kệ, Cullapanthaka chứng quả A-la-hán với Bốn Vô ngại giải, vị ấy thấu hiểu tất cả Tạng kinh điển. Tương truyền rằng, trong thời quá khứ, vị ấy làm vua, và khi đang đi bộ xung quanh thành phố, mồ hôi chảy từ trán, vị ấy lấy một miếng vải sạch lau trán. Miếng vải trở thành bẩn. Vị ấy suy nghĩ: “Do thân này của ta, miếng vải đã bỏ nguyên trạng trong trắng và trở thành dơ bẩn. Thật sự các hành là vô thường”. Vị ấy nắm được tướng vô thường. Như vậy chính nhờ sự đoạn trừ bụi bẩn này tạo thành nhân duyên giải thoát cho vị ấy. Trong khi ấy, Jivaka Komàrabhacca dâng nước bố thí lên đấng Ðại Giác. Bậc Ðạo Sư lấy tay che bình bát và nói:

– Này Jivaka, trong tinh xá còn có Tỷ-kheo nào hay không?

Mahapanthaka thưa:

– Bạch Thế Tôn, trong tinh xá không còn Tỷ-kheo nào.

Nhưng bậc Ðạo Sư nói:

– Này Javaka, còn có Tỷ-kheo.

Javaka liền sai một người đi xem thử trong tinh xá có Tỷ-kheo hay không. Trong lúc ấy, Cullapathaka biết người anh của mình nói không có Tỷ-kheo ở trong tinh xá và muốn tỏ cho người anh thấy rằng còn có nhiều Tỷ-kheo ở trong tinh xá, liền làm cho toàn rừng xoài đầy những Tỷ-kheo. Một số Tỷ-kheo đang làm y, một số đang nhuộm, một số đang học kinh điển. Cullapanthaka tạo ra một ngàn Tỷ-kheo, không ai giống ai. Người kia thấy rất nhiều Tỷ-kheo ở trong tinh xá, trở về báo cho Javaka biết:

– Thưa ông chủ, toàn rừng xoài đầy những Tỷ-kheo! Có bậc trưởng lão ở tại đấy!.

Trưởng lão Pan-tha-ca
Hóa mình thành ngàn lần,
Ngồi rừng xoài xinh đẹp,
Chờ thời được gọi đến.

Bậc Ðạo Sư nói với người ấy:

– Hãy đi đến tinh xá, nói Thế Tôn cho gọi Cullapanthaka.

Người ấy đi và khi nói như vậy, thì ngàn miệng nói lên:

– Tôi là Cullapanthaka! Tôi là Cullapanthaka!

Người ấy về thưa:

– Bạch Thế Tôn, tất cả đều nói: “Tôi là Cullapanthaka”.

– Vậy ông hãy đi đến và nếu ai nói đầu tiên: Tôi là Pathaka, hãy nắm tay người ấy, tất cả người còn lại sẽ biến mất.

Người ấy làm đúng như vậy. Ngay lúc ấy, cả ngàn Tỷ-kheo đều biến mất. Vị trưởng lão đi với người ấy đến bậc Ðạo Sư. Sau khi dùng bữa ăn xong, bậc Ðạo Sư nói với Jivaka:

– Này Javaka, hãy lấy cái bát của Cullapanthaka. Vị này sẽ nói lời cám ơn ông.

Jivaka làm như lời bậc Ðạo Sư đã nói. Vị trưởng lão rống tiếng rống của sư tử, làm cho sống động tất cả các Tạnh Kinh điển trong lời nói cám ơn của mình.

Rồi Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, với chúng Tỷ-kheo vây quanh, đi trở về tinh xá. Sau khi các Tỷ-kheo phân boá công việc xong, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, đứng trước Hương phòng, thuyết lời khuyến cáo của bậc Thiên Thệ cho chúng Tỷ-kheo, cho họ đề tài Thiền quán, giải tán chúng Tỷ-kheo, rồi đi vào Hương phòng sực nức mùi thơm và nằm xuống phía hông bên mặt như dáng nằm con sư tử.

Vào buổi chiều, các Tỷ-kheo đắp y vàng từ nhiều nơi quy tụ lại trong Pháp đường, ngồi xuống như thể trải một tấm màn vàng rực chung quanh bậc Ðạo Sư, và bắt đầu tán thán công đức của Ngài:

– Này các Hiền giả, Mahapanthaka không biết khả năng của Cullapanthaka, đã đuổi Cullapanthaka ra khỏi tinh xá, cho là ngu si ám độn, trong bốn tháng học không thuộc một câu kệ. Nhưng bậc Chánh Ðẳng Giác, với đức tánh vô thượng Pháp Vương, chỉ trong một bữa ăn, đã đem lại cho Cullapanthaka quả A-la-hán với các Vô ngại giải. Với các Vô ngại giải ấy, Cullapanthaka nắm được toàn bộ các Tạng kinh điển. Ôi, Phật lực thật lớn vậy thay!

Thế Tôn biết được diễn tiến câu chuyện trong Pháp đường, nghĩ rằng nay cần phải đi đến chỗ ấy, liền đứng dậy từ chỗ nằm của đức Phật, mặc hai tấm áo màu đỏ chói, thắt cái nịt thân như chớp nhoáng, và đắp lại y. Bậc Thiện Thệ như tấm mền đỏ thắm, từ Hương phòng đi ra, đi đến Pháp đường với uy nghi vô tận của một đức Phật, di động với dáng điệu oai hùng đẹp đẽ của con voi, con sư tử trong thời sung sức. Bước lên Phật tọa được trình bày lộng lẫy ở giữa Pháp đường trang nghiêm. Ngài ngồi trên Phật tọa phóng ra những hào quang. Phật có sáu màu như mặt trời mới mọc từ trên đỉnh núi Yugandahara, ngài chói sáng đến tận đáy biển.

Ngay khi bậc Chánh Giác đến, chúng Tỷ-kheo chấm dứt câu chuyện và giữ im lặng. Bậc Ðạo Sư, với tâm tư bi hòa nhã, nhìn hội chúng và suy nghĩ: “Hội chúng này thật rực sáng, không có một động tay, một động chân, không một tiếng đằng hắng, không một tiếng ho. Tất cả vì tôn kính Ta, nếu Ta ngồi không nói cho đến suốt đời, đại chúng đều không dám nói trước khi Ta nói. Ta biết Ta cần phải nói trước. Ta sẽ nói trước”. Với Phạm âm ngọt dịu, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, các ông nay ngồi ở đây nói đề tài gì và câu chuyện gì chưa được nói xong?

– Bạch Thế Tôn, chúng con ngồi đây không nói chuyện nhảm. Chúng con ngồi tán thán công đức của Ngài như sau: Này các Hiền Giả, Mahapanthaka không biết khả năng của Cullapanthaka, đã đuổi Cullapanthaka ra khỏi tinh xá… Ôi, Phật lực thật lớn vậy thay!

Thế Tôn, nghe các Tỷ-kheo nói vậy, bèn nói:

– Này các Tỷ-kheo, Cullapanthaka nay do nhờ Ta, đã đạt được sự vĩ đại trong Chánh Pháp. Còn thời quá khứ cũng do nhờ Ta, vị ấy đã đạt được tài sản vĩ đại trong các tài sản.

Các Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn giải thích ý nghĩa này và Thế Tôn liền trình bày rõ sự việc tái sanh che lấp qua câu chuyện sau đây.

*

Thuở xưa, tại nước Kàsi, trong thành Ba-la-nại, khi vua Brahamadatta đang trị vì, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình triệu phú và được gọi là Tiểu Triệu phú. Ngài có trí thông minh, biết tất cả loại tướng. Một hôm, trong khi đi đến hầu vua, giữa đường thấy một con chuột chết, ngay lúc ấy ngài tính toán các vì sao và nói:

– Một thiện nam tử nào có mắt, chỉ cần lượm con chuột này lên có thể xây dựng cơ nghiệp và nuôi một người vợ.

Bấy giờ có một thiện nam tử đang bị túng thiếu, nghe triệu phú nói vậy, suy nghĩ: “Người này biết cái gì mới nói”, bèn lượm con chuột lên, bán được một xu ở một tiệm hàng mua cho mèo ăn. Với đồng xu ấy, chàng mua đường mật và lấy nước uống với một cái bình. Gặp những người làm vòng hoa từ rừng về, chàng cho mỗi người một ít đường, mật và nước uống với một ít cái gáo. Mỗi người làm vòng hoa, cho chàng một nắm hoa.

Ngày mai, với số tiền bán hoa ấy, chàng lấy đường, mật, một ghè nước rồi đi đến vườn hoa. Ngày ấy, các người làm vòng hoa cho chàng những cành hoa đã hái còn sót lại rồi bỏ đi. Không bao lâu với phương tiện này, chàng có được tám đồng tiền vàng.

Rồi vào một ngày mưa gió, trong vườn của vua có rất nhiều cành cây khô và lá bị gió làm rụng xuống, người giữ vườn không biết cách nào để quét chúng cho sạch. Chàng đi đến, nói với người giữ vườn:

– Tôi sẽ quét sạch với điều kiện là củi và lá này thuộc về của tôi.

Người giữ vườn chấp thuận. Người đệ tử này của vị Tiểu triệu phú đi đến sân chơi của bọn trẻ, cho chúng đường mật, và nhờ chúng dọn sạch củi, lá chất thành một đống trước vườn hoa trong một thời gian ngắn. Khi ấy, người làm đồ gốm cho vua đang đi tìm củi để đốt nung các chén bát cho nhà vua, thấy đống củi ấy tại cửa vườn hoa, ông ta mua ngay và tự tay mang nó đi.

Ngày ấy, đệ tử vị Tiểu triệu phú bán củi có được mười sáu đồng tiền, ghè bình và năm cái bát. Sau khi có được hai mươi bốn đồng tiền, chàng nghĩ đến một kế hoạch, đặt một ghè nước không xa cửa thành và đem nước cho năm trăm người cắt cỏ uống. Họ nói:

– Bạn giúp ích cho chúng tôi rất nhiều. Bạn muốn chúng tôi làm gì cho bạn?

Chàng trả lời:

– Khi nào tôi có việc, tôi sẽ nói cho các anh biết.

Trong khi đi qua lại, chàng làm thân với một người buôn bán trên bộ và một người buôn bán trên biển. Người buôn bán trên bộ báo tin cho chàng biết ngày mai sẽ có người buôn ngựa đến tại thành này với năm trăm con ngựa. Nghe vậy, chàng nói với những người cắt cỏ:

– Hôm nay, mỗi người hãy cho tôi một bó cỏ, và không bán cỏ của các anh cho đến khi tôi bán xong cỏ của tôi.

Họ bằng lòng và đem đến nhà chàng năm trăm bó cỏ. Người lái buôn ngựa không tìm được cỏ trong toàn thành phố, liền cho chàng một ngàn đồng tiền và lấy cỏ của chàng. Sau một vài ngày, người buôn bán trên biển báo tin cho chàng biết sẽ có một chiếc tàu lớn cập bến. Chàng nghĩ đến một kế hoạch khác. Với tám đồng tiền chàng thuê một cỗ xe trang bị đầy đủ, được thuê theo giờ, và đi đến bến cảng với vẻ rất uy nghi bệ vệ.

Sau khi đưa chiếc nhẫn làm bảo chứng cho chiếc tàu, chàng bảo dựng một cái lều không xa bao nhiêu, ngồi ở trong lều và dặn chúng người làm công như sau:

– Khi có các người lái buôn từ ngoài đến, hãy báo cho ta biết qua ba người giới thiệu.

Khi nghe tin có tàu đến, khoảng một trăm người lái buôn từ Ba-la-nại đến để mua hàng. Họ được cho biết là hàng không thể lấy được vì phải để dành cho người lái buôn ở tại chỗ ấy đã có bảo chứng. Họ nghe vậy liền đi đến gặp chàng. Những người hầu, như đã được dặn trước, báo tin họ đến qua ba người giới thiệu.

Một trăm người lái buôn ấy, mỗi người cho chàng một ngàn đồng để làm người hùn vốn trên tàu và cho một ngàn đồng nữa để trả tiền lấy hàng hóa phần của mình. Như vậy người đệ tử vị Tiểu triệu phú lấy được hai trăm ngàn đồng tiền và đi về Ba-la-nại.

Ðể bày tỏ sự biết ơn đối với vị Tiểu triệu phú, chàng đem theo một trăm ngàn đồng tiền và đi đến thăm vị Tiểu triệu phú. Vị Tiểu triệu phú hỏi chàng đã làm gì để được số tiền này, chàng tường thuật tất cả câu chuyện, từ khi theo lời vị Tiểu triệu phú trải qua bốn tháng bắt đầu với việc chàng lượm con chuột chết. Vị Tiểu triệu phú nghe chàng nói như vậy, nghĩ rằng không thể để một chàng trai trẻ như vậy rơi vào tay người khác, liền gả con gái mới lớn lên của mình cho chàng, và cho chàng làm chủ toàn bộ gia sản. Khi người triệu phú qua đời, chàng đã trở thành vị triệu phú của thành ấy. Và khi mệnh chung, Bồ-tát đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi nói lên pháp thoại này, bậc Chánh Giác đọc bài kệ:

Bậc trí với ít vốn,
Bậc có mắt, ít hàng,
Tự xây dựng cho mình
Tài sản lớn như vậy,
Như dùng hơi thở mình
Thổi lớn đám lửa nhỏ.

Thế Tôn nói:

– Này các Tỷ-kheo, chính dựa vào Ta, Cullapanthaka ngày nay đạt được pháp tối thượng trong các pháp, cũng như ngày xưa đã đạt được tài sản tối thượng trong các tài sản.

Sau khi nói xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai mẩu chuyện với nhau, và kết luận bằng sự nhận diện Tiền thân như sau:

– Trong thời ấy, đệ tử của Tiểu Triệu phú là Cullapanthaka, còn Cullakasetthi, Tiểu triệu phú, là Ta vậy.

  1. CHUYỆN ÐẤU GẠO. (Tiền thân Tandulanàli)

Giá đấu gạo bao nhiêu?…

Câu chuyện này được Thế Tôn, khi ở tại Kỳ Viên, đã kể về Trưởng lão Laludayi. Trong thời ấy, Tôn giả Dabba, con bộ tộc Malla, làm người phân phối cơm ăn cho chúng Tăng. Thời ấy, vào buổi sáng, trong khi phân phối thẻ cơm, Trưởng lão Udàyi khi thì được gạo tốt, khi thì được gạo xấu. Vào ngày được gạo xấu Udàyi thường làm rộn lên trong phòng phát thẻ và nói:

– Sao chỉ có Dabba biết phát thẻ, chớ chúng tôi không biết hay sao?

Một hôm, khi Udayi làm rộn lên trong phòng phát thẻ, người ta đưa sổ phát thẻ cho Udayi và nói:

– Hôm nay, Hiền giả hãy phát thẻ.

Bắt đầu từ hôm ấy, Udàyi phát thẻ cho chúng Tăng. Nhưng trong khi phát thẻ, Udàyi không biết gạo nào là gạo tốt, gạo nào là gạo xấu, Udàyi cũng không biết số hạ lạp như thế nào được phát gạo tốt, số hạ lạp như thế nào được phát gạo xấu. Khi làm sổ thứ tự để chia phần, Udàyi không nghĩ đến thứ tự hạ lạp. Do vậy, khi các Tôn giả đứng vào vị trí của mình, Udàyi ghi một cái dấu trên sàn hoặc trên tường để chỉ rõ hàng này đứng chỗ này, hàng kia đứng chỗ kia.

Ðến ngày sau, trong phòng phân phối thẻ có ít Tỷ-kheo hơn trong hàng này, và có nhiều Tỷ-kheo hơn trong hàng kia. Hàng nào ít tỷ-kheo hơn, thì các dấu ghi quá thấp, hàng nào nhiều Tỷ-kheo hơn, thì các dấu ghi quá cao. Nhưng Udàyi không biết gì về hàng sắp, đã phân phối các thẻ theo những dấu của mình. Do vậy, các Tỷ-kheo nói với Udàyi:

– Các dấu hoặc là quá thấp, hoặc là quá cao. Gạo tốt dành cho những vị có hàng lạp như thế kia còn gạo xấu lại dành cho những vị có hàng lạp như thế này.

Nhưng Udàyi gạt họ ra một bên và nói:

– Nếu dấu này là như vậy, sao các Hiền giả không đứng như vậy? Sao tôi lại tin các Hiền giả? Tôi tin các dấu của tôi hơn.

Các vị trẻ tuổi và các Sa-di kéo Udàyi ra khỏi phòng phân phối và nói:

– Này Hiền giả Udàyi ám độn, khi Hiền giả phân phối thẻ, các Tỷ-kheo nhận thiếu phần họ được nhận. Hiền giả không xứng đáng để phân phối. Hãy đi ra đi.

Trong khi ấy, tại phòng phân phối thẻ, có tiếng ồn ào lớn. Nghe vậy, bậc Ðạo sư gọi hỏi trưởng lão Ànanda:

– Này Ànanda, không phải hiện nay, Udàyi với sự ngu si của mình, mới làm cho người khác bị thiệt hại khi nhận phần của họ. Thuở trước, Udàyi cũng đã làm như vậy.

Trưởng lão Ànanda yêu cầu Thế Tôn làm sáng tỏ vấn đề này. Thế Tôn trình bày rõ sự việc bị tái sanh che lấp qua câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, ở nước Kàsi, tại thành Ba-la-nại, vua Brahmadatta đang trị vì. Lúc ấy, Bồ-tát của chúng ta làm người đánh giá cho vua. Ngài đánh giá voi ngựa v.v… đánh giá châu báu, vàng v.v… và ngài thường trả cho những người chủ các hàng hóa đúng giá tiền như ngài đã quy định. Nhưng vua là người tham lam và bản tánh tham của vua khiến vua suy nghĩ: “Người đánh giá này với cách đánh giá như vậy, không bao lâu sẽ làm cho tài sản trong nhà của ta khánh kiệt. Ta phải tìm một người đánh giá khác.” Mở cửa sổ, nhìn xuống sân, vua thấy một người quê mùa tham và ngu đang đi qua sân, nghĩ rằng kẻ ấy có thể làm người đánh giá cho mình, bèn cho gọi kẻ ấy lên, và hỏi anh ta có thể làm người đánh giá cho vua được không. Kẻ ấy trả lời:

– Thưa Ðại Vương, tôi có thể làm được.

Vua liền đặt người ngu ấy vào chức vụ người đánh giá, với mục đích bảo vệ tài sản của mình. Từ khi ấy trở đi, người ngu ấy đánh giá voi, ngựa v.v… Không đếm xỉa gì đến giá trị, nói giá tùy theo sở thích. Và vì giữ chức vụ ấy, kẻ ấy nói gì, thì giá tiền là phải như vậy, không thể khác.

Lúc bấy giờ, từ nước phương Bắc, một người buôn ngựa đi đến với năm trăm con ngựa. Vua cho gọi kẻ ấy lên và bảo anh ta đánh giá ngựa. Kẻ ấy đánh giá năm trăm con ngựa bằng giá đấu gạo, bảo trả cho người buôn ngựa giá tiền một đấu gạo, và bảo dắt ngựa vào chuồng. Người buôn ngựa đi đến gặp người đánh giá cũ, thuật lại sự việc này và hỏi phải làm thế nào. Bồ tát nói:

– Hãy cho người ấy một số tiền hối lộ và hỏi nó: Biết rằng giá tiền các con ngựa chúng tôi đáng giá một đấu gạo, thì ông có thể cho chúng tôi biết, theo ông ta tiền một đấu gạo là bao nhiêu, ông có thể tuyên bố giá ấy trước mặt vua được không? Nếu nó trả lời có thể được, thì đưa nó đến ngay trước mặt vua và tôi cũng sẽ có mặt ở đấy.

Người lái buôn nghe theo lời Bồ-tát, cho người đánh giá một số tiền hối lộ, và đặt vấn đề với kẻ ấy. Khi kẻ ấy nhận hối lộ và nói có thể đánh giá đấu gạo được, người buôn ngựa đưa ngay anh ta đến trước mặt vua. Bồ-tát cùng nhiều đại thần khác cũng đi đến. Người buôn ngựa, sau khi đảnh lễ vua, liền thưa:

– Thưa Ðại Vương, con đã biết giá tiền năm trăm con ngựa bằng giá tiền một đấu gạo.

– Nhưng giá tiền một đấu gạo là bao nhiêu?

– Ðại Vương hãy hỏi người đánh giá này.

Không biết sự việc đã xảy ra, vua nói:

– Này người đánh giá, khanh nói cho chúng ta biết giá tiền năm trăm con ngựa.

– Thưa Ðại Vương, là giá tiền một đấu gạo.

– Hãy là vậy, này khanh. Năm trăm con ngựa này trị giá một đấu gạo. Vậy giá trị một đấu gạo là bao nhiêu?

Người ngu si ấy trả lời:

– Một đấu gạo trị giá bằng tất cả thành Ba-la-nại với nhiều ngoại ô!

Như vậy, chúng ta được biết rằng, để làm vui lòng ông vua, kẻ ấy trị giá các con ngựa bằng một đấu gạo; nhưng sau khi lấy tiền hối lộ từ tay người lái buôn, anh ta đánh giá một đấu gạo bằng toàn bộ nội ngoại thành Ba-la-nại. Lúc bấy giờ, toàn thành bao bọc Ba-la-nại dài đến mười hai dặm, còn nội thành và ngoại thành Ba-la-nại rộng lớn ba trăm dặm! Tuy vậy, kẻ ngu ấy trị giá nội thành và ngoại thành Ba-la-nại rộng lớn này chỉ bằng một đấu gạo! Nghe kẻ ấy nói vậy, các đại thần vỗ tay cười và nói:

– Trước kia chúng ta thường nghĩ rằng quả đất và quốc độ là vô giá. Nhưng nay chúng ta được biết rằng thành phố lớn Ba-la-nại này cùng với vị vua trị giá chỉ có một đấu gạo mà thôi. Ôi, keû đánh giá thật đầy đủ trí tuệ! Sao nó có thể giữ địa vị của nó lâu như vậy! Nhưng thật sự kẻ đánh giá này phù hợp với vua chúng ta một cách tuyệt diệu!

Các đại nhân vỗ tay, cười đùa và mỉa mai như vậy.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ:

Giá đấu gạo bao nhiêu?
– Bằng cả nội ngoại thành,
Thành phố Ba-la-nại
Cả năm trăm con ngựa
Cũng chỉ bằng giá tiền
Một đấu gạo mà thôi.

Lúc bấy giờ, vua xấu hổ đuổi kẻ ngu ấy đi và đặt Bồ-tát vào chức vụ đánh giá như cũ. Rồi đến khi mệnh chung, Bồ-tát đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi trình bày pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện với nhau, và kết luận bằng sự nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, kẻ đánh giá quê mùa ngu si là Udàyi, còn vị đánh giá có trí là Ta vậy.

  1. CHUYỆN THIÊN PHÁP (Tiền thân Devadhamma)

Ðầy đủ tàm và quý…

Khi ở Kỳ Viên, Thế Tôn kể câu chuyện này về một Tỷ-kheo có nhiều đồ vật. Ở Xá-vệ, có một vị trưởng giả giàu có, sau khi vợ chết, mới xuất gia. Trước khi xuất gia, vị ấy có làm một phòng để ở, một phòng để lửa, và một kho chứa đồ, cho chất đầy kho chứa đồ với bơ sữa, gạo v.v… rồi mới xuất gia. Sau khi xuất gia, vị ấy cho gọi những người đầy tớ của mình, bảo nấu các đồ ăn theo sở thích và thọ dụng các món ăn ấy. Vị ấy có rất nhiều vật dụng, ban đêm có bộ đồ lót, có áo choàng riêng; ban ngày có bộ đồ lót, có áo choàng riêng, và sống cách biệt sau biên địa ngôi tinh xá.

Một hôm, trong khi vị ấy lấy các y và đồ tắm, trải chúng trong phòng để phơi cho khô, một số đông Tỷ-kheo ở các tỉnh, đi từ trú xứ này đến trú xứ khác, đến phòng kia, thấy các y áo v.v… liền hỏi chúng thuộc về ai. Vị ấy trả lời:

– Của tôi, thưa các Hiền giả.

– Thưa Hiền giả, y này, áo lót này, đồ nệm này, tất cả của Hiền giả phải không?

– Vâng, của tôi.

Họ nói:

– Này Hiền giả, Thế Tôn chỉ cho phép ba y. Hiền giả xuất gia trong Giáo pháp đức Phật ít dục như vậy, lại chất đầy cả kho vật dụng như vậy. Chúng tôi sẽ đưa Hiền giả đến bậc Ðạo Sư.

Rồi các Tỷ-kheo này đem vị ấy đi đến bậc Ðạo Sư. Thấy vậy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, phải chăng các ông đem đến đây một Tỷ-kheo ngoài ý muốn của vị ấy?

– Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này có nhiều đồ vật, và có cả kho vật dụng.

– Này Tỷ-kheo, có phải ông có nhiều vật dụng?

– Thật vậy, bạch Thế Tôn.

– Này Tỷ-kheo, sao ông lại có nhiều vật dụng như vậy? Có phải ta nói lời tán thán hạnh ít dục, biết đủ… viễn ly, tinh tấn không?

Nghe bậc Ðạo Sư nói vậy, vị ấy sanh phẫn nộ và nói:

– Nay tôi sẽ cởi đồ và đi như thế này.

Vị ấy quăng y choàng ngoài, chỉ mặc một y trong và đứng giữa hội chúng.

Bậc Ðạo Sư muốn khích lệ, liền nói:

– Này Tỷ-kheo, thuở trước, ông là con quỷ nước Dạ-xoa đi tìm tàm quý, sống trong mười hai năm đi tìm tàm quý. Sao nay ông đã xuất gia trong Giáo pháp Phật được tôn kính này, lại quăng y choàng ngoài giữa bốn chúng, từ bỏ tàm quý và đứng như vậy?

Khi nghe lời bậc Ðạo Sư, tàm quý khởi lên, vị ấy đắp y, đảnh lễ bậc Ðạo Sư, rồi ngồi xuống một bên. Các Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn giải thích rõ ràng ý nghĩa này. Thế Tôn trình bày ý nghĩa sự việc bị tái sanh che lấp qua câu chuyện sau đây:

*

Vào thời, vua Brahmadatta đang trị vì ở nước Kàsi tại Ba-la-nại, Bồ-tát tái sanh làm con bà hoàng hậu của vua, và trong ngày đặt tên, được đặt tên là hoàng tử Mahimsàsa (Ngưu Vương). Khi Bồ-tát bắt đầu đi được, chạy được, một con trai thứ hai ra đời và được đặt tên là Candakumara (Mặt Trăng). Khi đứa trẻ này bắt đầu đi được, chạy được, mẹ Bồ-tát mệnh chung. Vua đặt một người khác lên làm hoàng hậu rất được vua sủng ái. Bà hoàng hậu này, trong tình thương yêu ấy, sanh được một con trai đặt tên là hoàng tử Suriya (Mặt trời). Vua cha thấy con, tâm tư hết sức hoan hỷ, hứa cho bà hoàng hậu một lời yêu cầu nhân danh con bà. Bà hoàng hậu giữ lời hứa lại, mong được thực hiện ý muốn mai sau. Khi con bà lớn lên, bà tâu với vua:

– Khi sanh con của thiếp, Ðại Vương có hứa cho một điều yêu cầu. Vậy hãy cho con thiếp làm vua.

Vua từ chối, và nói:

– Ta có hai con trai, sáng chói như đám lửa. Ta không thể giao vương quốc cho con hoàng hậu được.

Nhưng sau, thấy hoàng hậu cứ tiếp tục yêu cầu mãi, vua ngại bà có âm mưu ác hại các con của mình, nên cho gọi họ lại và bảo:

– Này các con thân, khi sinh hoàng tử Suriya, ta có cho một điều yêu cầu. Nay mẹ có yêu cầu vương quốc, ta không muốn cho nó. Nhưng đàn bà hay có tánh ác, có thể âm mưu ác hại các con. Vậy hai con hãy đi vào rừng, và khi nào ta mệnh chung hãy trở về trị vì thành này là gia sản của nhà.

Nói vậy, với nước mắt và lời than, vua hôn hai con trên đầu và đưa họ ra đi. Sau khi đảnh lễ vua cha, hai hoàng tử từ giã lâu đài ra đi. Hoàng tử Suriya đang chơi trong sân, thấy vậy, biết được sự việc, liền quyết định cùng ra đi với hai anh, và ra đi với họ.

Họ đi vào núi Tuyết. Bồ-tát bước xuống đường, ngồi trên một gốc cây và bảo hoàng tử Suriya:

– Này Suriya thân, hãy đi đến hồ nước này. Sau khi tắm và uống, hãy đem cho chúng ta nước uống trong các lá sen.

Cái hồ ấy do Thiên Vương Tỳ-sa-môn (Vessavana) cho một con quỷ nước Dạ-xoa với lời dặn: Trừ những người biết được thiên pháp, còn tất cả những ai xuống hồ nước này, ngươi có quyền bắt ăn thịt. Những ai không xuống nước, thì người không có quyền.

Từ đó về sau, quỷ Dạ-xoa hỏi thiên pháp những ai xuống hồ nước ấy, ai không biết thì nó ăn thịt. Hoàng tử Suriya đi đến hồ nước ấy, không quan sát gì, cứ bước xuống hồ. Quỷ Dạ-xoa bắt được và hỏi:

– Ngươi có biết thiên pháp không?

Hoàng tử đáp:

– Ta biết. Ðó là mặt trời, mặt trăng.

Quỷ Dạ-xoa nói:

– Ngươi không biết thiên pháp.

Rồi bắt chàng xuống nước, và giam chàng tại thủy cung của mình. Bồ-tát thấy em mình đi quá lâu, liền sai hoàng tử Canda đi. Quỷ Dạ-xoa cũng bắt chàng, hỏi về thiên pháp là bốn phương. Quỷ Dạ-xoa nói chàng không biết thiên pháp, bắt chàng và cũng giam tại chỗ ấy.

Bồ-tát thấy Canda đi quá lâu, nghĩ rằng chắc có trở ngại gì xảy ra cho mỗi người, liền tự mình đi đến chỗ ấy. Thấy được dấu chân của hai người đi xuống, nghĩ rằng hồ ấy có thể là chỗ trú ẩn của quỷ Dạ-xoa, Bồ-tát liền rút kiếm ra, cầm cung và đứng sẵn sàng. Con quỷ nước Dạ-xoa biết Bồ-tát không chịu xuống nước, hóa hiện một người đi làm rừng, nói với Bồ-tát:

– Này bạn, bạn đi đường mệt, sao bạn không xuống hồ này tắm, uống nước, ăn củ sen, trang điểm với hoa sen, rồi đi chỗ nào bạn ưa thích.

Bồ-tát thấy vậy, biết nó là quỷ Dạ-xoa, liền hỏi nó:

– Có phải ngươi bắt các người em của ta?

– Phải, ta bắt.

– Vì sao?

– Vì ai xuống hồ này đều thuộc về ta.

– Có phải tất cả đều thuộc về người?

– Trừ những ai biết được thiên pháp, còn lại đều thuộc về ta.

– Ngươi có muốn biết thiên pháp không?

– Có, ta muốn biết.

– Nếu như vậy, ta sẽ nói cho ngươi về thiên pháp.

– Vậy bạn hãy nói đi, ta sẽ nghe thiên pháp.

Bồ-tát nói:

– Ta có thể nói thiên pháp, nhưng tay chân đều lấm bụi.

Quỷ Dạ-xoa tắm cho Bồ-tát, cho ngài ăn, cho uống nước, cho trang sức với bông hoa, cho thoa với hương thơm và trải một tọa sàng giữa một cái rạp được trang hoàng lộng lẫy. Bồ-tát ngồi trên tọa sàng, bắt quỷ Dạ-xoa ngồi dưới chân, và nói:

– Hãy lắng tai, cẩn thận nghe thiên pháp.

Ngài nói lên bài kệ này:

Ðầy đủ tàm và quý,
Chuyên tâm về bạch pháp,
An tịnh bậc chân nhân,
Ở đời gọi thiên pháp.

Dạ-xoa nghe pháp thoại này, tâm sanh tịnh tín, thưa với Bồ-tát:

– Thưa bậc Hiền trí, tôi cảm thấy tịnh tín đối với ngài và muốn cho ngài một người em. Vậy tôi đem đến người nào?

– Hãy đem đến đứa trẻ nhất.

– Thưa bậc Hiền trí, dầu ngài biết hoàn toàn thiên pháp, ngài lại không xử sự theo thiên pháp.

– Sao vậy?

– Sao ngài lại chọn người em, bỏ người anh? Ngài không kính trọng tuổi lớn hơn của nó.

– Này Dạ-xoa, ta không những biết thiên pháp, mà còn xử sự đúng thiên pháp. Chính vì đứa em ấy mà chúng ta đi vào rừng này. Chính vì hạnh phúc cho đứa em ấy mà meï nó xin vua cha quốc độ. Và phụ vương chúng ta từ chối, không chấp nhận lời yêu cầu, bằng lòng cho chúng ta sống ở trong rừng với mục đích bảo vệ chúng ta. Ðứa trẻ ấy không nghĩ đến trở về, đã đi theo chúng ta. Nếu như ai nghe được rằng trong rừng, một Dạ-xoa đã ăn nó rồi thì không ai có thể tin được. Chính vì sợ bị quở trách mà ta bảo ngươi đem nó cho ta.

– Lành thay, lành thay, bậc Hiền trí. Ngài không những biết thiên pháp, mà ngài còn thực hành thiên pháp.

Quỷ Dạ-xoa nói lên sự đồng tình của mình, và đem trả cả hai người em. Rồi Bồ-tát nói với nó:

– Này bạn, do kết quả việc ác ngươi làm từ trước, nên nay ngươi sanh làm Dạ-xoa, ăn thịt và máu của những người khác. Nay ngươi lại làm điều ác nữa. Việc ác này không thể làm ngươi thoát khỏi địa ngục v.v… Do vậy, từ nay trở đi, hãy bỏ việc ác, làm việc lành…

Và Bồ-tát nhiếp phục quỷ Dạ-xoa.

Khi nhiếp phục quỷ Daï-xoa, Bồ-tát sống ở đấy với sự bảo vệ của quỷ Dạ-xoa. Một ngày kia, nhìn lên các vì sao, biết được phụ vương đã mệnh chung, Bồ-tát đem theo quỷ Dạ-xoa về Ba-la-nại, lấy lại vương quốc, phong hoàng tử Canda làm phó vương, đặt hoàng tử Suriya làm tổng tư lệnh quân đội. Còn đối với quỷ Dạ-xoa, Bồ-tát cho làm trú xứ tại một địa điểm tốt đẹp, cho nó nhận được vòng hoa tốt nhất, các hoa tốt nhất, các đồ ăn tốt nhất. Riêng Bồ-tát trị vì theo Chánh Pháp và khi mệnh chung, đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại, bậc Ðạo Sư liền thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng, Tỷ-kheo ấy chứng quả Dự lưu. Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác kể xong hai câu chuyện, kết hợp chúng với nhau, và kết luận với sự nhận diện Tiền thân như sau:

Thời ấy, Quỷ Dạ-xoa là Tỷ-kheo có nhiều đồ vật, hoàng tử Suriya là Ànanda, hoàng tử Canda là Sàriputta (Xá-lợi-phất), và hoàng tử Mahimsàsa là Ta vậy.

  1. CHUYỆN NÀNG LƯỢM CỦI (Tiền thân Katthahàri)

Kính thưa bậc Ðại Vương…

Câu chuyện này được bậc Ðạo Sư kể khi ở Kỳ Viên về nàng Vàsabhakhattiyà. Câu chuyện sẽ được tìm thấy trong Chương mười hai, Tiền thân Bhaddasala (số 465). Truyền thuyết kể rằng nàng là con gái của vị Thích-ca tên Mahànàma với một nữ tỳ lên là Nàgamundà, và về sau trở thành hoàng hậu vua nước Kosala. Nàng sanh một con trai cho vua. Về sau vua biết được dòng họ nữ tỳ của nàng, liền truất phế địa vị của nàng, và truất phế luôn người con trai là Vidudabha. Cả hai chỉ sống ở trong nội cung. Thế Tôn biết được sự việc này, vào buổi sáng, với năm trăm Tỷ-kheo vây quanh, đi đến sự trú xứ của vua, ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn, và nói:

– Thưa Ðại Vương, Vàsabhakhattiyà ở đâu?

Vua kể lại câu chuyện ấy.

– Thưa Ðại Vương, Vàsabhakhattiyà là con gái của ai?

– Bạch Thế Tôn, của Mahànàma.

– Khi nàng đến, nàng là vợ của ai?

– Bạch Thế Tôn, của tôi.

– Thưa Ðại Vương, nàng là con gái của vua. Nàng đến làm vợ vua. Nàng sanh đứa con trai cho vua. Ðứa con trai ấy, do lý do gì lại không làm chủ vương quốc thuộc sở hữu của người cha? Thuở xưa, một vị vua có đứa con trai từ một người con gái đi lượm củi, và một cuộc gặp gỡ tình cờ đã cho người con trai ấy vương quốc.

Vua yêu cầu Thế Tôn làm sáng tỏ ý nghĩa câu chuyện. Thế Tôn liền kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, ở Ba-la-nại, vua Brahmadatta đi vào ngự uyển với uy nghi lớn của nhà vua. Ðang đi qua lại để tìm trái cây và bông hoa, vua gặp một thiếu phụ đang lượm củi, vừa lượm vừa hát. Vua đắm say nàng và ăn ở với nàng. Bồ-tát được thụ thai trong bụng nàng. Nàng cảm thấy bụng nàng nặng nề như mang lưỡi tầm sét (lưỡi búa) của Ðế Thích. Biết rằng mình đã có thai, nàng tâu nhà vua việc ấy. Vua đưa cho nàng một chiếc nhẫn và nói:

– Nếu sanh con gái, hãy giữ chiếc nhẫn này để lấy tiền nuôi dưỡng nó. Nếu sanh con trai, hãy đem nó đến ta với chiếc nhẫn này.

Nói xong vua ra đi. Khi bào thai đúng thời, nàng sanh Bồ-tát. Ðến tuổi Bồ-tát đi được, chạy được, trong khi chơi ở sân chơi, có tiếng la:

– Ta bị đứa không có cha đánh.

Nghe vậy, Bồ-tát đi đến mẹ và hỏi:

– Ai là cha con?

– Này con thân, con là con vua Ba-la-nại.

– Thưa mẹ, có cái gì làm chứng?

– Này con thân, vua có cho chiếc nhẫn này và nói: “Nếu sanh con gái, thì giữ chiếc nhẫn này để nuôi dưỡng nó. Nếu sanh con trai, hãy đem nó đến cho ta với chiếc nhẫn này.” Nói xong, nhà vua ra đi.

– Thưa mẹ, sự tình là như vậy, sao mẹ không đưa con đến gặp cha?

Nàng biết ý định của con, nên đem con đến cửa cung điện và xin ý kiến vua. Khi được gọi vào, nàng đảnh lễ vua và tâu:

– Thưa Ðại Vương, đây là con của Ðại Vương.

Vua biết vậy, nhưng cảm thấy xấu hổ trước đông đảo quần chúng nên nói:

– Nó không phải con của ta.

– Tâu Ðại Vương, đây là chiếc nhẫn của ngài. Chắc ngài nhận ra được chiếc nhẫn này?

– Ðây không phải là chiếc nhẫn của ta!

– Tâu Ðại Vương, tôi không có vật gì khác để bảo chứng cho sự thật. Nếu đứa trẻ này là con ngài, nó sẽ đứng trên hư không. Nếu không phải, nó sẽ rơi xuống đất và chết!

Rồi nàng cầm chân Bồ-tát quăng lên hư không. Bồ-tát ngồi kiết-già trên hư không và với âm thanh dịu ngọt, tuyên bố pháp cho phụ vương, đọc bài kệ này:

Kính thưa bậc Ðại Vương.
Tôi là con trai ngài,
Kính thưa bậc nhân chủ,
Hãy nuôi dưỡng con lớn!
Vua nuôi dưỡng người khác,
Không nuôi con mình sao?

Nghe Bồ-tát ngồi trên hư không thuyết pháp như vậy, vua bèn nói:

– Hãy đến, này con thân, ta sẽ nuôi con! Ta sẽ nuôi con!

Và vua đưa hai tay lên. Một ngàn bàn tay đưa lên để đón Bồ tát, nhưng Bồ-tát không xuống bàn tay nào khác, chỉ xuống vào bàn tay nhà vua, và ngồi trên bắp vế vua. Vua phong cho con làm phó vương, phong cho mẹ làm hoàng hậu. Sau khi vua mệnh chung, Bồ-tát lên làm vua có tên là Katthavàhanaraja (vua của người lượm củi), trị vì quốc với Chánh pháp, và khi mệnh chung ngài đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại này cho vua nước Kosala, trình bày hai câu chuyện và kết hợp chúng với nhau, bậc Ðạo Sư kết luận với sự nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, người mẹ là Mahàmaya, người cha là Tịnh Phạn vương, và vua Katthavàhana là Ta vậy.

  1. CHUYỆN VUA GÀMANI (Tiền thân Gàmani)

Không vội vã vượt qua…,

Câu chuyện được bậc Ðạo Sư kể khi ở Kỳ Viên, về một Tỷ-kheo từ bỏ tinh tấn. Trong Tiền thân này, câu chuyện về hiện tại và quá khứ sẽ được trình bày ở Chương mười một, liên hệ đến Tiền thân Samvara. Câu chuyện ấy và câu chuyện này giống nhau, nhưng các bài kệ khác nhau.

*

Hoàng tử Gàmani an trú trong lời dạy của Bồ-tát, là em út của một trăm anh em, được vây quanh với một trăm anh em, ngồi dưới lọng trắng, trên chỗ ngồi huy hoàng rực rỡ, nhìn sự quang vinh của mình, và nghĩ: “Tất cả sự quang vinh này ta có được là do vị Ðạo Sư của chúng ta”, rồi cảm thấy bằng lòng thoải mái, nói lên lời cảm hứng này:

Không vội vã vượt qua,
Thành tựu quả mong đợi,
Gà-ma-ni hãy biết
Phạm hạnh ta thành phục.

Bảy hay tám ngày sau khi vị ấy lên ngôi vua, tất cả những người anh đều đi về trú xứ của mình. Vua Gàmani vì theo Chánh Pháp, và khi mệnh chung, đi theo nghiệp của mình. Bồ-tát làm các công đức, và khi mệnh chung cũng đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi trình bày pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết giảng về các Sự thật. Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo từ bỏ tinh tấn chứng A-la-hán. Bậc Ðạo Sư, kể hai câu chuyện và kết hợp chúng với nhau, rồi kết luận với sự nhận diện Tiền thân.

  1. CHUYỆN VUA MAKHÀDEVA (Tiền thân Makhàdeva)

Những tóc bạc đầu ta…,

Câu chuyện này được bậc Ðạo Sư kể khi ở Kỳ Viên, về sự kiện xuất gia lớn đã được kể trong tập Nidana-kahthà. Khi ấy, các Tỷ-kheo đang ngồi tán thán sự ra đi của đấng Ðại Giác, thì Thế Tôn đi đến Pháp đường, ngồi trên Phật tọa, hỏi các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, các ông nay ngồi nói chuyện gì?

– Bạch Thế Tôn, không có chuyện gì khác. Chúng con ngồi tán thán hạnh ra đi của Thế Tôn!

– Này các Tỷ-kheo, không phải nay Như Lai mới ra đi, trước đây, Ta cũng ra đi rồi.

Các Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn giải thích câu chuyện ấy. Thế Tôn trình bày câu chuyện quá khứ sau đây.

*

Thuở ấy, tại nước Vidaha, có vị vua tên là Makha-deva ở Mithilà, hành trì đúng pháp của một vị Pháp Vương. Trải qua tám mươi bốn ngàn năm, ngài đã vui chơi trong địa vị Ðại Vương. Sau một thời gian dài, vua sống như vậy. Một hôm, ngài gọi người cắt tóc và nói:

– Này khanh, khi nào khanh thấy tóc bạc trên đầu ta, hãy báo cho ta biết.

Người cắt tóc, sau một thời gian dài, thấy giữa đám tóc đen nhánh của vua, có một sợi tóc bạc, liền báo cho vua biết. Vua bảo:

– Hãy nhổ sợi tóc bạc ấy và đặt nó trên tay ta.

Nghe nói vậy, người cắt tóc lấy cái nhíp bằng vàng nhổ sợi tóc bạc và đặt lên bàn tay vua. Lúc ấy, nhà vua đang có tám mươi bốn ngàn năm còn lại để sống. Tuy vậy, thấy sợi tóc bạc, ngài cảm thấy xúc động mạnh, như thần chết đã đến đứng gần đó, như bị nhốt vào trong ngôi nhà lá đang bốc cháy. Nhà vua suy nghĩ: “Này Makhàdeva ngu si ơi, tóc bạc đã mọc lên, nhưng ngươi chưa có thể loại trừ những phiền não này”.

Và khi nghĩ đến xuất hiện của sợi tóc bạc, nhà vua cảm thấy bị nung đốt nội tâm, từ thân mồ hôi toát ra, áo quần như đè nén nhà vua và trở thành không thể chịu nổi. Nhà vua nghĩ: “Hôm nay, ta phải ra đi xuất gia”.

Sau khi cho người cắt tóc hưởng lợi tức một làng trị giá một trăm ngàn đồng, vua cho gọi người con đầu và nói:

-Này con thân, trên đầu ta, tóc bạc đã hiện ra. Ta nay đã già rồi. Các dục vọng liên hệ đến con người, ta đã hưởng thụ đầy đủ. Nay ta muốn tìm cầu các dục lạc ở thiên giới. Nay là thời ta phải ra đi. Con hãy trị vì vương quốc này. Sau khi xuất gia, ta sẽ ở trong Rừng xoài của Makhàdeva và sống theo pháp Sa-môn.

Các đại thần nghe tin vua muốn xuất gia, liền đến hỏi vua vì sao lại muốn xuất gia, vua cầm sợi tóc bạc trong tay và nói bài kệ với cái đại thần:

Những tóc bạc đầu ta,
Xuất hiện, cướp tuổi xanh,
Các Thiên sứ đã đến,
Là thời ta xuất gia.

Sau khi nói vậy, ngay trong ngày ấy, nhà vua từ bỏ vương quốc, xuất gia làm ẩn sĩ trong Rừng xoài Makhàdeva. Trải qua tám mươi bốn ngàn năm tu tập bốn Phạm trú, an trú thiền không có gián đoạn, ngài mệnh chung, và sanh lên Phạm thiên giới; từ đấy lại sanh ở Mithilà và làm vua tên Nimi. Sau khi quy tụ gia đình ly tán, ngài xuất gia tại Rừng Xoài ấy, tu tập Bốn Phạm trú, và tái sanh Phạm Thiên giới.

*

Bậc Ðạo Sư nói rằng Như Lai không phải chỉ nay mới ra đi với sự xuất gia ấy, mà thuở trước cũng đã ra đi như vậy rồi. Trình bày pháp thoại này xong, Ngài thuyết về Bốn Sự thật. Một số chứng được quả Dự lưu. Một số chứng được quả Nhất Lai. Một số chứng được quả Bất lai.

Sau khi kể xong hai câu chuyện này và kết hợp chúng với nhau, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, người cắt tóc là Ànanda, người con trai là La-hầu-la (Ràhula), và vua Makhàdeva là Ta vậy.

  1. CHUYỆN TRƯỞNG LÃO SUKHAVIHÀRI (Tiền thân Sukhavihàri)

Người không được bảo vệ…,

Câu chuyện này, khi ở tại rừng xoài Anupiya, bậc Ðạo Sư đã kể về Trưởng lão Bhaddiya Sukhavihàri. Trưởng lão Bhaddiya Sukhavihàri đã xuất gia cùng với sáu vị trong hoàng tộc, cùng Upali là người thứ bảy. Trưởng lão Bhaddiya, trưởng lão Kimbila, Trưởng lão Bhagu và Trưởng lão Upàli chứng quả A-la-hán, Trưởng lão Ànanda chứng quả Dự Lưu, Trưởng lão Anuruddha chứng được thiên nhãn, Trưởng lão Ðề-bà-đạt-đa chứng được thiền định. Câu chuyện của sáu vị trong hoàng tộc này dẫn đến sự kiện ở Anupiya, sẽ được trình bày trong Tiền thân Khandahàla (số 534).

Trong thời kỳ làm vua, Tôn giả Bhaddiya tự bảo vệ mình như một vị Thiên sắp đặt sự bảo vệ, nay nghĩ đến tâm trạng sợ hãi mà vị ấy đã sống, dầu được bảo vệ với nhiều sự bảo vệ, vẫn nằm lăn qua trở lại trên đại sàng tọa đặt trên lầu cao. Vị ấy so sánh sự sợ hãi ấy với trạng thái không sợ hãi, vì nay vị ấy đã chứng quả A-la-hán, khi vị ấy đi lang thang đây đó trong các khu rừng v.v… Khi nghĩ vậy, vị ấy nói lên lời cảm hứng:

– Ôi hạnh phúc thay! Ôi hạnh phúc thay!

Các Tỷ-kheo nghĩ rằng Tôn giả Bhaddiya nói lên chánh trí của mình, nên trình lên Thế Tôn. Thế Tôn nói:

– Này các Tỷ-kheo, Bhaddiya không phải chỉ nay mới sống hạnh phúc, mà thuở trước vị ấy cũng đã sống hạnh phúc!

Các Tỷ-kheo thỉnh thoảng cầu Thế Tôn trình bày rõ ý nghĩa này. Thế Tôn làm sáng tỏ ý nghĩa qua câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, ở Ba-la-nại, trong khi vua Brahmadatta đang trị vì vương quốc, Bồ-tát sinh làm một vị Bà-la-môn giàu có ở phương Bắc. Thấy nguy hiểm trong các dục, lợi ích trong xuất ly, ngài từ bỏ các dục, vào núi Tuyết xuất gia làm ẩn sĩ, đạt được tám Thiền chứng. Số tùy tùng của ngài lên đến năm trăm vị khổ hạnh.

Khi mùa mưa đến, ngài rời núi Tuyết với chúng khổ hạnh vây quanh đi bộ qua làng, qua thị trấn, đến Ba-la-nại, ngài trú ở ngôi vườn của vua, nương tựa nhà vua. Tại đấy, sau khi sống bốn tháng trong mùa mưa, ngài đến từ biệt nhà vua. Nhà vua nói:

– Thưa Tôn giả, Tôn giả đã lớn tuổi, Tôn giả sống ở núi Tuyết làm gì? Hãy để các đệ tử đến núi Tuyết, còn Tôn giả ở lại đây.

Bồ-tát giao năm trăm người khổ hạnh cho đệ tử trưởng và nói:

– Con hãy đi, sống ở núi Tuyết với những người này. Còn ta sẽ sống ở đây.

Vị đệ tử trưởng ấy, trước kia làm vua, sau tử bỏ vương quốc lớn, xuất gia, lấy đề tài làm Thiền quán, chứng được tám Thiền chứng. Vị ấy sống ở núi Tuyết với các vị khổ hạnh.

Một hôm, muốn yết kiến bổn sư, vị ấy gọi các vị khổ hạnh kia và bảo:

– Hãy sống thoải mái ở đây, ta đi đảnh lễ bổn sư rồi lại về.

Vị ấy đi đến bổn sư, đảnh lễ ngài, chào mừng ngài rất chân tình, rồi trải tấm thảm, nằm xuống bên cạnh bổn sư. Lúc bấy giờ, nhà vua đi đến ngôi vườn để yết kiến vị khổ hạnh, đảnh lễ ngài rồi ngồi xuống một bên. Vị đệ tử khổ hạnh thấy vua đến, nhưng không đứng dậy, vẫn nằm dài và nói lời cảm hứng:

– Ôi hạnh phúc thay! Ôi hạnh phúc thay!

Nhà vua không hoan hỷ với vị khổ hạnh thấy vua mà không đứng dậy, nên nói với Bồ-tát.

– Thưa Tôn giả, người khổ hạnh này có lẽ đã ăn quá đầy đủ nên nằm sung sướng, nói lên lời cảm hứng.

– Thưa Ðại Vương, người khổ hạnh này trước cũng làm vua như ngài. Vị ấy suy nghĩ: “Trước kia còn là cư sĩ, đầy đủ uy quyền nhà vua, được bảo vệ bởi nhiều người có binh khí cầm tay, nhưng không được hạnh phúc như thế này. Nay do tự mình được hạnh phúc xuất gia, được hạnh phúc thiền định, nên nói lên lời cảm hứng như vậy”.

Ðể giảng pháp thoại cho nhà vua, Bồ-tát đọc bài kệ này:

Người không được bảo vệ,
Không bảo vệ người khác,
Thưa Ðại Vương, người ấy.
Thật sự được an lạc.
Vì không chờ đợi gì,
Ðối với các dục vọng.

Nhà vua nghe pháp thoại xong, cảm thấy thoải mái, đảnh lễ, rồi đi về cung. Vị đệ tử đảnh lễ bổn sư, rồi đi về núi Tuyết. Bồ-tát tiếp tục sống tại đấy, thiền định không gián đoạn và khi mạng chung, sanh lên Phạm thiên giới.

*

Bậc Ðạo sư, kể lại hai câu chuyện, kết hợp chúng với nhau rồi nhận diện Tiền thân:

– Lúc ấy, vị đệ tử là Tôn giả Bhaddiya, còn vị bổn sư chính là Ta đây.

PHẨM GIỚI.

  1. CHUYỆN CON NAI ÐIỀM LÀNH (Tiền thân Lakkhana)

Con người có giới hạnh…,

Câu chuyện này, khi ở Trúc Lâm, gần thành Vương Xá, đức Phật kể về Ðề-bà-đạt-đa. Câu chuyện về Ðề-bà-đạt-đa sẽ được kể cho đến khi làm tướng cướp trong Tiền thân Khandahala (số 533), cho đến khi bị đuổi đi khỏi chức vụ người giữ kho bạc trong Tiền thân Cullapanthaka (số 533), cho đến khi bị quả đất nuốt sống trong Chương thứ mười sáu ở Tiền thân Samud-davanija (số 466).

Một thời, Ðề-bà-đạt-đa yêu cầu năm điều kiện, nhưng không được, bèn phá hòa hợp Tăng, đem theo năm trăm Tỷ-kheo đến ở tại Gayàsisa. Rồi khi trí của những Tỷ-kheo ấy được thuần thục, biết vậy, bậc Ðạo Sư bảo hai đệ tử đầu tay:

– Này Xá-lợi-phất, năm trăm Tỷ-kheo đệ tử của ông, thích thú sở đắc của Ðề-bà-đạt-đa, đã đi với kẻ ấy. Nay trí của họ đã được thuần phục. Ông hãy đi đến đấy với nhiều Tỷ-kheo, thuyết pháp cho họ làm họ giác ngộ về Ðạo và Quả, và đưa họ về.

– Theo lời Thế Tôn, Tôn giả Xá-lợi-phất đi đến đó, thuyết pháp cho họ làm họ giác ngộ về Ðạo và Quả; đến ngày hôm sau, khi trời mới rạng đông, Tôn giả đem các Tỷ-kheo ấy về Trúc Lâm. Sau khi về, Trưởng lão Xá-lợi-phất đảnh lễ Thế Tôn. Khi đang đứng tại đây, các Tỷ-kheo tán thán vị Trưởng lão với Thế Tôn như sau:

– Bạch Thế Tôn, sáng chói huy hoàng là Pháp huynh niên trưởng của chúng con, bậc Tướng quân Chánh pháp, với năm trăm Tỷ-kheo vây quanh đã đi trở về. Còn Ðề-bà-đạt-đa mất hết những người theo kẻ ấy.

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Xá-lợi-phất mới sáng chói huy hoàng khi về với bà con hội chúng vây quanh, nhưng trong thời quá khứ, cũng sáng chói huy hoàng như vậy!

Các Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn làm sáng tỏ vấn đề này. Thế Tôn trình bày rõ ràng câu chuyện quá khứ sau đây.

*

Thuở sau, tại nước Ma-kiệt-đà, trong thành Vương Xá, một vị vua Ma-kiệt-đà đang trị vì. Lúc ấy, Bồ-tát ra đời làm con nai, lớn lên và ở trong rừng với đàn nai một ngàn con. Bồ-tát sanh được hai con nai, tên là Lakkhana (Ðiềm lành) và Kala (Ðen). Khi đã già, Bồ-tát nói với hai con:

– Này con thân, ta nay đã già, các con hãy coi sóc đàn nai.

Rồi Bồ-tát giao năm trăm nai cho mỗi con. Từ đấy về sau, hai con nai ấy chăm sóc đàn nai.

Trong nước Ma-kiệt-đà, vào mùa lúa chín, khi lúa trổ đầy, có nhiều nguy hiểm cho đàn nai. Với mục đích giết hại những con thú ăn lúa, dân làng đào hầm hố, cắm chông, bày bẫy đá, đặt bẫy sộp và các loại cạm bẫy khác. Nhiều con nai bị nạn phải chết.

Bồ-tát biết là thời lúa chín trổ đầy, cho gọi hai con lại và nói:

– Này con thân, nay là thời lúa chín trổ đầy, nhiều con nai đã gặn nạn. Ta nay đã già sẽ dùng bất cứ phương tiện nào để ở lại một chỗ. Còn các con hãy đem đàn nai của các con, ẩn vào những con đường núi đá trong rừng, đợi khi lúa gặt hái xong, sẽ trở về lại!

Chúng vâng theo lời dạy của cha, ra đi với đàn nai tùy tùng. Dân làng biết được con đường của chúng đi. Trong thời này, các con nai leo núi; trong thời này, chúng xuống núi nên họ ẩn núp tại các chỗ kín, đây đó dọc đường, để bắn và giết chúng vô số.

Con nai Kala, với sự ngu si của mình, không biết thời nào nên đi, thời nào không nên đi, cứ đem đàn nai đi sáng, chiều, khi chạng vạng, khi rạng đông, ngang qua cửa làng. Và các nông dân hoặc lộ liễu hoặc ẩn núp chỗ này chỗ kia giết chúng, khiến nhiều con nai gặp nạn. Như vậy, với sự ngu si của mình, nai Kala làm cho nhiều con nai gặp nạn, số còn lại đi vào rừng với nó rất ít.

Còn nai Lakkhana nhờ có trí, thông minh, thiện xảo, biết thời nào nên đi, thời nào không nên đi, nó không đi ngang qua cửa làng, không đi ban ngày, không đi lúc hoàng hôn, khi rạng đông, mà chỉ đem đàn nai đi vào lúc nửa đêm. Do vậy, không một nai nào gặp nạn, và chúng cùng nó đi vào rừng. Chúng sống bốn tháng tại đây khi lúa đã được gặt hái, mới xuống núi.

Kala, trên đường về, lặp lại hành động ngu si trước, khiến những con nai còn lại gặp nạn, một lần nữa, chỉ có một mình nó trở về. Con nai Lakkhana không làm một nai nào bị nạn, cùng với năm trăm nai vây quanh, đi về với cha mẹ. Khi Bồ-tát thấy hai con đi về, nghĩ về đàn nai, liền nói lên bài kệ này:

Con người có giới hạnh
Ðược phần thưởng đón mừng,
Xem Lak-kha-na về,
Cầm đầu chúng bà con,
Hãy xem Ca-la này
Với bà con hủy diệt.

Như vậy, Bồ-tát đón mừng nai con, sống tại đấy cho hết tuổi thọ rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Xá-lợi-phất không phải chỉ hôm nay mới được chói sáng với bà con vây quanh, mà trước kia cũng đã chói sáng như vậy. Còn Ðề-bà-đạt-đa không phải chỉ hôm nay mới làm cho quyến thuộc bị hủy diệt, mà trước kia cũng như vậy.

Sau khi thuyết pháp thoại này xong, so sánh hai câu chuyện, và kết hợp chúng với nhau, Ngài kết luận với sự nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, con nai Kala là Ðề-bà-đạt-đa, đoàn tùy tùng của nó là đàn tùy tùng của Ðề-bà-đạt-đa; con nai Lakkhana là Xá-lợi-phất; nai mẹ là mẹ của Ràhula (La-hầu-la) và nai cha là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON NAI CÂY ÐA (Tiền thân Nigrodhamiga)

Sống với Nigrodha…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về mẹ của Trưởng lão Cumarakassapa (Cưu-ma-la Ca-diếp). Tục truyền rằng thuở còn là con gái một triệu phú giàu có ở thành Vương Xá, nàng đầy thiện căn để chấm dứt các hành, sống đời cuối cùng như cây đèn trong ghè, nội tâm nàng sáng chói niềm hy vọng chứng quả A-la-hán. Từ khi hiểu biết về mình, nàng không vui trong đời sống gia đình, và muốn xuất gia. Nàng thưa với cha mẹ:

– Thưa cha mẹ thân, tâm con không vui với đời sống gia đình, con muốn xuất gia trong Giáo pháp giải thoát của đức Phật. Hãy cho phép con xuất gia.

– Này con, con nói gì vậy? Gia đình này rất giàu có. Con là con gái độc nhất của chúng ta. Con không được xuất gia!

Nàng tiếp tục xin, không được cha mẹ cho xuất gia, nàng nghĩ: “Thôi, hãy chấp nhận là vậy. Khi nào về nhà chồng, được chồng bằng lòng, ta sẽ xuất gia!”

Nàng lớn lên, đi về nhà chồng, trở thành người vợ trung thành, sống trong gia đình có giới hạnh và theo thiện pháp. Khi nàng sống trong gia đình, nàng thụ thai, nhưng không biết mình đã thụ thai.

Một ngày hội lớn được tuyên bố trong thành ấy và mọi người trong thành phố vui chơi hội lớn. Thành phố được trang hoàng như thành phố Chư Thiên. Nhưng trong khi lễ hội lớn đạt đến cao độ, nàng vẫn không thoa phấn son, không đeo đồ trang sức, ăn mặc như ngày thường. Chồng nàng nói với nàng:

– Này hiền thê, toàn thành phố vui chơi hội lớn. Còn em thì không săn sóc gì cho thân mình.

– Thưa hiền phu, thân này của em đầy ba mươi hai bộ phận của thân xác, trang điểm thân này làm gì? Thân này không do chư Thiên hóa sanh, không do Phạm thiên hóa sanh, không làm bằng vàng, không làm bằng châu báu, không làm bằng gỗ chiên-đàn vàng, không sanh từ đài sen trắng, sen hồng hay sen xanh, không đựng đầy thuốc trường sanh. Thân này uế nhiễm do cha mẹ sanh, bị vô thường hủy diệt, băng hoại tan nát, làm nghĩa trang tăng trưởng, bị ai chấp thủ, là nhân của sầu ưu, là căn cứ của than khóc, là kho tàng của mọi bệnh tật, là chỗ dung nạp của nghiệp lực, nội bộ ô uế, ngoại bộ thường bài tiết. Thật vậy, như toàn thế giới có thể thấy cứu cánh của nó là chết, đi đến nghĩa địa, là chỗ tự hội các côn trùng. Và nàng nói lên lời cảm thán:

Ràng buộc bởi gân xương,
Dính lại với da thịt,
Thân bị da bao trùm,
Không thấy được như thật.

– Kính thưa hiền phu, em trang điểm thân này làm gì? Có phải chăng trang điểm thân này chẳng khác gì trang điểm bề ngoài một cái bình đựng đầy phân?

Người triệu phú nghe nàng nói như vậy bèn hỏi:

– Nếu hiền thê thấy thân này tội lỗi như vậy, sao hiền thê không xuất gia?

– Thưa hiền phu, nếu em được phép xuất gia, em sẽ xuất gia ngay hôm nay!

Nói xong, sau khi tổ chức bố thí lớn và tỏ lòng hết sức kính trọng Giáo hội, người triệu phú cùng với một số tùy tùng lớn đưa nàng xuất gia, và nàng được xuất gia với chúng Tỷ-kheo-ni thuộc phái Ðề-bà-đạt-đa. Sau khi xuất gia, nàng sống hoan hỷ với tâm tư viên mãn.

Khi cái thai của nàng đã thuần thục, các Tỷ-kheo-ni nhận thấy các căn của nàng đổi khác, tay chân và lưng lớn lên, màn da bụng to lên, hỏi nàng:

– Này hiền muội, hình như hiền muội có thai. Sự việc này thế nào?

– Thưa các hiền tỷ, tôi không biết sự việc này. Giới hạnh tôi đầy đủ!

Rồi các Tỷ-kheo-ni đưa nàng đến Ðề-bà-đạt-đa và hỏi Ðề-bà-đạt-đa:

– Thưa Tôn giả, thiện nữ nhân này, với sự chấp nhận khó khăn của người chồng, đã được xuất gia. Nay nàng có thai, chúng tôi không biết nàng thọ thai nhi khi còn là cư sĩ, hay khi đã xuất gia. Nay chúng tôi phải làm gì?

Ðề-bà-đạt-đa tự mình chưa phải là bậc Giác ngộ, nên không có lòng kham nhẫn, từ bi, từ mẫn và suy nghĩ: “Một Tỷ-kheo-ni thuộc phái Ðề-bà-đạt-đa nay đã có thai, và Ðề-bà-đạt-đa lại hỷ xả. Ta sẽ bị chỉ trích như vậy. Ta phải đuổi người này.” Rồi không điều tra, như xô đẩy một tảng đá, Ðề-bà-đạt-đa lập tức khẳng định và nói:

– Hãy đi ngay và tẩn xuất người này!

Chúng Tỷ-kheo-ni ấy nghe nói vậy, đứng dậy đảnh lễ rồi đi về trú xứ. Nàng thiếu phụ thưa với các Tỷ-kheo-ni ấy:

– Thưa các Nữ Tôn giả, Trưởng lão Ðề-bà-đạt-đa không phải đức Phật! Con xuất gia không phải với Ðề-bà-đạt-đa, nhưng con xuất gia với bậc Chánh Ðẳng Giác, bậc tối thượng ở đời. Chớ làm mất nơi con điều con đã được một cách khó khăn! Hãy đưa con đi đến Kỳ Viên, gặp bậc Ðạo Sư!

Chúng Tỷ-kheo-ni ấy đưa nàng đi, vừa qua con đường dài bốn mươi lăm dặm, từ Vương Xá dần dần đến Kỳ Viên, đảnh lễ bậc Ðạo Sư và tường trình sự việc. Bậc Ðạo Sư suy nghĩ: “Dầu thai của nàng ấy được tượng hình khi còn là gia chủ, đây cũng là một dịp để ngoại đạo nói rằng Sa-môn Gotama đã nhận lấy một Tỷ-kheo-ni bị Ðề-bà-đạt-đa loại bỏ. Ðể chấm dứt câu chuyện, vấn đề này còn được giải quyết trước mặt vua và tùy tùng của vua”.

Ngày hôm sau, Thế Tôn cho mời vua Pasenadi, (Ba-tư-nặc) nước Kosala, ông Cấp Cô Ðộc lớn, Cấp Cô độc nhỏ, nữ cư sĩ Visàkhà, và các nhân vật có tiếng khác. Rồi vào buổi chiều, giữa bốn chúng đã đều tụ họp, Thế Tôn bảo trưởng lão Upàli.

– Hãy đi làm cho sáng tỏ sự việc của Tỷ-kheo-ni trẻ này giữa bốn chúng!

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Vị trưởng lão đi đến giữa hội chúng, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn cho mình, cho gọi nữ cư sĩ Visàkhà trước mặt nhà vua, và giao việc điều tra này:

– Hãy đi, này Visàkhà, trước hết, hãy xác định ngày xuất gia, tháng xuất gia của người thiếu phụ này. Sau khi biết rõ rồi, hãy tìm hiểu nàng thụ thai trước đây hay sau thời gian ấy.

Nữ cư sĩ chấp nhận lời dạy, cho treo một cái màn. Sau cái màn ấy, nữ cư sĩ quan sát tay, chân, lỗ rún, bụng, các phần thân khác của Tỷ-kheo-ni trẻ. Sau khi tính ngày tháng, biết được nàng thụ thai trong thời kỳ còn là gia chủ, nữ cư sĩ đi đến vị Trưởng lão và báo cáo kết quả.

Vị trưởng lão, giữa bốn chúng, tuyên bố Tỷ-kheo-ni ấy là thanh tịnh. Bấy giờ nàng được xác nhận là thanh tịnh, liền đến đảnh lễ chúng Tỷ-kheo và bậc Ðạo Sư, rồi đi về trú xứ với các Tỷ-kheo-ni. Khi bào thai đã thuần phục, nàng sanh được một bé trai có uy lực lớn, do nàng cầu nguyện dưới chân Ðức Phật Padumuttara cách đây nhiều kiếp.

Nhà vua, một hôm đi đến gần trú xứ của Tỷ-kheo-ni, nghe tiếng của đứa trẻ, và hỏi các đình thần. Các đình thần biết câu chuyện, thưa lại với vua:

– Tâu Ðại Vương, vị Tỷ-kheo-ni trẻ ấy sanh được một đứa con trai. Ðây là tiếng khóc của đứa trẻ.

– Này các khanh, nuôi con là một chướng ngại cho các Tỷ-kheo-ni. Chúng ta sẽ nuôi dưỡng nó.

Vua giao đứa trẻ cho các thiếu phụ bà con và bảo nuôi dưỡng nó lớn như một hoàng tử. Ðến ngày đặt tên, nó được tên là Kassapa, nhưng được biệt danh là hoàng tử Kassapa, vì được nuôi dưỡng như một hoàng tử. Khi lên bảy tuổi, Kassapa xuất gia với bậc Ðạo Sư, và khi đầy đủ tuổi, được thọ Ðại Giới. Thời gian đi qua, vị ấy trở thành một nhà thuyết pháp tài giỏi giữa các nhà thuyết pháp. Rồi bậc Ðạo Sư ấn chứng cho vị ấy:

– Này các Tỷ-kheo, vị này là đệ nhất trong các đệ tử thuyết pháp của Ta, tức là Hoàng tử Kassapa. Hoàng tử Kassapa, nhờ kinh Vammika (Kinh Trung Bộ, số 23) chứng quả A-la-hán. Tỷ-kheo-ni, mẹ vị ấy, nhờ phát triển Thiền quán, chứng quả cao nhất. Trưởng lão Cumarakassapa, giữa giáo pháp đức Phật, sáng chói như mặt trăng rằm giữa hư không.

Một hôm, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đức Như Lai khuyến giáo các Tỷ-kheo xong, đi vào Hương Phòng. Sau khi được lời khuyến giáo, Tăng chúng sinh hoạt trong các gian phòng ban ngày, hay gian phòng ban đêm của họ. Vào buổi chiều, họ hội họp tại Pháp đường, và tán thán đức hạnh của đức Phật:

– Này các Hiền giả, Ðề-bà-đạt-đa tự mình không phải là Phật, lại không có kham nhẫn, lòng từ bi, lòng từ mẫn, đã khiến cho Trưởng lão Cumarakassapa và Trưởng lão ni gần bị hại. Nhưng bậc Chánh Ðẳng giác tự mình là bậc Pháp Vương, lại thành tựu kham nhẫn, lòng từ bi, lòng từ mẫn, đã trở thành chỗ nương tựa cho hai vị ấy.

Bậc Ðạo sư, với uy nghi của Ðức phật, đi vào Pháp đường, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn, và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang ngồi luận bàn chuyện gì?

Các Tỷ-kheo thưa:

– Bạch Thế Tôn, chúng con bàn đến công đức của Thế Tôn.

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Như Lai mới trở thành chỗ nương tựa cho hai người ấy, nhưng trong quá khứ cũng vậy.

Các Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn làm sáng tỏ vấn đề này. Thế Tôn trình bày rõ câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahamadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm một con nai. Khi từ bụng mẹ sanh ra, con nai có màu sắc vàng, mắt của nó giống như hòn châu báu, sừng màu trắng bạc, miệng đỏ như tấm màn nhung, móng chân láng trơn như màu sơn mài, đuôi giống như đuôi con trâu rừng (Yak), thân to lớn bằng con nghé. Nó sống trong rừng, được vây quanh với năm trăm con nai và được gọi là nai chúa Nigrodla (Cây Ða). Không xa bao nhiêu, có một con nai khác, với năm trăm con nai tùy tùng và được gọi là nai Sakha (Nhành), nai này cũng màu sắc vàng.

Lúc bấy giờ vua Ba-la-nại thường hay săn bắn nai, không có thịt nai thì không ăn cơm. Hằng ngày vua triệu tập dân thành dân tỉnh lại, đình chỉ công việc của mọi người và vua thích đi săn bắn. Mọi người suy nghĩ: “Vua này đình chỉ công việc của chúng ta; chúng ta hãy gieo bẫy mồi và đặt nước uống cho các con nai trong vườn, đuổi nhiều nai vào trong ấy, đóng cửa lại và bắt dẫn chúng đến vua”.

Như vậy, họ gieo cỏ làm bẫy mồi, đặt nước uống khắp vườn, cho sắp đặt cửa, đem theo những người trong thành, tay cầm côn, gậy và các loại binh khí khác đi vào rừng tìm nai, họ bao một vòng vây khoảng độ một dặm để bắt đàn nai bị vây ở giữa, và như vậy họ vây quanh chỗ ở của đàn nai Nigrodha và đàn nai Sakha.

Khi thấy đàn nai, họ bắt đầu lấy gậy đập cây, đập bụi, đập đất, đuổi đàn nai ra khỏi chỗ ở của chúng, khua động các loại vũ khí như gươm, giáo, cung, la hét và đuổi đàn nai vào rừng. Rồi họ đóng cửa lại, đi đến gặp vua và thưa:

– Thưa Ðại Vương, vì luôn luôn đi săn nai, Ðại Vương phá hoại công việc của chúng con. Nay chúng con đã dẫn đàn nai rừng vào đầy cả vườn của Ðại Vương. Từ nay trở đi, Ðại Vương có thể ăn thịt chúng.

Sau khi thưa như vậy, dân chúng bỏ đi. Nhà vua nghe họ nói, đi đến khu vườn, nhìn các con nai, thấy hai con nai vàng, liền tha chết cho chúng. Từ đấy về sau, có khi nhà vua tự đi bắn một con nai rồi đem về. Có khi người đầu bếp đi đến, bắn nai rồi đem về. Các con nai, thấy cây cung, liền run rẩy vì sợ chết nên bỏ chạy. Nhưng khi bị hai hay ba vết thương, chúng mệt mỏi, bị bệnh, và bị giết. Ðàn nai báo cáo sự việc như vậy lên Bồ-tát. Bồ-tát cho gọi Sakha và nói:

– Này bạn, nhiều con nai bị hại, dầu thế nào chúng cũng phải chết. Nhưng bắt đầu từ nay trở đi, chớ để các con nai bị tên bắn một cách vô ích. Hãy để các con nai thay phiên nhau đi đến chỗ phải chết. Một ngày là phiên đàn nai của tôi, một ngày là phiên nai của bạn. Con nai nào đến phiên của mình cứ đi đến, nằm xuống đặt đầu vào chỗ phải chết. Làm vậy, các con nai khác khỏi bị thương.

Con nai Sakha chấp thuận. Từ đấy trở đi, theo phiên mình, một con nai đi đến, nằm xuống, đặt cổ vào chỗ bị giết. Người đầu bếp đến, bắt con nai nằm đấy rồi đem đi.

Một hôm đến phiên một con nai cái có mang ở trong đàn nai Sakha. Con nai cái đến gặp Sakha và thưa:

– Thưa chúa tể, tôi có thai, sắp sanh con, như vậy đàn có hai mạng sống đến phiên. Hãy cho qua phiên của tôi.

Nai Sakha nói:

– Không thể bảo những con nai khác thế phiên cho ngươi được. Ngươi hãy chịu những gì sẽ đến với ngươi, hãy đi đi.

Con nai cái ấy không được nai Sakha chấp thuận, liền đi đến Bồ-tát và trình bày sự việc. Bồ-tát nghe xong liền nói:

– Ðược, hãy đi đi! Ta sẽ bỏ qua phiên của người!

Rồi nai chúa tự mình đi đến, đặt đầu vào chỗ chết nằm chờ. Người đầu bếp thấy vậy liền nói:

– Con nai chúa đã được tha khỏi chết, nay lại nằm ở chỗ chết này. Sự việc này là cớ sao?

Rồi kẻ ấy đi báo cáo cho vua hay. Nhà vua lập tức ngự lên xe, đi đến với đoàn tùy tùng đông đảo, thấy Bồ-tát, liền nói:

– Này bạn nai chúa, ta đã tha khỏi chết cho người. Sao nay ngươi nằm ở đây?

– Thưa Ðại Vương, một con nai cái đến gặp tôi, yêu cầu một con khác thay phiên cho nó. Tôi không có thể bắt một con nào khác chịu đau đớn vì bị chết được. Tôi quyết định cho con nai cái ấy mạng sống của tôi, nhận lấy cái chết thay cho con nai cái, nên nằm ở đây, Ðại Vương chớ có nghi ngờ gì khác!

Vua nói:

– Hỡi nai chúa sắc vàng, từ trước, ta chưa bao giờ thấy giữa loài người, có ai đầy đủ khảm nhẫn, hòa ái, từ bi như ngươi. Do vậy, ta thật bằng lòng với ngươi. Hãy đứng dậy, ta sẽ cho ngươi và con nai cái ấy thoát khỏi sợ hãi!

– Thưa bậc nhân chủ, có hai con nai được thoát khỏi sợ hãi, đàn nai còn lại thì thế nào?

– Này nai chúa, ta sẽ cho đàn nai còn lại thoát khỏi sợ hãi.

– Thưa Ðại vương, các con nai được thoát khỏi sự sợ hãi, nhưng các con sinh vật bốn chân khác thì sao?

– Này nai chúa, ta cũng cho chúng thoát khỏi sợ hãi!

– Thưa Ðại Vương, các loài bốn chân được thoát khỏi sợ hãi, nhưng các đàn chim thì thế nào?

– Này nai chúa, ta cũng sẽ cho chúng thoát khỏi sợ hãi!

– Thưa Ðại Vương, các loại chim như vậy được thoát khỏi sợ hãi, nhưng còn đàn cá sống ở trong nước thì thế nào?

– Này nai chúa, ta cũng sẽ cho chúng thoát khỏi sợ hãi!

Như vậy con nai chúa đã xin vua được thoát khỏi sợ hãi cho tất cả chúng sanh, đứng dậy, khuyên nhà vua thọ năm giới, và nói:

– Thưa Ðại Vương, hãy sống theo Chánh pháp! Hãy xử sự đúng Chánh pháp đối với cha mẹ, đối với con trai, con gái, đối với Bà-la-môn, gia chủ, đối với dân ở thành phố, dân ở các tỉnh. Hãy tự mình sống đúng Chánh pháp, khi nhân loại mạng chung, sẽ được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này!

Sau khi thuyết pháp cho vua với uy lực kỳ diệu của Ðức phật, Bồ-tát sống tại khu vườn trong một vài ngày để khuyến giáo vua, rồi cùng với đàn nai vây quanh, lên núi đi theo chúng vào rừng. Con nai cái đẻ ra một con nai đực đẹp như một nụ hoa. Nai con này đi chơi với đàn nai Sakha. Thấy nai mình đi chơi với đàn nai Sakha, nai mẹ khuyên con mình, bắt đầu từ nay chớ đi tới Sakha, nên đi tới Nigrodha và nói lên bài kệ:

Sống với Ni-gro-dha,
Chớ sống với Sa-kha!
Chết với Ni-gro-dha,
Hơn sống với Sa-kha.

Từ đấy trở đi, các con nai thoát khỏi sợ hãi khi ăn lúa của dân chúng. Và dân chúng nhớ rằng các con nai được thoát khỏi sợ hãi, nên không dám đánh đập hay đuổi chúng đi. Họ tụ họp tại sân vua và báo cáo lên vua biết. Vua nói:

– Do ta bằng lòng, ta đã cho nai Nigrodha một đặc ân. Ta thà mất nước chớ không bỏ lời đã hứa. Hãy đi đi, trong quốc độ của ta, không con nai nào bị đánh cả!

Nai Nigrodha, nghe tin này, liền hợp đàn nai lại và bảo:

– Bắt đầu từ nay, chớ ăn lúa của người khác!

Sau khi bảo chúng hứa như vậy, nai Nigrodha báo tin cho dân chúng biết:

– Bắt đầu từ nay, những người trồng lúa chớ rào ruộng lại để bảo vệ lúa, chỉ làm dấu bằng cách cột lá lúa lại.

Bắt đầu từ đấy, theo tin đồn, khởi lên tục lệ cột lá lúa lại giữa các đồng ruộng. Bắt đầu từ đấy, các con nai không vượt qua đồng ruộng có lá lúa cột lại. Ðây là nhờ Bồ-tát khuyến giáo chúng như vậy. Sau khi khuyến giáo đàn nai, Bồ-tát sống ở đấy cho hết tuổi thọ, rồi cùng với đàn nai đi theo nghiệp của mình. Còn nhà vua nghe lời khuyến giáo của Bồ-tát, suốt đời làm các công đức rồi sau đó đi theo nghiệp của mình.

*

Bậc Ðạo Sư nói sau khi kể pháp thoại:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ta mới bảo vệ Trưởng lão ni và Kumarkassapa, mà thuở trước Ta cũng bảo vệ như vậy.

Rồi Ngài thuyết giảng Bốn Sự thật, nêu sự liên hệ giữa hai câu chuyện, kết hợp chúng với nhau, và kết luận bằng cách nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, con nai Sakha là Ðề-bà-đạt-đa, đàn nai là tùy tùng của Ðề-bà-đạt-đa, nai cái là Trưởng lão ni, nai con là Kumarakassapa, vua là Ànanda, con nai chúa Nigrodha là Ta vậy.

  1. CHUYỆN MŨI TÊN (Tiền thân Kandina)

Ðáng nguyền rủa mũi tên…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, Thế Tôn đã kể lại sự cám dỗ của những người vợ trước đối với các Tỷ-kheo. Câu chuyện này sẽ được kể trong Tiền thân Indriya số 248, Chương tám. Thế Tôn nói với Tỷ-kheo

– Này Tỷ-kheo, do người đàn bà này, trước kia mạng ông bị hoại diệt và bị thiêu sống trong lửa hừng.

Các Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn giải thích rõ câu chuyện ấy, và Thế Tôn trình bày rõ câu chuyện bị tái sanh che lấp.

[Bắt đầu từ nay, chúng tôi sẽ không nói đến lời yêu cầu giải thích của các Tỷ-kheo, sự trình bày rõ câu chuyện bị tái sanh che lấp, mà chúng tôi chỉ nói: Kể câu chuyện quá khứ. Tất cả các phần còn lại đều được hiểu như ở các chuyện trước.]

*

Thuở xưa, tại nước Ma-kiệt-đà, vua nước ấy đang trị vì ở thành Vương Xá. Ðến mùa lúa, các con nai trú ở Ma-kiệt-đà gặp nguy hiểm, vì vậy chúng đi vào con đường núi trong rừng. Tại đấy, một con nai rừng lại luyến ái một con nai cái sống ở một làng biên địa. Khi các con nai từ đường núi về trong thời đi xuống biên địa của làng, vì tâm luyến ái con nai cái ấy, con nai núi đi theo nó. Con nai cái nói:

– Chàng là một con nai núi ngu si. Tại biên địa của làng, có nguy hiểm và có chuyện đáng sợ hãi. Chớ đi xuống với chúng tôi.

Vì con nai núi có tâm luyến ái, không chịu trở lui, vẫn đi với con nai cái. Người dân ở Ma-kiệt-đà biết thời kỳ các con nai từ đường núi đi xuống, và ẩn núp tại chỗ kín bên đường.

Trên đường hai con nai ấy trở về, một người thợ săn ẩn núp tại một chỗ kín. Con nai cái đánh được hơi người, biết có người thợ săn ẩn núp, nên bảo con nai ngu si đi trước, còn mình đi sau. Người thợ săn chỉ với một phát tên, bắn ngã con nai tại chỗ.

Con nai cái biết con nai rừng bị bắn trúng, liền nhảy lên, chạy như gió. Người thợ săn ra khỏi chỗ ẩn núp, lột da con nai núi, nhen lửa, và nướng thịt nai ngon ngọt trên đống than cháy không ngọn. Sau khi ăn thịt, uống nước xong, với đòn gánh anh ta mang về phần thịt dư thừa còn máu nhỏ giọt để làm vui lòng mấy đứa trẻ, và đi về nhà.

Lúc ấy, Bồ-tát được sanh làm một vị thần ở khu rừng ấy. Thấy sự việc đã xảy ra, ngài suy nghĩ như sau: “Con nai ngu dại này chết không phải do mẹ, không phải do cha, chỉ do lòng dục. Chúng sanh hưởng lạc thú khi dục mới tượng hình, nhưng rồi sẽ gặp nạn khổ đau, bị chặt tay, bị năm loại khổ đau, bị trói, bị đánh. Làm cho những người khác khổ và chết là điều đáng bị chỉ trích ở trong đời này! Quốc độ nào có nữ nhân hoành thành, ra mệnh lệnh, quốc độ ấy bị nữ nhân lãnh đạo là điều đáng chỉ trích! Những chúng sanh nào chịu để cho nữ nhân chi phối thật đáng bị chỉ trích”.

Trong khi các vị thần khác nói lời tán thán và cúng dường hương, hoa v.v…, Bồ-tát tóm thâu ba lời chỉ trích trong một bài kệ, khiến toàn khu rừng ấy vang lên âm thanh dịu ngọt. Ngài thuyết pháp với bài kệ này:

Ðáng nguyền rủa mũi tên
Bắn người gây thống khổ,
Ðáng nguyền rủa quốc độ
Do nữ thần lãnh đạo!
Ðáng nguyền rủa chúng sanh
Chịu thần phục đàn bà!

Như vậy, với một câu kệ, cả ba lời chỉ trích được Bồ-tát tóm thâu, và toàn khu rừng vang dậy lời thuyết pháp khi Bồ-tát thuyết giảng uy lực của đức Phật.

*

Bậc Ðạo Sư, thuyết pháp thoại này xong, liền giảng về Bốn Sự thật. Cuối bài thuyết giảng, vị Tỷ-kheo ái luyến chứng quả Dự Lưu. Bậc Ðạo sư kể hai câu chuyện, kết hợp chúng với nhau, và kết luận với sự nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, con nai rừng là vị Tỷ-kheo luyến ái, con nai cái là vợ trước của Tỷ-kheo, còn vị thần thuyết pháp nêu rõ tội lỗi dục tham là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON NAI GIÓ (Tiền thân Vàtamiga)

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về Trưởng Lão Cullapindapatika Tissa. Theo truyền thống, khi bậc Ðạo Sư ở tại Trúc Lâm, gần Vương Xá, con trai của một gia đình triệu phú giàu có, tên là Tissakumara, một hôm đi đến Trúc Lâm, nghe bậc đạo sư thuyết pháp. Tissa về nhà, xin phép xuất gia, nhưng cha mẹ không bằng lòng. Tissakumara bèn nhịn đói trong bảy ngày như Ratthapàla (Kinh Trung Bộ số 83) và được cha mẹ chấp thuận xuất gia với bậc Ðạo Sư.

Ðộ nửa tháng, sau khi truyền giới xuất gia cho Tissakumara, bậc Ðạo Sư, từ Trúc Lâm đi đến Kỳ Viên. Tại đấy, vị thiện nam này theo người ba hạnh đầu đà, dùng thời gian khất thực từng nhà ở Xá-vệ. Với danh xưng Trưởng lão Cullapindapatika, vị ấy trở thành sáng chói trong Giáo pháp bậc Ðạo sư như mặt trăng giữa bầu trời.

Trong khi ấy, tại Vương Xá, nhân một ngày hội lớn được tổ chức, cha mẹ của Trưởng lão lấy đồ trang sức, mà con thường dùng trong khi còn ở nhà, bỏ vào trong một cái hộp bạc đặt lên trên ngực, vừa khóc vừa nói như sau:

– Trong các ngày hội vui khác, con chúng ta thường mang những đồ trang sức này. Sa-môn Cồ-đàm đem đứa con một của chúng ta đi đến thành Xá-vệ. Nay con chúng ta ngồi ở đâu? đứng ở đâu?

Một kỹ nữ có nhan sắc đi đến gia đình ấy, thấy vợ nhà triệu phú khóc, liền hỏi vì sao bà khóc. Bà kể lại câu chuyện. Người Kỹ nữ thưa:

– Thưa bà, con trai bà ưa thích gì?

– Nó ưa thích thứ này, thứ này!

– Nếu bà cho con chủ quyền hoàn toàn trong gia đình này, con sẽ đem con trai bà về.

Bà vợ triệu phú chấp thuận lời đề nghị, cho tiền phí tổn, tiễn kỹ nữ đi với tùy tùng đông đảo:

– Hãy đi và dùng sức mạnh của mình đem con ta về.

Người kỹ nữ ấy ngồi trong xe có màn che đi đến Xá-vệ, tạm trú tại con đường Trưởng Lão thường đi khất thực. Nàng được vây quanh với đoàn tùy tùng của mình, và không cho Trưởng lão thấy những người tùy tùng cùng đến từ gia đình triệu phú. Khi Trưởng lão bắt đầu đi vào đường này khất thực, nàng dùng thìa, dùng bát cúng dường đồ ăn, trói buộc Trưởng lão với lòng tham vị, lần lượt mời Trưởng lão vào ngồi trong nhà và cúng dường đồ ăn.

Khi biết Trưởng lão đã bị mình chinh phục, nàng giả đau, nằm ở phòng trong. Trưởng lão, trong khi đi khất thực từng nhà , đến tại cửa nhà nàng. Người hầu cầm lấy bình bát của vị ấy và mời vào ngồi trong nhà. Sau khi ngồi, Trưởng lão hỏi:

– Nữ cư sĩ ở đâu?

– Thưa Tôn giả, nữ cư sĩ bị đau, và mong muốn được thấy Tôn giả.

Bị trói buộc bởi lòng tham vị ngon, phá hoại giới cấm mình đã chấp nhận, Trưởng lão đi vào phòng ngủ của nàng. Sau đó nàng kể lại nguyên do nàng đến đây cám dỗ vị ấy, trói buộc vị ấy với lòng tham vị, khiến vị ấy từ bỏ sự xuất gia, đặt vị ấy vào trong thế lực của mình, và đưa vị ấy ngồi trong xe với đoàn tùy tùng đông đảo, đi về Vương Xá. Sự việc này được lan truyền rộng rãi. Các Tỷ-kheo ngồi trong Pháp đường nói chuyện này:

– Này chư Hiền giả, một Kỹ nữ có nhan sắc đã trói buộc Trưởng lão Cullapindaptika Tissa với lòng tham vị ngon và đã đem Trưởng lão đi!

Bậc Ðạo Sư đi đến Pháp đường ngồi xuống trên bảo tọa được soạn sẵn, và hỏi chuyện gì đang được các Tỷ-kheo bàn. Các Tỷ-kheo ấy thuật lại chuyện ấy. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ Tỷ-kheo này bị trói buộc bởi lòng tham vị, đã rơi vào thế lực của nàng, mà thuở trước kẻ ấy cũng đã rơi vào thế lực của nàng.

Rồi Thế Tôn kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadattha trị vì ở Ba-la-nại, có một người giữ vườn tên là Sanjaya. Một con nai gió đi đến khu vườn ấy, thấy Sanjaya liền bỏ chạy. Sanjaya không làm cho nó sợ hãi, cho nó thoát đi. Con nai ấy tiếp tục đến và thường đi qua lại trong khu vườn. Người giữ vườn thường hái các loại hoa quả trong vườn, và hàng ngày dâng vua. Một ngày kia, vua hỏi:

– Này khanh, khanh có thấy sự việc gì lạ ở trong khu vườn không?

– Tâu Ðại Vương, con không thấy gì khác, con chỉ thấy một con nai gió đi đến, đi qua đi lại trong khu vườn.

– Khanh có bắt nó được không?

– Nếu được một chút mật ong, con có thể dẫn nó đến ngay trong nội cung.

Vua bảo cho kẻ ấy mật ong.

Người giữ vườn lấy mật, đi đến khu vườn tại chỗ con nai gió thường đi, kẻ ấy bôi cỏ với mật và ẩn núp. Con nai đi đến ăn cỏ có dính mật, bị trói buộc bởi lòng tham vị, không đi chỗ khác, chỉ đến khu vườn. Người giữ vườn biết được con nai đã tham đắm cỏ dính mật, liền dần dần xuất đầu lộ diện. Những ngày đấu thấy người giữ vườn, con nai ấy liền bỏ chạy, nhưng rồi thấy luôn, nói khởi lòng tin, dần dần đến ăn cỏ đặt trong tay người giữ vườn.

Người giữ vườn biết đã lấy được lòng tin của con thú ấy, bèn rải đến đường những cành lá non dày như tấm thảm cho đến nội cung, quàng bên nách một hũ đựng mật, giắt một nắm cỏ và thắt lưng, rải cỏ có dính mật trước mặt con nai, và đưa nó đến tận nội cung.

Khi con nai đã vào tận nội cung, họ đóng cửa lại. Con nai thấy người, hoảng hốt, sợ phải chết, cứ chạy qua chạy lại trong nội cung. Nhà vua từ lâu đài đi xuống, thấy con nai hoảng sợ, liền nói:

– Con nai gió này, cả một tuần không đi đến chỗ nó thấy người, trọn đời không đi đến chỗ nó sợ hãi, con vật sống nơi rừng rậm ấy bị trói buộc bởi lòng tham vị, nay đã đi đến cảnh ngộ như thế này! Thật vậy, không có gì ác độc hơn là lòng tham vị ở đời.

Rồi với bài kệ, vua thuyết pháp:

Không gì ác hại hơn
Truyền thuyết nói là vậy,
Ở nhà hay với bạn,
San-gia-da với vị
Chinh phục con nai gió
Chỉ nương tựa núi rừng.

Sau khi nói vậy, vua liền thả con nai ấy về rừng.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, người kỹ nữ có nhan sắc ấy không phải chỉ nay mới trói buộc vị ấy với lòng tham vị, và chinh phục vị ấy, nhưng trong thời quá khứ cũng đã làm như vậy.

Sau khi thuyết pháp thoại này, Thế Tôn kết hợp hai câu chuyện với nhau, rồi kết luận với sự nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, Sanjaya là người kỹ nữ có nhan sắc, con nai gió là Cullapindapatika, còn vua Ba-la-nại là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON NAI KHARÀDIYA (Tiền thân Kharàdiya)

Khi con nai có tám móng…,

Câu chuyện này, Khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo khó bảo. Theo truyền thuyết, vị Tỷ-kheo khó bảo không chấp nhận lời khuyến giáo. Vì thế, bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Tỷ-kheo, có thật chăng ông khó bảo, không chấp nhận lời khuyến giáo?

– Thưa thật vậy, Bạch Thế Tôn!

Thế Tôn nói:

– Thuở xưa, vì khó bảo ông không chấp nhận lời khuyến giáo của bậc Hiền trí nên bị bắt trong bẫy sập, và mạng sống bị diệt vong!

Nói vậy xong, Thế Tôn kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahamadattta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con nai, với đàn nai vây quanh sống ở trong rừng. Một con nai chị đưa đến một nai con và nói:

– Này em, đây là cháu của em. Hãy dạy nó học những sự khôn ngoan của loài nai.

Bồ-tát nói với con nai cháu:

– Vào giờ ấy, hãy đến học.

Nhưng con nai cháu không đến vào giờ hẹn. Một ngày như vậy, bảy ngày cũng như vậy, bỏ qua bảy lời khuyến giáo, nó không đến học sự khôn ngoan của loài nai, và cuối cùng, khi đi lang thang đây đó, nó bị bắt trong một cái bẫy.

Mẹ nó đến hỏi Bồ-tát:

– Này em, em có dạy cho cháu những khôn ngoan của loài nai không?

Bồ-tát nói:

– Ðừng nghĩ đến con nai không chấp nhận khuyến giáo ấy nữa. Con của chị không học những sự khôn ngoan của loài nai. Nay em không còn muốn khuyến giáo nó nữa.

Bồ-tát đọc bài kệ này:

Khi nai có tám móng
Với sừng chĩa nhiều nhánh,
Lại có bảy mưu chước
Ðể tự cứu lấy mình,
Ta không dạy nó nữa,
Hỡi Kha-ra-di-ya.

Rồi người thợ săn giết con nai bị bắt trong bẫy ấy, và mang thịt về.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, không phải chỉ nay ông mới khó bảo, thuở trước ông cũng khó bảo như vậy.

Thuyết pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện và kết luận với sự hiện diện Tiền thân:

– Thời ấy, con nai cháu là Tỷ-kheo khó bảo, con nai chị là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), còn con nai khuyến giáo là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON NAI CÓ BA CỬ CHỈ. (Tiền thân Tipallatthamiga)

Nai với ba cử chỉ…,

Câu chuyện này, khi ở tại tinh xá Badarika ở Kosambi, bậc Ðạo Sư đã kể về Trưởng lão Ràhula (La-hầu-la) ham học các học giới. Một thời, bậc Ðạo Sư trú ở điện Aggàlava, gần thành Àlavi, nhiều nữ cư sĩ và Tỷ-kheo-ni thường đến tinh xá để nghe pháp. Thuyết pháp được tổ chức ban ngày. Nhưng sau một thời gian, các cư sĩ và các Tỷ-kheo-ni không đi nữa, chỉ có Tỷ-kheo và nam cư sĩ. Từ đấy, thuyết pháp được tổ chức ban đêm.

Sau buổi thuyết pháp, các Tỷ-kheo trưởng lão đi về chỗ ở của mình, còn các tu sĩ trẻ nằm tại phòng giảng với các nam giới. Khi họ ngủ, một số nằm ngáy khò khò và nghiến răng. Một số chỉ nằm một lát rồi dậy, nhìn thấy sự kiện không thích đáng ấy, và báo cáo lên Thế Tôn. Thế Tôn chế ra học giới như sau:

– Tỷ-kheo nào nằm ngủ với người chưa thọ Ðại giới là phạm tội Pàcittiya (Ba-dật-đề: tội phải thú nhận trước Tăng chúng)

Rồi Ngài đi đến Kosambi. Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo nói với Tôn giả La-hầu-la:

– Hiền giả La-hầu-la, Thế Tôn đã đặt ra học giới. Hiền giả nay hãy tìm chỗ ở của mình.

Lúc trước, vì kính trọng Thế Tôn, vì Tôn giả tha thiết học hỏi các học giới, các Tỷ-kheo ấy đã tiếp đón La-hầu-la như vào nhà của mình, đã soạn một chiếc giường nhỏ và cho Tôn giả một cái y lam gối. Nhưng hôm ấy, các Tỷ-kheo vì sợ vi phạm học giới, nên không cho La-hầu-la chỗ ở.

Hiền giả La-hầu-la không đi đến Thế Tôn là phụ thân của mình, cũng không đi đến Xá-lợi-phất là vị Tướng quân Chánh pháp và là giáo thọ sư của mình, cũng không đi đến Ðại-mục-kiền-liên là bậc sư trưởng của mình, lại đi vào phòng vệ sinh của Thế Tôn, như thể đi vào cung điện Phạm thiên và trú ở đấy.

Trong phòng vệ sinh của đức Phật, cửa luôn luôn khéo đóng, nền làm bằng đất thơm. Hoa và vòng hoa kết thành vòng dọc theo những bức tường. Suốt đêm có cây đèn thắp sáng. Hiền giả La-hầu-la không vì cảnh sang trọng này mà trú ở đấy, chỉ vì các Tỷ-kheo bảo tìm lấy chỗ ở, chỉ vì tôn trọng lời khuyên bảo, vì muốn học tập nên trú chỗ ấy.

Thỉnh thoảng, các Tỷ-kheo thấy Tôn giả từ xa đi đến, vì mục đích thử thách, thường quăng bên ngoài cái cán chổi hay một ít rác, chờ khi La-hầu-la đi đến, liền hỏi:

– Hiền giả, ai quăng đồ rác này?

Khi được nghe: Chính La-hầu-la đi qua đường này, La-hầu-la không nói: – Thưa Tôn giả, tôi không biết việc này.

Trái lại, La-hầu-la thường dọn rác ấy đi, khiêm tốn xin lỗi, và sau khi được tha lỗi mới đi. Vì mong muốn học tập như vậy, nên La-hầu-la mới trú tại chỗ ấy.

Rồi trước khi rạng đông, bậc Ðạo Sư đứng trước cửa phòng vệ sinh và đằng hắng. Tôn giả đằng hắng lại.

– Ai đó?

– Con là La-hầu-la.

Rồi Tôn giả đi ra đảnh lễ.

– Này La-hầu-la, sao con nằm ở đây?

– Vì không có chỗ ở, bạch Thế Tôn, trước đây các Tỷ-kheo cho con ở chung, nay vì sợ phạm tội, không cho con chỗ ở. Nghĩ rằng, đây là một chỗ không va chạm một ai, nên con nằm ở đây!

Thế Tôn xúc động mạnh vì Chánh pháp, suy nghĩ: “Với La-hầu-la, các Tỷ-kheo còn vất bỏ như vậy, thì đối với các lớp chúng trẻ mới xuất gia, có gì họ không làm được”.

Buổi sáng sớm, Thế Tôn cho họp các Tỷ-kheo và hỏi Tướng quân Chánh pháp:

– Này Xá-lợi-phất, ông có biết nay La-hầu-la trú tại chỗ nào không?

– Bạch Thế Tôn, con không biết.

– Này Xá-lợi-phất, La-hầu-la đang ở trong nhà vệ sinh! Này Xá-lợi-phất, nếu các ông vứt bỏ La-hầu-la như vậy, thì đối với các lớp trẻ mới xuất gia, có gì các ông không làm được? Nếu sự việc là vậy, những ai xuất gia trong Giáo pháp này sẽ không ở lại. Bắt đầu từ hôm nay, các ông được phép cho người chưa thọ Ðại giới ở chung một hay hai ngày. Ðến ngày thứ ba, cho họ ở ngoài, sau khi biết chỗ ở của họ.

Sau khi thêm điều khoản phụ này, Thế Tôn chế định học giới. Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo ngồi trong pháp đường tán thán đức hạnh của La-hầu-la:

– Thưa các Hiền giả, hãy xem La-hầu-la tha thiết học tập như thế nào. Khi được hỏi chỗ ở của mình, La-hầu-la không nói: Ta là con đức Thế Tôn. La-hầu-la không chống đối một Tỷ-kheo nào, nhưng đã đến ở phòng vệ sinh!

Khi các Tỷ-kheo đang nói như vậy, bậc Ðạo Sư đến tại pháp đường, ngồi xuống bảo toạ có trang hoàng và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông nay ngồi ở đây đang nói chuyện gì?

– Bạch Thế Tôn, chúng con nói đến lòng tha thiết học tập của La-hầu-la, không nói chuyện gì khác.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Không phải chỉ nay La-hầu-la mới tha thiết học tập, mà trước kia khi làm bàng sanh, cũng đã tha thiết học tập rồi.

Và Thế Tôn kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, một vị vua Ma-kiệt-đà đang trị vì tại Vương Xá. Lúc ấy Bồ Tát sanh làm một con nai, với đàn nai vây quanh sống ở trong rừng. Con nai chị đem con mình đến và nói:

– Này em, hãy dạy cho cháu em sự khôn ngoan của loài nai.

– Tốt lắm.

Bồ-tát đáp lại và nói:

– Này cháu thân, hãy đi, và vào giờ ấy, hãy đến học.

Con nai cháu không quên giờ cậu nói, đúng giờ nó đến và học sự khôn ngoan của loài nai. Một ngày kia, khi đi qua lại trong rừng, nó bị mắc vào bẫy sập và thốt tiếng kêu của con thú bị bắt. Ðàn nai bỏ chạy, về báo cho nai mẹ biết con bị mắc bẫy. Nó đi đến nai em và hỏi:

– Này em, cháu đã học sự khôn ngoan của loài nai chưa?

Bồ-tát nói:

– Ðừng sợ những điềm dữ đến với cháu. Nó đã khéo học được sự khôn ngoan của loài nai. Nay sẽ đến lượt chị cười rồi đó!

Nói vậy xong, Bồ-tát đọc bài kệ này:

Nai với ba cử chỉ,
Với nhiều sự khôn ngoan,
Biết dùng chân tám móng,
Biết nửa đêm uống nước;
Chỉ với một lỗ tai,
Thở theo nhịp độ đất;
Với sáu sự khôn ngoan,
Cháu tôi thắng người thù.

Như vậy, Bồ-tát nêu rõ cháu mình đã học tốt đẹp sự khôn ngoan của loài nai, và an ủi nai chị. Còn nai con bị bắt trong bẫy sập, không vùng vẫy, nằm duỗi chân hết sức thoải mái theo một bên hông, móng chân cào đất tại chỗ gần chân, hất lên bụi và cỏ, đi tiểu và đại tiện, đầu gục xuống, le lưỡi, làm thân đẫm ướt mồ hôi, rồi nó nín thở khiến bụng trướng lên, trợn mắt, chỉ thở với một lỗ mũi ở dưới, nín thở vói lỗ mũi ở trên, khiến toàn thân cứng đờ như con vật đã chết. Vì thế cho nên các loài ruồi xanh đến bu quanh nó. Chỗ này, chỗ kia, các con quạ đã đậu xuống. Người thợ săn đi đến, lấy tay vỗ bụng nó, suy nghĩ: “Con này bị bắt hồi sáng, nay đã bắt đầu thối rồi”, kẻ ấy cởi dây trói cho nai, và nói:

– Nay ta làm thịt nó ở đây và sẽ mang thịt về.

Không ngờ vực gì cả, người thợ săn bắt đầu lượm cành cây và lá. Con nai con liền trỗi dậy, đứng lên bốn chân, vùng vẫy cái thân, vươn cổ, và như đám mây bị gió lớn tan, nó chạy rất nhanh về với mẹ nó.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– La-hầu-la không phải nay mới ham học, thuở trước cũng đã ham học như vậy.

Thuyết pháp thoại này xong, sau khi kết hợp hai câu chuyện, Ngài kết luận với sự nhận diện Tiền thân như sau:

– Khi ấy, con nai cháu là La-hầu-la, con nai mẹ là Upplavannà và con nai cậu là Ta vậy.

  1. CHUYỆN GIÓ THỔI (Tiền thân Màluta)

Nếu là tối hay sáng…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về hai Tỷ-kheo xuất gia đã lớn tuổi. Truyền thuyết kể rằng, tại quốc độ Kosala, họ sống tại một khu rừng, một trưởng lão tên Tối, và một trưởng lão tên là Sáng. Một hôm, Tối hỏi Sáng:

– Thưa Tôn giả, thời nào gọi là lạnh?

Sáng nói:

– Trong thời tối trăng.

Một hôm, Sáng hỏi Tối:

– Thưa Tôn giả, thời nào gọi là lạnh?

Tối nói:

– Trong thời sáng trăng.

Cả hai không thể tự giải quyết sự phân vân, bèn đi đến bậc Ðạo Sư, đảnh lễ Ngài rồi hỏi:

– Bạch Thế Tôn, thời nào gọi là lạnh?

Bậc Ðạo Sư, lắng nghe câu chuyện của họ xong, liền nói:

– Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, Ta đã trả lời câu hỏi này cho các ông. Do nhiều đời sống chất chứa, nên các ông nhận định không rõ ràng nữa.

Nói xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Một thời dưới chân núi, một con sư tử và một con hổ làm bạn với nhau, cùng ở trong một cái hang. Lúc bấy giờ, Bồ-tát xuất gia làm một ẩn sĩ, cũng ở dưới chân núi ấy. Một hôm, một cuộc tranh cãi khởi lên giữa hai con vật ấy về vấn đề lạnh. Con cọp nói trời lạnh trong thời mặt trăng tối. Con suu tử lại nói trời lạnh trong thời mặt trăng sáng. Chúng không thể tự giải quyết sự phân vân, bèn đến hỏi Bồ-tát. Ngài nói lên bài kệ:

Nếu là tối hay sáng
Khi nào có gió thổi,
Có gió thổi, trời lạnh
Cả hai, không ai thua.

Như vậy, Bồ-tát giải hòa đôi bạn.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, thuở trước, Ta đã trả lời cho các ông câu hỏi này.

Thuyết pháp thoại này xong, Ngài thuyết giảng Bốn Sự thật. Cuối bài giảng ấy, hai vị Trưởng lão chứng quả Dự lưu. Sau khi kết hợp hai chuyện, bậc Ðạo Sư kết luận với sự nhận diện Tiền thân:

– Lúc ấy, con cọp là Sáng, con sư tử là Tối, còn Ta là người khổ hạnh đã trả lời câu hỏi.

  1. CHUYỆN ÐỒ ĂN CÚNG NGƯỜI CHẾT (Tiền thân Matakabhatta)

Nếu chúng sanh biết được…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về đồ ăn cúng người chết. Trong thời ấy, nhiều người giết hại nhiều dê cừu… để cúng đồ ăn cho người thân đã mệnh chung. Các Tỷ-kheo thấy họ làm như vậy, hỏi bậc Ðạo Sư:

– Bạch Thế Tôn, nay nhiều người giết hại sinh mạng nhiều loài hữu tình để cúng đồ ăn cho người chết, Bạch Thế Tôn, ở đây có hạnh phúc, lợi ích nào không?

Thế Tôn nói:

– Cúng đồ ăn như vậy cho người chết không có lợi ích gì. Khi đã sát sanh, làm sao có lợi ích được? Thuở xưa, các bậc Hiền trí ngồi giữa hư không thuyết pháp, nói rõ nguy hại của tập tục này, khiến toàn thể dân chúng ở cõi Diêm-phù-đề bỏ hành động ấy. Nhưng nay, bị sanh hữu tích lũy, nên hành động ấy lại khởi lên.

Nói vậy xong, Thế Tôn kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, một Bà-la-môn thông hiểu ba tập Vệ-đà, một danh sư nổi tiếng bốn phương, muốn cúng dường đồ ăn cho người chết, cho bắt một con dê và bảo các đệ tử.

– Này các con thân, hãy dẫn con dê này đến sông, tắm cho nó, đeo vòng hoa ở cổ nó, cho nó ăn lúa độ nửa đấu, chải chuốt cho nó rồi đem nó lại đây.

Các đệ tử vâng lời, dắt dê đến sông, tắm cho nó, chải chuốt cho nó, rồi để nó đứng trên bờ sông. Con dê ấy thấy được việc của mình đã làm từ đời trước, suy nghĩ: “Hôm nay, ta sẽ được thoát đau khổ”, vì vậy nó cảm thấy sung sướng, cười lớn tiếng như đập bể cái ghè, lại nghĩ: “Bà-la-môn này, khi giết ta, sẽ chịu nỗi đau khổ của ta thuở trước”, nó khởi lòng thương hại người Ba-la-môn và khóc lớn tiếng. Các thanh niên ấy hỏi nó:

– Này bạn, bạn cười lớn tiếng rồi khóc lớn tiếng. Vì nhân gì bạn cười, vì nhân gì bạn khóc?

– Hãy hỏi câu hỏi này trước mặt thầy các ông!

Họ đem con dê ấy đi, và báo cáo cho thầy biết. Vị thầy nghe câu chuyện, hỏi con dê:

– Này dê, sao ngươi lại cười và sao ngươi lại khóc?

Con dê nhờ trí biết được đời trước, nhớ đến việc đã làm của mình, và nói với Bà-la-môn:

– Này Bà-la-môn, thuở trước, giống như ông, ta là một Bà-la-môn học giỏi các chú thuật, muốn cúng dường đồ ăn cho người chết, đã giết một con dê để cúng dường. Vì giết chỉ một con dê, ta bị chém đầu trong bốn trăm chín mươi chín lần sống chết. Nay là lần thứ năm trăm sống chết cuối cùng của ta. Hôm nay, ta sẽ thoát khỏi sự đau khổ ấy. Nghĩ vậy, ta cảm thấy sung sướng, do nhân duyên này ta cười. Còn ta khóc, vì ta nghĩ rằng chỉ vì giết một con dê, ta phải chịu khổ hình chặt đầu đến năm trăm lần. Hôm nay ta sẽ thoát cái khổ ấy. Nhưng Bà-la-môn này, vì giết ta, sẽ như ta chịu khổ hình chặt đầu trải năm trăm đời sống. Vì thương xót ông, nên ta khóc.

– Này dê, chớ sợ, ta sẽ không giết ngươi!

– Này Bà-la-môn, ông nói gì thế? Dầu ông có giết ta hay không, hôm nay ta cũng không thể thoát chết!

– Này dê, chớ sợ, ta sẽ bảo vệ ngươi, sẽ cùng đi với ngươi!

– Này Bà-la-môn, nhỏ nhoi thay là sự bảo vệ của ông và mạnh bạo thay là nghiệp ác ta làm!

Vị Bà-la-môn thả con dê ra, nói với các đệ tử:

Và cùng với các đệ tử, vị Bà-la-môn đi theo con vật. Con dê vừa được thả, vươn cổ lên, đến bụi cỏ mọc sau lưng tảng đá ấy, và bắt đầu ăn lá cỏ. Liền khi ấy, sét đánh trên lưng tảng đá ấy, một mảng đá bị đánh vỡ, rơi trên cổ con dê đang vươn ra và chặt đứt đầu. Nhiều người qui tụ lại xem.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát sanh làm vị thần cây tại chỗ ấy. Với uy lực của vị thần, Bồ-tát ngồi kiết-già trên hư không, trên đại chúng đang đứng nhìn, và suy nghĩ: “Những chúng sanh này, nếu biết được kết quả của việc ác như vậy, sẽ không làm ác nữa!” Rồi với âm thanh dịu ngọt, Ngài thuyết pháp qua bài kệ:

Nếu chúng sanh biết được
Sự này sanh đau khổ,
Hữu tình sẽ không còn
Giết hại hữu tình nữa,
Vì ai giết hũu tình,
Sẽ phải sầu, phải khổ.

Như vậy, bậc Ðại Sĩ thuyết pháp khiến cho mọi người sợ hãi địa ngục. Và nhiều người nghe bài thuyết pháp ấy, biết sợ hãi điạ ngục, nên từ bỏ sát sanh. Bồ-tát thuyết pháp xong, an trú quần chúng vào Ngũ giới, rồi về sau đi theo nghiệp của mình. Còn quần chúng, an trú trong lời khuyên của Bồ-tát, sau khi làm các phước đức như bố thí v.v… được sanh lên thiên giới, làm tràn đầy thành phố chư Thiên.

*

Bậc Ðạo Sư thuyết pháp thoại này xong, kết hợp hai câu chuyện với nhau, và nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, Ta là vị thần cây.

  1. CHUYỆN LỄ CÚNG DO CÓ LỢI (Tiền thân Àyàcitabhatta)

Nếu muốn thoát hiện tại…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về lễ cúng dường do cầu nguyện các thần linh. Lúc bấy giờ, theo truyền thuyết, quần chúng trong khi đi buôn, thường hay giết các loài hữu tình, để làm lễ cúng dường cho các thần với lời cầu nguyện: “Nếu chúng tôi về được an toàn, có được tiền lời, chúng tôi sẽ làm lễ cúng dường cho các ngài!”. Cầu nguyện như vậy rồi họ ra đi. Khi trở về được an toàn, có được tiền lời, họ nghĩ được vậy là nhờ uy lực các vị thần, nên giết hại nhiều loài hữu tình, làm lễ cúng dường để giải toả lời cầu nguyện của mình.

Thấy vậy, các Tỷ-kheo hỏi Thế Tôn việc này có lợi ích gì không, Thế Tôn kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, tại nước Kàsi, một vị gia chủ tại một ngôi làng nhỏ có hứa làm đồ ăn cúng dường cho thần cây bàng mọc gần cổng làng. Khi đi về được an toàn, vị ấy giết nhiều loài hữu tình, và đến gốc cây để xin giải toả lời hứa. Nhưng vị thần cây đứng giữa hai cành cây nói lên bài kệ này:

Nếu muốn thoát hiện tại,
Hãy nghĩ thoát đời sau,
Thoát hiện tại như vậy,
Là trói buộc thật chặt,
Bậc trí không thoát vậy,
Thoát vậy, buộc kẻ ngu.

Từ đấy về sau, dân chúng từ bỏ sát sinh, sống theo chánh pháp, sau khi mạng chung được sanh lên Thiên giới làm tràn đầy thành phố chư Thiên.

*

Bậc Ðạo Sư thuyết pháp thoại này xong, kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Ta là vị Thần cây.

  1. CHUYỆN HỒ NALAKAPÀNA (Tiền thân Nalakapàna)

Thấy dấu chân đi xuống…,

Trong khi du hành ở Kosala, đi đến làng Nalakàpàna, sống ở rừng Ketaka, gần hồ Nalakapàna, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện này về cọng lau. Lúc bấy giờ các Tỷ-kheo, sau khi tắm tại hồ Nalakapàna, bảo các Sa-di đi lấy những cọng lau để làm ống kim, họ thấy các cọng lau đều trống rỗng hoàn toàn, liền đến hỏi Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, chúng con cho lấy các cọng lau để làm ống kim. Nhưng từ gốc cho đến ngọn, các cọng lau ấy đều trống rỗng hoàn toàn. Vì sao lại như vậy?

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, đây là do đại nguyện xưa của Ta vậy.

Nói xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, theo truyền thuyết, tại đây có cái hồ trong khu rừng rậm. Trong hồ ấy, có một con quỷ La-sát ăn thịt những ai xuống nước. Lúc bấy giờ, Bồ-tát sanh làm khỉ chúa, to lớn như một con nai màu đỏ, được vây quanh với độ tám mươi ngàn con khỉ, Bồ-tát che chở đàn khỉ sống ở trong rừng. Bồ-tát thường khuyên đàn khỉ:

– Này các con thân, trong rừng này có những cây độc và có những hồ chết, tại đấy các loài phi nhân đang sống. Khi các con ăn những trái cây trước kia chưa ăn và uống nước trước kia chưa uống, hãy hỏi ta đã.

Ðàn khỉ vâng lời. Một hôm, đi đến một chỗ trước kia chưa từng đến, sau nhiều ngày, chúng tìm nước uống, và thấy một cái hồ. Nhưng chúng không uống nước, cứ ngồi chờ Bồ-tát. Ngài đến và nói:

– Các con thân, sao các con không uống nước?

– Chúng con chờ ngài đến.

– Tốt lắm, các con thân!

Bồ-tát đi vòng hồ thấy có dấu chân đi xuống, không có đi lên, và suy nghĩ:” Không gì nghi ngờ nữa, hồ này có phi nhân ẩn trú”. Bồ-tát nói với đàn khỉ:

– Này các con thân, việc các con làm tốt lắm, vì đã không uống nước. Hồ này có phi nhân ẩn trú.

Con quỷ La-sát dưới nước biết được chúng không uống nước, liền hiện ra hình thù ghê rợn với bụng xanh, mặt trắng vàng, tay chân màu đỏ, rẽ nước đi lên và nói:

– Sao lại ngồi đây, hãy xuống uống nước!

Bồ-tát hỏi:

– Có phải ngươi là La-sát sanh ra ở trong nước không?

– Phải.

– Có phải ngươi bắt những ai xuống uống nước ở đây?

– Phải. Ta bắt từ con chim nhỏ xuống nước trở lên, ở tại đây, ta không tha một ai! Ta sẽ ăn tất cả các ngươi.

– Chúng ta sẽ không để ngươi ăn chúng ta.

– Nhưng hãy uống nước đi.

– Ðược, chúng ta sẽ uống nước. Nhưng chúng ta sẽ không rơi vào quyền lực của ngươi.

– Làm sao các ngươi uống nước được?

– Sao, ngươi nghĩ rằng chúng ta sẽ đi xuống, rồi uống nước à? Không đi xuống nước, tám mươi ngàn chúng ta mỗi ngày lấy một cành lau, như uống nước ngang qua một cành sen xanh, chúng ta sẽ uống nước hồ của ngươi. Như vậy, ngươi sẽ không thể ăn thịt chúng ta được!

Biết được ý nghĩa này, bậc Ðạo Sư đọc câu kệ:

Thấy dấu chân đi xuống,
Không thấy dấu chân lên,
Uống nước với cọng lau,
Ngươi không giết ta được!

Nói vậy xong, Bồ-tát cho đem lại một cọng lau, hồi tưởng lại những hạnh Ba-la-mật, phát lời chân ngôn, lấy miệng thổi cọng lau. Cọng lau trở thành trống rỗng hoàn toàn, không một khúc mắt nào còn lại ở trong. Với cách thức này, Bồ-tát cho đem lại ống lau khác, rồi ống lau khác và thổi. Nhưng nếu làm vậy, Bồ-tát không thể thoåi hết được. Do đó, Bồ-tát không làm như vậy nữa. Rồi Bồ-tát đi vòng quanh hồ và ra lệnh:

– Tất cả cọng lau đều trống rỗng hết!

Do lợi hành rộng lớn của các vị Bồ-tát, mệnh lệnh ấy được thành tựu. Từ đấy trở đi, tất cả cọng lau ở xung quanh hồ trở thành trống rỗng.

Trong kiếp này, có bốn thần thông tồn tại suốt kiếp. Thế nào là bốn?

  1. Tướng con thỏ trong mặt trăng, sẽ tồn tại trong suốt kiếp này (Tiền thân số 316).
  2. Ðiạ điểm mà lửa được dập tắt, như đã được kể ở Tiền thân Vattaka (số 35), địa điểm ấy sẽ không bị lửa chạm đến trong suốt kiếp này.
  3. Tại chỗ có ngôi nhà của người làm đồ gốm Ghatikara không bao giờ mưa rơi xuống trong suốt kiếp này (Kinh Trung Bộ số 81).
  4. Các cây lau mọc xung quanh hồ này sẽ hoàn toàn trống rỗng trong suốt kiếp này.

Ðây là bốn thần thông sẽ tồn tại trong suốt kiếp này.

Bồ-tát ra lệnh như vậy, và lấy một cọng lau rồi ngồi xuống. Tám vạn con khỉ ấy, mỗi con cầm lấy một cọng lau, đều ngồi xuống vòng quanh hồ. Và trong khi Bồ-tát hút nước vào qua ống lau, tất cả chúng đều ngồi trên bờ uống nước. Chúng uống nước như vậy, và con quỷ La-sát dưới nước không bắt được một ai nên không hoan hỷ, bỏ đi về trú xứ của nó. Còn Bồ-tát với tuỳ tùng vây quanh, trở về sống ở trong rừng.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, những cây lau này hoàn toàn trống rỗng chính do lời phát nguyện xưa của ta.

Sau khi thuyết pháp thoại này xong, Ngài kết hợp hai câu chuyện, và kết luận với sự nhận diện tiền thân:

– Thời ấy con quỷ La-sát nước là Ðề-bà-đạt-đa, tám vạn con khỉ là hội chúng của đức Phật, còn khỉ chúa khéo dùng phương tiện là Ta vậy.

PHẨM KURUNGA

  1. CHUYỆN CON NAI SƠN DƯƠNG (Tiền thân Kurunga)

Con nai biết rõ được…,

Câu chuyện này, khi ở tại Trúc Lâm, được bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa. Một thời, tại Pháp đường, các Tỷ-kheo ngồi tụ họp, nói lời chỉ trích Ðề-bà-đạt-đa:

– Thưa các Hiền giả, với mục đích sát hại Như Lai, Ðề-bà-đạt-đa đã mướn những người bắn cung, xô tảng đá xuống, thả rông con voi Danapalaka (Tài Hộ) dùng mọi cách thức để giết hại Thế Tôn.

Rồi bậc Ðạo Sư đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông hãy ngồi đây nói câu chuyện gì?

– Bạch Thế Tôn, chúng con ngồi ở đây nói chuyện về những điều thất đức mà Ðề-bà-đạt-đa đã làm để sát hại Thế Tôn!

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới tìm cách sát hại Ta. Xưa kia, Ðề-bà cũng đã làm như vậy, nhưng không thể sát hại Ta được.

Sau khi nói vậy, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở thành Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con nai sơn dương, ăn trái cây, và sống trong rừng. Một thời, Bồ-tát ăn các trái Sepanni từ những cây Sepanni sai quả. Có người thợ săn ở làng, một hôm tìm thấy những dấu chân nai dưới gốc cây sai quả ấy, liền dựng một cái dàn trên cây, ngồi ở đấy, phóng cây giáo xuống các con nai đi đến ăn trái cây. Kẻ ấy sống với nghề săn và bán thịt nai như vậy.

Một hôm, thấy dấu chân Bồ-tát dưới một gốc cây, kẻ ấy ăn thật sớm, cầm cây giáo, vào khu rừng, leo lên cây và ngồi trên dàn. Bồ-tát, vào buổi sáng, từ chỗ ẩn nấp trong rừng đi ra, với ý định ăn trái cây Sepanni. Bồ-tát không vội đến gốc cây, mà đi vòng quanh đứng vòng ngoài suy nghĩ: “Có khi những thợ săn đặt dàn, dựng dàn trên cây. Có thể có nguy hiểm như vậy ở đây”.

Người thợ săn biết Bồ-tát không đi đến, vẫn ngồi trên dàn quăng những trái sepanni xuống, rơi trước mặt Bồ-tát. Ngài suy nghĩ: “Những trái cây này rơi trước mặt ta, có thể có người thợ săn ở trên”. Bồ-tát quan sát chung quanh, thấy người thợ săn, làm vẻ như không thấy, nói to:

– Này bạn cây quý hoá ơi, trước kia, bạn làm những trái cây rơi thẳng xuống, như dây leo lòng thòng xuống, nhưng nay bạn từ bỏ đặc tánh cây. Vì bạn từ bỏ đặc tánh cây, ta sẽ đi đến gốc cây khác để tìm đồ ăn cho ta vậy. Nói xong, Bồ-tát đọc bài kệ:

Con nai biết rõ được
Trái cây ngươi làm rơi,
Ta đi đến cây khác,
Ta không thích trái ngươi.

Người thợ săn ngồi trên dàn, quăng cây giáo xuống và nói:

– Hãy đi đi! Nay ta đã bắt hụt ngươi rồi!

Bồ-tát nhảy vòng tròn, đứng lại và nói:

– Này người kia, chú tuy giết hụt ta, nhưng chú không bắt hụt kết quả hành động chú làm, tức là tám địa ngục lớn, mười sáu địa ngục phụ và năm hình thức trói buộc và hành tội…

Nói vậy xong, Bồ-tát liền chạy xa để tìm đồ ăn. Còn người thợ săn leo xuống, đi đến chỗ kẻ ấy muốn.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới tìm cách sát hại ta. Xưa kia, Ðề-bà cũng làm như vậy, nhưng không có thể làm được.

Thuyết pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện tiền thân.

– Lúc bấy giờ, người thợ săn dựng cái dàn là Ðề-bà-đạt-đa, còn con nai sơn dương là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON CHÓ (Tiền thân Kukkura)

Những con chó lớn lên…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, Thế Tôn đã kể về việc làm lợi ích cho bà con. Câu chuyện sẽ được trình bày trong Chương mười hai, Tiền thân Bhaddasàla (số 465). Ðể xác chứng lời dạy này, bậc Ðạo Sư kể chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahamadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát do duyên hành động lợi ích cho bà con như vậy, được sanh làm con chó đầu đàn rất thông minh, sống trong một nghĩa địa lớn với đàn chó hàng trăm con vây quanh.

Một hôm, vua ngự lên xe được trang hoàng đẹp đẽ, được kéo bởi những con ngựa Sindh giống quý, đi đến khu vườn, trọn ngày vui chơi tại đấy, và khi mặt trời lặn, vua mới trở về thành. Yên cương của xe vẫn mắc vào xe, và quân hầu để xe trong sân hoàng cung trọn đêm. Ban đêm, trời mưa, yên cương bị ướt. Các con chó nhà vua thuộc nòi giống tốt, từ trên lầu đi xuống, nhai ăn da và dây cương chiếc xe ấy. Hôm sau, họ báo cáo với vua:

– Thưa Thiên tử, từ những miệng cống chui vào, các con chó đã nhai ăn da và dây cương chiếc xe.

Vua nổi giận, ra lệnh giết tất cả chó mà họ thấy được. Từ đấy trở đi, khởi lên tai nạn lớn cho loài chó. Chúng chạy trốn vào nghĩa địa và đến bên cạnh Bồ-tát. Bồ-tát hỏi:

– Các con tụ họp đông ở đây vì duyên cớ gì?

Chúng đáp:

– Trong nội thành, da và dây cương của chiếc xe vua bị chó nhai ăn. Vua tức giận ra lệnh tàn sát chúng con. Nhiều anh em con bị giết hại. Cuộc khủng bố lớn đã khởi lên.

Bồ-tát suy nghĩ: “Tại một chỗ được bảo vệ như vậy, các con chó ở ngoài không có cơ hội để vào. Ðây là việc làm của đàn chó giống tốt trong nội cung. Nay những con có tội không gặp việc gì, còn những con vô tội lại bị giết. Ta hãy cho vua thấy những con chó có tội kia và cứu mạng sống cho bà con vô tội của ta.

Bồ-tát an ủi:

– Các con chớ sợ, Ta sẽ làm cho các con hết sợ hãi. Hãy chờ ở đây cho đến khi Ta yết kiến nhà vua.

Rồi ngài hướng tâm đến các Ba-la-mật, đặt hạnh từ bi lên hàng đầu, ngài nguyện: “Không một ai dám quăng đá hay gậy để hại ta”. Rồi Bồ-tát một mình đi vào thành.

Sau khi ra lệnh sát hại các con chó, vua ngồi một mình trong pháp đình. Bồ-tát đi đến đây, nhảy thẳng đến dưới chỗ ngồi của vua. Các người hầu cận của vua cố gắng hết sức đuổi ra, nhưng vua ngăn lại. Bồ-tát nghỉ một lát, từ dưới ghế đi ra, đảnh lễ vua rồi hỏi:

– Có phải Ðại vương sai giết hại các loài chó?

– Phải, chính ta.

– Lỗi của chúng là gì, thưa bậc nhơn chủ?

– Chúng nhai ăn đồ da phụ tùng và dây cương ở xe của ta!

– Ngài có biết những con nào đã ăn đồ da không?

– Ta không biết.

– Không biết những con chó nào đã ăn đồ da, lại ra lệnh giết, như vậy không phải lẽ, thưa Ðại Vương.

– Vì các con chó đã ăn đồ da ở xe ta, nên ta ra lệnh tàn sát tất cả con chó thấy được.

– Các người của ngài giết tất cả chó hay có tha chết một số chó?

– Những con chó nòi giống tốt trong cung của ta được khỏi chết!

– Tâu Ðại vương, vừa rồi ngài nói ra lệnh giết tất cả con chó mà họ thấy được vì chúng đã ăn dồ da ở xe của ngài. Nhưng nay ngài lại nói những con chó giống tốt trong cung của ngài được khỏi chết! Sự việc là vậy, ngài đã thực hành theo bốn sở hành vô lý: thiên vị, ghét bỏ, ngu si và sợ hãi. Hành động vô lý như vậy là không chính đáng, không phải là phép vua. Vì vua, trong khi xử kiện, cần phải giống như cán cân. Nay các con chó nòi giống tốt được khỏi chết, còn các con chó yếu đuối lại bị giết. Sự việc như vậy, thì đây không phải sự giết hại không thiên vị tất cả loài chó mà chỉ là sự giết hại các loài chó yếu đuối thôi!

Nói xong, bậc Ðại Sĩ, với âm thanh dịu ngọt bảo vua:

– Tân Ðại vương, sở hành của ngài không phải là công lý.

Rồi thuyết pháp cho vua, Bồ-tát đọc bài kệ này:

Những con chó lớn lên
Trong cung điện nhà vua,
Thuộc loài nòi giống tốt,
Có dung sắc, sức mạnh,
Chúng khỏi bị giết hại.
Chỉ chúng tôi bị giết.
Ðây không giết tất cả;
Chỉ giết kẻ yếu hèn.

Nghe Bồ-tát nói, vua bèn hỏi:

– Này chó hiền trí, ngươi có biết ai đã ăn da ở xe ta không?

– Vâng, tôi có biết

– Ai đã ăn?

– Chính những con chó nòi giống tốt trong cung của ngài!

– Làm thế nào biết được chúng đã ăn?

– Tôi sẽ nêu rõ chính chúng đã ăn.

– Này chó hiền trí, hãy nói rõ đi.

– Hãy cho gọi các con chó nòi giống tốt trong cung của ngài, cho đem một ít nước sữa và cỏ dabba đến đây.

Vua làm theo lời yêu cầu. Rồi bậc Ðại Sĩ nói:

– Hãy cho nghiền nát cỏ này trong nước sữa và cho những con chó ấy uống.

Vua làm theo như vậy. Khi đang uống, các con chó liền nôn ra những miếng da.

– Ôi! Thật giống như đức Phật toàn tri xử kiện!

Vua reo mừng, liền tỏ lòng tôn kính Bồ-tát bằng cách dâng cúng cái lọng trắng. Nhưng Bồ-tát thuyết pháp cho vua với mười câu kệ về pháp hành trong Tiền thân Tesakuna (số 521), mở đầu với câu:

– Hãy hành Chánh pháp! Thưa bậc Ðại vương thuộc dòng Sát-đế-lỵ, từ nay trở đi, Ðại vương chớ phóng dật!

Sau khi khuyên nhà vua giữ Năm giới, Bồ-tát trả lại vua cái lọng trắng.

Nghe lời bậc Ðại Sĩ thuyết pháp, vua tha chết cho mọi loài chúng sanh, rồi ra lệnh cung cấp cho tất cả loài chó, bắt đầu từ Bồ-tát, cơm ăn thường xuyên giống như thức ăn của vua. Tuân theo lời Bồ-tát khuyến giáo cho đến trọn đời, vua làm các phước đức như bố thí v.v…, vì vậy sau khi mạng chung, vua sanh lên cõi trời. Lời “Khuyến giáo của con Chó” tồn tại đến mười ngàn năm. Còn Bồ-tát sống đến hết thọ mạng, rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Như Lai mới hành động lợi ích cho bà con, trong quá khứ cũng đã làm như vậy.

Thuyết pháp thoại này xong, và kết hợp hai mẩu chuyện với nhau, bậc Ðạo Sư kết luận với sự nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, nhà vua là Ànanda, hội chúng của đức Phật là bầy chó hiền lành, còn con chó hiền trí là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON NGỰA THUẦN CHỦNG (Tiền thân Bhojanìya)

Nay tuy nằm một bên…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo từ bỏ tinh tấn. Thời ấy, bậc Ðạo Sư gọi Tỷ-kheo ấy và nói:

– Này các Tỷ-kheo, thuở trước các bậc Hiền trí, trong những hoàn cảnh khó khăn vẫn kiên trì tinh tấn, dầu có bị thương vẫn không thối thất.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ:

*

Thuở xưa, khi vua Brahamadatta đang trị vì ở thành Bà-la-nại, Bồ-tát được sanh làm con ngựa Sindh nòi giống tốt, con ngựa báu của vua, được trang sức lộng lẫy. Nó ăn cơm nấu với gạo cũ ba năm, đầy đủ hương vị đặc biệt, đựng trong một cái dĩa bằng vàng, trị giá một trăm ngàn đồng tiền vàng.

Chuồng ngựa được dựng trên đất ướp thơm với bốn loại hương. Xung quanh chuồng có treo những màn đỏ, trên trần treo cái tán bằng vải, được trang hoàng với các vì sao bằng vàng. Trên tường thả xuống những chuỗi hoa thơm, vòng hoa và một ngọn đèn dầu thơm luôn luôn cháy đỏ. Không có vị vua nào không thèm muốn vương quốc Ba-la-nại.

Một thời, bảy vị vua bao vây thành Ba-la-nại, gửi tối hậu thư cho vua Ba-la-nại, nói:

– Hãy trao vương quốc cho chúng ta, hãy là giao chiến.

Vua mời các đại thần họp, báo tin ấy và hỏi:

– Này các khanh, nay phải làm gì?

– Tâu Thiên tử, ngài không nên tự mình giao chiến trước. Hãy sai một vị cưỡi ngựa, đi giao chiến trước. Nếu vị ấy thất bại, chúng ta sẽ tính sau.

Rồi vua cho mời vị ấy đến và hỏi:

– Khanh có thể giao chiến với bảy vị vua không?

– Thưa Thiên tử, nếu thần được con ngựa Sindh nòi giống tốt, kể gì bảy vị vua, thần có thể giao chiến với các vua ở toàn cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ).

– Này khanh, con ngựa Sindh giống tốt, hay con nào khác, tùy ý khanh muốn, hãy lấy con ngựa ấy và đi giao chiến.

– Lành thay, thưa Thiên tử!

Vị ấy đảnh lễ vua, từ trên lầu bước xuống, cho đem lại con ngựa Sindh tốt giống, khéo mặc áo giáp cho nó, tự mình vũ trang toàn diện, đeo gươm, rồi leo lên lưng ngựa Sindh, đi ra khỏi thành và nhanh như chớp, đánh tan đội quân thứ nhất, bắt sống một vua, cho dẫn vua ấy về giam ở đội quân trong thành. Rồi vị ấy đi nữa, đánh tan đội quân thứ hai, cũng vậy, đội quân thứ ba, thứ tư, thứ năm và bắt sống được năm ông vua.

Nhưng khi vị ấy đánh tan đội quân thứ sáu, và bắt vua thứ sáu, thì con ngựa Sindh giống tốt bị thương, chảy máu và cảm thấy đau đớn rất nhiều. Biết con ngựa đã bị thương, người kỵ mã cho nó nằm xuống trước cửa cung vua, cởi áo giáp cho nó, và sai lính nai nịt một con ngựa khác.

Bồ-tát nằm một bên hông rất thoải mái, mở mắt thấy người kỵ mã, tự nghĩ: “Người kỵ mã đang nai nịt một con ngựa khác, sẽ không thể nào đánh tan đội quân thứ bảy, không thể nào bắt được ông vua thứ bảy. Như vậy nó làm tiêu tan công lao ta đã làm, còn người kỵ mã không ai sánh kịp này sẽ bị giết, và nhà vua sẽ rơi vào tay quân thù! Ngoài ta ra, không một con ngựa nào khác đánh tan được đội quân thứ bảy, và có thể bắt được vị vua thứ bảy!”

Ðang nằm như vậy, Bồ-tát gọi người kỵ mã và nói:

– Này bạn, ngoài tôi ra, không có con ngựa nào khác có thể đánh tan đội quân thứ bảy, bắt được ông vua thứ bảy. Tôi sẽ không để ai hủy hoại thành quả tôi đã làm. Hãy đỡ tôi dậy và nai nịt cho tôi!

Sau khi nói vậy, Bồ-tát đọc bài kệ này:

Nay tuy nằm một bên,
Bị bắn bởi mũi tên,
Con ngựa nòi giống tốt,
Thắng hơn con ngựa khác
Hỡi này người kỵ mã
Hãy nai nịt cho tôi

Người kỵ mã đỡ con ngựa dậy, băng bó vết thương, khéo nai nịt áo giáp cho nó, rồi nhảy lên lưng ngựa ra trận đánh tan đội quân thứ bảy, bắt sống ông vua thứ bảy và dẫn vị ấy về đội quân của vua mình. Người kỵ mã dắt Bồ-tát đến cửa thành và vua đi ra để xem Bồ-tát. Bậc Ðại Sĩ nói với vua:

– Tâu Ðại Vương, chớ giết bảy ông vua ấy. Hãy bắt họ thề sẽ trung thành với ngài rồi thả họ ra. Hãy cho người kỵ mã thọ hưởng danh vọng xứng đáng với công lao. Thật không phải đạo nếu để một chiến sĩ đã bắt được bảy vị phải chịu thiệt thòi! Ðại vương hãy bố thí, hãy giữ giới, hãy trị vì quốc độ với Chánh pháp công bằng.

Khi Bồ-tát khuyến giáo vua như vậy xong, người ta cởi áo giáp cho Bồ-tát. Nhưng khi được cởi tung mảnh giáp, Bồ-tát mệnh chung. Vua lo việc hoả táng con ngựa rất trọng thể, cho người kỵ mã hưởng danh vọng lớn, và đòi bảy ông vua kia phải tự mình thề không còn phản bội gây chiến nữa, rồi đưa họ về nhà của họ. Vua trị vì quốc độ với chánh pháp và công lý, sau khi mạng chung, đi theo nghiệp của mình.

*

Bậc đạo sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, như vậy thuở trước, các bậc Hiền trí trong những hoàn cảnh khó khăn vẫn kiên trì tinh tấn, dầu có bị thương vẫn không thối thất. Còn ông được sống trong giáo pháp giải thoát như vậy, vì sao lại thối thất tinh tấn?

Sau khi nói xong, Thế Tôn thuyết giảng Bốn Sự thật. Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo thối thất tinh tấn chứng quả A-la-hán. Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện với nhau, và kết luận với sự nhận diện Tiền Thân:

– Thời ấy, vua là Ànanda, người cưỡi ngựa là Xá-lợi-phất, và con ngựa Sindh nòi giống tốt là Ta vậy.

  1. CHUYỆN ÐÔI NGỰA NÒI TỐT (Tiền thân Àjanna)

Dẫu thời nào, chỗ nào…

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc đạo sư đã kể về một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn. Bậc Ðạo Sư gọi Tỷ-kheo ấy và nói:

– Này Tỷ-kheo, thuở trước các bậc Hiền trí trong những hoàn cảnh khó khăn, vẫn kiên trì tinh tấn, dầu có bị thương, vẫn không thối thất.

Nói xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì thành Ba-la-nại, có bảy vị vua bao vây thành. Một chiến sĩ cưỡi xe, thắng hai con ngựa Sindh anh em vào xe, đi ra khỏi thành, đánh tan sáu đội quân và bắt sống sáu ông vua. Trong giờ phút ấy, con ngựa anh bị thương. Người cưỡi xe, đánh xe đến cửa thành của vua mình, mở con ngựa anh ra khỏi xe, cởi áo giáp của nó, đặt con ngựa nằm một bên hông, và bắt đầu cho nai nịt một con ngựa khác. Bồ-tát thấy vậy, suy nghĩ như đã suy nghĩ trong câu chuyện trước, rồi cho gọi người cưỡi xe, vừa nằm vừa nói lên bài kệ này:

Dẫu thời nào, chỗ nào,
Dẫu khi nào ở đâu,
Con ngựa nòi giống tốt
Vẫn hăng hái chiến đấu
Còn con ngựa yếu hèn
Tại đấy, chịu đầu hàng.

Người đánh xe đỡ Bồ-tát dậy, thắng ngựa vào xe, đánh tan đội quân thứ bảy, bắt sống ông vua thứ bảy, rồi đánh xe đến cửa nhà vua, và mở con ngựa ra khỏi xe. Bồ-tát nằm thoải mái một bên hông, nói lời khuyến giáo vua như trong câu chuyện trước, rồi mạng chung. Vua làm lễ hoả táng con ngựa rấ trọng thể, ban thưởng nhiều danh vọng cho người đánh xe và sau khi trị vì nước đúng theo Chánh pháp, vua đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể câu chuyện, bậc Ðạo Sư trình bày bốn Sự thật. Cuối bài giảng ấy, vị tỷ-kheo thối thất tinh tấn chứng được quả A-la-hán. Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, vua là trưởng lão Ànanda, con ngựa anh là bậc Chánh Ðẳng Giác.

  1. CHUYỆN BẾN TẮM (Tiền thân Tittha)

Hãy thay bến nước khác…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo, đệ tử của bậc tướng quân Chánh pháp, trước kia làm thợ vàng. Chỉ các đức Phật mới có trí biết được tâm hướng của chúng sanh, chớ không ai khác. Do vậy, bậc Tướng quân Chánh pháp tự mình không biết tâm hướng của người đệ tử, đã cho một đề tài thiền quán về bất tịnh. Ðề tài ấy không thích hợp với người đệ tử. Vì sao?

Theo truyền thuyết, người đệ tử ấy trải năm trăm năm liên tục sanh ra trong gia đình thợ vàng, tích lũy lâu ngày chỉ thấy vàng thanh tịnh. Trải qua bốn tháng, người đệ tử không thể làm khởi lên một tư tưởng nào của Thiền quán. Bậc Tướng quân chánh pháp không thể đem lại quả A-la-hán cho đệ tử của mình, tự nghĩ: “Người này chỉ có đức Phật mới nhiếp phục được, ta sẽ đưa vị ấy đến gặp Như Lai”.

Vào buổi sáng sớm, bậc Tướng quân chánh pháp đem người đệ tử đi đến gặp bậc Ðạo Sư. Ngài hỏi:

– Này Xá-lợi-phất, vì sao ông đến đây lại đem theo một Tỷ-kheo?

– Bạch Thế Tôn, con cho đệ tử con một đề tài Thiền quán, nhưng sau bốn tháng, vị ấy không phát khởi lên một chút tư tưởng nào của Thiền quán. Nghĩ rằng người này chỉ có đức Phật mới giáo hoá được, nên con đưa đến gặp Thế Tôn.

– Này Xá-lợi-phất, ông dạy đề tài Thiền quán nào cho đệ tử?

– Bạch Thế Tôn, con dạy đề tài Thiền quán về bất tịnh.

– Này Xá-lợi-phất, ông không hiểu biết tâm hướng của đệ tử. Hãy về đi, và để đệ tử ở lại đây, chiều trở lại và đem đệ tử của ông về.

Sau khi bảo Trưởng lão đi về, bậc Ðạo Sư cho Tỷ-kheo ấy mặc hạ y và thượng y tốt đẹp, đem Tỷ-kheo ấy đi theo ngài vào làng khất thực, khiến Tỷ-kheo ấy nhận được đồ ăn tuyệt hảo, đủ loại cứng và loại mềm. Ði về tinh xá một lần nữa với các Tỷ-kheo vây quanh, ban ngày bậc Ðạo Sư vào nghỉ trong Hương phòng, và buổi chiều đem Tỷ-kheo ấy đi theo. Ngài đi dạo trong tinh xá, hoá hiện một hồ nước trong vườn xoài, có nhiều hoa sen và một hoa sen lớn hiện ra. Thế Tôn bảo Tỷ-kheo ấy ngồi nhìn hoa sen, rồi Ngài đi vào Hương phòng.

Tỷ-kheo ấy liên tục nhìn hoa sen. Thế Tôn khiến cho bông hoa ấy héo tàn. Trong khi Tỷ-kheo ấy đang nhìn, hoa sen ấy tàn dần, héo dần và mất màu sắc. Bắt đầu từ vòng ngoài cùng, các cánh hoa rơi xuống, và trong một thời gian ngắn, tất cả cánh hoa đều rơi hết. Rồi đến các nhụy hoa rơi, rơi dần, chỉ còn lại gương sen. Tỷ-kheo ấy thấy vậy, liền suy nghĩ: “Hoa sen này xinh đẹp như vậy, nhưng chẳng mấy chốc màu sắc hoa tàn phai, các cánh hoa, nhụy hoa rụng xuống, chỉ còn lại gương sen. Hoa sen như vậy đã đi đến héo tàn. Thân ta rồi cũng đi đến cảnh như vậy. Các hành là vô thường!”

Với tư tưởng ấy, Tỷ-kheo đạt được Thiền quán. Bậc Ðạo Sư biết tâm Tỷ-kheo ấy đã đạt Thiền quán, vẫn ngồi trong Hương phòng, phóng hào quang từ kim thân và nói lên bài kệ này:

Tự cắt dây ái dục,
Như tay bẻ sen thu,
Hãy tu đạo tịch tịnh,
Niết bàn, Thiện Thệ dạy.

Cuối bài kệ này, Tỷ-kheo ấy chứng quả A-la-hán. Với ý nghĩ: “Ta đã thoát mọi sanh hữu”, vị ấy nói lên lời cảm hứng với mấy bài kệ:

Ai đã sống cuộc đời,
Tâm tư được viên mãn,
Các lậu hoặc đã đoạn,
Mang nhục thân cuối cùng;
Giới hạnh thật thanh tịnh,
Các căn khéo định tĩnh,
Như mặt trăng được thoát
Khỏi miệng thần Rà-hu.
Ngu si hắc ám lớn
Bao phủ trùm khắp ta,
Ta gột sạch, trừ sạch,
Mọi cấu uế không còn.
Ta rực sáng, chói sáng,
Sáng chói ánh quang minh,
Như mặt trời trên không
Chiếu ngàn tia ánh sáng.

Sau khi nói lời cảm hứng, Tỷ-kheo ấy đi đến đảnh lễ Thế Tôn. Vị trưởng lão cũng đến đảnh lễ bậc Ðạo Sư, và đem đệ tử của mình về. Khi tin tức này lan truyền giữa các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ngồi họp tại Pháp đường, tán thán những đức tính của bậc Pháp vương:

– Này các Hiền giả, Trưởng lão Xá-lợi-phất vì không hiểu biết tâm hướng của chúng sanh nên không hiểu biết tâm hướng đệ tử mình. Còn bậc Ðạo Sư biết được, nên chỉ trong một ngày, đã đem lại quả A-la-hán với những vô ngại biện tài. Ôi, lớn lao thay uy đức của đức Phật!

Rồi bậc Ðạo Sư đến ngồi trên chỗ đã soạn sẵn và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, nay các ông ngồi ở đây bàn chuyện gì?

– Không có gì khác, bạch Thế Tôn, ngoài câu chuyện chỉ Thế Tôn mới có trí hiểu biết tâm hướng đệ tử của bậc Tướng quân Chánh pháp.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là kỳ diệu gì. Không phải nay Ta là Phật mới biết tâm hướng của Tỷ-kheo ấy. Thuở trước, Ta cũng đã biết tâm hướng của vị ấy rồi.

Nói xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại. Bồ-tát làm người chỉ đạo cho vua về thế sự và thánh sự. Lúc bấy giờ, tại bến nước, chỗ tắm thường ngày của con ngựa báu, người ta đang tắm một con ngựa tầm thường yếu hèn. Khi người giữ dẫn con ngựa báu đến bến tắm, nó ghê tởm con ngựa tầm thường, nên không chịu đi xuống. Người giữ ngựa trình lên vua:

– Tâu Thiên Tử, con ngựa báu không chịu xuống bến nước.

Vua cho gọi Bồ-tát:

– Này bậc Hiền trí, hãy đi ra tìm hiểu lý do gì khi con ngựa đi đến bến nước lại không chịu xuống.

Vâng lệnh Thiên tử, Bồ-tát đi đến bờ sông, nhìn con ngựa, biết con ngựa không bị bệnh, ngài cố gắng tìm hiểu lý do gì con ngựa này không đi xuống bến nước. Bồ-tát suy nghĩ: “có lẽ một con ngựa khác được tắm trước ở đây, vì ghê tởm con ngựa ấy, nên nó không đi xuống bến nước”. Nghĩ vậy, Bồ-tát liền hỏi người giữ ngựa:

– Có con ngựa nào khác được tắm trước ở bến nước này không?

– Thưa ngài, có một con ngựa tầm thường khác. Bồ-tát nghĩ: “Con ngựa này vì lòng tự ái thương tổn, không muốn tắm tại đây. Vậy đem nó đến tắm tại một bến nước khác”. Biết tâm hướng của nó, Bồ-tát nói:

– Này bạn giữ ngựa, một người ăn đi ăn lại các món ngon như cơm, sữa, bơ, mật, đường v.v… lâu ngày rồi cũng phát ngán! Con ngựa này đã tắm nhiều lần tại bến nước ở đây. Hãy đưa nó xuống một bến nước khác, cho nó tắm và uống nước.

Nói vậy xong, Bồ-tát đọc bài kệ này:

Hãy thay bến nước khác,
Hỡi này người đánh xe,
Hãy cho ngựa uống nước
Khi bến này, bến khác.
Người quá gần cơm sữa,
Cũng chán món ăn ấy!

Sau khi nghe lời Bồ-tát, họ dắt ngựa xuống một bến nước khác, cho nó uống nước và tắm. Trong khi ấy Bồ-tát liền đi đến yết kiến vua. Vua hỏi:

– Này khanh, con ngựa được tắm và được uống nước rồi phải không?

– Thưa rồi, tâu Thiên tử.

– Vì lý do gì, trước nó không muốn làm như vậy?

– Do lý do này…

Bồ-tát báo cáo sự việc lên vua, và vua nói:

– Ôi, thật là sáng suốt, vị ấy biết được tâm hướng của cả con vật này.

Vua thưởng cho Bồ-tát danh vọng lớn. Và khi mạng chung, Bồ-tát và vua đi theo nghiệp của mình.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ta mới biết tâm hướng của vị ấy, quá khứ ta cũng biết rồi.

Sau khi thuyết pháp thoại này xong, và kết hợp hai câu chuyện với nhau, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, con ngựa báu là vị Tỷ-kheo này, vua là Ànanda, và vị đại thần hiền trí chính là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON VOI MAHILÀMUKHA (Tiền thân Mahilàmukha)

Trước nghe lời ăn trộm…,

Câu chuyện này khi ở Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư đã kể về Ðề-bà-đạt-đa. Ðề-bà-đạt-đa chiếm được lòng tin của hoàng tử Ajàtasattu (A-xà-thế) nên đã được lợi dưỡng và danh vọng. Hoàng tử A-xà-thế xây dựng một tinh xá ở Gayàsisa cho Ðề-bà-đạt-đa và mỗi ngày đem đến cho vị ấy năm trăm cơm nấu bằng gạo thơm ba năm với hương vị hảo hạng. Dựa trên lợi dưỡng và danh vọng, hội chúng của Ðề-bà-đạt-đa trở thành đông đúc. Ðề-bà-đạt-đa chỉ sống ở tinh xá với hội chúng, không hề ra khỏi tinh xá.

Lúc bấy giờ, có hai người bạn trú ở Vương xá. Một người xuất gia với bậc Ðạo Sư, một người xuất gia với Ðề-bà-đạt-đa. Họ đến thăm nhau, tại chỗ này chỗ kia, hay tại tinh xá. Một hôm, người bạn y chỉ với Ðề-bà-đạt-đa nói với người kia:

– Này Hiền giả, sao hàng ngày bạn phải đi khất thực, với mồ hôi tuôn chảy mệt nhọc như vậy? Còn Ðề-bà-đạt-đa chỉ ngồi ở tinh xá tại Gayàsisa, được ăn món ngon với hương vị đặc biệt. Không có phương tiện nào khác sao? Sao bạn lại chịu khổ? Sao vào buổi sáng, bạn lại không đến tại Gayàsisa, uống cháo với hương vị, rồi ăn mười tám món đặc, và các món mềm tuyệt hảo với những hương vị đặc biệt?

Người kia nghe nói đi nói lại mãi nên muốn đi và bắt đầu từ đấy, thường đến Gayàsisa, ăn và uống rồi trở về Trúc Lâm đúng giờ giấc.

Tuy thế, không phải lúc nào vị ấy cũng giấu giếm được. Không bao lâu, người ta biết người ấy đi đến Gayàsisa ăn các món do Ðề-bà-đạt-đa sắp đặt cho. Các người bạn hỏi vị ấy:

– Này Hiền giả, có đúng sự thật chăng. Hiền giả ăn các món do Ðề-bà-đạt-đa sắp đặt cho?

– Ai nói vậy?

– Người này, người này!

– Này Hiền giả, đúng sự thật là tôi có đi Gayàsisa để ăn. Nhưng không phải Ðề-bà-đạt-đa cho tôi ăn. Chính những người khác cho tôi ăn.

– Này Hiền giả, Ðề-bà-đạt-đa là kẻ thù của đức Phật. Ðề-bà-đạt-đa theo ác giới, lấy được lòng tin của A-xà-thế, thâu hoạch cho mình lợi dưỡng và danh vọng một cách phi pháp. Hiền giả xuất gia trong Giáo pháp giải thoát như vậy, lại ăn các món do Ðề-bà-đạt-đa nhận được một cách phi pháp. Hãy đi, chúng tôi sẽ đưa Hiền giả đến gặp bậc Ðạo Sư.

Rồi họ đưa Tỷ-kheo ấy đến Pháp đường. Bậc Ðạo Sư thấy vậy, hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, sao các ông đem lại đây một Tỷ-kheo ngoài ý muốn của vị ấy?

– Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này đã xuất gia với Thế Tôn, lại ăn các món do Ðề-bà-đạt-đa nhận được một cách phi pháp!

– Này Tỷ-kheo, có thật chăng, ông đã ăn các món do Ðề-bà-đạt-đa nhận được một cách phi pháp?

– Bạch Thế Tôn, không phải Ðề-bà-đạt-đa cho con. Chính những người khác cho con ăn món ăn ấy!

– Này Tỷ-kheo, chớ dối quanh ở đây! Ðề-bà-đạt-đa không có chánh hạnh, theo ác giới. Sao ông xuất gia ở đây, tuân theo lời dạy của ta, lại ăn các món của Ðề-bà-đạt-đa. Ông thường hay bị lôi kéo, hễ gặp ai thì đi theo người ấy!

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở trước, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát làm đại thần cho vua ấy. Lúc ấy, vua có một con voi báu tên là Mahilamukha (Mỹ nhân diện), có giới đức chánh hạnh, không làm hại một ai. Một hôm, bọn ăn trộm, giữa đêm, đi đến gần chuồng voi, ngồi không xa con voi bao nhiêu, và bàn tính như sau:

– Ðây là con đường hầm phải đào. Ðây là lỗ tường cần phải đục. Ðường hầm và lỗ tường cần phải đục thông và mở rộng như con đường hay như bến nước, rồi mới mang đồ đạc đi. Hãy giết người để mang đồ đi, nếu cần. Như vậy, không ai có thể chống lại.

Bọn ăm trộm không có giới đức chánh hạnh, rất tàn nhẫn, độc ác, bạo hành. Sau khi bàn luận, dạy bảo lẫn nhau như vậy, bọn chúng bỏ đi. Với phương tiện như vậy, ngày hôm sau và nhiều ngày nữa, chúng cũng đến tại chỗ ấy và cũng bàn luận với nhau. Con voi nghe lời của chúng, tưởng chúng dạy cho mình cần phải trở thành tàn nhẫn, độc ác, bạo hành. Rồi con voi thực hành như vậy.

Vào buổi sáng, khi người nài đến, nó dùng vòi bắt lấy, quật xuống đất và giết chết người nài. Cũng vậy, nó giết một người nữa, rồi một người nữa. Con voi giết những ai đi đến gần nó. Người ta trình lên vua:

– Con voi Mahilamukha đã trở thành điên. Nó giết những ai mà nó thấy!

Vua cho gọi Bồ-tát và nói:

– Hãy đi, bậc Hiền trí, và tìm hiểu vì lý do gì nó trở thành độc ác.

Bồ-tát đi đến, biết con voi khỏe mạnh, rồi tìm hiểu lý do khiến con voi trở thành độc ác, và kết luận: Chắc hẳn con voi nghe những người nói chuyện gần nó, tưởng họ dạy nó học nên trở thành độc ác. Bồ-tát hỏi người giữ voi:

– Ban đêm, có ai đến gần chuồng voi để nói chuyện không?

– Thưa Ngài có! Những người ăn trộm đến và nói chuyện.

Bồ-tát đi đến vua và báo cáo:

– Thưa Thiên tử, thân con voi không có gì biến đổi khác. Vì nghe các người ăn trộm nói chuyện, nó trơû thành độc ác.

– Vậy nay cần phải làm gì?

– Hãy cho những sa-môn, Bà-la-môn có giới hạnh đến ngồi gần chuồng voi, và chỉ cần nói những chuyện giới đức chánh hạnh.

Này khanh thân, hãy làm như vậy.

Bồ-tát đưa những Sa-môn, Bà-la-môn có giới hạnh ngồi gần chuồng voi và nói những câu chuyện giới hạnh. Họ ngồi không xa con voi và nói những câu chuyện tốt lành:

– Chớ hành hạ một ai! Chớ giết hại một ai! Hãy trở thành người có giới hạnh, nhẫn nhục, thân ái và từ mẫn!

Con voi nghe vậy, tự nghĩ: “Những người này muốn dạy bảo ta. Bắt đầu từ nay, ta cần phải có giới hạnh!”. Và con voi trở thành hiền từ.

Vua hỏi Bồ-tát:

– Này khanh, sao con vật đã trở thành tốt chưa?

Bồ-tát trả lời:

– Thưa Thiên tử, nó đã trở thành tốt rồi! Con voi độc ác như vậy, nhờ các bậc hiền trí, đã an trú trên Chánh pháp như xưa.

Nói vậy xong, Bồ-tát đọc bài kệ này:

Trước nghe lời ăn trộm,
Voi báu này giết hại,
Sau nghe lời bậc trí,
An trú trên thiện tánh,
Làm công đức tốt đẹp.

Vua nói:

– Vị này biết tâm hướng của loài thú vật.

Vua liền ban cho Bồ-tát danh vọng lớn. Sau khi sống tròn thọ mang, vua cùng với Bồ-tát đi theo nghiệp của mình.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, trong quá khứ, hễ ông gặp ai thì theo người ấy. Nghe lời các người ăn trộm, ông đi theo những người ăn trộm. Nghe lời những người tu hành Chánh pháp, ông hành đúng Chánh pháp.

Sau khi kể lại pháp thoại này và kết hợp hai mẩu chuyện với nhau, bậc đạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Thuở ấy, Mahilàmukha là vị Tỷ-kheo phản bội, vua là Ànanda, còn vị đại thần là Ta vậy.

  1. CHUYỆN ÐÔI BẠN THÂN THIẾT (Tiền thân Abhinha)

Một miếng, nó không ăn…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một nam cư sĩ và một trưởng lão lớn tuổi. Theo truyền thuyết, ở xá-vệ có hai người bạn. Một người xuất gia, hằng ngày đi đến nhà người kia. Người kia bố thí món ăn, tự mình cũng ăn, sau đó theo người bạn đi về tinh xá, và đến khi mặt trời lặn, họ ngồi nói chuyện với nhau rối mới đi vào thành. Vị Tỷ-kheo thường đi tiễn bạn tận cửa thành rồi trở về. Sự thân thiết giữa hai người ấy được các tỷ-kheo biết rõ. Một hôm, các tỷ-kheo đang ngồi trong pháp đường, nói về sự thân thiết giữa hai người ấy. Bậc Ðạo Sư đi đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang bàn luận chuyện gì?

Các Tỷ-kheo nói:

– Bạch Thế Tôn, chúng con nói chuyện này.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải những người này nay mới thân thiết với nhau. Trong quá khứ, họ đã thân thiết với nhau rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát làm vị đại thần. Lúc ấy, một con chó đi đến chuồng con voi báu và ăn những vắt cơm rơi tại chỗ con voi báu ăn. Con chó đi đến vì miếng ăn, đã trở thành thân thiết với con voi báu, và ăn gần con voi. Cả hai không có nhau không thể sống được. Con chó thường nắm lấy vòi con voi, và chơi đùa bằng cách đưa qua đưa lại.

Một hôm, một người ở làng cho tiền người nài, và đem con chó ấy về làng của mình. Từ đó về sau, không thấy con chó, con voi bỏ ăn, bỏ tắm. Người nài báo việc ấy lên vua rõ. Vua cho gọi Bồ-tát đến:

– Này bậc Hiền trí, hãy đi tìm hiểu lý do gì con voi làm như vậy.

Bồ-tát đi đến chuồng voi, biết được con voi rất buồn nản, tự nghĩ: “Thân thể con vật này không tỏ lộ bệnh gì. Có thể nó có tình bạn thân thiết với ai đó, và vì không thấy bạn, nó trở nên sầu muộn.

Bồ-tát hỏi người nài:

– Con voi này có thân thiết với ai không?

– Thưa ngài, có. Nó có tình bạn thân thiết với con chó.

– Con chó ấy nay đâu rồi?

– Có một người dắt nó đi rồi.

– Chú có biết chỗ ở của người ấy không?

– Thưa Ngài, tôi không biết.

Bồ-tát đi tâu với vua:

– Thưa Thiên tử, con voi không có bệnh gì. Nhưng nó có tình bạn thân thiết sâu đậm với con chó. Nay không thấy bạn, nên nó không ăn. Tôi nghĩ là như vậy.

Nói xong, Bồ-tát đọc bài kệ:

Một miếng, nó không ăn,
Không nuốt cơm và cỏ,
Tôi nghĩ vì con voi
Thường thấy bạn, con chó,
Cho nên nó luyến ái
Con chó ấy, bạn mình.

Vua nghe lời Bồ-tát nói liến hỏi:

– Thưa bậc Hiền trí, nay phải làm gì?

– Thưa Thiên tử, hãy cho người đánh trống và tuyên bố như sau: Con chó, bạn con voi báu của nhà vua, bị người bắt lấy đem đi. Nhà nào có con chó ấy, nhà đó sẽ bị trừng phạt!

Vua làm theo lời khuyên này. Nghe được tin, người ấy liền thả con chó ra. Con chó lập tức chạy thật mau đến gần con voi. Con voi vừa lấy vòi đặt con chó lên trên đầu trán mình vừa mừng rỡ khóc lớn và đặt nó từ đầu trán xuống, để con chó ăn trước, rồi mình ăn sau.

– Ngay cả tâm hướng của loài vật, vị ấy cũng biết!

Vua nói vậy và tặng cho Bồ-tát danh vọng lớn.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải những người này nay mới thân thiết với nhau. Trong quá khứ, họ đã thân thiết với nhau rồi.

Sau khi kể lại pháp thoại này, và thuyết giảng Bốn Sự thật, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện với nhau rồi nhận diện Tiền thân:

– Lúc ấy, con chó là người cư sĩ, con voi là vị Trưởng lão lớn tuổi, còn vị đại thần Hiền trí là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON BÒ ÐẠI HỶ (Tiền thân Nandivisàla)

Chỉ nói lời từ hoà…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về những lời nhiếc mắng của nhóm Sáu Tỷ-kheo. Lúc bấy giờ, nhóm Tỷ-kheo, khi cãi nhau với các hiền thiện Tỷ-kheo, thường khiêu khích, mắng nhiếc, châm biếm và nhục mạ họ. Các Tỷ-kheo báo lên Thế Tôn. Ngài cho gọi nhóm Sáu Tỷ-kheo, hỏi có phải thật như vậy không, và khi được trả lời là thật vậy, Ngài chê trách họ:

– Này các Tỷ-kheo, lời nói ác độc làm cho ngay cả loài thú vật cũng hiềm hận. Thuở trước, một thú vật đã làm cho một người nói lời ác phải mất một ngàn đồng tiền vàng.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Trong thời quá khứ, tại nước Gandhara, có vị vua trị vì ở Takkasila, và Bồ-tát sanh ra làm con bò được đặt tên là Nandivisàla (Ðại Hỷ). Một Bà-la-môn đi đến những người thường hay cúng dường bò, xin được con Nandivisala khi còn là con nghé. Người Bà-la-môn đối xử với nó như con ruột, thương mến cho nó aên ròng cơm cháo và nuôi dưỡng nó rất chu đáo. Khi lớn lên, Bồ-tát suy nghĩ: “Ta được người Bà-la-môn này nuôi dưỡng một cách khó nhọc. Trong toàn cõi Diêm-phủ-đề (Ấn Ðộ), không có một con bò nào khác có thể mang nặng như ta. Vậy ta hãy biểu lộ sức mạnh của ta và cho người Bà-la-môn tiền nuôi dưỡng”.

Một hôm, Bồ-tát nói với vị Bà-la-môn:

– Này Bà-la-môn, hãy đi đến một triệu phú giàu về đàn bò và nói: Con bò của tôi, nếu được cột chặt vào một trăm cỗ xe, cũng có thể kéo đi! Và đánh cá với người ấy một ngàn đồng tiền vàng.

Vị Bà-la-môn đi đến một triệu phú và gợi chuyện:

– Trong thành này, con bò của ai có được sức mạnh?

Người triệu phú trả lời:

– Chính nhà này, nhà của ta!

Và ông còn nói tiếp:

– Trong toàn thành này, không một ai có con bò giống như con bò của chúng tôi.

Người Bà-la-môn nói:

– Một con bò của tôi có thể kéo được một trăm cỗ xe cột chặt lại!

Người gia triệu phú hỏi:

– Con bò như vậy ở đâu?

Vị Bà-la-môn nói:

– Ở nhà tôi.

– Vậy chúng ta hãy đánh cá đi.

– Tốt lắm, tôi bằng lòng.

Và vị Bà-la-môn đánh cá một ngàn đồng tiền vàng. Rồi vị Bà-la-môn chất đầy một trăm cỗ xe với cát, sạn và đá, đặt chúng nối tiếp nhau, cột tất cả làm một, cáng xe với trục xe, cho tắm Nandivisala, cho nó ăn một đấu gạo thơm, trang sức vòng hoa vào cỗ xe đầu. Người Bà-la-môn, tự mình ngồi trên cán xe, đưa cao gậy thúc bò và nói:

– Hi, hi, hi đi, đồ ranh con! Hãy kéo, đồ ranh con!

Bồ-tát nghĩ: “Ta không phải ranh con, nhưng người này gọi ta với danh từ ranh con”! và Bồ-tát đứng thẳng chân như những cột trụ, không hề di động.

Ngay lúc ấy, người triệu phú bắt người Bà-la-môn đem lại một ngàn đồng. Vị Bà-la-môn thua một ngàn đồng, mở con bò ra, rồi về nhà nằm dài, với tâm tư sầu muộn.

Nandivisala vào nhà, thấy vị Bà-la-môn sầu muộn, liền hỏi:

– Này Bà-la-môn, có phải ông nằm ngủ?

– Làm sao ta có thể ngủ được khi ta thua mất một ngàn đồng!

– Này Bà-la-môn, trong suốt thời gian ta sống ở nhà ông, có bao giờ ta làm bể chén bát gì, hay chà đạp một ai, hay đi đại tiểu tiện không phải chỗ?

– Này con thân, không bao giờ có.

Vậy sao ông gọi ta là đồ ranh con? Ðây là lỗi của ông, không phải lỗi của ta. Hãy đi và cá với người kia hai ngàn đồng tiền vàng. Nhưng ta không phải ranh con, không được gọi là đồ ranh con!

Vị Bà-la-môn nghe Bồ-tát nói, liền đi đến nhà triệu phú và cá hai ngàn đồng. Vị ấy buộc một trăm cỗ xe như cách trước làm, cho Nandivisala trang điểm, và buộc nó vào cái cáng gỗ xe thứ nhất. Ông buộc như thế nào? Buộc chặt cái ách vào cáng xe, rồi thắng con bò Nandivisala vào một phía ách, và buộc chặt phía bên kia bằng một miếng gỗ trơn từ ách vào trục xe, như vậy, ách được cứng thẳng, không nghiêng một bên. Như vậy, chỉ một con bò có thể kéo một cỗ xe được làm cho cả hai con kéo. Rồi người Bà-la-môn ngồi trên cáng xe, vừa xoa lưng Nandivisal vừa nói:

– Hi, hi, chú bạn hiền thiện! Hãy kéo, chú bạn hiền thiện!

Bồ-tát được buộc chặt vào một trăm cỗ xe, với một cái kéo mạnh cả một trăm cỗ xe, khiến cỗ xe cuối đứng vào chỗ mà cỗ xe đầu đã di động. Người triệu phú giàu đàn bò thua cuộc, phải trả hai ngàn đồng. Những người khác cũng cho Bồ-tát nhiều tiền. Tất cả đều thuộc về vị Bà-la-môn. Như vậy, nhờ Bồ-tát, người Bà-la-môn được nhiều tiền của.

Bậc đạo sư nói, sau khi khiển trách Sáu Tỷ-kheo ấy.

– Này các Tỷ-Kheo, lời nói độc ác không làm ai vừa ý.

Và ngài chế thành học pháp. Rồi bậc Chánh Ðẳng Giác liền nói kệ:

Chỉ nói lời từ hòa,
Không từ hòa, không nói.
Ai nói lời từ hòa,
Kéo đi được gánh nặng,
Khiến nó được tài sản.
Do vậy, nó ưa thích

*

Sau khi bậc Ðạo sư kể pháp thoại này, Ngài nhận diện Tiền thân như sau:

– Lúc ấy Bà-la-môn là Ànanda, còn Nandivisala là Ta vậy!

  1. CHUYỆN CON BÒ ÐEN (Tiền thân Kanha)

Với gánh nặng phải mang …,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo sư đã kể về thần thông song hành. Câu chuyện này và câu chuyên từ thiên giới xuống sẽ được trình bày trong Chương mười ba, Tiền thân Sarabhamiga (số 483).

Sau khi thị hiện thần thông song hành, từ thiện giới, bậc Chánh Ðẳng Giác đi xuống thành Sankassa. Trong ngày đại lễ Tự tứ, với một đoàn tùy tùng đông đảo, Ngài đi vào Kỳ viên. Các Tỷ-kheo đang ngồi họp ở Pháp đường, tán thán đức hạnh bậc Ðạo Sư, nói:

– Này các Hiền giả, Như Lai không có ai sánh bằng. Không một ai khác có thể mang được gánh nặng như đức Như Lai. Sáu ngoại đạo sư nói: Chúng ta sẽ thị hiện thần thông, chúng ta sẽ thi thố thần thông! Tuy nói vậy, họ không thị hiện được thần thông nào. Ôi, bậc Ðạo Sư thật không ai sánh bằng!

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, nay các ông ngồi họp ở đây bàn chuyện gì?

– Bạch Thế Tôn, không có gì khác ngoài chuyện tán thán đức hạnh Thế Tôn.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, nay ai sẽ mang gánh nặng do Ta mang? Trong thời quá khứ, khi Ta sanh làm thú vật, cũng không một ai so sánh với ta được.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahamadatta trị vì ở Bà-la-nại, Bồ-tát sanh làm một con bò. Khi bò còn là nghé, những người chủ sống trong nhà một bà già, đem Bồ-tát cho bà để giải quyết tiền ở trọ. Bà nuôi dưỡng Bồ-tát như con ruột, cho Bồ-tát ăn cháo và cơm. Bồ-tát được gọi là Con bò đen của bà già. Lớn lên, Bồ-tát có sắc lông đen láng, thường đi với các con bò hiền thiện trong làng. Trẻ con ở làng thường nắm sừng, nắm tai, đeo cổ, nắm đuôi bò chơi đùa và ngồi trên lưng bò.

Một hôm, Bồ-tát nghĩ: “Mẹ ta sống khổ cực, xem ta như con đẻ, nuôi dưỡng ta rất khó khăn. Vậy ta hãy làm ra tiền để giải thoát bà cụ khỏi đời khổ cực này”.

Từ đó trở đi, Bồ-tát cố gắng tìm cho ra tiền. Một hôm người chủ trẻ của một đoàn lữ hành với năm trăm cỗ xe đi đến một khúc sông cạn rất gồ ghề. Các con bò của người ấy không thể kéo các cỗ xe qua được. Những con bò của năm trăm cỗ xe được cột vào cáng xe liên tục với nhau cũng không thể kéo một cỗ xe qua được.

Lúc ấy Bồ-tát đang đi với các con bò làng, đến gần khúc sông cạn. Người chủ trẻ của đoàn lữ hành biết đánh giá loài bò, đang tìm trong những con bò này xem con nào giống tốt có thể kéo những cỗ xe của mình qua được. Thấy Bồ-tát, biết con bò giống tốt này sẽ có thể kéo được những cỗ xe, người ấy liền hỏi những người chăn bò:

– Này bạn, ai là chủ con bò này? Nếu tôi cột nó vào những cỗ xe và nó kéo qua được, tôi sẽ trả tiền thuê!

Các người chăn bò ấy nói:

– Hãy bắt và cột nó vào! Tại chỗ này, không có ai là chủ con vật!

Người chủ trẻ cột dây vào mũi bò kéo đi, nhưng con bò không di động. Theo truyền thuyết, Bồ-tát không đi khi chưa được trả giá. Người chủ trẻ của đoàn lữ hành, biết được ý định của con bò và nói:

– Này chủ đàn, ta sẽ trả cho ông một ngàn đồng, tiền thuê kéo năm trăm cỗ xe, mỗi cỗ xe kéo qua được trả hai đồng!

Lúc ấy, Bồ-tát mới chịu đi. Người ta cột bò vào những cỗ xe. Với một cái kéo mạnh, bò đã kéo bổng chiếc xe đầu tiên và đặt lên bờ kia. với phương cách như vậy, bò kéo tất cả cỗ xe qua. Người chủ trẻ của đoàn lữ hành chỉ trả một đồng cho mỗi chiếc xe, và cột một gói năm trăm đồng treo ở cổ Bồ-tát. Bồ-tát suy nghĩ: “Người này không trả cho ta tiền thuê như đã quyết định. Nay ta không cho nó đi!”. Rồi Bồ-tát đứng chặn đường trước cỗ xe, và dầu đoàn lữ hành cố gắng dắt xe đi, cũng không thể dắt được. Người chủ trẻ của đoàn lữ hành suy nghĩ: “Hình như nó biết ta trả thiếu tiền thuê!”. Bèn gói một ngàn đồng trong bọc, cột ở cổ Bồ-tát và nói:

– Ðây là tiền thuê của người đã kéo qua.

Bồ-tát mang gói tiền liền đi đến bà mẹ. Trẻ con trong làng thấy một vật gì đeo ở cổ bò đem của bà cụ, bèn chạy đến gần Bồ-tát. Nhưng Bồ-tát đuổi chúng chạy xa, rồi đến gần bà mẹ. Vì đã kéo qua năm trăm cỗ xe, Bồ-tát hết sức mệt mỏi với đôi mắt đỏ kè. Bà cụ thấy gói một ngàn đồng ở cổ Bồ-tát, liền kêu lớn:

– Này con thân, tiền này con lấy được ở đâu?

Rồi hỏi những đứa trẻ chăn bò, và biết được câu chuyện, bà nói to:

– Này con thân, ta đâu có muốn sống nhờ tiền công con làm được. Sao con lại chịu khổ nhọc như vậy?

Nói xong, bà lấy nước nóng tắm cho con vật, thoa dầu toàn thân, cho uống nước và cho bò ăn đủ loại đồ ăn thích hợp. Bà sống với Bồ-tát cho đến khi mạng chung rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Như Lai không có ai sánh bằng. Trong thời quá khứ, cũng không có ai sánh bằng.

Sau khi thuyết pháp thoại này xong, bậc Chánh Ðẳng Giác đọc bài kệ:

Với gánh nặng phải mang,
Với khúc sông phải qua,
Chúng cột con bò đen,
Bò đi kéo gánh nặng!

Như vậy, Ngài nêu rõ:

– Này các Tỷ-kheo, khi ấy, chỉ có con bò đen kéo được gánh nặng.

Thế Tôn kết hợp hai câu chuyện với nhau và nhận diện Tiền thân như sau:

– Lúc ấy, bà cụ là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), còn con bò đen của bà là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON HEO MUNIKA (Tiền thân Munika)

Chớ ham Munika …,

Câu chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, Thế Tôn đã kể về sự cám dỗ của một phụ nữ béo phệ. Câu chuyện này sẽ được trình bày ở Chương mười ba, trong Tiền thân Cullanarada-Kassapa (số 477). Bậc Ðạo Sư hỏi Tỷ-kheo ấy.

– Này Tỷ-kheo, có thật chăng ông đang bị tham dục chi phối?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

– Vì nhân duyên gì?

– Bạch Thế Tôn, vì sự cám dỗ của một phụ nữ béo phệ!

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, thiếu nữ này tạo bất hạnh cho ông. Thời quá khứ, trong ngày đám cưới của nàng, ông đã bị mạng chung và trở thành món ăn ngon cho số đông người!

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bà-la-môn, tại một làng nọ, Bồ-tát sanh làm con bò tên Mahàlohita (Ðỏ lớn) trong nhà một người có gia sản. Bồ-tát có một em trai tên là Cullalohita (Ðỏ nhỏ). Trong gia đình, hai con bò này làm tất cả công việc chuyên chở.

Gia đình đó có một cô con gái. Cô ta đã đính hôn với người con trai cùng làng. Với mục đích dọn món ngon đãi khách đến dự đám cưới của con gái mình, cha mẹ cô gái nuôi một con heo tên là Munika, và cho nó ăn toàn cháo cơm. Thấy vậy, Lohita em nói với con bò anh:

– Trong gia đình này, đồ nặng do hai anh em mình chở hết, nhưng họ chỉ cho chúng ta ăn cỏ, lá v.v… còn họ nuôi con heo với cháo và cơm. Vì lý do gì nó lại được như vậy?

Bồ-tát nói:

– Này Lohita em thân, chớ có ham đồ ăn ấy! Con heo này ăn đồ ăn ngon để chờ chết. Với mục đích dọn món ngon đãi khách đến dự ngày đám cưới của cô gái, nên họ mới nuôi con heo này. Vài ngày nữa, những người ấy sẽ đến, họ cột chân con heo, kéo nó ra khỏi chuồng, chấm dứt mạng sống của nó và sẽ làm thành món ăn cà-ri đãi khách!

Nói xong, Bồ-tát đọc kệ này:

Chớ ham Mu-ni-ka,
Nó ăn để chờ chết,
Ít dục, hãy ăn rơm,
Do vậy thọ mạng dài.

Rồi không bao lâu, những người ấy đến. Họ giết Munika và nấu nó thành nhiều món ăn. Bồ-tát nói với em Lohita em:

– Này em thân, hãy xem Munika!

– Thưa anh, em đã thấy kết quả món ăn của Munika. Trăm lần ngàn lần tốt hơn món rơm của chúng ta, món ăn tối thượng, không có tai hại, là tướng của mạng sống lâu dài.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, như vậy, trong thời quá khứ, vì thiếu nữ này, ông đã mạng chung và làm thành món ăn cho nhiều người!

Sau khi nói lên pháp thọai này, bậc Ðạo Sư giảng các Sự thật. Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo bị tham dục chi phối chứng quả Dự lưu. Bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện với nhau, và nhận diện Tiền thân:

– Khi ấy, con heo Munika là Tỷ-kheo bị tham dục chi phối, người thiếu nữ trong hai mẫu chuyện là một. Lohita em là Ànanda, Lohita anh là Ta vậy.

PHẨM KULAVAKA

  1. CHUYỆN TỔ CHIM CON (Tiền thân Kulàvaka)

Hãy để tổ chim con …,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo uống nước không lọc. Theo truyền thuyết, hai bạn trẻ Tỷ-kheo từ Xá-vệ đi về tỉnh, trú tại một địa điểm thoải mái cho đến thỏa thích, rồi từ đó ra đi, hướng về Kỳ Viên để yết kiến bậc Chánh Ðẳng Giác.

Một Tỷ-kheo có trong tay một lọc nước và người kia không có. Hai người thường lọc nước chung để uống. Một hôm, họ cãi lộn nhau. Người chủ cái lọc nước không cho người kia dùng lọc nước, tự mình lọc riêng rồi uống nước. Người kia không có đồ lọc nước, và không thể nhịn khát, nên uống nước không lọc. Hai người ấy tuần tự đi đến Kỳ Viên, đảnh lễ bậc Ðạo Sư, và ngồi xuống.

Sau khi chào đón thân tình, bậc Ðạo Sư liền hỏi:

– Các ông từ đâu đến?

– Bạch Thế Tôn, chúng con ở quốc độ Kossala, sống trong một làng, từ đấy ra đi để yết kiến Ngài.

– Nhưng các ông đi đường có hoà thuận không?

Người không có lọc nước nói:

– Bạch Thế Tôn, người này giữa đường cãi lộn với con, không cho con lọc nước.

Người kia nói:

– Bạch Thế Tôn, người này không lọc nước, tuy biết, vẫn uống nước có loài hữu tình.

– Này Tỷ-kheo có thật chăng, ông tuy biết, vẫn uống nước loài hữu tình?

– Thưa có vậy, bạch Thế Tôn, con uống nước không lọc.

Bậc Ðạo Sư:

– Này Tỷ-kheo, trong thời quá khứ, các bậc Hiền trí trị vì thành phố chư Thiên, trong khi thua trận, chạy trốn trên mặt biển, quyết không vì vương quyền giết hại các hữu tình, nên đã từ bỏ danh vọng lớn để cứu mạng sống cho các loài chim con loài Kim-sí-điểu, và họ đã cho xe quay lui.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, trong nước Ma-kiệt-đà, tại thành Vương Xá, có một vị vua Ma-kiệt-đà trị vì. Cũng như nay, Ðế Thích (Thiên chủ Sakka) trong một đời sống trước đã sanh ra trong làng Macala ở nước Ma-kiệt-đà. Thời đó, Bồ-tát được sanh làm con trai một đại gia đình quý tộc cùng ở trong làng Macala ấy. Vào ngày đặt tên, Bồ-tát được đặt tên là hoàng tử Magha; khi lớn lên có tên là Maghamanava (thanh niên Magha).

Cha mẹ, cưới cho Bồ-tát một người vợ từ một gia đình có môn đăng hộ đối. Bồ-tát cùng với con trai, con gái lớn lên, thường hay bố thí, và giữ gìn Năm giới, trong làng ấy có ba mươi gia đình. Và những người trong ba mươi gia đình ấy, một hôm, đứng ở giữa làng bạn bạc giải quyết những vấn đề ở trong làng.

Bồ-tát, tại chỗ mình đứng, dùng chân quét sạch bụi làm chỗ ấy trở thành tốt đẹp và đứng đó. Rồi một người khác đến, đứng thế chỗ ấy. Bồ-tát lại làm một chỗ khác, một chỗ khác, cho đến khi chỗ đứng cho tất cả mọi người trở thành tốt đẹp.

Trong một thời khác, Bồ-tát dựng một cái lều, sau đó dẹp lều, rồi dựng một phòng lớn, trong ấy có đặt ghế giường và ghè nước.

Trong một thời khác, ba mươi người ấy do Bồ-tát hướng dẫn trở thành dân tốt như mình. Bồ-tát thường cùng đi với họ làm các công đức như: sáng sớm thức dậy, với rìu nhỏ, búa, chùy cầm tay, đến ngã tư đường, họ đập với cái chùy, làm bật lên những hòn đá, đẩy đá qua một bên, dọn dẹp những cây va chạm vào trục xe, san bằng con đường gồ ghề, xây cầu, đào ao hồ, dựng phòng ốc, bố thí và giữ giới. Như vậy, phần lớn toàn dân trú trong làng vâng theo lời khuyên dạy của Bồ-tát, giữ gìn các giới.

Nguời thôn trưởng suy nghĩ về họ: “Trước đây, khi những người này uống rượu, sát sanh v.v…, ta lấy được nhiều tiền, nào tiền rượu, tiền phạt, tiền cúng. Nay thanh niên Magha khiến họ giữ giới, nên họ không còn sát sanh nữa, v.v… Nay ta sẽ làm cho họ từ bỏ Năm giới”.

Kẻ ấy phẫn nộ đi đến hầu vua và thưa:

– Tâu Thiên tử, có một đoàn ăn cướp, đang phá xóm làng và làm nhiều tội ác!

Vua nghe kẻ ấy nói như vậy, liền bảo:

– Hãy đi và dẫn chúng đến!

Người thôn trưởng bắt họ trói lại, dẫn họ đến và báo với vua:

– Thưa Thiên tử, những người ăn cướp đã được dẫn đến.

Không điều tra việc làm của họ, vua nói:

– Hãy đem chúng cho voi chà!

Vua bắt tất cả những người ấy nằm xuống trên sân vua và đem voi lại.

Bồ-tát khuyên bảo họ:

– Các bạn hãy hành trì giới. Hãy khởi lòng từ đối với kẻ vu cáo, đối với vua, đối với con voi, đối với tự thân đều giống nhau.

Họ làm như lời khuyên ấy.

Các người của vua đem voi đến để chà họ chết. Con voi được dắt đến nhưng không lại gần, chỉ rống to rồi bỏ chạy. Họ lại đem con voi khác nữa. Tất cả đều bỏ chạy như vậy. Vua nghĩ: “Chắc trong tay họ có thuốc trường sanh!” và vua ra lệnh soát. Sau khi soát không thấy gì, họ thưa lên với vua:

– Vậy chắc họ có đọc bùa chú.

– Hãy hỏi họ.

Những người của vua hỏi, Bồ-tát trả lời:

– Có.

Họ thưa lại với vua.. Vua cho gọi tất cả bọn họ đến và bảo:

– Hãy đọc bài chú của các người.

Bồ-tát trả lời:

– Thưa Thiên tử, chúng tôi không biết bùa chú gì khác. Nhưng ba mươi người chúng tôi không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh, không nói láo, không uống rượu. Chúng tôi khởi lòng từ, chúng tôi bố thí, chúng tôi san bằng đường sá, chúng tôi đào ao hồ, chúng tôi xây phòng ốc. Ðấy là bùa chú của chúng tôi, là sức mạnh của chúng tôi.

Vua rất bằng lòng với họ, liền cho họ tất cả gia sản của người vu cáo, bắt người vu cáo làm nô lệ cho họ, rồi cho họ cả đàn voi và ngôi làng. Từ đấy trở đi, họ làm các công đức theo sở thích của họ, họ gọi thợ mộc để xây dựng một phòng họp lớn tại ngã tư đường. Vì không còn ham muốn đối với nữ nhân, họ không cho nữ nhân tham gia vào công đức làm phòng họp ấy.

Lúc bấy giờ, tại nhà Bồ-tát có bốn nữ nhân tên là Thiện Pháp, Tư Duy, Hoan Hỷ, Thiện Sanh. Một trong bốn nữ nhân là Thiện Pháp tự mình đi tìm người thợ mộc, hối lộ cho người ấy và nói:

– Này anh, hãy cho tôi đóng góp phần chính trong việc làm phòng họp này.

Người thợ mộc chấp nhận lời yêu cầu, trước tiên cho phơi khô gỗ làm tháp nhọn, chặt đẽo, đục lỗ, làm xong cái tháp nhọn, rồi lấy vải cuốn lại và cất đi. Khi người thợ mộc làm xong phòng họp, đến thời đặt tháp nhọn, anh ta lại kêu than:

– Ôi, thưa các Tôn giả, có một vật chúng ta chưa làm.

– Cái gì vậy?

– Cần phải có một cái tháp nhọn.

– Ðược, chúng tôi sẽ đem đến.

– Nay không thể làm với cây mới chặt được. Chúng ta cần phải có một cái tháp nhọn với cây đã chặt trước phơi khô một thời gian, rồi cắt đẽo, và đục lỗ để dành.

– Vậy nay phải làm gì?

– Hãy tìm xem trong nhà của ai có cất một cái tháp nhọn đã làm xong và để bán.

Họ tìm kiếm, và thấy trong nhà của Thiện Pháp có cái tháp ấy, nhưng không mua được.

– Nếu các ông cho tôi dự phần công đức làm phòng họp, thì tôi sẽ biếu cái tháp nhọn.

– Không được, chúng tôi không cho nữ nhân dự phần công đức.

Người thợ mộc nói với họ:

– Sao các Tôn giả lại nói vậy? Chỉ trừ Phạm thiên giới, không một chỗ nào khác loại trừ nữ nhân! Hãy lấy tháp nhọn. Có như vậy công việc của chúng ta mới hoàn thành.

Họ bằng lòng lấy tháp nhọn, và làm xong phòng họp. Sau đó, họ cho sắp những ghế dài bằng gỗ, đặt những ghè đựng nước, cung cấp cháo và cơm. Họ xây một bức tường xung quanh phòng họp, gắn cửa ra vào, rải cát giữa những bức thành và ngoài bức thành trồng một dãy cây cọ dừa.

Còn nàng Tư Duy xây dựng một công viên tại chỗ ấy. Tại đó, không có một cây hoa nào, cây trái nào mà không có tên nàng. Nàng Hoan Hỷ đào một hồ nước đẹp đẽ, tràn đầy hoa sen năm sắc. Còn nàng Thiện Sanh không làm gì cả.

Bồ-tát làm đầy đủ bảy điều thệ nguyện: Hầu mẹ, hầu hạ cha, kính trọng anh cả, nói lời chân thật, không noí lời ác, không nói lời vu váo, nhiếp phục xan tham và tóm tắt trong bài kệ:

Người nuôi dưỡng mẹ cha,
Kính bậc trưởng gia đình,
Nói từ hòa, ái ngữ,
Từ bỏ lời vu cáo,
Nhiếp xan tham nói thật,
Phẫn nộ được chế ngự,
Chư Thiên Ba mươi ba
Gọi là bậc Chân nhân.

Bồ-tát đạt trạng thái đáng được tán thán nhu vậy, và khi mạng chung, được sanh làm Ðế Thích Thiên Chủ ở cõi Trời ba mươi ba. Những người bạn của Bồ tát cũng sanh lên đó. Trong thời ấy, tại cõi trở Ba mươi ba, các Thần Asura (A-tu-la) cũng sống chung. Thiên Chủ Ðế Thích nói:

– Tốt gì cho chúng ta khi một vương quốc phải ở chung với kẻ khác?

Rồi ngài cho các A-tu-la uống nước chư Thiên, khi chúng say, Thiên Chủ Ðế Thích cầm chân chúng ném xuống vực núi Sineru (Tu-di). Chúng rơi vào lâu đài ở cảnh giới A-tu-la. Lâu đài của A-tu-la nằm ở tầng thấp nhất của núi Tu-di, rộng bằng cõi Trời ba mươi ba.

Tại đấy có mọc một cây giống như cây San hô của chư Thiên sống suốt một kiếp và được gọi là Cây bông kèn. Cây bông kèn nở hoa, cho chúng biết đây không phải là cõi trời của chúng vì cõi trời có nở hoa San hô. Chúng nói:

– Ông già Ðế thích cho chúng ta uống say, rồi quăng chúng ta trên mặt biển lớn và chiếm thành chư Thiên của chúng ta. Chúng ta hãy tiến đánh lão ấy và lấy lại thành chư Thiên của chúng ta!

Rồi chúng leo lên sườn núi Tu-di như những con kiến leo lên cột. Ðế Thích nghe các Thần A-tu-la đã leo lên, liền xông ra mặt biển giao tranh, bị chúng đánh bại, liền chạy trốn trên chiếc xe Vejeyanta dài một trăm năm mươi dặm, chạy trên những đầu ngọn sóng biển phía nam. Chiếc xe của Ðế Thích chạy lướt trên mặt biển, đi đến ngôi rừng cây bông lụa. Trên đường đi của chiếc xe, rừng cây bông lụa bị chặt đứt như những cây cọ dừa và rơi trên mặt biển. Các con chim Kim-sí-điểu (Garula, thim thần cánh vàng) bay quanh trên mặt biển, kêu gào lớn tiếng. Ðế Thích hỏi thần lái xe Màtali:

– Này bạn Màtali, tiếng kêu gì vậy? Nó kêu thật bi thương?

– Thưa Thiên đế, vì rừng cây bông lụa rơi xuống, do tốc độ cỗ xe ngài nghiền nát, các con chim Kim-sí-điểu sợ chết đồng thanh kêu gào như vậy.

Bậc Ðạo Sĩ nói:

– Này bạn Màtali, chớ làm chúng mệt mỏi, vì chúng ta. Chúng ta không vì chủ quyền thiên giới mà sát sanh. Vì lợi ích của chúng, ta sẽ từ bỏ mạng sống và nộp mình cho loài A-tu-la! Hãy quay xe lại đi!

Nói vậy xong, Ðế Thích đọc bài kệ:

Hãy để tổ chim con,
Hỡi này Mà-ta-li!
Trong rừng Sim-ba-li
Tránh miệng ác chủ tể,
Ta sẵn sàng nộp mạng
Cho các A-tu-la,
Chớ để các chim này
Bị xé nát khỏi tổ.

Thần đánh xe Màtali nghe lời Ðế Thích, quay xe lại, đi về hướng thiên giới bằng con đường khác. Các thần A-tu-la thấy Ðế Thích quay xe lại, tự nghĩ: “Chắc chắn các Ðế Thích từ những thế giới khác đến, được sức mạnh tiếp viện, nên mới quay xe lại”. Bị dao động vì sợ chết, chúng liền chạy trốn vào lâu đài A-tu-la.

Còn Ðế Thích đi vào thành chư Thiên, đứng ở giữa thành, với Thiên chúng của hai thiên giới vây quanh. Trong thời khắc ấy, đất nứt ra, và lâu đài Vejayanta (Tối thắng) trồi lên cao một ngàn dặm. Vì nó trồi lên khi thắng trận, nên được gọi là lâu đài Vejayanta. Ðể ngăn chận các A-tu-la trở lại, Ðế Thích ra lệnh cho bảo vệ năm chỗ, liên hệ vấn đề này, Ðế Thích nói lên bài kệ:

Giữa hai thành bất thắng,
Ðặt năm chỗ bảo vệ,
Bảo vệ bởi Rắn thần,
Bởi chim Kim-sí-điểu,
Kum-bhan-da, Dạ-xoa,
Và bởi bốn thiên vương.

Ðược năm chỗ bảo vệ này, Thiên chủ Ðế Thích thọ hưởng những vinh quang thiên giới. Nàng Thiện Pháp, sau khi mạng chung, được sanh làm vương hậu một lần nữa. Do kết quả cúng dường cái tháp nhọn, đã khởi lên cho nàng một lâu đài tên là Thiện Pháp đình với thiên báu, cao đến năm trăm dặm. Tại đấy, dưới một chiếc lọng trắng của chư Thiên, Thiên chủ Ðế Thích ngồi trên một tấm nệm bằng vàng rộng một dặm và làm những công việc cần phải làm cho chư Thiên và loài người. còn Tư Duy, sau khi mạng chung, cũng sanh làm vương hậu của Ðế Thích; do kết quả xây dựng một công viên, đã khởi lên cho nàng một công viên tên là Cittalatavana (Tư Duy Viên). Hoan Hỷ, khi mạng chung, cũng sanh làm vương hậu của Ðế Thích, do kết quả cúng dường cái hồ, đã khởi lên cho nàng một cái hồ tên là Nanda (Hoan hỷ). Còn Thiện Sanh, do không làm thiện nghiệp gì, được sanh làm con chim hạc ở một hang động trong rừng.

Không thấy bóng dáng Thiện Sanh ở đâu, muốn biết nàng tái sanh chỗ nào, Ðế Thích hướng tâm xem xét và thấy nàng, liền đi đến chỗ ấy thăm nàng rồi đưa nàng lên thiên giới, chỉ cho thấy thành phố chư Thiên đẹp đẽ, lâu đài chư Thiên của Thiện Pháp, rừng cây leo của Tư Duy, cái hồ của Hoan Hỷ, Ðế Thích nói:

– Những nàng này, vì có làm việc thiện nên được sanh làm vương hậu của ta. Còn nàng, không làm việc lành, phải sanh làm chim hạc. Bắt đầu từ nay, hãy giữ giới!

Sau khi khuyến giáo nàng và trao cho nàng Năm giới, Ðế Thích đưa nàng về lại chỗ cũ và thả nàng ra. Từ đấy trở đi, nàng giữ giới. Sau một thời gian, muốn tìm hiểu nàng có giữ giới nữa không, Ðế Thích đi đến hiện hình làm con cá nằm trước mặt nàng. Nghĩ rằng cá đã chết, hạc ngậm lấy đầu cá. Cá vẫy đuôi, hạc liền thả cá ra, và nói:

– Ôi nó còn sống!

Ðế Thích nói:

– Lành thay, nàng có thể giữ giới được!

Rồi ngài ra đi. Con hạc, sau khi mạng chung, được sanh vào một gia đình làm đồ gốm ở Ba-la-nại. Ðế Thích không biết nàng tái sanh ở đâu. Khi biết chỗ tái sanh của nàng, Ðế Thích liền chở đầy một xe dưa chuột bằng vàng, giả dạng một ông già, ngồi giữa làng và la lớn:

– Hãy đến lấy dưa chuột! Hãy đến lấy dưa chuột!

Nhiều người tự lại nói:

– Này ông bạn thân, hãy cho chúng tôi!

– Ta chỉ cho những người nào giữ giới! Các chú có giữ giới không?

– Chúng tôi không biết giới. Chúng tôi sẽ trả tiền.

– Ta không cần tiền! Ta sẽ cho những ai giữ giới!

Các người ấy nói:

– Cụ già này thật lẩn thẩn.

Rồi họ bỏ đi.

Thiện Sanh nghe thấy, nghĩ rằng những trái dưa chuột này được mang đến cho nàng, liền đi đến và nói:

– Này ông bạn thân, hãy cho tôi!

– Nàng có giữ giới không?

– Thưa, tôi có giữ giới!

– Những trái dưa chuột này chính ta mang đến cho nàng!

Rồi Ðế Thích để xe dưa chuột trước của nhà nàng và ra đi. Còn nàng giữ giới cho đến trọn đời. Từ đấy mạng chung, nàng sanh làm con gái của chúa thần A-tu-la là Vepacittiva, nhờ giữ giới nên nàng rất đẹp.

Ðến tuổi trưởng thành, cha nàng cho họp các thần A-tu-la lại để cô con gái tự do chọn lựa chồng theo sở thích của nàng.

Lúc ấy, Ðế Thích đang tìm xem Thiện sanh ở đâu, và biết được chỗ nàng tái sanh, tự nghĩ: “Nàng đang tìm chồng theo sở thích, chắc chắn nàng sẽ lấy ta!”. Ðế Thích liền hóa hiện ra một thần A-tu-la, và đi đến chỗ ấy. Nàng được trang sức và được đưa đến chỗ tụ họp để lựa chọn chồng theo ý muốn. Nàng nhìn Ðế Thích, với tình yêu thưở trước, liền chọn ngay Ðế Thích:

– Ðây là chồng của tôi!

Ðế Thích đưa nàng về thành chư Thiên, đặt nàng lên địa vị nữ vương cầm đầu hai mươi triệu vũ nữ. Nàng sống như vậy cho đến mạng chung rồi đi theo nghiệp mình.

*

Sau khi kể câu chuuyện, bậc Ðạo Sư đã khiển trách vị Tỷ-kheo ấy và nói:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, thuở trước trong khi các bậc Hiền trí trị vì thiên quốc, dầu từ bỏ thân mạng của mình, cũng không sát sanh. Còn ông xuất gia trong Giáo pháp giải thoát như vậy, lại uống nước không lọc, có các loại hữu tình.

Sau khi khiển trách Tỷ-kheo ấy và kết hợp hai câu chuyện, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, thần đánh xe Matali là Ànanda, còn Ðế Thích là Ta vậy.

  1. CHUYỆN MÚA CA (Tiền thân Nacca)

Âm thanh ngươi êm dịu… ,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo có nhiều đồ vật. Giống như câu chuyện đã được nói đến trong Tiền thân Devadhamma (số 6), bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Tỷ-kheo, có thật chăng ông có nhiều đồ vật?

– Thưa phải, bạch Thế Tôn.

– Vì sao ông có nhiều đồ vật?

Nghe đến đây, Tỷ-kheo ấy phẫn nộ, quăng bỏ y trong, y choàng, đứng trần truồng trước mặt bậc Ðạo Sư và nói:

– Nay tôi sẽ thoát y như thế này!

Mọi người đều nói:

– Ôi, xấu hổ thay!

Tỷ-kheo ấy bỏ chạy rồi hoàn tục. Các Tỷ-kheo ngồi tại Pháp đường, nói về thái độ bất nhã của Tỷ-kheo ấy đã làm trước mặt bậc Ðạo Sư. Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, nay các ông ngồi họp tại đây bàn câu chuyện gì?

– Bạch Thế Tôn, chúng con đang nói về thái độ bất nhã của Tỷ-kheo ấy, trước mặt Thế Tôn và giữa bốn chúng, từ bỏ tàm quý đã đứng trần truồng như một đứa trẻ ở làng, bị quần chúng ghét bỏ, vị ấy đã hoàn tục, từ bỏ Giáo pháp!

Bậc Ðại Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải nay Tỷ-kheo ấy mới không có tàm quý, từ bỏ Pháp bảo. Trong đời quá khứ, kẻ ấy đã từ bỏ vợ báu của mình.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện sau đây.

*

Thuở xưa, trong kiếp thứ nhất, các loài thú bốn chân tôn Sư Tử làm vua, các loài cá tôn cá thần Ànanda, và các loài chim tôn ngỗng trời Suvanna (Kim nga). Con gái vua ngỗng trời Suvanna, một ngỗng trời con rất đẹp, được vua ban cho một ước nguyện. Nàng ước nguyện được một tấm chồng theo sở thích của mình. Vua ngỗng trời làm theo ước nguyện của con, cho tập hợp tất cả loài chim tại núi Tuyết. Từng đàn chim đủ loại như ngỗng trời, chim công, v.v… lũ lượt bay tới tấp, tập hợp trên một cao nguyên bằng đá lớn. Vua ngỗng trời cho gọi con gái đến và nói:

– Con hãy lựa chọn chim chồng mà theo con thích ý!

Nàng nhìn đàn chim, thấy con chim công có cổ đẹp với màu sắc châu báu, có lông đuôi nhiều màu, liền chọn con chim ấy và nói:

– Con chim này sẽ là chồng con!

Ðàn chim vậy quanh chim công nói:

– Này bạn chim công, công chúa này, giữa những đàn chim, đã chọn bạn làm chồng. Hãy vui sướng lên bạn!

Con chim công quá sung sướng nói lớn:

– Cho đến hôm nay, các ngươi chưa thấy sức mạnh của ta!

Rồi giữa các đàn chim, bỏ mất tàm quý, chim công xòe cánh ra. bắt đầu múa và khi múa nó không che thân. Vua ngỗng trời Suvanna xấu hổ nói:

– Con chim này không có tàm khởi lên từ nội tâm, không có lòng quý khởi lên từ bên ngoài, ta sẽ không gả con gái ta cho kẻ đã phá hoại tàm quý!

Rồi vua ngỗng trời nói lên bài kệ giữa đàn chim:

Âm thanh ngươi êm dịu,
Lưng người thật đẹp đẽ,
Cổ ngươi về màu sắc
Chẳng khác ngọc lưu ly,
Lông đuôi người xòe rộng,
Dài rộng đến một tầm,
Nhưng vì ngươi nhảy múa,
Ta không cho con gái.

Trước mặt đàn chim ấy, vua ngỗng trời gả công chúa cho ngỗng trời con. Còn con chim công mất công chúa ngỗng trời, xấu hổ, bay cao, và trốn mất. Vua ngỗng trời cũng đi về chỗ ở của mình.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo không phải nay Tỷ-kheo ấy mới bỏ mất tàm quý, từ bỏ Pháp bảo. Trong thời quá khứ, kẻ ấy đã làm mất vợ báu của mình.

Khi Ngài kể xong pháp thoại này, Ngài kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân như sau:

– Lúc ấy con chim công là người có nhiều đồ vật. Còn vua ngỗng trời là Ta vậy.

  1. CHUYỆN SỐNG HÒA HỢP (Tiền thân Sammodamàna)

Khi chung sống hòa hợp…,

Câu chuyện này, khi ở tại Vườn Cây bàng gần Ca-tỳ-la-vệ, bậc Ðạo Sư đã kể về việc tranh cãi nhau vì cái gối. Câu chuyện sẽ được trình bày trong Tiền thân Kunala (số 536).

Lúc bấy giờ, bậc Ðạo Sư bảo các bà con:

– Này các Ðại vương, các bà con không nên tranh cãi nhau. Trong thời quá khứ, các loài thú khi sống hòa hợp. đã chiến thắng được kẻ thù; còn khi sống bất hòa, đã bị nạn diệt vong lớn.

Theo yêu cầu của các hoàng tộc, bà con, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ tát sanh làm con chim cun cút đầu đàn, được vây quanh với hàng ngàn con chim cun cút, sống ở trong rừng. Lúc bấy giờ, một thợ săn chim đi đến vùng cun cút, nhờ bắt chước tiếng kêu của loài cun cút, kẻ ấy biết được chỗ tụ họp của đàn chim. Người thợ săn liền quăng lưới lên trên đàn chim, chận lại các đường viền, tóm tất cả đàn chim cút thành một mối, bỏ vào giỏ đi về nhà, đem bán và nuôi sống với số tiền ấy.

Một hôm, Bồ-tát nói với các con chim cun cút:

– Người thợ săn chim này giết hại nhiều bà con chúng ta; nay ta có một phương kế khiến kẻ ấy không thể bắt chúng ta được. Từ nay trở đi, khi kẻ ấy vừa quăng lưới trên đầu các ngươi, mỗi một chim cút chui đầu vào một lỗ của lưới, nhấc bổng lưới lên đến chỗ các ngươi muốn, và hạ xuống trên một bụi gai. Làm như vậy, chúng ta sẽ trốn thoát khỏi nhiều mẻ lưới!

Tất cả chúng đều vâng theo. Vào ngày hôm sau, khi lưới được quăng trên đàn chim, chúng liền nhấc bổng lưới lên như lời Bồ-tát dặn và thả xuống trên một bụi gai, rồi trốn thoát theo ngã dưới. Người thợ săn chim đang còn gỡ lưới khỏi bụi gai, thì trời đã xế chiều, nên đi về với tay không.

Nhiều ngày kế tiếp, các con chim cun cút đều làm như vậy. Người thợ sănchim cứ loay hoay cho đến khi mặt trời lặn, chỉ lo gỡ lưới, không bắt được gì và đi về nhà tay không.

Người vợ tức giận nói:

– Ngày lại ngày, ông về hai tay không. Tôi nghĩ rằng có lẽ ông có một chỗ nuôi dưỡng khác!

Thợ săn chim nói:

– Này bà, ta không có chỗ nuôi dưỡng nào khác. Nhưng các con chim cun cút sống hòa hợp với nhau. Chúng mang đi lưới ta quăng, và thả xuống một bụi gai rồi bỏ đi. Nhưng chúng sẽ luôn luôn không sống hòa thuận được. Bà chớ lo. Khi chúng tranh cãi nhau, lúc ấy, ta sẽ bắt gọn tất cả chúng, nụ cười sẽ trở lại trên môi bà!

Rồi kẻ ấy nói lên bài kệ với người vợ:

Khi chung sống hòa hợp,
Các chim mang lưới đi,
Khi chúng tranh cãi nhau,
Chúng rơi vào tay ta.

Vài ngày trôi qua, khi một con chim cun cút đậu xuống chỗ ăn, vô ý bước trên đầu một con chim khác. Chim ấy tức giận nói:

– Ai bước trên đầu ta?

– Chính tôi vô ý bước. Ðừng giận tôi!

Tuy vậy, con chim ấy vẫn giận, tiếp tục nói:

– Ngươi nghĩ rằng chỉ một mình ngươi nhấc bổng lưới lên chăng?

Khi chúng tranh cãi nhau, Bồ-tát suy nghĩ: “Khi tranh cãi nhau thì không có an toàn. Nay bọn chim sẽ không nhấc bổng lưới lên nữa. Do vậy, bọn cun cút sẽ gặp nạn, người thợ săn sẽ nắm được cơ hội. Ta sẽ không sống ở chỗ này nữa!”. Rồi Bồ-tát đem đàn chim của mình đi đến một chỗ khác. Người thợ săn chim lại đến, sau một vài ngày, bắt chước giọng chim cun cút, và quăng lưới lên chỗ chúng đang tụ họp. Một con chim cun cút nói:

– Nghe nói, khi ngươi nhấc bổng lưới lên, lông trên đầu rơi xuống. Vậy nay hãy nhấc bổng lên!

Một con chim khác nói:

– Nghe nói, khi ngươi nhấc bổng lưới lên, lông hai cánh của ngươi rơi xuống. vậy nay hãy nhấc bổng lên!

Như vậy, khi đàn chim cun cút đang tranh cãi nhau, người thợ săn chim nhấc bổng lưới lên, bắt tất cả đàn chim nhét đầy vào một cái giỏ, đem về nhà và hy vọng đem lại thật nhiều nụ cười cho bà vợ.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Như vậy, thưa Ðại vương, các bà con không nên tranh cãi nhau. Tranh cãi là nguồn gốc diệt vong.

Thuyết pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư kết hợp hai mẫu chuyện và nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, con chim cun cút vô trí là Ðề-bà-đạt-đa, còn con chim cun cút có trí là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON CÁ (Tiền thân Maccha)

Ta không vì nóng lạnh …,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo si mê bà vợ trước thời xuất gia. Lúc bấy giờ, Bậc Ðạo Sư hỏi Tỷ-kheo ấy:

– Có thật chăng, này Tỷ-kheo, ông bị ái nhiễm?

– Thật vậy, bạch Thế Tôn!

– Bị ái nhiễm bởi ai?

– Bạch Thế Tôn, vợ trước của con rất êm dịu khi xúc chạm. Con không thể bỏ nàng được!

Bậc Ðạo Sư nói với vị Tỷ-kheo ấy:

– Này Tỷ-kheo, chính nữ nhân ấy đã tạo nên bất hạnh cho ông. Trong thời trước, ông gần chết vì nữ nhân ấy. Nhờ có Ta đi đến, ông được thoát chết.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Trong thời quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát làm vị phụ trách về nghi lễ tôn giáo của vua.

Lúc bấy giờ, các ngươi đánh cá quăng lưới trên sông. Một con cá lớn đi theo chơi với con cá mái, vợ của nó một cách rất luyến ái. Con cá mái ấy đi trước, ngửi mùi hương của lưới, bơi quanh lưới rồi bỏ đi. Con cá trống bị mù quáng bởi lòng tham luyến, đi thẳng vào trong mắt lưới. Những người đánh cá biết được cá đã mắc vào lưới bèn kéo lên, bắt con cá nhưng chưa giết nó, lại quăng nó trên bãi cát. Họ nói:

– Chúng ta sẽ nướng con cá này trên than hừng để ăn.

Rồi họ chất một đống than và chuốt nhọn cây gậy. Con cá suy nghĩ: “Ta không than khóc vì bị nướng trên than hồng, hay bị đâm xuyên bởi gậy nhọn, hay sự đau khổ nào khác. Nhưng chỉ vì con cá mái, vợ ta sẽ buồn rầu, nghĩ rằng ta đã ra đi với con cá mái khác. Ðó là điều làm ta đau đớn!”.

Vừa than khóc cá nói lên bài kệ:

Ta không vì nóng lạnh,
Không vì bị mắc lưới,
Chỉ sợ vợ ta nghĩ,
Ta say mê nàng khác!

Lúc bấy giờ, vị phụ trách nghi lễ tôn giáo, cùng với đám nô tỳ vây quanh, đi đế bờ sông để tắm. Vị ấy biết tiếng mọi loài. Nghe con cá than, vị ấy suy nghĩ “Con cá này đang khóc tiếng khóc than ai oán. Bị chết trong trạng thái tâm bệnh như vậy, nó sẽ sanh xuống địa ngục. Ta sẽ là người giúp đỡ nó!”. Vị ấy đi đến gần những người đánh cá và nói:

– Này các bạn, các bạn không bán cho chúng ta một con cá mỗi ngày để làm món cà ri đó sao?

Những người đánh cá nói:

– Thưa ngài, sao ngài nói vậy? Ngài có thể lấy đi mọi thứ cá ngài thích!

– Chúng tôi không cần con cá nào khác, trừ con cá này.

– Thưa ngài, ngài hãy lấy nó đi.

Bồ-tát, với hai tay bắt lấy con cá, ngồi trên bờ sông và khuyên:

– Này bạn cá, nếu hôm nay ta không thấy ngươi, thì ngươi đã chết. Nhưng từ nay trở đi, ngươi chớ nên đế ái tình chi phối!

Khuyên răn xong, Bồ-tát thả con cá xuống nước và trở về thành phố.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết các Sự thật. Cuối bài giảng, vị Tỷ-kheo bị ái nhiễm chứng quả Dư lưu. Bậc Ðạo Sư kết hợp hai mẫu chuyện, và nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, con cá mái là người vợ thời trước, con cá trống là Tỷ- kheo bị ái nhiễm, còn vị phụ trách lễ nghi tôn giáo là Ta vậy.

35.CHUYỆN CON CHIM CÚT (Tiền thân Vattaka)

Có cánh không bay được …,

Câu chuyện này, khi đang du hành ở xứ Ma-kiệt-đà, bậc Ðạo Sư đã kể về lửa rừng bị dập tắt.. Một thời Thế Tôn đang du hành trong xứ Ma-kiệt-đà. Khi đang đi khất thực trong một làng nhỏ ở Ma-kiệt-đà, sau bữa ăn, trên đường trở về với chúng Tỷ-kheo, Thế Tôn thấy một đám lửa lớn bùng lên. Phía trước và phía sau ngài có nhiều Tỷ-kheo. Ngọn lửa tràn đến, lan rộng, tạo thành một màn khói và một màn lửa. Một số Tỷ-kheo còn là phàm phu, vì sợ chết, liền nói:

– Chúng ta hãy tạo nên một đám lửa đối nghịch tại chỗ ngọn lửa đang cháy, ngọn lửa kia sẽ không cháy lan rộng.

Rồi với ý định này, họ lấy que làm lửa và đốm lửa được nhen lên. Một số Tỷ-kheo khác nói:

– Này Hiền hỉ, làm gì vậy? Các Hiền giả như những người không thấy mặt trăng đứng giữa hư không, hay vòng tròn mặt trời với ngàn tia sáng mọc lên từ thế giới phương Ðông, hoặc đại dương mà chúng ta đang đứng trên bờ. Hoặc các Hiền giả không thấy núi Tu-di khi các Hiền Giả cùng đi với bậc Thượng nhân ở đời này và trên thiên giới. Các Hiền giả không nhìn đến bậc Chánh Ðẳng Giác mà chỉ la: Chúng ta hãy tạo nên một ngọn lửa đối nghịch! Các Hiền giả không biết Phật lực. Chúng ta hãy đi lại gần bậc Ðạo Sư.

Tất cả Tỷ-kheo từ phía trước phía sau đều đi đến gần bậc Ðạo Sư, đứng thành một nhóm. Bậc Ðạo Sư cùng với chúng Tỷ-kheo đứng trên một khoảng đất. Các ngọn lửa rừng ầm ầm lan đến như muốn nuốt sống tất cả, nhưng khi lan đến chỗ Như Lai đứng, chúng lan xung quanh, không đến gần hơn mười sáu tầm. Nó không có sức mạnh lan rộng một vùng rộng ba mươi hai tầm (1 tầm = 1,8 m).

Các Tỷ-kheo nói lên lời tán thán đức hạnh bậc Ðạo Sư:

– Ôi đức hạnh của chư Phật! Ngọn lửa vô tri này không có thể cháy lan đến chỗ chư Phật đứng, mà bị dập tắt như bó đuốc cỏ trong nước. Ôi, uy lực của chư Phật thật là kỳ diệu!

Bậc Ðạo Sư, nghe câu chuyện của họ, liền nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ta có sức mạnh khiến ngọn lửa tắt đi, khi cháy đến chỗ đất này. Ðây chính là sức mạnh của hạnh chân thật xưa kia Ta đã làm. Chính tại chỗ này, hoàn toàn trong suốt một kiếp, lửa sẽ không đốt cháy. Thần thông này tồn tại suốt một kiếp.

Rồi Tôn giả Ànanda xếp chiếc áo Tăng-già-lê làm bốn thành tấm nệm cho bậc Ðạo Sư ngồi. Bậc Ðạo Sư ngồi kiết già. Chúng Tỷ-kheo đảnh lễ Như Lai, bao vây xung quanh Ngài và ngồi xuống. Các Tỷ-kheo yêu cầu:

– Bạch Thế Tôn, chúng con chỉ biết hiện tại, còn quá khứ bị che kín. Mong Thế Tôn làm sáng tỏ vấn đề cho chúng con.

Theo lời yêu cầu của họ, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, ở nước Ma-kiệt-đà, tại chỗ này, Bồ-tát được tái sanh làm con chim cun cút. Từ cái trứng, con chim con tự mình mổ vỏ và thoát ra, thân hình to bằng trái banh. Cha mẹ đặt nó nằm trong tổ chim, chim mẹ tha đồ ăn về nuôi nó. Tự nó không có sức mạnh để xòe cánh bay giữa hư không, cũng không có sức mạnh giơ chân lên để đi trên đất liền.

Tại chỗ ấy, năm này qua năm khác, lửa rừng thường phát cháy. Trong thời gian này, lửa rừng đang đốt cháy với tiếng gầm thét to lớn. Các đàn chim từ trong tổ bay ra, sợ chết, kêu la, và bay trốn. Cha mẹ Bồ-tát sợ chết, bay trốn bỏ lại Bồ-tát. Bồ-tát nằm trong tổ, ngóc cổ vươn ra, thấy lửa đang cháy lan tới, liền suy nghĩ: “Nếu ta có sức mạnh xòe cánh bay lên hư không, và ta có thể đi đến một chỗ khác; hay nếu ta có sức mạnh giơ chân lên, ta có thể đi bằng chân đến một chỗ khác. Cha mẹ ta, vì sợ chết, đã bỏ ta một mình, đã bỏ chạy để cứu mình. Nay ta không có chỗ nương tựa nào khác. Tự mình không nơi nương tựa, ta phải làm gì đây!”.

Ngài lại suy nghĩ: “Trong thế giới này, có công đức, thật sự có công đức. Có những vị trong quá khứ viên mãn thành tựu các hạnh Ba-la-mật, ngồi dưới gốc Bồ-đề, chứng Chánh Ðẳng Giác, đầy đủ giới định tuệ, giải thoát, giải thóat tri kiến, thành tựu chân lý, lân mẫn từ bi, nhẫn nhục tụ tập lòng thân ái, bình đẳng đối với tất cả chúng sanh, những vị Phật Nhất thiết trí. Có những công đức Pháp mà các vị ấy đã chứng đắc. Và ta có được một sự thật: Một tự tánh pháp hiện hữu. Do vậy, ta cần phải niệm các công đức đã được các đức Phật quá khứ chứng đắc, nắm giữ tự tánh pháp về sự thật hiện có nơi ta, làm một hạnh chân đẩy lui ngọn lửa, đem lại an toàn cho ta và cho các con chim còn lại”. Do vậy, bài kệ này được nói lên:

Ở đời có giới đức,
Chân thật, tịnh, từ bi,
Chính với chân thật ấy
Ta sẽ làm một hạnh,
Hạnh chân thật vô thượng.
Hay hướng niệm Pháp lực,
Niệm chư Phật quá khứ,
Dựa sức mạnh chân thật,
Ta làm hạnh chân thật.

Rồi Bồ-tát niệm công đức chư Phật đã nhập Niết-bàn trong quá khứ, nhân danh tánh chân thật hiện có trên tự thân, làm một hạnh chân thật, và đọc bài kệ:

Có cánh không bay được,
Có chân không thể đi,
Cha mẹ đã bỏ ta,
Hỡi lửa, hãy đi lui!

Khi Bồ-tát nói sự thật ấy, ngọn lửa đi trở lui khoảng mười sáu tầm (1 tầm = 1,8 m). Khi trở lui như vậy, lửa không đốt cháy khu rừng nó đi ngang qua và được dập tắt tại chỗ ấy, như bó đuốc nhúng vào nước. Do vậy, bài kệ được nói như sau:

Ta làm hạnh chân thật,
Màn lửa lớn lửa ngọn.
Ði lui mười sáu tầm
Như ngọn đuốc gặp nước.

Trong suốt kiếp này, chỗ ấy không bị lửa đốt cháy, được gọi là thần thông tại trong một kiếp. Như vậy, Bồ-tát đã làm hạnh chân thật, và khi mạng chung, ngài đi theo nghiệp của mình.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ta có sức mạnh không cho ngọn lửa cháy đến khu rừng này, mà thời xưa, khi làm chim cun cút con, Ta đã có sức mạnh của một hạnh chân thật.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng, một số người chứng quả Dự lư, một số người chứng quả Bất Lai, một số người chứng quả A-la-hán. Bậc Ðạo Sư, kết hợp hai mẩu chuyện, và nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, cha mẹ của ta hiện tại là cha mẹ ta trong quá khứ, còn vua loài cun cút là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON CHIM (Tiền thân Sakuna)

Các chim sống ở đời … ,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về cái chòi lá bị cháy. Truyền thuyết nói một Tỷ-kheo lấy đề tài Thiền quán bậc Ðạo Sư. Từ Kỳ Viên đi đến Kosala, vị ấy sống tại một trú xứ trong khu rừng, gần một làng ở biên địa. Trong tháng đầu, chòi lá vị ấy bị cháy. Vị ấy báo cho mọi người biết:

– Chòi lá tôi bị cháy. Tôi sống khó khăn.

Và các người được báo nói:

– Nay ruộng chúng tôi bị hạn, tát nước cho ruộng xong, chúng tôi sẽ làm.

Khi tát nước xong, họ gieo giống, gieo giống xong họ làm hàng rào; làm hàng rào xong, họ nhổ cỏ, họ gặt, họ đập lúa. Như vậy, họ đề cập việc này sang việc khác, cho đến lúc ba tháng đã trôi qua. Tỷ-kheo ấy trong ba tháng phải sống khổ sở ngoài trời, đã tăng trưởng đề tài Thiền quán, nhưng không đạt được như ý. Vì thế, lễ Tự tứ xong, Tỷ-kheo ấy đi đến bậc Ðạo Sư, đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Sau khi chào đón thân tình, bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Tỷ-kheo, ông an cư mùa mưa có thoải mái không, đề tài Thiền quán của ông có đạt kết quả không?

Tỷ-kheo ấy báo cáo sự việc lên, và nói:

– Vì con không được một trú xứ thích hợp, nên đề tài Thiền quán không có kết quả.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Trong thời trước này Tỷ-kheo, ngay các loài thú cũng biết trú xứ thích hợp với mình, làm sao ông không biết?

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Barhmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con chim, với đàm chim vây quanh sống dựa trên một cây lớn, đầy đủ cành cây trong một khu rừng. Một ngày kia, khi các cành cây cọ xát nhau, bụi cây rơi xuống, khói khởi lên. Thấy vậy, Bồ-tát suy nghĩ: “Hai nhánh cây này cọ xát như vậy sẽ sanh lửa. Lửa rơi xuống sẽ đốt các lá cũ. Từ đấy, cây này sẽ bị cháy. Chúng ta không thể ở đây được. Ta phải bỏ đi đến một chỗ khác”.

Rồi Bồ-tát nói bài kệ này với đàn chim

Các chim sống trên đời,
Dựa vào trú xứ nào,
Chỗ ấy sanh ra lửa,
Hỡi loài chim tránh xa,
Hãy đi các phương khác,
Nếu y tựa chỗ ấy,
Sợ hãi sẽ sanh ra.

Các con chim có trí nghe theo lời Bồ-tát, lập tức cùng với Bồ-tát bay lên hư không, đi tới chỗ khác. Các chim không có trí nói:

– Vị ấy như ếch ngồi đáy giếng.

Nên chúng không nghe theo lời Bồ-tát, vẫn sống ngay tại chỗ ấy.

Từ đấy không bao lâu, như Bồ-tát đã nghĩ trước, lửa sanh ra và đốt cháy cây ấy. Trong khi khói và lửa bốc lên, các con chim bị khói làm mù mắt không thể đi chỗ khác, đã rơi vào biển lửa, hết con này đến con khác và bị tiêu diệt.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, trong thời trước; các con vật sống trên cây cao cũng biết được chỗ thích hợp cho mình, sao ông lại không biết?

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng, vị Tỷ-kheo ấy chứng quả Dự lưu. Bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, các con chim làm theo lời Bồ-tát là hội chúng đức Phật, và con chim có trí là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON CHIM TRĨ (Tiền thân Tittira)

Ai kính bậc lớn tuổi … ,

Câu chuyện này, khi đi đến Xá-vệ, bậc Ðạo Sư kể về trưởng lão Xá-lợi-phất đã bị tước đoạt trú xứ như thế nào. Khi ông Cấp-cô-độc đã làm xong ngôi tinh xá và gửi sứ giả báo tin, bậc Ðạo Sư từ Vương Xá ra đi, đến Tỳ-xá-ly sống tại đấy cho thỏa thích rồi lên đường đi Xá-vệ. Lúc bấy giờ, các đệ tử của nhóm Sáu Tỷ-kheo đi phía trước; khi các trú xứ chưa được các Trưởng lão ở, họ giành lấy:

– Trú xứ này dành cho giáo thọ sư chúng tôi, trú xứ này dành cho sư trưởng chúng tôi, trú xứ này dành cho chúng tôi.

Các trưởng lão đến sau không được các trú xứ. Các đệ tử của Trưởng lão Xá-lợi-phất tìm trú xứ cho Trưởng lão, nhưng không được. Trưởng lão không được trú xứ, đã ngồi hay kinh hành dưới một gốc cây không xa trú xứ bậc Ðạo Sư bao nhiêu.

Sáng sớm, bậc Ðạo Sư đi ra, đằng hắng thành tiếng. Trưởng lão đằng hắng lại. Thế Tôn hỏi:

– Ai đó?

– Bạch Thế Tôn, con là Xá-lợi-phất.

– Này Xá-lợi-phất, vào giờ này, ông làm gì ở đây?

Trưởng lão kể lại sự việc ấy. Bậc Ðạo Sư nghe câu chuyện, suy nghĩ: “Nay Ta còn sống, các Tỷ-kheo còn thiếu tôn trọng, kính nể lẫn nhau. Khi Ta diệt độ rồi, họ sẽ làm như thế nào nữa?”. Nghĩ vậy, bậc Ðạo Sư khởi lên sự lo âu vì Chánh pháp.

Khi trời vừa sáng, Ngài bảo tập hợp Ðại chúng, và hỏi các Tỷ-kheo:

– Có thật chăng, này các Tỷ-kheo, các đệ tử nhóm Sáu Tỷ-kheo đi trước giành hết trú xứ của các Tỷ-kheo Trưởng lão?

– Thưa thật vậy, bạch Thế Tôn.

Thế Tôn liền chỉ trích nhóm Sáu Tỷ-kheo. Ngài thuyết pháp, bảo các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, ai xứng đáng được chỗ ngồi tốt nhất, được nước uống tốt nhất, được đồ ăn khất thực tốt nhất?

Có người nói:

– Vị xuất gia từ gia đình Sát-đế-lỵ.

Có người nói:

– Vị xuất gia từ gia đình Bà-la-môn, từ gia đình gia chủ.

Những người khác nói:

– Những vị trì luật, những vị thuyết pháp, những vị đã chứng Thiền thứ nhất, Thiền thứ hai, Thiền thứ ba, Thiền thứ tư.

Những người khác nữa nói:

– Những vị Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán, những vị chứng Ba Minh, sáu Thắng trí.

Khi các Tỷ-kheo đã nói ý nghĩ của mình, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, trong Giáo pháp Ta, xứng đáng được chỗ ngồi tốt nhất, không phải vị xuất gia từ gia đình Sát-đế-lỵ, không phải vị xuất gia từ gia đình Bà-la-môn, từ gia đình gia chủ, không phải vị trì luật, không phải vị trì kinh, không phải vị trì luận, không phải những vị đã chứng sơ Thiền v.v… không phải những vị Dự lưu v.v… Nhưng này các Tỷ-kheo, trong Giáo pháp này, tùy theo tuổi lớn mà quyết định về sự đảnh lễ, nghênh tiếp, chắp tay, phục vụ, mà nhận được chỗ ngồi tốt nhất, nước tốt nhất, đồ ăn khất thực tốt nhất. Chính ở đây, tuổi lớn là mức đo lường. Do vậy, Tỷ-kheo tuổi lớn xứng đáng được những sự ấy. Nhưng nay, này các Tỷ-kheo, Xá-lợi-phất đệ tử cao nhất của Ta, vị chuyển Bánh xe Tùy pháp, xứng đáng được trú xứ tiếp theo trú xứ của Ta, vị ấy lại không được trú xứ, đã trải qua đêm nay sống dưới gốc cây. Nếu nay các ông không tôn trọng, không kính nể lẫn nhau, thì với thời gian trôi qua, các ông sẽ xử sự như thế nào?

Với mục đích khuyến giáo các Tỷ-kheo, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, trong thời quá khứ, các loài thú cũng nghĩ: “Thật không thích đáng cho chúng tôi, nếu chúng tôi sống không tôn trọng, kính nể lẫn nhau, sống không tùy thuận nhau. Sau khi biết ai lớn tuổi nhất trong chúng tôi, chúng tôi sẽ đảnh lễ vị ấy”.

Sau khi khéo tìm hiểu, biết được vị cao niên nhất, chúng đảnh lễ vị ấy, vì vậy khi mạng chung, chúng được sanh tràn đầy thiên giới.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, trên sườn Hy-mã-lạp-sơn có ba con vật sống gần một cây bàng lớn: con chim trĩ, con khỉ và con voi. Chúng sống không tôn trọng, không kính nể, không tùy thuận lẫn nhau. Rồi chúng suy nghĩ: “Thật không xứng đáng cho chúng ta sống như thế này. Ai cao niên nhất giữa chúng ta , chúng ta sẽ đảnh lễ vị ấy!”. Trong khi chúng tìm hiểu vị cao niên nhất giữa chúng, thì một hôm, giữa chúng, khởi lên phương tiện này khi cả ba con ngồi dưới gốc cây bàng, chim trĩ và khỉ hỏi con voi:

– Này bạn voi, bạn có biết, khi bạn thấy cây bàng này lần đầu tiên, cây ấy to như thế nào?

Con voi nói:

– Này các bạn, khi tôi còn bé nhỏ, cây bàng chỉ là một bụi cây, tôi đi ngang qua nó đụng bắp vế tôi. Khi tôi đứng ngang cây ấy, cành cây cao nhất chỉ chạm đến lỗ rốn. Như vậy tôi biết cây này từ khi còn là một bụi cây.

Rồi hai con vật ấy lại hỏi con khỉ như rên. Con khỉ nói:

– Này các bạn, khi tôi còn là khỉ con, tôi ngồi trên đất, chỉ vươn cổ ra, có thể ăn được chồi cao nhất của cây bàng non này. Như vậy tôi biết cây này từ khi còn nhỏ.

Hai con vật kia lại hỏi con chim trĩ như trên. Con chim trĩ nói:

– Này các bạn, thuở trước, tại một chỗ nọ, có một cây bàng lớn. Tôi ăn trái cây, đi đại tiện ở chỗ này, từ đấy, cây này mọc lên. Như vậy, tôi biết cây này từ khi cây ấy chưa mọc. Do vậy, tôi cao niên hơn các bạn.

Ðược nghe nói như vậy, con khỉ và con voi nói với chim trĩ có trí:

– Này bạn, bạn cao niên hơn chúng tôi. Từ nay trở đi, chúng tôi sẽ cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường bạn. Chúng tôi sẽ đảnh lễ, nghênh tiếp, chắp tay, phục vụ nạn. Chúng tôi sẽ vâng theo lời khuyến giáo của bạn. Bắt đầu từ nay, bạn sẽ chỉ dạy khuyên bảo chúng tôi.

Từ hôm ấy trở đi, con chim trĩ khuyên bảo chúng, an trú chúng trong giới luật, và tự mình thọ trì giới luật. Cả ba con vật kính trọng, kính nể lẫn nhau, tùy thuận nhau, sống như vậy cho đến mạng chung, rồi đi lên thiên giới.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Mục đích của ba con vật này là sống Phạm hạnh nhờ con chim trĩ. Này các Tỷ-kheo, nếu những thú vật ấy sống tôn trọng, kính nể lẫn nhau, thì vì sao, các ông đã xuất gia trong Pháp Luật khéo giảng này, lại không thể sống tôn trọng, kính nể lẫn nhau? Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các ông, bắt đầu từ nay trở đi, tùy theo tuổi lớn, các ông hãy đảnh lễ, nghênh tiếp, chắp tay, phục vụ; tùy theo tuổi lớn, hãy dành chỗ ngồi tốt nhất, đồ ăn khất thực tốt nhất; bắt đầu từ nay trở đi, không bao giờ một vị lớn tuổi lại bị một vị trẻ tuổi tranh giành trú xứ. Ai tranh giành sẽ phạm tội.

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Chánh Ðẳng Giác đọc bài kệ:

Ai kính bậc lớn tuổi,
Là thiện xảo trong Pháp,
Ðời này được tán thán,
Ðời sau, sanh cõi lành.

*

Như vậy, bậc Ðạo Sư nói lên lời tán thán hạnh kính lễ bậc lớn tuổi và kết hợp hai câu chuyện với nhau, rồi nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, con voi là Mục-kiền-liên, con khỉ là Xá-lợi-phất và con chim trĩ là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON CÒ (Tiền thân Baka)

Kẻ có trí lường gạt … ,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo làm thợ may y. Theo truyền thuyết, có một Tỷ-kheo trú ở Kỳ Viên, rất thiện xảo về công việc may y, như cắt, ráp, sắp xếp, và may lại v.v… Do thiện xảo này, vị ấy thường làm y và có tên là Thợ may y. Vị ấy làm gì? Từ những mảnh vải cũ mòn, với bàn tay khéo léo, vị ấy làm thành y mềm dịu vừa ý. Sau khi may xong, vị ấy nhuộm với nước bột, ủi bằng vỏ ốc, làm cho trơn y láng đẹp đẽ. Những Tỷ-kheo không biết làm y, đem vải mới đến Tỷ-kheo ấy và nói:

– Này Hiền giả, chúng tôi không biết làm y, hãy may giúp cho chúng tôi.

Tỷ-kheo ấy nói:

– Này Hiền giả, làm xong một y cần nhiều thời gian, nhưng nay có một y tôi mới làm xong. Hãy để vải này lại, lấy y ấy mà dùng.

Vị ấy đem y ra cho họ xem. Những Tỷ-kheo ấy chỉ thấy màu sắc y tươi đẹp mà không biết bề trong của y, tưởng rằng y ấy chắc chắn nên đưa cho Tỷ-kheo Thợ may xấp vải mới, đổi lấy y và ra đi. Khi y ấy hơi bị nhớp và được giặt trong nước nóng, thực chất của y hiện rõ. Ðây đó, những chỗ cũ mòn được phơi bày. Họ hối tiếc việc trao đổi trước. Như vậy vị ấy lường gạt những ai đem vải đến may, và khắp mọi nơi đều biết chuyện ấy.

Giống như vị Tỷ-kheo lừa gạt ở Kỳ Viên, tại một làng nhỏ nọ, có một Tỷ-kheo khác may y cũng lừa dối thiên hạ. Những Tỷ-kheo bạn của vị ấy báo cho biết:

– Này Tôn giả, ở Kỳ Viên có một thợ may y lừa dối thiên hạ như Tôn giả vậy.

Vị ấy tự bảo: “Ta sẽ lường gạt thợ may ở thành thị này”. Vị ấy làm một cái y với nhiều tấm vải cũ rất đẹp, nhuộm với màu vàng đậm và đắp y ấy đi đến Kỳ Viên. Thợ may kia thấy y ấy, khởi lòng tham và hỏi:

– Thưa Tôn giả, y này có phải Tôn giả đã may không?

– Này Hiền giả, phải, tôi đã làm.

– Này Tôn giả, hãy nhường cho tôi y này, Tôn giả sẽ lấy y khác.

– Này Hiền giả, chúng tôi là người ở làng, rất khó được các vật dụng. Nếu tôi cho Hiền giả y này, tôi sẽ đắp cái gì?

– Thưa Tôn giả, tôi có vải mới chưa may. Tôn giả đã nói như vậy, thì tôi từ chối gì được ? Thôi, Hiền giả hãy lấy đi.

Sau khi đưa cái y gồm nhiều tấm vải cũ, vị ấy lấy vải mới , lừa dối Tỷ-kheo ấy, rồi ra đi. Vị Tỷ-kheo ở Kỳ Viên, sau vài ngày đắp y ấy, giặt y ấy với nước nóng, thấy những miếng vải cũ mòn, và bị chê cười xấu hổ. Toàn thể chúng Tăng được biết rõ là người thợ may ở Kỳ Viên đã bị người thợ may ở làng nhỏ lường gạt.

Một hôm, tại Pháp đường, các Tỷ-kheo đang ngồi nói về câu chuyện ấy. Bậc Ðạo Sư đến và hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi bàn chuyện gì. Các Tỷ-kheo đang ngồi bàn chuyện gì. Các Tỷ-kheo trình bày câu chuyện, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay người thợ may ở Kỳ Viên mới lường gạt những người khác. Trong thời quá khứ, vị ấy cũng đã lường gạt rồi. Và người thợ may ở ngôi làng nhỏ, không phải chỉ nay mới lường gạt người thợ may ở Kỳ Viên. Trong thời quá khứ, vị ấy cũng đã lường gạt rồi

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, tại một ngôi rừng, Bồ-tát sanh làm thần cây. Cây ấy mọc gần một hồ sen. Lúc bấy giờ, trong một hồ khác không lớn lắm, vào mùa hạn hán, nước thấp, nhưng tại đấy có cá rất nhiều. Một con cò thấy đàn cá, suy nghĩ cách lường gạt và ăn chúng. Cò đi đến hồ, ngồi bên bờ nước suy tư. Ðàn cá thấy vậy liền hỏi cò:

– Ngài ngồi suy nghĩ gì vậy?

– Tôi ngồi suy nghĩ đến các bạn!

– Ngài suy nghĩ gì đến chúng tôi?

– Trong hồ này, nước cạn, đồ ăn ít, hạn hán lại lớn. Nay các bạn sẽ làm gì? Chính ta ngồi đây suy nghĩ như vầy.

– Vậy thưa ngài, chúng tôi sẽ phải làm gì?

– Này, nếu các bạn làm theo lời ta, ta sẽ ngậm từng bạn trong mỏ ta, đưa các bạn đến một hồ lớn tràn đầy hoa sen năm sắc, và thả các bạn ở đấy.

– Thưa ngài, từ thuở khai thiên lập địa đến nay, không bao giờ loài cò lại nghĩ đến loài cá. Ngài chỉ muốn ăn chúng tôi từng con một thôi.

– Ta sẽ không ăn các bạn khi các bạn có lòng tin ở ta. Nếu các bạn không tin lời ta là đằng kia có một cái hồ, hãy cử một con cá đi với ta để chính nó thấy cái hồ ấy.

Ðàn cá tin con cò ấy, liền cử một con cá lớn, mù một mắt, nghĩ rằng nó có khả năng đối nghịch với cò dưới nước và trên cạn, và bảo con cò mang đi. Cò ngậm lấy cá ấy, mang đi, thả trong hồ, chỉ cho thấy toàn bộ cái hồ, rồi đưa nó về, thả nó lại với đàn cá trong hồ cũ. Cá này về tán thán sự quyến rũ của hồ mới cho chúng bạn nghe. Nghe nó tán thán, đàn cá đều muốn đi và nói với cò:

– Lành thay, ngài hãy mang chúng tôi đi.

Con cò trước hết mang con cá lớn một mắt ấy, đưa nó đến bờ hồ, chỉ cho nó thấy cái hồ, rồi đậu xuống cây Vanara mọc bên bờ hồ. Cò ném con cá vào giữa hai cành cây, lấy mỏ mổ con cá, giết chết nó và ăn thịt, thả xương xuống gốc cây, rồi trở về nói:

– Con cá ấy đã được ta thả rồi. Con khác hãy đi.

Với phương cách ấy, cò mang đi từng con cá một, ăn hết cả đàn cá, và cuối cùng, không tìm thấy con cá nào nữa. Tại đấy chỉ có con cua còn ở lại. Con cò muốn ăn nó nên nói:

– Này bạn cua, tất cả đàn cá ấy đã được ta mang đi, thả xuống hồ lớn đầy những bông sen, hãy đến đấy, ta sẽ mang bạn đi!

– Làm thế nào ngài mang tôi đi?

– Ngậm lấy bạn, ta sẽ mang đi.

– Ngậm tôi mang đi như vậy, ngài sẽ làm rơi tôi xuống. Tôi sẽ không đi với ngài đâu.

– Chớ sợ, ta sẽ ngậm bạn thật chặt và mang đi.

Con cua suy nghĩ: “Nó mang những con cá mà không thả cá vào trong hồ. Nếu nó thả ta vào trong hồ thì tốt. Nếu nó không thả, ta sẽ cắt đứt cổ của nó và giết nó”.

Rồi cua nói với cò:

– Này bạn cò, bạn không thể ngậm tôi chắc chắn được. Chúng tôi loài cua đã kẹp thì kẹp chặt. Nếu tôi lấy cái càng kẹp cổ bạn, tôi sẽ kẹp chặt cổ bạn và sẽ đi với bạn.

Con cò không biết con cua muốn lường gạt mình bèn bằng lòng. Như với cái kềm của người thợ rèn, con cua với những cái càng của mình, kẹp rất chặt cổ cò và nói:

– Nào, chúng ta hãy đi!

Cò đưa cua đi, trước hết chỉ cho nó thấy cái hồ, rồi đi về phía cây Vanara. Cua nói:

– Này bạn, cái hồ ở phía này, sao bạn lại đưa tôi đi phía khác?

– Ừ, ta là bạn thân của người, và ngươi là bạn thân của ta. Ngươi tưởng ta là nô lệ của ngươi, nhấc bổng và đưa ngươi đi không sao? Hãy nhìn đống xương này dưới gốc cây Vanara! Và ta đã ăn tất cả con cá ấy, cũng vậy, nay ta sẽ ăn ngươi!

– Những con cá ấy vì ngu si nên bị ngươi ăn. Nhưng ta sẽ không để ngươi ăn ta đâu. Cua nói. Ta sẽ giết ngươi! Ngươi thật là ngu ngốc! Ngươi bị ta lừa mà không biết. Nếu chết, cả hai cùng chết! Ta sẽ cắt đứt đầu ngươi trước khi ta rơi xuống đất!

Nói xong, cua kẹp chặt cổ cò lại như gọng kềm. Với miệng há to, nước mắt từ từ chảy, quá kinh hãi vì sợ chết, cò nói:

– Thưa ngài, tôi sẽ không ăn ngài. Hãy cho tôi sống!

– Nếu ngươi hạ xuống và thả ta trong hồ.

Cò bay trở lui, hạ xuống hồ, thả cua trên mặt bùn bên bờ hồ. Nhưng con cua, trước khi đi xuống nước, cắt đứt cổ cò như con dao cắt một cọng sen.

Vị thần sống ở trên cây thấy sự lạ lùng này, đã làm cho toàn khu rừng vang dậy lời tán thán khi nói lên bài kệ này với âm thanh dịu ngọt:

Kẻ có trí lường gạt
Không may bị kẻ gạt,
Con cò có trí gạt
Ðã bị cua gạt lại.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay người thợ may ở Kỳ Viên mới bị người thợ may ở làng lường gạt. Trong thời quá khứ, vị ấy cũng bị lường gạt rồi.

Sau khi thuyết pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai mẩu chuyện và nhận diện Tiền thân:

– Lúc ấy, người thợ may ở Kỳ Viên là con cò, người thợ may ở làng là con cua, còn Ta là thần cây.

  1. CHUYỆN NGƯỜI NÔ LỆ NANDA (Tiền thân Nanda)

Nghĩ rằng là chỗ chôn…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một đệ tử của Trưởng lão Xá-lợi-phất. Tương truyền Tỷ-kheo ấy là người dễ bảo, kham nhẫn, thường nỗ lực hầu hạ Trưởng lão. Một thời, sau khi xin phép bậc Ðạo Sư, Trưởng lão đã ra đi, bộ hành đến xứ Dakkhinagiri ở miền Nam Magadha (Ma-kiệt-đà), Tỷ kheo ấy, đến xứ nầy, trở thành kiêu ngạo, cứng đầu, không vâng lời Trưởng lão. Khi Trưởng lão bảo:

– Này Hiền giả, hãy làm điều này.

Vị ấy liền gây sự chống lại Trưởng lão.

Trưởng lão không biết tâm tánh vị ấy vì sao thay đổi như vậy. Sau khi bộ hành tại đấy, Trưởng lão lại đi về Kỳ Viên. Từ khi theo Trưởng lão về đến Kỳ Viên, tánh tình Tỷ-kheo ấy trở lại như cũ. Trưởng lão thưa với đức Như Lai:

– Bạch Thế Tôn, con có một đệ tử, tại một chỗ, xử sự như một nô lệ được mua với giá một trăm đồng tiền, nhưng tại một nơi khác, lại trở thành kiêu mạn, cứng đầu, bảo làm gì cũng gây sự chống đối.

Bậc Ðạo sư nói:

– Này Xá-lợi-phất, Tỷ-kheo này không phải nay mới có tánh tình như vậy. Trước kia, khi đến chỗ nầy, kẻ ấy xử sự như một nô lệ được mua với giá một trăm đồng tiền, nhưng khi đi chỗ khác, thì gây sự, đối nghịch.

Nói vậy xong, theo lời Trưởng lão yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahamadatta trị vì ở xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một địa chủ. Bạn của Bồ-tát cũng là một điạ chủ lớn tuổi hơn Bồ-tát, nhưng có một người vợ trẻ sanh được một con trai. Người địa chủ lớn tuổi suy nghĩ: “Vợ ta còn trẻ, khi ta chết đi, không biết sẽ lấy ai và tiêu phí tài sản này, thay vì giao cho con trai của ta? Vậy tốt hơn ta hãy chôn tài sản dưới đất”.

Nghĩ vậy, người địa chủ đem theo một người nô lệ trong nhà tên Nanda, đi vào rừng, chôn tài sản ấy vào một chỗ và bảo:

– Này Nanda thân, sau khi ta chết, hãy báo cho con ta biết tài sản này. Chớ quên khu rừng.

Sau khi khuyên như vậy, người địa chủ già ấy mạng chung. Ðứa con trai dần dần lớn lên, đến tuổi thành niên, mẹ nó nói:

– Này con thân, cha con đem theo nô lệ Nanda, đã chôn giấu tài sản. Hãy bảo nó mang về mà cai quản gia sản thừa tự.

Một hôm, người thanh niên nói với Nanda:

– Này cậu, có phải cha ta đã chôn tài sản?

– Thưa ông chủ, có!

– Chôn tài sản tại đâu?

– Thưa ông chủ, trong rừng.

– Vậy chúng ta hãy đi lấy.

Sau khi đem cuốc và thúng, đi đến chỗ chôn giấu, người thanh niên hỏi:

– Này cậu, tài sản ở đâu?

Nanda leo lên, đứng trên chỗ đã chôn tài sản, do vì tài sản ấy, nó khởi lòng kiêu mạn và mắng nhiếc chàng thanh niên chủ nó:

– Ði đi! Ðứa con hư, đứa con nô lệ. Từ đâu ngươi có được tài sản này?

Nghe ác ngữ của nó, chàng thanh niên làm như không nghe gì, chỉ nói:

– Thôi chúng ta đi về.

Rồi hai người cùng về. Sau hai ba ngày, cả hai lại đi, nhưng Nanda lại mắng chửi như cũ. Chàng thanh niên không nói ác ngữ với nó, và suy đi nghĩ lại như sau: “Người nô lệ này, khi đi có ý định báo cho ta biết tài sản. Nhưng đến đó, lại mắng nhiếc ta, chẳng biết vì lý do gì? À, cha ta có người bạn địa chủ, hãy đến hỏi vị ấy”.

Thanh niên ấy đi đến gặp Bồ-tát trình bày tất cả sự việc và hỏi:

– Thưa ngài, vì lý do gì mà tại chỗ Nanda đứng mắng nhiếc con là chỗ cha con chôn tài sản thừa tự?

– Này con, Khi Nanda mắng chửi con, con chỉ nên nói: Này người nô lệ, người mắng chửi ai vậy? Rồi kéo nó ra, lấy cuốc đào chỗ ấy, lấy tài sản thừa tự của gia đình, bảo người nô lệ nhấc lên và mang về nhà.

Nói vậy xong, Bồ-tát đọc bài kệ này:

Nghĩ rằng là chỗ chôn
Ðống vàng và nữ trang,
Chỗ nô tỳ hạ sanh
Tên là Nan-da-ka
Ðang đứng và la to
Những lời lẽ thô bạo.

Chàng thanh niên liền đảnh lễ Bồ-tát, về nhà, và đưa Nanda đi đến chỗ chôn giấu tài sản. Làm đúng theo lời khuyên bảo, Chàng thanh niên cũng vâng theo lời Bồ-tát khuyên, làm các công đức như bố thí…đến khi mạng chung đi theo nghiệp của mình.

Bậc Ðạo Sư nói: – Trong thời quá khứ, tánh tình của kẻ ấy cũng như vậy.

*

Sau khi bậc Ðạo Sư thuyết pháp thoại này, Ngài kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân.

– Lúc bấy giờ, Nanda là đệ tử của Xá-lợi-phất, và người địa chủ có trí là Ta vậy.

  1. CHUYỆN HỐ THAN LỬA CÂY KEO (Tiền thân Khadirangara)

Ta thà rơi địa ngục…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về ông Cấp Cô Ðộc. Ông Cấp Cô Ðộc đã tiêu hết cho Giáo pháp đức Phật một số tiền là năm trăm bốn mươi triệu đồng để xây dựng tinh xá, và ông không nghĩ đến châu báu nào khác ngoài ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng. Trong khi bậc Ðạo Sư còn ở Kỳ Viên, mỗi ngày vị triệu phú đi đến tinh xá ba lần để cúng dường: một vào buổi sáng, một vào buổi trưa, một vào buổi chiều. Ngoài ra, còn nhiều sự giúp đỡ khác.

Ông Cấp Cô Ðộc không bao giờ đi tay không, ngại các Sa-di hay Tỷ-kheo trẻ xem mình có đem gì trong tay không. Buổi sáng ông đem theo cháo, sau buổi ăn sáng đem theo bơ chín, bơ tươi, mật ong, đường mật. Buổi chiều ông đem theo hương liệu, vòng hoa, vải may y. Ngày này qua ngày khác, vị ấy tiêu dùng như vậy, không hạn chế.

Ngoài ra, nhiều người sống bằng nghề buôn bán tự tay trao phiếu nợ, mượn ông tài sản ước lượng một trăm triệu đồng và vị Ðại triệu phú không đòi họ trả. Còn những tài sản khác trị giá một trăm tám mươi triệu đồng được chôn cất trên bờ sông. Khi bị gió bão, nước phá vỡ bờ sông, gia sản ấy đã trôi ra biển lớn. Chìm xuống lòng biển là các ghè chậu bằng đồng còn khoá chặt và đóng dấu nguyên xi.

Trong nhà vị triệu phú luôn luôn có phần cơm cho năm trăm Tỷ-kheo, nhà vị đại triệu phú giống như cái giếng trong xanh ở ngã tư đường cho chúng Tỷ-kheo, như ngôi nhà cha mẹ đối với tất cả đại chúng. Vì vậy, bậc Chánh Ðẳng Giác thường đi đến nhà vị triệu phú. Tám mươi đại Trưởng lão cũng đi đến. Các Tỷ-kheo khác cũng đến và đi không thể kể xiết. Nhà vị đại triệu phú có đến bảy tầng lầu, được trang hoàng với bảy cửa gác. Tại cửa gác thứ tư của ngôi nhà ấy, một thần nữ có tà kiến thường trú. Khi bậc Chánh Ðẳng Giác vào nhà, thần nữ ấy không ở được trong lầu của mình, đã đem theo mấy đứa con nhỏ xuống ở tại tầng cuối cùng. Khi tám mươi đại Trưởng lão và các Trưởng lão khác đến và đi, thần nữ ấy cũng phải làm như vậy. Nàng suy nghĩ: “Khi Sa-môn Gotama và các đệ tử vào nhà này, ta không được an lạc; ta không thể luôn luôn xuống tầng trệt được. Ta phải làm thế nào để những người ấy không đến nhà này nữa”.

Một hôm, khi người tổng quản đã về phòng an nghỉ, thần nữ ấy đi đến, chói sáng hào quang và đứng lại. Ðược hỏi:

– Ai dó?

Nàng trả lời:

– Ta là thần nữ thường trú ở cửa gác thứ tư.

– Vì sao nàng đến đây?

– Ông không thấy việc phải làm của vị triệu phú, không nghĩ đến đời sau cho mình, tiêu phí tài sản, làm giàu cho Sa-môn Gotama, không lo buôn bán, không lo làm việc. Ông hãy khuyên vị triệu phú làm việc của mình, đừng để Sa-môn Gotama và các đệ tử vào nhà này nữa.

Người tổng quản ấy nói với thần nữ:

– Này thần nữ ngu si, nếu vị triệu phú dùng tài sản, vị ấy chỉ dùng cho Giáo pháp chư Phật đưa đến giải thoát. Dù vị triệu phú nắm búi tóc ta và bán ta làm nô lệ, ta vẫn sẽ không nói gì. Nàng hãy đi đi.

Hôm khác, thần nữ ấy đi đến người conn trai cả của vị triệu phú và khuyên giáo tương tự. Người con trai cả cũng mắng nàng như trước. Nhưng nàng không dám nói việc này với vị triệu phú.

Do bố thí không ngừng nghỉ, do không kinh doanh, tiền thâu vào ít dần, tài sản vị ấy đi đến khánh tận. Dần dần triệu phú rơi vào cảnh nghèo thiếu, gia sản, áo quần, sàng tọa, thực phẩm không còn được như xưa. Dầu ở trong tình trạng như vậy, ông Cấp Cô Ðộc vẫn cúng dường chúng Tăng, tuy rằng không thể cúng dường các món tốt đẹp.

Một hôm, sau khi ông Cấp Cô Ðộc đảnh lễ và ngồi xuống, Thế Tôn hỏi:

– Này Gia Chủ, tại nhà ông còn có vật bố thí không?

– Bạch Thế Tôn, thưa có vật bố thí. Ðó là cháo tấm với bột chua để lại từ hôm qua.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Gia chủ, tâm đừng buồn phiền khi bố thí đồ vật thô xấu, khi tâm tốt đẹp thì đồ vật cúng dường chư Phật, Ðộc Giác Phật, đệ tử chư Phật cũng không trở thành thô xấu. Vì sao? Vì quả dị thục to lớn. Ai có thể làm tâm tốt đẹp, thì vật bố thí không thể thô xấu được. Như vậy ông cần phải hiểu biết.

Và đức Thế Tôn đọc bài kệ:

Khi tâm được tịnh tín,
Bố thí không gọi nhỏ,
Cho Như Lai, chư Phật,
Hay cho đệ tử Ngài,
Không có cúng dường nào
Ðược xem là bé nhỏ.

Thế Tôn lại nói thêm:

– Này Gia chủ, ông cúng dường món ăn thô xấu, nhưng cúng dường tám bậc Thánh nhân. Trong thời Velàma, Ta làm náo động cả Diêm-phù-đề với việc bố thí bảy thứ báu; trong khi đại bố thí, Ta làm chúng tuôn chảy như làm năm con sông trở thành một dòng thác. Nhưng Ta không tìm được ai thọ Ba quy y hay giữ Năm giới. Những người xứng đáng được cúng dường như vậy thật khó kiếm được. Do vậy, khi bố thí cho ta đồ ăn thô xấu, tâm ông chớ buồn phiền.

Sau đó, bậc Ðạo Sư nói Kinh Velàmaka.

Bấy giờ thần nữ ấy không dám nói với người triệu phú khi vị ấy đang có uy quyền, lại suy nghĩ: “Nay vị triệu phú này gặp tình cảnh khó khăn, có thể nghe theo lời ta”. Nghĩ vậy, nửa đêm, thần nữ vào phòng vị ấy chiếu sáng hào quang, đứng giữa hư không. Vị triệu phú thấy nàng, liền hỏi:

– Ngươi là ai?

– Này đại triệu phú, ta là thần nữ ở cửa gác thứ tư.

– Ngươi đến có việc gì?

– Ta muốn nói lời khuyên ông.

– Vậy hãy nói đi!

– Này đại triệu phú, ông không nghĩ đến thời sau, không nhìn đến con trai, con gái. Ông đã tiêu phí tài sản cho Giáo pháp của Sa-môn Gotama. Do ông đã phung phí tài sản lâu ngày, do không làm công việc mới, vì Sa-môn Gotama, ông trở thành nghèo thiếu. Sự việc đã như vậy, ông vẫn không từ bỏ Sa-môn Gotama. Hôm nay, các Sa-môn ấy vẫn đi vào nhà ông như trước. Những gì họ đã lấy đi từ ông, không thể đem về nhà được. Hãy tin chắc là như vậy. Nhưng bắt đâu từ nay trở đi, ông chớ tự mình đi đến Sa-môn Gotama. Chớ cho phép những đệ tử của Sa-môn vào nhà này nữa. Hãy xoay lưng, không nhìn Sa-môn Gotama nữa. Hãy tự mình kinh doanh buôn bán và xây dựng lại sản nghiệp.

Vị triệu phú nói với thần nữ:

– Có phải đấy là lời khuyến giáo ngươi cần nói với ta?

– Ðúng như vậy.

Vị triệu phú nói:

– Bậc Ðạo Sư đã làm cho ta không bị dao động bởi trăm, bởi ngàn, bởi trăm ngàn thần nữ như ngươi. Lòng tin của ta như núi Tu-di không dao động, được khéo an trú. Tài sản được ta tiêu dùng cho Pháp bảo đưa đến giải thoát. Lời ngươi nói không thích đáng, là một đòn do ngươi đánh vào Giáo pháp đức Phật, con quỷ đen thiếu lễ độ, theo ác giới, không có vấn đề ngươi sống chung trong nhà của ta. Hãy ra khỏi nhà ta mau, đi ở chỗ khác.

Thần nữ nghe lời nói của vị Thánh đệ tử đã chứng quả Dự lưu, không thể ở lại được, bèn về chỗ ở của mình, tay bồng con ra đi, với ý nghĩa: “Nếu ta không tìm được chỗ khác, ta sẽ xin lỗi vị triệu phú và sẽ trú tại đấy”. Nghĩ vậy, nàng đi đến vị Thiên tử hộ trì thành phố, đảnh lễ vị ấy rồi đứng dậy. Khi được hỏi:

– Nàng đến có chuyện gì?

Nàng trả lời:

– Thưa Thiên Tử, tôi vô ý nói chuyện với ông Cấp Cô Ðộc, nên vị triệu phú giận tôi, đuổi tôi ra khỏi nhà ở. Hãy đưa tôi đến vị triệu phú xin lỗi và xin cho tôi được trú tại nhà như cũ.

– Nhưng nàng đã nói với vị triệu phú những gì?

– Bắt đầu từ nay, chớ hộ trì Phật, chớ hộ trì chúng Tăng, chớ để Sa-môn Gotama vào nhà. Thưa Thiên tử, tôi đã nói như vậy!

– Lời nàng nói không chính đáng, là một đòn đánh vào Giáo pháp. Ta không thể đưa nàng đến gặp vị triệu phú được.

Không nhận được sự ủng hộ từ vị này, thần nữ đi đến bốn Ðại thiên vương, cũng bị bốn vị ấy bác bỏ. Thần nữ đi đến Thiên chủ Ðế Thích thuật câu chuyện ấy và yêu cầu giúp đỡ khẩn thiết hơn:

– Thưa Thiên chủ, con không được chỗ ở, phải bồng con trên tay, con lang thang không nơi trú ẩn. Với uy lực của ngài, hãy cho con một chỗ ở!

Thiên chủ trả lời:

– Ngươi làm điều không thích đáng, đã đánh một đòn vào Giáo pháp của bậc Chiến Thắng. Ta không thể nói với vị triệu phú dùm cho ngươi. Nhưng ta sẽ nói với ngươi một phương pháp làm vị triệu phú tha thứ ngươi.

– Thưa Thiên chủ, lành thay, xin nói lên.

– Có nhiều người đã mượn của vị đại triệu phú một số tài sản trị giá một trăm tám mươi triệu đồng… Ngươi hãy giả dạng người đại diện cho vị triệu phú mà không cho ai biết, cầm giấy mắc nợ ấy, với một số Dạ-xoa trẻ vây quanh, một tay cầm giấy nợ, một tay cầm biên lai, đi đến nhà họ, đứng ở giữa nhà, dọa nạt họ với uy lực Dạ-xoa của mình, và nói: “Ðây là giấy nợ của các ngươi. Khi bậc triệu phú của chúng ta có uy lực, đã không đòi hỏi gì các ngươi. Nay ngài gặp cơn nghèo túng, hãy trả lại tiền các ngươi đã mượn”.

Với uy lực Dạ-xoa của ngươi, ngươi sẽ lấy lại được tất cả một trăm tám mươi triệu đồng vàng ấy, đổ đầy kho bạc trống không của vị triệu phú. Vị triệu phú còn có tài sản khác chôn giấu ở bờ sông Aciravati, khi bờ sông bị lở, tài sản ấy bị trôi vào biển. Với uy lực của ngươi, hãy đem số tài sản ấy về, để đầy kho bạc. Lại còn có một tài sản khác nữa, trị giá một trăm tám mươi triệu đồng nằm chôn không chủ tại một chỗ nào đó, hãy lấy đem về đổ đầy kho bạc trống. Với năm trăm bốn mươi triệu đồng ấy, ngươi đổ đầy các kho bạc trống không, lấy đó để đền tội, rồi đến xin vị đại triệu phú tha tội cho.

Thần nữ đáp:

– Tốt lành thay, thưa thiên chủ.

Thần nữ chấp nhận lời Thiên chủ, mang lại tất cả tài sản như đã được nói.

Nửa đêm, thần nữ đi vào phòng rực rỡ của vị triệu phú, chiếu sáng hào quang, đứng giữa hư không. Ðược hỏi là ai, nàng đáp:

– Thưa bậc đại triệu phú, tôi là thần nữ mù quáng ngu si ở tại cửa gác thứ tư. Do tôi quá ngu si, không biết công đức đức Phật, đã nói với ngài những lời lỗi lầm trong những ngày trước. Hãy tha thứ lỗi ấy của tôi! Theo lời Thiên chủ Ðế Thích, tôi đã đòi lại số tiền nợ một trăm tám mươi triệu đồng cho ngài, đã đem lại số tiền một trăm tám mươi triệu đồng bị trôi ra biển, và chôn giấu vô chủ tại một chỗ nọ. Như vậy tôi đã mang lại trăm năm bốn mươi triệu đồng đổ đầy các kho bạc trống rỗng của ngài để chuộc lại tội lỗi. Số tiền ngài đã tiêu dùng cho tinh xá Kỳ Viên, tất cả nay đã được thâu lại. Tôi vì không có trú xứ nên rất khổ sở. Chớ nghĩ đến những gì tôi đã làm do sự vô trí của tô. Hãy tha thứ cho tôi, thưa bậc đại triệu phú.

Ông Cấp Cô Ðộc nghe vậy, tự nghĩ: “Thần nữ này đang nói đã lập công chuộc tội và đã nhận tội của mình. Bậc Ðạo Sư sẽ suy xét việc này, và sẽ cho nó biết những công đức của mình. Ta sẽ đem thần nữ đến gặp bậc Chánh Ðẳng Giác”. Vị triệu phú nói:

– Này thần nữ, nếu người muốn xin lỗi ta, hãy xin lỗi ta trước mặt bậc Ðạo Sư.

– Lành thay, tôi sẽ làm như vậy. Hãy đưa tôi đến bậc Ðạo Sư.

Vị triệu phú bằng lòng. Khi đêm đã tàn, vào buổi sáng, vị triệu phú đem thần nữ đến bậc Ðạo Sư và báo cáo với đức Như Lai tất cả việc làm của thần nữ. Bậc Ðạo Sư nghe xong liền nói:

– Ở đây, này Gia chủ, kẻ làm ác, khi điều ác chưa chín muồi, kẻ ấy thấy là thiện. Khi điều ác của kẻ ấy chín muồi, chỉ khi ấy kẻ ấy mới thấy là ác. Kẻ làm thiện, khi điều thiện chưa chín muồi, kẻ ấy thấy là ác, khi điều thiện của kẻ ấy chín muồi, chỉ khi ấy kẻ ấy thấy là thiện.

Sau đó, bậc Ðạo Sư nói lên hai bài kệ này trong Pháp cú số 119 và 120

Người ác thấy là thiện
Khi ác chưa chín muồi,
Khi ác nghiệp chín muồi,
Người ác mới thấy ác.

Người hiền thấy là ác,
Khi thiện chưa chín muồi,
Khi thiện được chín muồi,
Người hiền thấy là thiện”.

Cuối bài kệ này, thần nữ chứng quả Dự lưu. Nàng đảnh lễ chân có tô điểm bánh xe của bậc Ðạo Sư và nói:

– Bạch Thế Tôn, vì bị nhiễm tham ái, bị sân kích động, bị si mờ ám, bị vô minh bao phủ, con không biết những công đức của Thế Tôn, đã nói những lời ác, xin tha thứ cho con.

Rồi nàng được bậc Ðạo Sư tha thứ, và được vị đại triệu phú tha thứ.

Lúc bấy giờ ông Cấp Cô Ðộc ở trước mặt bậc Ðạo Sư, nói lên công đức của mình:

– Bạch Thế Tôn, thần nữ này đã cố ngăn chận con: Chớ cúng dường đức Phật v.v…! Nhưng không có thể ngăn chận con được. Nàng đã cố ngăn chận con: Chớ bố thí! Nhưng con vẫn bố thí. Bạch Thế Tôn, đấy là công đức của con.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Gia chủ, ông là Thánh đệ tử đã chứng quả Dự lưu, có lòng tin bất động, có tri kiến thanh tịnh.

Thật không có gì kỳ diệu là ông đã không bị ngăn chận bởi thần nữ bất lực này. Nhưng có điều thật sự kỳ diệu là người Hiền trí thuở quá khứ, khi đức Phật chưa xuất hiện, khi trí tuệ chưa chín muồi, dầu ác ma, chủ cõi dục giới, đứng giữa hư không nói lớn: Nếu ngươi bố thí, ngươi sẽ bị thiêu sống trong địa ngục này, và chỉ rõ một hố đầy than hừng sâu đến tám mươi khuỷu tay, dầu bị ngăn: Chớ bố thí, người Hiền trí vẫn đứng giữa đoá sen bố thí như thường.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của ông Cấp Cô Ðộc, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một vị triệu phú ở Ba-la-nại, được nuôi dưỡng trong sự xa hoa như một hoàng tử. Khi đến tuổi trưởng thành, vừa mới mười sáu tuổi, Bồ-tát đã đạt đến điêu luyện trong tất cả kỹ thuật. Sau khi cha chết, được đặt lên địa vị triệu phú, Bồ-tát cho xây dựng sáu trường bố thí, bốn nhà tại cửa bốn thành, một nhà tại trung tâm thành, một nhà trước cửa trú xứ của mình, và tổ chức bố thí lớn, giữ giới, tuân giữ những ngày Bố-tát.

Một hôm, trong giờ điểm tâm, khi các món ăn hảo hạng được mang vào cho Bồ-tát, một vị Ðộc Giác Phật, sau bảy ngày thiền, vừa xuất định và nhận xét: “Ðã đến giờ đi khuất thực, nay ta phải đến nhà của vị triệu phú Ba-la-nại”. Sau khi chùi răng với que đánh răng bằng cọng trầu leo, rửa mặt tại hồ Anotatta, rồi đứng trên cao nguyên Manosila, vị Ðộc Giác Phật mang y dưới, cột dây lưng, đắp y ngoài lấy bình bát bằng đất do thần thông hóa hiện, đi ngang qua hư không và đứng trước cửa nhà, trong khi bữa điểm tâm được mang vào cho Bồ-tát. Bồ-tát thấy vị Ðộc Giác Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nhìn người đứng hầu, chỉ rõ cần dâng cúng món ăn. Người hầu nói:

– Thưa ông chủ, con phải làm gì?

Bồ-tát nói:

– Hãy đem bình bát vị ấy lại đây.

Ngay trong thời khắc ấy, Ác ma lồng lộn hiện lên, tự nghĩ: “Vị Ðộc Giác Phật này chỉ được đồ ăn từ bảy ngày trước, nếu hôm nay không được ăn, vị ấy sẽ chết. Ta sẽ làm vị ấy chết và làm vị triệu phú chấm dứt việc bố thí”.

Ngay lúc ấy, Ác ma đi đến, hóa hiện ở trong nhà một hố than lừng sâu tám mươi khuỷu tay (một khuỷu tay = 45 cm). Hồ ấy đầy những than rừng bằng cây keo cháy rực, cháy đỏ có ngọn, hiện ra như địa ngục. Sau khi tạo ra hố than hừng ấy, Ác ma tự mình đứng giữa hư không. Người hầu đi đến, định mang bình bát lại, thấy vậy, hoảng sợ quay lui. Bồ-tát hỏi:

– Này con thân, sao con trở lui?

Người ấy nói:

– Thưa ông chủ, trong nhà có một hố than hừng, cháy đỏ rực, cháy có ngọn.

Những người khác đi đến cũng hoảng sợ chạy trốn hết.

Bồ-tát suy nghĩ: “Hôm nay, Ác ma có uy lực, đang nỗ lực ngăn chận ta bố thí. Ta cần phải cho nó biết dù trăm Ma, ngàn Ma, trăm ngàn Ma cũng không làm cho ta dao động. Hôm nay chúng ta sẽ làm cho chúng thấy ai mạnh hơn ai, ai có uy lực hơn ai”.

Bồ-tát tự mình cầm lấy bát cơm đã sẵn sàng, đi ra khỏi nhà, đứng ngay trên bờ hồ than hừng, nhìn lên trời, thấy Ác ma, liền hỏi:

– Ngươi là ai?

– Ta là Ác ma.

– Có phải ngươi hóa hiện hố than hừng này?

– Phải, chính ta hóa hiện.

– Vì mục đích gì?

– Vì mục đích ngăn chận ngươi bố thí, vì mục đích giết mạng sống của vị Ðộc Giác Phật.

Bồ-tát nói:

– Ta sẽ không cho ngươi ngăn chận ta bố thí. Ta cũng không cho ngươi giết mạng sống của vị Ðộc Giác Phật. Hôm nay, ta sẽ làm cho ngươi biết giữa ta và ngươi, ai có sức mạnh lớn hơn.

Vẫn đứng trên bờ hố than hừng, Bồ-tát nói:

– Bạch Thế Tôn, Ðộc Giác Phật, dầu con có rơi đầu lộn ngược vào hố than hừng này, con vẫn không trở lui. Mong Thế Tôn chấp nhận món ăn do con cúng dường.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ này:

Ta thà rơi địa ngục,
Chân trên, đầu phía dưới,
Ta sẽ làm việc Thánh,
Hãy nhận lấy món ăn.

Rồi với quyết tâm vững chắc, Bồ-tát cầm bát cơm bước lên mặt hố than hừng! Khi Bồ-tát làm như vậy, từ mặt hố than hừng sâu đến tám mươi khuỷu tay, mọc lên một hoa sen tuyệt đẹp đỡ lấy chân Bồ-tát. Từ hoa sen ấy, nhụy sen khoảng chừng một đấu lớn phun lên, rơi trên đầu bậc Ðại Sĩ, phủ khắp toàn thân như rắc hột vàng. Bồ-tát đứng trên đóa hoa sen, đặt vào trong bát vị Ðộc Giác Phật những món ăn thượng vị khác nhau. Vị Ðộc Giác Phật nhận đồ ăn, nói lên lời tùy hỷ, rồi quăng bình bát lên trên hư không, và ngay trước mắt của đại chúng, tự mình bay lên hư không về phía Hy-mã-lạp Sơn, để lại một đường mây gồm nhiều hình thù kỳ diệu đặc biệt. Còn Ác ma bị thất bại và sầu muộn đi về trú xứ của mình. Bồ-tát vẫn đứng trên tòa sen, thuyết pháp cho đại chúng, tán thán bố thí, giới đức, và cùng với đại chúng vây quanh, bước vào trú xứ của mình. Bồ-tát trọn đời làm công đức, rồi khi mạng chung đi theo nghiệp của mình.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này gia chủ, việc này không có gì kỳ diệu khi một người đầy đủ tri kiến như ông không để cho thần nữ làm dao động. Thật sự kỳ diệu là những gì bậc Hiền trí đã làm trong thời quá khứ.

Thuyết pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vị Ðộc Giác Phật tại chỗ ấy nhập Niết-bàn, còn Ta chính là người triệu phú Ba-la-nại, sau khi đánh bại Ác-ma, đứng trên đóa sen, cúng dường thức ăn khất thực vào bát của vị Ðộc Giác Phật.

PHẨM LỢI ÁI

  1. CHUYỆN TRƯỞNG LÃO LOSAKA (Tiền thân Losaka)

Với người muốn mình lợi…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên bậc Ðạo Sư đã kể về Trưởng lão Losaka. Ai là Trưởng lão Losaka? Một người ở xứ Kosala, con của người đánh cá, một tai ương cho gia đình. Khi làm Tỷ-kheo, vị ấy không bao giờ nhận được gì cả.

Từ chỗ được sanh ở đời trước và khi mạng chung, vị ấy đã đầu thai vào bụng vợ một người đánh cá, trong một làng đánh cá gồm một ngàn gia đình ở Kosala. Trong ngày vị ấy đầu thai, ngàn gia đình ấy, với lưới cầm tay, đi đánh cá trên sông, trên hồ không bắt được một con cá nhỏ nào. Từ ngày đó trở đi, những người đánh cá gặp những điều tổn hại. Khi vị ấy còn ở trong thai, làng của họ bị lửa đốt cháy bảy lần và bị vua xử phạt bảy lần. Như vậy, dần dần họ rơi vào túng thiếu. Họ suy nghĩ: “Trước kia, chúng ta không như vậy. Nay chúng ta gặp nhiều tổn hại. Giữa chúng ta phải có một người có số đen. Chúng ta hãy chia thành hai nhóm mỗi nhóm năm trăm gia đình. Và nhóm nào có người có số đen, nhóm ấy bị tổn hai, nhóm kia được tăng thịnh.

Và cứ thế họ chia nhóm ấy làm hai, chia làm hai, chia làm hai nữa. Như vậy, họ chia cho đến khi chỉ còn lại một gia đình ấy, và khi tìm được kẻ số đen ở trong gia đình ấy, họ liền đánh đuổi đi. Người mẹ phải tìm sống một cách khó nhọc, với bụng mang thai; khi thai đến kỳ, bà sanh được đứa con trai. Ðứa bé ấy được sanh trong đời sống cuối cùng, do đó không thể bị giết hại. Như ngọn đèn trong chiếc ghè, điều kiện để thành A-la-hán cháy đỏ trong tim của nó.

Người mẹ nuôi dưỡng nó, tập nó chạy tới, chạy vòng, và khi nó đã đi được, bà đặt trong tay nó một bát đi xin, bảo nó đi vào một nhà kia, rồi bà bỏ trốn. Từ đó, đứa bé sống một mình, tìm đồ ăn tại chỗ này, nằm ngủ tại chỗ khác, không tắm, không săn sóc thân mình, tìm sống một cách cực khổ chẳng khác con quỷ ăn bùn. Nó dần dần lớn lên được bảy tuổi, lượm từng miếng cơm một mà ăn như con quạ, tại một cửa nhà nọ có đồ ăn còn lại từ các nồi cơm đưọc rửa.

Một hôm, Tướng quân Chánh pháp Xá-lợi-phất đang đi khất thực ở Xá-vệ, thấy đứa bé, suy nghĩ không biết đứa bé đáng thương này ở làng nào, khởi lòng từ bi đối với nó và gọi:

– Hãy đến đây!

Ðứa bé đến đảnh lễ Trưởng lão và đứng lại. Trưởng lão hỏi:

– Con sống ở làng nào? Cha mẹ ở đâu?

– Thưa Tôn giả, con sống không nơi nương tựa. Cha mẹ vì con, sống quá mệt mỏi nên bỏ rơi con mà trốn đi!

– Con có muốn xuất gia không?

– Thưa Tôn giả, con muốn xuất gia. Nhưng ai sẽ truyền giới xuất gia cho kẻ khốn nạn như con?

– Ta sẽ truyền giới xuất gia cho con.

– Lành thay, Tôn giả hãy truyền giới xuất gia cho con.

Trưởng lão cho nó ăn các món ăn loại cứng và loại mềm, dắt nó đến tinh xá, tự tay tắm rửa nó, truyền giới xuất gia cho nó làm Sa-di, và khi tuổi đầy đủ, liền trao Ðại giới cho nó. Khi nó trưởng thành, nó được gọi là Trưởng lão Losakatissa.

Trưởng lão Losakatissa ít được phước đức, nên ít nhận được đồ cúng dường. Truyền thuyết nói, dầu có lễ bố thí to lớn không gì sánh được, bụng Trưởng lão cũng không no, mà chỉ được ăn vừa đủ để nuôi mạng sống. Một muỗng cháo đổ vào bát của Trưởng lão hình như làm tràn đầy nên đem cháo cho người sau. Khi cháo được đổ vào bình bát Trưởng lão, người ta nói cháo trong đĩa của người cúng như biến mất. Các đồ ăn cứng khác cũng như vậy.

Trưởng lão sau một thời gian, thiền quán được tăng trưởng, chứng quả A-la-hán tối thượng, nhưng vẫn được đồ cúng dường ít oi. Thọ hành trưởng lão dần dần giảm thiểu, và ngày nhập Niết-bàn đã đến. Tướng quân Chánh pháp hướng tâm đến, biết ngày trưởng lão đắc Niết-bàn vô dư y, tự nghĩ: “Trưởng lão Losakatissa hôm nay sẽ nhập Niết-bàn. Ta sẽ khuyên người ta cúng dường Trưởng lão đồ ăn như ý muốn”. Tôn giả Xá-lợi-phất đưa Trưởng lão vào thành Xá-vệ khất thực. Tôn giả Xá-lợi-phất và Losakatissa, dầu đưa tay cho nhiều người ở Xá-vệ, cũng không nhận được ngay cả một tô cháo, Tôn giả Xá-lợi-phất bảo Losakatissa về trước, ngồi tại phòng họp, rồi giữ đồ ăn nhận được đem về cho Losakatissa. Những ai được Xá-lợi-phất giao đồ ăn đem về, đều quên trao cho Losakatissa và tự mình ăn đồ ăn ấy.

Khi Trưởng lão Xá-lợi-phất đứng dậy và đi về tinh xá, Losakatissa đi đến đảnh lễ, Trưởng lão dừng bước, quay lại hỏi:

– Này Hiền giả, Hiền giả có được đồ ăn không?

– Thưa Tôn giả, chúng con sẽ nhận được đúng thời.

Trưởng lão Xá-lợi-phất hoảng hốt nhìn giờ. Thời giờ đã quá rồi. Trưởng lão nói:

– Này Hiền giả, hãy ngồi ở đây.

Trưởng lão bảo Losakatissa ngồi xuống trong phòng họp, rồi đi đến trú xứ Kosala. Nhà vua cho người lấy bát Trưởng lão, bỏ đầy bát với bốn loại bánh ngọt và nói:

– Ðây là đồ ăn phi thời.

Trưởng lão cầm bát, đi về và nói:

– Này Hiền giả Tissa, hãy ăn bốn loại bánh ngọt này.

Nói xong, Tôn giả cầm bát và đứng chờ. Nhưng Losakatissa hổ thẹn vì lòng kính trọng đối với Tôn giả Xá-lợi-phất nên không dám ăn. Trưởng lão Xá-lợi-phất nói với Losakatissa:

– Này Hiền giả, hãy đến. Ta đứng cầm bình bát này, còn Hiền giả ngồi và ăn. Nếu tay ta rời bình bát này, thì không còn vật gì nữa.

Rồi trong khi bậc Tối thượng Tướng quân Chánh pháp đứng cầm bát, Tôn giả Losakatissa ăn bốn loại bánh ngọt. Do thần thông lực thuộc bậc Thánh của Tôn giả Xá-lợi-phất, bánh ấy không biến mất. Khi ấy, Trưởng lão Losakatissa được ăn như ý muốn, đầy đủ, no bụng. Ngày hôm ấy, Trưởng lão Losakatissa đắc Niết-bàn không có dư y. Bậc Chánh Ðẳng Giác đứng một bên và chứng kiến thân vị ấy được hoả táng. Các Xá-lợi được thâu thập và điện tháp được dựng lên trên.

Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo đang ngồi họp tại Pháp đường nói:

– Này các Hiền giả, Losakatissa ít phước đức, ít nhận đồ cúng dường. Do ít phước đức, ít được cúng dường như vậy, làm sao lại được Thánh pháp?

Bậc Ðạo Sư đến pháp đường hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông nay ngồi họp tại đây, đang bàn câu chuyện gì?

Chúng Tỷ-kheo báo cáo câu chuyện ấy lên Thế Tôn. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy do nghiệp mình làm, nên không được cúng dường và đồng thời chứng được Thánh pháp. Vị ấy thuở trước do làm chướng ngại người khác cúng dường nên ít được cúng dường; nhưng do chú tâm thiền quán vô thường, vô ngã nên được Thánh quả, chứng được các thắng pháp.

Nói vậy xong bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở ấy, trong thời bậc Chánh Ðẳng Giác Ca-diếp, có một Tỷ-kheo sống ở một ngôi làng nhỏ, được một vị điền chủ hộ trì. Tỷ-kheo ấy tính tình bộc trực, hồn nhiên, giữ giới, chuyên tu tập thiền quán. Lại cũng có một trưởng lão A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc, sống bình đẳng với các bậc đồng Phạm hạnh. Vị này trước kia chưa bao giờ đến ngôi làng có người điền chủ đã ủng hộ Tỷ-kheo ấy, nay mới đến lần đầu. Người điền chủ hoan hỷ với cử chỉ của Trưởng lão, cầm lấy bình bát, mời vào nhà, cung kính mời ăn. Rồi vị ấy nghe thuyết bài pháp ngắn, đảnh lễ Trưởng lão và thưa:

– Thưa Tôn giả, hãy đi đến ngôi tinh xá gần đây của chúng tôi. Chúng tôi vào buổi chiều sẽ đến yết kiến ngài.

Trưởng lão đi đến ngôi tinh xá, đảnh lễ Trưởng lão trụ trì và sau khi xin phép, ngồi xuống một bên. Vị trụ trì thân mật hỏi thăm Trưởng lão:

– Thưa Hiền giả, Hiền giả được đồ ăn chưa?

– Thưa được rồi.

– Ðược tại đâu?

– Tại nhà điền chủ trong làng của Tôn giả gần đây.

Sau khi nói vậy, trưởng lão hỏi chỗ sàng tọa của mình, sửa soạn cất đặt y bát, rồi ngồi xuống thọ hưởng lạc về thiên, lạc về quả. Vào buổi chiều, người điền chủ ấy đem theo hương, vòng hoa, đèn và dầu đi đến tinh xá, đảnh lễ vị trụ trì và hỏi:

– Thưa Tôn giả, vị trưởng lão khách đã đến chưa?

Sau khi được biết vị ấy đã đến rồi, người điền chủ đi đến vị trưởng lão khách, đảnh lễ, ngồi xuống một bên, và nghe thuyết pháp. Vào buổi chiều mát, người điền chủ đảnh lễ điện Phật, cây Bồ-đề, thắp đèn, mời hai vị đến nhà rồi ra đi.

Trưởng lão trụ trì suy nghĩ: “Ðiền chủ này đã bị phân tâm. Nếu Tỷ-kheo này trú ở đây, điền chủ ấy không còn đếm xỉa đến ta một chút nào nữa”.

Trưởng lão trụ trì, với tâm tư không được vui, suy nghĩ: “Ta phải làm thế nào để vị ấy không ở được trong tinh xá này”. Ðến giờ hầu thăm, khi Trưởng lão khách đến, Trưởng lão trụ trì không nói gì. Vị Trưởng lão khách đoạn tận các lậu hoặc, biết được ý định của trưởng lão trụ trì, tự nghĩ: “Trưởng lão này không biết ta không bao giờ gây trở ngại cho gia đình, cúng dường vị ấy hay đồ chúng vị ấy”, liền đi về trú xứ của mình, hưởng thọ lạc về Thiền và lạc về quả.

Trưởng lão trụ trì, ngày hôm sau, đánh nhẹ cái chuông phòng vị khách trọ, rồi lấy móng tay gõ nhẹ vào cửa và đi đến nhà người điền chủ. Người điền chủ cầm lấy bát vị ấy, mời ngồi trên chỗ đã soạn sẵn và hỏi:

– Trưởng lão khách ở đâu?

– Tôi không biết tin tức của bạn ngài. Tôi đã đánh chuông gõ cửa, nhưng không thể đánh thức vị ấy dậy. Tôi chắc là bữa qua, sau khi ăn thượng vị ở nhà của ngài, vị ấy có thể tiêu hoá được, do vậy, nay đang còn ngủ. Rất có thể, ngài hoan hỷ với những sự kiện như vậy.

Trong khi ấy, vị Trưởng lão đã đoạn tận các lậu hoặc nghĩ rằng thời gian đi khất thực của mình đã đến, liền sửa soạn thân mình tử tế, cầm y bát, bay lên hư không và đi đến một chỗ khác.

Còn người điền chủ ấy cúng dường vị Trưởng lão trụ trì cơm và sữa với bơ tươi, mật ong và đường. Rồi ông bảo chùi bát với bột thơm, đổ thức ăn đầy bát lần nữa và thưa:

– Thưa Tôn giả, trưởng lão ấy đi đường mệt, hãy đem đồ ăn này về cho vị ấy.

Rồi đưa bát cho Trưởng lão trụ trì. Vị này không thể từ chối, cầm bát đi và suy nghĩ: “Nếu Tỷ-kheo ấy uống cơm sữa này, có ai nắm cổ đuổi đi, vị ấy cũng không đi. Nhưng nếu ta cho người khác cơm sữa này, việc ta làm sẽ bị bại lộ. Nếu ta đổ xuống nước, bơ tươi sẽ nổi lên trên mặt nước và bị lộ. Nếu ta quăng trên đất, loài qụa sẽ tụ họp lại và sẽ bị thấy. Nay ta quăng món ăn này ở đâu?”

Ðang phân vân suy tính như vậy, vị ấy thấy một đám ruộng vừa bị đốt. Tỷ-kheo ấy bới các than đỏ lên, quăng đồ ăn tại đấy, lấy than đỏ che đậy lên trên, rồi đi về tinh xá. Không thấy Tỷ-kheo khách ở đâu, Tỷ-kheo trụ trì suy nghĩ: “Chắc Tỷ-kheo ấy đã đoạn tận các lậu hoặc, biết được ý định của ta, và đã đi chỗ khác. Ôi, ta vì nhân duyên cái bụng, đã làm một việc không thích đáng”. Do vậy, sầu ưu khởi lên, và từ đấy, vị Tỷ-kheo trụ trì như một con ma trên đất, không bao lâu mệnh chung, tái sinh vào địa ngục.

Trong hàng trăm ngàn năm, nó bị nấu ở địa ngục. Do ác nghiệp chín muồi, nó bị sanh năm trăm năm liên tục làm quỷ Dạ-xoa, không được ăn đầy bụng, dầu chỉ một ngày. Chỉ trừ một ngày, nó được ăn no bụng với đồ uế nhiễm của bào thai. Rồi trong năm trăm đời, nó sanh làm chó. Khi ấy, chỉ có một ngày nó được ăn no bụng với cơm được nôn ra. Trong thời gian còn lại, nó không bao giờ được đồ ăn đầy bụng.

Từ thai tạng chó mạng chung, nó sanh trong một gia đình nghèo đói, trong một làng ở Kàsi. Từ khi nó sanh ra, gia đình trở thành nghèo đói cùng cực. Nó không bao giờ được một nửa tô nước cháo chua vào bụng. Nó được đặt tên là Mittavindaka. Cha mẹ nó không thể chịu khổ vì đói, đánh đuổi nó đi.

– Hãy đi, con số đen bất hạnh kia.

Không nơi nương tựa, nó đi lang thang và đến tại Ba-la-nại.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát được sanh làm vị giáo sư có tiếng khắp bốn phương và đang dạy nghề cho năm trăm thanh niên Bà-la-môn. Lúc ấy, dân ở ba-la-nại thường cho tiền những người nghèo đói và cho họ học nghề. Mittavindaka học nghề không tiền với Bồ-tát. Nhưng tánh nó độc ác khó dạy, hay đánh lộn và hay đi lang thang. Ðược Bồ-tát khuyên dạy, nó vẫn không nghe theo. Vì có nó, tiền dạy của Bồ-tát trở thành ít ỏi. Nó gây lộn với thanh niên khác, không nghe lời khuyên, cuối cùng trốn đi lang thang đây đó, đến một làng biên địa và làm thuê sinh sống.

Tại đấy, nó lấy một người đàn bà nghèo khổ và sinh được hai đứa con. Người trong làng thuê nó dạy cho họ biết thế nào là thiện, thế nào là ác, và cho nó một cái chòi để sống tại cửa làng. Do Mittavindaka đến đây sống, dân chúng ở làng biên địa ấy bị vua xử phạt bảy lần, nhà của họ bị cháy bảy lần, và hồ chưùa nước bị cạn bảy lần. Họ suy nghĩ: “Trước khi Mittavindaka đến đây, chúng ta không có như vậy. Từ khi nó đến, chúng ta bị tổn hại”. Vì thế họ đánh đuổi nó đi.

Nó đem vợ con ra đi, đến một chỗ khác, vào một khu rừng do phi nhân ngự trị. Tại đấy, các phi nhân giết ăn thịt vợ con nó. Nó chạy trốn khỏi chỗ ấy, đi lang thang chỗ này chỗ kia, đến một bến tàu tên là Gambhira, đúng vào ngày một chiếc tàu mới được hạ thủy, nó trở thành người làm thuê trên tàu.

Khi chiếc tàu đi trên mặt biển được bảy ngày, đến ngày thứ bảy, tàu đứng lại như bị mắc cạn. Họ rút thăm ai là con số đn bất hạnh. Bảy lần thẻ rơi vào Mittavindaka. Họ cho nó một cái bè tre, bắt tay nó quăng xuống biển, rồi tàu lại ra đi. Mittavindaka leo lên bè tre, và trôi trên mặt biển.

Do quả nó đã giữ giới trong thời đức Phật Ca-diếp Chánh Ðẳng Giác, trên mặt biển, nó gặp bốn tiên nữ trong một lâu đài bằng pha lê. Với chúng, nó sống trong bảy ngày hưởng hạnh phúc. Bấy giờ, các loài quỷ ở lâu đài ấy hưởng hạnh phúc trong bảy ngày. Sau bảy ngày, chúng phải ra đi để chịu đau khổ. Lúc ra đi, chúng bảo nó đợi ở đây cho đến khi chúng trở về.

Chúng đi rồi, Mittavindaka lại leo lên bè tre, đi chỗ khác, và gặp được tám tiên nữ ở trong lâu đài bằng ngọc. Từ đấy, nó đi nữa, và gặp được ba mươi hai tiên nữ ở trong mười sáu lâu đài bằng vàng. Không nói gì với chúng, nó lại bỏ đi, và thấy một thành Dạ-xoa ở giữa hòn đảo.

Tại đấy, có một nữ Dạ-xoa sống dưới hình dạng con dê. Mittavindaka không biết nó là nữ Dạ-xoa, nắm lấy chân con dê để ăn thịt. Con Dạ-xoa nữ ấy, với uy lực của mình, nhấc bổng nó lên và quăng nó ra xa. Nó bị quăng ngang qua biển, rơi xuống một bụi gai, tại một cái hào khô nước, lăn tròn rồi đứng dậy.

Lúc bấy giờ, tại cái hào ấy, bọn trộm thường đến giết dê của vua. Các người chăn dê đứng núp rình bắt ăn trộm. Mittavindaka, sau khi lăn tròn, đứng dậy trên đất, thấy các con dê liền nghĩ: “Ta đã bắt chân con dê trên hòn đảo ở biển, và bị nó quăng rơi tại đây. Nếu nay ta lại bắt tay chân một con dê, thì nó sẽ quăng ta đến chỗ các tiên nữ ở trong lâu đài trên mặt biển, tại bờ bên kia.” Khi tác ý bất chánh như vậy, nó liền nắm chân một con dê, lập tức con dê bị nắm kêu lên. Các người chăn dê từ nhiều chỗ núp chạy đến, bắt nó và nói:

– Ðây là đứa ăn trộm đã bắt các con dê của nhà vua từ trước đến nay.

Chúng đánh nó, trói nó và dẫn nó đến trước mặt vua. Lúc bấy giờ, Bồ-tát với năm trăm thanh niên Bà-la-môn vây quanh, ra khỏi thành để đi tắm. Thấy Mittavindaka, nhận được nó, Bồ-tát nói với các người ấy:

– Này các bạn thân, đây là đệ tử của tôi. Sao lại bắt nó?

Các người ấy nói:

– Thưa Tôn giả, đây là đứa ăn trộm dê, nó bắt chân một con dê, nên chúng tôi bắt nó.

– Hãy giao nó cho chúng tôi để làm nô lệ. Nó sẽ dựa vào chúng tôi để sống.

– Thưa vâng, Tôn giả.

Rồi họ thả nó và ra đi. Bồ-tát hỏi nó:

– Này Mittavindaka, từ trước cho đến nay ngươi sống ở đâu?

Nó kể lại tất cả công việc nó làm. Bồ-tát nói:

– Vì không nghe lời những người muốn nó hạnh phúc, nên nó phải chịu mọi sự bất hạnh như vậy.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ này:

Với người muốn mình tốt,
Với người thương tưởng mình,
Cứng đầu không theo lời,
Sẽ gặp điều sầu muộn.
Chẳng khác Mitaka
Nắm chặt chân con dê.

Lúc bấy giờ, khi cả vị giáo sư và Mittavindaka mạng chung, họ đi theo nghiệp của mình.

*

Bậc Ðạo sư nói:

– Này các Tỷ-kheo chính Losaka này đã tự làm cho mình được ít đồ cúng dường và đồng thời được Thánh Pháp.

Sau khi nói pháp thoại này xong, bậc Ðạo sư kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân như sau:

– Lúc bấy giờ, Mittavindaka là Trưởng lão Losakatissa, vị giáo sư được danh bốn phương là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CHIM BỒ CÂU (Tiền thân Kopata)

Với người muốn mình lợi…,

Câu chuyện này khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo sư đã kể về một Tỷ-kheo có lòng tham. lòng tham của vị này sẽ được kể trong chương sáu, Tiền thân Kaka (số 395). Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo báo cho bậc Ðạo Sư biết:

– Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này có lòng tham.

Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Tỷ-kheo, có thật như vậy chăng?

– Bạch Thế Tôn, có thật.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Thuở trước, này Tỷ-kheo, ông cũng có lòng tham. Vì lòng tham, ông đã mất mạng, và các vị Hiền trí cũng vì ông đã mất trú xứ của họ.

Nói xong, bậc đạo sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta (Phạm Thọ) trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con chim bồ câu. Lúc bấy giờ, dân chúng ở Ba-la-nại ưa thích làm công đức, thường treo những ổ rơm chỗ này chỗ kia để các chú chim có nơi ẩn náu thuận tiện an ổn. Người đầu bếp của vị triệu phú Ba-la-nại cũng treo một ổ rơm tại nhà bếp. Bồ-tát sống tại đấy, buổi sáng bay đi tìm mồi ăn và chiều lại về.

Một hôm, một con quạ bay ngang qua mái nhà bếp, ngửi mùi thơm của cá muối, cá tươi, thịt chua, thịt tươi, tại chỗ ấy, nó khởi lòng tham, tự nghĩ: “Ta phải tìm cách ăn cho được cá thịt này”. Nghĩ vậy nó đậu cách đó không xa, dò xét xung quanh, nó thấy buổi chiều Bồ-tát bay về và đi vào bếp, nghĩ rằng nhờ con chim bồ câu này nó sẽ được ăn cá và thịt.

Ngày hôm sau, vào buổi sáng, nó bay lên. Khi Bồ-tát bay ra đi kiếm đồ ăn, nó bay sát theo sau khắp nơi như cái bóng. Bồ-tát nói với nó:

– Này bạn, vì sao bạn đi theo tôi?

– Thưa ngài, cử chỉ của ngài khiến tôi ưa thích. Bắt đầu từ nay, tôi xin hầu hạ ngài.

– Này bạn, món ăn của bạn khác, món ăn của tôi khác. Bạn hầu hạ tôi cũng gặp khó khăn.

– Thưa ngài, khi ngài tìm đồ ăn, tôi cũng tìm đồ ăn và tôi sẽ theo ngài.

– Thôi được, nhưng bạn phải hết sức siêng năng.

Như vậy, Bồ-tát khuyên con quạ đi tìm đồ ăn, các loại hột cỏ, hột giống. Trong khi Bồ-tát đi tìm đồ ăn, con quạ cũng đi, lật lên các miếng phấn, ăn các loại trùng, nhét cho đầy bụng, rồi đi đến Bồ-tát và nói:

– Thưa ngài, ngài dùng quá nhiều thì giờ cho việc tìm đồ ăn thật không tốt.

Khi Bồ-tát tìm đồ ăn xong, buổi chiều bay về, con quạ cũng bay theo vào nhà bếp. Người nấu bếp nói:

– Con bồ câu của chúng ta có đem một con chim khác về.

Anh ta liền treo một tổ rơm nữa cho con quạ. Từ đấy hai con chim câu và quạ sống với nhau. Một hôm, người ta đem đến nhiều cá và thịt cho người triệu phú. Người đầu bếp lấy cá và thịt ấy đem treo chỗ này chỗ kia trong bếp. Con quạ thấy vậy, lòng tham khởi lên: “Ta sẽ không đi tìm đồ ăn ngày mai; ta phải ăn món này!” Đêm đến, nó nằm ngủ, vừa ngủ, vừa rên. Ngày hôm sau, Bồ-tát đi tìm mồi nói:

– Hãy đi, này bạn quạ!

– Thưa ngài, ngài hãy đi một mình. Tôi bị đau bụng!

– Này bạn, từ trước đến nay, chưa bao giờ loài quạ đau bụng. Ban đêm, trong ba canh, bốn canh, cứ mỗi canh loài quạ có bất tỉnh, nhưng khi chúng nuốt tim đèn, chúng được thỏa mãn ngay lúc ấy. Có thể bạn muốn ăn thịt và cá. Hãy đi nào, món ăn của người không thích hợp với các bạn đâu. Chớ làm như vậy, hãy đi kiếm ăn với ta.

– Thưa ngài, tôi không thể đi.

– Hành động của bạn sẽ lộ rõ, chớ để lòng tham chi phối, chớ phóng dật.

Khuyên nó xong, Bồ-tát đi kiếm ăn. Người đầu bếp cố gắng làm nhiều món thịt cá khác nhau. Lúc giở các nắp chảo để hơi nóng thoát ra, người đầu bếp đặt trên mặt chảo một cái rá lọc rồi đi ra ngoài, đứng lau mồ hôi.

Trong khi ấy, con quạ từ ổ rơm ló đầu ra, nhìn nhà bếp, biết người đầu bếp đã ra đi, tự nghĩ: “Nay ta sẽ được thỏa mãn tham vọng, sẽ được ăn thịt. Nhưng ta nên ăn miếng thịt lớn hay miếng thịt nhỏ? Với miếng thịt nhỏ, khó có thể đầy bụng mau được. Vậy ta hãy mau chóng mang miếng thịt lớn, bỏ vào ổ rơm rồi nằm ăn!.

Quạ bay ra khỏi ổ, đậu trên cái rá lọc. Rá lọc ấy phát ra tiếng động “kil li”. Người đầu bếp nghe tiếng động, không biết cái gì, đi vào, thấy con quạ, liền nói:

– Ðây là con quạ ranh con! Mày muốn ăn thịt nấu cho vị triệu phú của ta. Ta sống làm việc vì người chủ triệu phú, chớ không vì đồ ngu như mày. Ðồ như mày có gì liên hệ với ta?

Kẻ ấy đóng cửa, bắt con quạ, nhổ sạch lông, đem củ gừng giã nhỏ với muối và cây thì là trộn với nước sữa chua, thoa lên toàn thân con quạ, rồi ném con quạ vào ổ rơm. Con quạ chịu đau khổ nằm rên. Bồ-tát, buổi chiều về, thấy quạ gặp nạn như vậy liền nói:

– Ôi con quạ tham lam, vì không làm theo lời ta, vì lòng tham của ngươi, ngươi bị đau đớn lớn.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ này:

Với người muốn mình lợi,
Với người thương tưởng mình
Có những lời khuyên bảo,
Nhưng không làm theo lời,
Như con quạ tham lam
Không làm theo lời khuyên
Của con chim bồ câu,
Nó bị ngã rơi vào
Như rơi vào tay địch.

Bồ-tát nói xong, tự nghĩ: “Nay ta không thể ở nơi này nữa”, bèn đi một chỗ khác. Còn con quạ mạng chung ngay lúc ấy. Người đầu bếp nhặt nó từ ổ rơm và quăng nó vào đống rác.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo không phải nay ông mới tham, trước kia ông cũng đã tham, do lòng tham của ông, các bậc Hiền trí đã mất trú xứ của họ.

Sau khi thuyết pháp thoại, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các sự thật. Cuối bài giảng, Tỷ-kheo ấy chứng được quả Nhất lai. Bậc Ðạo sư kết hợp hai câu chuyện với nhau, và nhận diện Tiền thân như sau:

– Lúc ấy, con quạ là Tỷ-kheo tham lam, còn con bồ câu là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON RẮN TRE (Tiền thân Veluka)

Với người muốn mình lợi…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo khó bảo. Thế Tôn hỏi:

– Này Tỷ-kheo, có thật chăng ông là người khó bảo.

– Bạch Thế Tôn, đúng vậy

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, không phải chỉ nay ông mới khó bảo. Thuở trước, ông cũng đã khó bảo rồi. Vì tánh ông khó bảo, không nghe lời các bậc Hiền trí, ông mạng chung vì miệng con rắn.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình giàu có ở nước Kàsi. Khi lớn lên, thấy nguy hiểm của dục vọng, thấy lợi ích khi xa lìa nó, Bồ-tát từ bỏ các dục, đi vào Tuyết Sơn, xuất gia làm vị ẩn sĩ, chuẩn bị tốt đẹp đề tài thiền quán, đạt được năm Thắng trí, và tám Thiền chứng, sống hưởng thọ thiền lạc. Sau một thời gian, Bồ-tát có một hội chúng lớn, với năm trăm ẩn sĩ khổ hạnh vây quanh. Ngài sống làm bậc Ðạo sư của hội chúng.

Bấy giờ một con rắn độc con, theo bản tánh của mình, đi đến am thất của một vị tu khổ hạnh. Vị tư khổ hạnh khởi lòng thương con rắn như con mình, cho nó nằm trong một ống tre, và nuôi dưỡng nó. Vì nằm ở trong ống tre, nên nó được gọi là Veluka (Rắn tre). Vì vị tu khổ hạnh nuôi dưỡng con rắn với tình thương như con mình, nên vị ấy được gọi là “Cha của Veluka”.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát nghe có vị tu khổ hạnh nuôi dưỡng con rắn độc, bèn cho gọi vị ấy lên và hỏi:

– Có thật chăng ông đã nuôi dưỡng con rắn độc?

Khi được biết là có thật, Bồ-tát nói:

– Chớ tin con rắn độc. Chớ nuôi dưỡng nó như vậy.

Vị tu khổ hạnh nói:

– Con rắn ấy đối với tôi như đệ tử đối với thầy. Không có nó, tôi không thể sống được.

– Vậy ông sẽ bị mệnh chung vì sống gần con rắn độc này.

Vị tu khổ hạnh không nghe lời Bồ-tát, không chịu từ bỏ con rắn độc. Nhiều ngày sau, tất cả vị tu khổ hạnh đi hái quả, đến một chỗ được nhiều trái cây và ở tại đấy hai ba ngày. Trước đó, Cha của rắn tre cũng đi với họ, đã đặt con rắn độc nằm trong ống tre, đóng cửa lại rồi ra đi. Sau hai ba ngày, vị ấy cùng về với các vị tu khổ hạnh, định đến cho Veluka ăn, vị ấy mở ống tre, vừa đưa tay vừa nói:

– Này con, hãy đến đây. Chắc con đói lắm.

Con rắn độc nổi giận vì hai ba ngày không có đồ ăn, liền mổ vào tay vị tu khổ hạnh, khiến vị này chết ngay tại chỗ, rồi rắn bỏ vào rừng. Các vị tu khổ hạnh thấy vậy thưa với Bồ-tát. Ngài bảo hỏa táng người chết. Rồi ngồi giữa chúng ẩn sĩ, ngài nói lên bài kệ này:

Với người muốn mình lợi,
Với người thương tưởng mình,
Nếu cứng đầu không nghe
Không theo lời khuyên dạy,
Sẽ bị hại đến chết,
Như Cha Ve-lu-ka.

Như vậy, Bồ-tát khuyến cáo chúng ẩn sĩ. Rồi ngài tu tập từ, bi, hỷ, xả, và khi mạng chung, ngài sanh lên cõi trời Phạm thiên.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, không phải chỉ nay ông mới khó bảo. Trước kia do khó bảo, ông đi đến hoại diệt vì miệng con rắn độc.

Sau khi thuyết pháp thoại, bậc Ðạo Sư kết hợp hai mẩu chuyện, và nhận diện Tiền thân như sau:

– Khi ấy, Cha của Veluka là Tỷ-kheo khó bảo, hội chúng còn lại là hội chúng đức Phật, và bậc Ðạo Sư có hội chúng là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON MUỖI (Tiền thân Makasa)

Tốt hơn là kẻ thù…,

Câu chuyện này, khi bộ hành ở xứ Ma-kiệt-đà, bậc Ðạo Sư đã kể về những người ngu si trong một ngôi làng. Theo truyền thuyết, một thời đức Như Lai từ Xá-vệ đi đến xứ Ma-kiệt-đà. Tại đấy, Ngài đi bộ đến một ngôi làng. Người trong làng ấy phần lớn là những người ngu. Một hôm, các người ngu hội họp lại và nói:

– Này các bạn, khi chúng ta vào rừng làm việc, các con muỗi cắn chúng ta, do duyên cớ ấy, việc làm của chúng ta bị trở ngại. Tất cả chúng ta hãy đi, cầm theo cung và các vũ khí, gây chiến với các con muỗi, bắn giết tất cả chúng nó.

Nghĩ vậy, họ đi vào rừng với ý định bắn các con muỗi, nhưng họ bắn lẫn nhau, đánh lẫn nhau, làm đau khổ lẫn nhau, rồi đi về, nằm xuống ở cổng làng, giữa làng và cuối làng.

Bậc Ðạo Sư, được chúng Tỷ-kheo vây quanh, đi vào làng ấy khất thực. Các bậc Hiền trí trong làng thấy Thế Tôn, liền dựng một cái rạp tại cổng làng, tổ chức cúng dường trai phạn cho chúng Tỷ-kheo, đứng đầu là đức Phật. Họ đảnh lễ bậc Ðạo Sư rồi ngồi xuống. Bậc Ðạo Sư thấy chỗ này chỗ kia có những người bị thương, liền hỏi các nam cư sĩ:

– Sao có nhiều người bị bệnh thế? Họ đã làm gì vậy?

– Bạch Thế Tôn, những người này đi đánh các con muỗi, nhưng lại bắn lẫn nhau, nên bị bệnh tình như vậy.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Không phải chỉ nay các người ngu si đi đánh các con muỗi, rồi trở lại đánh mình. Trước kia, cũng có những người đi đánh các con muỗi, rồi trở lại đánh những người khác.

Sau đó, theo lời yêu cầu của những nam cư sĩ ấy, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sống làm nghề đi buôn. Lúc bấy giờ, trong một làng biên địa ở nước Kàsi, nhiều người thợ mộc sống tại đây. Có một thợ mộc đầu sói đang đẽo một thân cây. Một con muỗi đậu trên đầu của kẻ ấy, cái đầu sáng chói như một cái bát đồng. Với cái miệng như mũi tên, muỗi đốt vào đầu như kiếm đâm. Kẻ ấy gọi đứa con đang ngồi gần và nói:

– Này con thân, con muỗi đốt vào đầu ta như bị kiếm đâm. Hãy đuổi nó đi.

– Thưa cha thân, hãy ngồi im. Với một cái đánh, con sẽ giết nó.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát đi tìm hàng hoá cho mình, đến tại làng ấy, đang ngồi tại cửa quán người thợ mộc. Người thợ mộc ấy nói với đứa con:

– Này con, hãy đuổi con muỗi này.

Ðứa con nói:

– Này cha thân, con sẽ đuổi.

Nó giơ cao một cái búa lớn sắc bén, đứng một bên lưng người cha nói:

– Con sẽ đánh muỗi!

Nó lại chém vỡ đôi đầu người cha. Người thợ mộc chết ngay tại chỗ. Bồ-tát thấy sự việc đã xảy ra cho người thợ mộc, suy nghĩ: “Một kẻ thù có trí còn tốt hơn, vì nó sợ hình phạt, sẽ không giết người”.

Rồi ngài nói lên bài kệ này:

Tốt hơn là kẻ thù,

Nhưng có trí sáng suốt,

Còn hơn là người bạn
Thiếu trí tuệ thông minh.
Ðứa con ngu và điếc,
Ðịnh giết chết con muỗi,
Lại chém đầu người cha
Vỡ ra thành hai mảnh.

Nói vậy xong, Bồ-tát đứng dậy ra đi, rồi về sau mạng chung theo nghiệp của mình. Còn bà con của người thợ mộc lo việc thiêu xác của người thợ mộc.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các nam cư sĩ, trong thời quá khứ, cũng có những người muốn đánh con muỗi lại đánh ngã các người khác.

Sau khi kể pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân như sau:

– Lúc ấy, người đi buôn hiền trí nói xong bài kệ rồi đi chính là Ta vậy.

  1. CHUYỆN NỮ TỲ ROHINI (Tiền thân Rohini)

Tốt hơn là kẻ thù…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về người nữ tỳ của vị triệu phú Cấp Cô Ðộc. Theo truyền thuyết, ông Cấp Cô Ðộc có một người nữ tỳ tên là Rohinì. Người mẹ già của nó đi đến nhà giã gạo và nằm xuống. Những con ruồi bu quanh cắn bà như đâm với mũi kim. Bà kêu đứa con gái:

– Này con thân, các con ruồi cắn ta. Hãy đuổi chúng đi.

Ðứa con gái nói:

– Thưa mẹ, con sẽ đuổi.

Nó giơ cái chày lên, với ý định giết các con ruồi trên thân bà mẹ, nó nói:

– Con sẽ giết chúng.

Rồi nó lấy cái chày đập vào bà mẹ khiến bà chết tại chỗ.

Thấy vậy, nó khóc:

– Mẹ ôi!

Người ta báo cho vị triệu phú biết tin ấy. Sau khi bảo hoả táng bà mẹ, vị triệu phú đi đến tinh xá, báo cho bậc Ðạo Sư biết toàn thể câu chuyện. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Gia chủ, đây không phải lần đầu tiên với ý định giết các con ruồi trên thân bà mẹ mà nó đập với cái chày và giết bà mẹ. Thuở trước, nó cũng đã làm như vậy.

Sau khi nói như vậy, bậc Ðạo sư theo lời yêu cầu của ông Cấp Cô Ðộc, kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong gia đình người triệu phú, sau khi cha mất, lên thay địa vị của cha. Vị triệu phú có người nữ tỳ tên là Rohinì. Nữ tỳ ấy đi đến chỗ giã gạo, nghe người mẹ đang nằm bảo:

– Hãy đuỗi những con ruồi trên thân ta, này con thân.

Nó lấy cái chày đánh con ruồi và giết luôn bà mẹ rồi khóc. Bồ-tát nghe kể chuyện ấy, tự nghĩ: “Trên đời này, một kẻ thù có trí còn tốt hơn”.

Rồi để tán thán người có trí, Bồ-tát đọc bài kệ này:

Tốt hơn là kẻ thù
Có trí tuệ thông minh,
Hơn kẻ thương hại mình,
Nhưng ngu si vô trí,
Hãy xem Rô-hi-ni,
Giết bà mẹ khốn khổ,
Rồi than khóc hoài công.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Gia chủ, đây không phải lần đầu tiên với ý định sẽ giết các con ruồi mà nó giết bà mẹ. Lúc trước, nó cũng đã làm như vậy.

Sau khi kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp lại hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân như sau:

– Lúc bấy giờ, bà mẹ và người con gái là bà mẹ và con gái ngày nay, con vị đại triệu phú là Ta vậy.

  1. CHUYỆN KẺ LÀM HẠI VƯỜN (Tiền thân Àràmadùsaka)

Bậc thiện không làm hại…,

Câu chuyện này, tại một làng nhỏ ở Kosala, bậc Ðạo Sư đã kể về người làm hại vườn. Theo truyền thuyết, bậc Ðạo Sư đang bộ hành giữ dân chúng nước Kosala, đến một ngôi làng nhỏ. Tại đây, một người điền chủ thỉnh đức Như Lai, vào ngồi trong vườn của mình, cúng dường chúng Tăng với đức Phật là vị dẫn đầu, và thưa:

– Bạch Thế Tôn, chư vị có thể đi kinh hành ở trong vườn này tùy theo sở thích.

Các Tỷ-kheo đứng dậy, cùng với người giữ vườn đi dạo trong vườn, thấy một khoảng đất trống, liền hỏi người giữ vườn:

– Này nam cư sĩ, trong vườn này, các chỗ khác có cây cối rậm rạp, nhưng tại chỗ này không có cây, cũng không có bụi cây. Vì lý do gì vậy?

– Thưa các Tôn giả, khi vườn này được trồng cây, một đứa trẻ ở làng tưới cây tại chỗ này, nhổ rễ các cây non lên, rồi tùy theo lượng rễ cây mà tưới nước nhiều hay ít. Các cây non ấy bị héo và chết. Vì lý do ấy, chỗ này thành trống không.

Các Tỷ-kheo đi đến bậc Ðạo Sư, báo cáo câu chuyện. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, đứa trẻ ở làng không phải chỉ nay mới là kẻ làm hư vườn. Thuở trước, nó cũng là kẻ làm hư vườn.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở trước, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, một ngày hội lễ được tổ chức ở Ba-la-nại. Bắt đầu từ khi nghe tiếng trống lễ hội, toàn thể dân chúng trong thành ào ra tham dự. Lúc bấy giờ, trong vườn nhà vua có nuôi rất nhiều khỉ. Người giữ vườn suy nghĩ: “Thành phố vui chơi lễ hội, ta sẽ bảo những con khỉ này tưới nước, còn ta sẽ đi chơi lễ hội”. Anh ta đến con khỉ đầu đàn và hỏi:

– Này bạn khỉ chúa, vườn này đã giúp đỡ các bạn nhiều. Các bạn ở đây ăn hoa, trái và đọt non. Thành phố hôm nay đang vui chơi lễ hội. Ta sẽ đi dự hội. Cho đến khi ta về các bạn có thể tưới nước giúp các cây non trong vườn này không?

– Lành thay, chúng tôi sẽ tưới.

– Vậy các bạn hãy cẩn thận.

Ðể chúng có thể tưới nước, người giữ vườn đưa cho chúng những bao da chứa nước và các thùng gỗ, rồi ra đi.

Các con khỉ cầm bao da chứa nước và các thùng gỗ, bắt đầu tưới nước cho các cây non. Con khỉ chúa nói với chúng:

– Này các bạn khỉ, hãy gìn giữ nước. Khi các bạn tưới nước trên các cây non, trước hết hãy kéo những cây ấy lên, xem rễ của chúng như thế nào. Những rễ nào đâm sâu thì tưới nhiều nước vào rễ. Rễ nào không đâm sâu, hãy tưới ít nước. Nếu tưới nhiều nước, chúng ta thật khó tìm thêm nước.

Chúng vâng theo và làm đúng như vậy. Lúc bấy giờ, một người hiền trí thấy các con khỉ ấy làm như vậy trong vườn của vua, liền hỏi:

– Này các bạn khỉ, sao các bạn lại kéo các cây non lên và tưới nước tùy theo lượng của rễ?

Chúng trả lời:

– Chúa khỉ đầu đàn của chúng tôi khuyên như vậy!

Nghe chúng nói, người hiền trí ấy suy nghĩ: “Ôi! Những kẻ ngu si vô trí, dầu muốn làm điều tốt, lại làm điều có hại!”

Rồi vị ấy đọc bài kệ này:

Bậc thiện không làm hại,
Làm lành đem đến lạc;
Người ngu hại điều lành,
Như khỉ giết hại trong vườn.

Người hiền trí ấy chỉ trích con khỉ đầu đàn như vậy rồi đem đoàn tùy tùng của mình ra đi.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, đứa trẻ ở làng không phải chỉ nay mới là kẻ làm hại vườn. Thuở trước nó cũng đã là kẻ làm hại vườn.

Sau khi bậc Ðạo Sư kể pháp thoại này, Ngài kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân:

– Khi ấy, con khỉ đầu đàn là đứa trẻ ở làng làm hại vườn. Con người hiền trí là Ta vậy!

  1. CHUYỆN RƯỢU MẠNH (Tiền thân Vàruni)

Bậc thiện không làm hại…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một người phá hư rượu. Tương truyền bạn của ông Cấp Cô Ðộc là một người bán rượu. Kẻ ấy dự trữ một số rượu cay mạnh để bán cho quần chúng và họ trả bằng vàng và bạc. Quần chúng tụ họp đông đảo trong quán rượu. Kẻ ấy bảo người đệ tử học việc:

– Này con thân, hãy lấy tiền trước khi giao rượu.

Sau khi ra lệnh như vậy, kẻ ấy đi tắm. Người đệ tử bán rượu cho quần chúng. Khách uống bảo nó đem cho họ muối và đường cục để vừa ăn vừa uống rượu. Thấy vậy, nó liền nghĩ: “Rượu chắc thiếu muối. Ta sẽ bỏ muối vào rượu”.

Nó liền bỏ độ một cân muối vào hủ rượu rồi rót rượu cho họ. Khi họ vừa uống một ngụm đầy miệng, họ liền nhổ ra và hỏi:

– Anh đã làm gì vậy?

– Các anh uống rượu đòi tôi đem muối lại. Thấy vậy, tôi bỏ thêm muối vào.

– Này kẻ ngu kia, chú mày đã làm hư rượu ngon như vậy rồi.

Khách hàng chỉ trích người ấy, rồi lần lượt đứng dậy và bỏ đi. Người buôn rượu đi về, không thấy một người khách nào, liền hỏi những người uống rượu đã đi đâu rồi. Nó tường thuật lại sự việc. Người thầy của nó mắng nó:

– Này kẻ ngu kia, mày đã phá hư rượu rồi!

Và ông đi báo cáo với ông Cấp Cô Ðộc. Ông Cấp Cô Ðộc nghĩ: “Ðây là một câu chuyện hay nên nói”, liền đi đến Kỳ Viên đảnh lễ bậc Ðạo Sư, và thưa lại câu chuyện. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Gia chủ, không phải nay kẻ học việc ấy mới là người phá hư rượu. Thuở trước, nó cũng là người phá hư rượu rồi.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của ông Cấp Cô Ðộc, bậc Ðạo Sư kể chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm người triệu phú ở Ba-la-nại. Nương tựa vào Bồ-tát là một người sống với nghề buôn rượu. Sau khi tích trữ một số rượu mạnh, kẻ ấy bảo người đệ tử tên là Kondanna bán rượu rồi đi tắm. Trong khi người buôn rượu đi khỏi, người đệ tử đổ muối vào rượu, và vì vậy, liền đã phá hư rượu. Thầy của nó về, biết được nguyên nhân, liền báo cho người triệu phú rõ. Người triệu phú nói:

– Người thiện không làm hại, còn người ngu, dầu muốn làm điều tốt, lại làm điều có hại.

Và đọc thêm bài kệ này:

Bậc thiện không làm hại,
Làm lành đem đến lạc,
Người ngu hại điều lành
Thật giống Kon-dan-na
Ðổ muối vào bình rượu.

Bồ-tát thuyết pháp với bài kệ này.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Gia chủ, không phải nay nó mới là người phá rượu. Thuở trước, nó cũng là người phá hư rượu.

Sau khi nói xong, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân như sau:

– Thuở ấy, kẻ làm hư rượu là kẻ làm hư rượu bây giờ còn vị triệu phú Ba-la-nại là Ta vậy

  1. CHUYỆN BÀ-LA-MÔN VEDABBHA (Tiền thân Vedabbha)

Dùng phương tiện không tốt…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo khó bảo. Bậc Ðạo Sư nói với Tỷ-kheo ấy:

– Này Tỷ-kheo, không phải chỉ nay ông mới khó bảo. Thuở trước ông cũng đã khó bảo! Do lời nói của ông, do không làm theo lời các bậc hiền trí, ông bị gươm chém đứt đôi và bị quăng trên đường. Chính do nhân duyên độc nhất ấy, khiến một ngàn người mạng chung.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, trong một ngôi làng nhỏ, có một Ba-la-môn biết được bùa chú tên là Vedabbha. Bấy giờ người ta nói, bùa chú ấy có giá trị rất lớn. Khi có sự giao hội các hành tinh, nếu ai đọc chú ấy và nhìn lên trời, thì từ trời mưa xuống bảy vật báu (vàng, bạc, san hô, hổ phách, ngọc đỏ và kim cương).

Lúc bấy giờ, Bồ-tát đi học nghề với Bà-la-môn ấy. Một hôm, vị Bà-la-môn đem Bồ-tát đi theo, vì một vài công việc đi ra khỏi làng của mình và đến nước Ceti. Giữa đường, tại một khu rừng, có năm trăm kẻ cướp, được gọi là kẻ cướp Sứ giả, chúng làm cho con đường không thể đi được, chúng bắt Bồ-tát và Bà-la-môn Vedabbha.

Vì sao chúng được gọi là những kẻ cướp sứ giả? Người ta nói, khi chúng bắt được hai người, chúng cử một người đi lấy tiền chuộc, do vậy, chúng được gọi là những kẻ cướp sứ giả. Nếu chúng bắt được hai cha con, chúng cử người cha đi, đem tiền chuộc cho chúng để dắt người con về.

Với phương tiện này, nếu chúng bắt được mẹ và con gái, chúng cử người mẹ đi, chúng bắt được hai anh em cả và út, chúng cử người anh cả đi; nếu chúng bắt được thầy và trò, chúng cử người học trò đi. Lúc ấy, chúng giữ lại Bà-la-môn Vedabbha và cử Bồ-tát đi. Bồ-tát đảnh lễ thầy và nói:

– Con sẽ về trong một hai ngày. Thầy chớ sợ hãi. Nhưng thầy hãy làm theo lời con. Hôm nay sẽ có giao hội các hành tinh để mưa châu báu xuống, chớ vì chịu khổ cực không nổi mà đọc thần chú và làm mưa châu báu xuống. Nếu mưa xuống, thầy sẽ bị diệt vong, cả năm trăm tên cướp này cũng vậy.

Sau khi khuyên thầy như vậy, Bồ-tát đi lấy tiền chuộc. Khi mặt trời lặn, các tên cướp trói vị Bà-là-môn lại bắt nằm xuống. Ðúng thời khắc ấy, mặt trăng tròn ngày rằm từ chân trời phương đông mọc lên. Vị Bà-la-môn nhìn các vì sao, biết sự giao hội các hành tinh để mưa châu báu đã thành hình. Vị ấy tự nghĩ: “Sao ta lại chịu khổ như thế này, ta hãy đọc thần chú, làm mưa châu báu xuống, cho các tên cướp tài sản và sẽ sung sướng ra đi”. Vì vậy vị Bà-la-môn nói với các tên cướp:

– Này các bạn, vì mục đích gì các bạn bắt tôi?

– Vì mục đích tài sản.

– Nếu các bạn muốn có tài sản, lập tức hãy cởi trói cho tôi, rửa đầu cho tôi mang áo mới thoa hương thơm và trang điểm bông hoa. Rồi để tôi ở một mình.

Các tên cướp nghe nói, liền làm theo như vậy. Vị Bà-la-môn biết được sự giao hội các hành tinh, đọc thần chú và mắt nhìn lên trời. Từ trên trời, các châu báu rơi xuống. Các tên cướp thâu lượm tài sản ấy, gói lại thành từng bọc với áo khoác ngoài, rồi ra đi cả đoàn. Vị Bà-la-môn theo chúng đi sau cùng. Các tên cướp ấy bị năm trăm tên cướp khác bắt. Chúng hỏi bọn kia:

– Các anh bắt chúng tôi vì mục đích gì?

– Vì mục đích tài sản.

– Nếu các anh muốn tài sản, hãy bắt Bà-la-môn này. Nó nhìn lên trời, làm mưa tài sản rơi xuống. Chính nó cho chúng tôi tài sản này.

Các tên cướp sau thả các tên cướp trước, rồi bắt vị Bà-la-môn và nói:

– Hãy cho chúng tôi tài sản như vậy.

Bà-la-môn nói:

– Tôi không thể cho các anh tài sản. Từ nay cho đến một năm, sự giao hội các hành tinh để mưa tài sản mới thành hình. Nếu các anh muốn có tài sản, hãy chờ đợi. Khi ấy, tôi sẽ làm mưa tài sản xuống.

Các tên cướp tức giận nói:

– Ðồ xảo quyệt Bà-la-môn, ngươi làm mưa tài sản ngay cho bọn kia, lại bắt chúng ta đợi một năm nữa.

Chúng nó lấy gươm sắc bén chém vị Bà-la-môn làm hai, vất bỏ trên đường. Rồi chúng đuổi theo gấp, giao chiến với bọn cướp kia, giết chết bọn chúng, và lấy tài sản. Rồi chúng chia thành hai nhóm, giao chiến lẫn nhau cho đến khi giết hai trăm năm mươi tên. Với cách thức ấy, chúng chém giết lẫn nhau cho đến khi chỉ còn lại hai tên. Như vậy cả ngàn người ấy đi đến diệt vong.

Hai tên còn lại mang tài sản ấy chôn giấu tại một khu rừng gần làng, một tên cầm gươm ngồi giữ, một tên lấy gạo đi vào làng để nấu cơm. Tên ngồi gần tài sản suy nghĩ: “lòng tham là cội gốc của diệt vong. Nếu tên kia về, tài sản sẽ phải chia làm hai. Khi tên kia vừa về, ta sẽ lấy gươm chém giết nó.” Nghĩ vậy, nó rút gươm ra, ngồi chờ tên kia về. Tên kia cũng suy nghĩ: “Tài sản kia phải được chia làm hai. Ta hãy bỏ thuốc độc vào cơm cho tên kia ăn, khiến nó mạng chung, như vậy, chỉ một mình ta được tài sản”.

Khi cơm nấu chín, nó ăn phần của nó, rồi bỏ thuốc độc phần còn lại, đem theo đi đến chỗ ấy. Khi nó đặt cơm ấy xuống, vừa đứng dậy, tên kia lấy kiếm chém nó đứt đôi, ném xác nó vào chỗ kín. Rồi nó ăn phần cơm ấy và chết ngay tại chỗ. Như vậy, vì tài sản toàn thể bị diệt vong.

Sau hai ba ngày, Bồ-tát mang tiền chuộc đi đến chỗ ấy, không thấy thầy mình, thấy tài sản rơi vãi, tự nghĩ: “Thầy ta không làm theo lời ta, làm mưa tài sản xuống, khiến tất cả phải chịu nạn diệt vong”.

Rồi Bồ-tát theo con đường lớn đi tới. Trong khi đang đi, thấy thầy mình bị chặt đứt làm hai ở trên đường lơùn, lại nghĩ: “Vì không theo lời ta, nên thầy đã bị giết”. Bồ-tát chất củi, làm một giàn thiêu đốt xác thầy, và cúng dường với hoa trong rừng. Ði nữa, Bồ-tát gặp năm trăm người mạng chung, tiếp tục đi tới nữa, thấy hai trăm năm mươi người, tiếp tục đến chỗ các người mạng chung, chỉ thiếu có hai. Thấy vậy, Bồ-tát suy nghĩ: “Một ngàn người, trừ hai người, đi đến diệt vong. Thế nào cũng còn lại hai tên cướp nữa. Chúng không thể không đánh nhau, không biết chúng đã đi đâu?”

Tiếp tục đi nữa, Bồ-tát thấy con đường mà hai người mang tài sản đi vào trong khu rừng; đi nữa, Bồ-tát thấy đống tài sản được gói thành từng bọc và một tên cướp nằm chết với bát cơm bị rơi vãi. Ðây là việc làm của chúng! Bồ-tát biết tất cả, tự hỏi: “Người kia ở đâu?” Tìm thấy nó bị quăng xác tại chỗ đầu kia, Bồ-tát suy nghĩ: “Thầy chúng ta không làm theo lời ta, do tánh khó bảo của thầy, tự mình đã bị diệt vong, còn làm cho một ngàn người khác cũng vì mình bị diệt vong. Ai dùng phương tiện không chánh đáng, vì lý do sai lạc, đem lại sự giàu sang cho chính mình rồi cũng bị diệt vong như thầy chúng ta vậy”.

Suy nghĩ vậy, Bồ-tát đọc bài kệ này:

Dùng phương tiện không tốt,
Mong lợi sẽ bị hại,
Cướp giết Ve-dab-bha,
Tất cả bị diệt vong.

Rồi Bồ-tát nói thêm:

– Như thầy ta, do ý nghĩ không tốt đẹp, do cố gắng sai chỗ, làm mưa tài sản xuống, tự mình bị mạng chung, còn làm cho những người khác cũng bị diệt vong. Cũng vậy, với ai ý nghĩ không chánh đáng, nỗ lực cố gắng muốn lợi cho mình, tự mình diệt vong hoàn toàn, lại còn làm cho những người khác cũng bị diệt vong nữa.

Bồ-tát làm vang động cả khu rừng vì tiếng nói của mình khiến chư Thần cây đáp ứng tán đồng. Với bài kệ này, Bồ-tát thuyết pháp. Sau đó ngài dùng phương tiện đem tài sản ấy về nhà, làm các công đức như bố thí và nhiều thiện sự khác v.v… rồi sống cho đến hềt tuổi thọ. Khi mạng chung, Bồ-tát đi lên con đường thiên giới.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, không phải chỉ nay ông là người khó bảo. Thuở trước ông cũng đã là người khó bảo. Vì khó bảo, ông đi đến diệt vong hoàn toàn.

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân như sau:

– Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Vedabbha là Tỷ-kheo khó bảo, còn người đệ tử là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CÁC VÌ SAO (Tiền thân Nakkhatta)

Chờ đợi các vì sao…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc đạo Sư đã kể về một tà mạng ngoại đạo. Theo truyền thuyết, một thiện nam nữ ở thôn quê hỏi cưới cho con trai mình cô con gái một gia đình ở Xá vệ, và hẹn ngày cưới. Khi đến ngày ấy, ông hỏi một kẻ tà mạng ngoại đạo thân tín với gia đình:

– Thưa Tôn giả, hôm nay chúng tôi sẽ làm một lễ phù hợp ngày lành, vậy các vì sao có tốt không?

Vị này tức giận suy nghĩ: “Người này không hỏi ta trước, đã quyết định ngày, nay mới hỏi ta. Ta hãy cho nó một bài học”. Vị ấy nói:

– Hôm nay, các vì sao không tốt. Chớ nên làm lễ hôm nay. Nếu làm lễ, sẽ có nạn diệt vong lớn.

Các người trong gia đình ở thôn quê tin vị ấy, và không đi rước dâu trong ngày ấy. Trong khi ấy, những người thuộc gia đình nhà gái ở thành thị đã sửa soạn tất cả để làm lễ cưới. Thấy các người kia không đến, họ nói:

– Chính họ quyết định ngày hôm nay, và họ không đến, chúng ta đã phí tổn rất nhiều. Họ là hạng người gì? Chúng ta sẽ gả con gái chúng ta cho một người khác.

Rồi họ gả con gái cho một người khác và làm lễ cưới như đã sửa sọan. Vào ngày sau, đám người thôn quê đi đến và xin rước dâu. Những người ở thành Xá vệ nói:

– Các ông gia chủ sống ở thôn quê là những người độc ác. Chính các ông đã quyết định ngày, lại khinh thường chúng tôi không đến. Các ông hãy về lại theo con đường các ông đã đến. Chúng tôi đã gả con gái cho người khác rồi.

Họ mắng những người kia như vậy. Những người kia cũng mắng lại, rồi cuối cùng đi về theo con đường họ đã đến.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo biết được toàn bộ câu chuyện ấy và thầm trách kẻ tà mạng ngoại đạo ấy đã làm trở ngại lễ ngày lành của những người kia. Các Tỷ-kheo ngồi hội họp trong Pháp đường nói:

– Này các hiền giả, kẻ tà mạng ngoại đạo kia đã làm trở ngại ngày lành của gia đình ấy.

Bậc Ðạo Sư đi đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo hôm nay, ở đây các ông ngồi hội họp bàn chuyện gì?

Khi được biết câu chuyện ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay kẻ tà mạng ngoại đạo ấy mới làm trở ngại ngày lành của gia đình kia. Thuở trước, kẻ ấy tức giận họ và cũng làm trở ngại ngày lành.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở trước, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, những người dân ở thành phố xin cưới cô con gái ở thôn quê, đã định ngày cưới và hỏi một kẻ tà mạng ngoại đạo, bạn của gia đình:

– Thưa Tôn giả, hôm nay chúng tôi định làm lễ ngày lành. Vậy các vì sao có tốt đẹp không?

Người tà mạng ngoại đạo tức giận suy nghĩ: “Những người này đã quyết định ngày theo sở thích của mình, nay mới hỏi ta. Vậy ta sẽ làm trở ngại ngày lành của họ”. Kẻ ấy nói:

– Hôm nay các vì sao không tốt. Nếu các ông làm lễ, các ông sẽ gặp nạn diệt vong lớn.

Họ tin kẻ ấy, nên không đi đến. Những người ở thôn quê biết được họ không đến liền nói với nhau:

– Nay họ đã định ngày, nhưng lại không đến. Họ là hạng người gì đối với chúng ta?

Và họ gả con gái cho người khác. Những người ở thành phố đến vào ngày sau và xin đón con dâu. Những người ở thôn quê nói:

– Các ông, những người ở thành phố, là những gia chủ không có liêm sỉ. Chính các ông đã định ngày, nhưng không đón con dâu. Vì các ông không đến, chúng tôi đem gả con cho người khác rồi.

– Chúng tôi hỏi một vị đạo sĩ, biết được các vì sao không tốt, nên chúng tôi không đến. Hãy cho chúng tôi rước dâu.

– Vì các ông không đến, chúng tôi đã gả nó cho người khác rồi! Nay làm sao lại có thể dắt nó về được?

Trong khi họ đang cãi nhau như vậy, một người hiền trí ở thành phố đi đến thôn quê vì một công việc gì đó, nghe kể lại câu chuyện ấy, liền nói:

– Có nghĩa lý gì là các vì sao? Ðược người con gái đâu có phải nhờ các vì sao?

Rồi người hiền trí đọc bài kệ này:

Chờ đợi các vì sao
Kẻ ngu hỏng điều lành,
Ðiều lành chiếu điều lành,
Sao trời làm được gì?

Các người ở thành phố cãi lộn xong, không rước dâu được, đành ra về.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay kẻ tà mạng ngoại đạo này mới làm trở ngại ngày lành của gia đình ấy, thuở trước cũng đã làm rồi.

Sau khi kể pháp thoại, bậc Ðạo Sư kết hợp hai mẩu chuyện và nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, kẻ tà mạng ngoại đạo là kẻ tà mạng ngoại đạo hôm nay, các gia đình ấy là một. Nguời hiền trí nói kệ là Ta vậy.

  1. CHUYỆN NHỮNG KẺ VÔ TRÍ (Tiền thân Dummedha)

Với ngàn kẻ vô trí…

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về các hành vi đem lại lợi ích cho đời. Câu chuyện này được kể ở Chương mười hai, Tiền thân Mahakanha số 469.

*

Thuở trước, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại. Bồ-tát nhập thai vị hoàng hậu của vua ấy. Từ bào thai sanh ra, trong ngày đặt tên, Bồ-tát được gọi là hoàng tử Brahmadatta (Phạm thọ). Khi đến mười sáu tuổi, ngài được khéo giáo dục ở Takkasila, đã học thành thục ba tập Vệ đà, và đã hiểu biết thông suốt mười tám ngành học thuật. Vua cha phong cho hoàng tử chức Phó Vương.

Lúc bấy giờ, các người dân ở Ba-la-nại thường hành lễ ngày lành cúng chư thần, họ đảnh lễ chư thần. Họ giết hại nhiều dê, cừu, gà… và không chỉ làm lễ vật cúng dường với nhiều loại hương hoa, mà cả với thịt tươi đầy máu nữa. Bồ-tát suy nghĩ: “Nay quần chúng thường hành lễ ngày lành cúng chư thần và giết hại nhiều sinh vật. Phần lớn quần chúng theo phi pháp. Sau khi cha mất, ta sẽ được cả quốc độ, ta sẽ tìm một phương tiện không làm phiền não một ai, và chấm dứt sự giết hại các sinh vật”.

Một hôm, Bồ-tát lên xe, từ thành đi ra, thấy một số quần chúng lớn tụ họp tại một cây thần lớn, cầu xin vị thần cây ban cho con trai, con gái, danh vọng, tài sản… muốn gì thì phát nguyện như vậy. Bồ-tát xuống xe, đi đến cây ấy, cúng dường với hương hoa, rưới cây với nước, đi quanh cây ấy về hướng phải, thành kính lễ bái thần cây. Sau đó Bồ-tát leo lên xe, rồi đi vào thành.

Từ đấy trở đi, với phương tiện này, Bồ-tát thỉnh thoảng đi đến cây ấy, đảnh lễ như người tôn thờ thần cây. Sau một thời gian phụ vương qua đời, Bồ-tát được đặt lên ngôi vua. Ngài từ bỏ Bốn con đường ác, thực hành Mười đức tính của một vị vua, và trị vì quốc độ đúng pháp. Ngài suy nghĩ: “Nay ý ta đã đạt được ý định cao tột, và được đặt lên ngôi vua. Trước kia, sở nguyện của ta như thế nào, nay ta phải thực hành cho kỳ được”.

Bồ-tát hội họp các đại thần, các Bà-la-môn, qúy tộc, gia chủ và nói:

– Các khanh có biết ý muốn của ta trước khi ta đạt được vương vị chăng?

– Thưa thiên tử, chúng thần không biết.

– Các khanh có thấy trước đây ta đảnh lễ thần cây ấy với hương hoa và chấp tay cúi lạy cây ấy hay không?

– Thưa thiên tử, có.

– Lúc ấy, ta phát nguyện: “Nếu ta được làm vua, ta sẽ hiến vật cúng cho thần cây ấy. Ta nhờ uy lực thần cây ấy, nên đã được quốc độ. Nay ta sẽ hiến cúng cho thần cây, các khanh chớ làm trở ngại. Hãy mau sửa soạn hiến vật cúng thần.

– Chúng thần lấy gì cúng dường thần cây?

– Này các khanh, ta có nguyện với thần ấy như sau: Tất cả những ai trong quốc độ của tôi chấp nhận và thực hành năm ác giới như sát sanh… và mười hạnh bất thiện, tôi sẽ giết những người ấy, và với nội tạng, thịt và máu của chúng, tôi sẽ hiến vật cúng thần! Lời nguyện của ta là vậy. Các khanh hãy đánh trống bá cáo như sau: Ðại vương của chúng ta, khi còn làm phó vương, có phát nguyện: “Nếu ta đạt được quốc độ, những ai là kẻ theo ác giới trong nước ta, ta sẽ giết tất cả chúng làm vật hiến cúng thần! Vậy nay ta sẵn sàng bảo giết một ngàn người nào chấp nhận và thực hành năm ác giới và mười ác hạnh, cho lấy tim và thịt của chúng để làm vật hiến cúng thần. Như vậy, nay ta tuyên bố cho các thị dân được biết.”

Vua lại tuyên bố như sau:

– Chỉ những ai, bắt đầu từ hôm nay, còn phạm các giới ác hạnh, một ngàn người như vậy sẽ bị giết để làm lễ tế đàn và ta sẽ giải tỏa hạnh nguyện của ta.

Ðể ý nghĩa này được rõ ràng, Bồ-tát đọc bài kệ:

Với ngàn kẻ vô trí,
Ta nguyện giết tế lễ,
Nay ta sẽ làm lễ,
Giết những kẻ phi pháp.

Các bậc đại thần vâng theo lời Bồ-tát, cho đánh trống bá cáo trong thành Ba-la-nại, khắp cả mười hai dặm. Khi nghe lời bá cáo, không có đến một người dám đứng lên làm ác giới ác hạnh.

Suốt thời gian Bồ-tát trị vì quốc độ như vậy, không một ai phạm pháp. Bồ tát không làm phiền não một ai, khiến toàn thể nhân dân trong nước gìn giữ giới luật, tự mình làm các công đức như bố thí… cho đến khi mạng chung, ngài mang theo hội chúng của mình đi đến và tràn ngập cả thành phố chư Thiên.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Như Lai sống đem lại lợi ích cho đời, thuở trước Như Lai cũng đã làm như vậy.

Sau khi thuyết pháp thoại này xong, và kết hợp hai câu chuyện, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, quần thần là hội chúng đức Phật và vua Ba-la-nại là Ta vậy.

PHẨM ÀSIMSA

  1. CHUYỆN VUA ÐẠI GIỚI ÐỨC (Tiền thân Mahàsìlavà)

Người luôn luôn hy vọng…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn. Bậc Ðạo Sư hỏi Tỷ-kheo ấy:

– Có thật chăng, này Tỷ-kheo ông thối thất tinh tấn?

– Bạch Thế Tôn, thật vậy.

– Này Tỷ-kheo, vì sao ở trong Giáo pháp đưa đến giải thoát như vậy, ông lại thối thất tinh tấn? Thuở trước, các bậc hiền trí sau khi mất quốc độ, vẫn kiên trì tinh tấn, cuối cùng lấy lại danh tiếng đã mất.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì quốc độ ở xứ Ba-la-nại, Bồ-tát đầu thai làm con bà hoàng hậu. Trong ngày đặt tên, ngài được gọi là hoàng tử Silava (Giới Ðức). Khi đến mười sáu tuổi, ngài thành thục trong tất cả các tài nghệ. Sau một thời gian, khi vua cha mệnh chung, ngài được đặt lên vương vị với danh hiệu vua Ðại giới hạnh.

Vị vua đúng pháp trị vì theo pháp. Tại bốn cửa thành, vua xây dựng bốn trường bố thí, lại xây dựng thêm giữa thành phố một cái, tại cửa cung điện ngài một cái. Sáu trường bố thí được xây dựng bố thí cho những kẻ nghèo khổ lữ hành. Vua trì giới, gìn giữ ngày trai giới (Bồ-tát), đầy đủ lòng nhẫn nại, nhân ái và từ mẫn. Vị ấy trị vì quốc độ đúng pháp và muốn tất cả chúng sanh được hạnh phúc như muốn đứa con yêu quý ngồi trên bắp vế mình được hạnh phúc.

Một đại thần của vua làm tà hạnh trong nội cung, và sau một thời gian bị phát lộ, các đại thần tâu với vua. Vua điều tra, tự mình rõ biết sự việc, cho gọi đại thần ấy đến, tẩn xuất kẻ ấy ra khỏi nước và nói:

– Này kẻ ngu si kia, việc người làm không thích đáng, ngươi không xứng đáng sống trong quốc độ của ta. Hãy đem tài sản, vợ con và đi chỗ khác!

Kẻ ấy đi khỏi nước Kàsi, đến làm việc với vua Kosala, dần dần trở thành người cố vấn tín cẩn thân cận của vua. Một hôm, kẻ ấy tâu với vua Kosala:

– Thưa Thiên tử, nước Kàsi như bánh mật ong không có ruồi bu. Vua rất nhu nhược, chỉ với một ít đội quân là có thể chiếm lấy thành Kàsi.

Nghe kẻ ấy nói vậy, vua liền suy nghĩ: “Nước Ba-la-nại to lớn. Nó lại nói với một ít đội quân là có thể chiếm lấy thành ấy. Rất có thể nó là tên cướp được thuê mướn”. Vua nói:

– Ta nghĩ khanh là tên cướp được thuê mướn.

Thưa Thiên tử, hạ thần không phải là tên cướp được thuê mướn! Thần chỉ nói sự thật. Nếu bệ hạ không tin thần, hãy cử người đến tàn phá một làng biên địa, rồi bệ hạ sẽ thấy, khi những người đi tàn phá bị bắt, và được dẫn đến trước vua nước Kàsi, vua ấy sẽ cho tài sản và thả họ về.

Vua Kosala nghĩ: “Người này thật rất bạo dạn, khi đã nói như vậy, ta sẽ điều tra xem sao”. Rồi vua cử một số người của vua, đi tàn hại một làng ở biên địa Ba-la-nại. Họ bị bắt và dẫn đến trước mặt vua Kàsi. Vua hỏi:

– Này các bạn thân, sao lại tàn hại dân làng ta?

– Thưa Thiên tử, vì chúng tôi không thể kiếm sống được.

– Vậy sao các người không đến ta? Từ nay trở đi, chớ làm như vậy nữa.

Vua cho họ tiền của và thả họ về. Họ báo cáo lại sự tình lên vua Kosala. Với kinh nghiệm này, vua chưa dám cử quân đi, bèn sai người tới tàn hại miền giữa quốc độ. Những kẻ trộm ấy được vua Kàsi cho tiền của như trước rồi thả về. Vua Kosala với kinh nghiệm này nữa, cũng chưa dám cử quân đi, lại sai người tới cướp phá ngay trong đường phố. Vua Kàsi cho các tên cướp ấy tiền của rồi cũng thả chúng về. Lúc bấy giờ, vua Kosala mới biết vua Kàsi là vị vua trị vì hết sức nhân từ, liền quyết định cử đội quân đi chiếm lấy nước Ba-la-nại.

Lúc bấy giờ, vua Ba-la-nại có một ngàn đại chiến sĩ, những bậc anh hùng siêu việt, vô úy, những vị này có thể đối mặt không thối chạy bởi sự tấn công của một con voi điên loạn, không sợ hãi khi bị sét đánh trên đầu, một đội quân vô địch có thể chiếm toàn cõi Diêm-phù-đề theo ý muốn của đại vương Silava. Họ nghe tin vua Kosala đến liền đến báo cáo vua Kàsi:

– Thưa Thiên tử, vua Kosala đến với ý định chiếm lấy nước Ba-la-nại. Chúng tôi sẽ đi đánh và bắt vua ấy, không cho vua ấy bước qua biên giới.

– Này các khanh, chớ vì ta mà làm các người khác phiền não. Những ai muốn quốc độ, hãy để họ lấy quốc độ ta. Các khanh chớ đi!

Vua ngăn chận các chiến sĩ ấy chống trả quân xâm lược. Sau đó vua Kosala vượt qua biên giới và xâm nhập miền giữa quốc độ. Các đại thần đến báo cáo với vua như lần trước. Vua lại ngăn chận như lần trước. Bấy giờ vua Kosala đến, đứng ngoài thành và đưa tin cho đại vương Silava giao quốc độ hay giao chiến. Vua Kàsi đưa tin traû lời là vua không giao chiến.

– Hãy tới mà lấy quốc độ.

Lần thứ bảy, các đại thần lại đến tâu vua:

– Thưa Thiên tử, chúng thần không để cho vua Kosala vào thành. Chúng thần sẽ đánh vua ấy ở ngoài thành và bắt vua ấy.

Nhưng vua Kàsi vẫn ngăn chận như lần trước, cho mở các cửa thành, rồi ngồi trên vương tọa lộng lẫy với một ngàn đại thần vây quanh. Vua Kosala cùng với đội quân lớn vào thành Ba-la-nại. Không thấy một ai chống cự, vua đi đến cung điện của vua Kàsi, với các cửa mở toang. Vua Kosala liền ra lệnh bắt vua Mahasilava đang ngồi im lặng trên ngai vàng cùng với ngàn đại thần vây quanh.

– Hãy trói vua này với các đại thần, trói thật chặt cánh tay chúng ra sau lưng, dắt chúng đến bãi tha ma, đào những hố sâu đến cổ, khiến mọi người không thể giơ tay, rồi đổ đất xuống đất và chôn sống chúng. Ban đêm, các con chó rừng sẽ đến và sẽ làm những gì cần phải làm đối với chúng!

Các người tùy tùng theo lệnh vua cướp nước, trói vua Kàsi với các đại thần, trói thật chặt cánh tay ra sau lưng, rồi dắt họ đi. Lúc bấy giờ, đại vương Silava không có tư tưởng sân hận gì với vua cướp nước. Trong khi các đại thần ấy bị trói như vậy và dắt đi, không một ai có thể trái lời vua Kàsi, hội chúng vua Kàsi được khéo huấn luyện về kỷ luật như vậy.

Rồi những người lính của vua cướp nước dắt vua Silava và các đại thần đi đến bãi tha ma, đào những hố sâu ngang cổ, chôn tất cả xuống cái hố, đại vương Silava bị chôn ở giữa, hai bên chôn các đại thần, rải đất lên, lấy chày nện xuống rồi bỏ đi. Vua Silava không phẫn nộ đối với vua cướp nước và khuyên các đại thần:

– Này các khanh, hãy tụ tập hạnh từ bi!

Nửa đêm, các con chó rừng đến, định ăn thịt người. Thấy chúng, vua và các đại thần đồng thanh la to lên, các con chó rừng sợ hãi chạy trốn. Khi chúng quay trở lại nhìn, biết không có ai đuổi theo, chúng liền trở lui. Các người ấy lại la lớn hơn trước. Như vậy, chúng chạy trốn đến lần thứ ba, rồi lại nhìn lui, biết không có ai đuổi theo, chúng nghĩ: “Các người này rồi cũng chết”, nên mạnh dạn trở lui, và khi nghe la lớn, chúng không chạy trốn nữa. Con chó rừng đầu đàn đến gần vua Silava, các con còn lại đến gần những người kia. Vốn thiện xảo về phương tiện, biết được con vật đến gần mình, vua Kàsi liền vươn cổ lên như để cho con vật cắn, rồi với xương hàm kéo giật cổ con chó rừng, vua cắn thật chặt như kẹp với gọng kềm. Con chó rừng bị cắn chặt cổ, bị kẹp bởi xương hàm của vị vua có sức mạnh như voi, không thể nào tự mình thoát được, và kinh hãi vì sợ chết, nó bèn hú lên lớn tiếng.

Nghe tiếng kêu cầu cứu, nghĩ rằng con chó rừng chúa ấy đã bị một người bắt, các con kia không đi đến gần các đại thần, và kinh hãi vì sợ chết, tất cả đều bỏ chạy. Bị cắn chặt bởi xương hàm của vua Kàsi, con chó rừng bị bắt hốt hoảng chạy qua chạy lại, làm cho đất mềm rơi ra và vì sợ chết, với cả bốn chân nó cào đất trên chỗ vua kàsi. Vua biết được đất đã mềm rơi ra, liền thả con chó rừng. Với sức mạnh như voi, vua di chuyển qua lại, giơ lên được hai tay, rồi vịn lên bờ thành miệng hố, vua thoát khỏi miệng hố như mây bị xé tan trước gió, và đứng dậy. Rồi an ủi, động viên các đại thần, vua bới đất lên, kéo tất cả mọi người ra khỏi hố. Với các đại thần vây quanh, vua đứng trong bãi tha ma.

Lúc bấy giờ, người ta quăng một xác chết trong bãi tha ma, đúng ở biên giới địa phận của hai con Dạ-xoa. Hai con Dạ-xoa không thể chia phần người chết ấy, chúng nói:

– Chúng ta không thể chia phần xác chết này. Vua Silava là vị sống đúng pháp, vị ấy sẽ chia phần cho chúng ta. Chúng ta hãy đi đến vị ấy.

Chúng cầm chân xác chết, kéo đi đến vua và thưa:

– Thưa Thiên tử, hãy chia người này cho chúng tôi.

– Này các vị Dạ-xoa, ta sẽ chia phần xác chết này cho các vị. Nhưng vì chúng tôi không sạch, hãy tắm cho chúng tôi đã.

Các Dạ-xoa, với uy lực của mình, đem lại nước thơm dành cho vua cướp nước để vua Kàsi tắm; sau khi tắm xong, chúng thâu lại áo của vua Kàdi, đem áo dành cho vua cướp nước đến mặc áo cho vua, rồi chúng đem cho vua một hộp đựng bốn loại nước hoa. Khi vua đã xức nước hoa, chúng lại cho vua những bông hoa đủ loại đính trên quạt bằng ngọc trong một hộp bằng vàng, và trang sức cho vua.

Rồi khi vua đang đứng, chúng hỏi vua có cần gì chúng nữa không. Vua ra dấu cho chúng hiểu là vua đói. Các Dạ-xoa liền đi lấy cho vua các món ăn thượng vị đã sửa soạn sẵn cho vua cướp nước. Và sau khi tắm và xức nước hoa, mặc áo và trang điểm, vua Kàsi ăn các món ăn thượng vị. Các Dạ-xoa đem lại nước thơm dành cho vua cướp nước, với bình bát bằng vàng và chén vàng để vua uống nước, súc miệng. Và trong khi vua rửa tay, các Dạ-xoa đem đến trầu gia vị với năm loại hương, được têm sẵn cho vua ăn cướp dùng. Ăn trầu xong, khi vua đang đứng, các Dạ-xoa hỏi vua có cần chúng làm việc gì khác nữa. Vua bảo:

– Ðem các gươm báu đặt trên gối vua cướp nước về cho ta.

Và chúng đi lấy đem về. Rồi vua cầm gươm, đưa thẳng trên xác chết, chặt xuống giữa đỉnh đầu, chia thành hai phần bằng nhau cho hai con Dạ-xoa. Sau khi chia xong, vua rửa gươm, đeo vào và đứng thẳng. Các Dạ-xoa ăn uống no nê, tâm tư thỏa mãn, hỏi vua có sai bảo chúng làm việc gì nữa không. Vua bảo các Dạ-xoa ấy, dùng uy lực của mình đưa vua vào vương phòng của vua cướp nước và đưa các đại thần về nhà. Chúng chấp thuận, làm theo lời vua.

Lúc bấy giờ, vua cướp nước đang nằm ngủ trên long sàng trong vương phòng được trang hoàng. Vua Kàsi dùng mặt bằng cây gươm đánh trên bụng vua cướp nước đang ngủ say. Vua ấy hoảng hốt thức dậy, với ánh sáng ngọn đèn, nhận biết là đại vương Silava, liền từ trên giường đứng dậy, lấy hết can đảm, nói với vua Kàsi:

– Thưa Ðại vương, đêm tối như vầy, có phòng hộ canh gác, các cửa đều đóng, trong cung điện không chỗ nào là không có người canh gác, làm thế nào làm ngài lại đến được bên giường này, đeo gươm, trang sức, mặc hoàng bào sẵn sàng?

Vua Kàsi kể tất cả câu chuyện với các chi tiết về các sự kiện đưa vua đến đây. Nghe xong, vua cướp nước xúc động mạnh, và thưa:

– Thưa Ðại vương, tôi tuy là con người mà không biết công đức của ngài. Nhưng các công đức của ngài lại được các Dạ-xoa hung bạo, độc ác, uống máu, ăn thịt người kia biết rõ ràng. Ôi bậc nhân chủ, nay tôi sẽ không còn bày mưu phản bội một bậc giới đức như ngài nữa!

Rồi vua Kosala cầm gươm thề nguyền thân hữu, xin lỗi vua Kàsi, và để vua Kàsi nằm ngủ trên long sàng, còn mình nằm ngủ trên chiếc giường nhỏ.

Khi đêm tàn, mặt trời đã mọc, vua truyền đánh trống mời tất cả quân lính, đại thần, Bà-la-môn, gia chủ hội họp lại. Ðứng trước mặt quần thần như đưa mặt trăng rằm lên trên trời cao, vua Kosala tán thán công đức của vua Silava giữa cả hội chúng, xin lỗi vua Silava, lần nữa trả lại quốc độ cho vua ấy, và thưa:

– Từ nay trở đi, nếu có nạn trộm cướp khởi lên cho ngài, tôi xin chịu trách nhiệm. Ngài hãy trị vì quốc độ, còn tôi canh gác hộ trì.

Nói xong, vua Kosala trị tội kẻ đã vu cáo, và mang quân đội đi về nước của mình. Còn vua Mahàsilava trang sức, mặc áo uy nghi, dưới cái lọng trắng, ngồi trên long sàng bằng vàng có chân như con nai, nhìn ngắm thành quả của mình và suy nghĩ: “Thành quả này và sự cứu sống sinh mạng của một ngàn đại thần, nếu ta không tinh tấn, thì không có được chút gì. Chính do sức mạnh tinh tấn, ta không bị hoại diệt, và phục hồi được danh tiếng đã mất. Ta đã cứu sinh mạng của một ngàn đại thần. Thật sự để chí hướng không bị hủy hoại, cần phải hết sức tinh tấn. Với người luôn luôn tinh tấn, quả vị sẽ được thành tựu viên mãn.

Sau khi suy nghĩ như vậy, vua Kàsi đọc bài kệ này như lời cảm hứng:

Người luôn luôn hy vọng,
Bậc trí không chán nản,
Ta thấy khổ vượt qua,
Ta muốn gì được vậy!

Bồ-tát nói:

– Ôi, với những ai đầy đủ giới đức, quả tinh tấn sẽ được thành tựu.

Với bài kệ này, Bồ-tát nói lên lời cảm hứng, trọn đời làm các công đức rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại này bậc Ðạo sư thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng ấy, vị Tỳ-kheo thối thất tinh tấn chứng quả A-la-hán. Sau khi kết hợp câu chuyện, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vị đại thần phản bội là Ðề-bà-đạt-đa, một ngàn đại thần là hội chúng đức Phật và Ðại vương Silava là Ta vậy.

52.CHUYỆN TIỂU JANAKA (Tiền thân Cùla Janaka)

Hãy tinh tấn, này ngươi!…

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo sư đã kể về một Tỳ-kheo thối thất tinh tấn. Ở đây, tất cả các sự việc xảy ra, sẽ được nói đến trong Tiền thân Mahàjanaka (số 539)

Vua ngồi dưới chiếc lọng trắng, nói lên bài kệ này:

Hãy tinh tấn, này ngươi!
Hiền trí không nhàm chán.
Ta thấy khổ vượt qua,
Từ nước đạt đất liền.

Ở đây, vị Tỷ-kheo thối thất tinh tấn đạt được quả A-la-hán, và vua Janaka là bậc Chánh Ðẳng Giác.

  1. CHUYỆN BÌNH RƯỢU ÐẦY (Tiền thân Punnapàti)

Bình rượu đầy như vậy…,

Câu chuyện này khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về rượu thuốc độc. Một thời ở Xá-vệ, một số người nghiện rượu họp nhau lại và bàn với nhau.

– Tiền mua rượu của chúng ta đã khô cạn, vậy làm sao bây giờ?

Một tay bợm rượu nói:

– Chớ lo. Ðã có cách.

– Cách gì vậy?

– Cấp Cô Ðộc thường đeo nhẫn, mặc áo đẹp đi chầu vua. Chúng ta đổ thuốc mê vào trong bình rượu, dựng một quán rượu, ngồi tại đấy. Khi Cấp Cô Ðộc đi về, hãy mời vị đại triệu phú vào và cho uống rượu ấy. Khi lão già ấy bị mê say, chúng ta lấy nhẫn, lấy áo và chúng ta sẽ có tiền mua rượu.

Chúng chấp thuận đề nghị ấy, làm theo như vậy, và khi vị triệu phú đi về, chúng đến gặp và nói:

– Thưa ngài đại triệu phú, chúng tôi có rượu rất ngon. hãy uống một chút rồi đi.

Cấp Cô Ðộc nghĩ: “Thánh đệ tử đã chứng quả Dự lưu làm sao uống rượu được. Dầu không muốn uống, ta cũng sẽ phát hiện âm mưu của bọn nghiện rượu này”. Nghĩ vậy, Cấp Cô Ðộc đi vào quán rượu, nhìn chúng làm, biết rằng rượu ấy đã bị chúng pha thuốc mê vào, Ông quyết định sẽ làm cho chúng bắt đầu từ nay phải trốn biệt. Ông nói:

– Này bọn nghiện rượu ác ý kia, các ngươi để thuốc mê vào trong bình rượu, khiến những người qua lại uống, làm cho họ say mê rồi cướp của. Các người dựng lên một quán bán rượu, ngồi tại đấy, chỉ tán thán rượu này. Nhưng không một người nào trong bọn người dám uống. Nếu rượu này không có pha thuốc mê, thì các ngươi hãy uống trước đi.

Cấp Cô Ðộc làm cho bọn nghiện rượu hoảng sợ, khiến chúng chạy trốn rồi đi về nhà. Nghĩ rằng việc làm của những tên nghiện rượu cần phải trình lên đức Như Lai, Cấp Cô Ðộc đi đến, và thưa rõ sự việc. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này gia chủ, lần này, các người nghiện rượu lừa dối gia chủ. Trong quá khứ, chúng cũng đã lừa dối các bậc hiền trí.

Nói vậy xong, với lời yêu cầu của vị gia chủ, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì nước Ba-la-nại. Bồ-tát sanh làm người triệu phú ở Ba-la-nại. Lúc bấy giờ, những người nghiện rượu này, sau khi bàn bạc với nhau, đã pha rượu với thuốc mê, chờ người triệu phú Ba-la-nại đi đến, chúng đón ông và nói những lời tương tự. Người triệu phú, dầu không muốn uống, cũng muốn phát giác chúng, nên đi vào, nhìn chúng làm, biết chúng có mưu mô gì, quyết định làm cho chúng phải trốn chạy, nên nói:

– Này các bạn uống rượu, nếu uống rượu xong rồi mà đi đến cung vua, thật không thích đáng. Ðến chầu vua xong, khi trở về, tôi sẽ tính việc này. Các ngươi hãy ngồi tại đây.

Người triệu phú đi vào chầu vua rồi trở về. Các người nghiện rượu mời ông vào. Vị triệu phú đi vào, nhìn những bình rượu bị pha thuốc mê, liền nói như sau:

– Này các bạn uống rượu, việc các bạn làm ta không ưa thích. Các bình rượu của các bạn vẫn còn đầy tràn. Các bạn chỉ có tán thán rượu, nhưng không uống một giọt. Nếu như rượu này ngon thiệt, thì các bạn đã uống rồi. Rượu này đã được các bạn pha thuốc mê vào.

Và để đánh tan ý định của chúng, Bồ-tát đọc bài kệ này:

Bình rượu đầy như vậy,
Rượu đâu có đổi khác,
Vì lý do ta biết,
Rượu này không phải tốt.

Bồ-tát trọn đời làm các công đức như bố thí…, rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy những người nghiện rượu kia là những người nghiện rượu ngày nay, và vị triệu phú Ba-la-nại là Ta vậy.

  1. CHUYỆN TRÁI CÂY (Tiền thân Phala)

Cây này không khó leo…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một nam cư sĩ giỏi về trái cây. Truyền thuyết nói rằng, một điền chủ trú ở Xá-vệ mời chúng Tăng với đức Phật là vị dẫn đầu ngồi trong ngôi vườn của mình, cúng dường cháo và bánh xong, điền chủ bảo ngưồi giữ vườn:

– Hãy đưa các Tỷ-kheo đi bộ trong vườn và cúng dường các loại trái như xoài…

Người làm vườn vâng theo lời dặn, đưa chúng Tỷ-kheo đi bộ trong khu vườn, nhìn lên cây, và biết trái này còn sống, trái này hơi chín, trái này thiệt chín. Ðiều gì kẻ ấy nói đều đúng như vậy. Các Tỷ-kheo thưa với đức Như Lai:

– Bạch Thế Tôn, người giữ vườn này thật giỏi về các loại trái cây. Ðứng dưới đất nhìn lên cây, kẻ ấy biết trái này còn sống, trái này hơi chín, trái này thiệt chín.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ có người giữ vườn này giỏi trái cây. Trong quá khứ, cũng có những bậc hiền trí giỏi về trái cây.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh vào gia đình một triệu phú, khi lớn lên, làm nghề đi buôn với năm trăm cỗ xe. Một thời, Bồ-tát đi đến một ngôi rừng rất lớn, đứng ở đầu rừng, họp đoàn người lại và nói:

– Trong rừng này có những cây độc. Phàm gặp những lá gì, bông gì, trái gì mà trước kia các ngươi chưa từng ăn, chớ ăn trước khi hỏi ta.

Bọn họ vâng theo lời dặn và đi vào rừng. Ðầu rừng có một cửa làng, tại đấy có một cây gọi là cây Kimphala. Thân cây, cành cây, lá cây và trái của cây màu giống như cây xoài. Không những chỉ về màu sắc, hình dáng, mà cả về mùi thơm và vị ngọt, các trái sống và trái chín đều giống như trái xoài. Nhưng nếu ai ăn chúng, thì giống như thuốc độc, lập tức bị chết ngay.

Một số người tham ăn đi trước, tưởng đó là cây xoài, bèn ăn trái. Một số khác quyết định hỏi người trưởng đoàn lữ hành rồi mới ăn, họ cầm trái cây trong tay và đứng chờ. Khi vị trưởng đoàn lữ hành đến, họ hỏi có thể ăn những trái cây ấy không. Bồ-tát biết rằng cây ấy không phải cây xoài, nên nói:

– Cây hình dáng giống cây xoài này là cây độc, chớ ăn!

Sau khi ngăn chận họ, Bồ-tát làm cho những người đã ăn phải nôn ra, và cho họ uống bốn loại mật để chữa họ lành bệnh.

Lúc trước, dưới gốc cây này, đã có những đoàn lữ hành đến tạm trú, ăn những trái cây độc mà họ tưởng lầm trái xoài và mạng chung. Ngày sau đó, dân làng đi ra, thấy những người chết, liền cầm chân họ, quăng vào một chỗ kín, lấy tất cả sở hữu của họ với các cỗ xe rồi đem đi.

Ngay vào ngày đoàn lữ hành này mới đến, dân làng nghe tin có người trúng độc. Lúc trời mới rạng đông, họ vội vàng đi đến gốc cây ấy, và nói với nhau:

– Các con bò sẽ là của ta, cỗ xe sẽ là của ta, hàng hoá sẽ là của ta!

Khi thấy cả đoàn người ấy còn lành mạnh, họ liền hỏi:

– Làm sao các ông biết cây này không phải cây xoài?

Họ trả lời:

– Chúng tôi không biết. Nhưng trưởng đoàn lữ hành của chúng tôi biết.

Dân làng đến hỏi Bồ-tát:

– Thưa bậc hiền trí, làm thế nào ngài biết được?

– Có hai điều báo cho ta biết, Bồ-tát đáp.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ:

Cây này không khó leo,
Không xa làng bao nhiêu,
Do vậy nên ta biết:
Cây này quả không tốt!

Sau khi thuyết pháp cho đại chúng, Bồ-tát đi đến chỗ an toàn.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, như vậy thuở xưa các bậc hiền trí cũng giỏi về trái cây.

Sau khi thuyết pháp thoại này và kết hợp hai mẩu chuyện, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, đoàn lữ hành là hội chúng đức Phật, còn người trưởng đoàn lữ hành là Ta vậy.

  1. CHUYỆN NĂM VŨ KHÍ (Tiền thân Pãncàyudha)

Người với tâm ly tham…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo sư đã kể về một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn. Thế Tôn cho gọi Tỷ-kheo ấy và hỏi:

– Có thật chăng, này Tỷ-kheo, ông thối thất tinh tấn?

– Thưa có thật, bạch Thế Tôn.

– Thưở xưa, trong những trường hợp cần phải tinh tấn, bậc hiền trí đã tinh tấn, do vậy, đã đạt được vương vị.

Nói vậy xong, bậc Ðạo sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahamdatta trị vì nước Ba-la-nại. Bồ-tát nhập thai vào làm con hoàng hậu. Ðến ngày đặt tên, sau khi mời tám trăm vị Bà-la-môn và cúng dường những vị này mọi dục lạc, vua và hoàng hậu hỏi họ về các tướng. Các Bà-la-môn thiện xảo về tướng, thấy được sự thành tựu các tướng của hoàng tử, đã trả lời:

– Thưa Ðại vương, hoàng tử đầy đủ các công đức, sau khi ngài qua đời, sẽ lên ngôi vua, được danh vọng lẫy lừng với tài sử dụng năm loại vũ khí, sẽ trở thành con người tối thượng ở toàn cõi Diêm-phù-đề.

Nghe lời nói của các Bà-la-môn, vua và hoàng hậu đặt tên cho hoàng tử là Pãncayudhakumara (hoàng tử có năm vũ khí). Ðến lúc trưởng thành, vừa mười sáu tuổi, vua cho gọi hoàng tử và bảo:

– Này con thân, con hãy đi học nghề!

– Thưa Thiên tử, con học với ai?

– Hãy đi, con thân, con sẽ học với bậc thầy có danh tiếng mọi phương tại thành Takkasilà, trong nước Gandhàra. Và đây là tiền con sẽ trả cho thầy.

Nói xong, vua giao cho một ngàn đồng tiền vàng và đưa hoàng tử ra đi. Hoàng tử đến đấy, học nghề xong, được thầy cho năm loại vũ khí. Sau đó đảnh lễ thầy, hoàng tử ra khỏi thành Takkasilà, đeo theo năm loại vũ khí và lên đường trở về Ba-la-nại. Giữa đường, hoàng tử vừa đến một khu rừng, tại đấy có một Dạ-xoa tên là Silesaloma (Lông dính) đang ngự trị. Từ đầu rừng, người đi đường thấy hoàng tử liền ngăn chận chàng lại, bảo rằng trong rừng có Dạ-xoa tên là Silesaloma ngự trị sẽ giết hại mọi người khi nó thấy họ. Hoàng tử tự tin mình, không chút sợ hãi như con sư tử lông bờm, vẫn đi vào ngôi rừng.

Gặp nhau ở giữa khu rừng ấy, con Dạ-xoa hiện ra trước hoàng tử với thân cao như cây Ta-la (cọ dừa), với đầu lớn như ngôi nhà có nóc nhọn, với cặp mắt to như hai cái bát, với hai nanh như hai búp cây củ cải, với mỏ như diều hâu, với bụng có nhiều đốm đỏ tía, với bàn tay bàn chân xanh lè, Dạ-xoa nói:

– Ngươi đi đâu đấy? Hãy đứng lại. Ngươi là món ăn của ta!

Hoàng tử nói:

– Này Dạ-xoa ta tin ở ta nên vào đây, ngươi thật là liều mạng. Nếu ngươi đến gần ta, ta sẽ bắn ngươi với mũi tên có tẩm thuốc độc và hạ ngươi tại chỗ.

Sau khi dọa nạt, hoàng tử lắp tên có tẩm thuốc độc và bắn, bắn liên tục cho đến năm mươi mũi tên. Tất cả đều dính vào lông Dạ-xoa, nó gạt năm mươi mũi tên rơi xuống chân nó, xong liền xông tới hoàng tử. Hoàng tử lại dọa rút gươm chém. Cây gươm dài ba mươi hai đốt cũng dính vào lông Dạ-xoa. Rồi hoàng tử đâm ngọn giáo vào nó. Ngọn giáo cũng dính chặt vào đó.

Biết khả năng bắt dính của Dạ-xoa, hoàng tử lấy quả chùy đập nó. Quả chùy cũng dính vào lông. Hoàng tử nói:

– Này Dạ-xoa, người chưa nghe ta là hoàng tử có năm loại vũ khí. Khi ta mạo hiểm đi vào khu rừng này do ngươi ngự trị, ta đặt lòng tin không phải ở cung tên … mà hoàn toàn đặt lòng tin vào ta. Nay ta sẽ đánh ngươi, chỉ một cú đánh, khiến ngươi trở thành cát bụi!

Sau khi hét lên, hoàng tử dùng bàn tay phải đánh Dạ-xoa, bàn tay dính vào lông, hoàng tử đánh với bàn tay trái, tay trái cũng dính. Hoàng tử đá với chân phải, chân phải cũng dính, chân trái cũng dính. Hoàng tử lại la to:

– Ta sẽ đập ngươi tan như cát bụi.

Và chàng lấy đầu đánh nó; đầu cũng dính vào lông. Bấy giờ hoàng tử bị mắc dính năm phần vào năm chỗ. Tuy vậy, hoàng tử vẫn không kinh hãi, không chút run sợ, Dạ-xoa suy nghĩ: “Ðây không phải là một người bình thường, mà là người phi thường, một con sư tử giữa loài người. Dầu bị một Dạ-xoa như ta bắt, nó vẫn không run sợ. Trước đây, từ khi ta bắt đầu giết người đi trên đường này, chua bao giờ ta thấy một người như vậy! Sao nó không sợ hãi?” Nghĩ vậy, Dạ-xoa không dám ăn thịt hoàng tử và hỏi:

– Này thanh niên Bà-la-môn, vì sao chàng không sợ hãi?

– Này Dạ-xoa, ta tin ở ta nên ta không sợ hãi. Ta biết mỗi cá thể thế nào cũng đi đến cái chết. Nhưng trong bụng ta, ta có vũ khí kim cang. Nếu ngươi ăn ta, ngươi không thể tiêu hóa vũ khí ấy. Vũ khí ấy sẽ cắt nội tạng ngươi thành từng miếng nhỏ, và chấm dứt mạng sống của ngươi. Như vậy, cả hai sẽ bị tiêu diệt. Vì lý do này, ta không sợ hãi!

Theo truyền thuyết, ở đây hoàng tử muốn ám chỉ vũ khí trí tuệ trong nội tạng. Nghe hoàng tử nói vậy, Dọa-xoa suy nghĩ: “Thanh niên Bà-la-môn này chỉ nói sự thật. Chỉ một miếng thịt nhỏ bằng hạt đậu từ thân thể của con sư tử giữa loài người này, bụng ta cũng không thê tiêu hóa được. Ta hãy thả nó ra”. Vì sợ chết, nó thả hoàng tử ra và nói:

– Này thanh niên Bà-la-môn, chàng là con sư tử giữa loài người. Ta sẽ không ăn thịt chàng đâu. Nay chàng được giải thoát khỏi tay ta như mặt trăng thoát khỏi miệng Ràhu (vua thần A-tu-la). Hãy ra đi và hãy mang lại hoan hỷ tốt lành cho bà con, bè bạn và đất nước.

Bồ-tát nói:

– Này Dạ-xoa ta sẽ đi. Nhưng trước đây, do làm nhiều điều bất thiện, ngươi sanh làm Dạ-xoa độc ác, tay vấy máu, ăn thịt, uống máu người. Nếu nay, trong thời hiện tại, ngươi vẫn làm điều bất thiện nữa, thì ngươi sẽ đi từ cảnh tối tăm này đến cảnh tối tăm khác. Nay ngươi đã gặp ta, ngươi không thể làm điều bất thiện nữa. Hãy biết rằng ai sát sanh sẽ bị đọa vào cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A-tu-la. Nếu được sanh làm người thì tội ác ấy sẽ đưa đến yểu mạng.

Với cách này và nhiều cách khác, Bồ-tát thuyết về sự nguy hiểm của năm ác giới và lợi ích của năm thiện giới, làm cho Dạ-xoa sợ hãi bằng nhiều hình thức như thuyết pháp, nhiếp phục… khiến Dạ-xoa trở thành nhu thuận, an trú trong Năm giới. Rồi biến Dạ-xoa thành vị thần ở khu rừng, với quyền được thâu thuế (được cúng tế), Bồ-tát khuyên nó không được phóng dật. Sau đó, Bồ-tát đi ra khỏi khu rừng, báo tin cho những người ở tại đầu rừng tỏ tường sự việc, rồi nai nịt với năm loại vũ khí, ngài đi đến Ba-la-nại, gặp lại mẹ cha.

Sau một thời gian lên ngôi vua, trị vì quốc độ đúng pháp, ngài làm các công đức như bố thí… rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại này xong, bậc Chánh Ðẳng Giác đọc bài kệ:

Người với tâm ly tham,
Với ý cũng ly tham,
Tu tập theo thiện pháp,
Ðạt an ổn khổ ách,
Và tiếp tục chứng đạt,
Ðoạn diệt mọi kiết sử.

Như vậy, sau khi bậc Ðạo Sư thuyết pháp đưa đỉnh cao nhất là quả A-la-hán, Ngài giảng Bốn Sự thật. Cuối bài giảng, Tỷ-kheo ấy chứng quả A-la-hán. Bậc Ðạo sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Dạ-xoa là tướng cướp đeo vòng ngón tay Angulimàla, và hoàng tử với năm vũ khí là Ta vậy.

  1. CHUYỆN KHỐI VÀNG (Tiền thân Kancanakkhandha)

Người với tâm hoan hỷ…

Câu chuyện này, khi ở tại Xá-vệ, bậc Ðạo sư kể về một Tỷ-kheo. Theo truyền thuyết, một thiện nam tử ở Xá-vệ, sau khi nghe theo bậc Ðạo Sư thuyết pháp, gởi cả tâm tư vào Ba ngôi báu, và xuất gia. Hai vị sư trưởng và giáo thọ sư dạy về Giới:

– Này Hiền giả, đây là giới, một loại, hai loại, ba loại, bốn loại, năm loại, sáu loại…nhiều loại. Ðây là tiểu giới, đây là trung giới, đây là Ðại giới. Ðây là giới hộ trì giới bổn, đây là giới hộ trì các căn, đây là giới thanh tịnh mạng, đâ là Giới sử dụng các đồ vật.

Tỷ-kheo trẻ ấy suy nghĩ: “Giới này thật quá nhiều. Với chừng ấy giới được chấp thuận, ta không thể nào giữ trọn. Không thể giữ trọn đủ giới, thì xuất gia có lợi ích gì? Ta hãy trở lại làm gia chủ, làm các công đức như bố thí…và nuôi dưỡng vợ con!” Nghĩ vậy, Tỷ-kheo thưa:

– Thưa các Tôn giả, con không có thể giữ Giới. Không thể giữ Giới, thì xuất gia có lợi ích gì? Con sẽ hoàn tục. Xin các Tôn giả hãy lấy lại y bát.

Sư trưởng nói:

– Nếu sự việc là như vậy, thì Hiền giả hãy đến đảnh lễ bậc Ðạo sư.

Các vị ấy đưa Tỷ-kheo đến Pháp đường, gặp bậc Ðạo Sư. Thấy vậy, Ngài nói:

– Này các Tỷ-kheo, sao các ông đem một Tỷ-kheo đến đây mà vị ấy không muốn?

– Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này nói không thể giữ Giới, trả lại y bát, nên chúng con dẫn vị ấy đến đây.

– Này các Tỷ-kheo, sao ông lại nói quá nhiều Giới cho Tỷ-kheo này? Bao nhiêu giới vị ấy có thể giữ được, vị ấy giữ từng ấy giới. Bắt đầu từ nay, các ông chớ nói nữa. Ở đây, ta sẽ biết những gì nên nói.

Rồi bậc Ðạo Sư nói với Tỷ-kheo ấy:

– Hãy đến, này Tỷ-kheo! Lo gì đến nhiều giới vậy? Ông có giữ được ba giới không?

– Con có thể giữ được bạch Thế Tôn.

– Vậy bắt đầu từ nay, ông hãy giữ ba cửa, cửa về thân, cửa về lời, cửa về ý. Chớ làm điều ác về thân, về lời, về ý. Hãy tinh tấn lên, chớ hoàn tục! Chỉ giữ ba giới này thôi.

Cho đến như vậy, Tỷ-kheo ấy hết sức hoan hỷ.

Sau khi đảnh lễ bậc Ðạo sư, Tỷ-kheo ấy đi về với vị sư trưởng và Giáo thọ sư của mình, giữ gìn đầy đủ ba giới ấy. Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: “Giới được vị sư trưởng và Giáo thọ sư nói với ta. Vì tự mình không phải là Phật, các vị ấy không thể làm cho ta hiểu được từng ấy giới. Bậc Chánh Ðẳng Giác, vì tự mình khéo giác ngộ Chánh Giác, là vị Pháp vương vô thượng. Ngài tóm thâu bao nhiêu giới trong ba cửa và bảo ta gìn giữ chúng. Bậc Ðạo Sư thật sự là một hỗ trợ cho ta vậy”.

Tỷ-kheo ấy phát triển Thiền quán và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Biết được tin này, các Tỷ-kheo họp tại pháp đường, ngồi nói về công đức của bậc Ðạo Sư:

– Này các Hiền giả Tỷ-kheo này không thể giữ Giới, muốn hoàn tục. Bậc Ðạo Sư tóm thâu tất cả Giới vào ba phần, bảo Tỷ-kheo ấy giữ chúng, và giúp vị ấy đạt được quả A-la-hán.

Bậc Ðạo sư đến và hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi nói chuyện gì. Ðược họ cho biết về đề tài câu chuyện, Ngài nói:

– Này các Tỷ-kheo, một vật hết sức nặng, nếu được chia thành từng phần, cũng trở thành nhẹ. Thuở xưa, các bậc hiền trí được một khối vàng lớn, không thể nhấc lên nổi, đã chia thành từng phần, rồi nhấc lên nổi và đem vàng đi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm người cày ruộng tại một ngôi làng. Ngày kia, Bồ-tát đang cày trên một thửa ruộng, thửa ruộng nầy trước đây là một ngôi làng bị bỏ hoang, vì trong làng có một vị triệu phú đã chết và chôn tại đó một đống vàng, lớn bằng bắp vế người và cao đến bốn khuỷu tay, lưỡi cày của Bồ-tát mắc phải đống vàng ấy nên đứng khựng lại. Nghĩ rằng đó là rễ tỏa rộng của cây, Bồ-tát đào đất lên, nhưng lại thấy được khối vàng. Bồ-tát chùi đất thật sạch và cày tiếp cho xong ngày ấy.

Khi mặt trời lặn, để ách và cày một bên, Bồ-tát nghĩ đến phương cách đem khối vàng đi. Nhưng Bồ-tát không nhấc nó lên được. Bồ-tát ngồi và nghĩ: “Ðể phần như vậy, ta sẽ nuôi sống bản thân của ta. Để phần như vậy, ta sẽ chôn giấu. Ðể phần như vậy, ta sẽ làm các công việc. Ðể phần như vậy, ta sẽ làm các công đức như bố thí…”

Rồi Bồ-tát chia thành bốn phần. Khi được Bồ-tát chia như vậy, khối vàng ấy trở thành nhẹ. Bồ-tát nhấc vàng lên được, đem về nhà, chia thành bốn phần. Bồ-tát trọn đời làm các công đức như bố thí cùng nhiều thiện sự khác và đi theo nghiệp của mình.

*

Khi kể câu chuyện này xong, bậc Chánh Ðẳng Giác đọc bài kệ:

Người với tâm hoan hỷ,
Với ý cũng hoan hỷ,
Tu tập theo thiện pháp,
Ðạt an ổn khổ ách,
Và tiếp tục chứng đạt
Ðoạn diệt mọi kiết sử.

Rồi sau khi hướng lời thuyết pháp lên đỉnh cao là quả A-la-hán, bậc Ðạo sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, người được khối vàng là Ta vậy.

  1. CHUYỆN KHỈ CHÚA (Tiền thân Vànarinda)

Ai đủ bốn pháp này…,

Câu chuyện này, khi ở tại Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư đã kể về âm mưu của Ðề-bà-đạt-đa muốn ám hại Ngài. Lúc bây giờ, khi nghe Ðề-bà-đạt-đa âm mưu ám hại, bậc Ðạo Sư liền nói với các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới âm mưu ám hại Ta. Thuở trước, kẻ ấy cũng đã âm mưu, nhưng không thể làm được.

Sau khi nói vậy, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở trước, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con khỉ. Nó to lớn như một con ngựa con, có sức mạnh và sống một mình bên bờ sông. Giữa con sông ấy, có một hòn đảo, trên hòn đảo có nhiều loại cây ăn trái như xoài, mít… Con khỉ mạnh như voi, đầy đủ sức lực.

Mỗi sáng, nó nhảy từ bờ sông bên này đến một hòn đảo ở giữa sông, rồi từ hòn đảo ấy, nó lại nhảy đến hòn đảo. Tại đấy, nó ăn các loại trái, và đến chiều, với phương tiện cũ, nó trở về chỗ ở của mình. Ngày qua ngày, con khỉ sống nếp sống như vậy.

Lúc bấy giờ, có hai vợ chồng con cá sấu sống trong sông ấy. Thấy con khỉ đi qua đi lại, vợ con cá sấu đang có thai khởi lên lòng tham muốn ăn thịt quả tim con khỉ, bèn nói với chồng:

– Này chàng, em thèm ăn thịt quả tim con khỉ chúa này quá.

Sấu đực nói:

– Thật lành thay, em sẽ được như ý.

Sấu đực suy nghĩ: “Chiều nay, khi con khỉ từ hòn đảo về, ta sẽ bắt nó!”.

Sấu đực đến nằm chờ trên hòn đá. Con khỉ cả ngày lang thang trên đảo, vào buổi chiều, nó đứng trên hòn đảo, nhìn hòn đá và nghĩ: “Hòn đá hôm nay có vẻ cao hơn, vì lý do gì?”. Bồ-tát luôn luôn khéo đo lường. Nhìn tầm cao của hòn đá và tầm cao của nước, Bồ-tát suy nghĩ: “Hôm nay, nước con sông này không giảm cũng không tăng. Nhưng hòn đá này lại có vẻ to hơn. Rất có thể, con cá sấu đang nằm với mục đích bắt ta tại chỗ ấy”. Ðể tìm sự việc này, con khỉ vẫn đứng tại chỗ ấy, làm bộ như nói với hòn đá, gọi lớn:

– Này bạn hòn đá!

Và khỉ không được trả lời. Khỉ gọi đến ba lần:

– Này bạn hòn đá!

Hòn đaù vẫn không trả lời. Con khỉ nói:

– Này bạn hòn đá, sao hôm nay bạn không trả lời ta?

Con cá sấu suy nghĩ: “Như vậy, trong những ngày trước, hòn đá này đã trả lời con khỉ chúa. Vậy nay ta sẽ trả lời nó”. Con sấu nói:

– Này bạn khỉ chúa, cái gì vậy?

– Ngươi là ai?

– Ta là cá sấu.

– Ngươi nằm đó vì mục đích gì?

– Ðể bắt ngươi và ăn quả tim của ngươi.

Con khỉ suy nghĩ: “Ta không có đường đi nào khác. Nay ta phải lừa dối con cá sấu này”. Vì thế khỉ nói:

– Này bạn cá sấu, ta sẽ chịu đầu hàng bạn thôi. Bạn hãy há miệng ra, và khi ta nhảy đến gần, bạn sẽ bắt ta.

Khi con cá sấu há miệng, thì tự nhiên mắt nó nhắm lại. Cá sấu không nghĩ đến mưu kế này, liền há miệng ra, và mắt nó nhắm lại, từ từ nằm xuống. Con khỉ đã biết tình hình như vậy, từ nơi hòn đảo nhảy qua, đạp trên đầu con cá sấu, rồi từ đầu con cá sấu lại nhanh như chớp nhảy qua đứng ở bờ bên kia. Con cá sấu thấy sự kỳ diệu này, nghĩ rằng con khỉ chúa này đã làm một việc hết sức phi thường, nó nói:

– Này, ngài khỉ chúa, ai đầy đủ bốn pháp ở trong đời, sẽ nhiếp phục được kẻ thù. Ta nghĩ rằng ngài có đủ tất cả trong nội tâm.

Nói vậy xong, cá sấu đọc bài kệ này:

Ai đủ bốn pháp này,
Này khỉ chúa, như ngài:
Chân thật và nghĩ xa,
Cương nghị và vô úy,
Ngài có bốn pháp này,
Ðánh bại được quân thù!

Như vậy, con cá sấu tán thán khỉ chúa rồi đi về trú xứ của mình.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới âm mưu ám hại Ta, trong quá khứ, kẻ ấy cũng đã làm như vậy.

Sau khi thuyết pháp thoại này, và kết hợp hai mẩu chuyện, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, cá sấu là Ðề bà-đạt-đa, vợ cá sấu là Cincamanavika, còn khỉ chúa là Ta vậy.

  1. CHUYỆN BA PHÁP (Tiền thân Tayodhammà)

Ai đầy đủ ba pháp…,

Câu chuyện này, khi ở Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư đã kể về âm mưu ám hại.

*

Thuở xưa, khi vua Brahnadatta trị vì ở Ba-la-nại, Ðề-bà-đạt-đa sanh ra làm con khỉ, ở gần dãy Hy-mã-lạp Sơn, lãnh đạo một đoàn khỉ toàn do nó sanh ra. Vì sợ chúng lớn lên sẽ tranh giành quyền lãnh đạo đàn khỉ này, con khỉ đầu đàn liền dùng răng cắn và thiến chúng, khiến hột giống bị hoại diệt.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát cũng do duyên con khỉ ấy, nhập thai vào bụng một con khỉ cái. Con khỉ cái biết thai đã thành, muốn bảo vệ thai của mình, bèn đến một ngôi rừng dưới chân núi. Khi thai đến đúng ngày, nó sinh ra Bồ-tát. Bồ-tát lớn lên, đến tuổi trưởng thành, đầy đủ sức mạnh phi thường. Một hôm, Bồ-tát hỏi mẹ:

– Thưa mẹ, cha con đâu?

– Này con thân, cha con đang sống lãnh đạo đàn khỉ dưới chân núi.

– Thưa mẹ, hãy đưa con đến gần cha con.

– Này con thân, mẹ không thể đưa con đến gần cha con được. Cha con, vì sợ các khỉ con sẽ tranh giành lãnh đạo đàn khỉ, nên dùng răng cắn và thiến chúng, khiến hột giống hoại diệt.

– Thưa mẹ, hãy đưa con lại đấy. Con sẽ có cách!

Khỉ mẹ liền đem khỉ con đến gần khỉ cha. Vừa thấy con trai mình, con khỉ cha nghĩ rằng rồi đây con mình sẽ không cho mình lãnh đạo đàn khỉ, nay mình cần phải giết con bằng cách giả ôm hôn, rồi siết con thật chặt cho đến chết. Nghĩ vậy, nó nói:

– Hãy đến, này con thân, lâu nay con ở đâu?

Nói vậy, nó ôm hôn và siết khỉ con thật chặt. Nhưng Bồ-tát, với sức mạnh như voi đã siết chặt trở lại, khiến các xương khỉ cha như gãy nát. Khỉ cha suy nghĩ: “Con này, khi lớn lên sẽ giết ta. Với phương tiện nào, ta hãy giết nó trước đã! À, cách đây không xa, một hồ nước có quỷ là La-sát ở. Tại đấy, ta sẽ cho quỷ La-sát ăn nó!”. Nghĩ vậy, khỉ cha nói:

– Này con thân, ta nay đã già. Ta sẽ giao cho con lãnh đạo đàn khỉ này. Hôm nay, ta sẽ phong vương cho con. Tại chỗ nọ, có một hồ nước, trong hồ có hai loài hoa súng, ba loại hoa sen xanh, năm loại hoa sen trắng. Hãy đi hái và đem các hoa ấy về.

Bồ-tát nói:

– Lành thay, cha thân. Con sẽ mang hoa lại.

Nói xong, Bồ-tát ra đi, nhưng không xuống hồ gấp. Xung quanh hồ, Bồ-tát quan sát có dấu chân, chỉ có dấu chân xuống, không có dấu chân lên, Bồ-tát suy nghĩ: “Cái hồ này phải có quỷ La-sát trú ẩn! Cha ta không thể tự mình giết ta, muốn quỷ La-sát ăn thịt ta. Ta sẽ không đi xuống hồ này, vẫn lấy được hoa như thường”.

Bồ-tát đi đến một chỗ không có nước, lấy đà, nhảy từ bờ bên này, hái hai cái hoa mọc cao trên mặt nước, mà không dính nước, rồi hạ xuống bờ bên kia. Rối từ bờ bên kia, Bồ-tát nhảy đến bờ bên này, theo phương thức trước, bẻ hai cái hoa. Cứ như thế, từ cả hai bên bờ, Bồ-tát hái được nhiều hoa, chất thành hai đống, nhưng vẫn không xuống chỗ trú xứ của quỷ La-sát.

Ðến khi không thể nhảy qua hồ nưóc hái hoa được nữa, Bồ-tát gom lấy các hoa ấy, chất thành đống, để tại một chỗ. Con quỷ La-sát kinh ngạc suy nghĩ: “Lâu nay, chưa bao giờ ta thấy một người nào sáng suốt, kỳ diệu như vậy. Các hoa sen được con khỉ này hái như ý muốn, mà nó vẫn không xuống trú xứ của ta”. Rồi quỷ La-sát rẽ nước đi lên, đến bên Bồ-tát và nói:

– Này khỉ chúa, trong hồ này, ai có được ba pháp, vị ấy sẽ chiến thắng kẻ thù. Ta nghĩ rằng tất cả pháp ấy ngài đếu có đủ.

Quỷ La-sát đọc bài kệ:

Ai đầy đủ ba pháp,
Này khỉ chúa như ngài,
Thiện xảo và anh hùng,
Ðầy đủ cả trí tuệ,
Ngài đủ ba pháp ấy,
Ðánh bại được kẻ thù.

Như vậy, quỷ La-sát trong hồ ấy đã tán thán Bồ-tát với bài kệ này và hỏi:

– Ngài lấy các hoa này làm gì?

– Cha ta muốn phong vương cho ta, do lý do này, ta lấy hoa.

– Một bậc sáng suốt như ngài không nên hái hoa và mang hoa, tôi sẽ hái và mang cho ngài.

Rồi nó nhổ hoa lên và mang hoa đi theo sau lưng Bồ-tát. Con khỉ cha ở đằng xa thấy Bồ-tát, liền nghĩ: “Ta giục nó đi để quỷ La-sát ăn thịt nó. Nay nó lại an toàn trở về với quỷ La-sát mang hoa cho nó! Ta bị nguy hại rồi”.

Nghĩ đến đó, quả tim nó vỡ thành bảy mảnh và nó mạng chung tại chỗ. Ðàn khỉ còn lại hội họp và tôn Bồ-tát lên làm vua.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, chúa của đàn khỉ là Ðề-bà-đạt-đa, còn con trai của chúa đàn khỉ là Ta vậy.

  1. CHUYỆN TIẾNG TRỐNG (Tiền thân Bherivàda)

Ðánh, đánh, chớ đánh quá!…

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỳ-kheo khó bảo. Bậc Ðạo Sư hỏi Tỷ-kheo ấy:

– Có thật chăng, ông là người khó bảo?

– Thưa có thật, bạch Thế Tôn.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, không phải chỉ nay ông mới khó bảo. Trong thời quá khứ, ông cũng đã khó bảo rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm người đánh trống, và sống ở làng. Khi nghe có lễ tế các vì sao ở Ba-la-nại, người đánh trống suy nghĩ: “Ta sẽ đánh trống cho quần chúng tụ hội và sẽ được tiền”. Nghĩ vậy, người ấy đem con đi theo, đến Ba-la-nại. Tại chỗ ấy, hai cha con đánh trống và được nhiều tiền. Mang theo tiền, trên đường về làng của mình, phải ngang qua một khu rừng có ăn cướp, người cha ngăn chận con trai đang miên man đánh trống liên hồi:

– Này con thân, chớ có đánh trống như vậy. Chỉ đánh từng hồi một thôi, như trống của một chủ tướng vậy mà.

Dầu bị cha ngăn, đứa con vẫn nói:

– Với tiếng trống, ta sẽ đuổi bọn cướp chạy.

Nên nó vẫn đánh trống liên hồi.

Bọn cướp ban đầu nghe tiếng trống, nghĩ là tiếng trống của vị chủ tướng, nên chạy trốn. Nhưng khi nghe tiếng trống một mặt cứ liên hồi, biết không phải là tiếng trống của một chủ tướng, chúng liền trở lại tìm hiểu. Thấy chỉ có hai người, bọn chúng liền xông ra đánh cướp hết cả. Người cha than:

– Vì con đánh trống liên hồi, nên con làm mất tất cả tiền thâu được một cách khó khăn.

Nói xong, người cha đọc bài kệ:

Ðánh, đánh, chớ đánh quá!
Ðánh quá thành không tốt,
Do đánh, được của tiền,
Do đánh, tiền mất hết.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, đứa con trai là Tỷ-kheo khó bảo này, còn người cha là Ta vậy.

  1. CHUYỆN THỔI TÙ VÀ (Tiền thân Sankhadhama)

Thổi, thổi, chớ thổi quá!…

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo khó bảo (như trước).

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một người thổi tù và, cùng cha đi đến chỗ tế lễ các vì sao ở Ba-la-nại. Do thổi tù và, hai cha con được nhiều tiền. Khi về đến một khu rừng có ăn cướp, người con ngăn cha chớ có thổi tù và liên hồi. Người cha nói:

– Với tiếng tù và, ta sẽ đuổi bọn cướp chạy.

Nên ông cứ thổi liên hồi. Bọn ăn cướp trốn ở đó trước, xông ra cướp của. Người con nói lên bài kệ:

Thổi, thổi, chớ thổi quá!
Thổi quá thành không tốt.
Do thổi, được tài sản,
Do thổi, bay hết tiền.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, người cha là Tỷ-kheo khó bảo này, còn người con là Ta vậy.

PHẨM NỮ NHÂN

  1. CHUYỆN BÀI KINH KHỔ ÐAU (Tiền thân Asàtamanta)

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo bị tham dục chi phối. Câu chuyện sẽ được trình bày ở Tiền thân Ummadanti số 527.

  1. CHUYỆN CÔ GÁI TRÊN LẦU BẢY TẦNG. (Tiền thân Andabhuta)

Trò chơi sáo, giả mù…

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo bị ái dục chi phối tâm trí. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Tăng chúng bảo rằng ông bị ái dục chi phối, có phải vậy chăng?

– Thưa vâng, quả đúng như vậy.

– Này Tỷ-kheo, không ai canh giữ đàn bà được cả. Ngày xưa, có kẻ đầy mưu trí canh giữ một nữ nhân từ khi nó mới lọt lòng mà cũng không thể nào giữ nó được.

Nói vậy xong, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát sinh làm vương tử của bà Chánh hậu. Khi ngài lớn lên, ngài tinh thông mọi môn học thuật, và khi vua cha băng hà, ngài lên ngôi làm một vị anh quân, trị dân đúng pháp. Thời ấy, ngài thường chơi súc sắc với vị Tế sư của triều đình, và khi ném con bài súc sắc bằng vàng trên mặt chiếc bàn bằng bạc, ngài thường ca khúc hát cầu may này:

Muôn vật lẽ thường tình,
Sông ngòi uốn lượn quanh,
Còn các loài thảo mộc
Là cây cối mọc thành,
Hễ gặp thời cơ tới,
Nữ nhân phạm ác hành.

Vì khúc hát này làm cho vua thắng cuộc mãi, nên theo đúng luật chơi bài, vị Tế sư mất đến cả đồng xu dính túi. Và muốn khỏi sạt nghiệp, vị ấy quyết định tìm cho ra một cô gái chưa hề thấy người đàn ông nào, đem về nhà khóa cửa nhốt trong phòng. Vị ấy nghĩ thầm: “Ta không thể nuôi một cô gái đã từng thấy đàn ông. Vậy ta phải tìm một đứa trẻ sơ sinh, giữ kỹ nó lúc lớn lên, canh chừng nó thật cẩn mật để không ai có thể đến gần nó và nó sẽ trung thành với người đàn ông duy nhất thôi. Lúc ấy ta sẽ thắng vua và trở nên giàu có”.

Bấy giờ vị này rất giỏi khoa tướng số, nên vừa thấy một người đàn bà nghèo sắp sinh con, và đứa trẻ sẽ là con gái, vị ấy bèn thuê tiền để đem bà ta về ở trong nhà mình, giữ thật kỹ đến ngày sinh đứa con xong, bà ta phải đi ngay với một số tiền. Còn hài nhi kia được toàn phụ nữ nuôi nấng, không một nam nhân nào được nhìn thấy nó, trừ vị Tế sư. Khi nó lớn lên, nó thuộc về quyền sở hữu của vị Tế sư, chủ nhân của nó.

Suốt thời gian cô bé lớn dần, vị Tế sư tránh việc chơi bài với vua, nhưng khi nó đã trưởng thành dưới quyền kiểm soát của chính mình, thì vị Tế sư lại thách thức vua chơi bài. Ngài chấp thuận và bắt đầu cuộc chơi. Trong khi vừa ném con súc sắc, ngài vừa hát khúc ca cầu may ấy, thì vị Tế sư nói thêm:

– Nhưng bao giờ cô bé của hạ thần cũng là ngoại lệ đấy!

Rồi vận may cũng đổi chiều, chính vị Tế sư thắng cuộc và nhà vua thua bài.

Khi xét kỹ vấn đề trên, Bồ-tát nghi ngờ vị Tế sư có giấu kín một cô gái đức hạnh trong nhà, nên ngài cho người dò tìm và quả đúng như vậy. Thế là để làm cho cô bé kia phải sa ngã và phạm lỗi, ngài truyền đưa tới một gã điếm đàng giảo quyệt, và hỏi gã có cách quyến rủ cô gái chăng.

– Tâu Ðại vương, chắc chắn là được. Gã kia đáp.

Nghe vậy, nhà vua cho gã tiền và bảo gã thi hành lệnh ngài ngay, chớ để mất thì giờ lâu.

Với số tiền vua ban, gã mua đủ loại nước hoa, hương liệu và mở cửa tiệm bán nước hoa gần nhà vị Tế sư. Bấy giờ nhà Tế sư cao bảy tầng, có bảy cổng, mỗi cổng đều có người ngồi canh, toàn phụ nữ canh cổng, không đàn ông nào được phép vào nhà trừ vị Bà-la-môn. Ngay cả những thúng đựng rác cũng được khám xét thật kỹ trước khi đem vào nhà.

Chỉ riêng vị Tế sư ấy được quyền nhìn thấy cô gái, và cô bé cũng chỉ có một nữ tỳ hầu hạ. Nữ tỳ này được giao tiền đi mua hoa tươi và nước hoa và tặng cô chủ; trên đường đi, bà ta thường bước ngang qua cửa tiệm mà gã điếm đàng kia mới mở. Và gã ấy biết rõ bà ta chính là người hầu của cô gái kia, bèn đợi một ngày nọ bà ta đến gần, gã vội vã chạy bổ ra ngoài cửa hiệu, quỳ xuống chân bà, hai tay ôm chặt đầu gối bà, miệng lắp bắp:

– Ôi mẹ ôi! Mẹ đi đâu lâu nay thế hở mẹ?

Và đồng bọn của gã đứng canh đó đều kêu lên:

– Ồ giống như tạc! Tay chân, mặt mũi, cả cách ăn mặc nữa, đều y hệt nhau!

Trong khi mọi người cứ xem xét trầm trồ không ngớt về sự giống nhau kỳ diệu kia, người đàn bà ấy đâm ra hoát hoảng trong thật thảm hại. Bà ta òa ra khóc lớn rằng đây hẳn là con trai bà! Rồi vừa khóc lóc vừa kể lể, cả hai người cứ ôm lấy nhau mà ngã lăn ra. Sau đó gã hỏi:

– Nay mẹ đang ở đâu vậy mẹ?

– Mẹ đang ở nhà vị Tế sư đấy con ạ. Ngài có môt cô tiểu thiếp đẹp vô song, quả là tiên trên trời mới đẹp như thế và mẹ là người hầu của nàng ấy.

– Thế mẹ đang đi đâu đấy?

– Mẹ đi mua hoa tươi và nước hoa cho nàng ấy.

– Sao mẹ còn đi đâu mà mua các thứ ấy nữa? Lần sau mẹ cứ đến đây, gã kia bảo.

Và gã tặng bà già trầu cau cùng đủ thứ hoa mà không lấy tiền. Cô gái ngạc nhiên thấy số hoa tươi và nước hoa bà ta đem về quá nhiều, bèn hỏi tại sao vị Tế sư Bà-la-môn lại hậu hỉ với nàng thế. Bà già đáp:

– Sao con lại nói thế hở con?

– Vì số hương hoa bà đem về nhà đấy mà.

– Ồ không, chẳng phải ngà Bà-la-môn cho tiền hào phóng đâu, bà già bảo, mà chính vì già này lấy các thứ kia ở tiệm của con trai già đấy.

Và từ đó, bà già giữ riêng số tiền vị Bà-la-môn đưa, rồi đi đến lấy hoa tươi cùng đủ thứ khác tại tiệm gã kia khỏi mất tiền.

Vài ngày sau, gã giả vờ đau ốm, lên giường nằm. Khi bà già ấy đến cửa tiệm hỏi con trai bà đâu thì được biết gã đang bị bệnh. Bà vội bước vào tận nơi, âu yếm vuốt ve đôi vai gã và hỏi nguyên nhân cơn bệnh. Nhưng gã không đáp.

– Tạo sao con không nói cho mẹ biết hả con?

– Dù con có chết đi cũng không dám nói với mẹ đâu.

– Nhưng nếu con không nói với mẹ thì còn nói với ai được nữa?

– Thế thì mẹ ôi, bệnh của con phát ra chỉ vì nghe mẹ cứ khen cô tiểu chủ của mẹ đẹp tuyệt trần nên con đâm ra si tình phát ốm tương tư đó thôi! Nếu con chiếm được nàng, con mới sống nổi, còn không thì con đành nằm ở đây chờ chết.

– Con ơi, con cứ để việc này cho mẹ lo liệu. Bà già nói một cách vui vẻ – Con đừng lo lắng gì về chuyện đó.

Thế rồi mang một thúng chất đầy hoa tươi cùng nước hoa, mụ đem về nhà, nói với nàng tiểu thiếp của vị Bà-la-môn:

– Chao ôi! Con trai già đang ốm tương tư vì nàng, chỉ vì già bảo cho nó biết nàng đẹp tuyệt vời! Bây giờ biết làm sao đây?

Cô gái đáp:

– Nếu bà tìm cách lén đem được cậu ấy vào đây, thì ta cho phép bà đấy.

Ngay sau đó mụ già liền bắt tay quét dọn tất cả đồ đạc hư cũ, rác rưởi trong nhà thâu góp cả bảy tầng lầu từ rầm thượng cho đến nhà bếp, bỏ vào một thúng đựng hoa to tướng rồi tìm cách đưa ra ngoài. Khi người ta lục soát như thường lệ thì mụ già đổ cả thúng rác lên đầu người đàn bà giữ cổng, khiến người đó bỏ chạy ngay trước cách đối xử quá thô bạo như thế! Mụ già cũng làm cách ấy với các người giữ cổng kia, khiến cho họ ngột thở vì đống rác rưởi trút lên đầu và mọi người la lối mụ đủ điều.

Thế là từ đó về sau, mụ già có đưa vào đưa ra bất cứ vật gì, cũng không ai có gan lục soát mụ nữa! Thời cơ đã đến tay! Mụ lén đưa gã điếm đàng giấu trong thúng hoa vào gặp cô tiểu chủ. Gã làm hư hỏng đức hạnh của cô gái ngay và còn cả gan ở lại một hai ngày trong những căn gác nhỏ trên lầu. Gã lánh mặt khi vị Tế sư đến nhà, và bầu bạn với cô gái khi vị ấy đi khỏi. Sau một hai ngày, cô gái bảo tình nhân:

– Này lang quân yêu quý, chàng phải ra đi rồi đấy.

– Ðúng rồi, nhưng ta muốn đánh lão Bà-la-môn ấy một cái đã.

– Ðược lắm chứ.

Cô gái đáp và đem giấu gã một nơi. Sau đó vị Bà-la-môn đến, cô nàng kêu lên:

– Này phu quân yêu dấu, tiện thiếp ưa thích ca múa biết bao, ước gì phu quân vui lòng thổi sáo cho thiếp.

– Vậy ái nương hãy múa đi nào.

Vị Bà-la-môn lập tức thổi sáo lên.

– Nhưng nếu phu quân nhìn thiếp thì thiếp xấu hổ thẹn thùng quá không sao dám múa đâu, để tiện thiếp lấy cái khăn che kín khuôn mặt khôi ngô khả ái của phu quân trước đã, rồi tiện thiếp mới dám múa.

– Thôi được rồi, nếu ái nương quá khiêm nhượng mà không dám múa thì cứ làm thế đi.

Vậy là cô nàng lấy một tấm vải thật dày buộc chặt lên mặt lão Bà-la-môn để che mắt lão. Và cứ giả mù như thế, lão bắt đầu thổi sáo. Nhảy múa được một lát, cô nàng lại kêu lên:

– Chàng yêu quý ôi, thiếp lại còn thích đánh chàng một cái trên đầu nữa cơ!

– Vậy thì nàng cứ đánh đi nào!

Lão già ngốc nghếch đáp mà không chút nghi ngờ gì cả. Thế là cô ả liền ra hiệu cho gã tình nhân, hắn nhẹ nhàng lẻn ra sau lưng lão Bà-la-môn đánh cho lão một đấm trên đầu nên thân! Cái đấm mới đích đáng làm sao, khiến hai mắt lão như muốn lòi ra khỏi mặt, trên đầu lão u lên một cục lớn! Lão thấy đau điếng người, liền gọi cô ả kia đến gấp, đưa tay cho lão xem, và cô ả bèn đặt tay mình vào tay lão:

– Ồ bàn tay nàng mềm mại quá, sao nó lại đánh đau thế này?

Bấy giờ, khi gã đểu cáng kia đánh lão Bà-la-môn xong, gã lại đi ẩn mình như cũ. Lúc ấy cô gái mở khăn ra khỏi mặt lão, xoa dầu lên chỗ đầu bị u. Một lát sau lão ra về, gã kia lại được mụ già giấu vào giỏ hoa đưa ra khỏi nhà. Lập tức gã đến yết kiến đức vua và tâu trình toàn thể cuộc phiêu lưu của gã cho ngài hay.

Bởi thế, khi vị Bà-la-môn vào chầu, vua liền đề nghị chơi bài súc sắc, vị ấy đồng ý và chiếc bàn chơi bài được đem ra. Khi vua ném con bài, ngài cũng ca khúc hát ấy và vị Bà-la-môn, vì không hay biết gì về sự hư hỏng của cô tiểu thiếp, nên vẫn nói thêm:

– Bao giờ cô gái của hạ thần cũng là ngoại lệ đấy.

Nhưng lần này lão thua cuộc!

Còn vua đã biết rõ mọi việc xảy ra, liền bảo Tế sư:

– Sao lại trừ nàng ấy ra? Nàng ấy đã hư thân mất nết rồi. Ồ khanh cứ tưởng là đem về nuôi một con bé từ khi lọt lòng mẹ và nhốt nó trong bảy vòng canh giữ là khanh có thể vững lòng tin vào nó ư? Này, khanh không thể tin vào một nữ nhân nào cả, dù cho khanh có ôm nó trong lòng, quanh quẩn suốt ngày bên nó không rời một khắc! Chẳng hề có một người đàn bà nào giữ dạ chung thủy với một người đàn ông duy nhất trên đời. Còn về ả tiểu thiếp của khanh, ả bảo khanh rằng ả muốn nhảy múa, rồi khi đã bịt mắt khanh xong xuôi, khanh thổi sáo cho ả, thì ả lại để gã tình nhân đánh lên đầu khanh đấy, sau đó lén đưa gã ra khỏi nhà. Thế thì ngoại lệ của khanh ở đâu chứ?

Khi nói vậy xong, nhà vua liền ngâm kệ:

Trò chơi sáo giả mù,
Vì vợ bé phỉnh phờ,
Bà-la-môn ngồi đó,
Cố gìn giữ gái tơ,
Tạo nên người đức hạnh,
Trong trắng, chẳng bùn nhơ!
Học ngay từ việc ấy,
Mà sợ đám liễu bồ!

Bằng cách ấy, Bồ-tát thuyết pháp cho vị Bà-la-môn. Vị ấy về nhà hạch hỏi cô gái về tội hư thân mất nết mà cô ả đã bị tố cáo trên.

– Này phu quân yêu quý, ai có thể nói như vậy về tiện thiếp đấy? Cô gái phân trần: Tiện thiếp vô tội thật mà, chính bàn tay thiếp đánh chàng thật mà, chứ còn ai vào đây nữa? Nếu phu quân không tin lời thiếp thì thiếp xin nguyền đem thân này ra thử lửa để chứng tỏ không hề có bàn tay nam nhân nào từng đụng vào người thiếp cả, nhờ vậy mong chàng tin tưởng thiếp.

– Muốn thế thì được ngay.

Vị Bà-la-môn liền bảo đem một đống củi vào và châm lửa lên. Sau đó cô gái được gọi đến:

– Này, vị Bà-la-môn nói, nếu nàng tin tưởng lời mình thật thì hãy thử lửa đi.

Trước đó, cô gái đã dặn dò mụ già nọ như sau:

– Này mẹ ôi, mẹ hãy gọi con trai mẹ đến sẵn đây để nắm lấy tay con đúng lúc con sắp bước vào lửa nhé!

Và mụ già làm đúng như lời cô ả dặn, bảo gã kia đứng chen vào đám đông đang vây quanh. Sau đó để đánh lừa vị Bà-la-môn, cô gái đứng trước mặt mọi người, hăng hái thề thốt:

– Thưa phu quân, không hề có tay ai trừ tay chàng đụng vào người thiếp cả, với lời thề chân thật này, thiếp cầu mong ngọn lửa đừng làm hại thân thiếp.

Nói vậy xong, cô ả tiến đến đống lửa vừa đúng lúc gã tình nhân nhảy lên chụp lấy tay ả, hét to rằng vị Bà-la-môn thật đáng xấu hổ vì đã bắt buộc một thiếu nữ diễm lệ thế kia phải nhảy vào lửa đỏ! Cô gái giật mạnh tay ra khỏi tay gã, và kêu ca rằng lời xác nhận trước đây của ả đã bị làm hỏng mất rồi, nên bây giờ ả không thể thử lửa được nữa! Vị Bà-la-môn hỏi:

– Tại sao lại không được?

Cô ả đáp:

-Bởi vì trước kia thiếp xác nhận không hề có bàn tay nam nhân nào đụng vào người thiếp trừ tay chàng ra, nhưng bây giờ lại có một người đàn ông vừa chụp lấy tay thiếp!

Nghe vậy, vị Bà-la-môn biết rằng mình đã bị lừa, liền tống cổ cô ả ra khỏi nhà bằng những cái đấm thẳng tay!

Xem đấy, chúng ta biết rõ sự hư thân mất nết của đàn bà ra sao rồi. Không có tội lỗi nào mà chúng không phạm đến cả, rồi sau đó muốn đánh lừa các ông chồng, thì có lời thề thốt nào chúng không nói bừa cho xong đã chứ! Ngay giữa ban ngày ban mặt thế mà dám cho rằng chẳng hề phạm tội gì cả đấy! Lòng dạ chúng thật giả dối điêu ngoa làm sao! Do đó từ xưa đã có tục ngữ như vầy:

Một giống toàn lừa phỉnh, dối gian,
Làm sao hiểu nổi, cứ tung tăng
Như đàn cá lội theo dòng nước,
Lộng giả thành chân, thói các nàng!
Tựa giống bò tham đồng cỏ mới,
Má đào mơ ước đổi tình lang
Khác nào cát lún, không hề thỏa,
Ðộc dữ như loài rắn hổ mang!
Bọn nữ nhi thường rành mọi sự,
Còn ghi giấu được đám hồng nhan?

*

Quả thật không làm sao giữ nổi đàn bà, bậc Ðạo Sư nói.

Khi pháp thoại chấm dứt, Ngài tuyên thuyết các Sự thật. Đến cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo bị tham ái chi phối kia đắc quả Dự lưu. Bậc Ðạo Sư cũng nêu mối liên hệ giữa hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ta là vua Ba-la-nại kia vậy.

  1. CHUYỆN HIỀN SĨ CHÀ LÀ (Tiền thân Takka)

Bọn nữ nhân đầy rẫy hận sân…,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo bị tham dục chi phối. Khi được hỏi, vị Tỷ-kheo thú nhận rằng mình bị tham dục chi phối, bậc Ðạo Sư hỏi:

– Ðàn bà thật vong ân bội nghĩa, tại sao ông lại để dục tham chi phối vì họ?

Và Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát đã chọn đời ẩn sĩ, xây dựng cho mình một am thất bên bờ sông Hằng, tại đó ngài đã đạt các Thắng trí cùng các Thiền chứng, và an trú trong Thiền lạc. Thời ấy, vị quan giữ công khố ở thành Ba-la-nại có một cô con gái rất hung dữ, độc ác được mệnh danh là Ác Tiểu thư, thường hay mắng chửi đánh đập gia nhân, nô tỳ của mình.

Một ngày kia, bọn gia nhân đưa cô tiểu chủ đến vui chơi giải trí trên sông Hằng; cả đám đang đùa giỡn tung tăng trên mặt nước thì mặt trời lặn dần và một cơn bão lớn bỗng nổi lên. Vì thế, mọi người vội vã chạy trốn, còn lại bọn nữ tỳ của nàng kêu to: “Ðây chính là thời cơ tống khứ kẻ ác độc này đi!”. Rồi chúng ném thẳng cô gái xuống nước và vội vã bỏ về. Mưa trút xuống như thác, mặt trời dần khuất và màn đêm xuống rất nhanh.

Khi bọn nô tỳ về nhà mà không có cô tiểu chủ, liền bị tra hỏi tiểu thư đâu, họ đều thưa rằng tiểu thư đã bước lên khỏi bờ sông, nhưng họ không biết nàng đã đi đâu cả. Gia đình này đi tìm kiếm khắp nơi, nhưng không thấy tung tích cô gái đi lạc.

Trong lúc ấy, nàng kêu gào thất thanh vì bị nước lũ cuốn theo, đến nửa đêm thì trôi dạt vào gần am thất của Bồ-tát. Nghe tiếng cầu cứu, ngài tự nhủ: “Ðây là tiếng đàn bà kêu cứu. Ta phải cứu người ấy khỏi nước cuốn mới được”. Thế là ngài cầm ngọn đuốc cỏ soi sáng để tìm thấy nàng giữa dòng nước.

– Ðừng sợ! Ðừng sợ!

Ngài vui mừng kêu lên và lội xuống, rồi nhờ sức lực cường tráng như voi của ngài, ngài đưa cô gái vào bờ an toàn. Sau đó, ngài nhóm lửa trong am thất để sưởi ấm nàng và mang trái cây ngon ngọt đủ loại cho nàng dùng. Khi nàng vừa ăn, ngài hỏi:

– Nhà cô nương ở đâu, cớ sao lại rơi xuống sông?

Cô gái kể hết mọi việc đã xảy ra cho mình. Ngài bảo:

– Cô nương cứ tạm thời ở lại đây.

Ngài để cô gái ở trong am thất, còn phần ngài ra ở ngoài trời khoảng hai, ba ngày. Sau đó, ngài bảo cô gái ra đi, song cô ả cứ nấn ná ở lại cho đến khi quyến rủ được vị ẩn sĩ này say mê mình mà cô vẫn không chịu đi đâu cả. Thời gian qua cô gái dùng mọi vẻ yêu kiều của mỹ nhân kế khiến ngài mất hết thiền lực trí tuệ. Ngài vẫn cùng nàng ấy sống trong rừng.

Nhưng nàng lại không thích ở nơi hiu quạnh mãi, nên đòi ngài đem về nơi có dân cư. Thế là chìu theo lời năn nỉ ỉ ôi kia, ngài đành đem nàng ấy ra đi đến một làng ở biên địa, nuôi sống nàng bằng cách bán quả chà là, nên được gọi tên là “Hiền sĩ Chà Là”. Dân làng nhờ ngài dạy cho cách biết trước lúc được mùa hoặc mất mùa, rồi trả tiền cho ngài và biếu ngài một túp lều để sống ở cổng làng.

Bấy giờ vùng biến địa hay bị bọn cướp từ núi xuống tàn hại phá phách. Ngày kia bọn chúng tấn công vò làng ngài đang ở và cướp của cải. Chúng bắt dân làng khốn khổ kia thu góp hết tài sản cho chúng rồi cao chạy xa bay, mang theo cô tiểu thư con quan thủ khố cùng với nhiều người khác về sào huyệt của chúng. Ðến nơi, chúng thả mọi người kia ra, song giữ lại cô gái có nhan sắc ấy để làm áp trại phu nhân của viên tướng cướp thủ lãnh.

Khi Bồ-tát biết việc này, ngài suy nghĩ: “Chắc nàng sẽ không chịu ở xa ta đâu. Nàng sẽ trốn về đây với ta”. Thế rồi ngài vẫn ở đó chờ đợi nàng trở về. Trong lúc ấy nàng thấy rất hạnh phúc và được phỉ nguyện với bọn cướp kia, nên cứ nơm nớp lo sợ có ngày vị Hiền sĩ bán chà là đến bắt nàng đi về lần nữa. Nàng nghĩ thầm: “Ta sẽ được an lạc hơn nếu vị ấy chết đi. Vậy ta phải nhắn tin cho vị ấy giả vờ làm vẻ thương yêu để dụ vị ấy đến đây mà chịu chết cho xong”. Sau đó nàng tìm cách đưa tin cho ngài biết là nàng đang khổ sở lắm, và nàng mong ước ngài đến cứu đi về.

Ngài tin lời nàng, vội lên đường đến cổng làng của bọn cướp, nhắn tin cho nàng. Nàng bảo:

– Bây giờ ta trốn đi chắc phải rơi vào tay tên thủ lãnh và hắn giết ta thôi. Vậy ta hãy đợi đến nửa đêm rồi đào tẩu.

Thế là nàng đem giấu ngài trong phòng, vào nửa đêm tên cướp trở về nực nồng hơi rượu, nàng hỏi hắn:

– Này lang quân, chàng sẽ làm gì nếu tình địch ở trong tay chàng?

Hắn bảo sẽ làm thế này thế nọ đối với tình địch. Nàng bảo:

– Có lẽ gã kia cũng không ở đâu xa xôi như chàng tưởng đâu. Hiện nó đang ở trong phòng kế bên ấy.

Cầm vội ngọn đuốc, tên cướp chạy vào chụp lấy Bồ-tát đánh đấm khắp mình mẩy cho hả giận. Cam lòng chịu đựng những cái đánh đấm kia, Bồ-tát không hề kêu than gì, mà chỉ thì thầm:

– Ôi phường vong ân bội nghĩa, thật là gian ác. Bọn lừa đảo điêu ngoa xảo trá thế là cùng. Ngài chỉ nói chứng ấy thôi.

Sau khi đã đánh đập và trói chân Bồ-tát lại, tên cướp ăn uống xong liền nằm lăn ra ngủ. Sáng dậy, sau giấc ngủ tiêu tan hết cơn say sưa hồi hôm, tên cướp lại đánh đập Bồ-tát lần nữa, ngài cũng không kêu than gì, mà chỉ lặp lại mấy lời trên. Tên cướp ngạc nhiên trước chuyện này và hỏi lý do tại sao khi bị đánh đập, ngài cứ nói mãi như thế.

Hiền sĩ Chà Là đáp:

– Này nghe đây, rồi người sẽ hiểu rõ. Trước kia ta là ẩn sĩ độc cư trong rừng hoang, đã chứng đắc Thiền định Thắng trí. Sau đó, ta cứu người đàn bà này ra khỏi sông Hằng và giúp đỡ nó đủ mọi nhu cầu, song đã bị nó quyến rủ nên mất hết Thắng trí. Rồi ta từ bỏ rừng sâu, đem nó về làng sinh sống, từ đó nó bị cướp mang đi. Nó lại nhắn tin cho ta là nó đang chịu khổ sở và xin ta đến giải cứu nó. Nay nó đưa ta vào tay ngươi, vì vậy ta cứ kêu lên như thế đó.

Nghe vậy, tên cướp bắt đầu suy nghĩ lại, hắn thầm nhủ: “Nếu cô ả chẳng chút thương tiếc một người tốt đã từng làm ơn cô ả nhiều như vậy, thì ả sẽ không làm hại ta sao được? Ả phải chết!”.

Thế là sau khi an ủi Bồ-tát xong, hắn đánh thức cô ả dậy, vừa cầm kiếm trong tay, hắn vừa bảo rằng hắn sắp giết Bồ-tát ngoài cổng làng. Rồi bảo ả giữ chặt Hiền sĩ Chà Là, hắn tuốt kiếm ra, làm vẻ sắp giết ngài, nhưng lại chặt làm đôi cô ả đàn bà kia. Xong xuôi hắn tắm gội cho Bồ-tát sạch sẽ từ đầu đến chân và tiếp đãi ngài đủ món cao lương mỹ vị suốt mấy ngày liền cho thỏa thích.

– Thế bây giờ ngài định đi đâu? Cuối cùng tướng cướp hỏi:

– Trần thế chẳng có gì vui thú đối với ta cả, bậc hiền sĩ nói. Ta sẽ sống đời ẩn sĩ như xưa kia tại am thất cũ trong rừng.

– Thế thì kẻ hèn này cũng muốn làm ẩn sĩ.

Như vậy cả hai đều trở thành ẩn sĩ sống tại am thất trong rừng kia, cùng đắc các Thắng trí và các Thiền chứng, cho đến khi mạng chung thì thọ sanh lên Phạm thiên giới.

*

Kể câu chuyện ấy xong, bậc Ðạo Sư nêu lên sự liên hệ giữa hai câu chuyện qua các vần kệ sau:

Bọn nữ nhân đầy rẫy hận sân,
Nói mồm hai lưỡi, bọn vong ân,
Kẻ gieo chia rẽ, rồi gây chiến,
Vậy hỡi Tỷ-kheo, hãy bước chân
Thẳng tiến đường thanh cao chánh hạnh
Rồi ngươi thấy Cực-lạc siêu trần.

Khi pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự thật. Lúc kết thúc bài giảng, vị Tỷ-kheo bị tham dục chi phối đắc quả Dự lưu. Và bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda là tướng cướp và Ta chính là Hiền sĩ Chà Là kia vậy.

  1. CHUYỆN NGƯỜI VỢ KHÓ HIỂU (Tiền thân Duràjàna)

Chàng tưởng má hồng yêu mến chăng?…

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một nam cư sĩ. Chuyện kể rằng thời ấy tại Xá-vệ có một nam cư sĩ thọ Tam quy và Ngũ giới, là một đệ tử thuần thành của Phật, Pháp, Tăng. Nhưng vợ người này là một nữ nhân độc ác, nham hiểm. Vào những ngày người vợ ấy phạm lỗi lầm, nàng nhu mì nhẫn nhục như một nữ tỳ được mua về với giá một trăm đồng tiền, còn những ngày nàng không phạm tội gì, thì nàng lên mặt bà chủ nhà hay giận dữ và khắc nghiệt. Người chồng không sao hiểu nổi nàng. Nàng cứ làm khổ người chồng đến độ chàng không đến yết kiến đức Phật được.

Một ngày kia, chàng mang hương hoa đến, sau khỉ đảnh lễ kính cẩn xong, chàng ngồi xuống thì bậc Ðạo Sư bảo:

– Này nam cư sĩ, làm sao đã bảy tám ngày qua ông không đến hội kiến Như Lai?

– Bạch Thế Tôn, vợ con có ngày thì dễ bảo như một tỳ nữ mua về với giá một trăm đồng tiền, vào ngày khác thì hay giận dữ khắt khe như một bà chủ. Con không làm sao hiểu vợ con được. Chính vì vợ con làm phiền lòng con đến độ con không đến hầu đức Thế Tôn lâu nay.

Khi nghe người ấy nói vậy, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này cư sĩ, ông đã được các bậc hiền trí từ xưa nói cho biết rằng thật khó hiểu được bản tính nữ nhân.

Và Ngài nói thêm:

– Nhưng vì các tiền kiếp đã trở nên lẫn lộn trong trí ông nên ông không nhớ nổi.

Nói vậy xong Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát làm một vị giáo sư danh tiếng lừng lẫy khắp nơi, với năm trăm thanh niên Bà-la-môn thọ giáo với ngài. Trong số đó có một thanh niên từ phương xa đến, chàng đã yêu một thiếu nữ và cưới người đó làm vợ.

Dù chàng đang sống tại Ba-la-nại, chàng vẫn không thể nào đến hầu sư phụ trong hai ba lần liền, vì vợ chàng là người đàn bà độc ác, hễ ngày nào phạm lỗi lầm thì nàng ra vẻ nhu mì như một tỳ nữ, còn ngày nào không làm gì sai trái thì nàng lên mặt một bà chủ hay nóng giận, khắc nghiệt. Chồng nàng không thể nào hiểu nổi tính nàng ra sao cả, và chán quá, bực mình, khổ sở vì nàng đến độ chàng không đến hầu hạ sư phụ. Bấy giờ, bảy tám ngày sau, chàng lại đến hội kiến ngài, và được Bồ-tát hỏi tại sao lâu nay vắng mặt.

Chàng đáp:

– Bạch sư phụ, nguyên nhân là tại vợ con.

Rồi chàng kể cho Bồ-tát nghe, nàng đã nhu mì ra sao trong lúc làm vẻ như một tỳ nữ, lúc khác lại khắt khe chuyên quyền khiến chàng không sao hiểu nàng được. Và chàng quá phiền muộn khổ sở vì tánh tình thất thường của nàng nên đã vắng mặt như thế.

– Này cậu trai Bà-la-môn, rõ ràng như vậy, vào ngày lầm lỗi, đàm bà tỏ ra khúm núm trước mặt chồng mình và nhẫn nhục như bọn tỳ nữ; còn ngày nào không lầm lỗi, họ tỏ ra cứng đầu bướng bỉnh với cả phu quân. Ðàn bà độc ác nham hiểm như thế đấy, khó mà biết được bụng dạ họ ra sao. Vậy cậu không nên quan tâm đến những sở trường sở đoản của họ làm gì.

Nói vậy xong, Bồ-tát ngâm kệ này để khích lệ đệ tử ngài:

Chàng tưởng má hồng yêu mến chăng?
Này chàng trai hỡi, chớ vui mừng!
Tưởng là nàng chẳng yêu chàng nữa?
Nhẫn nại mà thôi, chớ oán hờn.
Lòng dạ đàn bà ai hiểu được.
Như bầy cá lội nước tung tăng!

Ðó là lời khuyến cáo của Bồ-tát đối với đệ tử ngài, nên từ đó chàng chẳng còn quan tâm đến tính thất thường của nàng nữa. Còn nàng, khi nghe nói nết hạnh kém cỏi của mình đã đến tai Bồ-tát, thì nàng bỏ ngay thói hư tật xấu kia, không còn tái phạm.

Phần người vợ của nam cư sĩ này tự nhủ: “Người ta bảo là đức Phật đã hiểu rõ thói hư tật xấu của mình rồi!”. Từ đó nàng không còn sai phạm lỗi lầm như trước kia.

*

Khi chấm dứt pháp thoại, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Sự thật. Đến lúc kết thúc bài giảng, vị nam cư sĩ đắc quả Dự lưu. Sau đó bậc Ðạo Sư nêu liên hệ giữa hai chuyện và nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy hai vợ chồng kia là hai vợ chồng ngày nay, và Ta chính là vị giáo sư ấy.

  1. CHUYỆN NỖI BẤT MÃN. (Tiền thân Anabhirati)

Khác gì xa lộ, các dòng sông…

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, cũng về một nam cư sĩ như chuyện trước. Người này, trong lúc tìm hiểu, đã biết chắc chắn về sự hư hỏng của vợ mình, liền cãi vã với nàng, kết quả là người ấy bực bội đến độ bảy tám ngày liền không đến yết kiến bậc Ðạo Sư.

Một ngày kia, chàng đến tinh xá, đảnh lễ đức Thế Tôn và ngồi xuống. Khi được hỏi tại sao chàng vắng mặt bảy tám ngày qua, chàng đáp:

– Bạch Ðức Thế Tôn, vợ con hư hỏng khiến con quá phiền lòng về việc ấy đến độ không đến đây được.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này cư sĩ, ngày xưa người hiền thiện đã khuyên ông đừng buồn giận vì thói hư tật xấu của đàn bà mà phải giữ lòng bình thản; tuy vậy, ông đã quên chuyện này vì vòng luân hồi sinh tử đã che mắt ông.

Nói vậy xong, theo lời thỉnh cầu của vị cư sĩ, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát là một vị giáo sư tiếng tăm lừng lẫy khắp nơi, như trong chuyện trước. Một đệ tử của ngài biết được vợ mình hư hỏng, lấy làm phiền muộn về điều khám phá trên, đến độ lánh mặt đi vài ngày, nhưng một ngày kia được vị giáo sư hỏi thăm lý do vắng mặt của chàng, chàng liền thổ lộ tâm sự của mình. Sau đó vị giáo sư bảo:

– Này con, chẳng có gì riêng tư trong bọn đàn bà cả. Họ là của chung cho mọi người đấy. Vì vậy khi người trí biết được nhược điểm của họ, các vị ấy không tức giận vì họ nữa.

Nói vậy xong, ngài ngâm kệ này để khích lệ tinh thần đệ tử:

Khác gì xa lộ, các dòng sông,
Nhà trọ, sân vườn, các quán ăn,
Tửu điếm mở ra mời tất cả.
Thập phương lữ khách, thói ân cần
Thường tình nhi nữ là như thế,
Người trí không hề tỏ hận sân
Hạ cố bận lòng vì nhược điểm
Của loài liễu yếu, bọn hồng quần.

Ðó là lời khuyến cáo của Bồ-tát đối với đệ tử ngài, từ đó về sau vị này giữ bình thản trước mọi việc làm của nữ giới. Còn người vợ kia cũng được cảm hóa ngay khi nghe vị giáo sư đã biết rõ bản chất mình, nên nàng từ bỏ thói hư tật xấu cũ. Và vợ của người cư sĩ cũng vậy, khi nghe rằng bậc Ðạo Sư đã hiểu rõ bản chất của mình, liền từ bỏ thói hư tật xấu cũ.

*

Khi pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự thật. Đến lúc kết thúc bài giảng, vị cư sĩ đắc quả Dư lưu. Bậc Ðạo Sư cũng nêu sự liên hệ giữa hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân:

– Hai vợ chồng này ngày nay cũng là hai vợ chồng ngày xưa, và ta chính là vị giáo sư Bà-la-môn ấy.

  1. CHUYỆN HOÀNG HẬU TỪ TÂM (Tiền thân Mudulakkhana)

Trước thời ta được Từ tâm…

Câu chuyện này được bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về tính tham đắm ái dục. Chuyện kể rằng một thiện gia nam tử ở Xá-vệ, sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, liền thành tâm hướng về Tam Bảo. Vị ấy xuất gia sống đời Phạm hạnh, theo đúng Chánh đạo, thực hành Thiền định và không bao giờ xao lãng trầm tư đối với đề tài Thiền quán mà vị ấy đã chọn.

Một ngày kia, trong lúc đang khất thực tại thành Xá-vệ, vị ấy chợt gặp một nữ nhân có nhan sắc quyết rủ, khiến vị ấy ham thích nên đã vi phạm giới luật tu hành là đưa mắt ngắm nàng! Dục tham bỗng khởi lên trong tâm vị ấy, khiến chẳng khác gì cây sung bị búa rìu đốn ngã xuống đất.

Từ ngày ấy, do dục tham chi phối, thâm tâm vị ấy đều mất hết sinh thú trong đời sống tu hành, cũng chẳng tìm được Pháp lạc, vị ấy chẳng khác gì một con thú hoang trong rừng, cứ để râu tóc, móng tay chân mọc dài ra dần và y phục bẩn thỉu hôi hám.

Khi các vị đồng Phạm hạnh biết được tâm trạng khổ đau của vị ấy, liền bảo:

– Này Hiền giả, tại sao tâm trí Hiền giả chẳng được như trước?

Vị ấy đáp:

– Niềm an lạc của ta đã mất rồi.

Tăng chúng liền dẫn vị ấy đến yết kiến bậc Ðạo Sư, ngài hỏi tại sao chúng Tăng dẫn vị Tỷ-kheo ấy đến dù vị ấy không muốn.

– Bạch Thế Tôn, vì niềm an lạc của vị ấy đã mất rồi.

– Này Tỷ-kheo, có đúng vậy chăng?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

– Vậy ai đã khiến ông phải phiền não?

– Bạch Thế Tôn, trên đường đi khất thực, con đã vi phạm giới luật của bậc Thánh khi nhìn ngắm một nữ nhân, và tham dục khởi lên trong tâm con, vì thế con sinh ra phiền não.

Bậc Ðạo Sư liền bảo:

– Này Tỷ-kheo, chẳng có gì lạ khi ông vi phạm giới luật vì ham dục lạc, ông đã nhìn ngắm một đối tượng trái với giới luật và bị tham dục chi phối.

Thuở xưa, ngay cả những bậc đã đắc năm Thắng trí và tám Thiền chứng, những bậc đã dập tắt dục tham nhờ uy lực của Thiền quán, tâm đã được thanh tịnh và đôi chân đã có thể rảo bước giữa không gian, ngay cả các vị Bồ-tát, mà chỉ vì vi phạm giới luật khi nhìn ngắm một đối tượng ngoài thông lệ, nên phải để mất hết Thiền lực, tâm bị tham dục khuấy động và phải chịu đại phiền não. Thế thì trận cuồng phong đủ năng lực xô ngã núi Tu-Di có sá gì mà quan tâm đến một ngọn đoài trọc không lớn hơn con voi; cơn gió thổi mạnh làm bật gốc cây hồng đào vĩ đại có màng gì bụi cỏ bên vách đá; hay cơn gió càn quét khô cạn cả đại dương có kể gì đến cái ao bé tí kia chứ? Nếu tham dục có uy lực làm cuồng si tâm trí của các vị Bồ-tát đã giác ngộ và thanh tịnh, thì làm sao tham dục lại phải nao núng trước ông kia chứ? Này, ngay cả những người đã thanh tịnh cũng bị tham dục làm lạc hướng và người đã đạt đến vinh quang tột đỉnh cũng phải chịu khổ nhục suy tàn.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát thọ sanh vào một gia đình Bà-la-môn giàu có tại quốc độ Kàsi. Khi ngài trưởng thành và việc học vấn đã hoàn mãn, ngài từ bỏ dục tham, xuất gia sống đời ẩn sĩ, đi vào chốn độc cư ở núi Tuyết Sơn. Tại đó, nhờ thành tựu các pháp môn đưa đến Thiền định, ngài đã đạt các Thắng trí và các Thiền chứng, và sống an vui như vậy trong Thiền lạc vi diệu.

Vì thiếu muối và giấm, một ngày kia ngài vào Ba-la-nại, tại đó ngài đến cư trú trong ngự viên của nhà vua. Ngày kế tiếp, sau khi đã tắm rửa xong thân mình, ngài xếp chiếc y bằng vỏ cây vẫn thường đắp, khoác lên vai tấm da linh dương màu đen, buộc các cuộn tóc rối thành một búi trên đỉnh đầu và mang đòn gánh với hai thúng trên lưng, ngài bắt đầu du hành để khất thực.

Trên đường đi đến cổng hoàng cung, oai nghi của ngài khiến nhà vua thán phục và truyền mời ngài vào. Thế là vị ẩn sĩ được đặt lên một bảo tọa cực kỳ huy hoàng lộng lẫy và thết đãi mọi thứ cao lương mỹ vị. Khi ngài nói lời tùy hỷ công đức, ngài lại được mời đến cư ngụ ở hoa viên. Vị ẩn sĩ nhận lời mời và trong mười sáu năm liền sống ở hoa viên, thường thuyết giáo cho cả hoàng gia và thọ hưởng ngự thiện do vua cúng dường.

Bấy giờ, một ngày kia vua phải ra chốn biên địa để dẹp loạn. Song trước khi khởi hành, vua ủy thác cho Hoàng hậu được mệnh danh là Từ Tâm, phải cung cấp các vật dụng cần thiết cho vị ẩn sĩ thanh tịnh kia. Vì vậy, sau khi vua ra đi, Bồ-tát vẫn thường đi đến cung điện khi ngài muốn.

Một ngày kia hoàng hậu Từ Tâm đã chuẩn bị một bữa cơm dâng cúng Bồ-tát, nhưng vì ngài đến muộn nên hoàng hậu vô phòng tắm rửa. Sau khi tắm nước hoa xong, bà vận xiêm y hết sức lộng lẫy, và nằm xuống đợi ngài đến trên một bảo tọa nhỏ trong một khách sảnh rộng lớn.

Khi vừa xuất khỏi Thiền định, thấy đã trễ giờ, Bồ-tát liền phi hành qua không gian để đến cung điện. Chợt nghe tiếng sột soạt của chiếc y bằng vỏ cây, hoàng hậu vội vã đứng dậy để đón tiếp ngài. Trong lúc vội vàng, chiếc y của hoàng hậu tuột xuống, để lộ mọi vẻ kiều diễm của bà trước mặt vị ẩn sĩ khi ngài vừa đến cửa. Thấy vậy, ngài bỗng ham thích chiêm ngưỡng sắc đẹp nữ nhân kỳ diện kia nên đã phạm Giới đức: Lửa dục nhen nhúm trong tâm ngài, khiến ngài giống như thân cây to bị chiếc rìu đốn ngã.

Lập tức ngài đánh mất Thiền lực, ngài chẳng khác gì con quạ bị cắt cụt đôi cánh. Ngài vẫn đứng yên tay nắm chặt thức ăn, nhưng ngài không ăn được mà bước ra đi, toàn thân rung động vì dục vọng, ngài trở về am thất trong vườn hoa, nằm xuống trên sàng tọa bằng gỗ, và suốt bảy ngày liền chịu đói khát, toàn thân bị siết chặt trong vòng vây của sắc đẹp yêu kiều kia, nội tâm ngài như bị lửa dục thiêu đốt bừng bừng.

Vào ngày thứ bảy, nhà vua trở về sau khi đã bình định biên thùy. Vừa ngự vương xa giữa đám rước linh đình quanh hoàng thành xong, vua đi vào cung. Rồi vua muốn thăm vị ẩn sĩ kia ngay, bèn đi đến hoa viên. Tại am thất, vua thấy Bồ-tát đang nằm trên sàng tọa. Tưởng vị ẩn sĩ bị bệnh, vua ra lệnh quét dọn sạch sẽ am thất và vừa vỗ vào chân ẩn sĩ ấy vừa hỏi ngài bị bệnh gì.

– Tâu Ðại vương, tâm ta đang bị dục tham trói buộc: đó là căn bệnh duy nhất của ta.

– Ngài có tham dục đối với ai?

– Tâu Ðại vương, với hàng hậu Từ Tâm đấy.

– Vậy thì từ nay Hoàng hậu thuộc về ngài, trẫm ban nàng cho ngài đấy. Nhà vua bảo.

Sau đó, nhà vua cùng vị ẩn sĩ đến cung điện ra lệnh cho hoàng hậu phục sức cực kỳ lộng lẫy rồi trao bà cho Bồ-tát. Nhưng trong lúc ban tặng hoàng hậu, nhà vua bí mật ủy thác bà phải đem hết sức mình cứu nạn cho vị ẩn sĩ thanh tịnh ấy. Hoàng hậu bảo:

– Xin Thánh thượng đừng lo ngại, thần thiếp sẽ đi cứu ngài.

Thế là cùng với hoàng hậu, vị tu khổ hạnh ra khỏi cung điện. Sau khi đã vượt qua Ðại hoàng môn, hoàng hậu kêu lên rằng hai người phải có một ngôi nhà để ở, thế là ngài phải trở lại để xin vua một cái nhà. Và vua ban cho hai vị một túp lều đổ nát mà khách qua đường dùng làm nhà tắm. Vị ẩn sĩ đưa hoàng hậu đến đó nhưng bà không chịu bước vào trong vì nó dơ bẩn quá.

Ngài kêu lên:

– Vậy ta còn phải làm gì nữa?

Bà đáp:

– Này, chàng hãy dọn dẹp nhà cửa cho sạch sẽ.

Bà lại bảo ngài trở về cung vua xin một cái cuốc và một cái thúng, rồi bảo ngài khuân hết mọi rác rưới dơ bẩn đi. Xong lại bảo đi tìm phân bò về trét lên các bức tường. Hết việc ấy, bà bảo ngài đi đóng cái giường, cái ghế, trải một tấm nệm, lấy một bình nước, một cái chén, cứ mỗi lúc lại bảo đi tìm một món. Kế đó bà lại bảo ngài đi gánh nước về và thêm cả ngàn việc khác nữa. Thế là ngài ra đi tìm nước đổ đầy bình, xong lấy nước về tắm rửa và dọn giường. Vừa khi ngài ngồi trên giường cùng bà, bà liền nắm râu ngài kéo ngài xuống đối mặt mình và bảo:

– Thế ngài đã quên rằng ngài là một Bà-la-môn thanh thịnh rồi sao?

Nghe thế, ngài liền tỉnh ngộ sau một thời gian cuồng tâm loạn trí. (Nhân đây cũng nên nhắc lại bài thuyết giảng bắt đầu bằng: Như vậy Dục tham Triền cái được gọi là Ác dục vì chúng phát khởi từ Vô minh, này các Tỷ-kheo, những gì phát khởi từ Vô minh đều tạo nên khối Si ám dày đặc).

Thế là sau khi hồi tỉnh, ngài suy nghĩ thấy rõ bằng cách nào, khát ái này trở nên mãnh liệt dần dần sẽ đưa ngài đến bốn đọa xứ. Ngài kêu lên:

– Nội ngày hôm nay ta quyết đưa nữ nhân này trả lại cho nhà vua và bay thẳng lên núi!

Ngài liền cùng hoàng hậu đến yết kiến vua và nói:

– Tâu Ðại vương, ta không còn ham muốn hoàng hậu nữa, chính vì hoàng hậu mà trước đây khát ái đã bừng dậy trong lòng ta.

Nói vậy xong, ngài ngâm kệ:

Trước thời ta được Từ Tâm,
Lòng ta chỉ một ước mong: chiếm nàng.
Ðến khi nhan sắc nữ hoàng
Ngự trong tâm trí, ta càng đắm mê,
Dục tham dồn dập tứ bề,
Ðại vương, ta quyết bay về núi xưa.

Lập tức Thiền lực trước kia đã mất nay trở lại với ngài. Nhảy vụt lên từ mặt đất và trụ giữa hư không, ngài thuyết pháp cho vua và phi hành qua không gian đến dãy Tuyết Sơn. Ngài không bao giờ trở lại đường thế tục nữa, mà tu tập phát khởi Từ Bi tâm cùng với Thiền quán không gián đoạn, cho đến khi ngài mệnh chung và tái sanh vào Phạm thiên giới.

*

Khi pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư thuyết giảng Bốn Sự thật. Vào lúc kết thúc bài giảng, vị Tỷ-kheo đắc quả A-la-hán. Bậc Ðạo Sư cũng nêu lên mối liên hệ giữa hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda là nhà vua, Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) là Từ Tâm và Ta là ẩn sĩ ấy.

  1. CHUYỆN NGƯỜI ÐÀN BÀ THÔN QUÊ (Tiền thân Ucchanga)

Tìm kiếm chồng con thật dễ dàng…,

Câu chuyện này do Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một người đàn bà ở thôn quê.

Một thuở nọ, trong quốc lộ Kosala, có ba người đang cày ruộng ở ven rừng, cùng lúc, một bọn cướp phá hại dân chúng trong rừng xong và đang đào tẩu. Các nạn nhân chạy vào rừng tìm kiếm bọn vô lại nhưng hoài công, khi đến tận nơi ba người cày ruộng, họ la lên:

– Ðây là bọn sơn tặc giả dạng nông phu!

Thế là họ kéo cả ba tội nhân đến trình vua Kosala. Lúc bấy giờ có một người đàn bà đến cung vua khóc than kể lễ thảm thiết xin có được cái gì đó để che thân. Nghe tiếng kêu than, nhà vua ra lệnh ban cho người đàn bà ấy một tấm áo, nhưng nàng từ chối bảo rằng đấy không phải là thứ nàng muốn xin. Vì vậy thị nữ của vua trở lại trình rằng người đàn bà ấy không cần áo quần mà cần một tấm chồng! Sau đó vua truyền đưa người đàn bà vào chầu và hỏi có phải nàng muốn kiếm chồng thật chăng.

– Tâu Ðại vương, đúng thế, người đàn bà đáp. Vì người chồng mới thực sự là vật che thân cho đàn bà, còn người đàn bà nào không có chồng thì dù cho nàng ấy mặc áo quần đáng giá cả ngàn đồng tiền, cũng chẳng khác gì mình trần thân trụi!

Và để làm cho lý lẽ này thêm vững mạnh, nàng lại ngâm câu tục ngữ này:

Khác nào đất nước vì vua,
Chẳng khác dòng sông suối cạn khô,
Cũng vậy mình trần thân lại trụi
Vì không tùng trúc cạnh đào tơ!
Nhìn xem quả thật nàng trơ trọi
Dù co mười anh ruột một nhà!

Vua hài lòng với lời giải đáp của người đàn bà, nên vua hỏi mối liên hệ giữa nàng với ba tội nhân kia ra sao. Nàng đáp rằng, một người là chồng nàng, một người là con trai nàng.

– Này, hãy nhận lấy một đặc ân của trẫm, vua bảo, trẫm sẽ ban cho nàng một trong ba người ấy, nàng chọn người nào?

– Tâu Ðại vương, nàng đáp, nếu tiện thiếp còn sống, tiện thiếp có thể lấy chồng khác sinh con khác; song nay cha mẹ thiếp đã mất rồi, chẳng bao giờ thiếp có anh em nào khác nữa. Vậy tâu Ðại vương, thiếp xin chọn người anh.

Nhà vua đẹp ý với nàng, bèn thả cả ba người, vậy chính người đàn bà này là phương tiện cứu nguy cho ba người đàn ông.

Khi Tăng chúng biết được chuyện này, liền khen ngợi người đàn bà kia trong pháp đường thì bậc Ðạo Sư bước vào. Ngài hỏi Tăng chúng đang bàn luận vấn đề gì và được kể như trên; Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên, này các Tỷ-kheo, người đàn bà này cứu nguy cho ba mạng sống ấy, mà ngày xưa cũng vậy.

Nói xong, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ khi vua Brahamadatta trị vì ở Ba-la-nại, ba người đàn ông cày ruộng ở ven rừng và mọi chuyện xảy ra như chuyện trên.

Khi được vua hỏi muốn chọn người nào trong ba người, nàng đáp:

– Tâu Ðại vương, Ðại vương có thể gia ân ban cho tiện thiếp cả ba người chăng?

Vua đáp:

– Không, trẫm không thể.

– Vậy tâu Ðại vương, nếu tiện thiếp không thể xin tha cả ba, thì mong Ðại vương ban cho thiếp người anh trai.

Vua đáp:

– Hãy nhận lấy người chồng hay con trai của nàng đi, chứ anh trai thì có quan hệ gì?

Người đàn bà đáp:

– Hai người kia có thể thay thế được, chứ anh trai thì không bao giờ có nữa.

Nói vậy xong, nàng lại ngâm khúc hát:

Tìm kiếm chồng con thật dễ dàng,
Tha hồ chọn chúng, đứng đầy đường,
Song tìm đâu được người anh nữa,
Dù khổ đau cho đến đoạn trường?

Vua đẹp ý, phán:

– Nàng ấy nói chí lý!

Vua bèn ra lệnh đưa ba người đàn ông kia từ ngục thất đến giao cho người đàn bà, nàng liền đưa cả ba người ra về.

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Ðạo Sư bảo, chính người đàn bà này thuở xưa kia đã có lần cứu mạng cho cả ba người đàn ông.

*

Khi pháp thoại chấm dứt, Ngài nêu sự liên hệ giữa hai chuyện và nhận diện Tiền thân:

– Người đàn bà và ba người đàn ông ngày nay cũng là người đàn bà và ba người đàn ông ngày trước và Ta chính là vua ấy.

  1. CHUYỆN THÀNH SAKETA (Tiền thân Saketa)

Ý an trú vào ai…,

Câu chuyện này, khi ở tại rừng Anjana, gần Saketa, bậc Ðạo Sư đã kể về một Bà-la-môn. Truyền thuyết nói rằng, trong khi Thế Tôn với chúng Tỷ-kheo vây quanh đang đi vào Saketa, một Bà-la-môn lớn tuổi ở tại Saketa, từ thành đi ra ngoài, thấy bậc Ðạo Sư tại ngưỡng cửa, cúi mình xuống chân Ngài, ôm chặt mắt cá và nói to:

– Này con thân, phải chăng cha mẹ khi già yếu phải được các con nuôi dưỡng? Sao mãi cho đến nay, con không để chúng ta thấy mặt con? Nay ta thấy con rồi. Hãy để cha mẹ thấy mặt con.

Nói vậy xong, người Bà-la-môn già dắt bậc Ðạo Sư vào nhà của mình. Bậc Ðạo Sư vào nhà, ngồi xuống trên ghế đã soạn sẵn cùng với chúng Tỷ-kheo. Vị nữ Bà-la-môn đi đến, cúi mình xuống chân bậc Ðạo Sư, khóc và nói:

– Này con thân, từ trước đến nay con đã đi đâu? Phải chăng cha mẹ khi già cả phải được các con hầu hạ?

Rồi bà gọi các con trai, con gái lại, bảo đảnh lễ anh cả. Hai vị hoan hỷ cúng dường bố thí lớn. Sau khi dùng cơm, bậc Ðạo Sư đọc cho hai vị Bà-la-môn bài kinh nói về Tuổi già (Kinh Tập, Chương 4). Sau bài kinh ấy, cả hai đều chứng quả Nhất lai. Rồi bậc Ðạo Sư từ chỗ ngồi đứng dậy, đi về rừng Anjana. Các Tỷ-kheo ngồi họp tại Pháp đường bắt đầu câu chuyện như sau:

– Này các Hiền giả, vị Bà-la-môn đã biết vua Tịnh Phạn là phụ thân của đức Như Lai, mẹ Ngài là Mahàmayà. Tuy vậy, ông cùng với nữ Bà-la-môn, cả hai gọi đức Như Lai là con của họ và bậc Ðạo Sư lại chấp nhận, việc này có lý do gì?

Bậc Ðạo Sư nghe câu chuyện của họ bèn nói:

– Này các Tỷ-kheo, cả hai vị ấy gọi Ta là con của họ như vậy là đúng.

Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

– Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, vị Bà-la-môn này là cha của Ta, tiếp tục như vậy không gián đoạn cho đến năm trăm đời, là cậu của Ta trong năm trăm đời, là ông của Ta trong năm trăm đời. Còn vị nữ Bà-la-môn này là mẹ của Ta, tiếp tục như vậy trong năm trăm đời, là bà của Ta trong năm trăm đời. Ta được lớn lên trong tay người Bà-la-môn trong một ngàn năm trăm đời, và trong tay vị nữ Bà-la-môn trong một ngàn năm trăm đời.

Sau khi kể về ba ngàn đời sống, bậc Ðạo Sư là bậc Chánh Ðẳng Giác đọc lên câu kệ này:

Ý an trú vào ai,
Tâm tư được hoan hỷ
Khi mới thấy lần đầu,
Hãy tin tưởng người ấy.

*

Như vậy, sau khi kể xong pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân:

– Vị Bà-la-môn và nữ Bà-la-môn này là hai vợ chồng trong các đời trước, còn người con trai là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON RẮN PHUN NỌC ÐỘC (Tiền thân Visavanta)

Ðáng rủa thay nọc độc…,

Câu chuyện này khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về vị tướng quân Chánh pháp. Theo truyền thuyết, trong một thời gian Trưởng lão ấy thường ăn các món làm bằng bột do các thiện nam tín nữ đem đến tinh xá cúng dường. Khi chúng Tỷ-kheo đã ăn đầy đủ, số bánh còn lại rất nhiều. Các vị thiện tín thưa:

– Thưa các Tôn giả, hãy lấy phần cho những vị đi vắng.

Trong lúc ấy, đệ tử cộng trú với Trưởng lão đã đi vào trong làng. Sau khi lấy phần cho người ấy, người ấy vẫn chưa về và thời gian đã quá trễ, người ta cúng dường phần ấy cho Trưởng lão. Khi Trưởng lão đang ăn thì vị Tỷ-kheo trẻ trở về. Trưởng lão nói với Tỷ-kheo trẻ ấy:

– Này Hiền giả, chúng tôi đã ăn phần của Hiền giả.

Vị ấy nói:

– Thưa Tôn giả, chúng ta đều thích đồ ngọt cả.

Bậc Ðại Trưởng lão cảm thấy xúc động, phiền lòng và quyết định từ lúc ấy trở đi không ăn bánh làm bằng bột nữa. Bắt đầu từ đấy, người ta đồn Trưởng lão Xá-lợi-phất không ăn bánh làm bằng bột như trước nữa. Sự không ăn bánh ấy của Trưởng lão được chúng Tỷ-kheo biết rõ. Các Tỷ-kheo nói về vấn đề này trong khi ngồi họp ở Pháp đường. Rồi bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang ngồi bàn tán về vấn đề gì?

Khi nghe vấn đề ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, khi Xá-lợi-phất đã từ bỏ vật gì, thì dù mất thân mạng, cũng không chấp nhận lại vật ấy.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình thầy thuốc chữa nọc độc rắn, và làm nghề thầy thuốc ấy để sinh sống. Bấy giờ, một con rắn cắn một người dân quê. Bà con kẻ ấy lập tức đưa kẻ ấy đến thầy thuốc. Thầy thuốc hỏi:

– Bà con muốn chữa trị với dược liệu và rút nọc độc ra, hay là bắt con rắn đã cắn và bảo nó hút nọc độc ra?

Theo yêu cầu, thầy thuốc cho bắt con rắn, và khi hỏi có phải nó cắn người ấy không, con rắn xác nhận chính nó cắn, thầy thuốc bảo:

– Ngươi hãy lấy miệng hút nọc độc của ngươi ra tại chỗ bị cắn.

Con rắn kêu:

– Từ trước tới nay, chưa có một lần nào ta lại hút nọc độc mà ta đã phun ra. Ta không hút nọc độc ấy đâu.

Thầy thuốc bảo đem lại củi, nhen lửa lên và nói:

– Nếu ngươi không hút nọc độc ra, ngươi phải bò vào lửa này.

Con rắn nói:

– Thà ta bò vào lửa chịu chết, nhưng ta sẽ không hút nọc độc mà ta đã một lần phun ra.

Rồi nó đọc bài kệ này:

Ðáng rủa thay nọc độc,
Một lần đã phun ra,
Nay lại vì mạng sống,
Ta phải hút trở vào.
Thà ta chết tốt hơn,
Là sống phải làm vậy.

Nói vậy xong, con rắn bò vào lửa. Thầy thuốc ngăn chận nó lại, rút nọc độc cho người bị nạn bằng thuốc và bùa chú, trao Giới cho con rắn, rồi thả rắn ra và nói:

– Bắt đầu từ nay, chớ làm hại một ai!

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Xá-lợi-phất mới từ bỏ vật gì một lần rồi, dầu phải mất thân mạng, cũng không chấp nhận lại vật ấy.

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp các câu chuyện và nhận diện Tiền thân:

– Thuở ấy, con rắn là Xá-lợi-phất, còn thầy thuốc là Ta vậy.

  1. CHUYỆN HIỀN GIẢ CÁI CUỐC (Tiền thân Kuddàla)

Chiến thắng ấy không tốt….,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về Trưởng lão tên là Cittahattha Sariputta. Trưởng lão ấy, theo truyền thuyết, là một thanh niên thuộc một gia đình tốt ở Xá-vệ. Một hôm, trên con đường về nhà, sau khi cày xong, thanh niên ấy đi vào tinh xá, nhận được các món ăn thượng vị béo và ngọt từ bát của một Trưởng lão. Kẻ ấy suy nghĩ: “Chúng ta ngày đêm tự tay làm nhiều công việc, nhưng không được các món ăn ngọt như thế này. Vậy ta hãy trở thành một Sa-môn!”. Kẻ ấy xuất gia, sau một tháng rưởi tinh cần, nhưng bị phiền não chinh phục, kẻ ấy hoàn tục. Rồi vì kiếm ăn mệt nhọc, kẻ ấy trở lại xuất gia, học Thắng Pháp.

Với phương diện này, sáu lần kẻ ấy hoàn tục, sáu lần xuất gia, nhưng đến lần thứ bảy trở lại thành Tỷ-kheo. Vị Tỷ-kheo này thông suốt bảy bộ A-tỳ-đàm (Thắng pháp), và do đọc lớn tiếng nhiều lần Giáo pháp của Tỷ-kheo, nhờ triển khai Thiền quán, vị ấy chứng quả A-la-hán. Các thân hữu Tỷ-kheo cười nhạo, nói:

– Này, Hiền giả, trước kia tâm Hiền giả là như vậy, này làm sao các phiền não không tăng trưởng được?

– Thưa các Hiền giả, từ hôm nay trở đi, tôi không có thể trở lui đời sống gia đình được.

Vấn đề vị này chứng quả A-la-hán như vậy được nói lên tại Pháp đường:

– Thưa các Hiền giả, dầu được căn duyên trở thành một vị A-la-hán như vậy, Tôn giả Cittahattha Sariphutta đã sáu lần từ bỏ đời xuất gia. Ôi thật sự là sai lầm cho tánh phàm phu của vị ấy!

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, nay các ông ngồi họp bàn vấn đề gì?

Khi nghe vấn đề ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, tâm của hạng phàm phu là nhẹ dạ, khó điều phục, bị các đối tượng chi phối, hay dính chặt. Một khi đã dính chặt, thì không thể thoát ly mau lẹ. Tâm tư như vậy được nhiếp phục thật là tốt lành. Một khi tâm được nhiếp nhục, thì nó đem lại an lạc.

Khó nắm giữ, khinh động,
Theo các dục quay cuồng.
Lành thay, điều phục tâm,
Tâm điều, an lạc đến. (Pháp Cú, 35)

Do tánh khó nhiếp phục này, thuở xưa các bậc hiền trí, chỉ vì một cái cuốc mà họ không thể bỏ được, vì lòng tham, sáu lần từ bỏ đời xuất gia. Chỉ lần xuất gia thứ bảy, Thiền định khởi lên, họ mới nhiếp phục được lòng tham ấy!

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một người làm vườn. Lớn lên Bồ-tát được gọi là bậc Hiền trí cái cuốc. Với cái cuốc, Bồ-tát dọn sạch khoảng đất, tự mình gieo trồng các loại như rau, bí, bầu, dưa leo và các thứ rau khác để bán và sinh sống một cách khó khăn. Ngoại trừ cái cuốc này ra, Bồ-tát không có một tài sản gì khác.

Một hôm, Bồ-tát suy nghĩ: “Ta sống trong gia đình làm gì? Hãy xin đi xuất gia”. Bồ-tát cất cái cuốc ấy vào một chỗ kín, xuất gia làm vị tiên nhân du sĩ. Lại nhớ đến cái cuốc ấy, không thể chặt đứt lòng tham vì cái cuốc sứt mẻ, Bồ-tát từ bỏ đời xuất gia. Như vậy lần thứ hai, lần thứ ba; cho đến lần thứ sáu, Bồ-tát chôn cái cuốc vào một chỗ kín, xuất gia rồi lại bỏ xuất gia. Ðến lần thứ bảy, Bồ-tát suy nghĩ: “Chỉ vì cái cuốc sứt mẻ này, ta tiếp tục từ bỏ xuất gia, nay ta sẽ quăng nó vào con sông lớn rồi sẽ xuất gia!”.

Bồ-tát đi đến bờ sông, lại nghĩ: “Nếu thấy được nơi cái cuốc bị rơi, thì ta có thể đi đến đó và vớt nó lên được”. Nghĩ vậy, với sức mạnh kiên trì như voi, Bồ-tát cầm cán cuốc quay tròn trên đầu ba lần, nhắm mắt lại, quăng cái cuốc vào giữa dòng sông, và rống lên tiếng rống con sư tử ba lần:

– Ta đã chiến thắng! Ta đã chiến thắng!

Lúc bấy giờ, vua Ba-la-nại, vừa dẹp xong loạn ở biên giới trở về, tắm trong con sông ấy. Sau khi trang điểm đủ mọi châu báu, vua ngồi trên lưng voi, đang đi, nghe tiếng Bồ-tát la lớn liền nghĩ: “Người này nói ta đã chiến thắng. Nó đã chiến thắng ai vậy? Ta hãy gọi nó”. Khi Bồ-tát đến, vua hỏi:

– Này bạn, ta vừa thắng trận ở chiến trường trở về. Còn bạn chiến thắng ai vậy?

Bồ-tát thưa:

– Thưa Ðại vương, một ngàn hay một trăm ngàn chiến trận được Ðại vương chiến thắng đều vô ích, nếu Ðại vương không tự mình chiến thắng các phiền não. Chính do chiến thắng tham dục trong nội tâm, ta đã chiến thắng các phiền não.

Trong khi nói vậy, Bồ-tát nhìn con sông lớn, khởi lên Thiền quán với đối tượng về nước, đắc Thiền chứng, ngồi trên hư không thuyết pháp cho vua, và đọc bài kệ này:

Chiến thắng ấy không tốt,
Nếu chiến thắng rồi bại.
Chiến thắng thật tốt lành
Là chiến thắng nội tâm.

Nhà vua nghe thuyết pháp, với sự đoạn trừ vọng kiến, các phiền não được đoạn tận, tâm tư hướng về xuất gia. Ngay lúc ấy, tham dục đối với vương vị cũng tiêu diệt. Vua hỏi Bồ-tát:

– Nay Bồ-tát sẽ đi đâu?

Bồ-tát trả lời sẽ đi vào Hy-mã-lạp Sơn, xuất gia làm vị tiên nhân du sĩ. Vua nói lên ý muốn xuất gia của mình và cùng đi với Bồ-tát. Toàn bộ số người, các Bà-la-môn gia chủ, toàn thể quần chúng hội họp tại chỗ ấy, tất cả đều cùng đi với vua. Dân chúng ở Ba-la-nại được nghe vua Ba-la-nại của họ hướng về xuất gia sau khi nghe bậc Hiền trí thuyết pháp, nghĩ rằng họ ở lại đấy làm gì, cũng xin đi xuất gia. Từ nội thành dài mười hai dặm, tất cả dân chúng trong thành đều ra đi. Hội chúng dài đến mười hai dặm cùng với Bồ-tát đi vào Hy-mã-lạp Sơn.

Bấy giờ, chiếc ngai của Thiên chủ Ðế Thích trở thành nóng. Tìm hiểu lý do, Ðế Thích thấy bậc Hiền trí đang tiến hành một đại sự xuất gia. Ước lượng số đại chúng và số trú xứ cần cho họ ở, Ðế Thích truyền gọi Vissakamma, Thần xây dựng của chư Thiên, và nói:

– Này, khanh thân, bậc Hiền trí đang tiến hành một đại sự xuất gia, cần phải có trú xứ cho họ ở. Hãy đi đến Hy-mã-lạp Sơn, trên một chỗ bằng phẳng, khanh hãy cho xây dựng một khu ẩn cư dài ba mươi dặm, rộng mười lăm dặm.

Vissakamma vâng lời và cho làm đúng như đã nói (Ðây chỉ là tóm tắt. Các chi tiết đầy đủ sẽ được nói trong Tiền thân Hattipàla số 509).

Vissakamma hóa hiện ra một khu chòi lá tại các vùng ẩn cư, đuổi xa các loài thú ồn ào, các loài chim, các loài phi nhân và lập một con đường theo mỗi phương hướng chính, con đường rộng vừa một người đi. Rồi Vissakamma đi về trú xứ của mình.

Còn bậc Hiền trí đem theo hội chúng ấy đi vào dãy Hy-mã-lạp Sơn, đến chỗ ẩn cư đã được Ðế Thích cho, đem theo các vật dụng xuất gia do Vissakamma tạo ra, tự mình xuất gia trước, rồi sau truyền giới xuất gia cho hội chúng, phân phối chỗ ẩn cư rồi giao cho họ. Tất cả đều từ bỏ vương vị ngang bằng vương vị của Ðế Thích. Hội chúng tràn đầy chỗ ẩn cư dài đến ba mươi dặm. Sau khi chuẩn bị các đối tượng đề tài Thiền quán, và tu tập tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, Bồ-tát dạy đề tài Thiền quán cho hội chúng. Tất cả đều đạt Thiền chứng, và được sanh lên cõi Phạm thiên. Còn tất cả những ai hộ trì hội chúng, đều được sanh lên cảnh giới chư Thiên.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, như vậy, khi tâm bị các phiền não chi phối, thật khó từ bỏ. Các đối tượng tham ái khởi lên rất khó từ bỏ, khiến cho các bậc hiền trí cũng trở thành vô trí.

Sau khi kể pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng ấy, một số người chứng quả Dự lưu, một số người chứng quả Nhất lai, một số chứng quả Bất lai, một số đạt quả A-la-hán. Bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vua là Ànanda, hội chúng ấy là hội chúng đức Phật, còn bậc hiền trí là Ta vậy.

Ghi chú: Các chuyện từ số 62 đến số 67 do cư sĩ Trần Phương Lan dịch.

PHẨM VARANA

  1. CHUYỆN CÂY VARANA (Tiền thân Vanara)

Ai có việc làm trước…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về Trưởng lão tên là Kutumbikaputtatissa (Tissa, con vị điền chủ). Theo truyền thuyết, một hôm, ba mươi thiện nam tử thân hữu với nhau ở Xá-vệ, đem theo hương hoa, vải, áo, với đại chúng vây quanh, đi đến Kỳ Viên để nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp. Khi đến, họ ngồi một lát trong những lùm cây Sàla có tàm lá phủ xung quanh.

Cho đến chiều, khi bậc Ðạo Sư từ Hương phòng thơm ngát đến Pháp đường, ngồi trên Phật tọa trang nghiêm, họ cùng với tùy tùng đi đến cúng dường hương hoa lên bậc Ðạo Sư, đảnh lễ dưới chân Ngài, đôi bàn chân tốt đẹp như hoa sen nở rộ, dưới bàn chân có dấu bánh xe, và họ ngồi xuống một bên nghe pháp. Họ suy nghĩ như sau: “Tùy theo sự hiểu biết của chúng ta đối với pháp được Thế Tôn thuyết giảng, chúng ta sẽ xuất gia”.

Khi Như Lai từ Pháp đường đi ra, họ đến đảnh lễ Ngài rồi xin xuất gia. Bậc Ðạo Sư cho họ xuất gia. Ðược sự chấp nhận của bậc Sư trưởng và Giáo thọ sư, họ được thọ đại giới. Trong năm năm, sống gần bậc Sư trưởng và Giáo thọ sư, họ học thuộc lòng hai bản tóm tắt, biết được những điều gì nên làm, những điều gì không nên làm, học thuộc lòng ba cách thức nói lên lời tùy hỷ, biết may và nhuộm các y. Muốn thực hành Sa-môn pháp, họ xin phép vị Sư trưởng và Giáo thọ sư, đi đến bậc Ðạo Sư đảnh lễ, ngồi xuống một bên và thỉnh cầu:

– Bạch Thế Tôn, chúng con ưu não đối với sanh hữu, lo âu về sanh, già, bệnh, chết; vì mục đích thoát khỏi luân hồi, xin Thế Tôn cho chúng con đề tài Thiền quán.

Bậc Ðạo Sư lựa chọn một đề tài thích hợp trong ba mươi tám đề tài Thiền quán, và đã nói cho họ đề tài ấy. Sau khi được nghe đề tài Thiền quán từ bậc Ðạo Sư, họ đảnh lễ Ngài, thân hướng vế phía hữu, đi về am thất. Rồi nhìn vị Sư trưởng và Giáo thọ sư, lấy y bát, với ý định sẽ hành trì Sa-môn pháp, họ ra đi.

Trong hội chúng, có một Trưởng lão Tỷ-kheo tên là Kutumbika-puttatissa biếng nhác, yếu kém, thiếu tinh tấn, tham ăn vị ngon. Vị ấy suy nghĩ: “Ta không thể sống ở trong rừng, ta không thể nổ lực tinh tấn, ta không thể sống theo hạnh khất thực. Vậy ta đi theo họ nào có ích lợi gì? Ta sẽ trở lui”. Vị ấy thối thất tinh tấn, đi theo các Tỷ-kheo một đoạn rồi trở lui. Các Tỷ-kheo đi bộ trong xứ Kosala, đến một làng ở biên địa, an cư mùa mưa tại một khu rừng gần làng ấy. Sau ba tháng khổ luyện tinh cần, nhận được hột giống Thiền quán khiến cho quả đất reo mừng, các Tỷ-kheo ấy chứng quả A-la-hán, làm lễ tự tứ, xuất an cư, với ý định: Chúng ta sẽ báo tin công đức đạt được lên bậc Ðạo Sư”.

Từ chỗ ấy họ dần dần đi đến Kỳ Viên. Sau khi cất đặt y bát, gặp vị Sư trưởng và Giáo thọ sư, các Tỷ-kheo ấy đi đến yết kiến bậc Ðạo Sư, đảnh lễ rồi ngồi xuống. Bậc Ðạo Sư nói lên những lời thăm hỏi dịu ngọt. Sau đó, họ báo cáo lên bậc Ðạo Sư những công đức tự mình chứng đắc. Bậc Ðạo Sư tán thán các Tỷ-kheo ấy.

Riêng Trưởng lão Kutumbikaputtatissa nghe bậc Ðạo Sư tán thán những công đức của họ, liền khởi ý muốn tự mình hành trỉ Sa-môn pháp. Còn các Tỷ-kheo kia xin phép bậc Ðạo Sư được trở về sống tại khu rừng trước của họ và được bậc Ðạo Sư chấp thuận. Họ đảnh lễ Ngài và đi về am thất.

Rồi Trưởng lão Kutumbikaputtatissa, giữa đêm, quá hăng hái tinh tấn, quá hấp tấp hành trì Sa-môn pháp, trong canh giữa, ngủ đứng, dựa vào giường gỗ, trở mình và ngã xuống, làm gãy xương bắp vế, đau đớn vô cùng. Các Tỷ-kheo phải chăm sóc cho Trưởng lão Tissa nên không đi được. Vào giờ họ đến yết kiến bậc Ðạo Sư, Ngài hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, phải chăng hôm nay các ông sẽ lên đường. Hôm qua các ông đã xin phép rồi mà?

– Thưa phải, bạch Thế Tôn. Nhưng bạn của chúng con là Trưởng lạo Tissa, vì tinh tấn phi thời, quá hấp tấp hành trì Sa-môn pháp, bị giấc ngủ chi phối, xoay mình và ngã xuống, làm bắp vế gãy. Vì Trưởng lão ấy, chúng con chưa đi được, Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay, do thiếu sự tinh tấn của mình, Tissa đã tinh tấn phi thời và quá hấp tấp, tạo chướng ngại việc các ông ra đi. Thuở trước, Tissa cũng đã tạo chướng ngại cho sự ra đi của các ông rồi.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của các vị Tỷ-kheo, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, tại nước Gandhara, ở Takkasila, Bồ-tát sanh ra làm vị giáo sư có danh tiếng khắp nơi, dạy nghề cho năm trăm thanh niên Bà-la-môn. Các thanh niên ấy, một hôm, đi vào rừng để lượm củi đem về. Trong bọn họ có một thanh niên biếng nhác, thấy một cây Varana lớn, tưởng cây ấy đã khô, nên nghĩ: “Ta sẽ nằm ngủ một lát, sau sẽ leo lên cây, bẻ củi xuống, nhặt lấy rồi mang về”. Nghĩ vậy, anh ta trải áo ngoài, nằm xuống, rơi vào giấc ngủ và ngáy lớn. Các thanh niên khác bó lại từng bó củi, mang đi, đến chỗ ấy, lấy chân đá vào lưng cho đến khi anh ta thức dậy rồi bỏ đi.

Thanh niên biếng nhác thức dậy, chùi mắt chùi mấy lần vẫn còn ngái ngủ. Anh ta leo lên cây, nắm một cành, kéo đến sát mặt mình và bẻ gãy cành ấy. Khi bẻ gãy, phần bị gãy của cành cây quật lại đập vào mắt anh ta. Với một tay, anh ta bịt mắt, và với một tay anh ta bẻ gãy cành tươi. Rồi anh ta leo xuống, bó lại thành bó củi, mang lên vai, đi mau về nhà, quăng bó củi của mình trên các bó củi của những người khác.

Hôm ấy, một gia đình ở làng quê mời vị giáo sư ngày mai đến nhà họ làm lễ cúng dường. Vị giáo sư nói với các thanh niên:

– Này các con thân, ngày mai các con phải đến một làng. Các con không thể đi mà không ăn. Vậy sáng sớm, hãy cho nấu cháo và ăn cháo trước khi đi đến đấy. Rồi các con sẽ lấy phần của ta, và lấy tất cả phần các con mang về.

Sáng sớm hôm sau, các thanh niên đánh thức một tỳ nữ dậy, bảo nó nấu cháo gấp cho họ. Nữ tỳ ấy đi lấy củi, lấy những bó củi xanh chồng trên cao nhất, liên tiếp dùng miệng thổi, nhưng không làm cho lửa cháy được, cho đến khi mặt trời mọc. Các thanh niên thấy trời đã quá sáng, không thể đi được nữa, bèn đi đến gặp giáo sư. Giáo sư hỏi sao các thanh niên chưa đi. Họ nói lý do:

– Có một thanh niên biếng nhác đi cùng với chúng con hái củi, nằm ngủ dưới gốc cây Vanara, sau khi leo lên cây hấp tấp, bị cành cây đánh vào mắt, đã đem về các củi xanh của cây Vanara, quăng lên trên các bó củi của chúng con đem về. Vì vậy, người tỳ nữ định nấu cháo, lấy các củi ấy tưởng là khô, cho đến khi mặt trời mọc vẫn không thể nhen lửa. Ðó là lý do làm chướng ngại việc chúng con đi.

Vị giáo sư nghe việc làm của thanh niên ấy, liền nói:

– Chính việc làm của kẻ ngu si đã đem đến sự tổn hại như vậy.

Rồi vị giáo sư đọc bài kệ này:

Ai có việc làm trước,
Về sau mới chịu làm
Như bẻ Va-ra-na,
Về sau nó chịu khổ.

Như vậy, Bồ-tát nói rõ lý do này cho các đệ tử, rồi trọn đời làm các công đức như bố thí…. Và khi mạng chung, ngài đi theo nghiệp của mình.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải ngày nay kẻ ấy mới làm chướng ngại cho các ông. Thuở trước, kẻ ấy cũng đã làm vậy rồi.

Sau khi bậc Ðạo Sư kể pháp thoại này, Ngài kết hợp hai mẩu chuyện, và nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, thanh niên bị cành cây đánh vào mắt là Tỷ-kheo bị gãy xương bắp vế. Các thanh niên khác là hội chúng của đức Phật, còn giáo sư Bà-la-môn là Ta vậy.

  1. CHUYỆN TƯỢNG VƯƠNG ÐỨC HẠNH (Tiền thân Sìlavanàga)

Con người không biết ơn…,

Câu chuyện này, khi ở tại Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư đã kể về Ðề-bà-đạt-đa. Các Tỷ-kheo, ngồi tại Pháp đường, và nói chuyện:

– Thưa các Hiền giả, Ðề-bà-đạt-đa vô ơn, không biết những công hạnh của đức Như Lai.

Bậc Ðạo Sư đến, hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông ngồi ở đây đang nói chuyện gì?

Sau khi được biết câu chuyện ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới vô ơn. Trước kia, kẻ ấy cũng đã vô ơn rồi. Kẻ ấy không bao giờ biết công đức gì của Ta.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của họ, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát nhập thai trong bụng một con voi ở dãy Hy-mã-lạp Sơn. Khi sanh ra, Bồ-tát toàn trắng như một khối bạc; đôi mắt Bồ-tát giống như những hòn châu báu, chói sáng như năm loại ánh sáng; miệng giống như tấm vải đỏ; vòi giống như sợi dây bạc điểm thêm những chấm vàng đỏ. Bốn chân như mài láng như sơn mài. Như vậy, thân hình Bồ-tát có sắc đẹp tối thượng, được trang điểm với mười hạnh Ba-la-mật tuyệt hảo.

Khi Bồ-tát lớn lên, tất cả con voi Hy-mã-lạp Sơn tụ họp lại để hầu hạ Bồ-tát. Khi sống ở Hy-mã-lạp Sơn được vây quanh với tám vạn con voi, Bồ-tát thấy tội lỗi của đàn voi trong tương lai, nên tách rời khỏi đàn, sống một mình trong rừng, và với đức hạnh của mình, được gọi là Tượng vương có đức hạnh.

Một người sống ở Ba-la-nại, chưa quen sống ở rừng, đi vào dãy Hy-mã-lạp Sơn, tìm những vật liệu cho nghề nghiệp nuôi sống của mình. Do không nhận định được phương hướng, lạc đường kẻ ấy hoảng hốt vì sợ bị chết, vừa đi vừa dang tay ra than khóc. Bồ-tát nghe kẻ ấy than khóc quá độ, động lòng thương, muốn cứu kẻ ấy thoát khổ, liền đi đến gần. Kẻ ấy thấy Bồ-tát liền hoảng sợ chạy trốn. Bồ-tát thấy kẻ ấy chạy, liền đứng lại ngay tại chỗ. Người ấy thấy Bồ-tát đứng, cũng đứng lại. Bồ-tát đi đến, người ấy lại bỏ chạy. Khi thấy Bồ-tát đứng, kẻ ấy cũng đứng lại và suy nghĩ: “Con voi này, khi ta chạy thì đứng lại, khi ta đứng thì đi đến gần, ta thoát khỏi khổ này”. Nghĩ vậy, trở thành mạnh dạn, kẻ ấy đứng lại. Bồ-tát đi đến gần và nói:

– Này bạn, sao bạn lại đi lang thang ở đây, và khóc than như vậy?

– Thưa chúa voi, không nhận định được phương hướng, lạc đường, nên tôi sợ chết!

Rồi Bồ-tát đưa người ấy về trú xứ của mình, trong một vài ngày, thết đãi kẻ ấy với trái cây và những vật thực khác, và nói:

– Này bạn, chớ sợ hãi. Ta sẽ đưa bạn đến con đường của loài người đi.

Bồ-tát để kẻ ấy ngồi trên lưng ngựa, đưa đến con đường có loàn người đi. Người ấy là một người phản bạn, nghĩ rằng nếu có ai hỏi, sẽ nói lên những gì cần phải nói. Tuy ngồi trên lưng Bồ-tát, nhưng người ấy vừa đi vừa nhận diện tướng cây, tướng núi. Bồ-tát đi ra khỏi rừng, đứng trên con đường lớn đưa đến Ba-la-nại, tiễn người ấy đi và nói:

– Này bạn, hãy đi theo con đường này. Dù có ai hỏi hay không hỏi chỗ của ta, cũng đừng nói cho ai biết.

Nói xong, để người ấy ra đi, rồi Bồ-tát trở lại trú xứ của mình.

Người ấy đến Ba-la-nại, trong khi đang đi đến con đường của người thợ ngà voi, thấy nhiều đồ vật khác nhau được làm ra từ ngà voi, bèn hỏi:

– Các bạn, nếu được ngà một con voi đang sống, bạn có lấy không?

– Bạn nói gì vậy? Ngà con voi đang sống có giá trị nhiều hơn ngà con voi chết rồi.

– Ta sẽ đem về cho bạn ngà một con voi đang sống.

Sau khi chuẩn bị lương thực, đem theo một cái cưa sắc bén, kẻ ấy đi đến trú xứ của Bồ-tát. Chúa voi thấy kẻ ấy liền hỏi:

– Ngươi đến đây vì mục đích gì?

– Thưa chúa voi, tôi nghèo khổ, đời sống quá khổ cực. Nếu bạn cho tôi đôi ngà của bạn, tôi sẽ bán chúng lấy tiền để nuôi sống.

– Vậy này bạn, ta cho bạn ngà của ta, bạn có cái cưa để cưa cặp ngà không?

– Thưa chúa voi, tôi đến đây có đem theo cái cưa.

– Vậy hãy cưa ngà rồi đem về.

Rồi Bồ-tát co hai chân lại, ngồi xuống như con bò ngồi. Người ấy cưa hai ngà tối thượng của chúa voi. Bồ-tát lấy cái vòi giao hai cái ngà cho kẻ ấy và nói:

– Này bạn, không phải vì không thích ý, vì không ưa cặp ngà này mà ta cho bạn. Nhưng ngàn lần, trăm ngàn lần thân yêu hơn đối với ta là cặp ngà giải thoát giác ngộ, ngà này có thể giúp ta hiểu tất cả các pháp. Do vậy, mong rằng sự bố thí đôi ngà này của ta sẽ đem lại cho ta Nhứt thiết trí!

Với lời nói ấy, Bồ-tát đưa hai cái ngà cho người ấy như là cái giá của Nhứt thiết trí. Kẻ ấy lấy ngà xong, đem bán đi. Khi tiền tiêu hết rồi, kẻ ấy lại đi đến Bồ-tát và nói:

– Thưa chúa voi, sau khi bán hai cái ngà của bạn, với tiền lấy được, tôi chỉ trả hết nợ cũ. Vậy hãy cho tôi các ngà còn lại.

Bồ-tát chấp thuận, bảo cưa các ngà còn lại như trước. Người ấy đem bán chúng, rồi lại đi đến và nói:

– Tôi không thể sống được, hạy cho tôi chân gốc của các ngà.

– Ðược lắm!

Con voi nói và ngồi xuống như lần trước. Con người độc ác ấy đạp lên trên cái vòi giống như sợi dây bạc của bậc Ðại Sĩ, leo lên trên đầu voi như đỉnh núi Kelasa đánh vào gốc chân của hai cái ngà, cho đến khi móc thịt ra. Rồi kẻ ấy dùng cưa sắc bén cưa cái gốc chân ngà, và lấy đem đi. Khi người ác độc ấy vừa ra khỏi tầm mắt của Bồ-tát, thì quả đất cứng dày đặc, dài hơn hai trăm ngàn dặm, có thể chở nổi sức nặng kinh khủng của núi Tu-di, với các triền núi bao vây, với tất cả phân tiểu ghê tởm hôi thối; nhưng quả đất không thể chịu nổi sự độc ác kia, nên đã nứt ra tạo thành một vực thẳm. Các ngọn lửa từ đáy đại A-tỳ địa ngục phun lên, bao phủ con người phản bạn với một cái màn tử vong, cuốn lấy kẻ ấy đem đi. Như vậy, khi con người độc ác ấy bị nuốt vào lòng đất, vị thần trú ở khóm rừng làm vang dậy khắp cả khu rừng với lời nói:

– Người bạn vô ơn phản bội, dầu được cho quốc độ của vua Chuyển luân, cũng không cảm thấy thỏa mãn.

Và để thuyết pháp, vị thần ấy đọc bài kệ này:

Con người không biết ơn
Luôn luôn thấy kẽ hỡ,
Dầu được cho quả đất,
Không bao giờ thỏa mãn.

Như vậy, vị thầy cây thuyết pháp, làm vang động cả khu rừng ấy, Còn Bồ-tát sống cho đến mạng chung, rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới vô ơn. Trong quá khứ, kẻ ấy cũng đã vô ơn rồi.

Sau khi kể pháp thoại ấy, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Lúc bấy giờ, người bạn phản bội là Ðề-bà-đạt-đa, vị thần cây là Xá-lợi-phất, còn Tượng vương có đức hạnh là Ta vậy.

73.CHUYỆN ÐÚNG VẬY CHĂNG? (Tiền thân Saccankira)

Như vậy, họ nói thật…

Câu chuyện này, khi ở tại Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư kể về âm mưu sát hại. Khi ấy, chúng Tỷ-kheo đang ngồi trong Pháp đường nói về sự độc ác của Ðề-bà-đạt-đa:

– Này các Hiền giả, Ðề-bà-đạt-đa không biết công đức của bậc Ðạo Sư, nên đã âm mưu sát hại Ngài.

Bậc Ðạo Sư đi đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông ngồi họp, và đang bàn câu chuyện gì?

Khi được biết câu chuyện ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải nay Ðề-bà-đạt-đa mới âm mưu sát hại Ta, trong thời quá khứ, kẻ ấy cũng đã làm như vậy.

Nói xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, vua có một con trai tên là hoàng tử Ác Ðộc. Hoàng tử bạo ngược giống như con rắn độc bị thương, không nói với ai mà không mắng nhiếc, đánh đập. Ðối với dân trong nội cung và ngoại cung, hoàng tử như bụi trong mắt, như con quỷ đến ăn thịt, ai cũng ghét bỏ và sợ hãi.

Một hôm, muốn chơi trò dưới nước, cùng với một đám tùy tùng đông đảo, hoàng tử đi đên bờ sông. Trong lúc ấy, dông tố nổi lên. Các phương trời trở thành tối tăm mù mịt. Hoàng tử bảo các người hầu hạ:

– Này các ngươi, hãy đưa ta ra giữa sông, tắm cho ta và đưa ta về.

Họ đưa hoàng tử ra giữa sông bàn với nhau:

– Vua sẽ làm gì chúng ta? Chúng ta hãy giết đứa ác nhân này ngay ở nơi đây!

Họ thả hoàng tử xuống nước và nói:

– Ðồ con quỷ đen, hãy đi vào đấy.

Rồi họ leo lên, đứng trên bờ. Khi được hỏi hoàng tử ở đâu, họ trả lời:

– Chúng tôi không thấy hoàng tử. Thấy dông tố khởi lên, hoàng tử ra khỏi nước và đi trước rồi.

Các đại thần đi đến hầu vua, và vua hỏi hoàng tử đâu, họ trả lời:

– Thưa Thiên tử, chúng tôi không được biết. Khi dông tố khởi lên, chúng tôi nghĩ rằng hoàng tử đã đi trước rồi, nên chúng tôi mới đi về.

Vua sai mở rộng cửa, đi xuống sông, sai đi tìm chỗ này, chỗ khác, nhưng không một ai thấy hoàng tử.

Trong cơn dông, trời tối mù, đang mưa, hoàng tử trôi theo dòng nước cuốn, bỗng thấy một khúc cây, liền ngồi trên ấy, vừa sợ chết vừa khóc than. Lúc bấy giờ, một triệu phú ở Ba-la-nại đã chết có chôn trên bờ sông số tài sản trị giá bốn trăm triệu. Vì tham luyến tài sản, nên vị ấy sanh làm con rắn tại chỗ chôn tài sản. Một người khác, cũng tại chỗ ấy, đã chôn ba trăm triệu, và vì tham lam tài sản nên tái sanh làm con chuột tại chỗ ấy. Nước vào ngập chỗ chúng ở. Chúng thoát ra từ con đường nước vào, cắt ngang dòng bơi đi, đến được khúc cây trên ấy hoàng tử đang ngồi, một con leo lên đầu này, một con leo lên đầu kia và nằm trên khúc cây ấy.

Trên bờ sông, có một cây bông gòn, tại đó có một con vẹt trẻ đang ở. Cây bông gòn bị nước làm bật gốc rễ, rơi xuống dòng sông. Con vẹt trẻ gặp mưa xối xả, không thể bay lên được, liền ẩn núp vào một bên khúc cây ấy. Như vậy có bốn sinh vật cùng trôi theo dòng nước với nhau.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn phía tây bắc, lớn lên xuất gia làm vị tiên nhân du sĩ tại một khúc quanh của sông. Bồ-tát dụng lên một chòi lá để ở. Nửa đêm, đang đi kinh thành, Bồ-tát nghe tiếng khóc than thảm thiết của hoàng tử, tự nghĩ: “Trước mắt một người tu khổ hạnh có lòng từ bi như ta, thật không thích đáng để người này chết. Ta hãy vớt nó ra khỏi nước, và cứu mạng nó”. Rồi Bồ-tát an ủi hoàng tử:

– Chớ sợ hại.

Và Bồ-tát lội cắt ngang dòng nước, đến cầm lấy một đầu của khúc cây ấy, với sức mạnh kiên trì như con voi, Bồ-tát kéo nhanh khúc gỗ vào bờ, bồng hoàng tử lên, đặt trên bờ. Thấy các con vật kia, Bồ-tát đỡ chúng lên và đưa đến am thất, rồi nhen lửa. Những con yếu nhất, được Bồ-tát hơ cho ấm, trước là con rắn, con chuột, con vẹt… rồi sau mới hơ ấm thân hoàng tử, khiến cho chúng được bình phục, rồi cho chúng đồ ăn; trước hết cho các con vật ăn, rồi sau mới bày biện các thứ trái và các thức ăn khác cho hoàng tử. Hoàng tử suy nghĩ: “Kẻ khổ hạnh khốn nạn này không kể ta là hoàng tử, lại tỏ sự cung kính đối với loài thú vật”. Rồi hoàng tử nuôi dưỡng hận thù đối với Bồ-tát.

Sau một vài ngày, khi tất cả đã lấy lại sức khỏe, và nước sông đã rút xuống, con rắn đảnh lễ vị khổ hạnh và nói:

– Thưa Tôn giả, Tôn giả đã giúp đỡ tôi rất nhiều. Tôi không phải nghèo khổ. Tại một chỗ ấy, tôi có chôn vàng đáng giá bốn trăm triệu. Khi nào Tôn giả cần tiền, tôi có thể cho Tôn giả số tiền ấy. Tôn giả chỉ cần đến chỗ ấy và gọi: Rắn ơi.

Nói xong, con rắn bỏ đi. Rồi con chuột, cũng như vậy, đến chào vị tu khổ hạnh, và nói: Hãy đến tại chỗ ấy và gọi: Chuột ơi.

Nói xong, con chuột bỏ đi. Con vẹt đảnh lễ vị tu khổ hạnh và nói:

– Thưa Tôn giả, tôi không có tài sản. Nhưng nếu Tôn giả cần gạo đỏ, hãy đến trú xứ của tôi và gọi: Vẹt ơi. Tôi sẽ gọi bà con của tôi, chúng tôi sẽ đem gạo đỏ đến, chở đầy nhiều xe và tôi sẽ biếu Tôn giả.

Nói xong, con vẹt bay đi. Rồi đến hoàng tử, không nói gì để cảm ơn, với tâm tánh phản bội bạn bè, hoàng tử suy nghĩ: “Nếu nó đến gần ta, ta sẽ giết nó”. Tuy vậy, cố giấu ý định, hoàng tử nói:

– Thưa Tôn giả, khi tôi lên ngôi vua, tôi sẽ cúng dường Tôn giả bốn vật dụng cần thiết.

Rồi ra đi và không bao lâu, hoàng tử được đặt lên vương vị.

Bồ-tát muốn thử thách chúng, trước hết đi đến con rắn đứng, không xa chỗ nó ở và gọi:

– Rắn ơi!

Khi nghe tiếng gọi, con rắn bò ra, đảnh lễ Bồ-tát và nói:

– Thưa Tôn giả, tại chỗ này có bốn trăm triệu tiền vàng. Hãy đào chúng lên và lấy tất cả!

Bồ-tát nói:

– Như vậy là tốt. Khi nào cần đến chúng, tôi sẽ cho biết.

Từ giã con rắn, Bồ-tát đi đến chỗ con chuột ở và lên tiếng:

– Chuột ơi!

Con chuột làm y như con rắn đã làm. Bồ-tát từ biệt con chuột, đi đến con vẹt, và gọi:

– Vẹt ơi!

Con vẹt nghe tiếng, từ trên ngọn cây bay xuống, đảnh lễ Bồ-tát và hỏi:

– Thưa Tôn giả, Tôn giả có cần tôi nói những bà con đem gạo mọc hoang từ dãy Hy-mã-lạp Sơn về cho Tôn giả không?

Bồ-tát trả lời khi nào cần ngài sẽ cho biết, và từ biệt con vẹt. Rồi để thử thách hoàng tử, Bồ-tát đi đến trú ở công viên của vua. Vào ngày hôm sau, ngài chuẩn bị y phục đàng hoàng, bộ hành khất thực, và đi vào thành. Trong lúc ấy, ông vua phản bội bạn bè ngồi với tất cả nghi vệ trang nghiêm trên lưng con voi được trang sức, đang đi vòng quanh thành với một đám tùy tùng lớn. Vua thấy Bồ-tát từ đàng xa, suy nghĩ như sau: “Tên khổ hạnh khốn nạn này nay đã đến để xin ăn và sống nhờ ta. Ta phải bảo chém đầu nó trước khi nó tuyên bố giữa đại chúng công đức mà nó đã làm cho ta”.

Vua ra hiệu các người tùy tùng, và họ hỏi vua bảo họ làm gì. Vua bảo:

– Ta nghĩ rằng tên khổ hạnh khốn nạn này muốn đến xin ta một việc gì đó. Ðừng cho ta thấy tên quỷ đen tu khổ hạnh ấy. Hãy bắt nó trói chặt tay ra đàng sau, đánh nó tại những ngã tư đường, đưa nó ra khỏi thành, chặt đầu tại pháp trường, và bêu đầu trên cây nhọn.

Họ vâng lời đi đến, trói bậc Ðại Sĩ vô tội, đánh ngài tại ngã tư đường, rồi dẫn ngài đến pháp trường. Bồ-tát, trong khi bị đánh, không than khóc, không kêu mẹ, kêu cha, không bị dao động, chỉ nói lên bài kệ này:

Như vậy, họ nói thật,
Những người hiểu đời này:
Cứu vớt khúc gỗ trôi
Tốt hơn một số người.

Như vậy, tại những chỗ bị đánh, Bồ-tát nói lên bài kệ này. Nghe vậy, những người có trí ở đấy bèn nói:

– Này vị xuất gia, đối với vua của chúng ta, Hiền giả đã làm công đức gì?

Bồ-tát kể lại câu chuyện ấy và nói:

– Như vậy, vì cứu vớt người này ra khỏi dòng nước lớn, tôi đã làm khổ tôi thôi! Nhớ lại vì tôi không nghe lời các bậc hiền trí thời xưa, tôi mới nói như các ông vừa nghe.

Khi họ nghe xong, các vị Sát-đế-ly, Bà-la-môn v.v…. trú ở thành đều phẫn nộ nói:

– Nhà vua phản bạn này đối với vị đầy công đức như vậy, lại không biết đến ơn của người đã cho mình mạng sống. Làm sao chúng ta có được lợi ích gì từ vua ấy? Hãy bắt lấy nó!

Trong cơn phẫn nộ, họ xông tới vua từ nhiều ngã, với cung, kiếm, đá, gậy… họ giết vua đang cưỡi trên lưng voi, nắm lấy chân vua kéo đi và quăng xác xuống hố. Rồi họ làm lễ quán đảnh Bồ-tát, và đặt Bồ-tát lên vương vị. Bồ-tát trị nước rất đúng pháp.

Rồi một hôm, muốn thử thách con rắn, Bồ-tát cùng với đám tùy tùng lớn đi đến chỗ ở của rắn và kêu:

– Rắn ơi.

Con rắn bò tới, đảnh lễ vua và thưa:

– Thưa ngài, đây là tài sản của ngài… Hãy lấy nó đi.

Vua bảo các đại thần cất số tiền vàng bốn trăm triệu, rồi đi đến chỗ ở của con chuột và gọi:

– Chuột ơi.

Nó bò ra, đảnh lễ vua rồi đưa tài sản ba trăm triệu. Vua bảo các đại thần cất giữ số vàng, rồi đi đến chỗ ở của con vẹt và gọi:

– Vẹt ơi.

Con vẹt đến, đảnh lễ chân vua, và thưa:

– Thưa ngài, tôi có phải đem gạo đến không?

Vua nói:

– Khi nào cần lúa gạo, ngươi hãy mang đến. Nay chúng ta hãy đi.

Ðem theo ba sinh vật với bảy trăm triệu tiền vàng, vua đi vào thành, ngự lên trên lầu cao trong cung điện sang trọng, cho cất giữ và phòng hộ tài sản. Rồi ngài truyền làm một ống bằng vàng để con rắn ở, một hang bằng pha lê cho con chuột, và một lồng bằng vàng cho con vẹt.

Hằng ngày, theo lệnh của vua, đồ ăn được dọn cho ba con vật trong bát đĩa bằng vàng, bắp rang ngọt cho con vẹt và con rắn, còn gạo thơm cho con chuột. Vua thường làm các công đức như bố thí và nhiều thiện sự khác. Như vậy, vua và các con vật này sống hòa hợp hoan hỷ với nhau cho đến trọn đời rồi chúng đi theo nghiệp của chúng.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới âm mưu sát hại Ta. Thuở trước, kẻ ấy cũng đã làm như vậy rồi.

Sau khi kể câu chuyện quá khứ, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, nhà vua ác độc là Ðề-bà-đạt-đa, con rắn là Xá-lợi-phất, con chuột là Mục-kiền-liên, con vẹt là Ànanda, còn vị vua được vương quốc và trị vì đúng pháp là Ta vậy.

  1. CHUYỆN LUẬT CÂY RỪNG (Tiền thân Rukkadhamma)

Lành thay, nhiều bà con…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một cuộc tranh chấp nước. Do cuộc tranh chấp này, bà con của Ngài gặp nạn diệt vong. Biết việc này, bậc Ðạo Sư đi ngang qua hư không, ngồi kiết già trên sông Rohini, chiếu sáng hào quang xanh, làm các bà con Ngài hoảng sợ. Rồi từ hư không bước xuống, bậc Ðạo Sư ngồi trên bờ sông kể câu chuyện tranh chấp này. (Ðây chỉ là tóm tắt. Phần chi tiết được nói đến trong Tiền thân Kunala số 536). Lúc bấy giờ, bậc Ðạo Sư gọi các bà con lại nói và với vua:

– Thưa Ðại vương, các bà con cần phải đối xử với nhau hòa hợp và hoan hỷ. Khi các bà con hòa hợp đoàn kết, kẻ thù không tìm được cơ hội để phá hoại. Không phải chỉ riêng loài người mới cần phải đoàn kết mà các loài vật vô tri cũng cần phải hòa hợp đoàn kết. Thuở trước, trong dãy Hy-mã-lạp Sơn, một ngọn gió thổi qua rừng cây Sà-la, tuy thế vì các cây, lùm cây, bụi cây, dây leo v.v… của khu rừng ấy cột chặt với nhau, nên cơn gió không thể làm ngã một cây nào, chỉ thổi lướt qua trên đầu cây thôi. Nhưng trong sân có một cây Sà-la rất lớn đứng một mình, đầy đủ cành cây, thân cây, nhưng không cột chặt với các cây khác, nên gió thổi bật gốc ngã xuống đất. Vì lý do này, các vị cần phải sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau.

Nói vậy xong, theo lời các Tỷ-kheo yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Ðại vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) thứ nhất mệnh chung. Ðế Thích đặt một vị vua khác thay thế. Trong sự thay đổi này, vau Vessavana mới kế vị gửi thông điệp đến các thần cây, lùm cây, bụi cây, cây leo…

– Các ngươi hãy tự lựa chọn trú xứ mình ưa thích.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát sanh làm thần cây trong một rừng cây Sàla. Bồ-tát nói với các bà con:

– Khi các ngươi lựa chọn trú xứ, chớ lựa chọn các cây mọc một mình ở khoảng trống. Hãy lựa chọn trú xứ chung quanh chỗ mà ta đã lựa chọn trong rừng Sàla này.

Các thần cây hiền trí làm theo lời Bồ-tát, lựa chọn trú xứ của họ quanh trú xứ của Bồ-tát. Những thần cây không có trí nói:

– Sao chúng ta lại lựa chọn trú xứ ở trong rừng?

Chúng ta hãy lựa chọn trú xứ tại chỗ có người, ngoài cửa các làng, thị trấn, kinh đô, vì các thần cây sống gần làng nhận được lễ vật cúng dường tối thượng và danh vọng tối thượng.

Vì thế những thần cây ấy lựa chọn trú xứ tại con đường có người, những chỗ có cây lớn, tại các khoảng trống. Một hôm, mưa to gió lớn nổi lên, những cây xưa nhất ở trong rừng có rễ ăn sâu chắc chắn đã kiên trì đứng riêng biệt trong quá khứ, cũng đều bị gãy cành và thân, bị bật gốc rễ và ngã xuống.

Trái lại, khi dông tố thổi qua rừng, các cây Sàla đứng thành nhóm cột chặt vào nhau, tuy dông tố có đánh mạnh chỗ này chỗ kia, nhưng không thể làm ngã một cây nào. Các thần cây có trú xứ bị phá vỡ, không còn chỗ nương tựa, tay bồng các con nhỏ đi đến dãy Hy-mã-lạp Sơn và kể lại nỗi đau khổ của mình cho chư thần trong rừng Sàla. Những vị này báo cáo cho Bồ-tát biết sự việc này. Bồ-tát nói:

– Chính vì chúng không vâng theo lời các bậc hiền trí, đi đến trú xứ không đủ nhân duyên, nên gặp phải sự tình như vậy.

Rồi Bồ-tát thuyết pháp qua bài kệ này:

Lành thay, nhiều bà con,
Như cây sanh từ rừng,
Gió thổi ngã những cây
Ðứng một mình riêng lẻ.

Bồ-tát thuyết pháp như vậy và sống cho đến khi mạng chung, Bồ-tát đi theo nghiệp của mình.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Như vậy, thưa Ðại vương, các bà con cần sống với nhau trong hòa hợp, hòa thuận, hoan hỷ, ái kính nhau.

Sau khi thuyết pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Lúc bấy giờ, chư thần là hội chúng của đức Phật, còn vị thần hiền trí là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON CÁ (Tiền thân Maccha)

Nổi sấm, Paj-ju-na…,

Câu chuyện này khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về cơn mưa do chính Ngài làm. Một thời, theo truyền thuyết, tại nước Kosala, trời không mưa, mùa màng khô héo, chỗ này chỗ kia, ao hồ, bể nước đều khô cạn. Ngay cả hồ Kỳ Viên cũng khô cạn nước. Các loài cá, rùa đi vào đám bùn, nằm mắc cạn. Rồi quạ, diều hâu… đến, với mỏ như lưỡi giáo, mổ chúng, kéo chúng ra và ăn chúng đang còn vùng vẫy. Bậc Ðạo Sư thấy cá rùa mặc nạn ấy, với từ tâm, ngài xúc động suy nghĩ:

– Hôm nay, ta phải làm mưa.

Khi đêm đã qua, tắm rửa thân thể xong, xét đã đến giờ khất thực, với đại chúng Tỷ-kheo vây quanh, với uy nghi của một đức Phật, Ngài đi vào thành Xá-vệ để khất thực. Sau bữa ăn, trên con đường đi khất thực từ Xá-vệ trở về, Ngài đi đến tinh xá đứng trên tầng cấp của hồ Kỳ Viên, bảo Trưởng lão Ananda:

– Này Ànanda, hãy đem áo tắm đến đây. Ta sẽ tắm trong hồ Kỳ Viên!

– Nhưng bạch Thế Tôn, hồ Kỳ Viên đã cạn nước. Chỉ có bùn còn lại.

– Này Ànanda, Phật lực rất lớn. Hãy đem áo tắm lại.

Trưởng lão đem áo tắm và đưa cho bậc Ðạo Sư. Bậc Ðạo Sư, với một đầu áo quấn quanh thân dưới và một đầu áo che thân trên, đứng trên tầng cấp và nói:

– Ta sẽ tắm ở hồ Kỳ Viên.

Trong thời khắc ấy, chiếc ngai bằng tảng đá vàng của Thiên chủ Ðế Thích trở thành nóng. Ðế Thích tìm hiểu nguyên nhân, biết được lý do, liền cho gọi thần mưa thần mây và nói:

– Này các thần, bậc Ðạo Sư đứng trên tầng cấp chính, muốn tắm ở hồ Kỳ Viên, hãy cho mưa đổ xuống gấp thành một dòng, khắp tất cả nước Kosala.

Vâng theo lời Ðế Thích, thần mây và thần mưa lấy một đám mây mặc vào như mặc đồ lót, lấy một đám mây khác che thân, và hát lên bài ca dông tố, vị ấy vụt ra đi, mặt hướng về phương đông. Ở phương đông, khởi lên một đám mây lớn bằng sân đập lúa. Ðám mây ấy lớn dần lên cho đến bằng một trăm, một ngàn sân đập lúa, và nó làm sấm, làm chớp đổ nước xuống xứ Kosala như một dòng nước lớn.

Cơn mưa không gián đoạn, và trong giây lát nước ngập đầy hồ Kỳ Viên. Khi chạm đến tầng cấp cao nhất, thì nước đứng lại. Bậc Ðạo Sư tắm trong hồ xong, mặc đôi y màu đỏ, buộc cái nịt thân, đắp đại y Thiện Thệ vào một bên vai. Với chung Tỷ-kheo vây quanh, ngài đi đến Hương phòng, ngồi trên Phật tọa được trang hoàng đẹp đẽ, và khi chúng Tỷ-kheo làm xong phận sự, bậc Ðạo Sư đứng dậy, từ trên tầng cấp châu báu của bảo tọa, Ngài khuyên giáo chúng Tỷ-kheo và cho họ giải tán. Rồi ngài vào Hương phòng, nằm phía hông bên phải như dáng nằm con sư tử.

Vào buổi chiều, khi chúng Tỷ-kheo tụ hội tại Pháp đường, họ nói đến sự thành tựu đức nhẫn nhục, từ bi, lân mẫn của bậc Ðạo Sư:

– Khi mùa màng bị khô héo, khi các hồ đều ráo cạn, khi các loài cá, loài rùa gặp đau khổ lớn, vì lòng thương xót muốn cứu chúng thoát khổ, Ngài mặc áo tắm, đứng trên tầng cấp cao nhất của hồ Kỳ Viên, và chỉ trong thời gian ngắn, làm mưa xuống khiến toàn xứ Kosala tràn ngập dòng nước lớn, giải thoát đại chúng khỏi đau khổ về thân, về tâm rồi trở về tinh xá.

Khi câu chuyện nói đến đó, bậc Ðạo Sư từ Hương phòng đi ra, đến Pháp đường và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông ngồi họp lại ở đây, và đang bàn vấn đề gì?

Khi nghe câu chuyện ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Như Lai mới làm mưa cho đại chúng khỏi mệt mỏi. Thuở xưa, khi sanh làm thú vật, khi làm vua loài cá, Như Lai cũng đã làm trời mưa rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở trước, trong nước Kosala, ở Xá-vệ này, tại chỗ hồ Kỳ Viên, có một hồ chằng chịt những cây leo. Bồ-tát sanh ra làm con cá, với đàn cá vây quanh sống tại đấy. Giống như nay vậy, trong xứ ấy trời không mưa, mùa màng của dân chúng bị khô héo: các ao hồ cạn nước, các con cá, con rùa bị mắc cạn. Trong hồ này, các con cá mắc cạn trong bùn, ẩn núp tại những chỗ ấy. Các con quạ đến nơi, mổ chúng với cái mỏ đem chúng lên và ăn chúng.

Bồ-tát thấy bà con mình gặp tai nạn ấy, tự nghĩ: “Ngoài ta ra, không một ai khác có thể cứu chúng thoát khỏi cảnh khổ này. Ta hãy làm một hạnh nói lên. Sự thật, khiến trời mưa, và giải thoát bà con ta khỏi cảnh khổ phải chết này”.

Rẽ bùn đen ra làm hai, Bồ-tát đi lên, đó là một con cá lớn, đen đủi với bùn, như một cái hộp làm bằng lõi cây mun. Bồ-tát mở mắt như hòn ngọc được rửa sạch, nhìn lên trời, và nói với Pajjuna, vua chư Thiên:

– Này bạn Pajjuna, ta đau khổ vì bà con ta. Khi ta, một bậc giữ giới bị đau buồn, làm sao bạn lại không làm trời mưa? Vì ta, dầu sanh ra trong loài phải ăn thịt bà con, từ thuở ban đầu là con cá nhỏ, ta cũng không bao giờ ăn một con cá chỉ bằng hột gạo, cũng không bao giờ đoạt mạng sống của một sanh vật khác. Với sự thật này, hãy làm cho trời mưa và giải thoát bà con ta thoát khỏi đau khổ!

Sau khi nói vậy, như ra lệnh cho nô tỳ hầu hạ, Bồ-tát nói với Pajjuna, vua chư Thiên, bài kệ này:

Nổi sấm, Pàj-ju-na,
Chận quạ gây tai hại!
Hãy làm quạ sầu muộn,
Giúp ta khỏi sầu bi!

Như vậy Bồ-tát bảo Pajjuna làm mưa lớn trong toàn nước Kosala và giải thoát đại chúng khỏi đau khổ vì phải chết. Và khi mạng chung, Bồ-tát đi theo nghiệp của mình.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ có nay Như Lai mới làm trời mưa. Thuở trước, khi sanh làm con cá, Ta cũng đã làm trời mưa rồi.

Sau khi kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, đàn cá là hội chúng đức Phật, vua chư Thiên Pajjuna là Ànanda, và vua loài cá là Ta vậy.

  1. CHUYỆN NGƯỜI KHÔNG SỢ HÃI (Tiền thân Asankiya)

Trong làng, ta không sợ…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một nam cư sĩ sống ở tại Xá-vệ. Theo truyền thuyết, vị này, một bậc Dự lưu, Thánh đệ tử, vì một công việc phải làm, cùng đi đường với một người cầm đầu đoàn xe lữ hành. Trong một khu rừng, các cỗ xe được mở ra, đặt thành một doanh trại, và vị ấy đi kinh hành không xa người cầm đầu bao nhiêu.

Có năm trăm tên cướp, sau khi xem giờ đã định, tay cầm cung, gậy và các binh khí khác với mục đích đánh cướp trại, bao vây chỗ ấy. Vị nam cư sĩ vẫn đi kinh hành. Các tên cướp thấy vị ấy tưởng đó là người canh gác doanh trại, quyết định chờ đợi vị ấy ngủ mới đánh cướp. Vì không thể đột kích, nên chúng đứng yên tại nhiều chỗ. Nam cư sĩ ấy vẫn đi kinh hành trong canh thứ nhất, trong canh thứ hai, và trong canh cuối.

Ðến rạng đông, các tên cướp không tìm được cơ hội, liền quăng bỏ đá và côn chúng đem theo, rồi bỏ chạy. Vị nam cư sĩ, làm xong công việc của mình, đi đến Xá-vệ đến yết kiến bậc Ðạo Sư và hỏi:

– Bạch Thế Tôn, có phải khi nào bảo vệ mình cũng là bảo vệ người khác không?

– Này nam cư sĩ, đúng vậy. trong khi bảo vệ mình, con người cũng bảo vệ người khác. Trong khi bảo vệ người khác, con người cũng bảo vệ mình.

– Ôi, khéo nói thay là lời của Thế Tôn! Khi con cùng đi đường với người cầm đầu đoàn lữ hành, con đi kinh hành dưới một gốc cây để bảo vệ con, và do đó, con đã bảo vệ cả đoàn lữ hành.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này nam cư sĩ, thuở trước, các bậc hiền trí, trong khi tự bảo vệ mình, đã bảo vệ người khác.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi đến tuổi trưởng thành, thấy được sự nguy hiểm trong các dục, Bồ-tát xuất gia làm vị tiên nhân du sĩ, sống ở dãy Hy-mã-lạp Sơn.

Vì cần đi lấy muối và giấm, Bồ-tát đi về vùng quê, Bồ-tát đi cùng đường với vị cầm đầu đoàn lữ hành. Khi đoàn lữ hành dừng lại tại một khu rừng, Bồ-tát quyết định đi kinh hành dưới một gốc cây, thọ hưởng thiền lạc, không xa đoàn lữ hành bao nhiêu. Rồi có năm trăm tên cướp, sau buổi ăn chiều, bao vây doanh trại để đánh cướp đoàn lữ hành ấy; thấy vị tu khổ hạnh, bọn chúng dừng lại và nói:

– Nếu nó thấy chúng ta, nó sẽ báo động. Hãy chờ, cho nó ngủ, rồi chúng ta sẽ đánh cướp trại.

Nghĩ vậy, bọn chúng chờ tại chỗ ấy. Vị tu khổ hạnh suốt đêm vẫn đi kinh hành. Các tên cướp không có được cơ hội, quăng bỏ các côn gậy, đá chúng đã mang theo và la lên cho những người trong đoàn lữ hành nghe:

– Này các bạn lữ hành, nếu hôm nay không có vị tu khổ hạnh đi kinh hành, thì tất cả các bạn đã bị cướp phá lớn rồi. Ngày mai, hãy tôn trọng vị tu khổ hạnh ấy.

Nói xong, bọn cướp bỏ đi. Khi đêm đã sáng, đoàn lữ hành thấy các côn, gậy, các hòn đá mà bọn cướp bỏ lại, họ rất sợ hãi, đi đến Bồ-tát, đảnh lễ và hỏi:

– Thưa Tôn giả, Tôn giả có thấy bọn cướp không?

– Này các Hiền giả, tôi có thấy.

– Thưa Tôn giả, thấy chừng ấy bọn cướp, Tôn giả không sợ hãi, không e ngại sao?

Bồ-tát nói:

– Này các Hiền giả, thấy bọn cướp, kẻ có tài sản mới sợ hại. Ta không có tài sản, sao ta lại sợ hãi? Khi sống ở làng hay ở rừng, ta không sợ hãi, không e ngại vì ta không có gì để mất.

Sau khi thuyết pháp cho họ, Bồ-tát đọc bài kệ này:

Trong làng, ta không sợ,
Trong rừng, ta không sợ,
Bước lên đường giải thoát
Với lòng từ, lòng bi.

Như vậy, Bồ-tát thuyết pháp với bài kệ này, làm các người ấy được hoan hỷ, và họ cung kính đảnh lễ Bồ-tát. Bồ-tát sống cho đến khi mạng chung, tu tập Bốn Vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) và được sanh lên cảnh giới Phạm thiên.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, các người trong đoàn lữ hành là hội chúng đức Phật, và vị tu khổ hạnh là Ta vậy.

  1. CHUYỆN GIẤC MỘNG LỚN (Tiền thân Mahàsupina)

Trước bò đực cây con…,

Câu chuyện này được bậc Ðạo Sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên, về mười sáu giấc mộng kỳ bí. Tương truyền vào khoảng canh năm, đêm gần mãn, vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) nước Kosala đang ngủ say suốt đêm lại mơ mười sáu giấc mộng lạ lùng khiến vua kinh hãi tỉnh dậy và lo ngại về những điểm xấu có thể xảy đến cho mình. Vua sợ chết đến nỗi không cử động được, mà cứ nằm trùm chăm trên long sàng. Bấy giờ, khi trời gần sáng, các vị Bà-la-môn tế sư đến yết kiến vua và cung kính đảnh lễ, vấn an Hoàng thượng có được ngon giấc chăng.

– Này các Quốc sư, làm sao trẫm ngủ ngon giấc được vì đúng lúc tảng sáng, trẫm mơ thấy mười sáu giấc mơ thật kỳ bí, và trẫm kinh hoàng từ đó! Này các quốc sư, thử nói cho trẫm biết ỳ nghĩa giấc mơ này.

– Tâu Hoàng thượng, chúng thần sẽ phán đoán khi nghe chuyện.

Thế rồi vua kể cho nghe các giấc mơ và hỏi những cảnh kia báo trước tai họa gì cho mình chăng.

Các vị Bà-la-môn đều nắm chặt bàn tay lại. Nhà vua hỏi:

– Này các quốc sư, sao nắm tay lại thế?

– Tâu Ðại vương, vì chính toàn ác mộng cả.

– Vậy chuyện gì sẽ xảy ra? Vua hỏi.

– Tâu Ðại vương, một trong ba đại nạn sẽ xảy ra làm hại vương quyền, tính mạng cùng tài sản của Ðại vương.

– Vậy có cách gì cứu chữa được chăng?

– Hiển nhiên những giấc mộng này báo trước những điểm hiểm nguy khó mà cứu vãn được; tuy thế, chúng thần quyết tìm phương cách đối trị chúng. Nếu không thì việc học hành thông thái uyên bác của chúng thần để làm gì chứ?

– Vậy chư vị Hiền khanh định làm gì để tránh tai họa đó?

– Tâu Ðại vương, ở bất kỳ ngã tư đường nào, chúng thần cũng xin lập tế đàn cúng bái cả.

Nhà vua trong lúc lo sợ, vội kêu lên:

– Này các Hiền khanh, tính mạng trẫm trong tay chư vị, xin hãy mau mau hành sự cho trẫm được bình an.

Các Bà-la-môn như mở cờ trong bụng, nghĩ thầm: “Thế là những số tiền kết sù, thực phẩm ê hề đủ loại sắp về tay ta rồi!”.

Và họ trấn an vua, rồi cùng lui về. Ngoài kinh thành, họ đào hố tế lễ và thu góp cả đàn súc vật bốn chân, lựa giống toàn hảo, không tỳ vết bệnh tật và vô số chim muông. Song họ vẫn thấy còn thiếu nhiều thứ quá, nên cứ lui tới cung điện đòi thức nọ thức kia mãi. Thời bấy giờ, nhưng việc làm không thoát khỏi tầm mắt của Hoàng hậu Mallikà, bà bèn đến yết kiến vua và hỏi việc gì khiến các Bà-la-môn cứ đến gặp vua mãi vậy.

Vua phán bảo:

– Trẫm thèm được như ái khanh, thật con rắn đã chui vào tai, mà ái khanh chẳng biết gì cả.

Tâu Hoàng thượng, ngài phán bảo điều gì đấy?

– Ôi, trẫm đã mơ thấy những giấc mộng thật xui xẻo! Các vị Bà-la-môn kia bảo rằng chúng báo trước một trong ba đại họa, nên các vị ấy nôn nóng dâng lễ tế đàn để tránh tai ương đó, vì thế chư vị đến đây hoài.

– Song Hoàng thượng đã thỉnh ý vị Bà-la-môn tối thượng của loài người và chư Thiên chưa?

– Này ái khanh, hãy cho trẫm biết vị đó là ai vậy? Quốc vương hỏi.

– Thế Hoàng thượng không biết vị Ðạo Sư Bà-la-môn tối thượng của thế gian, bậc Toàn tri, thanh tịnh, vô cấu ấy chăng? Dĩ nhiên Ngài là đức Thế Tôn sẽ hiểu rõ các giấc mộng của Hoàng thượng, xin Hoàng thượng hãy đến yết kiến Ngài và hỏi cho rõ.

Nhà vua đáp:

– Này ái hậu, vậy thì trẫm sẽ đi ngay.

Thế là vua liền ngự đến tinh xá, đảnh lễ bậc Ðạo Sư và ngồi xuống.

– Có việc gì khiến Ðại vương đến đây từ sáng tinh mơ thế này? Bậc Ðạo Sư hỏi bằng giọng êm dịu.

– Bạch Thế Tôn, nhà vua đáp. Lúc gần tảng sáng, trẫm đã mơ mười sáu giấc mộng kỳ bí khiến trẫm kinh hoàng và kể lại cho các vị Bà-la-môn nghe. Các vị ấy bảo giấc mộng kia báo trước điềm dữ, vậy để tránh tai họa xảy ra, chư vị ấy phải dâng lễ tế đàn ở bất kỳ ngã tư đường nào. Và chư vị ấy bận rộn chuẩn bị tế lễ, trong khi nhiều sinh vật lo sợ cái chết đang kề trước mắt. Song bạch Thế Tôn, xin hãy cho biết những gì sẽ xảy ra từ những giấc mộng kia, Thế Tôn là bậc tối thượng của chư Thiên và loài người, bậc toàn trí về mọi việc hiện tại, quá khứ và vị lai.

– Thật vậy, này Ðại dương, không có ai ngoài Ta có thể nói đúng ý nghĩa các giấc mộng của Ðại vương và những gì sẽ xảy ra sau đó. Ta sẽ nói. Vậy trước tiên ngài hãy kể cho Ta nghe những giấc mộng xuất hiện ra sao.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Vua đáp và lập tức đưa ra bản liệt kê này, theo thứ tự các giấc mộng xuất hiện:

Trước bò đực, cây con,
Sau bò cái, bê non,
Ngựa, bát vàng, sơn cẩu,
Bình nước, hồ sen trong,
Cơm sống, chiên-đàn quí,
Bầu bí lặn xuống dòng.
Ðá to thì trôi nổi,
Nhái bén, ễnh ương cùng
Xé tan bầy rắn hổ,
Quạ lại có tùy tùng
Chính bầy hoàng nga đẹp,
Chó sói sợ dê rừng!

Như vậy, bạch Thế Tôn, trẫm đã mơ thấy những giấc mơ này nghĩa là thế nào?

  1. – Hình như có bốn con bò đực, sắc đen tuyền từ bốn hướng chạy vào sân chầu với vẻ muốn đánh nhau, dân chúng đổ xô đến xem đấu bò, họp thành một đám đông, nhưng bầy bò chỉ giương oai múa võ, gầm thét ầm ĩ rồi cuối cùng bỏ đi chứ không đánh nhau. Ðó là giấc mơ đầu của trẫm. Nó báo trước điều gì sẽ xảy ra chăng?

– Này Ðại vương, giấc mơ ấy không có hậu quả gì ngay trong thời Ðại vương hay trong thời của Ta đâu. Mà sau này, vào thời kỳ vua chúa xan tham, bất công, khi dân chúng không theo Chánh pháp, thế giới đảo điên, việc thiện suy giảm, và điều ác đồng thời tăng trưởng. Trong những ngày thế giới điêu tàn ấy, sẽ không có mưa từ trời rơi xuống, gió không thổi, mùa màng cây cỏ khô héo, nạn đói nổi lên trên địa cầu. Rồi mây sẽ kéo đến từ góc trời như thể sắp mưa, khiến dân chúng vội vã, trước tiên là mang vào nhà mọi thứ thóc lúa, hoa màu mà phụ nữ đã đem phơi nắng, vị sợ ướt hết. Sau đó đám đàn ông đem xẻng, thúng… đi đắp đê. Bầu trời như thể có dấu hiệu mưa tới, sấm nổ ầm ầm, chớp lóe sáng lòa xé mây, nhưng rồi cũng như bầy bò trong giấc mơ nọ không đánh nhau thì mây kia cũng sẽ tan nhanh và mưa chẳng đến. Những việc nọ mà các Bà-la-môn bảo ngài làm chỉ cốt để sinh lợi cho họ thôi.

Khi bậc Ðạo Sư đã nói xong giấc mộng này, Ngài bảo:

– Ðại vương hãy kể cho ta nghe giấc mộng thứ hai.

  1. – Bạch Thế Tôn, vua đáp, giấc mộng thứ hai của trẫm như vầy: Hình như có những bụi cây con từ dưới đất trồi lên, khi chúng chỉ mới cao chừng vài tấc thì chúng đã đơm hoa kết trái. Ðó là giấc mơ thứ hai, và chuyện gì sẽ xảy ra từ đây chăng?

– Này Ðại vương, giấc mộng này sẽ thành hiện thực vào thời thế giới này suy đồi và con người yểu mệnh. Trong thời vị lai, dục vọng sẽ rất mãnh liệt, có những bọn con gái rất non trẻ đi đến sống chung với bọn đàn ông và rồi cũng theo lề lối đàn bà, chúng sẽ thụ thai và sinh con cái. Hoa quả kia tượng trưng cho con cái của chúng. Nhưng Ðại vương chẳng có gì phải lo sợ cả. Ðại vương hãy nói cho Ta nghe giấc mơ thứ ba đi.

  1. – Bạch Thế Tôn, hình như trẫm mơ thấy bầy bò cái bú sữa con mà chúng vừa sinh ra trong một ngày thôi. Ðó là giấc mơ thứ ba. Vậy điều gì sẽ xảy ra chăng?

– Giấc mơ này, thưa Ðại vương, chỉ thành hiện thực trong thời vị lai, khi các người già không còn được kính trọng nữa. Trong thời ấy, con người đời không tỏ lòng kính trọng cha mẹ mình hay nhạc phụ nhạc mẫu. Chính con cháu sẽ cai quản tài sản gia đình, và nếu họ muốn, họ sẽ cho cha mẹ thức ăn, áo mặc, còn nếu không thích thì họ sẽ cất hết các quà biếu ấy lại. Lúc ấy đám người già sống thiếu thốn và lệ thuộc vào bọn con cháu, tùy theo ân huệ ban bố của con cháu mình, giống như bò cái bú sữa bò con vừa mới sinh một ngày! Nhưng Ðại vương chẳng cần phải lo sợ gì cả. Hãy kể cho Ta nghe giấc mơ thứ tư đi.

  1. – Bạch Thế Tôn, hình như trẫm thấy người ta mở dây buộc đàn bò lực lưỡng mạnh bạo ra, rồi đem đàn bò con bắt kéo xe, và chúng không đủ sức mang gánh nặng đặt lên đầu chúng, nên không chịu đi, chỉ đứng yên, khiến xe cộ không chạy được trên đường sá. Ðó là giấc mộng thứ tư của trẫm, và việc gì sẽ xảy ra chăng?

– Giấc mộng này, thưa Ðại vương, cũng chẳng thành hiện thực mãi cho đến ngày vị lai, thời có các vua chúa bất minh. Trong thời vị lai ấy, các vua chúa xan tham bất chánh không có lòng tôn kính các bậc trưởng thượng thông thái, am hiểu luật pháp cổ kim, đa mưu túc kế, thành thạo việc đời, nên vua không bổ nhiệm vào pháp đình những vị phán quan thông minh uyên bác về luật vua phép nước. Chẳng những thế, bọn vua chúa ấy quý trọng những người quá non trẻ ngu si và chỉ định chúng vào những chức chủ tọa tòa án. Ðám người này vừa ngu dốt việc triều chính, vừa kém cỏi không thể vận dụng kiến thức và thực hành, nên không đủ sức mang nổi trách nhiệm cao cả của chúng hoặc trị dân trị nước, mà sẽ làm nghiêng ngả giềng mối quốc sự vì thiếu năng lực tài ba. Do đó những bậc cao niên trưởng thượng thông thái kia, dù đầy đủ tài năng đương đầu với mọi trở lực gian lao, vẫn nhớ rõ là họ đã bị bỏ rơi như thế nào rồi, nên sẽ từ chối giúp sức và bảo: “Ðây không phải là việc của chúng ta, chúng ta là người ngoài cuộc, cứ để cho bọn trẻ nội bộ lo liệu”. Từ đó, các vị ấy đứng tách rời ra, và cảnh suy tàn sẽ vây hãm đám vua chúa kia từ mọi phía. Chuyện ấy cũng giống như dây thắng đem buộc vào bầy bò con chưa đủ sức kéo xe nặng nề, chứ không phải buộc vào đàn bò kéo xe lực lưỡng từ xưa, chính bọn chúng đã thừa khả năng đảm đang việc ấy. Tuy vậy, Ðại vương chẳng có gì phải sợ hãi cả. Hãy kể tiếp giấc mơ thứ năm đi.

  1. – Bạch Thế Tôn, hình như trẫm mơ thấy một co ngựa có cái mồm cả hai bên, thức ăn được bỏ vào cả hai bên, nên nó ăn luôn cả hai mồm cùng một lúc, đó là giấc mơ thứ năm. Vậy việc gì sẽ xảy ra chăng?

– Giấc mơ này cũng chỉ thành hiện thực trong tương lai, thời kỳ các vua chúa ngu si bất chánh bổ nhiệm bọn người tham lam bất chánh làm phán quan. Bọn người hèn hạ này là một bọn ngu si, khinh chê điều thiện, sẽ nhận tiền của hối lộ từ cả hai bên trong lúc chúng ngồi ghế xét xử, chúng sẽ nhét đầy túi tham với cách nhũng lạm cả hai phía này, chẳng khác nào con ngựa ăn cỏ cả hai mồm cùng một lúc. Tuy thế, Ðại vương chẳng có gì phải lo sợ chuyện đó cả. Hãy kể tiếp giấc mộng thứ sáu.

  1. – Bạch Thế Tôn, hình như trẫm thấy người ta cầm một cái bát vàng sáng loáng đáng giá trăm ngàn đồng tiền, lại đưa ra mời một con chó rừng già nua tiểu tiện vào đấy. Và trẫm thấy con vật kia đã làm như vậy. Ðó là giấc mộng thứ sáu. Việc gì sẽ xảy ra chăng?

– Giấc mộng này cũng chỉ thành hiện thực trong tương lai, khi các vua chúa, dù xuất thân từ dòng dõi hoàng tộc, lại không tin dùng các vương tôn công tử quí phái từ xưa, mà đem ban chức tước cho bọn hạ đẳng, khiến đám quí tộc phải sa sút nghèo hèn và đám cùng đinh lên ngôi cao trọng. Sau đó những danh gia vọng tộc bị quẩn bách bần cùng phải cố tìm kế mưu sinh bằng cách nương tựa vào đám người trưởng giả mới lên, và đem con gái mình gả cho chúng. Như vậy mối nhân duyên kết hợp bầy tiểu thư đài các với đám tục tử hạ lưu có khác gì việc con chó rừng giả tiểu tiện vào cái bát vàng kia! Tuy thế Ðại vương chẳng có gì phải lo ngại cả. Hãy kể tiếp giấc mộng thứ bảy đi.

  1. – Bạch Thế Tôn, có một kẻ đan sợi dây thừng, trong khi vừa đan, nó lại vừa thả dây này xuống chân, dưới ghế ngồi khi ấy có một con chó cái rừng đói mồi, nên cứ ăn mãi sợi dây thừng kia mà người ấy chẳng hề biết. Ðó là giấc mơ thứ bảy mà trẫm đã thấy. Việc gì sẽ xảy ra chăng?

– Giấc mộng này cũng không thành hiện thực cho tới thời vị lai, khi ấy đám nữ nhân đầy tham dục chạy theo bọn đàn ông và rượu nồng, ngọc ngà, trang sức vàng bạc, lê bước khắp nẻo đường thọ hưởng mọi lạc thú trần gian. Trong lối sống phóng đãng hoang phí kia, chúng cũng say sưa bên men rượu nồng cùng bọn tình nhân, chúng cứ phô trương đủ thứ vòng hoa, sáp thơm thật bóng lộn, chẳng còn quan tâm đến việc tề gia nội trợ dù cấp bách đến đâu đi nữa, chúng chỉ suốt ngày chờ đợi bọn tình nhân, cứ nhìn qua khe hở cao tít ở ngoài vách tường quanh nhà; chúng lại đem hết thóc giống để dành gieo hạt ngày sau ra giã làm bột, cốt để ăn chơi thỏa thích. Bằng mọi cách trên, chúng lấy hết kho thóc lúa do công lao của chồng chúng làm ra trên đồng ruộng, chúng xâu xé tài sản của bọn đàn ông khốn khổ kia, có khác gì con chó rừng đói mồi dưới chân ghế cứ gặm hết đoạn dây thừng trong lúc người ấy đang kết dây lại. Tuy vậy, Ðại vương chẳng có gì phải sợ hãi cả. Hãy kể giấc mộng thứ tám của Ðại vương đi.

  1. – Bạch Thế Tôn, hình như trẫm thấy tại hoàng môn có một bình lớn đầy nước tận miệng, ở giữa một số bình trống không. Rồi từ bốn phương có bốn dòng người gồm cả bốn giai cấp (Sát-đế-ly, Bà-la-môn, Vệ-xá, Thủ-đà), liên tục mang nước trong các bình đất đến đổ vào chiếc bình lớn kia, làm nước tràn chảy hết ra ngoài. Tuy vậy, họ vẫn cứ đổ mãi nước vào bình đã tràn ấy, mà chẳng có người nào thèm liếc mắt tới những bình trống trơn cả. Ðó là giấc mơ thứ tám của trẫm. Xin cho biết có việc gì xảy ra chăng?

– Giấc mơ này cũng chẳng thành hiện thực cho tới thời vị lai. Khi ấy thế giới sẽ suy tàn, vương quốc trở thành kiệt quệ, vua chúa sẽ nghèo khó và sinh thói xan tham, người giàu nhất trong đám vua chúa cũng không thể có nhiều hơn một trăm ngàn đồng tiền trong kho. Trong lúc túng quẩn, bọn vua chúa này bắt toàn dân ra sức làm việc cho họ; vì thế, để phụng sự vua, dân chúng bỏ hết công việc riêng của mình, đi gieo hạt lúa, đậu, trông coi gặt hái, đập giã và cất vào công khố; để phụng sự vua, dân chúng phải trồng mía làm đường, nấu mật; để phụng sự vua, dân chúng phải trồng vườn hoa vườn trái, và thu hoạch hoa màu. Khi thu hoạch đủ loại sản phẩm, chúng đem chứa đầy vào các kho tích trữ của vua chúa đến tràn lan, mà chẳng khác gì đổ tràn các bình đã đầy và chẳng quan tâm những bình trống rỗng. Tuy nhiên, Ðại vương chẳng có gì phải lo sợ vì việc ấy cả. Hãy kể cho Ta nghe giấc mộng thứ chín.

  1. – Bạch Thế Tôn, hình như trẫm thấy một hồ sâu có bờ cao bao quanh mọc đầy năm loại hoa sen. Từ bốn phía hồ các loài vật hai chân, bốn chân kéo đến từng đàn để uống nước. Chính giữa hồ thì nước sâu lại đục ngầu như quấy bùn, nhưng nước lại trong trẻo lấp lánh ở các bờ hổ, nơi đủ loại súc vật bước xuống uống ăn. Ðó là giấc mộng thứ chín của trẫm. Chuyện gì sẽ xảy ra từ điềm ấy chăng?

– Giấc mơ này cũng chỉ thành hiện thực ở thời tương lai. Thời ấy vua chúa trở thành bất công, cai trị theo ý muốn và sở thích riêng của mình, nên không xử án theo công lý. Bọn vua chúa này thèm khát vàng bạc và gia tăng việc nhận hối lộ, họ không tỏ lòng thương xót yêu mến dân chúng mình, mà lại tàn ác vơ vét của cải bằng cách chà đạp bọn bề tôi như ép mía và đánh thuế dân đến độ đồng xu chẳng còn dính túi. Vì không thể nào trả nổi sưu thuế đè nặng trên lưng, dân chúng khắp thị thành làng mạc sẽ bỏ trốn, tìm nơi trú ẩn ở các vùng biên địa của xứ sở nên trung tâm của tổ quốc trở thành chốn hoang vu, trong khi vùng biên địa lại đông đúc dân chúng. Chuyện ấy cũng giống như nước giữ hồ vẩn đục, còn ở bờ hồ lại trong trẻo. Tuy vậy, Ðại vương chẳng có gì phải lo sợ gì việc ấy cả, hãy kể cho Ta nghe giấc mộng thứ mười.

  1. – Bạch Thế Tôn, hình như trẫm thấy cơm sôi trong nồi mà không được trộn cho đều. Vì không được khuấy đều, nên nồi gạo giống như được chia ra ba phần rõ rệt theo ba giai đoạn nấu cơm: phần thì nhão nhẹt, phần thì sống sượng, phần thì vừa chín thật ngon lành! Ðó là giấc mộng thứ mười của trẫm. Việc gì sẽ xảy ra từ điềm ấy chăng?

– Giấc mộng này cũng chẳng thành sự thật cho đến thời vị lai. Thời ấy vua chúa bất công, dân chúng dưới quyền cũng trở thành bất chánh, các Bà-la-môn, gia chủ, thị dân, nông dân cũng thế; đúng vậy, dân chúng đều thành ra bất chánh cả, ngay cả những Bà-la-môn thông thái. Kế đó là các thần linh hộ trì chúng, những thần linh mà chúng thường dân tế lễ, như thần cây cối, thần giữa không gian, cũng trở thành bất chánh luôn, ngay cả gió thổi qua quốc độ của các hôn quân này cũng trở thành cuồng phong hỗn loạn, làm rung chuyển các đền đài trên Thiên giới, khiến chư thần trên đó phẫn nộ, không cho mưa rơi xuống; hoặc là nếu có mưa đi nữa cũng chẳng rơi đều khắp quốc độ cùng một lúc, cũng chẳng có những cơn mưa dông lớn tốt lành tưới đều trên các vùng đất cày cấy gieo hạt để giúp dân chúng đang cơn túng quẩn. Vì thế, trong một quốc gia rộng lớn, trong mỗi thôn làng, hồ, ao, mưa không rơi xuống cùng một lúc trong cùng một phạm vi; nếu mưa ở phần trên, thì không mưa ở phần dưới, nơi này mùa màng bị hư hại nặng vì úng thủy, nơi kia lại khô cằn vì hạn hán, nơi khác nữa lại thịnh vượng nhờ những cơn mưa thuận gió hòa đều đặn. Thế là mùa màng trong cùng một quốc độ – như cơm trong một nồi – sẽ không giống nhau. Tuy thế, Ðại vương không có gì phải lo sợ vì chuyện đó cả. Hãy kể cho Ta nghe giấc mộng thứ mười một đi.

  1. – Bạch Thế Tôn, hình như trẫm thấy bơ tươi được đem đi đổi lấy gỗ chiên- đàn (trầm hương) quý trị giá cả một trăm ngàn đồng tiền. Ðó là giấc mơ thứ mười một. Có điều gì xảy ra từ đó chăng?

– Giấc mộng này cũng không thành hiện thực cho đến thời vị lai, ngày mà Giáo pháp của Ta suy tàn. Vào thời đó, nhiều Tỷ-kheo tham lam vô tàm vô quý sẽ xuất hiện, chỉ vì miếng cơm manh áo mà chúng thuyết giảng chính Giáo pháp Ta đã truyền bá cốt để tận diệt dục tham! Do chúng từ bỏ Giáo hội chỉ vì lợi dưỡng tấm thân và đứng vào hàng ngũ của bọn tà giáo, nên chúng không thể giảng Chánh pháp đưa đến Niết-bàn. Không, chúng chỉ suy nghĩ, trong lúc giảng pháp, làm sao dùng đủ lời lẽ hoa mỹ và giọng nói ngọt ngào để dụ dỗ quần chúng đem cho chúng thực phẩm, y phục đắt tiền cùng các thứ đại loại như thế và chỉ chuyên tâm đến lợi dưỡng cúng dường. Có những kẻ ngồi ở đại lộ, góc đường, hoàng môn… cúi mình xuống giảng pháp vì tiền, vì các đồng tiền lớn nhỏ. Và trong khi chúng đem bán rẻ Giáo pháp đưa đến Niết-bàn vô giá để đổi lấy thực phẩm, y phục, vàng bạc thì chúng có khác gì kẻ đem đổi gỗ chiên-đàn đáng giá trăm ngàn đồng để lấy thứ bơ tươi kia? Tuy thế, Ðại vương chẳng có gì phải lo sợ chuyện ấy cả, hãy kể giấc mộng thứ mười hai cho Ta nghe.

  1. – Bạch Thế Tôn, trẫm thấy dây bí bầu rỗng ruột lại chìm xuống nước. Vậy có điều gì sẽ xảy ra chăng?

– Giấc mộng này cũng không thành hiện thực cho đến thời vị lai có vua chúa bất công, thế giới điên đảo. Thời ấy vua chúa không quý trọng những người dòng dõi quý tộc mà chỉ ưu đãi bọn hạ đẳng, nên bọn này sẽ thành ra những chúa tể quyền cao chức trọng trong khi đám quý tộc phải bị dìm xuống cảnh nghèo khổ. Cũng vậy ở chốn triều đình, ở cung môn, tại sảnh đường hay tòa án chỉ có lời nói của bọn hạ đẳng – mà xác lập vững vàng, như thể chìm tận đáy nước. Ngay trong tứ sự cúng dường: thực phẩm y phục, sàng tọa, dược liệu… cũng vậy, chỉ ý kiến của kẻ ác dục, suy đồi được xem là có quyền định đoạt chứ không phải ý kiến của các Tỷ-kheo biết thiểu dục trí túc. Chuyện như thế khắp nơi chẳng khác gì cảnh dây bầu bí rỗng ruột lại chìm. Tuy vậy, Ðại vương không có gì phải lo sợ chuyện đó cả. Hãy kể giấc mộng thứ mười ba cho Ta nghe.

  1. – Khi ấy nhà vua nói:

– Bạch Thế Tôn, hình như trẫm thấy những tảng đá lớn bằng ngôi nhà, lại nổi bồng bềnh như thuyền bè trên nước. Vậy việc gì sẽ xảy ra chăng?

– Giấc mộng này cũng không thành sự thật cho tới thời vị lai như Ta đã nói trên. Thời ấy, vua chúa bất công, tận dụng đám người hạ đẳng, chúng sẽ trở thành các chúa tể đầy quyền lực trong lúc đám người quý tộc sa sút nghèo khổ. Người ta không còn tôn sùng quý tộc, mà chỉ tôn sùng bọn mới giàu sang thôi. Lúc vua lâm triều, trong phòng họp cơ mật, hay ở chốn pháp đình, lời nói của các vị quý tộc tinh thông luật pháp – chính các tảnh đá lớn tượng trưng cho hạng người này – lại trôi giạt bồng bềnh, chứ không lắng sâu vào tâm tư mọi người. Khi các vị này cất tiếng thì bọn trưởng giả mới nổi sẽ cười nhạo khinh bỉ, bảo nhau: “Các tên kia đang nói gì thế?”. Cũng vậy, trong các hội chúng Tỷ-kheo, giống như đã nói trên đây, người ta không biết kính trọng những bậc tối thắng giữa hàng Sa-môn, nên lời nói của các vị này không lắng đọng lại, mà chỉ trôi dật dờ đi mất, chẳng khác nào các tảng đá nổi bồng bềnh trên mặt nước. Tuy nhiên, Ðại vương không có gì phải sợ hãi chuyện ấy cả. Hãy kể tiếp cho ta nghe giấc mộng thứ mười bốn cho ta nghe.

  1. – Bạch Thế Tôn, hình như trẫm thấy những con nhái bén chẳng lớn hơn những cánh hoa bé tí teo, lại nhanh nhẹn săn bắt những con rắn khổng lồ, cắn xé chúng ra từng khúc như các ngó sen và nhai ngấu nghiến chúng trong chốc lát là xong. Việc gì sẽ xảy ra chăng?

– Giấc mộng này cũng chẳng thành sự thực cho tới thời vị lai, những việc trước Ta đã nói, thời thế giới suy tàn. Lúc ấy tham ái của bọn nam nhân nổi lên quá mãnh liệt, dục vọng quá nồng nàn đến độ chúng trở thành lũ nô lệ cho bọn hầu thiếp còn trẻ con, trong nhà, từ những kẻ tôi tớ, làm công, trâu bò, heo gà, vàng bạc, cho đến mọi vật khác đều tùy thuộc đám thê thiếp định đoạt. Giả sử người chồng khốn khổ kia hỏi xem tiền bạc, áo quần để ở đâu, liền được đáp rằng nó ở đâu kệ nó, chàng ta phải lo chuyện mình đi, đừng hỏi han gì lôi thôi về việc gì trong nhà “vợ chàng ta” cả! Rồi sau đó bằng mọi cách, bọn thê thiếp kia dùng lời người chồng như bầy nô lệ, tôi tớ, như vậy chẳng khác gì lũ nhái bén, chẳng lớn hơn cái hoa tí xíu, lại nuốt chửng rắn hổ mang! Tuy nhiên ngài chẳng có gì phải lo lắng về việc đó cả. Hãy nói cho Ta nghe giấc mộng thứ mười lăm.

  1. – Bạch Thế Tôn, hình như trẫm thấy một con quạ đồng quê, đầy đủ mười ác hạnh, lại được một đoàn tùy tùng gồm toàn chim quý hộ tống, những con chim này màu lông vàng ánh, thường được đặt tên là Kim nga vương giả. Việc gì sẽ xảy ra chăng?

– Giấc mơ này, thưa Ðại vương, cũng không thành tựu cho đến thời vị lai, thời đại các quốc vương suy thoái. Ðó là thời xuất hiện những vị vua chẳng hiểu biết gì về võ thuật, voi, ngựa, và lại hèn nhát khi ra trận, vì sợ bị truất phế hay tống xuất ra khỏi vương quốc, nên chúng đưa những bọn cận vệ, hầu tắm, hớt tóc, đại loại như thế lên nắm quyền thay vì đưa nhóm người quý tộc lên. Như vậy, đám người này không được hưởng ơn vua lộc nước, nên không đủ sức cấp dưỡng cho mình, đành phải cam chịu hạ mình chầu hầu bọn trưởng giả mới, giống như chim quạ được đám Kim nga vương giả theo hầu. Tuy thế, Ðại vương không có gì phải lo sợ về điều ấy cả. Hãy kể giấc mơ thứ mười sáu cho Ta.

  1. – Xưa nay, chính loài hổ báo săn bắt sơn dương, nhưng hình như trẫm mơ thấy sơn dương săn bắt hổ báo và xé xác ăn rau ráu. Trong lúc vừa thấy bóng bầy dê từ đàn xa bầy chó sói hoảng hốt chạy trốn và lập tức giấu mình vào bụi rậm. Ðó là giấc mơ của trẫm. Việc gì sẽ xảy ra chăng?

– Giấc mơ này, thưa Ðại vương, cũng không thành hiện thực cho đến thời vị lai, thời vua chúa bất minh cai trị. Thời ấy, bọn hạ đẳng được nắm quyền cao chức trọng và được nhiều ân sủng của vua chúa, trong lúc đám quý tộc sa vào cảnh bần cùng tối tăm. Vì có được nhiều thế lực trong tòa án do ân sủng của vua ban, bọn mới giàu sang này đòi tước đoạt quyền tư hữu đất đai, y phục, và mọi tài sản do tổ tiên để lại của đám quý tộc xưa. Khi đám người này cố bênh vực cho quyền lợi của họ trước tòa án, liền bị đám hầu cận thân tín của vua lấy gậy gộc đánh đập, nắm cổ quẳng ra ngoài với lời thô bỉ, đại khái là: “Liệu thần hồn đấy, bọn ngu si kia! Sao? Các ngươi muốn tranh giành với chúng ta ư? Ðức vua sẽ biết được sự hỗn láo của các ngươi, rồi chúng ta sẽ sai chặt tay chân của các ngươi ra và trừng phạt thích đáng cả lũ!”. Sau đó đám người quý tộc kinh hoảng nhận ra rằng tài sản của họ nay đã trở thành tài sản của đám người thống trị mới quá khắc nghiệt kia, nên phải yêu cầu bọn mới được ân sủng này nhận lấy tài sản của họ. Rồi họ vội vã về nhà trốn tránh trong nỗi lo âu sợ hãi. Cũng vậy, các ác Tỷ-kheo tha hồ khủng bố, tiêu diệt các Tỷ-kheo hiền thiện, xứng đáng, cho đến khi các người này không thấy còn ai bảo vệ mình nữa, đành phải trốn vào rừng sâu. Như vậy sự đàn áp hội chúng quý tộc và thiện Tỷ-kheo cũng giống như bầy chó sói bị bầy dê hăm dọa.

Tuy nhiên, ngài không có gì phải sợ hãi chuyện ấy cả. Vì giấc mộng này cũng chỉ liên hệ đến thời tương lai mà thôi. Như vậy, không phải vì chân lý hay lòng yêu mến Ðại vương khiến cho các Bà-la-môn tiên đoán như cách họ đã nói với Ðại vương đâu. Ðó chỉ là lòng tham muốn lợi dưỡng, cái tri thức được nuôi dưỡng bởi tham dục làm cho họ thốt ra những lời nói đem mối lợi phần mình mà thôi.

Như vậy bậc Ðạo Sư đã thuyết giảng ý nghĩa của mười sáu giấc mộng lớn trên xong, và Ngài nói thêm:

– Này Ðại vương, ngài không phải là người đầu tiên nằm mộng như thế; mà ngày xưa, các vua chúa cũng từng mơ thấy những giấc mộng này, và cũng như giờ đây, các Bà-la-môn tìm thấy những cớ đó để dâng lễ tế đàn; vì việc này, theo lời thỉnh cầu của người hiền thiện và có trí, Bồ-tát đã được tham vấn, và các giấc mộng đã được các bậc hiền trí ngày xưa giải thích giống hệt như cách chúng được giải thích giờ đây.

Nói vậy xong, theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ khi vua Ba-la-nại, Bồ-tát thọ sanh làm một Bà-la-môn ở một quốc độ phương Bắc. Khi ngài đến tuổi trưởng thành, ngài từ giã thế tục, sống đời ẩn sĩ. Ngài đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng, an trú tại vùng Tuyết Sơn với thiền lạc thanh tịnh.

Ngày ấy, cũng như trên, vua Brahmadatta mơ những giấc mơ này tại thành Ba-la-nại, và tham vấn ý kiến các Bà-la-môn liên hệ vấn đề và các Bà-la-môn cũng như hiện nay, khởi sự việc tế đàn. Trong đám ấy một thanh niên Bà-la-môn có trí, thông thái, là đệ tử của vị Tế sư của hoàng tộc, thưa với thầy mình:

– Bạch sư phụ, sư phụ đã dạy con ba tập Thánh điển Vệ-đà. Vậy không có kinh nào bảo rằng việc giết một sinh vật không đem lại đời sống cho một sinh vật khác sao?

– Này đồ đệ, việc này sẽ đem lại nhiều tiền cho chúng ta, vô số tiền đấy. Hình như con chỉ mong đừng hao tốn công khố của đức vua thôi ư?

– Bạch sư phụ, vậy xin sư phụ cứ làm theo ý mình. Thanh niên Bà-la-môn nói. Còn phần con, con còn ở lại đây với sư phụ để làm gì kia chứ?

Nói vậy xong thầy từ giã thầy mình và đi đến ngự viên của Hoàng gia.

Cùng ngày đó, Bồ-tát biết hết việc này, ngài nghĩ thầm: “Giả sử hôm nay ta viếng cõi trần, ta sẽ giải thoát cho nhiều sinh vật khỏi cảnh giam cầm ấy ngay”. Thế rồi ngài du hành qua không gian, giáng hạ tại ngự viên kia, ngài an tọa và chiếu sáng như một bức tượng bằng vàng trên thạch bàn dành cho đại lễ. Thanh niên Bà-la-môn đến gần, đảnh lễ ngài và ngồi xuống một bên với vẻ thân hữu. Cuộc đàm đạo êm thấm diễn ra, và Bồ-tát hỏi thanh niên Bà-la-môn có nghĩ là vua này cai trị đúng pháp chăng.

Thanh niên đáp:

– Thưa Tôn giả, đức vua vốn là người chân chính, song các Bà-la-môn đã làm cho ngài thiên về ác hạnh. Khi được vua hỏi ý kiến về mười sáu giấc mộng lớn mà ngài vừa thấy, các Bà-la-môn liền chụp ngay cơ hội đó để đòi tế đàn và bảo hành động tức thì. Vậy thưa Tôn giả, nếu Tôn giả vui lòng đến giải thích cho vua hiểu rõ ý nghĩa thật sự của các giấc mộng ấy và thế là giải cứu được vô số sinh linh khỏi nỗi kinh hoàng vì chết chóc, chẳng phải là một việc thiện lành đó chăng?

– Nhưng này nam tử, ta không biết vua, mà vua cũng chẳng biết ta. Tuy vậy, nếu vua muốn đến đây hỏi ta, ta sẽ nói cho vua nghe.

Thanh niên Bà-la-môn đáp:

– Thưa Tôn giả, con sẽ đi rước đức vua đến đây. Chỉ xin Tôn giả vui lòng ngồi đợi đây một lát cho đến khi con trở lại.

Sau khi được Bồ-tát nhận lời, chàng đến bệ kiến vua và tâu:

– Trong ngự viên vừa có một ẩn sĩ phi hành qua không gian và giáng hạ, vị này bảo có thể giải thích các giấc mộng của Ðại vương, kính mong Ðại vương kể lại các giấc mộng này cho vị ẩn sĩ ấy được chăng?

Khi vua nghe việc này, liền lập tức cùng đoàn tùy tùng đến ngự viên. Vừa đảnh lễ vị ẩn sĩ, vua ngồi xuống bên ngài và hỏi có thật là ngài hiểu rõ việc gì sẽ xảy ra từ những giấc mộng ấy chăng. Bồ-tát đáp:

– Dĩ nhiên là đúng vậy. Nhưng trước hết hãy kể cho ta nghe những giấc mộng của Ðại vương.

– Bạch tôn giả, trẫm xin sẵn sàng, vua đáp và bắt đầu kể như sau:

Trước bò đực, cây con,
Sau bò cái, bê con,
Ngựa, bát vàng, sơn cẩu,
Bình nước, hồ sen trong,
Cơm sống, chiên đàn quý,
Bầu bí lặn xuống dòng,
Ðá to thì trôi nổi,
Nhái bén, ễnh ương cùng
Xé tan bầy rắn hổ,
Quạ có đám tùy tùng
Là bầy hoàng nga đẹp;
Chó sói sợ dê rừng!

Và kế đó vua kể các giấc mộng giống như vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) đã kể trên.

Bậc Ðại Sĩ bảo:

– Thôi đủ rồi, Ðại vương không có gì phải sợ hãi về việc này cả.

Sau khi trấn an nhà vua xong và giải thoát cho đám sinh vật kia khỏi bị giam giữ, Bồ-tát liền trụ trên không, khuyến giáo vua, và an trú vua vào Ngũ giới rồi kết luận với những lời này:

– Thưa Ðại vương, từ nay về sau Ðại vương đừng cộng tác với các Bà-la-môn trong việc giết súc vật để tế đàn.

Sau khi thuyết giảng xong, Bồ-tát du hành qua không gian để trở lại nơi trú ngụ của ngài. Còn nhà vua, chấp trì lời dạy đã được nghe, chuyên sống đời bố thí, cùng làm nhiều thiện sự công đức khác và khi mạng chung đi theo nghiệp của mình.

*

Khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Ðại vương không có gì phải sợ các giấc mộng ấy cả. Vậy hãy hủy bỏ việc tế đàn đi.

Sau khi bảo vua hủy bỏ việc tế đàn và giải cứu vô số sinh linh, Ngài kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda là vua, Xá-lợi-phất là thanh niên Bà-la-môn và Ta là vị ẩn sĩ ấy.

  1. CHUYỆN VỊ TRIỆU PHÚ ILLÌSA (Tiền thân Illìsa).

Cả hai què và còm…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một vị triệu phú keo kiệt. Không xa Vương Xá bao nhiêu, có một thị trấn tên là Sakkhara. Tại đó, một vị triệu phú có tài sản đến tám trăm triệu đồng tiền, tên là Maccharikosiyo. Ông hà tiện đến nỗi một giọt dầu lấy từ ngọn cỏ kusa cũng không cho ai, và cũng không tự mình dùng. Như vậy, tài sản của ông không đem lại lợi ích nào cho vợ con, cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn…. Gia sản ấy nằm yên như vậy, không ai thọ hưởng, như hồ nước có quỷ La-sát chiếm cứ.

Một hôm thức dậy vào sáng sớm, bậc Ðạo Sư khởi lòng đại bi, nhìn toàn thể thế giới, xem ai có khả năng giác ngộ. Ngài thấy sống cách xa Ngài khoảng bốn trăm dặm, có hai vợ chồng ấy đủ khả năng chứng quả Dự lưu. Ðó là hai vợ chồng nhà triệu phú keo kiệt nói trên.

Ngày hôm trước, đi đến hoàng cung để chầu vua, sau khi trở về, người triệu phú thấy một người nông dân đói bụng, đang ăn một loại bánh chiên nhồi với bột chua. Ngay lúc ấy, người triệu phú khởi lên thèm khát, vừa đi về nhà vừa nghĩ: “Nếu ta nói ta muốn ăn bánh chiên nhồi bột chua thì sẽ có nhiều người muốn ăn với ta. Như vậy sẽ tốn cho ta nhiều gạo, bơ chín, đường…. Vì vậy, ta sẽ không nói với ai gì hết”. Về nhà ông đi qua đi lại, dằn ép thèm muốn, đến nỗi sắc da trở thành vàng, mạch máu nổi lên trên thân. Cuối cùng, không dằn ép được thèm muốn, ông đi vào phòng, nằm co ro trên giường.

Như vậy, vì sợ hao hụt tài sản, ông không nói với ai cả. Vợ ông đến, xoa lưng ông và hỏi:

– Này ông, cái gì làm ông không được thoải mái như vậy?

– Ta không có việc gì cả.

– Hay nhà vua nổi giận với ông?

– Vua không nổi giận với ta.

– Hay con trai, con gái, hoặc người nô tỳ làm công có gì khiến ông phật ý chăng?

– Không có gì như vậy cả.

– Hay ông có thèm khát vật gì?

Nghe nói vậy, sợ hao hụt tài sản, ông nằm im lặng. Người vợ nói:

– Này ông, hãy nói đi! Ông thèm khát vật gì?

Ông nuốt nước miếng trả lời.

– Ta có một thèm muốn.

– Thưa ông, ông thèm muốn gì?

– Ta muốn ăn bánh chiên trong chảo.

– Ý muốn ấy có gì đâu mà ông không nói! Ông đâu có nghèo? Nay tôi sẽ làm bánh ngọt chiên trong chảo đủ dọn cho toàn thể dân chúng ở thị trấn Sakkhara.

– Sao lại cho chúng? Chúng cần phải làm để có ăn.

– Vậy tôi sẽ làm đủ dọn cho những người ở cùng một đường.

– Ðâu có được.

– Vậy tôi làm bánh ngọt vừa đủ dọn cho tất cả những người ở trong nhà này.

– Sao bà lại hoang phí như vậy?

– Vậy tôi làm bánh ngọt vừa đủ để dọn cho con trai, con gái của ông ăn.

– Sao lại đề cập đến chúng làm gì?

– Vậy tôi làm bánh ngọt đủ để dọn cho ông và tôi ăn.

– Sao bà lại có ở trong đó?

– Vậy tôi làm bánh ngọt vừa đủ cho một mình ông ăn.

– Nói khẽ chứ, tại chỗ này, có nhiều người chờ đợi bà nấu ăn. Hãy để dành các hột gạo nguyên, chỉ lấy gạo tấm, cái lò và cái chảo, với một ít sữa, bơ chín, mật, đường cục, đem lên sàn nhà lớn tầng lầu thứ bảy và chiên ở đấy. Tại đấy, ta sẽ ngồi ăn một mình không bị ai quấy rầy.

– Ðược lắm!

Người vợ vâng lời, đem theo những đồ cần dùng, leo lên trên lầu, bảo các nô tỳ đi chỗ khác, cho mời vị triệu phú lên. Người triệu phú, từ dưới leo lên, gài chốt tất cả các cửa, sau cùng đến sàn lớn lầu thứ bảy. Tại đấy, ông đóng cửa lại và ngồi xuống. Người vợ đốt lửa nhen lò, đặt chảo lên và bắt đầu chiên bánh.

Lúc ấy, bậc Ðạo Sư, vào buổi sáng, bảo Trưởng lão Ðại Mục-kiền-liên:

Này Mục-kiền-liên, có người triệu phú hà tiện ở tại thị trấn Sakkara, không xa Vương Xá bao nhiêu, ông ta muốn ăn bánh chiên trong chảo, nhưng sợ các người khác thấy, nên cho làm bánh trên tầng lầu bảy. Ông hãy đến đó, nhiếp phục triệu phú ấy, khiến ông ta từ bỏ tất cả, rồi dùng thần lực của ông đem cả hai vợ chồng và tất cả bánh, sữa, bơ chín, mật, và đường cục về Kỳ Viên. Hôm nay, Ta cùng năm trăm Tỷ-kheo sẽ ngồi tại Kỳ Viên, và Ta làm cho Tăng chúng sẽ dùng bữa với bánh ấy.

Trưởng lão vâng theo lời bậc Ðạo Sư, lập tức với thần thông lực đi đến thị trấn ấy. Trưởng lão đứng giữa hư không, trước cửa sổ căn lầu triệu phú, khéo vận y trong và đắp y ngoài sáng rực như một bức tượng bằng châu báu. Vừa chợt thấy vị Trưởng lão, tim vị đại triệu phú xúc động mạnh vì sợ hãi. Ông suy nghĩ: “Ta đã sợ như vậy nên đến chỗ này, thế mà vị này cũng đến đứng trước cửa sổ”.

Không thể hiểu được những gì ông cần phải hiểu, ông tức giận nói lắp bắp những lời như muối và đường bỏ vào trong lửa:

– Này Sa-môn, đứng giữa hư không như vậy, ông đâu có được gì? Dầu ông kinh hành cho đến khi vạch được một con đường giữa hư không, ông cũng không được gì.

Trưởng lão bèn đi kinh hành qua lại giữa hư không. Vị triệu phú nói:

– Ði kinh hành như vậy, ông đâu có được gì? Dầu ngồi kiết-già giữa hư không, ông cũng sẽ không được gì.

Trưởng lão liền ngồi kiết-già giữa hư không. Triệu phú nói:

– Ngồi vậy, ông đâu có được gì? Dầu ông có thể đến đứng ở bậc cửa, ông cũng không được gì.

Trưởng lão đến đứng trên bậc cửa. Vị triệu phú nói:

– Dầu ông phun khói, ông cũng sẽ không được gì.

Trưởng lão phun ra cho đến khi cả lâu đài tràn đầy khói. Mắt vị triệu phú bắt đầu cay, đau như bị kim châm. Vì sợ nhà có thể bị cháy, ông không dám nói:

– Dầu có đốt lửa, ông cũng sẽ không được gì.

Ông suy nghĩ: “Sa-môn này thật là gan lì. Không được gì cũng không đi. Ta phải bảo cho nó một cái bánh mà thôi”.

Vì thế ông liền nói với vợ:

– Này bà, hãy chiên một cái bánh nhỏ xíu cho Sa-môn ấy, rồi tống nó đi.

Người vợ lấy một ít bột, bỏ vào miệng chảo. Bột ấy phồng to lên trở thành cái bánh thật lớn, đầy cả miệng chảo. Vị triệu phú thấy vậy, nghĩ rằng vì vợ mình lấy nhiều bột nên nó thành như vậy. Ông tự mình lấy một ít bột trên đầu cái muỗng và quăng vào trong chảo. Miếng bột nhỏ trở thành cái bánh to lớn hơn bánh trước. Như vậy ông càng chiên bột bao nhiêu, bánh trở thành to bấy nhiêu. Vị triệu phú nản chí nói với vợ:

– Này bà, hãy cho người này một cái bánh.

Khi bà lấy một cái bánh từ giỏ, tất cả bánh đều dính chùm với nhau. Người vợ nói với chồng:

– Này ông, tất cả bánh dính liền với nhau, và tôi không thể tách rời chúng ra được.

– Ðể tôi tách rời bánh cho.

Nhưng vị triệu phú cũng không tách rời bánh được! Cả hai người cầm cả đống bánh, kéo bánh ra, nhưng không thể tách rời bánh được. Trong khi cố gắng kéo bánh, mồ hôi từ thân đổ ra và lòng thèm khát của ông chấm dứt. Ông liền nói với vợ:

– Này bà, ta nay không còn cần bánh nữa! Hãy cho Tỷ-kheo này tất cả bánh trong giỏ!

Người vợ lấy cái giỏ đi đến Trưởng lão. Rồi vị ấy thuyết pháp cho cả hai người, và nói lên công đức tối cao của Ba ngôi báu. Rồi dạy rằng bố thí sẽ có kết quả, vị ấy nêu rõ kết quả của bố thí và các thiện sự khác sáng ngời như mặt trăng trên bầu trời. Nghe Trưởng lão, vị triệu phú khởi tâm tịnh tín, và nói:

– Thưa Tôn giả, hãy đến đây. Hãy ngồi trên giường này và ăn bánh.

Trưởng lão nói:

– Này Ðại triệu phú, bậc Chánh Ðẳng Giác muốn ăn bánh, Ngài đang ngồi tại tinh xá với năm trăm Tỷ-kheo. Nếu hai vị hoan hỷ, ông bà hãy đem bánh, sữa…. và chúng ta cùng đi đến cúng dường bậc Ðạo Sư.

– Thưa Tôn giả, bậc Ðạo Sư nay ở tại đâu?

– Này Ðại Triệu phú, từ đây đến tinh xá Kỳ Viên khoảng bốn trăm dặm.

– Làm sao chúng ta đi hết khoảng đường ấy mà không mất nhiều thì giờ?

– Này Ðại triệu phú, nếu ông hoan hỷ, ta sẽ đưa ông bà đến đó với thần thông lực của ta! Ðầu thang lâu đài của ông sẽ ở tại chỗ này, còn chân thang lầu sẽ đến tại cửa tinh xá Kỳ Viên. Với cách này, ta sẽ đưa ông bà đến tinh xá Kỳ Viên bằng thời gian đi từ đầu thang xuống chân thang lầu.

Vị triệu phú bằng lòng chấp thuận. Vị trưởng lão giữ đầu thang lầu ở tại chỗ đó và bảo:

– Chân thang lầu hãy đến tại cổng chính Kỳ Viên.

Sự kiện xảy ra đúng như vậy! Rồi trưởng lão đưa vị triệu phú và bà vợ bước từ đầu thang lầu đến chân thang lầu rất nhanh vào Kỳ Viên.

Cả hai vợ chồng đi đến yết kiến bậc Ðạo Sư và báo giờ cúng dường. Bậc Ðạo Sư đi vào phòng ăn, ngồi trên Phật tọa đã soạn sẵn cùng với chúng Tỷ-kheo. Ðại triệu phú đổ nước cúng dường trên tay đức Phật và Tăng chúng, trong khi bà vợ đặt bánh trong bình bát của Như Lai. Bậc Ðạo Sư lấy bánh vừa đủ ăn, và năm trăm Tỷ-kheo cũng lấy tương tợ như vậy.

Rồi vị triệu phú đi quanh cúng dường sữa, bơ chín, mật, đường cục. Bậc Ðạo Sư cùng với năm trăm Tỷ-kheo dùng xong, cuối cùng đại triệu phú cùng với vợ ăn cho đến thỏa thích, tuy vậy, bánh cũng không hết. Cho đến khi tất cả Tỷ-kheo và các người ăn mót đồ thừa khắp Kỳ Viên đã có đủ phần của mình, bánh cũng không thấy hết. Họ báo lên Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, bánh vẫn không hết.

– Vậy hãy quăng bỏ bánh tại một bên cổng lớn của Kỳ Viên.

Họ đem quăng bánh xuống một cái hang không xa cổng lớn. Nay, chỗ ấy được biết với tên là “Hang chứa Bánh chiên trong chảo”.

Vị đại triệu phú và vợ đi đến Thế Tôn rồi đứng một bên. Ngài nói lên lời tùy hỷ; cuối lời tùy hỷ, cả hai vợ chồng đều chứng được quả Dự lưu. Rồi họ đảnh lễ bậc Ðạo Sư, leo lên thang lầu ở cổng lớn, và đi về lâu đài của mình. Từ đấy về sau, vị đại triệu phú cúng dường cho Giáo pháp đức Phật đến tám trăm triệu đồng tiền.

Ngày sau, bậc Chánh Ðẳng Giác đi khất thực ở Xá-vệ, đi đến Kỳ Viên, nói lời khuyến giáo của bậc Thiện Thệ cho các Tỷ-kheo xong, Ngài đi vào Hương phòng tĩnh tọa. Vào buổi chiều, các Tỷ-kheo tụ họp tại Pháp đường, rồi nói lên lời tán thán công đức của Trưởng lão đại Mục-kiền-liên:

– Này các Hiền giả, hãy xem uy lực của Trưởng lão Ðại Mục-kiền-liên! Trưởng lão nhiếp phục vị triệu phú hà tiện trong giây lát, khiến ông ta từ bỏ tất cả, đem theo các thứ bánh, đưa ông bà đến Kỳ Viên, trước mặt bậc Ðạo Sư và an trú, họ vào quả Dự lưu. Ôi, Trưởng lão thật có đại uy lực!

Bậc Ðạo Sư đến Pháp đường và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang ngồi bàn vấn đề gì?

Khi nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo muốn nhiếp phục một gia đình, không nên làm hại và áp bức gia đình ấy. Giống như con ong, chỉ đến lấy nhụy hoa, không làm hại hoa. Cũng vậy, vị Tỷ-kheo đi đến gia đình ấy để nói lên các công đức tối thắng của đức Phật.

Rồi bậc Ðạo Sư tán thán Trưởng lão:

Như ong đến với hoa,
Không hại sắc và hương,
Che chở hoa, lấy nhụy,
Cũng vậy, vị Sa-môn,
Bậc chánh đi vào làng
Không được áp bức ai. (Pháp cú 49)

Sau khi nói lên câu kệ trong kinh Pháp cú, bậc Ðạo Sư nêu công đức vị Trưởng lão:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay vị triệu phú hà tiện được Mục-kiền-liên nhiếp phục. Thuở trước, Trưởng lão đã nhiếp phục vị triệu phú và dạy ông ta biết sự liên hệ giữa hành động và kết quả.

Nói xong, bậc Ðạo sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, tại thành này, người triệu phú tên là Illisa, giàu có đến tám trăm triệu đồng tiền, và có đủ mọi tật xấu của con người. Ông què, còm lưng và lé mắt. Ông là người không có lòng tin, hà tiện không bao giờ cho ai, không tự mình hưởng thọ; nhà ông giống như cái hồ bị quỷ La-sát chiếm cứ. Tuy vậy, trải qua bảy đời trước, các tổ tiên của ông là những người bố thí, những thí chủ rất hào phóng. Khi được địa vị triệu phú, ông phá hoại truyền thống của gia đình, đốt cháy nhà bố thí, đánh đuổi các kẻ ăn xin, và tích lũy tài sản.

Một hôm đi chầu vua. khi trở về nhà mình, vị triệu phú thấy một người nông dân đi đường mệt mỏi, cầm một bình rượu, ngồi trên ghế, rót đầy cốc rượu chua, nhắm rượu với một miếng cá khô hôi thối. Thấy vậy, ông khởi lên lòng ham muốn uống rượu nhưng lại nghĩ: “Nếu ta uống rượu, nhiều người sẽ muốn uống với ta. Như vậy, tài sản ta sẽ hao mòn”. Vì thế ông chế ngự cơn thèm khát, đi qua đi lại; nhưng trong khi đi, không thể trấn áp thèm khát, ông trở thành vàng da như bông lúa và các mạch máu nổi lên trên tấm thân ốm yếu của ông. Cuối cùng, ông vào phòng, nằm co ro trên giường. Vợ ông đến, xoa lưng ông và hỏi:

– Này ông, cái gì làm ông không được thoải mái vậy? (Chi tiết đều giống như chuyện đã nói ở trên).

– Vậy tôi nấu rượu vừa đủ cho một mình ông uống.

Khi nghe nói vậy, người triệu phú nói:

– Tại nhà này, nhiều người đang chờ đợi nấu rượu. Còn đem rượu từ quán về và ngồi uống tại đây thì không thể được.

Người triệu phú cho một đồng, bảo một người nô lệ đem một ghè rượu từ quán về và bảo anh ta mang ghè rượu ấy đi theo ra khỏi thành phố, đến bờ sông, đi vào một lùm cây gần con đường lớn, cho đặt ghè rượu xuống, rồi bảo người nô lệ đi ra ngồi ở đàng xa. Ông rót rượu ra chén rồi bắt đầu uống.

Người cha đời trước của ông do làm các công đức như bố thí… đã được sanh làm Thiên chủ Ðế Thích. Ngay trong lúc ấy, ông cha muốn biết sự bố thí của mình có được tiếp tục hay không, và được biết, đứa con trai không tiếp tục sự nghiệp của mình đã chấm dứt truyền thống gia đình, đã đốt trường bố thí, đánh đuổi các người ăn xin, tánh tình hà tiện, nay sợ phải có người khác uống rượu đã lén đi vào lùm cây để uống một mình. Thấy vậy, Ðế Thích quyết định: “Ta sẽ làm cho nó xúc động, ta sẽ giáo hóa nó, giúp nó biết sự liên hệ giữa hành động và kết quả, làm cho nó biết bố thí, khiến nó trở thành nhân từ xứng đáng được sanh ở cõi đời”.

Thế rồi Thiên chủ xuống cõi nhân thế, hóa hiện thành triệu phú Illisa, cũng què chân, cũng còm lưng, cũng lé mắt không khác gì Illisa. Với hình thù như vậy, vị ấy đi vào thành Vương Xá, đứng trước cửa hoàng cung, tự tin báo cho vua biết mình tới. Khi được mời vào, vị ấy vào đảnh lễ vua và đứng hầu bên cạnh. Vua hỏi:

– Việc gì đưa Ðại triệu phú lại đây quá sớm như vậy?

– Thưa Thiên tử, tôi đến đây để thưa rằng trong nhà tôi có tài sản đến tám trăm triệu đồng tiền. Xin Thiên tử hãy truyền mang về đổ đầy ngân khố của mình.

– Thôi vừa rồi, đại triệu phú! Trong cung của ta có nhiều tài sản hơn tài sản của ông!

– Thưa Thiên tử, nếu ngài không làm, tôi sẽ lấy tài sản ấy bố thí theo sở thích của tôi.

– Hãy bố thí, này Triệu phú.

– Thưa vâng, Thiên tử.

Sau khi đảnh lễ vua, đi ra, Ðế Thích (tức ông cha) hóa dạng đi về nhà triệu phú Illisa. Tất cả người hầu cận tùy tùng đến vây quanh. Không một ai có thể biết được đây không phải là Illisa. Ðế Thích vào nhà đứng ở ngưỡng cửa, cho gọi người gác cửa và nói:

– Nếu có một ai giống như ta đến đây tự xưng là chủ nhà này, hãy lấy gậy đuổi nó đi.

Nói xong, Ðế Thích bước lên lầu, ngồi trên bảo tọa hết sức lộng lẫy, và cho gọi vợ triệu phú vào. Với một nụ cười, ông nói:

– Này bà, chúng ta sẽ bố thí.

Nghe nói như vậy, vợ triệu phú, con trai, con gái, các người nô tỳ làm công đều suy nghĩ: “Ðã lâu lắm rồi, tâm chủ ta không nghĩ đến bố thí. Nay chắc là sau khi uống rượu, choáng váng say ông mới sanh ra ý muốn bố thí”.

Vì vậy bà vợ triệu phú nói:

– Thưa ông, hãy bố thí theo sở thích.

– Vậy hãy cho gọi người đánh trống đến, bảo nó đi đánh trống khắp cả thành phố và rao lên: Những ai cần vàng, bạc, châu báu, ngọc ngà v.v… hãy đi đến nhà triệu phú Illisa.

Bà vợ làm theo như lời dặn. Một đám đông người đem theo giỏ và bao… tụ tập tại cửa nhà triệu phú. Ðế Thích cho mở toang các phòng đựng châu báu và nói:

– Ta sẽ cho các ngươi. Hãy đến đây lấy như ý các ngươi muốn rồi ra đi.

Quần chúng đem tài sản ra, chất thành đống giữa sàn nhà, đựng đầy các giỏ các chậu mà họ mang đến và đem chúng đi. Một người nông dân khác cột những con bò của Illisa vào cổ xe của vị triệu phú, chất đầy xe với bảy món báu, ra khỏi thành. Trong khi đi trên con đường lớn, anh ta đánh xe đến gần lùm cây, và tán thán triệu phú Illisa như sau:

– Mong rằng chủ của tôi, triệu phú Illisa sống đến một trăm tuổi! Nhờ Illisa nay ta không cần làm việc, có thể sống cho đến trọn đời! Xe này của Illisa, con bò này của Illisa! Bảy món báu không phải mẹ ta cho. Chính do Illisa, chủ của ta cho!

Anh ta vừa đi vừa tán thán công đức của vị triệu phú. Người triệu phú (thật) nghe vậy hoảng hốt, sợ hãi, nghĩ: “Sao người này nói đi nói lại tên ta trong lời nói của nó? Hay vua đã đem tài sản của ta cho quần chúng rồi?”.

Ông liền nhảy ra khỏi lùm cây, nhận ra chiếc xe và con bò của mình, bèn nắm dây mũi con bò, dắt đi và nói:

– Ôi kẻ nô lệ kia, đây là con bò của ta, đây là cỗ xe của ta. Người nông dân xuống xe nói:

– Ôi! đồ khốn nạn ác độc, triệu phú Illisa bố thí cho toàn thành phố. Ngươi là ai vậy?

Người nông dân xông tới đánh Illisa ngã như chớp nhoáng, rồi lấy xe đi. Người triệu phú đứng dậy, tức giận run lên, phủi bụi, chạy theo thật mau, nắm lấy chiếc xe. Người nông dân lại xuống xe, nắm lấy tóc, bẻ quặp ông ta xuống, lấy cùi chỏ đánh ông, nắm cổ quăng ông về hướng con đường ông đã đi tới, rồi bỏ đi. Khi tỉnh rượu vì trận đòn thô bạo ấy, vị triệu phú run lên vì tức giận, đi mau về tới cửa nhà, thấy người ta hì hục mang tài sản đi, ông nói:

– Ôi! sao lạ vậy! Phải chăng vua cho người ăn cướp tài sản của ta?

Ông đi đến nắm lấy người này, người kia, và những ai bị ông nắm liền đánh ông ngã gục dưới chân. Bị đau đớn ê chề, ông đi vào nhà ẩn tránh. Người gác cửa thấy ông, liền kêu:

– Ôi, đồ gia chủ giả, mi đi vào đâu đó?

Trước hết, người ấy lấy gậy tre đán ông, rồi nắm cổ lôi ông ra ngoài cửa. Người triệu phú nghĩ: “Nay, ngoài vua ra, không có một ai làm chỗ nương tựa cho ta được”. Ông đi đến cung vua và thưa:

– Thưa Thiên tử, có phải ngài chiếm đoạt nhà của tôi chăng? Này Triệu phú, ta không chiếm đoạt! Có phải ông đã đến đây và nói: nếu ngài không lấy, thì tôi sẽ đem bố thí tài sản của tôi? Có phải ông đã cho đánh trống khắp cả thành, rao rằng ông sẽ bố thí?

– Thưa Thiên tử, không phải tôi đến đây gặp ngài vì việc ấy. Ngài không biết tính hà tiện của tôi sao? Tôi không cho ai cả, dù chỉ một giọt dầu lấy từ đầu ngọn cỏ! Ai đã bố thí tài sản tôi, xin hãy cho gọi nó đến và xét hỏi nó, thưa Thiên tử.

Vua cho gọi Ðế Thích đến, sự sai biệt giữa hai người này, cả vua và các đại thần đều không thể biết. Vị triệu phú hà tiện nói:

– Thưa Thiên tử, người này đâu phải triệu phú. Tôi mới là triệu phú.

– Chúng tôi không biết được ai là triệu phú thật! Ai có thể biết được họ chăng?

– Thưa Thiên tử, vợ tôi.

Vua cho gọi bà vợ đến và hỏi:

– Người nào là chồng bà?

Bà vợ nói:

– Người này, và bà đứng lại gần Ðế Thích.

Vua cho gọi các người con trai, con gái, các nô tỳ, các người làm công và hỏi. Tất cả đều đứng gần Ðế Thích. Rồi vị triệu phú suy nghĩ: “Trên đầu ta có một nốt ruồi được tóc che kín, chỉ có người thợ hớt tóc mới biết. Ta sẽ cho gọi nó đến”.

Ông nói:

– Thưa Thiên tử, người thợ hớt tóc nhận biết tôi. Hãy cho gọi nó đến.

Thời ấy, Bồ-tát là người thợ hớt tóc của ông. Vua cho gọi Bồ-tát đến và hỏi:

– Ngươi có biết triệu phú Illisa không?

Thưa Thiên tử, nhìn vào đầu tôi sẽ nhận ra!

– Vậy hãy nhìn lên hai cái đầu.

Trong giờ phút ấy, Ðế Thích làm cho một nốt ruồi nổi lên trên đầu mình. Bồ-tát nhìn lên hai cái đầu, thấy hai cái nốt ruồi, liền thưa:

– Tâu Ðại Vương, cả hai cái đầu đều có nốt ruồi. Tôi không thể nhận biết giữa hai người này ai thật sự là Illisa.

Sau đó, Bồ-tát đọc bài kệ:

Cả hai què và còm,
Cả hai đều lé mắt,
Cả hai có nốt ruồi,
Ta không biết hai người,
Ai là Il-li-sa.

Nghe Bồ-tát nói như vậy, vị triệu phú run lập cập, và vì ưu sầu mất tài sản, ông không thể chịu đựng được liền ngã xuống bất tỉnh. Lúc bấy giờ, Ðế Thích mới nói:

– Thưa Ðại Vương, ta không phải là Illisa, ta là Ðế Thích.

Rồi ngài bay lên, đứng trên hư không, với tất cả uy lực siêu phàm. Người ta lau mặt cho Illisa và rưới nước lên người ông. Illisa hồi tỉnh đứng dậy, đảnh lễ Thiên chủ và đứng một bên. Ðế Thích nói:

– Này Illisa, tài sản này là của ta, không phải của ngươi. Ta là cha ngươi. Ngươi là con ta. Trọn đời ta nhờ làm các công đức như bố thí.v.v… nên được sanh là Ðế Thích. Ngươi đã cắt đứt truyền thống của ta, không bố thí, không giữ giới, an trú trên xan tham, đốt cháy trường bố thí, đánh đuổi những người ăn xin, lo tích lũy tài sản. Ngươi không hưởng thọ tài sản ấy. Người khác cũng không được hưởng. Tài sản ngươi đứng như cái hồ bị quỷ La-sát chiếm cứ ở đó, không ai có thể uống cho đã khát. Ngươi nên làm lại trường bố thí của ta như cũ, bố thí như vậy là tốt! Nếu ngươi không làm vậy, ta sẽ làm biến mất tất cả tài sản của ngươi, đập nát đầu ngươi với chùy kim cương của Inda và chấm dứt mạng sống của ngươi.

Triệu phú Illisa hoảng hốt vì sợ bị chết, liền xin hứa:

– Bắt đầu từ nay con sẽ bố thí.

Ðế Thích nhận lời hứa, ngồi trên hư không thuyết pháp, an trú ông trong giới hạnh và đi về xứ của mình. Còn Illisa sau đó chuyên tâm làm các công đức như bố thí.v.v… và được sanh lên thiên giới.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Mục-kiền-liên mới nhiếp phục vị triệu phú hà tiện, mà thuở trước cũng đã nhiếp phục kẻ ấy rồi.

Sau khi bậc Ðạo Sư kể pháp thoại, Ngài kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Illisa là triệu phú hà tiện, Thiên chủ Ðế Thích là Mục-kiền-liên, vua là Ananda và người hớt tóc là Ta vậy.

  1. CHUYỆN TIẾNG TRỐNG ỒN ÀO (Tiền thân Kharasara)

Ăn cướp giết bò xong…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một vị đại thần. Nghe noùi, một đại thần của vua Kosala được vua tin dùng, sau khi thâu thuế cho vua ở một làng biên địa, đã đồng lõa với các tên cướp:

– Ta sẽ đưa các người làng vào rừng. Sau khi đánh cướp làng, các ngươi hãy chia cho ta một nửa.

Nói vậy xong, vào tảng sáng, vị ấy tụ họp các người làng ấy lại, dẫn họ đi vào rừng. Rồi các tên cướp đến ngôi làng không được bảo vệ ấy, giết trâu bò ăn thịt, cướp bóc làng và bỏ đi. Ðến chiều vị ấy về làng với đám tùy tùng. Không bao lâu, việc làm của vị ấy bị bại lộ và được trình báo với vua. Vua cho gọi vị ấy đến, xác nhận tội của vị ấy, xử phạt vị ấy đúng theo luật nước, và sau đó cử một người khác lên thay. Rồi vua đi đến Kỳ Viên báo cáo với Thế Tôn sự việc ấy. Thế Tôn nói:

– Thưa Ðại vương, không phải chỉ nay đạo đức vị ấy mới vậy. Trước kia vị ấy đã như vậy rồi.

Nói vậy xong, Thế Tôn kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahamadatta trị vì Ba-la-nại, vua cử một ông quan làm trưởng một làng ở biên địa. (Sự việc xảy ra như câu chuyện trước). Khi ấy, Bồ-tát là một thương nhân đang đi qua lại tại vùng biên địa, và sống trong ngôi làng ấy. Khi người thôn trưởng ấy trở về với một số tùy tùng đông đảo, vừa đi về vừa đánh trống. Bồ-tát nói:

– Người thôn trưởng ác độc này đã đồng lõa với bọn cướp để cướp làng; và đợi đến khi bọn cướp đã chạy trốn trong rừng, nó lại trở về làng, vừa đi vừa đánh trống.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ:

Ăn cướp giết bò xong,
Nhà đốt, người bị bắt,
Nó về với tiếng trống,
Tiếng trống vang khó chịu.

Như vậy, Bồ-tát đọc bài kệ này chỉ trích người thôn trưởng. Không bao lâu, việc làm của kẻ ấy bị bại lộ. Và nhà vua phạt kẻ ấy theo luật nước.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Thưa Ðại Vương, không phải chỉ nay đạo đức của kẻ ấy như vậy. Thuở trước, đạo đức của kẻ ấy cũng như vậy rồi.

Sau khi bậc Ðạo Sư kể pháp loại này, Ngài kết hợp các câu chuyện và nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, vị đại thần là vị đại thần hiện nay, và người hiền trí đọc bài kệ là Ta vậy.

  1. CHUYỆN NGƯỜI THỢ DỆT BHIMASENA (Tiền thân Bhimasena)

Trước ngươi nói khoác lác…,

Câu chuyện này khi ở tại Kỳ viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo nói khoác lác. Tương truyền có Tỷ-kheo thường tụ họp một số Tỷ-kheo lại và nói như sau:

– Này các Hiền giả, không có một thiện sanh nào bằng thiện sanh chúng tôi. Không có một dòng họ nào bằng dòng họ chúng tôi. Tôi được sanh trong đại gia đình vương tộc như vậy. Không có ai sánh bằng chúng tôi theo dòng họ tổ tiên. Không làm sao kể cho cùng tận vàng, bạc v.v… của chúng tôi. Các nô tỳ và người làm công của chúng tôi chỉ ăn cơm gạo thơm và thịt. Chúng mặc áo bằng vải Kàsi. Chúng bôi son phấn Kàsi. Riêng tôi, vì là người xuất gia, nên phải ăn những món ăn hèn mạt như vậy, phải mặc những thứ vải thô xấu như vậy.

Kẻ ấy thường đại ngôn như vậy, giữa các Tỷ-kheo trưởng lão, trung niên, tân học, khoác lác lừa dối mọi người về thọ sanh v.v… Nhưng một Tỷ-kheo khác, sau khi điều tra gia cảnh của Tỷ-kheo ấy, nói cho các Tỷ-kheo về sự đại ngôn của kẻ ấy. Các Tỷ-kheo hội họp trong Chánh pháp đường, nói về việc đại ngôn của Tỷ-kheo ấy như sau:

– Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo này, sau khi xuất gia trong Giáo pháp đưa đến giải thoát, đã nói lời khoác lát và lừa dối. Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông ngồi họp ở đây bàn về vấn đề gì? Khi nghe vấn đề nêu trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Tỷ-kheo ấy nói lời khoác lác, mà thuở trước cũng đã nói lời khoác lác và lừa dối rồi. Nói xong bậc Ðạo Sư kể lại câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn phương Bắc, tại một làng của thị trấn. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát học ba tập Vệ-đà và mười tám nghề với một giáo sư trứ danh ở Takkasilà. Sau khi đạt được sự thuần thục trong tất cả học thuật, Bồ-tát được gọi là nhà Hiền trí Tiểu xạ thủ (Culla-Dhanuggaha-Pandita).

Rời bỏ Takkasilà, Bồ-tát đi đến nước Andhra để tìm kinh nghiệm hành nghề trong tất cả mọi thời. Trong Tiền thân này, Bồ-tát là một người lùn, nhỏ bé và hơi còm. Bồ-tát suy nghĩ: “Nếu ta đi đến một nhà vua nào, vua ấy sẽ nói: Với một thân hình lùn như ngươi, chúng ta sẽ làm gì? Vậy ta hãy tìm một người đàn ông đẹp trai, cao và to lớn, làm cái gốc, núp sau lưng của nó, để nuôi sống ta”. Nghĩ rồi, Bồ-tát đi tìm một người như vậy. Ði đến khu thợ dệt, thấy một người thợ dệt to lớn tên là Bhimasen (Lãnh tụ đạo quân khủng khiếp). Sau khi thân mật chào đón, Bồ-tát hỏi kẻ ấy:

– Này bạn, bạn tên gì?

– Tôi tên là Bhimasena

– Sao anh đẹp trai, đầy đủ sanh y, lại làm nghề hèn hạ này?

– Vì không có nghề nào khác có thể kiếm sống.

– Này bạn, chớ làm nghề này nữa, không có người nào bắn cung giỏi như ta trong khắp xứ Diêm-phù-đề. Nếu bạn cùng ta đi đến nhà vua nào, khi vua ấy lắc đầu nói với ta: Một người lùn như vậy, chúng tôi sẽ làm gì được?, thì bạn hãy nói: Tôi biết bắn cung! Nhà vua sẽ trả tiền lương cho bạn và luôn luôn dùng bạn trong nghề của bạn. Ta sẽ làm việc thế chỗ bạn và ta sẽ sống núp bóng sau lưng của bạn.

Người thợ dệt chấp thuận. Rồi Bồ-tát đưa kẻ ấy đi Ba-la-nại, tự mình xử sự như người nhỏ bé hầu cung, đặt kẻ ấy đi trước, và khi đến cửa hoàng cung, họ báo tin cho vua biết. Khi được mời đi yết kiến vua, cả hai đều vào, đảnh lễ vua và đứng thẳng. Vua hỏi:

– Lý do gì các ngươi đến đây?

Bhimasena trả lời:

– Tôi là người bắn cung tài giỏi. Toàn cõi Diêm-phù-đề, không có người nào bắn cung như tôi.

– Ðể làm việc cho ta, ngươi lấy bao nhiêu?

– Thưa Thiên tử, nửa tháng tôi sẽ lấy một ngàn.

– Còn người này đi với ngươi là ai vậy?

– Thưa Thiên tử, đó là đứa bé hầu cung.

– Tốt lắm, hãy bắt đầu phục vụ ta.

Từ đó trở đi, Bhimasena và Bồ-tát phục vụ nhà vua, nhưng bao giờ mọi công việc khởi lên đều do Bồ-tát làm cả. Lúc bấy giờ, trong nước Kàsi, tại một khu rừng, có một con cọp chận đường nhiều người qua lại và bắt họ ăn thịt. Dân chúng báo cho vua biết tin ấy. Vua cho gọi Bhimasena và nói:

– Này khanh, khanh có thể bắt cọp được không?

– Thưa Thiên tử, tôi được gọi là người bắn cung, sao tôi không thể bắt cọp được?

Vua trả tiền công cho kẻ ấy và tiễn kẻ ấy đi. Anh ta về nhà nói cho Bồ-tát biết. Bồ-tát nói:

– Tốt lắm, bạn hãy đi.

– Nhưng bạn không đi sao?

– Phải, tôi sẽ không đi. Nhưng tôi sẽ nói cho bạn một phương kế.

– Hãy nói lên bạn.

– Một mình bạn, bạn chớ đi gấp đến chỗ ở của cọp. Hãy tụ họp các thôn dân lại, đem theo một ngàn hay hai ngàn cây cung, và đi đến ấy. Khi biết con cọp đã dậy, bạn liền đi trốn, chui vào một lùm cây, nằm sát xuống. Các thôn dân sẽ bắn con cọp cho đến chết. Khi con cọp đã chết, bạn sẽ lấy răng cắn đứt một dây leo, nắm lấy đầu dây leo ấy, bạn đi đến gần con cọp chết, và nói: – Này các ngươi, ai đã giết con cọp này! Ta định cột con cọp này với dây leo như một con bò và dắt nó về nhà vua. Vì cần có dây leo, ta đã đi vào lùm cây. Trước khi ta đem được dây leo về, ai đ~ giết con cọp? Hãy nói lên. Các thôn dân sẽ hoảng hốt, run sợ, và hối lộ bạn nhiều tiền để yêu cầu bạn đừng báo cho vua biết. Người ta sẽ tưởng con cọp do bạn giết được và bạn sẽ được nhà vua cho nhiều tiền.

Kẻ ấy chấp thuận, ra đi sắp đặt việc giết con cọp đúng theo phương thức Bồ-tát dặn, làm cho khu rừng được yên ổn, rồi trở về Ba-la-nại với đại chúng vây quanh, đi đến gặp vua và thưa:

– Thưa Thiên tử, tôi đã giết được con cọp, đã làm cho khu rừng được yên ổn.

Nhà vua rất bằng lòng, cho kẻ ấy rất nhiều tiền.

Lại một hôm, người ta báo cho vua biết có một con trâu chặn đường phá hại. Ngay tức khắc, vua cho gọi Bhimasena. Làm theo cách thức của Bồ-tát, kẻ ấy giết được con trâu như đã giết con cọp và đi trở về. Vua lại cho kẻ ấy nhiều tiền. Anh ta trở thành có quyền hành lớn. Say mê quyền thế, anh ta khinh thường Bồ-tát, không chấp thuận ý kiến của Bồ-tát nữa. Anh ta nói:

– Ta sống đâu có cần ngươi? Ngươi tưởng ngươi là kẻ nào vậy?

Anh ta nói nhiều lời ác độc thô lỗ như vậy.

Sau một vài ngày, một vị vua thù địch đi đến, bao vây Ba-la-nại và đưa tối hậu thư cho vua: Hoặc là giao thành, hoặc là đánh. Vua sai Bhimasena ra giao chiến.

Kẻ ấy mặc đồ lính trận, mang áo giáp đầy mình, ngồi trên lưng con voi cũng khéo mang áo giáp. Bồ-tát sợ Bhimasena bị giết, cũng nai nịt áo giáp đầy đủ ngồi nép mình sau lưng Bhimasena. Con voi với đại chúng vây quanh, đi ra khỏi cửa thành, đến đầu bãi chiến trường. Bhimasena nghe tiếng trống trận, bắt đầu run sợ. Bồ-tát nói:

– Nay nếu bạn rơi từ trên lưng con voi xuống, bạn sẽ chết. Bồ-tát lấy một sợi dây cột Bhimasena lại cho khỏi rơi từ lưng voi và nắm chặt lấy dây. Nhưng khi thấy bãi chiến trường, Bhimasena quá run rẩy, sợ chết, đã đi đại tiện trên lưng voi. Bồ-tát nói:

– Bhimasena trước kia không phù hợp với Bhimasena hiện tại. Trước ngươi tự cho là chiến sĩ đánh trận. Nay ngươi chỉ có tài đại tiện trên lưng voi.

Nói xong, Bồ-tát đọc bài kệ này:

Trước ngươi nói khoác lác,
Nay ngươi chảy nước hôi,
Hai Bhi-ma-se-na
Ðâu có phù hợp nhau
Ðây là lời quyết chiến
Và đây ngươi thảm bại.

Như vậy, Bồ-tát chỉ trích kẻ ấy và nói:

– Này bạn, chớ sợ hãi! Ta đứng đây sao lại để bạn thảm bại?

Bồ-tát đỡ Bhimasena xuống lưng voi, bảo nó rửa ráy rồi về nhà. Bồ-tát nói:

– Hôm nay, ta sẽ giành được danh xưng!

Bồ-tát xông vào chiến trận, hét lớn tiếng, đánh tan đội quân, tóm cổ ông vua thù địch và giải về cho vua Ba-la-nại. Vua rất bằng lòng, thưởng cho Bồ-tát danh vọng lớn. Từ đấy về sau, bậc hiền triết Culladhanuggaha được biết tiếng khắp nước Diêm-phù-đề. Vua cho Bhimasena tiền công, và đưa kẻ ấy về trú xứ cũ. Còn vua trọn đời làm các công đức như bố thí v.v… và đi theo nghiệp của mình khi mệnh chung.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Tỷ-kheo này mới nói khoác lác, mà xưa kia, cũng đã như vậy rồi !

Bậc Ðạo Sư nói pháp thoại xong, kết hợp các câu chuyện và nhận diện toàn thân:

– Lúc ấy Bhimasena là Tỷ-kheo nói khoác, còn vị Hiền trí tiểu xạ thủ Culla-Dhanuggaha-Pandita là Ta vậy.

PHẨM APAYIMHA

  1. CHUYỆN UỐNG RƯỢU (Tiền thân Suràpàna)

Chúng con đã uống rượu…,

Câu chuyện này, khi bậc Ðạo Sư ở tại vườn Ghosita gần Kosambi, đã kể về Trưởng lão Sàgata.

Sau khi an cư mùa mưa ở Xá-vệ, đức Thế Tôn đi bộ đến một thị trấn tên là Bhaddavatikà. Tại đây, các người chăn bò, chăn dê, làm ruộng, người đi đường thấy bậc Ðạo Sư liền đảnh lễ Ngài và ngăn chận Ngài:

– Bạch Thế Tôn, chớ đi đến bến nước Amba (Cây xoài). Tại bến nước cây xoài, trong am thất của những ngoại đạo bện tóc, có con rắn thần (Nàga) nguy hiểm tên Ambatitthaka (rắn thần ở bến cây xoài). Nó có thể làm hại Thế Tôn.

Thế Tôn làm như không nghe lời nói của họ, dù họ nói lời can ngăn lần thứ ba, vẫn cứ đi tới. Trong khi Thế Tôn trú trong một khu rừng không xa Bhaddavatikà, thì Trưởng lão Sàgata, một thị giả của đức Phật, đầy đủ thần thông của hạng phàm phu, đi đến am thất ấy, tại trú xứ của xà vương ấy, trải niệm cỏ và ngồi kiết-già.

Không thể giấu nổi ác tánh, con rắn thần phun khói. Trưởng lão cũng phun khói. Con rắn thần phun lửa. Trưởng lão cũng phun lửa. Lửa con rắn thần không làm hại Trưởng lão nhưng lửa của Trưởng lão lại làm hại con rắn thần. Như vậy, trong giây lát, Trưởng lão nhiếp phục con rắn thần khiến nó thọ Tam quy và Ngũ giới, rồi đi đến bậc Ðạo Sư. Sau đó bậc Ðạo Sư ở tại Bhaddavatikà cho đến khi thỏa thích rồi đi đến Kosambi.

Tin Trưởng lão Sàgata nhiếp phục con rắn thần lan khắp vùng ấy. Các thị dân ở Kosambi đến nghênh đón bậc Ðạo Sư, đảnh lễ ngài, sau đó họ đi đến gần Trưởng lão Sàgata, đảnh lễ Trưởng lão, đứng một bên và nói như sau:

– Thưa Tôn giả, hãy nói lên những vật gì Tôn giả cần, chúng con sẽ lo liệu đủ.

Trưởng lão giữ im lặng. Nhưng nhóm Sáu Tỷ-kheo nói:

– Này chư Hiền, đối với các người xuất gia, rượu trắng khó tìm và rất thích ý. Các ông xem có thể tìm được rượu trắng trong cho Trưởng lão không?

Các vị thị dân bằng lòng, mời bậc Ðạo Sư ngày mai thọ trai. Rồi họ đi vào thành, sắp đặt mọi người, mỗi nhà phải có rượu trắng trong để cúng dường Trưởng lão.

Hôm sau, họ mời Trưởng lão vào cúng dường rượu trắng. Trong mỗi nhà, Trưởng lão đều uống rượu và bị say. Khi đi ra khỏi thành, Trưởng lão ngã xuống tại cửa thành, vừa nằm vừa nói mê sảng. Bậc Ðạo Sư dùng cơm xong, đi ra khỏi thành, thấy Trưởng lão nằm trong hoàn cảnh như vậy, liền bảo các Tỷ-kheo mang Sàgata về tịnh xá. Các Tỷ-kheo đặt Trưởng lão nằm, đầu Trưởng lão dưới chân đức Như Lai, nhưng Trưởng lão xoay trở lại nằm đặt chân trước mặt đức Như Lai. Bậc Ðạo Sư hỏi các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, nay Sàgata có tỏ sự kính trọng đối với Ta như trước kia đã làm không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Này các Tỷ-kheo, ai đã nhiếp phục con xà vương Ambatitthakà?

– Sàgata, bạch Thế Tôn.

– Nhưng nay Sàgata có thể nhiếp phục được một con rắn nước không?

– Thưa không được, bạch Thế Tôn.

– Này các Tỷ-kheo, có thích hợp chăng khi uống một loại gì khiến con người mất lý trí?

– Thưa không thích hợp, bạch Thế Tôn.

Rồi Thế Tôn chỉ trích Trưởng lão và bảo các Tỷ-kheo:

– Ai uống rượu men rượu nấu, người ấy phạm tội cần phải thú nhận và xin sám hối.

Sau khi thiết lập học giới, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào Hương phòng. Các Tỷ kheo, hội họp tại Chánh pháp đường, nói lời chỉ trích uống rượu:

– Thật là một tội lỗi lớn nếu uống rượu, vì uống rượu làm cho một người có trí tuệ và thần thông như Sàgata mù quáng không thấy công đức của đức Phật.

Bậc Ðạo Sư đến Pháp đường và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông ngồi tại đây đang bàn vấn đề gì?

Sau khi được biết vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay các vị xuất gia này mới uống rượu và mất lý trí, mà trước kia họ cũng đã làm vậy rồi. Nói xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Bramadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình phương bắc ở nước Kàsi. Khi đến tuổi trưởng thành, người xuất gia làm tiên nhân du sĩ, đạt được các Thắng trí và Thiền chứng, vui hưởng thiền lạc, trú ở dãy Hy-mã-lạp Sơn, được vây quanh giữa năm trăm môn sinh. Khi mùa mưa đến, các môn sinh thưa với Bồ-tát:

– Thưa Sư trưởng, chúng con sẽ đi đến chỗ có người ở để xin muối và giấm.

– Các Hiền giả, ta sẽ ở lại đây. Các con hãy đi, hãy bảo trọng lấy thân, và sống qua mùa mưa rồi trở về.

– Thưa Sư trưởng, vâng.

Họ đảnh lễ Sư trưởng, đi đến Ba-la-nại, và sống trong công viên của vua. Ngày kế tiếp, họ đi khất thực ngoài cửa làng, nhận đồ cúng dường đầy đủ, ngày kế tiếp nữa, họ trở về thành. Mọi người thương mến cúng dường đồ ăn và sau vài ngày họ báo cho vua biết:

– Thưa Thiên tử, có năm trăm ẩn sĩ từ Hy-mã-lạp Sơn đến trú ở công viên, tu hạnh khắc khổ, nhiếp phục các căn, và giữ giới.

Vua nghe công đức của các vị ấy, liền đi đến công viên, đảnh lễ, tiếp đón họ niềm nở, và mời họ ở lại đó trong bốn tháng mùa mưa. Từ đấy trở đi, họ ăn trong cung điện nhà vua và ở tại công viên. Một hôm có một ngày hội lớn uống rượu trong thành. Nhà vua nghĩ rằng, các vị xuất gia khó có được rượu, nên cúng dường họ nhiều rượu thượng hạng. Các nhà khổ hạnh uống rượu, đi vô công viên, bị rượu làm cho say, một số người đứng dậy múa, một số người hát, một số sau khi múa và hát, vứt lung tung những thúng đựng gạo v.v… rồi nằm xuống ngủ. Khi hết say rượu, họ tỉnh dậy, nghe và thấy những hành động bất chánh của mình, họ khóc than:

– Chúng ta đã làm những hành động không xứng đáng với người xuất gia. Chúng ta sở dĩ làm điều ác như vậy vì chúng ta sống không có bậc sư trưởng của chúng ta.

Ngay lúc ấy, họ từ bỏ công viên, đi về Hy-mã-lạp Sơn. Sau khi dọn dẹp các vật cần dùng, họ đảnh lễ Sư trưởng và ngồi xuống, Sư trưởng hỏi:

– Này các con thân, các con có được an lạc không? Khi đi khất thực có mệt nhọc không? Các con có sống hòa hợp với nhau không?

– Thưa Sư trưởng, chúng con đã sống được an lạc. Nhưng chúng con đã uống rượu, lẽ ra, không được uống; rượu làm cho mất lý trí, không giữ được chánh niệm nên chúng con đã hát và đã múa. Họ báo rõ mọi sự việc rồi đọc bài kệ này:

Chúng con đã uống rượu,
Ðã hát, múa và khóc,
Uống rượu mất lý trí,
Ðâu được hóa thành vượn ?

Bồ-tát nói:

– Do vì không ở với vị Sư trưởng nên sự việc như vậy đã xảy ra.

Sau khi quở trách các vị tu khổ hạnh ấy, Bồ-tát khuyến giáo họ:

– Từ nay chớ làm như vậy nữa.

Rồi trọn đời tu tập Thiền định không gián đoạn, Bồ-tát được sanh lên cõi Phạm Thiên.

*

Sau khi thuyết pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân (Bắt đầu từ đây, sẽ không nói đến “Sau khi kết hợp”) như sau:

– Lúc bấy giờ, hội chúng của vị ẩn sĩ là hội chúng đức Phật, vị Sư trưởng hội chúng là Ta vậy.

  1. CHUYỆN NAM TỬ MITTAVINDA (Tiền thân Mittavinda)

Thế là vượt qua rồi…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo khó bảo. Câu chuyện của Tiền thân này xảy ra trong thời kỳ đức Phật Ca-diếp sẽ được nói đến trong Chương mười, Tiền thân Mahà-Mittavindaka, số 439.

*

Rồi Bồ-tát nói lên bài kệ này:

Thế là vượt qua rồi
Lâu đài bằng thủy tinh
Bằng bạc, bằng châu báu,
Khi ngươi đã đội vào
Chiếc mũ bằng đá cứng
Trọn đời ngươi không thoát.

Sau khi đọc bài kệ này, Bồ-tát đi lên trú xứ thiên giới của mình. Còn Mittavindaka, khi đã đội chiếc mũ ấy, phải chịu đựng đau khổ lớn, và khi các ác hành đã đoạn tận, nó mạng chung và đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Mittavindaka là Tỷ-kheo khó bảo, và vua chư Thiên là Ta vậy.

  1. CHUYỆN ÐIỀM XUI XẺO (Tiền thân Kàlakanni)

Bạn quen chính là người…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một người bạn của ông Cấp Cô Ðộc. Tương truyền người bạn ấy đã cùng ông Cấp Cô Ðộc chơi thân với nhau, đã đi học nghề cùng một thầy, người baïn ấy tên là Kàlakanni (Ðiềm xui xẻo). Thời gian qua, kẻ ấy trở thành nghèo đói, không thể sống được nên đã đi đến vị triệu phú. Vị Triệu phú khích lệ kẻ ấy, trả lương, giao kẻ ấy quản lý gia sản của mình. Kẻ ấy trở thành người làm công cho vị triệu phú và làm tất cả công việc. Trong thời gian đi đến với vị triệu phú, kẻ ấy thường nghe những câu:

– Hãy đứng lại, này Kàlakanni! (Ðồ xui xẻo!) Hãy ngồi xuống, này Kàlakanni! Hãy ăn đi, này Kàlakanni!

Một hôm, các bạn thân của vị triệu phú đi đến thăm nhà vị ấy và nói như sau:

– Này vị Ðại triệu phú, chớ để người này sống gần ông. Nghe những lời xui xẻo như: Hãy đứng lại này Kàlakanni; hãy ngồi xuống Kàlakanni; Hãy ăn, này Kàlakanni, thì quỷ Dạ-xoa cũng chạy trốn. Nó đâu có được ngang bằng với ông. Nó nghèo đói, một kẻ bần cùng. Sao ông có liên hệ với nó?

Ông Cấp Cô Ðộc nói:

– Không phải vậy! Cái tên chỉ để gọi một người. Bậc Hiền trí không đánh giá người bằng cái tên. Chớ nên xem là điềm lành, điềm xấu khi nghe tiếng gọi. Tôi không thể từ bỏ một người bạn đã cùng chơi thân với nhau chỉ vì một cái tên.

Vị triệu phú không chấp nhận lời khuyên của họ. Một hôm, vị triệu phú đi đến làng mà vị ấy làm thôn trưởng và để người bạn ấy giữ nhà. Bọn cướp biết vị triệu phú đã đi về làng, dự định đến cướp phá nhà triệu phú. Với nhiều loại vũ khí cầm tay, ban đêm, chúng vây quanh nhà.

Nhưng Kàlakanni đã nghi thế nào bọn cướp cũng đến, nên không ngủ, ngồi chờ chúng. Khi biết bọn cướp đã đến, kẻ ấy đánh thức mọi người dậy, bảo mọi người thổi tù và, người kia đánh trống, khiến cho toàn gian nhà đầy cả tiếng động như là một hội chợ lớn. Những tên cướp nói:

– Chúng ta nghe lầm là nhà không có người, sao vị Ðại triệu phú có mặt ở đây?

Chúng bỏ chạy và quăng tại chỗ các hòn đá, và vô số dụng cụ khác. Ngày hôm sau, người trong nhà thấy những cục đá quăng bỏ chỗ này chỗ kia, họ hoảng hốt lo sợ và tán thán người bạn ấy:

– Nếu hôm nay, không có một người tuần phòng ngôi nhà sáng suốt như vậy, thì bọn cướp đã bước vào nà tùy theo sở thích và đã ăn cướp lấy cả nhà rồi. Nhờ người bạn kiên trì này, vị triệu phú được lợi ích và hạnh phúc.

Khi người triệu phú trở về, họ báo cáo tất cả tin này cho ông biết, ông nói:

– Các chú muốn ta tẩn xuất một người bạn đã giữ nhà cửa của ta như vậy đó. Nếu ta nghe theo lời các chú tẩn xuất người này thì nay gia sản của ta không còn gì nữa. Chính cái tên không có giá trị gì. Chính cái tâm tốt mới có giá trị.

Nói vậy xong, người triệu phú tăng lương cho người bạn. Nghĩ rằng đây là một câu chuyện đáng kể, ông đi đến bậc Ðạo Sư và tường thuật đầy đủ từ đầu câu chuyện ấy. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này gia chủ, không phải chỉ nay, Kàlakanni mới bảo vệ gia sản của bạn mình, lúc trước kẻ ấy cũng làm như vậy.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của vị triệu phú, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một vị triệu phú có danh tiếng lớn. Bạn của Bồ-tát là Kàlakanni (Ðiềm xui xẻo). Tất cả đều giống như câu chuyện hiện tại. Khi từ làng mình làm thôn trưởng trở về, Bồ-tát nghe câu chuyện ấy liền nói:

– Nếu ta nghe lời nói các chú, tẩn xuất người bạn như vậy, thì nay ta không còn gia sản gì hết.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ:

Bạn quen chính là người
Ði bảy bước giúp đỡ
Bạn thân mới là người
Ði đến mười hai bước
Thời gian tháng, nửa tháng,
Mới thật là bà con
Thời gian có dài hơn,
Mới thật là bằng ta
Sao ta lại có thể
Vì an lạc của ta,
Ðuổi Kà-la-kan-ni,
Người ta biết đã lâu?

*

Sau khi kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Kàlakanni là Ànanda và vị triệu phú Ba-la-nại là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CỬA NGÕ HẠNH PHÚC (Tiền thân Atthassadvàra)

Hãy tìm cầu không bệnh…,

Câu chuyện này khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một người con trai tài giỏi vấn đề hạnh phúc tinh thần. Tại Xá-vệ một triệu phú giàu có, sanh một người con trai. Khi lên bảy tuổi, cậu con trai có trí tuệ và chăm lo hạnh phúc tinh thần.

Một hôm, cậu con trai đến hỏi cha về cửa ngõ đưa đến hạnh phúc tinh thần. Người cha không biết, nhưng vẫn suy nghĩ: “Ðây là một câu hỏi rất tế nhị. Ngoài đức Phật toàn tri, không một ai trên trời dưới đất có thể trả lời câu hỏi này”. Rồi người cha dắt con trai, mang theo nhiều vòng hoa, hương liệu, dầu thơm đi đến Kỳ Viên. Ông cúng dường bậc Ðạo Sư, đảnh lễ Ngài, rồi ngồi xuống một bên và bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, đứa trẻ này có trí tuệ, thiện xảo về hạnh phúc tinh thần, hỏi con một câu hỏi về cửa ngõ đưa đến hạnh phúc tinh thần. Con không trả lời được câu hỏi ấy, nên con đã đến yết kiến Ngài. Lành thay nếu Thế Tôn trả lời câu hỏi ấy.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này cư sĩ, thuở trước ta đã được đứa trẻ này hỏi câu ấy, và Ta đã trả lời cho nó. Lúc bấy giờ, nó đã biết câu trả lời. Nhưng nay, nó không có nhớ được, vì đã đi qua nhiều đời kiếp.

Nói vậy xong, theo yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một triệu phú có rất nhiều tiền của. Con của Bồ-tát mới có bảy tuổi đã có trí tuệ và thiện xảo và hạnh phúc tinh thần. Một hôm, nó đi đến hỏi cha nó về cửa ngõ đưa đến hạnh phúc tinh thần:

– Thưa cha thân, thế nào là cửa ngõ đưa đến hạnh phúc tinh thần?

Người cha trả lời nó với bài kệ này:

Hãy tìm cầu không bệnh,
Là lợi đắc tối thượng.
Giữ giới, kính trưởng thượng,
Biết nghe học kinh điển.
Hãy tùy thuận Chánh pháp,
Thoát ly các chấp thủ,
Chính sáu cửa ngõ này
Ðưa đến chân hạnh phúc.

Như vậy, Bồ-tát trả lời câu hỏi về cửa ngõ đưa đến hạnh phúc tinh thần. Từ đấy trở đi, đứa trẻ sống đúng theo sáu pháp ấy. Còn Bồ-tát trọn đời làm các công đức như bố thí … và đi theo nghiệp của mình khi mệnh chung.

*

Bậc Ðạo Sư kể pháp thoại này xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Ðứa con trai thời ấy là đứa con trai hiện tại và vị đại triệu phú là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CÂY CÓ TRÁI LẠ (Tiền thân Kimpakka)

Không biết hại tương lai…,

Câu chuyện này khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo có tâm luyến ái. Tương truyền có một thiện nam tử đặt lòng tin vào Giáo pháp Phật và xuất gia. Một hôm, trong khi đi khất thực ở Xá-vệ, thấy một thiếu nữ trang sức đẹp đẽ, Tỷ-kheo ấy khởi tâm luyến ái. Vị Sư trưởng và Giáo thọ sư đưa Tỷ-kheo ấy đến gặp Thế Tôn. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Tỷ-kheo, có thật chăng ông bị luyến ái?

Khi được đáp có thật vậy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, năm dục này khi được thọ dụng, thật là khả ái, nhưng thọ dụng nhiều tạo thành nghiệp và sẽ sanh vào địa ngục v.v… Cũng như ăn trái cây Kimpakka. Trái cây Kimpakka có sắc, có hương, có vị nhưng khi được ăn, nó phá vỡ nội tạng đưa đến mạng chung. Thuở trước, nhiều người không thấy sự tác hại của nó, đã tham đắm sắc, hương, vị, đã ăn trái ấy, và đi đến mạng chung.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là người lãnh đạo một đoàn lữ hành, đang đi với năm trăm cỗ xe từ đông sang tây. Bồ-tát đến đầu của khu rừng, họp các người tùy tùng lại và khuyên như sau:

– Tại ngôi rừng này, có những cây độc, các bạn chớ ăn trái cây trước đây chưa từng ăn mà không hỏi ta.

Khi họ đã vượt qua khu rừng, đến biên địa của rừng bên kia, họ thấy một cây Kimpakka (Cây có trái lạ), với cành cây cong xuống vì mang nặng trái. Về hình dáng, màu sắc, vị và hương, thân cây, cành cây, lá và trái cây ấy giống như cây xoài. Một số người lầm về màu sắc, hương vị của những trái cây ấy, tưởng chúng là những trái xoài, nên đã ăn những trái ấy. Một số người đứng lại, hái và đứng chờ, quyết định chỉ ăn sau khi hỏi vị lãnh đạo đoàn lữ hành.

Bồ-tát đến chỗ ấy, bảo quăng các trái cây đã hái. Những ai đã ăn, Bồ-tát làm cho họ nôn ra và cho uống thuốc. Một số người trong họ khỏi bệnh, nhưng những ai đã ăn trước tiên đều mệnh chung.

Sau đó Bồ-tát đã đi đến chỗ mình muốn, thâu hoạch lợi tức, rồi đi về trú xứ của mình. Trọn đời Bồ-tát làm các công đức như bố thí rồi đi theo nghiệp của mình khi mệnh chung.

*

Kể xong câu chuyên, bậc Ðạo Sư nói lên bài kệ này:

Không biết hại tương lai,
Ai thọ dụng các dục,
Quả chín, chúng khổ não,
Như ăn Kim-pak-ka.

Sau khi nêu rõ ràng các dục, khi thọ dụng, đem lại thích thú, và khi chín mùi đem lại khổ não, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng, vị Tỷ-kheo có tâm luyến ái chứng được quả Dự lưu, một số chứng quả Nhất lai, một số chứng quả Bất lai, một số chứng quả A-la-hán.

Pháp thoại kết thúc, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Hội chúng thời ấy là hội chúng đức Phật, và vị lãnh đạo đoàn lữ hành là Ta vậy.

  1. CHUYỆN THỬ THÁCH GIỚI ÐỨC (Tiền thân Sìlavìmamsana)

Giới được xem chí thiện..,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Bà-la-môn thử thách giới đức. Vị này sống dựa vào vua Kosala, thọ Ba quy y, giữ Năm giới không sai phạm và thông suốt ba tập Vệ-đà. Vua nghĩ rằng đây là một người có giới đức và đối xử rất kính trọng. Vị Bà-la-môn ấy suy nghĩ: “Vua kính trọng ta hơn các vị Bà-la-môn khác, và đặt ta vào địa vị đạo sư tối thượng. Nhưng vua kính trọng ta là do thiện sanh, dòng họ, gia đình, quốc độ, nghề nghiệp thành đạt của ta, hay là do giới đức của ta? Ta hãy đem ra thử thách”.

Một hôm, sau khi đi hầu vua, vị ấy trở về nhà, và không hỏi ai, đã lấy một đồng tiền vàng tại quầy của người giữ tiền. Người giữ tiền, vì kính trọng vị Bà-la-môn, ngồi yên không nói gì. Ngày kế tiếp, người ấy lấy hai đồng tiền vàng. Người giữ tiền vẫn chịu đựng như trước. Ngày thứ ba, người ấy lấy một nắm đồng tiền vàng. Người giữ tiền nói:

– Hôm nay là ngày thứ ba, ông đánh cắp tài sản của vua.

Rồi anh ta la lên ba lần:

– Ta đã bắt được tên ăn trộm tài sản của vua!

Người ta chạy từ nhiều phía đến và nói:

– Từ trước cho đến nay, ông giả bộ có đức hạnh !

Họ đánh người ấy hai ba đấm, trói lại và dắt đến trước vua. Lòng đầy buồn phiền, vua nói:

– Này Bà-la-môn, sao ông lại làm ác giới, ác hạnh như vậy? Hãy đem nó đi và xử tội theo lệnh ta.

Vị Bà-la-môn nói:

– Thưa Ðại vương, tôi không phải là người ăn trộm.

– Vậy sao ông lấy đồng tiền vàng ở quầy của người giữ gia sản của ta?

– Vì ngài đối xử với tôi rất mực cung kính, nên tôi làm như vậy để thử xem ngài hết sức kính trọng tôi vì thiện sanh… của tôi hay là vì giới đức. Nay tôi được biết một cách chắc chắn rằng, vì giới đức mà ngài đối xử với tôi rất kính trọng, chớ không phải do thiện sanh… Do đó tôi kết luận: Trong đời này, giới là tối thượng, giới là đệ nhất. Tôi cũng biết rằng tôi không thể nào thành tựu giới này một cách tốt đẹp, khi tôi còn sống trong nhà, thọ hưởng các dục lạc uế nhiễm. Hôm nay, tôi sẽ đi đến Kỳ Viên và sẽ xin xuất gia với bậc Ðạo Sư. Xin Ðại Vương cho phép tôi xuất gia.

Sau khi được vua chấp thuận, vị ấy đi đến Kỳ Viên. Các bạn bè thân quyến hội họp lại, không thể ngăn chặn lại vị ấy được, nên đi trở về. Vị ấy đi đến bậc Ðạo Sư, xin phép xuất gia. Sau khi được xuất gia và thọ đại giới, với sự tu hành không ngừng nghỉ, tăng trưởng Thiền quán, vị ấy chứng quả A-la-hán, rồi đi đến bậc Ðạo Sư và nói lên chánh trí của mình:

– Bạch Thế Tôn, con xuất gia đã được quả tối thượng này.

Lời tuyên bố về chánh trí của vị ấy được chúng Tỷ-kheo biết đến. Một hôm, tại Chánh pháp đường, các Tỷ-kheo ngồi họp, tán thán công đức của vị ấy như sau:

– Thưa các Hiền giả, vị này Bà-la-môn hầu cận của vua, muốn thử thách giới đức của mình, rồi từ giã nhà vua rồi xuất gia, cuối cùng chứng quả A-la-hán.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, nay các ông đang ngồi bàn luận câu chuyện gì?

Khi được nghe câu chuyện ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay người Bà-la-môn này, sau khi thử thách giới đức của mình, đã xuất gia và đã đạt được những giải thoát cho mình. Thuở xưa các bậc Hiền trí, sau khi thách thức giới đức của mình, cũng đã xuất gia và đạt được giải thoát cho mình.

Nói xong bậc Ðạo Sư nói câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm một người Bà-la-môn chuyên lo tế tự, thiên về bố thí, hướng đến giới đức, giữ năm giới rất tinh tấn. Vua đối xử với Bà-la-môn ấy rất đặc biệt, kính trọng hơn các Bà-la-môn khác. Tất cả giống như câu chuyện trước. Sau khi bị trói và dắt đến nhà vua, giữa đường Bồ-tát gặp một số người dụ rắn đang trình diễn các trò chơi rắn. Họ nắm rắn ở đuôi, ở cổ và cuốn rắn quanh cổ họng. Thấy vậy, Bồ-tát nói:

– Này các bạn thân, con rắn hổ giữ giới, theo chánh hạnh, không có ác giới như ông. Vì ác giới và không chánh hạnh, ông thành kẻ trộm cướp, phá gia sản nhà vua, nay đã bị bắt và bị dẫn đi.

Bồ-tát suy nghĩ: “Ngay các con rắn, khi chúng không cắn, không làm hại cũng được gọi là có giới đức. Còn nói gì là loài người nữa? Giới trong đời này là tối thượng, không có gì cao hơn giới nữa”. Rồi họ dắt Bồ-tát đến trước mặt nhà vua. Vua hỏi:

– Người này là ai vậy?

– Ðây là kẻ ăn trộm đã cướp phá gia sản của vua.

– Vậy hãy xử tội nó theo lệnh của nhà vua.

Bồ-tát thưa:

– Thưa Ðại Vương, tôi không phải là người ăn trộm.

– Vậy sao ngươi lại lấy những đồng tiền vàng? Tất cả được báo cáo giống cách thức ở trên. Bồ-tát nói:

– Do lý do này, tôi đi đến kết luận rằng: Trong đời này, giới là tối thượng, giới là đệ nhất. Con rắn hổ do không cắn, không làm hại, cũng được gọi là có giới đức. Giới là tối thượng, giới là tuyệt diệu. Tán thán giới như vậy, Bồ-tát nói lên bài kệ:

Giới được xem chí thiện
Giới vô thượng ở đời
Hãy xem con rắn độc
Có giới không làm hại.

Như vậy Bồ-tát với bài kệ này, thuyết pháp cho vua rồi đoạn trừ các dục, xuất gia làm vị tiên nhân du sĩ, đi vào Hy-mã-lạp Sơn, chứng được năm Thắng trí và tám Thiền chứng, về sau được sanh lên cõi Phạm Thiên.

*

Sau khi kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, hội chúng của Vua là hội chúng đức Phật và vị Bà-la-môn tế tự là Ta vậy.

  1. CHUYỆN ÐIỀM LÀNH DỮ (Tiền thân Mangala)

Ai thoát điềm lành dữ…,

Câu chuyện này khi ở Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư đã kể về một vị Bà-la-môn giỏi đoán tướng các loại vải. Truyền thuyết nói rằng, ở Vương Xá, một vị Bà-la-môn hết sức mê tín, không tin Ba ngôi báu, theo tà kiến nhưng rất giàu có tài sản lớn.

Một hôm, sau khi tắm xong, người Bà-la-môn báo đem cặp áo lại và được báo cho biết là áo bị con chuột cái cắn. Người ấy suy nghĩ: “Nếu cặp áo bị chuột cắn, trong nhà này sẽ có đại nạn xảy ra. Ðấy là một điềm xấu, giống như một lời nguyền rủa. Khi áo bị chuột cắn thì không thể cho con trai, con gái, nô tỳ hay các người làm công… được. Ai lấy cặp áo này, đại nạn sẽ đến với tất cả những người xung quanh. Ta hãy qiăng nó vào nghĩa địa, chỗ quăng xác chết (không thiêu, không chôn). Nhưng ta không thể giao cho những ngưới nô tỳ làm việc này được. Chúng có thể khởi lòng tham, lấy cặp áo và gặp nạn. Vậy ta hãy trao tận tay cho con trai ta đi vứt áo”.

Người Bà-la-môn gọi con trai và nói rõ sự việc ấy:

– Này con thân, chớ lấy tay xúc phạm cặp áo này. Hãy lấy gậy mang cặp áo này, quăng nó vào nghĩa địa, rồi tắm cả đầu cho thật sạch và trở về.

Sáng sớm ngày hôm ấy, bậc Ðạo Sư nhìn xem ai có thể được Ngài hóa độ, thấy cha con ấy có căn duyên quả Dự lưu. Như người thợ săn thú, Ngài đi theo con đuờng thú đi và ngồi trước cửa nghĩa địa ấy, phóng ra hòa quang sáu sắc của đức Phật. Thanh niên Bà-la-môn vâng theo lời cha, mang cặp áo ấy trên đầu một cây gậy, như mang con rắn nhà và đi đến cửa nghĩa địa. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này thanh niên Bà-la-môn làm gì vậy?

– Thưa Tôn giả Gotama, cặp áo này bị con chuột cái cắn, được xem như là lời nguyền rủa, được ví như nọc độc con rắn. Cha tôi sợ rằng nếu giao người khác quăng cặp áo ấy, lòng tham có thể khởi lên và lấy cặp áo, nên mới sai tôi làm việc này. Tôi cầm lấy cặp áo, hứa rằng tôi sẽ quăng và sẽ tắm cả đầu. Tôi đến đây vì việc ấy, thưa Tôn giả Gotama.

– Vậy ngươi hãy quăng đi.

Thanh niên Bà-la-môn liền quăng cặp áo ấy. Bậc Ðạo Sư nói:

– Cặp áo này thích hợp với chúng ta.

Rồi Bậc Ðạo Sư đến lượm áo ngay trước mặt chàng thanh nên. Nhưng chàng thanh niên ngăn chận bậc Ðạo Sư:

– Tôn giả Gotama chớ lấy, chớ lấy cặp áo giống như lời nguyền rủa này.

Bậc Ðạo Sư vẫn cứ lấy cặp áo có điềm xấu ấy và đi về hướng Trúc Lâm.

Chàng thanh niên ấy vội vàng đi thật mau về nhà thưa với cha:

– Thưa cha thân, cặp áo con quăng ở nghĩa địa, nhưng Sa-môn Gotama, dầu con đã ngăn cản, vẫn cứ lấy cặp áo vì cho là chúng thích hợp với Ngài và đã đi đến Trúc Lâm.

Vị Bà-la-môn suy nghĩ: “Cặp áo ấy là điềm xấu, giống như lời nguyền rủa. Nếu dùng nó, Sa-môn Gotama sẽ bị tai hại. Do vậy, chúng ta sẽ bị chỉ trích. Ta sẽ đem cho Sa-môn Gotama nhiều áo khác và bảo Ngài quăng cặp áo ấy đi”.

Vị Ba-la-môn cho đem theo nhiều áo, cùng với con trai đi đến Trúc Lâm. Thấy bậc Ðạo Sư, vị ấy đến đứng một bên và thưa:

– Thưa Tôn giả Gotama, có thật chăng Tôn giả đã lấy một cặp áo đã bị vứt ở nghĩa địa?

– Thật vậy, này Bà-la-môn.

– Thưa Tôn giả Gotama, cặp áo ấy sẽ đem lại điềm xấu. Nếu Tôn giả sử dụng nó, Ngài sẽ bị tai hại và cả tinh xá cũng bị tai hại. Nếu Tôn giả không có áo mặc hay áo đắp, hãy lấy những áo này và vứt cặp áo kia đi.

Bậc Ðạo Sư nói với người Bà-la-môn:

– Này Bà-la-môn, chúng tôi là người xuất gia. Ðối với chúng tôi, các mảnh vải bị vứt tại các chỗ như nghĩa địa, giữa đường, trong đống rác, chỗ tắm rửa, vẫn còn có thể dùng được. Nhưng ông đã mê tín điềm lành, dữ ngày nay cũng như thuở trước.

Và theo lời yêu cầu của vị ấy, bậc Ðạo sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa tại nước Ma-kiệt-đà, ở thành Vương Xá, có vua Ma-kiệt-đà trị nước đúng pháp. Lúc bấy giờ, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn phương bắc. Ðến tuổi trưởng thành, ngài xuất gia làm vị tiên nhân du sĩ, chứng được các Thắng trí và Thiền chứng, rồi đến sống ở Hy-mã-lạp Sơn.

Một thời, Bồ-tát rời khỏi Hy-mã-lạp Sơn, đi đến công viên của vua Vương Xá, trú tại đấy, đến ngày hôm sau Ngài đi vào thành để khất thực. Nhà vua thấy Bồ-tát, bảo gọi vào, mời ngồi trong cung điện, cúng dường đồ ăn và mời ở lại tại công viên. Bồ-tát ăn tại cung điện nhà vua và ở tại công viên.

Lúc bấy giờ, trong thành Vương Xá có người Bà-la-môn làm nghề đoán tướng vải mặc. Thấy cặp áo để trong rương bị chuột cắn, ông ta sợ điềm chẳng lành sẽ xảy ra nên sai con trai liền đem vứt vào nghĩa địa, Bồ-tát đã đi đến trước, ngồi tại cửa nghĩa địa, nhặt lấy cặp áo, và đi về công viên. Chàng thanh niên về báo tin cho người cha biết. Người cha suy nghĩ: “Vị tu khổ hạnh thân cận với vua sẽ bị tai nạn”, ông liền đi đến gặp Bồ-tát và thưa:

– Thưa vị khổ hạnh, hãy quăng cặp áo mà ngài đã lượm được, nếu không ngài sẽ gặp tai nạn.

Bồ-tát nói:

– Ðối với chúng tôi, các tấm vải quăng ở nghĩa địa vẫn còn dùng được. Chúng tôi không mê tín về điềm lành dữ. Mê tín điềm lành dữ này không được các đức Phật, Ðộc Giác Phật và Bồ-tát tán thán. Do vậy, bậc hiền trí không mê tín điềm lành dữ.

Khi Bồ-tát thuyết pháp cho vị Bà-la-môn như vậy, vị ấy từ bỏ quan niệm sai lầm của mình và quy y với Bồ-tát. Còn Bồ-tát giữ thiền quán không gián đoạn, về sau được sanh lên cõi trời Phạm Thiên.

*

Sau khi kể câu chuyện quá khứ cho vị Bà-la-môn, bậc Ðạo Sư nói lên bài kệ này:

Ai thoát điềm lành dữ,
Thoát mộng và các tướng,
Vị ấy vượt qua được
Lỗi lầm do mê tín,
Hai ách được nhiếp phục,
Không còn phải tái sanh.

Như vậy, bậc Ðạo Sư thuyết pháp cho vị Bà-la-môn với bài kệ này, rồi giảng về các Sự thật. Cuối bài thuyết giảng, vị Bà-la-môn cùng với người con trai chứng quả Dự lưu. Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

Người cha và con trai hiện nay là cha và con trai trong thời quá khứ, còn vị tu khổ hạnh chính là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON BÒ SÀRAMBHA (Tiền thân Sàrambha)

Hãy nói lời tốt lành …,

Câu chuyện này, khi ở tại Xá-vệ, bậc Ðạo Sư đã kể về học giới liên hệ đến lời mắng chửi. Hai câu chuyện hiện tại và quá khứ giống như câu chuyện trong Tiền thân nandivisala (số 28) đã nói ở trên. Nhưng trong Tiền thân này, Bồ-tát là một con bò đực, tên là Sàbrambha, của một bà-la-môn trú ở Takkasilà, trong nước Gandhara.

*

Nói câu chuyện quá khứ xong, bậc Ðạo Sư là bậc Chánh Ðẳng Giác, đọc bài kệ này:

Hãy nói lời tốt lành,
Chớ nói lời độc ác,
Lành thay, lời tốt lành!
Lời ác sanh ưu não.

Như vậy, sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vì Bà-la-môn là Ànanda, nữ Bà-la-môn là Uppalavannà, còn Sàrambha là Ta vậy.

  1. CHUYỆN KẺ LỪA ÐẢO (Tiền thân Kuhaka)

Nghe lời của người nói…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một kẻ lừa đảo. Các chi tiết của câu chuyện sẽ được kể trong Tiền thân Uddala (số 487).

*

Thuở xưa, khi vua Barhmadatta trị vì ở Bà-la-môn, gần một ngôi làng nhỏ, có một người tu khổ hạnh lừa đảo, thuộc ngoại đạo bện tóc. Một người điền chủ làm cho người ấy một cái chòi lá trong rừng để ở và nuôi sống kẻ ấy trong chòi với đồ ăn ngon lành. Người điền chủ tin người ngoại đạo bện tóc lừa đảo ấy là người có giới đức. Vì sợ ăn trộm, một hôm, người điền chủ đem đến chòi lá của người ngoại đạo ấy năm trăm đồng tiền vàng, chôn dưới đất và yêu cầu người ấy coi ngó dùm. Vị tu khổ hạnh nói:

– Thưa Hiền giả, đối với những người xuất gia, không nên nói lời như vậy. Chúng tôi không có lòng tham với gia sản của người khác.

– Lành thay, Tôn giả.

Người điền chủ, tin lời của kẻ ấy và ra đi. Kẻ ác khổ hạnh suy nghĩ: “Chừng ấy tiền đủ sống trọn đời người”. Sau một vài ngày, kẻ ấy lấy số tiền, chôn tại một chỗ bên vệ đường, rồi trở về sống tại chòi lá. Ngày kế tiếp, kẻ ấy đi đến nhà người điền chủ sau khi ăn cơm và nói:

– Thưa Hiền giả, nhờ ngài, tôi đã sống đây một thời gian dài. Sống tại một chỗ quá lâu cũng như người sống chung đụng với loài người. Sống chung đụng là một cấu uế đối với những người xuất gia. Do vậy tôi sẽ ra đi.

Nói vậy xong, dầu được yêu cầu nhiều lần, kẻ ấy cũng không muốn trở lại. Người điền chủ nói:

– Sự việc là như vậy, thưa Tôn giả, Tôn giả hãy đi.

Người điền chủ tiễn kẻ ấy ra tận cửa làng rồi mới trở về. Người tu khổ hạnh, đi một lát, rồi suy nghĩ: “Ta nên lừa dối người điền chủ này”. Nghĩ vậy, kẻ ấy cầm một ngọn cỏ giữa búi tóc và đi trở về. Người điền chủ hỏi:

– Sao Tôn giả trở về?

– Thưa Hiền giả, một ngọn cỏ từ mái nhà của Hiền giả đã mắc vào bện tóc của tôi. Người xuất gia không được lấy sự vật không cho. Vậy tôi trở về đem trả ngọn cỏ ấy.

Người điền chủ nói:

– Tôn giả hãy vứt ngọn cỏ rồi đi.

Và nghĩ: “Vị này không lấy gia sản của người khác dù chỉ một ngọn cỏ. Ôi, Tôn giả này thật tế nhị đối với ta”. Người chủ điền sanh tịnh tín, đảnh lễ kẻ ấy, rồi từ biệt.

Lúc bấy giờ, vì mục đích buôn bán, Bồ-tát đi đến biên địa, và ở tại trú xứ ấy. Nghe lời người tu khổ hạnh nói. Bồ-tát suy nghĩ: “Chắc hẳn kẻ ác khổ hạnh này có lấy tiền bạc gì của người điền chủ này”. Bồ-tát hỏi người điền chủ:

– Này bạn, bạn có giao cái gì cho người tu khổ hạnh này giữ không?

– Thưa bạn, tôi có giao cho vị ấy giữ năm trăm đồng tiền vàng.

– Vậy hãy tìm kiếm số tiền ấy.

Người điền chủ đi đến chòi lá, tìm không thấy số tiền, liền trở về hết sức nhanh báo cho Bồ-tát là tiền không còn nữa.

Bồ tát nói:

– Không có ai khác lấy tiền vàng của bạn ngoài tên khổ hạnh bện tóc lừa đảo. Chúng ta hãy đuổi theo bắt lấy nó.

Họ chạy đuổi theo, bắt được tên tu khổ hạnh lừa đảo, đánh nó và bảo nó đem trả tiền vàng. Thấy số tiền vàng đã được trả lại, Bồ-tát khinh bỉ nói với tên tu khổ hạnh:

– Ngươi thật không dính một ngọn cỏ, mà lại dính đến năm trăm đồng tiền vàng!

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ này:

Nghe lời của ngươi nói,
Lời nhẹ nhàng êm dịu,
Không dính đến ngọn cỏ,
Mà dính năm trăm vàng.

Rồi Bồ-tát nói thêm:

– Này kẻ bện tóc gian dối kia, chớ làm như vậy nữa.

Khuyên giáo, và khiển trách kẻ ấy xong, Bồ-tát sống làm các công đức đến lúc mạng chung, Bồ-tát đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Tỷ-kheo này mới lừa đảo mà trong quá khứ cũng đã lừa đảo rồi.

Rồi bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc ấy, người tu khổ hạnh lừa đảo là Tỷ-kheo lừa đảo này, còn người hiền trí là Ta vậy.

  1. CHUYỆN KẺ VONG ÂN (Tiền thân Akatannu)

Ai trước được làm lành…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về ông Cấp Cô Ðộc. Tương truyền, một người triệu phú sống tại biên địa là một người bạn của ông Cấp Cô Ðộc, nhưng hai người chưa từng gặp nhau. Một hôm người bạn này chất đầy năm trăm cỗ xe với hàng hóa biên địa và bảo những người làm công:

– Các bạn hãy đi. Ðem hàng hóa này đến Xá-Vệ, bán trước mặt ông Cấp Cô Ðộc là người bạn của chúng tôi và đem về hàng hóa nhận được do đổi hàng.

Họ vâng lời dặn của vị triệu phú ấy đi đến Xá-Vệ gặp vị đại triệu phú, trao tặng phẩm và trình bày sự việc. Vị đại triệu phú tiếp đón họ niềm nở, cho họ chỗ ở và tiền tiêu, hỏi thăm người bạn có được an lạc không, rồi bán các hàng hóa, và giao cho họ hàng hóa trao đổi. Rồi họ đi về biên địa, báo cáo sự việc lên vị triệu phú.

Một thời gian khác ông Cấp Cô Ðộc, như lần trước cho đánh năm trăm cỗ xe đến biên địa. Những người của ông Cấp Cô Ðộc đến biên địa, đem theo tặng phẩm, đi đến gặp vị triệu phú sống ở biên địa. Ông này nói:

– Các người từ đâu đến?

– Chúng tôi từ Xá-Vệ đến, là những người hầu cận của ông Cấp Cô Ðộc, người bạn của ông.

– Cấp Cô Ðộc, người nào cũng có tên như vậy!

Rồi ông cười mỉa mai họ, nhận lấy quà tặng, và bảo họ đi mà không cho họ chỗ ở và tiền tiêu. Vì vậy họ tự bán các hàng hóa, mang các hàng hóa trao đổi, rồi đi về Xá-Vệ và báo cáo sự việc cho vị triệu phú.

Rồi người triệu phú ở biên địa, một lần nữa, như lần trước, cho đánh năm trăm cỗ xe đến Xá-Vệ. Các người thuộc hạ mang quà tặng đến gặp vị đại triệu phú. Thấy họ, người nhà ông Cấp Cô Ðộc liền thưa:

– Thưa ông chủ, chúng tôi sẽ lo cho họ chỗ ở, cơm ăn và tiền tiêu.

Nói xong, họ đưa các cỗ xe của những người ấy ra khỏi thành, bảo họ tháo xe tại một chỗ đã lựa chọn và nói:

– Các bạn hãy ở đây. Từ nhà chúng tôi, chúng tôi sẽ đưa đến cho các bạn cháo, cơm và tiền tiêu.

Nói xong họ đi, họp các người làm công lại, lúc nửa đêm vào canh giữa, họ đến cướp năm trăm cỗ xe, cướp sạch áo mặc, áo đắp, đánh đổi các con bò, tháo bánh xe ra khỏi các cỗ xe, đặt các cỗ xe xuống đất, lấy các bánh xe, rồi bỏ đi. Những người trú ở biên địa chỉ còn làm chủ một cái áo mặc, không còn gì cả, sợ hãi chạy mau đi trốn và trở về biên địa.

Những người nhà triệu phú báo cáo sự việc ấy lên vị triệu phú Cấp Cô Ðộc. Ðại triệu phú nghĩ: “Ðây là một câu chuyện quan trọng có thể trình bậc Ðạo Sư”.

Ông Cấp Cô Ðộc đi đến bậc Ðạo Sư, tường thuật tỉ mỉ đầu đuôi câu chuyện. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này gia chủ, không phải chỉ nay, kẻ ở biên địa ấy có hạnh như vậy. Trong quá khứ kẻ ấy cũng đã có hạnh như vậy rồi.

Nói xong, theo lời yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một người triệu phú có tài sản lớn ở Ba-la-nại. Một người triệu phú ở biên địa là một người bạn chưa bao giờ thấy mặt của Bồ-tát. (tất cả đều giống như câu chuyện hiện tại trên). Ðược những người của mình báo cáo:

– Ðây là việc chúng tôi làm hôm nay.

Bồ-tát nói:

– Do không biết báo đáp một công việc đã làm trước cho mình, nên về sau họ phải gặp sự việc như vậy.

Nói vậy xong, trước hội chúng tụ họp, Bồ-tát thuyết pháp với bài kệ này:

Ai trước được làm ơn,
Không biết đáp ứng lại,
Về sau, việc xảy đến,
Không tìm được người giúp.

Như vậy với bài kệ này, Bồ-tát thuyết pháp, và trọn đời làm các công đức như bố thí v.v… rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể lại pháp thoại, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Người ở biên địa thời ấy là người ở biên địa hiện nay, còn vị triệu phú Ba-la-nại là Ta vậy.

PHẨM LITTA

  1. CHUYỆN CHƠI SÚC SẮC NGỘ ÐỘC (Tiền thân Litta)

Thuốc độc được xoa bôi …,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể lại về cách thọ dụng sự vật không suy nghĩ. Nghe nói, lúc bấy giờ, phần lớn các Tỷ-kheo nhận được y v.v… có thói quen sử dụng chúng không suy nghĩ. Do sử dụng bốn vật dụng không suy nghĩ, họ không thoát khỏi đọa xứ địa ngục, súc sanh. Bậc Ðạo Sư biết được việc này, liền dùng nhiều phương tiện thuyết pháp cho các Tỷ-kheo, nói lên sự nguy hiểm lúc sử dụng bốn đồ vật mà không suy nghĩ:

– Này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo không được sử dụng bốn đồ vật cần thiết mà không suy nghĩ. Do vậy, từ nay trở đi, hãy suy nghĩ xong rồi mới thọ dụng chúng.

Cách thức suy nghĩ này được nêu rõ:

– Ở đây, các Tỷ-kheo có suy tư, khi sử dụng y, cốt để ngăn ngừa lạnh.

Sau khi đặt ra các điều lệ tương tự cho các vật dụng khác, bậc Ðạo Sư kết luận:

– Này các Tỷ-kheo, cần suy nghĩ như vậy, mới nhận bốn vật dụng. Không suy nghĩ lúc nhận các vật dụng cũng giống như thọ dụng nọc độc con rắn. Các người xưa vì không suy nghĩ, không biết sự nguy hiểm, đã thọ dụng thuốc độc, khi quá chín muồi phải chịu thống khổ.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nai, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình có gia sản lớn, khi đến tuổi trưởng thành, trở thành một người chơi con súc sắc. Một người chơi con súc sắc khác có tánh lừa đảo, chơi với Bồ-tát; khi nó hơn, nó tiếp tục chơi, không xóa bỏ bàn chơi. Nhưng khi người khác hơn, nó liền đưa con súc sắc vào miệng, xem như là mất, rồi xóa bàn chơi và bỏ đi. Biết được việc làm của nó, Bồ-tát nói:

– Thôi được, ta có cách.

Bồ-tát đem những con súc sắc về nhà, xoa thuốc độc, phơi khô, đi đến gần nó và rủ nó chơi. Kẻ kia bằng lòng, và sửa soạn bàn chơi. Khi đang chơi với Bồ-tát, thấy mình bị thua, nó liền bỏ một con súc sắc vào trong miệng. Bồ-tát thấy nó làm như vậy, liền nói:

– Hãy nuốt đi. Sau ngươi sẽ biết cái này là gì!

Rồi Bồ-tát đọc câu kệ này để trách móc nó:

Thuốc độc được xoa bôi,
Ðốt cháy thật mãnh liệt,
Ngươi nuốt con súc sắc,
Nào đâu có biết vậy,
Nuốt, hãy nuốt nữa đi,
Kẻ chơi ác độc kia,
Cuối cùng, ngươi sẽ bị,
Ðau đớn cực thống khổ.

Khi Bồ-tát đang nói vậy, thuốc độc bắt đầu thấm vào kẻ chơi súc sắc lừa đảo, mắt nó xoay tròn, thân cúi quặp và té xuống đất. Bồ-tát nói:

– Thôi ta sẽ cứu ngươi sống lại!

Bồ-tát cho nó uống loại thuốc trộn lẫn với các thứ thuốc khác, làm cho nó nôn ra, rồi cho nó ăn bơ chín, mật, đường v.v… Khi nó bình phục, Bồ-tát khuyên nó lần sau chớ làm như vậy nữa. Bồ-tát tiếp tục trọn đời làm công đức bố thí v.v… và theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại này, Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỳ-kheo thọ dụng các đồ vật không suy nghĩ cũng như thọ dụng thuốc độc không suy nghĩ.

Rồi bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, người hiền trí chơi súc sắc là Ta vậy.

  1. CHUYỆN ÐẠI BẢO VẬT (Tiền thân Mahàsàra)

Chiến trận cần anh hùng… ,

Câu chuyện này khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Tôn giả Ànanda. Một thời, những nữ nhân ở cung vua Kosala suy nghĩ như sau: “Ðức Phật ra đời thật khó. Cũng vậy, được làm người với các căn đầy đủ thật khó. Dầu chị em ta có thân người này trong một thời có đức Phật, chị em ta vẫn không được đi đến tinh xá như ý muốn, không được nghe pháp, cúng dường hay bố thí. Chúng ta sống như bị quăng trong một cái hộp. Chị em ta hãy yêu cầu nhà vua cử cho một Tỷ-kheo xứng đáng thuyết pháp cho chị em ta: Khi nghe pháp, chị em ta có thể học làm các công đức như bố thí v.v… Như vậy, với thời gian ngắn ngủi này, chị em ta sẽ có kết quả lới ích”. Tất cả bọn cùng đi đến đức vua và nói lên sự suy tư của mình. Nhà vua chấp thuận.

Một hôm, vua muốn đi dạo chơi ở một công viên, và báo người giữ vườn dọn dẹp sạch sẽ. Trong khi dọn dẹp sạch sẽ công viên, người giữ vườn thấy bậc Ðạo Sư ngồi dưới một gốc cây, liền đi đến hầu vua và thưa:

– Thưa thiên tử, công viên đã được dọn dẹp sạch sẽ. Nhưng tại đấy, dưới một gốc cây, đức Thế Tôn đang ngồi.

Vua nói:

– Tốt lắm, chúng ta sẽ nghe pháp từ bậc Ðạo Sư.

Rồi vua ngự lên cỗ xe có trang hoàng đẹp đẽ, đi đến công viên và yết kiến bậc Ðạo Sư. Lúc bấy giờ, Chattapani, một nam cư sĩ đã chứng quả Bất lai, đang ngồi nghe pháp từ bậc Ðại Sư. Khi thấy nam cư sĩ ấy, vua ngần ngại, đứng một lát, suy nghĩ: “Nếu là người độc ác, người này đã không ngồi nghe pháp từ bậc Ðạo Sư. Vì không phải là người độc ác, nên nó mới làm như vậy”.

Nghĩ xong, nhà vua đi đến gần bậc Ðạo Sư, đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên. Nam cư sĩ, vì sự kính trọng đối với đức Phật, không đứng dậy hay đảnh lễ vua. Vua không hoan hỉ với vị ấy. Biết được nhà vua không hoan hỉ đối với nam cư sĩ ấy, bậc Ðạo Sư nói lên công đức của vị ấy:

– Thưa Ðại Vương, nam cư sĩ này nghe nhiều kinh tạng đã được trao truyền và đã xa lìa các dục.

Vua nghĩ: “Chắc chắn người này không thể là người tầm thường, vì bậc Ðạo Sư tán thán công đức”. Vua hỏi:

– Này nam cư sĩ, nếu có cần gì hãy nói cho ta biết.

Nam cư sĩ nói:

– Tốt lành thay!

Vua nghe Pháp từ bậc Ðạo Sư xong, thân phía hữu hướng về phía Ngài rồi ra đi.

Một hôm, sau khi ăn sáng, cầm dù đi đến Kỳ Viên, vua gặp nam cư sĩ ấy liền gọi đến và nói:

– Này nam cư sĩ, nghe nói ông là người nghe nhiều. Các nữ nhân của Ta muốn nghe và học Chánh pháp. Lành thay, nếu ông nói pháp cho họ.

– Thưa thiên tử, thật không thích hợp để những người tại gia nói cho nội cung của vua. Việc ấy chỉ thích hợp với các Tôn giả xuất gia.

Vua nói:

– Người này nói sự thật.

Vua liền bảo người ấy ra đi, rồi cho gọi các nữ nhân, và nói:

– Này các hiền nữ, ta sẽ đi đến bậc Ðạo Sư và xin cử một Tỷ-kheo thuyết pháp cho các hiền nữ. Trong tám mươi đại đệ tử, ta sẽ xin ai?

Tất cả nữ nhân họp bàn và đồng ý lựa chọn Trưởng lão Ànanda, vị Chưởng khố Chánh pháp. Vua đi đến gặp bậc Ðạo Sư, đảnh lễ, ngồi xuống một bên và thưa:

– Bạch Thế Tôn, các nữ nhân trong cung của trẫm muốn nghe pháp và học pháp từ Trưởng lão Ànanda. Lành thay, nếu Trưởng lão ấy có thể thuyết pháp cho những người trong cung của trẫm.

Bậc Ðạo Sư bằng lòng chấp nhận cho Trưởng lão Ànanda. Từ đấy về sau, các nữ nhân của vua nghe pháp và học pháp từ Trưởng lão Ànanda.

Một hôm, một viên ngọc trên khăn vua bị mất. Vua biết được viên ngọc bị mất, cho gọi các đại thần và ra lệnh bắt tất cả mọi người trong nội cung để tìm cho ra viên ngọc trên khăn. Các đại thần bắt đầu từ các nữ nhân, tra hỏi viên ngọc trên khăn, họ làm phiền nhiễu rất nhiều người nhưng không tìm ra. Hôm ấy, Trưởng lão Ànanda vào cung điện vua. Trước kia, khi các nữ nhân thấy Trưởng lão họ đều hoan hỉ nghe pháp, học pháp. Lần này họ không được như vậy, tất cả đều sầu ưu. Khi Trưởng lão hỏi vì sao hôm nay họ lại như vậy, họ trả lời:

– Thưa Tôn giả, đức vua đã mất viên ngọc trên khăn. Và đức vua ra lệnh các đại thần bắt đầu tra hỏi từ các nữ nhân để tìm ngọc, làm phiền nhiễu mọi người ở trong cung. Chúng tôi không biết những gì sẽ xảy ra cho ai. Do vậy, chúng tôi ưu phiền.

Trưởng lão nói an ủi họ:

– Chớ lo nghĩ việc ấy nữa.

Rồi Trưởng lão đi đến gặp nhà vua, ngồi trên ghế đã soạn sẵn, và hỏi:

– Thưa Ðại Vương, tôi nghe nói Ðại Vương mất viên ngọc phải không?

– Thưa Tôn giả sau khi bắt tất cả mọi người ở trong cung, và làm phiền nhiễu chúng, tôi vẫn chưa có thể tìm được.

– Thưa Ðại Vương, không cần phiền nhiều đông người, vẫn có phương cách tìm ra viên ngọc.

– Cách thức nào vậy, thưa Tôn giả?

– Thưa Ðại vương, bằng cách cho một nắm rơm.

– Cho nắm rơn để làm gì vậy, thưa Tôn giả?

– Thưa Ðại Vương, với những ai bị ngài nghi ngờ, hãy họp họ lại, cho mỗi người một nắm rơm hay cục đất sét và nói: “Ngày mai, vào sáng sớm, hãy đem cái này và đặt tại chỗ ấy. Người nào lấy viên ngọc sẽ đặt nó trong nắm rơm hay cục đất sét mang lại. Nếu ngày đầu họ mang lại thì rất tốt. Nếu không, ngày thứ hai, ngày thứ ba, họ cũng phải mang lại. Như vậy, đại chúng không bị phiền nhiễu, và ngài có thể lấy lại được viên ngọc”.

Nói vậy xong, Trưởng lão ra về. Vua làm theo lời dặn, nhưng ba ngày qua, không ai đem lại viên ngọc. Trưởng lão đến vào ngày thứ ba và hỏi:

– Thưa Ðại Vương, viên ngọc đã được đem lại chưa?

– Thưa Tôn giả, chưa.

– Vậy Ðại Vương, trong sân lớn, tại một chỗ kín hãy cho đặt một cái ghè nước lớn, đổ đầy nước, treo xung quanh một cái màn. Rồi ra lệnh cho mọi người lui tới trong nội cung, đàn ông và cả đàn bà, phải cởi áo ngoài, lần lượt đi vào trong màn một mình, rửa tay rồi đi ra.

Trưởng lão nói phương tiện này xong rồi ra đi. Nhà vua làm như lời dặn. Kẻ ăn cắp hòn ngọc suy nghĩ: “Vị Chưởng khố Chánh pháp đã nắm lấy vấn đề này, nếu không tìm ra được viên ngọc sẽ không bỏ cuộc. Nay đã đến lúc cần phải đem trả lại viên ngọc”. Nghĩ vậy, nó giấu viên ngọc trong người, đi vào trong tấm màn, bỏ rơi ngọc vào ghè nước rồi đi ra. Khi tất cả mọi người đã đi xong, người ta đổ nước và tìm được viên ngọc. Vua nói:

– Nhờ Trưởng lão, không phiền nhiễu đại chúng, ta đã tìm được viên ngọc.

Vua rất bằng lòng. Những người lui tới trong cung cũng bằng lòng và nói:

– Nhờ Trưởng lão, chúng tôi thoát khỏi đau khổ lớn.

Câu chuyện nhờ uy lực của Ànanda họ đã tìm ra viên ngọc trên khăn vua được toàn kinh thành và chúng Tỷ-kheo biết. Các Tỷ-kheo ngồi họp tại Chánh pháp đường tán thán công đức của Trưởng lão:

– Thưa các Hiền giả, nhờ nghe nhiều, nhờ bác học, nhờ thiện xảo phương tiện của Trưởng lão Ànanda, đại chúng không bị phiền nhiễu, với phương tiện, viên ngọc được tìm lại.

Bậc Ðạo Sư đi đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông ngồi ở đây luận bàn vấn đề gì?

Khi nghe vấn đề ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỳ-kheo, không phải nay đồ vật gì đã vào tay người khác, lại tìm được là nhờ Ànanda. Thuở trước, các bậc hiền trí không làm phiền nhiễu đại chúng, chỉ với phương tiện, tìm được đồ vật đã đi vào tay của loài vật.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmandatta trị vì ở xứ Ba-la-nại, Bồ-tát đạt sự thuần thục trong tất cả các nghề, và trở thành vị đại thần của vua ấy. Một hôm, nhà vua cùng với một đoàn tùy tùng đông đảo, đi đến công viên, sau khi dạo chơi giữa rừng xong, lại muốn đi chơi trong nước.

Vua đi xuống một hồ nước dành cho vua, và gọi các cung nữ cởi các vàng ngọc, trang sức trên đầu, trên cổ, bỏ chúng trên cái áo ngoài, đặt chúng vào trong hộp và giao các nữ tỳ trông coi rồi đi xuống hồ.

Khi ấy, có một con khỉ cái ở công viên, ngồi giữa các cành cây, thấy bà hoàng hậu cởi các đồ trang sức, bỏ trên cái áo ngoài, đặt chúng vào trong hộp. Con khỉ cái muốn đeo dây chuyền bằng ngọc của hoàng hậu, ngồi nhìn, chờ xem khi nào người nữ tỳ lơ đễnh là nó đánh cắp.

Người nữ tỳ canh gác, thỉnh thoảng nhìn qua nhìn lại rồi lại bắt đầu ngủ gật. Con khỉ cái biết người nữ tỳ đã lơ đễnh, liền leo xuống mau như gió, lấy sợi dây chuyền lớn đeo cổ, lêo lên xuống mau như gió, ngồi núp giữa các cành cây. Rồi sợ các con khỉ cái khác thấy, nó giấu sợi dây chuyền vào một cái lỗ cây và ngồi canh gác với dáng điệu bình tĩnh.

Người nữ tỳ tỉnh dậy, không thấy sợi dây chuyền, quá run sợ, không thấy có cách gì khác liền la to:

– Có người đàn ông lấy cắp sợi dây chuyền của hoàng hậu rồi chạy trốn.

Những người canh gác từ nhiều phía tụ họp lại, nghe người nữ tỳ la, liền báo cho vua biết. Vua ra lệnh bắt tên ăn trộm. Họ chạy ra khỏi công viên, đi tìm tên ăn trộm khắp nơi. Một kẻ dân quê đang lễ bái, nghe tiếng la, liền hoảng sợ bỏ chạy. Thấy vậy, các người ấy nghĩ nó là thằng ăn trộm bèn đuổi theo, bắt nó, đánh nó, và nói mỉa mai:

– Ðồ ăn trộm ác độc kia, ngươi lấy cắp đồ trang sức đắt tiền như vậy để làm gì?

Người dân quê suy nghĩ: “Nếu ta nói không lấy, mạng sống ta hôm nay không còn nữa. Chúng sẽ đánh và giết ta. Vậy ta hãy nhận là có lấy”. Nó nhận có lấy, liền bị trói và dẫn đến vua. Vua hỏi nó:

– Có phải ngươi lấy đồ trang sức đắt tiền?

– Thưa thiên tử, tôi có lấy.

– Nay vật ấy ở đâu rồi?

– Thưa thiên tử, vậy quý giá đối với tôi, tôi lấy để làm gì? Tôi là người từ trước không bao giờ có được cái giường chiếc ghế. Nhưng người triệu phú bảo tôi lấy đồ trang sức đắt tiến ấy. Tôi lấy và giao cho ông ta rồi. Ông ta biết đồ trang sức ấy.

Vua truyền gọi người triệu phú và hỏi ông có lấy đồ trang sức quý giá từ tay người dân quê ấy không.

– Thưa thiên tử, có.

– Ðồ ấy ở đâu rồi?

– Tôi đã đưa cho người cố vấn tế tự của ngài.

Người cố vấn tế tự được gọi và được hỏi như trước. Ông thú nhận có lấy và đưa cho người nhạc trưởng. Người nhạc trưởng bị gọi và hỏi, liền khai đã đưa cho một người kỹ nữ như là một món quà tặng. Người kỹ nữ bị hỏi, trả lời cô không lấy. Trong khi hỏi chưa xong thì mặt trời lặn, Vua nói:

– Nay hết giờ rồi, ngày mai tiếp tục việc này.

Vua giao năm người ấy cho các vị đại thần và đi vào thành.

Lúc ấy Bồ-tát suy nghĩ: “Ðồ trang sức này bị mất ở trong công viên. Kẻ dân quê này ở ngoài công viên và cửa có lính gác thì không thể vào trong công viên cũng không thể lấy và chạy trốn ra ngoài được. Người nghèo khổ này nói: Tôi đã đưa cho người triệu phú, có lẽ vì để tự giải thoát cho mình thôi. Con người triệu phú nói: Tôi đã đưa cho người cố vấn tế tự, có lẽ vì muốn làm cho kẻ ấy thành đồng lõa để cùng được thoát ra. Còn người cố vấn tế tự nói: Tôi đã đưa cho người nhạc trưởng, có lẽ vì nghĩ rằng nhờ người nhạc trưởng, sẽ sống vui trong nhà tù. Người nhạc trưởng nói: Tôi đã cho người kỹ nữ, với hy vọng mình sẽ được hưởng lạc thú với người kỹ nữ ở trong tù. Cả năm người này không thể là người ăn trộm. Trong công viên có nhiều loài khỉ. Vật trang sức có lẽ đã rơi vào tay một con khỉ cái!”.

Nghĩ vậy, Bồ-tát đi đến yết kiến vua và thưa:

– Thưa Ðại Vương, hãy giao những người ăn trộm cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ tìm kiếm ai đã làm việc này.

Vua chấp thuận, giao những người ăn trộm cho Bồ-tát. Bồ-tát cho gọi những người làm công và bảo:

– Hãy cho năm người này ở trong một chỗ, canh gác xung quanh, lóng tai nghe họ nói những gì và báo cho ta biết.

Nói xong, Bồ-tát ra đi, và các người ấy làm theo lời dặn. Trong khi cả năm người đang ngồi tù, người triệu phú nói với người dân quê.

– Này đồ dân quê ác độc kia, ta với ngươi trước đây không có gặp nhau. Vậy sao ngươi nói ngươi đưa cho ta đồ trang sức ấy?

– Thưa ông đại triệu phú, tôi không bao giờ biết đến cái giường, cái ghế đẩu với chân bằng lõi cây được gọi là quí giá. Tôi nghĩ tôi nương nhờ vào ông mới được giải thoát, nên tôi nói vậy. Mong ông chủ chớ giận tôi.

Người cố vấn tế tự hỏi người triệu phú:

– Thưa ông đại triệu phú, làm sao ông lại đưa cho tôi một vật mà người này không hề đưa cho ông?

– Vì tôi nghĩ rằng hai chúng ta là những người có quyền thế. Nếu chúng ta cùng đứng với nhau, thời sự việc sẽ được giải quyết mau chóng! Do nghĩ vậy nên tôi đã khai như vậy.

Vị nhạc trưởng nói với người cố vấn tế tự:

– Này Bà-la-môn, ông đưa cho tôi đồ trang sức lúc nào?

– Tôi nghĩ rằng nhờ ông, tôi sẽ sống an lạc tại chỗ cư trú, nghĩ vậy nên tôi nói vậy.

Người kỹ nữ nói với người nhạc trưởng:

– Này người nhạc trưởng độc ác kia, trước đây tôi chưa bao giờ đến với ông, trước đây ông cũng chưa bao giờ đến với tôi. Vậy ông đưa tôi vật trang sức khi nào?

– Này chị, chị phẫn nộ làm gì? Năm chúng ta cùng chung sống với nhau trong một nhà. Hãy hoan hỉ sống cho được thoải mái! Do nghĩ vậy nên tôi khai cho chị.

Bồ-tát nghe câu chuyện ấy từ những người được giao việc, biết rằng năm người ấy không phải ăn trộm; chắc con khỉ cái đã lấy đồ trang sức, và tìm một phương tiện để làm cho nó bỏ rơi đồ trang sức ấy. Bồ-tát sai làm nhiều đồ trang sức bằng chuỗi hạt, cho bắt một số khỉ cái trong vườn, cho chúng đeo các đồ trang sức bằng chuỗi hạt trên tay, trên chân, trên cổ rồi thả chúng ra. Trong khi ấy con khỉ cái ăn trộm kia vẫn ngồi ở công viên canh gác bảo vật của nó. Bồ-tát ra lệnh cho họ:

– Các người hãy đi, và dò xét rình xem tất cả bầy khỉ cái. Khi nào thấy đồ trang sức ở con khỉ cái nào, hãy dọa nó và lấy lại đồ trang sức.

Những con khỉ cái ấy được cho các đồ trang sức, tự mãn, tự hào, đi qua đi lại trong công viên, đi đến con khỉ cái ăn trộm kia và nói:

– Này, xem đồ trang sức của chúng ta!

Con khỉ cái kia, không dằn nổi lòng ganh tỵ, liền nói:

– Quý gì đồ trang sức bằng hạt ấy!

Rồi nó lấy dây chuyền ngọc mang vào. Các người đứng rình thấy vậy liền tìm cách làm cho nó cởi bỏ đồ trang sức ra, rồi mang về cho Bồ-tát. Cầm lấy đồ trang sức ấy, Bồ-tát đem dâng vua và thưa:

– Thưa Ðại Vương, năm người ấy không phải là ăn trộm. Chính con khỉ cái trong vườn đã lấy đồ trang sức này.

Vua nói:

– Thưa bậc Hiền trí, làm sao bậc Hiền trí biết được là chính con khỉ cái ấy tự tay lấy chuỗi ngọc? Làm sao bậc Hiền trí lấy chuỗi ngọc lại được?

Bồ-tát kể lại toàn bộ câu chuyện, nhà vua rất bằng lòng và nói:

– Cầm đầu các chiến trường, cần phải có những anh hùng.

Vua thưởng cho Bồ-tát rất nhiều vàng ngọc và nói lên bài kệ:

Chiến trận, cần anh hùng,
Khuyên bảo, cần bình tĩnh,
Ăn uống, cần bạn thân,
Gặp việc, cần hiền trí.

Như vậy, nhà vua tán thán Bồ-tát, đề cao Bồ-tát, và cúng dường Bồ-tát bảy món báu. Vâng theo lời khuyến giáo của Bồ-tát, vua sống trọn đời làm các công đức, rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nói lên công đức của Trưởng lão, và nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vua là Ànanda, còn đại thần hiền trí là Ta vậy.

  1. CHUYỆN NGỘ ÐỘC DO LUYẾN ÁI (Tiền thân Vissàsabhojana)

Chớ tin người thân tín…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể sự thọ dụng dựa vào người thân. Nghe nói, trong thời ấy, các Tỷ-kheo phần lớn tự bằng lòng với bốn vật dụng do các bà con cúng dường, và thọ dụng các vật ấy mà không suy tư, viện lẽ rằng khi còn là cư sĩ, họ đã nhận đồ vật từ mẹ hay từ cha từ anh em hay từ chị em, từ mẹ nhỏ hay từ cha nhỏ, từ chú cậu hay từ dì cô.

Bậc Ðạo Sư nghe việc này, nghĩ rằng cần phải cho các Tỳ-kheo một bài thuyết pháp. Vì thế Ngài họp các Tỷ-kheo lại và nói:

– Này các Tỷ-kheo, dầu người cho là những người bà con hay những người khác, Tỷ-kheo cần phải suy tư khi thọ dụng bốn đồ vật. Thọ dụng không suy tư, khi đúng thời, Tỷ-kheo không thể thoát khỏi tái sanh làm Dạ-xoa hay ngạ quỷ. Thọ dụng các đồ vật không suy tư cũng giống như thọ dụng thuốc độc. Và thuốc độc, dẫu từ người cho là người thân tín, vẫn giết chết được. Thuở xưa, có chúng sanh thọ dụng thuốc độc do bạn thân tín cho, và đã đi đến mạng chung.

Nói xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-lai-nại, Bồ-tát là một vị triệu phú giàu có. Bồ-tát có một người chăn bò, khi đến mùa lúa chín, kẻ ấy liền bắt các con bò lại, dắt chúng vào rừng làm một cái chuồng bò và sống tại đấy để chăn giữ chúng. Thỉnh thoảng, kẻ ấy mang sữa về cho vị triệu phú. Không xa chuồng bò bao nhiêu, có con sư tử trú tại đấy. Các con bò cái, vì sợ hãi sư tử, nên sữa khô cạn, không có nhiều. Một hôm, khi người chăn bò đem bơ chín cho vị triệu phú, vị ấy hỏi:

– Này bạn chăn bò, sao bơ chín ít vậy?

Người chăn bò nói rõ lý do.

– Này bạn, con sư tử ấy có ái mộ ai không?

– Thưa ông chủ, nó thân ái với con nai cái.

– Vậy bạn có thể bắt được con nai cái không?

– Thưa ông chủ, được.

– Bạn hãy bắt con nai cái, rồi với thuốc độc, bạn xoa đi xoa lại, bắt đầu từ trán đến hết cả lông trên thân nai, để cho khô, sau hai ba ngày hãy thả con nai cái ra. Con sư tử vì luyến ái con nai cái, sẽ liếm thân nó và sẽ đi đến mạng chung. Hãy lấy da, móng răng và mỡ con sư tử rồi đem lại đây.

Nói xong, Bồ-tát đưa thuốc độc và bảo kẻ ấy đi. Người chăn bò đặt lưới, bắt được con nai cái và làm như đã được dặn. Con sư tử thấy con nai cái, với lòng luyến ái mạnh, liếm thân con nai cái, và mạng chung. Người chăn bò lấy da sư tử v.v… và đi đến Bồ-tát. Ngài biết sự việc xảy ra, liền nói:

– Không nên luyến ái người khác. Con sư tử, vua các loài thú, có sức mạnh như vậy, nhưng do ái nhiễm nên quá thân mật, liếm thân con nai cái, ăn phải thuốc độc và mạng chung.

Nói vậy xong, ngài thuyết pháp cho hội chúng đang tập hợp, và đọc bài kệ này:

Chớ tin người thân tín,
Chớ tin người không thân,
Do tin, sợ hãi đến,
Như sư tử, nai cái.

Như vậy Bồ-tát thuyết pháp cho hội chúng và trọn đời làm các công đức bố thí v.v… rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể câu chuyện quá khứ, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, người triệu phú là Ta vậy.

  1. CHUYỆN NỖI KINH HOÀNG (Tiền thân Lomahamsa)

Nay nóng ran lạnh buốt…,

Câu chuyện này, khi trú ở Pàtikàràma gần Tỳ-xá-ly, bậc Ðạo Sư, đem theo y bát, thích thú đi theo giáo pháp của Sát-đế-ly Kora, Sunakkatta trở thành một gia chủ, trong khi Kora bị tái sanh làm thần A-tu-la Kalakanjaka thường bộ hành trong ba vòng tường của Tỳ-xá-ly, chỉ trích bậc Ðạo Sư và nói:

– Sa-môn Gotama không có pháp thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng đáng với bậc thánh. Sa-môn ấy thuyết pháp, pháp ấy tự mình tạo ra, do suy luận tác thành, tùy thuận trắc nghiệm và thuyết pháp cho một mục tiêu đặc biệt, không có thể dẫn người thực hành đến diệt tận khổ đau.

Rồi trong khi Tôn giả xá-lợi-phất đi khất thực, nghe lời chỉ trích của kẻ ấy như vậy, và khi trở về, Tôn giả báo cáo sự việc ấy lên Thế Tôn. Ngài nói:

– Sunakkhatta phẫn nộ và ngu si. Do phẫn nộ, nó không biết khi nói rằng: Pháp ấy không có thể dẫn người thực hành đến tận diệt khổ đau, như vậy tức là tán thán công đức của Ta. Này Xá-lợi-phất, Ta có được Sáu Thắng Trí, đấy là pháp thượng nhân của Ta. Ta có Mười Lực, có Bốn Vô sở úy, có trí biết bốn sanh hữu, và có trí biết năm sanh thú. Ðấy là pháp thượng nhân của Ta. Ta có pháp thượng nhân như vậy. Ai nói rằng: Sa-môn Gotama không có pháp thượng nhân, người ấy, nếu không chấm dứt lời nói ấy, nếu không chấm dứt tâm ấy, nếu không từ bỏ tà kiến ấy, sẽ bị rơi vào địa ngục.

Sau khi nói công đức các pháp thượng nhân tự có, bậc Ðạo Sư nói thêm:

– Này Xá-lợi-phất, nghe nói Sunakkhatta ưu thích tà khổ hạnh khó hành trì của Sát-đế-ly Kora, do ưu thích tà khổ hạnh nên nó không thể tịnh tín đối với Ta. Cách đây chín mươi mốt kiếp, Ta sống đời Phạm hạnh gồm có bốn phần, để suy tư tìm hiểu tà khổ hạnh ngoại đạo thật sự có căn bản chân lý hay không. Là người tu khổ hạnh, Ta tu khổ hạnh đệ nhất. Là người hành trì thô thực, Ta tu hạnh thô thực đệ nhất. Là người hành trì yếm ly, Ta tu hạnh yếm ly đệ nhất. Là người hành trì hạnh viễn ly, Ta tu hạnh viễn ly đệ nhất.

Sau khi nói như vậy, theo lời yêu cầu, bậc Ðạo sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, chín mươi mốt kiếp về trước, để suy xét tìm hiểu về khổ hạnh ngoại đạo, Bồ-tát đã xuất gia làm vị tà mạng ngoại đạo, sống lõa thể, thân lấm đầy bụi, sống viễn ly cô độc, thấy người liền chạy trốn như con nai, ăn các thứ đại bất tịnh như cá thúi, phân bò v.v… Ðể giữ mình không phóng dật, Bồ-tát sống trong một lùm cây đáng sợ hãi trong rừng. Sống tại đấy, vào mùa đông có tuyết, trong những đêm giữa các ngày mùng tám (ngày thứ tám, trước và sau rằm), Bồ-tát đi ra khỏi lùm cây, sống ngoài trời, khi mặt trời mọc, Bồ-tát vô lùm trở lại. Ban đêm, Bồ-tát bị ướt vì ngài ở ngoài trời tuyết. Ban ngày, Bồ-tát cũng bị ướt bởi những giọt nước rơi từ lùm cây. Như vậy, ngày đêm, Bồ-tát cảm thọ khổ đau vì lạnh. Trong cuối tháng mùa hạ, ban ngày, Bồ-tát bị đốt cháy bởi ánh nắng mặt trời; cũng vậy, ban đêm, Bồ-tát bị nóng nực ở trong lùm cây không có gió, vì thế mồ hôi thoát chảy từ thân ngài. Câu kệ này từ trước chưa từng được nghe, khởi lên trong trí ngài:

Nay nóng ran, lạnh buốt,
Cô độc, trong rừng hiếm,
Ngồi trần truồng, không lửa,
Ấn sĩ tìm chân lý.

Như vậy Bồ-tát suốt đời sống khổ hạnh khắc nghiệt với đầy đủ bốn phần (thời học tập, thời gia chủ, thời tôn giáo, thời Sa-môn), khi lâm chung, ngài thấy tướng địa ngục khởi lên, biết được khổ hạnh này không có kết quả. Ngay lúc ấy, ngài phá vỡ tà kiến của mình, nắm giữ chánh tri kiến, và tái sanh lên thiên giới.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Ta là vị tà mạng ngoại đạo.

  1. CHUYỆN VUA ÐẠI THIỆN KIẾN (Tiền thân Mahàsudassana)

Các hành là vô thường…,

Câu chuyện này, khi nằm trên giường đắc Niết-bàn vô dư y, bậc Ðạo Sư đã kể về lời nói của Trưởng lão Ànanda: – Thế Tôn chớ nhập Niết-bàn tại thành phố nhỏ tồi tàn này.

Khi Như Lai trú Kỳ Viên, Ngài suy nghĩ: “Trưởng lão Xá-lợi-phất sanh ở làng Nàlaka, đắc Niết-bàn vô dư y ở Varaka, vào đêm rằm Kattika. Còn đại Mục-kiền-liên mệnh chung cũng vào tháng Kattika, trong phần trăng tối. Như vậy, hai đệ tử đầu tay đã đắc Niết-bàn vô dư y. Ta sẽ đắc Niết-bàn vô dư y ở Kusinàra”.

Rồi bậc Ðạo Sư tiếp tục bộ hành, đi đến đấy và nằm không dậy nữa trên chiếc giường, đầu hướng về phía bắc, giữa hai cây Sàla. Rồi Trưởng lão Ànanda yêu cầu Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ diệt độ tại thành phố nhỏ tồi tàn này, tại thành phố nhỏ hoang vu này, tại thành phố nhỏ ngoại ô này. Thế Tôn hãy diệt độ tại một trong những thành phố lớn như Vương Xá v.v…

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Anànda, chớ nói đây là một thành phố nhỏ tồi tàn, thành phố nhỏ hoang vu, thành phố nhỏ ngoại ô. Thuở xưa, trong thời vua Chuyển luân Thiện kiến, Ta đã sống trong thành phố này. Lúc ấy, thành phố này là một đô thị vĩ đại, được bao bọc với những bức tranh bằng châu báu, dài đến mười hai dặm.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của Trưởng lão, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Lúc ấy, hoàng hậu Subhaddà (Thiện tường) thấy vua Ðại thiện kiến từ lâu đài Chánh pháp (Dhamma) đi xuống không xa bao nhiêu, rồi nằm về phía hông bên phải, trên long sàng được sửa soạn cho ngài, tại rừng Sàla làm bằng bảy báu từ đó ngài không dậy nữa. Thấy vậy, bà nói:

– Thưa Thiên tử, tám mươi bốn ngàn thành phố, đứng đầu là kinh đô Kusàvatì thuộc quyền của Ðại vương, hãy hướng ý muốn về chúng.

Nghe vậy, vua Ðại thiện kiến nói với hoàng hậu:

– Hoàng hậu chớ nói vậy! Hoàng hậu nên khuyến khích ta: Hãy hướng tâm đến chỗ này, chớ mong chờ các chỗ khác.

Hoàng hậu hỏi:

– Vì sao?

Vua đáp:

– Hôm nay ta sẽ băng hà.

Hoàng hậu khóc. Sau khi lau nước mắt, bà nói lên một cách khó khăn mệt nhọc như lời vua khuyên bảo, rồi bà khóc lóc than. Tám mươi bốn ngàn nữ nhân còn lại cũng đều than khóc theo bà. Các đại thần cũng không thể chịu đựng nổi. Tất cả đều khóc ròng. Vua nói:

– Chớ làm ồn.

Sau khi ngăn chận mọi người, ngài nói với hoàng hậu:

– Hoàng hậu chớ khóc, chớ than! Vì nhỏ cho đến hột mè, không có hành nào là thường còn. Tất cả là vô thường, chịu sự biến hoại.

Nói vậy xong, để khuyến giáo hoàng hậu, ngài đọc bài kệ này:

Các hành là vô thường,
Bản tánh chúng sanh diệt,
Chúng sanh, rồi chúng diệt,
Nhiếp chúng là an lạc.

Như vậy, vua Ðại thiện kiến lấy đại Niết-bàn bất tử là đỉnh thuyết pháp cao nhất, rồi khuyến giáo đại chúng còn lại:

– Hãy bố thí, trì giới và hành trì trai giới.

Khuyến cáo xong, cuối cùng, ngài tái sanh ở thiên giới.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, hoàng hậu Subhaddà là mẹ La-hầu-la, hoàng tử là La-hầu-la,hội chúng còn lại là hội chúng đức Phật, và vua Ðại thiện kiến là Ta vậy.

  1. CHUYỆN BÁT DẦU (Tiền thân Telapatta)

Như người mang bát dầu…,

Câu chuyện này, khi ở tại một rừng cây gần thị trấn Desaka nước Sumedha, bậc Ðạo Sư đã kể về Kinh Janapada-Kalyani. Tại đấy, Thế Tôn nói:

– Này các Tỷ-kheo, ví như một đại chúng tụ họp lại và la to: Hoan hô cô gái đẹp địa phương múa và hát tuyệt diệu! Khi ấy, một người đàn ông đến, muốn sống không muốn chết, muốn an lạc không muốn khổ. Họ nói với người ấy: “Này gã kia, chú hãy mang bát dầu đầy vun này đi giữa đám đông và cô gái đẹp địa phương. Một người đàn ông với cây kiếm giơ cao đi sau lưng chú. Chỗ nào chú làm đổ một ít dầu ra, ngay chỗ ấy, nó sẽ chém đầu chú”. Này các Tỷ-kheo, các ông nghĩ thế nào? Người ấy có thể không tác ý đến bát dầu ấy, mang đi với tâm phóng dật hướng ngoại không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Này các Tỷ-kheo, đây là ví dụ ta dùng để làm ý nghĩa được rõ ràng. Và ý nghĩa này ở đây là như sau: Bát dầu đầy vun, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với thân hành niệm. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy học tập như sau: Thân hành niệm cần phải được chúng tôi tu tập và khéo hành trì. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các ông cần phải học tập!

Rồi bậc Ðạo Sư nói lên Kinh Janapadakalyani này.

Sau khi nói kinh này, Thế Tôn lại nói thêm:

– Vị Tỷ-kheo muốn tu tập thân hành niệm, cũng giống như người đàn ông ấy với bàn tay bưng bát dầu. Phải nắm giữ niệm, không phóng dật. Tu tập thân hành niệm cần phải như vậy.

Các Tỷ-kheo, nghe kinh này xong, và hiểu ý nghĩa kinh bèn nói như sau:

– Bạch Thế Tôn, thật khó làm đối với người ấy không nhìn cô gái đẹp địa phương, vừa bưng bát dầu vừa đi.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, làm như người đàn ông ấy không khó lắm, mà hình là dễ làm. Vì sao? Vì kẻ ấy được một người đi theo dọa nạt với cây gươm giơ cao. Nhưng thật rất khó cho những bậc hiền trí thuở xưa, không phóng dật, không bỏ niệm, chế ngự các căn, không nhìn sắc đẹp hoàn mỹ của Thiên nữ được hóa sanh, vẫn đi và đạt được quốc độ.

Sau khi nói vậy, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm người con trai trẻ nhất trong một trăm người con của vua, dần dần đến tuổi trưởng thành. Thời ấy, các vị Phật Ðộc Giác thường đến dùng cơm trong cung điện của vua và Bồ-tát phục vụ các vị ấy. Một hôm Bồ-tát suy nghĩ: “Ta có rất nhiều anh, không biết ta có được vương quốc thuộc gia sản trong thành này hay không? Nếu hỏi các vị Phật Ðộc Giác, ta sẽ biết”.

Vào ngày kế tiếp, khi các vị Phật Ðộc Giác đến, Bồ-tát đem lại bình thủy, lọc nước rửa chân cho các vị ấy và lau khô. Ăn xong, khi các vị ấy đang ngồi, Bồ-tát đảnh lễ, ngồi xuống một bên và hỏi vấn đề ấy. Các Phật Ðộc Giác trả lời:

– Này hoàng tử, ngài sẽ không được vương quốc trong thành phố này. Từ đây cách xa khoảng hai ngàn dặm, tại nước Gandhara, có một thành phố tên là Takkasilà. Nếu hoàng tử có thể đến đó trong vòng bảy ngày, ngài sẽ được vương quốc. Nhưng có sự nguy hiểm trên con đường đi đến đó, nếu như đi thẳng con đường dài năm mươi dặm, ngài phải ngang qua khu rừng lớn. Bằng cách đi vòng khu rừng ấy, thì con đường dài đến một trăm dặm. Ðó là khu rừng hoang vu có phi nhân ở. Giữa quãng đường rừng, các nữ Dạ-xoa dựng lên những căn nhà. Dưới cái tàn có trang hoàng bằng những ngôi sao vàng lấp lánh, chúng bày một cái giường lớn, quí giá, xung quanh có màn treo đẹp đẽ, với nhiều màu sắc tuyệt diệu. Chúng tô điểm với đồ trang sức chư Thiên và ngồi trong các căn nhà ấy. Khi có những người đàn ông đi đến, chúng cám dỗ, kêu gọi với những lời dịu ngọt. Các người có vẻ mệt mỏi, hãy đến đây, ngồi xuống uống nước rồi đi! Với những ai đến đó, các nữ Dạ xoa đều mời ngồi, làm họ khởi dậy lòng tham dục với sắc đẹp mỹ miều của chúng, khiến họ bị ái dục chi phối. Khi họ hành lạc với chúng, ngay khi ấy, các nữ Dạ-xoa ăn thịt họ với máu còn nhỏ giọt, chấm dứt mạng sống của họ. Những ai đam mê tiếng, chúng lấy lời ca điệu nhạc dịu ngọt cám dỗ. Những ai đam mê hương, chúng lấy thiên hương cám dỗ. Những ai đam mê vị, chúng lấy các món ăn chư Thiên hảo hạng cám dỗ. Những ai đam mê xúc, chúng lấy giường chư Thiên với nệm đỏ hai đầu cám dỗ. Nhưng nếu hoàng tử nhiếp phục được các căn, cương quyết không nhìn chúng, an trú chánh niệm mà đi, đến ngày thứ bảy, ngài sẽ nhận được vương quốc tại đây.

Bồ-tát thưa:

– Thưa các Tôn giả, mong sự việc là như vậy. Sau khi nhận lãnh lời khuyến giáo của các Tôn giả, làm sao chúng tôi lại nhìn các nữ Dạ-xoa ấy?

Sau khi nhờ các vị Phật Ðộc Giác chú nguyện, mang theo cát làm bùa, sợi dây làm bùa, Bồ-tát đảnh lễ các vị Phật Ðộc Giác và mẹ cha, rồi đi về nhà nói với những người hầu hạ của mình:

– Ta đi Takkasilà để lấy vương quốc, các bạn hãy ở lại đây.

Năm người xin được cùng đi với Bồ-tát, ngài nói:

– Các bạn không thể đi được, nghe nói giữa đường các nữ Dạ-xoa thấy những người tham sắc v.v… chúng sẽ dùng sắc v.v… khiến họ sanh lòng ái dục, rồi bắt lấy những ngưòi ấy. Sự nguy hiểm thật lớn, nhưng ta tự tin vào ta và ta sẽ đi.

– Thưa hoàng tử, làm sao đi với ngài, chúng tôi lại nhìn sắc đẹp khả ái ấy? Chúng tôi sẽ đi đến đấy.

Bồ-tát nói:

– Vậy các bạn chớ phóng dật, phải quyết tâm.

Bồ-tát đem theo năm người ấy và lên đường. Các nữ Dạ-xoa tạo nên các làng v.v… và ngồi chờ.

Một người tham sắc trong bọn họ nhìn các nữ dạ-xoa ấy, bị trói buộc bởi sắc đẹp của chúng, nên đi chậm lại sau Bồ-tát nói:

– Sao bạn đi chậm ra sau?

– Thưa Hoàng tử, chân của tôi đau. Sau khi ngồi nghỉ ở căn nhà kia một lát, tôi sẽ đi.

– Này bạn, chúng là nữ dạ-xoa, chớ có tham đắm chúng.

– Dầu sự việc là vậy, thưa Hoàng tử, tôi cũng không thể đi nữa.

– Nếu vậy, bạn sẽ thấy sự việc sẽ xảy ra như thế nào!

Nói xong, Bồ-tát đem bốn người kia đi. Người tham đắm sắc đi đến gần các nữ Dạ-xoa. Khi người ấy bắt đầu hành lạc với chúng, chúng liền giết chết để ăn thịt. Rồi chúng đi về phía trước, tạo lên một căn nhà khác, đem theo nhiều loại nhạc khí ngồi hát.

Ở đấy, người tham đắm tiếng đi chậm lại sau. Các nữ Dạ-xoa ăn thịt kẻ ấy, rồi đi tới trước, mở một quán hàng, bày đầy các hộp hương thơm và ngồi đợi. Ở đấy, người ham mê hương đi chậm lại. Các nữ Dạ-xoa ăn thịt kẻ ấy, rồi đi về phía trước, mở một quán bán đồ ăn, bày những chén bát mâm dĩa đựng nhiều món ăn hảo hạng của chư Thiên và chúng ngồi đợi tại đấy. Người tham đắm các vị, khi đi đến đấy, bèn đi chậm lại, rồi cũng bị ăn thịt. Khi chỉ còn một mình Bồ-tát, một nữ Dạ-xoa nói:

– Người này dầu có kiên trì mấy đi nữa, ta cũng sẽ ăn thịt nó và đi trở về.

Rồi nữ Dạ-xoa đi sau lưng Bồ-tát. Các người thợ làm rừng ở các khu vực khác trong rừng thấy nữ Dạ-xoa, liền hỏi:

– Người đàn ông đi trước nàng là ai vậy?

– Thưa các ông, đấy là người chồng trẻ thanh lịch của tôi.

– Này bạn, khi bạn có người vợ trẻ tuyệt sắc, đẹp như bó hoa, tế nhị như vòng hoa, đã bỏ gia đình riêng theo bạn và đặt lòng tin vào bạn, sao bạn không đi cùng với nàng cho nàng khỏi mệt nhọc?

– Này các ông, nó không phải vợ tôi. Nó là nữ Dạ-xoa đã ăn thịt năm người bạn của tôi.

– Ôi, thưa các ông, khi người đàn ông đã phẫn nộ thì chính vợ của mình cũng cho là nữ Dạ-xoa, là ngạ quỷ!

Nữ Dạ-xoa ấy nói vậy và đi theo Bồ-tát, khi thì hiện hình có mang, khi thì hiện dáng dấp của một người đàn bà đã sanh con, khi thì bồng con bên nách. Nhiều người thấy vậy, cũng hỏi như các thức trước. Bồ-tát trả lời như trước và đi đến Takkasilà. Nữ Dạ-xoa làm đứa con biến mất, và một mình đi theo Bồ-tát. Còn Bồ-tát đi đến cửa thành và vào ngồi trong ăn nhà dành cho người chiêm bái. Vì uy lực của Bồ-tát, nữ Dạ-xoa không thể vào được, liền hóa hiện ra một Thiên nữ đứng trước nhà chiêm bái.

Lúc bấy giờ, vua Takkasilà đang đi đến công viên. Thấy nàng, tâm vua bị cám dỗ, vua sai một người đến hỏi nàng có chồng hay chưa. Người ấy đến hỏi và nàng trả lời:

– Tôi đã có chồng. Chồng tôi đang ngồi trong căn nhà dành cho ngưòi chiêm bái.

Bồ-tát nói:

– Nó không phải vợ tôi! Nó là con nữ Dạ-xoa đã ăn thịt năm người bạn đồng hành của tôi.

Nữ Dạ-xoa nói:

– Ôi thưa ông, khi người đàn ông đã phẫn nộ thì họ nói đủ chuyện mà họ nghĩ ra.

Người ấy báo cáo lại cho vua lời nói của hai người. Vua nói cái gì không có chủ đều thuộc quyền của vua. Vua truyền gọi nữ Dạ-xoa lại, cho nó ngồi trên lưng một con voi, đi vòng xung quanh thành rồi trở về cung điện và cho nó ở một nội cung của hoàng hậu. Sau khi vua tắm rửa, vào buổi chiều ăn xong rồi lên long sàng. Nữ Dạ-xoa ấy tự ăn đồ ăn thích hợp cho mình, sửa soạn trang điểm, và nằm với vua trên long sàng. Ðêm đã qua, sau khi vua hưởng lạc, đang nằm ngủ, nữ dạ-xoa xoay mình qua một bên hông rồi khóc. Vua hỏi vì sao nàng khóc. Nữ Dạ-xoa trả lời:

– Thưa Ðại Vương, thiếp được Ðại Vương gặp ở giữa đường và đem về cung, nhưng cung của Ðại vương có nhiều tỳ thiếp. Sống ở đây, giữa thù địch, thiếp cảm thấy như bị nắm đầu dìm xuống, bị choáng váng khi họ hỏi: Cha mẹ nàng là ai? Dòng họ hay thọ sanh nàng là gì? Nàng chỉ là người được nhặt về giữa đường! Nếu Ðại vương cho thiếp quyền uy và thế lực trên cả vương quốc thì không ai có thể làm thiếp tức giận với câu nói như vậy nữa!

– Này hiền thê, ta không có quyền đối với những ai ở trong vương quốc này. Ta không phải là chúa tể hay chủ nhân của họ. Những ai làm vua tức giận hay làm điều gì sai quấy, khi ấy ta mới là chủ của họ. Vì lý do này, ta không thể cho hiền thê quyền uy và thế lực trên cả vương quốc.

– Vậy thưa Ðại vương, nếu Ðại vương không thể cho thiếp thế lực trên cả nước hay trên toàn thành, ít nhất hãy cho thiếp thế lực trên những người ở trong nội cung, để thiếp có thể ngự trị những ai sống trong hoàng cung.

Vua quá đắm say bởi thiên xúc nên không thể từ chối lời nói của nữ Dạ-xoa, bèn chấp thuận.

– Lành thay, này hiền thê, ta sẽ cho hiền thê thế lực đối với những ai sống trong nội cung, như vậy, hiền thê có thể đặt họ dưới quyền lực của mình.

Nữ Dạ-xoa ưng thuận, chờ cho vua ngủ, liền đi về thành Dạ-xoa đem theo cả đoàn nữ Dạ-xoa vào cung. Rồi nó tự tay đoạt sinh mạng của vua và ăn tất cả gân, da, thịt, máu, chỉ để lại xương. Các nữ Dạ-xoa còn lại từ cửa lớn đi vào, bắt ăn từ các con gà, con chó trong nội cung, chúng ăn tất cả, chỉ để xương còn lại. Ngày hôm sau, thấy cửa còn đóng, người ta đến đập cửa rầm rầm, và tìm cách đi vào trong, chỉ thấy xương rải rác khắp nội cung. Thấy vậy, họ nói:

– Người đàn ông ấy đã đúng khi nói rằng nàng ấy không phải là vợ mình, chính là nữ Dạ-xoa! Còn nhà vua, không biết chút gì, lấy nó làm vợ. Nữ Dạ-xoa ấy chắc đã gọi các con Dạ-xoa đến, ăn thịt tất cả rồi bỏ đi.

Còn Bồ-tát, ngày ấy, ở tại nhà dành cho các người chiêm bái, sau khi đặt bùa cát trên đầu, và cột bùa chỉ quanh trán, liền cầm gươm đứng dậy, chờ tời sáng. Các người khác dọn sạch toàn bộ nội cung, lát đất với cỏ xanh, thoa hương, rắc hoa, treo từ mái nhà thòng xuống những bó hoa, xông hương thơm, cột những vòng hoa. Rồi họ tụ họp lại bàn tính với nhau:

– Thưa các bạn, người ấy chế ngự được các căn, không nhìn nữ Dạ-xoa hiện hóa thiên sắc đi theo sau. Người thật là bậc đại nhân kiên trì, thông minh và đầy đủ trí tuệ! Ðược người như vậy trị vì vương quốc, tất cả quốc độ sẽ được hạnh phúc. Hãy tôn vị ấy lên làm vua.

Tất cả các vị đại thần và thị dân, đều đồng một ý muốn, liền đi đến Bồ-tát và thưa:

– Thưa Hoàng tử, hãy trị vì vương quốc này.

Họ mời Bồ-tát vào thành, đặt Bồ-tát trên đống châu báu, làm lễ quán đảnh và tôn Bồ-tát lên làm vua ở thành Takkasilà. Từ bỏ con đường đưa đến bốn ác thú, không vi phạm mười vương pháp, Bồ-tát trị vì quốc độ đúng pháp, trọn đời làm các công đức như bố thí v.v.. rồi đi theo nghiệp của mình khi mệnh chung.

*

Bậc đạo Sư kể câu chuyện quá khứ xong liền đọc bài kệ này:

Như người mang bát dầu
Ðầy vun không cho đổ,
Cũng vậy, bảo vệ tâm,
Như đi phương hướng lạ!

Như vậy, bậc Ðạo Sư hướng đến điểm cao nhất của thuyết pháp là Niết-bàn và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, chúng tùy tùng của vua là hội chúng đức Phật, còn Hoàng tử quốc vương là Ta vậy.

  1. CHUYỆN ÐIỀM LÀNH CỦA TÊN (Tiền thân Nàmasiddhi)

Thấy Ji-va-ka-chết…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo tin vào sự tác thành của cái tên gọi. Tương truyền, một thiện nam trẻ tên là Papaka (Người ác), có tâm tín thành vào Giáp pháp, và xuất gia. Khi các Tỷ-kheo gọi:

– Hãy đến, Hiền giả Papaka! Hãy đứng lại, Hiền giả Papaka.

Tỷ-kheo ấy nghĩ: “Ở đời, tên Papaka có nghĩa là ác độc, là lời nguyền rủa. ta cần phải đặt một tên khác có liên hệ đến điều lành”.

Tỷ-kheo ấy đến vị sư trưởng và giáo thọ sư và thưa:

– Thưa các Tôn giả, tên của con chỉ điềm xấu. Hãy đặt cho con một cái tên khác.

Hai vị ấy nói với Tỷ-kheo:

– Này Hiền giả, cái tên chỉ để gọi thôi, không có nghĩa thành tựu mục đích. Hãy tự bằng lòng với cái tên mình.

Tỷ-kheo ấy lại yêu cầu nhiều lần. Chúng tăng biết được Tỷ-kheo ấy tin tưởng vào điềm lành của tên. Một hôm, các Tỷ-kheo ngồi họp ở Chánh pháp đường, và bắt đầu câu chuyện như sau:

– Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo ấy tin tưởng vào điềm lành của tên, yêu cầu đặt một tên liên hệ đến điềm lành.

Bậc Ðạo Sư đi đến Chánh pháp đường hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay mới như vậy. Xưa kia, Tỷ-kheo ấy cũng tin tưởng điềm lành của tên.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, tại Takkasilà, Bồ-tát là một vị Sư trưởng có danh tiếng ở nhiều phương, và năm trăm thanh niên Bà-la-môn đến học Vệ đà, học thuộc lòng. Một thanh niên trong bọn có tên Pàpaka (Kẻ độc ác). Ðược nghe gọi: Hãy đến Pàpaka, hãy đi Pàpaka. Anh ta suy nghĩ: “Tên của ta là một điềm xấu, ta hãy xin đổi một tên khác”.

Thanh niên đi đến gặp sư trưởng và thưa:

– Thưa sư trưởng, tên của con là một điềm xấu. Hãy đặt cho con một cái tên khác có tính cách tốt đẹp.

Sư trưởng nói:

– Hãy ra đi, này con thân. Hãy đi trong cả nước tìm được một tên có điềm lành mà con thích, rồi trở về đây, ta sẽ đổi tên cho con.

Chàng thanh niên vâng lời, đem theo lương thực lên đường, đi từ làng này sang làng khác và đến một thành phố. Tại đấy, có một người đã chết tên là Jìvaka (người sống). Anh ta thấy người chết được những bà con đưa đến nghĩa địa bèn hỏi:

– Người ấy tên chi.

– Tên là Jìvaka.

– Jìvaka mà cũng chết ư?

– Jìvaka cũng chết. Ajivaka (Không sống) cũng chết. Cái tên chỉ dùng để gọi thôi. Hình như ông là người khùng thì phải.

Nghe nói vậy, chàng thanh niên cảm thấy hơi yên tâm với cái tên của mình và đi vào trong thành. Bấy giờ một tỳ nữ, vì không đem tiền công về, bị những người chủ bắt ra ngồi ngoài đường, đánh nó với dây roi. Tên của người nữ tỳ ấy là Dhanapàli (Người giàu có). Ðang đi giữa đường thấy nữ tỳ bị đánh, anh ta hỏi:

– Vì sao đánh người này?

– Vì nó không đem tiền công về.

– Tên cô ta là gì?

– Tên nó là Dhanapàli (Người giàu)

– Với tên Dhanapàli, cô ta lại không thể cho tiền công sao?

– Dhanapàli hay Adhanapàli (Không giàu), chúng đều nghèo khổ. Cái tên chỉ dùng để gọi thôi. Ông hình như khùng thì phải.

Anh ta càng thấy yên tâm hơn nữa với cái tên của mình.

Ði ra khỏi thành, giữa đường anh ta gặp một người đi lạc. Thấy và biết người ấy lạc đường, chàng thanh niên hỏi tên người ấy:

– Nhưng ông tên à gì?

– Tên tôi là Panthaka (Người chỉ đường)

– Tên là Panthaka mà lại lạc đường sao?

– Panthaka hay Apanthaka (Lạc đường) đều có thể lạc đường. Cái tên chỉ để gọi thôi. Hình như ông khùng thì phải!

Khi ấy, chàng thanh niên Bà-la-môn hoàn toàn yên tâm với cái tên của mình. Anh ta đi về, gặp Bồ-tát và được Bồ-tát hỏi đã tự bằng lòng với cái tên gì chưa mà trở về, anh ta trả lời:

– Thưa Sư trưởng, Jìvaka hay Ajìvaka đều chết. Dhanapali ha Adhanapali đều nghèo. Panthaka hay Apanthaka đều lạc đường. Cái tên chỉ để gọi thôi. Cái tên không tác thành công việc. Cái tên không làm nên công việc. Vì thế con bằng lòng với tên mình và không muốn đổi tên khác nữa.

Bồ-tát kết hợp điều người thanh niên Bà-la-môn ấy đã thấy và điều người ấy đã làm, rồi nói lên bài kệ này:

Thấy Ji-va-ka chết,
Dha-na-pa-li nghèo,
Và thấy Pan-tha-ka
Ði lạc ở trong rừng,
Pa-pa-ka bằng lòng
Trở về với tên mình.

*

Sau khi kể chuyện quá khứ, bậc Ðạo sư nói thêm:

– Này các Tỷ-kheo, nay cũng như trong quá khứ, Tỷ-kheo ấy tin ở nơi sự tác thành của tên.

Rồi bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, kẻ tin sự tác thành của tên cũng là Tỷ-kheo hiện nay tin sự tác thành của tên. Hội chúng của sư trưởng là hội chúng của đức Phật, còn sư trưởng là Ta vậy.

  1. CHUYỆN NGƯỜI LÁI BUÔN LỪA ÐẢO (Tiền thân Kùtavànija)

Lành thay, vị hiền trí…,

Câu chuyện này khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một người đi buôn lừa đảo. Tại Xá-vệ có hai người cùng chung nhau làm nghề đi buôn, chở hàng hóa bằng xe, đi khắp toàn quốc, được tiền lời rồi đi về. Người đi buôn lừa đảo suy nghĩ:

“Người đi buôn này trải qua nhiều ngày ăn uống, ngủ nghỉ cực khổ, nên mệt mỏi. Nay về nhà, được ăn uống thỏa thích với các món ngon, nhiều thứ đặc biệt, nó có thể chết vì bội thực. Ta sẽ chia hàng hóa này thành ba phần, một phần cho con cháu nó, hai phần thuộc về ta”. Nghĩ vậy, kẻ ấy hẹn chia phần ngày này qua ngày khác, nhưng thực sự không muốn chia. Người đi buôn hiền trí không muốn bức bách kẻ ấy phải chia nên đi đến tinh xá đảnh lễ bậc Ðạo Sư và được tiếp đón thân tình. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Có gì trở ngại lớn chăng? Sao nay ông mới đến đây, đã lâu rồi sao ông không đến hầu thăm đức Phật?

Ông đem tất cả câu chuyện thuật lại với Thế Tôn, bậc Ðạo Sư nói:

– Này gia chủ, không phải chỉ nay nó mới là người đi buôn lừa đảo. Thuở xưa, nó cũng là người đi buôn lừa đảo rồi. Nay nó đang muốn lường gạt ông, như trước kia nó đã lường gạt các bậc hiền trí.

Theo lời yêu cầu của người đi buôn hiền trí, bậc Ðạo Sư kể chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ tát sanh ra trong một gia đình thương gia, đến ngày đặt tên, được đặt tên là Pandita (bậc hiền trí). Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ tát cùng chung vốn với một người đi buôn khác. Người ấy tên là Ðại hiền trí. Họ chở hàng hóa trên năm trăm cỗ xe, đi khắp quốc độ, buôn bán hàng hóa, lấy được tiền lời rồi đi về Ba-la-nại. Ðến thời chia hàng hóa, Ðại hiền trí nói:

– Tôi phải lấy hai phần.

– Vì sao vậy?

– Bạn là Hiền trí, tôi là đại hiền trí, Hiền trí xứng đáng được một phần, Ðại hiền trí xứng đáng được hai phần.

– Hai chúng ta bỏ chung về tiền vốn, về bò xe… đều bằng nhau. Sao bạn lại được hai phần?

– Vì ta là Ðại hiền trí.

Như vậy, lời qua tiếng lại tăng thêm đi đến cãi lộn nhau. Ðại hiền trí nghĩa ra một kế, bảo cha mình trốn vào trong một bọng cây và nói:

– Khi nào hai chúng tôi đến, cha hãy nói: Ðại hiền trí xứng đáng được hai phần.

Rồi Ðại hiền trí đi đến Bồ tát và nói:

– Này bạn, tôi có xứng đáng được hai phần hay không, vị thần của cây này biết, chúng ta đến hỏi thần ấy.

Nó liền yêu cầu thần cây:

– Thưa vị thần cây, chúng tôi có sự tranh chấp, xin ngài giải quyết cho.

Người cha giả thần đổi giọng nói:

– Vậy hãy nói lên.

– Thưa ngài, người này là Hiền trí, tôi là Ðại hiền trí, chúng tôi cùng nhau buôn bán. Ở đây cần phân chia lợi tức như thế nào?

– Hiền trí nên được một phần, còn Ðại hiền trí nên được hai phần.

Bồ tát nghe lời phán quyết tranh chấp như vậy, quyết tìm xem đó có phải thần cây hay không, bèn đem rơm đến, bỏ đầy vào lỗ cây, rồi đốt lửa. Cha của Ðại hiền trí, thân bị đốt bởi ngọn lửa đang cháy, liền leo lên, vịn vào cành cây.

Vừa rơi xuống đất, ông vừa nói lên bài kệ:

Lành thay, vị Hiền trí!
Tên Ðại hiền không lành,
Vì con Ðại hiền trí,
Ta gần bị chết thiêu!

Sau đó cả hai chia đồng đều, lấy nửa phần bằng nhau… rồi về sau, khi mệnh chung, họ đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể câu chuyện quá khứ, bậc Ðạo sư kết luận với câu:

– Thuở trước, nó là người đi buôn lừa đảo cũng như bây giờ.

Và ngài nhận diện Tiền thân:

– Kẻ đi buôn lừa đảo lúc ấy là kẻ đi buôn lừa đảo hôm nay, còn người đi buôn hiền trí là Ta vậy.

  1. CHUYỆN HƠN MỘT NGÀN KẺ NGU (Tiền thân Parosahassa)

Ngàn kẻ ngu tụ hội…,

Câu chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một câu hỏi của người phàm phu ngoại đạo. Câu chuyện sẽ được kể trong Tiền thân Sarabhanga. (số 522).

Một thời, Các Tỷ-kheo hội họp tại Chánh pháp đường, ngồi tán thán công đức của vị Tướng quân Chánh pháp như sau:

– Tướng quân Chánh pháp Xá-lợi-phất đã giải thích một cách rộng rãi một câu trả lời vắn tắt của bậc Ðạo Sư.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông nay ngồi đang bàn luận vấn đề gì?

Khi được trả lời về vấn đề đang bàn đến, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Xá-lợi-phất mới giải thích một cách rộng rãi một câu nói vắn tắt của Ta. Trong thời quá khứ, Xá-lợi-phất cũng trả lời như vậy.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ tát sanh ra trong gia đình một Bà-la-môn phương tây bắc, học tất cả tài nghệ ở Takkasila. Rồi ngài từ bỏ dục, xuất gia làm vị tiên nhân du sĩ, chứng được năm Thắng trí và tám Thiền chứng, và trú tại Tuyết Sơn. Bồ tát có năm trăm vị tu khổ hạnh vây quanh. Vị đệ tử đầu tay của ngài, trong mùa mưa, đem theo một nữ hội chúng tu sĩ, đi đến chỗ ở của quần chúng để xin muối và giấm. Ðây là thời Bồ tát phải đi đến mạng chung. Các đệ tử muốn biết sự chứng đắc của ngài, liền hỏi:

– Ngài đạt được quả vị gì?

Bồ tát trả lời:

– Không có gì.

Nói vậy xong, ngài từ trần và sanh lên cõi Phạm thiên quang âm (các Bồ tát có thể được Thiền chứng Sắc giới, nhưng không thể vượt qua Sắc giới để sanh vào Vô sắc giới). Các đệ tử không hiểu ý nghĩa lời nói ấy liền nói:

– Thầy chúng ta đã không chứng được gì.

Vì vậy họ không có tổ chức lễ thiêu ở nghĩa địa một cách cung kính. Người đệ tử đầu tay trở về và hỏi:

– Sư trưởng ở đâu?

– Sư trưởng đã tịch rồi.

– Các bạn có hỏi Sư trưởng chứng đắc gì không?

– Vâng, chúng tôi có hỏi.

– Sư trưởng trả lời như thế nào?

– Sư trưởng trả lời: Không có gì! Nghe nói vậy, chúng tôi không làm lễ thiêu ở nghĩa địa một cách cung kính.

Vị đệ tử đầu tay nói:

– Các bạn không hiểu ý nghĩa của lời Sư trưởng nói. Sư trưởng đã đạt được thiền chúng Vô sở hữu xứ.

Chúng đệ tử nghe vị ấy nói vậy nhiều lần, nhưng không tin. Bồ tát biết được sự việc, suy nghĩ: “Các ngươi ấy thật là mù và ngu. Chúng không tin đệ tử đầu tay của ta! Ta sẽ làm cho sự việc này trở thành rõ ràng trước đại chúng”.

Rồi Bồ tát từ Phạm thiên giới đi xuống, với thần lực lớn, đứng giữa hư không, trên tu viện của mình, tán thán trí tuệ của đệ tử trưởng và nói lên bài kệ này:

Ngàn kẻ ngu tụ hội
Khóc than một trăn năm,
Không bằng một người trí
Hiểu nghĩa lời được nói.

Như vậy, bậc Ðại Sĩ đứng giữa hư không, thuyết pháp, làm cho hội chúng các tu khổ hạnh tỉnh ngộ rồi đi về Phạm thiên giới. Các tu khổ hạnh ấy trở thành có trí và sau khi mệnh chung cũng đều được tái sanh về cõi Phạm thiên.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vị đệ tử đầu tay là Xá-lợi-phất, còn Ðại Phạm thiên là Ta vậy.

  1. CHUYỆN SẮC THÂN BẤT LẠC. (Tiền thân Asàtarùpa)

Chính đắng, không phải ngọt…,

Câu chuyện này, khi ở tại rừng Kundadhàno gần thành Kundiya, bậc Ðạo Sư đã kể về nữ cư sĩ Suppavàsà, con gái vua Koliya. Lúc bấy giờ, nữ cư sĩ ấy mang thai đã bảy năm chịu đau đớn khi sanh đến bảy ngày, cảm thọ rất khốc liệt. Dầu bị khổ đau khốc liệt, nàng vẫn chịu đựng với ba tư niệm này: “Chánh Ðẳng Giác là bậc Thế Tôn, Ngài thuyết pháp để đoạn trừ đau khổ như vậy. Tăng chúng, đệ tử của Thế Tôn, khéo hành trì để đoạn trừ đau khổ như vậy. Ðại an lạc là Niết bàn, tại đấy, đau khổ không có mặt”.

Ngài cho gọi chồng lại, bảo chồng đến yết kiến bậc Ðạo Sư, trình Ngài biết tình trạng của nàng và những lời đảnh lễ của nàng.

Sau khi nghe những lời đảnh lễ, bậc Ðạo Sư liền chú nguyện: “Mong rằng Suppavàsà, con gái vua Koliya được an lạc, được khỏe mạnh và nàng sẽ sanh ra đứa con trai khỏe mạnh”. Nhờ lời nói ấy của Thế Tôn, Suppavàsà, con gái vua Koliya, an lạc khỏe mạnh, sanh ra được một đứa con trai khỏe mạnh! Chồng nàng đi về nhà, thấy nàng đã sanh được con trai nói:

– Ôi thật vi diệu thay!

Và tâm tư ông hết sức khâm phục đại thần lực vi diệu của Như lai. Sau khi sanh con, Suppavàsa muốn cúng dường trong bảy ngày cho chúng Tăng với đức Phật là vị cầm đầu, liền bảo chồng đi mời.

Lúc bấy giờ, đức Phật và Tăng chúng đã được một tín chủ của Ðại Mục-kiền-liên mời cúng dường trong bảy ngày. Bậc Ðạo Sư muốn tạo cơ hội cho Suppavàsà cúng dường, liền cử người đến bậc Trưởng lão, tin cho Trưởng lão biết là Ngài đã nhận sự cúng dường của Suppavàsà trong bảy ngày với chúng Tỷ-kheo.

Ðến ngày thứ bảy, Suppavàsà mặc aó đẹp cho đứa con tên là Sivali, bảo con đảnh lễ bậc Ðạo Sư và chúng Tỷ-kheo tăng. Tuần tự thứ lớp, đứa con được đưa đến Trưởng lão Xá-lợi-phất. Trưởng lão thân mật đón tiếp đứa trẻ và hỏi:

– Này Sivali, mọi việc đều tốt đẹp với con chăng?

Ðứa trẻ liền nói với Trưởng lão:

– Thưa Tôn giả, sao con có thể an lạc được? Trong bảy năm, con đã sống trong bình máu.

Suppavàsà nghe vậy, hết sức hoan hỷ nói:

– Con tôi mới có bảy ngày, đã thảo luận với bậc Tướng quân Chánh pháp về vấn đề giác ngộ.

Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Supavàsà, con có muốn các con trai khác như vậy không?

– Bạch Thế Tôn, nếu có được bảy đứa con trai như vậy, con cũng muốn.

Sau khi nói lời cảm hứng, bậc Ðạo Sư hoan hỷ khích lệ và đi về. Thiếu niên Sivali, vào năm thứ bảy, hiến tâm mình cho đạo, và xuất gia. Khi tuổi được đầy đủ, vị ấy thọ đại giới, làm các công đức, đạt được lợi đắc cao nhất trên cõi đất, tức là quả A-La-hán, và khiến quả đất vang lên tiếng động hoan nghênh.

Một hôm, các Tỷ-kheo hội họp Chánh pháp đường, nói như sau:

– Hiền giả Sivali được đại phước như vậy là do cầu nguyện, cuối cùng mới được sanh, bảy năm ở trong bình máu, bảy ngày chịu trận đau đẻ. Ôi hai mẹ con chịu đựng đau khổ lớn. Cả hai đã tạo nghiệp gì sanh quá vậy?

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông nay ngồi ở đây bàn luận vấn đề gì?

Sau khi nghe vấn đề ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, Sivali là người đại phước, bảy năm ở trong bình máu, bảy ngày chịu trận đau vì sanh đẻ, căn bản là do nghiệp tự mình tạo ra. Còn Supavàsà chịu đau khổ mang thai trong bụng bảy năm, chịu khổ đau vì sanh đẻ bảy ngày, căn bản cũng do nghiệp mình tạo ra.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ tát đầu thai làm con bà hoàng hậu của vua, đến tuổi trưởng thành ngài học tất cả tài nghệ. Sau khi phụ vương mất, ngài trị vì vương quốc đúng pháp. Lúc bấy giờ, vua Kosala đi đến với một đạo quân lớn, chiếm lấy Ba-la-nại, giết vua Ba-la-nại, lấy hoàng hậu của vua làm hoàng hậu của mình.

Khi cha bị giết, hoàng tử con vua Ba-la-nại chạy trốn ngang qua các ống cống, tập hợp lực lượng, đi đến Ba-la-nại, cắm trại không xa, gửi tin nói:

– Hãy giao thành hay giao chiến.

Vua gửi tin trả lời sẵn sàng đánh. Mẹ hoàng tử nghe sự việc như vậy, nhắn tin con:

– Chớ đánh. Hãy cắt đứt giao thông từ mọi phía, bao vây thành Ba-la-nại, chờ cho đến khi nào củi, nước, gạo khánh kiệt, mọi người mệt mỏi, không cần đánh con cũng sẽ lấy được thành.

Hoàng tử nghe lời khuyên của mẹ, trong bảy ngày cắt đứt đường giao thông, và vây chặt thành phố. Dân thành phố không nhận được tiếp viện đến bảy ngày. Ngày thứ bảy họ lấy đầu vua và đem nạp cho hoàng tử. Hoàng tử đi vào thành, lấy lại vương quốc, và khi mạng chung đi theo nghiệp của mình.

Hoàng tử đã cắt đứt đường giao thông, vây hãm thành bảy ngày, do kết quả hành động ấy, phải sống bảy năm trong bình máu và bảy ngày chịu cơn đau đẻ. Nhưng vì hoàng tử cúi đầu đảnh lễ chân đức Phật Padumattara, cầu nguyện với bố thí lớn để chứng được quả vị tối thượng, lại nữa, trong thời đức Phật Vipassi (Tỳ-bà-thi), hoàng tử cùng với thị dân bố thí đường, sữa đông, v.v… trị giá ngàn đồng vàng, và cũng nói lên lời cầu nguyện ấy, do vậy, với uy lực của mình, hoàng tử chứng được quả tối thượng. Vì Suppavàsà gửi tin báo con vây và chiếm thành, nên nàng phải mang thai bảy năm và chịu cơn đau sanh đẻ bảy ngày.

*

Bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ xong, liền đọc bài kệ này:

Chính đắng, không phải ngọt,
Chính hận, không phải ái,
Chính khổ, không phải lạc.
Nhiếp phục kẻ phóng dật.

Sau khi kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Lúc bấy giờ, hoàng tử vây hãm thành, và lấy được vương quốc là Sivali, người mẹ là Suppavàsà, và người cha, vua Ba-la-nại là Ta vậy.

PHẨM PAROSATA

  1. CHUYỆN HƠN MỘT TRĂM KẺ NGU (Tiền thân Parosata)

Trăm kẻ ngu tụ hội…,

Trăm kẻ ngu tụ hội.
Thiền tư một trăm năm,
Không bằng một người trí
Hiểu nghĩa lời Phật dạy.

Tiền thân này, về câu chuyện, về giải thích và nhận diện Tiền thân đều giống như Tiền thân Parasahassa (số 99), chỉ riêng ở đây đề cập đến Thapeyya (Thiền tư).

  1. CHUYỆN NGƯỜI BÁN RAU (Tiền thân Pannika)

Người đáng che chở ta…,

Câu chuyện này, khi trú tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một cư sĩ bán rau trái. Nghe nói, có một cư sĩ trú ở Xá-vệ, buôn các loại cú và lá, các loại bí, bầu v.v…để nuôi sống; cư sĩ ấy có một người con gái xinh đẹp, tín thành, đầy đủ chánh hạnh giới đức, biết tàm, biết quý, nhưng luôn luôn có nụ cười trên mặt.

Khi các gia đình môn đăng hộ đối đến xin hỏi cưới nàng, người cư sĩ suy nghĩ: “Con gái của ta cần phải gả chồng. Nhưng nó có tật hay cười. Khi một đứa con gái đứng đắn đưa đến một gia đình khác có tật hay cười là một cái nhục cho bố mẹ. Ta phải tìm hiểu nó có phải là người con gái tốt nết hay không.”

Một hôm, cư sĩ báo người con gái đem giỏ theo, đi vào rừng để hái lá trong rừng. Rồi để thử nàng, cư sĩ cầm tay nàng, nói những lời kín đáo tỏ tình như muốn phạm lỗi, nàng liền bật khóc và than:

– Thưa cha thân, làm vậy không tốt, giống như lửa hiện ra từ nước. Chớ làm vậy.

– Này con thân, chỉ vì cha muốn thử con, nên cha mới cầm tay con. Con hãy nói lên. Nay con vẫn là đứa con gái có đức hạnh.

– Từ trước đến nay con chưa nhìn người đàn ông nào với lòng tham ái!

Người cha an ủi con gái, dắt về nhà, tổ chức tiệc cưới và đưa con gái về nhà chồng. Rồi người cư sĩ ấy quyết định đi đảnh lễ bậc Ðạo Sư, đem theo hương, vòng hoa v.v…, Ông đến Kỳ Viên, đảnh lễ bậc Ðạo Sư, cúng dường rồi ngồi xuống một bên. Khi được hỏi vì sao lâu nay không thấy đến, người cư sĩ ấy thuật câu chuyện cho Thế Tôn rõ. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này cư sĩ, thiếu nữ này từ lâu đã sống có chánh hạnh, có giới đức. Không phải chỉ nay, ông mới thử nó. Chính trong quá khứ, ông cũng đã thử rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahamadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm một thần cây ở trong rừng. Một người cư sĩ bán rau trái ở Ba-la-nại (câu chuyện giống như câu chuyện hiện tại), khi người cư sĩ cầm tay con gái để thử lòng, cô con gái bật khóc và nói lên bài kệ này:

Người đáng che chở ta
Trong khi ta đau khổ,
Người ấy là cha ta,
Lại làm quấy với ta.
Chính tại giữa ngôi rừng,
Ta khóc việc làm ấy.
Người đáng che chở ta,
Lại là kẻ thù ta.

Khi ấy người cha an ủi con gái, hỏi nàng có biết giữ gìn bản thân không, người con gái trả lời nàng biết giữ gìn bản thân mình. Người cha đem nàng về nhà, tổ chức tiệc đám cưới và đưa về nhà chồng.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư giảng về các Sự thật, và cuối bài giảng ấy, người bán rau được an trú vào quả Dư lựu. Rồi bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Người cha và con gái lúc bấy giờ là người cha và con gái hiện tại, thần cây chứng kiến sự việc ấy là Ta vậy.

  1. CHUYỆN KẺ THÙ (Tiền thân Veri)

Tại chỗ kẻ thù ở…,

Câu chuyện này khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về ông Cấp Cô Ðộc. Nghe nói Cấp Cô Ðộc, khi đến làng mà ông đang làm thôn trưởng, để giải quyết xong việc, trên đường trở về, ông thấy bọn ăn trộm, liền nghĩ: “Thật không nên chậm trễ giữa đường. Ta phải đi gấp về Xá-vệ”. Ông thúc bò đi thật mau, đến được Xá-vệ trong ngày hôm sau, đi đến Kỳ-Viên, ông kể lại sự việc cho bậc Ðạo Sư rõ. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này gia chủ, thuở trước các vị hiền trí giữa đường thấy bọn ăn trộm, đã vội đi ngay về nhà không chậm trễ.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahamadtta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát là vị triệu phú có tài sản lớn. Bồ-tát là vị triệu phú có tài sản lớn. Bồ- tát được một dân làng mời đi ăn. Ăn xong, trên đường trở về, Bồ-tát thấy những tên ăn trộm, Bồ-tát không ở lại giữa đường, thúc bò đi gấp về đến nhà của mình. Sau khi ăn nhiều món ngon lành khác nhau, ngồi trên giường lớn, Bố-tát nói:

– Ta thoát khỏi tay bọn ăn trộm, nay được về nhà của mình không có sợ hãi.

Rồi Bồ-tát cảm hứng đọc bài kệ này:

Tại chỗ kẻ thù ở,
Người trí không ở đấy.
Một đêm hay hai đêm,
Gặp khổ giữa kẻ thù.

Như vậy, Bồ-tát thốt lên lời cảm hứng, và trọn đời làm các công đức bố thí v.v… rồi lúc mạng chung, ngài đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Ta là người triệu phú ở Ba-la-nại.

  1. CHUYỆN CHÀNG TRAI MITTAVIDA ( Tiền thân Mittavinda)

Từ bốn đi đến tám…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo khó bảo. Câu chuyện đã được nói đến với các chi tiết trong Tiền thân Mittavinda (số 41). Chuyện Tiền thân này xảy ra trong thời đức Phật Ca-diếp.

*

Lúc bấy giờ, một người trong địa ngục bị quăng bánh xe trên ngực, đang bị đốt, nấu trong địa ngục, hỏi Bồ-tát:

– Thưa Tôn giả, tôi đã làm điều ác gì?

Bồ-tát nói:

– Ngươi đã làm tội này, tội này!

Rồi Bố-tát đọc bài kệ:

Từ bốn đi đến tám,
Từ tám đi mười sáu,
Mười sáu đến băm hai,
Kẻ tham đến bánh xe,
Bánh xe lăn trên đầu,
Ðến khi dục đoạn tận.

Nói vậy xong, Bồ-tát đi về thế giới chư Thiên của mình. Còn chúng sanh trong địa ngục, sau khi ác hạnh đoạn tận, đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, Mittavindaka là Tỷ-kheo khó bảo, còn Bồ-tát là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON VOI SỢ CHẾT (Tiền thân Dubbalakattha)

Rừng này có nhiều cành…,

Câu chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo sống trong tình trạng hoảng sợ. Tương truyền, một thiện nam tử ở Xá-vệ, sau khi nghe pháp, xuất gia, nhưng lại luôn luôn sợ chết; ban đêm cũng như ban ngày. Bất cứ chỗ nào, nghe tiếng gió thổi, cành cây khô rơi, chim kêu hay tiếng vật bốn chân, vị ấy liền la hét bỏ chạy. Vị ấy không biết có thành tức có hoại; nếu vị ấy biết: Các hành là vô thường, ta sẽ chết, thì vị ấy sẽ không sợ chết.

Vì không tu tập niệm chết, nên mới sợ chết. Tánh sợ chết của vị ấy được chúng Tỷ-kheo biết đến. Một hôm các Tỷ-kheo ở tại Chánh pháp đường khởi lên câu chuyện:

– Này chư Hiền, Tỷ-kheo tên này, bị sự chết làm hoảng hốt nên sợ chết.Vậy mỗi Tỷ-kheo cần phải tu tập pháp môn niệm chết rằng: Ta thế nào cũng phải chết.

Bậc Ðạo Sư đi đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông ngồi họp tại đây đang bàn luận vấn đề gì?

Khi được nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư cho gọi Tỷ-kheo ấy đến, hỏi có thật vị ấy sợ chết chăng, khi được Tỷ-kheo ấy trả lời có thật, bậc Ðạo Sư nói với các Tỷ-kheo.

– Này các Tỷ-kheo, chớ có tư tưởng không hoan hỷ đối với Tỷ-kheo này. Không phải chỉ nay, vị ấy mới sợ chết. Trong quá khứ, vị ấy cũng đã sợ chết rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở thành Ba-la-nại, Bồ tát sanh làm thần cây ở Tuyết Sơn. Lúc bấy giờ, vua Ba-la-nại đem con voi báu của mình giao cho các người nài voi để huấn luyện nó đừng dao động. Họ cột chặt con voi bất động và bắt đầu huấn luyện voi tập tánh bất động. Khi con voi, bị bắt tập như vậy, không thể chịu nổi đau khổ, liền bẻ gãy cây cột, đuổi các người tập và đi vào Tuyết Sơn. Người ta không thể bắt nó được, bèn đi trở về.

Tại đấy, con voi bắt đầu sợ chết, nghe tiếng gió động, nó hoảng hốt sợ chết, đập vòi qua lại và chạy thật nhanh, như khi nó bị cột vào cây cột tập đừng dao động. Không hưởng được thân thoải mái hay tâm thoải mái, nó đi lang thang trong nỗi dao động. Thần cây thấy nó, đứng trên chỗ nhánh chĩa hai của thân cây, nói lên bài kệ này:

Rừng này có nhiều cành,
Gió bẻ gãy cành mục,
Này voi, nếu ngươi sợ,
Ngươi sẽ ốm yếu thôi.

Như vậy, thần cây khuyên dạy con voi ấy. Từ đó trở đi, con voi không sợ hãi nữa.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết về các Sự thật. Cuối bài giảng, Tỷ-kheo ấy chứng quả Dự lưu. Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Lúc bấy giờ, con voi là Tỷ-kheo ấy, còn thần cây là Ta vậy.

  1. CHUYỆN MÚC NƯỚC (Tiền thân Udancani)

Hạnh phúc, đời sống tôi…,

Câu chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về sự cám dỗ của một thiếu nữ béo mập. Câu chuyện này sẽ được kể trong Tiền thân Culla-Nàrada-Kassapa, trong Chương thứ mười ba (số 477). bậc Ðạo Sư nói với Tỷ-kheo ấy:

– Có thật chăng, này Tỷ-kheo, ông bị luyến ái?

Khi được trả lời là thật có như vậy, bậc Ðạo Sư hỏi:

– Ông luyến ái ai?

Tỷ-kheo ấy trả lời:

– Tôi luyến ái một thiếu nữ béo mập.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, người thiếu nữ này đã làm chuyện không tốt lành cho ông. Thuở xưa, cũng vì thiếu nữ này, ông đã gặp nạn, đi lang thang dao động, may nhờ có bậc hiền trí, ông mới lấy lại an lạc.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, chuyện này đã xảy ra (câu chuyện này sẽ được kể trong Tiền thân Culla-Nàrada-Kassapa). Lúc bấy giờ, Bồ-tát vào buổi chiều, mang trái cây đi đến am thất bằng lá, mở cửa và nói với con trai là Cullatàpasa (vị Tiểu khổ hạnh):

– Này con thân, trong những ngày trước, con đã đem củi, nước uống, thức ăn, và đốt lửa. Nhưng hôm nay, con không làm một việc gì cả, mà nằm với vẻ mặt buồn bã bơ phờ như vậy?

– Thưa cha thân, khi cha đi hái các loại trái v.v…một nữ nhân đến cám dỗ con, và muốn đem con đi. Nhưng con không đi vì chưa được phép cha. Con bảo nàng ngồi tại chỗ ấy chờ đợi con đến. Nay thưa cha thân, con muốn ra đi.

Bồ-tát biết rằng con mình quá say mê luyến ái không thể từ bỏ nữ nhân ấy, nên nói:

– Này con thân, con cứ đi đi! Nhưng, khi nào cô ấy muốn ăn cá thịt v.v…và cần dùng các món bơ chín, muối, gạo v.v…và sai con đi tìm để mang về cái này cái khác, làm con mệt mỏi, hãy nhớ am thất của cha và chạy trốn về đây!

Rồi Bồ-tát cho đứa con đi. Ðứa con ấy cùng với nữ nhân đi về chỗ ở của dân chúng. Nữ nhân ấy về nhà mình, khi cần dùng vật gì liền sai người tình đi lấy:

– Hãy mang thịt về, hãy mang cá về.

Khi ấy, đứa con trai suy nghĩ: “Nữ nhân này hành hạ ta, chẳng khác đầy tớ hay người nô lệ của mình”.

Hạnh phúc, đời sống tôi
Bị nữ tặc cướp mất,
Nhân danh là vợ tôi,
Tôi phải nấu phải nướng,
Phải múc nước, gánh nước,
Phải xin muối, xin dầu!

Rồi Bồ-tát an ủi con trai, dạy cậu tu tập lòng từ, lòng bi, hạnh hỷ và hạnh xả, và trình bày đối tượng thiền quán. Người con trai ấy không bao lâu đắc các Thắng trí và Thiền chứng, cùng với người cha được sanh lên Phạm thiên giới.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết giảng về các Sự thật. Cuối bài giàng, Tỷ-kheo ấy chứng được Dự lưu. Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Người thiếu nữ béo mập thời ấy là người thiếu nữ béo mập hiện nay, Cullatàpasa là Tỷ-kheo bị luyến ái, còn người cha là Ta vậy.

  1. CHUYỆN NGHỀ NÉM ÐÁ (Tiền thân Sàlittaka)

Lành thay, một nghề tinh…,

Câu chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Tỷ-kheo đã ném trúng con ngỗng trời. Nghe nói có một thiện nam tử ở Xá-vệ đạt được thù thắng trong đức hạnh. Một hôm, vị ấy đưa một Tỷ-kheo trẻ đi đến sông Aciravati tắm, còn vị ấy đứng trên bờ. Lúc ấy hai con ngỗng trời trắng bay ngang qua hư không. Vị ấy nói với Tỷ-kheo trẻ:

– Với hòn đá, ta sẽ ném trúng mắt con ngỗng trời bay sau, làm cho ngỗng rơi xuống dưới chân ta.

Người kia nói:

– Bằng cách nào làm rơi được? Thầy không thể quăng trúng đâu.

– Hãy chờ một lát! Ta sẽ quăng trúng con mắt bên phía này xuyên qua con mắt bên phía kia.

– Chuyện thầy nói không thể xảy ra.

– Vậy ông hãy đợi xem.

Vị ấy cầm một hòn đá có ba cạnh, dùng ngón tay liệng hòn đá về phía sau lưng con ngỗng trời ấy. Con ngỗng trời nghe tiếng đá bay, nghĩ rằng có nguy hiểm, quay đầu lại để nghe. Trong giây phút ấy, vị ấy lấy một hòn đá tròn, khi con ngỗng trời đang quay đầu lại, liền quăng hòn đá trúng con mắt ở phía bên kia của ngỗng trời. Hòn đá đi xuyên qua con mắt bên này. Con ngỗng trời kêu lên một tiếng lớn rồi rơi xuống dưới chân hai vị.

Vị Tỷ-kheo kia thấy vậy, trách Tỷ-kheo ấy đã làm một việc hoàn toàn không thích đáng, rồi dẫn vị ấy đến gặp bậc Ðạo Sư và báo cáo việc làm không tốt đẹp kia. Bậc Ðạo Sư quở trách Tỷ-kheo ấy và nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Tỷ-kheo ấy mới thiện xảo trong nghề của mình. Thuở xưa, vị ấy mới thiện xảo trong nghề của mình. Thuở xưa, vị ấy cũng đã thiện xảo rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một đại thần của vua. Lúc bấy giờ, vị cố vấn tế tự của vua nói nhiều, lắm mồm lắm miệng. Khi ông ta bắt đầu nói, người khác không có cơ hội để nói. Nhà vua suy nghĩ: “Ta phải tìm cho được người có thể cắt đứt lời nói của nó”. Từ đó, vua đi tìm một người như vậy.

Lúc bấy giờ, ở Ba-la-nại có một người què, thuần thục trong nghề ném đá. Các đứa trẻ trong làng đặt nó trên chiếc xe nhỏ, kéo ra cửa thành Ba-la-nại. Tại đó, có một cây bàng lớn có nhiều cành lá rậm rạp. Các đứa trẻ đưa nó ra tại đấy, vây quanh và cho nó một số tiền nhỏ v.v… bảo làm hình con voi, con ngựa. Nó ném đá và tạo thành hình các con vật trên các ngọn lá của cây bàng. Tất cả là đều bị cắt qua cắt lại như vậy.

Rồi nhà vua, trong khi đi dạo công viên, đến tại chỗ ấy. Các đứa trẻ sợ nghi vệ của vua nên bỏ chạy, chỉ còn lại người què nằm đó. Vua đi đến gốc cây bàng, ngồi trên xe thấy, từng đám là cây loang lổ, ngó lên, thấy tất cả lá bị cắt đứt, liền hỏi ai đã làm như vậy. Khi được nói chính là người què đã làm như vậy, nhà vua suy nghĩ: “A! Nhờ người này, nay đã có cách có thể cắt lời nói của vị Ba-la-môn ấy được!”.

Vua bèn hỏi người què ở đâu. Chúng đi tìm, thấy nó nằm dưới gốc cây, liền báo cho vua biết. Vua kêu nó lại, bảo các tuỳ tùng tránh xa, và hỏi:

– Chúng ta có một vị ấy Bà-la-môn lắm mồm lắm miệng, người có thể làm cho nó ngưng nói được không?

– Thưa Ðại Vương, có thể được, nếu tôi có hột phân dê khô đầy một ống thổi.

Vua đem người què về cung, bảo nó ngồi sau lưng một cái màn có một lỗ hở, đặt ghế ngồi của vị Bà-la-môn hướng về lỗ hở ấy và cho đặt gần người què một ống thổi đầy phân dê khô. Vị Bà-la-môn đi đến hầu vua, ngồi trên cái ghế riêng của ông ta và bắt đầu câu chuyện. Cũng như bao lần trước, ông ta không cho ai khác có cơ hội để nói.

Bấy giờ, người què, ngang qua lỗ hở của màn, bắn phân con dê từng viên một, vào đúng cổ họng của vị Ba-la-môn như những con ruồi tuần tự đi vào. Vị Bà-la-môn nuốt các viên phân ấy mỗi khi chúng bay đến. Khi tất cả viên phân dê từ ống thổi đã đi vào bụng vị Bà-la-môn, chúng nở to lên bằng nửa alhaka (một đơn vị đo lường khoảng hơn bốn lít rưởi). Khi vua biết được các viên phân dê không còn nữa, mới nói:

– Này sư trưởng, ông nói nhiều quá, nên đã nuốt các viên phân dê đầy cả một ống mà không hay biết gì! Ông không thể nào tiêu hoá nhiều hơn thế nữa hôm nay. Hãy về uống nước cây tắc, để nôn ra và được khỏi bệnh.

Từ đó về sau, người cố vấn tế tự ngồi với miệng ngậm câm, không nói gì trong khi bàn luận. Vua nói:

– Lỗ tai của ta được an lạc nhờ người què này!

Vua cho nó bốn làng trong bốn phương hướng Ðông, Tây, Nam, Bắc, có huê lợi một trăm ngàn đồng.

Sau đó Bồ tát đi đến hầu vua và thưa:

– Thưa Ðại Vương, nghề này, các bậc hiền trí ở đời cần phải học. Chỉ nghề ném đá đã đem lại cho người què kết quả vinh hiển như vậy.

Nói xong, Bố-tát đọc bài kệ:

Lành thay, một nghề tinh,
Dầu đó là nghề gì,
Xem kẻ què ném đá,
Ðược làng cả bốn phương.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, người què là vị Tỷ-kheo này, vua là Ànanda, còn vị đại thần hiền trí là Ta vậy.

  1. CHUYỆN LẠ KỲ (Tiền thân Bàhiya)

Hãy học điều cần học…,

Câu chuyện này, khi trú ở ngôi phòng lớn có nóc nhọn tại Ðại Lâm, gần Tỳ-xá-ly, bậc Ðạo Sư đã kể về một người Licchavi. Nghe nói, vị vua Licchavi này có lòng tin, hoan hỷ mời chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị cầm đầu, và tổ chức một lễ cúng dường lớn tại trú xứ của mình. Bà vợ của vua, tay chân béo mập, như có tướng phát phì ra và ăn mặc lôi thôi. Bậc Ðạo Sư dùng cơm xong, nói lời tùy hỷ, rồi đi về tinh xá. Sau khi giáo giới các Tỷ-kheo ngài vào Hương phòng. Các Tỷ-kheo ngồi họp tại Chánh pháp đường bắt đầu câu chuyện.

– Này các Hiền giả, vua Licchavi ấy đẹp trai như vậy, lại có bà vợ tay chân béo mập, ăn mặc lôi thôi. Sao vua có thể thương một người như vậy?

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Nay các Tỷ-kheo nay các ông ngồi tại đây đang bàn luận về vấn đề gì?

Sau khi nghe vấn đề ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay mà thôi, thuở xưa, vị ấy cũng đã thương mến nữ nhân thân thể béo mập rồi!

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ tát là vị đại thần của vua. Có một nữ nhân thôn quê thân thể béo mập, ăn mặc lôi thôi, làm công ăn lương, đang đi ngang qua gần sân chầu của nhà vua, cảm thấy thân bị bức bách bèn ngồi xuống lấy áo che thân, giải tỏa sự bức bách của thân và nhanh nhẹn, đứng dậy.

Lúc bấy giờ, vua Ba-la-nại tình cờ đang nhìn xuống ngang qua cửa sổ, thấy nữ nhân ấy liền suy nghĩ: “Người này trong khi giải tỏa sự bức bách của thân tại sân vua như vậy, vẫn không từ bỏ tàm quý, dùng áo che đậy, giải tỏa bức bách xong, liền đứng dậy một cách nhanh nhẹn. Nữ nhân này chắc chắn khỏe mạnh, nhà cửa nữ nhân này chắc chắn sạch sẽ, nếu nàng có một đứa con, đứa con ấy chắc chắn sẽ được sạch sẽ và sống có giới đức. Ta phải đặt người này lên làm hoàng hậu”.

Sau khi biết được nữ nhân này chưa thuộc sở hữu của ai, vua bèn cho gọi nữ nhân ấy đến và đặt nàng vào địa vị hoàng hậu. Nàng trở thành người được vua yêu thương và thân thiết. Không bao lâu, nàng sanh được con trai. Nhà vua đặt con trai nàng lên làm Chuyển luân vương. Bồ tát nghe câu chuyện về sự may mắn của nàng, liền dùng cơ hội này thưa với vua:

– Thưa đại vương, phàm việc gì cần phải làm cho được tốt đẹp, sao lại không học tập? Sự việc này, do nữ nhân có đức hạnh lớn, khi giải tỏa sự bức bách của thân, vẫn không từ bỏ tâm quý, biết dùng phương tiện che đậy, khiến Ðại vương đẹp lòng và ban cho nàng phước lớn như vậy.

Rồi để tán thán mọi việc cần phải làm cho được tốt đẹp, Bồ tát đọc bài kệ này:

Hãy học điều cần học,
Dầu có kẻ cứng đầu.
Gái quê khéo tiểu tiện,
Làm đẹp lòng đức vua.

Như vậy, Bồ tát nói lời tán thán những ai đã làm tốt đẹp những điều cần phải học.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Hai vợ chồng thời ấy là vợ chồng hiện tại, còn vị đại thần hiền trí là Ta vậy.

  1. CHUYỆN BÁNH BỘT TRẤU ÐỎ (Tiền thân Kundakapùva)

Người ta ăn thứ gì…

Câu chuyện này, khi trú ở Xá vệ, bậc Ðạo sư đã kể về một người rất nghèo khổ. Ở Xá vệ, khi thì chỉ một gia đình cùng dường chúng Tăng với đức Phật là vị cầm đầu, khi thì ba bốn gia đình họp lại, khi thì cả thành chung đóng góp cúng dường. Nhưng nay là cả con đường chung sức lại cúng dường các thức ăn với cháo và bánh.

Lúc bấy giờ, có một người rất nghèo khổ, làm thuê cho các người khác, cũng ở trong con đường ấy, tự nghĩ: “Ta không thể cúng dường cháo. Ta cúng dường bánh vậy!” Anh ta cạo lấy bột đỏ của vỏ trấu mềm, nhào với nước, gói bánh ấy trong ngọn lá bạch vi rồi nướng bánh trong than đỏ, với ý định đem cúng dường đức Phật. Khi mới nghe nói: hãy đem bánh đến cúng dường, anh ta liền đến trước tất cả mọi người, và bỏ các bánh trong bát bậc Ðạo sư. Bậc Ðạo sư không nhận lấy bánh của những ngưởi khác, chỉ ăn các bánh của anh ta. Khi ấy, toàn thành đều đồn vang:

– Bậc Chánh Ðẳng Giác không khinh chê bánh làm bằng bột trấu đỏ của người nghèo khổ và đã ăn bánh ấy.

Khi ấy, từ vua, đại thần… cho đến các người gác cửa, tất cả đều hội họp lại, đảnh lễ bậc Ðạo sư, rồi đi đến người nghèo khổ ấy và nói:

– Hãy lấy đồ ăn, hãy lấy hai trăm, hãy lấy năm trăm đồng tiền, nhưng cho chúng tôi công đức cúng dường bánh ấy.

Người nghèo khổ nghĩ: “Phải hỏi bậc Ðạo sư rồi ta mới quyết định”.

Anh ta đi đến bậc Ðạo sư và thưa lại câu chuyện ấy. Bậc Ðạo Sư nói:

– Hãy lấy toàn bộ tài sản họ cho, nhưng hồi hướng công đức ấy về cho tất cả chúng sanh.

Anh ta bắt đầu nhận tiền. Một số người ấy cho gấp hai, gấp bốn, gấp tám kẻ khác… Như vậy, cho đến khi anh ta nhận được chín trăm ngàn tiền vàng. Bậc Ðạo Sư nói lời tùy hỷ, rồi đi về tinh xá. Sau khi nói lên những công việc phải làm và khuyến giáo lời tốt lành cho các Tỷ-kheo, bậc Ðạo Sư đi vào Hương phòng.

Vào buổi chiều, vua cho gọi người nghèo khổ ấy đến và mời anh ta làm quan giữ kho bạc cho vua. Các Tỷ-kheo ngồi họp tại Chánh pháp đường bắt đầu câu chuyện như sau:

– Này các Hiền giả, bậc Ðạo sư đã ăn bánh bằng bột trấu đỏ của người nghèo khổ như ăn món bất tử. Nhờ vậy, nguời nghèo khổ được nhiều tiền và được địa vị làm quan giữ kho bạc, được nhiều phước lộc lớn lao.

Bậc Ðạo sư đến hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi bàn luận vấn đề gì. Ðược biết vấn đề ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ta mới không khinh chê và ăn bánh làm bằng bột trấu đỏ của người ấy. Thuở trước, khi làm thần cây, ta cũng đã ăn như vậy rồi. Và cũng nhờ Ta mà kẻ ấy được chức vụ làm quan giữ kho bạc.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở trước, vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ tát sanh làm vị thần cây trên cây dầu đu đủ. Lúc bấy giờ, những người trong ngôi làng ấy tin tưởng sức mạnh thiêng liêng của các vị thần. Trong một lễ hội, người ta làm nhiều lễ vật để cúng các thần cây. Có một người nghèo khổ thấy các người ấy sửa soạn cúng dường các thần cây, cũng sắp đặt cúng dường thần cây dầu đu đủ.

Các người ấy đi đến, mang theo vòng hoa, hương, hương liệu, các món bánh… Còn anh ta chỉ đem theo bánh làm bằng bột trấu đỏ, và nước đựng trong cái gáo dừa. Anh ta đi đến, đứng xa cây dầu đu đủ và nghĩ: “Các vị thần ăn bánh chư Thiên. Thần của ta sẽ không ăn bánh làm bằng bột trấu đỏ này. Sao ta làm phí mất các bánh này? Ta hãy ăn nó đi!”. Nghĩ vậy, anh ta quay trở về. Bồ tát đứng trên nhánh chĩa ba của cây, nói lớn:

– Này ông bạn tốt ơi! nếu bạn là người có quyền thế, bạn sẽ cúng dường ta bánh ngon bánh ngọt. Nhưng bạn nghèo khổ, nếu ta không ăn bánh làm bằng bột trấu đỏ, thì ta sẽ ăn cái gì khác được? Chớ làm mất phần của ta.

Nói vậy xong, Bồ tát đọc bài kệ:

Người cúng ăn thứ gì,
Thần cũng ăn thứ ấy,
Ðem lại bánh bột trấu,
Chớ làm mất phần ta!

Anh ta quay trở lại, nhìn thấy Bồ tát rồi dâng vật cúng Bồ tát, ăn chất dinh dưỡng từ bánh ấy, rồi nói với anh ta.

– Này bạn, vì mục đích gì bạn cúng dường ta?

– Thưa ngài, tôi là người nghèo khổ. Tôi cúng dường với mục đích nhờ ngài giúp tôi thoát cảnh nghèo khổ này.

– Này bạn, chớ có lo nghĩ việc ấy nữa. Bạn đã cúng dường cho một vị thần biết ơn nghĩa, và nhớ đến các việc làm tốt. Nhiều ghè chứa châu báu được chôn xung quanh cây dầu đu đủ này. Chúng được xếp hàng, cổ ghè này chạm cổ ghè khác. Hãy báo cho vua biết, dùng cỗ xe chở tài sản, chất đống tại sân chầu vua. Vua sẽ bằng lòng bạn và cho bạn chức quan giữ kho bạc.

Sau khi nói xong, Bồ tát biến mất. Anh ta làm như Bồ tát dặn và được vua ban cho chức quan giữ kho bạc. Như vậy, nhờ Bồ tát, anh ta đạt được nhiều phúc lợi lớn và khi mạng chung, đi theo nghiệp của mình.

*

Bậc Ðạo Sư kể pháp thoại này xong, liền nhận diện Tiền thân như sau:

– Kẻ nghèo khổ thời ấy là kẻ nghèo khổ hiện tại, và thần cây dầu đu đủ là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CÂU HỎI BAO QUÁT TẤT CẢ. (Tiền thân Sabbasabhàraka-Panha)

Không bao gồm tất cả…,

Chuyện câu hỏi bao quát tất cả này sẽ được kể trong Tiền thân Ummagga (số 546 áp cuối tập Jàtaka VI).

PHẨM HAMSA

  1. CHUYỆN CÂU HỎI CỦA CON LỪA (Tiền thân Gadrabha-Panha)

Ngươi nghĩ mình là ngỗng…,

Chuyện câu hỏi của con lừa sẽ được nói đến trong Tiền thân Ummagga số 546

  1. CHUYỆN CÂU HỎI CỦA HOÀNG HẬU BẤT TỬ (Tiền thân Amaràdevi-Panha)

Các thứ bánh và cháo…,

Chuyện câu hỏi của hoàng hậu Bất tử cũng sẽ được kể số 546 (như trên)

  1. CHUYỆN CON CHÓ RỪNG (Tiền thân Sigàla)

Ngươi tin chó rừng say…,

Câu chuyện này,khi ở tại Trúc Lâm, bậc Ðạo sư đã kể về Ðề-bà đạt đa. Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo ngồi họp tại Chánh pháp đường bàn đến những việc làm tổn đức của Ðề-bà-đạt-đa.

– Thưa các Hiền giả, Ðề-bà-đạt-đa đem theo năm trăm Tỷ-kheo, đi đến Gayãsĩsa và nói: Sa-môn Gotama làm không đúng pháp, điều ta làm mới đúng pháp. Các Tỷ-kheo ấy bị đưa vào đường sai lạc bởi những lời nói dối như vậy, kẻ ấy đã phá hòa hợp Tăng và tổ chức hai lễ Bố-tát trong một tuần.

Bậc Ðạo sư đến, hỏi vấn đề gì đang được bàn luận, và khi được biết vấn đề ấy, Ngài nói:

– Này các Tỷ-kheo không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới nói láo, lúc trước, kẻ ấy cũng đã nói láo rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm một thần cây ở một khu rừng có nghĩa địa. Lúc bấy giờ, ở Ba-la-nại có hội lễ cúng sao. Các người tổ chức cúng lễ các quỷ Dạ-xoa. Họ rải khắp các công viên, các ngã tư đường…nhiều cá thịt và sắp đặt nhiều bát rượu.

Lúc ấy, có con chó rừng, vào nửa đêm, chui từ lỗ cống đi vào thành, ăn cá thịt, uống rượu, rồi chui vào trong một bụi cây nằm ngủ đến sáng. Khi nó thức dậy, thấy ánh sáng, biết rằng nay không thể trở ra được. Nó đi đến gần đường, nằm xuống một chỗ mà người ta không thấy nó được, nhưng nó thấy người ta và nằm im không nói gì.

Rồi một Bà-la-môn đang đi đến rửa mặt; thấy người ấy, con chó rừng suy nghĩ: “Các Bà-la-môn hay tham tiền, ta phải đánh trúng vào tánh tham lam ấy để họ dấu ta giữa nách, che ta với áo ngoài và đưa ta ra ngoài thành”. Với giọng người, nó nói:

– Này Bà-la-môn!

Vị Bà-la-môn quay lại hỏi:

– Ai kêu ta đó?

– Chính là tôi Bà-la-môn.

– Có chuyện gì vậy?

– Này Bà-la-môn, tôi có hai trăm đồng tiền vàng. Nếu bạn dấu tôi giữa nách, che tôi với áo ngoài, không cho một ai thấy và có thể đưa tôi ra ngoài thành, tôi sẽ cho bạn hai trăm đồng tiền vàng ấy.

Bà-la-môn vì tham tiền nên nhận lời, làm đúng như lời dặn, đưa con chó rừng ra ngoài thành. Ði được một lát, con chó rừng hỏi:

– Này Bà-la-môn, đây là chỗ nào?

– Chỗ ấy, chỗ ấy.

– Hãy đi thêm một lát nữa.

Như vậy, nó thúc đẩy vị Bà-la-môn nhiều lần, cho đến khi ra nghĩa địa lớn. Khi ấy, con chó rừng nói:

– Hãy thả tôi xuống đây.

Vị Bà-la-môn thả nó xuống, chó rừng nói:

– Này Bà-la-môn, hãy trải cái áo ngoài ra.

Vì lòng tham, kẻ ấy trải áo ngoài ra. Chó rừng lại nói:

– Này Bà-la-môn, hãy đào gốc cây này.

Và khi Bà-la-môn đang đào đất, con chó rừng leo lên cái áo ngoài, đi đại tiện trên năm chỗ, bốn góc và chính giữa, bôi phân cho nhớp, rồi đái cho ướt và bỏ đi vào rừng.

Bồ-tát đứng trên chỗ chĩa ba của cây, đọc bài kệ này:

Ông tin chó rừng say,
Hỡi Bà-la-môn ơi!
Trăm tiền ốc chả có,
Ðâu có hai trăm vàng?

Sau đó, Bồ-tát nói với vị Bà-la-môn:

– Này Bà-la-môn hãy đi tắm và giặt áo ngoài của ông.

Nói xong, Bồ-tát biến mất. Vị Bà-la-môn nghe vậy, biết mình đã bị lừa, và sầu muộn bỏ đi!

*

Sau khi kể pháp thoại này xong, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, con chó rừng là Ðề-bà-đạt-đa, còn vị thần cây là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON CÁ NGHĨ VỪA (Tiền thân Mitacinti)

Nghĩ nhiều và nghĩ ít…,

Câu chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về hai Trưởng lão lớn tuổi. Nghe nói, hai Trưởng lão ấy, sau khi an cư mùa mưa tại một làng thôn quê, đã quyết định đi đến yết kiến bậc Ðạo Sư, và chuẩn bị lương thực để lên đường. Nhưng họ hoãn ngày này qua ngày khác, cho đến một tháng trôi qua. Rồi họ chuẩn bị lương thực mới, cũng như lần trước, và trì hoãn tháng này tháng khác. Như vậy, vì sự biếng nhác, trìu mến trú xứ của họ, ba tháng trôi qua, họ mới lên đường đi đến Kỳ Viên. Sau khi cất đặt y bát tại phòng chung, họ đến yết kiến bậc Ðạo Sư. Khi các Tỷ-kheo hỏi vì sao lâu ngày họ không đến hầu đức Phật và nguyên nhân của sự chậm trễ, họ báo cáo về sự biếng nhác của mình.

Tại Chánh pháp đường, câu chuyện về sự biếng nhác của các Tỷ-Kheo ấy được Tăng chúng đề cập. Bậc Ðạo Sư đến, hỏi về vấn đề đang được bàn luận, và khi được báo cáo vấn đề ấy, bậc Ðạo Sư cho gọi hai Tỷ-Kheo ấy và hỏi có đúng như vậy không. Khi được họ xác nhận sự thật là vậy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-Kheo, không phải chỉ nay họ mới biếng nhác, thuở trước, họ cũng đã biếng nhác và trìu mến trú xứ như vậy rồi:

Sau khi nói xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahamadatta trị vì ở Ba-la-nại, có ba con cá sống ở sông Ba-la-nại, một con tên Nghĩ nhiều, một con tên Nghĩ ít, một con tên Nghĩ vừa. Chúng từ rừng đi đến cảnh giới loài người. Tại đấy, Nghĩ vừa nói với hai con kia:

– Cảnh giới loài người này thật nguy hiểm và dễ sợ. Các người đánh cá quăng lưới, và bắt cá. Chúng ta hãy đi về nguồn lại.

Hai con cá vì biếng nhác, vì tham mồi, trì hoãn lên đường, cho đến ba tháng trôi qua. Rồi những người đánh cá quăng lưới xuống sông. Nghĩ nhiều và Nghĩ ít tìm mồi đi trước, vì mù quáng ngu si, chúng không đề phòng lưới giăng nên đi vào trong mạng lưới. Nghĩ vừa đi sau cẩn trọng đề phòng. Biết được hai con kia đã sa vào mạng lưới, nó suy nghĩ: “Ta sẽ cứu sống những con cá biếng nhác, mù quáng, ngu si này”.

Nó bơi vào phía ngoài lưới giăng, làm vùng vẫy mắt lưới như đã được thoát, ra và làm tung toé nước như đã lặn về phía trước lưới. Rồi nó đi vào mạng lưới. Các người đánh cá nghĩ rằng các con cá đã vùng vẫy ra khỏi lưới và đã trốn đi rồi, nên nắm một góc lưới và kéo lên. Hai con cá ấy thoát khỏi lưới và lặn xuống nước. Như vậy, nhờ Nghĩ vừa, mạng sống của chúng đã được cứu thoát.

*

Sau khi kể câu chuyện quá khứ, bậc Ðạo Sư là bậc Chánh Ðẳng Giác, đọc bài kệ này:

“Nghĩ nhiều” và “Nghĩ ít”
Cả hai đều mắc lưới,
Chỉ có “Nghĩ đúng mức”
Giải thoát cho bọn chúng,
Cả ba đã gặp nhau,
Chính tại con sông này,

Như vậy, sau khi kể pháp thoại này xong, Bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Sự thật. Cuối bải giảng ấy, hai Tỷ-Kheo Trưởng lão chứng được quả Dự lưu. Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, “Nghĩ nhiều” và “Nghĩ  ít” là hai Tỷ-Kheo Trưởng lão này, còn Nghĩ vừa là Ta vậy.

  1. CHUYỆN NGƯỜI GIÁO GIỚI (Tiền thân Anusàsika)

Ai khuyên răn kẻ khác,…

Câu chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo-ni giáo giới người khác. Nghe nói, ở tại Xá vệ có một thiện nữ nhân xuất gia, nhưng từ khi thọ đại giới, Tỷ-kheo-ni ấy không chú tâm vào Sa-môn pháp, chỉ tham luyến tài vật. Tại chỗ nào các Tỷ-kheo-ni khác không đi thì tại chỗ ấy, nàng đi khất thực một mình. Và người ta cúng dường cho nàng những món thượng vị. Bị trói buộc bởi lòng tham vị, nàng suy nghĩ: “Nếu tại chỗ này, các Tỷ-kheo khác đi đến khất thực, đồ lợi dưỡng của ta bị tốn giảm. Ta phải làm thế nào để các Tỷ-kheo-ni khác không đi đến địa phương ấy”. Nàng đi đến trú xứ các Tỷ-kheo-ni và nói:

– Này các Hiền tỷ, tại chỗ ấy có voi dữ, có ngựa dữ, có chó dữ, đó là một nguy hiểm. Chớ nên đi khất thực tại đấy.

Nàng khuyên răn các Tỷ-kheo-ni như vậy. Nghe nàng nói, không một Tỷ-kheo-ni nào dám quay đầu ngó về địa phương ấy.

Một hôm, trên đường khất thực tại đấy, khi đi vội vào một ngôi nhà, nàng bị một con cừu hung dữ húc, làm nàng gãy xương. Người ta chạy đến, cột hai khúc xương gãy làm một, đặt Tỷ-kheo-ni ấy nằm trên chiếc cáng, khiêng nàng đến trú xứ của Tỷ-kheo-ni. Các Tỷ-kheo-ni nhạo cười nàng và nói:

– Tỷ-kheo-ni này khuyên các Tỳ-kheo-ni khác đừng đi, nhưng tự mình đi đến địa phương ấy, do vậy bị gãy xương.

Việc làm của Tỷ-kheo-ni này không bao lâu được chúng Tỷ-kheo biết. Một hôm, tại Chánh pháp đường, các Tỷ-kheo nói về hạnh phi công đức của Tỷ-kheo-ni ấy:

– Này các Hiền giả, Tỷ-kheo-ni ấy khuyên răn các người khác, còn tự mình đi đến tại chỗ ấy, nên bị con cừu hung dữ húc cho đến gãy xương.

Bậc Ðạo Sư đến, hỏi các Tỷ-kheo đang thảo luận vấn đề gì, khi biết vấn đề ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay, mà xưa kia, nàng cũng đã lên tiếng khuyên răn, nhưng tự mình lại không làm theo lời răn, cho nên nàng thọ khổ lâu dài.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahamadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con chim, lớn lên, trở thành con chim chúa, có hàng trăm con chim vây quanh, và trú ở Tuyết Sơn. Khi Bồ-tát sống tại đấy, có một con chim cái hung dữ đi theo một con đường lớn để tìm đồ ăn. Con chim cái này lấy được lúa, đậu, hột giống v.v… từ các cỗ xe rơi xuống. Nó suy nghĩ: “Nay ta phải làm thế nào để các con chim khác đừng đến chỗ này”. Nghĩ vậy, nó khuyên răn đàn chim như sau:

– Con đường lớn đầy nguy hiểm, có voi, có ngựa, có cỗ xe do các con bò hung dữ kéo và các vật nguy hiểm khác qua lại. Không thể nào cất cánh bay lên mau được. Chớ nên đi trên đường ấy.

Vì lời khuyên ấy, đàn chim gọi nó là “Con chim cái khuyên răn”. Một hôm, đang tìm mồi trên con đường lớn, nghe tiếng cỗ xe chạy mau, con chim cái ấy quay cổ lại nhìn, nghĩ rằng xe còn xa, nên vẫn đi. Nhưng cỗ xe ấy đến gần nó mau như gió. Trong khi nó không thể bay lên được, bánh xe cán phải nó, và xe vẫn chạy vùn vụt.

Khi họp đàn chim, chim chúa không thấy nó, bèn hỏi:

– Con chim cái khuyên răn sao không có mặt? Hãy đi tìm nó.

Các con chim đi tìm, thấy nó bị cán đứt đôi, và về báo tin cho chim chúa biết, chim chúa nói:

– Chim cái ấy ngăn chặn các con chim khác, còn tự mình lại đi tại đấy nên bị cán đứt đôi.

Rồi chim chúa đọc bài kệ:

Ai khuyên răn kẻ khác,
Tự mình chạy theo tham,
Bị gãy cánh nằm xuống,
Bánh xe giết đời chim.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, con chim cái khuyên răn là Tỷ-kheo-ni khuyên răn, còn chim chúa là Ta vậy.

  1. CHUYỆN NGƯỜI MÚA GIÁO (Tiền thân Dubbaca)

Thưa sư trưởng, vì thầy…,

Câu chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo khó bảo. Câu chuyện này sẽ được nói đến trong Tiền thân Gijjha (số 427), chương chín. Bậc Ðạo Sư gọi Tỷ-kheo ấy:

– Này Tỷ-kheo, không phải chỉ nay ông mới khó bảo, mà thuở trước ông cũng đã khó bảo rồi. Do khó bảo, không làm theo lời khuyên của bậc hiền trí, nên ông bị cây giáo đâm phải, và mạng chung.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình diễn trò nhào lộn. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát có trí tuệ, thiện xảo trong phương tiện. Với một nhà diễn trò nhào lộn, Bồ-tát học nghề múa với ngọn giáo, và cùng với thầy, đi khắp đó đây để biểu diễn.

Vị sư trưởng chỉ biết nghề múa với bốn ngọn giáo, chớ không biết múa với năm ngọn giáo. Một hôm, trong khi biểu diễn tại một ngôi làng, vị sư trưởng ngà ngà say, đặt mỗi dãy năm ngọn giáo và nói:

– Ta sẽ biểu diễn điệu múa với năm ngọn giáo.

Bồ-tát liền nói với vị ấy:

– Thưa sư trưởng, sư trưởng không biết nghề múa với năm ngọn giáo. Hãy cất đi một ngọn. Nếu sư trưởng biểu diễn, sư trưởng sẽ bị ngọn giáo thứ năm đâm phải và mạng chung.

Sư trưởng khá say nói:

– Con không biết được khả năng của ta.

Sư trưởng không nghe lời của Bồ-tát, múa qua được bốn ngọn giáo, nhưng đến ngọn giáo thứ năm bị giáo đâm thủng, như hoa Madhuka trên cành. Sư trưởng nằm oằn oại rên la, Bồ-tát nói:

– Do không nghe lời bậc hiền trí, nên thầy phải gặp nạn này:

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ:

Thưa sư trưởng, vì thầy
Làm quá sức của thầy,
Thầy không ưa, không thích
Lời khuyên này của tôi
Bốn giáo, thầy múa qua,
Ngọn thứ năm đâm chết.

Nói vậy xong, Bồ-tát đỡ thầy ra khỏi ngọn giáo và làm những gì cần phải làm sau cùng cho xác thân thầy.

*

Sau khi kể câu chuyện quá khứ, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Lúc bấy giờ, vị sư trưởng là Tỷ-kheo khó bảo này, còn người đệ tử là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CHIM ÐA ÐA (Tiền thân Tittira)

Lời quá thời cao mạnh…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về Kokalika. Câu chuyện sẽ được kể rõ ràng trong Tiền thân Takkaritya (số 481), Chương mười ba. Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải nay, mà cả thời xưa nữa, Kokalika đã bị nạn diệt vong rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình ở phía tây bắc. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát học tất cả các nghề ở Takkasila, rồi từ bỏ các dục, xuất gia làm vị tiên nhân du sĩ, chứng được năm Thắng trí và tám Thiền chứng. Tất cả hội chúng ẩn sĩ ở Tuyết Sơn họp lại, tôn Bồ-tát lên làm sư trưởng khuyên giáo và đi theo thầy. Bồ-tát lãnh đạo năm trăm ẩn sĩ, hưởng thọ thiên lạc, sống ở Tuyết Sơn.

Lúc ấy một vị tu khổ hạnh bị bệnh vàng da đang dùng búa chặt củi. Một vị tu khổ hạnh nói nhiều đến ngồi gần vị này và nói:

– Hãy chặt chỗ này, hãy chặt chỗ này.

Vị tu khổ hạnh kia mất kiên nhẫn, phẫn nộ và nói:

– Ngươi đâu phải là thầy dạy ta bửa củi?

Kẻ ấy giơ cây búa sắc bén, và với một nhát búa, giết ngay mạng sống của vị tu khổ hạnh nói nhiều. Bồ-tát lo liệu các việc phải làm đối với thân thể nạn nhân.

Lúc bấy giờ, không xa am thất bảo, có một con chim đa đa sống dưới chân một gò mối. Vào buổi chiều, nó thường hay đứng trên gò mối ấy và hót lớn tiếng. Nghe tiếng nó, một thợ săn độc ác nhận được là tiếng con đa đa, liền giết nó và mang xác đi.

Bồ-tát không nghe tiếng con chim ấy, liền hỏi các người tu khổ hạnh tại gò mối:

– Tại sao ta không nghe tiếng nó nữa?

Các vị tu khổ hạnh báo cáo sự việc cho Bồ-tát rõ. Bồ-tát kết hợp hai sự kiện với nhau và nói lên bài kệ này giữa hội chúng ẩn sĩ:

Lời quá thời cao mạnh
Ðưa chết cho người nói,
Chim đa đa mất mạng,
Vì ngu, hót quá lời.

Như vậy, Bồ-tát tu tập Bốn Vô lượng tâm, và được sanh lên cõi trời Phạm thiên.

*

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Kokalika vì lời nói của mình bị nạn diệt vong, mà thuở trước kẻ ấy cũng đã bị diệt vong rồi.

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Lúc bấy giờ, vị tu khổ hạnh nói nhiều là Kokalika; chúng ẩn sĩ là hội chúng đức Phật; còn Ðạo Sư hội chúng là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CHIM CUN CÚT (Tiền thân Vattaka)

Không suy nghĩ, người này…,

Câu chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về con trai của triệu phú Uttara. Nghe nói, ở Xá-vệ có vị triệu phú Uttara rất giàu, vợ triệu phú sanh được một con trai có đức hạnh, từ Phạm thiên giới xuống; khi đến tuổi trưởng thành, cậu rất đẹp trai, giống như Phạm thiên.

Một hôm, khi ngày hội cúng sao Kattika được tổ chức ở Xá-vệ, mọi người vui chơi hội lớn. Nhưng người bạn, con trai các triệu phú khác đều có vợ. Riêng con triệu phú Uttara, vì sống lâu ở Phạm thiên giới, nên tâm không hướng đến luyến ái. Các bạn của cậu muốn đem cho cậu một nữ nhân để vui chơi hội sao, liền bàn với nhau, đến gặp cậu và nói:

– Này bạn, trong thành phố này, hội lớn cúng sao Kattika được tổ chức một đêm. Chúng tôi sẽ tìm cho bạn một nữ nhân để cùng nhau vui chơi hội lớn.

Dầu cậu nói không cần nữ nhân, các bạn vẫn nài ép, bắt cậu nhận. Họ trang điểm một nữ tỳ xinh đẹp, dắt đến nhà cậu, bảo nữ nhân ấy đi đến nhà con trai triệu phú, dẫn nàng đến phòng cậu rồi bỏ đi. Khi cô gái ấy vào phòng ngủ, con người triệu phú không ngó nàng và không nói năng gì. Cô gái suy nghĩ: “Ta tuyệt sắc, duyên dáng, mỹ lệ như thế này. Người này không ngó, cũng không nói với ta. Nay ta dùng sự cám dỗ và vẻ duyên dáng nữ nhân của ta làm người này phải nhìn đến ta”.

Nghĩ vậy, cô gái trình diễn mọi sự cám dỗ của nữ nhân. Ðể làm đẹp lòng cậu, nàng để lộ hàm răng tuyệt đẹp của nàng và mỉm cười. Chàng trai triệu phú nhìn nàng, nắm lấy hình tướng bộ xương răng. Tư tưởng về bộ xương khởi lên trong tâm chàng cho đến khi toàn thân nàng hiện ra như một chuỗi xương. Chàng trai cho tiền người con gái rồi bảo nàng đi.

Khi nàng ra khỏi nhà, một người quý phái thấy nàng ở giữa đường, liền cho tiền và dẫn nàng về nhà. Bảy ngày qua, lễ hội sao chấm dứt. Mẹ người nữ tỳ đẹp không thấy con gái của mình trở về, đến nhà các người con trai triệu phú, hỏi con gái ở đâu. Họ đi đến nhà con trai triệu phú Uttara để hỏi và được trả lời:

– Cô gái có đến một lát, tôi đã cho tiền và bảo đi về.

Nhưng mẹ cô gái không thấy con mình, bắt buộc họ phải trả nàng lại, và đem con trai triệu phú Uttara đến xin vua phân xử. Vua hỏi:

– Những người con trai các vị triệu phú có đem người nữ tỳ xinh đẹp giao cho ngươi không?

– Thưa Ðại vương, có.

– Nay có đâu rồi?

– Tôi không được biết. Nó chỉ ở lại một lát và tôi đã bảo nó đi về rồi.

– Vậy nay ngươi có thể đem nó lại không?

– Thưa Ðại vương, không được.

Vua nói:

– Nếu ngươi đem lại không được, hãy áp dụng hình phạt của ta.

Họ trói tay cậu ra phía sau, dắt cậu đi áp dụng hình phạt của vua. Cả thành vang dậy lời bàn tán:

– Nghe nói, con trai người triệu phú vì không trả lại đứa nữ tỳ xinh đẹp, nên bị đưa đi áp dụng hình phạt của vua.

Một đám quần chúng để tay trên ngực, vừa đi theo sau, vừa than:

– Việc này là thế nào, thưa ông chủ? Sao ông chủ lại gặp một việc bất công như thế này?

Người con trai triệu phú suy nghĩ: “Sự đau khổ này xảy ra vì ta sống trong gia đình. Nếu ta thoát luy được gia đình, ta sẽ xuất gia với bậc Ðại Gotama, Chánh Ðẳng giác.”

Bấy giờ cô nữ tỳ xinh đẹp nghe tiếng đồn vang, liền hỏi dò sự việc. Khi được nghe câu chuyện ấy, nàng chạy ra thật mau và la to:

– Các ông hãy dẹp qua một bên, dẹp qua một bên! Cho tôi gặp các người lính của vua.

Và nàng tự trình diện. Quân hầu của vua thấy nàng, liền giao nàng lại cho bà mẹ, thả con trai người triệu phú và bỏ đi. Người con trai triệu phú cùng với bạn bè vây quanh, đi đến sông, gội đầu thật sạch. Rồi cậu về nhà, ăn sáng xong, liền xin phép cha mẹ được xuất gia. Vị ấy mang theo các y, cùng với một số tùy tùng đông đảo, đi đến bậc Ðạo Sư, đảnh lễ Ngài, và xin xuất gia. Ðược xuất gia và được thọ đại giới, vị ấy phát triển thiền quán không gián đoạn, không bao lâu chứng quả A-la-hán.

Một hôm, các Tỷ-kheo hội họp tại Chánh pháp đường nói lời tán thán con trai triệu phú ấy:

– Thưa các Hiền giả, con trai vị triệu phú này, trong giờ phút nguy hiểm cho mình, đã biết được công đức của Giáo pháp, nghĩ đến xuất gia để thoát khỏi đau khổ ấy. Nhờ khéo suy tư như vậy, nên vị ấy được thoát nạn, được xuất gia, và chứng quả A-la-hán tối thượng.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi đề tài được bàn luận, sau khi biết câu chuyện, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỳ-kheo, con trai triệu phú Uttara, trong giờ phút nguy hiểm xảy ra cho mình, đã nghĩ đến phương tiện ấy để thoát khỏi sự đau khổ kia, và được thoát chết.

Thuở trước, các nhà hiền trí, khi nguy hiểm xảy ra cho mình, cũng đã nghĩ đến phương tiện ấy để giải thoát sự đau khổ kia. Nhờ suy nghĩ như vậy, họ được thoát khỏi đau khổ do nạn chết đem lại.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát tái sanh nhiều lần, rối sanh ra làm con chim cun cút. Lúc bấy giờ, có một người thợ săn chim cun cút, thường bắt nhiều cun cút trong rừng, đem về nhà, nuôi dưỡng chúng cho mập. Sau khi lấy tiền, anh ta bán chúng cho những người đi đến, và nuôi sống với nghề như vậy.

Một hôm anh ta bắt được Bồ-tát với nhiều con chim cun cút khác và đem về nhà. Bồ-tát suy nghĩ: “Nếu ta ăn đồ ăn và uống nước của người này, nó sẽ bắt ta và đưa cho những người đến xem. Nếu ta không ăn, ta sẽ trở thành ốm yếu, và thấy ta ốm yếu, các người ấy sẽ không bắt ta làm gì. Như vậy ta được an toàn. Ta hãy làm theo phương tiện này”. Bồ-tát làm theo như vậy, cho đến khi chỉ còn da và xương. Người ấy thấy chim quá ôm nên không bắt.

Sau khi bán hết các con chim khác trừ Bồ-tát, anh ta đem Bồ-tát ra khỏi lồng, đặt lồng ở nơi cửa, để Bồ-tát trên lòng bàn tay và nhìn xem con cun cút này có đau bệnh gì. Biết được người thợ săn không chú ý, Bố tát xòe cánh lên và bay vụt về rừng. Các con chim cun cút khác thấy Bồ-tát liền hỏi:

– Sao không thấy mặt bạn, bạn đi đâu vậy?

– Ta bị người thợ săn bắt.

– Làm sao bạn lại thoát được?

– Vì ta không ăn đồ ăn nó cho, không uống nước của nó, nhờ nghĩ đến phương tiện này, ta được thoát.

Nói xong, Bồ-tát đọc bài kệ:

Không suy nghĩ, người này,
Không được lợi đặc biệt,
Hãy xem quả suy tư!
Ta thoát trói, thoát chết.

Như vậy, Bồ-tát kể lại sự việc mình đã làm.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, con chim cun cút thoát chết là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON GÀ GÁY PHI THỜI (Tiền thân Akàlaràvi)

Không cha mẹ nuôi dưỡng…,

Câu chuyện này, khi trú tại Kỳ viên bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo làm ồn phi thời, Tỷ-kheo ấy là một thiện nam tử ở Xá vệ, xuất gia trong giáo pháp, nhưng không làm các phận sự của mình hay học pháp. Vị ấy không biết: Thời này, ta phải làm việc này; thời này, ta phải hầu hạ; thời này, ta phải học hành. Trong một canh, canh giữa và canh cuối và trong những giờ thức giấc, vị ấy làm ồn, khiến cá Tỷ-kheo không thể ngủ được.

Tại Chánh pháp đường, các Tỷ-kheo nói đến hạnh không tốt của vị ấy:

– Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo tên ấy, xuất gia trong pháp bảo như vậy, nhưng không biết phận sự hay học pháp đúng thời hay phi thời.

Bậc Ðạo Sư đến, hỏi các câu chuyện đang bàn luận, sau khi được biết vấn đề, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay vị ấy mới làm ồn phi thời như vậy, mà thuở trước, vị ấy cũng đã làm ồn phi thời. Do không biết thời và phi thời, vị ấy đã bị vặn cổ chết.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở phương tây bắc. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài vượt qua biên giới, học tất cả tài nghệ, trở thành vị sư trưởng có tiếng khắp nhiều phương, và dạy nghề cho năm trăm thanh niên Bà-la-môn. Các người thanh niên ấy có một con gà trống gáy đúng giờ giấc. Khi nghe tiếng gà gáy, họ thức dậy học bài. Khi con gà ấy chết đi, họ đi tìm một con gà khác.

Một thanh niên đi nhặt củi trong khu rừng có nghĩa địa, thấy một con gà trống, liền bắt nó về, nhốt trong chuồng và nuôi nó. Vì quen sống ở nghĩa địa, nó không biết giờ nào cần phải gáy, có khi nó gáy lúc nửa đêm, có khi nó gáy lúc rạng đông. Khi các thanh niên ấy nghe nó gáy lúc nửa đêm, họ thức dậy học bài, cho đến rạng đông họ quá mệt không học được nữa. Vì buồn ngủ, họ không thấy được vấn đề cần phải thấy. Và khi quá sáng, con gà ấy gáy ồn ào họ không có cơ hội yên tĩnh để học ôn bài. Các thanh niên Bà-la-môn suy nghĩ: “Con gà này gáy vào nửa đêm, hoặc ban đêm, hoặc ban ngày. Do đó, chúng ta học không có kết quả”. Vì vậy, họ bắt con gà ấy vặn cổ cho chết đi, và báo cáo lên sư trưởng biết:

– Vì con gà gáy phi thời, chúng tôi đã giết nó rồi.

Vị sư trưởng lấy đó làm bài học và nói:

– Do nó không được dạy dỗ tốt, nên nó phải chết.

Rồi sư trưởng đọc bài kệ.

Không mẹ cha nuôi dưỡng,
Không thầy, dạy dỗ nó,
Con gà này không biết
Ðúng thời hay phi thời.

Sau khi nêu rõ lời dạy về sự việc này, Bồ-tát sống hết thọ mạng rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau.

– Thời ấy, con gà gáy phi thời là vị Tỷ-kheo này, các đệ tử là hội chúng đức Phật, còn sư trưởng là Ta vậy.

  1. CHUYỆN GIẢI THOÁT SỰ TRÓI BUỘC (Tiền thân Bandhanamokkha)

Chỗ này kẻ ngu nói…,

Câu chuyện này, khi trú tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về thiếu nữ Bà-la-môn Cinca. Câu chuyện này sẽ được kể trong Tiền thân Mahàpaduma, Chương mười hai (số 472). Lúc bấy giờ, bậc Ðạo sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay thiếu nữ Bà-la-môn này vu cáo Ta điều không có thật. Thuở trứơc, nó cũng đã vu cáo rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát lớn lên trong gia đình một người cố vấn tế tự, và sau khi cha mất, Bồ-tát kế nghiệp chức vụ ấy. Lúc ấy hoàng hậu được vua cho một ước nguyện.

– Này Hoàng Hậu, nàng muốn gì, hãy nói lên.

Hoàng hậu nói như sau.

– Lời ước nguyện của thiếp không khó thực hiện. Từ nay trở đi Ðại vương không được nhìn một nữ nhân khác với con mắt luyến ái.

Ban đầu, vua từ chối, nhưng sau, bị nàng bức bách nhiều lần, không thể bỏ qua lời của hoàng hậu, vua phải chấp nhận, và từ đấy trở đi, vua không bao giờ nhìn một nữ nhân nào trong số mười sáu ngàn vũ nữ.

Rồi một cuộc nổi loạn khởi lên ở biên địa. Quân lính ở biên địa, sau hai ba lần giao chiến với các tên cướp, đưa tin về cho vua là họ không thể dẹp loạn được. Vua muốn đi đến đấy, liền tập họp một đội binh lớn, cho gọi hoàng hậu đến và nói.

– Này hiền thê, ta ra biên địa, tại đấy chiến trận đủ loại xảy ra, sẽ đưa đến chiến thắng hay chiến bại. Những chỗ ấy không thích hợp với nữ nhân. Hoàng hậu hãy ở lại đây.

Hoàng hậu nói.

– Thưa Ðại vương, thiếp không thể ở lại đây.

Khi bị vua từ chối nhiều lần, hoàng hậu nói.

– Vậy sau khi đi được mỗi dặm, Ðại vương hãy gửi một người về để hỏi thăm sức khoẻ của thiếp.

Nhà vua chấp nhận. Bồ-tát ở lại trong thành, còn vua ra đi với một đội quân lớn, cứ đi mỗi dặm, lại gửi một người về với trách nhiệm tin cho biết sức khoẻ của nhà vua và hỏi thăm hoàng hậu có được an lạc không. Khi có một người đàn ông đi về, nàng hỏi:

– Vua sai ngươi về có mục đích gì?

– Ðể hỏi hoàng hậu có được an lạc không.

Hoàng hậu bảo người ấy đến và sống phi pháp với nó. Vua đi đường được ba mươi hai dặm, gửi về ba mươi hai người, và hoàng hậu sống phi pháp với tất cả bọn họ.

Sau khi dẹp loạn xong, bình định được quốc độ, trên đường về, vua cũng gửi về ba mươi hai sứ giả. Hoàng hậu cũng sống phi pháp với họ. Cho quân thắng trận dừng chân gần thành, vua gửi tin nhắn Bồ-tát sửa soạn thành phố để đón tiếp ngài.

Bồ-tát cho sửa soạn thành phố xong, mới sửa soạn cung điện để đón vua và đi đến cung thất của hoàng hậu. Hoàng hậu thấy thân thể của Bồ-tát tuyệt đẹp, không thể dằn lòng nổi, liền nói:

– Này Bà-la-môn, hãy đáp lại tình yêu của ta.

Bồ-tát nói:

– Chớ nói vậy! Hãy kính trọng vua. Tôi sợ điều bất thiện. Tôi không thể làm như vậy được.

– Sáu mươi bốn tên sứ giả đã không kính trọng vua, đã không sợ điều bất thiện, vậy ngươi lại kính trọng vua và sợ điều bất thiện sao?

– Thưa vâng, nếu họ suy nghĩ, họ đã không làm như vậy, nhưng vì tôi có biết điều phải, tôi sẽ không làm việc ác này.

– Ðừng nói bậy nhiều như vậy! Nếu ngươi không làm theo lời ta, ta sẽ bảo chặt đầu ngươi.

– Thôi được, dầu cắt đầu tôi trong một đời này hay trong trăm ngàn đời, tôi cũng không thể làm như vậy.

– Hãy để đấy, rồi sẽ biết tay ta.

Hoàng hậu đe dọa Bồ-tát, rồi đi vào trong phòng của mình, lấy móng tay cào trên thân, lấy dầu thoa tay chân, mặc áo dơ bẩn vào, giả bệnh và cho gọi các nữ tỳ:

– Nếu vua có hỏi hoàng hậu ở đâu, thì trả lời hoàng hậu bị bệnh.

Trong lúc ấy Bồ-tát đi đón vua. Sau khi đi vòng quanh thành phố, vua ngự lên cung điện, không thấy hoàng hậu, liền hỏi hoàng hậu ở đâu. Khi được trả lời hoàng hậu bị bệnh, vua đi vào phòng hoàng hậu, xoa lưng hoàng hậu và hỏi:

– Hoàng hậu đau bệnh gì?

Hoàng hậu im lặng. Khi vua hỏi lần thứ ba, hoàng hậu nhìn vua và nói:

– Thưa Ðại Vương, nay Ðại vương còn sống, nhưng nữ nhân như thiếp cần phải có một người chồng.

– Ái khanh nói gì lạ vậy?

– Ðại vương đặt địa vị cố vấn tế tự ở lại giữ thành, nó lấy cớ là sửa sang nội cung, đến đây, và vì thiếp không làm theo lời nó, nó đánh đập thiếp cho thoả mãn ý của nó rồi bỏ đi.

Vua đùng đùng nổi giận, như muối và đường bỏ vào lửa, vụt đi ra khỏi cung phòng. Vua cho gọi các người gác cửa, các lính bộ binh đến, bảo họ bắt Bồ-tát ngay, trói cánh tay ra sau lưng như người bị xử án chém, rồi dẫn ra khỏi thành, đến pháp trường xử trảm. Họ đi thật mau, trói cánh tay vị cố vấn tế tự ra sau lưng và cho đánh trống báo tin có hành quyết. Bồ-tát suy nghĩ: “Như vậy nhà vua đã bị hoàng hậu độc ác đầu độc trước rồi. Hôm nay, ta phải cứu ta khỏi tai ương này với sức của mình”. Vì thế, Bồ-tát nói với những người lính:

– Trước khi các người giết ta, hãy đưa ta yết kiến vua.

– Ðể làm gì?

– Vì ta là người phục vụ vua, đã làm được nhiều công việc. Ta biết tài sản chôn dấu rất nhiều. Chính ta quản lý đất ruộng nhà vua. Nếu ta không gặp vua, thì nhiều tải sản sẽ bị tiêu diệt. Sau khi ta nói cho vua biết gia sản của vua, các ngươi hãy làm bổn phận của mình.

Họ đưa vị cố vấn tế tự đến gặp vua. Vua thấy vị ấy liền nói:

– Này Bà-la-môn, ngươi không xấu hổ đối với ta sao? Sao ngươi lại làm ác hạnh như vậy?

– Thưa đại vương, tôi sinh ra trong gia đình Bà-la-môn thượng lưu. Từ trước đến nay, tôi không sát sanh ngay cả một con kiến. Từ trước đến nay, tôi không lấy của không cho, ngay cả một cọng cỏ. Từ trước đến nay, tôi không nhìn đến một nữ nhân của người khác với con mắt luyến ái, dù chỉ một cái liếc mắt đưa tình. Từ trước đến nay, tôi không nói một lời nói dối, dầu chỉ để đùa vui. Tôi không có uống rượu, dù chỉ một giọt bằng ngọn cỏ Kusa. Tôi hoàn toàn vô tội đối với đại vương. Nhưng hoàng hậu độc ác kia đã cầm tay tôi với tâm tư đầy dục vọng, nói toạc cho tôi biết ác hạnh bí mật của mình trước khi đi vào cung phòng. Trước tôi đã có sáu mươi bốn người sứ giả đến đây, đem theo thông điệp của đại vương gửi hoàng hậu, những người ấy đều có tội. Hãy gọi họ đến đây và hỏi từng người trong bọn họ có làm như hoàng hậu đã bảo hay không.

Vua cho gọi sáu mươi bốn người kia và hoàng hậu đến và hỏi họ có làm như hoàng hậu đã bảo hay không. Họ thú nhận có làm. Nhà vua sai trói họ lại và ra lệnh chặt đầu cả sáu mươi bốn người ấy. Ðến đây, Bồ-tát thưa:

– Thưa đại vương, những người này không có tội! Chúng chỉ làm theo sở thích của hoàng hậu. Chúng vô tội, vậy hãy tha cho chúng! Còn hoàng hậu cũng không có tội. Tánh dâm dục của hoàng hậu không bao giờ thoả mãn, sanh ra đã như vậy rồi! Hoàng hậu chỉ làm thuận theo bản tánh của mình thôi! Do vậy, hãy tha thứ cho hoàng hậu.

Như vậy, bằng nhiều cách, Bồ-tát làm cho vua hiểu rõ sự việc, cứu mạng sống sáu mươi bốn người ấy và bà hoàng hậu ngu si, và xin vua ban cho họ những trú xứ để ở. Sau khi tất cả mọi người được giải thoát và được cho chỗ ở, Bồ-tát đến vua và thưa:

– Thưa Ðại vương, lời nói buộc tội không căn cứ của kẻ ngu si và đui mù làm cho các bậc hiền trí bị trói vào chỗ không xứng đáng, bị trói quặp cánh tay sau lưng; còn lời nói của bậc hiền trí là nguyên nhân khiến kẻ ngu si thoát khỏi bị trói tay sau lưng. Như vậy, lời kẻ ngu trói buộc một cách không thích đáng, còn lời nói bậc hiền trí thời giải thoát các trói buộc.

Nói vậy xong, Bồ-tát đọc bài kệ này:

Chỗ nào kẻ ngu nói,
Chúng trói kẻ vô tội,
Chỗ nào bậc trí nói,
Cứu thoát kẻ bị trói.

Như vậy, bậc Ðại Sĩ với bài kệ này, thuyết pháp cho vua và nói:

– Tôi gặp sự đau khổ này là vì còn sống đời gia đình. Nay tôi không có công việc gì trong gia đình nữa. Hãy cho phép tôi được xuất gia.

Sau khi được phép xuất gia, từ bỏ bà con thân thuộc, từ bỏ tài sản lớn, Bồ-tát làm bậc tiên nhân du sĩ, sống ở Tuyết Sơn, đạt được các thắng trí và Thiền chứng và tái sanh lên cõi Phạm Thiên.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy bà hoàng hậu độc ác là thiếu nữ Bà-la-môn Cinca, vua là Ànanda, còn vị cố vấn tế tự là Ta vậy.

PHẨM KUSANÀLI

  1. CHUYỆN THẦN CÂY CỎ KUSA (Tiền thân Kusanàli)

Hãy để cho mọi người …,

Câu chuyện này khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một người bạn chân thật của ông Cấp Cô Ðộc. Các thân hữu, bạn bè quen biết, các thân tộc của ông Cấp Cô Ðộc ngăn chận ông:

– Thưa Ðại trưởng giả, người này không ngang bằng, không hơn Trưởng giả về thọ sanh, dòng họ, tài sản, ngũ cốc. Trưởng giả chớ chơi thân với người ấy.

Cấp Cô Ðộc trả lời:

– Tình bạn thân chớ nên dựa vào sự so sánh thấp hơn, bằng nhau hay cao hơn.

Trưởng giả không nghe lời can ngăn, và đi về làng mà Trưởng giả làm thôn trưởng, mời người ấy làm quản lý gia sản của mình. Mọi việc xảy ra như trong chuyện Tiền thân Kàlakanni (số 83). Nhưng trong trường hợp này, khi Trưởng giả tường thuật sự việc xảy đến cho nhà mình lên bậc Ðạo Sư, Ngài nói:

– Này gia chủ, một người bạn chân thật không bao giờ nhỏ hơn. Ở đây, sự đo lường tình bạn nằm ở khả năng bảo vệ tình bạn. Một người bạn chân thật bằng mình hay kém hơn mình phải được xem là cao hơn. Tất cả người bạn ấy sẽ giải quyết gánh nặng, sự khó khăn đã dành cho mình. Nay chính nhờ người bạn chân thật của mình mà gia chủ đã cứu được tài sản của mình. Thuở trước, bạn bè chân thật đã cứu được cung điện của một thần cây.

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của vị ấy, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm vị thần một khóm cỏ lau Kusa trong công viên của vua. Trong công viên ấy gần nơi tấm đá vua thường ngồi, có một cây mơ ước, thân cây cao thẳng, cành lá sum suê, rất được vua ưa thích. Tại đấy sanh ra một thần cây, trước kia là một ông vua có uy quyền lớn. Bồ-tát là bạn thân với thần cây ấy.

Lúc bấy giờ, vua sống trong lâu đài được một cột trụ chống đỡ, nhưng cây cột ấy bị lung lay. Tình trạng ấy được báo lên vua. Vua cho gọi thợ mộc và bảo:

– Cột trụ độc nhất chống đỡ lâu đài của trẫm bị lún, hãy lấy một cây cột khác, có lõi cứng rắn thay vào.

Tốp thợ mộc vâng theo lời vua, đi tìm một cây thích hợp, nhưng chưa tìm được. Họ đi vào công viên, thấy cây ước mơ liền đến yết kiến vua. Khi vua hỏi có tìm được cây nào thích hợp không, họ thưa:

– Tâu Ðại vương, chúng tôi đã thấy, nhưng không dám đốn cây ấy.

Ðược vua hỏi vì sao, họ thưa:

– Chúng tôi không tìm thấy một cây nào khác nên đã đi vào công viên. Tại đấy trừ cây điềm lành của vua, chúng tôi không tìm thấy cây nào khác. Nhưng chúng tôi không dám đốn cây điềm lành ấy.

– Hãy đốn cây ấy và làm trụ cột cho lâu đài của trẫm. Trẫm sẽ trồng một cây điềm lành khác.

Các người ấy vâng lời, đem theo đồ cúng thần, đi đến công viên, dâng lễ vật cúng cho cây, trình thần cây biết ngày mai sẽ đốn cây, rồi đi về. Nữ thần cây biết được sự việc này suy nghĩ: “Ngày mai, nhà ở của ta bị hủy hoại, rồi ôm các con, ta sẽ đi đâu bây giờ?

Nữ thần cây không tìm thấy chỗ cần đi, phải cõng con trên lưng rồi khóc. Các thần rừng, bạn bè thân thích của nữ thần cây ấy, tới hỏi nguyên do. Sau khi nghe sự việc, thấy mình không có phương tiện gì để chận tay các người thợ mộc lại, liền ôm nữ thần cây ấy và bắt đầu khóc. Lúc bấy giờ Bồ-tát đi đến thăm nữ thần cây, biết được sự việc liền nói:

– Chớ lo nghĩ, ta sẽ không để cho chặt cây. Ngày mai, khi thợ mộc đến, ta sẽ có cách đối phó.

Ngày hôm sau khi tốp thợ mộc đến, Bồ-tát hóa làm con cắc kè đến trước thợ mộc, chui vào giữa rễ của cây điềm lành, làm cho cây ấy như trống rỗng, cắc kè leo lên chính giữa cây, chui ra khỏi đầu thân cây rồi nằm xuống, lắc đầu qua lại. Người tổ trưởng thợ mộc thấy vậy, lấy tay đập vào thân cây và nói:

– Cây này trống rỗng, không có lõi. Bữa qua, không nhìn kỹ, chúng ta đã làm lễ cúng dâng.

Rồi anh ta bỏ đi, đầy khinh bỉ đối với cây to lớn mà không chắc ấy. Như vậy, nữ thần cây nhờ Bồ-tát, vẫn làm chủ chỗ ở của mình. Và nhiều thần cây thân hữu quen biết tụ họp để chúc mừng nàng. Nữ thần cây hài lòng với vị thần đã cho nàng trú xứ, giữa các vị thần ấy, nàng tán thán công đức của Bồ-tát:

– Thưa chư thần, chúng ta có phước đức, có quyền lực lớn, nhưng với trí tuệ chậm chạp, không biết phương tiện này. Còn vị thần khiêm tốn của cây cỏ lau, với trí thông minh của mình, đã cho chúng ta làm chủ ngôi nhà của chúng ta. Thật vậy, chúng ta cần phải làm bạn với các vị bằng ta, hơn ta, và thua ta. Tất cả các vị, tùy theo sức mạnh của mình, có thể các bạn thoát khỏi đau khổ, và an trú trong hạnh phúc.

Sau khi tán thán tình bạn, nữ thần cây nói bài kệ này:

Hãy để cho tất cả
Bằng, hơn hay thua ta,
Làm hết sức của mình,
Trong thời hoạn nạn đến
Như ta được giúp đỡ
Nhờ thần cây cỏ lau!

Do vậy, những ai muốn giải thoát khỏi đau khổ, chớ phân biệt bạn bằng ta hay hơn ta, hãy làm bạn với những bậc có trí dù địa vị ra sao.

Như vậy, nữ thần cây thuyết pháp cho chư thần với bài kệ này. Nàng sống cho đến trọn đời, và sau cùng với vị thần của cây cỏ lau, mạng chung rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi nói lên pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, nữ thần cây là Ànanda, còn thần cây cỏ lau là Ta vậy.

  1. CHUYỆN KẺ NGU (Tiền thân Dummedha)

Kẻ ngu được danh xưng …,

Câu chuyện này, khi ở Trúc lâm, bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa. Trong Chánh pháp đường, các Tỷ-kheo nói về ác đức của Ðề-bà-đạt-đa:

– Này các Hiền giả, khi Ðề-bà-đạt-đa nhìn lên tự thân chói sáng tối thượng của Như Lai với gương mặt sáng như trăng rằm, thân vẹn toàn ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của bậc Ðại nhân sáng tỏa rộng một tầm, với hào quang chói sáng của đức Phật, phóng ra chiếu từng đôi vòng, từng cặp một. Ðề-bà-đạt-đa không hoan hỷ và khởi lòng ganh ghét. Ðề-bà-đạt-đa không chịu nổi những lời tán thán đức Phật đầy đủ Giới, Ðịnh, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến và càng ganh ghét hơn.

Bậc Ðại Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, nay các ông ngồi họp ở đây và nói lên vấn đề gì?

Khi được biết vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay khi nghe lời tán thán về ta, Ðề-bà-đạt-đa mới sanh lòng ganh ghét. Lúc trước, Ðề-bà-đạt-đa cũng đã như vậy rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Ma-kiệt-đà trị vì ở thành Vương Xá, Bồ-tát sanh ra làm con voi trắng, đầy đủ dung sắc tuyệt hảo. Vì đầy đủ các tướng như vậy, nhà vua phong nó lên địa vị vương tượng. Trong một ngày lễ, thành phố được trang hoàng toàn bộ như thành phố chư Thiên, vua ngự lên vương tượng được trang điểm đẹp đẽ, đi diễn hành khắp thành phố với uy lực của bậc Ðại vương. Quần chúng, đứng chỗ này chỗ kia, thấy thân hình dung sắc tuyệt đẹp của vương tượng, liền tán thán:

– Ôi dung sắc! Ôi cử chỉ! Ôi dáng đi uyển chuyển làm sao! Ôi các tướng được thành tựu, một con voi toàn trắng như vậy xứng đáng thuộc về vua Chuyển luân.

Nhà vua nghe lời tán thán vương tượng, không thể chịu đựng nổi, khởi tâm ganh ghét và suy nghĩ: “Hôm nay ta sẽ quăng nó xuống vực thẳm của núi và chấm dứt mạng sống của nó”. Nghĩ vậy, vua cho gọi người nài đến và hỏi:

– Con voi này được người huấn luyện như thế nào?

– Thưa Ðại vương, nó được khéo huấn luyện!

– Nó không được khéo huấn luyện, nó được huấn luyện dở.

– Thưa Ðại vương, nó được khéo huấn luyện!

– Nếu nó được khéo huấn luyện, ngươi có thể cho nó leo lên đỉnh núi Vepulle không?

– Thưa được, tâu Ðại vương.

– Vậy hãy đi lên.

Sau khi tự mình xuống voi, vua bảo người nài ngồi trên lưng voi leo lên đỉnh núi Vepulla. Rồi vua được các đại thần vây quanh cùng trèo lên đỉnh núi, bảo con voi đứng bên bờ vực thẳm và nói:

– Ngươi nói con voi này được ngươi khéo huấn luyện, vậy hãy bảo nó đứng ba chân. Người nài ngồi trên lưng voi và nói:

– Này bạn, hãy đứng lên ba chân.

Và với cái gậy thúc, người ấy làm dấu cho con voi. Rồi vua nói:

– Hãy làm cho nó đứng với hai chân trước.

Bậc Ðại Sĩ giơ hai chân sau lên, và đứng hai chân trước. Vua truyền:

– Hãy đứng với bàn chân sau.

Con voi giơ hai chân trước lên và đứng với hai chân sau. Vua truyền:

– Hãy đứng với một chân.

Con voi giơ cả ba chân lên và đứng một chân!

Biết rằng con voi không thể ngã xuống, vua nói:

– Nếu được, hãy bảo nó đứng giữa hư không.

Người nài voi suy nghĩ: “Khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) không có con voi nào được huấn luyện khéo như con voi này, không nghi ngờ gì nữa, ông vua muốn làm con voi rơi xuống vực thẳm và giết nó”.

Vì vậy người nài nói thầm vào tai con voi:

– Này bạn thân, vua muốn bạn rơi xuống vực thẳm và giết bạn. Nó không xứng đáng với bạn. Nếu bạn có sức mạnh bay lên hư không và cho tôi ngồi trên lưng, hãy bay trên hư không về Ba-la-nại.

Bậc Ðại sĩ đầy đủ thần lực vô úy, ngay lúc ấy, đứng trên hư không. Người nài thưa:

– Thưa Ðại vương, con voi này đầy đủ thần lực vô úy, không tương xứng với một người ngu si yếu kém như Ðại vương. Con voi chỉ xứng đáng với một vị vua đầy đủ công đức và hiền trí. Nếu những người có công đức yếu kém như Ðại vương làm chủ con voi như thế này, họ sẽ không biết được đức tánh của nó. Vì vậy họ sẽ mất con voi ấy và hủy diệt mọi danh vọng còn lại.

Nói như vậy xong, ngồi trên lưng voi, người nài đọc bài kệ:

Kẻ ngu được danh xưng,
Tự mình gây nguy hiểm,
Ðem hại đến cho mình,
Ðem hại cho người khác.

Sau khi thuyết pháp khiển trách vua, người nài nói:

– Nay Ðại vương hãy đứng ở đây, xin từ biệt.

Người nài và voi cùng bay lên hư không về Ba-la-nại, và đứng trên hư không giữa sân chầu của cung vua. Toàn thành náo động cả lên, mọi người đều la to:

– Con voi quý đã đến với vua chúng ta ngang qua hư không và đang đứng trên sân chầu vua.

Họ mau chóng trình lên vua hay. Vua liền đi khỏi cung điện và nói:

– Nếu các quý vị đến vì lợi ích cho chúng tôi, thì hãy hạ xuống đất.

Con voi liền đứng xuống đất. Người nài leo xuống, đảnh lễ vua và khi được hỏi từ đâu đến, ông ta trả lời:

– Từ Vương Xá đến.

Và ông ta tường thuật tất cả sự việc. Vua nói:

– Các bạn thân, các bạn đến đây thật là một việc đẹp ý vừa lòng.

Nhà vua hân hoan, truyền lệnh trang hoàng thành phố, đặt con voi vào địa vị vương tượng, chia toàn quốc thành ba phần. Một phần cho con voi, một phần cho người nài, và một phần vua giữ lại cho mình. Từ đó, toàn cõi Diêm-phù-đề đều nằm vào trong tay vua. Vua trở thành đại đế nước Diêm-phù-đề, chuyên tâm làm các công đức như bố thí v.v… rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Thuyết pháp thoại này xong, bậc Ðại Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy vua nước Ma-kiệt-đà là Ðề-bà-đạt-đa, vua Ba-la-nại là Xá-lợi-phất, người nài voi là Ànanda, và con voi là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CÁI CÁN CÀY (Tiền thân Nangalisa)

Kẻ ngu nói hạn chế …,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Trưởng lão Làludàyi (Udàyi khờ khạo). Theo truyền thuyết, khi nói, Trưởng lão ấy không biết cái gì thích ứng, cái gì không thích ứng: Trong trường hợp này, nên nói cái này, trong trường hợp này, không nên nói cái này. Nếu chúc lễ hội điềm lành, Trưởng lão nói lên điềm gở. Ngang qua các đường đi, tại các ngã đường dân chúng đứng, nếu là lễ tang, Trưởng lão nói lời tùy hỷ điềm vui. Một hôm, tại Chánh pháp đường, các Tỷ-kheo khởi lên câu chuyện:

– Này các Hiền giả, Làludàyi không biết cái gì thích ứng, cái gì không thích ứng.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, nay các ông ngồi tụ họp đang bàn luận vấn đề gì?

Khi biết đề tài câu chuyện, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Làludàyi nói lời đần độn, không biết cái gì nên nói, cái gì không nên nói. Thuở trước, vị ấy cũng như vậy rồi. Vị ấy luôn luôn ngu đần.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở trước, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn giàu có. Ðến tuổi trưởng thành Bồ-tát đi học ở Takkasilà, trở thành một vị Sư trưởng có danh tiếng nhiều phương ở Ba-la-nại và Bồ-tát dạy nghề cho năm trăm thanh niên Bà-la-môn.

Lúc bấy giờ, trong các thanh niên Bà-la-môn ấy, có một thanh niên đần độn hay nói lời ngớ ngẩn, vì bản tánh đần độn nên không học nghề được. Thanh niên ấy hầu hạ Bồ-tát, làm mọi công việc như người nô lệ. Một hôm, vào buổi chiều, sau khi ăn xong, Bồ-tát đang nằm nghỉ trên giường, thanh niên ấy đến xoa bóp tay chân và lưng ngài. Khi anh ta làm xong định đi, thì Bồ-tát nói:

– Này con thân, chêm cao chân cái giường lên.

Thanh niên ấy chêm được một chân giường lên cao, còn chân kia không tìm được đồ chêm giường, anh ta dùng bắp vế của mình làm đồ chêm giường và trải qua một đêm như vậy. Vào buổi sáng thức dậy, Bồ-tát thấy vậy liền hỏi:

– Này con thân, con ngồi làm gì đây?

– Thưa Sư trưởng, con không tìm thấy đồ chêm giường nên dùng bắp vế thay vào và ngồi ở đây.

Bồ-tát cảm thấy xúc động, suy nghĩ: “Nó là người thị giả rất chí thành của ta, nhưng so với các thanh niên Bà-la-môn, nó là đứa đần độn, không thể học được nghề, vậy ta hãy giúp cho nó trở thành người có trí”. Rồi Bồ-tát suy nghĩ: “Nay có phương tiện này, ta sẽ đưa thanh niên Bà-la-môn này đi nhặt củi và lá. Khi nó về, ta sẽ hỏi: Hôm nay con đã thấy gì làm gì? Chắc nó sẽ trả lời: Hôm nay con thấy cái này, làm cái này; rồi ta sẽ hỏi: Ðiều con thấy, con làm, giống cái gì? Nó sẽ dùng ví dụ, tìm lý do để nói: Con thấy như thế này … Ðiều ấy khiến nó nói ví dụ và lý do mới hoài. Với phương tiện này ta có thể làm cho nó trở thành người có trí”. Nghĩ vậy, Bồ-tát kêu anh ta lại và nói:

– Này con thân, bắt đầu từ hôm nay, con hãy đi lượm củi và lá, và tại chỗ con đi, con thấy cái gì, ăn cái gì, uống cái gì, nhai cái gì, lúc về con hãy báo cáo cho ta biết.

Anh ta vâng theo lời dạy. Một hôm anh ta đi vào rừng để lượm củi và lá cùng với các thanh niên Bà-la-môn khác, anh ta thấy một con rắn. Khi về anh ta báo cáo lại:

– Thưa Sư trưởng, con có thấy con rắn.

– Này con thân, con rắn giống cái gì?

– Nó giống cán cày.

Bồ-tát nói:

– Tốt lắm, này con thân, các ví dụ con trình bày rất hợp lý, con rắn thật giống như cái cán cày.

Rồi Bồ-tát suy nghĩ: “Các ví dụ do thanh niên này trình bày rất hợp lý. Ta có thể làm cho người này thành người có trí”.

Lại một ngày khác, thanh niên Bà-la-môn này thấy con voi trong rừng, và đi về thưa:

– Thưa Sư trưởng, con có thấy con voi.

– Này con thân, con voi giống cái gì?

– Nó giống như cái cán cày.

Bồ-tát suy nghĩ: “Cái vòi voi giống như cán cày. Cái ngà voi cũng vậy. Người này phân tích một cách ngu si, không thể nói như vậy”. Nghĩ vậy Bồ-tát giữ im lặng.

Rồi một hôm được mời đi ăn mía, anh ta về thưa:

– Thưa Sư trưởng, hôm nay con được ăn mía.

– Cây mía giống cái gì?

– Thưa, giống cái cán cày. Anh ta nói.

Vị Sư trưởng suy nghĩ “Nó nói cũng có một phần đúng”, nên giữ im lặng. Lại nữa, một hôm được mời cùng một số thanh niên ăn đường cục với sữa đông và uống sữa, khi về anh ta thưa:

– Thưa Sư trưởng, hôm nay chúng con được ăn sữa đông và uống sữa.

Khi được hỏi về sữa đông và sữa giống cái gì, anh ta trả lời:

– Thưa, giống cái cán cày.

Vị Sư trưởng suy nghĩ: “Thanh niên Bà-la-môn này khi nói: con rắn giống cái cán cày, vậy là khéo. Khi nó nói: con voi giống như cái cán cày, vì liên hệ đến cái vòi, là nói một cách gượng ép. Khi nó nói cây mía giống như cái cán cày, vậy cũng là nói hơi gượng ép. Còn sữa đông và sữa luôn luôn màu trắng, lấy theo hình dáng đồ vật chúng được đặt vào, vậy cái ví dụ nó nói hoàn toàn không thể chấp nhận. Ta không thể dạy cho kẻ ngớ ngẩn này học được.

Nghĩ xong, Bồ-tát nói lên bài kệ:

Kẻ ngu nói hạn chế,
Tại chỗ không hạn chế,
Nó không biết sữa đông,
Cũng không biết cán cày,
Nó nghĩ là sữa đông,
Giống như cái cán cày.

*

Sau khi nghe pháp thoại này, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, thanh niên ngớ ngẩn là Làludàyi, và Sư trưởng có danh nhiều phương là Ta vậy.

  1. CHUYỆN TRÁI XOÀI (Tiền thân Amba)

Này người hãy tinh tấn …

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Bà-la-môn làm đầy đủ các nhiệm vụ. Theo truyền thuyết, con trai một thương gia ở Xá Vệ hiến dâng tâm trí cho Chánh pháp và xuất gia làm đầy đủ các nhiệm vụ. Vị ấy làm tốt các bổn phận đối với Sư trưởng, đối vối Giáo thọ, các nhiệm vụ về đồ ăn uống, nhà họp Bố-tát, nhà tắm v.v… hoàn toàn đầy đủ trong mười bốn nhiệm vụ quan trọng và tám mươi nhiệm vụ nhỏ. Vị ấy thường hay quét tinh xá, quét phòng riêng, hành lang, con đường đưa đến tinh xá, đem nước cho những người khát. Dân chúng hoan hỷ vì sự vẹn toàn nhiệm vụ của vị này nên đã cúng dường năm trăm phần ăn hàng ngày cho chúng Tăng và đem lại lợi dưỡng danh vọng lớn cho tinh xá. Nhờ vị này, nhiều người được thoải mái lạc trú trong tinh xá.

Rồi một hôm, các Tỷ-kheo họp ở Chánh pháp đường, bắt đầu câu chuyện:

– Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo tên ấy, thành tựu các nhiệm vụ của mình, đã tạo nên lợi dưỡng danh vọng lớn. Chỉ nhờ một mình người ấy, nhiều người đã đạt được lạc trú.

Thế Tôn đến và hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi nói vấn đề gì, và khi được biết vấn đề ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Tỷ-kheo này làm đầy đủ nhiệm vụ. Thuở xưa, chỉ nhờ một mình người ấy, năm trăm ẩn sĩ đi hái trái cây đã được cung cấp các trái cây do người ấy đem lại.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở phương bắc, và khi đến tuổi trưởng thành, ngài xuất gia làm vị ẩn sĩ được vây quanh với năm trăm ẩn sĩ sống dưới chân núi.

Thời ấy, ở núi Hy-mã (Tuyết Sơn), một nạn hạn hán khắc nghiệt đã xảy ra, chỗ này chỗ kia nước uống bị thiếu hụt, các loài thú không có nước uống cảm thấy khổ cực. Một vị trong số những người tu khổ hạnh ấy, thấy các loài thú đau khổ vì khát nước, đã đốn một cây làm thành cái máng, chắt chiu tất cả nước uống đựng đầy cái máng và cho chúng uống nước.

Các loài thú tập hợp rất nhiều, và trong khi cho chúng uống nước, người tu khổ hạnh không có thì giờ để đi hái trái. Dầu không có thức ăn, vị ấy vẫn cho chúng uống nước. Ðàn thú suy nghĩ: “Vị này vì cho chúng ta uống nước, không có thì giờ để hái quả. Vì không có thức ăn, vị ấy trở thành mỏi mệt. Vậy chúng ta hãy giao ước với nhau như sau: Bắt đầu từ hôm nay, những ai đến uống nước, hãy tùy theo sức mình, hái các loại trái cây và đem lại cúng dường vị tu khổ hạnh”.

Từ đó về sau, mỗi con mỗi thứ, hái các loại trái ngọt như xoài, đào, mít v.v… đem đến cho vị tu khổ hạnh đựng đầy hai trăm năm mươi cỗ xe. Như vậy, năm trăm vị khổ hạnh ăn uống đầy đủ, và có đồ dư để dành nữa. Thấy vậy, Bồ-tát nói:

– Như vậy chỉ nhờ một người làm đầy đủ nhiệm vụ nên được cung cấp trái cây v.v… đủ số lượng cho các vị tu khổ hạnh khác. Thật vậy, chúng ta cần phải luôn tinh tấn làm thiện sự.

Nói vậy xong, Bồ-tát đọc bài kệ:

Này, người hãy tinh tấn,
Bậc hiền trí không nản,
Xem quả của tinh tấn,
Xoài được ăn thỏa thích.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vị tu khổ hạnh làm đầy đủ nhiệm vụ là Tỷ-kheo, và bậc Ðạo Sư hội chúng là Ta vậy.

  1. CHUYỆN NGƯỜI NÔ LỆ KATÀHAKA (Tiền thân Katàhaka)

Nó nói nhiều, đại ngôn …,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo nói khoác lác. (Chuyện này giống như chuyện đã kể trước).

*

Thuở xưa, khi vua Barhmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một nhà triệu phú giàu có và bà vợ triệu phú sanh một con trai. Cũng trong ngày ấy, một người nữ tỳ sanh một con trai. Hai trẻ ấy lớn lên cùng tuổi với nhau. Khi con trai vị triệu phú học viết, con trai người nô tỳ mang tấm gỗ cũng xin học viết luôn với cậu chủ. Rồi nó học hai hay ba công nghệ, lớn lên nó trở thành một thanh niên ăn nói giỏi, đẹp trai và được đặt tên là Katàhaka.

Khi làm quản lý cho các kho trong nhà triệu phú, anh ta suy nghĩ: “Những người này sẽ không bắt ta làm quản lý các kho suốt đời được. Nếu thấy ta có lỗi gì, họ sẽ đánh ta, trói ta, đóng dấu vào ta, cho ta đồ ăn của bọn nô lệ. Tại biên địa, có người triệu phú là bạn của triệu phú này, ta sẽ viết thư, nhân danh người triệu phú cầm đi đến đấy, và nói: Ta là con của triệu phú, lừa dối vị triệu phú biên địa để lấy con gái của ông ta, hưởng hạnh phúc và sống an lạc suốt đời”.

Nghĩ vậy, anh ta lấy giấy và viết thư như sau: “Tôi gửi người con trai của tôi tên là Katàhaka đến với bạn. Thật là xứng đáng nếu hai gia đình chúng ta kết làm sui gia với nhau: Con của tôi lấy con của bạn. Do vậy, hãy gả con gái của bạn cho con trai của chúng tôi, cho nó sống tại đấy, và khi nào có cơ hội tôi sẽ đến”. Viết xong, anh ta đóng triện của người triệu phú, đem theo nhiều tiền bạc, áo quần, hương thơm v.v…. đưa đến biên địa, đảnh lễ vị triệu phú và đứng chờ. Người triệu phú hỏi:

– Này con thân, con từ đâu lại?

Anh ta đáp:

– Từ Ba-la-nại.

– Con là ai?

– Là con vị triệu phú Ba-la-nại.

– Vì mục đích gì, con đến đây?

Lúc bấy giờ Katàhaka đưa bức thư và nói:

– Ông xem bức thư này rồi sẽ rõ.

Người triệu phú đọc thư xong rồi nói:

– Nay mới thật là ta sống cuộc đời mới.

Ông hoan hỷ gả con gái và xây dựng cho anh ta. Ðược tôn quí như vậy, Katàhaka trở thành kiêu ngạo. Ðối với các món ăn như cháo, đồ ăn cứng … và các loại vải hương được đem lại, anh ta chỉ trích như sau:

– Chúng nấu cháo như thế này, nấu đồ ăn cứng như thế này. Ôi! Thật là những người ở biên địa.

Anh ta chỉ trích những người thợ dệt vải, và những người thợ khác:

– Với bản chất của người sống ở biên địa, những người này không biết dệt y. Chúng không biết chọn hương, không biết bó hoa.

Khi thấy vắng người nô lệ, Bồ-tát hỏi:

– Ta không thấy mặt Katàhaka, nó đi đâu? Hãy cho đi tìm nó khắp nơi.

Một trong những người đi tìm kiếm đến tại chỗ ấy, thấy Katàhaka, nhận diện được anh ta, nhưng không để lộ tông tích của mình, và đi về trình với Bồ-tát. Bồ-tát nghe tin như vậy, liền nói:

– Nó làm một việc không phải, ta sẽ đi đem nó trở về.

Sau khi xin phép vua, ngài ra đi với một số tùy tùng lớn. Khắp nơi, mọi người đều biết vị triệu phú đi ra biên địa. Katàhaka nghe tin Bồ-tát đến liền suy nghĩ: “Không có lý do gì khác để vị triệu phú đến. Chính vì ta. Nếu ta chạy trốn, thì sau không thể trở về được”. Anh ta nghĩ ra phương kế. “Ta hãy đi đón ông chủ, làm bổn phận một người nô lệ, và làm vui lòng ông chủ của ta”. Bắt đầu từ đấy, giữa hội chúng, anh ta nói như sau:

– Những kẻ ngu khác, vì ngu si, không biết các công đức của cha mẹ, khi cha mẹ ăn, họ không hầu hạ, lại ngồi ăn với cha mẹ. Còn chúng tôi, khi cha mẹ ăn, chúng tôi đem lại bát, ống nhổ, chén đĩa, quạt và nước uống. Như vậy, chúng tôi hết lòng hầu hạ cha mẹ. Cho đến khi cha mẹ đi đại tiểu tiện, chúng tôi cũng đem lại bình nước.

Tất cả mọi bổn phận phải làm của người nô lệ đối với chủ, Katàhaka đều trình bày rõ. Sau khi đã dạy cho đám tùy tùng như vậy, Katàhaka thưa với ông cha vợ:

– Thưa cha thân: con nghe tin cha của con sắp đến thăm cha. Cha hãy sửa soạn các món ăn loại cứng và loại mềm. Còn con đem theo quà tặng, con sẽ đi đón cha con.

Nhạc phụ chấp thuận:

– Tốt lắm, này con.

Katàhaka đem theo nhiều quà tặng đi với một số gia nhân, đảnh lễ Bồ-tát, và dâng quà tặng. Bồ-tát nhận quà tặng, đối xử với anh ta rất thân tình. Khi đến giờ ăn sáng, ngài cho dựng trại, đi vào chỗ kín để giải quyết mọi bức bách của thân. Katàhaka ngăn ngừa tùy tùng của mình, lại tự cầm bình nước, đi đến gần Bồ-tát, và sau khi lo hầu hạ xong, anh ta quỳ xuống chân Bồ-tát và thưa:

– Thưa ông chủ, ông chủ cần tài sản bao nhiêu con xin dâng đủ, xin chớ làm cho danh giá con mất đi.

Bồ-tát bằng lòng với bổn phận đầy đủ của nó và nói:

– Chớ sợ hãi, không có gì nguy hiểm đến với ngươi từ lời nói của ta cả.

Bồ-tát an ủi anh ta, rồi đi vào thành phố biên địa và được tiếp đón long trọng. Còn Katàhaka luôn luôn làm bổn phận của người nô lệ. Một thời, khi Bồ-tát ngồi thoải mái, người triệu phú biên địa thưa với ngài:

– Thưa đại triệu phú, khi nhận được thư của ngài, tôi đã gả con gái của tôi cho con trai ngài.

Bồ-tát dùng lời thân ái thích hợp nói về Katàhaka, khiến cho người triệu phú hết sức hân hoan. Nhưng từ đấy trở đi, Bồ-tát không thể ngó vào mặt của Katàhaka!

Một hôm, Bồ-tát cho gọi cô con gái của vị triệu phú và nói:

– Này con thân, hãy tìm và bắt giúp chấy trên đầu ta.

Cô con gái đến bắt giúp. Bồ-tát nói lời thân ái với người con gái đang đứng và hỏi:

– Con ta đối với con, khi vui khi buồn, xử sự có tốt đẹp chăng? Hai con sống có hoan hỷ, hòa hợp với nhau không?

– Thưa cha thân, anh con không có lỗi gì khác. Chỉ có tật hay chê bai đồ ăn thôi.

– Này con thân, nó luôn luôn có tánh xấu ấy. Nhưng cha sẽ chỉ cho con một cách để làm cho chồng con câm miệng. Con hãy học thuộc cách ta chỉ để trong giờ ăn, khi nào con ta mở miệng chê bai, con hãy đứng trước mặt chồng con và nói lên cách ta đã chỉ.

Nói vậy xong, Bồ-tát dạy cho cô học thuộc lòng bài kệ và ở lại đó vài ngày, rồi đi trở về Ba-la-nại. Katàhaka mang theo nhiều đồ ăn loại cứng và mềm, đi tiễn đưa ông chủ một chặng đường, cúng dường nhiều tài sản, đảnh lễ rồi trở về.

Từ khi Bồ-tát đi về, Katàhaka lại càng sanh lòng kiêu mạn. Một hôm, khi con gái vị triệu phú đem lại một món ăn rất ngon, mang muỗng đến và mời chồng ăn, Katàhaka bắt đầu chỉ trích món ăn. Cô liền đọc lên bài kệ mà Bồ-tát đã dạy:

Nó nói nhiều, đại ngôn,
Khi đến xứ sở lạ,
Vị ấy sẽ trở lui,
Và phá hoại tất cả,
Vậy Ka-tà-ha-ka,
Hãy ăn món này gấp!

Katàhaka suy nghĩ: “Ôi thôi! Chắc vị triệu phú đã nói cho nàng biết tên ta và kể lại toàn bộ câu chuyện rồi!”

Từ đó trở đi, anh ta không dám chê bai món ăn, cũng không dám kiêu mạn và với ý hạ mình, anh ta ăn các món được đem đến. Rồi về sau, khi từ trần, anh ta đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Katàhaka là Tỷ-kheo nói đại ngôn, còn vị triệu phú Ba-la-nại là Ta vậy.

  1. CHUYỆN TƯỚNG CỦA KIẾM (Tiền thân Asilakkhana)

Cùng đồng một sự việc …,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Bà-la-môn giỏi đoán tướng của kiếm tại cung vua Kosala. Nghe nói vị này khi được người thợ của vua đem kiếm lại, chỉ ngửi cây kiếm cũng có thể nói lên tướng của cây kiếm. Khi được lợi dưỡng từ tay của người nào, vị này nói cây kiếm của họ có tướng tốt, điềm lành. Khi không được lợi dưỡng từ tay của người khác, vị này chê trách cây kiếm của họ có tướng xấu.

Thế rồi có một người thợ làm cây kiếm xong, bỏ nó vào trong bao với bột tiêu mịn rồi đem cây kiếm dâng vua. Vua cho gọi người Bà-la-môn và bảo thử cây kiếm. Khi vị Bà-la-môn rút cây kiếm ra và ngửi, bột tiêu vào lỗ mũi khiến vị này muốn hắt hơi. Khi vị ấy hắt hơi, lỗ mũi va chạm vào lưỡi kiếm và bị cắt đứt làm hai. Câu chuyện lỗ mũi của vị ấy bị đứt được chúng Tỷ-kheo biết đến. Một hôm, các Tỷ-kheo tại Chánh pháp đường bắt đầu câu chuyện:

– Này các Hiền giả, người giỏi đoán tướng kiếm của vua, trong khi đoán tướng cây kiếm, đã bị chặt đứt lỗ mũi.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang ngồi họp và bàn vấn đề gì?

Khi được nghe vấn đề ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Bà-la-môn ấy ngửi cây kiếm và bị chặt đứt mũi. Thuở xưa, vị ấy cũng đã bị như vậy rồi.

Nói xong bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, có người Bà-la-môn giỏi đoán tướng của kiếm. (Tất cả giống như câu chuyện hiện tại). Vua truyền gọi những người giải phẫu, bảo họ gắn một cái mũi giả vào mũi vị ấy và cho vị ấy làm việc lại. Vua Ba-la-nại không có con trai, chỉ có con gái và một người cháu trai, vì thế vua nuôi dưỡng cả hai bên cạnh vua cho đến lớn. Vì họ lớn lên gần nhau, họ sanh tâm luyến ái nhau. Vua cho gọi các vị đại thần và nói:

– Cháu trai của ta sẽ làm vua đất nước này. Sau khi gả con gái, ta làm lễ quán đảnh cho nó.

Sau khi nói vậy, vua lại suy nghĩ: “Cháu ta là con cháu ta rồi. Hãy cưới cho nó một công chúa của vị vua khác, rồi làm lễ quán đảnh. Ta sẽ gả con gái ta cho một vị vua khác. Như vậy con cháu của ta sẽ đông hơn và chúng ta sẽ làm chủ cả hai vương quốc”. Sau khi bàn bạc với các vị đại thần, vua nghĩ cần phải phân ly hai người ấy, nên đã cho cháu trai sống một nơi, và cho con gái sống một chỗ khác. Bấy giờ cả hai được mười sáu tuổi, và hết sức luyến ái nhau. Hoàng tử suy nghĩ: “Dùng phương tiện gì ta có thể bắt cóc con gái của cậu ta khỏi cung vua?”. Rồi chàng nghĩ ra một phương kế, bảo mời một bà thầy bói, và cho bà một gói một ngàn đồng tiền vàng. Baø hỏi:

– Tôi phải làm gì?

– Bà làm cách nào cho tôi được nàng. Bà hãy bày cho một mưu kế, nhờ vậy tôi đem được công chúa ra khỏi nhà.

– Thưa, ngài được. Tôi sẽ đi đến hầu đức vua và nói như sau: – Thưa Ðại vương, công chúa bị ma quỷ ám ảnh, đợi khi nào ma quỷ bỏ đi không để ý, vào ngày ấy, tôi sẽ chở công chúa lên xe, đem theo nhiều người tay cầm vũ khí, với một số tùy tùng đông đúc đưa đến nghĩa địa, tại đây, trong một vòng tròn có bùa phép, sau khi đặt một người chết nằm trên giường phía dưới, tôi sẽ đặt công chúa nằm phía trên ấy, và với một trăm lẻ tám bình nước thơm, tôi sẽ làm cho ma quỷ rời công chúa”. Nói vậy xong, tôi sẽ đưa công chúa đến nghĩa địa. Trong ngày chúng tôi đi đến, xin ngài đi đến sớm một chút, cầm theo một ít bột tiêu với một số tùy tùng của ngài mang vũ khí cầm tay vây quanh leo lên xe. Khi đến nghĩa địa, ngài hãy cho đậu xe vào một phía cổng, rồi đưa những người có vũ khí vào trong rừng nghĩa địa. Còn ngài tự mình đi đến chỗ có vòng tròn bùa phép và nằm trên ấy, che phủ lại như người chết. Rồi tôi đến chỗ ấy, trải một chỗ nằm nhỏ trên ngài, và bảo công chúa nằm lên. Khi ấy, ngài sẽ bỏ hột tiêu vào lỗ mũi hắt hơi ba lần. Khi ngài hắt hơi, chúng tôi sẽ bỏ công chúa lại và chạy trốn. Khi ấy ngài đến, hãy an ủi công chúa rồi đem công chúa về nhà.

Hoàng tử chấp thuận, cho đó là một mưu chước tuyệt điệu.

Baø thầy bói đi đến trình vua vấn đề ấy và vua chấp thuận. Rồi bà nói chuyện riêng với công chúa và nàng cũng chấp nhận. Ngày ra đi, bà tin cho hoàng tử biết, và đi đến nghĩa địa cùng với một đoàn tùy tùng đông đúc. Với mục đích làm cho họ sợ hãi, bà bảo các người bảo vệ:

– Khi ta đặt công chúa lên giường, người chết ở giường dưới hắt hơi và từ chiếc giường dưới đi ra, nó thấy ai trước sẽ bắt người ấy. Hãy hết sức coi chừng.

Hoàng tử đã đến trước, và nằm trên chỗ đã dặn. Bà thầy bói đỡ công chúa đi đến chỗ vòng tròn có bùa phép, dặn công chúa chớ sợ hãi, và đặt nàng trên giường. Trong lúc ấy, hoàng tử bỏ bột tiêu vào lỗ mũi và hắt hơi. Khi hoàng tử vừa mới hắt hơi, bà thầy bói bỏ công chúa lại, hét một tiếng rất lớn rồi chạy trước hơn ai hết. Khi bà ta chạy, không một người nào dám đứng lại, tất cả đều quăng bỏ vũ khí mang theo và chạy thoát thân.

Hoàng tử làm tất cả mọi việc như đã bàn từ trước và đem công chúa đi về trú xứ của mình, còn bà già đi về trình vua mọi việc đã xảy ra. Nhà vua suy nghĩ: “Từ trước, ta đã có dụng ý dành công chúa cho nó rồi. Chúng như bơ chín bỏ trong cháo sữa”.

Sau một thời gian, vua cho cháu trai trị vì vương quốc và đặt công chúa lên làm hoàng hậu. Người cháu vua, sống hòa hợp với công chúa và trị nước đúng pháp. Người đại thần giỏi đoán tướng kiếm vẫn hầu cận vua mới. Một hôm, vị đại thần này hầu vua đứng giữa trời nắng, keo dán mũi giả của vị ấy chảy ra và cái mũi giả rơi xuống đất. Vị đại thần xấu hổ đứng dậy cúi mặt xuống. Vua cười và nói:

– Này Sư trưởng, chớ để ý. Nhảy mũi là tốt đối với người này, là xấu đối với người kia. Khanh vì nhảy mũi nên bị đứt mũi. Còn ta nhờ nhảy mũi đã được vợ và được cả vương quốc.

Nói xong vua đọc bài kệ này:

Cũng đồng một sự việc,
Với người này là tốt,
Với người kia là xấu,
Không tốt cho tất cả,
Cũng không xấu tất cả.

Như vậy với bài kệ này, vua kể sự việc cũ, và trọn đời làm công đức như bố thí v.v… rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Với bài thuyết pháp này, bậc Ðại Sư nêu rõ không có vấn đề hoàn toàn thiện hay hoàn toàn ác như thế gian nghĩ. Rồi bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vị đại thần giỏi đoán tướng kiếm là vị giỏi đoán tướng kiếm ngày nay, còn Ta là người cháu vua được vương vị.

  1. CHUYỆN NGƯỜI NÔ LỆ KALANDUKA (Tiền thân Kalanduka)

Dòng họ, trú xứ anh …,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo nói khoác. Ở đây, cả hai chuyện (hiện tại và quá khứ đều giống chuyện Tiền thân Katàhaka số 125).

*

Ở đây, người nô lệ của triệu phú Ba-la-nại tên là Kalanduka. Sau khi chạy trốn và lấy con gái người triệu phú biên địa, anh ta sống tại đấy với một đoàn tùy tùng đông đảo. Vị triệu phú Ba-la-nại thấy vắng anh ta không biết anh ta đi đâu, bèn sai con vẹt quí của mình đi tìm Kalanduka. Con vẹt bay chỗ này, chỗ kia và đến tận thị trấn ấy.

Lúc bấy giờ, Kalanduka muốn đi chơi dưới nước, đã đem theo nhiều vòng hoa, hương thơm, thuốc xoa, cùng nhiều đồ ăn loại cứng và loại mềm, đến con sông, leo lên thuyền với con gái người triệu phú và chơi giỡn trong nước. Tại địa phương ấy, khi đang chơi trên sông, các gia chủ thường uống sữa trộn với một loại thuốc cay, để khi ngâm mình trong một thời gian khỏi bị cảm lạnh. Nhưng khi Kalanduka này uống một ngụm sữa, lại súc miệng và nhổ sữa ra. Khi nhổ sữa ra anh ta không nhổ trong nước, lại nhổ trên đầu người con gái vị triệu phú. Con vẹt đi đến bờ sông, đậu trên cành cây sung, nhìn xuống và nhận diện được Kalanduka, thấy anh ta nhổ trên đầu con gái triệu phú liền nói:

– Này nô lệ Kalanduka, hãy nhớ thọ sanh và vị trí của anh. Chớ ngậm bụm sữa, súc miệng rồi nhổ trên đầu con gái nhà triệu phú có tín ngưỡng, có đức hạnh và đầy đủ thọ sanh. Hãy biết lượng khả năng của mình.

Nói xong con chim vẹt đọc bài kệ:

Dòng họ, trú xứ anh,
Tuy là chim ở rừng,
Ta hiểu được sự thật,
Sẽ khiến người bắt anh,
Hỡi Ka-lan-du-ka,
Hãy uống sữa đi thôi!

Kalanduka nhận ra con vẹt, sợ nó sẽ tố cáo mình liền nói:

– Này ông chủ, hãy đến đây, ông chủ đến hồi nào?

Con vẹt nghĩ: “Ðây không phải vì lợi ích cho ta. Nó nói vậy nhưng trong tâm nó chỉ muốn vặn cổ giết ta thôi”. Biết vậy, vẹt nói:

– Ta không cần gì anh.

Nó liền bay lên, đến Ba-la-nại, kể lại cho vị triệu phú sự việc như đã nhìn thấy. Vị triệu phú nói:

– Ðồ lừa đảo đã làm một việc không phải.

Và ông cho người đem anh ta về Ba-la-nại, bắt anh ta sống làm người nô lệ như cũ.

*

Sau khi nói lên pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Kalanduka là Tỷ-kheo này, còn vị triệu phú Ba-la-nại là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON MÈO (Tiền thân Bilàra)

Ai yêu cờ Chánh pháp …,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo lừa đảo. Khi tánh lừa đảo của Tỷ-kheo này được trình lên bậc Ðạo Sư, Ngài nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay nó là như vậy. Xưa kia nó cũng lừa đảo như vậy rồi.

Nói xong, bậc Ðạo Sư kể lại câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con chuột, thông minh sáng suốt, với thân hình to lớn, giống như heo con, được vây quanh với vài trăm con chuột, sống ở trong rừng. Có con chó rừng lang thang chỗ này chỗ kia, thấy đàn chuột liền suy nghĩ: “Ta hãy lừa dối đàn chuột này và ăn thịt chúng”. Nghĩ vậy, nó liền đến không xa hang các con chuột ấy, đứng lên một chân, mặt hướng về mặt trời và hứng gió, ngửi gió, hít gió vào.

Bồ-tát đi tìm đồ ăn thấy con chó rừng, suy nghĩ: “Ðây là một sinh vật có giới hạnh”, bèn đi đến gần nó và hỏi:

– Thưa Tôn giả, Tôn giả tên gì?

– Ta tên là Dhammika (Chánh pháp).

– Sao Tôn giả không đứng lên bốn chân, mà chỉ đứng một chân thôi?

– Nếu tôi đứng bốn chân, thì trái đất không thể chở nổi. Do vậy tôi chỉ đứng một chân.

– Vì sao Tôn giả đứng, lại há miệng?

– Tôi không ăn gì khác, tôi chỉ ăn gió mà thôi.

– Tại sao Tôn giả đứng và hướng mặt phía mặt trời?

– Tôi đảnh lễ mặt trời.

Bồ-tát nghe nó nói như vậy, suy nghĩ: “Ðây là một sinh vật có giới hạnh”. Từ đó về sau, buổi sáng và buổi chiều, Bồ-tát cùng với đàn chuột, đi tới hầu con chó rừng. Khi đàn chuột hầu xong, trên đường đi về, con chó rừng bắt con chuột sau cùng ăn thịt, nuốt nó xong, chùi miệng rồi đứng như cũ.

Dần dần, đàn chuột ít đi. Các con chuột khác suy nghĩ: “Lúc trước, cái hang này không thể chứa chúng ta. Chúng ta đứng không có kẽ hở, nay lỏng lẻo. Như vậy, cái hang chứa không đầy. Vì sao lại như thế này?” Chúng trình sự việc lên Bồ-tát biết. Bồ-tát suy nghĩ: “Do lý do gì các con chuột dần dần ít đi?”. Nghi ngờ con chó rừng, Bồ-tát lại nghĩ “Ta sẽ thử nó xem”. Khi đến hầu con chó rừng. Bồ-tát để đàn chuột đi trước, còn mình đi sau cùng. Con chó rừng nhảy lên chúa chuột. Bồ-tát thấy nó nhẩy đến vồ mình, liền quay thân mình và nói:

– Tôn giả chó rừng, như vậy là sở hành giới cấm của ngươi không đúng Chánh pháp. Với mục đích làm hại những kẻ khác, nhà ngươi hành trì phi pháp bêu xấu ngọn cờ Chánh pháp”.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ:

Ai yêu cờ Chánh pháp,
Bí mật làm điều ác,
Dụng ý để lường gạt
Các loài sinh vật khác,
Giới cấm kẻ như vậy
Ðược gọi hạnh con mèo.

Chúa đàn chuột nói như vậy xong nhảy vào cắn cổ họng dưới hàm con chó rừng làm đứt cuống họng, và chấm dứt đời sống của nó. Cả đàn chuột trở lui, ăn thịt con chó rừng với tiếng kêu mum mum rồi bỏ đi. Nghe nói, những con đến trước có được thịt ăn, những con đến sau không có được gì. Từ đấy về sau đàn chuột sống an ổn không sợ hãi.

*

Sau khi kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy con chó rừng là Tỷ-kheo lừa đảo, còn chuột chúa là Ta vậy

  1. CHUYỆN KẺ THỜ LỬA (Tiền thân Aggika)

Cáo chỏm trên đầu này …,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một người lừa đảo.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát làm chúa đàn chuột, sống ở trong rừng. Bấy giờ lửa bùng lên, có con chó rừng không thể chạy trốn được, đứng gục đầu vào một thân cây, để cho lửa cháy lông toàn thân của nó. Trên đỉnh đầu, tại chỗ gục vào cây, một nắm tóc còn lại, giống như cái chỏm.

Một hôm nó đang uống nước tại một vũng nước trên tảng đá, nó nhìn bóng mình thấy cái chỏm và nghĩ: “Nay ta có tiền để mua đồ rồi”. Nó đi lang thang trong rừng, thấy cái hang có đàn chuột và nghĩ: “Ta sẽ lừa dối, và ăn những con chuột này”. Như trước đã nói, nó đứng không xa cái hang chuột bao nhiêu. Vua loài chuột, trong khi đi tìm đồ ăn, thấy con chó rừng, tưởng rằng nó có giới hạnh liền đi đến gần và hỏi:

– Ngài tên gì?

-Ta tên là Bhàradvàja, kẻ thờ lửa.

– Sao ngài đến đây?

– Vì muốn bảo vệ các bạn.

– Làm thế nào ngài bảo vệ chúng tôi?

– Tôi biết đếm với ngón tay. Buổi sáng, khi các bạn đi ra để tìm đồ ăn, tôi sẽ đếm bao nhiêu con. Khi các bạn về, tôi sẽ đếm bao nhiêu con về. Như vậy, nhờ đếm buổi sáng và buổi chiều tôi sẽ bảo vệ các bạn.

– Này cậu thân, vậy hãy bảo vệ chúng tôi.

Con chó rừng chấp nhận. Khi đến giờ ra đi, con chó rừng đếm một hai ba, khi đến giờ về con chó rừng cũng đếm như vậy. Nó bắt con đi sau cùng và ăn thịt. Mọi chuyện xảy ra như câu chuyện trước. Ở đây, con chuột chúa quay trở lui, đứng lại và nói:

– Này Tôn giả thờ lửa Bhàradvàja, đây không phải là cái chỏm trên đầu do thiện pháp của ông tạo nên mà chính do nhân duyên cái bụng (tham ăn) ông tạo nên.

Rồi chuột chúa đọc bài kệ này:

Cái chỏm trên đầu này
Không do công đức tạo,
Cái chỏm trên đầu này
Do duyên cái bụng tạo,
Ðếm ngón tay làm gì?
Vừa rồi, kẻ thờ lửa!

*

Khi bậc Ðạo Sư nói pháp thoại này xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ con chó rừng là Tỷ-kheo này, còn chúa đàn chuột là Ta vậy.

  1. CHUYỆN NỮ BÀ-LA-MÔN KOSIYA (Tiền thân Kosiya)

Hãy ăn như đã nói…,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một người đàn bà ở Xá-Vệ. Nghe nói, nàng là vợ một Bà-la-môn cư sĩ có lòng tin. Nhưng nàng hành ác giới, theo ác pháp, ban đêm hành tà hạnh, còn ban ngày không làm công việc gì, cứ giả bộ đau ốm nằm rên. Người Bà-la-môn hỏi nàng:

– Hiền thê đau làm sao?

Nàng trả lời:

– Tôi bị gió hành.

– Hiền thê muốn gì?

– Muốn ăn đồ béo, bánh ngọt, các món ăn đặc biệt như cháo, món ăn có dầu v.v…

Nàng muốn gì người Bà-la-môn đều đem lại cho nàng, và ông ta làm tất cả mọi công việc như một người nô lệ. Khi vị Bà-la-môn có mặt ở nhà, thì nàng nằm nghỉ. Khi vị Bà-la-môn đi ra ngoài, nàng sống với các tình nhân.

Vị Bà-la-môn suy nghĩ: “Gió hành hạ thân vợ ta không có triệu chứng chấm dứt”. Nghĩ vậy, vị Bà-la-môn đem hương, vòng hoa đi đến Kỳ Viên, đảnh lễ bậc Ðạo Sư rồi ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Bà-la-môn, sao mấy lúc này không thấy mặt ông?

Vị Bà-la-môn thưa:

– Bạch Thế Tôn, nữ Bà-la-môn vợ con bị gió hành hạ. Con phải tìm bơ chín, dầu v.v… và các món ăn đặc biệt cho vợ con. Nay thân nàng béo tốt, và màu da nàng sáng tươi. Nhưng bệnh vì gió không có triệu chứng chấm dứt. Vì con săn sóc vợ con nên không có cơ hội đến đây.

Bậc Ðạo Sư biết được ác hạnh của nữ Bà-la-môn, liền hỏi:

– Này Bà-la-môn, do tự ngã chất chứa nhiều đời, ông không nhớ lời của các bậc hiền trí đã nói với ông thời xưa. Cần phải làm những thuốc này, thuốc này đối với chứng bệnh của người đàn bà nằm như vậy.

Nói vậy xong, theo yêu cầu của vị Bà-la-môn, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là một vị Bà-la-môn sanh ra trong một gia đình rất cao quý, đi học tất cả tài nghệ ở Takkasilà và trở thành một bậc Sư trưởng có danh tiếng nhiều phương. Các thanh niên hoàng tộc và các thanh niên Bà-la-môn ở tại kinh đô phần lớn đến học nghề từ Bồ-tát.

Một Bà-la-môn ở tỉnh thành học ba tập Vệ-đà và mười tám học minh với Bồ-tát; vị ấy được đặt vào chức vụ địa chủ ở Ba-la-nại, hằng ngày hai lần đi đến Bồ-tát. Vợ vị ấy là nữ Bà-la-môn có ác giới, theo ác hạnh. (Tất cả câu chuyện giống như câu chuyện hiện tại). Khi Bồ-tát hỏi và được nghe: “Do nhân duyên này … con không có cơ hội nghe thuyết giảng”, Bồ-tát biết nữ gia chủ này lừa đảo vị Bà-la-môn, bèn nghĩ: “Ta sẽ nói một phương thuốc thích hợp với chứng bệnh của nữ Bà-la-môn”. Vì vậy, Bồ-tát nói với vị Bà-la-môn ấy:

– Này cư sĩ thân, bắt đầu từ hôm nay, chớ cho nữ Bà-la-môn bơ chín, sữa, các vị ngọt v.v… Hãy lấy năm loại trái cây và phân bò, bỏ chúng vào trong một cái nồi bằng đồng mới, khiến chúng thấm nhiễm mùi của đồng, rồi cầm sợi dây thừng hay cây roi mây và nói: “Ðây là món thích hợp với bệnh của bà, hãy uống thuốc này hoặc đứng dậy làm các công việc cho xứng với các món bà ăn”. Sau đó, hãy đọc lên bài kệ này. Nếu vợ ông không chịu ăn uống, hãy lấy dây thừng hay cây roi mây đánh bà ta vài cái, hoặc nắm tóc kéo đi, hoặc lấy cùi chỏ đánh nhẹ, thế nào bà ta cũng dậy và làm công việc.

Người Bà-la-môn nói:

– Lành thay!

Và như đã được nghe nói, khi về nhà, vị ấy làm món thuốc và nói với bà vợ:

– Này hiền thê, hãy uống thuốc này!

– Ai nói làm thuốc này?

– Bậc Sư trưởng, hiền thê ạ.

– Hãy đem đi, tôi không uống đâu.

Thanh niên Bà-la-môn nói:

– Ngươi không thích uống sao?

Vị ấy cầm sợi dây và nói:

– Hoặc là uống thuốc này thích hợp với bệnh của ngươi, hoặc là làm công việc cho xứng đáng với món ăn được cung cấp.

Rồi vị ấy đọc bài kệ:

Hãy ăn như đã nói,
hãy nói như đã ăn,
Ngươi không làm cả hai,
Cả nói và cả ăn,
Hỡi này Ko-si-ya.

Nghe vậy, nữ Bà-la-môn Ksiya sợ hãi, vì biết có sự can thiệp của vị Sư trưởng. “Ta không thể lừa đảo được nữa”. Sau đó, nàng liền ngồi dậy làm các công việc. Vì lòng kính trọng bậc Ðạo Sư, nàng từ bỏ ác hạnh và trở thành có giới đức.

*

Khi nghe chuyện xong, nữ Bà-la-môn nhận thấy đức Phật đã hiểu ác hạnh của mình, bèn sợ hãi và không dám phạm tội nữa.

Sau khi kể câu chuyện này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Người chồng và người vợ thời ấy là người chồng và người vợ hiện tại, còn vị Sư trưởng là Ta vậy.

PHẨM ASAMPADÀNA

  1. CHUYỆN KẺ VONG ÂN (Tiền thân Asampadàna)

Nếu người này người kia …

Câu chuyện này, khi ở tại Trúc Lâm, bậc Đạo sư kể về Đề-bà-đạt-đa. Lúc bấy giờ, các Tỳ kheo tại Chánh pháp đường, khởi lên câu chuyện :

– Thưa các Hiền giả, Đề-bà-đạt-đa không biết ơn, không biết công đức của Như Lai.

Bậc Đạo Sư đi đến và hỏi :

– Này các Tỷ kheo, nay các ông ngồi họp ở đây bàn vấn đề gì ?

Khi được nghe vấn đề ấy, bấc Đạo Sư nói :

– Này các Tỷ kheo, không phải chỉ nay Đề-bà-đạt-đa mới vô ơn. Trong quá khứ, kẻ ấy cũng đã vô ơn như vậy rồi.

Nói xong bậc Đạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, trong nước Ma-kiệt-đà ở Vương Xá, khi một vị vua Ma-kiệt-đà đang trị vì, Bồ-tát là một vị triệu phú có gia sản trị giá tám trăm triệu, tên là Sankha. Tại Ba-la-nại, một triệu phú tên là Piliya cũng có gia sản trị giá tám trăm triệu. Hai vị ấy là bạn thân với nhau. Trong thời ấy, vì một lý do nào đó, triệu phú Piliya gặp đại nạn và tất cả gia sản đều bị mất sạch. Trở thành nghèo túng, không nơi nương tựa, Piliya đoán biết triệu phú Sankha là chỗ có thể nhờ cậy được liền đem vợ ra khỏi Ba-la-nại, đi bộ đến Vương Xá tận trú xứ của triệu phú Sankha. Khi triệu phú Sankha thấy Piliya, liền ra đón và nói:

– Ồ bạn thân của tôi đã đến.

– Và ông đối xử với bạn rất kính trọng. Sau khi để cho bạn ở vài ngày, một hôm ông hỏi:

– Này bạn, bạn đến có mục đích gì?

– Này bạn, đại nạn đã xảy đến cho tôi. Tất cả tài sản đều mất sạch. Hãy giúp đỡ tôi!

– Lành thay này bạn, chớ sợ hãi.

Sankha mở kho bạc, cho bạn bốn trăm triệu đồng tiền vàng, rồi chia tất cả gia sản còn lại của mình, kể cả vật nổi, vật chìm, động sản, bất động sản, thành hai phần và cho bạn một nửa. Piliya đem tài sản ấy đi về Ba-la-nại và sống tại đấy.

Sau một thời gian, một tai nạn tương tự đến với triệu phú Sankha. Ông tìm chỗ để nương tựa và suy nghĩ: “Ta đã giúp đỡ rất nhiều cho bạn ta. Ta cho bạn nửa gia sản. Thấy ta, bạn sẽ không từ chối. Ta hãy đi đến bạn của ta”. Nghĩ vậy, hai vợ chồng ông đi đến Ba-la-nại, rồi Sankha nói với vợ:

– Này hiền thê, thật không thích hợp nếu bà đi bộ với tôi giữa đường xa thế này. Bà hãy đi đến sau. Tối nay tôi sẽ cho xe đến với một người tùy tùng để đưa bà vào thành cho đúng phép, hãy chờ tại đây.

Sau đó, Sankha để người vợ ở trong một nhà trọ, tự mình đi vào thành, đến nhà triệu phú và báo tin cho biết:

– Bạn của ngài tên là triệu phú Sankha đã từ Vương Xá đến.

Khi thấy Sankha, Piliya từ ghế đứng dậy, không đón mừng thân mật, chỉ hỏi:

– Bạn đến đây có mục đích gì?

– Tôi đến để thăm bạn.

– Hiện nay bạn ở đâu?

– Cho đến nay, tôi chưa có chỗ ở. Tôi để vợ tôi tại nhà trọ và đến đây.

– Ở đây, không có chỗ ở cho bạn. Hãy lấy một ít gạo, nấu tại một chỗ nào đó, ăn xong rồi đi. Ðừng để tôi thấy mặt bạn nữa.

Rồi ông sai một người nô lệ:

– Hãy cho bạn ta một lon gạo có nhiều trấu và gói vào một góc vải.

Người ta nghe rằng ngày trước đó nó đã có được gạo đỏ tốt chở đầy một ngàn cỗ xe và sau khi cho sàng gạo, đã chất đầy kho. Tên Piliya ngày trước đã được bạn cho bốn trăm triệu đồng tài sản và đi về không biết ơn, nay tên đại cướp chỉ cho bạn ân nhân một lon gạo nhiều trấu! Theo lệnh chủ, người nô lệ đong một lon gạo trấu trong một cái giỏ rồi đi đến Bồ-tát. Bồ-tát suy nghĩ: “Con người phi nhân nghĩa này, được ta cho bốn trăm triệu đồng, nay chỉ cho ta một lon gạo trấu, không biết ta có nên nhận hay không?”. Rồi Bồ-tát suy nghĩ: “Người bạn ác vô ơn này đã phá vỡ tình bạn với ta, khi ta gặp nạn. Nếu ta không nhận lon gạo trấu quá ít, ta sẽ phá vỡ tình bạn. Kẻ mù loà ngu si không nhận vật cho ít ỏi, sẽ phá hoại tình bạn. Nhưng ta, nhờ chế ngự được cơn giận vì lon gạo trấu do nó cho, sẽ duy trì được tình bạn”.

Do vậy Sankha cột vào vạt áo lon gạo được cho và từ lâu đài bước xuống đi đến nhà trọ. Vợ Sankha hỏi:

– Này ông, ông nhận được gì?

– Này hiền thê, triệu phú Piliya, bạn của chúng ta, đã cho một lon gạo trấu và đuổi chúng ta đi.

Bà vợ nói:

– Vì sao ông lại nhận ? Và nào có xứng đáng gì với bốn trăm triệu đồng tài sản?

Rồi bà vợ khóc, Bồ-tát nói:

– Này hiền thê, chớ khóc. Vì sợ phá vỡ tình bạn nên ta nhận để duy trì tình bạn. Sao bà lại sầu muộn?

Nói xong Bồ-tát đọc bài kệ này:

Nếu người này người kia
Không có cho chút gì.
Với kẻ ngu si, tình bạn
Ði đến chỗ tối đen
Do vậy ta vẫn nhận
Lượng được nửa phần trấu.
Ta không để tình bạn
Vì ta bị hủy diệt,
Ta muốn tình bạn này
Mãi mãi được trường cửu.

Tuy nghe nói vậy, bà vợ triệu phú vẫn khóc. Trong lúc ấy, một người nô lệ do triệu phú Sankha đã cho triệu phú Piliya, đi ngang qua cửa trọ, nghe tiếng khóc của bà triệu phú, liền đi vào nhà trọ. Thấy ông bà chủ của mình, anh ta đảnh lễ dưới chân họ, khóc than và hỏi:

– Thưa ông bà chủ, ông chủ đến đây có việc gì?

Triệu phú kể lại tất cả sự việc. Người nô lệ nói:

– Thưa ông bà chủ, hãy để sự việc như vậy. Chớ lo nghĩ.

Sau khi an ủi cả hai người, anh ta đưa họ về nhà mình dùng nước thơm để hai người tắm rửa, mời họ ăn cơm và tin cho các người nô lệ khác biết:

– Ông chủ bà chủ cũ của các bạn đã đến.

Và anh ta bảo họ đến thăm. Một vài ngày sau, anh ta họp toàn thể nô lệ cùng đi đến sân chầu vua, tạo ra tiếng vang lớn. Vua cho gọi họ vào và hỏi có việc gì. Họ trình lên vua hết tất cả sự việc. Vua nghe lời của họ xong, liền cho mời hai vợ chồng triệu phú đến và hỏi triệu phú Sankha:

– Có đúng sự thật chăng, này đại triệu phú, khanh đã cho triệu phú Piliya bốn trăm triệu đồng tiền vàng?

– Thưa Ðại vương, khi bạn tôi đi đến Vương Xá, và đặt lòng tin vào tôi, tôi không cho toàn thể tài sản của tôi, nhưng tôi chia tất cả động sản và bất động sản của tôi thành hai phần đồng đều và cho bạn tôi một nửa.

Vua hỏi triệu phú Piliya:

– Có đúng sự thật chăng?

Piliya trả lời:

– Thưa Ðại vương, đúng sự thật.

– Còn khi bạn của ngươi đến đặt lòng tin vào ngươi, ngươi có lòng cung kính tôn trọng bạn ngươi không?

Piliya im lặng.

– Có phải ngươi bảo đổ một lon gạo trấu vào một góc áo và cho bạn của ngươi chăng?

Nghe nói vậy Piliya vẫn giữ im lặng. Sau đó, nhà vua hỏi ý kiến các đình thần nên xử trí thế nào. Cuối cùng, khi quyết định xong, vua ra lệnh:

– Hãy đi lấy tất cả tài sản trong nhà của triệu phú Piliya giao cho triệu phú Sankha.

Bồ-tát thưa:

– Tâu Ðại vương, tôi không muốn gia sản của người khác, tôi chỉ xin nhận tài sản trước đây tôi đã cho.

Nhà vua giao gia sản theo yêu cầu của Bồ-tát. Sau khi nhận lại gia sản mình đã cho, Bồ-tát cùng với đoàn nô lệ vây quanh đi về Vương Xá, gầy dựng cơ nghiệp, và trọn đời làm các công đức như bố thí v.v…, rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, triệu phú Piliya là Ðề-bà-đạt-đa, còn triệu phú Sankha là Ta vậy.

132- CHUYỆN NGŨ DỤC LẠC (Tiền thân Pancagaru)

Nghe theo lời khuyên tốt …,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về sự cám dỗ của các cô gái của Ma vương (Màra) tại cây bàng Ajapàla của Người chăn dê.

Bậc Ðạo Sư đọc bài kinh bắt đầu với những lời này:

Rực rỡ sáng, chúng đến,
Ái, bất lạc và tham,
Ngay tại đấy, Ðạo Sư
Thổi chúng bay tán loạn,
Chẳng khác bay tán loạn,
Chẳng khác gì bông rơi,
Tan tác trước gió thổi!

Sau khi Thế Tôn đọc xong bài kinh, các Tỷ-kheo họp tại Chánh pháp đường, bắt đầu câu chuyện:

– Thưa các Hiền giả, trong khi các con gái của Màra tự tạo ra hàng trăm thiên sắc đi đến với mục đích, cám dỗ, bậc Chánh đẳng giác vẫn không thèm mở mắt để nhìn. Ôi, Phật lực thật là vi diệu!

Bậc Ðạo Sư đi đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông ngồi họp ở đây và bàn vấn đề gì?

Khi nghe vấn đề ấy, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, thật không có gì vi diệu nếu Ta không nhìn các con gái của Màra, khi Ta đã chứng được Toàn Giác và đoạn tận tất cả các lậu hoặc. Trong thời quá khứ, khi Ta đang tìm đạo Bồ-đề, khi đang còn các kiết sử, Ta đã cương quyết không nhìn các thiên sắc hóa hiện đến như vậy và do sự chế ngự ấy, Ta đã đạt được đại vương quốc.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là em trai út của một gia đình có một trăm anh em. Tất cả câu chuyện mạo hiểm của ngài cần được diễn tả đầy đủ ở đây cũng như ở Tiền thân Telapatta (số 96). Lúc bấy giờ dân chúng trú ở thành Takkasilà dâng vương quốc cho Bồ-tát đang ở nhà trọ ngoài thành. và sau khi ngài được làm lễ quán đảnh phong vương, dân chúng trang hoàng thành phố như thành phố chư Thiên và trang hoàng cung điện của vua như cung điện của Thiên chủ Indra (tức là Sakka hay Ðế Thích).

Khi ấy Bồ-tát vào thành, đi ngang qua hành lang lớn trong cung vua, ngự lên vương tọa làm bằng châu báu vi diệu, dưới một lọng trắng được giương cao, và ngồi xuống với vẻ đẹp siêu phàm của vị Thiên chủ.

Các đại thần, Bà-la-môn, gia chủ v.v… các hoàng tử trong vương tộc, tất cả đều trang sức lộng lẫy, đứng bao vây xung quanh. Trong khi ấy mười sáu ngàn vũ nữ, đẹp như các Thiên nữ, rất giỏi về đàn múa, hát, đầy đủ sắc đẹp tuyệt trần, biểu diễn các điệu múa, các bài hát và các loại đàn, cho đến khi toàn cung điện vang dội tiếng hát, tiếng đàn, giống như lòng đại dương vang dội tiếng sấm sét. Bồ-tát ngồi nhìn cảnh huy hoàng lộng lẫy của mình, và suy nghĩ: “Nếu ta nhìn thiên sắc huyễn hóa của các nữ Dạ-xoa ấy, thì ta đã mệnh chung rồi. Nhờ ta không nhìn chúng, nên mới có cảnh huy hoàng lộng lẫy này. Nhờ nghe theo lời khuyên của các vị Ðộc Giác Phật, nên ta mới đạt được kết quả này”. Sau khi suy nghĩ như vậy, ngài nói lên lời cảm hứng với bài kệ:

Nghe theo lời khuyên tốt,
Kiên trì, không lay động,
Tiếp tục con đường,
Không có gì sợ hãi.
Ta không muốn đi vào
Chỗ cám dỗ Dạ-xoa,
Nên ta được an toàn,
Khỏi sự sợ hãi lớn.

Như vậy, bậc Ðại Sĩ thuyết pháp với bài kệ này, rồi ngài trị vì quốc độ đúng pháp, và trọn đời làm các công đức như bố thí v.v… cho đến khi mạng chung, ngài đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Ta là hoàng tử đi đến Takkasilà và đạt được vương quốc.

  1. CHUYỆN LỬA CHÁY (Tiền thân Ghatàsana)

Tại chỗ được an ổn …,

Câu chuyện này, khi tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một vị Tỷ-kheo. Tỷ-kheo này lấy một đề tài thiền quán từ bậc Ðạo Sư, đi đến biên địa an cư mùa mưa tại một trú xứ trong rừng gần một ngôi làng nhỏ. Trong tháng đầu, khi đi vào làng khất thực, cái chòi lá bị cháy, bị mệt mỏi vì không có chỗ trú ẩn, Tỷ-kheo nói cho các vị hộ trì biết, họ đáp:

– Thưa Tôn giả, hãy yên tâm. Chúng tôi sẽ làm chòi lá lại cho Tôn giả.

Ban đầu họ đến nói vậy, nhưng ba tháng đã trôi qua, họ vẫn chưa làm. Vì không có trú xứ thích hợp, Tỷ-kheo ấy không đạt được kết quả đề tài thiền quán. Ngay cả một tia ánh sáng cũng không khởi lên cho vị ấy.

Khi an cư mùa mưa xong, vị ấy đi đến Kỳ Viên đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư tiếp đón Tỷ-kheo ấy thân mật và hỏi:

– Này Tỷ-kheo, đề tài thiền quán của ông có thích hợp không?

Tỷ-kheo ấy trình lên Thế Tôn biết về trú xứ của mình. Bậc Ðạo Sư nói:

– Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, ngay các loài bàng sanh cũng đã biết được trú xứ của mình, khi thích hợp thì chúng sống, khi không thích hợp thì chúng từ bỏ trú xứ ấy đi đến chỗ khác trước khi trú xứ an lạc của chúng trở thành nguy hiểm. Và nếu loại bàng sanh cũng đã biết như vậy, vì sao ông lại không biết trú xứ thích hợp hay không thích hợp cho mình?

Nói vậy xong, theo lời yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh làm con chim. Khi đến tuổi trưởng thành, đạt được dung sắc tối thượng, làm vua các loài chim, ở lại trong rừng, sống với đàn chim tùy tùng, nương tựa một cây lớn. Cây ấy có nhiều lá sum suê, với các cành lá vươn ra trên một hồ nước, và nhiều con chim sống trên các cành cây làm cho phân rơi trong nước.

Bấy giờ có con rắn chúa tên Canada sống trong hồ nước ấy. Nó suy nghĩ: “Những con chim này làm rơi phân trong hồ nước của ta. Vậy ta hãy làm cho lửa từ trong nước cháy lên thiêu rụi cây và đuổi chúng đi”. Trong cơn nóng giận, con rắn chúa đợi ban đêm trong khi tất cả đàn chim đang nằm ngủ. đầu tiên nó làm cho nước hồ sôi; kế đó làm cho khói bốc lên và phun cao hơn cây thốt nốt. Bồ-tát thấy lửa từ nước phun lên, liền gọi bầy chim:

– Này các bạn chim, nước thường hay dập tắt lửa. Nay chính nước đốt cháy. Chúng ta không thể ở đây được. Chúng ta sẽ đi tìm chỗ khác.

Nói xong, Bồ-tát đọc bài kệ:

Nơi chốn được an ổn,
Tại đấy, rắn nổi lên,
Chính ở giữa lòng nước,
Lửa từ đấy cháy lên,
Nay không nên trú ở
Tại cây mọc trên đất,
Hãy bay tản các phương,
Hồ này rất đáng sợ.

Sau đó, Bồ-tát đem các con chim nghe theo mình bay đi tìm chỗ khác. Còn những con chim không nghe lời Bồ-tát vẫn ở lại, đều bị thiêu cháy.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư giảng Bốn sự thật. Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo chứng đắc quả A-la-hán và Ngài nhận diện tiền thân:

– Lúc bấy giờ mấy con chim nghe theo lời Bồ-tát là hội chúng của Ðức Phật, còn vua loài chim là Ta vậy.

  1. CHUYỆN THIỀN QUÁN (Tiền thân Thànasodhana)

Những ai còn có tưởng …,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về lời giải thích rộng rãi của vị Tướng quân Chánh pháp Xá-lợi-phất (Sariputta), tại cửa thành Sankassa liên hệ đến một vấn đề do bậc Ðại Sư thuyết giảng vắn tắt. Câu chuyện quá khứ được kể như sau:

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát mệnh chung ở trong rừng đã nói:

– Phi tưởng phi phi tưởng.

Các vị tu khổ hạnh không tin lời giải thích của vị đệ tử đầu tay về lời dạy của vị Ðạo Sư. Vì vậy Bồ-tát từ cõi trời Quang âm trở về, và đứng trên hư không đọc lên bài kệ này:

Những ai còn có tưởng,
Chúng cũng đi ác thú;
Những ai không có tưởng,
Chúng cũng đi ác thú,
Hãy từ bỏ cả hai,
Ðạt được lạc thiền chứng,
Không còn các uế nhiễm.

Như vậy Bồ-tát thuyết pháp, tán thán vị đệ tử của ngài và đi lên cõi Phạm Thiên. Khi ấy, các vị tu hành khổ hạnh còn lại đã tin vị đệ tử đầu tay.

*

Sau khi kể pháp thoại, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ vị đệ tử đầu tiên là Xá-lợi-phất, còn vị đại Phạm Thiên là Ta vậy.

  1. CHUYỆN NGUYỆT QUANG (Tiền thân Candàbha)

Nguyệt quang và nhật quang …,

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về lời giải thích một vấn đề của trưởng lão Xá-lợi-phất tại cửa thành Sankassa.

*

Thuở trước, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát vào lúc mệnh chung ở trong rừng, đã trả lời các câu hỏi của các đệ tử với các chữ: “ánh sáng của mặt trăng, ánh sáng của mặt trời”, nói xong, ngài sanh lên Quang âm thiên.

Bấy giờ vị đệ tử đầu tay giải thích lời của bậc Ðạo Sư, các vị khổ hạnh không tin tưởng vị ấy. Cho nên sau đó, Bồ-tát từ Quang âm thiên xuất hiện xuống, đứng trên hư không và đọc lên bài kệ:

Nguyệt quang và nhật quang,
Ai tu với trí tuệ
Với thiền không tầm này,
Ðược sanh Quang âm thiên.

Như vậy, Bồ-tát dạy cho các vị tu khổ hạnh hiểu và tán thán đức hạnh của vị đệ tử đầu tay, rồi trở lại cõi Phạm Thiên.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vị đệ tử đầu tay là Xá-lợi-phất, còn đại Phạm Thiên là Ta vậy.

  1. CHUYỆN THIÊN NGA VÀNG (Tiền thân Suvannahamsa)

Ðược gì, hãy biết là đủ …,

Câu chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Tỷ-kheo-ni Thhullanandà (Nandà Mập). Một nam cư sĩ ở Xá Vệ muốn cúng dường tỏi cho chúng Tỷ-kheo-ni bảo người giữ ruộng:

– Khi nào các Tỷ-kheo-ni đến, hãy cho mỗi Tỷ-kheo-ni hai hay ba nhánh tỏi.

Từ khi ấy trở đi, các Tỷ-kheo-ni thường đi đến nhà người ấy, hay ra đồng ruộng để lấy tỏi, Một hôm, vào một ngày lễ, trong nhà người ấy tỏi không còn nữa. Tỷ-kheo-ni Thullanandà đến nhà người ấy với một số tùy tùng và hỏi:

– Thưa ông có tỏi không?

– Thưa ni sư, tôi không có. Tỏi đem về đủ dùng hết rồi. Ni sư hãy đi ra ngoài đồng.

Nghe nói vậy, Thullanandà đi ra ngoài đồng, không chế ngự được lòng tham, đã mang tỏi về quá nhiều. Ngưòi giữ ruộng tức giận:

– Vì sao các Tỷ-kheo-ni không biết vừa đủ, đem tỏi đi quá nhiều vậy?

Nghe nói vậy, các Tỷ-kheo-ni thiểu dục cũng bực bội phiền muộn; và các Tỷ-kheo ở nhà nghe các Tỷ-kheo-ni ấy nói cũng bực bội và phiền muộn không kém. Sự phiền muộn của chư Ni được các Tỷ-kheo trình lên Thế Tôn rõ. Thế Tôn phê bình Tỷ-kheo-ni Thullanandà và nói:

– Này các Tỷ-kheo, một người có lòng dục lớn xử sự không thân ái, không làm vừa ý ngay cả mẹ sanh ra mình, không gây được lòng tin đối với những người chưa tin, không thể làm tăng trưởng lòng tin của những người đã có lòng tin; không tạo nên các lợi dưỡng chưa được tạo nên. Và đối với lợi dưỡng đã có rồi, cũng không thể duy trì được. Còn người ít dục có thể làm khởi lên lòng tin ở người chưa có lòng tin, có thể làm tăng trưởng lòng tin với những người đã có lòng tin, tạo nên các lợi dưỡng chưa được tạo nên, và đối với lợi dưỡng đã có rồi vẫn có thể duy trì được.

Với phương pháp ấy, bậc Ðạo Sư thuyết giáo thích hợp cho các Tỷ-kheo ấy và nói:

– Này các Tỷ-kheo không phải chỉ nay Thullanada mới có tham dục lớn, trong quá khứ Thullanandà cũng đã có lòng dục lớn như vậy rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi đến tuổi trưởng thành, họ cưới cho Bồ-tát một người vợ từ một gia đình ngang hàng. Với người vợ ấy, Bồ-tát có được ba con gái đều tên là Nandà. Khi Bồ-tát mệnh chung, vợ và các con gái phải đi đến ở với các gia đình khác.

Bồ-tát tái sanh làm con ngỗng trời vàng có trí nhớ được các đời trước. Khi con ngỗng trời vàng đến tuổi trưởng thành, thấy thân thể to lớn của mình, với lông vàng che thân, với sắc đẹp tuyệt trần, nó hướng tâm tìm hiểu: “Ta từ đâu mạng chung mà đến đây?”

Biết được mình từ loài người đến, Bồ-tát hiểu: “Nay nữ Bà-la-môn và các con gái ta ở đâu?”. Ðược biết họ đang làm thuê cho người khác và sống một cách khó khăn, Bồ-tát suy nghĩ: “Trong các lông bằng vàng trên thân ta hiện nay, nếu ta cho họ một cái lông bằng vàng của ta, thì với lông vàng ấy, vợ và các con gái ta sẽ sống hạnh phúc”. Vì vậy, Bồ-tát đi đến chỗ họ ở và đậu trên cây xà ngang chính. Nữ Bà-la-môn và các con gái thấy Bồ-tát, liền hỏi:

– Thưa ngài, ngài từ đâu đến?

Bồ-tát trả lời:

– Ta là cha các con. Ta mệnh chung được sanh làm con ngỗng trời vàng. Ta đến để thăm các con. Bắt đầu từ nay các con không còn phải làm thuê cho người khác và sống một cách khổ sở như vậy nữa. Ta sẽ cho các con mỗi lần một cái lông vàng của ta. Các con bán lông ấy và sống hạnh phúc.

Nói xong, Bồ-tát cho họ một cái lông vàng và bay đi. Từ đó với cách thức này, Bồ-tát tiếp tục đi đến và mỗi lần cho họ một cái lông vàng. Và các nữ Bà-la-môn được sống sung túc và hạnh phúc. Một hôm, nữ Bà-la-môn nói với các con gái:

– Này các con, tâm của loài súc sanh khó mà tin được. Một ngày nào đó, cha các con có thể không đến đây, vậy khi nào cha các con đến, chúng ta hãy nhổ tất cả lông vàng và lấy các lông ấy để dành.

Các cô gái không chịu, liền nói:

– Làm như vậy cha chúng con sẽ đau đớn.

Tuy vậy nữ Bà-la-môn, vì lòng ham muốn quá lớn, một hôm, thấy con ngỗng trời vàng đến, bà kêu con ngỗng đến gần bà, với hai tay bắt giữ ngỗng và nhổ tất cả lông. Nhưng các lông của Bồ-tát có đặc điểm là nếu bị nhổ lên bằng sức mạnh ngoài ý muốn của mình, thì chúng trở thành như lông con cò thường. Bấy giờ Bồ-tát xòe hai cánh ra, nhưng không có thể bay được. Nữ Bà-la-môn quăng Bồ-tát vào một cái thùng lớn và cho Bồ-tát ăn ở đấy. Theo thời gian, các lông của Bồ-tát được mọc lên, nhưng chúng toàn màu trắng. Với cánh được mọc lại, Bồ-tát về chỗ ở của mình, và không bao giờ trở lại nữa.

*

Sau khi kể câu chuyện quá khứ này, bậc Ðạo Sư lại nói:

– Này các Tỷ-kheo, Thullanandà không phải nay mới có ham muốn lớn. Thuở trước nàng cũng có ham muốn lớn rồi. Lòng ham muốn lớn của nàng lúc ấy làm cho nàng mất vàng, cũng như lòng ham muốn lớn của nàng hôm nay làm cho nàng mất tỏi. Cũng như Thullanandà, chính vì nàng, chúng Tỷ-kheo còn lại không được tỏi. Do vậy, nếu được nhiều, phải biết lượng vừa đủ; nếu được ít, phải bằng lòng với đồ nhận được. Chớ mong mỏi nhiều hơn.

Rồi bậc Ðạo Sư đọc bài kệ:

Ðược gì, hãy biết đủ,
Quá tham là ác pháp,
Do bắt chúa ngỗng trời,
Bao nhiêu vàng tiêu hết.

Nói xong, bậc Ðạo Sư dùng nhiều phương tiện chỉ trích rồi đặt ra học giới: “Tỷ-kheo-ni nào ăn tỏi, phải bị tội đọa địa ngục”.

Nói xong pháp thoại, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, nữ Bà-la-môn là Thullanandà, ba người con gái ấy là ba chị em của nàng, và con ngỗng trời vàng là Ta vậy. (Câu chuyện này được nói đến trong Luật tạng, tập IV).

  1. CHUYỆN CON MÈO (Tiền thân Babbu)

Tại chỗ, cho một mèo…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một học giới liên hệ đến mẹ của Kànà. Ở Xá-vệ có một nữ cư sĩ, được biết qua người con gái, tên là Kànàmata (mẹ của Kànà). Nữ cư sĩ này đã chứng quả Dự lưu, một Thánh đệ tử. Bà gả con gái cho một người đàn ông đồng giai cấp thọ sanh tại một ngôi làng khác. Vì một vài công việc, Kànà đi đến nhà mẹ. Chồng của Kànà, sau một vài ngày, sai một người đưa tin rằng chàng muốn Kànà hãy về. Kànà nghe lời đưa tin, hỏi mẹ:

– Thưa mẹ, con có nên đi về ngay không?

Bà mẹ nói:

– Con ở đây lâu như vậy, sao con có thể về tay không?

Rồi bà mẹ bắt đầu làm bánh. Lúc bấy giờ, một Tỷ-kheo khất thực đi đến nhà nữ cư sĩ ấy. Bà mời vị ấy ngồi, và cúng dường bánh đầy bát. Vị ấy ra đi, lại nói với một người khác đến khất thực, và bà mẹ cũng cúng dường người ấy như vậy. Vị ấy ra đi lại nói với một người khác nữa, và bà mẹ cúng dường, cho đến bốn người cùng được cúng dường như vậy. Vì vậy, bánh được làm ra đều hết sạch. Và Kànà gửi người đưa tin thứ hai, rồi thứ ba. Ðến lần gửi người đưa tin thứ ba, người chồng nhắn: Nếu nàng không về, ta sẽ lấy vợ khác.

Lần thứ ba cũng vì lý do ấy, Kànà không đi về được. Chồng Kànà lấy một người vợ khác. Kànà nghe tin ấy liền đứng khóc.

Bậc Ðạo Sư biết được nguyên do, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến nhà mẹ của Kànà, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn và hỏi mẹ của Kànà:

– Vì sao, Kànà này lại khóc?

Khi được nghe nói lý do, bậc Ðạo Sư an ủi mẹ của Kànà, thuyết pháp thoại xong, từ chỗ đứng dậy và đi về tinh xá. Câu chuyện bốn Tỷ-kheo, ba lần nhận lấy bánh ở nhà mẹ Kànà vô tình ngăn chận việc Kànà đi về, được chúng Tỷ-kheo biết đến. Một hôm, các Tỷ-kheo, họp tại Chánh pháp đường, bắt đầu nói chuyện:

– Này các Hiền giả, bốn Tỷ-kheo trong ba lần ăn bánh do mẹ của Kànà nấu đã làm trở ngại việc Kànà đi về, do nguyên nhân ấy, người con gái bị chồng ruồng bỏ, khiến cho đại nữ cư sĩ sầu muộn.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, nay các ông ngồi họp tại đây đang bàn vấn đề gì?

Khi được nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay bốn Tỷ-kheo mới ăn tài vật của mẹ Kànà, khiến bà ấy sinh sầu muộn. Thuở trước, họ cũng đã làm như vậy rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một người thợ đẽo đá và khi đến tuổi trưởng thành, trở thành tinh xảo trong nghề. Trong nước Kàsi, tại một thị trấn, có một nhà triệu phú rất giàu. Số tiền cất giữ lên đến bốn trăm triệu đồng tiền vàng. Vợ vị triệu phú mệnh chung, và vì quá luyến ái tài sản nên tái sanh làm con chuột sống trên đống tài sản. Như vậy, dần dần tất cả gia đình đi đến hủy diệt. Người chồng cũng chết. Ngôi làng trở thành hoang phế và vắng người.

Lúc ấy Bồ-tát đang đào và đẽo dá tại ngôi làng cũ. Rồi con chuột ấy đi tìm đồ ăn, thấy Bồ-tát nhiều lần, khởi lên tâm luyến ái, nghĩ như sau: “Tài sản lớn của ta vô cớ bị hủy diệt. Ta sẽ ăn tiêu tài sản cùng chung với người nầy!”. Nghĩ vậy, một hôm nó ngậm trong miệng một đồng tiền vàng và đi đến Bồ-tát, Bồ-tát thấy nó, liền nói lên lời thân ái:

– Này bạn, có gì khiến bạn đến đây với đồng tiền vàng?

– Này ông chủ, tiền này để ông chủ tiêu dùng cho mình và đem thịt cho ta.

Bồ-tát chấp nhận nói:

– Tốt lắm!

Rối lấy đồng tiền vàng đi về nhà, dùng một nửa mua thịt và đem đến cho con chuột. Con chuột lấy thịt đem về hang của mình và ăn thật thỏa thích. Từ đấy trở đi, với cách thức này, hằng ngày nó đem đến cho Bồ-tát một đồng tiền vàng, và Bồ-tát lại cung cấp thịt cho nó. Một hôm con chuột bị một con mèo bắt được. Nó nói:

– Này bạn, chớ giết ta.

– Vì sao? Ta nay đang đói muốn ăn thịt. Ta không thể không giết mầy được.

– Trước hết hãy nói cho ta biết ngày nào bạn cũng đói hay chỉ đói hôm nay thôi.

– Ồ ngày nào ta cũng đói cả.

– Vậy nếu bạn muốn ăn thịt hằng ngày, xin hãy thả ta ra.

Con mèo nói:

– Mầy nhớ đấy.

Và nó thả con chuột ra. Từ đấy trở đi, con chuột chia thành hai phần thịt, một phần cho nó, một phần cho con mèo. Một ngày kia, nó bị một con mèo khác bắt, nó cũng hứa tương tự và được thả ra. Từ đấy trở đi chúng chia thịt thành bốn phần, và chúng ăn. Rồi một con mèo khác bắt nó, nó cũng hứa tương tự và được thả ra. Giữ lời hứa, chúng chia thịt thành năm phần và ăn. Con chuột, vì ăn ít, bị mệt mỏi và trở thành ốm yếu, gầy còm. Bồ-tát thấy con chuột như vậy, bèn hỏi: – Này bạn, sao bạn ốm yếu thế?

Khi được biết lý do, Bồ-tát nói:

– Lâu nay sao bạn không nói với tôi? Ở đây, tôi sẽ biết việc gì nên làm.

Bồ-tát an ủi con chuột, rồi làm một cái hang bằng đá pha lê trong suốt, đem đến và nói với con chuột:

– Này bạn, hãy vào trong hang này mà nằm. Với những ai đến đấy, hãy dọa nạt chúng với những lời thật là ác độc.

Con chuột vào trong hang nằm. Rồi một con mèo đến và nói:

– Hãy đem thịt cho ta.

Con chuột nói với nó:

– Ôi con mèo độc ác kia, sao ta lại đem thịt cho mầy? Hãy về ăn thịt các con mèo con của mầy đi!

Con mèo không biết con chuột nằm trong hang bằng pha lê, quá tức giận, liền dùng sức mạnh nhảy đến để bắt con chuột, quả tim nó đập mạnh vào cái hang bằng pha lê, bị vỡ khiến hai con mắt lồi ra. Như vậy, con mèo chết và rơi xuống tại một chỗ kín. Cũng với cách thức ấy, bốn con mèo đều chết.

Từ đấy trở đi, con chuột không còn sợ hãi nữa và hằng ngày đem cho Bồ-tát hai ba đồng tiền vàng. Như vậy dần dần nó cho Bồ-tát tất cả tài sản. Cả hai sống với nhau cho đến trọn đời với tình thân ái không chia rẽ, rồi khi mạng chung đi theo nghiệp của mình.

Khi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ này xong, với danh nghĩa bậc Chánh Ðẳng Giác, Ngài nói lên bài kệ:

Tại chỗ cho một mèo,
Mèo thứ hai hiện ra,
Rồi mèo thứ ba, bốn,
Tất cả con mèo chết,
Vì chạm hang gương này.

*

Sau khi bậc Ðạo Sư kể pháp thoại này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, bốn con mèo là bốn Tỷ-kheo ấy, con chuột là mẹ của Kànà, và người thợ đẽo đá là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON CẮC KÈ (Tiền thân Godha)

Kẻ ngu có ích gì…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ viên, bậc Ðạo Sư kể về một người lừa đảo. Các chi tiết câu chuyện cũng giống như Tiền thân Bilàra số 128.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con cắc kè. Lúc bấy giờ một vị tu khổ hạnh chứng được năm Thắng trí, sống trong một chòi lá tại một khu rừng, gần một ngôi làng ở biên địa. Những người làng hầu hạ vị tu khổ hạnh rất kính trọng vị ấy. Bồ-tát sống trong một gò mối tại cuối con đường đi kinh hành của vị tu hành. Sống tại đây, Bồ-tát hằng ngày hai ba lần đi đến vị tu khổ hạnh, nghe những lời liên hệ đến pháp, liên hệ đến nghĩa, và đảnh lễ vị tu khổ hạnh rồi đi về trú xứ của mình.

Sau một thời gian, vị tu khổ hạnh ấy báo tin cho những người trong làng biết mình sẽ ra đi. Khi vị tu khổ hạnh có giới đức này ra đi, một vị tu khổ hạnh giả dối đến ở tại am thất ấy. Bồ-tát suy nghĩ: “Ðây là vị có giới hạnh” và cũng đi đến vị ấy với cách thức như trước. Một hôm, trong mùa nắng hạn, một cơn dông trái mùa khởi lên, những con kiến mối từ những gò mối bò ra; và các con cắc kè cũng bò ra để ăn chúng. Những người trong làng đi ra bắt nhiều con cắc kè, nấu chúng, xào trộn chua ngọt rồi cúng dường cho vị tu khổ hạnh. Vị tu khổ hạnh ăn thịt cắc kè, tham đắm vị ngon, liền hỏi:

– Món thịt thật là ngon ngọt, đó là thịt gì vậy?

Khi được trả lời là thịt cắc kè, vị ấy suy nghĩ: “Có con cắc kè lớn thường đến với ta. Ta sẽ giết nó để ăn thịt”. Nghĩ vậy vị ấy đem lại son chảo để nấu, bơ chín, muối… các món gia vị, để chúng một bên, cầm một cái vồ lấy áo che lại, rồi ngồi tại cửa chòi lá để chờ Bồ-tát đến với một dáng điệu hết sức an tịnh.

Bồ-tát đi ra, suy nghĩ: “Vào buổi chiều, ta sẽ đi đến vị tu khổ hạnh”. Khi đang đi đến, Bồ-tát thấy sắc diện của người tu khổ hạnh này đổi khác, liền suy nghĩ: “Người tu khổ hạnh này ngồi với dáng điệu khác với ngày trước. Hôm nay, vị ấy đang nhìn ta với cặp mắt như muốn nuốt sống ta và suy nghĩ: ta sẽ bắt nó”.

Con cắc kè là hiện thân của Bồ-tát, vì đứng trong gió dưới vị tu khổ hạnh, ngửi được mùi thịt cắc kè, suy nghĩ: “Người tu khổ hạnh dối trá này hôm qua đã được ăn thịt cắc kè, bị trói buộc bởi lòng tham vị, hôm nay nó chờ ta đến gần để lấy vồ đánh ta, nấu và ăn ta”. Nghĩ vậy, Bồ-tát không đi đến gần nó nữa, và trở lui chỗ khác.

Người tu khổ hạnh biết rằng Bồ-tát không tới nữa, liền nghĩ: “Chắc con cắc kè này biết ta muốn giết nó nên nó không đến, nhưng dầu nó không đến, làm sao nó thoát được?”. Nghĩ vậy, vị ấy rút vồ và ném vào con cắc kè nhưng chỉ trúng cái chóp đuôi của con cắc kè, Bồ-tát chạy mau vào gò mối, thò đầu ra từ một lỗ khác, và nói:

– Này kẻ bện tóc giả dối kia, ta đi đến gần ngươi vì ta nghĩ ngươi là kẻ có giới hạnh. Nay ta đã biết ngươi là kẻ giả dối. Một kẻ đại ăn cướp như ngươi thì xuất gia để làm gì?

Sau khi chỉ trích người tu khổ hạnh ấy, Bồ-tát đọc bài kệ trong Pháp cú (394):

Kẻ ngu có ích gì,
Bện tóc với da dê,
Nội tâm đầy phiền não,
Ngoài mặt đánh bóng suông?

Như vậy, sau khi lên án kẻ tu khổ hạnh giả dối, Bồ-tát liền đi vào gò mối. Còn người tu khổ hạnh ác độc bỏ đi chỗ khác.

*

Sau khi kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, người tu khổ hạnh giả dối là kẻ lừa đảo này, người tu khổ hạnh có giới đức trước là Xá-lợi-phất và con cắc kè là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CẢ HAI MẶT THẤT BẠI (Tiền thân Ubhatobhattha)

Mắt hư, áo bị mất…

Câu chuyện này khi ở Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa. Lúc bấy giờ, người ta nghe nói các Tỷ-kheo tại Chánh Pháp đường bắt đầu nói chuyện:

– Thưa các Hiền giả, như một que củi từ nghĩa địa, bị cháy hai đầu, ở giữa bị dính phân, không thể dùng làm củi rừng, cũng không thể dùng làm củi làng, cũng vậy, Ðề-bà-đạt-đa được xuất gia trong Giáo pháp dẫn đến giải thoát nhưng cả hai mặt đều thất bại, cả hai mặt bị vứt bỏ, đó là tài sản tại gia bị đoạn tận, và Sa-môn hạnh không viên mãn.

Trong lúc ấy bậc Ðạo Sư đi đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông nay đang ngồi họp và thảo luận vấn đề gì?

Khi được nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, Ðề-bà-đạt-đa không phải chỉ nay mới gặp thất bại cả hai mặt, thuở xưa, cũng đã thất bại như vậy rồi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm một thần cây. Lúc bấy giờ, tại một ngôi làng những người câu cá đang sống, có một người câu cá mang theo lưỡi câu, cùng với đứa con trai đến một đầm nước mà các người chài lưới thường bắt cá. Anh ta đi chỗ này chỗ kia quăng lưỡi câu. Lưỡi câu mắc vào một khúc cây đang ẩn kín trong nước. Người đánh cá không thể kéo lưỡi câu lên. Anh ta suy nghĩ: “Lưỡi câu này chắc mắc vào con cá lớn. Ta hãy bảo đứa con trai đi về nhà, báo cho mẹ nó biết”. Nghĩ vậy anh ta nói với đứa con:

– Con thân, hãy đi tin cho mẹ biết chúng ta câu được con cá lớn, và nói với mẹ hãy tìm cách gây sự với hàng xóm để giữ họ ở nhà, vì thế sẽ không ai đến đòi chia phần cá của ta cả.

Ðứa con ra đi, còn anh ta ở lại, kéo lưỡi câu nhưng vì sợ đứt dây, bèn để áo ngoài trên bờ, đi xuống nước. Vì say mê tìm bắt con cá nên anh ta va chạm vào khúc cây, bị hư hai con mắt. Một tên ăn trộm lấy cắp cái áo anh ta để trên bờ. Trong cơn đau đớn, anh ta lấy tay bịt hai con mắt mù từ nước đi lên, run rẩy đi tìm cái áo.

Trong lúc ấy, vợ anh ta huênh hoang với ý định: “Ta sẽ làm cho không một ai đến đòi chia phần”. Nghĩ vậy, chị đeo một lá thốt nốt trên một tai, lấy lọ nồi bôi một con mắt, ôm trong nách một con chó, và đi đến gọi người hàng xóm. Một người bạn nói với chị:

– Chao ôi! Ðeo lá thốt nốt vào tai của bạn, bôi một con mắt, ôm một con chó như đứa con thân yêu, bạn đi từ nhà mình đến nhà người ta, bạn điên rồi sao?

– Ta không điên. Ngươi không có lý do gì lại mắng ta, nhiếc ta? Nay hãy đi đến thôn trưởng, ta sẽ làm cho ngươi bị phạt tám đồng tiền vì tội mắng nhiếc ta.

Sau khi cãi vã như vậy, cả hai cùng đi đến gặp người thôn trưởng. Nhưng sau khi cuộc cãi vã được giải quyết thì chính vợ người đánh cá bị phạt. Người ta trói và đánh chị để đòi chị trả tiền phạt. Khi vị thần cây thấy sự việc xảy ra cho vợ người đánh cá ở làng, và sự bất hạnh xảy ra cho người đánh cá ở trong rừng, vừa đứng ở trên nhánh chĩa ba của thân cây, vị thần cây vừa nói:

– Này bạn câu cá ơi, việc ác bạn làm dưới nước và trên cạn, cả hai đều thất bại.

Nói vậy xong, vị thần đọc bài kệ:

Mắt mù, áo bị mất,
Cãi vã, vợ bị đánh,
Hai việc đều hư hỏng,
Dưới nước và trên cạn.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thuở ấy, người câu cá là Ðề-bà-đạt-đa, còn vị thần là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON QUẠ (Tiền thân Kàka).

Tâm thường bị chấn động…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một vị Sư Trưởng có danh. Các chi tiết của chuyện sẽ được kể trong Chương mười một, ở Tiền thân Bhaddasàla (số 465).

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con quạ. Một hôm, vị cố vấn tế tự của vua đi tắm trong một con sông ở ngoại thành, sau đó thoa nước thơm, đeo vòng hoa, mặc áo đẹp rồi đi vào thành. Có hai con quạ đang đậu trên lầu cạnh cửa thành, một con nói với con kia:

– Này bạn, tôi sẽ đi đại tiện trên đầu người Bà-la-môn này.

Con kia can:

– Chớ làm như vậy, vị Bà-la-môn này có quyền thế, chúng ta không nên gây hận thù với người có quyền thế. Người này phẫn nộ có thể sát hại tất cả loài quạ.

Nhưng nó cương quyết:

– Tôi không thể không làm được.

– Nếu không nghe tôi, rồi bạn sẽ được nếm mùi.

Nói vậy xong con quạ kia bay đi. Khi người Bà-la-môn đi đến dưới lầu canh, con quạ làm rơi phân trên đầu ông như làm rơi một tràng hoa. Vị Bà-la-môn phẫn nộ và nuôi lòng hận thù với loài quạ.

Lúc bấy giờ, một nữ tỳ được thuê để đập và phơi lúa giữa nắng. Tại cửa này nó ngồi để giữ lúa rồi ngủ gật. Biết nó không để ý, một con dê lông dài đi đến ăn lúa. Người nữ tỳ thức dậy, thấy con dê bèn đuổi đi. Lần thứ hai, lần thứ ba, khi người nữ tỳ đang ngủ như vậy, con dê lại đến ăn lúa. Người nữ tỳ, sau ba lần đuổi con dê, suy nghĩ: “Con vật này tiếp tục ăn, ăn hết nửa phần lúa, sẽ thiệt hại nhiều cho ta, nay ta sẽ chận con dê đến ăn lúa”. Nó đứng dậy lấy que lửa đánh con dê. Lông con dê bắt lửa. Con vật với thân bị cháy, chạy thật mau đến một kho chứa cỏ gần một chuồng voi để dập tắt lửa, và chà thân vào kho chứa cỏ làm cho kho cỏ cháy lên, và từ đó, bắt cháy qua chuồng voi. Khi chuồng voi bị cháy, lưng voi bị cháy, và nhiều con voi bị vết thương ở thân. Các thầy thuốc voi không thể nào chữa các con voi lành bệnh, báo cho vua biết. Vua hỏi vị cố vấn tế tự:

– Này Sư trưởng, các thầy thuốc không thể chữa trị các con voi lành bệnh. Khanh có biết thứ thuốc nào không?

– Thưa Ðại Vương, thần biết.

– Cần lấy thuốc gì?

– Thưa Ðại Vương, cần lấy mỡ quạ.

Vua nói:

– Vậy hãy giết quạ và đem mỡ quạ lại.

Từ đấy trở đi họ giết các con quạ nhưng không tìm được mỡ. Tại chỗ này chỗ khác, họ chất thây quạ thành đống. Một nỗi sợ hãi lớn khởi lên trong loài quạ. Lúc bấy giờ Bồ-tát sống với tám mươi ngàn con quạ vây quanh tại một khu rừng lớn dùng làm bãi tha ma. Một con quạ đến, báo cho Bồ-tát biết về sự sợ hãi khởi lên cho loài quạ. Bồ-tát suy nghĩ: “Ngoài ta ra, không có một ai có thể giải tỏa sự sợ hãi khởi lên cho bà con ta. Ta sẽ giải tỏa sự sợ hãi khủng khiếp ấy”. Rồi Bồ-tát hướng niệm mười Ba-la-mật, đề cao lòng từ Bà-la-mật, bay một mạch đến cung vua, vào cửa sổ mở lớn, và đến núp dưới chiếc ngai của vua. Lúc bấy giờ một người muốn bắt con quạ, nhưng vua vừa đi vào cung ngăn anh ta lại. Bậc Ðại Sĩ nghỉ mệt một lát, rồi niệm lòng từ Ba-la-mật, và từ dưới chiếc ngai đi ra, thưa với vua:

– Tâu Ðại Vương, một vị vua trị vì quốc độ không nên đi theo các dục v.v… Khi cần làm việc gì, phải quan sát, và rõ biết toàn bộ vấn đề, rồi mới làm. Nếu vị vua làm một việc không có kết quả thì không nên làm, vì công việc ấy đưa đến sợ hãi hoặc chết chóc cho mọi loài. Vị cố vấn tế tự bị hận thù xúi giục đã nói láo: Vì các con quạ không có mỡ.

Khi nghe nói vậy, vua rất bằng lòng với Bồ-tát, cho Bồ-tát ngồi trên ghế bằng vàng, tại đấy Bồ-tát được xoa đôi cánh với những loại dầu được nấu trăm lần ngàn lần, rồi cho Bồ-tát ăn các món thịt ngon dành cho vua, được đựng trong các bát đĩa bằng vàng. Sau khi cho Bồ-tát uống nước để được an lạc, vua nói với bậc Ðại Sĩ:

– Thưa bậc Hiền trí, ngài nói các loài quạ không có mỡ? Vì lý do gì chúng không có mỡ?

Bồ-tát nói:

– Vì lý do sau đây:

Với tiếng nói lớn vang dậy cả cung điện, Bồ-tát thuyết pháp qua bài kệ này:

Tâm thường bị chấn động,
Bị thế giới làm hại,
Do vậy không có mỡ,
Bà con quạ chúng tôi.

Như vậy, sau khi nói lên lý do này, bậc Ðại Sĩ dạy vua như sau:

– Thưa Ðại Vương, các vị vua chớ làm những việc gì mà không quan sát, không biết rõ toàn bộ vấn đề.

Nhà vua với tâm tư thỏa mãn, cúng dường Bồ-tát cả vương quốc. Nhưng Bồ-tát không nhận vương quốc của vua, dạy vua giữ Năm giới, và xin vua chớ làm cho mọi loài chúng sanh sợ hãi.

Vua xúc động trước những lời này nên ban lệnh tha chết cho mọi loài, và đặc biệt vua thường xuyên bố thí cho các loài quạ. Mỗi ngày vua bảo nấu sáu đấu gạo rồi nêm gia vị thơm ngon và bố thí cho bầy quạ. Riêng bậc Ðại Sĩ được ban các thứ đồ ăn chỉ mình vua dùng.

*

Sau khi kể pháp thoại này xong bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vua Ba-la-nại là Ànandà, và vua loài quạ là Ta vậy.

PHẨM KAKANTAKA

  1. CHUYỆN CON TẮC KÈ (Tiền thân Godha)

Giao du với kẻ ác…,

Câu chuyện này, khi ở tại Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư kể về Tỷ-kheo phản bội. Chuyện này giống như chuyện trong Tiền thân Mahihàmukha (số 26).

*

Thuở trước, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con cắc kè. Khi đến tuổi trưởng thành, Bồ-tát sống trong một cái hang lớn trên bờ sông, với vài trăm con tắc kè khác vây quanh. Bồ-tát có một con. Con tắc kè đực này làm bạn với một con kỳ nhông, sống thân mật với nó, và thường đi đến ôm quấn lấy nó. Sự thân mật ấy được báo lên cho cắc kè cha biết. Cắc kè chúa cho gọi con mình lên và nói:

– Này con thân, con thân tình với chỗ không đáng thân tình. Con kỳ nhông thuộc gia đình hạ tiện, không nên làm thân với chúng. Nếu con làm thân với con kỳ nhông ấy, toàn bộ gia đình cắc kè sẽ lâm nạn. Bắt đầu từ nay con chớ thân mật với nó.

Tuy vậy, cắc kè con vẫn thân với bạn như trước. Bồ-tát nói đi nói lại nhiều lần nhưng không thể ngăn cản sự thân mật của con mình với con kỳ nhông. Bồ-tát suy nghĩ: “Rất có thể, vì con kỳ nhông này, sự sợ hãi sẽ khởi lên cho chúng ta. Khi sự sợ hãi ấy khởi lên, ta phải tìm con đường chạy trốn”. Rồi Bồ-tát bảo đào một lỗ thông gió phía bên cạnh hang để có lối thoát khi cần.

Con cắc kè đực dần dần lớn với thân hình to lớn. Còn con kỳ nhông vẫn có thân thể nhỏ như xưa. Khi con cắc kè ôm chặt con kỳ nhông để hôn nó, con kỳ nhông có cảm giác như bị hòn núi đè nặng. Con kỳ nhông bị mệt mỏi, suy nghĩ: “Nếu con cắc kè ôm hôn ta như vầy vài ngày nữa, thì ta chết mất. Vậy ta hãy âm mưu với một người thợ săn để sát hại gia đình cắc kè này”.

Một hôm, nhân có cơn dông nổi lên giữa mùa hè, nhiều con kiến mối bay ra, và các con cắc kè từ chỗ này chỗ kia bò ra để ăn mồi. Một người thợ săn cắc kè, cầm cuốc để đào hang cắc kè, đi vào rừng với những con chó. Con kỳ nhông thấy người, liền nghĩ: “Hôm nay, ta sẽ thỏa mãn nguyện vọng của mình”. Nó liền bò đến, nằm không xa và hỏi:

– Thưa ông, ông vào rừng để làm gì?

Người thợ săn ấy nói:

– Ðể bắt các con cắc kè.

– Tôi biết một cái hang có hàng trăm con cắc kè, hãy đem lửa và rơm đến.

Rồi nó dẫn người thợ săn đến đấy và nói:

– Hãy bỏ rơm vào chỗ này, đốt lửa xông khói, đặt các con chó ở xung quanh. Ông hãy cầm một cái vồ lớn, đập các con cắc kè chạy ra, giết chúng và vun thành đống.

Nói vậy xong, nó nghĩ: “Hôm nay, ta sẽ thấy kẻ thù đại bại bỏ chạy”, nghĩ vậy xong, nó đến nằm một chỗ và ngóc đầu lên. Người thợ săn xông khói rơm và khói bay vào trong hang. Các con cắc kè bị khói làm mù mắt, hoảng sợ, bò ra với ý định chạy trốn. Người thợ săn đập các con chạy ra và giết hết. Những con nào chạy thoát tay anh ta, thì các con chó chận bắt. Ðại nạn khởi lên cho các con cắc kè. Bồ-tát biết rằng do con kỳ nhông, nên sợ hãi đã khởi lên, Bồ-tát than:

– Thật không nên giao du với loài ác độc. Do loài ác độc nên an lạc không có. Chính do một con kỳ nhông độc ác, các con cắc kè này bị hủy diệt.

Trong khi chạy trốn thông qua lỗ khói, Bồ-tát nói lên bài kệ:

Giao du với kẻ ác
Không đưa đến an lạc,
Do một con kỳ nhông,
Toàn gia đình cắc kè
Ðã rơi vào đại nạn.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con kỳ nhông là Ðề-bà-đạt-đa, cắc kè con của Bồ-tát không nghe lời giáo huấn là Tỷ-kheo phản bội, còn chúa loài cắc kè là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON CHÓ RỪNG (Tiền thân Sigàla)

Như vậy khó biết ngươi…,

Câu chuyện này, khi trú ở Trúc lâm, bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa âm mưu sát hại Phật. Khi nghe câu chuyện các Tỷ-kheo họp ở Chánh pháp đường bàn luận, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới âm mưu sát hại Ta. Trong quá khứ kẻ ấy cũng đã âm mưu như vậy rồi. Nhưng nó không thể giết Ta được, nó chỉ tự làm cực nhọc mình thôi.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Trong thời quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì nước Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra làm con chó rừng rồi trở thành chó rừng chúa, với đàn chó rừng vây quanh, sống tại một ngôi rừng dùng làm bãi tha ma. Lúc bấy giờ, ở Vương Xá có ngày hội lớn. Phần đông người ta đều uống rượu. Tại đây, một số người ăn chơi, cho đem nhiều rượu và thịt, mặc áo quần đẹp, uống rượu ăn thịt. Vào canh một, họ ăn hết thịt và còn lại nhiều rượu. Một người trong đám ấy nói:

– Hãy cho tôi thịt.

Khi nghe nói là thịt hết rồi, anh ta nói:

– Khi ta còn đứng ở đây thì thịt không thể hết được. Ta sẽ giết các con chó rừng đến ăn xác chết trong nghĩa địa này và đem thịt về.

Nói vậy, anh ta lấy một cái vồ, theo con đường ống cống, đi ra khỏi thành, đến bãi tha ma, cầm cái vồ và nằm xuống giả bộ chết. Lúc bấy giờ Bồ-tát với các con chó rừng đến vây quanh người ấy. Thấy người ấy, Bồ-tát nói:

– Người này không chết. Ta sẽ quan sát kỹ lưỡng hơn.

Bồ-tát đi đến phía dưới gió, ngửi mùi thân thể, biết đúng sự thật là người ấy chưa chết, liền suy nghĩ: “Ta sẽ làm cho nó xấu hổ”, liền đi đến, cắn đầu cái vồ và kéo. Kẻ ăn chơi ấy không thấy Bồ-tát đến, cứ nắm chặt cái vồ lại! Bồ-tát liền đến gần anh ta và nói:

– Hỡi ông kia, nếu ông đã chết thì khi ta kéo cái vồ, ông sẽ không nắm chặt lấy. Chính vì vậy, ta biết ông chưa chết.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ:

Như vậy, khó biết ngươi,
Khi ngươi nằm giả chết,
Khi ta kéo gậy ngươi,
Ngươi không thả chiếc gậy,
Do vậy ta biết được,
Nhà ngươi chưa thật chết!

Nghe nói vậy, kẻ ăn chơi ấy đứng dậy, lấy gậy ném Bồ-tát và nói:

– Con vật này biết ta chưa chết.

Cáy gậy ném không trúng. Người ăn chơi ấy nói:

– Hãy đi đi, lần này ngươi thoát khỏi tay ta.

Bồ-tát quay lại và nói:

– Này con người kia, phải, ta thoát tay ngươi. Nhưng ngươi không thể thoát được mười sáu địa ngục nhỏ trong đại địa ngục.

Nói vậy xong, Bồ-tát bỏ đi. Kẻ ăn chơi ấy không được một chút gì, đi ra khỏi bãi tha ma. Sau khi tắm trong một vũng nước, anh ta đi vào thành theo con đường đã đi tới trước.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, kẻ ăn chơi là Ðề-bà-đạt-đa, còn con chó rừng chúa là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CHIẾU SÁNG NHƯ MẶT TRỜI (Tiền thân Virocana)

Với óc não nát bấy…,

Câu chuyện này, khi trú ở Trúc Lâm, Bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa đóng vai trò bậc Thiện Thệ ở Gayàsìsa.

Khi thiền chứng biến mất, lợi dưỡng và danh vọng bị tiêu tan, Ðề-bà-đạt-đa đã nghĩ đến một phương tiện xin bậc Ðạo Sư chấp nhận cho năm pháp. Khi bị từ chối, vị ấy liền phá hòa hợp Tăng, bỏ đi đến Gayàsisa với năm trăm đệ tử của hai bậc Thánh đệ tử của đức Phật. Những đệ tử này mới xuất gia không bao lâu nên không thiện xảo trong Pháp và Luật. Vị ấy làm các Tăng sự riêng biệt với hội chúng này, trong một giới xứ riêng.

Bậc Ðạo Sư biết được trí của những người này đã đến thời thuần thục liền gửi hai đệ tử đầu tay đến đó. Khi thấy hai vị này, Ðề-bà-đạt-đa rất hoan hỷ, thuyết phát suốt đêm, và suy nghĩ: “Ta sẽ làm theo uy nghi đức độ của Phật, bắt chước bậc Thiện Thệ nói với hai vị đệ tử đầu tay:

– Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất, chúng Tỷ-kheo không hôn trầm, thụy miên, hãy thuyết pháp cho chúng Tỷ-kheo. Lưng ta đị đau mỏi, ta sẽ nằm nghỉ chốc lát.

Nói vậy xong, Ðề-bà-đạt-đa đi nằm nghỉ. Hai đệ tử đầu tay thuyết pháp cho các Tỷ-kheo, làm họ giác ngộ về đạo, về quả, và đem tất cả đi về Trúc Lâm.

Kokàlika thấy tinh xá trống không, liền đi đến gặp Ðề-bà-đạt-đa, và nói:

– Này Hiền giả Ðề-bà-đạt-đa, hội chúng của Hiền giả đã bị phá vỡ, hai vị đại đệ tử của Thế Tôn đã làm cho tinh xá trống không và đã đi rồi. Còn Hiền giả thì vẫn nằm nghỉ.

Nói vậy xong, Kokàlika lột thượng y của Ðề-bà-đạt-đa, đá vào ngực Ðề-bà-đạt-đa với gót chân, giống như đóng một cái nêm vào bức tường, khiến cho máu trào ra từ miệng vị ấy. Từ đó trở đi, Ðề-bà-đạt-đa bị đau luôn. Bậc Ðạo Sư hỏi vị Trưởng lão:

– Này Xá-lợi-phất, khi ông đến, Ðề-bà-đạt-đa đã làm gì?

– Bạch Thế Tôn, Ðề-bà-đạt-đa thấy chúng con, liền nói: Ta sẽ làm theo uy nghi đức độ của Phật, rồi bắt chước bậc Thiện Thệ và lâm vào nạn lớn.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Xá-lợi-phất, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới bắt chước Ta và gặp nạn. Thuở xưa, kẻ ấy cũng gặp nạn như vậy rồi.

Rồi theo lời Trưởng lão yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con sư tử có lông dài và trú ở hang Kancana (Vàng) trong núi Hy-mã. Một hôm, sư tử hang Vàng đi ra, duỗi thân nhìn bốn phương, rống tiếng rống của loài sư tử xong, liền nhảy đi tìm mồi. Sư tử giết một con trâu lớn, ăn phần thịt tốt nhất, đi xuống một cái hồ uống đầy bụng nước trong như pha lê, rồi đi về hang.

Một hôm một con chó rừng hấp tấp đi tìm mồi, thấy sư tử, không thể chạy trốn được, rơi xuống chân trước mặt sư tử và nằm xuống. Sư tử hỏi:

– Này chó rừng, ngươi muốn gì?

Con chó rừng nói:

– Thưa ngài, con muốn hầu hạ dưới chân ngài.

Sư tử nói:

– Tốt lắm, hãy đến hầu ta. Ta sẽ cho ăn phần thịt ngon.

Nói xong sư tử đem con chó rừng về hang Vàng. Từ đấy trở đi, con chó rừng ăn phần thịt còn lại của các con thú do sư tử giết. Sau một thời gian, chó rừng trở thành to lớn. Một hôm, đang nằm trong hang, sư tử nói:

– Này chó rừng, hãy đứng trên chóp núi nhìn, khi thấy các con voi, ngựa, trâu đang đi dưới chân núi, hễ con nào ngươi muốn ăn thịt, hãy đến nói: Con muốn ăn thịt con này.

Chó rừng đảnh lễ và leo lên chóp núi, nhìn các con thú, hễ thấy con nào nó muốn ăn thịt, nó liền đi vào hang Vàng và báo cho sư tử biết:

– Thưa ngài, có mồi rồi.

Sư tử lập tức nhảy đi, và dầu đó là con voi đang trong thời kỳ phát dục, sư tử cũng lập tức giết nó, tự mình ăn phần thịt ngon và cho chó rừng phần còn lại. Chó rừng ăn thịt đầy bụng, rồi đi vô hang nằm ngủ. Sau nhiều ngày đã qua, chó rừng trở thành kiêu mạn. Nó suy nghĩ: “Ta cũng là con thú có bốn chân. Vì sao, ngày lại ngày, ta sống nhờ loài khác nuôi dưỡng? Bắt đầu từ nay, ta sẽ giết các con voi v.v… và ăn thịt. Ta sẽ bảo sư tử nói với ta: Thưa ngài chó rừng, đã có mồi. Ta sẽ giết con voi tốt và ăn thịt”. Nghĩ vậy, nó đi đến bên sư tử và nói:

– Thưa ngài, đã lâu ngày, tôi ăn thịt các con voi tốt do ngài giết. Nay tôi muốn ăn thịt voi do tôi giết. Tôi sẽ nằm trong hang Vàng tại chỗ ngài nằm. Còn ngài xem có con voi nào đi dưới chân núi, thì ngài đến tôi và nói: Thưa ngài chó rừng, hãy bắt mồi.

Nó yêu cầu con sư tử chớ miễn cưỡng khi cho phép nó làm việc này.

Sư tử nói:

– Này chó rừng, khả năng giết các con voi thuộc gia đình sư tử. Ở đời chó rừng không có khả năng giết voi. Chớ ưa thích làm như vậy. Hãy sống và ăn thịt các con voi do ta giết.

Tuy sư tử nói như vậy, chó rừng không muốn từ bỏ ý định, vẫn tiếp tục yêu cầu. Su tử không thể ngăn chận, cuối cùng chấp thuận và nói:

– Vậy hãy vào chỗ của ta và nằm tại đấy.

Sau khi bảo chó rừng nằm trong hang Vàng, sư tử nhìn thấy con voi phát dục dưới chân núi, liền đến cửa hang và nói:

– Thưa ngài chó rừng, hãy bắt mồi.

Con chó rừng đi ra khỏi hang, duỗi thân, nhìn bốn hướng, hú lên ba lần, nhảy lên và nghĩ: “Ta sẽ cắn trên đầu con voi đang phát dục”, nhưng nó lại rơi xuống chân voi. Con voi giơ chân phải lên, đạp trên đầu con chó rừng, nghiền nát xương đầu thành bột. Rồi với cái chân, con voi đạp nát thân chó rừng làm thành một đống, đi đại tiện trên ấy, và rống lên rồi đi vào rừng. Bồ-tát thấy sự việc như vậy liền nói lên bài kệ:

Với óc não nát bấy,
Với đầu bị vỡ tan,
Với xương sườn gãy nát,
Nay ngươi đã mất đầu.

*

Sau khi nói bài kệ này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, con chó rừng là Ðề-bà-đạt-đa, còn con sư tử là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CÁI ÐUÔI BÒ (Tiền thân Nanguttha)

Ôi thần lửa sinh nhật…,

Câu chuyện này, khi trú tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về tà khổ hạnh của các tu sĩ tà mạng Àjivaka. Lúc bấy giờ, các du sĩ tà mạng đang sống hành tà khổ hạnh khác nhau sau lưng Kỳ viên. Một số lớn Tỷ-kheo thấy họ hành trì các tà khổ hạnh khác nhau như tinh tấn ngồi chồm hỗm, lắc qua lắc lại như dơi, nằm dựa trên gai, nướng thân với năm đống lửa, liền hỏi Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, do tà khổ hạnh này, có gì tốt chăng?

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, do tà khổ hạnh này, không có gì tốt cả. Các bậc Hiền trí thuở xưa, đã nghĩ rằng do khổ hạnh này sẽ có gì tốt hơn lên. Vì vậy, họ đem lửa sinh nhật vào rừng, nhưng họ không thấy có gì lợi lạc từ những pháp thờ lửa v.v… họ bèn dùng nước dập tắt lửa ấy. Nhờ lấy một đề tài thiền quán để tu tập và đắc các Thắng trí và các Thiền chứng, họ đạt cứu cánh Phạm thiên giới.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Trong thời quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn phương bắc. Ngày Bồ-tát sanh, cha mẹ đốt lên ngọn lửa sanh nhật và nuôi dưỡng lửa ấy. Khi Bồ-tát được mười sáu tuổi, cha mẹ ngài nói với con:

– Này con, chúng ta đã gìn giữ ngọn lửa sanh nhật của con. Nếu con muốn sống trong gia đình, hãy học ba tập Vệ-đà, nếu con muốn lên Phạm thiên giới, hãy lấy ngọn lửa, để được đại Phạm thiên ân sủng và đạt được cứu cánh Phạm thiên giới.

Bồ-tát nói:

– Con không thích đời sống gia đình.

Ngài cầm lấy lửa, đi vào rừng xây dựng một chòi am và sống trong rừng thờ lửa. Một hôm, Bồ-tát được cúng một con bò tại một làng biên địa, bèn dắt con bò ấy đến chòi am với ý định: “Ta sẽ cúng dường vị thần lửa ăn thịt con bò”. Rồi Bồ-tát suy nghĩ: “Ở đây không có muối. Thần lửa không thể ăn thịt mà không có muối. Ta sẽ đem muối ở làng về và cúng dường thần lửa đồ ăn có muối”.

Bồ-tát cột con bò tại đấy và đi đến làng để tìm muối. Trong khi Bồ-tát đi, nhiều người thợ săn đi đến tại chỗ ấy, thấy con bò, giết nó, nấu thịt ăn, và vứt lại đuôi, ống chân và da rồi mang theo thịt còn lại và ra đi. Vị Bà-la-môn trở về, chỉ thấy đuôi v.v… suy nghĩ: “Thần lửa này không thể hộ trì gia sản của chính mình, chắc không thể hộ trì ta được. Phải săn sóc ngọn lửa vô ích này, từ đây không tăng trưởng một điều tốt gì cho ta”.

Vì vậy, Bồ-tát mất hết mọi ý nguyện săn sóc ngọn lửa. Bồ-tát nói:

– Thưa thần lửa, nếu ngài không có thể hộ trì gia sản của ngài, làm sao ngài hộ trì tôi được? Thịt không còn, ngài phải tự bằng lòng với những vật này vậy.

Bồ-tát quăng đuôi vào lửa v.v… và đọc bài kệ này:

Ôi thần lửa sanh nhật,
Thần lửa không giá trị,
Ta chỉ cúng cái đuôi,
Hãy xem là nhiều vậy,
Các loại thịt xứng đáng
Hiện nay không có nữa,
Ngài hãy vui chấp nhận
Chỉ bộ phận cái đuôi!

Nói vậy xong, bậc Ðại Sĩ lấy nước dập tắt lửa, rồi xuất gia làm ẩn sĩ, chứng được các Thắng trí và các Thiền chứng, và đạt cứu cánh ở cõi Phạm Thiên.

*

Sau khi kể pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Vị khổ hạnh dập tắt ngọn lửa là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON VẸT RADHA (Tiền thân Radha)

Radha, em không biết…

Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về sự ái luyến người vợ cũ. Câu chuyện hiện tại sẽ được kể trong Tiền thân Indriya (số 423). Bậc Ðạo Sư gọi Tỷ-kheo ấy vào nói:

– Không thể canh giữ nữ nhân. Dầu có sắp đặt sự canh giữ, cũng không thể canh giữ được nữ nhân. Thuở xưa, ông có sắp đặt sự canh giữ đối với nữ nhân ấy nhưng không thể được; thì nay làm sao ông canh giữ nàng?

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm một con vẹt. Một Bà-la-môn ở Kàsi, nhận Bồ-tát và em của Bồ-tát như con trong nhà và nuôi dưỡng cả hai. Bồ-tát được đặt tên là Potthada và vẹt em tên là Ràdha. Vợ của vị Bà-la-môn ấy hành tà hạnh và ác giới.

Một hôm vị Bà-la-môn ấy ra đi vì một vài công việc, ông nói với anh em con vẹt:

– Này hai con thân, nếu nữ Bà-la-môn, mẹ của hai con, hành ác hạnh, hãy ngăn chận lại.

Bồ-tát nói:

– Thưa vâng, này cha thân. Nhưng nếu không ngăn được mẹ, con sẽ im lặng.

Như vậy, sau khi giao nữ Bà-la-môn cho các con vẹt trông coi, vị Bà-la-môn liền đi ra. Từ ngày người chồng ra đi, vợ vị Bà-la-môn bắt đầu hành tà hạnh, và người đi vào, người đi ra không dứt. Thấy hành động của nữ Bà-la-môn như vậy, Radha nói với Bồ-tát:

– Thưa anh, cha chúng ta có nói: Nếu mẹ chúng con hành ác hạnh, hãy ngăn chận lại. Nói vậy xong, cha chúng ta ra đi. Nay mẹ chúng ta hành ác hạnh, chúng ta hãy ngăn chận.

Bồ-tát nói:

– Này em thân, em nói toàn những lời ngu si. Dầu có bồng nữ nhân mà đi, cũng không thể an toàn được, vậy chớ làm.

Nói vậy xong, Bồ-tát đọc bài kệ:

Radha, em không biết
Nửa đêm mấy người đến?
Em nói không suy nghĩ.
Nữ Bà-la-môn ấy
Chỉ thiếu tình người vợ
Ðối với chồng của mình.

Sau khi trình bày như vậy, Bồ-tát không cho Radha nói với nữ Bà-la-môn. Ðến nửa đêm, nữ Bà-la-môn hành tà hạnh thỏa thích. Khi Bà-la-môn về, ông hỏi Potthapada:

– Này con thân, mẹ con như thế nào?

Bồ-tát thành thật kể cho vị Bà-la-môn rõ tất cả mọi việc và nói:

– Thưa cha thân, sao cha còn liên hệ với người ác giới như vậy?

Rồi Bồ-tát thưa thêm:

– Thưa cha thân, nay con đã nói lỗi lầm của mẹ chúng con rồi, chúng con không còn có thể ở đây nữa.

Nói vậy xong, Bồ-tát đảnh lễ chân vị Bà-la-môn, và cùng với Radha bay vào rừng.

*

Sau khi kể pháp thoại, bậc Ðạo Sư thuyết giảng Bốn Sự thật, và cuối bài thuyết giảng, vị Tỷ-kheo luyến ái người vợ cũ được an trú vào quả Dự lưu. Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Vị Bà-la-môn và nữ Bà-la-môn thời ấy là hai người hiện tại, Radha là Ànanda và Potthapada là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON QUẠ (Tiền thân Kaka)

Cổ chúng ta mệt mỏi…,

Câu chuyện này, khi tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về nhiều Tỷ-kheo lớn tuổi. Nghe nói khi các Tỷ-kheo ấy còn là cư sĩ, họ là những người điền chủ giàu có, tài sản lớn, là bạn thân với nhau, một dạ một lòng với nhau làm các công đức. Sau khi nghe Bậc Ðạo Sư thuyết pháp, họ nói:

– Chúng ta đã lớn tuổi, đời sống gia đình có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Chúng ta hãy xuất gia trong Giáo pháp hoàn thiện của đức Phật để chấm dứt đau khổ.

Rồi họ cho các con trai và con gái tất cả gia sản của họ và xin xuất gia. Khi bậc Ðạo Sư cho xuất gia, họ không làm đúng Sa-môn pháp như bậc xuất gia. Họ không thông hiểu Chánh pháp vì đã lớn tuổi. Giống như khi còn làm cư sĩ, họ làm một xóm nhà lá bên cạnh ngôi tinh xá, và cùng nhau ở đây. Khi họ đi khất thực, họ không đi đến chỗ nào khác hơn nhà những người con, người vợ của mình và ăn uống tại đây.

Người vợ cũ của một trong những vị này là người chủ hộ trì tất cả các vị Trưởng lão lớn tuổi. Do vậy những người còn lại đem theo đồ ăn mà mình đã khất thực được, ngồi tại nhà chủ hộ cùng ăn uống, với các món cà-ri, canh, do người chủ hộ cúng đường. Một hôm sau khi người vợ cũ ấy nhuốm bệnh và chết, các Trưởng lão lớn tuổi đi về tinh xá, ôm cổ nhau đi qua đi lại bên tinh xá và khóc:

– Ôi, người nữ cư sĩ tự tay cho ta các vị ngon ngọt đã mệnh chung.

Nghe tiếng họ khóc, các Tỷ-kheo đến hội họp lại chỗ ấy và hỏi:

– Thưa các Hiền giả, vì sao các Hiền giả khóc?

Họ nói:

– Vợ của người bạn chúng tôi tự tay cho các vị ngọt đã mệnh chung. Bà ấy là người chủ hộ lớn của chúng tôi. Từ đây chúng tôi không được gặp bà ấy nữa. Vì lý do ấy, chúng tôi khóc.

Thấy họ có tâm trạng bất xứng như vậy, các Tỷ-kheo tại Chánh pháp đường bắt đầu nói chuyện như sau: – Thưa các Hiền giả, do lý do này, các Trưởng lão Tỷ-kheo lớn tuổi ôm cổ nhau đi qua đi lại mà khóc.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, nay các ông ngồi họp ở đây, đang bàn câu chuyện gì?

Khi được nghe câu chuyện trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay các người ấy đi qua đi lại khóc nữ nhân ấy chết; trong quá khứ, khi nữ nhân ấy sanh làm con quạ và chết trong biển, họ cũng hăng hái tát cạn biển để cứu nó. Rồi họ được thần biển cứu tánh mạng.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm vị thần biển. Có một con quạ cùng vợ đi tìm mồi trên bờ biển. Lúc bấy giờ sau khi làm lễ cúng đường thần rắn với sữa, cơm, cá, thịt, rượu v.v… người ta đã bỏ đi. Cả hai đều say rượu. Chúng ngồi trên ven biển nô đùa và chúng bắt đầu tắm. Khi một ngọn sóng ào đến cuốn con quạ mái và nhận chìm nó xuống biển, thì một con cá đớp con quạ mái và ăn thịt. Con quạ trống khóc than và nói:

– Vợ tôi đã chết rồi.

Nhiều con quạ khác nghe tiếng khóc than của nó đều bu lại hỏi:

– Sao bạn than khóc vậy?

Con quạ trống nói:

– Bạn gái tôi đang tắm trên ven biển, thì bị sóng cuốn đi rồi.

Tất cả con quạ khác đều kêu to và khóc ròng. Rồi chúng suy nghĩ: “Nước biển này và chúng ta ai có khả năng hơn? Chúng ta hãy tát nước làm cho biển khô cạn và cứu bạn gái chúng ta”. Nghĩ vậy, chúng hút nước đầy miệng rồi nhổ ra ngoài. Khi cổ họng bị đắng chát vì nước biển, chúng bay lên trên đất liền để nghỉ. Hàm của chúng mệt mỏi, miệng khô cứng, mắt đỏ ngầu, mệt và buồn ngủ, chúng gọi lẫn nhau:

– Này các bạn, chúng ta lấy nước biển đem nhổ ra ngoài. Nhưng chỗ nước chúng ta lấy ra lại đầy nước lại ngay, chúng ta không có thể làm cho biển khô cạn được.

Nói vậy xong, chúng đọc bài kệ:

Cổ chúng ta mệt mỏi,
Miệng chúng ta khô cứng,
Cố tát cạn nước biển,
Biển lớn lại đầy tràn.

Nói như vậy xong, tất cả con quạ ấy bắt đầu tán thán con quạ mái:

– Ôi! Hình dáng đẹp như thế, tiếng dịu ngọt như thế, nên biển đã cướp mất nàng!

Khi chúng đang nói nhảm nhí như vậy, thần biển hiện lên với hình dáng khủng khiếp khiến chúng bỏ chạy. Nhờ vậy, chúng được an toàn.

*

Sau khi kể pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ con quạ mái là người vợ cũ này, con quạ trống là Trưởng lão Tỷ-kheo lớn tuổi, các con quạ là các Trưởng lão Tỷ-kheo lớn tuổi bạn của vị ấy, và thần biển là Ta vậy.

  1. CHUYỆN ÁO VẢI MÀU ÐỎ (Tiền thân Puppharatta)

Khổ này không phải khổ…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo luyến ái. Khi được Thế Tôn hỏi:

– Này Tỷ-kheo có thật chăng, ông có luyến ái?

Tỷ-kheo ấy trả lời có thật. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Luyến ái ai?

Tỷ-kheo trả lời:

– Bạch Thế Tôn, ái luyến người vợ cũ. Nữ nhân ấy, bạch là Thế Tôn, là người đã tự tay cho con các vị ngọt. Con không có thể sống mà không có nàng.

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này Tỷ-kheo, nữ nhân ấy không làm lợi cho ông. Thuở trước, vì nàng, ông đã bị đâm và phơi thây trên cọc nhọn. Chính vì ông khóc nàng khi ông chết, nên ông đã tái sanh vào địa ngục. Vậy nay sao ông lại luyến ái nàng?

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm vị thần tiên trên hư không. Thời ấy, tại Ba-la-nại có ngày lễ hội đêm rằm tháng Kattika (tháng mười). Thành phố được trang hoàng như thành phố chư Thiên. Tất cả dân chúng đều vui chơi hội lớn. Có một người nghèo khổ chỉ có một cặp áo vải thô, đã được giặt và ủi đến độ trở thành trăm thành ngàn đường lằn. Vợ anh ta nói với anh ta:

– Thưa chàng, em muốn có áo màu đỏ cây Kasumbha, và đắp áo ấy, ôm cổ chàng đi chơi lễ hội đêm Kattika.

– Này hiền thê, chúng ta nghèo, sao có được vải màu đỏ Kasumbha? Hãy đắp vải sạch này và đi chơi.

– Không có được vải Kasumbha thì chúng ta không đi chơi đâu cả. Chàng hãy lấy một nữ nhân khác mà đi chơi hội.

– Này hiền thê, sao làm khổ ta vậy, làm sao chúng ta có được vải Kasumbha?

– Này chàng, khi người ta muốn, sao lại không có được? Chẳng phải trong nhà kho của vua có rất nhiều vải Kasumbha đó sao?

– Này hiền thê, chỗ ấy chẳng khác gì một hồ nước do Dạ-xoa canh giữ, có quân lính canh giữ, không thể đi đến được. Chớ ham thích như vậy. Hãy tự bằng lòng với những gì nàng có được.

– Chàng ôi, ban đêm tối trời thì có ai ngăn chận được người muốn đến nơi mình thích?

Như vậy do người vợ nói đi nói lại mãi, và chịu ảnh hưởng lời nài nỉ của nàng, người chồng an ủi vợ:

– Thôi được, hiền thê chớ nghĩ ngợi gì nữa.

Vào ban đêm, không kể đến mạng sống, người chồng đi khỏi thành, đến kho của vua, phá hàng rào và vào trong kho. Những người canh gác nghe tiếng hàng rào bị phá, liền bao vây kẻ trộm, bắt được anh ta, mắng chửi, đập đánh, và trói anh ta. Khi trời vừa sáng, họ bắt dẫn anh ta đến trước nhà vua. Vua bảo:

– Hãy đem đâm nó vào cọc nhọn.

Họ trói cánh tay anh ta ra đằng sau, dắt anh ta đi ra khỏi thành với tiếng trống hành quyết, và đâm anh ta vào cọc nhọn. Anh ta cảm thấy rất đau đớn. Các con quạ đậu trên đầu mổ con mắt anh ta với mỏ sắc bén như kiếm. Nhưng anh ta không nghĩ gì đến sự đau đớn như vậy, mà chỉ nghĩ đến nữ nhân ấy: “Ta mất đi chơi hội Kattika ban đêm với nàng mặc áo màu hoa đỏ và với cánh tay của nàng ôm ở cổ ta “, vì vậy, anh ta đọc bài kệ:

Khổ này không phải khổ,
Vì cọc nhọn đâm ta,
Vì ta bị quạ mổ!
Chính điều này mới khổ:
Vì vợ ta không thể
Vui chơi ngày hội lớn
Với áo màu hồng đỏ!

Như vậy, anh ta nói lời lảm nhảm về vợ mình, rồi chết và tái sanh vào địa ngục.

*

Sau khi kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Hai vợ chồng thời ấy là hai vợ chồng ngày nay, và vị thần tiên đứng trên hư không chứng kiến câu chuyện này chính là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CON CHÓ RỪNG (Tiền thân Sigàlà)

Ta không còn làm nữa…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về sự nhiếp phục phiền não.

Nghe nói ở Xá-vệ có khoảng năm trăm người triệu phú giàu có thân thiết với nhau, sau khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, liền hiến dâng tâm lên Giáo pháp, xuất gia, sống ở Kỳ Viên, trong ngôi tinh xá được ông Cấp Cô Ðộc trải vàng giá bạc triệu. Một hôm vào khoảng nửa đêm, tâm tư liên hệ đến phiền não dục vọng khởi lên trong nhóm người ấy, họ khởi tâm tham luyến những phiền não dục vọng mà họ đã từ bỏ.

Cũng vào giờ ấy, bậc Ðạo Sư, khơi dậy ngọn đuốc nhất thiết trí, suy nghĩ xem các Tỷ-kheo ở Kỳ Viên đêm nay sống như thế nào. Ngài biết được các tư tưởng tham dục nổi lên trong các Tỷ-kheo ấy. Như người mẹ đối với đứa con duy nhất của mình, như người một mắt đối với con mắt còn lại, bậc Ðạo Sư bảo vệ các đệ tử của mình vào những buổi sáng hay bất cứ lúc nào, khi các phiền não khởi lên trong các đệ tử, với mục đích không để cho chúng lớn lên. Chính trong thời gian ấy, bậc Ðạo Sư chặn đứng chúng lại. Do vậy, bậc Ðạo Sư suy nghĩ: “Ðây cũng giống như thời các tên trộm nổi lên trong nội thành của vua Chuyển luân; nay Ta hãy thuyết pháp cho họ, chặn đứng các phiền não lại và khiến họ chứng quả A-la-hán”!

Rồi bậc Ðạo Sư từ Hương phòng bước ra, với âm thanh dịu ngọt gọi Trưởng lão Ànanda, vị Thủ kho Chánh Pháp:

– Này Ànanda!

– Bạch Thế Tôn dạy bảo việc gì?

Trưởng lão đi đến đảnh lễ và đứng một bên.

– Này Ànanda, hãy tập họp tại Hương phòng tất cả các Tỷ-kheo trú ở chỗ được trải vàng giá bạc triệu. Theo truyền thuyết bậc Ðạo Sư suy nghĩ như sau: “Nếu Ta chỉ cho gọi năm trăm Tỷ-kheo ấy mà thôi, họ sẽ nghĩ: “Bậc Ðạo Sư đã biết các phiền não khởi lên trong nội tâm chúng ta”. Tâm tư họ sẽ bị dao động và sẽ không có thể chấp nhận pháp thoại”. Do vậy bậc Ðạo Sư nói:

– Hãy mời tất cả.

Trưởng lão đáp:

– Thưa vâng, bạch Thế tôn.

Vị ấy cầm lấy chìa khóa đi từ phòng này đến phòng khác, mời tất cả chúng Tỷ-kheo họp tại Hương phòng rồi sửa soạn Phật tọa. Bậc Ðạo Sư ngồi trên Phật tọa đã được sửa soạn, lưng thẳng như núi Tu-di, an trú trên đất bằng đá tảng, chói tỏa hào quang Phật sáu sắc từng đôi vòng, đôi vòng một. Những hào quang ấy được chia cắt thành những khối lớn bằng cái dĩa, lớn bằng cái lọng, lớn bằng thân của ngọn tháp, chói tỏa như chớp sáng trên bầu trời, chẳng khác gì khi mặt trời mới mọc khua động đáy biển sâu.

Chúng Tỷ-kheo đảnh lễ bậc Ðạo Sư, an trú tâm cung kính, ngồi xuống vây quanh Ngài như tấm màn màu đỏ giăng bủa. Bậc Ðạo Sư với Phạm âm bảo các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, chớ trầm tư ba tầm bất thiện này: đó là dục tầm, sân tầm, hại tầm. Chớ nghĩ rằng phiền não khởi lên trong nội tâm là nhỏ mọn. Phiền não giống như kẻ thù và kẻ thù không bao giờ nhỏ bé, nếu có được cơ hội, kẻ thù sẽ gây nên tác hại. Cũng như phiền não dù nhỏ bé đã khởi lên, và lớn mạnh thì sẽ gây tác hại. Phiền não ví như thuốc độc làm chết người, như mụt ngứa mọc trên da, như con rắn lục, như lửa sét đánh, chớ nắm giữ lấy, nên sợ hãi chúng. Khi nào phiền não khởi lên thì với sức mạnh của giác sát, với sức mạnh của tu tập, chớ để nó ở trong tâm dù chỉ một khoảnh khắc, như vậy, phải loại trừ nó như giọt nước rơi khỏi lá sen. Các bậc hiền trí thuở xưa ghét bỏ phiền não, dầu nó hết sức nhỏ mọn, cũng không cho nó khởi lên trong nội tâm và lập tức chế ngự phiền não ấy.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể lại câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con chó rừng, sống trong rừng trên một bờ sông. Thời ấy một con voi già chết trên bờ sông Hằng, khi con chó rừng đi tìm mồi, nó thấy xác chết ấy và nghĩ: “Nay ta được cả kho đồ ăn”.

Nó đi đến, cắn cái vòi, giống như cắn cái cày. Nó nghĩ: “Ðấy không phải là đồ ăn được.” Nó cắn cái ngà giống như cắn cái xương. Nó cắn cái tai giống như cắn cái vành thúng sàng lúa. Nó cắn cái bụng giống như cái thúng đựng hạt. Nó cắn cái chân giống như cắn cái cối. Nó cắn cái đuôi giống như cắn cái chày. Nó nghĩ: “Ðây không phải là món ăn được”.

Sau khi không tìm được chỗ nào khác có thể ăn, nó cắn nhằm chỗ đại tiện thì giống như cắn cái bánh mềm. Nó nghĩ: “Cuối cùng ta mới tìm được chỗ mềm trên cái thân này”. Nó ăn từ chỗ ấy trở đi vào trong bụng rồi ăn quả thận, quả tim v.v…; khi nó khát, nó uống máu. Nó nằm dài trong bụng voi để ngủ. Rồi nó suy nghĩ: “Thân con voi này giống như cái nhà khiến ta sống thoải mái. Khi ta muốn ăn thì thịt rất đầy đủ. Vậy sao ta lại phải làm chỗ ở khác?”. Nghĩ vậy, con chó rừng không đi đến chỗ khác, cứ ăn thịt trong bụng con voi, và sống ở đấy.

Thời gian trôi qua, với sự xúc chạm gió mùa hạ và sức nóng tia sáng mặt trời, thân xác ấy bị khô và nhăn nhúm lại. Cửa vào của chó rừng bị đóng kín. Bụng con voi không có ánh sáng. Con chó rừng như vậy sống cách biệt với thế giới bên ngoài. Khi thân xác con voi khô héo, thịt bị khô héo, máu bị khô cạn, không tìm được lối thoát ra, nó hoảng sợ, chạy qua chạy lại đập chỗ này chỗ kia, cố tìm cửa để thoát ra. Như vậy nó trồi lên sụp xuống trong bụng con voi như một cục bột trong cái nồi đang sôi.

Sau một vài ngày một cơn mưa lớn đổ xuống, làm mềm thân xác ấy, làm nó phồng lên và trở lại hình thái cũ. Con đường đại tiện con voi được mở ra và hiện rõ như sao chói sáng. Con chó rừng thấy lỗ mở ấy liền nói:

– Nay ta được cứu sống rồi.

Từ đầu con voi nó nhảy tới, chạy mau vụt ra, đầu đập vào con đường đại tiện ấy và thoát ra ngoài. Nhưng tất cả lông trên thân bị bầm dập đều dính vào con đường đại tiện ấy. Với tâm tư dao động, với cái thân trụi lông như thân cây thốt nốt, nó chạy một lát và ngồi xuống, quay lại nhìn cái thân mình suy nghĩ: “Khổ này do ta tạo, không do ai khác, chỉ vì tham, vì y cứ vào tham nên ta làm như thế ấy. Từ nay trở đi, ta sẽ không để cho tham chi phối nữa, và ta cũng sẽ không đi vào xác con voi nào nữa”.

Với tâm tư xúc động kinh hoàng, nó nói lên bài kệ:

Ta sẽ không làm nữa,
Ta không làm, làm nữa,
Ta thấy xác con voi,
Như vậy ta hoảng sợ.

Nói xong, con chó rừng chạy xa xác con voi và nếu có thấy xác một con voi khác, nó cũng không quay nhìn lại. Từ đấy về sau, nó không còn bị lòng tham chinh phục nữa.

*

Sau khi kể pháp thoại, Bậc Ðạo Sư nói với các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, chớ để cho phiền não nội tâm tăng trưởng. Ngay tại chỗ, hãy nhiếp phục chúng.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư trình bày Bốn sự thật, và cuối bài giảng ấy, năm trăm Tỷ-kheo ấy chứng được quả A-la-hán. Trong số Tỷ-kheo còn lại, một số chứng quả Dự lưu, một số chứng quả Nhất Lai, một số chứng quả Bất Lai.

Và bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Con chó rừng thời ấy là Ta vậy.

  1. CHUYỆN CÂY MỘT LÁ (Tiền thân Ekapanna)

Cây này chỉ một lá…,

Câu chuyện này, khi trú tại ngôi nhà có nóc nhọn ở Ðại Lâm, gần Tỳ-xá-ly (Vesàli), bậc Ðạo Sư đã kể về một hoàng tử Licchavi độc ác ở Tỳ-xá-ly.

Lúc ấy, thành Tỳ-xá-ly được ba bức thành vây quanh, cách nhau khoảng một phần tư dặm, có ba cửa với các tháp canh, được phồn thịnh phi thường. Tại đấy, luôn luôn có bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy vị vua cai trị các vương quốc, với số phó vương tướng quân, chủ ngân hàng cũng tương đương như vậy. Trong các hoàng tử của các vua ấy, có một hoàng tử được mệnh danh là Hoàng Tử Ðộc ác Licchavi hay phẫn nộ, hung bạo, độc ác, luôn luôn nổi trận lôi đình dùng hình phạt, như một con rắn độc điên cuồng. Trước mặt hoàng tử khi phẫn nộ, không ai có thể nói hai ba lời. Ngay cả cha mẹ, bà con và bạn bè thân hữu, không ai có thể dạy chàng được. Rồi cha mẹ chàng suy nghĩ: “Ðứa trẻ này quá độc ác hung hãn. Ngoài bậc Chánh Ðẳng Giác, không một ai có thể nhiếp phục nó”. Rồi cha mẹ dẫn thái tử đến bậc Ðạo Sư đảnh lễ và thưa:

– Bạch Thế Tôn, đứa trẻ này hung bạo ác độc, hay nổi cơn phẫn nộ, xin Ðạo Sư hãy khuyên dạy nó.

Bậc Ðạo Sư dạy bảo thái tử ấy như sau:

– Này thái tử, làm người chớ nên hung hãn, độc ác, thô bạo, giận dữ. Người lời ác ngữ là xử sự không thân ái, không đẹp ý đối với cha mẹ, đối với con cái, đối với anh chị em, ngay cả vợ chồng, bạn bè hay bà con cũng vậy. Kẻ hung dữ như con rắn vươn lên để cắn, như kẻ cướp rình rập trong rừng, như con Dạ-xoa nhảy lên để vồ mồi. Những ai hung hãn, độc ác… tâm sẽ bị dao động, hoảng hốt, nên lúc chết, sẽ tái sanh vào địa ngục, ác thú v.v… Người phẫn nộ ngay trong hiện tại, dầu được tô điểm trang sức, vẫn xấu xa. Mặt nó dầu có đẹp như vầng trăng tròn cũng trở thành xấu xí như hoa sen bị cháy sém, cũng như gương tròn bằng vàng bị nhơ bẩn. Do phẫn nộ làm cho hung dữ, chúng sanh cầm kiếm tự chém mình, uống thuốc độc, treo cổ, nhảy xuống vực sâu. Như vậy, do phẫn nộ chi phối, khi mệnh chung, chúng sanh đọa vào địa ngục v.v… Do làm cho người khác tổn thương, ngay trong hiện tại chúng bị ghét bỏ, và sau khi chết chúng đọa vào địa ngục v.v… Nếu được tái sanh làm người, ngay lúc chúng ra đời, chúng bị nhiều đau bệnh. Với các chứng bệnh như bệnh đau mắt, bệnh đau tai v.v… bắt đầu với một bệnh, chúng rơi vào một bệnh khác, không bao giờ thoát khỏi bệnh. Chúng bị đau khổ thường xuyên. Do vậy, mọi chúng sanh cần phải tu tập tâm từ bi, tâm lợi ích. Tu tập như vậy, họ sẽ được giải thoát khỏi sự sợ hãi về địa ngục.

Thái tử được giáo giới như vậy; chỉ một lần giáo giới này, kiêu mạn được loại trừ, thái tử được nhiếp phục; chàng trở thành nhu mì, có tâm từ bi, nhu thuận, không còn mắng chửi đánh đập ai, như rắn có nanh bị nhổ ra, như con cua bị gãy càng, như con bò đực bị gãy sừng.

Khi được tin về tính tình thái tử thay đổi như vậy, các Tỷ-kheo bắt đầu nói chuyện tại Chánh pháp đường:

– Thưa các Hiền giả, cha mẹ và các bà con thường xuyên dạy bảo thái tử Licchavi Ðộc ác từ lâu, nhưng không nhiếp phục được thái tử. Nhưng bậc Chánh Ðẳng Giác chỉ với một lần giáo giới đã nhiếp phục khiến chàng trở thành nhu mì, chẳng khác gì tạo sáu nhân duyên hàng phục các con voi điên loạn ngay lập tức. Lời khéo nói như con voi được nhiếp phục, được chế ngự bởi người huấn luyện voi, bảo nó chạy phương nào thì nó chạy phương ấy, như con ngựa được nhiếp phục… như con bò được nhiếp phục, được chế ngự bởi người huấn luyện bò, bảo nó chạy phương nào thì nó chạy phương ấy. Cũng vậy này các Hiền giả, con người được nhiếp phục, được chế ngự bởi đức Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, khiến con người chạy theo tám phương, khiến con người có sắc thấy các sắc ở ngoài tự thân. Như vậy là đức Phật và chỉ đức Phật mới được gọi là bậc vô thượng trong các Ðạo Sư huấn luyện, bậc đánh xe điều ngự những ai đáng được điều ngự. Này các Hiền giả, không có một bậc đánh xe điều ngự những ai đáng được điều ngự giống bậc Chánh Ðẳng Giác.

Trong khi hội chúng đang tán thán công đức của Như Lai trong Pháp đường thì bậc Ðạo Sư đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, này các ông ngồi họp ở đây đang bàn vấn đề gì?

Và khi nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay ta mới nhiếp phục hoàng tử chỉ với một lần giáo giới, mà thuở xưa cũng vậy.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn phương bắc. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài đi học tại Takkasilà được dạy ba tập Vệ-đà và tất cả các tài nghệ, rồi làm gia chủ trong một thời gian. Sau khi cha mẹ mệnh chung, Bồ-tát xuất gia làm vị ẩn sĩ, đạt được các Thắng trí và Thiền chứng và sống ở Tuyết Sơn. Tại đấy, Bồ-tát sống lâu ngày, rồi vì cần dùng muối, giấm, Bồ-tát đi xuống con đường của dân chúng, đến Ba-la-nại và ở công viên của vua.

Ngày hôm sau, khéo vấn, khéo đắp chiếc áo vỏ cây tốt nhất, đầy đủ dáng điệu của người khổ hạnh, Bồ-tát đi vào thành để khất thực, và đến cửa cung vua. Vua nhìn qua cửa sổ thấy Bồ-tát, hoan hỷ với uy nghi cử chỉ của vị ẩn sĩ: “Vị tu khổ hạnh này, với căn thanh tịnh, với ý thanh tịnh, chỉ nhìn trong khoảng một tầm, bước từng bước một như đang đặt xuống một túi đựng một ngàn đồng vàng, đi đến với dáng điệu uy nghiêm của con sư tử. Nếu tịnh pháp có mặt ở một nơi nào, tịnh pháp phải có mặt ở trong người này”. Sau khi suy nghĩ như vậy, vua nhìn một vị đại thần. Vị ấy hỏi:

– Thưa Thiên tử, thần cần làm gì?

– Hãy mời vị khổ hạnh này đến.

– Thưa vâng, Thiên tử.

Vị đại thần ấy đi đến gặp Bồ-tát, đảnh lễ, cầm lấy bát khất thực. Bồ-tát hỏi:

– Thưa bậc đại phước, có việc gì?

– Thưa Tôn giả, đức vua cho mời ngài.

Bồ-tát nói:

– Chúng tôi không đi đến cung vua, trú xứ của chúng tôi ở tại Tuyết Sơn.

Người đại thần đi về và tâu lại vua rõ. Vua nói:

– Nay chúng ta không có người cố vấn trong cung vua. Hãy mời vị ấy đến.

Vị đại thần đi đến, đảnh lễ Bồ-tát, và yêu cầu ngài vào cung điện của vua. Vua đảnh lễ Bồ-tát, mời Bồ-tát ngồi trên ngai vàng, dưới một lọng trắng uy nghiêm, đãi Bồ-tát dùng các món ăn đặc biệt dành riêng cho mình, rồi hỏi:

– Thưa Tôn giả, Tôn giả ở đâu?

– Thưa Ðại vương, chúng tôi ở Tuyết Sơn.

– Nay Tôn giả đi đâu?

– Thưa Ðại vương, chúng tôi đang tìm một trú xứ thích hợp cho mùa mưa.

– Thưa Tôn giả, hãy ở lại công viên của chúng tôi.

Sau khi được Bồ-tát chấp nhận, vua ăn xong rồi đưa Bồ-tát đi đến công viên, cho dựng một thảo am, làm phòng ở ban đêm, phòng ở ban ngày, cung cấp tám dụng cụ cho người xuất gia. Sau khi giao trách nhiệm cho người giữ công viên, vua đi vào thành. Từ đấy trở đi, Bồ-tát sống ở công viên, mỗi ngày vua đi đến hầu thăm hai ba lần.

Vua có một thái tử độc ác, hung bạo, mà vua cũng như các người bà con, các vị đại thần khác không thể nhiếp phục. Tất cả đại thần, Bà-la-môn, dân chúng đều đã nêu rõ những lỗi lầm của tánh tình thái tử nhưng vô hiệu. Chàng không lưu ý đến lời khuyên can của ai. Rồi vua suy nghĩ: “Ngoài vị tu khổ hạnh đáng kính, có giới đức của ta, không một người nào khác có thể nhiếp phục được hoàng tử này. Vị tu khổ hạnh ấy sẽ nhiếp phục hoàng tử”. Nghĩ vậy, vua đưa thái tử đến gần Bồ-tát và thưa:

– Thưa Tôn giả, thái tử này hung bạo, độc ác. Chúng tôi không có thể nhiếp phục nó. Mong ngài tìm một phương tiện dạy bảo nó.

Vua giao thái tử cho Bồ-tát rồi ra đi. Bồ-tát đưa hoàng tử cùng đi chơi trong công viên và đến một mầm cây Nimba (loại cây có lá rất đắng) mới mọc lên từ hột giống, chỉ có hai lá, một lá phía bên này, một lá phía bên kia. Thấy cây ấy, Bồ-tát nói với thái tử:

– Này thái tử, hãy ăn lá của cây con này và xem vị của nó thế nào?

Thái tử lấy một lá của cây ấy, nhưng vừa đặt vào miệng và biết được vị, liền nhổ nó ra dưới đất với nước miếng kèm theo lời nguyền rủa. Bồ-tát hỏi:

– Này thái tử, lá ấy thế nào?

Thái tử đáp:

– Thưa Tôn giả, cây ấy như thuốc độc giết người, nếu lớn lên, nó sẽ làm chết nhiều người.

Rồi thái tử nhổ cây con ấy lên, với hai tay chà nát nó và nói lên bài kệ:

Cây này chỉ một lá,
Cách đất bốn đốt tay,
Lá nó giống thuốc độc,
Lớn lên sẽ làm gì?

Sau đó Bồ-tát nói với thái tử:

– Này thái tử, đối với cây nimba bé nhỏ này, thái tử nghĩ rằng: nay cây đắng như vậy, khi nó lớn lên, thì cũng chẳng dùng được việc gì phải không? Vì vậy nên chính thái tử đã nhổ cây ấy lên, và chà nát. Cũng như thái tử đã xử sự đối với cây này, những người ở trong nước sẽ nghĩ về thái tử: Rằng khi còn trẻ đã hung bạo, độc ác như vậy, thì khi lớn lên, được làm vua, thái tử sẽ như thế nào nữa? Chúng ta dựa vào thái tử ấy, thì sự trưởng thành của ta sẽ đi đến đâu? Họ sẽ không cho thái tử trị vì quốc độ thuộc sở hữu gia đình, sẽ nhổ bứng thái tử lên như cây nimba con, và đuổi thái tử ra khỏi nước. Do vậy, hãy từ bỏ tánh xấu giống như cây nimba. Bắt đầu từ nay, hãy đầy đủ lòng kiên nhẫn, từ bi, hòa ái.

Thái tử từ đấy trở đi bỏ kiêu mạn, trở nên hiền lành, đầy đủ lòng kham nhẫn, từ bi, hòa ái, an trú vững chắc trên lời khuyên răn của Bồ-tát. Sau khi phụ vương mệnh chung, chàng hưởng quốc độ, trọn đời làm các công đức, rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ta mới nhiếp phục vị thái tử Licchavi ác độc, trong thời quá khứ, Ta cũng đã làm như vậy.

Rồi bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Lúc bấy giờ, thái tử Ác độc ấy là thái tử Licchavi này, vua là Ànanda, còn vị tu khổ hạnh đã giáo giới thái tử chính là Ta vậy.

  1. CHUYỆN THANH NIÊN SANJIVA (Tiền thân Sanjiva)

Ai theo kẻ bất thiện…,

Câu chuyện này, khi ở Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư đã kể về vua A-xà-thế (Ajàtasattu) theo phe kẻ bất thiện. Vua đã tin tưởng Ðề-bà-đạt-đa, kẻ theo ác giới, kẻ phản lại các đức Phật và vì theo phe kẻ bất thiện, phi chân nhân ấy, vua đã tôn trọng vị ấy, tiêu phí nhiều tài sản để xây dựng một tinh xá ở Gayàsisa. Theo lời khuyên ác của Ðề-bà-đạt-đa, vua đã giết phụ thân là một vị vua theo Chánh pháp, một Thánh đệ tử đã chứng quả Dự lưu, do đó đã tự mình cắt đứt cận duyên chứng quả Dự lưu, và sẽ gặp tai họa lớn.

Khi nghe Ðề-bà-đạt-đa đã bị đất nuốt sống, vua suy nghĩ: “Ta cũng có thể bị đất nuốt”, liền hoảng hốt lo sợ, không vui trong vương vị, ngủ không yên giấc, đi lang thang, hoảng hốt run rẩy như con voi con bị những hình phạt sắc bén. Trong tưởng tượng, vua thấy như đất nứt nẻ ra, như lửa địa ngục A-tỳ (Avìci) phun lên, như mình bị đất nuốt xuống, như mình bị bắt nằm ngửa trên tấm đồng nung đỏ, như bị các cây gậy sắt đâm xuyên vào thân. Như một con gà trống bị thương tích, không giây phút nào vua không run sợ.

Vua muốn đến yết kiến bậc Chánh Ðẳng Giác, muốn cầu hòa với Ngài và xin Ngài hướng dẫn, nhưng không thể đi đến gần Ngài vì tội lỗi quá lớn.

Nhân ngày lễ hội Kattika đêm rằm tháng mười, thành Vương Xá được thắp đèn và trang hoàng như thành phố chư Thiên, khi vua ngự trên ngai vàng với quần thần vây quanh trong cung điện lớn, và thấy Jìvaka ngồi không xa bao nhiêu, vua suy nghĩ: “Ta sẽ đem Jìvaka đi theo yết kiến bậc Chánh Ðẳng Giác. Nhưng ta không có thể nói thẳng: Này bạn Jìvaka, ta không muốn đi một mình. Hãy đưa ta đến bậc Ðạo Sư. Ta hãy dùng phương tiện tán thán đêm đẹp trời và sẽ nói: Hôm nay, chúng ta nên đến chiêm bái vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào có thể làm tâm chúng ta được an lạc? Nghe ta nói, các đại thần sẽ tán thán bậc Ðạo Sư của mình. Và Jìvaka sẽ tán thán bậc Chánh Ðẳng Giác, và ta sẽ đem Jìvaka theo và sẽ đi đến bậc Ðạo Sư”.

Vì vậy, vua tán thán đêm ấy với năm câu kệ:

Thật là điềm lành thay,
Ðêm rằm sáng trăng này!
Thật là diễm lệ thay,
Ðêm rằm sáng trăng này!
Thật là quyến rũ thay,
Ðêm rằm sáng trăng này!
Thật là thích thú thay,
Ðêm rằm sáng trăng này!
Thật là khả ái thay,
Ðêm rằm sáng trăng này!

Hôm nay chúng ta nên đến chiêm bái vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào để vị ấy làm tâm chúng ta được an lạc?

Một đại thần tán thán Puràna Kassapa (Phú-lan-na Ca-diếp), một đại thần tán thán Makkhali Gosala (Mạc-già-lê Cù-xá-lợi), một đại thần tán thán Ajita Kesakambala (A-kỳ-đa Kỳ-xá-khâm-bà-la), một đại thần tán thán Kakudha Kaccàyana (Bà-phu-đà Ca-chiên-diên), một đại thần tán thán Sanjaya Belatthiputta (Tán-nhã-di Tỳ-la-lê-phất), một đại thần tán thán Nigantha Nataputta (Ni-kiền-đà Nhã-đề-tử).

Vua nghe các đại thần ấy nhưng vẫn im lặng. Vua chờ đợi đại thần Jìvaka nói. Nhưng Jìvaka ngồi không xa, suy nghĩ: Không biết vua có chờ đợi mình nói hay không, nên Jìvaka vẫn ngồi im lặng. Cuối cùng vua nói với đại thần Jìvaka:

– Này Hiền khanh Jìvaka, sao khanh không nói gì?

Khi ấy Jìvaka từ chỗ ngồi đứng dậy, chấp tay vái về hướng Thế Tôn và thưa:

– Thưa Thiên tử, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, nay đang trú ở rừng xoài của chúng thần với một ngàn ba trăm năm mươi Tỷ-kheo. Tiếng đồn tốt đẹp như vậy được truyền đi về Thế Tôn.

Sau khi nói lên chín đức tánh bắt đầu từ A-la-hán, Jìvaka trình bày những tướng tốt v.v… từ khi sanh ra, uy lực của Thế Tôn đã vượt hẳn mọi dự đoán và mong đợi trước kia, rồi thưa:

– Thiên tử hãy đi đến chiêm bái Thế Tôn, nghe pháp và hỏi đạo.

Vua được toại ý liền nói:

– Này bạn Jìvaka, hãy cho thắng voi vào các cỗ xe.

Sau khi các cỗ xe được thắng xong, vua đi đến rừng xoài của Jìvaka với uy nghi của một vị vua. Thấy Thế Tôn được vây quanh với chúng Tỷ-kheo, với hương hoa, vòng hoa, nhìn thấy chúng Tỷ-kheo ở mọi nơi không dao động như biển hoàn toàn vắng lặng, vua suy nghĩ: “Một hội chúng như vậy ta không bao giờ thấy”. Vua hoan hỷ với uy nghi ấy liền chắp tay vái chúng Tỷ-kheo, nói lên lời tán thán, đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên, rồi hỏi về quả của Sa-môn hạnh. Thế Tôn chia làm hai phần tụng Kinh Quả của hạnh Sa-môn (Samanna-phala). Cuối bài kinh, vua hoan hỷ, xin Thế Tôn tha thứ lỗi lầm, từ chỗ ngồi đứng dậy, thân bên hữu hướng về Thế Tôn rồi đi ra. Khi vua vừa đi không bao lâu, bậc Ðạo Sư nói với các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, vua này đã bị tổn thương. Này các Tỷ-kheo, nếu vua ấy đã không vì tham vương quyền hại mạng vua cha, một đại vương trị vì đúng pháp, thì vua ấy ngay trên chỗ ngồi này đã khởi lên Pháp nhãn không bụi không dơ! Do nương tựa Ðề-bà, theo kẻ bất thiện, nên vua đã không chứng quả Dự lưu.

Ngày hôm sau, các Tỷ-kheo bắt đầu nói chuyện tại Chánh pháp đường:

– Thưa các Hiền giả, nghe nói vua A-xà-thế theo phe kẻ bất thiện, nương tựa Ðề-bà-đạt-đa theo ác giới, làm ác pháp, đã tự mình giết cha, nên đã mất quả Dự lưu. Như vậy, vua bị Ðề-bà-đạt-đa làm hại.

Trong lúc ấy, bậc Ðạo Sư đi đến Chánh pháp đường hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, nay các ông ngồi họp tại đây bàn câu chuyện gì?

Khi được biết vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, vua A-xà-thế không phải nay mới theo phe kẻ bất thiện và chịu thiệt hại lớn. Thuở xưa, vua cũng đã theo phe bất thiện và gặp đại nạn.

Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể lại câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Bà-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn giàu có. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài đi đến Takkasilà học tất cả các nghề và trở thành một Sư trưởng có danh nhiều phương dạy nghề cho năm trăm thanh niên, trong đó có một người tên là Sanjiva.

Bồ-tát dạy cho thanh niên ấy bùa chú làm các vật chết sống dậy nhưng không dạy bùa chú chế ngự lại. Một hôm vì kiêu mạn về năng lực của mình, anh ta đi cùng với các thanh niên vào rừng lượm củi, thấy một con cọp chết, liền nói với họ:

– Thưa các Hiền hữu, tôi sẽ làm cho con cọp chết này sống lại.

Các thanh niên ấy nói:

– Bạn không thể làm được.

– Các bạn cứ nhìn, tôi sẽ làm cho nó đứng dậy.

Nghe vậy xong, các thanh niên ấy liền leo lên trên cây. Sanjiva đọc bùa chú, lấy mảnh sành đánh cọp. Con cọp vàng đứng dậy, nhanh như chớp xông tới, cắn vào cổ Sanjiva và hủy diệt mạng sống của anh ta và rồi rơi xuống tại chỗ ấy. Sanjiva cũng rơi xuống, và cả hai đều nằm chết tại chỗ. Các thanh niên lượm củi xong, đi về và trình Sư trưởng câu chuyện ấy. Ngài gọi các thanh niên và nói:

– Này các con thân, do thân cận với kẻ bất thiện, do kính trọng những kẻ không xứng đáng, nên nó phải gặp đại nạn như vậy.

Rồi ngài đọc bài kệ này:

Ai theo kẻ bất thiện,
Thân cận kẻ bất thiện,
Sẽ bị nó giết chết,
Như cọp giết Ji-va.

Bồ-tát thuyết pháp cho các thanh niên với bài kệ này và suốt đời làm cái công đức như bố thí v.v… rồi đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, thanh niên làm sống dậy con cọp chết là vua A-xà-thế, còn vị Sư trưởng có danh nhiều phương là Ta vậy.

Kinh Tiểu Bộ – Khuddaka Nikàya

Hòa thượng Thích Minh Châu

& Giáo sư Trần Phương Lan dịch Việt

Tập 10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật

-ooOoo-

Mục Lục

PHẦN 1 – CHƯƠNG I

[01] PHẨM APANNAKA
1. Chuyện Pháp Tối Thượng (Tiền Thân Apannaka)
2. Chuyện Bài Sa Mạc (Tiền Thân Vannupatha)
3. Chuyện Người Buôn Chè (Tiền Thân Serivànija)
4. Chuyện Tiểu Triệu Phú (Tiền Thân Cullakasetthì)
5. Chuyện Ðấu Gạo (Tiền Thân Tandulanàli)
6. Chuyện Thiên Pháp (Tiền Thân Devadhamma)
7. Chuyện Nàng Lượm Củi (Tiền Thân Katthahàri)
8. Chuyện Vua Gàmani (Tiền Thân Gàmani)
9. Chuyện Vua Makhàdeva (Tiền Thân Makhàdeva)
10. Chuyện Trưởng Lão Sukhavihàri (Tiền Thân Sukhavihàri)
[02] PHẨM GIỚI
11. Chuyện Con Nai Ðiểm Lành (Tiền Thân Lakkhana)
12. Chuyện Con Nai Cây Ða (Tiền Thân Nigrodhamiga)
13. Chuyện Mũi Tên (Tiền Thân Kandina)
14. Chuyện Con Nai Gió (Tiền Thân Vàtamiga)
15. Chuyện Con Nai Kharàdiya (Tiền Thân Kharàdiya)
16. Chuyện Con Nai Có Ba Cử Chỉ (Tiền Thân Tipallthamiga)
17. Chuyện Gió Thổi (Tiền Thân Màluta)
18. Chuyện Ðồ Ăn Cúng Người Chết (Tiền Thân Matakabhatta)
19. Chuyện Lễ Cúng Do Có Lời (Tiền Thân Àyàcitabhatta)
20. Chuyện Hồ Nalakapàna (Tiền Thân Nalakapàna)
[03] PHẨM KURUNGA
21. Chuyện Con Nai Sơn Dương (Tiền Thân Kurunga)
22. Chuyện Con Chó (Tiền Thân Kukkura)
23. Chuyện Con Ngựa Thuần Chủng (Tiền Thân Bhojaniya)
24. Chuyện Ðôi Ngựa Nòi Tốt (Tiền Thân Àjanna)
25. Chuyện Bến Tắm (Tiền Thân Tittha)
26. Chuyện Con Voi Ma Hilàmukha (Tiền Thân Mahilàmuka)
27. Chuyện Ðôi Bạn Thân Thiết (Tiền Thân Abhinha)
28. Chuyện Con Bò Ðại Hỷ (Tiền Thân Nandivisàla)
29. Chuyện Con Bò Ðen (Tiền Thân Kaniha)
30. Chuyện Con Heo Munika (Tiền Thân Munika)
[04] PHẨM KULAVAKA
31. Chuyện Tổ Chim Con (Tiền Thân Kulàvaka)
32. Chuyện Múa Ca (Tiền Thân Nacca)
33. Chuyện Sống Hoà Hợp (Tiền Thân Sammodamàna)
34. Chuyện Con Cá (Tiền Thân Maccha)
35. Chuyện Con Chim Cút (Tiền Thân Vattaka)
36. Chuyện Con Chim (Tiền Thân Sakuna)
37. Chuyện Con Chim Trĩ (Tiền Thân Tittira)
38. Chuyện Con Cò (Tiền Thân Nanda)
39. Chuyện Người Nô Lệ Nanda (Tiền Thân Nanda)
40. Chuyện Hố Than Lửa Cây Keo (Tiền Thân Khadirangàra)
[05] PHẨM LỢI ÁI
41. Chuyện Trưởng Lão Losaka (Tiền Thân Losaka)
42. Chuyện Chim Bồ Câu (Tiền Thân Kapota)
43. Chuyện Con Rắn Tre (Tiền Thân Veluka)
44. Chuyện Con Muỗi (Tiền Thân Makasa)
45. Chuyện Nữ Tỳ Rohini (Tiền Thân Rohini)
46. Chuyện Kẻ Làm Hại Vườn (Tiền Thân Ràmadùsaka)
47. Chuyện Rượu Mạnh (Tiền Thân Vàruni)
48. Chuyện Bà-La-Môn Vedabbha (Tiền Thân Vedabbha)
49. Chuyện Các Vì Sao (Tiền Thân Nakkhatta)
50. Chuyện Những Kẻ Vô Trí (Tiền Thân Dummedha)
[06] PHẨM ÀSIMSA
51. Chuyên Vua Ðại Giới Ðức (Tiền Thân Màhàsìlavà)
52. Chuyện Tiểu Janaka (Tiền Thân Cùla-Janaka)
53. Chuyện Bình Rượu Ðầy (Tiền Thân Punnapàti)
54. Chuyện Trái Cây (Tiền Thân Phala)
55. Chuyện Năm Vũ Khí (Tiền Thân Pancàyudha)
56. Chuyện Khối Vàng (Tiền Thân Kancanakkhandha)
57. Chuyện Khỉ Chúa (Tiền Thân Vànarinda)
58. Chuyện Ba Pháp (Tiền Thân Tayodhammà)
59. Chuyện Tiếng Trống (Tiền Thân Bherivàda)
60. Chuyện Thổi Tù Và (Tiền Thân Sankkhadhama)
[07] PHẨM NỮ NHÂN
61. Chuyện Bài Kinh Khổ Ðau (Tiền Thân Asàtamanta)
62. Chuyện Cô Gái Trên Bảy Tầng Lầu (Tiền Thân Andabhuta)
63. Chuyện Hiền Sĩ Chà Là (Tiền Thân Takka)
64. Chuyện Người Vợ Khó Hiểu (Tiền Thân Duràjàna)
65. Chuyện Nỗi Bất Mãn (Tiền Thân Anabhirati)
66. Chuyện Hoàng Hậu Từ Tâm (Tiền Thân Mudulakkhana)
67. Chuyện Người Ðàn Bà Thôn Quê (Tiền Thân Ucchanga)
68. Chuyện Thành Saketa (Tiền Thân Saketa)
69. Chuyện Con Rắn Phun Nọc Ðộc (Tiền Thân Visavanta)
70. Chuyện Hiền Giả Cái Cuốc (Tiền Thân Kuddàla)
[08] PHẨM VARANA
71.Chuyện Cây Varana (Tiền Thân Varana)
72. Chuyện Tượng Vương Ðức Hạnh (Tiền Thân Silavanàga)
73. Chuyện Ðúng Vậy Chăng (Tiền Thân Saccankira)
74. Chuyện Luật Cây Rừng (Tiền Thân Rukkhadhamma)
75. Chuyện Con Cá (Tiền Thân Maccha)
76. Chuyện Người Không Sợ Hãi (Tiền Thân Asankiya)
77. Chuyện Giấc Mộng Lớn (Tiền Thân Mahàsupina).
78. Chuyện Vị Triệu Phú Illìsa (Tiền Thân Illìsa)
79. Chuyện Tiếng Trống Ồn Ào. (Tiền Thân Kharasara).
80. Chuyện Người Thợ Dệt Bhimasena (Tiền Thân Bhimasena)
[09] PHẨM APAYIMHA
81. Chuyện Uống Rượu (Tiền Thân Suràpàna)
82. Chuyện Nam Tử Mittavida (Tiền Thân Mittavinda)
83. Chuyện Ðiềm Xui Xẻo (Tiền Thân Kàlakanni)
84. Chuyện Cửa Ngõ Hạnh Phúc (Tiền Thân Atthassadvàra)
85. Chuyện Cây Có Trái Lạ (Tiền Thân Kimpakka)
86. Chuyện Thử Thách Giới Ðức (Tiền Thân Sìlavìmamsana)
87. Chuyện Ðiềm Lành Dữ (Tiền Thân Mangala)
88. Chuyện Con Bò Sàrambha (Tiền Thân Sàrambha)
89. Chuyện Kẻ Lừa Ðảo (Tiền Thân Kuhaka)
90. Chuyện Kẻ Vong Ân (Tiền Thân Akatannu)
[10] PHẨM LITTA
91. Chuyện Chơi Súc Sắc Ngộ Ðộc (Tiền Thân Litta)
92. Chuyện Ðại Ðảo Vật (Tiền Thân Mahàsàra)
93. Chuyện Ngộ Ðộc Do Luyến Ái (Tiền Thân Vissàsabhojana)
94. Chuyện Nỗi Kinh Hoàng (Tiền Thân Lomahamsa)
95. Chuyện Vua Ðại Thiện Kiến (Tiền Thân Mahàsudassana)
96. Chuyện Bát Dầu (Tiền Thân Telapatta)
97. Chuyện Ðiềm Lành Của Tên (Tiền Thân Nàmasiddhi)
98. Chuyện Người Lái Buôn Lừa Ðảo (Tiền Thân Kùtavànija)
99. Chuyện Hơn Một Ngàn Kẻ Ngu. (Tiền Thân Parosahassa)
100. Chuyện Sắc Thân Bất Lạc (Tiền Thân Asàtarùpa)
[11] PHẨM PAROSSATA
101. Chuyện Hơn Một Trăm Kẻ Ngu (Tiền Thân Parosafa)
102. Chuyện Người Bán Rau (Tiền Thân Pannika).
103. Chuyện Kẻ Ngu. (Tiền Thân Veri)
104. Chuyện Chàng Trai Mittavinda (Tiền Thân Mittavida).
105. Chuyện Con Voi Sợ Chết (Tiền Thân Dubblakattha)
106. Chuyện Múc Nu&Ớc (Tiền Thân Udancani)
107. Chuyện Nghề Ném Ðá (Tiền Thân Sàlittaka)
108. Chuyện Kỳ Lạ (Tiền Thân Bàhiya)
109. Chuyện Bánh Bột Trấu Ðỏ (Tiền Thân Kundakapùva)
110. Chuyện Câu Hỏi Bao Quát Tất Cả (Tiền Thân Sabbasanhàraka-Panha)
[12] PHẨM HAMSA
111. Chuyện Câu Hỏi Của Con Lừa (Tiền Thân Gadrabha-Panha).
112. Chuyện Câu Hỏi Của Hoàng Hậu Bất Tử (Tiền Thân Amaràdevi-Panha)
113. Chuyện Con Chó Rừng (Tiền Thân Sigàla)
114. Chuyện Con Cá Nghĩ Vừa (Tiền Thân Mitacinti)
115. Chuyện Người Giáo Giới (Tiền Thân Anusàsika)
116. Chuyện Người Múa Giáo (Tiền Thân Dubbaca)
117. Chuyện Chim Ða Ða (Tiền Thân Tittira)
118. Chuyện Chim Cun Cút (Tiền Thân Vattaka)
119. Chuyện Con Gà Gáy Phi Thời (Tiền Thân Akàlaràvi)
120. Chuyện Giải Thoát Sự Trói Buộc (Tiền Thân Bandhanamokkha).
[13] PHẨM KUSANÀLI
121. Chuyện Thần Cây Cỏ Kusa (Tiền Thân Kusanàli)
122. Chuyện Kẻ Ngu (Tiền Thân Dummendha)
123. Chuyện Cái Cán Cày (Tiền Thân Nangalisa)
124. Chuyện Trái Xoài (Tiền Thân Amba)
125. Chuyện Người Nô Lệ Katàhaka (Tiền Thân Katàhaka)
126. Chuyện Tướng Của Kiếm (Tiền Thân Asilakkhana)
127. Chuyện Người Nô Lệ Kalanduka (Tiền Thân Kalanduka)
128. Chuyện Con Mèo (Tiền Thân Bilàra)
129. Chuyện Kẻ Thờ Lửa (Tiền Thân Aggika)
130. Chuyện Nữ Bà-La-Môn Kosiya (Tiền Thân Kosiya)
[14] PHẨM ASAMPADÀNA
131. Chuyển Kẻ Vong Ân (Tiền Thân Asampadàna)
132. Chuyện Ngũ Dục Lạc (Tiền Thân Pancagaru)
133. Chuyện Lửa Cháy (Tiền Thân Ghatàsana)
134. Chuyện Thiền Quán (Tiền Thân Thànasodhana)
135. Chuyện Nguyệt Quang (Tiền Thân Candàbha)
136. Chuyện Con Thiên Nga Vàng (Tiền Thân Suvannahamsa)
137. Chuyện Con Mèo (Tiền Thân Babbu)
138. Chuyện Con Cắc Kè (Tiền Thân Godha)
139. Chuyện Cả Hai Mặt Thất Bại (Tiền Thân Ubhatobhattha)
140. Chuyện Con Quạ (Tiền Thân Kàka)
[15] PHẨM KAKANTAKA
141. Chuyện Con Cắc Kè (Tiền Thân Godha)
142. Chuyện Con Chó Rừng (Tiền Thân Sigàla)
143. Chuyện Chiếu Sáng Như Mặt Trời (Tiền Thân Virocana)
144. Chuyện Cái Đuôi Bò (Tiền Thân Nanguttha)
145. Chuyện Con Vẹt Radha (Tiền Thân Radha)
146. Chuyện Con Quạ (Tiền Thân Kaka)
147. Chuyện Áo Vải Màu Đỏ (Tiền Thân Puppharatta)
148. Chuyện Con Chó Rừng (Tiền Thân Sigàlà)
149. Chuyện Cây Một Lá (Tiền Thân Ekapanna)
150. Chuyện Thanh Niên Sanjiva (Tiền Thân Sanjiva)

PHẦN 2 – CHƯƠNG 2

[01] PHẨM DALHA
151. Chuyện Lời Giáo Giới Cho Vua (Tiền Thân Ràjovàda)
152. Chuyện Con Cho Rừng (Tiền Thân Sigàla)
153. Chuyện Con Heo Rừng (Tiền Thân Sùkara)
154. Chuyện Con Rắn (Tiền Thân Uraga)
155. Chuyện Nhảy Mũi (Tiền Thân Gagga)
156. Chuyện Hoàng Tử Có Tâm Thâu Phục (Tiền Thân Alìnacitta)
157. Chuyện Công Đức (Tiền Thân Guna)
158. Chuyện Con Ngựa Suhanu (Tiền Thân Suhanu)
159. Chuyện Con Công (Tiền Thân Mora)
160. Chuyện Con Ngỗng Xanh Sẫm (Tiền Thân Vinìlaka)
[02] PHẨM SANTAHAVA
161. Chuyện Ẩn Sĩ Indasamànagotta (Tiền Thân Indasamànagotta)
162. Chuyện Mối Thâm Giao (Tiền Thân Santhava)
163. Chuyện Vua Susìma (Tiền Thân Susìma)
164. Chuyện Chim Diều Hâu (Tiền Thân Gijjha)
165. Chuyện Con Chuột Rừng (Tiền Thân Nakula)
166. Chuyện Bà-La-Môn Upasàlha (Tiền Thân Upasàlha)
167. Chuyện Trưởng Lão Samiddhi (Tiền Thân Samiddhi)
168. Chuyện Chim Diều Hâu (Tiền Thân Sakunagghi)
169. Chuyện Đạo Sư Araka (Tiền Thân Araka)
170. Chuyện Con Kỳ Nhông (Tiền Thân Kakantaka)
[03] PHẨM THIỆN PHÁP
171. Chuyện Thiện Pháp (Tiền Thân Kalyàna Dhamma)
172. Chuyện Núi Daddara (Tiền Thân Daddara)
173. Chuyện Con Vượn (Tiền Thân Makkata)
174. Chuyện Con Vượn Lừa Dối (Tiền Thân Dubhidamakkata)
175. Chuyện Đảnh Lễ Mặt Trời (Tiền Thân Àdiccupatthàma)
176. Chuyện Một Nắm Đậu (Tiền Thân Kalàya – Mutthi)
177. Chuyện Cây Tinduka (Tiền Thân Tinduka)
178. Chuyện Con Rùa (Tiền Thân Kacchapa)
179. Chuyện Bà-La-Môn Satadhamma (Tiền Thân Satadhamma)
180. Chuyện Khó Cho (Tiền Thân Duddada)
[04] PHẨM ASADISA
181. Chuyện Hoàng Tử Vô Địch (Tiền Thân Asadisa)
182. Chuyện Con Voi Thiện Chiến (Tiền Thân Sangàmàvacara)
183. Chuyện Đồ Tàn Thực (Tiền Thân Vàlodakka)
184. Chuyện Người Luyện Ngựa Giridanta (Tiền Thân Giridanta)
185. Chuyện Tâm Bất Tịnh (Tiền Thân Anabhirati)
186. Chuyện Vua Mang Sữa Đông (Tiền Thân Dadhivàhana)
187. Chuyện Bốn Vẻ Đẹp (Tiền Thân Cantumatta)
188. Chuyện Sư Tử Lai Chó Rừng (Tiền Thân Sìhakottuka)
189. Chuyện Tấm Da Sư Tử (Tiền Thân Sìhacamma)
190. Chuyện Giữ Giới (Tiền Thân Sìlànisamsa)
[05] PHẨM RUHAKA
191. Chuyện Tế Sư Ruhaka (Tiền Thân Ruhaka)
192. Chuyện Thiên Nữ Siri Và Kàlakanni (Tiền Thân Sirikàlakanni)
193. Chuyện Hoàng Tử Liên-Hoa (Tiền Thân Cullapaduma)
194. Chuyện Kẻ Trộm Ngọc (Tiền Thân Manicora)
195. Chuyện Hòn Núi Đẹp (Tiền Thân Pabbatupatthara)
196. Chuyện Con Ngựa Bay (Tiền Thân Valàhassa)
197. Chuyện Bạn – Thù (Tiền Thân Mittàmitta)
198. Chuyện Con Vẹt Ràdha (Tiền Thân Ràdha)
199. Chuyện Người Gia Chủ (Tiền Thân Gahapati)
200. Chuyện Giới Hạnh Tốt Lành (Tiền Thân Sàdhusìla)
[06] PHẨM NATAMDAIHA
201. Chuyện Nhà Tù Trói Buộc (Tiền Thân Bandhanàgara)
202. Chuyện Tánh Nghịch Ngợm (Tiền Thân Kilisìla)
203. Chuyện Tu Tập Từ Tâm (Tiền Thân Khandha -Vatta)
204. Chuyện Con Quạ Viraka (Tiền Thân Viraka)
205. Chuyện Cá Sông Hằng (Tiền Thân Gangeyya)
206. Chuyện Con Nai Núi (Tiền Thân Kurungamiga)
207. Chuyện Vua Assaka (Tiền Thân Assaka)
208. Chuyện Con Cá Sấu (Tiền Thân Sumsumara)
209. Chuyện Con Chim Mồi (Tiền Thân Kakkara)
210. Chuyện Con Chim Gõ Mõ (Tiền Thân Kandagalaka)
[07] PHẨM BIRANATTHAMBAHAKA (Ðám cỏ thơm)
211. Chuyện Chàng Trai Somadatta (Tiền Thân Somadatta)
212. Chuyện Thức Ăn Thừa (Tiền Thân Uchitthabhatta)
213. Chuyện Vua Bharu (Tiền Thân Bharu)
214. Chuyện Con Sông Đầy (Tiền Thân Punna-Nadi)
215. Chuyện Con Rùa (Tiền Thân Kachapa)
216. Chuyện Con Cá (Tiền Thân Maccha)
217. Chuyện Người Bán Rau (Tiền Thân Seggu)
218. Chuyện Người Lái Buôn Lừa Đảo (Tiền Thân Kùtavànija)
219. Chuyện Đáng Chỉ Trích (Tiền Thân Garahita)
220. Chuyện Tế Sư Dhammadhaja (Tiền Thân Dhammaddhaja)
[08] PHẨM KÀSÀVA
221. Chuyện Tấm Y Vàng (Tiền Thân Kàsàva)
222. Chuyện Con Khỉ Cùllanandiya (Tiền Thân Cùllanandiya)
223. Chuyện Thức Ăn Đi Đường (Tiền Thân Puta-Bhatta)
224. Chuyện Con Cá Sấu (Tiền Thân Kumbhila)
225. Chuyện Đề Cao Tính Kham Nhẫn (Tiền Thân Khanti-Vannana)
226. Chuyện Con Cú (Tiền Thân Kosiya)
227. Chuyện Con Bọ Ăn Phân (Tiền Thân Gùthapàna)
228. Chuyện Bà-La-Môn Kàmanita (Tiền Thân Kàmanita)
229. Chuyện Du Sĩ Palàyi (Tiền Thân Palàyi)
230. Chuyện Du Sĩ Palàyi Thứ Hai (Tiền Thân Palàyi)
[09] PHẨM UPÀHANA
231. Chuyện Chiếc Giày (Tiền Thân Upàhana)
232. Chuyện Không Được Hướng Dẫn (Tiền Thân Vinàthùna)
233. Chuyện Mũi Tên (Tiền Thân Vikannaka)
234. Chuyện Nàng Asitàbhù (Tiền Thân Asitàbhù)
235. Chuyện Vị Ẩn Sĩ Vaccha-Nakha (Tiền Thân Vaccha-Nakha)
236. Chuyện Con Cò (Tiền Thân Baka)
237. Chuyện Thành Sàketa (Tiền Thân Sàketa)
238. Chuyện Một Chữ (Tiền Thân Ekapada)
239. Chuyện Con Nhái Xanh (Tiền Thân Harita-Màta)
240. Chuyện Vua Mahàpingala (Tiền Thân Mahàpingala)
[10] PHẨM SIGÀLA(Chó rừng)
241. Chuyện Vua Chó Rừng Sabbadàtha (Tiền Thân Sabbadàtha)
242. Chuyện Con Chó (Tiền Thân Sunakha)
243. Chuyện Nhạc Sĩ Guttila (Tiền Thân Guttila)
244. Chuyện Ly Dục (Tiền Thân Viticcha)
245. Chuyện Kinh Pháp Môn Căn Bản (Tiền Thân Mùlapariyàya)
246. Chuyện Lời Phỉ Báng (Tiền Thân Telovàda)
247. Chuyện Hoàng Tử Pàdanjali (Tiền Thân Pàdanjali)
248. Chuyện Thí Dụ Cây Kimsuka (Tiền Thân Kimsukopama)
249. Chuyện Con Khỉ Sàlaka (Tiền Thân Sàlaka)
250. Chuyện Con Khỉ (Tiền Thân Kapi)

PHẦN 3 – CHƯƠNG III, CHƯƠNG IV

[01] Chương III – Phẩm Sankappa
251. Chuyện Dục Tầm (Tiền Thân Sankappa)
252. Chuyện Một Nắm Mè (Tiền Thân Tilamutthi)
253. Chuyện Vua Rắn Manikantha (Tiền Thân Manikantha)
254. Chuyện Con Ngựa Quý Ăn Cám Gạo Đỏ (Tiền Thân Kundaka-Kucchi-Sindhava)
255. Chuyện Con Vẹt (Tiền Thân Suka)
256. Chuyện Cái Giếng Cũ (Tiền Thân Jarudapàna)
257. Chuyện Người Hầu Cận Gàmani-Canda (Tiền Thân Gàmani-Canda)
258. Chuyện Đại Vương Mandahàtà (Tiền Thân Mandahàtà)
259. Chuyện Ẩn Sĩ Tirìta-Vaccha (Tiền Thân Tirìta-Vaccha)
260. Chuyện Sứ Giả Của Cái Bụng (Tiền Thân Duta)
[02] Chương III – Phẩm Kosya
261. Chuyện Hoa Sen (Tiền Thân Paduma)
262. Chuyện Bàn Tay Mềm Mại (Tiền Thân Mudupàni)
263. Chuyện Tiểu Dục Tham (Tiền Thân Culla-Palobhana)
[03] Chương III – Phẩm Ba Bài Kệ
264. Chuyện Đại Vương Panàda (Tiền Thân Mahà Panàda)
265. Chuyện Mũi Tên (Tiền Thân Khurappa)
266. Chuyện Con Ngựa Quí Tốc Như Phong (Tiền Thân Vàtagga Sindhava)
267. Chuyện Con Cua (Tiền Thân Kakkatà)
268. Chuyện Kẻ Làm Hại Vườn (Tiền Thân Àràma Dùsa)
269. Chuyện Nàng Sujàta (Tiền Thân Sujàta)
270. Chuyện Con Cú (Tiền Thân Ulùka)
271. Chuyện Kẻ Làm Bẩn Giếng Nước (Tiền Thân Udapàna Dùsaka)
272. Chuyện Con Cọp (Tiền Thân Vyaggha)
273. Chuyện Con Rùa (Tiền Thân Kacchapa)
[04] Chương III – Phẩm Ba Bài Kệ (tt)
274. Chuyện Tham Ăn (Tiền Thân Lola)
275. Chuyện Tham Ăn (Tiền Thân Lola)
276. Chuyện Chánh Pháp Nước Kuru (Tiền Thân Kurrudhamma)
277. Chuyện Chim Bồ Câu (Tiền Thân Romaka)
278. Chuyện Con Trâu (Tiền Thân Mahisa)
279. Chuyện Con Hạc (Tiền Thân Satapatta)
280. Chuyện Kẻ Phá Hư Giỏ (Tiền Thân Puta-Dùsaka)
281. Chuyện Trái Xoài Chính Trung (Tiền Thân Abbhantara)
282. Chuyện Điều Tốt Nhất (Tiền Thân Seyya)
283. Chuyện Con Heo Rừng Của Thợ Mộc (Tiền Thân Vaddaki-Sùkura)
284. Chuyện Vận May (Tiền Thân Siri)
285. Chuyện Heo Rừng Trong Hang Thủy Tinh (Tiền Thân Manisùkura)
[05] Chương III – Phẩm Ba Bài Kệ (tt)
286. Chuyện Con Heo Liên Căn (Tiền Thân Sàlùka)
287. Chuyện Chê Bai Lợi Nhuận (Tiền Thân Làbha Garaha)
288. Chuyện Xâu Cá (Tiền Thân Macch-Uddàna)
289. Chuyện Mong Ước Khác Nhau (Tiền Thân Nàna-Chanda)
290. Chuyện Thử Thách Giới Đức (Tiền Thân Vìnansa)
291. Chuyện Cái Bát Thần (Tiền Thân Bhadra Ghata)
292. Chuyện Vua Quạ Supatta (Tiền Thân Supatta)
293. Chuyện Thân Hư Hoại (Tiền Thân Kàya-Vicchinda)
294. Chuyện Con Chim Ăn Trái Đào (Tiền Thân Jambu-Khàdaka)
295. Chuyện Loài Hạ Liệt (Tiền Thân Anta)
296. Chuyện Biển Cả (Tiền Thân Samudda)
297. Chuyện Dục Tình Nhảm Nhí (Tiền Thân Kàma-Vìpala)
298. Chuyện Trái Sung (Tiền Thân Udumbara)
299. Chuyện Ẩn Sĩ Komàya-Putta (Tiền Thân Komàya)
300. Chuyện Chó Sói (Tiền Thân Vaka)
[06] Chương IV – Phẩm Bốn Bài Kệ
301. Chuyện Tiểu Vương Kàlinga (Tiền Thân Cullakàlinga)
302. Chuyện Đại Kỵ Sĩ (Tiền Thân Maha-Asàroha)
303. Chuyện Vị Thánh Vương (Tiền Thân Ekaràja)
304. Chuyện Rắn Thần Daddara (Tiền Thân Daddara)
305. Chuyện Thử Thách Giới Đức (Tiền Thân Sìlavìmamasana)
306. Chuyện Hoàng Hậu Sujàta (Tiền Thân Sujàta)
307. Chuyện Thân Cây Hồng Diệp (Tiền Thân Palàsa)
308. Chuyện Chim Gõ Kiến (Tiền Thân Javasakuna)
309. Chuyện Người Tiện Dân (Tiền Thân Chavaka)
[07] Chương IV – Phẩm Bốn Bài Kệ (tt)
310. Chuyện Vị Quốc Sư Sayha (Tiền Thân Sayha)
311. Chuyện Cây Nimbo (Tiền Thân Pacimanda)
312. Chuyện Ẩn Sĩ Kassapa Chậm Trễ (Tiền Thân Kassapamandiya)
313. Chuyện Đạo Lý Kham Nhẫn (Tiền Thân Khantivàdi)
314. Chuyện Địa Ngục Nồi Sắt (Tiền Thân Lohakumbhi)
315. Chuyện Miếng Thịt (Tiền Thân Mamsa)
316. Chuyện Con Thỏ (Tiền Thân Sasa)
317. Chuyện Khóc Người Chết (Tiền Thân Mataradana)
[08] Chương IV – Phẩm Bốn Bài Kệ (tt)
318. Chuyện Vòng Hoa Kanavera (Tiền Thân Kanavera)
319. Chuyện Chim Đa Đa (Tiền Thân Tittira)
320. Chuyện Dễ Cho (Tiền Thân Succaja)
321. Chuyện Kẻ Đốt Lều (Tiền Thân Kutidùsaha)
322. Chuyện Tiếng Động Mạnh (Tiền Thân Daddabha)
323. Chuyện Vua Brahmadatta (Tiền Thân Brahmadatta)
324. Chuyện Thầy Tu Mặc Áo Da (Tiền Thân Cammasàtaka)
325. Chuyện Con Tắc Kè (Tiền Thân Godha)
[09] Chương IV – Phẩm Bốn Bài Kệ (tt)
326. Chuyện Thiên Hoa Kakkàru (Tiền Thân Kakkàru)
327. Chuyện Hoàng Hậu Kàkàti (Tiền Thân Kàkàti)
328. Chuyện Khóc Người Chết (Tiền Thân Ananusociya)
329. Chuyện Con Khỉ Đen Lớn (Tiền Thân Kalabahu)
330. Chuyện Thử Thách Giới Đức (Tiền Thân Silavìmamsa)
331. Chuyện Trưởng Lão Kokàlika (Tiền Thân Kokàlika)
332. Chuyện Chiếc Gậy Thúc Xe (Tiền Thân Rathalatthi)
333. Chuyện Con Tắc Kè (Tiền Thân Godha)
334. Chuyện Khuyến Dụ Quốc Vương (Tiền Thân Ràjovàda)
335. Chuyện Chó Rừng (Tiền Thân Jambuka)
336. Chuyện Vương Tử Chatta Vĩ Đại (Tiền Thân Brahàchatta)
337. Chuyện Cái Sàng Tọa (Tiền Thân Pitha)
[10] Chương IV – Phẩm Bốn Bài Kệ (tt)
338. Chuyện Vỏ Trấu (Tiền Thân Thusa)
339. Chuyện Xứ Baveru (Tiền Thân Bàveru)
340. Chuyện Trưởng Giả Visayha (Tiền Thân Visayha)
341. Chuyện Vua Kandari (Tiền Thân Kandari)
342. Chuyệcn Con Khỉ (Tiền Thân Vànara)
343. Chuyện Con Hạc (Tiền Thân Kuntani)
344. Chuyện Người Ăn Trộm Xoài (Tiền Thân Ambacora)
345. Chuyện Con Rùa Lười Biếng (Tiền Thân Gajakumbha)
346. Chuyện Đạo Sĩ Kesava (Tiền Thân Kesava)
347. Chuyện Cái Chày Sắt (Tiền Thân Ayakùta)
348. Chuyện Chốn Rừng Hoang (Tiền Thân Aranna)
349. Chuyện Lời Gièm Pha (Tiền Thân Sandhibheda)
350. Chuyện Vấn Đề Của Chư Thiên (Tiền Thân Devatàpanhà)

PHẦN 4 – CHƯƠNG V đến CHƯƠNG XXII

[01] Chương V – Phẩm Năm Bài Kệ
351. Chuyện Vòng Tai Bằng Ngọc (Tiền Thân Manikundala)
352. Chuyện Chàng Sujàta (Tiền Thân Sujàta)
353. Chuyện Cành Cây Thanh Tịnh (Tiền Thân Dhonasàkha)
354. Chuyện Con Rắn (Tiền Thân Uraga)
355. Chuyện Vương Tử Ghata (Tiền Thân Ghata)
356. Chuyệnn Nam Tử Kàrandiya (Tiền Thân Kàrandiya)
357. Chuyện Chim Cút (Tiền Thân Latukikà)
358. Chuyện Tiểu Vương Tử Hộ Pháp (Tiền Thân Culladhammapàla)
359. Chuyện Con Nai Vàng (Tiền Thân Suvannamiga)
360. Chuyện Hoàng Hậu Sussondi (Tiền Thân Sussondi)
361. Chuyện Sắc Đẹp (Tiền Thân Vannàroha)
362. Chuyện Thử Nghiệm Đức Hạnh (Tiền Thân Sìlavimamsa)
363. Chuyện Hổ Thẹn (Tiền Thân Hiri)
364. Chuyện Con Đom Đóm (Tiền Thân Khajjopanaka)
365. Chuyện Người Luyện Rắn (Tiền Thân Ahigundika)
366. Chuyện Con Quỷ Gumbiya (Tiền Thân Gumbiya)
367. Chuyện Vị Y Sĩ Già (Tiền Thân Sàliya)
368. Chuyện Dây Trói Buộc (Tiền Thân Tacasàra)
369. Chuyện Chàng Trai Mittavinda (Tiền Thân Mittavinda)
370. Chuyện Cây Hồng Phượng Vĩ (Tiền Thân Palàsa)
371. Chuyện Hoàng Tử Kosala (Tiền Thân Dighiti Kosala)
[02] Chương VI – Phẩm Sáu Bài Kệ
372. Chuyện Hai Chú Nai Con (Tiền Thân Migapotaka)
373. Chuyện Con Chuột (Tiền Thân Mùsika)
374. Chuyện Chàng Tiểu Xạ Thủ (Tiền Thân Culladhanuggaha)
375. Chuyện Chim Bồ Câu (Tiền Thân Kapota)
376. Chuyện Người Lái Đò (Tiền Thân Avàriya)
377. Chuyện Bà-La-Môn Setakeku (Tiền Thân Setakeku)
378. Chuyện Bà-La-Môn Darìmukha (Tiền Thân Darìmukha)
379. Chuyện Núi Neru (Tiền Thân Neru)
380. Chuyện Thiên Nữ Ásankà (Tiền Thân Asankà)
381. Chuyện Chim Thứu Migàlopa (Tiền Thân Migàlopa)
382. Chuyện Hai Thiên Nữ Siri Và Kàlakanni (Tiền Thân Siri Và Kàlakanni)
383. Chuyện Kê Vương (Tiền Thân Kukkuta)
384. Chuyện Pháp Ấn (Tiền Thân Dhammaddhaja)
385. Chuyện Lộc Vương Hoan Hỷ (Tiền Thân Nandiyamiga)
386. Chuyện Con Lừa (Tiền Thân Kharaputta)
387. Chuyện Cây Kim (Tiền Thân Suci)
388. Chuyện Con Heo Mõm Dài (Tiền Thân Tundila)
389. Chuyện Con Cua Vàng (Tiền Thân Suvannakakkata)
390. Chuyện Chim Mayhaka (Tiền Thân Mayhaka)
391. Chuyện Vị Tà Thuật Sư (Tiền Thân Dhajavihettha)
392. Chuyện Củ Hoa Sen (Tiền Thân Bhisapupha)
393. Chuyện Món Tàn Thực (Tiền Thân Vighàsa)
394. Chuyện Chim Cút (Tiền Thân Vattaka)
395. Chuyện Con Quạ (Tiền Thân Kàka)
[03] Chương VII – Phẩm Bảy Bài Kệ
396. Chuyện Ác Hạnh (Tiền Thân Kukku)
397. Chuyện Sư Tử Mannoja (Tiền Thân Manoja)
398. Chuyện Hiếu Tử Sutana (Tiền Thân Sutana)
399. Chuyện Chim Thứu (Tiền Thân Gijiha)
400. Chuyện Hoa Cỏ Kusa (Tiền Thân Dabbhapuppha)
401. Chuyện Người Nuốt Lưỡi Kiếm (Tiền Thân Dasannaka)
402. Chuyện Túi Da Đựng Bánh (Tiền Thân Sattnubhasta)
403. Chuyện Trí Giả Atthisena (Tiền Thân Atthisena)
404. Chuyện Hầu Vương (Tiền Thân Kapi)
405. Chuyện Phạm Thiên Baka (Tiền Thân Bakabrahma)
406. Chuyện Quốc Vương Gandhàra (Tiền Thân Gandhàra)
407. Chuyện Đại Hầu Vương (Tiền Thân Mahàkapi)
408. Chuyện Người Thợ Gốm (Tiền Thân Kumbhakàra)
409. Chuyện Vua Dalhadhamma (Tiền Thân Dalhadhamma)
410. Chuyện Con Voi Somadatta (Tiền Thân Somadatta)
411. Chuyện Vua Susìma (Tiền Thân Susìma)
412. Chuyện Thần Cây Bông Vải (Tiền Thân Kotisimbalì)
413. Chuyện Người Chăn Dê Dhùmakàri (Tiền Thân Dhùmakàri)
414. Chuyện Người Tỉnh Thức (Tiền Thân Jàgara)
415. Chuyện Phần Cháo Cúng Dường (Tiền Thân Kummàsapinda)
416. Chuyện Cận Thần Parantapa (Tiền Thân Parantapa)
[04] Chương VIII – Phẩm Tám Bài Kệ
417. Chuyện Hiền Mẫu Kaccàni (Tiền Thân Kaccàni)
418. Chuyện Tám Tiếng Kêu (Tiền Thân Attasadda)
419. Chuyện Kiều Nữ Sulasà (Tiền Thân Sulasà)
420. Chuyện Người Giữ Ngự Viên Sumangala (Tiền Thân Sumangala)
421. Chuyện Người Hớt Tóc Gangamàla (Tiền Thân Gangamàla)
422. Chuyện Quốc Vương Ceti (Tiền Thân Cetiya)
423. Chuyện Uy Lực Dục Tham (Tiền Thân Indriya)
424. Chuyện Ngọn Lửa Đốt Cháy (Tiền Thân Àditta)
425. Chuyện Những Sự Kiện Không Thể Xảy Ra (Tiền Thân Atthàna)
426. Chuyện Con Báo (Tiền Thân Dìpi)
[05] Chương IX – Phẩm Chín Bài Kệ
427. Chuyện Chim Thứu (Tiền Thân Gijiha)
428. Chuyện Giáo Hội Ở Kosambi (Tiền Thân Kosambì)
429. Chuyện Ðại Anh Vũ (Tiền Thân Mahàsuka)
430. Chuyện Tiểu Anh Vũ (Tiền Thân Cullasuka)
431. Chuyện Nam Tử Hàrita (Tiền Thân Hàrita)
432. Chuyện Cậu Bé Có Tài Nhận Dấu Chân (Tiền Thân Padakusalamànava)
433. Chuyện Vị Khổ Hạnh Ca-Diếp Nhiều Lông Tóc (Tiền Thân Lomasa Kassapa)
434. Chuyện Chim Hồng Nga (Tiền Thân Cakkavàka)
435 Chuyện Ước Mơ Chóng Phai Tàn (Tiền Thân Haliddiràga)
436. Chuyện Cái Hộp (Tiền Thân Samugga)
437. Chuyện Chó Rừng Pùtinumsa (Tiền Thân Pùtimamsa)
438. Chuyện Con Gà Gô (Tiền Thân Tittita)
[06] Chương X – Phầm Mười Bài Kệ
439. Chuyện Bốn Cổng Thành (Tiền Thân Catu-Dvàra)
440. Chuyện Hắc Hiền Giả (Tiền Thân Kanha)
441. Chuyện Bốn Vị Giữ Trai Giới (Tiền Thân Catu-Posathika)
442. Chuyện Bà-La-Môn Sankha (Tiền Thân Sankha)
443. Chuyện Trí Giả Tiểu Bồ Đề (Tiền Thân Culla-Bodhi)
444. Chuyện Hắc Nhân Dìpàyana (Tiền Thân Kanhadìpàyana)
445. Chuyện Vua Ða (Tiền Thân Nigrodha)
446. Chuyện Cây Hành (Tiền Thân Takkala)
447. Chuyện Đại Nhân Hộ Pháp (Tiền Thân Mahà Dhamma-Pàla)
448. Chuyện Kê Vương (Tiền Thân Kukuta)
449. Chuyện Nam Tử Đeo Vòng Tai (Tiền Thân Matta-Kundali)
450. Chuyện Phú Ông Keo Kiệt (Tiền Thân Bilàri-Kosiya)
451. Chuyện Hồng Nga (Tiền Thân Cakka-Vàka)
452. Chuyện Vấn Đề Trí Tuệ (Tiền Thân Bhùri-Panha)
453. Chuyện Điềm Lành Lớn (Tiền Thân Mahà-Mangala)
454. Chuyện Trí Giả Ghata (Tiền Thân Ghata)
[07] Chương XI – Phẩm Mười Một Bài Kệ
455. Chuyện Voi Hiếu Dưỡng Mẹ (Tiền Thân Màti-Posaka)
456. Chuyện Vương Tử Nguyệt Quang (Tiền Thân Junha)
457. Chuyện Thiên Tử Chánh Pháp (Tiền Thân Dhamma)
458. Chuyện Vua Thiện Lai (Tiền Thân Udaya)
459. Chuyện Ngụm Nước Uống (Tiền Thân Pàniya)
460. Chuyện Thái Tử Yuvanjana (Tiền Thân Yuvanjana)
461. Chuyện Ðại Vương Dasaratha (Tiền Thân Dasaratha)
462. Chuyện Vương Tử Samvara (Tiền Thân Samvara)
463. Chuyện Trí Giả Suppàraka (Tiền Thân Suppàraka)
[08] Chương XII – Phẩm Mười Hai Bài Kệ
464. Chuyện Tiểu Vương Điểu Kùnala (Tiền Thân Culla-Kunàla)
465. Chuyện Sàla, Cổ Thụ Cát Tường (Tiền Thân Bhadda-Sàla)
466. Chuyện Thương Nhân Trên Biển Cả (Tiền Thân Samudda-Vànijà)
467. Chuyện Dục Tham (Tiền Thân Kàma)
468. Chuyện Ðại Vương Janasandha (Tiền Thân Janasandha)
469. Chuyện Ðại Hắc Thiên Cẩu (Tiền Thân Mahà-Kanha)
470. Chuyện Phú Ông Keo Kiệt (Tiền Thân Kosiya)
471. Chuyện Con Dê (Tiền Thân Mendaka)
472. Chuyện Vương Tử Liên Hoa (Tiền Thân Mahà-Paduma)
473. Chuyện Bạn-Thù (Tiền Thân Mittàmitta)

PHẦN 5 – CHƯƠNG XIII đến CHƯƠNG XX

[01] Chương XIII – Phẩm Mười Ba Bài Kệ
474. Chuyện Trái Xoài (Tiền Thân (Amba)
475. Chuyện Cây Hồng Phượng Vĩ (Tiền Thân Phandana)
476. Chuyện Chúa Thiên Nga Có Thần Tốc (Tiền Thân Javana-Hamsa)
477. Chuyện Tiểu Đạo Sĩ Nàrada (Tiền Thân Culla-Nàrada)
478. Chuyện Sứ Thần (Tiền Thân Dùta)
479. Chuyện Cây Bồ Đề Và Thánh Đế Kàlinga (Tiền Thân Kàlinga-Bodhi)
480. Chuyện Hiền Giả Akitta (Tiền Thân Akitta)
481. Chuyện Hiền Giả Takkàriya (Tiền Thân Takkàriya)
482. Chuyện Lộc Vương (Tiền Thân Ruru)
483. Chuyện Chúa Nai Sarabha (Tiền Thân Sarabha-Miga)
[02] Chương XIV – Tạp Phẩm
484. Chuyện Cánh Đồng Lúa (Tiền Thân Sàlikedàra)
485. Chuyện Đôi Ca Thần Canda (Tiền Thân Canda Kinnara)
486. Chuyện Chúa Chim Ưng (Tiền Thân Màha Ukkusa)
487. Chuyện Nam Tử Uddàlaka (Tiền Thân Uddàlaka)
488. Chuyện Củ Sen (Tiền Thân Bhisa)
489. Chuyện Đại Vương Huy Hoàng (Tiền Thân Suruci)
490. Chuyện Nam Vi Hành Trì Trai Giới (Tiền Thân Pancùposatha)
491. Chuyện Ðại Khổng Tước (Tiền Thân Mahà-Mora)
492. Chuyện Lợn Rừng Của Thợ Mộc (Tiền Thân Taccha-Sùkara)
493. Chuyện Vị Đại Vương Nhân (Tiền Thân Mahà-Vànija)
494. Chuyện Đại Vương Sadhìna (Tiền Thân Sàdhìna)
495. Chuyện Mười Hạng Bà-La-Môn (Tiền Thân Dasa-Bràhmana)
496. Chuyện Cúng Thực Phẩm Đúng Cấp Bậc (Tiền Thân Bhikkhà-Parampara)
[03] Chương XV – Phẩm Hai Mươi Bài Kệ
497. Chuyện Bậc Hiền Trí Màtanga (Tiền Thân Màtanga)
498. Chuyện Đôi Bạn Citta-Sambhùta (Tiền Thân Citta-Sambhùta)
499. Chuyện Đại Vương Sivi (Tiền Thân Sivi)
500. Chuyện Thần Nữ Cát Tường (Tiền Thân Sirimanda)
501. Chuyện Lộc Vương Rohanta (Tiền Thân Rohanta Miga)
502. Chuyện Chúa Thiên Nga (Tiền Thân Hamsa)
503. Chuyện Anh Vũ Sattigumba (Tiền Thân Sattigumba)
504. Chuyện Ðại Vương Bhallàtiya (Tiền Thân Bhallàtiya)
505. Chuyện Vương Tử Hoan Lạc (Tiền Thân Somanassa)
506. Chuyện Long Vương Campeyya (Tiền Thân Campeyya)
507. Chuyện Sức Cám Dỗ Mạnh (Tiền Thân Mahà-Palobhana)
508. Chuyện Năm Vị Hiền Nhân (Tiền Thân Panca-Pandita)
509. Chuyện Hiền Giả Quản Tượng (Tiền Thân Hatthipàla)
510. Chuyện Vương Tử Trong Ngôi Nhà Sắt (Tiền Thân Ayoghara)
[04] Chương XVI – Phẩm Ba Mươi Bài Kệ
511. Chuyện Dục Tham Kỳ Dị (Tiền Thân Kimchanda)
512. Chuyện Bình Rượu (Tiền Thân Kumbha)
513. Chuyện Vương Tử Chiến Thắng (Tiền Thân Jayaddisa)
514. Chuyện Tượng Vương Ở Hồ Chaddanta (Tiền Thân Chaddanta)
515. Chuyện Nam Tử Sambhava (Tiền Thân Sambhava)
516. Chuyện Khỉ Chúa (Tiền Thân Mahàkapi)
517. Tiền Thân Dakarakkhasa
518. Chuyện Long Vương Pandara (Tiền Thân Pandara)
519. Chuyện Hoàng Hậu Sambulà (Tiền Thân Sambulà)
520. Chuyện Vị Thần Cây Tindu (Tiền Thân Gandatindu)
[05] Chương XVII – Phẩm Bốn Mươi Bài Kệ
521. Chuyện Ba Con Chim (Tiền Thân Tesakuna)
522. Chuyện Đại Nhân Thiện Xạ Sarabhanga(Tiền Thân Sarabhanga)
523. Thiên Nữ Alambusà (Tiền Thân Alambusà)
524. Chuyện Long Vương Samkhapàla (Tiền Thân Samkhapàla)
525. Chuyện Tiểu Sutasoma (Tiền Thân Sutasoma)
[06] Chương XVIII – Phẩm Năm Mươi Bài Kệ
526. Chuyện Công Chúa Nalinikà (Tiền Thân Nalinikà)
527. Chuyện Kỷ Nữ Ummadantì (Tiền Thân Ummadantì)
528. Chuyện Hiền Giả Đại Bồ Đề (Tiền Thân Mahà-Bodhi)
[07] Chương XIX – Phẩm Sáu Mươi Bài Kệ
529. Chuyện Hiền Giả Sonaka (Tiền Thân Sonaka)
530. Chuyện Hiền Giả Samkicca (Tiền Thân Samkicca)
[08] Chương XX – Phẩm Bảy Mươi Bài Kệ
531. Chuyện Đại Đế Kusa (Tiền Thân Kusa)
532. Chuyện Hai Hiền Giả Sona-Nanda (Tiền Thân Sona-Nanda)

PHẦN 6 – CHƯƠNG XXI, CHƯƠNG XXII

[01] Chương XXI – Phẩm Tám Mươi Bài Kệ
533. Chuyện Tiểu Thiên Nga (Tiền Thân Cullahamasa)
534. Chuyện Đại Thiên Nga (Tiền Thân Mahàhamasa)
535. Chuyện Thực Phẩm Thiên Giới (Tiền Thân Sudhàbhojana)
[02] Chương XXI – Phẩm Tám Mươi Bài Kệ (tt)
536. Chuyện Chúa Chim Kunàla (Tiền Thân Kunàla)
537. Chuyện Đại Sutasoma (Tiền Thân Mahà-Sutasoma)
[03] Chương XXII – Đại Phẩm
538. Chuyện Vương Tử Què Câm (Tiền Thân Muga-Pakka)
539. Chuyện Đại Vương Mahàjanaka (Tiền Thân Mahà-Janaka)
[04] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
540. Chuyện Hiếu Tử Sàma (Tiền Thân Sàma)
[05] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
541. Chuyện Đại Vương Nimi (Tiền Thân Nimi)
[06] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
542. Chuyện Tế Sư Khandahàla (Tiền Thân Khandahàda)
[07] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
543. Chuyện Bậc Đại Trí Bhùridatta (Tiền Thân Bhùridatta)
[08] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
544. Chuyện Bậc Đại Trí Mahanàrada-Kassapa (Tiền Thân Mahanàrada-Kassapa)
[09] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
545. Chuyện Bậc Đại Trí Vô Song (Tiền Thân Vidhurapandita)
[10] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
546. Chuyện Đường Hầm Vĩ Đại (Tiền Thân Mahà-Ummagga)
[11] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
547. Chuyện Đại Vương Vessantara (Tiền Thân Vessantara)

***

Lời Giới thiệu

Hòa thượng Thích Minh Châu

Chúng tôi bắt đầu dịch tập Jàtaka (Bổn Sanh hay chuyện Tiền Thân) này, theo cách phân loại, đây là tập thứ 10 trong bộ Khuddaka Nikàya (Tiểu Bộ Kinh). Những Kinh đã được dịch là: Khuddakapàta (Tiểu Tụng, số 1); Dhammapada (Pháp Cú, số 2,); Udàna (Phật Tự Thuyết Kinh, số 3); Itivuttaka (Phật Thuyết Như Vậy, số 4); Suttanipàta (Kinh Tập, số 5); Theragàthà (Trưởng Lão Tăng Kệ, số 8); Therìgàthà (Trưởng Lão Ni kệ, số 9). Nay dịch tập Jàtaka (Bổn Sanh, số 10).

Vì lần này, chúng tôi chỉ mới dịch 120 mẫu chuyện cho Tập I, nên con số chính xác có bao nhiêu mẫu chuyện trong toàn tập Jàtaka chưa được xác định. Theo tập Jàtaka bằng chữ Pàli, thời con số cuối cùng là 547 mẫu chuyện (Jàtaka I, trang 596). Nhưng, ở bản dịch tiếng Anh ghi là 550 chuyện, chia thành 22 chương (Nipàta). Phân loại này phần lớn dựa trên số kệ (gàthà) trong mỗi chuyện. Ví như chương một có 150 mẫu chuyện, mỗi mẫu chuyện có một bài kệ. Chương hai gồm 100 mẫu chuyện, mỗi mẫu chuyện có hai bài kệ. Chương ba, chương bốn, mỗi chương gồm 50 chuyện, mỗi chuyện có ba và bốn bài kệ. Cho đến chương hai mươi mốt có 5 câu chuyện, mỗi chuyện có 80 bài kệ. Chương hai mươi hai có 10 câu chuyện, với một số kệ nhiều hơn. Mỗi Jàtaka (Bổn Sanh) gồm có bốn phần:

1) PACCUPPANNA-VATTHU: Câu chuyện hiện tại, một câu chuyện được xem là xảy ra trong thời đức Phật tại thế, nên gọi là câu chuyện hiện tại, và vì câu chuyện này, đức Phật kể ra một câu chuyện quá khứ.

2) ATITAVATTHU: Câu chuyện quá khứ, có liên hệ đến những nhân vật trong câu chuyện hiện tại. Trong câu chuyện quá khứ, luôn luôn có sự hiện diện của Bồ Tát (là Tiền thân của đức Phật) trong một vai trò nào đó. Có một hay nhiều bài kệ, khi thì do Bồ Tát nói, khi thì do đức Phật nói, phần lớn dưới hình thức một bài dạy đạo đức.

3) VEYYÀKARANÀ: Giải thích bài kệ hay một vài danh từ trong câu chuyện quá khứ.

4) SAMODHÀNA: Phần kết hợp, Đức Phật kết hợp hai mẫu chuyện hiện tại và quá khứ, có khi thêm một bài thuyết pháp, kết quả của bài ấy và cuối cùng là phần nhận diện Bổn Sanh, chỉ rõ sự liên hệ giữa những nhân vật chính trong hai câu chuyện quá khứ và hiện tại.

Theo truyền thống Tích Lan, câu chuyện hiện tại, câu chuyện quá khứ, lời giải thích và phần kết hợp gồm thành tập Jàtaka atthakathà (Bổn Sanh sớ giải). Tập này được dịch sang tiếng Singala (Tích Lan), trừ các bài kệ vẫn giữ tiếng Pàli. Tập Jàtaka Atthakathà bằng tiếng Singala (Tích Lan) lại được dịch qua tiếng Pàli với danh từ là Jàtakassa Atthavannanà, mà nay chúng tôi đang dịch ra tiếng Việt Nam. Truyền thống xem rằng chính Buddhaghosa đã dịch từ tiếng Singala ra tiếng Pàli, nhưng truyền thống này chưa được các học giả đồng ý.

Chúng tôi không dịch Phần 3, Veyyàkaranà, vì phần này có tánh cách sớ giải.

Vì chỉ mới dịch có 120 mẫu chuyện thành Tập I này, nên chúng tôi chỉ có thể dựa vào số 120 mẫu chuyện, này để phân tích và đưa đến một vài kết luận hay nhận xét cho riêng 120 mẫu chuyện mà thôi. Chỉ khi nào dịch xong toàn bộ, sẽ có những kết luận chung cho cả tập Jàtaka.

Trước hết là nhận xét về trú xứ của câu chuyện hiện tại và câu chuyện quá khứ:

Dựa theo những công trình của các vị học giả đã nghiên cứu trước, chúng nhận thấy các câu chuyện quá khứ được xảy ra phần lớn về phương Bắc và phương Tây nước Ấn Độ. Còn các câu chuyện hiện tại được xảy ra phần lớn về phương Đông Ấn Độ. Ví dụ, trong các câu chuyện quá khứ, Ba-La-Nại được đề cập đến 428 lần, Gadhàra 25 lần, còn trong câu chuyện hiện tại, Kosala được đề cập 428 lần và Magadha 58 lần (xem Jàtaka tập VII, trang VI). Riêng trong 120 mẫu chuyện hiện được phiên dịch, trong các câu chuyện hiện tại, Kỳ Viên được nói đến 83 lần, Trúc Lâm 10 lần, Xá Vệ 6 lần, v.v…

Jàtaka hay Bổn Sanh là những mẫu chuyện diễn tả các đời sống trước (tiền thân) của đức Phật và danh từ dùng trong các câu chuyện quá khứ là Bồ Tát. Chúng ta phải xác nhận ở nơi đây, danh từ Bồ Tát trong các chuyện Bổn Sanh chỉ cho tiền thân của đức Phật trong những đời sống quá khứ, khi làm chư thiên, khi làm thú vật, khi làm vua, khi làm hoàng tử v.v… Trong các câu chuyện quá khứ, nhân vật nổi bật nhất luôn luôn là Bồ Tát, thường đóng vai trò linh động nhất hay quan trọng nhất

Phân tích 120 câu chuyện quá khứ được dịch trong tập I này, chúng tôi xin ghi nhận nơi đây những vai trò Bồ Tát đã đóng như sau:

* 26 lần Bồ Tát làm chim làm thú: 1 lần làm chó, 2 lần làm ngựa, 4 lần làm bò đực, 1 lần làm voi, 2 lần làm cá, 5 lần làm nai, 3 lần làm khỉ và 8 lần làm chim. Về các loài chim: ngỗng trời 1 lần, chim cút 3 lần, chim trĩ 1 lần, chim chúa 2 lần, chim bồ câu 1 lần.

* Bồ Tát làm vua 6 lần, làm con vua 6 lần, làm đại thần 7 lần, làm triệu phú 10 lần, làm địa chủ 1 lần, làm Bà-La-Môn 4 lần, làm hiền trí 11 lần, làm Sư Trưởng 8 lần, làm ẩn sĩ 6 lần.

* Bồ Tát hành nghề cũng rất rộng rãi và đa dạng: làm trưởng đoàn lữ hành 3 lần, làm nghề đi buôn 2 lần, làm người cày ruộng 1 lần, làm người đánh trống 1 lần, làm người thổi tù-và 1 lần, làm thầy thuốc 1 lần, làm thợ hớt tóc 1 lần, học nghề đoán sao, nghề nhào lộn 2 lần, làm con trai một gia đình 2 lần. Ngoài ra, chúng ta còn ghi nhận thêm: Bồ Tát làm chư thiên 5 lần, làm thần cây 8 lần.

Đây chỉ nói đến 120 chuyện trong tập này thôi, chưa đề cập đến các mẫu chuyện còn lại. Nhìn chung, chúng ta cũng thấy vai trò của vị Bồ Tát thật là đa dạng, thật là phong phú, và vì đóng vai trò tiền thân đức Phật, phong cách đạo đức của Bồ Tát thật hoàn toàn tuyệt diệu từ lời nói, từ suy tư cho đến việc làm.

Mỗi chuyện tiền thân có một bài kệ, phần lớn do Bồ Tát nói, có khi đức Phật nói. Những bài kệ này, có thể là một lời phê bình khi nhận xét những sự việc đã xảy ra, có khi là một lời cảnh cáo những nhân vật trọng yếu, sai trái, có khi là một lời khuyên giáo đạo đức, dựa trên câu chuyện đã xảy ra. Nghiên cứu các bài kệ này cũng là một nguồn cảm hứng đặc biệt, và các bài kệ được xem là phần cổ kính nhất của tập Bổn Sanh này.

Phân tích 120 câu chuyện hiện tại trong Bổn Sanh này, chúng ta nhận thấy những đề tài được đề cập liên hệ trực tiếp với đức Phật, với các vị trưởng lão kế cận đức Phật, với các vị Tỳ-kheo, và một số cư sĩ liên hệ nhiều với đạo Phật. Ngoài ra, có đề cập những đề tài thông thường như đồ ăn cho người chết, lễ cúng dường khi cầu nguyện, các chòi lá bị cháy v.v… Đề tài sau này chiếm tỷ lệ rất thấp.

Những đề tài liên hệ trực tiếp đến đức Phật như thần thông song hàn (số 29), Devadatta luôn luôn tìm cách hại Phật (số 11, 21, 26, 57, 58, 72, 113), nữ Bà-la-môn Cinca vu oan đức Phật số (120), đức Phật nhập Niết Bàn (số 95). Tiếp đến là một số Trưởng Lão thân cận với đức Phật như Ànanda (số 92, 95), Ràhula (số 167), Sàriputta (số 37, 69), Cullapanthaka (4), Laludàya (5) v.v…

Tiếp đến nữa là đề cập đến một số Tỳ-kheo có các hạnh không được tốt đẹp và cần đức Phật giáo giới, đề tài này có thể nói là chiếm đa số. Như Tỳ-kheo thối thất tinh tấn (số 2, 3, 23, 24, 51, 52, 55), Tỳ-kheo có nhiều đồ vật (6, 32) Tỳ-kheo khó nói (15, 43, 48, 59, 60, 82, 104, 116), Tỳ-kheo bị ái luyến (30, 61, 63, 66, 85, 106), Tỳ-kheo nói khoác (80), Tỳ-kheo ném con ngỗng trời (107), Tỳ-kheo làm ồn phi thời (119), Tỳ-kheo uống nước không có lọc (31).

Tiếp theo là các đề tài liên hệ đến các đệ tử cư sĩ, hoặc của đức Phật hay của các vị Trưởng lão. Cấp-Cô-Độc được nói đến khá nhiều (số 1, 40, 45, 83, 90, 103), đệ tử của Sàriputta (25, 39).

Lại có một số đề tài có thể xem là không liên hệ đến đạo Phật, như đồ ăn cho người chết (số 18), lễ cúng dường khi cầu nguyện (19), làm lợi ích cho bà con (12), các chòi lá bị cháy (36), các cơn mộng (77) và đề tài liên hệ đến nữ nhân (61, 62, 63, 64, 65, 66, 67).

Dựa trên các đề tài được đề cập trong các câu chuyện hiện tại, chúng ta có thể nói, những đề tài phần lớn đề cập đến Giáo hội Phật giáo trong thời đức Phật còn tại thế và khoảng 100 năm sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, nhất là một số tệ trạng các Tỳ-kheo gặp phải, sau khi đạo Phật được truyền bá khắp xứ Ấn Độ và khi bậc Đạo Sư không còn nữa. Các đề tài và các mẫu chuyện cũng giúp chúng ta hiểu được một số nét về tình trạng xã hội đương thời.

Chúng tôi phải gác một bên, không cho đăng một số mẫu chuyện về nữ nhân, có tánh cách châm biếm thái quán, và câu chuyện 16 giấc mộng, có tánh cách sấm ký, sợ bị hiểu lầm.

Ở đây, một vấn đề phải được đặt ra là “Ai là tác giả các tập Jàtaka này?”. Tuy Bộ này được phân loại vào Khuddaka Nikàya (Tiểu Bộ Kinh), tức là một trong năm tập Nikàya, Kinh Tạng, và mỗi câu chuyện đều được diễn tả như là đức Phật đã kể lại, chúng ta có những lý do xác đáng để khẳng định tác giả các tập này phải là các vị Tỳ-kheo, hoặc sống trong thời đức Phật, hoặc sau đó khoảng vài chục năm: vì chỉ có những vị này mới thông hiểu được tổ chức của Giáo hội và hiểu được những mẫu chuyện dân gian của Ấn Độ; vì chỉ những người am hiểu dân tình, đồng quê xứ sở Ấn Độ mới có thể ghi nhận và trình bày được. Bài giới thiệu không cho phép chúng tôi đi sâu vào vấn đề tác giả của các mẫu chuyện Bổn Sanh này. Nhưng căn cứ trên ngôn ngữ học, trên cách hành văn, trên các danh từ được dùng trong các câu chuyện, các giáo lý được đề cập, đức Phật được diễn tả, pháp môn được tu tập v.v…, chúng ta có những lý do để khẳng định tập Jàkata này mở một kỷ nguyên mới trong văn học Phật giáo và trong cung cách truyền bá đạo Phật, được xảy ra sau khi Phật nhập Niết Bàn.

Tuy vậy, chúng ta phải xác nhận rằng nền văn học Phật giáo Jàtaka này đã tác dụng rất lớn, ảnh hưởng đến sự truyền bá đạo Phật, trong quá khứ cũng như trong hiện tại, ở Ấn Độ cũng như ngoài Ấn Độ, không những trong lãnh vực văn học mà còn lan đến lãnh vực nghệ thuật, kiến trúc, đời sống xã hội nhân dân, v.v…

Trước hết, một số mẫu chuyện Jàtaka được khắc trên những tác phẩm điêu khắc tại các chùa, các tháp như ở Sanchi, ở Amaravati, đặc biệt Bharhut, Ấn Độ. Tại đấy, tên các Jàtaka được khắc rõ ràng. Ngày nay, một số công trình điêu khắc ấy vẫn còn được giữ khá nguyên vẹn tại các di tích Phật giáo Ấn Độ. Những công trình điêu khắc ấy chứng tỏ các câu chuyện tiền thân đã được biết đến rất nhiều vào thế kỷ thứ ba trước kỷ nguyên. Pháp Hiển, nhà chiêm bái Trung Quốc, khi đến thăm Tích Lan vào thế kỷ thứ tư sau kỷ nguyên, đã chứng kiến tại ngôi chùa Abhayagiri, sự trình diễn năm trăm chuyện tiền thân của đức Phật, khi Ngài còn là Bồ Tát, dưới hình thức con voi, con nai, v.v… Chúng tôi khi còn ở Tích Lan, nhân ngày Phật Đản có chứng kiến các tấm Pandal rất lớn, về các mẫu chuyện Jàtaka để dân chúng đến xem và chiêm ngưỡng. Và tại các Pandal ấy, có diễn xuất các vở kịch mẫu chuyện Jàtaka nữa. Vì vậy, ngày lễ Phật Đản ở Tích Lan là ngày mà rất đông dân chúng đi từ Pandal này qua Pandal khác, vừa dự lễ, vừa xem diễn các vở kịch về Jàtaka; dân chúng vui chơi một đêm trong ngày hội lớn. Các mẫu chuyện này cũng được dùng làm đề tài thuyết pháp trong các dịp lễ, dân chúng đến nghe suốt đêm, nghe các vị sư Tích Lan kể chuyện tiền thân Jàtaka mà không biết mệt.

Một ảnh hưởng nữa mà các câu chuyện này đem lại, nhất là các mẫu chuyện về súc vật, nhiều khi vượt qua biên giới tôn giáo Ấn Độ và trở thành những chuyện cổ tích dân gian, nửa thần thoại, nửa thực tế, không lệ thuộc tôn giáo này hay xứ sở nào. Chúng tôi tin rằng có một số chuyện cổ tích Việt Nam được bắt nguồn từ những chuyện Jàtaka này như chuyện Tấm Cám chẳng hạn. Những mẫu chuyện cổ tích này đã trở thành gia tài chung của nền văn hóa dân gian, phản ảnh được những tính chất bình thường của dân chúng, dưới mọi chân trời, trong đời sống hằng ngày của dân chúng, khi phải tiếp xúc với những gì hay, hoặc xấu của cuộc đời. Chính vì vậy mà các tập Jàtaka này rất được phổ biến, không những trong giới Phật tử mà còn lan tràn khắp mọi địa phương, mọi dân tộc.

Tập Jàtaka có khoảng năm trăm năm mươi mẫu chuyện. Nay mới dịch xong tập I với một trăm hai mươi mẫu chuyện. Như vậy còn lại khoảng bốn trăm ba mươi chuyện, sẽ được tiếp tục dịch và dự tính mất hai năm mới xong. Qua việc dịch tập Jàtaka, chúng tôi gặp phải một thể văn hoàn toàn sai khác với các bản Nikàya, danh từ khác lạ, rất phong phú, rất nhiều chữ mới. Đó là thể văn kể chuyện, trực tiếp ghi chép các cuộc đối thoại, nên vừa dài vừa linh động, dịch cho gọn và cho sát với nguyên bản thật là cả một vấn đề.

Chúng tôi muốn nói thêm về mục đích phiên dịch kinh Tạng Pàli ra tiếng Việt. Từ Ấn Độ về nước vào năm 1964, chúng tôi bắt tay phiên dịch ngay hai bộ Màjjhima Nikàya (Trung Bộ Kinh) và Dìgha Nikàya (Trường Bộ Kinh) cho đến năm 1975 mới dịch xong. Từ năm 1975 đến 1978, chúng tôi dịch xong hai bộ Samgutta Nikàya (Tương Ưng Bộ Kinh) và Anguttara Nikàya (Tăng Chi Bộ kinh). Từ năm 1978, chúng tôi bắt đầu dịch bộ Khuddaka Nikàya (Tiểu Bộ Kinh) và cho đến nay, đã dịch được sáu tập trong mười lăm tập, đang dịch tập Jàtaka thứ bảy. Dịch xong Jàtaka, chúng tôi tự xem là dịch xong Kinh Tạng Pàli, số tập còn lại trong Tiểu Bộ Kinh xin nhường lại cho các vị khác. Còn chúng tôi dự định duyệt lại các bộ Nikàya đã phiên dịch, thống nhất lại các danh từ chuyên môn, thống nhất lại các đoạn văn tương đương, hiệu đính lại các đoạn văn, các danh từ sai lầm, cố gắng hoàn thành cho được tốt đẹp những công trình phiên dịch của chúng tôi.

Chúng tôi phiên dịch Kinh Tạng Pàli hướng về hai mục đích rõ rệt:

1) Mục đích thứ nhất là giới thiệu Kinh Tạng Pàli cho Phật tử và cho nhân dân Việt Nam, những nguyên bản kinh điển được xem là cổ xưa nhất và chứa đựng những giáo lý trung thành nhất của đức Phật. Đức Phật dạy các Phật tử hãy học giáo lý của Ngài trong ngôn ngữ của mình. Phật tử Việt Nam, tất nhiên phải học giáo lý của Ngài ngang qua tiếng Việt, và nhờ vậy Phật tử Việt Nam vượt qua được những trở ngại ngôn ngữ và tự mở rộng cửa chánh pháp và cho mình và cho mọi người.

Chúng tôi phiên dịch Kinh Tạng vì chúng tôi xem Kinh Tạng gìn giữ được những lời dạy trung thành nhất của đức Phật chưa bị ảnh hưởng bởi những chia rẽ hệ phái và tông phái (Nam tông, Bắc tông).

2) Mục đích thứ hai của chúng tôi trong nhiệm vụ phiên dịch này là xây dựng cho được một Đại Tạng Việt Nam. Ngày nay, chúng ta đã được độc lập thống nhất, chúng ta phải có Đại Tạng Việt Nam cho Phật tử Việt Nam. Ngôn ngữ Việt Nam đủ phong phú, đủ trong và sức mạnh đóng vai trò chuyển ngữ. Ngày nào, chúng ta còn lệ thuộc vào Pàli Tạng hay Hán Tạng v.v… ngày ấy, chúng ta vẫn còn lệ thuộc những văn tự ấy. Độc lập ngôn ngữ cũng có nghĩa là độc lập dân tộc. Xưa kia, ông cha ta đề cao tiếng Nôm là cũng vì vậy, vì chỉ có độc lập ngôn ngữ mới khỏi bị đồng hóa bởi văn hóa ngoại bang.

Chúng ta đang cần nghiên cứu Pàli Tạng và Hán Tạng nhưng nghiên cứu không có nghĩa là cam tâm lệ thuộc vào văn tự Pàli hay văn tự Hán Tạng. Điều cốt yếu là thấy rõ điều ấy, và thấy rõ điều ấy cũng tức là thấy được sự cần thiết phải xây dựng cho được một Đại Tạng Việt Nam.

Viết tại Viện Phật Học Vạn Hạnh trong mùa An Cư năm 1980,
để kỷ niệm Lễ Vu Lan năm Canh Thân.

Tỷ Kheo THÍCH MINH CHÂU
Viện Trưởng Viện Phật Học Vạn Hạnh.

Kinh Tiểu Bộ – Khuddaka Nikàya

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tập 9 – Trưởng Lão Ni Kệ

-ooOoo-

Mục Lục

Phẩm 1 – Tập Một Kệ Phẩm 9 – Tập Chín Kệ
Phẩm 2 – Tập Hai Kệ Phẩm 10 – Tập Mười Kệ
Phẩm 3 – Tập Ba Kệ Phẩm 11 – Tập Mười Hai Kệ
Phẩm 4 – Tập Bốn Kệ Phẩm 12 – Tập Mười Sáu Kệ
Phẩm 5 – Tập Năm Kệ Phẩm 13 – Tập Hai Mươi Kệ
Phẩm 6 – Tập Sáu Kệ Phẩm 14 – Tập Ba Mươi Kệ
Phẩm 7 – Tập Bảy Kệ Phẩm 15 – Tập Bốn Mươi Kệ
Phẩm 8 – Tập Tám Kệ Phẩm 16 – Ðại Phẩm

***

Giới thiệu Trưởng Lão Tăng Kệ & Trưởng Lão Ni Kệ

Trưởng Lão Tăng Kệ là quyển thứ tám của Tiểu Bộ Kinh, một tập hợp 264 tích truyện trong dạng các câu kệ do các vị tỳ kheo đệ tử của Ðức Phật thuật lại về cuộc đời, công phu tu tập và tinh tấn  hành trì của quý Ngài trên đường đưa đến đạo quả A-la-hán. Trong khi đó, Trưởng Lão Ni Kệ là quyển thứ chín, gồm 73 tích truyện về cuộc đời các vị tỳ kheo ni đệ tử A-la-hán của Ðức Phật.

Qua hai quyển kinh nầy, chúng ta biết được các nỗ lực tu tập, đấu tranh nội tâm, thanh lọc tâm ý để đưa đến giác ngộ giải thoát. Cuộc đời tu hành của quý vị Tăng Ni như đã ghi lại trong hai quyển kinh là những tấm gương sáng ngời để chúng ta cùng suy gẫm và noi theo trên con đường hành đạo của mỗi người con Phật chúng ta.

Ngoài ra, các câu chuyện và vần kệ trong quyển Trưởng Lão Ni Kệ cũng là một chứng minh hùng hồn, cho thấy con đường của chư Phật mở rộng cho mọi người, không phân biệt nam hay nữ. Tấm gương dũng cảm quyết tâm tu tập để đắc đạo quả cao thượng của các vị tỳ kheo ni tiền phong trong Ni Ðoàn của Ðức Phật là một nguồn cảm hứng cho tất cả mọi người con Phật trong hơn hai ngàn năm trăm năm qua – nam cũng như nữ, già lẫn trẻ, người tại gia cũng như xuất gia. Ðạo quả A-la-hán, đạo quả giác ngộ toàn bích, mở rộng cho tất cả những ai tận lực tu học, giữ gìn giới hạnh, thanh lọc tâm ý, khai phát tuệ minh, như các vị đại đệ tử tỳ kheo và tỳ kheo ni đó.

Tỳ kheo Ariyasilo
(Bình Anson lược dịch, tháng 01-2001)

Phẩm I

-ooOoo-

Tập Một Kệ

(I) Bài Kệ Này Do Một Trưởng Lão Ni Không Biết Tên Nói Lên (Therì. 123)

  1. Hãy ngủ trong an lạc
    Hỡi nàng thân đẫy đà,
    Ðắp phủ trong tấm y,
    Chính mình tự làm lấy,
    Lòng tham, nàng lắng dịu,
    Như ghè khô trong lò!

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh trong một gia đình ở Vesàli (Tỳ-xá-ly). Vì thân hình đẫy đà, nàng được gọi là nàng đẫy đà. Nàng trở thành người vợ trung thành của một người quý tộc. Khi bậc Ðạo Sư đến Vesàli, nàng tin tưởng giáo pháp của đức Phật và trở thành một nữ cư sĩ. Khi nàng nghe Trưởng lão Ni Mahàpajàpati thuyết pháp, nàng muốn xuất gia và thưa với chồng ý nguyện của nàng. Người chồng không cho, nên nàng tiếp tục làm tròn bổn phận của nàng, suy tư đến những lời dạy dịu dàng của giáo pháp và chú tâm đến thiền quán. Rồi một ngày kia, trong khi đang ở trong bếp và nấu món ăn, một ngọn lửa mạnh bừng cháy và thiêu tất cả món ăn với những tiếng cháy xèo xèo, nàng lấy đó làm đề tài để thiền quán về tánh vô thường của sự vật, và chứng được quả Bất Lai. Rồi nàng không đeo các đồ trang sức nữa. Người chồng hỏi duyên cớ, nàng trả lời nàng không thể sống trong gia đình được nữa. Người chồng đưa nàng đến Trưởng lão Ni Mahàpajàpàti Gotami, và bằng lòng để nàng xuất gia. Mahàpajàpàti làm lễ xuất gia cho nàng và đưa nàng đến yết kiến đức Phật. Bậc Ðạo Sư giải thích về đề tài thiền quán của nàng và nói lên bài kệ này.

Khi nàng chứng quả A-la-hán, nàng lập lại bài kệ này và bài kệ trở thành bài kệ của nàng.

(II) Muttà (Therì. 123)

(Bài kệ này Thế Tôn thường nói lên để khích lệ Muttà khi nàng còn đang học tập).

  1. Hỡi này, giải thoát Ni
    Hãy giải thoát các ách,
    Như mặt trăng thoát khỏi,
    Miệng hàm của Ràhu,
    Với tâm tư giải thoát,
    Khỏi nợ nần trói buộc,
    Hãy thọ hưởng món ăn,
    Do khất thực đem lại.

Ðây là bài kệ của giới học nữ Muttà. Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh làm con gái của một Bà-la-môn, có danh vọng ỏ Sàvatthi. Ðến năm hai mươi tuổi, các điều kiện chín muồi, nàng xuất gia dưới sự hướng dẫn của Mahàpajàpati Gotami, và học tập thiền quán. Một hôm, sau khi khất thực, sau khi làm các phận sự đối với các Trưởng lão Ni xong, nàng tìm một chỗ thanh vắng để ngồi thiền, tập trung tư tưởng vào nội tâm. Rồi bậc Ðạo Sư, ngồi trong hương phòng ở tinh xá phóng ra hào quang, xuất hiện trước mặt nàng và nói lên bài kệ trên. Còn nàng, vững tin với lời giáo giới ấy, không bao lâu chứng được quả A-la-hán và khi chứng quả nói lên lại bài kệ này. Sau khi tu hành thành đạt, được đề nghị lên những hàng giáo phẩm, nàng vẫn đọc bài kệ này, khi sắp sửa mệnh chung.

(III) Punnà (Therì. 123)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh làm con một gia đình trưởng giả ở Sàvatthi và tên là Punnà. Khi nàng đến hai mươi tuổi và nghiệp duyên thành thục, nàng nghe Mahàpajàpati thuyết pháp và xuất gia. Khi trở thành một giới học nữ, nàng bắt đầu thiền quán, và bậc Ðạo Sư từ nơi hương phòng của Ngài phóng hào quang và nói lên bài kệ này:

  1. Hỡi này, thành Mãn ni,
    Hãy tràn đầy Chánh pháp,
    Như mặt trăng tròn đầy,
    Trong ngày rằm trăng tròn,
    Hãy tràn đầy trí tuệ,
    Phá tan khối si ám.

Sau khi nghe bài kệ này, thiền quán được tăng trưởng và nàng chứng quả A-la-hán. Bài kệ này nói lên lòng phấn khởi và xác chứng chánh trí của nàng.

(IV) Tissà (Therì. 123)

Bài kệ sau này là của Tissà, một giới học nữ trải qua nhiều đức Phật, nàng tích lũy các công đức, và trong đời đức Phật hiện tại, nàng được tái sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) trong gia đình quý tộc Thích-ca, được tuyển vào nội cung của vị Bồ-tát. Nàng cùng với Mahàpajàpati xuất gia và tu tập thiền quán. Bậc Ðạo Sư hiện ra trước nàng và nói lên bài kệ:

  1. Tissà hãy học tập,
    Học trong những học pháp,
    Chớ để cho các ách,
    Vượt khỏi chi phối nàng.
    Hãy sống không liên hệ,
    Mọi ách không trói buộc,
    Sống giữa thế giới này,
    Không có các lậu hoặc.

Và nàng nghe bài kệ này, được tăng trưởng thiền quán và chứng quả A-la-hán. Sau đó nàng thường đọc lên bài kệ này.

(V) Một Tissà Khác (Therì. 123)

  1. Tissà, hãy cột tâm
    Tập trung trên các pháp,
    Chớ để từng sát-na
    Uổng phí vượt khỏi nàng!
    Những sát-na đã qua
    Họ sầu muộn, đau khổ,
    Khi họ bị rơi vào
    Trong cảnh giới địa ngục.

(VI) Dhìra (Therì. 124)

  1. Dhìra, hãy cảm xúc,
    Những cảm chứng đoạn diệt,
    Tịnh chỉ các vọng tưởng,
    Là chân chánh an lạc,
    Hãy thuận hướng Niết-bàn,
    Ách an ổn, vô thường.

(VII) Một Dhìra Khác (Therì. 124)

  1. Dhìra, hãy kiên trì,
    Nắm giữ các thiện pháp,
    Hỡi này Tỷ-kheo-ni,
    Các căn được tu tập,
    Hãy mang cái thân này,
    Là cái thân cuối cùng,
    Sau khi đã chiến thắng,
    Ác ma nữ quân lực,
    Sau khi đã chiến thắng,
    Ác ma với quân lực.

(VIII) Mittà (Therì. 124)

  1. Hỡi này Mittà bạn!
    Với lòng tin xuất gia,
    Hãy tu tập rèn luyện,
    Hân hoan trong bạn lành,
    Hãy tu tập rèn luyện,
    Trong các pháp hiếu thiện,
    Cố gắng đạt cho được,
    An ổn khỏi ách nạn.

(IX) Bhadhà (Therì. 124)

  1. Hỡi Bhàdha hiền thiện,
    Với lòng tin xuất gia,
    Hãy sống vui hoan hỷ,
    Trong các pháp hiền thiện,
    Hãy tu tập rèn luyện,
    Trong các pháp chí thiện,
    Cố gắng đạt cho được,
    An ổn khỏi ách nạn.

(X) Upasanà (Therì. 124)

  1. Hỡi Upasanà
    Hãy vượt dòng nước mạnh,
    Dòng nước khó vượt qua,
    Bị thần chết chi phối,
    Hãy mang cái thân này,
    Là cái thân cuối cùng,
    Sau khi đã chiến thắng,
    Ác ma với quân lực.

Sáu Tỷ-kheo-ni này, câu chuyện giống như Tissà (VI) trừ Dhirà, được gọi là một Dhirà khác. Nàng không được bài kệ nào đọc cho nàng, nhưng nàng cảm thấy dao động khi được nghe lời Phật dạy. Dựa trên những lời này nàng tinh tấn thiền nhất quán, và khi nàng chứng được quả A-la-hán, nàng nói lên sự sung sướng của nàng. Các Tỷ-kheo-ni khác cũng có thái độ tương tự.

(XI) Muttà (Therì. 123)

Nhờ tích lũy các thiện nghiệp dưới thời các đức Phật khác, Muttà được sinh ở Kosalà, con gái của một Bà-la-môn nghèo tên là Oghàtaka. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng phải làm vợ một người Bà-la-môn còm, nhưng nàng thưa với chồng rằng nàng không thể sống trong gia đình và được chồng bằng lòng cho nàng xuất gia. Trong khi thiền quán, tâm tư vẫn chạy theo các đối tượng ở ngoài. Do vậy, nàng kiên trì tự chế ngự và đọc lên bài kệ của nàng. Nàng tinh tấn thiền quán cho đến khi nàng chứng được quả A-la-hán. Rồi hân hoan nàng lập lại bài kệ:

  1. Lành thay giải thoát Ni,
    Ta thật khéo giải thoát,
    Giải thoát ra khỏi được,
    Ba vật còm và cong,
    Thoát cối xay, cái chày,
    Thoát ông chồng lưng còm,
    Hỡi này giải thoát Ni!
    Ta thoát được sống chết,
    Những gì dẫn tái sanh,
    Ðược nhổ lên tận gốc.

(XII) Dhammadinnà (Therì. 124)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh trong một gia đình ở Ràjagaha (Vương Xá) và trở thành vợ của Visàkha, một người có địa vị trong xã hội. Một ngày kia, chồng nàng đi nghe đức Phật thuyết pháp, chứng được quả Bất lai. Khi Visàkha về, Dhammadinnà đưa tay ra đỡ chồng lên gác, nhưng người chồng không nắm tay và không nói với nàng trong bữa ăn chiều. Nàng hỏi chồng duyên cớ, người chồng nói không phải vì lỗi gì của nàng, nhưng nay vì đã hiểu được Chánh pháp nên không còn những cử chỉ như trước nữa. Người chồng trả quyền tự do cho nàng, một là ở lại gia đình người chồng, hai là lấy tiền bạc rồi về lại gia đình cha mẹ, nhưng nàng không chịu, và xin được xuất gia.Visàkha đưa nàng đến các Tỷ-kheo-ni trong một chiếc kiệu vàng. Ðược cho phép xuất gia, nàng xin sống nhập thất, không muốn sống chung đụng ồn ào và đi đến một tinh xá ở làng. Tại đấy, nhờ những thiện nghiệp quá khứ, nàng chế ngự thân, miệng, ý, chứng được quả A-la-hán, với Tứ vô ngại giải: Nghĩa vô ngại giải, pháp vô ngại giải, từ vô ngại giải, biện tài vô ngại giải. Rồi nàng đi về Ràjagaha (Vương Xá), với các Tỷ-kheo-ni. Visàkha chồng cũ của nàng đến hỏi pháp, nàng như đã được diễn tả trong kinh Tiểu Vedalla (M.i. 299), nàng trả lời rất rõ ràng đúng đắn các câu hỏi của Visàkha và được đức Phật tán thán. Nàng trở thành thuyết pháp đệ nhất trong hàng các Tỷ-kheo-ni. Chính trong khi nàng ở lại một tinh xá ở làng và nàng nói lên bài kệ này:

  1. Trong ai, lòng ước muốn,
    Ðạt được quả vô sanh,
    Ðược sanh khởi tỏa rộng,
    Ðầy tràn cả tâm ý,
    Tâm không bị trói buộc,
    Trong các dục chi phối,
    Vị ấy được tên gọi
    Là bậc vào dòng trên.

(XIII) Visàkhà (Therì. 124)

Câu chuyện của Visàkhà cũng giống như câu chuyện của Dhìra. Sau khi chứng quả A-la-hán, nàng suy tư trên lạc giải thoát và nói lên chánh trí nàng đã chứng được, để khuyến khích đồng bạn tu hành.

  1. Hãy làm, hãy thực hành
    Ðúng theo lời Phật dạy.
    Và sau khi làm xong,
    Không có lòng ăn năn,
    Hãy gấp rửa chân sạch,
    Và ngồi xuống một bên.

(XIV) Sumànà (Therì. 124)

Câu chuyện của nàng giống như chuyện của Tissà phóng hào quang, đức Phật hiện ra ngồi trước mặt nàng và nói lên bài kệ này:

  1. Sau khi thấy các giới,
    Với cái nhìn đau khổ,
    Chớ có đi trở lại,
    Vào con đường tái sanh,
    Hãy từ bỏ, xả ly
    Lòng dục trong sanh hữu,
    Sống đời sống hành trì,
    Ta mát lạnh tịch tịnh.

(XV) Uttarà (Therì. 125)

Câu chuyện của Uttarà cũng giống như câu chuyện của Tissà (IV). Và khi nàng chứng quả A-la-hán, nàng nói lên bài kệ này:

  1. Ta đã chế ngự được,
    Thân miệng và tâm tư,
    Ta chinh phục khát ái,
    Cho đến tận gốc rễ,
    Ta sống được mát lạnh,
    Trong tịch tịnh, an lặng.

(XVI) Sumànà Xuất Gia Khi Tuổi Già (Therì. 125)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Sàvatthi làm chị của vua Kosala. Sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, bắt đầu với bốn chữ: ‘Có bốn loại trẻ tuổi không nên khinh thường…’ (S. I, 68), nàng khởi lên lòng tin, thọ tam quy và ngũ giới.Vì mắc hầu hạ bà ngoại, nàng không xuất gia được. Sau khi bà ngoại mất, nàng cùng đi với vua tới tịnh xá, đem theo nhiều màn, nhiều vải cúng dường giáo hội. Nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, nàng chứng được quả Bất hoàn và xin được xuất gia và Thế Tôn thấy được sự trưởng thành trong trí tuệ của nàng nên nói lên bài kệ này:

  1. Hỡi này, lão Ni kia,
    Hãy an lạc nằm nghỉ,
    Ðắp phủ trong tấm y,
    Chính tự mình làm lấy,
    Lòng tham người an tịnh,
    Người mát lạnh tịch tịnh.

Khi đức Phật nói xong, nàng chứng được quả A-la-hán, với thấu triệt pháp, thấu triệt nghĩa. Trong sự sung sướng nội tâm, nàng lập lại những câu kệ này và chúng trở thành lời tuyên bố chánh trí của nàng. Rồi nàng được xuất gia ngay.

(XVII) Dhammà (Therì. 125)

Sau khi chất chứa công đức trong nhiều đời, nàng được sanh trong một gia đình quyền quý dưới thời đức Phật hiện tại. Sau khi lấy chồng, nàng được cảm hóa theo đạo Phật, xin xuất gia nhưng người chồng không bằng lòng. Nàng chờ cho khi chồng mất, mới xuất gia. Một hôm, sau khi khất thực, trên con đường về tinh xá, nàng mất thăng bằng bị ngã. Dùng sự kiện ấy để thiền quán, nàng chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Trong sự vui sướng, nàng nói lên bài kệ;

  1. Sau khi khất thực xong,
    Yếu sức, chống trên gậy,
    Với chân tay run rẩy,
    Ta ngã trên mặt đất,
    Thấy nguy hiểm của thân,
    Tâm ta được giải thoát.

(XVIII) Sanjhà (Therì. 125)

Ðời nàng giống như đời của Tỷ-kheo-ni Dhìra, nhưng bài kệ của nàng như sau:

  1. Bỏ gia đình, xuất gia,
    Ta từ bỏ con cái,
    Từ bỏ gia súc quý,
    Từ bỏ tham và sân,
    Còn đối với vô minh,
    Ta sống hạnh viễn ly,
    Sau khi chinh phục được,
    Tận gốc cả tham ái,
    Ta được sống mát lạnh,
    Tịch tịnh và an lặng.

Phẩm Hai

-ooOoo-

Tập Hai Kệ

(XIX) Abhirùpa Nandà (Therì. 125)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Kapilavatthu, con gái vợ chính của vua Khemaka, dòng họ Thích-ca (Sakya), tên là Nandà. Vì nàng rất đẹp nên được tên là Abhirùpa Nandà (Nandà đẹp). Ngày nàng lựa Carabhùta làm chồng, thời Carabhùta mệnh chung và cha mẹ cưỡng bức nàng xuất gia. Sau khi đã xuất gia, nàng vẫn tự kiêu với sắc đẹp của nàng, và sợ bậc Ðạo Sư quở trách, nàng lẫn tránh Ngài. Thế Tôn biết được hạnh nàng đã thuần thục nên bảo Mahàpajàpati quy tụ mọi Tỷ-kheo-ni lại để Ngài dạy bảo, nàng nhờ người khác đi thế. Ðức Phật không chấp nhận nên nàng phải đến dự. Ðức Phật hóa sanh một nữ nhân rất đẹp, nhưng dần dần bị già nua, yếu hèn và nàng bị xúc động mạnh. Rồi đức Phật nói với nàng những bài kệ như sau:

  1. Này Nandà, hãy nhìn,
    Tấm thân chỗ quy tụ,
    Nhiều bệnh hoạn, bất tịnh,
    Ðầy hôi hám thối nát,
    Tâm nàng hãy tu tập,
    Quán tri tánh bất tịnh,
    Ðạt cho được nhất tâm,
    Tâm tư khéo thiền định.
  2. Hãy tu tập vô tướng,
    Hãy bỏ mạn tùy miên,
    Do thắng tri được mạn,
    Nàng sẽ sống an tịnh.

Khi Thế Tôn nói xong, nàng chứng quả A-la-hán. Nói lại cho nàng những bài kệ này, nàng xem các bài kệ là lời tuyên bố chánh trí của nàng.

(XX) Jentì (hay Jentà) (Therì. 125)

Câu chuyện về đời sống quá khứ, về hiện tại của nàng giống như câu chuyện của Nandà đẹp. Nhưng nàng sanh ở Vesàli, tại một gia đình hoàng tộc Licchavi. Nàng chứng quả A-la-hán khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp. Và khi suy nghĩ đến sự biến đổi, trên tự thân, nàng sung sướng nói lên bài kệ này:

  1. Chính Bảy giác chi này
    Là đường đạt Niết-bàn,
    Tất cả, ta tu tập,
    Như lời đức Phật dạy.
  2. Ta thấy được Thế Tôn,
    Ðây thân tụ cuối cùng
    Vòng sanh tử đoạn tận,
    Nay không còn tái sanh.

(XXI) Mẹ Của Sumangala (Therì. 126)

Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh vào một gia đình nghèo và được gả lấy một người đan mây làm chồng. Nàng sanh được một người con trai tên Sumangala, sau trở thành bậc Trưởng lão và chứng quả A-la-hán. Nàng không được biết tên và được gọi là một Trưởng lão Ni không có tên hay mẹ của Sumangala. Nàng trở thành một Tỷ-kheo-ni và một hôm nghĩ đến sự đau khổ khi còn là cư sĩ, nàng cảm thấy xúc động và với thiền quán phát triển, nàng chứng quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ, nàng nói lên bài kệ như sau:

  1. Hỡi thiện giải thoát Ni,
    Lành thay khéo giải thoát,
    Ta được khéo giải thoát,
    Khỏi cái chày giã gạo,
    Ta không còn xấu hổ,
    Với ông chồng đan dù,
    Với soong chảo nấu ăn,
    Với nghèo đói tồi tàn.
  2. Chặt đứt được tham sân,
    Ta sống không tham sân,
    Ta đi đến gốc cây,
    Ôi, an lạc ta thiền.

(XXII) Addhakasi (Therì. 126)

Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở xứ Kàsi con của một công dân giàu có và có danh tiếng. Nhưng vì ảnh hưởng của khẩu nghiệp của đời trước nàng trở thành một kỹ nữ. Về sau nàng xuất gia và được làm lễ xuất gia với một vị đại diện đặc biệt được ghi trong tập Cùla vagga (Tiểu phẩm)

Nàng muốn đi đến Sàvatthi để được xuất gia nhưng bị dân làng ăn chơi ở Benerees chận đường không cho nàng đi. Nàng cho người đến hỏi ý kiến Thế Tôn và Thế Tôn cho phép nàng được xuất gia với một vị đại diện đặc biệt. Rồi nàng nhứt tâm quán tưởng và không bao lâu chứng quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Rồi nàng nói lên bài kệ như sau:

  1. Tiền lạc thú của ta,
    Không thua thuế Kàsi,
    Sau khi so sánh giá,
    Thôn trưởng định giá vậy.
  2. Nay ta lại nhàm chán,
    Chính sắc đẹp của ta,
    Ta chán ngấy sắc ấy,
    Ta không còn luyến tiếc.
    Ta chớ có liên tục,
    Chạy theo vòng luân hồi,
    Ba minh ta chứng được,
    Thành tựu lời Phật dạy.

(XXIII) Città (Therì. 126)

Nàng được sanh vào một gia đình ưu tú ở Ràjagaha (Vương Xá), khi đến tuổi trưởng thành, nàng nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp ở cửa thành Ràjagaha, trở thành một tín nữ và được Mahàpajàpati cho xuất gia. Sau khi nàng về già, trong khi leo núi Linh Thứu, với thiền quán được phát triển, nàng chứng quả A-la-hán. Suy nghĩ đến kết quả này, nàng nói lên bài kệ:

  1. Dầu ta có mỏi mệt,
    Bệnh hoạn quá yếu đuối,
    Dựa trên gậy ta đi,
    Ta leo lên đỉnh núi.
  2. Với đại y vắt ngang,
    Với bình bát lộn ngược,
    Ta dựa mình tảng đá,
    Phá tan khối si ám.

(XXIV) Mettikà (Therì. 126)

Nàng được sanh làm con một gia đình quyền quý Bà-la-môn ở Ràjagaha. Ðời nàng cũng giống như đời của Città chỉ khác là nàng leo một ngọn núi khác, đối diện với núi Linh Thứu. Suy tư trên quả chứng của mình, nàng nói lên bài kệ:

  1. Dầu ta có đau đớn,
    Sức yếu, tuổi trẻ qua,
    Dựa trên gậy, ta đi,
    Ta leo lên đỉnh núi.
  2. Với đại y vắt ngang,
    Với bình bát lộn ngược,
    Ta ngồi trên tảng đá,
    Tâm ta được giải thoát.
    Ba minh chứng đạt được,
    Thành tựu lời Phật dạy.

(XXV) Mittà (Therì. 127)

Nàng được sinh ra trong gia đình công chúa Sakya (Thích-ca) ở Kapilavatthu, từ bỏ gia đình xuất gia cùng với Mahàpajàpati, rồi sau những năm tháng tu hành cần mẫn, nàng chứng được quả A-la-hán nghĩ đến thành quả của mình, nàng vui vẻ nói lên những bài kệ này:

  1. Ngày mười bốn, ngày rằm,
    Ngày mồng tám giữa tháng,
    Ngày thần túc nguyệt phần,
    Ta thọ trì tám giới.
  2. Ta gìn giữ trai giới,
    Khiến chư Thiên hoan hỷ,
    Mỗi ngày ăn một bữa,
    Cạo đầu đắp đại y,
    Ta đâu muốn thiên giới,
    Ta nhiếp phục tâm khổ.

(XXVI) Mẹ Của Abhayà (Therì. 127)

Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh là một hoa khôi ở Ujjenì, tên là Badumavati. Vua Bimbisàra ở Magadha nghe tiếng và muốn gặp nàng. Với sự giúp đỡ của vị giáo sĩ của vua, vua được gặp nàng và nàng có thai với vua. Vua bảo khi nào nó lớn thì đưa vào cung. Nàng sinh được một đứa con trai, đặt tên là Abhaya (Vô Úy). Khi được bảy tuổi, nàng gửi con trai đến vua Bimbisàra và vua thương yêu nó và nuôi dưỡng nó với các người con khác của vua. Sau này đứa trẻ lớn lên tin theo đạo Phật, xuất gia, như đã được tường trình trong Trưởng lão Tăng Kệ. Về sau, mẹ của Abhaya nghe Abhaya thuyết pháp, cũng xin xuất gia và sau một thời gian tu hành, chứng được quả A-la-hán, với pháp tín thọ, với nghĩa tín thọ. Nàng nhớ lại những câu kệ do con nàng giảng cho nàng và thêm vào những bài kệ của chính nàng:

  1. Hỡi thân mẫu thân yêu!
    Từ bàn chân trở lên,
    Từ đầu tóc trở xuống,
    Hãy quán sát thân này,
    Thân này thật bất tịnh,
    Thật hôi hám thối tha.
  2. Ta an trú như vậy,
    Mọi tham dục nhổ sạch,
    Nhiệt não được đoạn trừ,
    Ta mát lạnh, tịch tịnh.

(XXVII) Abhaya (Therì. 127)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Ujenni, tại một gia đình quyền quý và trở thành bạn thân với mẹ của Abhaya. Khi nghe mẹ của Abhaya xuất gia, Abhaya vì thương mẹ của nàng nên cùng xuất gia theo. Cùng ở tại Ràjagaha (Vương Xá), một hôm nàng đi đến một khu vườn để quán bất tịnh. Bậc Ðạo Sư tại hương phòng, Ngài hiện cho nàng thấy đối tượng nàng muốn thiền quán. Thấy hình ảnh ấy, nàng hốt hoảng. Bậc Ðạo Sư phóng hào quang hiện ra như ngồi trước mặt nàng và nói lên bài kệ:

  1. Hỡi này vô úy Ni!
    Thân này thật mỏng manh,
    Chính ở đây phàm phu,
    Ưa thích, thường tham đắm.
    Ta sẽ bỏ thân này,
    Tỉnh giác và chánh niệm
    Chú tâm không phóng dật,
    Ta gắng thoát pháp khổ,
    Ái diệt, ta chứng đạt,
    Thành tựu lời Phật dạy.

Khi bậc Ðạo Sư nói xong, nàng chứng quả A-la-hán, hoan hỷ, nàng hướng các bài kệ về nội tâm như là những bài kệ nói lên cho mình.

(XXVIII) Sàmà (Therì. 127)

Do làm các thiện sự trong các đời trước, trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Kosambi, trong một gia đình có danh vọng. Khi Samàvati, bạn thân của nàng chết, vì quá đau khổ, nàng xuất gia. Nhưng vì không nhiếp phục được đau khổ đối với bạn của nàng, nàng không nắm được con đường Thánh đạo. Một thời, khi ngồi nghe Tôn giả Ananda thuyết pháp, nàng chứng được Pháp nhãn và bảy ngày sau nàng chứng quả A-la-hán, với pháp tín thọ, với nghĩa tín thọ.

Suy tư đến quả chứng của mình, nàng nói lên những bài kệ này:

  1. Bốn lần và năm lần,
    Ta ra khỏi tinh xá,
    Nhưng tâm không an tịnh,
    Không nhiếp phục được tâm.
  2. Nhưng đến đêm mồng tám,
    Ái được ta nhổ sạch
    Chú tâm không phóng dật,
    Ta gắng thoát pháp khổ,
    Ái diệt, ta chứng đạt,
    Thành tựu lời Phật dạy.

Phẩm Ba

-ooOoo-

Tập Ba Kệ

(XXIX) Một Sàmà Khác (Therì. 127)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh trong một gia đình quý tộc ở Kosambi, nàng cũng trở thành người bạn của Sàmàvati, khi Sàmàvati chết đi, vì quá đau khổ, nàng xuất gia. Trong hai mươi lăm năm nàng không nhiếp phục được tâm nàng, cho đến khi trở về già, nàng nghe được một bài thuyết pháp, tu tập thiền quán, chứng quả A-la-hán với nghĩa tín thọ, pháp tín thọ. Suy tư đến quả chứng này, nàng nói lên bài kệ:

  1. Ðã được hăm lăm năm,
    Từ khi ta xuất gia.
  2. Ta không thắng tri tâm,
    Không được tâm thăng bằng,
    Tâm không được an tịnh,
    Không nhiếp phục được tâm
    Do vậy ta dao động,
    Nhớ đến lời Phật dạy.
  3. Chú tâm không phóng dật
    Ta gắng thoát pháp khổ,
    Ái diệt, ta chứng đạt,
    Thành tựu lời Phật dạy
    Hôm nay đêm mồng bảy,
    Khái ái được khô cạn.

(XXX) Uttama (Therì. 128)

Sau nhiều đời làm việc lành, nàng được sanh trong nhà một triệu phú ở Sàvatthi, trong thời đức Phật hiện tại. Khi nàng lớn tuổi, nàng nghe Patàcàrà thuyết pháp và xin xuất gia. Nhưng nàng chưa chứng được quả vị thiền quán. Patàcàrà biết được tâm trạng của nàng, nên thuyết giảng cho nàng và nhờ vậy nàng chứng quả A-la-hán với nghĩa tín thọ, pháp tín thọ. Suy tư trên quả chứng, nàng nói lên sự sung sướng của nàng.

  1. Bốn lần và năm lần,
    Ta ra khỏi tinh xá.
    Nhưng tâm không an tịnh,
    Không nhiếp phục được tâm.
  2. Ta đến Tỷ-kheo -ni,
    Với ta đồng tín nữ,
    Nàng thuyết pháp cho ta,
    Với uẩn, xứ và giới.
  3. Nghe xong pháp nàng thuyết,
    Như nàng đã dạy ta,
    Bảy ngày ngồi kiết-già,
    Ta thọ hưởng hỷ lạc,
    Mồng tám ta duỗi chân,
    Phá tan khối si ám.

Bài kệ trở thành lời tuyên bố về chánh trí của nàng.

(XXXI) Một Uttarà Khác

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh vào gia đình Bà-la-môn có danh tiếng ở Kosala. Ðến tuổi trưởng thành khi đang đi ở làng quê, nàng nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, nàng xuất gia, chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Suy tư trên quả chứng, nàng nói lên bài kệ:

  1. Bảy pháp giác chi này,
    Con đường đạt Niết-bàn,
    Tất cả ta tu tập,
    Như lời đức Phật dạy.
  2. Do quán không vô tướng
    Ta đạt quả mong muốn,
    Ta thành con gái Phật,
    Sanh ra từ miệng Ngài,
    Luôn luôn ta hoan hỷ.
  3. Trong an lạc Niết-bàn,
    Mọi dục được đoạn diệt,
    Dục trời và dục người,
    Vòng sanh hữu đoạn tận,
    Nay không còn tái sanh.

(XXXII) Dantikà

Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi trong gia đình vị giáo sĩ nhà vua. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng trở thành tín nữ ở Jetavana (Kỳ Viên) và về sau xuất gia, dưới sự chỉ đạo của Mahàpajàpati. Một thời khi đang ở Ràjagaha (Vương Xá), nàng leo lên núi Linh Thứu; và sau buổi ăn, khi đang còn ngồi nghỉ, nàng thấy một người nài điều khiển một con voi; và nhờ vậy nàng chứng quả A-la-hán; với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Về sau, vô cùng hân hoan với quả chứng của mình, nàng nói lên bài kệ như sau:

  1. Ra khỏi ngôi tinh xá,
    Ðể nghỉ trưa ban ngày,
    Trên đỉnh núi Linh Thứu,
    Ta thấy một con voi,
    Dầm nước xong đi lên,
    Trên bờ một con sông.
  2. Một người cầm cái móc,
    Yêu cầu đưa chân lên,
    Con voi duỗi chân ra,
    Và người leo lên voi.
  3. Thấy kẻ chưa nhiếp phục,
    Ði đến được nhiếp phục,
    Ta thấy nó vâng chịu,
    Theo quyền lực của người.
    Như vậy, ta định tâm,
    Ði vào trong rừng ấy.

(XXXIII) Ubirì

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình khá giả quyền quí. Nàng rất đẹp và sanh được người con gái rất đẹp, đặt tên là Jivà. Vua thấy đứa con gái rất lấy làm hài lòng và đưa nàng lên làm hoàng hậu. Nhưng rồi đứa con gái Jivà bị chết, và bà mẹ ngày nào cũng đi đến nghĩa địa để than khóc. Một hôm nàng đi đến yết kiến bậc Ðạo Sư, nhưng rồi nàng đi ra bên sông Aciravàti và đứng than khóc. Bậc Ðạo Sư thấy vậy liền đến với nàng và hỏi:

– Tại sao nàng khóc?

Nàng đáp:

– Bạch Thế Tôn, con khóc đứa con gái của con.

Thế Tôn nói:

– Tại nghĩa địa này có đến tám vạn bốn ngàn con gái của nàng bị thiêu. Vậy nàng khóc than cho ai!.

Rồi chỉ cho nàng thấy chỗ đất các người bị chết, Thế Tôn nói lên bài kệ:

  1. Hỡi nàng Ubirì,
    Nàng khóc trong rừng sâu,
    Khóc than ôi Jivà,
    Con gái thân của tôi,
    Hãy tự mình hồi tỉnh,
    Hỡi này Ubirì!
    Trong bãi đốt thân này
    Tất cả tám vạn tư,
    Người đồng tên Jivà
    Nàng khóc Jivà nào?

Nàng suy tư với trí tuệ, trên pháp bậc Ðạo Sư dạy. Nhờ thiền quán tác động, nhưng lời dạy tốt đẹp của bậc Ðạo Sư, và với tự mình đạt được những điều kiện cần thiết nàng chứng được quả cao nhất, cho đến quả A-la-hán, và trình bày quả vị tối thượng nàng đạt được, nàng nói lên nửa bài kệ sau:

  1. Mũi tên khó nhìn thấy,
    Ðâm dính nơi tâm ta,
    Chắc chắn đã được Ngài,
    Nhổ lên khỏi tâm ta,
    Sầu muộn vì con gái,
    Ðã được chấm dứt hẳn.
  2. Nay mũi tên được nhổ,
    Mọi ham muốn lắng dịu,
    Ta đi đến quy y
    Bậc Mâu-ni ẩn sĩ,
    Quy y Ba ngôi báu
    Phật, Pháp và chúng Tăng.

(XXXIV) Sukkà (Therì. 129)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh vào một gia đình quyền quí ở Ràjagaha (Vương Xá) và được đặt tên là Sukkà (Sáng Suốt). Khi đến tuổi trưởng thành, nàng phát tâm tin Phật ở trong gia đình của nàng và trở thành một tín nữ. Về sau nàng được nghe Dhammadinnà thuyết pháp và quá cảm xúc bởi bài thuyết pháp, nàng xuất gia với Dhammadinnà. Sau khi tu thiền quán, nàng chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ.

Ðược năm trăm Tỷ-kheo-ni đoanh vây, nàng trở thành một vị thuyết pháp giỏi. Một ngày kia, sau khi đi vào Vương Xá khất thực, ăn xong, toàn thể Ni chúng trở về tinh xá của Tỷ-kheo-ni. Tại đấy Sukkà thuyết pháp cho toàn thể Ni chúng, thuyết hay cho đến nỗi các Tỷ-kheo-ni như cảm thấy được nhận từ nàng, những đường mật ngọt ngào, thấm nhuần với nước bất tử. Tất cả đều ngồi nghe, hoàn toàn im lặng nhiệt tâm tín thành. Rồi một vị thần cây, đứng ở cuối sân nghe pháp, quá xúc động bởi lời thuyết giảng, nên đi ra khỏi Vương Xá, vừa đi vừa tán thán hạnh thuyết pháp tuyệt diệu của nàng và nói như sau:

  1. Hỡi này người Vương Xá,
    Các người đã làm gì?
    Giống như người nằm mê,
    Bị say vì uống mật!
    Các người không hầu hạ,
    Sukkà thuyết lời Phật.
  2. Chúng tôi nghĩ bậc trí,
    Uống được nước cam lồ,
    Dòng nước thật thuần tinh,
    Không gì chướng ngại nổi
    Chẳng khác kẻ đi đường,
    Ðón nhận nước trời mưa.

Khi nghe thần cây nói vậy, dân chúng rất lấy làm phấn khởi và đi đến chăm chú nghe nàng thuyết pháp. Sau một thời gian, vào cuối cuộc đời khi nàng đang sửa soạn để từ giã cuộc đời. Nàng muốn nói lên pháp môn nàng dạy đưa đến giải thoát như thế nào, nàng tuyên bố như sau về chánh trí của nàng.

  1. Hỡi này nàng Sukkà!
    Người con của ánh sáng!
    Ðược ly tham định tĩnh,
    Nhờ ánh sáng Chánh pháp,
    Hãy mang thân cuối cùng,
    Sau khi thấy ma quân.

(XXXV) Sielà

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh làm công chúa con vua nước Alavì, tên là Sielà. Nàng cũng được biết với tên là Alavika (người nước Alavì). Khi đến tuổi trưởng thành, bậc Ðạo Sư cảm hóa được vua cha, làm lễ xuất gia cho vua và cùng đi đến Alavì. Sielà chưa lập gia đình, cùng đi với phụ vương nghe thuyết pháp và trở thành một tín nữ. Về sau nàng xuất gia, chuyên tu thiền quán và cuối cùng nhờ thiện duyên tốt đẹp, nhờ trí tuệ được triển khai, nàng nhiếp phục được thân hành, khẩu hành, ý hành và chứng được quả A-la-hán.

Về sau trở thành một Trưởng lão Ni, nàng ở Sàvatthi. Một hôm, nàng đi ra khỏi Sàvatthi để nghỉ ban ngày tại Andhavana và ngồi dưới một gốc cây. Ác ma muốn phá sự an tịnh độc cư của nàng, dưới hình thức là một người lạ mặt, đến với nàng và nói như sau:

  1. Nàng sẽ không thoát khỏi,
    Thoát ly khỏi đời này,
    Như vậy hạnh viễn ly,
    Nàng dùng để làm gì?
    Hãy thọ hưởng dục lạc,
    Chớ bứt rứt về sau.

Rồi nàng suy nghĩ: ‘Ðây là Ác ma muốn ngăn chận ta không được hưởng Niết-bàn. Nó không biết ta đã chứng quả A-la-hán. Vậy nay ta hãy làm cho nó mở mắt và nàng nói lên bài kệ’:

  1. Các dục giống gươm giáo,
    Chém nát các uẩn ta,
    Những dục mà ngươi gọi,
    Là lạc thú cuộc đời.
  2. Ngày nay dục lạc ấy,
    Với ta không hấp dẫn,
    Ở tất cả mọi nơi,
    Hỷ lạc được đoạn tận,
    Khối tối tăm mù ám,
    Ðã bị làm tan nát,
    Hỡi này kẻ Ác ma,
    Ngươi hãy biết như vậy,
    Ngươi chính là Ác ma
    Ngươi đã bị bại trận.

(XXXVI) Somà (Therì. 129)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sinh ra là con gái vị giáo sĩ của vua Bimbisàra. (Bình Sa Vương) và được đặt tên là Somà. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng trở thành một tín nữ, và về sau nàng xuất gia và nhờ triển khai thiền quán, nàng chứng được quả A-la-hán với nghĩa tín thọ, pháp tín thọ.

Ở tại Sàvatthi, một ngày kia nàng đi vào rừng Andhavana để nghỉ ban ngày và ngồi dưới một gốc cây. Ác ma đến và muốn phá sự an tịnh cô độc của nàng tàng hình không cho nàng thấy và nói lên như sau:

  1. Ðịa vị khó chứng đạt,
    Chỉ thánh nhân chứng đạt,
    Trí nữ nhân hai ngón,
    Sao hy vọng chứng đạt.

Rồi nàng cự lại Ác ma:

61-62. Nữ tánh chướng ngại gì,
Khi tâm khéo thiền định,
Khi trí tuệ triển khai,
Chánh quán pháp vi diệu,
Ở tất cả mọi nơi,
Hỷ lạc được đoạn tận,
Khối tối tăm mù mịt,
Ðã bị làm tan nát.
Hỡi này kẻ Ác ma,
Ngươi hãy biết như vậy,
Ngươi chính là Ác ma,
Ngươi đã bị bại trận.

Phẩm Bốn

-ooOoo-

Tập Bốn Kệ

(XXXVII) Bhaddà Thuộc Dòng Họ Kapllà. (Therì. 130)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh vào một gia đình Bà-la-môn dòng họ Kosiya ở Sàgala. Ðược sống trong giàu sang, nàng được gả làm vợ một nhà quý tộc tên là Pippali ở làng Mahàtittha. Khi người chồng xuất gia, nàng giao lại tài sản cho các người bà con để nàng được xuất gia. Nàng sống năm năm tại Titthiyàràma, sau đó nàng được Mahàpajàpati cho thọ đại giới, nhờ triển khai thiền quán, nàng chứng được quả A-la-hán. Sau nàng trở thành một vị có biệt tài về các đời quá khứ nhờ hạnh nguyện trong đời quá khứ. Nàng được đức Phật xem là người biệt tài đệ nhất về đời sống quá khứ, khi bậc Ðạo Sư ở Jetavana (Kỳ Viên) ngồi phân loại các Tỷ-kheo-ni. Một ngày kia nàng nói lên những bài kệ, nói đến những kinh nghiệm quá khứ và tán thán hạnh của Trưởng lão Kassapa:

  1. Con được thừa tự Phật,
    Ca-diếp khéo thiền định.
    Biết được đời quá khứ,
    Thấy cõi trời đọa xứ.
  2. ẩn sĩ đoạt diệt sanh,
    Thắng trí được thành tựu
    Cùng với Ba minh này,
    Là Phạm chí Ba minh.
  3. Cũng vậy nàng Bhaddà
    Người xứ Kapila,
    Nàng là bậc Ba minh,
    Ðã đoạn được sự chết,
    Mang thân này cuối cùng,
    Sau khi thắng ma quân.
  4. Thấy nguy hại ở đời,
    Hai chúng tôi xuất gia.
    Chúng tôi được chế ngự,
    Ðoạn tận các lậu hoặc,
    Cảm xúc thành mát lạnh,
    Ðược tịch tịnh giải thoát.

Phẩm V

-ooOoo-

Tập Năm Kệ

(XXXVIII) Một Tỷ Kheo Ni Vô Danh (Therì. 130)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Devadaha và trở thành người nữ điều dưỡng cho Mahàpajàpati. Nàng tên là Vàddhesi nhưng tên gia tộc nàng không được biết đến khi chủ nàng xuất gia, nàng cũng xin xuất gia theo. Nhưng trong hai mươi lăm năm nàng bị các dục chi phối ám ảnh, không được thiền định dầu cho đến một sát-na. Nàng than van tình trạng của nàng cho đến khi nàng được nghe Dhammadinnà thưyết pháp. Rồi tâm nàng xa lánh các dục, nàng tu tập thiền định và cuối cùng nàng chứng được sáu thắng trí. Suy tư trên quả chứng của mình, nàng nói lên bài kệ:

  1. Ðã được hai lăm năm,
    Từ khi ta xuất gia,
    Cho đến búng ngón tay,
    Tâm ta không lắng dịu.
  2. Tâm không được an tịnh,
    Vì đầy ứ dục tham,
    Ta giơ tay khóc than,
    Ta đi vào tinh xá.
  3. Ta đến vị Ni ấy,
    Ðồng tín nữ với ta,
    Nàng thuyết pháp cho ta,
    Về uẩn, xứ và giới.
  4. Nghe pháp nàng giảng dạy,
    Ta ngồi vào một bên,
    Ta hết đời quá khứ,
    Thiên nhãn được thanh tịnh,
    Với trí biết tâm người,
    Lỗ tai được thanh tịnh.
  5. Ta chứng thần túc thông,
    Ta đạt được lậu tận,
    Sáu thắng trí ta chứng,
    Lời Phật dạy đã làm.

(XXXIX) Vimala, Xưa Làm Một Kỹ Nữ (Therì. 131)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Vesàli làm con gái một người bán sắc đẹp sinh sống. Nàng được đặt tên là Vimalà. Khi nàng lớn lên, và suy tư với những tư tưởng uế nhiễm, nàng thấy Tôn giả Mahà Moggallàna đang đi khất thực ở Vesàli, nàng cảm thấy thương yêu Tôn giả và đi theo về tinh xá để cám dỗ. Có người nói nàng được các ngoại đạo xúi dục nên làm như vậy. Tôn giả chỉ trích hành động không tốt đẹp của nàng và thuyết pháp cho nàng, như đã được ghi trong Trưởng lão Tăng Kệ. (Therà. 1150-57), nàng cảm thấy xấu hổ và trở thành một tín nữ. Về sau cùng nàng xuất gia, tinh tấn tu tập, và không bao lâu chứng quả A-la-hán, nghĩ đến quả chứng của mình, nàng phấn khởi nói lên bài kệ:

  1. Say mê với giai cấp,
    Với dung sắc tuổi xuân,
    Với danh xưng, danh vọng,
    Ta ỷ lại tuổi trẻ,
    Ðối với những người khác,
    Ta khinh bỉ khinh thường.
  2. Thân này ta trang điểm,
    Ta khêu gợi kẻ ngu,
    Ta đứng trong khung cửa,
    Tại cửa hàng buôn sắc,
    Như thợ săn, ác độc,
    Ðang gieo đặt bẫy mồi.
  3. Ta khoa trương trang sức,
    Phô bày nhiều chỗ kín,
    Ðể châm biếm nhiều người,
    Ta làm nhiều ảo thuật,
    Hôm nay ta khất thực,
    Ðầu trọc, đắc đại y,
    Ta ngồi dưới gốc cây,
    Ta chứng định không tầm.
  4. Mọi khổ ách đoạn tận,
    Cả cõi trời, cõi người,
    Quăng bỏ mọi lậu hoặc,
    Ta mát lạnh tịch tịnh.

(VL) Sìha (Therì. 131)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Vesàli, con gái của một người chị võ tướng Sìha. Do vậy, nàng được đặt tên là Sìha, như tên của người cậu của nàng. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp cho người cậu, Sìha trở thành một tín nữ và được phép cha mẹ cho xuất gia. Khi nàng tu tập thiền quán, nàng không thể chận đứng tâm tư nàng chạy theo những ngoại vật khả ý. Bảy năm bị dày vò, nàng kết luận: ‘Làm sao ta thoát khỏi nếp sống uế nhiễm này. Ta hãy chết, tốt hơn’. Rồi nàng cột sợi dây trên cây, đút cổ vào thòng lọng để thắt cổ chết. Trong giây phút cuối cùng với sự cố gắng tinh thần chất chứa từ trước cho đến nay, nàng cố gắng triển khai thiền quán. Ðối với nàng đời sống hiện tại thật sự là đời sống cuối cùng, trong giờ phút cuối cùng, trí tuệ nàng được viên mãn, và với nội tâm thiền quán nàng chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Mở thòng lọng ra nàng trở về lại tinh xá. Ðược thành một vị A-la-hán, nàng sung sướng phấn khởi nói lên bài kệ;

  1. Không như lý tác ý,
    Bị dục tham ám ảnh,
    Ta trước bị dao động
    Không chế ngự được tâm.
  2. Bị phiền não chi phối,
    Lạc tưởng ngự trị ta
    Tâm ta không thăng bằng,
    Bị tham tâm chi phối.
  3. Bảy năm sống ốm yếu,
    Vàng da, dung sắc xấu
    Ðêm ngày không an lạc
    Ta sống chịu khổ đau.
  4. Do vậy ta lấy dây,
    Ði vào giữa khu rừng,
    Tốt hơn ta treo cổ,
    Còn hơn sống hạ liệt.
  5. Làm chắc dây thòng lọng,
    Ta cột ở cành cây,
    Quàng thòng lọng quanh cổ,
    Tâm ta liền giải thoát.

(XLI) Sundarì Nandà (Therì. 132)

Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh trong một gia đình quý tộc thuộc dòng họ Thích-ca. Ðược tên là Nandà. Nàng có danh là Nandà hoa khôi. Khi bậc Thế Tôn giác ngộ, đi đến Kapilavatthu và độ cho Nandà và Rahula xuất gia. Khi vua Suddhodana (Tịnh Phạn) mệnh chung và bà Mahàpajàpati xuất gia, nàng Nandà tự nghĩ: ‘Anh trưởng của ta đã chối từ không thừa tự quốc độ, xuất gia và trở thành đấng Thế Tôn, một bậc siêu nhân. Con của Ngài là Rahula cũng xuất gia, anh của ta vua Nandà cũng xuất gia. Mẹ của ta Mahàpajàpati, chị của ta, mẹ Rahula cũng xuất gia. Vậy ta ở nhà làm gì? Ta hãy xuất gia’. Như vậy nàng xuất gia không phải vì lòng tin, mà chính vì lòng thương yêu bà con trong gia đình. Nàng xuất gia như vậy sau khi từ bỏ gia đình, nàng vẫn tự kiêu với sắc đẹp của mình và không chịu đến yết kiến đức Phật, sợ đức Phật quở trách nàng. Nhưng trường hợp của nàng cũng giống như trường hợp với Tỷ-kheo-ni Abhirùpa Nandà (xem kệ XIX) với sự sai khác nhau: khi nàng thấy hóa thân của một nữ nhân do đức Phật hiện ra, nữ nhân ấy dần dần trở thành già xấu, tâm của nàng dựa trên tánh vô thường và đau khổ, hướng đến thiền định.

Rồi đức Phật thuyết pháp cho nàng như sau:

  1. Nandà, hãy nhìn thân,
    Bệnh bất tịnh, hôi thúi,
    Hãy tu tâm bất tịnh,
    Nhứt tâm khéo định tỉnh.
  2. Như thân này thân ấy,
    Như thân ấy thân này,
    Hôi thối và rữa nát,
    Chỉ kẻ ngu thích thú.
  3. Như vậy quán thân này,
    Ngày đêm không mệt mỏi,
    Với trí tuệ của con,
    Do vậy hãy thoát ly,
    Với trí tuệ của con,
    Thoát khỏi kiêu sắc đẹp,
    Và người si nhìn thấy,
    Với cái nhìn như thật.

Rồi nàng nghe theo lời dạy, với trí tuệ an trú vững chắc trên quả thứ nhất. Muốn giúp nàng đạt được những quả vị cao hơn, Thế Tôn dạy thêm cho nàng: Này Nandà, trong cái thân này không có một chút gì là tinh túy, chỉ là một đống xương và thịt bị già, chết chi phối. Như đã được nói trong tập Pháp cú:

  1. Thành này làm bằng xương,
    Quét tô bằng máu thịt,
    Ở đây già và chết,
    Mạn, lừa đảo chất chứa.
    (Pháp Cú. 150)

Khi đức Phật nói xong, nàng liền chứng quả A-la-hán. Và nghĩ đến sự chiến thắng của mình, nàng sung sướng với lời dạy của đức Bổn Sư và nói thêm:

  1. Với tâm không phóng dật,
    Như lý, quán thân ấy,
    Tánh như thật thân này,
    Ðược thấy trong và ngoài.
    Ta nhàm chán thân thể,
    Nội tâm được ly tham,
    Không phóng dật ly hệ,
    Ta an bình tịch tịnh.

(XLII) Manduttara (Therì. 132)

Trong đời đức Phật hiện tại, nàng sanh trong một gia đình Bà-la-môn, nước Kuru thành Kammàsadamma. Sau khi học hỏi ngoại đạo, nàng xuất gia theo phái Ni-kiền-tử và vì nàng thuyết pháp giỏi, nàng cầm cành cây diêm phù và đi khắp xứ Ấn Ðộ như nàng Bhaddà (XLVI). Nàng gặp Tôn giả Mahà-Moggallàna và bị ngài chiến thắng trong cuộc tranh luận. Nàng nghe theo lời dạy của Tôn giả Moggallàna, xuất gia trong giáo pháp đức Bổn Sư và không bao lâu chứng quả A-la-hán với nghĩa tín thọ, pháp tín thọ. Suy tư trên chiến thắng của mình, nàng sung sướng nói lên bài kệ:

  1. Trước ta đảnh lễ lửa,
    Trăng, mặt trời chư thiên
    Ta đi đến bến sông,
    Ta xuống nước, lê tắm.
  2. Chấp nhận nhiều giới cấm
    Ta chỉ cạo nửa đầu
    Ta nằm ngủ dưới đất,
    Cơm tối ta không ăn.
  3. Thích trang điểm trang sức,
    Ưa tắm rửa, xoa bóp,
    Thân này ta cung dưỡng,
    Thỏa mãn các dục tham,
  4. Từ khi được lòng tin
    Không nhà ta xuất gia,
    Ta thấy thân như Phật,
    Nhờ sạch các dục tham.
  5. Mọi sanh hữu chặt đứt,
    Cả ham muốn hy cầu,
    Mọi ách nạn giải tỏa,
    Ta đạt tâm an tịnh.

(XLIII) Mittakali (Therì. 132)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh trong một gia đình Bà-la-môn, ở xứ dân chúng Kuru, tại thành Kammàsadamma. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng được nghe giảng về Bốn niệm xứ và xuất gia làm Tỷ-kheo-ni. Trong bảy năm nàng ưa thích được cúng dường, được trọng vọng và thường hay gây lộn cãi vã về sau nàng biết như lý tác ý, triển khai thiền quán và chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Nghĩ đến sự chiến thắng của mình, nàng nói lên sự phấn khởi của nàng.

  1. Vì lòng tin, xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Ta sống tâm hướng mạnh,
    Theo lợi dưỡng cung kính.
  2. Từ bỏ đích tối thượng,
    Phục vụ đích hạ liệt,
    Bị phiền não ngự trị,
    Bỏ đích Sa-môn hạnh.
  3. Ngồi trong phòng tinh xá,
    Ta cảm bị dao động
    Ta đi vào tà đạo,
    Khát ái ngự trị ta.
  4. Ngắn ngủi sinh mạng ta,
    Già, bệnh đang đè nặng,
    Trước khi thân hủy diệt,
    Giờ phóng dật không còn.
  5. Như thật ta quán sát,
    Sinh diệt của các uẩn,
    Tâm giải thoát, ta chứng,
    Lời Phật dạy làm xong.

(XLIV) Sakulà (Therì. 133)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh làm Bà-la-môn, ở Sàvatthi, tên là Sakulà. Khi đức Phật nhận tinh xá Jetavana, nàng trở thành người tín nữ, và về sau được nghe một vị A-la-hán thuyết pháp, nàng phát nguyện xuất gia, tinh cần triển khai thiền quán và cuối cùng chứng quả A-la-hán. Về sau tùy theo lời phát nguyện, nàng được Thế Tôn tán thán là Thiên nhãn đệ nhất. Sau khi suy tư đến kết quả chứng của mình, nàng phấn khởi hoan hỷ và nói lên bài kệ:

  1. Khi sống ở gia đình,
    Nghe Tỷ kheo thuyết pháp,
    Ta thấy pháp vô uế,
    Ðạo Niết-bàn bất tử.
  2. Từ bỏ con trai, gái,
    Cả tài sản lúa gạo,
    Cạo tóc ta xuất gia
    Sống đời sống không nhà.
  3. Ta làm người học nữ,
    Tu tập con đường chánh,
    Ðoạn tận tham và sân,
    Ðoạn từng lậu hoặc một.
  4. Thọ giới Tỷ-kheo-ni,
    Ta nhớ đời quá khứ,
    Thiên nhãn ta thanh tịnh,
    Không uế, khéo tu tập.
  5. Thấy các hàng ngoại diện,
    Do nhân sanh biến hoại,
    Ta đoạn mọi lậu hoặc,
    Mát lạnh ta tịch tịnh.

(XLV) Sonà (Therì. 133)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh trong một gia đình quý tộc ở Sàvatthi. Sau khi lập gia đình, nàng sanh được mười người con trai, con gái và được biệt danh là ‘người nhiều con’. Khi người chồng xuất gia nàng giao lại cho các con trai, con gái cai quản gia đình và giao cả gia sản cho các con trai, không giữ gì cho thân mình. Các con trai và con dâu nuôi dưỡng nàng, không bao lâu trở mặt khinh rẻ nàng. Nàng buồn cho thái độ các dâu con, xuất gia trở thành Tỷ-kheo-ni. Nàng suy nghĩ, nàng đã lớn tuổi mới xuất gia, nên hết sức tinh cần,tinh tấn. Trong khi hầu hạ các Trưởng lão Ni, nàng thức đêm tu học, nàng kiên trì học tập, không biếng nhác, không xao nhãng, như người chụp nắm các cột trong mái hiên, hay chụp nắm cành cây trong đêm tối để tránh đầu khỏi va chạm. Hạnh tinh tấn của nàng được mọi người biết, và bậc Ðạo Sư biết được trí tuệ của nàng đã chín muồi, nên phóng hào quang, hóa hiện trước mặt nàng và nói lên bài kệ:

Ai sống một trăm năm,
Không thấy câu bất tử,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được câu bất tử.
(Pháp cú. 114)

Khi đức Phật nói câu này xong, nàng chứng được quả A-la-hán. Thế Tôn tán thán là ‘Tỷ-kheo-ni tinh tấn đệ nhất’. Một hôm, suy tư đến quả chứng của mình, nàng phấn khởi nói lên những bài kệ:

  1. Ta sanh được mười con,
    Trong thân chất chứa này,
    Do vậy ta già yếu,
    Ta đến Tỷ-kheo-ni.
  2. Nàng thuyết pháp cho ta,
    Về uẩn xứ và giới,
    Nghe pháp nàng thuyết giảng.
    Cắt tóc ta xuất gia.
  3. Ta học lời nàng dạy,
    Thiên nhãn ta thanh tịnh,
    Ta biết các đời trước,
    Chỗ ta sống đời trước.
  4. Ta tu pháp vô tướng,
    Nhất tâm khéo thiền tịnh,
    Tức thời ta giải thoát,
    Không chấp thủ tịch tịnh.
  5. Năm uẩn được liễu tri,
    Ðứng lại, gốc bị cắt,
    Tham dục, ta không có,
    Căn cứ địa kiên trì?
    Từ nay ta không còn
    Vấn đề phải tái sanh.

(XLVI) Bhadda Kundalakess (Therì. 134)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ra ở Rajagaha (Vương Xá), trong gia đình vị thủ khố của nhà vua, và được tên là Bhaddà. Lớn lên và luôn luôn có người hầu hạ, nàng thấy ngang qua khe cửa, Satthuka, con vị giáo sĩ của vua, một kẻ cướp bị dẫn đi hành hình, theo lệnh của vua. Nàng bỗng yêu Satthuka và nằm trên giường nàng nói: ‘Nếu ta không được chàng, ta sẽ chết’. Người cha vì thương nàng, nên hối lộ cho những người lính và đưa Satthuka đến gặp nàng. Satthuka khởi lòng tham đồ trang sức của nàng nên nói với nàng là khi bị dẫn đến ‘hòn núi của kẻ trộm’, chàng có phát nguyện: Nếu chàng được tha, chàng sẽ làm lễ cúng tạ ơn và nhờ nàng sửa soạn lễ tạ. Muốn được chàng bằng lòng, nàng vâng theo ý muốn của Satthuka, tự trang điểm với các đồ trang sức, lên xe đi với chàng và cùng đi đến ‘hòn núi của kẻ trộm’ Satthuka không cho người hầu hạ đi theo, lấy đồ trang sức cúng dường, và leo lên núi một mình với nàng, nhưng không nói lời thân ái với nàng. Do thái độ của chàng, nàng tìm ra được mưu kế của chàng. Rồi Satthuka bảo nàng cởi áo ngoài ra, dùng áo gói đồ trang sức nàng đang mang theo, Nàng hỏi chàng nàng có làm điều gì sái quấy chăng, và chàng trả lời: ‘Nàng thật ngu si ta đến đây có phải để làm lễ cúng dường đâu! Ta chỉ đến đây để lấy đồ trang sức của nàng’. Nàng nói: ‘Này chàng thân yêu, các đồ trang sức này của ai, và đồ trang sức nào thuộc của em’. Chàng nói: ‘Ta không biết gì về sự phân chia này’. Nàng nói: ‘Thôi được, chàng thân yêu, nhưng chàng cho em một sở nguyện, cho em mang đồ trang sức và được hôn chàng! Satthuka bằng lòng và nàng ôm hôn chàng đàng trước, rồi ôm chàng hôn đàng sau, và trong khi ấy xô chàng ngã xuống vực núi. Một Thiên nhân ở trên núi, thấy nàng làm vậy liền khen rằng:

Không phải là lúc nào,
Ðàn ông cũng khôn hơn!
Nữ nhân khi lanh lẹ,
Cũng tỏ khôn ngoan hơn,
Không phải là lúc nào,
Ðàn ông cũng khôn hơn!
Nữ nhân cũng khôn ngoan,
Chỉ nghĩ một phút giây!

Rồi Bhaddà suy nghĩ: ‘Nay ta không thể về nhà được khi sự việc đã xảy ra như vậy. Vậy từ đây ta sẽ xuất gia’. Rồi nàng xuất gia theo phái Ni-kiền Tử. Họ hỏi nàng: ‘Nàng ưng xuất gia đến mức độ nào?’ Nàng trả lời: ‘Tôi muốn xuất gia vào hạng tối thượng!’ Rồi họ nhổ tóc của nàng và khi tóc nàng dài và quăn lại, nàng được gọi là Bhaddà tóc quăn. Nhưng trong khi nàng tập sự học hỏi giáo lý của phái Ni-kiền Tử, nàng biết rằng giáo lý ấy không có gì đặc biệt. Nàng từ giã chúng Ni-kiền Tử, tìm học những bậc minh sư có danh tiếng và cuối cùng không ai có thể tranh luận với nàng. Nàng vun lên một đống cát gần cửa đi vào làng, trồng lên một nhánh cây diêm phù, bảo mấy đứa con nít xem ai nhổ lên nhánh cây ấy. Sau một tuần không có ai nhổ lên cành cây, nàng liền đem cành cây ấy đi một nơi khác.

Thế Tôn trong khi đi thuyết giảng, đến tinh xá Jetavana gần Sàvatthi, đúng lúc Bhaddà tóc quăn trồng nhánh cây ấy tại cửa thành Sàvatthi. Tôn giả Sàriputta vào thành, thấy cành cây ấy, muốn nhiếp phục nàng, bảo các đứa con nít dẫm lên cành cây ấy, để mở đầu cuộc tranh luận, nàng nghĩ rằng cuộc tranh luận sẽ không có kết quả nếu không có quần chúng đỡ đầu. Vì vậy nàng quy tụ một số đông quần chúng đến chứng kiến cuộc tranh luận giữa nàng và Tôn giả Sàriputta. Trước hết Tôn giả Sàriputta để cho nàng hỏi và Tôn giả trả lời, cho đến khi nàng không còn gì để hỏi nữa và ngồi im lặng.

Rồi Tôn giả hỏi nàng: ‘Thế nào gọi là một?’ Nàng Bhaddà tóc quăn thú nhận không thể trả lời được. Tôn giả nói, một chút như vậy mà nàng không trả lời được, thì nàng có thể biết thêm được gì? Rồi Tôn giả giáo giới cho nàng và nàng xin quy y Tôn giả.Tôn giả Sàriputta khuyên nên quy y Thế Tôn, bậc Ðạo Sư loài Người và Trời. Nàng vâng lời, chiều lại đi đến yết kiến Thế Tôn khi ngài đang thuyết pháp. Sau khi đảnh lễ nàng đứng một bên, Thế Tôn thấy căn cơ nàng đã thuần thục liền nói:

Dầu nói ngàn câu kệ,
Nhưng không chút lợi ích,
Tốt hơn nói một câu,
Nghe xong được tịnh lạc.
(Pháp cú 101)

Khi đức Phật nói xong bài kệ này, nàng chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ.

Nàng xuất gia, thọ giới với quả A-la-hán và chính đức Phật trao đại giới cho nàng. Rồi nàng đi đến tinh xá Tỷ-kheo-ni, sống an lạc hạnh phúc. Nàng sung sướng phấn khởi nói lên những bài kệ:

  1. Trước ta sống một y,
    Tóc cạo, thân mang bùn,
    Không lỗi xem có lỗi,
    Có lỗi xem là không.
  2. Ban ngày rời tinh xá,
    Trên ngọn núi Linh Thứu,
    Ta thấy Phật vô uế,
    Dẫn đầu chúng Tỷ-kheo.
  3. Quỳ gối ta đảnh lễ,
    Ðối diện ta chắp tay,
    Hãy đến này Bhaddà,
    Ta được thọ đại giới.
  4. Ta đi khắp Angà,
    Mogadhà, Vajjì,
    Quốc độ Kosala,
    Mười lăm năm không nợ,
    Ăn đồ ăn quốc độ.
  5. Làm được nhiều công đức,
    Tín nam này có tuệ,
    Cho Bhaddà chiếc y,
    Thoát khỏi mọi triền phược.

(XLVII) Patàcàrà (Therì. 134)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh trong gia đình vị thủ ngân khố nhà vua ở Sàvatthi. Khi đến tuổi trưởng thành nàng giao du với một người đầy tớ trong nhà. Khi cha mẹ nàng định ngày gả nàng cho một chàng trai xứng đôi, nàng trốn đi với người tình nhân và sống tại một ngôi làng nhỏ. Khi nàng sắp sanh, nàng bảo chồng đưa nàng về nhà cha mẹ, vì ở đây không có ai săn sóc nàng, nhưng chồng nàng cứ hẹn lần hẹn hồi cho đến khi nàng biết chồng nàng không muốn đi về. Nàng liền chờ chồng đi vắng, sắp đặt công việc, tin cho người láng giềng biết rồi nàng bỏ về nhà cha mẹ. Khi người chồng về, người chồng liền đuổi theo, sợ nàng không có người săn sóc. Chồng nàng bắt gặp nàng và giữa đường nàng sinh được người con, rồi hai vợ chồng lại đi trở về làng. Ðến kỳ sinh nở thứ hai, sự việc xảy ra như lần trước, nhưng có điểm khác biệt như sau: giữa đường mưa to gió lớn nổi lên, người chồng tìm lá và cây làm cái chòi cho nàng tránh mưa, nhưng bị con rắn từ gò mối bò ra cắn chồng nàng chết tại chỗ. Trong cơn đau khổ chờ đợi chồng nàng, nàng bồng đứa con trên ngực và giữa mưa to gió lớn nàng nằm phục xuống đất để che chở cho hai đứa con trải qua một đêm như vậy cho đến sáng. Ðến sáng, nàng đi tìm chồng và thấy chồng bị rắn cắn chết rồi. Nàng khóc than suốt đêm. Vì mưa to, nước sông dâng lên đến đầu gối, nàng lại quá yếu nên không thể bồng hai đứa con lội qua sông. Nàng để đứa lớn ở bờ bên này và bồng đứa nhỏ lội qua sông. Rồi nàng đặt đứa nhỏ nằm trên khăn trùm đầu, dùng cành cây che lại để nó trên bờ, còn nàng lội qua sông lại để đem đứa lớn qua. Nhưng đến giữa dòng, quay mình trở lại thời thấy một con diều hâu, tưởng đứa con nít là một miếng thịt, nên bay xuống tha đứa nhỏ đi. Dầu cho người mẹ có xua đuổi và la lên nhưng vì quá xa nên không làm gì được. Còn đứa lớn bên bờ bên này, nghe tiếng mẹ la tưởng là mẹ kêu liền lội xuống nước đi qua và bị nước cuốn trôi. Thế là hai đứa con và cả người chồng bị chết. Nàng vừa khóc vừa đi về thành Sàvatthi, lại được tin hồi hôm mưa to gió lớn làm sụp đổ căn nhà của cha mẹ nàng, giết chết cả cha mẹ và em nàng vừa làm lễ hỏa táng xong. Trong cơn đau khổ khủng khiếp chồng chất, nàng hóa điên dại, ăn mặc hở hang, nàng vừa khóc vừa than:

Hai con ta đã chết,
Chồng ta cũng chết luôn,
Rồi trên giàn hỏa táng,
Cha ta và mẹ ta,
Cùng đứa em trai ta,
Vừa làm lễ thiêu đốt.

Rồi nàng đi lang thang đây đó, khóc than nỗi đau khổ của nàng, và vì nàng mang xiêm áo tả tơi, nàng được gọi là Patacàra (kẻ mang xiêm áo). Người đi đường thấy nàng gọi nàng là người điên, có kẻ ném đá, có người thì quăng đồ nhớp bụi bặm trên nàng. Bậc Ðạo Sư ở Jetavana đang thuyết pháp, thấy nàng đi lang thang như vậy và biết căn cơ trí tuệ của nàng đã chín muồi, ngăn cản không cho người ta xua đuổi nàng và cho phép lại gần, khiến nàng hồi tỉnh lại, và cảm thấy xấu hổ với cách ăn mặc của mình, nàng nằm phục xuống đất. Một người quăng cho nàng một tấm y, nàng quấn y vào mình và thỉnh Phật cứu độ cho nàng và nàng kể lại thân phận của nàng: ‘Thế Tôn hãy cứu độ cho con. Một đứa con bị chim diều hâu mang đi; một đứa con bị nước cuốn trôi; còn chồng con bị rắn cắn chết; cha mẹ và em con bị căn nhà sụp đổ giết chết và bị hỏa táng. Ðức Phật nói: ‘Này Patacàra, đừng nghĩ rằng nàng đến với một người có thể cứu độ cho nàng. Như nay nàng than khóc vì con chết, vì chồng chết, cha mẹ chết. Cũng vậy, nàng đã khóc than kiếp luân hồi của nàng vì rằng con, chồng và cha mẹ bị chết của nàng còn nhiều hơn nước sông bốn biển’.

Nước bốn biển ít hơn,
Nước mắt của loài Người,
Khóc than vì đau khổ,
Vậy sao nàng hủy hoại,
Sanh mạng của chính mình,
Trong khóc than sầu khổ!

Nghe Thế Tôn dạy về con đường không thể diệt khổ, nỗi đau khổ của nàng được nhẹ dần. Rồi đức Phật khuyên thêm: ‘Ôi Patàcàrà, một người mệnh chung, thì con cháu, bà con không có thể làm chỗ nương tựa. Cho đến hiện tại, họ cũng không giúp đỡ được gì. Do vậy, người có trí sống đời sống giới đức thanh tịnh, thành tựu con đường hướng đến Niết-bàn. Rồi đức Phật dạy:

Các con, cha, bà con,
Không phải chỗ nương tựa,
Khi thân hoại mạng chung,
Bà con huyết thống nàng,
Không thể che chở nàng!
Thấy được sự thật này.
Kẻ trí sống giới đức,
Và mau chóng thành tựu,
Con đường hướng Niết-bàn.

Khi bậc Ðạo Sư nói xong, nàng chứng được quả Dự Lưu và xin được xuất gia. Ðức Phật đưa nàng đến chúng Tỷ-kheo-ni và cho phép nàng được xuất gia.

Rồi nàng tinh tấn tu hành, cố gắng thành đạt những quả vị cao hơn. Một hôm lấy nước trong bát rửa chân, khi nàng đổ nước, thời nước chảy đến một khoảng đường ngắn rồi biến mất. Nàng đổ thêm nước, và con đường nước chảy dài hơn, và lần thứ ba, nàng lại đổ nuớc và con đường nước chảy còn dài hơn trước khi biến mất. Dựa trên sự kiện này làm nền tảng suy tư, nàng nghĩ: ‘Cũng vậy là loài Người, chết trẻ, chết nửa chừng và chết già’. Và đức Phật ở tại hương phòng của Ngài phóng hào quang, hiện lên trước mặt nàng và dạy rằng: ‘Hỡi nàng Patàcàrà, như vậy là cuộc sống của loài Người, cuối cùng cũng phải mạng chung. Vậy tốt hơn là sống như thế nào để thấy sự sanh diệt của năm uẩn, dầu cho chỉ thấy được một ngày, hay chỉ một sát-na, còn hơn sống một trăm năm mà không thấy được sự thật ấy:

Người sống một trăm năm,
Không thấy pháp sanh diệt,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp sanh diệt.
(Pháp cú. 113)

Khi Thế Tôn nói xong, Patàcàrà chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Suy tư đến quả chứng của mình, khi còn là một học nữ, nàng tán thán sự kiện đã giúp nàng chứng được quả vị cao hơn, và nàng nói lên bài kệ:

  1. Với cây, cày ruộng đất,
    Gieo hột giống trên đất,
    Loài Người được tài sản,
    Nuôi dưỡng vợ và con.
  2. Sao ta, giới đầy đủ
    Làm theo Ðạo Sư dạy,
    Lại không chứng Niết-bàn,
    Không nhác, không dao động.
  3. Khi ta đang rửa chân,
    Làm cho dòng nước chảy,
    Thấy được nước rửa chân
    Từ cao chảy xuống thấp,
    Nhờ vậy, tâm được định,
    Như ngựa hiền khéo luyện.
  4. Rồi ta cầm cây đèn,
    Bước vào ngôi tinh xá,
    Nằm trên chiếc giường nhỏ,
    Ta nhìn quán ngọn đèn.
  5. Rồi lấy cây kim nhỏ,
    Dìm tim đèn xuống dần,
    Thấy cây đèn Niết-bàn,
    Tâm ta được giải thoát.

(XLVIII) 30 Tỷ Kheo Ni Tuyên Bố Về Chánh Trí Dưới Sự Lãnh Ðạo Của Patàcàrà (Therì. 135)

Trong thời đức Phật hiện tại, chúng sanh trong nhiều gia đình sai khác, được nghe Patàcàrà thuyết pháp, trở thành tín nữ và cuối cùng xuất gia. Trong khi họ làm trọn những phận sự của mình, và sống đầy đủ giới hạnh, nàng thuyết cho họ lời giáo huấn như sau:

  1. Loài Người trong tuổi trẻ,
    Cầm chày giã lúa gạo,
    Loài Người được tài sản,
    Nuôi dưỡng vợ và con.
  2. Hãy hành lời Phật dạy,
    Không làm gì nhiệt não,
    Rửa chân thật mau lẹ,
    Hãy ngồi xuống một bên,
    Chú tâm tu tâm chỉ,
    Làm theo lời Phật dạy.

Rồi các Tỷ-kheo-ni ấy, nghe theo lời dạy của Patàcàrà, an trú trên thiền quán, tu tập trí tuệ cho đến khi căn cơ thuần thục, chứng được quả A-la-hán, với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Rồi suy nghĩ trên quả chứng, họ phấn khởi sung sướng và họ thêm vào các bài kệ của Patàcàrà với những bài kệ của mình:

  1. Sau khi nghe lời dạy,
    Lời Patàcàrà,
    Sau khi rửa chân xong,
    Họ vào ngồi một bên,
    Chú tâm tu tâm chỉ,
    Làm theo lời Phật dạy.
  2. Trong đêm canh thứ nhất,
    Họ nhớ đời quá khứ
    Trong đêm canh chặng giữa,
    Thiên nhãn được thanh tịnh,
    Trong đêm canh cuối cùng,
    Khối si ám phá tan.
  3. Ðứng dậy họ lễ chân,
    Vị giáo giới cho họ,
    Như Chư Thiên ba mươi
    Ðảnh lễ vị Sakka,
    Vị không bị đánh bại,
    Ở lại chỗ chiến trường,
    Ðặt Patàcàrà,
    Vào hàng bậc lãnh đạo,
    Chúng tôi sẽ được sống,
    Ba minh, không lậu hoặc.

(XLIX) Candà (Therì. 135)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng làm con một vị Bà-la-môn, ít được người biết đến, tại một làng Bà-la-môn. Từ lúc nhỏ, gia đình bị mất hết tài sản, và nàng lớn lên trong điều kiện rất thiếu thốn.

Trong gia đình, một bệnh thời khí phát ra giết hại cả nhà, và nàng phải đi xin nhà này qua nhà khác với một cái bát vỡ. Một ngày kia, nàng đến chỗ Tỷ-kheo-ni Patàcàrà khi vị này vừa ăn xong. Các Tỷ-kheo-ni thấy nàng trong tình cảnh đáng thương hại, tiếp nàng với lòng từ mẫn và cho nàng ăn. Sung sướng được thấy hạnh phúc tốt đẹp của các Tỷ-kheo-ni, nàng đến gần Patàcàrà, đảnh lễ, nàng ngồi xuống một bên để nghe pháp. Nàng nghe với tâm hồn phấn khởi, và lo lắng vì kiếp sống luân hồi, nàng xuất gia. Nàng theo lời giáo giới của vị Tỷ-kheo-ni, nàng an trú thiền quán, nhiệt tâm tinh cần. Rồi với nghị lực và lời phát nguyện và sự chín muồi của trí tuệ, không bao lâu nàng chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Suy tư đến quả chứng của mình, nàng phấn khởi nói lên bài kệ:

  1. Trước ta sống bất hạnh,
    Không chồng và không con,
    Không bè bạn, bà con,
    Không có cơm, có áo.
  2. Ta cầm gậy bình bát
    Ði ăn xin từng nhà,
    Bị lạnh nóng đày đọa,
    Bảy năm ta sống vậy.
  3. Thấy được Tỷ-kheo-ni,
    Ta nhận đồ ăn uống,
    Sau khi đến, ta xin,
    Ðược xuất gia không nhà.
  4. Nàng Patàcàarà,
    Thương ta, cho xuất gia,
    Rồi giảng dạy cho ta,
    Hướng dẫn đến chân đế.
  5. Nghe xong lời nàng giảng.
    Ta làm theo lời dạy,
    Lời giảng bậc tôn Ni,
    Không phải lời trống không,
    Ta chứng được Ba minh,
    Ta không còn lậu hoặc.

Phẩm VI

-ooOoo-

Tập Sáu Kệ

(L) Năm Trăm Patàcàrà (Therì. 136)

Trong thời đức Phật hiện tại, chúng sanh trong những gia đình khá giả, tại nhiều chỗ khác nhau, lấy chồng, có con, sống lo việc bếp nước trong gia đình. Họ đều chịu sự đau khổ khi con của họ bị chết. Rồi họ đi tìm đến Patàcàrà, đảnh lễ nàng, ngồi xuống một bên nàng và nói cho nàng biết nỗi đau khổ của họ. Patàcàrà, làm cho họ vơi bớt sự đau khổ, nói lên những bài kệ như sau:

  1. Ông không biết con đường
    Nó đến hay nó đi,
    Từ đâu con trai đến,
    Ông lại khóc: ‘Con tôi’.
  2. Ông đâu biết con đường,
    Nó đến hay nó đi,
    Ông khóc nó làm gì?
    Pháp hữu tình là vậy.
  3. Không có ai yêu cầu,
    Từ chỗ kia, nó đến,
    Không có ai cho phép,
    Từ chỗ này, nó đi,
    Từ đâu, nó đến đây!
    Ðược sống bấy nhiêu ngày.
  4. Từ chỗ này nó đến,
    Từ chỗ kia, nó đi,
    Nó đến một con đường!
    Nó đi một con đường,
    Mệnh chung, hình sắc người,
    Luân hồi, nó sẽ đi!
    Ðến vậy, đi như kia,
    Ở đây, khóc than gì?

Sau khi nghe nàng giảng, họ đều cảm thấy dao động và xin xuất gia, dưới sự hướng dẫn của Patàcàrà. Sau khi tinh cần triển khai thiền quán, chứng đạt được quả A-la-hán, với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Suy tư trên quả chứng của mình, các vị ấy lập lại bài kệ giáo hóa của Patàcàrà và cộng thêm những bài kệ của chính mình như sau:

  1. Cây tên, khó thấy được,
    Từ tim ta, nhổ lên:
    Nàng diệt sầu vì con,
    Sầu ấy ám ảnh ta.
  2. Nay cây tên được nhổ
    Không dục cầu, tịch tịnh
    Ta quy y ẩn sĩ,
    Phật, Pháp và chúng Tăng.

Về sau Tỷ-kheo-ni này rất giỏi về lời dạy của Patàcàrà, nên chúng được gọi là: tùy thuộc của Patàcàrà.

(LI) Vàsitthi (Therì. 136)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh làm con một nhà quyền quý ở Vesàli. Khi nàng lớn, nàng được gả cho một người chồng tương xứng và nàng sống vui vẻ với người chồng. Khi có được đứa con, mới tập chạy, nó chết đi và nàng quá đau khổ vì đứa con chết. Khi các người bà con chữa bệnh cho chồng, nàng bỏ trốn và lang thang khắp đó đây cho đến khi nàng đến Mithìlà. Tại đây, nàng thấy đức Phật đang đi trên đường, tự tại, tự chế, làm chủ các căn. Khi thấy bậc Ðạo Sư và nhờ Phật lực nàng lấy lại được sự bình tĩnh. Rồi bậc Ðạo Sư thuyết pháp vắn tắt cho nàng, và nàng xin được xuất gia và bậc Ðạo Sư chấp nhận. Làm tất cả các bổn phận của mình, nàng an trú vào thiền quán, và với sự cố gắng vượt bực, với trí tuệ chín muồi, nàng chứng quả A-la-hán, vói pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Suy tư trên quả chứng của mình, nàng sung sướng nói lên niềm hân hoan của mình:

  1. Ta sầu muộn vì con
    Khổ, tâm cuồng tưởng loạn,
    Lõa thể, tóc rối ren,
    Ðời sống vậy, ta sống.
  2. Lang thang đường, đống rác,
    Nghĩa địa, đường xe đi,
    Ba năm ta đã sống,
    Kham khổ, chịu đói khát.
  3. Rồi ta thấy Thiện Thệ,
    Ðến thành Mi-thi-la,
    Ðiều ngự kẻ chưa điều,
    Bậc Giác Ngộ, vô úy.
  4. Lấy lui tâm bình tĩnh,
    Ta đảnh lễ đến gần.
    Thương ta, Gotama,
    Ngài thuyết pháp cho ta.
  5. Nghe Ngài thuyết pháp xong,
    Ta xuất gia, không nhà,
    Tùy hành lời Ðạo Sư,
    Ta chứng đạo an ổn.
  6. Mọi sầu muộn chặt đứt,
    Ðoạn tận, được chấm dứt,
    Ta liễu tri nền gốc,
    Từ đấy sầu muộn sanh.

(LII) Khemà (Therì. 137)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh nước Magadha (Ma-kiệt-đà) ở Sàgala, thuộc gia đình hoàng tộc, tên là Khemà. Nhan sắc đẹp đẽ, với da như vàng, nàng trở thành hoàng hậu Vua Bimbisàra. Khi Thế Tôn ở tại Veluvana (Trúc Lâm), nàng không đi đến yết kiến đức Phật vì sợ Thế Tôn chỉ trích lỗi của mình. Vua muốn nàng đi thăm Trúc Lâm, nên nhờ người tán thán ngôi vườn này, và cuối cùng nàng bằng lòng cùng vua đi đến tinh xá, không thấy Thế Tôn, nhưng muốn nàng thấy cho được Thế Tôn, dầu phải bắt nàng ở lại. Khi nàng sắp sửa từ giã tinh xá nhưng không gặp được Thế Tôn, các người hầu cận giữ nàng ở lại và đưa nàng đến gặp đức Thế Tôn một cách miễn cưỡng. Ðức Thế Tôn dùng thần lực hóa hiện một tiên nữ rất đẹp đang đứng quạt cho Ngài, sắc đẹp thắng xa sắc đẹp của nàng rất nhiều. Rồi trước mắt nàng, như nhân được hóa hiện ấy lớn lên trở thành già yếu răng rụng, tóc bạc, da nhăn và ngồi ngã xuống đất với chiếc quạt. Khemà thấy vậy, tự hỏi không biết thân mình có chịu hoàn cảnh tương tự hay không. Thế Tôn biết được tâm trạng của nàng bèn nói lên bài kệ:

Người đắm say các dục,
Tự lao mình xuống dòng,
Như nhện sa lưới dệt,
Người trí cắt trừ nó,
Bỏ mọi kệ không màng.
(Pháp cú, 347)

Tập Sớ ghi chép, khi bậc Ðạo Sư nói xong, nàng chứng quả A-la-hán với pháp tín thọ. Nhưng theo tập Apadàna, nàng chỉ mới chứng quả, Dự lưu và sau khi được phép vua cho xuất gia, nàng xuất gia và trở thành A-la-hán.

Sau đó, nàng tu tập thiền quán, có danh tiếng về môn tu này, và đức Phật khi ở Jetavana (Kỳ Viên) đã đặt nàng vào hạng thiền quán đệ nhất.

Một ngày kia, nàng ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây, Ác ma hiện lên, dưới hình thức một thanh niên và cám dỗ nàng với lòng dục như sau:

  1. Nàng vừa trẻ vừa đẹp,
    Ta vừa trẻ vừa xuân,
    Với cung đàn năm điệu,
    Hãy vui hưởng, Khemà.

Nàng trả lời:

  1. Với thân hôi thối này,
    Bệnh hoạn và mong manh,
    Ta nhàm chán ghét bỏ,
    Dục ái đã nhổ lên.
  2. Dục ví như gươm giáo,
    Các uẩn đoạn đầu đài,
    Ðiều người nói dục lạc,
    Nay ta đã xa lìa.
  3. Mọi nơi, hỷ duyệt đoạn,
    Khối si ám tan tành,
    Hãy biết vậy, Ác ma!
    Ngươi bị hại, Ma vương.
  4. Ngươi đánh lễ vầng sao!
    Ngươi thờ lửa rừng sâu,
    Ngươi không biết như thật,
    Kẻ ngu nghĩ rằng tịnh.
  5. Còn ta, ta đảnh lễ,
    Bậc Giác ngộ, Thượng nhân,
    Giải thoát mọi khổ đau,
    Hành lời Ðạo Sư dạy.

(LIII) Sujàtà (Therì. 137)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Sàketa trong gia đình thủ khố nhà vua. Ðược gả chồng với con vị thủ khố tương xứng với gia đình, nàng sống hạnh phúc với chồng. Một hôm, trong khi đi dự lễ các Sao (Nakkhatakìlam), nàng đi về với những người hầu hạ, và nàng thấy bậc Ðạo Sư ở vườn Anjana. Nàng cảm thấy bị hấp dẫn, đến gần đảnh lễ ngài và nghe ngài thuyết pháp. Bậc Ðạo Sư biết căn cơ nàng đã chín muồi, nên đặc biệt thuyết pháp cho nàng, và thuyết pháp xong, nàng chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, với nghĩa tín thọ. Ðảnh lễ bậc Ðạo Sư, về nhà được chồng và cha mẹ chấp thuận và với sự đồng ý của bậc Ðạo Sư, nàng được xuất gia làm Tỷ-kheo-ni. Suy tư đến quả chứng của mình, nàng sung sướng nói lên như sau:

  1. Trang sức, mặc áo đẹp
    Vòng hoa, xức chiên đàn,
    Ðeo mọi loại nữ trang
    Cầm đầu chúng nữ tỳ.
  2. Mang theo đồ ăn uống,
    Nhiều món ăn cứng mềm,
    Từ nhà ta đi ra,
    Ði đến vườn thưởng ngoạn.
  3. Tại đây ta vui chơi,
    Rồi ta đi về nhà,
    Ta thấy ngôi tinh xá,
    Khi ta bước vào rừng,
    Rừng tên Anjanà,
    Tại xứ Sàketa.
  4. Thấy hào quang thế giới,
    Ðảnh lễ, ta tới gần,
    Thương ta, bậc Pháp nhãn,
    Ngài thuyết pháp cho ta.
  5. Nghe xong bậc Ðại tiên,
    Ta thể nhập chân lý,
    Tại đấy ta chứng pháp,
    Ly trần tạo bất tử.
  6. Do liễu tri diệu pháp,
    Ta xuất gia, không nhà,
    Ba minh ta đạt được,
    Không trống rỗng lời Phật.

(LIV) Anopanà (Therì. 138)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Sàketa, trong gia đình vị thủ kho Majjha. Vì nàng rất đẹp, nàng được tên là Anopanà (không ai sánh nổi). Khi nàng đến tuổi trưởng thành, nhiều con nhà giàu, các quan chức nhà vua, các hoàng tử, cử các sứ giả đến xin cưới nàng. Nghe tin vậy, nàng có tâm nguyện khác, nàng muốn sống đời sống không có gì hết. Nên nàng tìm đến bậc Ðạo Sư nghe ngài thuyết pháp, nhờ trí tuệ chín muồi, nhờ nhớ đến lời dạy, nhờ nhiệt tâm thiền quán, nàng chứng được quả thứ ba, quả Bất lai. Xin phép bậc Ðạo Sư cho xuất gia, nàng được nhận làm Tỷ-kheo-ni. Và đến ngày thứ bảy, nàng chứng được quả A-la-hán. Suy tư trên quả chứng, nàng sung sướng nói lên sự phấn khởi của mình:

  1. Sanh gia đình cao quý,
    Nhiều châu báu, tài sản,
    Ðầy đủ dung sắc đẹp,
    Con gái cưng Majjha.
  2. Ðược con vua cầu hôn,
    Con phú gia xin cưới,
    Sứ giả đến cha ta,
    Cho tôi Anopham.
  3. Công chúa con gái ngài,
    Cân nặng như thế nào
    Tôi sẽ tặng tám lần
    Bằng vàng ròng châu báu.
  4. Ta thấy đấng Giác ngộ,
    Bậc Thế Tôn vô thượng,
    Ta đảnh lễ chân Ngài,
    Ðến gần, ngồi một bên.
  5. Thương ta, Gotama,
    Ngài thuyết pháp cho ta.
    Ngay tại chỗ ngồi ấy,
    Ta chứng quả thứ ba.
  6. Rồi ta cạo bỏ tóc,
    Xuất gia, sống không nhà,
    Hôm nay, đêm thứ bảy,
    Khát ái được gột sạch.

(LV) Mahàpajàpatì Gotamì (Therì. 138)

Trước khi bậc Ðạo Sư ra đời, nàng được sanh ở Devadaha, trong gia đình Mahà-Suppabuddha. Tên gia đình của nàng là Gotama, và nàng là em gái của Mahàmàyà. Các thầy đoán tướng tiên đoán rằng các người con của hai chị em sẽ là vị chuyển luân vương. Vua Suddhodana, khi đến tuổi trưởng thành, cưới cả hai chị em. Sau đó, bậc Ðạo Sư đản sanh, và trong khi chuyển pháp luân, ngài đi đến Vesàli, và phụ vương được quả A-la-hán mệnh chung.

Rồi Mahàpajàpati muốn xuất gia, xin phép bậc Ðạo Sư nhưng không được chấp nhận. Rồi nàng cắt tóc, đắp y, và sau thời gỉảng kinh về tinh cần nỗ lực, nàng ra đi với năm trăm Thích-ca nữ mà các người chồng đã xuất gia, đi đến Vesàli, và xin bậc Ðạo Sư cho xuất gia, với sự can thiệp của Tôn giả Ananda. Bậc Ðạo Sư chấp nhận và dạy Tám kỉnh pháp cho các Tỷ-kheo-ni.

Sau khi xuất gia, Mahàpajàpati đến yết kiến đức Phật và đứng một bên Ngài thuyết pháp cho nàng, và nàng tinh cần tinh tấn chứng được quả A-la-hán với trí tuệ trực giác và phân tích năm trăm Tỷ-kheo-ni, sau khi nghe Nandaka giáo giới, chứng được sáu thắng trí.

Một ngày kia, khi bậc Ðạo Sư ngồi giữa thánh chúng tại tinh xá Jetavana (Kỳ Viên), Ngài xác nhận Mahàpajàpati là vị có kinh nghiệm đệ nhất, sống hưởng thọ hạnh phúc giải thoát, Niết-bàn. Ðể nói lên lòng biết ơn của mình, Mahàpajàpati tuyên bố chánh trí của mình trước mặt Thế Tôn, tán thán hạnh đức của Ngài đã giúp đỡ hộ trì cho nàng mà trước đây nàng không được gặp:

  1. Bậc Giác ngộ anh hùng!
    Con xin đảnh lễ Ngài,
    Ngài là bậc Tối thượng,
    Giữa mọi loài chúng sanh,
    Ngài giải khổ cho con,
    Cùng rất nhiều người khác.
  2. Liễu tri mọi đau khổ,
    Gột sạch nhân khát ái,
    Con đường Thánh tám ngành,
    Ðoạn diệt, ta chứng ngộ.
  3. Trước ta sống là mẹ,
    Là con, là cha, anh,
    Là ông nội, ông ngoại,
    Ðời sống trước là vậy,
    Không rõ biết như thật,
    Luân hồi, tìm không gặp.
  4. Nay ta thấy Thế Tôn,
    Thân này thân tối hậu,
    Sanh tử được đoạn tận,
    Nay không còn tái sanh.
    Siêng, tinh cần nỗ lực,
    Thường, kiên trì tinh tấn,
    Hãy thắng đệ tử Phật,
    Hòa hợp, đảnh lễ Ngài.
    Vì hạnh phúc nhiều người,
    Ma-yà sanh Cù-đàm,
    Giải tỏa nhóm khổ đau
    Cho người bị bệnh chết?

(LVI) Guttà (Therì. 139)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn và tên là Guttà. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng nhàm chán đời sống gia đình và được phép gia đình cho xuất gia, dưới sự lãnh đạo của Mahàpajàpati. Sau đó dầu nàng hành trì với tín tâm, nhưng tâm của nàng cứ chạy theo ngoại cảnh và do vậy nàng không thiền định được. Rồi bậc Ðạo Sư muốn khích lệ nàng, phóng hào quang và hiện ra trước mặt nàng và nói lên bài kệ như sau:

  1. Vì mục đích tối thượng,
    Guttà, người xuất gia,
    Từ bỏ cả con cái,
    Cho đến bản thân mình,
    Hãy nhiệt tâm hành trì,
    Chớ để tâm chi phối.
  2. Tâm lừa đảo chúng sanh,
    Ưa ác ma lãnh vực,
    Luân hồi nhiều đời sống,
    Chúng dong ruổi, si mê.
  3. Dục vọng và sân hận,
    Kể cả với thân kiến,
    Cộng thêm giới cấm thủ
    Với nghi hoặc thứ năm.
  4. Hỡi này, Tỷ-kheo-ni,
    Từ bỏ kiết sử này,
    Là hạ phần kiết sử,
    Ngươi hết lại đời này.
  5. Hãy tránh xa tham mạn,
    Vô minh và trạo cử,
    Chặt đứt kiến sử xong,
    Ngươi sẽ dứt đau khổ.
  6. Quảng bỏ vòng sanh tử,
    Liễu tri sự tái sanh,
    Hiện tại không ước vọng,
    Ngươi sẽ sống an tịnh.

(LVII) Vijjayà (Therì. 139)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Ràjagaha (Vương Xá) trong một gia đình thường dân, khi lớn lên nàng trở thành bạn của Khemà, đưa nàng trở thành Trưởng lão Ni, khi ấy còn là nữ cư sĩ. Khi nghe Khemà xuất gia, nàng nói: ‘Khemà là hoàng hậu còn xuất gia được, huống nữa là ta’. Nàng đi đến Khemà, và Khemà biết tâm nguyện căn cơ của nàng nên thuyết pháp, khiến nàng suy tư đến sanh lão bệnh tử và tìm được an ổn trong đạo pháp. Rồi Khemà cho nàng xuất gia, nàng hầu hạ, học hỏi làm tròn bổn phận của mình, tu tập thiền quán và khi trí tuệ thuần, nàng chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Rồi suy tư trên quả chứng của mình nàng nói lên sự sung sướng phấn khởi của nàng:

  1. Bốn lần và năm lần
    Ta ra khỏi tinh xá,
    Tâm không được an tịnh,
    Không chế ngự được tâm.
  2. Ta đến Tỷ-kheo-ni,
    Ta hỏi, đàm luận pháp,
    Nàng thuyết pháp cho ta,
    Về giới và về xứ.
  3. Bốn sự thật bậc Thánh
    Về các căn, các lực,
    Giác chi, tám đường chánh,
    Ðạt đạo tối thượng nghĩa.
  4. Nghe lời vị ấy dạy,
    Ta làm theo giáo huấn,
    Trong đêm canh thứ nhất,
    Ta nhớ đến đời trước.
  5. Trong đêm canh chặng giữa
    Thiên nhãn được thanh tịnh,
    Trong đêm canh cuối cùng,
    Khối si ám tan tành.
  6. Từ đấy ta được sống,
    Biến mãn thân hỷ lạc,
    Ðêm thứ bảy, duỗi chân,
    Khối si ám tan tành.

Phẩm VII

-ooOoo-

Tập Bảy Kệ

(LVIII) Uttarà (Therì. 140)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình thường dân, tên là Uttarà. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng nghe Patàcàrà thuyết pháp, trở thành một tín nữ, xuất gia và trở thành vị A-la-hán. Rồi suy tư trên quả chứng của mình, nàng phấn khởi nói lên bài kệ:

  1. Loài Người trong tuổi trẻ,
    Cầm chày giã lúa gạo,
    Tuổi trẻ được tài sản,
    Nuôi dưỡng vợ và con.
  2. Hãy hành lời Phật dạy,
    Không làm gì nhiệt não,
    Rửa chân thật mau lẹ,
    Hãy ngồi xuống một bên.
  3. Sau khi an trú tâm,
    Nhứt tâm, khéo định tĩnh,
    Hãy quán sát các hành,
    Thuộc ngoại, không thuộc ngã.
  4. Ta nghe lời giáo huấn,
    Lời Patàcàrà;
    Sau khi ta rửa chân,
    Bước vào, ngồi một bên.
  5. Trong đêm canh thứ nhất,
    Ta nhớ đời quá khứ,
    Trong đêm canh chặng giữa
    Thiên nhãn được thanh tịnh.
  6. Trong đêm canh cuối cùng,
    Khỏi si ám tan tành,
    Từ ba minh, đứng dậy
    Giáo huấn Ngài, làm xong.
  7. Như Thiên chủ Sakka,
    Ở cõi trời Ba mươi,
    Không bao giờ bại trận,
    Ở tại các chiến trường,
    Ta sống, tôn xưng Ngài,
    Là bậc Thầy lãnh đạo,
    Ta chứng được ba minh,
    Ta không còn lậu hoặc.

Một hôm nàng tu tập thiền quán dưới sự hướng dẫn của Patàcàrà, ngồi trong phòng của nàng, nàng suy nghĩ: ‘Ta sẽ không ngồi dậy nếu tâm ta không giải thoát khỏi các lậu hoặc’. Quyết định như vậy, nàng triển khai trí tuệ, thiền quán, chứng được quả A-la-hán, với sức mạnh trực giác và triệt quán Chánh pháp. Sau khi tiếp tục quán mười chín đề tài với ý thức ‘không biết ta có làm đủ những điều cần phải làm chăng’, nàng nói lên sự sung sướng của nàng với những bài kệ ghi ở trên và nàng duỗi chân ra. Khi trời rạng đông và đêm đã sáng, nàng tìm gặp vị Tỷ-kheo-ni và lập lại những bài kệ của nàng.

(LIX) Calà (Therì. 141)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Magadha, tại làng Nàlaka, con của một nữ Bà-la-môn tên là Surùpasàrì. Khi đến tuổi đặt tên, nàng được gọi là Càlà. Em gái nàng tên là Upacàlà và em nhỏ nhất tên là Sìsùpacàlà và cả ba là em của Tôn giả Sàriputta. Khi ba đứa em nghe người anh xuất gia trở thành vị Tỷ-kheo chúng suy nghĩ: ‘Ðây không phải là một giáo pháp thường tình, một sự xuất gia thường tình, vì một người anh như người anh chúng ta đã quyết tâm tu hành theo; ba nàng cũng xuất gia, dầu gia đình than khóc. Với sự tinh tấn, tinh cần, cả ba tu hành, chứng quả A-la-hán và sống an lạc giải thoát.

Rồi Tỷ-kheo-ni Càlà, sau khi đi khất thực, đi vào rừng Andho để nghỉ trưa và tại đấy Ác ma hiện ra để cám dỗ nàng. Trong kinh, có đề cập đến vấn đề này.

Tỷ-kheo-ni Càlà, sau khi đi khất thực ở Sàvatthi, đi vào trong rừng an lạc để nghỉ trưa. Ði vào rừng Andho, nàng ngồi xuống một gốc cây, Ác ma đến để lung lạc nàng và hỏi nàng những câu trong các bài kệ của nàng. Sau khi nàng nói lên những đức hạnh của vị Ðạo Sư, và sức mạnh của Chánh pháp, nàng làm cho Ác ma thấy rõ sự vô ích của mình muốn cám dỗ nàng và Ác ma thất vọng biến mất. Rồi nàng nói lên sự sung sướng phấn khởi của nàng và câu chuyện với Ác ma như sau:

  1. Sau khi an trú niệm,
    Tỷ-kheo-ni luyện căn,
    Thể nhập đạo an tịnh,
    An lạc tịnh các hành.

Ác ma:

  1. Vì ai, ngươi đầu trọc,
    Hiện tướng, Sa-môn ni?
    Không theo hệ phái nào,
    Sao sống si mê vậy?

Càlà:

  1. Các hệ phái ngoại đạo
    Nương tựa trên tà kiến,
    Họ không hiểu Chánh pháp
    Họ không thuần thục pháp.
  2. Sanh gia tộc Thích-ca,
    Ðức Phật, bậc vô tỷ
    Ngài thuyết pháp cho ta,
    Vượt qua các tà kiến.
  3. Ngài thuyết Tám thánh đạo,
    Về khổ, nguyên nhân khổ,
    Về vượt qua đau khổ
    Và con đường khổ diệt.
  4. Ta nghe lời Phật dạy,
    Sống vui thích giáo pháp,
    Ba minh đã đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.
  5. Mọi nơi, hỷ duyệt đoạn,
    Khỏi si ám tan tành!
    Hãy biết vậy, Ác ma!
    Người bị hại, Ma vương.

(LX) Upacàlà (Therì. 141)

Câu chuyện giống như Tỷ-kheo-ni Càlà. Như Càlà, nàng chứng quả A-la-hán, và bị Ác ma cám dỗ nhưng Ác ma đã thất bại:

  1. Trú niệm có pháp nhãn
    Tỷ-kheo-ni luyện căn,
    Thể nhập đạo an tịnh,
    Bậc thượng nhân hành trì.

Ác ma:

  1. Sao ngươi không thích sanh,
    Có sanh mới hưởng dục,
    Hãy hưởng thọ dục lạc,
    Chớ hối tiếc về sau.

Upacàlà:

  1. Ðã sanh, thời bị chết,
    Tay chân bị đứt đoạn,
    Bị giết, trói, phiền não.
    Sau đưa đến khổ đau.
  2. Sanh gia bậc Thích-ca
    Ðức Phật không chiến bại.
    Ngài thuyết pháp cho ta,
    Vượt qua khỏi sự sanh.
  3. Ngài thuyết Tám thánh đạo,
    Về khổ, nguyên nhân khổ,
    Về vượt qua đau khổ,
    Và con đường khổ diệt.
  4. Ta nghe lời Ngài dạy,
    Sống vui thích giáo pháp,
    Ba minh đã đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.
  5. Mọi nơi, hỷ duyệt đoạn,
    Khỏi si ám tan tành,
    Hãy biết vậy, Ác ma!
    Ngươi bị hại, Ma vương.

Phẩm VIII

-ooOoo-

Tập Tám Kệ

(LXI) Sìsupacàlà (Therì. 142)

Câu chuyện giống như hai câu chuyện trước. Nàng theo gương người anh, xuất gia và chứng quả A-la-hán. Hưởng thọ sự an lạc, nàng suy tư đến quả chứng, đã làm những điều cần làm và nói lên sự sung sướng của nàng:

  1. Tỷ-kheo-ni giữ giới,
    Khéo hộ trì các căn,
    Ðạt được đạo an tịnh,
    Nước cam lồ thuần tịnh.

Ác ma:

  1. Chư Thiên cõi Ba mươi,
    Dạ-ma và Ðâu-suất,
    Chư Thiên trời Hóa Lạc,
    Chư Thiên cõi Tự Tại.
    Hãy hướng tâm chỗ ấy,
    Chỗ xưa kia nàng sống.

Khi Trưởng lão ni nghe vậy, liền nói: ‘Hãy dừng lại, Ác ma! Dục giới mà ngươi nói đến, cho đến cả thế giới vũ trụ đều bị lửa tham, lửa sân, lửa si đốt cháy. Tại chỗ ấy, người có trí không ưa thích’. Nêu rõ cho Ác ma thấy tâm của mình đã xa lìa Ma giới, nàng trách mắng Ác ma như sau:

  1. Chư Thiên cõi Ba mươi,
    Dạ-ma và Ðâu-suất,
    Chư Thiên trời Hóa Lạc,
    Chư Thiên cõi Tự Tại.
  2. Thời này đến thời khác,
    Hữu này đến hữu khác,
    Chúng đều bị thân kiến,
    Lãnh đạo và chi phối,
    Chúng không vượt thân kiến,
    Luân chuyển vòng sanh tử,
  3. Toàn thế giới bốc cháy
    Toàn thế giới đồng cháy,
    Toàn thế giới bừng cháy,
    Toàn thế giới rung động.
  4. Phật thuyết pháp cho ta,
    Pháp bất động vô tỷ,
    Ðược bậc không phàm phu,
    Phục vụ và nhiệt hành,
    Chỗ ấy, tâm ý ta,
    Hân hoan và ưa thích.
  5. Ta nghe lời vị ấy,
    Sống vui trong giáo pháp,
    Ba minh đã đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.
  6. Mọi chỗ, hỷ diệt đoạn,
    Khỏi si ám tan tành,
    Hãy biết vậy, Ác ma!
    Người bị bại, Ma Vương.

Phẩm IX

-ooOoo-

Tập Chín Kệ

(LXII) Mẹ Của Vaddha

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở thành phố Bhàrukaccha, trong một gia đình thường dân. Sau khi lập gia đình, nàng sanh được một người con, đặt tên là Vaddha và nàng được biết là mẹ Vaddha. Nghe một Tỷ-kheo thuyết pháp, nàng trở thành một tín nữ, và giao lại con cho bà con. Nàng đi đến các Tỷ-kheo-ni và xuất gia. Vaddha đi thăm mẹ, đi một mình vào tinh xá Tỷ-kheo-ni và bị mẹ khiển trách như sau:

  1. Vaddha, chớ bao giờ,
    Rơi vào cõi tham dục,
    Này con, chớ chia phần,
    Trong đau khổ liên tục.
  2. Hạnh phúc là ẩn sĩ,
    Không tham, nghi đoạn tận,
    Sống mát lạnh, chế ngự,
    Không còn các lậu hoặc.
  3. ẩn sĩ ấy hành trì,
    Con đường đạt chánh kiến,
    Chấm dứt sự khổ đau,
    Vaddha! Hãy tiến tu.

Rồi Vaddha suy nghĩ: ‘Mẹ ta chắc đã chứng quả A-la-hán’, nên nói như sau:

  1. Với tự tín mẹ nói,
    Mục đích này cho con,
    Mẹ thân! Con nghĩ rằng,
    Mẹ không còn tham dục.

Rồi vị Trưởng lão Ni trả lời, nêu rõ trách nhiệm của mình đã làm xong:

  1. Vaddha! Phàm hành gì,
    Thấp, cao hay bậc trung,
    Một tí nhỏ tham dục,
    Không có ở nơi ta.
  2. Ta đoạn mọi lậu hoặc,
    Không phóng dật, thiền tu,
    Ba minh đã đạt được,
    Làm xong lời dạy.

Người con dùng lời khuyên của mẹ để tự sách tấn đi vào tinh xá, ngồi trên chỗ mình thường ngồi, triển khai thiền quán và chứng quả A-la-hán. Suy tư trên hạnh phúc về quả chứng của mình, Vaddha đi đến mẹ và nói lên chánh trí của mình:

  1. Vi diệu thay, mẹ ta,
    Khích lệ, thúc đẩy ta,
    Những kệ thuộc chân đế,
    Với lòng từ thương tưởng.
  2. Ta nghe lời mẹ dạy,
    Lời giáo giới mẹ hiền,
    Ta hành pháp cảm kích,
    Ðạt an ổn khổ ách.
  3. Ta tinh tấn tinh cần,
    Ngày đêm không biếng nhác,
    Ðược mẹ khéo khích lệ,
    Ta chứng tịnh tối tượng.

Phẩm X

-ooOoo-

Tập Mười Kệ

(LXIII) Kisà Gotamì (Therì. 143)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình nghèo khổ, tên là Gota mì, vì nàng yếu đuối nên được gọi là Kisà Gotamì (Gotamì ốm yếu). Khi lập gia đình, nàng bị khinh thường và được gọi là con gái một người không có gì. Nhưng khi nàng có con, nàng được kính trọng. Khi người con lớn lên và có thể chạy được, nó chết, và nàng cảm thấy đau khổ, và nhớ đến sự đối xử với mình được thay đổi khi đẻ đứa con, nàng nghĩ: ‘Chúng sẽ giữ lấy con ta và đem bỏ vào nghĩa địa’. Nàng ôm đứa con chết vào lòng và đi vào từng nhà xin: ‘Hãy cho con tôi thuốc’. Và được trả lời: ‘Nay thuốc còn gì dùng nữa’. Nhưng nàng không hiểu. Có người thương xót khuyên nàng đến đức Phật để xin thuốc, Nàng đi đến tinh xá và xin đức Phật: ‘Hãy cho con tôi thuốc’. Bậc Ðạo Sư thấy được hy vọng tu chứng nơi nàng bèn nói: ‘Hãy đi đến nhà nào không có người chết, và đem lại một hột cải!’ Nàng vâng lời, đi vào nhà đầu tiên và yêu cầu như vậy, nhưng bị từ chối, vì trong nhà có người chết. Nàng đi vào nhiều nhà khác, được trả lời như vậy và nàng nghĩ: ‘Ðây có thể là bậc Ðạo Sư dạy khéo cho ta’, nên nàng đem dặt con nàng ở nghĩa địa và nói:

Pháp này không riêng làng,
Không riêng thành, gia tộc,
Không riêng cho một ai,
Cho đến toàn thế giới,
Kể cả các chư Thiên,
Ở tại mọi từng trời,
Pháp nhĩ là như vậy.
Tất cả là vô thường.

Rồi nàng đi đến bậc Ðạo Sư, và khi ngài hỏi có tìm được hột cải không, nàng trả lời: ‘Việc làm đã làm xong về hột cải. Hãy xác nhận cho con’.

Thế Tôn nói:

Tâm còn bị đắm say,
Con cái và súc vật,
Tử thần bắt người ấy,
Như lụt trôi làng ngủ
(Pháp cú, 287)

Khi đức Phật nói xong, nàng chứng được Sơ quả (quả Dự lưu) và xin được xuất gia. Ðức Phật chấp nhận và nàng được các Tỷ-kheo-ni cho thọ giới. Sau đó, không bao lâu nàng nghiên cứu về nguyên nhân của sự vật và khiến thiền quán tăng trưởng. Rồi bậc Ðạo Sư nói lên bài kệ:

Người sống một trăm năm,
Không thấy pháp sanh diệt,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp sanh diệt.
(Pháp Cú 113)

Khi đức Phật nói xong, nàng chứng quả A-la-hán. Vì nàng đặc biệt tu hạnh khắc khổ nên nàng mặc thô y, và đức Phật ngồi tại tinh xá Kỳ Viên đặt nàng vào hạnh mặc thô y đệ nhứt. Suy tư trên quả chứng của mình, nàng nói lên những bài kệ này trước mặt Thế Tôn, những bài kệ tán thán sự thân cận với các bậc Hiền Thánh:

  1. Bạn lành được ẩn sĩ,
    Khắp thế giới, ngợi khen,
    Thân cận với bạn lành,
    Kẻ ngu thành người trí.
  2. Hãy thân bậc chân nhân,
    Thân vậy, trí tăng trưởng,
    Thân cận bậc chân nhân,
    Mọi khổ đau được thoát.
  3. Hãy biết, Bốn thánh đế,
    Khổ và khổ tập khởi,
    Biết về đau khổ diệt,
    Và đoạn Thánh tám ngành.
  4. Khổ thay phận nữ nhân,
    Chính Ngài đã nói lên,
    Bậc đánh xe điều ngự,
    Những ai đáng điều ngự,
    Khổ thay phận chồng chung,
    Nhiều người một lần sanh.
  5. Trong đau khổ đâm họng,
    Mẹ yếu uống thuốc độc,
    Trường hợp gặp bào thai,
    Bị chết khi đang sanh,
    Cả hai mẹ và con,
    Ðều cùng gặp tai nạn.
  6. Khi mang thai đi về,
    Ta thấy chồng chết đường,
    Và khi ta sanh đẻ,
    Ta không về đến nhà.
  7. Hai con đều bị chết,
    Chồng nữ nhân khốn khổ,
    Lại bị chết giữa đường;
    Mẹ, cha và cả anh,
    Ðều cùng bị thiêu đốt,
    Dồn chung trên đống lửa.
  8. Ôi, nữ nhân khốn khổ,
    Sanh gia cảnh khốn cùng,
    Người phải chịu khổ đau,
    Vô lượng, không kể xiết.
    Nước mắt người đã khóc,
    Trải nhiều ngàn lần sanh.
  9. Ta thấy giữa nghĩa trang,
    Thịt con ta bị ăn,
    Gia đình bị tàn hại,
    Bị mọi người khinh bỉ,
    Tuy vậy, người chết chồng.
    Ðạt được sự bất tử.
  10. Ta tu tập Thánh đạo,
    Ðường tám ngành, bất tử,
    Ta chứng được Niết-bàn,
    Thấy được gương Chánh pháp.
  11. Trên ta, mũi tên đâm,
    Ðã được rút ra khỏi,
    Gánh nặng đã đặt xuống,
    Việc nên làm đã làm,
    Ta là Trưởng lão Ni,
    Kisà-Gotamì,
    Với tâm khéo giải thoát,
    Ta nói lên đời này.

Phẩm XI

-ooOoo-

Tập Mười Hai Kệ

(LXIV) Uppalavanna

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi, con gái của vị trưởng kho bạc. Vì da nàng màu tim của sen xanh, nàng được gọi là Uppalavannà. Khi nàng đến tuổi trưởng thành, vua và thường dân dành nhau đến cưới nàng. Vị trưởng kho bạc, không thể làm cho mọi người bằng lòng, nghĩ đến một kế để giải quyết. Ông cho gọi Uppalavannà và yêu cầu nàng xuất gia. Và vì căn cơ đã thuần thục, nàng nhận lời ngay, và được đưa đến tinh xá Tỷ-kheo-ni để xuất gia.

Sau một thời gian, khi nàng phụ trách công việc dọn dẹp phòng làm lễ Bố-tát, nàng thắp ngọn đèn quét phòng. Rồi lấy ngọn đèn làm tướng để thiền quán, không bao lâu nàng chứng được quả A-la-hán. Nàng trở thành vị thần thông đệ nhất.

Và bậc Ðạo Sư, ngồi giữa đại chúng ở Jetavana ấn chứng cho nàng là thần thông đệ nhất. Nàng suy tư trên quả an lạc của thiền và thánh quả, nói lên một số bài kệ. Ðây là những lời thốt ra tà miệng một bà mẹ trở thành tình địch với con gái của mình, đối với một người mà sau này trở thành vị Tỷ-kheo tên là Tỷ-kheo ở trên bờ sông Hằng. Những bài kệ này nói lên sự nguy hiểm, sự hạ liệt và sự uế nhiễm của các dục:

I

  1. Hai, mẹ và con gái,
    Chúng tôi sống một chồng,
    Lời nàng đã nói lên
    Làm ta xúc động mạnh,
    Cảnh ngộ thật hy hữu,
    Làm tóc lông dựng ngược.
  2. Ðáng ngán thay các dục,
    Bất tịnh, hôi, nhiều gai,
    Ở đây, mẹ, con gái,
    Chúng tôi lấy một chồng.
  3. Thấy nguy hiểm trong dục,
    Viễn ly an ổn vững
    Nàng xuất gia Vương Xá,
    Bỏ nhà, sống không nhà.

II

Sung sướng nàng nói lên quả chứng của mình.

  1. Ta biết các đời trước,
    Thiên nhãn được thanh tịnh,
    Trí biết được tâm người,
    Nhĩ giới được trong sạch.
  2. Ta chứng được thần thông,
    Lậu tận ta đạt được,
    Ta chứng sáu thắng trí,
    Lời Phật dạy, làm xong.

III

Nàng hiện lên một thần thông với sự chấp thuận của bậc Ðạo Sư và ghi như sau:

  1. Do hiện hóa thần thông,
    Ta đến xe bốn ngựa,
    Ta đảnh lễ chân Phật,
    Thế giới chủ, quang vinh.

IV

Nàng bị Ác ma đến quấy phá, tại rừng cây Sàla và trách móc Ác ma.

Ác ma:

  1. Nàng đi đến gốc cây,
    Ðang nở hoa tuyệt đẹp,
    Nàng đến, đứng một mình,
    Dưới gốc cây có hoa!
    Nàng đến chỉ một mình;
    Này kẻ dại khờ kia,
    Sao nàng lại không sợ,
    Có kẻ cám dỗ nàng!

Nàng:

  1. Trăm ngàn người cám dỗ,
    Có đến đây như ngươi,
    Mảy lông ta không động,
    Ta không gì hoảng hốt,
    Ác ma, làm gì ta,
    Khi ngươi đến một mình.
  2. Ta có thể biến mất,
    Hay vào bụng nhà ngươi,
    Ta đứng giữa hàng mi,
    Ngươi không thấy ta đứng.
  3. Với tâm khéo nhiếp phục,
    Thần túc khéo tu trì,
    Sáu thắng trí, ta chứng,
    Lời Phật dạy, làm xong.
  4. Các dục giống gươm giáo,
    Chém nát các uẩn ta,
    Những dục mà ngươi gọi,
    Là lạc thú cuộc đời.
    Ngày nay, dục lạc ấy.
    Với ta, không hấp dẫn.
  5. Ở tất cả mọi nơi,
    Hỷ lạc được đoạn tận,
    Khối tối tăm mù ám,
    Ðã bị làm tan nát,
    Hỡi này kẻ Ác ma,
    Ngươi hãy biết như vậy,
    Ngươi chính là Ác ma,
    Ngươi đã bị bại trận.

Phẩm XII

-ooOoo-

Tập Mười Sáu Kệ

(LXV) Punnà hay Punnikà (Therì. 146)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi, trong gia đình ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) con gái của một người nô lệ. Nàng chứng được quả Dự lưu khi nghe kinh Sư tử hống (Trung Bộ Kinh, kinh số 11 hay 12). Về sau, sau khi nàng hóa độ được một Bà-la-môn tin tưởng nhờ nước làm cho thanh tịnh và được cảm tình của ông chủ, nàng được thoát ly khỏi giới nô lệ, và với sự bằng lòng của ông chủ, nàng được xuất gia. Và nhờ triển khai thiền quán, nàng chứng quả A-la-hán với hiểu pháp và hiểu nghĩa. Suy tư trên quả chứng của mình, nàng nói lên những bài kệ như sau:

  1. Mùa đông ta mang nước,
    Luôn luôn xuống dòng nước,
    Ta sợ các hình phạt,
    Lời trách móc các bà.
  2. Hỡi này Bà-la-môn,
    Ngươi sợ hãi vì ai?
    Luôn luôn xuống dòng nước,
    Tay chân run cầm cập.
    Ngươi phải chịu cảm thọ,
    Rét lạnh quá độ vậy?
  3. Và nàng có biết chăng
    Hỡi này Punnikà?
    Sao nàng lại đến hỏi
    Vị làm các nghiệp lành,
    Vị đã chận đứng lại,
    Các nghiệp ác bất thiện.
  4. Vị ấy già hay trẻ,
    Làm các nghiệp ác độc,
    Người ấy nhờ rảy nước,
    Ðược giải thoát ác nghiệp.
  5. Ai nói với ngươi vậy,
    Kẻ ngu với kẻ ngu,
    Người tin nhờ rảy nước,
    Ðược giải thoát ác nghiệp.
  6. Tất cả những ếch, rùa,
    Sẽ được lên cõi trời,
    Cùng các rắn cá sấu,
    Và các thủy vậy khác.
  7. Kẻ giết bò giết heo,
    Kẻ đánh cá sanh thú,
    Các kẻ cướp giết người,
    Các người làm ác khác,
    Họ nhờ có rảy nước,
    Có thể thoát ác nghiệp.
  8. Nếu những con sông này,
    Có thể làm trôi mất,
    Ác nghiệp xưa ngươi làm,
    Chúng cũng làm trôi luôn,
    Các thiện nghiệp ngươi làm,
    Khiến ngươi thành rỗng không.
  9. Phạm chí vì cái gì,
    Ngươi sợ phải xuống nước,
    Cái ấy chớ có làm,
    Chớ để lạnh hại da.
  10. Ta đi theo tà đạo,
    Nàng hướng ta Thánh đạo,
    Thưa nàng ta cho nàng,
    Cái áo thấm nước này.
  11. Ngươi giữ cái áo lại,
    Ta không muốn cái áo!
    Nếu ngươi sợ đau khổ,
    Nếu ngươi không thích khổ.
  12. Chớ làm các điều ác,
    Công khai hay kín đáo,
    Nếu ngươi làm sẽ làm,
    Làm các điều ác nghiệp.
  13. Ngươi không thoát đau khổ,
    Dầu thấy đến, ngươi chạy,
    Nếu ngươi sợ đau khổ,
    Không ưa thích đau khổ.
  14. Hãy đến quy y Phật,
    Quy y Pháp và Tăng,
    Hãy chấp nhận Giới luật,
    Ngươi sẽ được lợi ích.
  15. Ta đến quy y Phật,
    Quy y Pháp và Tăng,
    Ta chấp nhận Giới luật,
    Ta sẽ được lợi ích,
  16. Trước ta là bà con,
    Với tộc họ Phạm thiên,
    Nay ta là Phạm chí,
    Chân thật là như vậy,
    Ta chứng ngộ Ba minh,
    Ðầy đủ trí Vệ-đà,
    An ổn đến với ta,
    Tâm tư được gột sạch.

Vị Bà-la-môn quy y và thọ năm giới. Về sau được nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp trở thành một thiện nam và xuất gia. Nhờ tinh cần tu tập không bao lâu chứng được Ba minh, và nghĩ đến quả chứng của mình, nói lên bài kệ này. Và vị Tỷ-kheo-ni, lập lại bài kệ ấy trở thành bài kệ của mình.

Phẩm XIII

-ooOoo-

Tập Hai Mươi Kệ

(LXVI) Ambapàlì (Therì. 147)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh dưới một gốc cây xoài trong vườn vua Vesàli và được gọi là Ambapàli. Nàng rất đẹp nên đến khi lớn lên nhiều vương tôn công tử cạnh tranh để chiếm đoạt nàng. Về sau để tránh những cạnh tranh ấy và cũng do nghiệp lực của nàng, nàng trở thành một kỹ nữ. Vì lòng tin đối với bậc Bổn Sư, nàng xây dựng một tinh xá trong ngôi vườn của nàng và cúng cho đức Phật và chúng Tăng. Khi nàng nghe con nàng, tức là Trưởng lão Vimalakondanna thuyết pháp, nàng triển khai thiền quán về lý vô thường, như thân nàng, chứng Tam minh và nàng nói lên những bài kệ sau đây:

  1. Ðen như sắc con ong,
    Tóc dài ta khéo uốn,
    Nay biến đổi vì già,
    Như vải gai, vỏ cây,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  2. Thơm như hộp ướp hương,
    Ðầu ta đầy những hoa,
    Nay biến đổi vì già,
    Hôi như lông con thỏ,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  3. Như rừng khéo vun trồng,
    Lược kim tu chói sáng,
    Nay biến đổi vì già,
    Tóc lơ thơ rơi rụng,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật
  4. Trang điểm với bện tóc,
    Sáng chói nữ trang vàng,
    Tóc mềm mại êm dịu,
    Thơm ngát với mùi hương,
    Nay biến đổi vì già,
    Rơi rụng đầu sói trọc,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  5. Trước lông mày của ta,
    Chói sáng khéo tô vẽ,
    Nay biến đổi vì già,
    Nhăn nheo, rơi suy sụp,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  6. Mắt ta xanh và dài,
    Sáng đẹp như châu báu,
    Nay biến đổi vì già,
    Hư hại không chói sáng,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  7. Lỗ mũi mềm và thon,
    Sáng chói và trẻ măng,
    Nay biến đổi vì già,
    Héo khô và tàn tạ,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  8. Trước tai ta sáng chói,
    Như vàng vòng khéo làm,
    Nay biến đổi vì già,
    Nhăn nhiu chảy xệ xuống,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  9. Trước răng ta sáng chói,
    Như búp nụ chuối hoa,
    Nay biến đổi vì già,
    Bể gãy vàng như lúa,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  10. Ngọt là giọng nói ta,
    Như chim cu hót rừng,
    Nay biến đổi vì già,
    Tiếng bể bị đứt đoạn,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  11. Trước cổ ta chói sáng,
    Mềm đầy đặn nhu nhuyến,
    Nay biến đổi vì già,
    Nhiều ngấn và khô cằn,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  12. Trước cánh tay của ta,
    Sáng như hai cột tròn,
    Nay biến đổi vì già,
    Như hoa kèn yết ớt,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  13. Trước bàn tay của ta,
    Mềm mại như cành hoa,
    Sáng như nữ trang vàng,
    Nay biến đổi vì già,
    Như rễ cây khô cằn,
    Nhăn nhiu và thô nhám,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  14. Trước vú ta sáng chói,
    Căng thẳng và tròn đầy,
    Nay biến đổi vì già,
    Trống rỗng treo lủng lẳng,
    Như da không có nước,
    Trống không, không căng tròn,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  15. Trước thân ta chói sáng,
    Như giáp vàng đánh bóng,
    Nay biến đổi vì già,
    Ðầy vết nhăn nhỏ xíu,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  16. Trước bắp vế của ta,
    Sáng chói như vòi voi,
    Nay biến đổi vì già,
    Giống như những ống tre,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  17. Trước ống chân của ta,
    Mềm mại như vòng vàng,
    Nay biến đổi vì già,
    Chẳng khác gậy cây mè,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  18. Trước chân ta chói sáng,
    Với lông mềm như bông,
    Nay biến đổi vì già,
    Nứt nẻ đầy đường nhăn,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.
  19. Thân này là như vậy,
    Nay già chứa nhiều khổ,
    Ngôi nhà đã cũ kỹ,
    Vôi trét tường rơi xuống,
    Ðúng như lời giảng dạy,
    Của bậc nói sự thật.

Và vị trưởng lão Ni, thấy được những hình tướng vô thường trên thân của mình, nhận thức được tánh vô thường của ba giới: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới, tâm tư quán triệt tánh Vô thường, Khổ, Vô ngã, và phát triển tuệ quán trên con đường tu tập chứng được quả A-la-hán.

(LXVII) Rohinì (Therì. 150)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Vesali trong nhà một phú gia Bà-la-môn và được đặt tên là Rohinì (con bò đỏ, nâu). Ðến tuổi trưởng thành, khi đức Phật còn ở Vesali, nàng đến nghe pháp, chứng được quả Dự lưu. Rồi nàng giảng pháp cho cha mẹ, cha mẹ chấp nhận pháp và cho phép nàng xuất gia. Nàng khai triển thiền quán và không bao lâu chứng quả A-la-hán với hiểu biết về nghĩa và về pháp.

Suy tư đến một cuộc đàm thoại về pháp với phụ thân, khi nàng mới chứng quả Dự lưu, nàng nói lên sự phấn khởi của nàng với những bài kệ sau đây về nội dung cuộc đàm thoại:

  1. Nàng chỉ cho ta thấy,
    Ðây là một Sa-môn,
    Nàng thức ta tỉnh dậy,
    Ðây là một Sa-môn,
    Nàng khen tặng Sa-môn,
    Muốn thành nữ Sa-môn.
  2. Nàng tìm cho Sa-môn
    Rất nhiều đồ ăn uống,
    Này hỡi, Rô-hi-ni,
    Sao nàng quý Sa-môn?
  3. Họ nhác không thích làm,
    Sống với đồ người cho,
    Họ ham lợi thích ngọt,
    Sao nàng quý Sa-môn?
  4. Cha thân đã lâu rồi,
    Cha hỏi về Sa-môn,
    Con sẽ tán thán họ
    Tuệ giới hạnh tinh cần.
  5. Họ thích làm không nhác,
    Họ làm việc tối thắng,
    Họ trừ bỏ tham sân,
    Vì vậy con quý họ.
  6. Ba cội gốc điều ác,
    Họ quét sạch thanh tịnh,
    Mọi điều ác đoạn tận,
    Vì vậy con quý họ.
  7. Thân nghiệp họ trong sạch,
    Khẩu nghiệp họ cũng vậy,
    Ý nghiệp họ trong sạch,
    Do vậy con quý họ.
  8. Không cấu uế giải thoát,
    Như vỏ ốc trong sạch,
    Trong sạch cả bên trong,
    Trong sạch cả bên ngoài,
    Công đức họ trắng tinh,
    Do vậy con quý họ.
  9. Nghe nhiều thọ trì pháp,
    Mạng sống đúng Chánh pháp,
    Họ thuyết nghĩa thuyết pháp,
    Do vậy con quý họ.

280-281. Nghe nhiều thọ trì pháp,
Mạng sống đúng Chánh pháp,
Nhứt tâm giữ chánh niệm,
Lời sáng suốt khiêm nhường
Họ chấm dứt đau khổ,
Do vậy con quý họ.

  1. Từ làng họ ra đi,
    Không nhìn ngó vật gì,
    Họ đi không mong chờ,
    Do vậy con quý họ.
  2. Không tìm cầu kho tàng,
    Không kho chứa, kho cất,
    Họ tầm cầu cứu cánh,
    Do vậy con quý họ.
  3. Họ không nắm giữ tiền,
    Không nắm vàng, nắm bạc,
    Họ sống với hiện tại,
    Do vậy con quý họ.
  4. Từ gia đình quốc độ,
    Họ xuất gia khác nhau,
    Nhưng họ thương kính nhau,
    Do vậy con quý họ.
  5. Hỡi này Rô-hi-ni,
    Nàng sanh trong gia đình,
    Nàng đem lại hạnh phúc,
    Cho gia đình chúng tôi,
    Nàng tin Phật, Pháp, Tăng,
    Lòng tín kính sắc bén.
  6. Nàng biết rõ cái này,
    Là ruộng phước vô thượng,
    Chúng tôi cùng tín kính,
    Các vị Sa-môn này,
    Tế đàn thiết lập đây,
    Ðối với tôi rất lớn.
  7. Nếu cha sợ đau khổ,
    Nếu cha không thích khổ,
    Hãy quy y Phật-đà,
    Quy y Pháp và Tăng,
    Hãy chấp nhận giới đức,
    Cha sẽ được hạnh phúc.
  8. Tôi quy y Phật-đà,
    Quy y Pháp và Tăng,
    Tôi chấp nhận giới luật,
    Tôi sẽ được hạnh phúc.
  9. Lúc trước ta chỉ là,
    Bà con của Phạm thiên,
    Nay ta thật chính là,
    Một vị Bà-la-môn,
    Ta chứng đạt Ba minh,
    Ðược an toàn yên ổn,
    Ba Vệ-đà chứng ngộ,
    Ta tắm rửa thật sạch.

Và vị Bà-la-môn sau khi thọ quy y và các giới, xin xuất gia và chứng quả A-la-hán. Nghĩ đến sự chứng quả của mình, vị này nói lên những câu kệ cuối cùng để tỏ lộ sung sướng của mình.

(LXVIII) Càpà (Therì. 151)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở xứ Vankahàra, trong làng những người thợ săn đặt bẫy mồi, con người chủ thợ săn và được đặt tên là Càpà. Trong lúc ấy, Upaka một ẩn sĩ khổ hạnh, gặp đức Bổn Sư khi Ngài đi từ Bồ đề đạo tràng đến Ba-la-nại để chuyển pháp luân và hỏi ngài: ‘Này Ngài, hình như Ngài được dồi dào sức khỏe. Da của Ngài thật trong sáng. Này Ngài, Ngài từ ai xuất gia? Vị Ðạo Sư của Ngài là ai? Hay ngài tin tưởng giáo lý gì?’ Và bậc Ðạo Sư trả lời như sau:

Ta chinh phục tất cả,
Mọi sự việc, Ta biết,
Sống giữa vật không nhiễm,
Ta từ bỏ tất cả,
Mệnh chung, ác đoạn tận
Kiến thâm sâu, Ta chứng,
Ta chỉ ai cho ông,
Ta không có Bổn Sư,
Trên đời đứng một mình,
Không ai sánh bằng Ta.
Nay Ta đang đi đến,
Thành phố Ba-la-nại,
Ðể vận chuyển Pháp luân,
Quay bánh xe Chánh pháp
Thức tỉnh và hướng dẫn,
Quần chúng đang mê muội,
Ðánh tiếng trống bất tử,
Rưới cam lồ giải thoát.

Vị ẩn sĩ, biết được sự giác ngộ và sứ mệnh của Ngài nên nói: ‘Này Ngài, mong rằng sự việc sẽ như Ngài nói, Ngài xứng đáng là bậc chiến thắng bất diệt’. Rồi Upaka đi con đường tắt đến Vankahara, và sống gần chỗ các người thợ săn. Người chủ thợ săn lo cung phụng cho Upaka. Một hôm, người chủ đoàn thợ săn đi bắn xa với các con trai và anh em, bảo Càpà lo cúng dường cho Upaka. Nhưng Càpà rất đẹp và khi Upaka đến tại nhà để khất thực, Upaka mê say sắc đẹp của nàng, đến nỗi ăn không được, phải đem thức ăn về nhà và nguyện thà chịu chết nếu không lấy được Càpà. Sau bảy ngày, người chủ thợ săn trở về hỏi vị A-la-hán của mình ở đâu, và được biết Upaka chỉ đến nhà mình một lần đầu rồi thôi không đến nữa. Người thợ săn tìm kiếm đến Upaka và Upaka than khóc thú nhận sự đắm say của mình. Người thợ săn hỏi Upaka có biết nghề gì không, Upaka trả lời là không và chịu đi lượm các loài chim thú bị bắt được và đem bán. Người thợ săn bằng lòng cho Upaka một cái áo khoác ngoài đưa về nhà và gả Càpà cho. Sau một thời gian Càpà sanh được một người con trai và đặt tên là Subhadda. Khi đứa con khóc, Càpà liền hát lên như sau để chế nhạo chồng mình; ‘Con của Upaka! Con của vị ẩn sĩ! Con kẻ bán đồ săn! Chớ khóc, chớ khóc này con’. Cuối cùng Upaka tức quá trả lời: ‘Này Càpà, đừng nghĩ rằng không có ai che chở cho ta! Ta có một người bạn, một vị chiến thắng bất diệt, ta sẽ đến với người bạn ấy’. Càpà biết chồng mình tức giận, nhưng vẫn trêu chọc chồng mình, cho đến một hôm Upaka cương quyết ra đi. Nàng cố cản ngăn nhưng không được và cuối cùng Upaka ra đi để gặp Thế Tôn ở Sàvatthi. Thế Tôn dặn các Tỷ-kheo khi nào có ai đến hỏi: ‘Vị chiến thắng bất diệt ở đâu?’ thời đưa người ấy vào gặp đức Phật. Khi Upaka đến tịnh xá và hỏi: ‘Vị chiến thắng bất diệt ấy ở đâu?’ Các Tỷ-kheo đưa Upaka đến gặp đức Phật. Ðức Phật cho Upaka xuất gia và cuối cùng Upaka chứng được quả Bất lai. Sau khi mạng chung Upaka được sanh lên cõi Trời Aviha, và khi tái sanh, Upaka chứng được quả A-la-hán.

Còn Càpà, đau buồn vì chồng bỏ đi, giao con lại cho ông ngoại đi theo Upaka, xin được xuất gia và chứng được quả A-la-hán và lấy bài kệ của Upaka, hợp chung với bài kệ của mình, nàng nói lên sự phấn khởi của mình:

Upaka nói:

  1. Ta trước tay cầm gậy,
    Nay ta thành thợ săn,
    Sa lầy đầm khốn cùng,
    Ta không đến bờ kia.
  2. Càpà chọc đứa con,
    Mỉa mai ta say đắm,
    Chặt trói buộc Càpà,
    Ta nay đã xuất gia.

Càpà nói:

  1. Chớ có tức giận em,
    Hỡi bậc đại chiến thắng,
    Chớ có tức giận em,
    Hỡi bậc đại ẩn sĩ,
    Kẻ bị giận chi phối,
    Khổ hạnh khó thanh tịnh.
  2. Ta sẽ rời Nàlà!
    Ai ở lại Nàlà,
    Khi nếp sống đúng pháp,
    Tại đấy vị Sa-môn,
    Bị sắc đẹp nữ nhân,
    Trói buộc vào quyến rũ.
  3. Hãy trở lui thưa chàng,
    Chàng mắt đen của thiếp,
    Hãy hưởng thọ dục lạc,
    Như trước chàng đã hưởng,
    Thiếp xin phục tùng chàng,
    Lại còn bà con thiếp.
  4. Này Càpà phần tư,
    Ðiều nàng đã nói lên,
    Ðôi kẻ say mê nàng,
    Có thể thành lớn mạnh.
  5. Chàng mắt đen của thiếp,
    Thiếp chẳng đẹp hay sao,
    Như cây lựu nẩy mầm,
    Nở hoa trên đầu núi,
    Như giây leo giăng hoa,
    Hay như bông thổi kèn,
    Trong nội địa hoang đảo,
    Hãy nhìn sắc đẹp thiếp.
  6. Ướp thơm với mùi hương,
    Hương chiên đàn đỏ thắm,
    Thiếp mang lụa Kàsi,
    Lụa Kàsi tối thượng,
    Thiếp đẹp như thế này,
    Sao chàng bỏ rơi thiếp.
  7. Như thợ săn bắt chim,
    Muốn dùng mồi bắt chim,
    Dầu bủa giăng sắc đẹp,
    Nàng không trí ta được!
  8. Còn quả con trai này,
    Do chàng sanh ra thiếp,
    Chàng mắt đen của thiếp,
    Sao chàng lại từ bỏ,
    Ðứa con trai của thiếp,
    Ðứa con trai của chàng.
  9. Bậc trí bỏ con trai,
    Bỏ bà con, tài sản,
    Bậc đại hùng xuất gia,
    Như voi biết trói buộc.
  10. Con trai này của chàng,
    Nay thiếp dùng gậy dao,
    Ðánh ngã nó trên đất,
    Hãy tự cứu cho chàng,
    Vì sầu muộn đứa con,
    Chàng không thể bỏ đi.
  11. Nếu nàng quăng con trai
    Cho chó sói, loài chó,
    Kẻ sanh con trai ta,
    Không động lòng trắc ẩn,
    Nàng sẽ không làm được,
    Khiến ta trở lui lại.
  12. Nay mong chàng tốt lành,
    Chàng mắt đen của thiếp!
    Chàng sẽ đi đến đâu?
    Làng nào, thị trấn nào,
    Chàng đi thành phố nào?
    Chàng đi kinh đô nào?
  13. Xưa đời sống chúng tôi,
    Tổ chức thành đồ chúng!
    Không phải là Sa-môn,
    Chúng tôi tưởng Sa-môn!
    Chúng tôi sống bộ hành,
    Làng này qua làng khác,
    Sống trong những thành phố,
    Cũng như tại thủ đô.
  14. Nay thật Thế Tôn này,
    Dọc bờ sông Ni-liên,
    Ngài thuyết giảng Chánh pháp,
    Cho các loài hữu tình,
    Ðoạn tận mọi khổ đau,
    Ta nay đi đến Ngài,
    Ngài sẽ là Ðạo Sư,
    Ðạo Sư của chúng ta.
  15. Nay chàng đi đảnh lễ,
    Bậc Thế Tôn vô thượng!
    Ði hữu nhiễu quanh Ngài!
    Dâng Ngài lòng cung kính.
  16. Càpà, như nàng nói!
    Lợi ích cả hai ta!
    Nay ta thay mặt nàng,
    Lễ Thế Tôn vô thượng,
    Ði hữu nhiễu quanh Ngài,
    Ta dâng lòng cung kính.
  17. Rời Kàla ra đi,
    Dọc sông Ni-liên-thiền,
    Thấy bậc Chánh Ðẳng giác,
    Thuyết pháp đạo bất tử.
  18. Thuyết khổ, khổ tập khởi!
    Vượt qua sự dau khổ,
    Thuyết đường Thánh tám ngành,
    Ðưa đến khổ tịnh chỉ.
  19. Ðảnh lễ chân Ngài xong,
    Hữu nhiễu quanh Ngài xong,
    Trình lên lời ước nguyện,
    Của Càpà vợ chàng!
    Rồi chàng xin xuất gia,
    Sống đời không gia đình,
    Chứng đạt được Ba minh,
    Làm xong lời Phật dạy.

(LXIX) Sundàrì (Therì. 153)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Benares (Ba-la-nại), con cái của Sujata, một Bà-la-môn. Vì thân nàng đẹp đẽ, nàng được gọi là Sundarì, khi nàng lớn, em trai nàng chết. Cha nàng quá đau khổ đi lang thang và gặp Trưởng lão Ni Vasitthi. Khi Trưởng lão Ni hỏi cha nàng bị đau khổ gì, cha nàng trả lời bằng hai câu kệ đầu. Ðể làm nhẹ bớt đau khổ, Trưởng lão Ni nói hai câu kệ tiếp, và nói lên tâm trạng giải thoát khỏi đau khổ của nàng. Vị Bà-la-môn hỏi làm sao Trưởng lão Ni lại được giải thoát khỏi đau khổ như vậy. Vị Trưởng lão Ni trả lời về Ba ngôi báu và quy y. Khi được biết bậc Ðạo Sư nay ở Mithilà, vị Bà-la-môn đánh xe đến Mithilà, yết kiến đức Phật. Ðức Phật thuyết pháp, vị Bà-la-môn khởi lòng tin, xin xuất gia, vào ngày thứ ba chứng quả A-la-hán, sau khi tinh tấn, tinh cần phát triển thiền quán.

Người đánh xe, đánh xe về nhà Bà-la-môn và nói cho nữ Bà-la-môn sự việc đã xảy ra. Sundarì nghe vậy, nàng xin mẹ xuất gia. Bà mẹ nói nay toàn thể tài sản đều thuộc của nàng, hãy thọ hưởng tài sản ấy. Sundarì nói tài sản không có nghĩa gì đối với nàng, nàng chỉ muốn xuất gia. Sau khi được bà mẹ bằng lòng, nàng bỏ cả tài sản như những vật vô giá trị. Nhờ tinh cần tinh tấn, nhờ chủng tử tốt lành, nhờ trí tuệ chín muồi, không bao lâu nàng chứng quả A-la-hán, với hiểu biết về nghĩa và về pháp.

Sống trong sự an lạc giải thoát, nàng nghĩ: ‘Ta sẽ rống lên tiếng rống con sư tử trước mặt bậc Ðạo Sư!’. Sau khi xin phép bậc thầy của mình nàng rời khỏi Benares, với một số đông Tỷ-kheo-ni, và cuối cùng đến Sàvatthi, yết kiến đức Phật, đảnh lễ Ngài rồi đứng một bên. Nàng nói lên chánh trí của nàng, xem nàng như là con gái sanh ra từ miệng đức Bổn Sư. Và tất cả bà con nàng, bắt đầu từ mẹ nàng và các người hầu cận đều xuất gia. Suy nghĩ đến quả chứng của mình và dùng lời tuyên bố của người cha, nàng nói lên sự phấn khởi của nàng như sau:

Sujàta:

  1. Hỡi nữ Bà-la-môn,
    Những con nàng đã chết,
    Trong thời gian quá khứ,
    Thần chết ăn nghiến chúng,
    Cả ngày và cả đêm
    Khổ đau nung nấu nàng.
  2. Nay có đến bảy con
    Bị thần chết vồ lấy,
    Nhưng này Vàsitthi
    Chính vì lý do gì?
    Nàng không bị đau khổ,
    Não hại và nung nấu?

Vàsitthi:

  1. Nhiều trăm con trai ta
    Hàng trăm chúng bà con,
    Ðã bị thần chết ăn,
    Của ta và của ngươi!
  2. Ta biết đường giải thoát,
    Khỏi sanh và khỏi chết,
    Ta không sầu, không khóc,
    Ta không bị nung nấu.

Sujàta:

  1. Hỡi nàng Vàsitthi
    Vi diệu thay, lời người!
    Nàng biết pháp của ai,
    Nàng nói được như vậy?

Vàsitthi:

  1. Hỡi này, Bà-la-môn,
    Bậc Chánh Ðẳng Giác này,
    Ở thành Mithìla,
    Ngài thuyết cho hữu tình,
    Chánh pháp thật vi diệu,
    Ðoạn tận mọi khổ đau!
  2. Hỡi này Bà-la-môn,
    Ta nghe La-hán ấy,
    Thuyết pháp không sanh y,
    Ở đây nhờ hiểu rõ
    Ta biết pháp vi diệu
    Sầu vì con quét sạch.

Sujàta:

  1. Con sẽ đi ngay đến
    Thành phố Mithìla!
    Mong bậc Thế Tôn ấy,
    Giúp con thoát mọi khổ,
    Bà-la-môn thấy Phật,
    Bậc giải thoát mọi khổ.
  2. Bà-la-môn thấy Phật,
    Bậc giải thoát vô sanh
    Bậc Mâu-ni, vượt khổ
    Thuyết pháp cho vị ấy.
  3. Thuyết khổ, khổ tập khởi,
    Vượt qua sự đau khổ,
    Thuyết Thánh đạo tám ngành,
    Con đường lắng dịu khổ.
  4. Ở đây, hiểu Diệu pháp,
    Hoan hỷ chọn xuất gia,
    Sujàta ba đêm,
    Chứng đạt được Ba minh.
  5. Hãy đi, người đánh xe,
    Ðánh xe này về nhà,
    Chức nữ Bà-la-môn,
    Ðược sức khỏe, không bệnh,
    Và nói vị Phạm chí
    Nay đã xuất gia rồi,
    Sujàta ba đêm,
    Chứng đạt được Ba minh.
  6. Người đánh xe lấy xe,
    Cùng với ngàn đồng tiền,
    Chức nữ Bà-la-môn,
    Ðược sức khỏe, không bệnh
    Và nói vị Phạm chí,
    Nay đã xuất gia rồi,
    Sujàta ba đêm
    Chứng đạt được Ba minh.

Mẹ của Sundarì:

  1. Hỡi này người đánh xe,
    Xe ngựa, ngàn tiền này,
    Khi nghe vị Phạm chí
    Ðã đạt được Ba minh,
    Ta cho người đầy bát
    Cả xe và ngàn tiền.
  2. Hỡi nữ Bà-la-môn!
    Hãy giữ lại cho người,
    Xe ngựa và ngàn tiền,
    Tôi sẽ đi xuất gia,
    Sống thân cận gần gũi
    Bậc trí tuệ tối thắng.
  3. Voi, trâu bò và ngựa,
    Châu báu và vòng vàng,
    Những gì làm gia tài,
    Trở nên giàu có này,
    Cha con đã xuất gia,
    Ðã bỏ lại tất cả….
    Này con Sundarì,
    Con thừa tự gia đình,
    Hãy thọ hưởng tài sản,
    Của đại gia đình này,
  4. Voi, trâu bò và ngựa,
    Châu báu và vòng vàng,
    Những gì làm gia tài,
    Trở nên cám dỗ nàng;
    Sầu khổ vì đứa con,
    Cha con đã xuất gia,
    Ðã từ bỏ tất cả
    Gia sản sự nghiệp này,
    Con nay sẽ xuất gia,
    Sầu khổ vì anh con
  5. Hỡi này Sundarì
    Nếu đấy ước nguyện con,
    Mong rằng tâm tư ấy,
    Ðược thành tựu viên mãn;
    Nuôi sống bằng đồ ăn,
    Tích lũy nhờ khất thực,
    Y áo được tác thành,
    Với miếng vải lượm lặt,
    Những nếp sống như vậy,
    Ðược thành tựu viên mãn,
    Khiến lậu hoặc đoạn tận,
    Trong thế giới đời sau.

Sundarì:

  1. Kính thưa Trưởng lão Ni,
    Con đã học, tu tập,
    Thiên nhãn được thanh tịnh,
    Con biết các đời trước,
    Tại chỗ con được sống,
    Trước kia như thế nào.
  2. Nhờ Ni sư, con được
    Ôi, bạn lành của con!
    Bậc sáng chói tốt đẹp,
    Trong chúng Trưởng lão Ni!
    Ba minh đã chứng đạt,
    Lời Phật dạy, làm xong.
  3. Ni sư hãy cho phép
    Con đi đến Xá Vệ!
    Con sẽ rống vang lên,
    Tiếng rống con sư tử!
    Trước mặt bậc Giác ngộ,
    Phật-đà, bậc tối thượng.
  4. Hỡi này Sundarì,
    Nàng thấy bậc Ðạo Sư,
    Màu da, sắc màu vàng,
    Như vàng ròng sáng chói!
    Bậc Chánh Ðẳng, Chánh giác,
    Không điều gì sợ hãi,
    Bậc đã điều phục được,
    Kẻ chưa được điều phục.
  5. Ðang đi đến trước Ngài,
    Ngài thấy Sundarì!
    Ly tham không hệ lụy,
    Giải thoát, không sanh y,
    Ðã làm việc phải làm,
    Không còn các lậu hoặc.

335.Từ thành Ba-la-nại!
Con đã bước ra đi!
Con đến bậc Ðại hùng.
Con là Sundarì,
Con chính đệ tử Ngài!
Con đảnh lễ chân Ngài.

  1. Ngài là bậc Giác ngộ!
    Ngài là bậc Ðạo Sư!
    Con là con gái Ngài
    Ôi bậc Bà-la-môn!
    Con sanh từ miệng Ngài!
    Ðã làm việc phải làm,
    Không còn có lậu hoặc,
    Con là Sundarì
  2. Hiền nữ, Ta mừng con
    Ðường còn lại, không xa!
    Như vậy, bậc Tự điều,
    Ðảnh lễ chân Ðạo Sư!
    Bậc ly tham, ly hệ,
    Không hệ lụy trói buộc,
    Ðã làm việc phải làm,
    Không còn các lậu hoặc.

(LXX) Subhà, Con Người Thợ Vàng (Therì. 156)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con gái một người thợ vàng. Vì nàng rất đẹp, nên được gọi là Subhà. Khi nàng đến tuổi trưởng thành, khi đức Phật còn ở tại Ràjagaha, nàng đến yết kiến Ngài, khởi lòng tin tưởng, đảnh lễ ngài rồi ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư biết được căn cơ tâm tư thuần thục của nàng, tùy theo ý nguyện của nàng, Ngài thuyết pháp cho nàng về ly Bốn sự thật và nàng chứng được quả Dự lưu. Về sau, nàng nhận thấy sự khó khăn sống trong gia đình, xin xuất gia dưới sự hướng dẫn của bà Mahàpajàpati Gotamì, hướng tâm đến con đường siêu thoát. Thỉnh thoảng, các bà con của nàng mời nàng trở lại với đời, nói lên sự hấp dẫn của đời. Một hôm nàng thuyết pháp cho bà con của nàng, nói lên những nguy hiểm của đời sống cư sĩ, và ở đời thuyết pháp cho họ với hai mươi bốn bài kệ như sau và chữa cho họ thoát khỏi bệnh tham vọng. Rồi nàng phát triển thiền quán, gột sạch các căn cuối cùng nàng chứng được quả A-la-hán. Khi đã chứng quả A-la-hán, nàng nói như sau:

  1. Ta trước mặc áo trắng,
    Ðược nghe giảng Chánh pháp,
    Do ta không phóng dật,
    Chứng tri được chân lý.
  2. Nhờ vậy đối mọi dục,
    Không còn tham muốn lớn,
    Thấy sợ hãi thân kiến,
    Ta mong muốn viễn ly.
  3. Ta bỏ chúng bà con,
    Bỏ lao công, nô tỳ,
    Làng ruộng đất phì nhiêu,
    Khiến người thích hân hoan,
    Từ bỏ, ta xuất gia,
    Gia sản đâu có ít.
  4. Nhờ diệu pháp khéo thuyết,
    Ra đi, với lòng tin,
    Ta không thể hy cầu
    Vật gì thuận gia sản
    Vàng bạc ta đã bỏ,
    Sao lại đi đến chúng?
  5. Vàng bạc không giác ngộ,
    Không làm người an tịnh,
    Không hợp hạnh Sa-môn,
    Không phải tài sản thánh.
  6. Chính vàng hay bạc này
    Làm tham ái, đắm say,
    Làm con người ngu si,
    Làm tăng trưởng bụi trần,
    Nguy hiểm nhiều ưu não,
    Ðây, không gì trường cửu.
  7. Ðây, loài Người tham đắm,
    Phóng dật, tâm uế nhiễm,
    Chống đối thù địch nhau
    Rộng đường đấu tranh nhau.
  8. Giết hại, trói, tra tấn,
    Hao tài sầu, ưu tư
    Những ai chìm trong dục,
    Gặp phải nhiều tai họa.
  9. Vì sao bà con ta
    Giống như kẻ thù ta,
    Lại trói buộc ta vào,
    Trong vòng các dục lạc,
    Hãy biết ta xuất gia,
    Vì thấy dục đáng sợ.
  10. Bạc, vàng không có thể
    Ðoạn được các lậu hoặc,
    Các dục là thù địch,
    Sát nhân, chuyên giết hại,
    Chúng là kẻ oán thù,
    Là mũi tên, dây trói.
  11. Vì sao bà con ta
    Giống như kẻ thù ta,
    Lại trói buộc ta vào
    Trong vòng các dục lạc,
    Hãy biết ta xuất gia,
    Cạo tóc đắp đại y.
  12. Nuôi sống bằng đồ ăn,
    Tích lũy nhờ khất thực,
    Y áo được tác thành
    Với miếng vải lượm lặt
    Sống vậy, thích hợp ta,
    Cơ bản, sống không nhà.
  13. Dục đại sĩ từ bỏ
    Dục loài Trời, loài Người,
    Trú an ổn, giải thoát
    Không dao động an lạc.
  14. Chớ để ta đến dục,
    Trong dục, không an toàn,
    Dục, thù địch sát nhân
    Gây khổ, dụ đống lửa.
  15. Ðường hiểm, đầy sợ hãi,
    Ðầy khổ hoạn, gai góc,
    Tham ái đường gập ghềnh,
    Hoang si mê rộng lớn.
  16. Tai họa đầy hãi hùng,
    Các dục dụ đầu rắn,
    Kẻ ngu thích thú dục,
    Kẻ mù lòa phàm phu.
  17. Chúng sanh chìm bùn đục,
    Những kẻ không thấy đời,
    Họ không có rõ biết,
    Sự chấm dứt sanh tử.
  18. Loài Người vì nhân dục,
    Con đường đến ác thú,
    Phần nhiều đi đường ấy,
    Khiến tự ngã bệnh hoạn.
  19. Như vậy dục sanh thù,
    Nung nấu, làm uế nhiễm,
    Dục thuộc về thể vật,
    Trói người vào tử vong.
  20. Dục làm cho diên cuồng,
    Loạn ngôn tâm thác loạn,
    Làm uế nhiễm chúng sanh,
    Sắp rơi bẫy Ác ma.
  21. Dục nguy hiểm không cùng,
    Nhiều khổ, thuốc độc lớn,
    Ngọt ít, tạo đấu tranh,
    Héo tàn ngày tươi sáng.
  22. Ta quyết định như vậy,
    Không trở lui dục nhân,
    Tác thành điều bất hạnh,
    Luôn vui hưởng Niết-bàn.
  23. Quyết đấu tranh với dục,
    Chờ đợi, mát, lắng dịu,
    Sẽ sống không phóng dật,
    Ðoạn diệt kiết sử dục.
  24. Ta đi theo đường ấy
    Ðường đại sĩ đi qua,
    Không sầu, không cấu uế,
    An ổn, thẳng, Tám ngành.
  25. Hãy xem Subhà này,
    An trú trên Chánh pháp,
    Con gái một thợ vàng,
    Ðạt được không tham dục,
    Ngồi hành trì thiền định,
    Ở dưới một gốc cây.
  26. Hôm nay, ngày mồng tám
    Từ khi nàng xuất gia,
    Với lòng đầy tin tưởng,
    Sáng chói chân Diệu pháp,
    Up-pa-la-van-na,
    Huấn luyện giảng dạy nàng,
    Nàng chứng được Ba minh,
    Vượt qua được thần chết.
  27. Nàng tự mình giải thoát,
    Không còn có nợ nần.
    Là vị Tỷ-kheo-ni,
    Các căn được tu tập,
    Ly hệ mọi khổ ách,
    Việc cần làm làm xong,
    Ðối với các lậu hoặc,
    Nàng đoạn diệt hoàn toàn.
  28. Sakka đến với nàng,
    Cùng với chúng chư Thiên,
    Với thần thông diệu dụng,
    Chúng đảnh lễ Subhà,
    Nàng chỉ là con gái,
    Con một người thợ vàng,
    Nhưng nay là hội chủ,
    Của mọi loài chúng sanh.

Vào ngày thứ tám, khi nàng đã thọ giới, nàng chứng quả A-la-hán. Thế Tôn ngồi dưới một cành cây, nói lên bài kệ (362-364) để tán dương nàng và chỉ nàng cho các Tỷ-kheo biết. Câu kệ cuối cùng do các Tỷ-kheo thêm vào để tán dương Sakka đã đến đảnh lễ nàng.

Phẩm XIV

-ooOoo-

Tập Ba Mươi Kệ

(LXXI) Subhà ở Rừng Xoài của Jivaka (Therì. 150)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), trong gia đình một Bà-la-môn nổi tiếng. Nàng được đặt tên là Subhà và thân nàng rất tuyệt đẹp, nhất là về tay chân. Do vậy nàng được gọi là Subhà (người đẹp). Khi bậc Ðạo Sư ở Ràjagaha (Vương Xá), nàng khởi được lòng tin và trở thành một nữ cư sĩ. Về sau, nàng lo nghĩ đến kiếp người, thấy sự nguy hiểm các dục lạc, và thấy được sự an tịnh trong nếp sống viễn ly. Nàng xuất gia với sự hướng dẫn của bà Mahàpajàpati, và phát triển thiền quán, nàng chứng được quả Bất lai.

Một hôm, một thanh niên ăn chơi ở Ràjagaha, trong khi còn trẻ tuổi, đứng ở nơi vườn xoài ở Jivaka và thấy nàng đi vào rừng để nghỉ trưa. Nó chận đường nàng lại và xin thỏa mãn dục lạc. Nàng dạy cho nó biết, với nhiều bài kệ, sự nguy hiểm của dục lạc và sự lựa chọn của nàng về đời sống viễn ly, thuyết pháp cho chàng thanh niên ấy. Nhưng chàng thanh niên không có nghe nàng và vẫn đòi thỏa mãn các dục lạc. Vị Trưởng lão Ni, không có dùng những lời khuyên nhủ của mình, thấy chàng ấy mê say con mắt của nàng, liền móc một con mắt của nàng và đưa con mắt ấy cho chàng và nói: ‘Ðây là con mắt có tội của nàng’. Chàng thanh niên hoảng sợ, khủng khiếp và xin lỗi nàng. Nàng đi đến trước mặt vị Ðạo Sư, và khi thấy Ngài, con mắt của nàng được chữa lành như cũ. Do vậy, trước mặt Thế Tôn, nàng cảm xúc rung động, hoan hỷ sung sướng. Bậc Ðạo Sư biết được tâm trạng của nàng, dạy nàng và giúp nàng đạt được quả vị cao nhất. Dằn lòng sự vui sướng của nàng, nàng phát triển thiền quán, chứng được quả A-la-hán, với hiểu biết ý nghĩa và hiểu về pháp. Sau đó, an trú trong an lạc Niết bàn, nàng nghĩ đến những gì nàng chứng được và nói lên câu chuyện của nàng với chàng thanh niên ăn chơi bằng những câu kệ như sau:

  1. Trong rừng xoài tươi đẹp,
    Của ông Jivaka,
    Tỷ-kheo-ni Subhà,
    Ðang bộ hành đi tới,
    Có chàng trẻ ăn chơi
    Ngăn chặn Subhà lại
    Nàng nói lên người ấy
    Những lời nói như sau.
  2. Ta đã xúc phạm gì,
    Ðể chàng đứng chận tôi?
    Thật là không xứng đáng
    Ðể một người đàn ông
    Xúc phạm nữ xuất gia,
    Hỡi Hiền giả, hiểu cho.
  3. Bậc Tôn sư ta dạy,
    Chính học pháp như vậy,
    Ðược bậc Thiện Thệ thuyết,
    Là con đường thanh tịnh,
    Không có cấu uế nào.
    Sao chàng đứng chận ta.
  4. Tâm ta thật thanh tịnh,
    Tâm người không thanh tịnh,
    Tâm người đầy tham ái,
    Ta không tham, không uế,
    Mọi nơi, ý giải thoát
    Sao chàng đứng chận ta?
  5. Nàng trẻ, không ác pháp,
    Nàng xuất gia làm gì?
    Hãy bỏ áo Cà sa!
    Ðến, lạc hưởng rừng hoa.
  6. Toàn hoa tỏa hương ngạt,
    Cây rưới bụi muôn hoa,
    Xem tuổi xuân tuổi trẻ,
    Là thời tiết hạnh phúc,
    Hãy đến thọ hưởng lạc
    Trong rừng nở trăm hoa.
  7. Con đường dưới vòm hoa,
    Xào xạc gió lay động,
    Nàng được lạc thú gì,
    Khi một mình vào rừng.
  8. Trú xứ chúng thú dữ,
    Vang tiếng voi rống dục,
    Rừng lớn trống không người,
    Nhiều hiện tượng hãi hùng,
    Nàng lại muốn đi vào,
    Không một ai bạn đường?
  9. Như búp bê vàng chói,
    Giống tiên nữ vườn trời,
    Nàng đắp vải Kàsi,
    Ðẹp mịn, sáng chói nàng.
  10. Ta sống nô lệ nàng,
    Nếu nàng sống ở rừng,
    Không một sanh loại nào,
    Mà ta yêu hơn nàng,
    Hỡi nàng mắt dịu hiền,
    Như mắt Kin-na-rì.
  11. Nếu nàng theo lời ta,
    Nàng sẽ được hạnh phúc,
    Hạnh phúc sống gia đình,
    Sống lâu đài che gió,
    Sống có các nữ nhân,
    Hầu hạ phục vụ nàng.
  12. Mang lụa mịn Kàsi,
    Dùng vòng hoa, sáp đỏ,
    Ta làm nhiều trang sức,
    Vàng châu báu ngọc ngà.
  13. Nàng leo lên giường quý,
    Gỗ chiên đàn, lỏi thơm,
    Che màn đẹp tinh sạch,
    Trải nệm mới lông dài.
  14. Như sen vươn từ nước,
    Phục vụ cho phi nhân,
    Như vậy nàng Phạm hạnh,
    Sống toàn hảo đến già.
  15. Ở đây là cái gì,
    Chàng xem là tuyệt diệu,
    Trong nghĩa địa ứ đầy,
    Tràn đầy những thân xác,
    Chàng được thấy cái gì,
    Trong thân xác hủy hoại,
    Khi chàng thốt ra lời,
    Si mê, vô ý thức?
  16. Chính mắt như sơn dương,
    Như Kinri giữa rừng,
    Ta thấy con mắt nàng,
    Dục lạc liền tăng trưởng.
  17. Trong gương mặt không uế,
    Sáng chói như vàng ròng,
    Chẳng khác gì hoa sen,
    Ðặt chính giữa đài sen,
    Thấy con mắt của nàng,
    Lòng dục liền tăng trưởng.
  18. Tuy xa ta vẫn nhớ,
    Lông mi dài tuyệt đẹp,
    Không gì ta yêu hơn,
    Mắt Kinri của nàng.
  19. Chàng muốn dùng phi đạo,
    Tìm mặt trăng mà chơi,
    Muốn nhảy qua Mê-ru,
    Muốn tìm đến con Phật.
  20. Trên đời này, cõi trời,
    Ta nay không tham ái.
    Ta không biết người ấy,
    Người ấy như thế nào,
    Ðường đạo đã giết sạch,
    Giết hại tận gốc rễ.
  21. Quăng đi như hố than,
    Than hừng đang cháy đỏ,
    Ðánh giá như thuốc độc,
    Ðang xâm nhập đến thân,
    Ta không biết người ấy,
    Người ấy như thế nào,
    Ðường đạo đã giết sạch,
    Giết hại đến gốc rễ.
    387. Hãy cám dỗ nữ nhân,
    Không có biết quán sát,
    Hay Ðạo Sư người ấy,
    Ðang còn phải học tập,
    Chàng mê hoặc người ấy,
    Làm hại được người ấy.
  22. Còn ta đã chánh niệm,
    Ðối khen chê lạc khổ,
    Biết hữu vi bất tịnh,
    Bám chặt tư tưởng ấy.
  23. Ta là đệ tử Ni,
    Của bậc đại Thiện Thệ,
    Ta đã dấn thân bước
    Trên đường đạo tám ngành,
    Mũi tên đã nhổ lên
    Không còn các lậu hoặc,
    Ta đi đến nhà trống,
    Tâm tư ta hoan hỷ.
  24. Ta đã được thấy nó,
    Một búp bê khéo vẽ,
    Với trục quay gỗ mới,
    Khéo cột với dây que,
    Búp bê ấy nhảy múa,
    Nhiều điệu múa khác nhau.
  25. Dây que ấy được rút,
    Mở lòng rời phân tán,
    Thành trống không, miếng nhỏ,
    Chỗ nào ý say đắm.
  26. Thân ta ví dụ vậy,
    Không bộ phận không động.
    Không bộ phận, không động.
    Chỗ này ý say đắm.
  27. Như thấy một bức vẽ,
    Tô màu đỏ trên tường,
    Cái thấy chàng đảo lộn,
    Vì trí người thiếu sót.
  28. ảo thuật xem tối thượng,
    Như cây vàng trong mộng,
    Mù lòa ngươi chạy theo,
    Cái trống không, không thực,
    Như cái trò múa rối,
    Ðược xem giữa quần chúng.
  29. Mắt nàng như hòn bi,
    Ðặt lỗ trống của cây,
    Như những bong bóng nước,
    Ðầy dẫy những nước mát,
    Những con người đa dạng,
    Sanh ra những mủ ghèn.
  30. Thiếu nữ đẹp tuyệt ấy,
    Với tâm không chấp trước,
    Bóc một con mắt nàng.
    Trao liền cho người ấy,
    Và nói hãy cầm lấy,
    Con mắt này của người.
  31. Khi ấy tham liền diệt,
    Chàng khẩn cầu xin lỗi,
    Mong rằng Phạm hạnh ni,
    Ðược an ổn trở lại,
    Tôi sẽ không còn dám,
    Xâm phạm thế này nữa.
  32. Hai hạng người thế này,
    Chẳng khác ôm lửa hừng,
    Tôi như nắm rắn độc,
    Mong an ổn tha thứ.
  33. Thoát khỏi bị xúc phạm,
    Vị Tỷ-kheo-ni ấy,
    Từ đấy đi đến gần
    Bậc Giác ngộ thù thắng,
    Thấy được tướng công đức,
    Tốt đẹp và thù thắng,
    Mắt của nàng hồi phục,
    Ðược trở lại như xưa.

Phẩm XV

-ooOoo-

Tập Bốn Mươi Kệ

(LXXII) Isidàsi (Therì. 162)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Ujjeni, con gái một thương gia có giới đức, được kính trọng, và giàu có và đặt tên là Isidàsi. Khi nàng đến tuổi trưởng thành, cha nàng gả nàng cho con trai một người thương gia, xứng đôi vừa lứa. Trong một tháng, nàng sống với chồng như một người vợ trung thành. Nhưng vì nghiệp đời trước của nàng, chồng nàng trở thành lạnh nhạt đối với nàng và đuổi nàng ra khỏi nhà. Mọi sự việc này được ghi rõ trong nguyên bản Pàli. Vì nàng tự tỏ không xứng đáng đối với người chồng này và chồng khác, nàng trở thành dao động, và được cha cho phép, nàng xuất gia với sự hướng dẫn của Trưởng lão Ni Jinadattà. Sau khi tu học thiền quán, không bao lâu nàng chứng quả A-la-hán với sự hiểu biết về pháp và về nghĩa.

Sống trong sự an lạc Niết-bàn, một hôm sau khi đi khất thực và ăn xong, trong thành Patna, nàng ngồi bên bờ cát sông Hằng và đáp lời hỏi của Trưởng lão Ni Bodhi, nàng nói lên kinh nghiệm tu tập của nàng ngang qua những bài kệ này. Và để cho có sự liên hệ giữa các câu trả lời trước và sau có bài kệ được các nhà kiết tập về sau thêm vào:

  1. Trong thành được đặt tên,
    Tên chỉ một đóa hoa,
    ‘Pàtaliputta’,
    ‘Con của đóa bông kèn’,
    Sống hai Tỷ-kheo-ni,
    Có giới hạnh tốt đẹp,
    Thuộc gia đình Thích-ca,
    Gia đình cao quyền quý.
  2. Một I-xi-đa-xi,
    Thứ hai tên Bô-dhi,
    Cả hai có giới hạnh,
    Ưa thích tu thiền định,
    Ðược nghe kinh điển nhiều,
    Kiết sử được trừ bỏ.
  3. Họ đi khất thực xong,
    Ăn xong, bát rửa sạch,
    Ngồi hưởng lạc viễn ly,
    Nói lên những lời này.
  4. Hỡi I-xi-đa-xi,
    Căn nàng thật thoải mái,
    Tuổi thọ chưa tổn giảm;
    Nàng thấy khuyết điểm gì,
    Khiến tâm chú trọng nhiều,
    Ðến hạnh nguyện xuất ly.
  5. Như vậy sống viễn ly,
    Thiện xảo về thuyết pháp,
    I-xi-da-xi thuyết,
    Lời nói như thế này,
    Hãy nghe, này Bô-đi,
    Ta xuất gia thế nào.
  6. Tại thành phố thù thắng
    Ðặt tên Uj-jê-ni,
    Cha ta là triệu phú
    Có đức độ giới hạnh,
    Ta là con gái một,
    Ðược cha thương, yêu quý.
  7. Từ thành Xê-kê-ta,
    Một người dạm hỏi đến,
    Một gia đình quyền quý,
    Hỏi ta cho con trai
    Triệu phú bèn gả ta,
    Làm dâu người giàu ấy.
  8. Sáng và chiều, ta đến
    Ðảnh lễ cha, mẹ chồng,
    Cúi đầu đảnh lễ chân,
    Như ta được dạy bảo.
  9. Với chị, với em anh,
    Với bà con chồng ta,
    Thấy một người bước vào,
    Ta e sợ mời ngồi.
  10. Về đồ ăn, uống, nhai,
    Ðược cất giữ có chỗ,
    Ta thiết đãi cho ăn,
    Thích hợp từng người một.
  11. Ta thức dậy đúng thời,
    Ði vòng quanh khắp nhà,
    Rồi chà rửa chân tay,
    Ta đến lễ chồng ta.
  12. Cầm theo lược trang liệu
    Thuốc xoa mắt gương nhỏ,
    Ta trang điểm chồng ta,
    Như thị tỳ hầu hạ.
  13. Ta tự nấu dọn cơm,
    Ta tự rửa chén bát,
    Như mẹ đối với con,
    Ta hầu chồng như vậy.
  14. Như vậy phục vụ chồng,
    Với phục vụ tối thượng
    Dậy sớm không biếng nhác,
    Với tâm tư khiêm tốn,
    Với giới hạnh tốt đẹp,
    Nhưng chồng ác cảm ta.
  15. Chồng ta nói mẹ cha,
    Xin phép con sẽ đi,
    Với I-xi-đa-xi,
    Con không thể sống chung,
    Cùng dưới một mái nhà,
    Con không thể cùng ở.
  16. Chớ nói vậy, này con!
    Vợ con người có trí,
    Thông minh, biết dậy sớm,
    Sao con không hoan hỷ.
  17. Nàng không hại gì con,
    Nhưng con không bao giờ
    Có thể sống chung được
    Với I-xi-đa-xi
    Con ghét cay chán ngấy
    Xin phép, con sẽ đi.
  18. Ðược nghe lời chồng nói,
    Cha mẹ chồng hỏi con.
    Làm gì xúc phạm chồng?
    Hãy thẳng thắn nói thật.
  19. Con không xúc phạm gì!
    Không hại, không mưu tính.
    Với lời nói khó chịu,
    Có thể làm gì được?
    Tuy vậy chồng của con,
    Lợi ác cảm chống con.
  20. Họ đưa ta về nhà,
    Nhà thân phụ của ta,
    Với tâm tư khổ não,
    Sửng sốt và bối rối
    Không muốn mất con trai,
    Họ muốn bảo vệ nó.
    Ôi, chúng ta bại trận,
    Bởi nữ thần may rủi.
  21. Cha ta lại gả ta,
    Cho gia đình thứ hai,
    Một gia đình giàu có,
    Bằng lòng nửa số tiền
    Là tiền gả bán ta.
  22. Ta chỉ sống một tháng,
    Trong gia đình vị ấy,
    Vị ấy trả lui ta,
    Dầu ta tận tụy làm,
    Chẳng khác người nô lệ,
    Không lỗi lầm có đức.
  23. Cha ta nói khất sĩ,
    Sống điều phục chế ngự,
    Ngươi hãy làm rể ta,
    Bỏ áo rách ghè bình.
  24. Vị ấy sống nửa tháng,
    Rồi nói với cha ta,
    Hãy trả lui áo rách,
    Ghè bình và bình bát,
    Con nay muốn sống lại,
    Nghề khất sĩ của con.
  25. Cha, mẹ, toàn bà con,
    Liền nói với vị ấy:
    Ở đây có cái gì,
    Làm con không bằng lòng?
    Hãy nói gấp cái gì,
    Làm con không vừa ý.
  26. Ðược nói vậy, vị ấy,
    Liền trả lời như sau:
    Nếu đối với tự ngã,
    Con có thể bằng lòng,
    Nhưng con không chung sống,
    Với I-xi-đa-xi!
  27. Từ giã vị ấy đi,
    Một mình, ta suy nghĩ:
    Ta đến để xin phép,
    Hoặc chết hay xuất gia.
  28. Rồi Ji-na-đat-ta.
    Vị ni sư ấy đến,
    Trong khi đi khất thực,
    Ðến gia đình cha ta,
    Vị thọ trì giới luật,
    Nghe nhiều, có giới hạnh.
  29. Thấy Ni sư, chúng tôi,
    Ðều đứng lên kính cẩn,
    Và ta liền sửa soạn,
    Chỗ ngồi cho Ni sư,
    Ngồi xuống, ta đảnh lễ,
    Dưới chân bậc Ni sư,
    Lễ xong, ta cúng dường,
    Các đồ ăn đồ uống.
  30. Các món ăn, uống, nhai,
    Tại đấy, được dự trữ,
    Làm Ni sư thỏa mãn,
    Ta thưa với Ni sư,
    Nay ta muốn xuất gia,
    Sống đời không gia đình,
    Cha ta nói với ta:
    ‘Này con hãy ở đây’.
  31. Hành trì đúng Chánh pháp,
    Với đồ ăn đồ uống,
    Hãy làm cho thỏa mãn,
    Sa-môn, hai lần sanh.
  32. Vừa nói, ta khóc lóc,
    Chấp tay vái cha ta;
    Với điều ác con làm,
    Con sễ tiêu nghiệp ấy.
  33. Cha ta nói với ta:
    Hãy chứng ngộ Bồ-đề.
    Và Chánh pháp tối thượng!
    Hãy chứng đắc Niết-bàn,
    Ðã được Lưỡng Túc Tôn,
    Thành tựu và chứng đạt.
  34. Ta đảnh lễ mẹ cha,
    Cùng tất cả bà con,
    Sau bảy ngày xuất gia,
    Ta chứng được Ba minh.
    434. Ta biết bảy đời trước,
    Quả gì nay thành thục,
    Ta sẽ nói cho bạn,
    Hãy nhất trí lắng nghe.
  35. Tại thành phố đặt tên,
    Ê-ra-ka-kac-chê,
    Ta sống là thợ vàng,
    Tài sản thật phong phú.
  36. Say đắm với tuổi trẻ,
    Ta xâm phạm vợ người,
    Do vậy, sau khi chết,
    Trong cảnh giới địa ngục,
    Ta bị đốt, nung nấu
    Trong một thời gian dài,
    Thoát khỏi sự nung đốt
    Ta sanh trong bụng khỉ.
  37. Bảy ngày từ khi sanh,
    Ta bị khỉ chúa thiến,
    Ðây là quả của nghiệp,
    Do đi đến vợ người.
  38. Từ đây ta chết đi,
    Mệnh chung rừng Xin-đa,
    Sanh trong bụng con dê,
    Một mắt và què quặt.
  39. Mười hai năm bị thiến,
    Mang nặng những đứa con,
    Sán trùng ăn vô dụng,
    Do đi đến vợ người.
  40. Từ đấy ta chết đi,
    Sanh làm con bò cái,
    Của một lái buôn bò,
    Con nghé màu đỏ sẫm,
    Khi được mười hai tháng.
    Lại bị người ta thiến.
  41. Rồi ta lại kéo cày,
    Kéo xe cho chúng nó,
    Mù, lo lắng, vô dụng,
    Do đi lại vợ người.
  42. Từ đấy chết được sanh,
    Nhà nữ tỳ gần đường,
    Không là nữ không nam,
    Do đi lại vợ người.
  43. Ðến tuổi ba mươi năm,
    Bị chết, ta được sanh
    Sanh làm người con gái,
    Gia đình người đánh xe,
    Nghèo khổ ít tài sản,
    Rơi vào tay vay lãi,
    Do tiền nợ tăng trưởng,
    Chủ lữ đoàn bắt ta.
  44. Kéo ta, dầu ta khóc,
    Lôi ta ra khỏi nhà.
  45. Khi ta mười sáu tuổi,
    Lớn lên thành thiếu nữ,
    Con trai thương gia ấy,
    Bắt ta lấy làmvợ.
  46. Nhưng nó có vợ khác,
    Có giới đức danh xưng,
    Lại biết thương mến chồng,
    Chính ta tạo thù hằn.
  47. Do quả của nghiệp này,
    Họ khinh ghét chống ta,
    Dầu ta như nô tỳ,
    Hầu hạ phục vụ họ,
    Nhưng nay ta chấm dứt,
    Mọi sự việc như trên.

Phẩm XVI

-ooOoo-

Ðại Phẩm

(LXXIII) Sumedhà (Therì. 167)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở thành Mantàvatì con gái vua Konca và được đặt tên là Sumedhà. Khi nàng đến tuổi trưởng thành, cha mẹ nàng bằng lòng để Anikaratta, vua Vàranavati xem mắt nàng. Nhưng từ lúc nhỏ, nàng quen cùng đi với các công chúa lứa tuổi nàng, và những người hầu hạ tại tinh xá Tỷ-kheo-ni để nghe các vị này thuyết pháp, và trong một thời gian dài, vì chí nguyện lúc còn nhỏ, nên nàng sợ hãi sự sanh tử luân hồi, tâm tư thiên về đời sống xuất gia, không ưa thích các dục lạc.

Khi nghe quyết định của cha mẹ và bà con, nàng nói: ‘Bổn phận của tôi không phải trong đời sống gia đình, tôi sẽ xin xuất gia’, cha mẹ và các bà con không thể khuyên nàng từ bỏ quyết định của nàng. Nàng suy nghĩ: ‘Như vậy, ta sẽ được phép xuất gia’, và cương quyết theo chí nguyện của mình nàng cắt tóc, và dùng tóc ấy, theo phương pháp cảc Tỷ-kheo-ni thường dùng, nàng chú tâm vào tánh bất tịnh của sắc đẹp thân xác và chứng được Sơ thiền, Khi nàng ở trong định Sơ thiền cha mẹ và bà con nàng đến phòng nàng để nói chuyện gả chồng cho nàng. Nhưng nàng khiến mọi người kể cả người hầu cận của vua đến để rước nàng về, cũng tin vào đạo pháp rồi nàng từ bỏ gia đình, đi đến tịnh xá Tỷ-kheo-ni để xuất gia.

Sau khi tu tập thiền quán, và giải thoát được chín muồi, nàng chứng quả A-la-hán với hiểu biết về nghĩa và về pháp. Rồi nghĩ đến sự thắng trận của nàng, nàng nói lên sự phấn khởi, sung sướng của nàng:

  1. Con gái vua Konca,
    Với hoàng hậu chánh ngôi,
    Tại Matavatì,
    Ðược sanh Sumedha,
    Hân hoan gắng thực hành,
    Lời dạy bậc Ðạo Sư.
  2. Giới hạnh thuyết giảng khéo,
    Nghe nhiều khéo huấn luyện,
    Theo lời đức Phật dạy,
    Nàng đến cha mẹ nàng,
    Nói rằng: ‘Thưa mẹ cha,
    Cả hai, hãy nghe con!’.
  3. Con hân hoan Niết-bàn,
    Dầu sanh hữu Chư Thiên,
    Sanh hữu ấy vô thường,
    Giá trị gì các dục,
    Trống không, vị ngọt ít,
    Còn tàn hại thời nhiều.
  4. Các dục thật cay đắng,
    Ví như nọc rắn độc,
    Kẻ ngu mới tham đắm,
    Trong các loại dục ấy.
    Những ai thọ hưởng dục,
    Trong một thời gian dài,
    Bị khổ đau địa ngục,
    Hành hạ và tàn hại.
  5. Những kẻ làm nghiệp ác,
    Những kẻ tâm trí ác,
    Bị đau đớn sầu khổ,
    Trong cảnh giới đọa xứ.
    Kẻ ngu thường không nhiếp,
    Chế ngự thân, khẩu, ý.
  6. Kẻ ngu có liệt tuệ,
    Không tư duy quyết định,
    Không ngăn chặn khổ tập,
    Khi có thời thuyết pháp,
    Không biết lo học hỏi,
    Không giác tri Thánh đế.
  7. Những sự thật, thưa mẹ,
    Phật thù thắng thuyết giảng,
    Phần lớn chúng quần sanh,
    Không hiểu sự thật ấy;
    Họ hoan hỷ tái sanh,
    Ước muốn sanh thiên giới.
  8. Sanh thiên không thường trú,
    Sanh hữu là vô thường,
    Kẻ ngu không sợ hãi,
    Luôn luôn phải tái sanh.
  9. Bị sanh bốn đọa xứ,
    Ðược sanh Thiên, Nhân giới
    Ðược chúng khó khăn thay,
    Những ai rơi đọa xứ,
    Trong cảnh giới địa ngục,
    Không có sự xuất gia.
  10. Mong cả hai cha mẹ,
    Cho con được xuất gia,
    Trong giáo pháp thuyết giảng,
    Của bậc chứng Mười lực,
    Sống thong dong nhàn hạ,
    Nỗ lực đoạn sanh tử.
  11. Sao con ưa tái sanh,
    Với thân tội lỗi này,
    Thân trống rỗng, không lõi,
    Vì mục đích đoạn diệt,
    Tham ái được tái sanh,
    Xin cho con xuất gia.
  12. Nay thời, Phật ra đời,
    Phi thời đã từ bỏ,
    Thời cơ nay đã đến,
    Cho đến trọn đời con,
    Con không làm tổn thương,
    Giới luật và Phạm hạnh.
  13. Sumedha nói vậy,
    Nàng lại thưa mẹ cha.
    Con nguyện không ăn uống,
    Khi còn là cư sĩ,
    Ở đây con sẵn sàng,
    Chờ chết đến với con.
  14. Mẹ sầu khổ, khóc than!
    Cha hoàn toàn sửng sốt,
    Họ gắng thuyết phục ta,
    Nằm dưới đất lâu dài.
  15. Này con hãy đứng dậy!
    Có gì là sầu khổ,
    Khi con được cả nước,
    Varanavati,
    Anikarata,
    Ðẹp trai, xứng đôi con.
  16. Con sẽ là hoàng hậu,
    Vợ chính Anika!
    Này con, thật khó thay!
    Ðời sống vị xuất gia,
    Giữ gìn các giới luật,
    Sống đời sống Phạm hạnh.
  17. Uy lực của vị vua,
    Tiền của và quyền thế,
    Sản nghiệp và hạnh phúc,
    Với tuổi trẻ thanh xuân!
    Hãy thọ hưởng dục lạc,
    Hãy nhận lời lấy chồng.
  18. Sumedha thưa rằng:
    Thôi đừng, sự việc ấy,
    Họ đi đến tái sanh,
    Họ trống không, không lõi,
    Hoặc xuất gia, hoặc chết,
    Con chỉ cưới như vậy.
  19. Sá gì thân hôi nhớp,
    Phát mùi, gây sợ hãi,
    Bao da đựng xác chết,
    Rỉ chảy đồ bất tịnh.
  20. Sá gì thân ta biết,
    Ghê tởm, lấm máu thịt,
    Chỗ chứa đựng loài sâu,
    Mồi ăn cho chim chóc,
    Thân xác này là vậy,
    Nay đem đến cho ai?
  21. Thân thể bỏ nghĩa địa,
    Không lâu, mất thức tri,
    Như khúc gỗ quăng bỏ,
    Bà con đều ghê tởm.
  22. Thân ấy quăng nghĩa địa,
    Làm mồi ăn kẻ khác,
    Trước chúng tắm rửa sạch,
    Nay chúng sinh ghê tởm,
    Cha mẹ còn như vậy,
    Nói gì chung quần chúng.
  23. Họ mê thân không lõi,
    Ràng buộc bởi gân xương,
    Ðầy nước miếng, nước mắt,
    Ðầy phân tiểu hôi hám.
  24. Nếu thân được mổ xẻ,
    Lội nội phần ra ngoài,
    Chính mẹ phải ghê tởm,
    Không chịu nổi mùi hôi.
  25. Chính do uẩn, xứ, giới,
    Tác thành các thân này,
    Gốc tái sanh, đau khổ;
    Họ như lý nói lên,
    Hoàn toàn không vui thích.
    Vậy ai, tôi muốn cưới?
  26. Từng ngày trăm ngọn giáo,
    Luôn luôn mới đâm thân,
    Dầu bị hại trăm năm,
    Như vậy còn tốt hơn,
    Vì khổ ấy cuối cùng,
    Rồi cũng được tiêu diệt.
  27. Kẻ trí quyết bằng lòng
    Sự giết hại như trên,
    Bậc Ðạo Sư dạy rằng:
    Họ luân hồi dài dà,
    Với tâm tư giết hại,
    Liên tục nối tiếp nhau.
  28. Trong cảnh giới Trời, Người,
    Bàng sanh, a-tu-la,
    Ngạ quỷ và Ðịa ngục,
    Chịu giết hại vô lượng.
  29. Trong địa ngục, rất nhiều,
    Kẻ tâm uế, đọa lạc,
    Chỗ trú ẩn Thiên giới,
    Không có lạc Niết-bàn.
  30. Những ai đạt Niết-bàn,
    Họ liên hệ mật thiết,
    Với những lời thuyết dạy,
    Của bậc đủ Mười lực,
    Thong dong không rộn ràng,
    Nỗ lực đoạn sanh tử.
  31. Thưa cha ngày hôm nay
    Con quyết tâm ra đi,
    Những tài sản rỗng không,
    Không có giá trị gì,
    Con ghê tởm các dục,
    Con chán ngấy các dục,
    Họ đã được tách thành,
    Như thân cây Ta-la.
  32. Nàng trả lời phụ thân,
    Với lời nói như vậy.
    Anikaratta
    Ðược hứa gả công chúa,
    Ði đến gần xin cưới,
    Theo như giờ hẹn định.
  33. Mái tóc đen, dày mịn,
    Với gươm, nàng cắt ngang,
    Cửa lầu được đóng lại,
    Nàng chứng được Sơ thiền.
  34. Nàng sống trong cảnh thiền,
    A-ni-ka đến thành,
    Sumedha trong cung,
    Tu tập tưởng vô thường.
  35. Trong khi nàng tác ý,
    Vua bước lên tam cấp,
    Trang sức vàng châu báu,
    Chấp tay cầu xin nàng.
  36. Hãy trị vì quốc độ,
    Với tiền của uy quyền,
    Với tài sản, hạnh phúc,
    Với tuổi trẻ thanh xuân,
    Hãy thọ hưởng các dục,
    Thật khó kiếm ở đời.
  37. Ta giao nàng vương quốc,
    Hưởng tài sản, bố thí,
    Nàng chớ có buồn nản,
    Khiến mẹ cha khổ đau.
    Sumedha trả lời,
    Với vua, từng vấn đề;
    Ðối với nàng, các dục,
    Không cầu không si mê,
    Chớ hoan hỷ các dục,
    Hãy thấy dục nguy hiểm.
  38. Mandhatà là vua,
    Chúa bốn châu hưởng dục,
    Dục lạc ấy tối thượng,
    Tưy vậy khi vua chết,
    Cũng chưa được thỏa mãn,
    Ước vọng chưa đầy đủ.
  39. Dầu có mười bảy báu,
    Khắp mười phương đầy tràn,
    Không có dục thỏa mãn,
    Người chết, chưa thỏa mãn.
  40. Các dục ví gươm giáo,
    Các dục ví đầu rắn,
    Ví như bó đuốc cháy
    Giống xương gậm trơn tru.
  41. Các dục không thường còn,
    Cũng không có thường hằng,
    Khổ nhiều, thuốc độc lớn,
    Như hòn đạn cháy đỏ,
    Nguồn gốc của bất hạnh,
    Kết quả là đau khổ.
  42. Dục như trái của cây,
    Như miếng thịt, khổ lụy,
    Giống như mộng như huyễn,
    Dục như của vay mượn.
  43. Dục như gươm, như cọc,
    Bệnh tật và cục bướu,
    Bất hạnh và dao động,
    Ví như hố than hừng,
    Nguồn gốc của bất hạnh,
    Sợ hãi và tàn sát.
  44. Như vậy, dục nhiều khổ,
    Ðược gọi chứng ngại pháp,
    Hãy đi, từ bỏ tôi,
    Khi tôi còn tái sanh,
    Thời đối với tự ngã,
    Tôi không có lòng tin.
  45. Ai giúp gì tôi được,
    Khi đầu tôi đang cháy,
    Khi già chết bám sát,
    Tôi cần phải nỗ lực,
    Ðối với tàn hại ấy!
  46. Không đi đến gần cửa,
    Nàng thấy mẹ và cha,
    Và vua Anika,
    Ngồi dưới đất khóc than,
    Thấy vậy nàng tỏ lời,
    Thưa mọi người như sau:
  47. Kẻ ngu, đã lâu rồi,
    Khóc luân hồi nói tiếp,
    Từ vô thỉ đến nay,
    Khóc phải bị mệnh chung,
    Khóc anh em bị giết,
    Khóc tự mình bị giết.
  48. Hãy nhớ từ vô thỉ,
    Nước mắt, sữa và máu,
    Tuôn chảy theo luân hồi,
    Không bao giờ dừng nghỉ,
    Hãy nhớ các chúng sanh,
    Luân hồi xương chất đống.
  49. Hãy nhớ tràn bốn biển,
    Ðầy nước mắt, sữa, máu,
    Hãy nhớ xương một kiếp,
    Cao bằng Vi-pu-la.
  50. Hãy nhớ từ vô thỉ,
    Không đủ để làm thành,
    Cả đất nước Diêm Phù,
    Những nấm mồ hột táo,
    Của mẹ cha luân hồi.
  51. Hãy nhớ từ vô thỉ,
    Những cỏ cây cành lá,
    Không đủ để chứa đựng,
    Những ghè bốn ngón tay,
    Chứa người cha, luân hồi.
  52. Hãy nhớ tới hình ảnh,
    Con rùa mù biển đông,
    Cho đầu nó lọt vào,
    Lỗ hổng khúc cây trôi,
    Ðể nói lên ví dụ,
    Ðược làm người khó vậy.
  53. Hãy nhớ thân sắc người,
    Ðược ví bong bóng nước,
    Ðầy cả những bất hạnh,
    Trống không không có lõi,
    Hãy thấy uẩn vô thường!
    Nhớ địa ngục nhiều họa.
  54. Hãy nhớ nghĩa địa lớn,
    Nhờ tái sanh tiếp tục,
    Nhờ sợ hãi thuồng luồng,
    Hãy nhớ Bốn sự thật.
  55. Nước bất tử có đây,
    Sao người uống trăm đắng,
    Tất cả các dục lạc,
    Thật trăm cay ngàn đắng.
  56. Nước bất tử có đây!
    Sao người ưa dục não!
    Mọi dục lạc đốt cháy
    Sôi sùng sục nung nấu.
  57. Ðây không có kẻ thù!
    Sao thích dục thù địch?
    Vua lửa, trộm, nước, oán,
    Thù chung thật là nhiều.
  58. Ở đây có giải thoát!
    Sao để dục giết trói,
    Trong dục có giết trói!
    Mê dục nhiều khổ đau.
  59. Ðuốc cỏ đang cháy rực,
    Nắm, không thả, bị đốt,
    Dục ví như bó đuốc,
    Ðốt cháy ai không thoát.
  60. Chớ nhận dục lạc nhỏ,
    Bỏ lạc lớn rộng rãi,
    Chớ như cá nuốt câu,
    Sau phải chịu hoạn nạn.
  61. Hãy nhiếp dục trong dục,
    Như chó bị dây cột,
    Chớ để dục ăn ngươi,
    Như dân đói ăn chó.
  62. Khổ thật là vô lượng,
    Khiến tâm nhiều ưu tư,
    Ngươi hệ lụy với dục,
    Hãy bỏ dục vô thường.
  63. Ở đây, không có già!
    Sao theo dục bị già?
    Mọi sanh ở khắp nơi,
    Bị bệnh chết chi phối,
  64. Ðây không già, không chết.
    Ðây con đường không già,
    Không chết, không sầu não,
    Không thù địch trói buộc,
    Không vấp ngã sợ hãi,
    Không nung nấu đọa đầy.
  65. Ðích này, nhiều người đạt,
    Ðích này là bất tử,
    Nay cần phải chứng được,
    Ai như lý chú tâm,
    Nếu không có nỗ lực,
    Không sao chứng đạt được.
    Sumedhà nói vậy,
    Không thích đi đến hành
    Nàng thuyết phục được vua,
    Với tóc quăng trên đất.
  66. Ðứng dậy A-ni-ka
    Chắp tay xin cha nàng,
    Hãy cho Su-me-dha,
    Ðược xuất gia tu học,
    Ðể nàng thấy cho được,
    Giải thoát và chân lý.
  67. Mẹ cha cho xuất gia,
    Thoát sầu, sợ, khiếp đảm,
    Sáu thắng trí chứng đạt.
  68. Chứng luôn quả tối thượng.
    Dầu còn là học nữ.
  69. Thật vi diệu hy hữu!
    Một công chúa con vua,
    Lại đạt được Niết-bàn!
    Nàng nói lên như sau,
    Thời trước đời cuối cùng.
  70. Trong thời đức Thế Tôn,
    Konàgamana!
    Trong trú xứ mới làm,
    Tại cảnh Tăng già lam,
    Với bạn là ba người,
    Chúng tôi cúng tịnh xá.
  71. Mười lần, một trăm lần,
    Mười trăm, trăm trăm lần,
    Chúng tôi sanh chư Thiên,
    Còn nói gì, làm người.
  72. Giữa chư Thiên chúng tôi,
    Có được thân lực lớn,
    Còn nói gì chúng tôi,
    Khi được làm thân người,
    Ta hoàng hậu, bảy báu!
    Ta chính là nữ báu.
  73. Ðây là nhân, là nguồn
    Ðây chính là căn gốc,
    Kham nhẫn lời Ðạo Sư!
    Ðây dây chuyền thứ nhất
    Ðấy chính là Niết-bàn,
    Nếu chúng ta mến pháp.
  74. Như vậy với lòng tin,
    Họ thuyết rõ nên lời
    Lời nói đầy trí tuệ,
    Thù thắng và tối thượng
    Họ chán ghét tái sanh,
    Do chán ghét, tham diệt.

Kinh Tiểu Bộ – Khuddaka Nikàya

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tập 8 – Trưởng Lão Tăng Kệ

-ooOoo-

Mục Lục

Chương 1 – Phẩm Một Kệ Chương 12 – Phẩm Mười Hai Kệ
Chương 2 – Phẩm Hai Kệ  Chương 13 – Phẩm Mười Ba Kệ
Chương 3 – Phẩm Ba Kệ Chương 14 – Phẩm Mười Bốn Kệ
Chương 4 – Phẩm Bốn Kệ Chương 15 – Phẩm Mười Lăm Kệ
Chương 5 – Phẩm Năm Kệ Chương 16 – Phẩm Hai Mươi Kệ
Chương 6 – Phẩm Sáu Kệ Chương 17 – Phẩm Ba Mươi Kệ
Chương 7 – Phẩm Bảy Kệ Chương 18 – Phẩm Bốn Mươi Kệ
Chương 8 – Phẩm Tám Kệ Chương 19 – Phẩm Năm Mươi Kệ
Chương 9 – Phẩm Chín Kệ Chương 20 – Phẩm Sáu Mươi Kệ
Chương 10 – Phẩm Mười Kệ Chương 21 – Phẩm Bẩy Mươi Kệ
Chương 11 – Phẩm Mười Một Kệ  

***

Giới thiệu Trưởng Lão Tăng Kệ & Trưởng Lão Ni Kệ

Trưởng Lão Tăng Kệ là quyển thứ tám của Tiểu Bộ Kinh, một tập hợp 264 tích truyện trong dạng các câu kệ do các vị tỳ kheo đệ tử của Ðức Phật thuật lại về cuộc đời, công phu tu tập và tinh tấn  hành trì của quý Ngài trên đường đưa đến đạo quả A-la-hán. Trong khi đó, Trưởng Lão Ni Kệ là quyển thứ chín, gồm 73 tích truyện về cuộc đời các vị tỳ kheo ni đệ tử A-la-hán của Ðức Phật.

Qua hai quyển kinh nầy, chúng ta biết được các nỗ lực tu tập, đấu tranh nội tâm, thanh lọc tâm ý để đưa đến giác ngộ giải thoát. Cuộc đời tu hành của quý vị Tăng Ni như đã ghi lại trong hai quyển kinh là những tấm gương sáng ngời để chúng ta cùng suy gẫm và noi theo trên con đường hành đạo của mỗi người con Phật chúng ta.

Ngoài ra, các câu chuyện và vần kệ trong quyển Trưởng Lão Ni Kệ cũng là một chứng minh hùng hồn, cho thấy con đường của chư Phật mở rộng cho mọi người, không phân biệt nam hay nữ. Tấm gương dũng cảm quyết tâm tu tập để đắc đạo quả cao thượng của các vị tỳ kheo ni tiền phong trong Ni Ðoàn của Ðức Phật là một nguồn cảm hứng cho tất cả mọi người con Phật trong hơn hai ngàn năm trăm năm qua – nam cũng như nữ, già lẫn trẻ, người tại gia cũng như xuất gia. Ðạo quả A-la-hán, đạo quả giác ngộ toàn bích, mở rộng cho tất cả những ai tận lực tu học, giữ gìn giới hạnh, thanh lọc tâm ý, khai phát tuệ minh, như các vị đại đệ tử tỳ kheo và tỳ kheo ni đó.

Tỳ kheo Ariyasilo
(Bình Anson lược dịch, tháng 01-2001)

Chương I – Một Kệ

-ooOoo-

Phẩm Một

Ðảnh Lễ Ðức Thế Tôn Bậc A-La-Hán Chánh Ðẳng Giác

(I) Subhùti (Thera. 1)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong gia đình vị Cố vấn Sumana, em trai Ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc), được đặt tên là Subhùti. Trong ngày ông Cấp Cô Ðộc dâng cúng vườn Kỳ Viên cho đức Phật, ngài có chứng kiến. Sau khi nghe pháp, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Thọ Ðại giới xong, ngài thâm hiểu hai loại giới luật. Ðược Thế Tôn cho một đề tài để thiền quán, ngài đi vào rừng để hành thiền. Sau khi triển khai thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Rồi ngài bắt đầu thuyết pháp, không phân biệt giới hạn, được trở thành vị Tỷ-kheo đệ nhất về hạnh Từ vô lượng. Khi Ngài đi khất thực, ngài vẫn hành thiền, và khi xuất thiền, ngài mới nhận đồ ăn, và như vậy đem lại công đức lớn cho thí chủ và ngài trở thành vị xứng đáng được bố thí đệ nhất. Do vậy, Thế Tôn có nói: ‘Này các Tỷ-kheo, Subhùti được xem là vị Tỷ-kheo đệ nhất về hạnh từ bi vô lượng, xứng đáng được cúng dường’.

Bậc Ðại đệ tử này, trong khi đi khất thực đi đến Vương Xá, vua Bimbisàra (Bình-sa) nghe ngài đến, liền đến kính chào và xin dựng một chỗ ở cho ngài, nhưng rồi vua quên, ngài không nhận được chỗ ở, nên hành thiền ngoài trời. Vì thái độ nghiêm túc của ngài, trời không mưa và do vậy nạn hạn hán đe dọa dân chúng, quần chúng tụ họp than phiền ồn ào trước hoàng cung. Vua tìm hiểu nguyên nhân vì sao trời không mưa và nghĩ rằng có lẽ vì ngài Subhùti hành thiền ngoài trời. Vua cho làm các am thất bằng lá cho ngài, và khi ngài vào ngồi thiền trong am thất ấy, trời bắt đầu mưa từng hột một chớ không mưa ào ào. Ngài muốn quần chúng khỏi sợ hạn hán, tuyên bố rằng, không có sự sợ hãi gì đe dọa ngài, từ phía ngoài hay từ phía trong, với những bài kệ như sau:

  1. Am thất ta khéo lợp,
    An lạc, ngăn chận gió,
    Thần mưa, hãy mưa đi,
    Mưa như ý Ngươi muốn!
    Tâm ta khéo định tĩnh,
    Giải thoát, sống tinh cần,
    Thần mưa, hãy mưa đi!
    Thần mưa, hãy mưa đi!

(II) Mahàkotthita (Thera. 1)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn rất giàu có và được đặt tên là Kotthita (Câu-hy-la). Khi đến tuổi trưởng thành, ngài học ba tập Veda và thành tựu các đức tánh của vị Bà-la-môn, ngài nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, khởi lòng tin và xuất gia. Thực hiện thiền quán từ khi mới xuất gia, ngài chứng quả A-la-hán, với hiểu biết về nghĩa và về pháp, ngài thường hỏi bậc Ðạo Sư và các vị Ðại Trưởng lão về hai vấn đề ấy và trở thành rất lão luyện thuần thục. Rồi bậc Ðạo Sư, sau khi xác nhận các quả chứng ngài đã được trong kinh Vedalla, xác nhận ngài là bậc thiền quán đệ nhất.

Sau một thời gian, ý thức được sự an lạc giải thoát, ngài nói lên bài kệ này:

  1. Tịch tịnh và chỉ tức,
    Tụng đọc lời trí tuệ,
    Tâm tư không tháo động,
    Ác pháp được vứt bỏ,
    Giống như những lá cây,
    Bị gió thổi phiêu bạt.

(III) Kankha-revata (Thera. 2)

Trong thời đức Phật hiện tại ngài sanh vào trong một gia đình giàu có ở Sàvatthi. Khi ngài đứng vào vòng ngoài của những người đứng nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Ngài chứng quả A-la-hán nhờ hành thiền, ngài trở thành lão luyện trong thiền định và bậc Ðạo Sư tuyên bố ngài là hành thiền đệ nhất.

Sự nghiệp đã thành tựu, ngài nghĩ đến sự nghi ngờ lấn chiếm tâm tư, và nay nghi ngờ đã được đoạn tận, ngài tán thán sức mạnh và trí tuệ của bậc Ðạo Sư, nhờ vậy nay tâm tư ngài được định tĩnh và kiên trì. Ngài nói:

  1. Hãy thấy trí tuệ này
    Của những bậc Như Lai,
    Như lửa cháy nửa đêm,
    Cho ánh sáng, cho mắt,
    Họ nhiếp phục nghi ngờ
    Cho những ai đi đến.

(IV) Punna Mamtàniputta (Thera. 2)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh vào một gia tộc Bà-la-môn, trong làng Bà-la-môn Donavatthu, không xa Kapilavatthi (Ca-tỳ-la-vệ). Ngài là con trai của người chị của Trưởng lão Kondanna và được đặt tên là Punna. Sau khi làm tròn bổn phận của một người Sa-di, ngài tinh tấn nỗ lực cho đến khi chứng được quả cao nhất. Rồi ngài đi với người cậu ngài đến sống gần bậc Ðạo Sư, từ bỏ miền phụ cận Kapilavatthu, chuyên tâm tu hành, không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán.

Ngài Punna có đến năm trăm đồ chúng cùng ở trong gia tộc ngài, và tất cả đều xuất gia. Vì ngài giỏi về mười căn bản của thuyết giảng, ngài dạy cho các đệ tử của ngài lão luyện về mười căn bản này cho đến khi các vị này chứng quả A-la-hán. Các đệ tử ngài yêu cầu ngài đưa họ đến yết kiến bậc Ðạo Sư, nhưng ngài nghĩ không nên đi với số đồ chúng như vậy, liền bảo họ đi trước còn ngài đi sau. Các vị ấy là đồng hương với đức Phật, đã đi bộ sáu mươi do tuần đến Vương Xá, đến tại ngôi tịnh xá Trúc Lâm và đảnh lễ bậc Ðạo Sư. Ðức Phật hỏi ai đồng hương với Ngài có thể giảng được về đời sống giản dị, và các vị này giới thiệu ngài Punna. Khi bậc Ðạo Sư đi từ Vương Xá đến Sàvatthi, ngài Punna cũng đi đến Sàvatthi, tại đây ngài được dạy về Chánh pháp. Rồi ngài đi vào rừng Andha để suy tư về Chánh pháp. Tôn giả Sariputta cũng đi theo vào rừng và đàm đạo Chánh pháp với Punna. Bậc Ðạo Sư tuyên bố Punna là bậc thuyết pháp đệ nhất.

Một hôm, suy tư trên sự giải thoát chứng đạt, ngài suy tư như sau: ‘Ðối với ta và nhiều vị khác đã thoát khỏi đau khổ, thật là giúp đỡ lớn nếu thân cận với bạn lành’. Với sự hoan hỷ phấn khởi, ngài nói lên bài kệ này:

  1. Hãy thân cận người hiền,
    Bậc hiền minh thấy nghĩa,
    Nghĩa lớn và thâm sâu,
    Khó thấy, tế, tế nhị,
    Bậc trí chứng đạt được,
    Không phóng dật, chủ tâm.

(V) Dabba (Thera. 2)

Ngài sanh ra trong gia đình của dân tộc Mallà ở Anupiyà. Khi mới bảy tuổi, ngài được thấy bậc Ðạo Sư khi Thế Tôn viếng thăm xứ sở và nhà của ngài.

Ngài bị ảnh hưởng đến nỗi ngài xin phép bà nội cho được xuất gia với bậc Ðạo Sư, mẹ ngài đã mất khi sanh ngài. Bà nội ngài đưa ngài đến yết kiến đức Phật và đức Phật giao cho một Tỷ-kheo làm lễ xuất gia cho ngài. Ngài với nghiệp nhân quá khứ với ước vọng tương lai đang chín muồi, nên chứng được bốn quả liên tiếp chính trong khi ngài được cạo tóc.

Khi bậc Ðạo Sư từ giã xứ Mallà để đi về Vương Xá, Dabba thiền quán một mình, và muốn dùng thân để phục vụ giáo hội và nhận công việc phân phối chỗ ngủ, tổ chức các buổi ăn. Bậc Ðạo Sư chấp nhận công việc làm này, xác nhận sự thành công của ngài, khả năng thần thông của ngài, với ngón tay chói sáng của mình soi sáng cho các đồng Phạm hạnh về chỗ ngủ. Các sự việc này được nói đến trong Luật tạng.

Khi bị các Tỷ-kheo theo phe với Mettiya và Bhummajika vu khống, làm hại và ngài được giáo hội che chở và biện minh, Tôn giả Dabba ý thức được lòng từ của mình đối với các vị khác, liền nói lên bài kệ như sau:

  1. Ai thật khó nhiếp phục,
    Nay đã được nhiếp phục,
    Dabba tự biết đủ,
    Nghi ngờ được vượt qua,
    Thắng trận, không sợ hãi,
    Dabba trú tịch tịnh.

(VI) Sìla- Vaniya (Thera. 2)

Ðây là bài kệ của Trưởng lão Sambhùta, ngài được sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con trai một Bà-la-môn có danh tiếng, tên là Sambhùta. Với ba người bạn Bhùmija, Jeyyasena và Abhiràdana. Ngài nghe Thế Tôn thuyết pháp và ngài xuất gia. Khi đang tu tập thiền quán thân bất tịnh, ngài ở luôn luôn tại Sitavana (rừng mát) và được gọi là Sitavaniya (vị ở rừng mát).

Khi thấy các Tỷ-kheo đang đi đến yết kiến đức Phât, ngài nói: ‘Thưa các Hiền giả, các Hiền giả hãy đảnh lễ bậc Ðạo Sư thay mặt tôi và thưa với bậc Ðạo Sư như sau:

  1. Có Tỷ-kheo đi đến
    Rừng Sitavana,
    Sống một mình, độc cư,
    Biết đủ, tâm nhập định,
    Thắng trận, không kinh hoàng,
    Kiên trì hộ thân niệm’.

(VII) Bhalliya (Thera. 2)

Với người anh là Tapussa, trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở thành Pokkharavatì, con một người đánh xe cho đoàn lữ hành. Khi đoàn lữ hành đi ngang một khu rừng có bóng mát một đoạn đường bùn lầy ngăn đoàn lữ hành lại. Một vị thần cây, là người bà con hiện ra và nói: ‘Thế Tôn vừa mới thành đạo và đang ngồi thiền bảy ngày dưới gốc cây. Hãy cúng dường đồ ăn. Như vậy, các người được hạnh phúc và lợi ích’. Cả lữ đoàn hoan hỷ, không chờ nấu cơm, đem bánh gạo và mật đến cúng dường Thế Tôn.

Khi Thế Tôn chuyển pháp luân ở Benares, Thế Tôn đi đến Vương Xá. Ở đây, Tapussa và Bhalliya hầu hạ Ngài và nghe pháp, Tapussa trở thành một cư sĩ, còn Bhalliya thời xuất gia và thành tựu được sáu thắng trí.

Một ngày kia, Ác ma hiện ra dưới hình thức cực kỳ kinh hoàng, nhưng Bhalliya đã vượt qua mọi sợ hãi, nên nói lên bài kệ như sau, khiến Ác ma phải thất vọng:

  1. Ai đuổi đi thần chết,
    Với đạo binh của nó,
    Những dòng nước lớn mạnh,
    Trói cây lau yếu ớt,
    Thắng trận, không sợ hãi,
    Nhiếp phục, trú tịch tịnh.

(VIII) Vìra (Thera. 2)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ) trong gia đình vị bộ trưởng vua Pasenadi (Ba-tư-nặc), và được gọi là Vìra. Ngài rất giỏi về thể thao và võ nghệ, và trở thành một chiến sĩ. Sau khi lập gia đình với sự bằng lòng của mẹ cha, ngài có một đứa con trai. Thấy sự khổ lụy, tiếp tục tái sanh, ngài xuất gia và nhiệt tâm tinh cần, ngài chứng được sáu thắng trí. Khi đã thành vị A-la-hán và sống thọ hưởng an lạc giải thoát, vợ của ngài muốn cám dỗ ngài trở về với gia đình bằng nhiều hình thức. Nhưng Tôn giả nói rằng: ‘Người đàn bà này muốn cám dỗ ta, không khác gì người muốn xô ngã núi Sineru với cánh một con ruồi’. Và ngài thuyết lên bài kệ này để nói rằng sự cám dỗ của vợ cũ của ngài thật là vô ích:

  1. Ai thật khó nhiếp phục
    Nay đã được nhiếp phục,
    Vìra tự thỏa mãn,
    Nghi ngờ được vượt qua,
    Thắng trận, không kinh hoàng,
    Vìra trú tịch tịnh.

Người đàn bà nghe ngài nói rất lấy làm xúc động và nghĩ rằng: ‘Chồng ta đã thành đạt thù thắng như vậy. Vậy đời sống gia đình có gì là tốt đẹp cho ta’. Rồi đi đến tịnh xá các Tỷ-kheo-ni xin được xuất gia và chứng được ba minh.

  1. Pilinda-Vaccha (Thera. 2)

Ngài sanh ở Sàvatthi, là con một Bà-la-môn, trước khi Thế Tôn thành đạo và được đặt tên là Pilinda. Vaccha là tên của dòng họ. Ngài trở thành một ẩn sĩ và được một bùa phép tên là Tiểu Gandhàra (có thể đi trên hư không và tha tâm thông) và nhờ vậy được nổi danh. Khi đức Phật thành đạo, bùa phép này không còn hiệu lực. Khi ngài nghe được bùa phép Ðại Gandhàra làm bùa phép tiểu Gandhàra mất hiệu lực, ngài kết luận Sa-môn Gotama biết được bùa phép Ðại Gandhàra và ngài đến hầu hạ đức Phật để học cho được bùa phép ấy, đức Phật dạy: ‘Phải xuất gia’, ngài tưởng rằng xuất gia là điều kiện để chứng được bùa phép nên vâng lời theo. Ðức Phật dạy ngài Chánh pháp và phương pháp thiền quán, chẳng bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Nhờ sự hướng dẫn của Pilinda trong một đời trước, được sanh làm chư Thiên, vị này hầu hạ ngài sớm chiều để tỏ lòng biết ơn. Do vậy, ngài được xem là vị Tỷ-kheo được chư Thiên ái kính, và được đức Phật xác nhận cho địa vị ấy.

Một hôm, Tôn giả Pilinda ngồi giữa hội chúng Tỷ-kheo, suy tư đến sự thành tựu của mình, tuyên bố cho chúng biết bùa phép ấy đã đưa ngài đến gặp Thế Tôn và nói lên bài kệ này:

  1. Lời khuyên đến, tốt lành!
    Lời không tốt, không đến!
    Lời khuyên đến với ta,
    Không thuộc về tà ác!
    Giữa các pháp phân biệt,
    Ta đến pháp tối thượng.

(X) Punnamàsa (Thera. 3)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh làm con của Samiddhi, một Bà-la-môn ở Sàvatthi, ngài xuất gia được khi sanh được đứa con trai, thọ giới dưới sự hướng dẫn của đức Phật, và lấy bốn sự thật làm đề tài để thiền quán và ngài chứng được quả A-la-hán. Vợ cũ của ngài tìm cách cám dỗ ngài, trang điểm rất đẹp mắt đến thăm ngài, và đem theo đứa con trai. Nhưng ngài hoàn toàn giải thoát, không còn vướng bận gì và nói lên bài kệ này:

  1. Ta sống không mong chờ,
    Ðời này hay đời sau,
    Vị đã đạt trí tuệ,
    An tịnh, tự chế ngự,
    Không dính nhiễm các pháp,
    Biết sanh diệt của đời.

Vợ của ngài nghĩ rằng: ‘Vị Trưởng lão này không để ý gì đến ta và con ta nữa, ta không thể cám dỗ ngài’ nên nàng bỏ đi.

Phẩm Hai

(XI) Cùlagavaccha (Thera. 3)

Ngài sanh là vị Bà-la-môn ở Kosambi, nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài xuất gia. Lúc bấy giờ các Tỷ-kheo ở Kosambi tranh cãi nhau, Cùlagavachha không theo phe phái nào, trung thành với lời dạy của bậc Ðạo Sư, phát triển trí tuệ và chứng quả A-la-hán. Thấy sự tranh cãi các Tỷ-kheo là nguyên nhân của sự thối thất, ngài hoan hỷ với thái độ không phe phái của mình và nói lên bài kệ:

  1. Tỷ-kheo nhiều hân hoan,
    Trong pháp Phật tuyên bố,
    Ðạt được đạo tịch tịnh,
    Hành dừng lại an lạc.

(XII) Mahàgavaccha (Thera. 3)

Ngài sinh ra trong thời đức Phật tại thế, làm con của Sammiddhi, một Bà-la-môn ở làng Nàlaka, Magadha. Ngài xuất gia vì Sàriputta đã xuất gia, và ngài biết Sàriputta rất sáng suốt. Sau khi chứng quả A-la-hán, và thọ hưởng lạc giải thoát, ngài nói lên bài kệ để khích lệ các đồng Phạm hạnh tinh cần tu tập:

  1. Trí tuệ lực, giới hạnh,
    Ðịnh, thiền lạc, chánh niệm,
    Chỉ ăn những món ăn
    Ðem lại quả tốt đẹp,
    Ở đây, tham viễn ly,
    Chờ đợi giờ mạng chung.

(XIII) Vanvaccha (Thera. 3)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu. Ngài sanh ra trong rừng, khi mẹ ngài đi vào rừng viếng cảnh, và sanh tại đấy. Ngài trở thành một trong những đứa trẻ chơi cát với đức Phật trong tương lai. Vì ngài thích rừng núi, ngài được biết với tên là Vanavaccha. Về sau, khi ngài xuất gia, ngài sống trong rừng tinh tấn tu hành và chứng quả A-la-hán. Ðể tán thán hạnh ở rừng, ngài nói lên bài kệ này, đáp lời vị đồng Phạm hạnh đã hỏi ngài: ‘Ngài thích thú gì ở rừng núi?’ Ngài đáp: ‘Thích thú thay, các ngôi rừng các ngọn núi!

  1. Ðẹp sắc, mây xanh biếc,
    Nước mát lạnh, chảy trong,
    Kẻ chăn bò Inda,
    Che kín cả ngôi rừng,
    Những ngôi núi đá ấy,
    Làm hân hoan tâm ta’.

(XIV) Sìvaka (Thera. 3) (Một Sa-di phục vụ cho Vanavaccha).

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con người chị của Vanavaccha. Khi mẹ ngài được tin Vanavaccha xuất gia, thọ Ðại giới, đã sống trong rừng. Mẹ ngài nói với ngài: ‘Này Sìvaka, con hãy xuất gia dưới sự chỉ dẫn của Vanavaccha và phục vụ cho ngài, vì nay ngài đã già!’. Ngài nghe theo lời mẹ xuất gia sống ở trong rừng phục vụ săn sóc Vanavaccha. Một hôm, khi đi đến gần làng, ngài bị đau nặng; khi thuốc không chữa được, ngài không về và Trưởng lão Vanavaccha đi tìm và thấy ngài bị đau. Sau khi cho ngài uống thuốc và săn sóc ngài, khi bình minh mới bắt đầu, vị Trưởng lão nói với ngài: ‘Này Sìvaka, từ khi ta xuất gia, ta không sống ở trong làng. Vậy chúng ta hãy đi vào rừng’. Sìvaka trả lời: ‘Dầu thân con ở trong làng, nhưng tâm con bao giờ cũng hướng về rừng núi. Vậy nay con tuy nằm ở đây, con sẵn sàng đi vào rừng’. Vị Trưởng lão cầm tay ngài, dắt ngài đi vào rừng, khích lệ ngài. Ngài nhờ sự khích lệ này, tự mình sách tấn và chứng quả A-la-hán.

Rồi ngài nói lên bài kệ của mình hợp chung lời vị Trưởng lão và lời mình, nói lên sự ưa thích sống viễn ly và quả chứng của mình, sự vâng lời thầy của mình và chứng đắc chánh trí:

  1. Thầy ta nói với ta,
    ‘Hãy đi, Sìvaka!’
    Thân ta sống ở làng,
    Nhưng tâm hướng về rừng,
    Dầu còn nằm ta đi,
    Người biết, không trói buộc.

(XV) Kunda Dhàna (Thera. 3)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con một Bà-la-môn và được gọi là Dhàna. Thuộc lòng ba tập Vệ-đà, sau khi đã lớn tuổi, ngài nghe đức Phật thuyết pháp và xuất gia. Khi vua Pasenadi nước Kosala để ý đến ngài, cúng dường ngài các đồ dùng cần thiết nên ngài khỏi phải đi khất thực. Khi nàng Subhaddà mời bậc Ðạo Sư và chúng Tỷ-kheo dùng cơm, lúc ấy Kunda Dhàna mới chứng tỏ quả chứng và sức mạnh của mình như đã được ghi chép trong tập sớ Anguttara Nikàya. Ngài nói lên các bài kệ này cho các vị Tỷ-kheo:

  1. Năm pháp Thầy cắt đứt,
    Năm pháp Thầy từ bỏ,
    Và năm pháp thượng nhân,
    Thầy cố gắng tu tập,
    Tỷ-kheo vượt năm ái,
    Ðược gọi là ‘vượt bộc lưu’.

(XVI) Belatthasìsa (Thera. 3)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn. Trước khi đức Phật thành đạo, ngài đã xuất gia theo giáo đoàn của Kassapa ở Uruvelà và thờ lửa. Khi Kassapa được đức Phật giáo hóa, ngài là một trong ngàn người đệ tử của Kassapa chứng được quả A-la-hán, khi nghe đức Phật giảng kinh Adittápariyàyàsutta (Kinh Lửa Cháy).

Sau ngài trở thành vị giáo thọ của Tôn giả Ananda. Một hôm, nghĩ đến sự an lạc thuần tịnh của quả chứng, và sự tu hành ban sơ của mình, ngài nói lên bài kệ diễn tả sự hân hoan của ngài:

  1. Như vật hiền giống tốt
    Với sừng, kéo cái cày,
    Ði đứng không mệt nhọc,
    Cũng vậy, ta ngày đêm,
    Ði đứng không mệt nhọc,
    Ðược lạc không thế vật.

(XVII) Dàsaka (Thera. 4)

Do nghiệp của mình, ngài sanh vào thời dức Phật hiện tại, con của một người nô lệ của Anàthapindika, và được giao việc gác cửa vào tịnh xá Jetavana. Ðược nghe đức tánh và nguyện vọng của ngài, ông Anàthapindika giải thoát cho ngài khỏi vòng nô lệ và ngài nói ngài sẽ sung sướng nếu được xuất gia. Do vậy, ngài được xuất gia ngay. Nhưng khi được xuất gia, ngài trở thành biếng nhác, thụ động, tiêu cực, không chịu cố gắng để thoát khỏi sanh tử, và ngủ quá nhiều sau các bữa ăn. Khi đến thời thuyết pháp, ngài lựa một chỗ ngoài vòng Tăng chúng, tìm một góc và ngồi ngáy. Thế Tôn nghĩ đến việc làm trước của ngài, nên nói lên bài kệ này để khích lệ ngài:

  1. Ai hôn trầm, ăn nhiều,
    Nằm ngủ, lăn qua lại,
    Như heo lớn, ăn no,
    Kẻ ngu tiếp thai sanh.

Khi nghe vậy, Dasaka trở thành dao động hốt hoảng và phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Rồi ngài suy nghĩ: ‘Bài kệ của Thế Tôn đã khích lệ ta nhiều’ và ngài nói lại bài kệ này. Như vậy, dầu cho bài kệ chống đối ăn nhiều, bài kệ trở thành lời tuyên bố về chánh trí của ngài.

(XVIII) Singàlar-Pitar (Thera. 5)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong gia đình giàu có ở Sàvatthi, lập gia đình và đặt tên con là Singàlaka và tự mình được gọi là Singàla-pitar (cha của Singàla). Về sau ngài từ bỏ gia đình và xuất gia. Thế Tôn biết được căn cơ xu hướng của ngài, dạy ngài đề tài thiền quán là bộ xương người. Dùng đề tài này để thiền quán, ngài sống giữa các dòng họ Thích-ca ở Sumsumàragira, tại khu rừng Bhesaskalà. Trong rừng ấy, một thần rừng biết được ngài sẽ chứng được Thánh quả nên nói lên bài kệ này:

  1. Hãy nhìn trong khu rừng,
    Rừng Bhesakala!
    Một Tỷ-kheo đang sống,
    Thừa tự lời Phật dạy,
    Ngang thân địa đại này,
    Tỏa khắp tưởng bộ xương.
    Ta nghĩ Tỷ-kheo ấy,
    Mau đoạn tận dục tham.

Nghe bài kệ này, vị Trưởng lão nghĩ rằng: ‘Vị thần rừng này muốn ta cố gắng tu tập’, nên ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Về sau, ngài nhớ lại bài kệ của thần rừng này và nói lên lại bài kệ ấy như là lời tuyên bố về chánh trí của ngài.

(XIX) Kula (Thera. 4)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn, xuất gia và vì tâm tư chưa được thăng bằng, ngài không chú tâm được trên một đề tài nhất định. Một ngày kia đi khất thực, ngài thấy người dẫn nước bằng cách đào cách kinh dẫn nước. Trong thành phố, ngài thấy người làm cung tên uốn nắn cung tên bằng nheo một con mắt như thế nào, và khi trở về với bình bát đầy đồ ăn, ngài thấy những người làm xe sửa soạn trục xe, bánh xe và vành xe như thế nào. Bước vào tịnh xá, dùng cơm xong, khi đang nghỉ trưa, ngài nghĩ đến ba phương pháp nhiếp phục này, và lấy chúng làm khích lệ và dùng chúng để tự mình tu tập, không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Liên hệ những bài học này với sự tu tập tâm của mình, ngài nói lên lời chánh trí với bài kệ như sau:

  1. Người trị thủy dẫn nước,
    Kẻ làm nên nắn tên,
    Người thợ mộc uốn gỗ,
    Bậc tự điều, điều thân.

(XX) Ajita (Thera. 4)

Khi bậc Ðạo Sư còn sống, ngài được sanh ở Sàvatthi con của một Bà-la-môn làm nghề đánh giá hàng hóa cho vua Kosala. Ngài trở thành một ẩn sĩ tu theo Bàvari, một vị Bà-la-môn có học thức ở vườn Kapittha trên bờ sông Godhàvarì. Bàvarì bảo ngài cùng với Tissa và Metteya đi đến bậc Ðạo Sư. Ajita được đức Phật cảm hóa, và xuất gia. Lựa một đề tài để thiền quán, ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Ngài nói lên sự thắng trận của ngài với bài kệ này:

  1. Ta không có sợ chết,
    Không ưa thích sanh mạng,
    Ta sẽ bỏ thân này,
    Tỉnh giác và chánh niệm.

Phẩm Ba

(XXI) Nigrodha (Thera. 4)

Trong lời đức Phật tại thế, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn có danh tiếng ở Sàvatthi. Khi tinh xá Jetavana được dâng cúng đức Phật, trông thấy tướng tốt uy nghiêm của đức Phật, ngài được cảm hóa và xuất gia. Khi phát triển thiền quán, ngài có thể đạt được sáu thắng trí, suy tư đến sự an lạc quả chứng, sự lợi ích của giáo pháp giúp thoát khỏi tái sanh, ngài nói lên bài kệ này để tuyên bố chánh trí của ngài:

  1. Ðối với ta, sợ hãi
    Không làm ta sợ hãi,
    Thâm hiểu đạo bất tử,
    Bậc Ðạo Sư chúng ta
    Không tìm được chân đứng,
    Ở đâu, sự sợ hãi,
    Chỗ ấy vị Tỷ-kheo
    Dẫn bước trên đường ấy.

(XXII) Cittaka (Thera. 4)

Ngài sanh ở Ràjagaha, con một gia đình Bà-la-môn giàu có. Khi bậc Ðạo Sư ở vườn Trúc Lâm, Cittaka đến nghe đức Phật thuyết pháp, khởi lòng tin và xuất gia. Lựa giới luật làm đề tài tu tập, ngài vào một khu rừng và tu tập thiền định, với thiền quán khai triển, ngài chứng quả A-la-hán. Rồi ngài đi đến đảnh lễ đức Phật, được các vị đồng Phạm hạnh hỏi ngài có tinh tấn tu hành khi ở trong rừng không, ngài trả lời có và với bài kệ này, ngài nói lên chánh trí của ngài.

  1. Chim công, màu xanh biếc,
    Cổ đẹp, có màu tươi,
    Ðang gọi nhau trong rừng,
    Rừng Kà-ram-vi-yà,
    Với gió mát tiếng trong,
    Chúng gọi và thức dậy,
    Vị hành thiền đang ngủ.

(XXIII) Gosàla (Thera. 5)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Magadha giàu có, ngài có quen với Sonakutikanna. Khi được biết Sonakutikanna xuất gia, ngài bị dao động và suy nghĩ: ‘Vị ấy có tài sản lớn mà còn xuất gia, sao ta lại không làm theo?’. Rồi ngài xuất gia, dùng giới luật làm đề tài thiền quán và tìm một chỗ thích hợp, ngài lựa một cao nguyên không xa làng sanh quán. Mẹ ngài ngày nào cũng bố thí cúng dường. Một hôm cúng cho ngài cháo, cơm nấu với mật và đường, ngài nhận đồ cúng dường, ngồi ăn dưới bóng một ngọn đồi có tre mọc dày. Với tay và bát rửa sạch, được ăn một bữa ăn thích hợp, ngài phát tâm thiền quán và chú tâm vào vấn đề sanh diệt các pháp, đạt được thiền định cao nhất, chứng quả A-la-hán, với hiểu biết về nghĩa, về pháp. Ngài muốn đi lên ngọn đồi để hưởng an lạc thiền vị, ngài nói lên kinh nghiệm của ngài với bài kệ:

  1. Ta ăn tại khóm trúc,
    Với cháo cơm và mật,
    Ta chấp nhận toàn diện,
    Lời dạy bậc đáng kính,
    Tánh sanh diệt các uẩn,
    Ta sẽ lên ngọn núi,
    Tăng trưởng hạnh viễn ly.

(XXIV) Sugandha (Thera. 5)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình giàu có ở Sàvatthi. Vì lời phát nguyện trong quá khứ, khi ngài sanh ra, hương thơm tỏa khắp nhà, do vậy được đặt tên là Sugandha (hương thơm). Khi đến tuổi trưởng thành, ngài được khuyến khích xuất gia, khi nghe Trưởng lão Mahà Sela thuyết pháp; sau bảy ngày, ngài chứng quả A-la-hán. Nói lên chánh trí của mình, ngài thuyết bài kệ này:

  1. Xuất gia, mùa mưa qua,
    Thấy pháp tánh các pháp,
    Ba minh chứng đạt được,
    Làm xong lời Phật dạy.

(XXV) Nandiya (Thera. 5)

Ngài được sanh ở Kapilavatthu, trong nhà một vương tộc Thích-ca, và cha mẹ ngài nói: ‘Con ta sanh đem lại hoan hỷ trong nhà’ và đặt tên ngài là Nandiya. Lớn lên, ngài xuất gia, khi Anuruddha và các bạn đều xuất gia. Nhờ chú tâm học tập và lời phát nguyện quá khứ, ngài chứng quả A-la-hán. Rồi ngài sống với Trưởng lão Anuruddha và các bạn tại rừng Trúc phía Ðông. Tại đấy, Ác-ma muốn làm ngài sợ hãi, hiện ra trong hình thù rất dễ sợ, nhưng ngài đuổi Ác–ma đi với những lời như sau: ‘Này Ác-ma, Ngươi làm gì với những người đã vượt qua cảnh giới của ngươi. Do vậy, Ngươi chỉ gặp thất bại và bất hạnh’.

  1. Với ai, tâm thường hằng,
    Hướng mạnh về Chánh pháp,
    Pháp phát sanh hào quang,
    Pháp đạt đến Thánh quả,
    Vị Tỷ-kheo như vậy,
    Nếu Nhà ngươi muốn chống,
    Hỡi này kẻ Quỷ đen!
    Ngươi đi đến đau khổ.

(XXVI) Abhaya (Thera. 5)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh là con vua Bimbisàra (Bình-sa). Giáo chủ Nàtaputta dạy ngài một mưu chước để đánh bại Sa-môn Gotama trong cuộc tranh luận, nhưng trong câu trả lời của Sa-môn Gotama, ngài thấy sự thất bại của giáo chủ phái Ni-kiền Tử và sự sáng suốt của Sa-môn Gotama. Do vậy, sau khi vua từ trần, Abhaya xuất gia. Nhờ giảng kinh Ví dụ cái lỗ trong cây gỏ, ngài chứng quả Dự lưu. Rồi với sự cố gắng tinh cần, ngài chứng quả A-la-hán. Do vậy, phấn khởi trước thành quả đạt được, ngài nói lên chánh trí của ngài:

  1. Nghe được lời khéo giảng,
    Bậc bà con mặt trời,
    Ta đâm thủng tinh vi,
    Như tên chẻ ngọn tóc.

(XXVII) Lomasakangìya (Thera. 5)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu, trong một gia đình họ Thích-ca. Ngài rất yếu đuối và thân ngài có lông mịn nên được gọi là Lomasakangiya.

Khi Anuruddha và một số hoàng tử trẻ Sakya xuất gia, ngài không theo. Rồi Candana, một người bạn cũ thời trước, hỏi về ‘Nhứt dạ hiền giả – Bhaddekaratta’, ngài trả lời không được và đến hỏi đức Phật. Ðức Phật khuyên ngài xuất gia và về xin phép cha mẹ. Khi mẹ ngài sợ ngài yếu đuối, ngài trả lời với bài kệ như sau:

  1. Cỏ dabba, kusa,
    Các loài cỏ đâm ngực,
    Loài cỏ tên munja,
    Cỏ tên pabbaja.
    Từ nơi ngực của ta,
    Ta sẽ đẩy chúng lui,
    Ta sẽ làm tăng trưởng,
    Hạnh cô độc viễn ly.

Nghe xong, mẹ ngài bằng lòng để ngài xuất gia, và được phép bậc Ðạo Sư cho xuất gia. Sau thời gian học tập, ngài muốn đi vào rừng để thiền quán. Các Tỷ-kheo ngăn lại, nói ngài yếu đuối làm sao sống trong rừng núi được. Ngài lập lại bài kệ này và đi vào rừng tu thiền, chứng sáu thắng trí. Khi ngài chứng quả A-la-hán, ngài tuyên bố chánh trí của ngài với bài kệ nói trên.

(XXVIII) Con Trai Của Jambugàmika (Thera. 5)

Ngài sanh ở Campà, con một cư sĩ tên Jambugàmika, và được gọi với tên cha. Khi học tập hạnh Sa-di, ngài ở Sàketa, tại rừng Anjana, cha ngài sợ ngài không bền chí xuất gia, nên gửi ngài bài kệ để tìm hiểu ngài:

  1. Con có được thỏa mãn,
    Với y phục mang mặc?
    Con có được hoan hỷ,
    Với trang sức điểm tô?
    Và mùi hương thơm này,
    Do giới con tỏa ra,
    Chớ không do người khác
    Tạo mùi thơm như vậy!

Khi ngài đọc bài kệ này, ngài nghĩ rằng phụ thân ngài nghi ngờ ngài còn đang bị thế tục chi phối, và ngài cũng chưa thoát khỏi địa vị phàm phu. Do vậy, ngài cảm thấy xúc động, liền phát tâm tinh tấn tu hành và không bao lâu chứng được sáu thắng trí. Với bài kệ của người cha làm đề tài thiền quán, cuối cùng ngài chứng quả A-la-hán. Và vừa để nói lên chánh trí, vừa tán thán người cha, ngài nói lên bài kệ.

(XXIX) Hàrita (Thera. 5)

Sanh ra trong thời đức Phật hiện tại ở Sàvatthi, con một Bà-la-môn giàu có. Cha mẹ cưới cho ngài một người vợ trẻ đẹp hoàn toàn xứng đôi vừa lứa, và ngài sống sung sướng bên người vợ của ngài. Một hôm, ngài đang ngắm nhìn sắc đẹp của vợ mình, do nghiệp nhân đời trước, ngài được nhắc lại là sắc đẹp ấy cũng vô thường. Vài ngày sau, vợ ngài bị con rắn đen cắn và bị chết. Bị đau khổ bởi cái chết này, ngài đi yết kiến đức Phật, được nghe pháp và xuất gia. Nhưng khi ngài tu về giới, ngài không giữ được tâm cho chánh trực. Khi đi khất thực, ngài thấy một người làm tên, dùng dụng cụ làm cho cây tên được ngay thẳng, ngài suy nghĩ: ‘Những người này còn làm cho một cây tên ngay thẳng’. Ngài quay về, ngồi nghỉ trưa, phát triển thiền quán. Và ngài thấy đức Phật hiện ra trước mặt ngài, ngồi trên hư không, và dạy ngài với bài kệ này:

  1. Thầy hay làm tự ngã,
    Ðược thấm nhuần hướng thượng,
    Như người thợ cung tên
    Làm cây tên ngay thẳng,
    Hãy làm tâm ngay thẳng,
    Hỡi này Ha-ri-ta!
    Hãy chặt đứt vô minh.

Nghe Thế Tôn dạy, ngài phát triển thiền quán, và không bao lâu trở thành vị A-la-hán. Ngài liền nói lên bài kệ này như lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(XXX) Ittiya (Thera. 5)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi con trai một Bà-la-môn, và xuất gia để tìm đời sống bất tử, trở thành một du sĩ ngoại đạo. Một ngày kia, trong khi bộ hành ngài gặp Thế Tôn đang thuyết pháp và ngài xin xuất gia. Vì giới hạnh ngài không thanh tịnh, nên ngài không đạt được Thánh quả. Thấy các Tỷ-kheo khác nói lên chánh trí của mình, ngài xin Thế Tôn một bài học tóm tắt. Ðức Phật trả lời ngài phải làm cho thanh tịnh nếp sống căn bản và đức Phật dạy ngài về nếp sống căn bản một cách tóm tắt, Ittiya học tập bài học này, phát triển thiền quán, nhưng rồi bị bệnh. Trong sự cố gắng tối hậu, ngài chứng được quả A-la-hán. Vì ngài chứng được Thánh quả trước những trở ngại lớn như vậy, ngài nói lên chánh trí của ngài liên hệ đến cơn bệnh của ngài:

  1. Trong khi ta lâm bệnh,
    Niệm khởi lên nơi ta,
    Trong khi ta lâm bệnh,
    Không phải thời phóng dật.

Phẩm Bốn

(XXXI) Gahvaratìrya (Thera. 6)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn và được gọi là Aggidatta. Khi lớn lên ngài thấy đức Phật hiện hóa thần thông song hành, khởi lòng tin và xuất gia. Lấy một đề tài để hành trì, ngài đi vào rừng Ratìra và được biết với tên là Gahvaratìriya, phát triển thiền quán, không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Rồi ngài đi đến đảnh lễ đức Phật ở Sàvatthi, các bà con ngài nghe tin ngài đến, liền cúng dường ngài rất nhiều. Khi ngài muốn trở lui lại khu rừng, các bà con ngăn lại, nói rằng núi nhiều muỗi và ruồi lằng rất khó sống. Ngài trả lời đời sống rừng núi thích hợp với ngài và ngài nói lên chánh trí của ngài với bài kệ:

  1. Trong núi rừng rộng lớn,
    Bị muỗi lằng đốt cắn,
    Như voi đầu chiến trận,
    Tại đấy sống chánh niệm.

(XXXII) Suppiya (Thera. 6)

Trong thời đức Phật tại thế, do nghiệp quá khứ, ngài được sanh trong gia đình người giữ nghĩa địa ở Sàvatthi. Ðược bạn Sopàka thuyết pháp cảm hóa, ngài xuất gia và chứng được quả vị cao nhất, và trong bài kệ, ngài nói lên chánh trí của ngài khi đang phấn đấu để chứng quả A-la-hán.

  1. Bị già, được không già,
    Bị nung nấu, được tịnh,
    Mong rằng ta sẽ được
    Tịch tịnh thật tối thượng,
    An ổn thật vô thượng,
    Thoát khỏi các khổ ách.

(XXXIII) Soopaka, Một Tỷ-Kheo Trẻ Con (Thera. 6)

Ngài sanh trong thời đức Phật hiện tại ở Sàvatthi, từ một người đàn bà rất nghèo khổ. Khi bà mẹ đau đẻ, bà bất tỉnh và người ta tưởng bà đã chết nên đem thân bà đi thiêu. Một phi nhân không cho lửa đốt cháy, làm mưa làm gió và những người thiêu thân bỏ đi. Ðứa con trẻ được sanh mạnh khỏe, còn người mẹ bị chết. Vị phi nhân hóa làm người, bế đứa con và bỏ trong nhà người giữ nghĩa địa, nuôi đứa con trong một thời gian với đồ ăn thích hợp. Sau đó, người giữ nghĩa địa nhận làm con nuôi, và Sopàka lớn lên với Suppiya, con trai nhỏ của người giữ cửa. Vì ngài sanh ở nghĩa địa, nên đặt tên là Sopàka. Khi ngài bảy tuổi, Thế Tôn với thiên nhãn thanh tịnh, vào buổi sáng, nhìn xem những ai có thiện căn tốt lành, thấy Sopàka và đi đến nghĩa địa. Sopàka được nghiệp duyên đời trước, đi đến Thế Tôn với tâm tư hoan hỷ và đảnh lễ Thế Tôn, Thế Tôn thuyết pháp và Sopàka xin xuất gia. Sau khi được phép người cha nuôi, Sopàka xuất gia và được dạy tình thương huynh đệ làm đề tài tu hành. Sopàka lấy đề tài này và sống ở nghĩa địa và chứng được cảnh giới thiền tương đương. Lấy cảnh giới thiền làm đề tài căn bản, ngài triển khai thiền quán và chứng được quả A-la-hán. Sau khi chứng quả, ngài làm bài kệ, trong ấy ngài nêu cho các Tỷ-kheo rõ đề tài tình thương anh em, không có phân biệt người thân kẻ sơ. Với tất cả, tình thương phải là một, bao trùm mọi cảnh giới, mọi chúng sanh mọi thời gian:

  1. Như người mẹ tốt lành
    Thương người con độc nhất,
    Cũng vậy đối chúng sanh,
    Ðủ mọi loài, mọi chỗ,
    Hãy có lòng tốt đẹp,
    Thương mến và từ ái.

(XXXIV) Posiya (Thera. 6)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một triệu phú ở Sàvatthi, là em trai của Trưởng lão Sangàmaji. Khi lớn lên, ngài lập gia đình. Khi sanh được đứa con trai, do nghiệp duyên đời trước, ngài cảm thấy lo lắng trước vấn đề sống chết, nên ngài xuất gia, sống một mình trong rừng và tu tập đề tài bốn sự thật. Sau một thời gian, ngài chứng quả A-la-hán.

Rồi ngài đi đến Sàvatthi để đảnh lễ Thế Tôn và về thăm lại nhà cũ, người vợ cũ cúng dường ngài và muốn cám dỗ ngài sống lại đời sống cũ, ngài biết được dụng ý của vợ ngài nên cáo lui và về lại trong rừng, các bạn đồng tu hỏi vì sao ngài về sớm như vậy, ngài kể lại câu chuyện đã xảy ra và nói lên bài kệ:

  1. Không gần là tốt đẹp,
    Kẻ trí thường biết vậy,
    Từ làng đi đến rừng,
    Từ rừng, ta vào nhà,
    Từ đấy, đứng dậy đi,
    Không đoái hoài Bô-syà.

(XXXV) Sàmannakàni (Thera. 6)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một du sĩ và xuất gia theo đức Phật. Khi thấy đức Phật hóa hiện thần thông song hành; và nhờ thiền, ngài chứng quả A-la-hán.

Lúc bấy giờ, một du sĩ tên Kàtiyàna, ngài quen khi còn là cư sĩ, du sĩ này mất hết sự ủng hộ của giới cư sĩ từ khi đức Phật được mọi người qui ngưỡng, và trở thành khốn cùng. Kàtiyàna đến ngài và yêu cầu ngài ủng hộ để được hạnh phúc đời này đời sau, ngài đáp: ‘Hạnh phúc không liên hệ đến đời và chỉ những người hiểu biết quá trình tu chứng mới hưởng sự an lạc thuần nhất này’. Và ngài nói lên bài kệ để chứng minh sự thành đạt của ngài:

  1. Kẻ tìm lạc, được lạc,
    Nếu sở hành đúng đắn,
    Lại thêm được kính trọng,
    Danh vọng được tăng trưởng.
    Ai tu tập chánh trực,
    Con đường Thánh tám ngành,
    Ðây là đường lộ trình,
    Ðạt đến cảnh bất tử.

(XXXVI) Con Của Kunmà (Thera. 6)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở xứ Anvanti thành Velukanda, và được đặt tên là Nanda. Nhưng vì mẹ tên Kumà nên ngài được gọi là con của Kumà. Khi nghe Tôn giả Sàriputta thuyết pháp, ngài xuất gia và tu tập trên sườn đồi. Nhưng chỉ sau khi nghe đức Phật thuyết pháp và sửa lại phương pháp tu tập, ngài mới chứng quả A-la-hán. Khi đã trở thành A-la-hán, ngài thấy các Tỷ-kheo khác quá lo cho thân thể, nên ngài dùng bài kệ để hướng dẫn họ theo Chánh pháp:

  1. Lành thay, điều được nghe!
    Lành thay, hạnh phúc sống!
    Lành thay, thường an trú!
    Ðời sống kẻ không nhà.
    Tìm hỏi nghĩa Chánh pháp,
    Làm các hạnh cung kính,
    Ðấy là hạnh Sa-môn,
    Của bậc Vô sở hữu.

(XXXVII) Bạn Của Con Kumà (Thera. 6)

Ngài được sanh trong thời đức Phật hiện tại, tại thành Velukanda, trong một gia đình giàu có tên Sudanta. Có người nói ngài tên là Vasulokì. Ngài trở thành bạn thân với con của Kumà. Khi con của Kumà xuất gia, ngài nghĩ đạo của con Kumà không thể là đạo tầm thường nên đến nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp. Nghe xong, ngài cảm thấy nhiều xúc động và xuất gia. Ngài cùng an trú với con của Kumà trên sườn đồi để tu hành.

Trong lúc ấy, nhiều Tỷ-kheo bộ hành nhiều địa phương, đều an trú tại chỗ hai vị này và tạo nên cảnh ồn ào. Sudanta, tâm thiền định bị chi phối, lấy sự kiện này làm đề tài để tinh tấn tu hành và nói lên bài kệ này:

  1. Bộ hành nhiều xứ sở,
    Với hạnh không suy tưởng,
    Thiêu đốt phần thiền định,
    Ði khắp xứ làm gì?
    Do vậy, ngăn vọng động,
    Không vọng hướng, hãy thiền.

(XXXVIII) Gavampati (Thera. 6)

Ngài được sanh trong thời đức Phật hiện tại, ngài là một trong bốn người bạn của Yasa (Da-xá). Khi họ nghe Yasa xuất gia, tất cả đều xuất gia và chứng quả A-la-hán. Rồi ngài sống ở rừng Anjana tại Sàkela, và hưởng lạc giải thoát. Khi bấy giờ, Thế Tôn đến với một số đông Tỷ-kheo tại Anjana. Chỗ ngủ không đầy đủ và một số Tỷ-kheo ngủ xung quanh tinh xá, trên bãi cát sông Sarabhà. Nửa đêm, nước sông dâng lên và các Tỷ-kheo trẻ la lớn. Thế Tôn nghe vậy, bảo Gavampati can thiệp, ngăn sông không cho dâng cao, khiến các Tỷ-kheo yên tâm. Vị Trưởng lão với thần túc thông của mình, làm theo lời Phật dạy, dừng dòng sông lại từ xa, khiến dòng sông dựng đứng lại như ngọn núi, do vậy ngài được mọi người biết là có thần thông. Một ngày kia, Thế Tôn đang thuyết pháp giữa một số đông người, thấy Gavampati vì lòng từ bi nghĩ đến đời, đức Phật tán thán các hạnh của Gavampati với bài kệ:

  1. Ai với thần túc thông,
    Dựng đứng Sarabhu,
    Chính Gavampati,
    Không ỷ lại, không động,
    Vượt qua mọi trói buộc,
    Chư Thiên đều đảnh lễ,
    Bậc Ðại sĩ Mâu-ni
    Ðã vượt qua sanh hữu.

(XXXIX) Tissa (Thera. 6)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Kapilavatthu, con người dì của đức Phật và được đặt tên là Tissa. Ngài xuất gia theo đức Phật, sống tại một lâm trại và tự phụ với địa vị của mình, tánh hay nóng nảy bất thường, vì vậy ngài không làm bổn phận của mình được hăng hái.

Rồi bậc Ðạo Sư, với thiên nhãn thấy ngài đang ngủ há miệng liền hiện đến trước ngài, thức ngài dậy với bài kệ:

  1. Như bị kiếm chém xuống,
    Như bị lửa cháy đầu,
    Vị Tỷ-kheo xuất gia,
    Chánh niệm, đoạn tham dục.

(XL) Vaddhamàna (Thera. 7)

Ngài sanh ở Vesàli, trong gia đình một vị vua Licchavì, ngài trở thành một thiếu niên có tín tâm và phục vụ Tăng chúng. Về sau, khi đã xuất gia, ngài trở thành biếng nhác và được Như Lai khích lệ với bài kệ:

  1. Như bị kiếm chém xuống,
    Như bị lửa cháy đầu,
    Vị Tỷ-kheo xuất gia,
    Chánh niệm, đoạn tham hữu.

Phẩm Năm

(XLI) Sirivaddka (Thera. 7)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), trong nhà một Bà-la-môn giàu có. Khi vua Bimbisàra gặp bậc Ðạo Sư, do nghiệp duyên đời trước, ngài xuất gia, đi đến một ngọn núi gần Vebhàra và Pandava, và trú tại chỗ ấy, chuyên hành tu tập.

Một hôm, một cơn giông tố lớn nổi lên và sét đánh vào hang, nhưng nhờ gió lớn của các đám mây, làm nhẹ bớt sức nóng đang đè nặng trên ngài, nhờ vậy với một nhiệt độ thích hợp, ngài có thể thiền định, thiền quán và cuối cùng chứng quả A-la-hán. Với bài kệ nói lên chánh trí của mình, ngài thốt lên những lời như sau:

  1. Giữa đồi Vebhara,
    Giữa đồi Pandava,
    Sét đánh vào cửa hang,
    Ðứa con bậc Vô tỷ,
    Như vậy, vẫn ngồi thiền.

(XLII) Khadira – Vaniya (Thera. 7)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở nước Magadha (Ma-kiệt-đà) tại làng Nàlaka, con của nữ Bà-la-môn Rùpasàrì. Khi ngài lớn lên, mẹ ngài muốn ngài lập gia đình, nhưng khi nghe Sàriputta xuất gia, ngài bắt chước Sàriputta, đến các Tỷ-kheo xin được thọ giới, tự xưng là em trai của Sàriputta. Khi ngài chứng quả A-la-hán tại rừng cây xương rồng, ngài đi đến Sàvatthi (Xá-vệ) để đảnh lễ Thế Tôn, và ở lại một vài ngày tại tịnh xá Jetavana (Kỳ Viên).

Rồi Thế Tôn, ngồi giữa đại chúng Tỷ-kheo, xác nhận ngài là Tỷ-kheo ở rừng đệ nhất.

Một thời khác, ngài đi đến làng sanh quán, đem ba người cháu trai là con trai của ba người chị Càlà, Upacàlà, Sisùpacàlà, cũng tên là Càlà, Upacàlà và Sisùpacàlà cho chúng xuất gia. Một hôm ngài bị ốm và Sàriputta đi đến thăm, Revata muốn dạy cho ba người cháu chớ có phóng dật, nên khi thấy Sàriputta từ xa đến, bèn nói lên bài kệ:

  1. Hỡi này cháu Càlà,
    Này Upacàlà,
    Sisùpacàlà,
    Hãy sống, trú chánh niệm,
    Vị đang đến các con,
    Như vị bắn chẻ tóc.

(XLIII) Sumangala (Thera. 7)

Ngài sanh ở tại một làng nhỏ, gần Sàvatthi, trong một gia đình nghèo khó. Lớn lên, ngài tự nuôi sống giữa đồng ruộng, với cái liềm, cái cuốc và cái cày. Một hôm vua Pasenadi cúng dường đức Phật với chư Tăng và ngài đi đến. đem theo sữa và bơ cùng với các người làm công khác. Khi thấy các Tăng, Ni được cung kính cúng dường, ngài nghĩ các Tăng, Ni này sống trong các nhà cửa được che kín và mặc các y phục tốt đẹp và ngài xin xuất gia để hưởng những tiện nghi này. Một Trưởng lão Tăng vì lòng từ chấp nhận ngài được xuất gia, cho ngài một đề tài tu hành và bảo ngài đi vào rừng để tu tập. Nhưng trong hạnh độc cư, ngài cảm thấy buồn bã chán nản và đi về lại làng của mình. Khi về, ngài thấy các dân quê cày bừa với áo quần nhớp nhúa, đầy bụi bặm và bị nóng bức. Thấy vậy, ngài trở lại tu tập, đi đến dưới gốc cây, tu tập thiền định, sống cô độc, phát triển thiền quán. Cuối cùng, ngài chứng được quả A-la-hán. Ðể nói lên sự giải thoát khỏi nỗi khổ cuộc đời, ngài thốt lên bài kệ này:

  1. Khéo thoát! Ôi khéo thoát!
    Thật sự ta khéo thoát,
    Thoát ba sự cong queo,
    Ta thoát cong với liềm,
    Ta thoát cột với cày,
    Ta thoát cực với cuốc,
    Nếu có đây, có đây,
    Thật đủ chán, đủ chán,
    Hỡi Sumangala!
    Hỡi Sumangala!
    Hãy thiền, hãy thiền định!
    Hỡi Sumangala!
    Hãy sống không phóng dật.

(XLIV) Sànu (Thera. 7)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ) trong gia đình một cư sĩ, sau khi người cha đã từ bỏ gia đình. Bà mẹ, đặt tên ngài là Sànu, khi ngài lên bảy tuổi, được đưa đến ở với các Tỷ-kheo, nghĩ rằng như vậy con mình được sống hạnh phúc. Rồi Sànu trở thành một vị học hành giỏi, một vị pháp sư, thiền sư với lòng từ bi, được chư Thiên và loài Người ái kính. Trong đời trước, mẹ ngài là một nữ Dạ-xoa. Sau một thời gian, ngài mất sự sáng suốt, sống sầu khổ và muốn đi lang thang đây đó. Bà mẹ Dạ-xoa của ngài thấy vậy liền báo động với bà mẹ hiện tại và bảo bà khích lệ con bà phải tinh tấn, và đọc lại lời nói của các Yakkhà (Dạ-xoa):

Chớ có làm điều ác,
Công khai hay bí mật,
Nếu người làm điều ác,
Sẽ làm hay đang làm,
Người không thoát khổ đau,
Dầu có đứng lên chạy.

Nói như vậy xong, người mẹ Dạ-xoa biến mất, nhưng người mẹ hiện tại, nghe vậy rất lấy làm sầu khổ. Rồi Sa-di Sànu cầm y và bát đến thăm bà mẹ rất sớm. Thấy mẹ sầu muộn, ngài hỏi và được bà mẹ trả lời lý do, ngài nói bài kệ:

  1. Thưa mẹ, người ta khóc,
    Khóc vì người đã chết,
    Hay có khóc người sống,
    Khi sống, không được thấy,
    Thưa mẹ, con đang sống,
    Và mẹ đang thấy con,
    Vậy vì sao, thưa mẹ,
    Mẹ lại khóc cho con?

Bà mẹ trả lời, từ những lời trong kinh: ‘Ðây là sự chết, này các Tỷ-kheo trong giới luật của bậc Thánh, tức là sự từ bỏ học giới và hoàn tục’, và nói bài kệ như sau:

Người ta khóc cho con,
Là khóc cho con chết,
Hay khóc cho con sống,
Nhưng không được thấy mặt.
Ai đã bỏ dục vọng,
Lại trở lui đời này,
Này con, người ta khóc,
Là khóc cho người ấy,
Vì người ấy được xem,
Còn sống cũng như chết,
Này con, được kéo ra,
Khỏi than hầm lửa rực,
Con còn muốn rơi vào,
Ðống than hồng ấy chăng?

Khi ngài nghe vậy, Sa-di Sànu lấy làm xấu hổ sầu muộn, và tinh tấn phát triển thiền quán, không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Suy nghĩ rằng ngài chiến thắng là nhờ những bài kệ này, nên lấy những bài kệ ấy thành những bài kệ của ngài.

(XLV) Ramnìyavihàrim (Thera. 7)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con một công dân có tên tuổi và sống đời sống tuổi trẻ trác táng. Một hôm, ngài thấy các quân lính nhà vua bắt một người thông dâm, ngài sanh tâm dao động, nghe lời Phật dạy và xuất gia. Là Tỷ-kheo, ngài vẫn còn những ái dục về thân, ngài sắp đặt phòng ngài thật đầy đủ bàn ghế, đầy đủ đồ ăn, đồ uống, đồ nằm và sống như vậy. Do vậy, ngài được tên là Ramanìyavihìrim (người sống trong lạc dục). Nhưng đời sống cũ của ngài làm ngài khó sống đời sống Tỷ-kheo, ngài cảm thấy không xứng đáng để nhận đồ cúng dường, ngài bỏ đi, bộ hành lang thang đó đây. Trên đường đi, khi ngồi nghỉ dưới gốc cây, ngài thấy các xe bò đi ngang qua, một con bò vì mệt mỏi nên vấp ngã, người đánh xe cởi dây cho con bò, cho nó rơm và nước, và làm cho nó đỡ mệt, xong lại cột con bò vào xe và bắt nó kéo xe đi. Ngài suy nghĩ: ‘Con bò này đã vấp ngã nhưng đã đứng dậy và kéo đi gánh nặng của mình. Vậy ta phải tinh tấn, sau khi rơi vào rừng nhục dục, cần phải đứng dậy và làm tròn bổn phận của người tu hành’. Rồi ngài trở về, kể lại câu chuyện cho Trưởng lão Upàli và được Upàli chấp nhận cho sám hối các lỗi lầm, và giúp ngài trở lại nếp sống chơn chánh. Không bao lâu, ngài chứng quả A-la-hán.Về sau, hưởng thọ an lạc giải thoát, ngài nói lên sai lầm của ngài, và sự trở lui lại nếp sống chơn chánh trong bài kệ này:

  1. Như con thú hiền thiện,
    Giống tốt, huấn luyện khéo,
    Sau khi đã vấp ngã,
    Lại đứng lên, an trú,
    Ta đầy đủ chánh kiến,
    Ðệ tử bậc Chánh giác.

(XLVI) Samiddhi (Thera. 7)

Ngài sanh ra trong đời đức Phật hiện tại, ở Rajagaha (Vương Xá) con một gia đình quí tộc. Từ khi sanh ngài, tài sản của gia đình được tăng trưởng, ngài lại đẹp trai, có giới hạnh và được đặt tên là Samiddhi (thịnh vượng), ngài chứng kiến sức mạnh của bậc Ðạo Sư khi gặp vua Bình Sa (Bimbisàra), khởi lên lòng tin, xuất gia, tinh tấn tu thiền. Khi đức Phật sống ở vườn Tapoda, Samiddhi đang cảm thấy an lạc được sống hạnh Tỷ-kheo, thời Ác-ma hiện ra quấy phá, phát ra tiếng động như quả đất nổ tung. Ngài thưa với đức Phật và đức Phật khuyên nên bình tĩnh, vẫn kiên trì tu tập và đừng nghĩ đến vấn đề ấy nữa. Ngài vâng theo và không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Ác-ma không biết sự kiện ấy, Ác-ma lại tạo nên một tiếng động kinh khủng, nhưng ngài không có sợ hãi, ngài nói lên chánh trí của ngài với bài kệ như sau:

  1. Ta với lòng tín ngưỡng,
    Bỏ gia đình, xuất gia,
    Niệm tuệ ta tăng trưởng,
    Tâm tư ta thiền định,
    Dầu ngươi tạo sắc gì,
    Không làm ta sợ hãi.

(XLVII) Ujiaya (Thera. 8)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Rajagaha (Vương Xá), con một Bà-la-môn theo truyền thống. Lớn lên và giỏi về ba tập Vệ-đà, ngài thấy không có cốt tủy, với nghiệp lành chín muồi, ngài đi đến rừng Trúc nghe Thế Tôn giảng và xuất gia, thiền tư về giới hạnh trong rừng, không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Rồi ngài đi đến Thế Tôn đảnh lễ ngài, ngồi xuống một bên, tán thán Thế Tôn, ngài nói lên bài kệ đề cập đến chánh trí của ngài:

  1. Ðảnh lễ Phật, anh hùng,
    Ngài giải thoát mọi chỗ,
    Trong nếp sống của ngài,
    Gồm cả phần giáo điển,
    Con sống không lậu hoặc,
    Không còn bị trói buộc.

(XLVIII) Sanjaya (Thera. 8)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con một Bà-la-môn giàu có. Khi lớn lên, ngài theo gương Brahmàya, Pokkhanrasàti và các vị Bà-la-môn danh tiếng khác, các vị này khởi lòng tin bậc Ðạo Sư và chứng được Sơ quả. Về sau, ngài xuất gia và chứng được sáu thắng trí. Nói lên chánh trí, ngài dùng bài kệ này:

  1. Từ khi ta xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Ta không có tư duy,
    Những tư tưởng phàm phu,
    Những tư niệm phi thành,
    Liên hệ đến sân hận.

(XLIX) Ràmaneyyaka (Thera. 8)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ) con một gia đình giàu có. Tâm ngài rất xúc động khi Jetavana (Kỳ Viên) được dâng cúng đức Phật và ngài xuất gia. Sống trong rừng, ngài thiền quán về giới hạnh, vì quả chứng và hạnh dễ thương của ngài, ngài được gọi là Ràmaneyyaka (hạnh khả ái, dễ thương).

Một hôm, Ác-ma muốn phá hoại ngài, đã phát ra một tiếng động rất lớn, ngài dùng bài kệ nói lên sự không xúc động của mình.

  1. Dầu tiếng người hò hét,
    Tiếng náo động chim muông,
    Tâm ta không dao động,
    Ta ưa thích độc cư.

Bài kệ này trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(L) Vimala (Thera. 8)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), từ một gia đình giàu có. Do hạnh nguyện đời trước, ngài có một thân thể thật trong sạch như giọt sương trên lá sen, bởi vậy, được tên là Vimala. Khi lớn lên ngài khởi tín tâm khi gặp được dức Phật ở Ràjagaha, rồi ngài xuất gia, tìm một đề tài học tập, đến ở trong một hang núi ở Kosala.

Một hôm trời chuyển giông, mưa rơi xuống, làm nhẹ bớt sức nóng, ngài có thể định tâm, chứng được quả A-la-hán. Sung sướng với quả chứng của mình, ngài thốt lên bài kệ này:

  1. Ðất, nước mưa ướt thấm,
    Gió thổi mát không gian,
    Trên trời, chớp vạch đường,
    Tư tưởng ta lắng dịu,
    Tâm ta thật định tĩnh.

Bài kệ này trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài.

Phẩm Sáu

(LI-LIV) Ghodhika, Subàhu, Valliya, Uttiya (Thera. 8)

Trong thời đức Phật tại thế, bốn vị này sanh ở Pava, con của bốn vua Malla, và giữa bốn người này, có một tình bạn chân thành. Bốn vị này có một sứ mệnh, cùng đi đến vua xứ Kapilavatthu. Lúc bấy giờ, Thế Tôn cũng đến đó và sống tại vườn cây bàng, tại đấy, Thế Tôn đã cảm hóa bốn vị này với thần thông song hành. Các vị này xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán, với sự hiểu biết về nghĩa và về pháp. Sau khi được vua chúa kính trọng cúng dường, bốn vị này sống ở trong rừng. Khi bốn vị này đến Vương Xá, vua Bimbisàra (Bình Sa), mời bốn vị an cư mùa mưa và bảo làm mỗi người một cái nhà, nhưng vô ý lại không lợp mái. Các vị này sống trong nhà ấy, nhưng không có chỗ che mưa, và dầu là mùa mưa, trời lại không mưa. Vua Bimbisàra nhận thấy hiện tượng này, nhớ lại sự sai trái sơ hở của mình, liền cho lợp mái lại tổ chức một ngày khánh thành, cúng dường cho Tăng chúng. Các vị Trưởng lão nhận lời, đi vào ngôi nhà và triển khai lòng từ. Từ phía Bắc và phía Ðông một cơn giông tố nổi lên, và các vị Trưởng lão xuất định, mưa to bắt đầu rơi xuống. Rồi Godhika do mưa to gió lớn, nói lên bài kệ:

  1. Trời mưa, như hát hay,
    Ta ở trong am thất,
    Ðược che kín khỏi gió,
    Ta sống thật an lạc,
    Tâm ta khéo định tĩnh.
    Hãy mưa, nếu trời muốn.

Subàhu nói lên bài kệ:

  1. Trời mưa, như hát hay,
    Ta ở trong am thất,
    Ðược che kín, khỏi gió,
    Ta sống thật an lạc,
    Tâm khéo định trên thân,
    Hãy mưa, nếu trời muốn.

Vàlliya nói lên bài kệ:

  1. Trời mưa, như hát hay,
    Ta ở trong am thất,
    Ðược che kín, khỏi gió,
    Ta sống thật an lạc.
    Không phóng dật, ta sống,
    Hãy mưa, nếu trời muốn.

Uttiya nói lên bài kệ:

  1. Trời mưa, như hát hay,
    Ta ở trong am thất
    Ðược che kín, khỏi gió,
    Ta sống thật an lạc,
    Trong ấy, sống một mình,
    Hãy mưa, nếu trời muốn.

(LV) Anjana -Vaniya (Thera. 9)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Vesàli, trong gia đình một vị vua trị vì nước Vajja. Khi ngài lớn lên, ba tai họa lớn đe dọa dân chúng Vajja: nạn hạn hán, nạn bệnh tật, và nạn phi nhân. Sự kiện này được ghi chép trong tập sớ kinh Ratanasutta. Khi Thế Tôn làm cho dân chúng Vesali bớt sợ hãi, một số đông đến nghe ngài giảng. Con của vua cũng được nghe, khởi tín tâm và xuất gia.

Khi làm xong các học tập sơ khởi, ngài sống trong rừng Anjana, ở Saketa. Khi trời mưa sắp đến, ngài tìm được một giường nằm người ta quăng bỏ, đặt nó trên bốn tảng đá, phía trên và phía chung quanh lợp cỏ. Ngài làm một cái cửa và như vậy làm được một chỗ ở cho mùa mưa. Sau một tháng tu tập, ngài chứng quả A-la-hán. Sung sướng với niềm giải thoát của mình, ngài phấn khởi nói lên bài kệ:

  1. Làm am thất giường nằm,
    Sâu trong rừng An-ja,
    Ba minh được chứng đạt,
    Làm xong lời Phật dạy.

(LVI) Kutivihàrim (Thera. 9)

Ðời sống của ngài giống như đời sống của Tôn giả Anjana Vaniya, với sự sai khác như sau: Trong khi phát triển thiền quán, ngài đang đi qua cánh đồng và trú mưa trong một chòi nhỏ không người, của người giữ đồng ruộng. Tại đấy, ngài chứng quả A-la-hán. Người giữ đồng ruộng đến và hỏi: ‘Ai ở trong chòi lá này?’ Ngài trả lời: ‘Một Tỷ-kheo ở trong chòi lá’ và nói lên bài kệ:

  1. Ai ở trong chòi lá?
    Một Tỷ-kheo ly tham,
    Tâm được khéo định tĩnh,
    Ðang ở trong chòi lá,
    Hiền giả, hãy biết vậy!
    Không phải là vô ích,
    Chòi lá ông dựng lên.

Rồi người giữ ruộng nói: ‘Thật may mắn cho tôi. Thật khéo may mắn cho tôi. Tôn giả đã đến chòi lá của tôi và ngồi tại đấy’.

Thế Tôn với thiên nhĩ thanh tịnh nghe câu chuyện biết được tâm hoan hỷ của người giữ ruộng, ngài nói lên bài kệ với người giữ ruộng:

Chính ở trong chòi lá,
Một Tỷ-kheo ly tham,
Tâm được khéo định tĩnh,
Ðang ở trong chòi lá,
Việc làm này hưởng quả,
Ông sẽ thành thiên chủ,
Sáu lần đến bảy lần,
Ông ngự trị thiên giới,
Rồi mọi ái nhiếp phục,
Ông sẽ thành Ðộc giác.

Bắt đầu từ đấy, vị Tỷ-kheo được gọi là Kutivihàrim.

(LVII) Kutivihàrim (Thera. 9)

Câu chuyện về ngài giống như câu chuyện vị Trưởng lão ở rừng Anjana với sự sai khác này. Khi ngài xuất gia với trường hợp tương tự, ngài học Chánh pháp trong một ngôi chòi nhỏ, ngài nghĩ: ‘Chòi cũ này cũng đã bị hư hại, ta phải làm một chòi khác’. Rồi ngài hướng tâm ngài về hành động mới. Một thiên nhân tâm cầu giải thoát, muốn làm ngài dao động, nói lên bài kệ này, với lời lẽ giản dị, nhưng ý nghĩa sâu rộng:

  1. Ðây ngôi chòi cũ kỹ,
    Ngài muốn ngôi chòi mới,
    Hãy bỏ muốn ngôi chòi,
    Chòi mới đem khổ mới,
    Này Tỷ-kheo nên biết!

Khi nghe vậy, vị Trưởng lão cảm thấy lo lắng, và với sự cố gắng phát triển thiền quán, ngài chứng được quả A-la-hán. Rồi ngài nói lại bài kệ, nhờ bài kệ này ngài đã được chứng quả, và ngài dùng bài kệ nói lên chánh trí của mình. Vì ngài chứng quả khi ở trong chòi lá, ngài được gọi là Kutivihàrim (vị ở chòi lá).

(LVIII) Ramaniyakutika (Thera. 9)

Câu chuyện của ngài giống như câu chuyện của Trưởng lão ở trong rừng Anjana với sự sai khác này: Ngài ở trong một chòi lá, gần một ngôi làng nhỏ, trong xứ Vajji. Thật sự là một am thất nhỏ, xinh đẹp với sàn nhà và vách tường khéo làm xung quanh có vườn, ao hồ và có rải cát đẹp, mịn. Với giới hạnh của vị trưởng lão làm tăng thêm sự hấp dẫn của ngôi nhà.

Ngài chứng quả A-la-hán và tiếp tục sống tại đấy. Khi nào có người đến viếng tinh xá, họ có thấy ngôi chòi xinh xắn. Một ngày kia, một vài người đàn bà béo mập đi ngang qua, thấy ngôi chòi xinh đẹp, liền nghĩ người ở chòi lá này có thể là một thanh niên mà họ có thể cám dỗ. Họ đến gần ngài và nói: ‘Cái chòi của ngài thật là xinh đẹp, chúng tôi cũng thật xinh đẹp trong tuổi trẻ của chúng tôi’. Và họ bắt đầu khoe khoang áo xiêm đẹp của mình. Nhưng vị Trưởng lão nói lên bài kệ, diễn tả tâm trạng thoát tục của ngài:

  1. Ngôi chòi ta xinh đẹp,
    Do đàn tín cúng dường,
    Với tâm ý hoan hỷ,
    Với lòng tin dâng cúng.
    Ta không cần thiếu nữ,
    Này các nữ nhân kia,
    Hãy đi đến những ai,
    Có cần đến các cô.

Với chữ: ‘Không cần’, ngài tuyên bố chánh trí của ngài, khi chứng quả A-la-hán.

(LIX) Kosalavihàrim (Thera. 9)

Câu chuyện của ngài giống như chuyện của Trưởng lão ở trong rừng Anjana với sự sai khác này: Sau khi làm Sa-di, ngài ở trong một ngôi rừng, gần một làng trong nước Kosala, gần chỗ ở của một cư sĩ. Người này, thấy ngài ở dưới một gốc cây nên làm một cái chòi và cúng dường cho ngài. Ở đây vị Trưởng lão chứng quả A-la-hán. Với tâm tư hoan hỷ sung sướng được giải thoát, ngài nói lên bài kệ này:

  1. Do lòng tin, xuất gia,
    Ta sống không gia đình,
    Trong rừng, một chòi lá,
    Ðược dựng lên cho ta,
    Ta sống không phóng dật,
    Nhiệt tâm, niệm tỉnh giác.

Ðây là lời tuyên bố chánh trí của ngài và vì ngài ở lâu ngày ở Kosala, ngài được biết với tên là Kosalavihàrim (vị ở Kosala).

(LX) Sivàli (Thera. 9)

Ngài sanh ra là con của Suppavàsà, công chúa con vua, trong thời đức Phật hiện tại. Khi mẹ ngài không sinh đẻ được và nằm chịu đau khổ trong bảy ngày, bà nói với người chồng: ‘Trước khi tôi chết tôi sẽ bố thí’, và nàng bảo chồng đi mời Thế Tôn đến, nói đến hiện trạng của nàng và dặn chồng ghi nhớ những lời Thế Tôn nói. Người chồng làm theo lời vợ dặn và bậc Ðạo Sư nói: ‘Mong rằng Suppavàsa, con của dòng họ Koliya được hạnh phúc! Mong nàng được hạnh phúc, sức khỏe và sanh được đứa con trai khỏe mạnh’. Trước khi người chồng về, Suppavàsa đã sanh được đứa con trai và khi nghe chồng kể lại câu chuyện, nàng dặn chồng cúng dường đức Phật và chúng Tăng trong bảy ngày. Vì người con được sanh, đem lại hoan hỷ cho tất cả mọi người, nên được đặt tên là Sìvali.

Sau khi sanh bảy ngày, ngài có thể làm được bất cứ việc gì. Tôn giả Sàriputta đến và khuyên ngài xuất gia, lấy đề tài sự đau khổ khi được sanh làm đề tài tu hành. Khi nắm tóc thứ nhất được cắt đứt, ngài chứng Sơ quả. Khi nắm tóc thứ hai được cắt đứt, ngài chứng Nhị quả. Như vậy cho đến nắm tóc thứ tư và ngài chứng quả A-la-hán. Có chỗ nói cùng ngày ngài đi đến ở một chòi lá, và suy tư đến sự đau khổ phải nhẫn chịu khi thọ sanh. Ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Rồi sung sướng được giải thoát, ngài nói lên bài kệ:

  1. Nay những mục đích ấy,
    Với ta, đã thành tựu,
    Vì những mục đích ấy,
    Ta bước vào ngôi chòi,
    Minh, giải thoát, ta đạt.
    Mạn tùy miên từ bỏ.

Phẩm Bảy

(LXI) Vappa (Thera. 9)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavàthu, con Bà-la-môn Vàsetha. Khi nghe Tu sĩ Asìta đoán tướng Thái tử Siddhatta sẽ thành đạo, Vappa cùng bốn người con Bà-la-môn với Kondannà (Kiều Trần Như) là người dẫn đầu, trở thành những người Tu sĩ. Khi Thái tử tu khổ hạnh trong sáu năm, Vappa với bốn người bạn cùng đồng tu khổ hạn. Về sau khi Thái tử thôi tu khổ hạnh, năm vị này chán nản đi về Isipatana. Sau khi đức Phật thành đạo và Chuyển pháp luân ở Isapatana, Vappa với bốn người bạn được cảm hóa và đến ngày thứ năm cả năm vị đều chứng quả A-la-hán. Suy tư trên sự hùng lực của bậc Ðạo Sư, sự mù quáng của thế giới, và như thế nào thánh quả đem lại chánh trí, ngài nói lên bài kệ:

  1. Vị đã thấy, thấy được,
    Người thấy, người không thấy,
    Vị không thấy, không thấy,
    Người không thấy, người thấy.

(LXII) Vajji-Putta (Thera. 10)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình vị nghị sĩ và được gọi là con của Vajji. Ngài thấy uy nghi đức độ của bậc Ðạo Sư khi bậc Ðạo Sư đến Vesàli. Ngài khởi lòng tin và xuất gia sau thời kỳ làm Sa-di, ngài ở trong một ngôi rừng gần Vesàli. Một ngày lễ được tổ chức ở Vesàli có hát, có nhạc, có múa và mọi người hoan hỷ tham gia ngày lễ, tiếng ồn làm vị Tỷ-kheo dao động. Ngài bỏ chỗ tịnh cư của ngài, dừng nghỉ tu tập thiền quán và nêu rõ sự yểm ly của mình trong câu kệ:

Một mình chúng tôi sống,
Trong rừng núi hoang vu,
Như khúc gỗ bị quăng,
Bỏ rơi trong rừng núi,
Như vậy ngày tháng qua,
Ngày này tiếp ngày khác,
Còn có ai bất hạnh,
Hơn bất hạnh chúng tôi.

Một Thiên nhân trong rừng nghe vậy, thương xót vị Tỷ-kheo, nên đến trách vị Tỷ-kheo: ‘Này Tỷ-kheo, dầu Ông có khinh thường đời sống trong rừng núi, nhưng những vị sáng suốt muốn sống thanh tịnh đều nói nhiều đến núi rừng’.

Thiên nhân ấy nói lên bài kệ tán thán đời sống ở rừng núi:

  1. Một mình chúng tôi sống,
    Trong rừng núi hoang vu,
    Như khúc gỗ bị quăng,
    Bỏ rơi trong rừng núi,
    Nhưng nhiều người thương mến,
    Ðời sống ấy của ta,
    Như kẻ đọa địa ngục,
    Ưa đón cảnh thiên giới.

Rồi vị Tỷ-kheo, như con ngựa hay được thúc đẩy, ngài triển khai thiền quán và chứng quả A-la-hán. Rồi ngài nghĩ: ‘Bài kệ của Thiên nhân đã thúc đẩy ta’. Và ngài đọc lại bài kệ ấy.

(LXIII) Pakkha (Thera. 10)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh thuộc dòng họ Thích-ca, thành Devadahi, trong gia đình vua chúa Thích-ca và được gọi là thanh niên Sangmoda. Nhưng khi còn nhỏ, ngài bị bệnh tê thấp, có khi bước đi như người bị què, vì vậy được tên là Pakkha (vị què quặt) và giữ lại tên ấy. Sau khi ngài lành bệnh, ngài có mặt khi đức Phật về thăm gia đình, ngài khởi lòng tin, xuất gia và sống ở trong rừng. Một hôm vào làng khất thực, ngài ngồi dưới một gốc cây, một con diều hâu ngoạm được miếng thịt, bay bổng trên trời cao, các con diều hâu khác bay theo dành cướp lấy miếng thịt, thấy vậy, vị Tỷ-kheo suy nghĩ: ‘Các dục ở đời cũng vậy, đầy những đau khổ’. Ngài triển khai thiền quán và chứng quả A-la-hán, ngài nói lên bài kệ tuyên bố chánh trí của ngài:

  1. Chúng rơi theo, sà xuống,
    Cái đang bị rơi xuống,
    Với lòng tham thúc đẩy,
    Chúng lại đến, đến nữa.
    Bổn phận ta làm xong,
    Ta vui thích sung sướng,
    Với an lạc, đón mừng,
    Ta đón mừng an lạc.

(LXIV) Vimala- Kondanna (Thera. 10)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh là con của Ambapàli và thân phụ ngài là vua Bimbisàra. Ambapàli đặt tên con là Vimala và sau ngài được biết với tên là Vimala-Kondanna. Ngài chịu ảnh hưởng bởi uy nghi đức độ của bậc Ðạo Sư, xuất gia và chứng quả A-la-hán, ngài tuyên bố chánh trí của ngài trong bài kệ này:

  1. Dưới cờ trắng ta sanh,
    Từ nàng tên một cây,
    Với cờ đánh đổ cờ,
    Lá cờ lớn hủy diệt.

(LXV) Ukkhepakàta vaccha (Thera. 10)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ) con một Bà-la-môn thuộc dòng họ Vaccha. Ngài nghe Thế Tôn thuyết pháp phát tâm xuất gia, sống tại một làng Kosala. Nhờ các Tỷ-kheo đến thăm, ngài thâm hiểu Chánh pháp, nhưng ngài không phân biệt được Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Tuy vậy ngài học hỏi được từ tôn giả Sàriputta, nên có các vị Tỷ-kheo giỏi về Luật tạng hay một bộ phận của ba Tạng, ngài học thuộc lòng cả ba Tạng, trước khi ba Tạng được kiết tập. Sau khi thuộc lòng cả ba Tạng, ngài chứng quả A-la-hán, trở thành vị giảng dạy giáo lý. Một hôm, ngài nói với chính mình như với một người khác trong bài kệ sau đây:

  1. Tài sản được chất chứa,
    Trải nhiều tháng nhiều năm,
    Do Vaccha tác thành,
    Nay Vaccha quăng bỏ,
    Ngài thuyết giảng như vậy,
    Cho các hàng cư sĩ,
    Khéo ngồi chỗ trịnh trọng,
    Tâm hân hoan rộng lớn.

(LXVI) Meghiya (Thera. 10)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu, trong gia đình một hoàng tộc Thích-ca, được đặt tên là Meghiya (như mây). Lớn lên, ngài xuất gia hầu hạ Thế Tôn, khi Thế Tôn ở Càlikà, trên bờ sông Kimikàlà. Khi thấy một rừng xoài xinh đẹp, ngài muốn sống tại đấy, nhưng hai lần Thế Tôn không chấp nhận, cuối cùng trước lời yêu cầu khẩn khoản, Thế Tôn cho phép. Nhưng ở đấy vì tâm tư bất thiện không chế ngự được, vì bị ruồi muỗi cắn, nên tâm ngài không được định tĩnh và ngài lại về hầu hạ Thế Tôn.

Thế Tôn dạy:

Này Meghiya, khi tâm chưa chín muồi để giải thoát, năm pháp đưa đến tâm trạng ấy và bậc Ðạo Sư giáo giới cho ngài. Nhờ đấy Meghiya chứng quả A-la-hán và nói lên chánh trí của mình trong bài kệ này:

  1. Bậc Ðại hùng giảng dạy,
    Vượt qua tất cả pháp,
    Ta nghe pháp Ngài dạy,
    Sống hoan hỷ cạnh Ngài,
    Ba minh đã chứng đạt,
    Lời Phật dạy làm xong.

(LXVII) Ekadhamma Savannìya (Thera. 10)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Sitavyà, trong gia đình một vị nghị sĩ. Khi Thế Tôn đến thăm Sitavyà, và ở tại rừng Singsapa, ngài đến nghe Thế Tôn giảng, đảnh lễ ngồi xuống một bên, Thế Tôn hiểu được tâm tư ngài, dạy pháp cho ngài với câu kệ:

‘Các hành là vô thường’.

Và ngài nhờ ảnh hưởng đời trước, thấy sự thật rõ ràng hơn, xuất gia tìm học nghĩa chữ đau khổ, nghĩa chữ vô ngã, triển khai thiền quán và chứng quả A-la-hán. Vì ngài chỉ nghe một pháp và chỉ nghe một mình mà chứng được thánh quả, nên ngài được tên Ekadhamma Savanìya (vị được nghe một pháp), ngài tuyên bố chánh trí trong bài kệ như sau:

  1. Phiền não ta đốt cháy,
    Mọi hữu được nhổ lên,
    Ðường luân hồi đoạn tận,
    Nay không còn tái sanh.

(LXVIII) Ekudàniya (Thera. 10)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một vị nghị sĩ giàu có. Khi lớn lên, ngài thấy được uy đức của đức Phật khi được dâng cúng rừng Jeta (Kỳ Viên), ngài xuất gia từ bỏ gia đình, làm bổn phận người Sa-di, sống trong rừng, ngài đến đức Phật để học hỏi. Khi ấy Thế Tôn thấy Sàriputta đang ngồi thiền định gần ngài nên nói lên câu kệ này:

‘Tâm tăng thượng ẩn sĩ’.

Ngài nghe câu kệ này, nên về rừng sâu chỉ lập đi lập lại câu kệ này, đến nỗi người ta đặt tên ngài là Ekuddàniyo (vị thuộc một câu kệ).

Một ngày kia, tâm tư ngài được định tĩnh với thiền quán triển khai, ngài chứng quả A-la-hán sống trong an lạc giải thoát, ngài được Tôn giả Sàriputta mời đến để trình bày sự thành đạt của mình, ngài nói lên bài kệ này:

  1. Tâm tăng thượng ẩn sĩ,
    Không phóng dật, tu tập,
    Trên con đường chánh trí,
    Vị ấy không sầu muộn,
    Luôn luôn được an tịnh,
    Thường nắm giữ chánh niệm.

Bài kệ này trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(LXIX) Channa (Thera. 10)

Khi Thế Tôn còn sống trong gia đình vua Suddhodana (Tịnh Phạn), ngài xuất thân từ con một người nô lệ và được đặt tên là Channa. Sống đồng thời với đức Phật, ngài khởi lòng tin đức Thế Tôn, khi bậc Ðạo Sư về thăm lại gia đình, rồi ngài xuất gia. Vì lòng thương mến Thế Tôn, vì tự phụ tự đắc đối với ‘đức Phật của chúng ta, giáo pháp của chúng ta’ ngài không thể chinh phục khuyết điểm này và không làm tròn bổn phận của một người Sa-di, khi Thế Tôn mệnh chung, theo lời dặn của Thế Tôn cần phải phạt nặng Channa, ngài xấu hổ, chế ngự được khuyết điểm này, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Sung sướng với quả chứng của mình, ngài nói lên sự sung sướng của mình trong bài kệ như sau:

  1. Sau khi nghe Chánh pháp,
    Vị ngọt lớn pháp lớn,
    Do nhất thiết thắng trí,
    Thuyết giảng và trình bày,
    Ta dấn thân trên đường,
    Ðường đưa đến bất tử,
    Ngài thật bậc thiện xảo,
    Con đường diệt khổ ách.

(LXX) Punna (Thera. 11)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở nước Sunàparanta, tại hải cảng Suppàraka, trong nhà một thị dân tên Punna (Phú-lâu-na). Ðến tuổi trưởng thành, ngài đi với một đoàn thương gia đến Sàvatthi, khi bậc Ðạo Sư cũng ở đấy. Ngài đi nghe Thế Tôn thuyết pháp tại ngôi tinh xá cùng với các cư sĩ địa phương, ngài khởi lòng tin rồi xuất gia. Và trong một thời gian, ngài rất được quý mến giữa các vị giáo thọ sư, bởi ngài tài giỏi về biện luận. Một ngày kia, ngài đến bậc Ðạo Sư, nhờ bậc Ðạo Sư giảng dạy để có thể đi Sunàparanta giảng dạy và an trú tại đấy. Ðức Phật rống tiếng rống con sư tử bảo ngài: ‘Này Punna, có những pháp do con mắt nhận thức….’ Rồi Punna ra đi, tu tập thiền định trí tuệ, chứng được Ba minh. Khi ngài chứng quả A-la-hán, ngài giáo hóa được nhiều người theo đạo, hơn năm trăm nam cư sĩ và nữ cư sĩ.

Khi ngài sắp mệnh chung. Ngài nói lên chánh trí của ngài với bài kệ như sau:

  1. Ở đây chỉ có giới,
    Là pháp thật tối thượng,
    Nhưng vị nào có tuệ,
    Vị ấy là vô thượng,
    Vị đủ giới và tuệ,
    Chiến thắng giới Nhân, Thiên.

Phẩm Tám

(LXXI) Vacchapàla (Thera. 11)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha, con một gia đình Bà-la-môn giàu có và được đặt tên và Vacchapàla, ngài chứng kiến cuộc gặp gỡ giữa vua Bimbisàra với đức Phật. Sự hàng phục của Uruvela Kassapa trước Thế Tôn, ngài khởi lòng tin và xin xuất gia, chỉ trong một tuần, ngài triển khai thiền quán và chứng sáu thắng trí.

Chứng quả A-la-hán, ngài vui vẻ tán thán quả chứng này và quả chứng Niết-bàn trong bài kệ như sau:

  1. Nếu thấy được sự thật,
    Thật vi diệu, vi tế,
    Với trí tuệ thiện xảo,
    Với tâm tư khiêm tốn,
    Sống rập theo giới luật,
    Do chính đức Phật dạy,
    Với người ấy Niết-bàn,
    Chứng được không khó khăn.

Bài kệ này là lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(LXXII) Atuma (Thera. 11)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con một vị nghị sĩ, được đặt tên là Atuma. Khi ngài lớn lên, mẹ ngài tìm cho ngài một người vợ và hỏi ý kiến bà con, nhưng ngài không chịu vì chán ngấy nếp sống gia đình. Mặc dầu ngài xuất gia và sống với các Tỷ-kheo, mẹ ngài vẫn tìm cách cám dỗ ngài hoàn tục. Ngài nói lên chí nguyện với bài kệ như sau:

  1. Như cây măng lớn mạnh,
    Khó vượt khỏi cây cành,
    Cũng vậy, đến với ta,
    Vấn đề đem vợ về,
    Hãy vui lòng chấp thuận,
    Nay ta đã xuất gia.

Khi ngài đang đứng nói chuyện với mẹ ngài, ngài triển khai thiền quán, từ bỏ các cấu uế, trở thành vị A-la-hán.

(LXXIII) Mànava (Thera. 11)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong nhà một Bà-la-môn có danh tiếng. Trong bảy năm, ngài được nuôi dưỡng trong nhà, không ra ngoài đường; khi được ra ngoài đường, ngài thấy một người già, một người bệnh, một người chết. Ðược nghe thấy những sự kiện này, ngài phát lòng sợ hãi, đi đến tinh xá, nghe thuyết pháp, được cha mẹ cho phép, ngài được xuất gia. Rồi ngài phát triển thiền quán, chứng quả A-la-hán.

Khi ngài đến ngôi tinh xá, các Tỷ-kheo hỏi vì sao ngài xin xuất gia sớm và trẻ như vậy, ngài tuyên bố chánh trí của ngài và nói lên bài kệ này:

  1. Ta thấy một người già,
    Một người khổ bệnh hoạn,
    Ta thấy một người chết,
    Với tuổi thọ kiệt quệ,
    Do vậy ta thoát ra,
    Sống đời sống xuất gia,
    Từ bỏ mọi dục vọng,
    Hấp dẫn và thích ý.

(LXXIV) Suyàman (Thera. 11)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàli, con của một Bà-la-môn. Ngài lớn lên, thiện xảo ba tập Vệ-đà, không ưa thích đời sống gia đình, vui thích thiền định. Ngài gặp Thế Tôn ở Sàli, khởi lòng tin xuất gia, chứng quả A-la-hán, khi đầu được cạo tóc.

Rồi ngài nói lên sự từ bỏ các triền cái và chánh trí của mình, với bài kệ như sau:

  1. Với dục tham, sân hận,
    Với thụy miên hôn trầm,
    Với trạo hối, nghi ngờ,
    Vị Tỷ-kheo hoàn toàn,
    Không còn năm triền cái,
    Năm triền cái đoạn tận.

(LXXV) Susàrada (Thera. 11)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại sanh quán của Tôn giả Sàriputta và được gọi là Susàrada (vì ngài lớn lên chậm chạp). Ngài được Tôn giả Sàriputta giáo hóa và không bao lâu, trong địa vị Tỷ-kheo, ngài chứng quả A-la-hán và nói lên chánh trí của mình với bài kệ như sau:

  1. Lành thay là tri kiến,
    Của bậc có luyện tập,
    Nghi hoặc được cắt đứt,
    Trí giác được tăng trưởng.
    Cho đến kẻ ngu si,
    Ðược đổi thành người trí,
    Do vậy thật tốt đẹp,
    Sống giao thiệp người lành.

(LXXVI) Piyanjaha (Thera. 11)

Ngài được sanh ở Vesàli trong thời đức Phật hiện tại, trong một gia đình quý phái Licchavì. Khi lớn lên, ngài rất thích thú chiến tranh và trở thành một chiến sĩ không ai thắng nổi, sẵn sàng hy sinh những gì thân nhất của mình, đến nỗi ngài được đặt tên là Piyanjaha (vị từ bỏ những gì thân ái). Nhưng khi đức Phật đến Vesàli, ngài khởi lòng tin, xuất gia sống ở trong rừng, phát triển thiền quán, chứng quả A-la-hán. Khi đã chứng quả A-la-hán, ngài nghĩ thật là khác biệt giữa thành công ở đời và thành công bậc Thánh. Với thiền quán ấy, ngài nói lên chánh trí, và tuyên bố bài kệ này:

  1. Khi loài Người kiêu hãnh,
    Hãy hạ thấp ông xuống,
    Khi loài Người hạ thấp,
    Hãy nâng cao tâm ông,
    Hãy sống tại những chỗ,
    Loài Người không muốn sống,
    Tại chỗ ngồi ưa thích,
    Chớ có nên thích thú.

(LXXVII) Hatthàroha- Putta (Thera. 12)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình người nài voi, và lớn lên ngài giỏi trong nghề điều khiển voi. Một ngày kia, khi đang huấn luyện con voi, vì điều kiện chín muồi, ngài suy nghĩ: ‘Chế ngự voi để làm gì cho ta. Tốt hơn là chế ngự ta’. Rồi ngài đi đến Thế Tôn nghe pháp khởi lòng tin, xuất gia, và triển khai thiền quán trên căn bản thiền tư về giới luật. Như một người nài chế ngự thú tánh con voi bằng cái móc, ngài thiền định không cho tư tưởng chạy loạn khỏi đề tài thiền quán, ngài nói lên bài kệ:

  1. Trước tâm này lang thang,
    Chạy chỗ này chỗ khác,
    Chạy chỗ nó ưa thích,
    Chạy chỗ nó vui sướng,
    Nay ta chế ngự tâm,
    Với như lý tư duy,
    Như câu móc chế ngự,
    Nhiếp phục con voi rừng.

Nhờ làm vậy, thiền quán được triển khai, ngài chứng quả A-la-hán.

(LXXVIII) Mendasira (Thera. 12)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàketa, trong một gia đình một thị dân. Vì ngài giống con dê, ngài được tên là Mendasìra (đầu dê). Khi Thế Tôn ở Sàketa, tại rừng Anjana, Mendasìra khởi lên lòng tin, xuất gia tu chỉ và quán, chứng được sáu thắng trí, ngài có thể nhớ đến các kiếp trước:

  1. Ta luân hồi nhiều đời,
    Chạy dài tìm không được,
    Với ta trong khổ sanh,
    Khổ uẩn hay biến dạng.

Và bài kệ này nói lên chánh trí của ngài.

(LXXIX) Rakkhita (Thera. 12)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở thành Devadaha, trong gia đình một quý phái Thích-ca, tên là Rakkhita, ngài là một trong năm trăm các hoàng tử dòng họ Thích-ca được xuất gia để làm hộ chúng cho Thế Tôn, theo quyết định các vua chúa Thích-ca và Koliya. Ðức Phật đã cảm hóa các hoàng tử tuổi trẻ này với câu chuyện tiền thân Kunàla, một bài học về sự nguy hiểm của dục vọng. Liên hệ bài học này với đề tài thiền quán, ngài triển khai thiền quán và chứng quả A-la-hán. Sau đó suy nghĩ đến sự xuất ly của mình khỏi các phiền não, ngài nói lên chánh trí của mình với bài kệ như sau:

  1. Mọi tham ta đã đoạn,
    Mọi sân được nhổ lên,
    Mọi si được từ bỏ,
    Ta mát lạnh tịch tịnh.

(LXXX) Ugga (Thera. 12)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kosala, tại thành phố Ugga, con một gia đình nghị sĩ, được đặt tên là Ugga. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài đến nghe đức Thế Tôn thuyết pháp, khi đức Thế Tôn đến thành này, khởi lòng tin xuất gia, cuối cùng chứng quả A-la-hán. Rồi ngài tuyên bố chặt đứt sợi dây chuyền tái sanh và nói lên chánh trí của ngài với bài kệ như sau:

  1. Mọi nghiệp ta đã làm,
    Dầu ít hay là nhiều,
    Tất cả được đoạn trừ,
    Nay không còn tái sanh.

Phẩm Chín

(LXXXI) Samitigutta (Thera. 12)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, tên là Samitigutta (hộ trì nhờ hòa khí). Nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài xuất gia và chứng được giới thanh tịnh. Do kết quả nghiệp đời trước, ngài bị bệnh hủi, tay chân của ngài rơi xuống từng phần một, ngài sống trong một nhà bệnh.

Một hôm, Tôn giả Sàriputta đi thăm các người bệnh và hỏi thăm các bệnh nhân, thấy Samitigutta, Tôn giả cho một đề tài để thiền quán, nói rằng: ‘Này Hiền giả, nếu nói về vấn đề năm thủ uẩn, thời toàn bộ khổ uẩn là một vấn đề cảm thọ. Và khi không có năm uẩn, thời không có đau khổ’. Nói xong, Tôn giả Sàriputta tiếp tục đi. Nhưng bệnh nhân Samigutta được phấn khởi với bài dạy ấy, triển khai thiền quán và chứng được sáu thắng trí. Nhờ đó, ngài nhớ đến các hành ngài làm đời trước, khiến nay ngài phải mắc bệnh hủi. Và tán thán sự kiện này mọi việc đã được chấm dứt, ngài nói lên bài kệ:

  1. Việc ác ta đã làm,
    Trong các đời sống trước,
    Ở đây chỉ cảm thọ,
    Thọ lãnh từ nghiệp ấy,
    Căn bản các nghiệp khác,
    Thật sự không còn nữa.

(LXXXII) Kassapa (Thera. 12)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con một Bà-la-môn thuộc Tây Bắc (Udicca-hahmanacsa) và được đặt tên là Kassapa. Cha ngài mất khi ngài còn nhỏ, mẹ ngài nuôi ngài lớn lên. Một ngày kia, ngài nghe đức Phật giảng ở Jetavana, ngay lúc ấy nhờ nghiệp duyên thuần thục, ngài chứng được Sơ quả. Ngài đi đến gặp mẹ và xin xuất gia.

Khi đức Phật an cư, làm lễ tự tứ xong, bắt đầu bộ hành, Kassapa muốn được đi theo Thế Tôn. Trước hết ngài đến xin phép bà mẹ và được mẹ cho phép đi với lời khuyên dạy như sau:

  1. Hãy đi tại chỗ nào,
    Khất thực nhận dễ dàng,
    Những chỗ được an toàn,
    Những chỗ không sợ hãi,
    Tại những chỗ như vậy,
    Này con, con hãy đi,
    Chớ khiến cho đời con,
    Sầu muộn bị va chạm.

Ngài suy nghĩ ‘Mẹ ta muốn ta đến đến chỗ ta giải thoát khỏi phiền não, như vậy đây là dịp cho ta đạt được giải thoát hoàn toàn, không có sầu não buồn phiền’.

Rồi ngài cố gắng triển khai thiền quán, chứng quả A-la-hán. Vì rằng lời khuyên của mẹ giúp ngài tinh tấn hành trì chứng quả, nên ngài nói lại bài kệ ấy.

(LXXXIII) Sìha (Thera. 12)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở xứ Malla, trong gia đình hoàng tộc và được đặt tên là Sìha. Khi thấy đức Phật, ngài bị cảm hóa, đảnh lễ và ngồi xuống một bên, bậc Ðạo Sư biết được tâm tư của ngài, thuyết pháp cho ngài, ngài khởi lòng tin, xuất gia và lấy một đề tài vào trong rừng để thiền quán. Tâm tư của ngài bị nhiều đối tượng ám ảnh, ngài không thể thiền định, bậc Ðạo Sư thấy vậy, liền nói lên với ngài bài kệ như sau:

  1. Hỡi Sìha, hãy sống,
    Không buông lung, phóng dật,
    Ngày đêm không biếng nhác,
    Kiên trì trong tu tập,
    Hãy thực hành thiện pháp,
    Gấp bỏ thân tích tụ.

Nhờ vậy ngài có thể triển khai thiền quán và chứng quả A-la-hán. Lúc nói lên chánh trí của mình, ngài đọc lại bài kệ trên.

(LXXXIV) Nita (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Sàvatthi, con một Bà-la-môn và được đặt tên là Nita. Khi lớn lên, ngài nghĩ: ‘Các tu sĩ Thích-ca thật may mắn, được cúng dường đầy đủ các vật cần dùng. Thật là một đời sống thoải mái, đời sống của một Tu sĩ’. Rồi ngài xin xuất gia để được sống thoải mái, không chú ý đến tu tập, ăn no, nói chuyện nhảm nhí, và ban đêm ngủ dài. Bậc Ðạo Sư thấy được thiện duyên của ngài đời trước, nên nói lên bài kệ này để giáo giới ngài.

  1. Trọn đêm Thầy nằm ngủ,
    Ban ngày thích tụ hội,
    Kẻ ngu sống như vậy,
    Sẽ đoạn khổ được sao?

Bị dao động bởi lời dạy của bậc Ðạo Sư, ngài triển khai thiền quán, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi ngài nói lên chánh trí của ngài, bằng cách lập lại bài kệ trên.

(LXXXV) Sunàga (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở làng Nàlaka, con một Bà-la-môn và bạn của Sàriputta trước khi Sàriputta xuất gia. Nghe Tôn giả Sàriputta thuyết pháp, ngài xuất gia, an trú trên thiền quán và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Do vậy, khi ngài dạy cho các Tỷ-kheo, ngài nói lên chánh trí của ngài với bài kệ:

  1. Thiện xảo tướng của tâm,
    Biết vị ngọt viễn ly,
    Hành thiền, niệm, thận trọng,
    Chứng lạc không thế tục.

(LXXXVI) Nàgita (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ỏ Kapilavatthu, trong gia đình hoàng tộc Thích-ca, tên là Nàgita. Khi bậc Ðạo Sư đến tại chỗ của ngài, Thế Tôn thuyết kinh Mật Hoàn, ngài khởi lòng tin, xuất gia không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi hân hoan với sự thật trong lời dạy của đức Phật, và sự chỉ đạo có hiệu quả của Chánh pháp, ngài nói lên bài kệ này:

  1. Ngoài đây có ngoại đạo,
    Họ dạy những con đường,
    Không như con đường này,
    Ðưa đến quả Niết-bàn,
    Thật khác, đức Thế Tôn,
    Giáo giới hàng Tăng chúng,
    Ðạo Sư chỉ Niết-bàn,
    Như thấy trên bàn tay.

(LXXXVII) Pavittha (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sống ở quốc độ Magadha, trong một gia đình Bà-la-môn, tánh thiên về đời sống ẩn sĩ, ngài trở thành một du sĩ. Sau khi học tập, ngài đi chỗ này chỗ khác, nghe Upatissa và Kolita (Sàriputta và Moggallàna) xuất gia theo đức Phật, nghĩ rằng giáo hội này phải tốt đẹp mới có những vị như vậy chấp nhận. Ngài đến nghe đức Phật thuyết pháp, khởi lòng tin, xuất gia không bao lâu chứng quả A-la-hán, ngài nói lên chánh trí của ngài với bài kệ này:

  1. Thấy như thật các uẩn,
    Mọi sanh hữu phá hủy,
    Ðoạn sanh tử luân hồi,
    Nay không còn tái sanh.

(LXXXVIII) Ajjuna (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong gia đình một nghị sĩ, được đặt tên là Ajjuna. Khi lớn lên, ngài liên hệ với phái Ni-kiền-tử, xuất gia trong tôn phái này khi còn trẻ, nghĩ rằng sẽ tìm được đạo giải thoát. Nhưng ngài không tìm được gì trong giáo hội ấy, ngài gặp bậc Ðạo Sư, khởi lòng tin, xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Hân hoan trong quả chứng của mình, ngài nói lên bài kệ này:

  1. Ta có thể tự mình,
    Kéo nước từ đất liền,
    Như nước lớn cuốn trôi,
    Ta thể nhập sự thật.

(LXXXIX) Devasabha (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài là con của một hoàng tộc, lên ngôi vua khi còn trẻ. Nhưng khi tỉnh ngộ, ngài đi nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, từ bỏ ngôi vua, xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Ngài hân hoan khi nghĩ đến những uế nhiễm ngài đã từ bỏ, và nói lên bài kệ này:

  1. Vượt khỏi các bùn nhơ,
    Từ vực thẳm trở về,
    Thoát bọc lưu trói buộc,
    Mọi kiêu mạn tiêu trừ.

(XC) Sàmidatta (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con một Bà-la-môn, được đặt tên là Sàmidatta. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài nghe uy lực của đức Phật, và đi đến tinh xá với những cư sĩ để nghe bậc Thế Tôn thuyết pháp, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Nhưng vì thiếu kinh nghiệm trong một thời gian, ngài không có nhiệt tâm tu tập, cuối cùng, lại được nghe đức Phật thuyết pháp, ngài trở nên phấn khởi, nhiệt tâm và chứng thực quả A-la-hán.

Về sau, các Tỷ-kheo hỏi ngài: ‘Làm sao Hiền giả chứng được pháp Thượng nhân?’ Và ngài nói lên hiệu năng của giáo pháp, sự tu chứng pháp và tùy pháp. Ngài tuyên bố chánh trí của ngài trong bài kệ như sau:

  1. Năm uẩn được rõ biết,
    Tồn tại sẽ cắt đứt,
    Vòng sanh tử đoạn tận,
    Nay không còn tái sanh.

Phẩm Mười

(XCI) Paripunnaka (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu trong gia đình dòng họ Thích-ca. Vì khả năng và tài sản của ngài được viên mãn. Ngài được biết với tên là Paripumaka (viên mãn), ngài có đủ điều kiện để luôn luôn thưởng thức các vị ăn ngon. Nhưng khi ngài được nghe bậc Ðạo Sư dùng các đồ ăn khất thực, ngài nghĩ: ‘Thế Tôn được nuôi dưỡng rất được nuông chiều, nhưng nay Ngài lại dùng các đồ ăn như vậy để hưởng Niết-bàn an lạc. Vậy sao ta lại ham muốn đồ ăn ngon?’. Bị dao động, ngài từ bỏ gia đình, xuất gia, lấy đề tài tu tập về thân từ nơi bậc Ðạo Sư, cuối cùng ngài chứng quả A-la-hán. Rồi ngài nói lên bài kệ này:

  1. Dầu có hưởng món ăn,
    Như cam lồ trăm vị,
    Nhưng không thể sánh bằng,
    Món ta ăn hôm nay;
    Ðây là Pháp vi diệu,
    Ðược Phật Go-ta-ma,
    Bậc tri kiến vô lượng,
    Ðã thuyết giảng cho ta.

(XCII) Vijaya (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Vijaya. Khi được học giáo lý Bà-la-môn, ngài xuất gia, đời sống một vị ẩn sĩ, sống trong rừng, thực hành thiền định, ngài nghe đến sứ mệnh của đức Phật, hoan hỷ đến kính chào Thế Tôn và nghe pháp. Rồi ngài xuất gia trong giới luật của đức Phật, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Ngài nói lên chánh trí của ngài trong bài kệ sau đây:

  1. Với ai, lậu hoặc đoạn,
    Không y tựa đồ ăn,
    Hành xứ, không, vô tướng,
    Giải thoát cũng như vậy,
    Như chim trên hư không,
    Dấu chân thật khó tìm.

(XCIII) Eraka (Thera. 14)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con của một người có địa vị, được đặt tên là Eraka. Ngài khôi ngô, tuấn tú, làm mọi công việc đều thông suốt thành tựu.

Cha mẹ cưới cho ngài một người vợ trẻ đẹp có giới hạnh. Nhưng vì là đời sống cuối cùng nên ngài sanh dao động và tìm kiếm đến gặp bậc Ðạo Sư. Khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài xuất gia, bậc Ðạo Sư cho ngài đề tài để tu hành, nhưng trong một thời gian ngài bị các suy tư bất thiện ám ảnh, đức Thế Tôn biết được tâm tư của ngài nên nói lên bài kệ dạy ngài, ngài rất hối hận sở hành của mình khi nghe lời Phật dạy, ngài trở nên tinh tấn, phát triển thiền quán, không bao lâu chứng quả A-la-hán, Ngài nói lên chánh trí của ngài với bài kệ sau đây:

  1. Hỡi này Ê-ra-ka,
    Khổ thay là các dục!
    Hỡi này Ê-ra-ka,
    Không lạc là các dục!
    Ai tham dục các dục,
    Là tham dục đau khổ,
    Ai không tham các dục,
    Là không tham dục khổ.
    Hỡi này Ê-ra-ka!
    Hãy biết là như vậy.

(XCIV) Mettajì (Thera. 14)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở nước Magadha (Ma-kiệt-đà), con một vị Bà-la-môn và được đặt tên là Mettajì. Lớn lên, ngài thấy sự đau khổ của dục và sống ở trong rừng làm một vị ẩn sĩ. Khi nghe sứ mệnh đức Phật và do thiện duyên thúc đẩy, ngài đến gặp đức Phật và hỏi về sự tu hành tấn thối của Ngài, câu trả lời của đức Phật khiến ngài phát khởi lòng tin xuất gia, và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Với bài kệ này, ngài tán thán bậc Ðạo Sư:

  1. Ðảnh lễ đức Thế Tôn,
    Thích tử bậc điềm lành,
    Quả chứng này đạt được,
    Là quả vị thượng thủ,
    Pháp Ngài khéo thuyết giảng,
    Là Chánh pháp tối thượng.

(XCV) Cakkupàla (Thera. 14)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con của người điền chủ tên Mahàsuvanna, được đặt tên là Pàla, ngài cũng được gọi là Pàla anh, vì em ngài được gọi là Pàla em, cả hai anh em được cha mẹ giao phó cho những công việc ở gia đình. Khi bậc Ðạo Sư đến tinh xá Kỳ Viên, Pàla anh giao gia sản cho người em và xuất gia. Sau sáu năm làm Sa-di, ngài đi với sáu mươi Tỷ-kheo để học hỏi Chánh pháp. Các vị này lựa một ngôi rừng gần một ngôi làng biên địa, tại chỗ ấy, dân làng là các Phật tử cư sĩ, và ngài sống trong một chòi lá, sống hạnh viễn ly của một vị tu hành.

Ngài bị đau mắt và một vị thầy thuốc cho thuốc chữa, ngài không chịu nghe theo lời thầy thuốc, bệnh nặng thêm. Ngài nghĩ: ‘Thà làm cho chấm dứt các kiết sử của ta, còn tốt hơn là chấm dứt bệnh đau mắt’. Như vậy, ngài bỏ qua bệnh đau mắt, chỉ lo phát triển thiền quán, cho đến khi ngài chứng quả A-la-hán thời cũng mù mắt luôn. Ngài được gọi là vị A-la-hán khô.

Các cư sĩ hỏi các Tỷ-kheo về ngài và nghe nói ngài mù nên các cư sĩ hết lòng săn sóc cho ngài. Rồi các Tỷ-kheo khác cũng chứng quả A-la-hán và đề nghị đến Sàvatthi (Xá-vệ) để yết kiến bậc Ðạo Sư. Nhưng ngài nói: ‘Tôi yếu và mù, con đường đi không phải là không nguy hiểm. Tôi sẽ làm trở ngại cho các vị, các vị hãy đi trước, thay mặt tôi đảnh lễ bậc Ðạo Sư và các đại đệ tử khác, hãy nói với Pàla em tôi về tình trạng của tôi, và gửi cho tôi một người giúp đỡ”. Cuối cùng, các Tỷ-kheo nhận lời đi, sau khi từ biệt các vị hộ chủ và sắp đặt cho ngài một chỗ ở. Các Tỷ-kheo làm theo lời dặn của ngài và Pàla em bảo người cháu tên là Pàlika đi đến giúp đỡ ngài. Các Tỷ-kheo làm lễ xuất gia cho Pàlika, vì con đường đi không có an toàn cho một người cư sĩ. Pàlika đi đến ngài và cả hai người đều lên đường đi đến Sàvatthi. Giữa đường, Pàlika nghe một phụ nữ hát và đến tình tự với người ấy. Ngài biết được nên đuổi Pàlika đi, một mình đi đến Sàvatthi. Hạnh đức của ngài làm cho chỗ ngồi của Sakka (Ðế Thích) nóng và Sakka hiện hóa một người dẫn đường cho ngài đi đến tinh xá Kỳ Viên, ngay vào buổi chiều ấy. Trong khi ngài ở Kỳ Viên, Pàla em lo phụng dưỡng ngài, ngài nói lên bài kệ như sau, khi ngài đuổi Pàlika đi.

  1. Dầu ta có bị mù,
    Dầu mắt ta hư hoại,
    Dầu con đường ta đi,
    Dầu gai góc khó khăn,
    Ta sẽ tự mình đi,
    Dấn thân trên đường ấy,
    Nhưng ta không cùng đi,
    Kẻ ác hạnh như vậy.

(XCVI) Khandasumana (Thera. 14)

Trong thời đức Phật hiện tại, tái sanh trong một gia đình của vua Màlla, ngài được đặt tên là Khandasumana (Bông lài), vì khi ngài sanh, bông lài nở hoa, ngài nghe đức Phật thuyết pháp khi đức Phật trú ở tại rừng xoài của Cunda ở Ràvà, xuất gia và chứng được sáu thắng trí. Rồi ngài nhớ đến đời sống quá khứ khi ngài cúng một nhánh bông lài tại tháp của đức Phật Kassapa, trong khi tất cả bông hái được đều thuộc về của vua. Nhận thấy cử chỉ của ngài giúp ngài chứng được quả Niết-bàn, ngài nói lên bài kệ như sau:

  1. Do một bông từ bỏ,
    Ðược hưởng tám ức năm,
    Sống trong cảnh cõi trời,
    Còn số năm còn lại,
    Ta được sống tịch tịnh.

(XCVII) Tissa (Thera. 14)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại thành phố Roguva trong một gia đình vua chúa. Khi phụ vương mất, ngài tiếp nối sự nghiệp của vua cha. Như một đồng minh với vua Bimbisàra, ngài gửi vua các tặng vật châu báu, ngọc và y áo. Vua gửi ngài đời sống của đức Phật vẽ trên tấm tranh và lý duyên khởi được khắc trên một đĩa bằng vàng. Khi ngài thấy vật này, vì lời phát nguyện trước các đức Phật quá khứ, vì nhân duyên đời sống cuối cùng, ngài suy tư định lý ấy, quán sát qua lại nhiều lần, học thuộc lòng nhiều lần, cho đến khi ngài cảm thấy dao động và đi đến kết luận: ‘Nay ta đã được thấy hình dung của Thế Tôn cùng với quá trình giáo lý của Ngài. Các dục đầy những đau khổ, vậy ta sống đời sống gia đình làm gì?’ Rồi ngài thoái vị, xuất gia, cầm bát bằng đất và với một số quần chúng đi theo và khóc than, như Hoàng tử Pukkusàti, ngài từ bỏ hoàng cung, đi đến Rajagaha (Vương Xá). Tại đấy, ngài ở tại hang Sabhasondika và yết kiến Thế Tôn. Nhờ Thế Tôn thuyết pháp, ngài chứng quả A-la-hán. Nói đến kinh nghiệm bản thân, ngài nói lên bài kệ:

  1. Từ bỏ trăm bình bát,
    Bằng đồng, vàng quý giá,
    Ta cầm lấy bình bát,
    Làm bằng đất sét thường,
    Ðây là lần thứ hai,
    Ta làm lễ quán đảnh.

(XCVIII) Abhaya (2) (Thera. 14)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Abhaya. Sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, ngài xuất gia. Một hôm, ngài đi khất thực ở trong làng, thấy một nữ nhân ăn mặc rất đẹp đẽ, tâm tư ngài bị dao động, khi trở về tịnh xá, ngài suy nghĩ: ‘Thấy một sắc pháp, tâm ta sanh cấu uế, ta đã phạm lỗi lầm’. Từ bỏ tâm tư ấy, ngài phát triển thiền quán và chứng A-la-hán. Rồi ngài nói lên sự sai lầm và sự thức tỉnh của ngài ngang qua bài kệ:

  1. Thấy sắc, mất chánh niệm,
    Tác ý tưởng luyến ái,
    Tâm cảm thọ say mê,
    Ðắm trước tưởng an trú,
    Các lậu hoặc tăng trưởng,
    Ðưa đến gốc sanh hữu.

(XCIX) Uttiya (Thera. 14)

Ngài tái sanh ở Kapilavatthu, trong thời đức Phật hiện tại, trong một gia đình vương tộc Thích-ca, được đặt tên là Uttiya. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài chứng kiến sức mạnh của đức Phật, khi ngài đến thăm các gia đình bà con của ngài, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Trong thời kỳ tu học, ngài đi vào làng khất thực, nghe một nữ nhân ca hát, thiền định của ngài bị thối thất và lòng dục khởi lên. Chế ngự với sức mạnh suy tư, ngài bước vào tịnh xá rất dao động, ngài ngồi thiền định vào buổi trưa, phát triển thiền quán, chứng quả A-la-hán.

Rồi ngài nói lên sự giải thoát của ngài khỏi đau khổ sanh tử, nhờ nhàm chán các dục trong bài kệ sau đây:

  1. Nghe tiếng, mất chánh niệm,
    Tác ý tưởng luyến ái,
    Tâm cảm thọ say mê,
    Ðắm trước tưởng an trú,
    Các lậu hoặc tăng trưởng,
    Ðưa đến nhiễm luân hồi.

(C) Devasabha (II) (Thera. 14)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài tái sanh trong một gia đình hoàng tộc Thích-ca, và được đặt tên là Devasabha. Khi lớn lên ngài khởi lòng tin khi Thế Tôn giải quyết sự tranh chấp giữa dòng họ Thích-ca và dòng họ Koliya, ngài xin quy y ba ngôi báu. Khi đức Phật ở vườn cây bàng, ngài đi đến gặp Thế Tôn, lần này ngài xuất gia, ngài chứng quả A-la-hán , trú trên an lạc giải thoát, ngài nói lên sự phấn khởi của ngài với bài kệ như sau:

  1. Thành tựu chánh tính tấn,
    Sở hành trên niệm xứ,
    Tràn đầy hoa giải thoát,
    Sẽ nhập diệt, vô lậu.

Phẩm Mười Một

(CI) Belatthakàni (Thera. 15)

Tái sanh trong thời đức Phật hiện tại ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn, ngài được đặt tên là Belatthakàni. Sau khi nghe đức Phật thuyết giảng, ngài xuất gia, tu tập chỉ quán trong một khu rừng ở Kosala. Nhưng ngài rất biếng nhác và hay nói lời thô ngữ, do vậy tâm tư ngài không chơn chánh để tu tập, Thế Tôn biết được thiền quán chín muồi của ngài, khích lệ ngài với bài kệ như sau:

  1. Từ bỏ đời cư sĩ,
    Trách nhiệm chưa làm xong,
    Dùng miệng như cái cày,
    Bụng ăn no, biếng nhác,
    Như con heo to lớn,
    Ðồ ăn thật đầy đủ,
    Kẻ nhác lại liên tục,
    Ði đến chỗ thai tạng.

Như thấy đức Bổn Sư trước mặt, ngài cảm thấy xúc động mãnh liệt khi nghe bài kệ này và triển khai thiền quán, không bao lâu chứng quả A-la-hán, ngài dùng bài kệ này nói lên chánh trí của ngài.

(CII) Setuccha (Thera. 15)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một vị Của địa phương. Không thể giữ nước nhà độc lập, ngài bị mất ngôi vua. Lang thang trong nước với tâm tư sầu khổ, ngài thấy và nghe Thế Tôn thuyết pháp, xuất gia, chứng quả A-la-hán. Cân nhắc trong bài kệ, chống đối đời thế tục, ngài nói lên chánh trí của ngài:

  1. Bị kiêu mạn lừa đảo,
    Tâm uế nhiễm trong hành,
    Lợi bất lợi, dao động,
    Họ không chứng thiền định.

(CIII) Bandhura (Thera. 15)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở thành Silàvatì, con của một người nghị sĩ được đặt tên là Bandhara. Một hôm, đi đến Sàvatthi có công việc, ngài đi với một số cư sĩ đến ngôi tinh xá, nghe Thế Tôn thuyết giảng, khởi lòng tin, xuất gia và chứng quả A-la-hán. Ðể đền ơn vị vua của mình, đã giúp đỡ cho ngài thành công, ngài đi đến Sìlavatì để thuyết pháp, giảng cho vị vua về Bốn sự thật. Vị vua trở thành một Phật tử, xây dựng một ngôi tinh xá lớn đặt tên là Sudassana, cúng dường cho ngài. Ngài cúng dường tất cả cho giáo hội, đi khất thực như lúc trước và ngài muốn đi đến Sàvatthi. Các Tỷ-kheo nói với ngài: ‘Hãy ở lại đây với chúng tôi, nếu Hiền giả thiếu thốn điều gì, chúng tôi sẽ tìm kiếm cho Hiền giả!’. Ngài trả lời: ‘Tôi không có cần điều gì khác, tôi sống với những gì tôi có được. Tôi tự bằng lòng với vị của Chánh pháp’. Và ngài nói lên bài kệ:

  1. Ta không có cần thiết,
    Việc này hay vật này,
    Ta sống trong hạnh phúc,
    Thọ hưởng được pháp vị.
    Sau khi uống vị ngọt,
    Tối thượng và đệ nhất,
    Ta sẽ không thân thiết,
    Với thuốc độc nọc độc.

(CIV) Khitaka (Thera. 15)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ), trong gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên, nghe danh tiếng của ngài Mahà Moggallàna (Ðại Mục-kiền-liên) về thần thông lực, ngài nghĩ: ‘Ta rồi cũng sẽ như vậy’. Thúc đẩy bởi thiện duyên đời trước, ngài xuất gia tinh tấn tu tập chỉ và quán, không bao lâu chứng được sáu thắng trí. Rồi dùng sáu thắng trí ấy, ngài bắt đầu thi ơn cho chúng sanh với thần túc thông và tha tâm thông. Khi các Tỷ-kheo hỏi ngài: ‘Hiền giả Khitaka, có phải Hiền giả dùng thần thông?’, ngài trả lời với bài kệ:

  1. Thân ta thật nhẹ nhàng,
    Cảm xúc hỷ lạc lớn,
    Như bông thổi trước gió,
    Thân ta nhẹ trôi bay.

(CV) Malytavambha (Thera. 15)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn, ở thành phố Kurukaccha. Ngài được Trưởng lão Bacchabhu cảm hóa và xuất gia, tu tập thiền quán, ngài trú tại chỗ đồ ăn khất thực khó kiếm, chỗ nào ba đồ vật dụng cần thiết khó kiếm, còn đồ ăn khất thực dễ kiếm thời ngài bỏ đi. Tiếp tục như vậy, và nhờ thiện duyên đời trước, ngài trở thành bậc Ðại nhân, phát triển thiền quán và chứng được quả A-la-hán. Suy nghĩ trên quả chứng của mình, ngài nói lên bài kệ:

  1. Ta không muốn an trú,
    Khi ta không vừa ý,
    Chỗ nào có lạc thú,
    Ta liền rời bỏ đi,
    Tại chỗ nào mục đích,
    Không phải không liên hệ,
    Chỗ ấy, người có mắt,
    Có thể an trú được.

(CVI) Suhemanta (Thera. 15)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở nơi biên địa, con một Bà-la-môn giàu có, ngài đến nghe đức Phật thuyết pháp, tại vườn Lộc Uyển ở thành phố Sankassa, Ngài xuất gia và trở thành người tụng đọc ba Tạng, cuối cùng chứng được sáu thắng trí. Ngài suy nghĩ: ‘Ta đã được những gì một người đệ tử có thể chứng. Vậy ta hãy phục vụ cho giáo hội’. Rồi ngài thuyết giảng cho các Tỷ-kheo và giải quyết các vấn đề khó khăn của các vị ấy. Một hôm, ngài nói với đại chúng và các người có trí như sau:

  1. Tại chỗ nào mục đích,
    Trăm tánh, tướng ẩn chứa,
    Kẻ ngu thấy một phần,
    Kẻ trí thấy trăm phần.

Như vậy, vị Trưởng lão nói lên trước các Tỷ-kheo về trí tuệ, phân tích biệt tài của ngài.

(CVII) Dhammasava (Thera. 15)

Sanh tại xứ Magadha (Ma-kiệt-đà), trong một gia đình Bà-la-môn, bị thúc đẩy bởi điều kiện chín muồi, ngài chọn đời sống xuất gia, bỏ đời sống thế tục. Tìm gặp bậc Ðạo Sư ở núi Nam Sơn, ngài nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, xin xuất gia, sau một thời gian chứng quả A-la-hán. Hoan hỷ với quả chứng của mình, ngài nói lên bài kệ:

  1. Cân nhắc, suy tư xong,
    Ta xuất gia, không nhà,
    Ba minh ta đạt được,
    Lời Phật dạy, làm xong.

(CVIII) Phụ Thân Của Dhammasava (Thera. 15)

Ngài theo gương người con, nói rằng: ‘Con ta từ bỏ đời sống thế tục khi còn trẻ như vậy, sao ta không noi theo gương?’ Rồi ngài tìm gặp Thế Tôn xuất gia, không bao lâu chứng quả A-la-hán và nói lên bài kệ:

  1. Với tuổi trăm hai mươi,
    Ta xuất gia không nhà,
    Ba minh ta đạt được,
    Lời Phật dạy, làm xong.

(CIX) Langha Rakkhita (Thera. 16)

Trong thời đức Phật tại thế , sanh trong một gia đình giàu có ở Sàvatthi. Ngài tìm được lòng tin, xuất gia, lấy một đề tài để thiền quán, và cùng với một Tỷ-kheo sống trong rừng. Không xa chỗ ngài ở, có con nai mẹ nuôi con nai con trong một đám cây rậm rạp, vì thương con, con nai mẹ không đi xa được, nên phải đói khát, không đủ cỏ, nước gần đó. Thấy vậy, ngài nói: ‘Thật vậy, thế giới này bị ái triền trói buộc, sống trong đau khổ, không thể chặt đứt được!’. Với cảm thọ ấy để khích lệ, ngài phát triển thiền quán, chứng quả A-la-hán. Thấy bạn mình nuôi dưỡng nhiều tư tưởng sai lầm, ngài giáo giới bạn mình với bài kệ như sau:

  1. Dầu có sống cô độc,
    Với lòng thương từ mẫn,
    Của bậc đã lo nghĩ,
    Ðến hạnh phúc tối thượng,
    Vị này vẫn không nghĩ,
    Ðến lời dạy Bổn Sư.
    Như vậy vị ấy sống,
    Với căn còn mộc mạc,
    Chẳng khác con nai cái,
    Non yếu trong khu rừng.

Khi nghe những lời này, vị Tỷ-kheo kia bị dao động mạnh, phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán.

(CX) Usabha (Thera. 16)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình giàu có ở Kosala, ngài khởi lên lòng tin khi bậc Ðạo Sư nhận lãnh tinh xá Jetavana (Kỳ Viên). Sau khi hành trì hạnh Sa-di, ngài sống trong rừng dưới chân núi. Vào mùa mưa, các mây xả mưa xuống cây cỏ trong rừng, các bụi cây nhóm cây đều đầy những hoa lá. Rồi ngài từ hang đi ra, thấy cây cối xanh tươi đẹp nên nghĩ rằng: ‘Các cây và các cây lau này không có ý thức, tuy vậy với mùa mưa tiếp sức, chúng được lớn mạnh. Sao ta lại không làm lớn mạnh các đức tánh tốt đẹp khi ta đã đạt thời tiết thuận tiện?’ Rồi ngài nói lên bài kệ, tuyên bố chánh trí của ngài, và với tinh tấn nghị lực, ngài chứng quả A-la-hán.

  1. Những cây được vươn cao,
    Nhờ mây cao tưới mát,
    Với mưa mới thấm nhuần,
    Ðược xanh tươi lớn mạnh,
    Ðối với U-xa-bha,
    Ưa thích sống viễn ly,
    Ý thức được rừng núi,
    Vị ấy khiến sanh khởi,
    Rất nhiều điều tốt đẹp.

Phẩm Mười Hai

(CXI) Jenta (Thera. 16)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong nước Magadha (Ma-kiệt-đà), tại làng Jenta, con một vua địa phương. Khi đang còn trẻ, vì nghiệp duyên thúc đẩy, ngài muốn xuất gia, suy tư đến đời sống thoát tục. Ngài nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, rồi xuất gia. Tinh cần tu tập, hân hoan trong thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Suy tư đến quả chứng của mình, nhớ đến những phân vân phải gặp lúc trước, ngài phấn khởi nói lên bài kệ:

  1. Khó thay, đời xuất gia,
    Khó thay, đời cư sĩ,
    Sâu kín thay, Chánh pháp,
    Khó kiếm thay, tài sản,
    Lựa chọn thật khó khăn,
    Nếp sống này, sống khác,
    Khi tâm trí, luôn luôn,
    Nghĩ đến lẽ vô thường.

(CXII) Vacchagotta (Thera. 16)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con một Bà-la-môn giàu có. Vì có đến bốn vị Trưởng lão tên Vaccha, ngài được gọi là Vacchagotta. Khi đến tuổi trưởng thành, giỏi về Bà-la-môn giáo điển, ngài cảm thấy không thỏa mãn, vì không tìm thấy lõi cây trong sự học hỏi ấy, sau ngài trở thành một du sĩ. Nhờ vậy, ngài gặp bậc Ðạo Sĩ, bằng lòng với những câu trả lời, ngài xuất gia, và sau một thời gian, chứng được sáu thắng trí, hân hoan với quả chứng và nếp sống của mình, ngài nói lên bài kệ:

  1. Ta chứng được Ba minh,
    Ðạt được đại thiền định,
    Tâm chỉ được thiện xảo,
    Ta đạt được mục đích,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CXIII) Vanavaccha (Thera. 16)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một Bà-la-môn giàu có ở Ràjagaha (Vuơng Xá), được đặt tên là Vanavaccha. Ngài khởi lòng tin khi bậc Ðạo Sư hội kiến với vua Bimbisàra (Bình-sa). Sau ngài xuất gia, chứng quả A-la-hán. Khi đã chứng quả A-la-hán, ngài sống trong rừng, thiên tu hạnh viễn ly, do vậy được gọi là Vanavaccha. Một hôm, ngài muốn giúp ích cho bà con đi đến Ràjagaha, sống trong một chỗ ở nhỏ, và nói với họ nếp sống của mình. Các bà con yêu cầu ngài dùng bài kệ này nói lên ngài ưa thích sống ở rừng núi và hành trì hạnh viễn ly:

  1. Dưới tảng đá, băng đá
    Có nước suối, trong chảy,
    Có khỉ và có nai,
    Lai vãng sống gần bên,
    Cỏ cây bao trùm nước,
    Núi rừng ấy, ta ưa.

Bài kệ này trở thành lời nói chánh trí của ngài.

(XIV) Adhimutta (Thera. 16)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn giàu có ở Sàvatthi, tên là Adhimutta. Ngài cảm thấy bất mãn khi thấy giáo lý Bà-la-môn không có gì căn bản. Chứng kiến uy nghi đức độ của đức Phật khi tinh xá Kỳ Viên được dâng cúng, ngài xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán, ngài giáo giới các Tỷ-kheo sống với ngài, các vị này rất là lực lưỡng, với bài kệ sau đây:

  1. Trong nếp sống tâm tư,
    Hướng về hạnh từ bỏ,
    Với thân thể thô lỗ,
    Nặng nề như thế này,
    Nếu ham muốn thân thể,
    Ðược thọ hưởng các lạc,
    Từ đâu thành tựu được,
    Hạnh của bậc Sa-môn?

(CXV) Mahànàma (Thera. 16)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Sàvatthi trong gia đình một Bà-la-môn, được đặt tên là Mahànàma, ngài được nghe Thế Tôn thuyết pháp, khởi lòng tin và xuất gia. Lấy một đề tài làm thiền quán, ngài sống trên một ngọn đồi tên là Nesàdka. Không thể chận đứng được các dục tưởng khởi lên, ngài tuyên bố: ‘Ðời này của ta có ý nghĩa gì, với tâm tư uế nhiễm như vậy’. Tự nhàm chán với chính mình, ngài leo lên một đỉnh núi, và như muốn lao mình xuống, ngài nói với chính mình như nói với một người khác: ‘Ta sẽ giết nó!’ với bài kệ như sau:

  1. Hãy xem, sao đời nay,
    Lại chấm dứt ở đây,
    Với hòn núi nhiều ngọn,
    Và nhiều cây cối này?
    Núi Nesàdaka,
    Một ngọn núi có danh,
    Rập rạp với cỏ cây,
    Che kín trùm tất cả.

Tự mình trách móc như vậy, vị Trưởng lão phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Bài kệ trên trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(CXVI) Pàràpariya (Thera. 17)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Ràjagaha (Vương Xá) và trở thành rất giỏi trong ba tập Vệ-đà. Vì ngài thuộc dòng họ Pàràpara, ngài được gọi là Pàràpariya và dạy các bùa chú. Ngài thấy oai nghi đức độ của đức Bổn Sư ở Pàràjagaha, xin xuất gia và chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Nghĩ đến đời sống hành đạo của mình, ngài nói lên sự phấn khởi hân hoan của ngài, ngang qua bài kệ:

  1. Từ bỏ sáu xúc xứ,
    Căn môn khéo chế ngự,
    Gốc tà ác, nhổ sạch,
    Ta đạt lậu hoặc tận.

Bài kệ này trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(CXVII) Yasa (Thera. 17)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình nhân sĩ rất giàu có ở Benares (Ba-la-nại). Ngài được nuôi dưỡng rất tinh tế, và có ba lâu đài hợp với ba mùa. Một đêm, do nhân duyên quá khứ thúc đẩy ngài thấy cảnh bất tịnh của những người hầu cận ngài. Quá xúc động trước cảnh tượng ấy, ngài đi đôi dép vàng, từ bỏ thành, nhà và được chư Thiên mở cửa thành cho. Ngài đi đến Isipatana (Chư Thiên đọa xứ), vừa đi vừa than ‘Ôi sầu khổ thay! Ôi nguy hiểm thay!’. Lúc ấy, Thế Tôn đang đi ngoài trời ở Isipatana, thấy Yasa như vậy liền gọi: ‘Hãy đến đây, này Yasa! Ở đây, không có sâu khổ, không có nguy hiểm!’. Nghe vậy, ngài rất hoan hỷ, cởi dép để một bên, ngồi xuống bên cạnh Thế Tôn. Bậc Ðạo Sư thứ lớp thuyết giảng cho Yasa về Bốn sự thật, khi giảng xong. Ngài trở thành một Phật tử. Và khi đức Phật thuyết giảng cho phụ thân Yasa đến kiếm ngài, ngài chứng quả A-la-hán.

Rồi đức Phật đưa bàn tay mặt ra đón Yasa và nói: ‘Hãy đến, này Tỷ-kheo’, khi nói vậy, tóc của Yasa được cắt ngắn lại bằng hai ngón tay và có được đầy đủ tám vật cần dùng. Suy tư đến quả chứng và nếp sống của mình, ngài cảm thấy hân hoan khi nghe hai chữ: ‘Hãy đến đây, Tỷ-kheo’ và nói lên bài kệ:

  1. Khéo thoa xức, khéo mặc,
    Dùng mọi loại thời trang,
    Ta chứng được Ba minh
    Lời Phật dạy làm xong.

(CXVIII) Kimliba (Thera. 17)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), trong một gia đình một vị vua dòng họ Thích-ca, tên là Kimbila, ngài hưởng được tài sản rất nhiều. Bậc Ðạo Sư thấy được thiền quán của ngài chín muồi khi ngài ở Anupiya, để khích lệ ngài, Thế Tôn cho hiện lên một nữ nhân rất đẹp trong tuổi trẻ và làm cho ngài thấy nữ nhân ấy từ tuổi trẻ bước qua tuổi già. Kimbila thấy vậy rất xúc động và nói lên bài kệ:

  1. Như bị lời trù yếm,
    Tuổi già đến áp đảo,
    Dung sắc bị đổi khác,
    Nhưng cũng dung sắc trước;
    Vị ấy như thế nào,
    Không có gì thay đổi,
    Nhưng ta chớ tự ngã,
    Có gì đã đổi khác.

Nghĩ đến lẽ vô thường, ngài cảm thấy dao động mạnh, và đi đến bậc Ðạo Sư, nghe pháp, xuất gia và sau một thời gian, chứng quả A-la-hán. Ngài nhấn mạnh cái nhìn thường hằng trước của ngài đối với sự vật, và nói lại bài kệ, này như nói lên chánh trí của ngài.

(CXIX) Vajji-Putta (Thera. 17)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một vị vua Licchaivì ở Vesàli, và được gọi là con của Vajji, vì phụ thân thuộc về dòng họ này. Khi còn trẻ, thiên về huấn luyện voi, thúc đẩy bởi nhân duyên chín muồi để giải thoát, ngài đi đến tinh xá đúng lúc bậc Ðạo Sư thuyết giảng, sau khi nghe, ngài xuất gia, sau một thời gian chứng sáu thắng trí.

Sau một thời gian, sau khi bậc Ðạo Sư vừa nhập Niết-bàn, ngài cùng với các bậc Trưởng lão thỏa thuận cố gắng duy trì Chánh pháp không có suy suyển, và cùng với các vị Trưởng lão đi từ chỗ này đến chỗ kia. Một hôm ngài thấy Tôn giả Ananda đang thuyết pháp cho một số đông người, để khích lệ Tôn giả Ananda chứng quả cao hơn, ngài nói lên bài kệ này:

  1. Hãy đi đến khu rừng,
    Rậm rạp những rễ cây,
    Hãy để cho Niết-bàn,
    Chìm sâu vào tâm người,
    Hỡi này Go-ta-ma!
    Hãy tu tập thiền định,
    Việc làm lăng xăng này,
    Có nghĩa gì cho ông.

(CXX) Isidatta (Thera. 17)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh trong xứ Avanti, tại vườn Velugàma, làm con một người lữ hành trưởng, ngài trở thành bạn của Citta, một gia chủ ở Macchikasanda, bằng cách giao thiệp thư từ đầu cho hai người chưa gặp nhau. Citta viết cho ngài về sự tuyệt diệu của đức Phật, gửi cho ngài tư liệu về tổ chức giáo hội, ngài cảm thấy xúc động mạnh và xin xuất gia, với sự chỉ đạo của Mahà Kaccàna (Ðại Ca-chiên-diên). Cuối cùng ngài chứng được sáu thắng trí, ngài quyết định đi đến yết kiến đức Phật, từ biệt Trưởng lão, và đi đến xứ Trung biên (thung lũng sông Hằng) yết kiến đức Bổn sư. Bậc Ðạo Sư hỏi ngài về sự tiến bộ trên đường tu hành, ngài trả lời: ‘Từ khi con tu tập trong Pháp và Luật của Ngài, mọi sầu khổ đều chấm dứt, và con sống không có sợ hãi’. Rồi ngài nói lên chánh trí của mình với bài kệ như sau:

  1. Năm uẩn được rõ biết,
    Ðứng với rễ chặt đứt,
    Khổ diệt đã đạt được,
    Lậu hoặc diệt, ta chứng.

Chương II – Hai Kệ

-ooOoo-

Phẩm Một

(CXXI) Utara (Thera. 18)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con một Bà-la-môn có danh tiếng, được đặt tên là Uttara. Ngài thông suốt giáo điển Vệ-đà, và có danh tiếng về gia tộc, về dung sắc, về thông minh, về đức hạnh. Vassakàra, một vị bộ trưởng có danh ở Magadha (Ma-kiệt-đà), thấy những thành tích của ngài, muốn gả con gái cho ngài, nhưng ngài đã thiên về hạnh giải thoát nên đã từ chối và ngài đến nghe ngài Sàriputta (Xá-lợi-phất) thuyết giảng. Với lòng tin, ngài xuất gia, làm tròn bổn phận của người Sa-di, hầu hạ Tôn giả Sàriputta.

Một hôm, Tôn giả Sàriputta bị bệnh, Uttara đi tìm một y sĩ chữa bệnh, ngài đặt bình bát ngài trên bờ hồ để xuống hồ nước súc miệng. Một người ăn trộm, bị lính đuổi, chạy ra khỏi cửa thành, khi chạy ngang liền quăng bỏ các châu báu đánh cắp vào trong bình bát của người Sa-di và bỏ chạy. Khi các người lính đến, thấy đồ châu báu trong bình bát của ngài liền bắt ngài đưa đến Bà-la-môn Vassakàra để trừng phạt ngài.

Ðức Phật nhận thấy thiền quán của ngài đã chín muồi, nên đi đến ngài, đặt nhẹ tay trên đầu ngài và nói: ‘Ðây là kết quả nghiệp trước của Thầy, Thầy cần phải chấp nhận nhờ sức mạnh suy tư’. Rồi Thế Tôn thuyết pháp cho ngài, Uttara vì nhờ đức Phật đặt nhẹ tay trên đầu, tâm tư được phấn khởi, nhờ thiền quán chín muồi, nhờ uy nghi đức độ của bậc Ðạo Sư, ngài cảm thọ hỷ lạc, đoạn tận các uế nhiễm, chứng sáu thắng trí. Vươn mình lên khỏi cột trụ, ngài đứng trên hư không, hiển hiện thần thông vì lòng từ mẫn đối với kẻ khác. Trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, các vết thương của ngài được lành hẳn khi được các Tỷ-kheo khác hỏi: ‘Thưa Hiền giả, làm sao khi Hiền giả đau khổ như vậy, Hiền giả có thể phát triển thiền quán?’. Ngài trả lời ‘Khi tôi thấy rõ được sự đau khổ của mình tái sanh, và tánh nhân duyên sanh của sự vật, thời sự nguy hiểm của sự đau khổ ít hơn, hiện tại không ngăn tôi phát triển thiền quán và chứng được kết quả.

  1. Không có gì có mặt,
    Lại thường còn mãi mãi,
    Không có các hành gì,
    Lại thường hằng thường trú.
    Các uẩn được khởi lên,
    Ðến đời khác diệt vong.
  2. Biết được nguy hiểm này,
    Ta không muốn sanh hữu,
    Từ bỏ tất cả dục,
    Ta chứng lậu hoặc tận.

(CXXII) Pindola-Bhàradvàja (Thera. 18)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con của vị giáo sĩ của vua Udena xứ Kosambi, được đặt tên là Bhàradvàja. Sau khi học tập ba tập Vệ-đà, dạy các bài chú, bài tụng rất thành công cho các thanh niên Bà-la-môn, ngài chán ngấy với công việc đang làm. Từ giã họ, ngài đi đến Ràjagaha (Vương Xá), thấy chúng Tỷ-kheo được trọng vọng cúng dường, ngài xuất gia. Với phương pháp Phật dạy, ngài tiết độ trong ăn uống và chứng được sáu thắng trí.

Ngài tuyên bố trước mặt đức Bổn Sư rằng ngài sẵn sàng trả lời tất cả những câu hỏi của Tỷ-kheo nào nghi ngờ đến con đường và kết quả, như vậy, ngài rống tiếng rống con sư tử, đức Phật nói về ngài như sau: ‘Trong các đệ tử của Ta rống tiếng rống con sư tử, Pindola Bhàradvàja là đệ nhất’.

Rồi một người bạn cũ đến thăm ngài, một Bà-la-môn có tánh keo kiết. Vị Trưởng lão khuyên bạn nên cúng dường chúng Tăng. Vì bạn ngài tin rằng ngài cũng ích kỷ và nghĩ đến tư lợi, nên ngài dùng bài kệ để giáo giới bạn ngài:

  1. Nói về đời sống này,
    Không phải không có luật,
    Nhưng các món đồ ăn,
    Không có gì gần tâm
    Do có các món ăn,,
    Thân thể được tồn tại,
    Thấy vậy, ta bộ hành,
    Tìm kiếm các món ăn.
  2. Bậc trí kinh nghiệm rằng:
    Thật sự là đám bùn,
    Ðảnh lễ và cúng dường,
    Xuất phát tự gia đình,
    Như mũi tên tế nhị,
    Rất khó nhổ được ra,
    Cũng vậy với kẻ ngu,
    Cung kính khó từ bỏ.

(CXXIII) Valliya (Thera. 18)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ), con một Bà-la-môn tên tuổi, được đặt tên là Valliya. Khi đến tuổi trưởng thành, làm chủ được các căn, ngài làm bạn với người có giới đức. Rồi ngài đi đến Thế Tôn, khởi lòng tin, xuất gia, phát triển thiền quán, chứng quả A-la-hán. Nghĩ đến quá khứ với các sự vật thế tục, ham muốn, và như thế nào nhờ Thánh đạo, ngài thoát ly các chi phối ấy, ngài nói lên chánh trí của ngài:

  1. Trong chòi nhỏ, năm cửa,
    Có con khỉ đi vào,
    Loanh quanh từng cửa một,
    Nó va chạm từng giây!
  2. Này khỉ, hãy dừng lại!
    Chớ có chạy như vậy,
    Ngươi không còn như trước,
    Trí tuệ cầm giữ ngươi,
    Ngươi đâu còn có thể,
    Ði xa như trước được.

(CXXIV) Gangàtiriya (Thera. 18)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Sàvatthi làm con một thị dân, được đặt tên là Datta. Trong đời sống thế tục, vì ngu si ngài phạm lỗi lầm, biết được lỗi lầm của mình, ngài sanh sầu khổ và xuất gia. Hối hận vì hành vi của mình, ngài chọn đời sống khổ hạnh, ở trên bờ sông Hằng, làm một chòi lá để ở; do vậy, ngài được gọi là Gangàtiriya (người ở trên bờ sông Hằng). Ngài nguyện không nói với một ai, như vậy cả năm, ngài không thốt ra một lời nào. Trong năm thứ hai, một nữ nhân trong làng thường cúng dường ngài, muốn biết ngài có câm hay không khi dâng sữa cúng dường, làm đổ sữa ra ngoài. Ngài mới nói: ‘Thôi vừa rồi, bà chị’. Nhưng đến năm thứ ba, ngài chứng quả A-la-hán, ngài nói lên chánh trí của ngài ngang qua lời bài kệ, tán thán hạnh cũ của ngài:

  1. Trên bờ sông Hằng Hà,
    Dùng ba lá thốt nốt,
    Ta dựng lên cho ta
    Một chòi lá nho nhỏ,
    Bát ta là cái ghè,
    Dùng cúng sữa người chết,
    Còn y áo của ta
    Lượm chắp từ đống rác.
  2. Suốt hai năm sống vậy.
    Ta chỉ nói một chữ,
    Trong khoảng năm thứ ba,
    Khối si ám tan tành.

(CXXV) Ajina (Thera. 18)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong gia đình một Bà-la-môn nghèo, và khi sanh ngài được đặt trong một tấm da dê rừng, do vậy được đặt tên là Ajina. Sống trong sự bần cùng, ngài chứng kiến uy nghi đức độ của đức Phật khi tinh xá Kỳ Viên được dâng cúng. Khởi lòng tin, ngài xuất gia và không bao lâu, chứng được pháp Thượng nhân, khi chứng được quả A-la-hán, vì nghiệp duyên quá khứ, ngài không được cung kính và biết đến. Một số Sa-di không biết khinh thường ngài, ngài làm họ dao động với bài kệ:

  1. Nếu chứng được Ba minh,
    Ðoạn tử, không lậu hoặc,
    Vị ấy vẫn có thể,
    Không được người biết đến,
    Và kẻ ngu không biết,
    Có thể sanh khinh thường.
  2. Khi người ấy nhận được
    Ðồ ăn uống cúng dường,
    Dẫu cho có ác pháp,
    Vẫn được họ kính trọng.

(CXXVI) Melajina (Thera. 19)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Benares (Ba-la-nại), trong gia đình một hoàng tộc, tên là Melajina, học giỏi và hạnh đức có tiếng khắp trong nước. Khi Thế Tôn ở Ba-la-nại, tại Isipatana (chư Tiên đọa xứ), Melajina đến nghe Ngài thuyết pháp, khởi lòng tin, xuất gia và chứng quả A-la-hán. Khi các Tỷ-kheo hỏi làm sao ngài chứng được pháp Thượng nhân, ngài rống lên tiếng rống con sư tử:

  1. Khi ta nghe Chánh pháp,
    Bậc Ðạo Sư thuyết giảng,
    Ta thắng tri nghi hoặc,
    Bậc toàn trí, toàn thắng.
  2. Ðối vị trưởng lữ đoàn,
    Với vị đại anh hùng,
    Trong các bậc đánh xe
    Bậc tối thắng vô thượng,
    Ðối con đường, lộ trình
    Ta không có nghi hoặc.

(CXXVII) Ràdha (Thera. 19)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Ràjagaha (Vuơng Xá), là người Bà-la-môn. Trong khi ngài lớn tuổi, ngài không làm được bổn phận của ngài. Không được chấp nhận, ngài đi đến Thế Tôn, nói lên những ước muốn của ngài. Bậc Ðạo Sư thấy được những điều kiện căn bản được đầy đủ, nên bảo Sàriputta chấp nhận ngài xuất gia. Không bao lâu, ngài chứng quả A-la-hán. Sau đó, ngài sống gần bên bậc Ðạo Sư, trở thành một vị thuyết giảng đột xuất nhờ những lời thuyết giảng của bậc Ðạo Sư. Một hôm, thấy rõ vì sao không khéo tự huấn luyện chế ngự khiến các dục vọng có thể sanh khởi, ngài nói lên bài kệ để khích lệ giáo giới:

  1. Như mái nhà vụng lợp,
    Mưa dễ thấm ướt vào,
    Cũng vậy, tâm vụng tu
    Tham ái được xâm nhập.
  2. Như mái nhà khéo lợp
    Mưa không thể thấm vào,
    Cũng vậy, tâm khéo tu
    Tham ái không xâm nhập.

(CXXVIII) Suràdha (Thera. 19)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm em trai của vị Ràdha, vâng theo gương của người anh, ngài xuất gia và chứng quả A-la-hán. Ðể nêu rõ sự hướng dẫn các giới luật, ngài nói lên chánh trí của mình như sau:

  1. Sanh của ta đã tận,
    Chiến thắng dạy, làm xong,
    Lưới danh được đoạn diệt,
    Gốc sanh hữu nhổ lên.
  2. Mục đích hạnh xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Ðích ấy đã đạt được,
    Mọi kiết sử, diệt xong.

(CXXIX) Gotama (Thera. 19)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Gotama. Khi còn trẻ, ngài giao du với kẻ không tốt, bao nhiêu tài sản ngài cho một kỹ nữ. Hối hận nếp sống bất chính của mình, ngài mơ thấy hình ảnh bậc Ðạo Sư đang ngồi, với tâm tư hiểu biết tâm trạng của ngài. Bậc Ðạo Sư biết được tiến bộ của ngài, sự thành tựu các nhân duyên thiết yếu, nên thuyết pháp cho ngài. Ngài khởi lòng tin, xuất gia, chứng quả A-la-hán, khi con dao đụng đến tóc ngài, khi ngài đang thọ hưởng lạc thiền định và quả giải thoát. Một cư sĩ hỏi ngài về tài sản của ngài, ngài thú nhận ngài sống không được nghiêm túc, sống phi Phạm hạnh, và với sự trong sạch hiện tại không có dục vọng, ngài nói lên chánh trí của ngài:

  1. Bậc ẩn sĩ nằm ngủ,
    Sống an lạc hạnh phúc,
    Họ không bị nữ nhân,
    Trói buộc và chi phối.
    Nữ nhân, phải luôn luôn
    Phòng hộ và chế ngự.
    Sự thật về nữ nhân,
    Thật khó được chấp nhận.
  2. Hỡi này các dục vọng,
    Ta quyết giết các ngươi,
    Nay chúng ta đối ngươi,
    Không còn gì nợ nần,
    Chúng ta nay đi đến
    Cảnh giới gọi Niết bàn,
    Ði đến tại chỗ ấy
    Không còn có sầu muộn.

(CXXX) Vasabha (Thera. 19)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Vesàli, con vị vua địa phương Licchavì. Ðược cảm hóa bởi uy nghi đức độ của đức Phật khi Ngài đến thăm Vesàli, ngài xuất gia, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Biết ơn những ai ủng hộ ngài, ngài không có từ chối những vật dụng được cúng dường và hưởng thọ các vật cúng dường ấy. Người thường dâng cho ngài thích thọ hưởng, nhưng ngài không để ý những lời phê bình ấy.

Gần ngài có một vị Tỷ-kheo giả dối, lừa gạt quần chúng bằng cách giả dối sống thiểu dục tri túc, do vậy được quần chúng tôn trọng. Rồi thiên chủ Sakka (Ðế thích) thấy được sự giả dối này, đi đến Trưởng lão Vasabha hỏi: ‘Thưa Tôn giả, kẻ giả dối kia sao lại làm vậy?’. Ngài trả lời với bài kệ, chỉ trích kẻ ác bất thiện kia:

  1. Trước nó giết tự ngã,
    Sau nó giết người khác,
    Họ khéo giết tự ngã,
    Như chim mồi, mồi chim.
  2. Không phải Bà-la-môn,
    Với dung sắc bên ngoài,
    Bà-la-môn chính thống,
    Phải dung sắc bên trong,
    Với ai, làm ác nghiệp,
    Người ấy là hắc nhân,
    Là chồng của Sujà.

Phẩm Hai

(CXXXI) Mahàcunsa (Thera. 20)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở nước Magadha (Ma-kiệt-đà), làng Nàlaka, con của nữ Bà-la-môn Rùpusàri và em trai của Sàriputta. Ngài theo gương anh, xuất gia, và sau một thời gian tinh cần tu hành, chứng đuợc quả A-la-hán. Phấn khởi với quả chứng của mình và đời sống viễn ly, ngài nói lên bài kệ:

  1. Khéo nghe, nghe tăng trưởng,
    Nghe tăng trưởng, phát tuệ,
    Nhờ tuệ biết ý nghĩa,
    Nghĩa được biết, lạc đến.
  2. Hãy trú chỗ xa vắng,
    Hãy sống, thoát kiết sử,
    Tại đấy, hỷ chưa đạt,
    Hãy sống giữa chúng Tăng,
    Tự ngã được chế ngự,
    An trú trong chánh niệm.

(CXXXII) Jotidàra (Thera. 20)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh làm con một Bà-la-môn giàu có, ở xứ Pàdiyattha, được đặt tên là Jotidàsa. Khi đến tuổi trưởng thành, một hôm, ngài thấy Tôn giả Ðại Ca-diếp (Mahà Kassapa) đi khất thực, ngài đón Tôn giả tại nhà và nghe Tôn giả thuyết pháp. Trên một ngọn đồi gần làng, ngài dựng lên một tinh xá lớn cho Tôn giả, cúng dường Tôn giả bốn vật dụng cần thiết. Bị xúc động với lời dạy của Tôn giả, ngài xuất gia và không bao lâu chứng được sáu thắng trí. Sau mười năm, ngài học ba Tạng, đặc biệt là Luật tạng, hầu hạ Tăng chúng và đi Sàvatthi cùng với một số đông Tỷ-kheo để yết kiến đức Phật. Trên đường đi, ngài đi đến vườn của một ẩn sĩ, thấy một Bà-la-môn hành trì khổ hạnh năm pháp ngài hỏi: ‘Này Bà-la-môn, sao Ông không đốt với một thứ lửa khác?’. Vị Bà-la-môn tức giận trả lời: ‘Này kẻ trọc đầu kia, ngọn lửa khác là gì?’. Trưởng lão trả lời:

Sân, tật đố, ác hạnh
Mạn, kiêu và tranh chấp,
Tham ái và vô minh,
Lòng ưa muốn tái sanh,
Những pháp này đốt cháy,
Thiêu đốt cả thân ông.

Rồi ngài thuyết pháp cho người ấy, và tất cả những người tin vào Phạm thiên xin ngài được xuất gia. Khi từ giã Sàvatthi, ngài đến thăm gia đình cũ của ngài và giáo giới các bà con như sau:

  1. Những ai dùng dây thừng,
    Hành cướp giật nhiều cách,
    Những dân họ hung bạo,
    Làm não hại người khác,
    Như vậy, họ gieo hại,
    Vì nghiệp không tiêu mất.
  2. Người nào làm nghiệp gì,
    Nghiệp thiện hay nghiệp ác,
    Họ thừa tự nghiệp ấy,
    Loại nghiệp họ đang làm.

(CXXXIII) Herannakàni (Thera. 20)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một tay sai của vua Kosala và cầm đầu bọn cướp. Khi phụ thân ngài mất, ngài thừa tự chức vụ ấy. Ðược cảm hóa khi chứng kiến lễ đức Phật tiếp nhận Jetavana (Kỳ Viên), ngài cho người em trai thế chức vụ. Ngài xuất gia, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi ngài tìm cách khuyên em ngài từ bỏ nghề cũ, và thấy em ngài thích thú nghề của mình, ngài khích lệ em với bài kệ như sau:

  1. Ðêm ngày chạy, trôi qua,
    Mạng sống bị tổn giảm
    Tuổi thọ người hủy diệt,
    Như nước dòng suối con.
  2. Kẻ ngu làm ác hạnh,
    Không hiểu việc mình làm,
    Về sau bị khổ đau,
    Khi ác nghiệp chín muồi.

Nghe lời khuyên của ngài, người em xin phép vua nghỉ việc, xuất gia và không bao lâu được giải thoát.

(CXXXIV) Somamitta (Thera. 20)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Benares trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Somamitta. Ngài trở thành một vị thông hiểu ba tập Vệ-đà, và được Trưởng lão Vimala cảm hóa, ngài xuất gia, ngài sống gần gần vị Trưởng lão, làm trọn bổn phận của mình. Nhưng vị Trưởng lão trở thành biếng nhác và ham ngủ, Somamitta suy nghĩ: ‘Ai có thể có giới đức, sống gần một người biếng nhác?’. Rồi ngài đi đến Tôn giả Mahà Kassapa (Ðại Ca-diếp) nghe thuyết giảng, phát triển thiền quán, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi ngài chỉ trích Vimala với những câu kệ như sau:

  1. Như leo trên ván nhỏ,
    Giữa biển lớn bị chìm,
    Cũng vậy đến kẻ khác,
    Người hạnh tốt cũng chìm.
    Do vậy hãy bỏ nó,
    Kẻ làm biếng làm nhác.
  2. Hãy sống gần bậc Thánh,
    Bậc viễn ly, tinh cần,
    Thiền định, thường tinh tấn,
    Bậc Hiền trí sáng suốt.

Nghe vậy, Trưởng lão Vimala rất xúc động, phát triển thiền quán, tự minh tinh tấn để được giải thoát, không bao lâu chứng đạt được mục đích.

(CXXXV) Sabbamitta (Thera. 20)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Sàvatthi, được đặt tên là Sabbamitta. Chứng kiến lễ dâng cúng tinh xá Kỳ Viên, ngài thấy được uy nghi đức độ của đức Phật, xuất gia, lựa chọn một đề tài để thiền quán, ngài sống tại một khu rừng. Sau mùa mưa, ngài đi đến Sàvatthi để đảnh lễ đức Phật, trên đường đi, ngài thấy một con nai con bị sa vào bẫy người thợ săn, con nai mẹ tuy không bị lưới chụp nhưng vì thương con nai con nên không đi xa cũng không dám đến gần cái bẫy, con nai con lăn lộn qua lại, kêu lên những tiếng thảm thiết. Vị Trưởng lão suy nghĩ: ‘Ôi, tình thương đã đem lại sự đau khổ cho các loài hữu tình!’. Ði xa hơn nữa, ngài thấy nhiều tên cướp đang lấy rơm cột vào một người chúng bắt được để đem thiêu sống. Nguời ấy la lên và vị Trưởng lão cảm thấy sầu khổ đối với hai sự việc ấy, liền nói lên bài kệ để cho các tên cướp nghe.

  1. Người trói buộc vào người,
    Người bám víu vào người,
    Người bị người làm hại,
    Và người làm hại người.
  2. Lợi ích gì người ấy?
    Hay con cháu người sanh?
    Hãy bỏ người ấy đi,
    Người làm hại nhiều người.

Nói vậy, ngài đạt đến thiền quán, chứng quả A-la-hán. Còn các tên cướp, nghe lời giáo giới của ngài, cảm thấy xúc động, từ bỏ thế tục, và thực hành Chánh pháp.

(CXXXVI) Mahàkàla (Thera. 21)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở thành Setavyà, trong gia đình một người lái buôn, được đặt tên là Mahàkàla. Khi đến tuổi trưởng thành và sống ở nhà, ngài đem theo năm trăm xe hàng hóa để buôn bán ở Sàvatthi. Khi đang nghỉ vào buổi chiều, ngài thấy các cư sĩ đem hương hoa đi đến tinh xá Jetavana (Kỳ Viên) và ngài đi theo. Tại đấy ngài nghe đức Phật thuyết pháp, khởi lòng tin xuất gia, quyết định lựa chọn nghĩa địa làm đề tài thiền quán, ngài sống ở trong nghĩa địa. Một hôm, một người đàn bà làm nghề thiêu đốt thân thể, để cho vị Trưởng lão một đề tài thiền quán, nên chặt tay và chân của một thân mới thiêu, lấy sọ đầu làm bình bát đựng sữa, sắp đặt tay chân đặt chúng gần bậc Trưởng lão để ngài có thể thiền quán và ngồi xuống một bên. Vị Trưởng lão thấy vậy liền tự sách tấn mình với những bài kệ như sau:

  1. Nữ Kàlì, đẫy đà,
    Dung sắc như quạ đen,
    Bẻ gẫy một bắp vế,
    Lại bẻ bắp vế nữa,
    Bẻ gẫy một cánh tay,
    Lại bẻ cánh tay nữa,
    Lại bẻ gẫy cái đầu,
    Như bát đựng sữa đông.
    Này Kàlì ngồi xuống,
    Với lòng tin sẵn sàng.
  2. Ai không rõ biết vậy,
    Lại tác thành sanh y,
    Kẻ ngu bước đi đến,
    Chịu khổ đau liên tục,
    Do vậy ai hiểu biết,
    Không tạo nên sanh y,
    Ta sẽ không nằm xuống,
    Với đầu bị bẻ nát.

(CXXXVII) Tissa (Thera. 21)

Trong đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), trong một gia đình Bà-la-môn, tên là Tissa và trở thành một chuyên viên về ba tập Vệ-đà. Giảng bùa chú cho hơn năm trăm Bà-la-môn trẻ, và danh tiếng đồn vang. Khi Thế Tôn đến Ràjagaha (Vương Xá), Tissa thấy uy nghi đức độ của đức Phật, khởi lòng tin, xuất gia, về sau chứng quả A-la-hán,do phát triển thiền quán. Nhờ vậy, ngài trở thành có danh tiếng nữa.

Có một số Tỷ-kheo thiên về thế lợi, thấy ngài có được trọng vọng, nên không thể chịu nổi. Ngài biết như vậy, nói lên sự nguy hiểm của danh vọng và sự thoát ly của ngài đối với danh vọng, ngang qua những bài kệ này:

  1. Vị trọc đầu, đắp y,
    Ðược nhiều kẻ thù oán
    Khi nhận đồ ăn uống,
    Vải mặc và chỗ nằm.
  2. Biết nguy hiểm như vậy,
    Biết có sợ hãi lớn,
    Trong cung kính cúng dường;
    Vị Tỷ-kheo xuất gia,
    Nhận ít, không tham đắm,
    Luôn luôn giữ chánh niệm.

(CXXXVIII) Kimbila (Thera. 21)

Ngài gặp đức Phật, xúc động, xuất gia đã được nói trong chương một, với câu kệ : ‘Như bị cảm hóa bởi sức mạnh’. Ở đây, vị Trưởng lão sống thân thiết với các bạn, các Tôn giả Anuruddha, Bhaddiya.

  1. Trong vườn trúc phía Ðông,
    Các Thích tử thân hữu,
    Từ bỏ những tài sản,
    Không phải là ít oi,
    Vui thích với những gì,
    Nhận được từ bình bát.
  2. Siêng, tinh cần, tinh tấn,
    Thường kiên trì hăng hái,
    Ưa thích lạc pháp vị,
    Từ bỏ lạc thế gian.

(CXXXIX) Nanda (Thera. 21)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu, con vua Suddhodana (Tịnh Phạn) và bà Mahàpajàpati, vì đem lại hoan hỷ cho bà con nên được gọi là Nanda. Khi đến tuổi trưởng thành, bậc Ðạo Sư chuyển bánh xe pháp đi đến Kapilavatthu, với lòng từ mẫn độ chúng sanh. Nhân có dịp trời mưa, Thế Tôn kể chuyện tiền thân Vessantara. Trong ngày thứ hai, với câu kệ: ‘Hãy đứng dậy!’. Thế Tôn giúp cho phụ thân chứng quả Dự lưu. Với câu kệ: ‘Hãy sống theo Phạm hạnh’. Thế Tôn giúp bà Mahàpajàpati cũng chứng quả Dự lưu, rồi Thế Tôn giúp phụ thân chứng thêm quả Nhất lai. Ngày thứ ba khi đi khất thực tại phòng đăng quang, lúc mọi người đang chúc mừng hoàng tử Nanda trong ngày lễ đám cưới, bậc Ðạo Sư đưa bình bát, đi theo bậc Ðạo Sư đến tinh xá và đức Phật độ cho Nanda xuất gia, dầu ngài không bằng lòng.

Từ lúc ấy, biết được Nanda không ưa thích đời sống xuất gia, bậc Ðạo Sư tiếp tục giáo hóa cho đến khi Nanda, nhờ thiền định, phát triển thiền quán và đạt được quả A-la-hán. Về sau, hưởng thọ lạc giải thoát, ngài nói: ‘Ôi tuyệt diệu thay pháp môn Phật dạy. Nhờ vậy ta thoát khỏi sa lầy vào đầm tái sanh, đứng được trên bãi cát Niết-bàn’. Phấn khởi với suy nghĩ này, ngài nói lên những bài kệ:

  1. Không như lý tác ý,
    Ta chuyên trang sức ngoài,
    Ta thô tháo dao động,
    Say đắm trong tham dục.
  2. Với phương tiện thiện xảo,
    Ta, bà con mặt trời,
    Ðược hướng về chánh lý,
    Làm ta thoát sanh hữu.

Thế Tôn, biết được quả chứng tự tu, tự luyện của ngài, tuyên bố ngài là bậc tự chế ngự đệ nhất trong các đệ tử của Thế Tôn.

(CXL) Sirimat (Thera. 21)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ), trong nhà một thị dân, được đặt tên là Sirimat, vì gia đình ngài được luôn luôn may mắn, và thành công. Em trai của ngài, tăng trưởng tài sản được đặt tên là Sirivaddha (tăng trưởng sự may mắn). Cả hai thấy được uy nghi đức độ của đức Phật khi Kỳ Viên được dâng cúng đức Phật, khởi lòng tin xuất gia, Sirivaddha dầu chưa chứng được pháp thượng nhân, nhưng được hàng cư sĩ, hàng xuất gia tôn kính hoan nghênh. Nhưng Sirimat, vì nghiệp không được tốt đẹp nên ít được cung kính, tuy vậy, luôn luôn tu tập về chỉ và quán, ngài chứng được sáu thắng trí.

Các Tỷ-kheo tầm thường và các Sa-di không biết ngài chứng được Thánh quả, tiếp tục khinh thường ngài và cung kính em của ngài. Rồi ngài đọc lên bài kệ, nói lên sự sai lầm của họ:

  1. Người khác tán thán nó,
    Kẻ tự ngã chưa định,
    Người khác khen sai lầm,
    Kẻ tự ngã chưa định.
  2. Người khác chỉ trích nó,
    Kẻ tự ngã đã định,
    Người khác chê sai lầm,
    Kẻ tự ngã khéo định.

Rồi Sirivaddha nghe bài kệ, tâm sanh dao động, phát triển thiền quán, không bao lâu đạt được chơn giải thoát; và những ai chỉ trích bậc Trưởng lão, chúng tôi xin lỗi ngài.

Phẩm Ba

(CXLI) Uttara (Thera. 22)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Sàketa, trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Uttara. Bị cảm hóa bởi thần thông song hành tại cây Gandamba ở Sàvatthi, ngài được khích lệ xuất gia, khi bậc Ðạo Sư ở Sàketa thuyết pháp tại vườn Kàlaka. Ði với bậc Ðạo Sư đến Ràjagaha (Vương Xá), ngài phát triển thiền quán, chứng được sáu thắng trí. Trở về Sàvatthi để hầu hạ đức Phật, các Tỷ-kheo hỏi ngài: ‘Thưa Hiền giả, Hiền giả đã thành tựu những gì trong sự nghiệp giải thoát?’ Ngài nói lên chánh trí của ngài với bài kệ như sau:

  1. Ta liễu tri các uẩn,
    Ta khéo nhổ tham ái,
    Ta tu tập giác chi,
    Ta đạt lậu hoặc diệt.
  2. Do liễu tri các uẩn,
    Thoát ly kẻ gài lưới,
    Tu tập giác chi xong,
    Ta sẽ nhập Niết-bàn,
    Các lậu hoặc tận diệt.

(CXLII) Bhaddaji (Thera. 22)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Bhaddiya (tại Avantì phía Ðông Magadha), con một nghị sĩ giàu có đến tám trăm triệu, ngài được đặt tên là Bhàddiya và được nuôi lớn trong sự nuông chiều sang trọng, giống như vị Bố-tát trong đời sống cuối cùng của ngài. Tập sớ kể câu chuyện của ngài chứng quả A-la-hán khi nghe đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên, chính đức Phật đích thân đến tìm ngài. Ngài đi theo bậc Ðạo Sư với hàng tùy tùng, sau một tuần đến tại Kotigàma, và đi lánh đến bờ sông Hằng, ngài nhập thiền định. Ngài chỉ xuất định, khi đức Phật đến gần và không vâng lời các vị Trưởng lão đi trước. Ðể xác minh quả chứng vô thượng của ngài, đức Phật mời ngài lên chiếc phà của Ngài và yêu cầu ngài hiện thần thông. Bhaddiya làm nổi lên cung điện bị chìm, khi ngài trú tại đấy, trong thời ngài là vua Panàda. Câu chuyện này được kể trong chuyện Jàtaka Mahàpanàda. Ngài diễn tả lâu đài bằng vàng, trong ấy ngài đã sống trong một thời gian. Rồi ngài nói về ngài khi tự ngã được đoạn diệt, như là thuộc một người khác:

  1. Pa-nà-đa là tên,
    Của vị hoàng đế ấy,
    Với trụ lễ bằng vàng,
    Ngang có mười sáu nhà,
    Tính về lượng bề cao,
    Cao hơn một ngàn lần.
  2. Có đến ngàn tam cấp,
    Với trăm nóc hình tròn,
    Trang hoàng với cờ xí,
    Với ngọc báu chói sáng,
    Ở đấy, Càn-thát-bà,
    Các tiên nữ hát múa,
    Con số lên sáu ngàn,
    Với tổng số bảy đoàn.

(CXLIII) Sobhita (Thera. 22)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Sobhita. Sau khi được nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài xuất gia, chứng được sáu thắng trí, ngài thực hành nhớ đến các đời sống quá khứ, thành tựu túc mạng thông, được đức Phật xác nhận là vị nhớ đến đời sống quá khứ đệ nhất. Cảm thấy phấn khởi trong quả chứng của mình, ngài nói lên những bài kệ:

  1. Tỷ-kheo giữ chánh niệm,
    Với trí tuệ tinh cần,
    Một đêm, ta nhớ đến,
    Có đến năm trăm kiếp.
  2. Ta tu Bốn niệm xứ,
    Bảy giác chi, Tám thánh (đạo),
    Một đêm, ta nhớ đến,
    Có đến năm trăm kiếp.

(CXLIV) Valliya (Thera. 22)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Vesàli, trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Kanhamitta. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài thấy uy nghi đức độ của đức Phật khi đức Phật đến Vesàli. Khởi lòng tin, ngài xuất gia với sự hướng dẫn của Tôn giả Mahà Kassapa (Ðại Ca-diếp). Với trí tuệ chậm chạp và mới bắt đầu tinh tấn, ngài phải dựa vào trí tuệ của các đồng Phạm hạnh đến nỗi ngài được gọi là Valliya (loài cây leo), vì loài cây này không thể tự lớn được, nếu không dựa vào một vật gì. Một hôm, ngài đi nghe Trưởng lão Venudatta giảng, ngài trở thành sáng suốt, trí tuệ chín muồi, ngài hỏi vị Thầy của ngài với những bài kệ:

  1. Những bổn phận cần làm,
    Với tinh cần tinh tấn,
    Những bổn phận cần làm
    Với người muốn giác ngộ.
    Con sẽ làm tất cả,
    Con không có thối thất,
    Hãy xem sự tinh tấn,
    Sự nỗ lực của con.
  2. Ngài hãy nói cho con,
    Con đường nhập bất tử,
    Với yên lặng thiền tư,
    Con đạt Thánh yên lặng,
    Như dòng sông Hằng Hà,
    Nhập sâu vào biển cả.

(CXLV) Vitàsoka (Thera. 22)

Trong thời đức Phật hiện tại, vào năm thứ 218, là em trai vua Dhammàsoka (A-dục), được đặt tên là Vitàsoka. Ðến tuổi trưởng thành, ngài thành tựu những đức tánh thích hợp với tuổi trẻ hoàng tộc. Rồi ngài trở thành đệ tử của Trưởng lão Giridatta và thông hiểu về Kinh tạng và Luận tạng A-tỳ-đàm.

Một hôm, khi ngài đang cắt tóc, ngài lấy gương soi, thấy một vài sợi tóc bạc. Bị dao động mạnh, ngài phát triển thiền quán, với sự nỗ lực cố gắng thiền định, khi ngài đang ngồi, ngài chứng quả Dự lưu, ngài xuất gia dưới sự hướng dẫn của Giridatta, không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Ngài tuyên bố chánh trí của ngài với bài kệ:

  1. Hãy cạo tóc cho ta
    Người cạo tóc đã đến,
    Ta cầm lấy cái gương,
    Quan sát thân thể ta.
  2. Thân được thấy trống rỗng,
    Chìm tối trong đêm đen,
    Mọi vải quấn chặt đứt,
    Nay không còn tái sanh.

(CXLVI) Punnamàsa (Thera. 23)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình vị điền chủ. Khi sanh đứa con đầu tiên, ngài xuất gia, sống gần một làng, ngài tinh tấn tu hành cho đến khi ngài chứng được sáu thắng trí. Ngài đi đến Sàvatthi đảnh lễ bậc Ðạo Sư và ở tại một nghĩa địa. Rồi đứa con ngài chết và vợ ngài không muốn tài sản bị vua tịch thu, vì không có thừa tự nên đi đến ngài với một số đông tùy tùng và yêu cầu ngài từ bỏ đời sống xuất gia. Muốn nói lên sự giải thoát thế tục và quả chứng của ngài, ngài đứng trên hư không, nói lên những bài kệ:

  1. Từ bỏ năm triền cái,
    Ðạt an ổn khỏi ách,
    Nắm giữ gương Chánh pháp,
    Biết và thấy tự ngã.
  2. Ta quán sát thân này,
    Từ trong cho đến ngoài,
    Thân được thấy trống không,
    Trong thân cả ngoài thân.

(CXLVII) Nandaka (Thera. 23)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Campà trong một gia đình thị dân, được đặt tên là Nandaka. Ngài là em trai của Bharata (sẽ được nói đến sau). Cả hai được nghe Sona Kolivisa thuyết pháp, liền xuất gia, nghĩ rằng: ‘Sona được nuôi dưỡng tế nhị còn xuất gia được, huống nữa chúng ta?’ Bharata chứng ngay sáu thắng trí, còn Nandaka, vì còn nhiều tư tưởng không trong sạch, không thể điều khiển được thiền quán, chỉ có thể thực hành. Rồi Bharata muốn giúp đỡ ngài, khiến ngài làm thị giả và cả hai người ra đi. Ngồi bên vệ đường, Bharata thuyết pháp cho ngài về thiền quán.

Có một đoàn lữ hành đi ngang qua, một con bò đực kéo xe qua đám bùn không nổi nên ngã quỵ xuống. Ngài dạy cởi con bò khỏi chiếc xe, cho nó ăn cỏ, uống nước. Con bò khỏi sự mệt nhọc lại được cột vào xe, với sức mạnh, được bồi dưỡng, con bò kéo xe qua được đám bùn, Bharata nói:

– Này em Nandaka, em có thấy hiện tượng ấy không?’.

– Thưa anh, em có thấy.

– Vậy hãy tìm hiểu ý nghĩa! Và Nandaka nói: ‘Như con bò được bồi dưỡng, lấy lại sức mạnh, ta cần phải tự lực lôi mình ra khỏi đám bùn lầy của tái sanh!’ Dùng sự kiện này là một đề tài thiền quán, ngài đã chứng được quả A-la-hán. Rồi ngài tuyên bố chánh trí của ngài cho người anh nghe với những bài kệ:

  1. Như con vật hiền thiện,
    Thuộc giống tốt, khéo luyện,
    Sau khi ngã quỵ xuống,
    Lại gượng lên đứng dậy,
    Lấy được thêm sức mạnh,
    Không bỏ kéo gánh nặng.
  2. Cũng vậy, hãy nhận con,
    Ðệ tử bậc Chánh giác,
    Con đầy đủ chánh kiến,
    Khéo tu luyện thuần thục,
    Con thật con chánh thống.
    Của đức Phật Chánh giác.

(CXLVIII) Bharata (Thera. 23)

Khi em trai Nandaka nói lên chánh trí của mình, Bharata khởi lên ý kiến hai anh em cùng đi đến yết kiến đức Phật, trình lên đức Phật biết quá trình đời sống Phạm hạnh của mình.

Rồi ngài nói với Nandaka những bài kệ như sau:

  1. Hãy đến Nandaka,
    Chúng ta hãy cùng đi,
    Ði đến bậc Giáo thọ,
    Chúng ta hãy rống lên,
    Tiếng rống con sư tử,
    Trước mặt Phật tối thượng.
  2. ẩn sĩ thương chúng ta,
    Khích lệ ta xuất gia,
    Mục đích chúng ta đạt,
    Mọi kiết sử đoạn tận.

(CXLIX) Bhàradvàja (Thera. 23)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá). Trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên theo dòng họ là Bhàradvàja. Lập gia đình, ngài có một người con trai tên là Kanhadinna. Ðến tuổi đi học, ngài gửi người con đi Takkasìla, giữa đường người con làm quen với một vị Trưởng lão, đệ tử bậc Ðạo Sư, nghe vị ấy thuyết pháp, xuất gia và sau một thời gian, chứng quả A-la-hán.

Bhàradvàja, được nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp ở tịnh xá Trúc Lâm, xuất gia và cũng chứng quả A-la-hán, Kanhadinna đến yết kiến bậc Ðạo Sư ở Ràjagaha (Vương Xá), và sung sướng thấy phụ thân mình ngồi cạnh đức Bổn Sư. Ðược biết phụ thân đã chứng quả A-la-hán, muốn phụ thân rống tiếng rống con sư tử, nên hỏi đã chứng được mục đích Phạm hạnh chưa, ngài trả lời với những câu kệ như sau:

Rống tiếng rống:

  1. Như những con sư tử
    Trong hang động núi non,
    Rống tiếng rống sư tử,
    Cũng vậy với trí tuệ,
    Bậc anh hùng thắng trận,
    Thắng ma và ma quân.
  2. Ta hầu bậc Ðạo Sư
    Ðảnh lễ Pháp và Tăng,
    Ta hân hoan vui vẻ,
    Thấy con chứng vô lậu.

(CL) Kanhadinna (Thera. 23)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Vương Xá, trong gia đình một Bà-la-môn, được đặt tên là Kanhadinna. Khi đến tuổi trưởng thành, với thiện duyên thuần thục, ngài đến Tôn giả Sàriputta, nghe pháp, khởi lòng tin rồi xuất gia. Sau khi phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán, ngài tuyên bố chánh trí của ngài.

  1. Hầu hạ bậc chân nhân,
    Luôn luôn nghe Chánh pháp,
    Nghe xong, ta sẽ bước,
    Trên con đường bất tử.
  2. Trong ta, tham hữu đoạn,
    Tham hữu không có mặt,
    Quá khứ, và vị lai,
    Không có ở trong ta,
    Hiện tại cũng không có,
    Tồn tại ở trong ta.

Phẩm Bốn

(CLI) Migasìra (Thera. 24)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Kosala, được đặt tên là Migasìra, theo ngôi sao ngày sinh. Học theo văn hóa Bà-la-môn, ngài thực hành bùa chú sọ người, khi ngài đọc lên bùa chú và lấy móng tay gõ trên sọ người, ngài tuyên bố: ‘Người này sẽ được tái sanh trong giới này…’, cho đến với những người đã chết được ba năm. Không thích thú đời sống thế tục, ngài trở thành người du sĩ, với hạnh sọ người của ngài, ngài được cung kính cúng dướng. Ði đến Sàvatthi, đứng trước mặt bậc Ðạo Sư, ngài tuyên bố sức mạnh của ngài: ‘Thưa Tôn giả Gotama, ta có thể nói chỗ tái sanh của những người đã chết’.

Ðức Phật hỏi: ‘Ông làm như thế nào?’

Ngài cho đem lại một sọ người, đọc lên bùa chú, với móng tay gõ trên sọ người, ngài tuyên bố đọa xứ v.v… là chỗ tái sanh!

Ðức Phật cho đem lại sọ người của một Tỷ-kheo, đã chứng Niết-bàn và nói: ‘Hãy nói chỗ tái sanh của người này’. Migasìra đọc bùa chú, lấy móng tay gõ trên sọ người, nhưng không thấy đầu đuôi như thế nào.

Rồi Thế Tôn hỏi:

– Này du sĩ, có phải ông làm không được?

Ngài trả lời: – Tôi cần phải xác chứng cho chắc chắn! Nhưng dù cho ngài xoay xở như thế nào, làm sao ngài biết được sanh thú của vị A-la-hán; ngài xấu hổ, toát mồ hôi, im lặng.

– Này du sĩ, có phải ông mệt mỏi?

– Vâng, tôi mệt mỏi, tôi không biết sanh tử của vị này, Ngài có biết chăng?

– Ta biết được và Ta biết nhiều hơn thế nữa! Vị này đã nhập Niết-bàn!

Vị du sĩ nói:

– Vậy nói lên cho con, bí quyết ấy?

– Vậy ông phải xuất gia! Rồi Migasìra xuất gia và được dạy cho đề tài tu định. An trú vững vàng trên thiền và thắng trí, ngài thực hành thiền quán, không bao lâu, chứng quả A-la-hán.

Rồi ngài nói lên chánh trí của ngài như sau:

  1. Từ khi ta xuất gia,
    Trong pháp bậc Chánh giác,
    Giải thoát, ta tiến lên,
    Ta vượt qua dục giới.
  2. Nhờ Phạm-chí quán sát,
    Tâm ta được giải thoát,
    Ta giải thoát bất động,
    Mọi kiết sử đoạn diệt.

(CLII) Sivàka (Thera. 24)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Ràjagaha (Vương Xá), được đặt tên Sivàka. Khi đã nhận được một sự giáo dục toàn diện, ngài theo xu hướng sở thích của mình, từ bỏ thế tục làm người du sĩ. Ðến nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài khởi lòng tin xuất gia, và cuối cùng chứng quả A-la-hán. Ngài nói lên chánh trí của mình:

  1. Vô thường, những ngôi nhà,
    Ðây đó lại dựng lên,
    Tìm kiếm người làm nhà,
    Tái sanh là đau khổ.
  2. Hỡi kẻ làm nhà kia!
    Ngươi đã bị thấy rồi,
    Từ nay, ngươi không thể,
    Lại dựng nhà lên nữa,
    Mọi tường vách đổ vỡ,
    Nóc nhà bị tan hoang,
    Tâm bị đẩy khỏi dòng,
    Ở đây, bị thổi nát.

(CLIII) Upavàna (Thera. 24)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Sàvatthi, được đặt tên là Upavàna. Thấy được uy nghi đức Phật khi Kỳ Viên được dâng cúng. Ngài xuất gia, phát triển thiền quán, chứng được sáu thắng trí.

Rồi Upavàna trở thành vị thị giả đức Phật. Bấy giờ, Thế Tôn bị đau nhức mỏi, một đệ tử cư sĩ của ngài tên là Devahita sống ở Sàvatthi cúng dường bốn vật dụng cần thiết cho ngài. Khi Upavàna đến với y và bát, Devahita biết ngài cần dùng một vật đặc biệt nên hỏi. Ngài trả lời với bài kệ như sau:

  1. Bậc ứng Cúng, Thiện Thệ,
    ẩn sĩ bị phong thấp,
    Nếu ông có nước nóng,
    Hãy cúng dường ẩn sĩ.
  2. Cúng dường người đáng cúng,
    Cung kính người đáng kính,
    Tôn trọng người đáng trọng,
    Ta mong muốn vị ấy,
    Ðược vật cúng mang đến.

Rồi vị Bà-la-môn dâng cúng nước nóng và thuốc trị bệnh. Nhờ vậy, bệnh của Thế Tôn thuyên giảm và Thế Tôn tỏ lời cảm ơn.

(CLIV) Isidinna (Thera. 24)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở xứ Sunàparanta, trong gia đình một vị chức sắc, được đặt tên là Isidinna. Khi lớn lên, ngài chứng kiến Thế Tôn hiện thần thông song hành khi ngôi nhà bằng trầm hương được dâng cúng, với tấm hân hoan đối với bậc Ðạo Sư, ngài nghe pháp, trở thành bậc Dự lưu. Dầu còn sống đời sống thế gian, một Thiên nhân khích lệ ngài như sau:

  1. Ta thấy người cư sĩ,
    Trì pháp với lời nói,
    Các dục là vô thường,
    Họ ưa thích ái luyến,
    Châu báu và vòng nhẫn,
    Họ đón chờ vợ con.
  2. Thật sự họ không biết,
    Pháp như thật là gì?
    Dầu họ có tuyên bố:
    ‘Các dục là vô thường!’
    Họ không có sức mạnh,
    Ðể cắt đứt tham ái,
    Do vậy, họ luyến tiếc,
    Vợ con và tài sản.

Khi người cư sĩ nghe vậy, ngài cảm thấy xúc động, xuất gia, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Nói lên chánh trí của ngài, ngài lập lại những bài kệ trên.

(CLV) Sambula – Kaccàna (Thera. 24)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong nước Magadha (Ma-kiệt-đà), con một thị dân thuộc dòng họ Kaccàna, tên là Sambula, ngài được biết với tên Sambula-Kaccàna. Sau khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài xuất gia rồi đi đến miền phụ cận núi Hy-mã-lạp-sơn, tu học thiền quán trong một cái hang tên là Bheravàyanà (đường đi dễ sợ).

Một hôm, một cơn giông tố trái mùa nổi lên, mây ùn ùn nổi lên trên hư không, sấm sét vang động, chớp sáng chói lòa, trời bắt đầu mưa đổ ào ào xuống. Các loài vật như gấu, dã can, trâu, voi đều la hét run sợ. Nhưng vị Trưởng lão phát triển thiền quán, không kể gì đến mạng sống của mình, không để ý đến tiếng động vang, nhưng cơn động làm cho dịu khí trời, tâm ngài được tịnh chỉ, ngài triển khai thiền quán, chứng được quả A-la-hán với sáu thắng trí. Nghĩ đến thành quả đạt được, ngài cảm thấy phấn khởi, ngài nói lên chánh trí của ngài, với những bài kệ:

  1. Mưa ào ào đổ xuống,
    Mưa ầm ầm vang động,
    Ta sống chỉ một mình,
    Trong hang động kinh hoàng,
    Dầu ta sống một mình,
    Trong hang động kinh hoàng,
    Ta không hoảng, sợ hãi,
    Không lông tóc dựng ngược
  2. Pháp nhĩ ta là vậy,
    Nên dầu sống một mình,
    Trong hang động kinh hoàng,
    Ta không hoảng, sợ hãi,
    Không lông tóc dựng ngược.

(CLVI) Khitaka (Thera. 25)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong nước Kosala, con một vị Bà-la-môn, được đặt tên là Khitaka. Ngài nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, xuất gia, sống trong rừng, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Hưởng được lạc giải thoát Niết-bàn, cảm thấy phấn khởi tinh cần, ngài đi đến các Tỷ-kheo sống trong rừng để khích lệ, làm các vị ấy phấn khởi. Ngài nói những bài kệ này, trước hết vì hạnh phúc cho các vị ấy, sau nói lên chánh trí của ngài:

  1. Tâm ái như tảng đá
    Ðứng vững, không dao động,
    Hỡi những vật khả ái,
    Tâm không có tham ái,
    Ðối vật làm dao động,
    Tâm không có dao động,
    Tâm ai tu tập vậy,
    Từ đâu, khổ sẽ đến.
  2. Tâm ta như tảng đá
    Ðứng vững, không dao động,
    Ðối những vật khả ái,
    Tâm không có tham ái,
    Ðối vật làm dao động,
    Tâm không có dao động,
    Tâm ta tu tập vậy,
    Từ đâu, khổ đến ta.

(CLVII) Sona – Potiriyaputta (Thera. 25)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), con của điền chủ Potiriya, được đặt tên là Sona. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài trở thành tướng chỉ huy quân lực của Bhaddiya, một vị vua Sakka. Nay Bhaddiya đã xuất gia, và ngài theo gương Bhaddiya cũng xuất gia, nhưng ngài biếng nhác, không có tu thiền định. Thế Tôn ở tại vườn xoài Anupiya, chiếu hào quang đến ngài, khích lệ ngài tu tập chánh niệm, với những bài kệ như sau:

  1. Thầy chớ có ngủ nữa,
    Với đêm, sao vòng hoa,
    Ðêm này, người có trí,
    Thức dậy, không có ngủ.

Nghe lời này, ngài cảm thấy dao động mạnh, thấy rõ những khuyết điểm của ngài, ngài ngồi thiền ngoài trời, tu tập thiền quán, ngài nói lên bài kệ:

  1. Khi con voi tấn công,
    Rơi từ lưng voi xuống,
    Trên chiến trường ta chết,
    Tốt hơn sống bại trận.

Nói vậy, ngài triển khai thiền quán, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi ngài lập lại bài kệ của bậc Ðạo Sư, và với bài kệ của ngài, ngài nói lên chánh trí của mình.

(CLVIII) Nisabha (Thera. 25)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong xứ các dân tộc Koliya, trong một gia đình dân tộc, được đặt tên là Nisabha. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài chứng kiến sức mạnh uy nghi đức độ của đức Phật trong trận chiến giữa dân tộc Sakka và dân tộc Koliya, khởi lòng tin, ngài xuất gia, chứng quả A-la-hán.

Thấy một Tỷ-kheo đồng Phạm hạnh dùng thời gian của mình rất là uổng phí, nên ngài dùng những bài kệ này để khuyên răn vị ấy, và nói lên ngài thực hành những điều ngài nói:

  1. Sau khi đã từ bỏ
    Năm loại dục trưởng dưỡng,
    Những vật thật khả ái,
    Khiến tâm ý thích thú,
    Với lòng tin, xuất gia,
    Chấm dứt sự khổ đau.
  2. Ta không hoan hỷ chết,
    Ta không hoan hỷ sống,
    Ta chờ đợi thời đến,
    Tỉnh giác và chánh niệm.

(CLIX) Usabha (Thera. 25)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), trong gia đình một vị vua Sakka, được đặt tên là Usabha. Khi đức Phật về thăm bà con, ngài thấy sức mạnh và sự sáng suốt của đức Phật, khởi lòng tin và xuất gia, nhưng ngài không làm các bổn phận của người tu hành, cả ngày giao du nhiều người, ban đêm thời lo ngủ.

Một hôm, với tâm tư hôn trầm phóng dật, ngài nằm ngủ, ngài mộng thấy ngài cạo đầu, đắp áo cà-sa, ngồi trên lưng voi đi vào thành để khất thực; tại đấy, thấy quần chúng tụ tập đông đảo, ngài cảm thấy xấu hổ và xuống voi không ngồi nữa. Ngài thức dậy, suy nghĩ: ‘Vì sao, đây là cơn mộng hôn trầm và phóng dật, ta thấy ta nằm ngủ với tâm ưu não’, ngài an trú thiền quán, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Như vậy lấy cơn mộng làm đề tài khích lệ, ngài dùng những bài kệ để nói lên chánh trí của ngài:

  1. Vai đắp phủ tấm y,
    Giống như màu bông xoài,
    Ngồi trên lưng con voi,
    Ta vào làng khất thực.
  2. Từ lưng voi leo xuống,
    Ta cảm nhận xúc động,
    Trước ta rất ngạo mạn,
    Nay ta thật lắng dịu,
    Ta đã chứng đạt được,
    Các lậu hoặc đoạn diệt.

(CLX) Kappata – Kura (Thera. 25)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại Sàvatthi, trong tình cảnh nghèo nàn, ngài chỉ biết tự nuôi sống, bằng cách mặc đồ rách rưới, bát ăn xin cầm tay, đi xin gạo cơm. Vì vậy ngài được tên là Kappatakura (rách và gạo). Khi lớn lên, ngài nuôi sống bằng cách bán cỏ. Một hôm, đang cắt cỏ trong rừng, ngài gặp một vị Trưởng lão, ngài đảnh lễ, ngồi xuống nghe pháp. Ngài khởi lòng tin, từ bỏ nếp sống cũ, xuất gia, cất đồ rách rưới vào một chỗ. Khi ngài cảm thấy nhàm chán với đời sống mới, ngài đi đến nhìn đồ rách rưới ấy, tâm ngài trở thành bất an. Làm như vậy, bảy lần ngài rời khỏi chúng Tăng. Các Tỷ-kheo báo cáo lên sự việc này. Một hôm, khi ngài là một Tỷ-kheo đang ngồi giữa chúng Tăng tại giảng đường, bậc Ðạo Sư giáo giới ngài với những bài kệ như sau:

  1. Ðây là đồ rách rưới,
    Của Kappata-kura,
    Y áo đang phủ đắp,
    Thật là quá nặng nề,
    Trong bình bát bất tử,
    Ðược đựng đầy Chánh pháp,
    Nhưng nó không thực hành,
    Con đường hành thiền định.
  2. Hỡi này Kappata,
    Chớ lắc qua lắc lại,
    Chớ khiến ta phải đánh,
    Các tiếng vào tai ông,
    Hỡi này Kappata,
    Chớ làm kẻ si mê,
    Ngồi lắc qua lắc lại,
    Giữa Tăng chúng hội họp.

Bị đức Phật quở trách mạnh mẽ, ngài dao động mạnh, phát triển thiền quá, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi ngài lập lại các bài kệ đã khích lệ ngài tu hành và những bài kệ này trở thành những lời tuyên bố chánh trí của ngài.

Phẩm Năm

(CLXI) Kumàra-Kassapa (Thera. 26)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), mẹ ngài là con một vị chức sắc, mẹ ngài không được cha mẹ bằng lòng cho xuất gia khi còn là thiếu nữ, lập gia đình, được chồng bằng lòng cho xuất gia, nhưng bà không biết là đang có thai. Khi các Tỷ-kheo-ni thấy hiện trạng này, liền đến hỏi ý kiến Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa), vị này cho mẹ ngài là Tỷ-kheo-ni bất chánh. Các Tỷ-kheo-ni tới hỏi ý kiến bậc Ðạo Sư, bậc Ðạo Sư giao việc này cho Tôn giả Upàli giải quyết. Upàli cho mời một số vị cư sĩ ở Sàvatthi, gồm có nữ cư sĩ Visàkhà, và giữa hội nghị, có sự có mặt của vua, Tôn giả Upàli tuyên bố vị Tỷ-kheo-ni đã có thai trước khi xuất gia, và bậc Ðạo Sư đã chấp nhận sự kiện này. Mẹ ngài nuôi dưỡng đứa con tại ngôi tịnh xá, đứa con như bức tượng bằng vàng, và vua nuôi dưỡng đứa trẻ và ngài được đưa đến cho bậc Ðạo Sư xuất gia. Vì ngài xuất gia khi còn thiếu niên, ngài được gọi là Kumàra-kassapa, dầu cho khi ngài đã lớn.

Trong khi ngài tu tập thiền quán, học lời Phật dạy, ngài ở tại rừng Andha. Rồi một Thiên nhân, đã chứng quả Bất lai, đã được làm Ðại Phạm Thiên ở Tịnh Cư Thiên, muốn chỉ cho Kumàra-kassapa phương pháp chứng được đạo quả. Vị Thiên nhân đến tại rừng Andha và hỏi ngài mười lăm câu hỏi mà chỉ có bậc Ðạo Sư mới có thể trả lời. Ngài hỏi đức Phật các câu hỏi ấy và học thuộc lòng các câu đức Phật trả lời, phát triển quán, chứng quả A-la-hán.

Ðược bậc Ðạo Sư ấn chứng cho là vị thuyết pháp lanh lợi đệ nhất, ngài nhớ lại quá trình tu hành của mình và dưới hình thức tán thán Ba ngôi báu, ngài nói lên chánh trí của mình:

  1. Ôi Phật đà, ôi Pháp!
    Ôi Ðạo Sư thành tựu!
    Ở đây, vị đệ tử,
    Chứng đạt Chánh pháp này.
  2. Trải qua vô lượng kiếp,
    Ta tác thành có thân,
    Thân này thân cuối cùng,
    Thân này hành trì xong,
    Trên con đường sống chết,
    Nay không còn tái sanh.

(CLXII) Dhammapàla (Thera. 26)

Trong thời đức Phật hiện tại, khi bậc Ðạo Sư qua đời, ngài sanh ở Avanti con một Bà-la-môn, được đặt tên là Dhammapàla. Khi ngài đi từ Takkasilà về, học hành đã xong, ngài thấy một vị Trưởng lão ngồi một mình trong thảo am, được vị ấy thuyết pháp, ngài khởi lòng tin, xuất gia và chứng được sáu thắng trí.

Trong khi ngài suy tư hoan hỷ trong vị ngọt giải thoát, hai Sa-di leo cây hái trái, bị cây gẫy ngã xuống. Thấy vậy ngài lấy tay ôm đỡ hai người Sa-di, với thần thông đặt hai vị ấy xuống đất, không có bị thương. Và ngài dạy hai vị ấy với những bài kệ:

  1. Ai Tỷ-kheo trẻ tuổi
    Chú tâm hành lời Phật,
    Tỉnh thức giữa người ngủ,
    Vị ấy, đời không uổng.
  2. Do vậy, bậc Hiền trí,
    Nhớ đến lời Phật dạy,
    Chuyên tu tín và giới,
    Hoan hỷ thấy Chánh pháp.

(CLXIII) Brahmàlì (Thera. 26)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở nước Kosala, con một Bà-la-môn, được đặt tên là Brahmàlì. Khi đến tuổi trưởng thành, thúc đẩy bởi những điều kiện chín muồi, do giao hảo với bạn lành, ngài xuất gia, tu tập thiền định trong một ngôi rừng, nhờ trí tuệ chín muồi, ngài phát triển thiền quán, chứng được sáu thắng trí.

Sống trong vị an lạc giải thoát, vị Trưởng lão rất thuần thục pháp tinh tấn, một hôm sống ở trong rừng ngài nói lên những bài kệ này, thay mặt cho các Tỷ-kheo ở trong rừng, những bài kệ tán thán hạnh tinh tấn:

  1. Với những ai, các căn,
    Ðã đi đến tịnh chỉ,
    Như được khéo điều phục,
    Bởi đánh xe điều ngự,
    Kiêu mạn được đoạn tận,
    Không còn có lậu hoặc,
    Chư Thiên rất ái mộ
    Những vị có hạnh ấy.
  2. Với chính ta, các căn,
    Ðã đi đến tịnh chỉ,
    Như được khéo điều phục,
    Bởi đánh xe điều ngự,
    Kiêu mạn được đoạn tận,
    Không còn có lậu hoặc,
    Chư Thiên ái mộ ta,
    Ta thành tựu hạnh ấy.

(CLXIV) Mogharàjam (Thera. 27)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn, tên là Mogharàjam. Vị ấy tu học dưới sự lãnh đạo của Bà-la-môn Bàvariya. Cảm thấy lo âu sợ hãi, ngài trở thành một vị tu khổ hạnh. Ngài là một trong mười sáu vị, trong ấy có Ajita và những vị khác, đã được Bàvariya đưa đến yết kiến bậc Ðạo Sư. Sau khi Mogharàjam hỏi và được trả lời, ngài chứng quả A-la-hán.

Sau đó, ngài được biết đến vì ngài mặc áo thô sơ do các nhà lữ hành, các thợ may, các thợ nhuộm quăng bỏ hai bên đường. Do vậy, bậc Ðạo Sư ấn chứng cho ngài là người đệ tử đệ nhất mặc áo thô sơ. Như vậy ngài thực hiện chí nguyện từ trước của ngài.

Một thời khác, do thiếu sự săn sóc chu đáo và do nghiệp đời trước, các mụt ghẻ lở xuất hiện và sanh ra nhiều trên thân của ngài, nghĩ rằng chỗ trú ẩn của ngài đã bị ô nhiễm, ngài trải chỗ nằm của ngài trên một thửa ruộng ở Magadha, và dầu lúc ấy thuộc mùa đông, ngài vẫn ở tại đấy. Một hôm, hầu hạ bậc Ðạo Sư và đảnh lễ ngài, bậc Ðạo Sư hỏi ngài với những bài kệ như sau:

  1. Hỡi Mogharàja!
    Sống với da thô độc,
    Sống với tâm hiền thiện,
    Luôn luôn hành thiền định,
    Trong những đêm đông giá
    Thầy là một Tỷ-kheo,
    Vậy Thầy sống thế nào
    Thầy sẽ làm những gì?

Ðược hỏi vậy, ngài trả lời và giải thích cho bậc Ðạo Sư:

  1. Con có được nghe rằng:
    Ở nước Magadha,
    Ðất nước giàu thịnh vượng,
    Toàn dân sống đầy đủ,
    Những am lợp bằng rơm,
    Còn tốt đẹp hơn nhiều,
    Hơn đời sống an lạc,
    Của mọi người dân khác.

(CLXV) Visàkha, Con Của Pancàlì (Thera. 27)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở xứ Magadha (Ma-kiệt-đà), con một vị vua địa phương, được đặt tên là Visàkha. Vì ngài là con trai một công chúa con vua, về sau ngài được biết là con trai của Pancàlì.

Sau khi phụ vương mất, ngài nối ngôi vua, nhưng khi bậc Ðạo Sư đến gần chỗ ngài ở, ngài đến nghe đức Phật thuyết pháp, khởi lòng tin rồi xuất gia. Theo bậc Ðạo Sư đến Sàvatthi (Xá-vệ), ngài phát triển thiền quán, chứng được sáu thắng trí.

Với lòng từ mẫn nghĩ đến bà con, ngài viếng thăm quê hương cũ, dân chúng đến nghe ngài thuyết giảng rất đông. Một hôm có người hỏi: ‘Có bao nhiêu đức tánh cần thiết để một người trở thành nhà thuyết pháp?’. Ngài trả lời đại cương những đức tánh trong những bài kệ sau đây:

  1. Chớ có tự kiêu mạn,
    Chớ có khinh khi người,
    Không khinh, không hại người,
    Ðã đến bờ bên kia,
    Và chớ có khen mình,
    Trước mặt các hội chúng,
    Không dao động, khiêm tốn,
    Khéo nói, khéo chế ngự.
  2. Với người, thấy ý nghĩa,
    Tế nhị và kín đáo,
    Thiện xảo về trí tuệ
    Nếp sống khéo hộ trì,
    Thực hiện giới chư Phật,
    Niết-bàn đối vị ấy,
    Không gì khó chứng đạt.

(CLXVI) Cùlaka (Thera. 27)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha, con một vị Bà-la-môn, được đặt tên là Culàka. Khi ngài thấy bậc Ðạo Sư nhiếp phục con voi Dhanapàla, ngài phát khởi lòng tin xuất gia. Trong khi tu tập, ngài trú ở hang cây Indra-sàla. Một hôm ngồi trước cửa hang, nhìn xuống các thửa ruộng ở Magadha (Ma-kiệt-đà), một cơn giông tố khởi lên với những lớp mây trùng điệp ùn ùn khởi lên, sấm sét vang dậy, trời mưa ào ào đổ xuống, các đàn chim công nghe tiếng sấm sét, sung sướng kêu lên tiếng kê-la của chúng, và múa hát chung quanh. Làn gió giông tố đem lại cho ngài cảm giác dễ chịu và thỏa thích khi ngài đang ngồi trong hang, với nhiệt độ vừa phải, tâm ngài được thiền định. Ngài bước vào con đường hành trì, và nhận thức được thời gian thích hợp đã đến, ngài nói lên lời tán thán, sự tu hành của ngài với những bài kệ sau:

  1. Những chim công kêu hót,
    Mào đẹp, lông đuôi xinh,
    Với cổ, màu xanh tươi,
    Mỏ đẹp, tiếng hót hay,
    Ðất này, khéo lát cỏ,
    Nước mắt khéo thấm nhuần,
    Với khoảng trời khéo che,
    Mây mưa khéo bao phủ.
  2. Thân người khéo khỏe mạnh,
    Tâm ý tốt, thiền tu,
    Lành thay, khéo khởi tâm,
    Trong lời khéo Phật dạy.
    Hãy cảm xúc con đường
    Ðưa đến cõi bất tử,
    Ðường ấy đường vô thượng,
    Ðường trong trắng lành mạnh,
    Ðường tế nhị nhỏ nhiệm,
    Con đường thật khéo thấy.

Ngài tự giáo giới lấy mình, chứng được thiền định, và phát triển thiền quán, chứng quả A-la-hán. Ôn lại những việc đã làm, với tâm hoan hỷ, ngài nói lên những bài kệ này như là lời tuyên bố chánh kiến của ngài.

(CLXVII) Anupama (Thera. 27)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình giàu có ở Kosala, vì ngài đẹp trai nên được đặt tên là Anùpama (không thể so sánh được). Khi đến tuổi trưởng thành, ngài cảm thấy sức mạnh của các nguyên nhân, xuất gia và sống trong một ngôi rừng để tu tập thiền quán, nhưng tâm ngài chạy theo ngoại cảnh, xoay quanh những vấn đề đối tượng thiền định, ngài tự trách mình như sau:

  1. Tâm đi đến hỷ mạn
    Như bị đâm giáo nhọn,
    Nếu người sống tâm ấy,
    Như sống với giáo, gậy.
  2. Này tâm, ta gọi ngươi,
    Kẻ bẻ gãy hạnh phúc,
    Này tâm, ta gọi ngươi,
    Kẻ phá hoại đời ta!
    Bậc Ðạo Sư của ngươi,
    Khó được nay đã được,
    Chớ có dắt dẫn ta,
    Ðến chỗ có hại ta!

Như vậy ngài giáo giới tâm ngài, phát triển thiền quán, chứng quả A-la-hán.

(CLXVIII) Vajjita (Thera. 27)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Kosala giàu có, sau khi từ Phạm Thiên giới hạ sanh, ngài luôn luôn khóc trong bàn tay bà mẹ, vì ngài không chịu nổi xúc chạm của nữ nhân, ngài được gọi là Vajjita (vị từ bỏ). Ðển tuổi trưởng thành, ngài chứng kiến Thế Tôn hiện thần thông song hành, khởi lòng tin, xuất gia và chứng được sáu thắng trí. Nhớ đến đời sống quá khứ, ngài cảm thấy xúc động nói:

  1. Trong thời luân hồi dài,
    Ta trôi lăn nhiều cõi,
    Ta không thấyThánh đế,
    Ta phàm phu mù lòa.
  2. Với hạnh không phóng dật,
    Ta phá vỡ luân hồi,
    Mọi sanh thú chặt đứt,
    Nay không còn tái sanh.

Và bài kệ trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(CLXIX) Sandhita (Thera. 28)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh trong một gia đình giàu có ở Kosala, tên là Sandhita. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài nghe bài giảng về vô thường, hoảng hốt lo sợ, và xin xuất gia với trí tuệ chín muồi, ngài an trú thiền quán và chứng đạt sáu thắng trí. Nhớ đến đời sống trước của mình, sau khi đức Phật Sikhì (Thi-khí) mệnh chung. Ngài đảnh lễ tại cây Bồ-đề và nhận thức được ý nghĩa vô thường, ngài tuyên bố ngài thành đạt ý tưởng, nhờ nguyên nhân ấy với những bài kệ như sau:

  1. Dưới gốc cây Bồ-đề,
    Với ánh sáng lá xanh,
    Khi cây đang vươn lên,
    Trong sức sống lớn mạnh,
    Một tưởng về Phật hành,
    Chánh niệm ta đạt được.
  2. Ðã qua ba mốt kiếp,
    Tưởng ấy ta không chứng,
    Nay chính nhờ tưởng ấy,
    Ta đạt lậu hoặc diệt.

Chương III

-ooOoo-

Phẩm Ba Kệ

(CLXX) Anganika Bhàradvàja (Thera. 29)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh gần núi Hy-mã-lạp-sơn, trong thành phố Ukkattha, trong gia đình một Bà-la-môn phú cường và được đặt tên là Anganika Bhàradvàja. Khi ngài được học xong giáo điển và nghệ thuật Vệ-đà, ngài hướng về giải thoát. Trong khi bộ hành chỗ này chỗ khác, ngài gặp bậc Ðạo Sư khi bậc Ðạo Sư đang du hành ở vùng quê, và với tâm tư tín thành, ngài nghe bậc Ðạo Sư thuyết giảng. Từ bỏ tà khổ hạnh, ngài xuất gia, tu tập thiền quán, và sau một thời gian chứng được sáu thắng trí.

Sau khi sống tận hưởng vị ngọt giải thoát, ngài với lòng thương đối với bà con, đến thăm và dạy họ về quy y và giới luật. Rồi từ giã các bà con, ngài sống trong một ngôi rừng gần làng Kundiya của dân tộc Kuru. Khi có việc đi đến Uggàyàman, một số Bà-la-môn quen biết đến hỏi: ‘Thưa Tôn giả Bhàradvàja, do ngài thấy gì mà ngài từ bỏ giáo hội Bà-la-môn, và chấp nhận giáo hội này?’ Ngài nêu rõ, ngoài giáo hội đức Phật, không có giới thanh tịnh, ngài nói:

  1. Trong rừng ta thờ lửa,
    Truyền thống không chơn chánh,
    Không biết đường thanh tịnh,
    Theo khổ hạnh bất tử.
  2. Với lạc, ta được lạc,
    Hãy xem pháp, tùy pháp,
    Ba minh chứng đạt được,
    Lời Phật dạy, làm xong.
  3. Trước bà con Phạm chí,
    Nay ta chính Phạm chí,
    Ba minh, ta quán đảnh,
    An ổn ta đạt được,
    Thông hiểu đúng Chánh pháp,
    Thuần thục lời Phật dạy.

Khi các Bà-la-môn ấy nghe ngài nói, các vị ấy chấp nhận và từ bỏ rất là phấn khởi.

(CLXXI) Paccaya (Thera. 29)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở thành Rohi trong một gia đình hoàng tộc, và được đặt tên là Paccaya. Thọ hưởng gia tài khi phụ thân mệnh chung, ngài tuyên bố tổ chức một đàn bố thí rất lớn và một số đông người tụ họp. Trong cuộc tụ họp này, bậc Ðạo Sư ngồi trên một ngai vàng trong một ngôi nhà trang hoàng châu báu. Ðức Phật thuyết pháp, trong khi mọi người ngắm, chiêm ngưỡng ngài. Phần lớn dân chúng hiểu lời đức Bổn Sư dạy, nhưng ngài Paccaya đi xa hơn. Thúc đẩy bởi nghiệp duyên đời trước, ngài từ bỏ tài sản và xuất gia như trước kia ngài đã phát nguyện dưới thời đức Phật Kassapa, nay ngài đã phát nguyện, khi đã vào am tranh tu hành, nếu chưa giải thoát thời không ra khỏi am này và cuối cùng thiền quán được phát triển, trí tuệ được thuần thục, ngài chứng quả A-la-hán. Ðể kỷ niệm thành quả này, ngài nói lên quả chứng của ngài, ngang qua những bài kệ như sau:

  1. Năm ngày ta xuất gia,
    Hữu học, ý chưa đạt,
    Ta trú hạnh viễn ly,
    Tâm phát nguyện như sau:
  2. Ta sẽ không ăn uống,
    Không ra ngoài tinh xá,
    Ta sẽ không nằm xuống,
    Không nằm một bên hông,
    Nếu mũi tên tham ái,
    Chưa rút nhổ lên được.
  3. Hạnh ta sống như vậy,
    Hãy nhìn ta tinh cần,
    Ba minh ta đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CLXXII) Bàkula (Thera. 29)

Ngài sanh ở Kosambi, trong một gia đình có chức vụ, trước khi bậc Ðạo Sư sanh ra, và ngài được đem đi tắm ở sông Yamunà để được sức khỏe, và một con cá nuốt ngài trong tay người vú. Con cá bị người câu cá bắt được và đem bán cho vợ một vị chức sắc khác ở Ba-la-nại. Khi con cá bị mổ ra, đứa con nít nhờ phước nghiệp đời trước, nên còn sống không bị thương tích. Vợ vị chức sắc thương ngài như con đẻ, và khi bà nghe được câu chuyện của ngài, và hỏi về cha mẹ. Vua trong nước quyết định cho ngài thuộc quyền sở hữu của hai gia đình, và do vậy ngài được tên là Bàkula (hai gia đình).

Sau một đời sống giàu sang, ngài nghe đức Bổn Sư thuyết pháp, xuất gia khi tám mươi tuổi. Trong bảy ngày, ngài chưa được giác ngộ, nhưng ngày thứ tám, ngài chứng được quả A-la-hán, thông hiểu nghĩa, thông hiểu pháp.

Một hôm, khi ấn chứng vị trí tu hành cho các vị đệ tử, bậc Ðạo Sư ấn chứng cho ngài là vị đệ tử có sức khỏe đệ nhất. Về sau, khi sắp sửa mệnh chung ngài nói lên chánh trí của ngài giữa hội chúng Tỷ-kheo như sau:

  1. Với ai những công việc
    Cần phải làm từ trước,
    Về sau, vị ấy mới
    Có ý định muốn làm.
    Vị ấy tự phá hoại
    Căn cứ địa an lạc,
    Về sau, chịu khổ đau
    Trong nung nấu hối tiếc.
  2. Hãy nói điều có làm,
    Không nói điều không làm,
    Bậc Hiền trí rõ biết,
    Người chỉ nói, không làm.
  3. Niết-bàn nhiệm màu lạc,
    Bậc Chánh Giác thuyết giảng,
    Không sầu muộn là tham,
    Thật sự là an ổn,
    Tại đấy, sự đau khổ,
    Ðược đoạn diệt hoàn toàn.

(CLXXIII) Dhaniya (Thera. 29)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá) trong một gia đình thợ làm đồ gốm, được đặt tên là Dhaniya, và tiếp tục làm nghề của ông cha. Chính trong nhà của ngài, bậc Ðạo Sư giảng cho Pakkusati kinh Dhàtuvibhangasutta. Dhaniya nghe tin Pukkasati (đã thành bậc A-la-hán) mệnh chung đêm ấy. Ngài nghĩ: ‘Lời Phật dạy thật là sức mạnh lãnh đạo, chỉ có một đêm đã đủ giải thoát một người khỏi sự đau khổ tái sanh’. Rồi ngài xuất gia. Tuy vậy ngài vẫn tiếp tục nghề làm ngói lợp nhà. Bị đức Phật quở vì đã là am tranh bằng gạch, ngài quyết định sống giữa các Tỷ-kheo, và tại đấy chứng quả A-la-hán.

Về sau, nhân dịp giáo giới các Tỷ-kheo tu tập khổ hạnh và xem hạnh mình cao hơn các người khác, ngài tuyên bố chánh trí ngài như sau:

  1. Nếu muốn mong đợi lạc
    Trong đời sống Sa-môn,
    Chớ khinh y chúng Tăng,
    Chớ khinh Tăng ẩm thực.
    Nếu muốn mong đợi lạc
    Trong đời sống Sa-môn,
    Hãy sử dụng trú xứ,
    Như rắn và như chuột.
  2. Nếu muốn mong đợi lạc
    Trong đời sống Sa-môn,
    Hãy biết tự bằng lòng
    Với bất cứ việc gì,
    Và hãy cương quyết tu,
    Tu tập hạnh nhất pháp.

(CLXXIV) Con Của Màtanga (Thera. 30)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kosala, con một điền chủ tên Màtanga, và được gọi là con của Màtanga. Ngài lớn lên trong biếng nhác, và khi ngài bị quần chúng la rầy, ngài làm quen với các Tỷ-kheo, nhận thấy các Tỷ-kheo sống thật hạnh phúc. Nhưng khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài khởi lòng tin và xin xuất gia. Thấy các Tỷ-kheo sử dụng thần thông, ngài muốn chứng đạt thần thông. Và thực hành các thiền quán, ngài chứng được sáu thắng trí.

Từ đấy, ngài chỉ trích biếng nhác, tán thành sự tinh cần của ngài với những bài kệ như sau:

  1. Ôi quá lạnh, quá nóng!
    Ôi, đã quá trễ rồi!
    Ðây là lời kêu than,
    Như vậy bỏ việc làm,
    Thời sát-na quý báu
    Lặng lẽ vượt trôi qua.
  2. Ai nghĩ đến lạnh nóng,
    Không hơn loài cỏ rác,
    Làm bổn phận con người,
    Không hại đến an lạc.
  3. Cỏ dabba, ku-sa,
    Loại cỏ gai đâm ngực,
    Ta dùng ngực đẩy chúng,
    Sống tăng trưởng viễn ly.

(CLXXV) Khujja Sobhita (Thera. 30)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Pàtaliputta trong một gia đình Bà-la-môn và được gọi là Sobhita. Vì ngài hơi còm, ngài được gọi là Khujja Sobhita (còm lưng). Khi đến tuổi trưởng thành, đức Bổn Sư vừa diệt độ, ngài được Tôn giả Ananda độ cho xuất gia và chứng được sáu thắng trí.

Trong kỳ kiết tập thứ nhất, ngài được bảo mời Tôn giả Ananda đến dự đại hội. Lúc ấy, các thiên nhân cử một thiên nhân đứng ở cửa hang để chận đứng các hành vi thù nghịch của Ác ma, và khuyên Sobhita tuyên bố sự có mặt của mình cho thiên nhân ấy, với những bài kệ như sau:

  1. Giữa các vị Sa-môn,
    Sống Pàtaliputta,
    Những vị luận thuyết giỏi,
    Những vị có nghe nhiều,
    Có một vị tuổi lớn
    Ðứng ở tại cửa vào,
    Tên là Sobhita,
    Có tật, bị còm lưng.

Rồi vị thiên nhân tuyên bố cho chúng Tỷ-kheo biết sự có mặt của Khujja Sobhita:

  1. Giữa các vị Sa-môn,
    Sống Pataliputta,
    Những vị luận thuyết giỏi,
    Những vị có nghe nhiều,
    Có một vị tuổi lớn,
    Ðứng ở tại cửa vào,
    Vị ấy đã đến đây,
    Theo ngọn gió đưa đến.

Rồi chúng Tăng cho phép, vị Trưởng lão đến trước chúng Tăng và nói lên chánh trí của mình.

  1. Vị ấy khéo chiến đấu,
    Vị ấy khéo tế tự,
    Trên chiến trường chiến đấu,
    Vị ấy đã chiến thắng,
    Với Phạm hạnh tích lũy,
    Vị ấy đạt an lạc.

(CLXXVI) Vàrana (Thera. 30)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kosala, trong gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Vàrana. Khi đến tuổi trưởng thành, vị ấy nghe một vị Trưởng lão thuyết pháp trong một ngôi rừng, và với lòng tin, xuất gia. Một ngày kia đi đến hầu hạ đức Phật, ngài chứng kiến một cuộc ấu đả trong gia đình và có nhiều người bị giết. Hốt hoảng, bị dao động, ngài đi gấp đến Thế Tôn và tường thuật sự việc. Thế Tôn thấy sự tiến bộ trong tâm tư của ngài, nên nói lên bài kệ khích lệ ngài:

  1. Ai ở đời, giữa người,
    Làm hại chúng sanh khác,
    Vị ấy tự hại mình
    Ðời này và đời sau.
  2. Ai với tâm từ bi,
    Thương tưởng mọi hữu tình,
    Một người làm như vậy,
    Gặt phước đức thật nhiều.
  3. Hãy học tập khéo nói,
    Hãy hầu hạ Sa-môn,
    Sống một mình kín đáo,
    Với tâm tư tịnh chỉ.

(CLXXVII) Passsika (Thera. 30)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Kosala, thấy Thế Tôn thực hiện thần thông song hành, khởi lòng tin, xuất gia. Ngài bị bệnh trong khi học tập đời sống một ẩn sĩ, bà con săn sóc cho ngài và chữa ngài lành bệnh, khi được lành bệnh, ngài phấn khởi nên tu học siêng năng hơn và chứng được sáu thắng trí. Ngài bay trên hư không, đến thăm bà con và quy y, thọ giới cho họ. Một số bà con nhờ ngài quy y và thọ giới, khi mạng chung và được sanh lên các cõi trời. Khi Passika hầu hạ bậc Ðạo Sư, bậc Ðạo Sư hỏi về sức khỏe bà con của ngài, Passika trả lời như sau:

  1. Ðầu chỉ một mình ta,
    Có lòng tin, sáng suốt,
    Giữa các bà con ta,
    Những người không lòng tin,
    Thông hiểu được Chánh pháp,
    Ðầy đủ những giới đức,
    Vì lợi ích hạnh phúc,
    Cho các bà con ta.
  2. Những bà con bị ta,
    Vì thương họ trách móc,
    Do bà con ái mộ,
    Làm tốt đối Tỷ-kheo.
  3. Khi họ bị mệnh chung,
    Họ được lạc chư Thiên,
    Các anh và mẹ ta,
    Hoan hỷ điều họ muốn.

(CLXXVIII) Yasoja (Thera. 30)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại cửa thành ở Sàvatthi, trong một làng người đánh cá, con vị chủ hộ năm trăm gia đình đánh cá và được gọi là Yasoja. Ðến tuổi trưởng thành, một hôm ngài đánh cá với những người con các người đánh cá trên sông Aciravati, quăng lưới, ngài bắt được con cá lớn có màu sắc vàng. Họ dâng con cá lên vua Pasenadi và vua nói chỉ có đức Phật mới biết nguyên nhân, màu sắc của con cá. Ðức Phật dạy, tiền thân con cá là một ác Tỷ-kheo trong thời đức Phật Ca-diếp, nay vẫn đang sống trong cõi địa ngục. Các chị của nó vẫn sống trong địa ngục, Chỉ có anh nó là vị Trưởng lão, sống đời sống tốt đẹp, và Thế Tôn thuyết pháp về kinh Kapila. Nghe xong, Yasoja cảm thấy xúc động và xin xuất gia, và các bạn cũng xin xuất gia theo; họ đi đến tinh xá Jetavana (Kỳ Viên) để yết kiến đức Phật, nhưng khi đến họ làm quá ồn ào nên bị Thế Tôn đuổi đi. Bị đuổi, và sống trên sông Vaggumudà, Yasoja như con người thuần thục, quyết tâm quyết chí tu trì, không bao lâu chứng được sáu thắng trí. Rồi Thế Tôn cho gọi Yasoja, và ngài vì tu khổ hạnh đặc biệt, nên ốm yếu, xấu xí. Thế Tôn tán thán hạnh tu khắc khổ của ngài với những bài kệ như sau:

  1. Một người đen, gầy mòn,
    Yếu ốm đầy đường gân,
    Tiết độ trong ăn uống,
    Tâm tư không ưu não.

Yasoja được tán thán như vậy, đề cao hạnh cô độc và dạy như sau:

  1. Trong rừng núi rộng lớn,
    Bị muỗi ruồi đốt cắn,
    Như con voi lâm trận,
    Ta chánh niệm chịu đựng.
  2. Sống một, như Phạm thiên,
    Sống hai, như chư Thiên,
    Sống ba, như làng mạc,
    Nhiều hơn, như ở chợ.

(CLXXIX) Satimattya (Thera. 31)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở nước Magadha (Ma-kiệt-đà) làm con một Bà-la-môn, ngài hội đủ những điều kiện nhân duyên, xuất gia, sống với các Tỷ-kheo ở rừng, và trải qua học hỏi tu hành, chứng được sáu thắng trí. Rồi ngài giảng dạy các Tỷ-kheo, thuyết pháp cho nhiều tín đồ về quy y và các giới điều. Có một gia đình, đặc biệt ngài giáo hóa và nuôi dưỡng lòng tin. Trong gia đình này, ngài đặc biệt được chào đón, người con gái nhà này đẹp, và thường cung kính cúng dường ngài ăn uống.

Một hôm, Màra muốn phá ngài và làm ngài mất uy tín, giả dạng ngài và đi đến nắm tay cô con gái, nhưng cô con gái biết là không phải nắm tay của loài Người, liền bỏ tay ra. Nhưng người nhà thấy được và không còn tin tưởng ở ngài. Ngài không biết gì, cảm thấy có sự đổi khác trong thái độ của gia đình ấy. Biết rằng Màra đã ám hại, ngài nguyện sẽ làm tỏ rõ sự tình, người gia chủ nghe ngài giải thích liền xin lỗi ngài và tự mình xin phục vụ cho ngài. Ngài nói lên sự việc, trong những bài kệ sau đây:

  1. Lòng tin trước ông có,
    Nay không còn nơi ông,
    Của ông vẫn của ông,
    Ta không có ác hạnh.
  2. Vô thường và dao động,
    Là lòng tin của ông,
    Sự thấy là như vậy,
    Là sự thấy của ta,
    Có khi ông thương mến,
    Rồi ông lại không ưa,
    Vì sao bậc ẩn sĩ,
    Chịu héo mòn ở đây?
  3. Cơm nấu cho ẩn sĩ,
    Ít ít từng gia đình,
    Ta sẽ đi khất thực,
    Ống chân ta còn mạnh.

(CLXXX) Upàli (Thera. 31)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh trong gia đình một người cạo tóc tên là Upàli. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài xuất gia, theo gương của Anuruddha và năm vị con cháu hoàng tộc, khi đức Phật ở tại rừng Anupiyà. Khi ngài nhận một đề tài để thiền quán, ngài yêu cầu đức Phật đừng đưa ngài đi sống ra ngoài khu rừng. Ðức Phật dạy: ‘Nếu Thầy sống trong rừng, Thầy chỉ phát triển được một vấn đề, nhưng nếu Thầy sống với Ta, Thầy sẽ trở thành thuần thục cả về kinh học và thiền quán’. Ngài vâng theo lời bậc Ðạo Sư khuyên tu thiền quán và sau một thời gian chứng quả A-la-hán.

Tuy vậy, bậc Ðạo Sư dạy cho ngài cả Luật tạng. Về sau, khi Upàli được Thế Tôn khen vì Upàli đã phán quyết trong ba trường hợp về Ajjuka, về Tỷ-kheo Kurukacchaka và Kumàra-Kacapa, ngài được xem là vị hiểu biết Luật tạng.

Trong một ngày trai giới, khi ngài đang đọc giới bổn Pàtimokkha, ngài giáo giới các Tỷ-kheo như sau:

  1. Vì lòng tin ra đi,
    Mới xuất gia, tân học,
    Hãy sống với bạn lành,
    Mạng thanh tịnh, không nhác.
  2. Vì lòng tin, ra đi,
    Mới xuất gia, tân học,
    Tỷ-kheo trú giữa chúng,
    Sáng suốt, học Luật tạng.
  3. Vì lòng tin, ra đi,
    Mới xuất gia, tân học,
    Khéo biết việc nên làm,
    Và việc không nên làm,
    Hãy để vị ấy sống,
    Không để cao tôn xưng.

(CLXXXI) Uttarapàla (Thera. 31)

Sanh trong thời đức Phật hiện tại, ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn, ngài được đặt tên là Uttarapàla. Ngài thấy Thế Tôn thực hiện thần thông song hành, khởi lòng tin, xuất gia và chăm lo tu học. Một hôm, do nhớ nghĩ chuyện này chuyện khác, dục vọng tấn công ngài, và sau một thời chiến đấu tư tưởng mãnh liệt, ngài chận đứng các phiền não, và triển khai thiền quán, ngài chứng được quả A-la-hán.

Suy tư đến chiến thắng, ngài rống lên tiếng rống con sư tử:

  1. Ta thật là hiền thiện,
    Suy tư mục đích tốt,
    Bỏ năm dục trưởng dưỡng,
    Là thế giới si mê.
  2. Sanh trong giới vức ma,
    Bị tên mạnh xung kích,
    Nhưng ta giải thoát được,
    Cạm bẫy của Ma vương.
  3. Mọi dục, ta đoạn tận,
    Mọi sanh hữu, hủy hoại,
    Ðường sanh tử chấm dứt,
    Nay không còn tái sanh.

(CLXXXII) Abhibhùta (Thera. 31)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Vetthapura, đặt tên là Abhibhùta, và khi phụ thân mất, ngài thừa hưởng tài sản đất đai. Khi đức Phật đến tại thành phố, trong dịp Thế Tôn du hành, Abhibhùta đến nghe Thế Tôn thuyết pháp, và mai sáng mời Thế Tôn đến nhà. Thế Tôn cảm ơn và dạy cho ngài Chánh pháp với nhiều chi tiết. Ngài khởi lòng tin, từ bỏ gia sản, xuất gia và chứng quả A-la-hán.

Trong khi thọ hưởng vị ngọt giải thoát, các bà con, thân tín, quen biết đến than van với ngài và ngài đã từ bỏ họ, không để lại một vị lãnh đạo. Và ngài thuyết pháp cho họ nói lên lý do xuất gia của ngài:

  1. Hãy nghe mọi bà con,
    Những ai đã đến đây,
    Ta thuyết pháp cho ông,
    Tái sanh là đau khổ.
  2. Hãy tinh cần, ra đi,
    Chú tâm lời Phật dạy,
    Ðánh bại quân lực ma,
    Như voi, nhà cỏ lau.
  3. Ai trong Pháp Luật này,
    Sẽ sống không phóng dật,
    Từ bỏ dòng tái sanh,
    Sẽ chấm dứt khổ đau.

(CLXXXIII) Gotama (Thera. 32)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong dòng họ Thích-ca và chỉ được biết tên là Gotama, ngài khởi lòng tin khi đức Phật thăm viếng bà con, xuất gia, tu học thiền quán và chứng được sáu thắng trí. Khi ngài đang hưởng lạc giải thoát, bà con ngài hỏi ngài vì sao lại từ bỏ bà con đi xuất gia, ngài liền giải thích những khổ đau, ngài gặp khi phải sanh tử liên tục và hạnh phúc Niết-bàn ngài đã chứng được . Ngài nói:

  1. Ta tái sanh địa ngục,
    Liên tục đến ngạ quỷ,
    Ta sống trải nhiều ngày,
    Trong đau khổ bàng sanh.
  2. Và sống vui làm Người,
    Thỉnh thoảng sanh cõi Trời,
    Trú Giới sắc, Vô sắc,
    Phi tưởng, Phi phi tưởng.
  3. Ta khéo biết sanh hữu,
    Không cốt tủy, duyên thành,
    Dao động thường biến chuyển,
    Tác thành tự ngã ta,
    Ta đạt được tịnh tịch,
    Chánh niệm tâm an trú.

(CLXXXIV) Harita (Thera. 32)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn. Vì tự kiêu sanh trong giai cấp cao, ngài quen gọi các người khác là hạ sanh. Khi khởi lòng tin xuất gia, vì thói quen, ngài vẫn giữ tật xấu ấy. Nhưng một ngày kia, sau khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết giảng, ngài ôn lại tâm tư của mình và ngài thấy lo ngại vì lòng tự kiêu của mình. Ðoạn tận kiêu mạn ấy, ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Sau đó sống trong an lạc giải thoát, ngài chứng minh chánh trí của mình trong những bài kệ giảng dạy các Tỷ-kheo:

  1. Với ai, những công việc,
    Cần phải làm từ trước,
    Về sau, vị ấy mới
    Có ý định muốn làm.
    Vị ấy, tự phá hoại,
    Căn cứ địa an lạc,
    Về sau chịu khổ đau
    Trong nung nấu hối tiếc.
  2. Hãy nói điều có làm,
    Không nói điều không làm,
    Bậc Hiền trí rõ biết,
    Người chỉ nói, không làm.
  3. Niết-bàn khéo an lạc,
    Bậc Chánh giác thuyết giảng,
    Không sầu muộn, ly tham,
    Thật sự, là an ổn,
    Tại đấy, nỗi đau khổ,
    Ðược đoạn diệt hoàn toàn.

(CLXXXV) Vimala (Thera. 32)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Ba-la-nại trong một gia đình Bà-la-môn. Ngài xuất gia dưới sự hướng dẫn của Trưởng lão Amitta, và nhờ sự hướng dẫn này, ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Rồi ngài giảng dạy cho một Tỷ-kheo là bạn của ngài như sau:

  1. Hãy tránh xa bạn ác,
    Giao thiệp bậc thượng nhân,
    Vâng theo lời khuyến giáo,
    Hướng đến lạc bất động.
  2. Như leo trên ván nhỏ,
    Giữa biển lớn bị chìm,
    (Xem kệ 147 – 148)
  3. Cũng vậy đến kẻ nhác,
    Người hạnh tốt cũng chìm,
    Do vậy, hãy bỏ nó,
    Kẻ làm biếng, làm nhác.
  4. Hãy sống gần bậc Thánh,
    Bậc viễn ly tinh cần,
    Thiền định, thường tinh tấn,
    Bậc Hiền trí sáng suốt.

Chương IV

-ooOoo-

Phẩm Bốn Kệ

(CLXXXVI) Nàgasamàla (Thera. 33)

Sanh trong thời đức Phật hiện tại, trong gia đình hoàng tộc Thích-ca, ngài quán sát tánh vô thường của sự vật và triển khai thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Ngài chứng minh chánh trí của ngài dựa trên kinh nghiệm riêng của ngài trong những bài kệ này:

  1. Trang điểm, mặc áo đẹp,
    Ðeo vòng hoa, thơm nức,
    Mùi thơm gỗ chiên đàn,
    Giữa đám đông, đường lớn,
    Một vũ nữ đang múa,
    Múa lượn theo nhạc khí.
  2. Ta vào thành, khất thực,
    Ði ngang, ta thấy nàng
    Trang điểm, mặc áo đẹp,
    Gieo bẫy mồi thần chết.
  3. Rồi ta tự tác ý,
    Như lý khởi tư duy,
    Các hiểm nguy hiển lộ,
    Nhàm chán, ta an trú.
  4. Và tâm ta giải thoát,
    Thấy pháp nhĩ là vậy,
    Ba minh chứng đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CLXXXVII) Bhagu (Thera. 33)

Sanh trong thời đức Phật hiện tại, trong một gia đình dòng họ Sakya (Thích Ca), ngài xuất gia với Anuruddha và Kimbila, và sống gần làng Bàlakalona. Một ngày kia, khi ngài từ tinh xá ra ngoài để đối trị bịnh buồn ngủ, ngài té khi ngài bước lên đường kinh hành. Xem đấy để tự khích lệ, ngài tự chế ngự và phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Từ đấy, sống thọ hưởng an lạc giải thoát Niết-bàn. Thế Tôn đến, tán thán cô độc của ngài và hỏi: ‘Này Tỷ-kheo, sao cho đến nay, Thầy vẫn còn tinh tấn?’. Ngài trả lời, với những bài kệ như sau:

  1. Bị buồn ngủ chi phối,
    Ta ra khỏi tinh xá,
    Lại lên đường kinh hành,
    Tại đấy té xuống đất.
  2. Xoa bóp cả chân tay,
    Lại lên đường kinh hành,
    Qua lại đường kinh hành,
    Nội tâm ta định tỉnh.
    Rồi ta tự tác ý,
    Như lý khởi tư duy,
    Các hiểm nguy hiển lộ,
    Nhàm chán ta an trú.
  3. Và tâm ta giải thoát
    Thấy pháp nhĩ là vậy,
    Ba minh chứng đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CLXXXVIII) Sabhiya (Thera. 33)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong gia đình con gái một hoàng tộc, người con gái này được cha mẹ giao cho một vị du sĩ hướng dẫn để nàng có thể học giáo lý và nếp sống tu hành. Sabhiya khi lớn lên cũng trở thành một du sĩ, học hỏi nhiều kinh kệ tụng, trở thành một nhà lý luận sắc bén, không ai sánh nổi. Dựng am bên cửa thành, ngài dạy học cho con cháu các hoàng tộc, ngài nghĩ ra hai mươi câu hỏi để ngài hỏi các vị tu sĩ và Bà-la-môn. Trong khi Sabhiyasutta, có ghi là một Bà-la-môn, từ cõi Tịnh cư thiên, đã nghĩ ra các câu hỏi ấy. Thế Tôn khi đi đến Vương Xá, tinh xá Trúc Lâm, đã trả lời các câu hỏi và Sabhiya khởi lòng tin, xuất gia và chứng quả A-la-hán.

Khi ngài khuyên dạy các Tỷ-kheo đã theo phe Devadatta, ngài nói lên những bài kệ như sau:

  1. Người khác không rõ biết,
    Ta ở đây một thời,
    Tại đây, bậc có trí,
    Biết vậy sống tịnh chỉ.
  2. Khi họ không rõ biết,
    Họ làm như bất tử;
    Khi họ rõ biết pháp,
    Giữa bệnh, họ không bệnh.
  3. Ai sở hành phóng đãng,
    Cấm giới bị uế nhiễm,
    Phạm hạnh đáng nghi ngờ,
    Vị ấy chứng quả lớn,
  4. Sống giữa đồng Phạm hạnh,
    Không được trọng, tôn kính,
    Vị ấy xa Diệu pháp,
    Như trời xa đất liền.

(CLXXXIX) Nandaka (Thera. 33)

Trong thời Ðức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình có gia tộc, và được gọi là Nandaka. Ngài xuất gia, sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, và phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Sau đó khi đang sống trong an lạc giải thoát, ngài được bậc Ðạo Sư dạy thuyết pháp cho các Tỷ-kheo-ni và khiến cho năm trăm vị chứng quả A-la-hán. Ðức Phật ấn chứng cho ngài là vị khuyến giáo Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni đệ nhất.

Rồi một ngày kia, khi đi khất thực ở Sàvatthi, một nữ nhân trước kia lập gia đình với ngài, thấy ngài và cười lớn tiếng với một tâm bất chánh. Vị Trưởng lão thấy hành động của nàng liền dạy cho nàng về thân thể bất tịnh, với những bài kệ sau:

  1. Gớm thay, vật hôi thối!
    Ðầy sắc mùi hôi tanh,
    Vật sở hữu của ma,
    chảy nhiều dòng nước,
    Thân này có chín dòng,
    Luôn luôn được tuôn chảy.
  2. Chớ khinh miệt cổ nhân!
    Chớ xúc phạm Như Lai,
    Họ không tham thiên giới,
    Còn nói gì cõi người.
  3. Kẻ ngu, thiếu trí tuệ,
    Tà ý, si bao phủ,
    Kẻ ấy đầy tham đắm,
    Bị ma quăng dây trói.
  4. Những ai đã thoát ly,
    Tham, sân và vô minh,
    Ðây họ không tham đắm,
    Dây cắt, không trói buộc.

(CXC) Jambuka (Thera. 34)

Trong thời Ðức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình rất nghèo. Như trong đời trước, ngài dùng phân làm đồ ăn, và rời bỏ gia đình, làm vị tu khổ hạnh. Thực hành nhiều khổ hạnh, ăn từng hạt đậu một, được chấm trên đầu ngọn rơm. Ngài đã năm lăm tuổi khi đức Phật thấy ngài căn cơ thuần thục, như ngọn đèn đặt trong cài ghè, đi đến ngài, thuyết pháp và hóa độ cho ngài. Rồi Thế Tôn gọi: ‘Hãy đến, này Tỷ-kheo’ và cho ngài xuất gia. Rồi Jambuka phát triển thiền quán và Thế Tôn ấn chứng ngài chứng quả A-la-hán. Ðây chỉ là sơ lược, trong đoạn sớ giải các câu kệ của Dhammapàda, câu chuyện được giải thích rộng rãi từ nơi câu; ‘Ăn từng hạt đậu một, với ngọn rơm chấm đậu. Khi đến giờ mệnh chung, ngài nói lên rằng: dầu một lần sống theo tà hạnh, nhưng nếu dựa vào đức Phật tối thượng, ngài cũng có thể chứng quả như các đệ tử khác. Ngài nói lên những bài kệ:

  1. Trải năm mươi lăm năm,
    Thân đầy những bụi bặm,
    Ăn cơm tháng một lần,
    Tóc râu ta nhổ sạch.
  2. Ta đứng chỉ một chân,
    Ta không dùng giường nằm,
    Ta ăn phân phơi khô,
    Ta không nhận lời mời.
  3. Sở hành ta nhiều vậy,
    Dẫn ta đến ác thú,
    Bị nước lớn cuốn trôi,
    Cho đến khi quy Phật.
  4. Hãy nhìn Phật ta quy
    Hãy nhìn Pháp, pháp nhĩ
    Ba minh ta đạt được
    Lời Phật dạy làm xong

(CXCI) Senaka (Thera. 34)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình, con trai người chị của Trưởng lão Kassapa ở Uruvela, và được đặt tên là Senaka. Khi học về văn hóa Vệ-đà Bà-la-môn, ngài ở với gia đình. Trong thời ấy dân chúng tổ chức hàng năm vào tháng Thaggumà (tháng ba) một lễ quán đảnh một bến nước, lễ ấy được gọi là Gayà melà (hay ngày trai giới Gayà).

Thế Tôn vì lòng thương tưởng đến những người có thể giáo hóa, ở lại gần bờ sông. Và khi quần chúng tụ họp lại, Senaka cũng đến, nghe bậc Ðạo Sư thuyết giảng được cảm hóa xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Sau đó, suy tuởng đến sự thắng trận của mình, ngài cảm thấy hân hoan, và ứng khẩu nói lên những bài kệ này

  1. Thật tốt lành cho ta,
    Khi ở thành Gayà,
    Trong tháng lễ mùa xuân,
    Tháng tên Phagguna,
    Ta thấy bậc Chánh Giác,
    Thuyết Chánh pháp tối thượng.
  2. Bậc có hào quang lớn,
    Là Ðạo Sư hội chúng,
    Ðạt được vị tối thắng,
    Bậc lãnh đạo nhiếp chúng,
    Chiến thắng giới Trời, Người,
    Bậc thấy khó cân lường.
  3. Ðại long tượng, đại hùng,
    Ðại quang minh, vô lậu,
    Mọi lậu hoặc đoạn tận,
    Ðạo Sư, không sợ hãi.
  4. Lâu nay ta uế nhiễm,
    Bị tà kiến trói buộc,
    Nay chính Thế Tôn ấy,
    Giải thoát Senaka,
    Thoát khỏi mọi buộc ràng,
    Ðược tự tại , giải thoát.

(CXCII) Sambhùta (Thera. 34)

Trong thời Ðức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình có giai cấp, và sau khi bậc Ðạo Sư tịch diệt, ngài được Ananda giáo hóa, xuất gia và chứng quả A-la-hán. Ngài sống trong an lạc giải thoát, cho đến khi một trăm năm sau khi đức Phật nhập diệt, các Tỷ-kheo Vajjì đề xướng mười tà pháp bị Trưởng lão Niyasa và các Tỷ-kheo Kàlanndaka chống lại và một kỳ kiết tập được tổ chức với bảy trăm vị A-la-hán. Ngài Sambhùta, bị xúc động bởi hành động xuyên tạc Pháp và Luật, nói lên những bài kệ này và tuyên bố chánh trí của ngài:

  1. Ai khi phải từ từ
    Lại lội qua gấp gấp,
    Ai khi phải lội gấp,
    Lại từ từ lội qua,
    Kẻ ngu thiếu chánh lý,
    Ði đến cảnh khổ đau.
  2. Lợi ích bị tổn giảm,
    Như trăng vào thời đen,
    Gặp phải sự ô nhục,
    Chống đối các bạn bè.
  3. Ai khi phải từ từ,
    Lội qua rất từ từ,
    Ai khi phải lội gấp,
    Lội qua thật gấp gáp,
    Kẻ trí có chánh lý,
    Ði đến cảnh an lạc.
  4. Lợi ích được viên mãn,
    Như trăng vào thời sáng,
    Ðược danh tiếng vinh dự,
    Không chống đối bạn bè.

(CXCIII) Ràhula (Thera. 35)

Ngài là con của đức Phật và công chúa Yasodhàra, và được nuôi dưỡng với các hoàng tử khác. Trường hợp ngài xuất gia đã được ghi trong tập Khandhaka. Nhờ những lời dạy trong nhiều bài kinh, trí tuệ ngài thuần thục và phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Suy tư đến sự thắng trận của mình, ngài nói lên chánh trí:

  1. Nhờ ta được đầy đủ,
    Hai đức tánh tốt đẹp,
    Ðược bạn có trí gọi,
    ‘Ra-hu-la may mắn’
    Ta là con đức Phật,
    Ta lại được Pháp nhãn.
  2. Các lậu hoặc ta đoạn,
    Không còn có tái sanh,
    Ta là bậc La-hán,
    Ðáng được sự cúng dường.
    Ba minh ta đạt được,
    Thấy đuợc giới bất tử.
  3. Bị dục làm mù quáng,
    Bị lưới tà bao trùm,
    Khát ái làm màn che,
    Bao trùm che phủ kín.
    Do phóng dật trói buộc,
    Như cá mắc mắt lưới.
  4. Ta vượt qua dục ấy,
    Cắt đứt ma trói buộc,
    Nhổ lên gốc khát ái,
    Ta mát lạnh tịch tịnh.

(CXCIV) Candana (Thera. 35)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài tái sanh trong một gia đình giàu có và đặt tên là Candana, ngài sống một đời sống gia đình cho đến khi ngài được nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp. Và chứng quả Dự Lưu. Khi ngài sanh được một người con, ngài xuất gia, chọn lựa một đề tài thiền quán và sống ở trong rừng. Ði đến Sàvatthi để yết kiến bậc Ðạo Sư, ngài ở trong một bãi tha ma, vợ ngài nghe tin ngài đến, liền trang điểm, đem con theo, nghĩ rằng: ‘Với nhan sắc nàng có thể khiến ngài từ bỏ xuất gia’. Ngài thấy nàng từ xa đi đến nghĩ cách để thoát khỏi bị nàng cám dỗ, phát triển thiền quán và chứng được sáu thắng trí. Ngài thuyết giảng cho nàng, khiến nàng qui y và thọ các giới. Rồi ngài trở lui ở chỗ cũ của ngài. Khi các Tỷ-kheo bạn hỏi ngài: ‘Các căn của bạn chói sáng, bạn đã chứng sự thực gì?’. Ngài nói lên quả chứng của mình, và với những bài kệ này, chứng minh chánh trí của mình.

  1. Với vàng che phủ kín,
    Chúng nữ tỳ vây quanh,
    Mang theo đứa con thơ,
    Người vợ đến với ta.
  2. Thấy mẹ của con ta,
    Từ xa đang đi đến,
    Khéo trang điểm đẹp đẽ,
    Như ma gieo bẫy mồi.
  3. Rồi ta tự tác ý,
    Như lý khởi tư duy,
    Các hiểm nguy hiển lộ,
    Nhàm chán, ta an trú.
  4. Và tâm ta giải thoát,
    Thấy pháp nhĩ là vậy,
    Ba minh chứng đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CXCV) Dhammika (Thera. 35)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Kosala, tên là Dhammika. Khi Jetavana (Kỳ Viên) được dâng cúng, ngài khởi lòng tin, và xuất gia. Sống tại một tinh xá ở làng, ngài cảm thấy bất mãn và khó chịu đối với các công việc các Tỷ-kheo đến tinh xá. Do vậy các Tỷ-kheo đều bỏ đi và ngài làm chủ một mình một ngôi tinh xá. Một cư sĩ báo cáo sự việc lên bậc Ðạo Su, bậc Ðạo Sư cho gọi ngài lên để giải thích. Theo lời các Tỷ-kheo yêu cầu, ngài nói lên những bài kệ như sau:

  1. Pháp che chở hộ trì,
    Người hành trì Chánh pháp,
    Pháp đem lại an lạc,
    Cho người khéo hành pháp,
    Ðây là những lợi ích,
    Khi pháp khéo hành trì,
    Người hành trì Chánh pháp,
    Không đi xuống ác thú.
  2. Cả hai pháp, phi pháp,
    Kết quả không giống nhau;
    Phi pháp, dẫn địa ngục,
    Pháp đưa đến cõi lành.
  3. Do vậy, đối Chánh pháp,
    Khởi ý muốn hành trì,
    Tâm tư sanh hoan hỷ,
    Khéo thiện lai như vậy.
    Vững trú trên Chánh pháp,
    Ðệ tử bậc Thiện Thệ,
    Sáng suốt tiến bước lên,
    Quy y bậc tối thượng.
  4. Phá vỡ cội ung nhọt,
    Nhổ lên lưới ái triền,
    Luân hồi được đoạn tận,
    Không còn có sanh y,
    Như trăng vào ngày rằm,
    Trong đêm thanh trong sáng.

Khi Thế Tôn dạy ba bài kệ trên, Dhammika trên chỗ ngồi phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Ðể nói lên quả chứng của mình cho bậc Ðạo Sư rõ, ngài nói lên bài kệ cuối cùng để nói lên chánh trí của ngài.

(CXCVI) Sabbaka (Thera. 35)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn, ngài nghe Thế Tôn thuyết pháp, khởi lòng tin và xuất gia. Lựa chọn một đề tài để thiền quán, ngài đi đến tinh xá Lonagiri, trên bờ sông Ajakaranì và tại đấy, sau một thời gian chứng quả A-la-hán. Ði đến Sàvatthi để yết kiến bậc Ðạo Sư, ngài ở lại một thời gian và được bà con đón tiếp. Sau khi khuyên các bà con quy y và giữ giới, ngài muốn trở về chỗ cũ. Các bà con yêu cầu ngài ở lại để được bà con cúng dường, nhưng ngài nói cho họ rõ vì sao ngài đến đây, và sự ưa thích đời sống độc cư. Ngài nói lên bài kệ tán thán trú xứ của ngài:

  1. Khi ta thấy con cò,
    Trương đôi cánh trắng tinh,
    Sợ hãi đám mây đen,
    Tìm chỗ kín ẩn nấp;
    Khi ấy chính con sông,
    Ajakaranì,
    Ðem hoan hỷ cho ta.
  2. Khi ta thấy con cò,
    Trương đôi cánh trắng sạch,
    Sợ hãi đám mây đen,
    Tìm hang để ẩn nấp,
    Nhưng tìm không có thấy.
    Khi ấy chính con sông,
    Ajakaranì,
    Ðem hoan hỷ cho ta.
  3. Ai lại không thích thú,
    Khi thấy ở tại đây,
    Trên cả hai dãy bờ,
    Có hàng cây Jambu,
    Làm chói sáng bờ sông,
    Sau lưng cái hang lớn.
  4. Hãy nghe những con nhái,
    Khéo thoát những đàn rắn,
    Kêu lên niềm hoan hỷ,
    Với tiếng kêu nhẹ nhàng:
    Nay không phải là thời,
    Buông thả với suối rừng,
    Thật an ổn con sông
    Ajakaranì,
    Thoải mái và yên lành,
    Thật an vui thích thú!

Rồi các bà con thuận để ngài đi. Vì ngài thích sống nhàn tịnh, đây trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(CXVII) Mudita (Thera 36)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình thường dân và được đặt tên là Mudita. Khi ngài đến tuổi trưởng thành , dòng họ ngài vì một vài nguyên nhân, bị vua chống đối Mudita, quá sợ vua nên bỏ chạy, đi vào rừng và sống gần trú xứ của một Trưởng lão đã chứng quả A-la-hán. Vị này thấy ngài quá sợ hãi, bảo ngài chớ có sợ. Ngài hỏi cần phải bao nhiêu thời gian mới khỏi tai nạn, vị A-la-hán nói cần phải bảy hay tám tháng, ngài nói ngài không thể đợi lâu như thế nên xin xuất gia. Vị Trưởng lão cho phép ngài được xuất gia. Ngài xuất gia, học đạo, khởi lòng tin, không còn sợ hãi nữa, và tu tập thiền quán. Chưa chứng được quả A-la-hán, ngài nguyện không rời khỏi tinh xá cho đến khi chứng quả và cuối cùng ngài đã thành công. Sau đó, ngài sống trong an lạc giải thoát, các Tỷ-kheo đồng Phạm hạnh hỏi ngài làm sao ngài thành đạt được chí nguyện, ngài nói lên kinh nghiệm của ngài trong những bài kệ như sau:

  1. Ðể cứu mạng sống ta,
    Ta xuất gia tu hành,
    Ta được thọ đại giới,
    Nhờ vậy được lòng tin,
    Ta kiên trì tinh tấn,
    Hăng hái ta tiến bước.
  2. Dầu thân này hủy hoại,
    Từng miếng thịt tiêu mòn,
    Ðầu khớp xương hai gối,
    Ống chân làm ta ngã.
  3. Ta sẽ không ăn uống,
    Không ra ngoài tinh xá,
    Ta sẽ không nằm xuống,
    Không nằm một bên hông,
    Nếu mũi tên tham ái,
    Chưa được rút nhổ lên.
  4. Hạnh ta sống như vậy,;
    Hãy nhìn ta tinh cần,
    Ba minh ta đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

Chương V

-ooOoo-

Phẩm Năm Kệ

(CXCVIII) Ràjadatta (Thera. 37)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình của những người lữ hành, cha mẹ gọi ngài là Ràjadatta (Vua ban cho), vì rằng sinh được ngài là nhờ cha mẹ cầu nguyện Vesavana, một vị thiên thần hư không. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài một lần dẫn năm trăm cỗ xe hàng hóa đến Ràjagaha (Vương Xá); tại đấy ngài tiêu tất cả tiền, tiêu một ngàn đồng cho một kỹ nữ đẹp, đến nỗi ngài hết cả tiền, không có đủ ăn, phải đi lang thang trong đói khổ. Rồi ngài đến tinh xá Trúc Lâm (Veluvana) với các cư sĩ khác, tại đấy bậc Ðạo Sư đang thuyết pháp với một thính chúng rất lớn. Rồi Rajadatta, ngồi ở phía ngoài thính chúng nghe, khởi lòng tin và xuất gia. Thực hành hạnh đầu đà, ngài sống trong một nghĩa địa.

Rồi một nhà lữ hành khác cũng tiêu hết một ngàn đồng cho người kỳ nữ, nhưng trên tay người này có một chiếc nhẫn rất có giá trị và người kỹ nữ thèm muốn lấy chiếc nhẫn. Nàng cho người đánh cắp. Nhưng người hầu hạ của người lữ hành tin cho cảnh sát biết, đến lục soát nhà nàng giết nàng và quăng thân nàng trong nghĩa địa.

Trưỏng lão Rajadatta, đang đi tìm một đối tượng để quán tưởng, thấy được thi hài của người kỹ nữ. Ngài tập trung tư tưởng, nhưng các phần thi hài nàng chưa bị chó hay chó rừng ăn, làm ngài dao động và chi phối ngài. Ngài lấy làm ảo não buồn phiền, lánh xa đi một lúc rồi lại bắt đầu tự mình khích lệ, tu thiền, phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán.

Rồi suy tư trên thành công của mình, cảm thấy hoan hỷ phấn khởi, ngài nói:

  1. Một Tỷ-kheo đi đến
    Tại một bãi tha ma,
    Thấy thân một đàn bà,
    Bị quăng tại chỗ ấy,
    Vất bỏ trong nghĩa địa,
    Làm mồi cho sâu ăn.
  2. Có kẻ sinh nhàm chán,
    Thấy thân chết khốn nạn,
    Trong ta, dục tham hiện,
    Như mù, ta bị trói.
  3. Mau hơn cơm sôi trào,
    Chỗ ấy, ta đi thoát,
    Chánh niệm, ta tỉnh giác,
    Ta đến, ngồi một bên.
  4. Rồi ta tự ý tác,
    Như lý khởi tư duy,
    Các hiểm nguy hiển lộ,
    Nhàm chán ta an trú.
  5. Và tâm ta giải thoát,
    Thấy Pháp nhĩ là vậy,
    Ba minh chứng đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CXCIX) Subhùta (Thera. 37)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình thường dân ở Magadha, tên là Subhùta, ngài không thể sống trong gia đình, nên bỏ nhà làm nguời du sĩ. Không thấy trong bộ phái của mình cái gì là chân lý và thấy Upatissa, Kolita, Sela sống hạnh phúc hoan hỷ sau khi tu hành, ngài khởi lòng tin giáo lý đức Phật và xin xuất gia. Sau khi lấy được cảm tình các vị giáo thọ sư và truyền pháp sự, ngài vào nhập thất với một đề tài thiền quán. Nhờ phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán.

Rồi ngài tuyên bố chánh trí của ngài bằng cách ôn lại sự đau khổ khi tu hành và sự hoan hỷ khi ngài được tu thiền, ngài nói lên bài kệ:

  1. Ðặt mình vào tại chỗ,
    Không được cho thích đáng,
    Một người muốn làm việc,
    Nhưng không được thành tựu
    Như vậy công việc ấy,
    Ðược xem bị thất bại.
  2. Nếu từ bỏ phần thắng,
    Gốc khổ được rút lên,
    Nó giống kẻ đánh bạc,
    Vận rủi quăng con bài,
    Nếu nó quăng tất cả,
    Nó chẳng khác người mù,
    Không nhìn thấy con đường,
    Bằng phẳng, không bằng phẳng.
  3. Hãy nói điều có làm,
    Không nói điều không làm,
    Bậc Hiền trí rõ biết,
    Người chỉ nói không làm.
  4. Như bông hoa tươi đẹp,
    Có sắc nhưng không hương,
    Cũng vậy lời khéo nói,
    Có làm, có kết quả.
  5. Như bông hoa tươi đẹp,
    Có sắc lại không hương,
    Cũng vậy lời khéo nói
    Không làm không kết quả.

(CC) Girimànanda (Thera. 38)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Ràjagaha (Vương Xá) con trai của vị cố vấn nghi lễ cho vua Bimbisàra (Tần-bà-sa-la). Ngài thấy uy lực và uy nghi của đức Phật khi đức Phật dự hội ở Ràjagaha, và xin xuất gia. Trong thời kỳ học tập, ngài sống trong một thời gian tại một ngôi làng rồi trở lui lại thành phố để đảnh lễ Ðức Phật. Vua Bimbisàra nghe tin ngài tới, đến yết kiến ngài và nói ngài hãy ở lại đây, vua xin lo liệu tất cả. Vì vua nhiều việc nên quên đi lời hứa, và ngài phải sống giữa trời. Và thần mưa không mưa sợ làm ngài ướt. Rồi vua Bimbisàra, thấy trời hạn hán nên xây dựng một am thất cho ngài. Và ngài sống trong am thất ấy cố gắng tu hành tinh tấn, quyết tâm nỗ lực, tu tập thiền định, thiền quán, chứng được quả A-la-hán. Rồi hoan hỷ với sự kiện này, ngài nói lên lời chánh trí của ngài trong khi trời bắt đầu đổ mưa.

  1. Trời mưa như bài ca,
    Khéo hát với nhạc điệu,
    Ta ngồi trong am thất,
    An lạc, được che chở,
    Tại đấy ta an trú,
    Thoải mái và an tịnh,
    Thần mưa, nếu ngươi muốn,
    Hãy mưa, hãy mưa đi.
  2. Trời mưa như bài ca
    Khéo hát với nhạc điệu,
    Ta ngồi trong am thất,
    An lạc, được che chở.
    Tại đấy ta an trú,
    Tâm tư thật tịnh chỉ,
    Thần mưa, nếu ngươi muốn,
    Hãy mưa, hãy mưa đi.
  3. Trời mưa như bài ca,
    Khéo hát với nhạc điệu,
    Ta ngồi trong am thất,
    An lạc, đuợc che chở.
    Tại đấy ta an trú,
    Tâm tư, ly tham ái,
    Thần mưa nếu ngươi muốn,
    Hãy mưa, hãy mưa đi.
  4. Trời mưa như bài ca,
    Khéo hát với nhạc điệu,
    Ta ngồi trong am thất,
    An lạc được che chở.
    Tại đấy ta an trú,
    Tâm tư ly sân hận,
    Thần mưa nếu ngươi muốn,
    Hãy mưa, hãy mưa đi.
  5. Trời mưa như bài ca,
    Khéo hát với nhạc điệu,
    Ta ngồi trong am thất,
    An lạc, được che chở.
    Tại đấy ta an trú,
    Tâm tư ly si mê,
    Thần mưa nếu ngươi muốn,
    Hãy mưa, hãy mưa đi.

(CCI) Sumana (Thera. 38)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình thường dân, ở Kosala, tên là Sumana, ngài lớn lên trong hoàn cảnh may mắn. Anh mẹ ngài trở thành vị A-la-hán, sống ở trong rừng, và khi Sumana đến tuổi trưởng thành, cậu ngài cho ngài xuất gia và trao cho ngài đề tài để thiền quán về phía giới hạnh. Cuối cùng, khi Bốn thiền và Năm thắng trí đã chứng được, vị Trưởng lão chỉ cho ngài phương pháp thiền quán, và nhờ vậy ngài chứng quả A-la-hán. Khi đi đến người cậu của ngài, ngài được hỏi về sự thành công và ngài nói lên chánh trí của ngài như sau:

  1. Ðiều giáo thọ sư muốn,
    Tôi biết trong chánh pháp,
    Với tôi mong bất tử,
    Ðiều phải làm, làm xong.
  2. Pháp tôi đạt, tự chứng,
    Không phải chỉ nghe suông,
    Trí tôi được thanh tịnh,
    Không còn có nghi ngờ,
    Mong tôi đứng gần ngài,
    Nói lên điều xác chứng.
  3. Tôi biết các đời trước,
    Thiên nhãn tôi thanh tịnh,
    Mục đích tôi đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.
  4. Học tập, không phóng dật,
    Khéo nghe lời ngài dạy,
    Mọi lậu hoặc, tôi đoạn,
    Nay không còn tái sanh.
  5. Ngài giảng tôi thánh giới,
    Từ mẫn ngài hộ trì.
    Ngài dạy, không vô ích,
    Tôi đệ tử học ngài.

(CCII) Vaddha (Thera. 38)

Sanh trong đời đức Phật hiện tại, tại thành Dhamkaccha trong một dòng họ thường dân, ngài được đặt tên là Vaddha. Khi lớn lên, mẹ ngài cảm thấy âu lo vì vấn đề tái sanh và chết, giao con lại cho bà con, rồi bà xuất gia giữa các Tỷ-kheo-ni. Sau bà trở thành một vị A-ha-hán. Con bà, cũng xuất gia dưới sự hướng dẫn của Veludanta, học lời dạy đức Phật, trở thành một pháp sư giỏi có tiếng. Một hôm, suy nghĩ đến trách nhiệm của mình, ngài nghĩ: ‘Nay ta sẽ đến thăm mẹ ta một mình và không đắp y ngoài’. Rồi ngài đi đến trú xứ các Tỷ-kheo-ni. Mẹ ngài thấy ngài vậy, chỉ trích ngài sao đi đến trú xứ Tỷ-kheo-ni một mình và không đắp y ngoài. Ngài nhận thấy mình có lỗi, trở về tinh xá, ngồi trong phòng thiền định và chứng quả A-la-hán. Ngài nói lên chánh trí của ngài, nhờ lời chỉ trích của mẹ ngài:

  1. Lành thay, bà mẹ ta,
    Kích thích, khích lệ ta,
    Nghe lời dạy của bà,
    Ðược dạy bởi bà mẹ,
    Ta tinh cần, tinh tấn,
    Chứng Bồ-đề vô thượng.
  2. Ta xứng được cúng dường,
    Ba minh, thấy bất tử.
    Ta chứng quả La-hán,
    Xứng đáng được cúng dường,
    Ba minh đã chứng đạt,
    Thấy được quả bất tử,
    Chiến thắng quân Ma vương,
    Ta sống, không lậu hoặc.
  3. Các lậu hoặc, nội, ngoại,
    Trước đã có trong ta,
    Tất cả bị nhổ sạch,
    Không còn khởi tên nữa.
  4. Bà chị tâm nhu thuận,
    Nói lên ý nghĩa này,
    Trong con và trong ta,
    Cỏ rừng không còn nữa.
  5. Khổ đã được chấm dứt,
    Thân này thân cuối cùng,
    Ðường sanh tử đứt đoạn,
    Nay không còn tái sanh.

(CCIII) Nadikassapa (Thera. 39)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Magadha (Ma-kiệt-đà), là anh của Kassapa. Ngài thiên hẳn đời sống xuất gia, không ưa thích đời sống gia đình, và ngài trở thành một ẩn sĩ. Với ba trăm đồ chúng, ngài sống một đời sống ẩn sĩ trên bờ sông Neranjarà (Ni-liên-thiền), và do vậy ngài được biết và được gọi là Kassapa ở bên sông (Nadi-Kassapa). Ngài được Thế Tôn giáo hóa cùng với hai anh em, như đã được ghi trong Luật tạng. Sau khi Thế Tôn thuyết kinh Lửa Bốc Cháy, ngài chứng quả A-la-hán. Sau đó, suy tư trên thiền chứng, ngài nói lên chánh trí của mình, bằng cách nhổ lên các sai lầm:

  1. Thật lợi ích cho ta
    Ðức Phật đến tại đây,
    Ðến con sông tên gọi
    Sông Nê-răn-ja-ra,
    Ta nghe pháp ngài giảng
    Ðoạn tận các tà kiến
  2. Ta hành lễ tế tự,
    Ðọc cao lời tế lễ,
    Ta đốt lên lửa thiêng,
    Ðổ cúng dường vào lửa,
    Nghĩ rằng ta thanh tịnh,
    Ta thật mù, phàm phu.
  3. Lang thang rừng tà kiến,
    Bị giới cấm, mờ mắt,
    Không tịnh, nghĩ thanh tịnh,
    Mù lòa, ta không thấy
  4. Ta đoạn tận tà kiến,
    Mọi sanh hữu phá tan,
    Ta đốt lên ngọn lửa,
    Xứng đáng được cúng dường,
    Ta cúi mình đảnh lễ,
    Bậc Như Lai Ðiều Ngự.
  5. Mọi si mê, ta đoạn,
    Hữu ái được phá hủy,
    Ðường sanh tử đoạn tận,
    Nay không còn tái sanh.

(CCIV) Gayà-Kassapa (Thera. 39)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn, câu chuyện ngài giống như câu chuyện của Nadì-Kassapa, chỉ khác ngài chỉ có hai trăm đệ tử và sống ở Gayà, ngài nói lên chánh trí bằng cách tán thán tẩy sạch các điều ác như sau:

  1. Buổi sáng, trưa, buổi chiều,
    Ba lần trong một ngày,
    Ta xuống dòng Gà-yà,
    Sông Ga-ya-phay-gu.
  2. Các điều ác, ta làm
    Trong các đời sống trước,
    Nay đây ta rửa sạch,
    Xưa ta tin là vậy.
  3. Nghe lời nói khéo giảng,
    Con đường đủ pháp nghĩa,
    Với ý nghĩa chân thật,
    Ta như lý quán sát.
  4. Ta tắm sạch mọi ác,
    Ta không uế, trong sạch.
    Ta trong sạch thuần tịnh,
    Thừa tự bậc trong sạch,
    Ta chính là con trai,
    Con chính tông đức Phật.
  5. Lặn vào dòng Tám chánh,
    Ta gột sạch mọi ác,
    Ba minh ta đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CCV) Vakkali (Thera. 39)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một dòng họ Bà-la-môn và được gọi tên Vakkali. Khi đến tuổi trưởng thành, và học xong ba tập Vệ-đà, trở thành thuần thục trong những thành tích Bà-la-môn, ngài thấy bậc Ðạo Sư, ngài nhìn không chán thân hình tuyệt vời của đức Phật, và ngài đi theo bậc Ðạo Sư. Khi ngài trở về nhà, ngài nghĩ nếu ở lại nhà, ngài sẽ không có dịp luôn luôn thấy được đức Phật. Do vậy, ngài xuất gia, và từ khi ăn uống và tắm rửa, ngài để toàn thì giờ để chiêm ngưỡng đức Phật. Bậc Ðạo Sư, chờ đợi thiền quán của ngài được chín muồi, nên trong một thời gian dài, đức Phật không nói gì. Một hôm đức Phật hỏi: ‘Này Vakkali, thân bất tịnh này mà Thầy thấy, đối với Thầy như thế nào? Ai thấy Pháp người ấy tức thấy Ta. Vì rằng thấy Pháp tức là thấy Ta, và thấy ta tức là thấy Pháp’. Nghe lời nói đức Phật, ngài không chiêm ngưỡng thân đức Phật nữa, nhưng ngài chưa bỏ đi xa được. Bậc Ðạo Sư nghĩ rằng: ‘Tỷ-kheo này, nếu không được xúc động mạnh, sẽ không thức tỉnh’, nên vào cuối ngày an cư mùa mưa, đức Phật nói: ‘Này Vakkali, hãy đi đi’. Nghe bậc Ðạo Sư nói vậy, ngài tự nghĩ ngài phải đi, nhưng nghĩ rằng đời ngài có ý nghĩa gì, nếu không được gặp bậc Ðạo Sư, nên ngài có ý định leo lên núi Linh Thứu để gieo mình xuống vực núi tự tử. Ðức Phật biết được Vakkali có ý định như vậy, nên sợ ngài phá hoại những điều kiện chứng được thánh quả, nên hiện ra trước mặt ngài và đọc lên bài kệ:

Tỷ-kheo nhiều hân hoan,
Tịnh tín giáo pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tịnh,
Các hạnh an tịnh lạc.

Ðức Phật đưa tay và nói: ‘Hãy đến, này Tỷ-kheo!’ Vakkali rất lấy làm sung sướng được nghe lời Phật dạy, thấy được điều gì mình đang làm, đứng trên hư không suy tư đến lời Phật dạy, chứng quả A-la-hán với sự hiểu biết về nghĩa và về pháp. (Ðây là những tài liệu được tập sớ của bộ Anguttara Nikàya và tập sớ của Dhammapaca ghi chép lại).

Theo những tài liệu khác, Vakkali chưa chứng quả A-la-hán, sau khi nghe lời dạy của bậc Ðạo Sư, ngài ở trên núi Linh Thứu, phát triển thiền quán. Thế Tôn cho ngài một đề tài tu tập, nhưng vì quá đói và bị tê liệt nên ngài không chứng quả được. Biết vậy, Thế Tôn nói với ngài như sau:

  1. Bị bệnh gió chi phối,
    Thầy sống trong rừng sâu,
    Chỗ khất thực hạn chế,
    Thân gầy mòn ốm yếu,
    Tỷ-kheo sẽ làm gì?
    Với thân thể như vậy?

Vị Trưởng lão nói lên sự hân hoan thường xuyên của mình, nhờ được sự an lạc siêu nhân:

  1. Thân con được tràn ngập,
    Với hỷ lạc tỏa rộng,
    Dầu có bị gầy ốm,
    Con sẽ sống trong rừng.
  2. Tu tập Bốn niệm xứ,
    Năm căn và Năm lực,
    Tu tập các Giác chi,
    Con sẽ sống trong rừng.
  3. Con thấy bạn đồng tu,
    Sống hòa hiệp, dõng mãnh,
    Luôn kiên trì tinh tấn,
    Con sẽ sống trong rừng.
  4. Tùy niệm Phật thiền định,
    Bậc Tối thượng Ðiều Ngự,
    Ngày đêm không biếng nhác,
    Con sẽ sống trong rừng.

Khi nói vậy, ngài phát triển thiền quán và ngay khi ấy chứng quả A-la-hán.

(CCVI) Vigitasena (Thera. 39)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ra trong một gia đình huấn luyện voi ở nước Kosala, và được đặt tên là Vigitasena. Những người cậu bên ngoại, Sena và Upasena cả hai đã xuất gia và chứng quả A-la-hán. Vigitasena sau khi đã thuần thục nghề của mình, thấy thần thông song hành của bậc Ðạo Sư khởi lòng tin, và theo bản năng tự nhiên, xin xuất gia dưới sự hướng dẫn của các người cậu. Nhờ các người cậu giảng dạy, ngài đạt đến thiền quán, nhưng tâm trí ngài thiên về lý luận chạy theo những vật bên ngoài, nên ngài giảng dạy cho tâm trí ngài như sau:

  1. Ta sẽ chế ngự ngươi,
    Như cửa khóa ngăn voi,
    Ta sẽ không thúc ngươi,
    Này tâm trong điều ác,
    Ngươi chính là lưới dục,
    Ngươi do thân sanh ra.
  2. Chế ngự ngươi không đi,
    Như voi, không cửa mở,
    Này tâm, kẻ phù thủy,
    Dầu ngươi cố gắng mãi,
    Ngươi không còn lang thang,
    Ưa thích làm điều ác.
  3. Như người cầm câu móc,
    Ngăn mãi voi chưa thuần,
    Như người dùng sức mạnh,
    Cải hóa kẻ không muốn,
    Cũng vậy đối với ngươi,
    Ta sẽ cải hóa ngươi.
  4. Như bánh xe tuyệt hảo,
    Khéo huấn luyện ngựa hay,
    Cũng vậy ta điều ngươi,
    Dựa lên trên Năm lực.
  5. Ta sẽ cột chặt ngươi,
    Với chánh niệm vững chắc,
    Tự mình đã chế ngự,
    Ta sẽ chế ngự ngươi,
    Nhờ sức nặng tinh tấn,
    Ngươi được ta áp lực,
    Do vậy, hỡi này tâm,
    Ngươi sẽ không xa ta.

(CCVII) Yasadatta (Thera. 40)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong dòng họ vua Malla, được đặt tên là Yasadatta, ngài được học ở Takkasilà. Sau khi đi du hành vói du sĩ Sabhiya, cả hai đến Sàvatthi, tại đây hỏi Thế Tôn một số câu hỏi. Yasadatta ngồi nghe những câu trả lời, ý muốn ưa chỉ trích: ‘Ta sẽ nêu lên những khuyết điểm trong những câu trả lời của Sa-môn Gotama’. Thế Tôn hiểu tâm tư của Yasadatta, nên sau khi nói kinh Sabhiya, Thế Tôn giáo huấn Yasadatta như sau:

  1. Với tâm, muốn chỉ trích,
    Kẻ ngu nghe lời dạy
    Của bậc đã thắng trận,
    Người ấy, thái độ vậy,
    Rất xa vời Chánh pháp,
    Như đất xa bầu trời.
  2. Với tâm muốn chỉ trích,
    Kẻ ngu nghe lời dạy
    Của bậc đã chiến thắng,
    Người ấy thái độ vậy,
    Tổn giảm xa Chánh pháp,
    Như trăng nửa tháng đen.
  3. Với tâm muốn chỉ trích,
    Kẻ ngu nghe lời dạy
    Của bậc đã chiến thắng,
    Người ấy thái độ vậy,
    Khô cạn trong diệu pháp,
    Như cá mắc nước cạn.
  4. Với tâm muốn chỉ trích,
    Kẻ ngu nghe lời dạy
    Của bậc đã chiến thắng,
    Người ấy thái độ vậy,
    Không lớn trong diệu pháp,
    Như giống thối trong ruộng.
  5. Ai tâm tư thỏa mãn,
    Nghe bậc Thánh giảng dạy,
    Từ bỏ mọi lậu hoặc,
    Chứng ngộ không dao động,
    Ðạt tịch tịnh tối thượng,
    Chứng Niết-bàn vô lậu.

(CCVIII) Sonakutikanna (Thera. 40)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở xứ Avanti, trong một gia đình rất giàu có, và được đặt tên là Sona. Vì đeo một bông tai đắt giá, ngài cũng được gọi là Koti hay Kutikanna (người có lỗ tai đắt giá). Lớn lên, ngài trở thành một điền chủ, và khi Trưởng lão Mahà Kaccàna ở gần bên nhà, ngài cung cấp các vật dụng nhu yếu, nghe Chánh pháp, cuối cùng cảm thấy dao động, xin xuất gia với Trưởng lão Kaccàna. Rủ thêm mười người một cách khó khăn, ngài xin phép vị Trưởng lão đi đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn. Ðược phép ngủ đêm trong chái phòng đức Phật, và buổi sáng được mời tụng đọc, ngài được khen khi đọc mười sáu Athaka. Khi đọc đến câu: ‘Thấy sự nguy hiểm của một đời thế tục’, ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán.

Khi ngài được đức Bổn Sư bằng lòng về ba vấn đề mà vị Trưởng lão Mahà Kaccàna giao cho ngài hỏi, ngài trở về chỗ cũ và thưa lại với bậc giáo thọ sư của mình (Sự kiện này được ghi chép đầy đủ trong tập Udàna và tập sớ Anguttara, nhưng ở đây lại nói ngài chứng quả A-la-hán khi còn học tập với vị giáo thọ sư của mình).

Rồi, trong khi sống, thọ hưởng an lạc giải thoát, ngài ôn lại sự thanh đạt của mình, và với tâm hoan hỷ, ngài nói lên những bài kệ như sau:

  1. Ta thọ được đại giới,
    Ta giải thoát vô lậu,
    Thế Tôn, ta được thấy,
    Ta sống chung tinh xá.
  2. Thế Tôn, trải nhiều ngày
    Sống ngay ở ngoài trời,
    Ðạo Sư khéo an trú,
    Rồi mới vào tịnh xá.
  3. Trải y Tăng-già-lê
    Gotama nằm xuống,
    Như sư tử hang đá,
    Ðoạn tận mọi sợ hãi.
  4. Khéo lựa lời tốt lành,
    Ðệ tử bậc Chánh Giác,
    Trước đức Phật tuyệt hảo,
    Sona thuyết diệu pháp.
  5. Liễu Tri Năm thủ uẩn,
    Tu tập con đường Thánh
    Ðạt an tịnh tối thượng,
    Chứng Niết-bàn vô lậu.

(CCIX) Kosiya (Thera. 41)

Trong thời Ðức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Magadha và được đặt tên là Sona. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài hay đến nghe Trưởng lão Sàriputta thuyết pháp, tin tưởng ở nơi giáo lý, xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi ôn lại quá trình giải thoát của mình, ngài tán thán đức hạnh và sức mạnh quyết định hành thiện của các bậc Thánh với những bài kệ sau đây:

  1. Ai hiểu những lời dạy
    Của các bậc Ðạo Sư,
    Bậc trí sống an trú,
    Phát sanh lòng ái niệm,
    Bậc trí có lòng tin,
    Biết thù thắng trong Pháp.
  2. Vị khi nạn lớn khởi,
    Suy tư không tê liệt,
    Bậc trí có kiên trì,
    Biết thù thắng trong Pháp.
  3. Ai vững trú như biển,
    Không dục, trí tuệ sâu,
    Thấy rõ chân nghĩa lý,
    Tế nhị và vi diệu,
    Bậc trí trú bất động,
    Biết thù thắng trong Pháp.
  4. Bậc nghe nhiều, trì Pháp,
    Hành pháp và Tùy pháp,
    Bậc trí gọi như thị,
    Biết thù thắng trong Pháp.
  5. Ai hiểu nghĩa lời nói,
    Biết nghĩa, hành như thật,
    Bậc trí gọi nội nghĩa,
    Biết thù thắng trong Pháp.

Chương VI

-ooOoo-

Phẩm Sáu Kệ

(CCK) Uruvelà Kassapa (Thera. 42)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm anh cả trong ba anh em một gia đình Bà-la-môn tên Kassapa, và cả ba đều học thông ba tập Vệ-đà. Ba anh em có đến năm trăm, ba trăm và hai trăm thanh niên đệ tử vì không tìm được chân lý trong kinh điển của họ, chỉ tìm thấy những vấn đề thế tục, nên họ từ bỏ gia đình và trở thành những ẩn sĩ. Cả ba được đặt tên tùy theo chỗ ở của mỗi vị, và ngài được gọi là Uruvelà Kassapa vì ngài ở Uruvelà. Một số sự kiện đã xảy ra, vị Bồ-tát xuất gia, chuyển Pháp luân, năm vị Trưởng lão chứng quả A-la-hán, năm mươi bạn đứng đầu là Yasa được hóa độ, sự xuất phát của vị A-la-hán để thuyết pháp độ sanh, sự hóa độ ba mươi người bạn giàu có, bậc Ðạo sư đi đến Uruvelà. Khi Thế Tôn hiện ra nhiều thần thông bắt đầu với sự nhiếp phục con rắn, Kassapa khởi lòng tin và xuất gia, hai người em cũng bắt chước người anh cả. Thế Tôn giảng kinh AAdittapariyàya cho ba anh em Kassapa với một ngàn đệ tử và khiến mọi người chứng quả A-la-hán.

Uruvelà Kassapa ôn lại sự thành quả của mình, nói lên chánh trí với những bài kệ như sau:

  1. Thấy được các thần thông
    Gotama danh tiếng,
    Nhưng ta chưa thần phục,
    Bị ganh, mạn lừa dối.
  2. Bậc Ðiều Ngự loài Người,
    Biết được tâm tư ta,
    Chất vấn ta hốt hoảng,
    Kỳ diệu lông dựng ngược.
  3. Xưa ta thuộc bện tóc,
    Thần thông ta nhỏ mọn,
    Ta xem chúng vô dụng,
    Ta xuất gia đầu Phật,
  4. Xưa bằng lòng tế tự,
    Xem dục giới hàng đầu,
    Sau ta nhổ tận sạch
    Cả tham, sân và si.
  5. Ta biết các đời truóc,
    Thiên nhãn ta trong sạch,
    Thần thông biết tâm nguòi,
    Thiên nhĩ, ta đạt được.
  6. Do đích gì xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Ðích ấy ta đạt được,
    Mọi kiết sử tận diệt.

(CCXI) Tekicchakàrì (Thera. 42)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một Bà-la-môn tên Subuddha. Ngài được các nhà giải phẫu cứu sống khi ngài mới sanh, vì vậy ngài được đặt tên là Tekicchakàrì (người được các bác sĩ cứu sống). Ngài lớn lên học các nghệ thuật và học thuật của giai cấp mình. Phụ thân ngài vì trí tuệ và chánh sách của mình, nên bị vua Candagotta, vua Bà-la-nại ganh ghét và bỏ tù. Tekicchakàrì nghe vậy, sợ hãi bỏ trốn, lánh mình tại tinh xá của một vị Trưởng lão, và tường thuật cho vị ấy biết nỗi khó khăn của mình. Vị Trưởng lão cho ngài xuất gia, chọn cho ngài một đề tài tu tập và ngài trở thành một Tỷ-kheo sống ngoài trời không kể gì lạnh nóng, hoàn toàn chú tâm vào tu tập cho được thành quả. Ác ma sợ ngài thoát khỏi sự chi phối của mình nên muốn phá rối vị Trưởng lão, đến gần dưới hình thức một người mục đồng, khi gặt hái đã xong, muốn cám dỗ ngài nên nói như sau:

  1. Lúa đã gặt thâu xong
    Gạo đã được đập, giã,
    Nhưng một miếng, không có,
    Ta sẽ làm gì đây?

Vị Trưởng lão nghĩ rằng: ‘Người này nói đến tình cảnh của nó. Nhưng ta cần phải giáo huấn ta! Không phải phần việc để ta thuyết giảng’. Như vậy, vị Trưởng lão khuyên mình nên thiền quán trên ba quy y:

  1. Hãy niệm Phật vô lượng!
    Tâm hân hoan thoải mái,
    Thân thấm nhuần hỷ thọ,
    Luôn luôn cảm phấn chấn.
  2. Hãy niệm Pháp vô lượng!
    Tâm hân hoan thoải mái,
    Thân thấm nhuần hỷ thọ,
    Luôn luôn cảm phấn chấn.
  3. Hãy niệm Tăng vô lượng!
    Tâm hân hoan thoải mái,
    Thân thấm nhuần hỷ thọ,
    Luôn luôn cảm phấn chấn.

Rồi Ác ma, muốn ngài không sống hạnh viễn ly, làm như muốn lo cho ngài được hạnh phúc, nói rằng:

  1. Ngài sống giữa ngoài trời,
    Những đêm này giá lạnh
    Chớ để lạnh hại ngài!
    Hãy vào trong tịnh xá,
    Có cửa đóng then gài.

Vị Trưởng lão, nêu rõ ở trong nhà là một trói buộc và ở ngoài trời là giải thoát, nên trả lời:

Ta sẽ cảm thọ được,
Với bốn tâm vô lượng,
Ta sẽ sống an lạc
Với những tâm tư ấy,
Giá lạnh không hại ta,
Ta sống không dao động.

Nói vậy, vị Trưởng lão phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán.

Vì rằng vị Trưởng lão sống trong thời vua Bindusàra, các bài kệ này cần được hiểu là được tụng đọc vào kỳ kiết tập thứ ba như là thuộc Kinh tạng.

(CCXII ) Mahà-Nàga (Thera. 43)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh tại Sàketa, con trai một Bà-la-môn tên Madhu Vàsettha và được đặt tên là Mahà-Nàga. Ngài thấy thần thông do Trưởng lão Gavampati thực hiện trong khi Thế Tôn sống trong rừng Anjana, và khởi lòng tin, ngài xuất gia dưới sự hướng dẫn của vị Trưởng lão, và chứng quả A-la-hán nhờ vị này giáo huấn.

Ngay khi ngài an trú trong an lạc giải thoát, Trưởng lão Mahà-Nàga thấy sáu Tỷ-kheo thường hay không cung kính các vị đồng Phạm hạnh, và ngài giáo huấn họ với những bài kệ như sau, những bài kệ này trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài:

  1. Ai đối đồng Phạm hạnh,
    Không có sự cung kính,
    Chúng thối giảm diệu pháp
    Như cá mắc nước cạn.
  2. Ai đối đồng Phạm hạnh,
    Không có sự cung kính,
    Không lớn trong diệu pháp,
    Như giống thối trong ruộng.
  3. Ai đối đồng Phạm hạnh,
    Không có sự cung kính,
    Chúng xa rời Niết-bàn,
    Trong lời dạy Pháp vương.
  4. Ai đối đồng Phạm hạnh,
    Thật có sự cung kính,
    Không thối giảm diệu pháp,
    Như cá được nước nhiều.
  5. Ai đối đồng Phạm hạnh,
    Thật có sự cung kính,
    Lớn mạnh trong diệu pháp,
    Như giống tốt trong ruộng.
  6. Ai đối đồng Phạm hạnh,
    Thật có sự cung kính,
    Họ đến gần Niết-bàn,
    Trong lời dạy Pháp vương.

(CCXIII) Kulla (Thera. 43)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ) trong gia đình một điền chủ tên là Kulla, ngài được cảm hóa với lòng tin và được bậc Ðạo Sư độ cho xuất gia. Nhưng ngài thường bị tham dục chi phối. Bậc Ðạo Sư biết yếu điểm này của ngài, cho ngài một đề tài bất tịnh và khuyên ngài thiền quán trong một nghĩa địa. Khi tu tập này chưa được kết quả bậc Ðạo Sư đi với ngài và yêu cầu ngài theo dõi tiến trình thối nát và tiêu diệt của vật bất tịnh. Khi Kulla đã được tự tại thoát ly, Thế Tôn phóng hào quang, khiến ngài nhớ lại bài học, chứng Sơ thiền và từ đấy phát triển thiền quán, chứng được quả A-la-hán.

Ôn lại kinh nghiệm, ngài thốt ra những câu kệ sau đây, trước nói về ngài, rồi nhắc lại lời dạy của bậc Ðạo Sư, cuối cùng lại nói về ngài:

  1. Kulla đến nghĩa địa,
    Thấy bỏ một đàn bà,
    Vất ném trong nghĩa địa,
    Làm mồi cho sâu ăn.
  2. Kulla, hãy nhìn thân,
    Bệnh hoạn nhớp hôi thối,
    Nước ứ chảy, rỉ chảy,
    Ðược kẻ ngu thích thú.
  3. Sau khi nắm gương pháp,
    Ðạt được chánh tri kiến,
    Ta quán sát thân này,
    Trống rỗng cả trong ngoài.
  4. Ðây thế nào, kia vậy,
    Kia thế nào, đây vậy,
    Dưới thế nào, trên vậy,
    Trên thế nào, dưới vậy.
  5. Ngày thế nào, đêm vậy,
    Ðêm thế nào, ngày vậy,
    Trước thế nào, sau vậy,
    Sau thế nào, trước vậy.
  6. Người vậy không ưa thích,
    Cả năm loại nhạc khí,
    Khi đã được nhất tâm,
    Chơn chánh thiền quán pháp.

Những kệ này là lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(CCXIV) Màlunkyaputta (Thera. 43)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con một vị chuyên môn đánh giá cho vua Kosala, và mẹ là Màlunkyya, nên ngài được gọi là Màlunkyaputta (con bà Màlunkyà). Khi đến tuổi trưởng thành, tánh ưa thích đời sống xuất gia, ngài trở thành một du sĩ ngoại đạo. Khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, ngài xin xuất gia trong Pháp và Luật của Thế Tôn, và sau một thời gian, ngài chứng được sáu thắng trí. Khi ngài về thăm nhà vì lòng từ mẫn đối với bà con, các bà con chào đón ngài rất niềm nở và muốn kéo ngài trở về với đời sống gia đình thế tục, nói rằng với tài sản của ngài, ngài có thể lập gia đình và làm các thiện sự. Nhưng ngài nói lên chí nguyện cuả ngài như sau:

  1. Có người sống phóng dật,
    Ái lớn như cây leo,
    Sống trôi nổi luân chuyển,
    Ðời này qua đời khác,
    Như con khỉ trong rừng,
    Thèm muốn các trái cây.
  2. Khát ái khốn nạn này
    Thấm độc cả thế giới,
    Khi đã chinh phục ai,
    Khiến sầu muộn tăng trưởng,
    Chẳng khác giống cỏ rừng,
    Lan tràn và lớn mạnh.
  3. Ai nhiếp phục được ái,
    Khốn nạn, khó chinh phục,
    Sầu rơi khỏi vị ấy,
    Như giọt nước trên sen.
  4. Các ông đã đến đây,
    Ta thuyết điều lành ấy,
    Hãy đào rễ khát ái,
    Như tìm rễ ngon ngọt,
    Loại cỏ u-sì-ra,
    Chớ để Ma, dòng nước,
    Tàn phá ông cây lau.
    Liên tục vậy mãi mãi.
  5. Hãy hành lời Phật dạy,
    Chớ để Sát-na qua,
    Sát-na qua, sầu khổ,
    Thọ quả trong địa ngục,
  6. Phóng dật như bụi bặm,
    Bụi nhơ, do phóng dật,
    Không phóng dật, minh trí,
    Nhổ mũi tên khỏi ta.

(CCXV) Sappadàsa (Thera. 44)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), con của vị cố vấn tế lễ của vua Suddhodhana, và được đặt tên là Sappadàsa. Khi đức Phật viếng thăm bà con, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Bị chi phối bởi những tập tục xấu, những tánh tình tâm lý không tốt đẹp, ngài không sao được thiền định và nhất tâm. Sự kiện này khiến ngài quá sầu não đến nỗi ngài gần tự tử, nhưng bỗng ánh sáng nội tâm chói sáng lan rộng thình lình, ngài chứng quả A-la-hán, nói lên chánh trí của mình, ngài nói:

  1. Ðã được hăm lăm năm,
    Từ khi ta xuất gia,
    Nhưng đến một búng tay,
    Ta không đạt tâm tịnh.
  2. Nhứt tâm không đạt được,
    Bị dục tham chi phối,
    Khoa tay, ta than khóc,
    Bỏ tịnh xá, ta đi.
  3. Ta sẽ đem dao lại,
    Sự sống ta, nghĩa gì?
    Học tập bị tước bỏ,
    Như ta, chết tốt hơn.
  4. Rồi ta cầm con dao
    Ta vào chỗ giường nằm,
    Con dao được rút ra,
    Ðể cắt cổ của ta.
  5. Rồi ta tự tác ý,
    Như lý, khởi tư duy,
    Các hiểm nguy hiển lộ
    Nhàm chán, ta an trú
  6. Và tâm ta giải thoát,
    Thấy Pháp nhĩ là vậy,
    Ba minh chứng đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CCXVI) Kàtiyàna (Thera. 45)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Sàvatthi, con của một Bà-la-môn thuộc dòng họ Kosiya, nhưng được gọi là Kàtiyàna, theo gia đình của bà mẹ. Thấy bạn của mình là Sàmannakàni trở thành một Trưởng lão, ngài cũng xuất gia. Khi ngài học tập, ngài cương quyết đối trị nằm ngủ ban đêm. Trong khi đi qua lại trên con đường kinh hành, ngài quá buồn ngủ nên té xuống. Bậc Ðạo Sư thấy vậy, đi đến đứng truớc ngài và gọi: ‘Này Kàtiyàna!’. Ngài liền đứng dậy, đảnh lễ, và đứng một bên, bị dao động mạnh, rồi Thế Tôn thuyết pháp cho ngài như sau:

  1. Này Ka-tiya-na,
    Hãy thức dậy, ngồi lên,
    Chớ có ngủ quá nhiều,
    Hãy tự mình thức tỉnh,
    Này bà con phóng dật,
    Kẻ thụ động biếng nhác
    Chớ để cho thần chết,
    Lường gạt, chiến thắng ông.
  2. Như sóng tràn biển lớn,
    Cũng vậy sanh và già,
    Tràn ngập chôn lấp ông,
    Hãy tự làm cho ông,
    Một hòn đảo an toàn,
    Vì rằng không ai khác,
    Phục vụ giúp đỡ ông,
    Như là chỗ nương tựa.
  3. Ðạo Sư lập con đường,
    Ðường vượt qua trói buộc,
    Vượt qua sự sợ hãi,
    Của sanh và của già,
    Trước đêm và sau đêm,
    Hãy sống không phóng dật,
    Chú tâm cố kiên trì,
    Trong nỗ lực chuyên tâm.
  4. Từ bỏ triền phược trước,
    Mặc áo Tăng-già-lê,
    Ðầu cạo trọc trơn láng,
    Ăn đồ ăn khất thực,
    Chớ có ưa chơi giỡn,
    Chớ đam mê ngủ nghỉ,
    Hãy nỗ lực thiền định,
    Hỡi Ka-ti-ya-na!
  5. Hãy thiền tu, chiến thắng,
    Hỡi Ka-ti-ya-na!
    Hãy thiện xảo con đường,
    An ổn các khổ ách;
    Hãy đạt cho kỳ được,
    Sự thanh tịnh tối thượng.
    Ông sẽ chứng Niết-bàn,
    Như nước làm tắt lửa.
  6. Ánh sáng được tạo ra,
    Hào quang còn yếu ớt,
    Chẳng khác như cây lau,
    Gió thổi nằm rạp xuống,
    Hỡi bà con Tu-đa,
    Như vậy, chớ chấp thủ,
    Hãy tẩn xuất Ác-ma,
    Ly tham mọi cảm thọ,
    Chờ đợi thời của ông!
    Tại đây ông mát lạnh.

(CCXII ) Migajàla (Thera. 45)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con của nữ cư sĩ nổi tiếng Visàkhà, và hay đi đến tinh xá để nghe pháp. Cuối cùng, ngài xuất gia, và sau một thời gian chứng quả A-la-hán, khi nói lên chánh trí của mình, ngài nói:

  1. Khéo giảng bậc có mắt,
    Hào quang còn yếu ớt,
    Mọi kiết sử vượt qua,
    Mọi luân chuyển hoạt diệt.
  2. Pháp hướng dẫn, hướng thượng,
    Làm khô héo ác căn,
    Chặt đứt gốc nọc độc,
    Diệt ác, đạt tịch tịnh.
  3. Phá vỡ gốc vô trí,
    Chấm dứt nghiệp sanh hữu,
    Trí kim cang đánh nát,
    Mọi chấp trì của thức.
  4. Cảm thọ được phơi bày,
    Chấp thủ được giải thoát,
    Hữu như hố than hừng,
    Ðược tùy quán bởi trí.
  5. Vị lớn, khéo thâm sâu,
    Chận đứng già và chết,
    Con đường Thánh tám ngành,
    Tịnh chỉ khổ, vận tốt.
  6. Biết được nghiệp là nghiệp,
    Biết nghiệp quả là quả,
    Như thực soi, quán chiếu,
    Các pháp do duyên sanh,
    Ðưa đến đại an ổn,
    Tịch tịnh, cứu cánh thiện.

(CCXVIII) Jenta (Thera. 45)

Trong thời đức Phật hiện tại , ngài sanh ra làm con của vị cố vấn tế tự cho vua Kosala và được đặt tên là Jenta. Khi lớn lên, ngài trở thành kiêu mạn với những quyền lợi về sanh, tài sản, địa vị, khinh bỉ những gì đáng phải kính trọng và cứng cỏi trong kiêu hãnh. Một hôm, ngài đến gần bậc Ðạo Sư đang thuyết pháp cho một số đông, nghĩ rằng: ‘Nếu Sa-môn Gotama nói với ta trước, ta sẽ nói, ta không tự ý nói với Sa-môn Gotama!’. Thế Tôn không nói với Jenta, và Jenta vì lòng kiêu mạn cũng không nói. Sau cùng ngài nêu rõ lý do vì sao ngài đến và Thế Tôn nói với ngài như sau:

An trú triền kiêu mạn,
Thật sự là không tốt,
Hỡi này Bà-la-môn,
Nên an trú lợi ích.
Ðiều thiện ông tầm cầu,
Khi ông đến tại đây,
Chỉ trên đấy mà thôi,
Ông hãy nên an trú.

Jenta nghĩ rằng: ‘Thế Tôn đã biết tư tưởng của ta, cảm thấy xúc động mạnh và đảnh lễ chân Thế Tôn’. Rồi ngài thưa với bậc Ðạo Sư:

Với ai, không nên kiêu?
Với ai, cần cung kính?
Với ai, phải tôn trọng?
Cung kính ai là thiện?
Thế Tôn trả lời:
Với cha và với mẹ,
Với anh cả, với thầy,
Với các Bà-la-môn,
Với Sa-môn áo vàng,
Với những vị như vậy,
Nên cung kính tôn trọng,
Cung kính các vị ấy,
Là việc làm tốt lành.
Với các bậc La-hán,
Tịch tịnh và hữu học,
An tịnh, không cấu uế,
Mọi kiêu mạn chấm dứt,
Khi đạt đến mục tiêu,
Hãy tôn trọng vị ấy.

Với lời dạy này, Jenta chứng được quả Dự Lưu, xuất gia và sau một thời gian, chứng quả A-la-hán. Nói lên sự thành công, ngài tuyên bố chánh trí của ngài:

  1. Ta say đắm tự kiêu,
    Với sanh chủng, tài sản,
    Kể cả với quyền lực,
    Ðịa vị và dung sắc,
    Ta sống kiêu mạn vậy.
    Tham dắm và mê say.
  2. Ta quá sức kiêu hãnh.
    Xem không ai bằng ta,
    Si mê, quá tự hào,
    Kiêu căng và cống cao.
  3. Mẹ cha và người khác,
    Ðược cung kính tôn trọng,
    Ta không lễ một ai,
    Kiêu hãnh, không lễ phép.
  4. Thấy lãnh đạo đệ nhất,
    Tối ưu Ðiều Ngự Sư,
    Như mặt trời sáng chói,
    Cầm đầu chúng Tỷ-kheo.
  5. Gạt bỏ mạn, kiêu hãnh,
    Với tâm thật an lành,
    Với đầu ta đảnh lễ,
    Bậc tối thượng chúng sanh.
  6. Quá mạn, ty liệt mạn,
    Từ bỏ, nhổ tận gốc,
    Ngã mạn được chặt đứt,
    Mọi loại mạn tận diệt.

(CCXIX) Sumana (Thera. 46)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong gia đình một cư sĩ, làm vị hộ trì cho Tôn giả Anuruddha. Từ trước, con cháu của người cư sĩ này chết trẻ. Khi sắp đẻ đứa con, người cha nghĩ nếu là con trai thời sẽ cho xuất gia với vị Trưởng lão. Sau mười tháng, đẻ được đứa con trai, vị cư sĩ này cho xuất gia khi đứa trẻ lên bảy tuổi. Do căn tánh thuần phục, không bao lâu ngài chứng được sáu thắng trí trong khi đang hầu hạ bậc Truởng lão. Cầm được cái bình để xách nước, Sumana với thần thông, đi đến hồ Anotatta, một con xà vương ác độc, phồng mang ngưỡng đầu lên không cho ngài lấy nước. Rồi Sumana hóa thành con chim Garuda (Kim xí điểu) nhiếp phục con rắn và mang nước bay về vị Trưởng lão. Rồi bậc Ðạo Sư, ngồi tại vườn Jetavana, thấy ngài bay về, liền gọi Sàriputta cùng xem, và tán thán ngài với bốn câu kệ. Sunmana để nêu lên chánh trí của mình cộng thêm những bài kệ của mình như sau:

  1. Khi người mới xuất gia,
    Từ sanh, mới bảy tuổi,
    Với thần thông ta điều,
    Con xà vương thần lực.
  2. Từ hồ nước to lớn,
    Tên A-no-tat-ta
    Ta đem nước hồ về,
    Cho bậc giáo thọ sư,
    Thấy vậy bậc Ðạo Sư,
    Nói về ta như sau:
  3. Này Sà-ri-put-ta!
    Xem đứa trẻ này đến,
    Tự bưng cầm ghè nước,
    Nội tâm khéo định tĩnh.
    Với nhiệm vụ khả ái,
    Cử chỉ rất thuần thiện.
  4. Người đệ tử Sa-di,
    Của Anuruddha,
    Có thần thông uy lực,
    Thuần thục và điêu luyện.
  5. Thuần lương nhờ giáo dục,
    Do vị đại thuần lương,
    Thiện hạnh nhờ giáo dục,
    Bởi bậc khéo thiện hạnh.
    Nhờ Anuruddha,
    Khéo huấn luyện điều phục,
    Ðược học tập giảng dạy,
    Làm xong việc phải làm.
  6. Ðạt được tịnh tối thắng,
    Chứng đắc, không dao động,
    Sa-di Sumana,
    Muốn: ‘Không ai biết ta’.

(CCXX) Nhàlaka – Muni (Thera. 46)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), trong gia tộc Bà-la-môn, được giáo dục trong văn chương Vệ-đà, ngài được biết là vị đã đậu cấp bực Nhàlaka (cấp bực tắm rửa). Trở thành một ẩn sĩ, ngài sống trong một khu rừng cách xa Vương Xá khoảng ba do-tuần, sống với lúa hoang và thờ lửa.

Ðức Thế Tôn, thấy được điều kiện trở thành một vị A-la-hán chói sáng trong tâm ngài, như ánh sáng trong một cái ghè. Thế Tôn đến tại am thất của ngài, ngài vui vẻ đón tiếp đức Phật, thỉnh đức Phật dùng cơm ngài nấu và như vậy ba ngày trôi qua. Ngày thứ tư, Thế Tôn nói: ‘Ông hết sức yếu ớt, làm sao ông sống với đồ ăn như thế này?’. Rồi đức Phật giảng về hạnh biết đủ và thuyết pháp cho ngài. Và từ quả Dự Lưu ngài chứng quả A-la-hán. Thế Tôn xác chứng quả vị cuả ngài và ra đi, ngài vẫn ở tại chỗ cũ, nhưng rồi bị đau vì tê liệt. Bậc Ðạo Sư lại đến thăm và hỏi ngài về sức khỏe:

  1. Bị bịnh gió chi phối,
    Ông sống trong rừng sâu,
    Chỗ khất thực hạn chế,
    Thân gầy mòn ốm yếu.
    Tỷ-kheo sẽ làm gì,
    Với thân thể như vậy.
  2. Thân con được tràn ngập,
    Với hỷ lạc tỏa rộng,
    Dầu có bị gầy ốm,
    Con sẽ sống trong rừng.
  3. Tu tập Bảy giác chi,
    Năm căn và Năm lực,
    Ðầy đủ thiền tế nhị,
    Con sống, không lậu hoặc.
  4. Thoát khỏi các kết sử,
    Tâm tịnh, không uế nhiễm,
    Thường hằng, khéo quán sát,
    Con sống không lậu hoặc.
  5. Mọi lậu hoặc nội ngoại,
    Trước có mặt trong con,
    Tất cả bị chặt đứt,
    Thông dư, không khởi nữa.
  6. Năm uẩn được liễu tri,
    Chúng đứng, rễ chặt đứt,
    Khổ diệt đã đạt được,
    Nay không còn tái sanh.

(CCXXI) Brahmadatta (Thera. 46)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con vua nước Kosala, tên là Brahmadatta, ngài chứng kiến uy nghi của đức Phật nhân ngày lễ dâng cúng Jetavana, khởi lòng tin, xuất gia và sau một thời gian chứng sáu thắng trí với lòng tin và hiểu biết về nghĩa, bởi lòng tin và hiểu biết về Pháp.

Một hôm ngài đi khất thực, một Bà-la-môn nhiếc mắng ngài, ngài im lặng nghe và tìếp tục đi, Bà-la-môn ấy lại chửi mắng ngài, và dân chúng phê bình sự im lặng của ngài; ngài giảng dạy cho dân chúng như sau:

  1. Từ đâu phẫn nộ khởi,
    Với người không phẫn nộ,
    Với người được nhiếp phục,
    Sống nếp sống thăng bằng.
    Với vị trí giải thoát,
    Phật an tịnh như vậy.
  2. Với ai bị chửi mắng,
    Lên tiếng chửi mắng lại,
    Người ấy tệ ác hơn,
    Người đã chửi mắng trước.
    Với ai bị chửi mắng,
    Nhưng không chửi mắng lại,
    Người ấy được chiến thắng,
    Trên cả hai mặt trận.
  3. Sở hành của người ấy,
    Vừa lợi mình lợi người,
    Biết người khác phẫn nộ,
    Chánh niệm, tự lắng dịu.
  4. Là thầy thuốc cả hai,
    Cho mình và cho người,
    Quần chúng nghĩ là ngu,
    Không khéo hiểu Chánh Pháp.

Rồi Bà-la-môn chửi mắng ấy nghe những lời này, cảm thấy ưu não và hoan hỷ rồi xin lỗi ngài. Ðược xuất gia với sự hướng dẫn của ngài, được dạy đề tài quán từ bi, như vậy ngài dạy cho phương pháp để đối trị phẫn nộ:

  1. Nếu phẫn nộ nổi lên,
    Hãy nghĩ dụ cái cưa,
    Nếu tham vị khởi lên,
    Hãy nghĩ dụ thịt con.
  2. Nếu tâm ngươi chạy theo,
    Theo dục, theo sanh hữu,
    Hãy gấp nắm với niệm,
    Như nắm con vật ác,
    Ði vào trong ruộng lúa.

(CCXXII) Sirimanda (Thera. 47)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sunsumàragira trong một gia đình Bà-la-môn. Khi được nghe Thế Tôn thuyết pháp ở rừng Bhesakalà, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Một hôm, nhân ngày lễ trai giới, trong khi giới bổn Pàtimokkhà đang được đọc, đến phần cuối phần giới thiệu nói về một lỗi bị phạm được nhẹ đi nếu phát lộ sám hối, ngài nghĩ đến lợi ích phát lộ sám hối các lỗi đã được giấu đi, và do vậy ngài phấn khởi hoan hỷ nói lớn tiếng: ‘Ôi, thật là hoàn toàn trong sạch, giới luật của bậc Ðạo Sư!’. Rồi phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Ôn lại con đường đã trải qua, với tâm phấn khởi, ngài dạy các vị đồng Phạm hạnh:

  1. Mưa rất là nặng hạt,
    Trên tội được che giấu.
    Mưa không có nặng nề,
    Trên tội được phát lộ,
    Ðâu có phát lộ tội,
    Như vậy, mưa không nặng.
  2. Ðời bị chết áp đảo,
    Bị giải tỏa, bao vây,
    Bị mũi tên ái đâm,
    Thường bị dục huân tập.
  3. Ðời bị chết ấp đảo,
    Và bị già bao vây,
    Thường bị hại, không yên,
    Như cướp với gậy dao.
  4. Chúng đến như đống lửa,
    Cả ba, chết bệnh già,
    Không sức nào địch nổi,
    Không nhanh nào chạy thoát.
  5. Chớ để ngày trống rỗng,
    Hãy làm ít hoặc nhiều,
    Ðêm càng bị bỏ phí,
    Mạng sống càng rút ngắn.
  6. Vậy hoặc đi hay đứng,
    Hoặc ngồi hay nằm xuống,
    Ðêm cuối đi đến gần,
    Ngươi không thời phóng dật.

(CCXXIII) Sabbhakàma (Thera. 47)

Trong thời đức Phật hiện tại, sau khi đức Phật nhập diệt, ngài sanh ở Vesàli, thuộc gia đình quý tộc và được đặt tên là Sabbhakàma. Khi đến tuổi trưởng thành, thuận theo chí hướng xuất ly, ngài xuất gia dưới sự hướng dẫn của Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất). Trong khi đi học tập, ngài trở về Vesàli với bậc y chỉ sư của mình và về thăm gia đình. Vợ ngài lúc trước, buồn khổ, gầy mòn, áo xiêm không săn sóc, nước mắt chạy quanh, chào ngài và đứng một bên. Thấy vợ cứ như vậy, lòng thương hại khởi lên, và quên mất chí hướng xuất trần, ngài để cho dục vọng nổi lên. Như con ngựa khéo luyện tập bị roi đánh, ưu não khởi lên và ngài đi đến nghĩa địa để quán bất tịnh. Thiền định được chứng đạt, thiền quán được triển khai, ngài chứng quả A-la-hán. Rồi nhạc phụ của ngài dắt vợ cũ của ngài đến, trang điểm thật đẹp mắt, và với một số tùy tùng đông đảo, đi đến tinh xá để gặp ngài và kéo ngài trở lui với đời sống gia đình; nhưng ngài tuyên bố với mọi người là ngài đã từ bỏ các dục vọng như vậy, với những bài kệ như sau:

  1. Con vật hai chân này,
    Bất tịnh và hôi thối,
    Ðầy các loại tử thi,
    Từ đấy, nước rỉ chảy.
  2. Nai trốn, dùng bẫy sập,
    Với cá dùng câu móc,
    Với khỉ, dùng hầm hố,
    Phàm phu bị bắt vậy.
  3. Sắc, tiếng, vị, hương, xúc,
    Khả ái và thích ý,
    Năm dục trưởng dưỡng này,
    Ðược tiếng trong nữ sắc.
  4. Phàm phu tâm say đắm,
    Chạy theo hưởng nữ sắc,
    Tăng nghĩa địa hãi hùng,
    Chất chứa sự tái sanh.
  5. Ai tránh né nữ sắc,
    Như chân tránh đầu rắn,
    Chánh niệm, vượt qua được,
    Kẻ đầu độc thế giới.
  6. Thấy nguy hiểm trong dục,
    An ổn trong viễn ly,
    Thoát khỏi tất cả dục,
    Ta đạt lậu hoặc tận.

Chương VII

-ooOoo-

Phẩm Bảy Kệ

(CCXXIV) Sundara-Samudda (Thera. 49)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một người trong hội đồng thành phố giàu có, ở Ràjagaha (Vương Xá) và được đặt tên là Samudda. Vì ngài rất đẹp trai nên được gọi là Sundara-Samudda, khi ngài còn trẻ, ngài thấy được uy nghi đức Phật, khi có cuộc lễ đón rước đức Phật đến Ràjagaha, với lòng tin và với thiên tánh tự nhiên, ngài xuất gia. Ðược giao cho một đề tài thiền quán, ngài đi từ Ràjagaha đến Sàvatthi, ở với một người bạn và tu tập thiền quán. Mẹ ngài ở Vương Xá, thấy các người con của các đại biểu hội đồng thành phố khác với những người vợ trang sức thật lộng lẫy vui chơi trong những ngày lễ, bà mẹ buồn, nhớ con và khóc; một kỹ nữ thấy vậy liền dỗ bà và tự nguyện đi đến Sàvatthi để đem con bà về. Bà mẹ hứa rằng, nếu con bà chịu cưới nàng, bà sẽ cho nàng làm chủ gia đình và tặng nhiều tặng phẩm. Với một số tùy tùng, nàng đi đến Sàvatthi và dừng lại ngôi nhà ngài thường hay đến hằng ngày để khất thực; nàng hết sức săn sóc cho ngài. Nàng ăn mặc lộng lẫy và mang dép vàng; một hôm nàng để đôi dép nàng tại ngưỡng cửa, đảnh lễ ngài với hai tay chấp lại, khi ngài đi qua với cử chỉ muốn cám dỗ ngài. Và ngài một tư tưởng thế tục thoáng qua, ngài cương quyết nỗ lực cuối cùng đứng tại đấy thiền định, thiền quán và chứng được sáu thắng trí. Ngài diễn đạt quả chứng của ngài như sau:

  1. Trang sức mặc áo đẹp,
    Ðeo vòng hoa trang điểm,
    Chân bôi sơn màu đỏ,
    Một kỹ nữ đi dép.
  2. Chân rút ra khỏi dép,
    Chấp tay, hướng phía trước,
    Nàng với giọng nhẹ dịu,
    Mở đầu nói với ta;
  3. Chàng trẻ tuổi xuất gia,
    Hãy dừng, lãnh vực em,
    Thọ hưởng năm dục vọng,
    Em cho chàng phương tiện,
    Em hứa chàng sự thật,
    Em đem chàng lửa thề.
  4. Khi chàng em đều già,
    Cả hai đều chống gậy,
    Cả hai cùng xuất gia,
    Hai phần được vận may.
  5. Thấy người kỹ nữ ấy,
    Chấp tay lời van xin,
    Trang sức, mặc áo đẹp,
    Như thần chết gieo mồi.
  6. Rồi ta tự tác ý,
    Như lý khởi tư duy,
    Các hiểm nguy hiển lộ,
    Nhàm chán ta an trú.
  7. Và tâm ta giải thoát,
    Thấy Pháp nhĩ là vậy,
    Ba minh chứng đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CCXXV) Lakuntaka-Bhaddiya (Thera. 49)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình giàu có, được đặt tên là Bhaddiya, nhưng vì ngài rất thấp, nên được biết với tên là Lakuntaka Bhaddhiya (Bhaddiya người lùn). Nghe bậc Ðạo Sư giảng, ngài xuất gia, trở thành một nhà học giả và biện tài, ngài dạy cho các người khác với một giọng nói rất dịu ngọt. Một hôm, nhân ngài đang lễ, một phụ nữ đi xe với một Bà-la-môn, thấy ngài và cười lên, để lộ hàm răng của nàng. Vị Trưởng lão, lấy hàm răng ấy như một đề tài để thiền quán, khởi lên thiền định và trên căn cứ ấy, phát triển thiền quán và trở thành một vị Bất Lai. Về sau nhờ Tôn giả Sàriputta dạy tu thân hành niệm, ngài chứng quả A-la-hán, ngài nói lên chánh trí của ngài:

  1. Ra ngoài các khu vườn,
    Tên Ambàtaka,
    Trong rừng với lùm cây,
    Ái, ái căn từ bỏ,
    Bhaddiya ngồi thiền,
    Bậc may mắn hạnh phúc.
  2. Một số người ưa thích,
    Trống, sáo và trống nhỏ,
    Còn ta, dưới gốc cây,
    Ta thích lời Phật dạy.
  3. Nếu Phật ban ân huệ,
    Ta được ân huệ ấy,
    Ta trì thân hành niệm,
    Thường hằng ở mọi giới.
  4. Cười chê, ta vì thân,
    Ai theo ta vì tiếng,
    Chúng không biết được ta,
    Vì dục tham chi phối.
  5. Không biết được phần trong,
    Không thấy được phía ngoài,
    Chận bốn phía, người ngu,
    Bị tiếng nói lôi cuốn.
  6. Không biết được phần trong,
    Quán thấy được phía ngoài,
    Chỉ thấy quả phía ngoài,
    Cũng bị tiếng lôi cuốn.
  7. Quán trí được phần trong,
    Quán thấy được phía ngoài,
    Thấy không bị chướng ngại,
    Không bị tiếng lôi cuốn.

(CCXXVI) Bhadda (Thera. 50)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong gia đình một vị lớn trong hội đồng thành phố, làm con một gia đình cha mẹ trước đây không có con, dầu đã có cầu khẩn thần linh nhiều lần vẫn chưa có con. Họ đi đến bậc Ðạo Sư và nói: ‘Nếu chúng con có được đứa con, chúng con sẽ dâng lên cho ngài để làm thị giả!’. Khi được sinh Bhadda, chúng mặc áo đẹp nhất cho ngài, đưa ngài đến bậc Ðạo Sư và nói: ‘Bạch Thế Tôn, đây là đứa con chúng con sanh ra, sau khi yết kiến Thế Tôn, chúng con xin dâng hiến cho Thế Tôn’. Thế Tôn bảo Ananda cho Bhadda xuất gia và đi vào hương phòng. Ananda giảng dạy cho ngài và căn cơ ngài quá thuần thục đến nỗi trong khi đang học, vừa lúc mặt trời mọc, ngài phát triển thiền quán và chứng được sáu thắng trí.

Thế Tôn biết được những gì xảy ra và gọi: ‘Hãy đến này Bhadda!’ Ngài đến, chấp tay đảnh lễ bậc Ðạo Sư. Ðó là lễ xuất gia của ngài, đó là lễ xuất gia do đức Phật chủ trì. Và bậc Trưởng lão nói lên chánh trí của ngài:

  1. Ta là con độc nhất
    Ðược cha thương mẹ thương,
    Do nhiều hạnh giới cấm,
    Van vái mới được ta.
  2. Vì lòng thương xót ta,
    Muốn ta được hạnh phúc,
    Cả cha và mẹ ta,
    Dẫn ta đến đức Phật
  3. Ðược đứa con trai này,
    Thật trải nhiều khó khăn,
    Nuôi dưỡng rất tế nhị,
    Ðược nuông chiều săn sóc,
    Chúng con kính dâng Ngài,
    Kính thưa bậc cứu độ,
    Ðể làm người thị giả,
    Hầu hạ bậc chiến thắng.
  4. Bậc Ðạo Sư nhận ta,
    Nói A-nan như sau:
    Hãy cho nó xuất gia,
    Nó sẽ thành thuần lương.
  5. Sau khi bậc Ðạo Sư,
    Bảo xuất gia cho ta,
    Xong rồi bậc chiến thắng,
    Bước vào trong tinh xá,
    Khi mặt trời chưa mọc,
    Tâm ta được giải thoát.
  6. Rồi bậc Ðạo Sư ta,
    Ðể chấm dứt công việc,
    Từ yên lặng thiền tịnh,
    Ngài đứng dậy gọi ta:
    Này Bhadda hãy đến,
    Ta thọ Ðại giới vậy.
  7. Từ sanh, đến bảy năm,
    Ta được thọ Ðại giới,
    Ba minh ta đạt được,
    Ôi pháp, thiện pháp tánh!

(CCXXVII) Sopàka (Thera. 50)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh từ vợ một người cùng đinh, và do thọ sanh, ngài được gọi là Sopàka (người cùng đinh). Có người nói ngài là con một thương gia. Sự kiện này không được tập Apadàna chấp nhận:

Khi ta chứng được,
Tái sanh cuối cùng,
Ta vào bào thai,
Của Sopàka.

Bốn tháng sau khi sanh, cha ngài mệnh chung, và được người cậu nuôi dưỡng. Người cậu, do người con hay nóng giận của mình xúi giục, muốn giết ngài. Nó đem ngài đến bãi tha ma, trói hai tay ngài cột vào cổ một thây ma, nghĩ rằng các con chó rừng sẽ ăn thịt ngài. Nó không thể giết ngài vì ngài tái sanh lần cuối cùng. Ban đêm các con chó rừng và các con thú khác đến, và đứa con nít kêu khóc:

Thế nào là định mệnh,
Ðược để dành cho ta.
Ai là người bà con,
Của đứa trẻ mồ côi!
Giữa nghĩa địa kinh hoàng,
Ta bị cột, trói chặt!
Ta sẽ tìm được ai,
Là người bạn của ta!

Bậc Ðạo Sư trong lúc ấy đang nhìn xem ai là người đáng cứu độ, thấy trong đứa trẻ, những nhân duyên chứng quả A-la-hán được chói sáng trong tâm của đứa trẻ, liền chiếu sáng hào quang và nói:

Hãy đến, Sopaka,
Người đừng có sợ hãi,
Hãy nhìn đến Như Lai,
Chính Ta sẽ cứu con!
Như mặt trăng thoát khỏi,
Hàm răng của Ràhu.

Với sức mạnh của đức Phật, đứa trẻ bứt đứt dây trói, và cuối bài kệ đứng dậy, trở thành một bậc Dự lưu và đứng trước hương phòng của đức Phật! Mẹ ngài tìm ngài hỏi người cậu, nhưng người cậu im lặng không nói gì. Mẹ ngài đi đến đức Phật, nghĩ rằng đức Phật biết tất cả, quá khứ, hiện tại, vị lai. Bậc Ðạo Sư, dùng thần thông giấu đứa con. Bà thưa với Thế Tôn: ‘Bạch Thế Tôn, con không thể tìm thấy đứa con. Nhưng Thế Tôn biết được con tôi đang làm gì?’. Thế Tôn trả lời:

Các người con không phải,
Là chỗ y, nương tựa,
Cả cha cũng là vậy,
Kể cả các bà con.
Với kẻ bị mệnh chung,
Dầu bà con huyết thống,
Cũng không thể nương tựa!

Và như vậy, Thế Tôn thuyết pháp cho bà, bà nghe xong chứng quả Dự lưu, nhưng đứa trẻ chứng quả A-la-hán. Rồi Thế Tôn rút lại thần thông và bà mẹ sung sướng thấy được người con. Ðược biết con mình đã chứng quả A-la-hán, bà bằng lòng để con xuất gia và bà ra về.

Rồi ngài đến đảnh lễ bậc Ðạo Sư, khi bậc Ðạo Sư đang đi dưới bóng mát của hương phòng và đi theo Thế Tôn. Thế Tôn muốn thế độ cho ngài liền hỏi ngài mười câu hỏi, bắt đầu bằng câu: ‘Thế nào là một pháp?’. Ngài hiểu được ý Thế Tôn liền trả lời: ‘Các chúng sanh được nuôi dưỡng bằng thức ăn…’, với trí sáng suốt của mình. Bậc Ðạo Sư thỏa mãn với những câu trả lời của đứa trẻ, thọ giới cho ngài. Do vậy ngài có được tên là: ‘Ðặt trẻ với những câu hỏi’. Ngài nói lên chánh trí của mình, thuật lại những sự việc đã xảy ra, với bài kệ như sau:

  1. Thấy bậc Tối thượng nhân,
    Kinh hành dưới bóng lầu,
    Tại đấy, ta đi tới,
    Ðảnh lễ bậc Tối thượng.
  2. Ðắp y một bên vai,
    Chấp hai tay đưa lên,
    Ði theo bậc Vô cấu,
    Tối thượng trên mọi loài.
  3. Ngài hỏi ta câu hỏi,
    Khéo biết đặt câu hỏi,
    Ta trả lời Ðạo Sư,
    Không run, không sợ hãi.
  4. Ðức Như Lai tùy hỷ,
    Câu trả lời câu hỏi,
    Nhìn chúng Tỷ-kheo Tăng,
    Ngài nói ý nghĩa này:
  5. Lợi ích thay, dân chúng,
    Ăng-ga, Magadha,
    Cúng dường cho vị ấy,
    Y dược thuốc sàng tọa,
    Biết cung kính thích nghi,
    Thật lợi ích cho chúng,
    Bậc Ðạo Sư nói vậy,
  6. Bắt đầu từ hôm nay,
    Hỡi này Sopaka,
    Hãy đến yết kiến Ta,
    Như vậy, Sopaka,
    Ông thành tựu Ðại giới,
    Ðược an lành tốt đẹp.
  7. Bảy năm từ khi sanh,
    Ta được thọ Ðại giới,
    Ta mang thân cuối cùng!
    Ôi pháp, thiện pháp tánh.

(CCXXVIII) Sarabhanga (Thera. 50)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại Ràjagaha (Vương Xá), con của một Bà-la-môn, ngài có thể được đặt tên, độc lập hay không độc lập với truyền thống gia đình, ngài không có đặc điểm gì để đặt tên. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài trở thành một ẩn sĩ, tự dựng một thảo am, làm bằng cọng cây lau mà tự ngài bẻ gãy, và từ đấy ngài được biết với tên là Sara-Bhanga, (người bẻ gãy cọng cây lau). Thế Tôn với Phật nhãn nhìn quanh thế giới, thấy được nơi ngài những điều kiện để thành vị A-la-hán. Thế Tôn đi đến thuyết pháp cho ngài. Và ngài khởi lòng tin, trở thành một vị xuất gia, sau một thời gian trở thành vị A-la-hán, ngài vẫn tiếp tục ở thảo am. Thảo am dần dần hư nát và sụp đổ xuống, dân chúng hỏi ngài sao không dựng thảo am lại, ngài trả lời, khi thảo am được dựng lên, ngài còn ẩn sĩ. Nhưng nay ngài không thể làm được như vậy nữa. Rồi ngài nói lên toàn bộ vấn đề như sau:

  1. Tay bẻ những cây lau,
    Ta làm am ta ở,
    Do vậy, được tên tục:
    ‘Người bẻ gãy cây lau’.
  2. Nay không còn thích hợp,
    Tự tay bẻ cây lau,
    Theo học giới giảng dạy,
    Gotama danh xưng.
  3. Chính Sara-bhanga,
    Từ trước chưa từng thấy,
    Thấy chứng bệnh toàn diện,
    Một cách thật đầy đủ.
    Bệnh ấy nay được thấy,
    Do lời bậc siêu thiên.
  4. Chính đường ấy đã đi,
    Vibassì, Sikhi,
    Kể cả Vessabhu,
    Với Kakusandha,
    Konàgamana.
    Chính với con đường ấy,
    Gotama đã đến.
  5. Ly ái, không chấp thủ,
    Bảy Phật chứng Niết-bàn,
    Pháp này được thuyết giảng,
    Bởi các vị chứng Pháp.
  6. Vì từ mẫn chúng sanh,
    Bốn sự thật được giảng,
    Khổ, khổ tập, con đường,
    Diệt, chấm dứt khổ đau.
  7. Trong đời sống liên tục,
    Khổ luân chuyển không dứt,
    Khi thân này bị hoại,
    Khi mạng sống cáo chung,
    Tái sanh khác không còn,;
    Ta thật, khéo giải thoát,
    Giải thoát mọi sanh y.

Chương VIII

-ooOoo-

Phẩm Tám Kệ

(CCXXLX) Mahà-Kaccàyana (Thera. 52)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại Ujienì trong gia đình của vị cố vấn nghi lễ cho vua Candapajjota. Ngài học ba tập Vệ-đà, khi ngài lớn và khi phụ thân mất ngài kế tiếp chức vụ của cha. Ngài được biết với tên là Kaccàna theo dòng họ. Nhà vua được nghe tin đức Phật xuất hiện, ngài đi mời đức Phật, ngài đi với bảy người, được bậc Ðạo Sư thuyết pháp, sau buổi thuyết giảng, cả ngài với bảy người đều chứng quả A-la-hán, với hiểu biết về nghĩa và về pháp. Rồi Thế Tôn đưa tay nói: ‘Hãy đến các Tỷ-kheo!’, cả tám vị được cắt tóc, đầy đủ với bát và y.

Khi ngài đã được giải thoát, ngài mời đức Phật đến Ujjenì để thuyết pháp cho vua. Ðức Phật nói Kaccàna tự mình đi về, thực hiện sứ mệnh ấy. Kaccàna theo lời khuyên, đi với cả bảy vị, thuyết pháp cho vua, khiến vua khởi lòng tin rồi trở lại với bậc Ðạo Sư.

Một hôm, nhiều Tỷ-kheo sau khi bỏ một bên các bổn phận của mình, tìm thú vui trong các vui thế tục và xã hội, đang sống một đời sống phóng dật. Vị Trưởng lão trong hai câu kệ, khuyên răn các vị ấy, và với sáu bài kệ tiếp, giảng dạy cho vua:

  1. Chớ làm quá nhiều việc,
    Tránh quần chúng đua tranh,
    Người siêng tham đắm vị,
    Bỏ đích đem an lạc.
  2. Ta cảm là ‘đống bùn’,
    Cung kính các gia đình,
    Là mũi tên nhỏ nhiệm,
    Thật khó được rút ra,
    Tôn trọng khó từ bỏ,
    Ðối với kẻ không tốt.

Lời cho vua:

  1. Hành động của con người,
    Không phải là độc ác,
    Tùy thuộc vào người khác,
    Người khác nói hay làm,
    Tự mình chớ có làm,
    Vì người, bà con nghiệp.
  2. Không vì người khác nói,
    Con người thành ăn trộm,
    Không vì người khác nói,
    Con người thành bậc Thánh.
    Như mình tự biết mình,
    Chư Thiên biết mình vậy.
  3. Người khác không biết được,
    Ðây ta sống một thời,
    Những ai biết được vậy,
    Bậc trí sống lắng dịu.
  4. Chỉ bậc trí sống mạnh,
    Dầu tài sản đoạn tận,
    Nếu không được trí tuệ,
    Có tiền như không sống,

Với vua hỏi về cơn mộng:

  1. Với tai nghe tất cả,
    Với mắt thấy tất cả,
    Kẻ trí bỏ tất cả,
    Như không thấy không nghe,
  2. Có mắt, như kẻ mù,
    Có tai như kẻ điếc,
    Có trí, như kẻ ngu,
    Có sức, như kẻ yếu,
    Ðể việc lành khởi lên,
    Nằm như kẻ chết nằm.

(CCXXX) Sirimitta (Thera. 52)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con của một điền chủ giàu có, được đặt tên là Sirimitta; mẹ ngài là chị của Sirigutta. Nay Sirimitta, cháu của Sirigutta tìm được lòng tin đối với bậc Ðạo Sư nhiếp phục con voi Dhanapàla. Rồi ngài xuất gia và sau một thời gian chứng quả A-la-hán.

Một hôm, từ chỗ ngồi đứng dậy để tụng học giới bổn Pàtimokkha, ngài cầm một cái quạt có sơn màu, rồi ngồi xuống, ngài thuyết pháp cho các Tỷ-kheo, và làm như vậy, ngài làm nổi bật những đức tánh khác như sau:

  1. Không phẫn nộ, không hận,
    Không gian, không hai lưỡi,
    Vị Tỷ-kheo như vậy,
    Ðời sau, không ưu sầu.
  2. Không phẫn nộ, không hận,
    Không gian, không hai lưỡi,
    Tỷ-kheo thường hộ căn,
    Ðời sau không ưu sầu.
  3. Không phẫn nộ, không hận,
    Không gian, không hai lưỡi,
    Tỷ-kheo giữ thiện giới,
    Ðời sau, không ưu sầu.
  4. Không phẫn nộ, không hận,
    Không gian, không hai lưỡi,
    Tỷ-kheo thiện bằng hữu,
    Ðời sau không ưu sầu
  5. Không phẫn nộ, không hận,
    Không gian, không hai lưỡi,
    Tỷ-kheo thiện trí tuệ,
    Ðời sau, không ưu sầu.

Sau khi thuyết giảng về phẫn nộ, hận… ngài nói đến con đường siêu thoát, diễn tả thái độ chơn chánh của từng cá nhân, như vậy chứng nhận chánh trí của mình:

  1. Với ai tin Như Lai,
    Không dao động, thiện trú,
    Với ai, nếp giới hạnh,
    Ðược thiện nhân tán thán,
    Ðược bậc Thánh tùy hỷ.
  2. Với ai, có tín thành,
    Ðối với chúng Tăng già,
    Có tri kiến chánh trực,
    Họ nói về người ấy:
    Vị ấy không nghèo đói,
    Ðời sống không trống rỗng.
  3. Vậy nên bậc Hiền trí,
    Hãy chú tâm tín, giới,
    Tịnh, tín, thấy đúng pháp;
    Vào cốt tủy lời Phật.

(CCXXXI) Mahà-Panthaka (Thera. 53)

Khi bậc Ðạo Sư đi đến Ràjagaha, chuyển bánh xe pháp, Panthaka, con đầu lòng của con gái một nhân viên giàu có trong Ủy ban thành phố, và một trong những người nô tỳ của phụ thân của người con gái, cả hai thường đi đến ông ngoại để nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, khởi lòng tin với thiền quán. Sau khi xuất gia, ngài trở thành thiện xảo trong lời dạy của bậc Ðạo Sư và trong bốn thiền, và sau một thời gian, chứng quả A-la-hán. An trú trong an lạc thiền quán và quả chứng, ngài hồi tưởng lại sự thành công của mình, và sung sướng rống tiếng rống con sư tử như sau:

  1. Khi đầu tiên ta thấy,
    Bậc Ðạo Sư vô úy,
    Xúc động khởi nơi ta,
    Thấy được người Tối thượng.
  2. Ai cả tay cả chân,
    Cầu khẩn thần may đến,
    Với cử chỉ như vậy,
    Khiến Ðạo Sư hoan hỷ,
    Vị ấy không thể đạt,
    Như sở nguyện của mình.
  3. Còn ta đã từ bỏ,
    Vợ con, tiền, lúa, gạo,
    Sau khi cạo râu tóc,
    Ta xuất gia không nhà.
  4. Học, sinh hoạt đầy đủ,
    Các căn khéo chế ngự,
    Ðảnh lễ bậc Chánh giác,
    Ta trú, không khuất phục.
  5. Rồi ta khởi ước nguyện,
    Tâm an trú tha thiết,
    Ta quyết không ngồi nữa,
    Dầu chỉ là một phút,
    Cho đến khi rút được,
    Rút mũi tên tham ác.
  6. Ta an trú như vậy,
    Hãy xem nhờ nỗ lực,
    Ba minh ta đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.
  7. Ta biết được đời trước,
    Thiên nhãn được thanh tịnh,
    Ta xứng được cúng dường,
    Giải thoát khỏi sanh y.
  8. Như đêm trở thành sáng,
    Khi mặt trời mới mọc,
    Mọi khát ái khô kiệt,
    Ta vào, ngồi kiết-già.

Chương IX

-ooOoo-

Phẩm Chín Kệ

(CCXXXII) Bhùta (Thera. 54)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại ngoại thành Sàketa, con một hội viên giàu có trong Hội đồng thành phố, ngài là con út và người con độc nhất được sống sót, các người con khác bị một con Dạ-xoa thù nghịch ăn thịt. Ngài được canh gác cẩn mật, và con Dạ-xoa bận lên hầu Vessavana nên không về nữa. Khi đến tuổi đặt tên, ngài được đặt tên là Bhùta, vì do nguyện cầu được sanh ngài: ‘Mong rằng các hàng phi nhân có lòng từ hộ trì cho đứa trẻ’. Nhờ công đức của mình, ngài lớn lên không bị tai nạn gì, được nuôi dưỡng trong ba lâu đài như Yasa. Khi bậc Ðạo Sư đến Sàketa, ngài cùng với các cư sĩ khác đến tịnh xá nghe thuyết pháp. Sau khi xuất gia, ngài sống trong một hang động, trên bờ sông Ajakaranì. Tại đấy, ngài chứng quả A-la-hán. Sau đó ngài về thăm các bà con vì lòng từ mẫn và ở trong rừng Anjana. Khi các bà con yêu cầu ngài ở lại, vì lợi ích chung cho các bà con và cho ngài, ngài nói ngài ưa thích đời sống xuất gia và nói lên những bài kệ như sau, trước khi từ biệt các bà con:

  1. Khi bậc trí thấy được,
    Già chết là đau khổ,
    Tại đấy, kẻ phàm phu,
    Không thấy, chấp thủ khổ.
    Sau khi liễu tri khổ,
    Chánh niệm, tu thiền định,
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ưu việt hơn lạc này.
  2. Khi đoạn tận được ái,
    Ái đem khổ, độc hại,
    Tạo hý luận trói buộc,
    Ðẩy mạnh đến đau khổ,
    Sau khi đoạn tận ái,
    Chánh niệm, tu thiền định,
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ưu việt hơn lạc này.
  3. Khi với tuệ, thấy được,
    Con đường lành vô thượng,
    Gồm hai lần bốn phần,
    Tịnh trừ mọi phiền não,
    Sau khi thấy với tuệ;
    Chánh niệm tu thiền định,
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ưu việt hơn lạc này.
  4. Khi tu tập con đường,
    Không sầu, không cấu uế,
    Vô vi, an tịnh đạo,
    Tịnh trừ mọi phiền não,
    Chặt trói buộc kiết sử,
    Chánh niệm, tu thiền định,
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ưu việt hơn lạc này.
  5. Khi trên trời vang rền,
    Tiếng trống mây giông tố,
    Khắp con đường chim bay,
    Dòng mưa dày đặc đổ,
    Tỷ-kheo đi đến hang,
    Tu tập, ngồi thiền định,
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ư u việt hơn lạc này.
  6. Khi trên những bờ sông,
    Những vòng hoa rừng núi,
    Nở lên và chói sáng,
    Với nhiều màu nhiều sắc,
    Với tâm tư thoải mái,
    Ngồi thiền trên bờ sông,
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ưu việt hơn lạc này.
  7. Khi nửa đêm, rừng vắng,
    Trời đổ trận mưa rào,
    Loài có ngà có nanh,
    Ðang sống đang gầm thét,
    Tỷ-kheo đến triền núi,
    Ngồi yên lặng tọa thiền,
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ưu việt hơn lạc này.
  8. Khi tầm tứ chế ngự
    Giữa núi, trong hang động
    Thoải mái tự ngồi thiền,
    Không sợ không chướng ngại
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ưu việt hơn lạc này.
  9. Khi ngồi được hỷ lạc,
    Không uế chướng, không sầu,
    Không tù túng, thoát ái,
    Không bị mũi tên đâm,
    Mọi lậu hoặc chấm dứt,
    Vị ấy ngồi tọa thiền,
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ưu việt hơn lạc này.

Chương X

-ooOoo-

Phẩm Mười Kệ

(CCXXIII) Kàludàyin (Thera. 56)

Ngài sanh cùng ngày với đức Phật trong gia đình con vị Bộ trưởng của vua ở Kapilavatthu. Bảy vị cùng sanh một lần trong ngày, Vị Bồ-tát, cây Bồ-đề, mẹ của Ràhula và bốn vật báu: roi báu, con ngựa Kanthaka, Channa và Kàludàyin. Khi đến ngày đặt tên, ngài được gọi là Udàyin, và vì ngài da đen nên được gọi là Kàludàyin. Ngài lớn lên làm bạn trẻ đồng chơi với vị Bồ-tát. Rồi Thế Tôn xuất gia, giác ngộ, và ở tại Trúc Lâm (Veluvana), chuyển bánh xe Chánh pháp, vua Suddhodana nghe vậy, cử một vị Bộ Trưởng với một ngàn người tùy tùng, bảo đem con của vua về. Vị Bộ trưởng cùng cả ngàn tùy tùng, nghe đức Phật giảng và chứng quả A-la-hán. Ðức Phật đưa tay nói: ‘Hãy đến, này các Tỷ-kheo’… và tất cả sống giữa các vị Hiền Thánh, không chuyển thông điệp của vua. Các vị sứ giả khác cũng lâm vào cảnh tương tự. Cuối cùng vua sai Kàludàyin với một ngàn người tùy tùng và Kàludàyin hứa thế nào cũng đưa vị Bồ-tát về dầu có xuất gia. Ngài đi đến nghe pháp, trở thành vị A-la-hán, nhớ đến sứ mạng của mình, chờ cho mùa mưa xong, khi trên con đường về, hoa đã trổ bông, ngài mới nói lên những bài kệ mời bậc Ðạo Sư về và tán thán vẻ đẹp cuộc hành trình:

  1. Thế Tôn, nay là thời,
    Các cây nở hoa đỏ,
    Từ bỏ chòm lá cũ,
    Tìm đến thời sai quả.
    Chúng như ngọn lửa hừng,
    Chói sáng và rực sáng,
    Bạch đấng Ðại anh hùng,
    Nay là thời hưởng vị.
  2. Những cây nở hoa đẹp,
    Khắp phương tỏa hương thơm,
    Bỏ lá, vọng sanh quả,
    Nay là thời lên đường,
    Từ bỏ địa phương này,
    Kính thưa bậc Anh hùng.
  3. Không quá lạnh, quá nóng,
    Thế Tôn thời tiết đẹp,
    Hãy để hai dân tộc,
    Thích-Ca, Ko-li-ya,
    Nhìn Ngài mặt hướng Tây,
    Vượt sông Ro-hi-ni.
  4. Trong hy vọng, ruộng cày,
    Trong hy vọng, giống gieo,
    Trong hy vọng, thương gia,
    Vượt biển đem tiền về.
    Hy vọng con kiên trì,
    Mong con, hy vọng thành.
  5. Người tiếp tục gieo giống,
    Trời lại tiếp tục mưa,
    Người nông tiếp tục cày,
    Thóc gạo tiếp tục đến,
    Ðến nhiều cho quốc gia.
  6. Ăn xin tiếp tục xin,
    Thí chủ tiếp tục cho,
    Thí chủ tiếp tục cho
    Tiếp tục lên Thiên giới.
  7. Bậc anh hùng tiếp tục,
    Cho đến bảy thế hệ
    Gia đình ấy được sanh,
    Bậc trí tuệ rộng lớn,
    Con nghĩ Ngài có thể,
    Là Thiên chủ chư Thiên,
    Trong Ngài đã được sanh,
    Bậc ẩn sĩ chân danh.
  8. Phụ vương đại ẩn sĩ,
    Tên gọi Tịnh Phạn vương,
    Còn mẹ bậc Chánh giác,
    Danh xưng là Ma-da,
    Bà mang thai Bồ-tát,
    Thân hoại, hưởng thiên giới.
  9. Gô-ta-mi, mạng chung,
    Từ đấy, sau khi chết,
    Ðược hưởng thọ đầy đủ,
    Các dục lạc cõi trời,
    Vui hưởng năm món dục,
    Ðược Thiên nữ đoanh vây.

Rồi Thế Tôn được thỉnh mời, thấy rằng mình đi sẽ cứu độ cho nhiều người, nên đã ra đi với hai mươi ngàn vị A-la-hán, mỗi ngày đi bộ một do-tuần. Còn vị Trưởng lão, dùng thần thông đi đến Kapilavatthu trước mặt ông vua. Vua không biết ngài là ai, nên ngài mới xưng ngài là con vị Bộ Trưởng, được vua sai đi đến Thế Tôn và nói lên bài kệ:

  1. Ta là con đức Phật,
    Ngài thắng bậc bất thắng,
    Bậc An-gi-ra-sa,
    Bậc không ai sánh được,
    Vua dòng họ Thích-ca,
    Phụ thân của cha tôi,
    Vua dòng Go-ta-ma
    Là bậc Tổ phụ tôi,
    Ðúng pháp là như vậy.

(CCXXXIV) Ekavihàriya (Tissa Kumàra) (Thera. 57)

Ngài sanh ra, sau khi đức Phật đã nhập Niết-bàn là con trai nhỏ nhất của vua Dhammàsoka. Vua Asoka, đến năm thứ 218 sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, đã thống nhất toàn thể Ấn Ðộ trong một đế quốc. Vua phong em trai thứ ngài là Tissa làm Phó vương, và vận động em ngài ủng hộ cho Giáo hội.

Còn ngài trong khi đi săn thấy Trưởng lão Mahà Dhammarakkhita ngồi dưới gốc cây, cảm xúc rất mạnh, tự mình muốn sống trong rừng. Khi ngài chứng kiến Trưởng lão hiện thần thông, ngài trở về lâu đài, và nói với vua Asoka ngài muốn từ bỏ cuộc đời thế tục. Vua Asoka không thể làm ngài thay đổi sự quyết định của mình. Tha thiết sống đời sống một ẩn sĩ, ngài nói lên những bài kệ như sau:

  1. Khi trước mặt sau lưng,
    Không có một người nào,
    Như vậy an lạc lớn,
    Sống một mình trong rừng.
  2. Ta sẽ đi một mình,
    Ðến ngôi rừng Phật khen,
    Hưởng an lạc đã được,
    Vị Tỷ-kheo thọ hưởng,
    Nhờ sống đời tinh tấn,
    Sống riêng chỉ một mình.
  3. Ta sẽ gấp vào rừng,
    Một mình, sống lý tưởng,
    Ngôi rừng được loài voi,
    Cuồng loạn sống tự do,
    Trú xứ đem hoan hỷ,
    Cho ẩn sĩ thiền định.
  4. Trong ngôi rừng Sì-ta,
    Với núi hang nước mát,
    Sau khi rửa tay chân,
    Ta kinh hành một mình.
  5. Sống một, không sống hai,
    Trong rừng lớn đẹp đẽ,
    Ta sẽ sống tại đấy,
    Việc xong, không lậu hoặc.
  6. Như vậy, ta muốn làm,
    Mong ước nguyện thành tựu,
    Ta sẽ có lòng tin,
    Không ai làm ai được.
  7. Ta cột áo giáp lại,
    Sẽ vào trong rừng sâu,
    Ta không ra khỏi rừng,
    Nếu chưa đạt lậu tận.
  8. Trong khi gió nhẹ thổi,
    Mát lạnh, thơm mùi hương,
    Ta ngồi trên chỏm núi,
    Ta sẽ phá vô minh.
  9. Trên tấm thảm hang động,
    Trải đầy những hoa rừng,
    Ta hưởng lạc giải thoát,
    Tại vòng đai núi rừng.
  10. Chí nguyện ta viên mãn,
    Giống như mặt trăng rằm.
    Mọi lậu hoặc tận trừ,
    Nay không còn tái sanh.

(CCXXXV) Mahà Kappina (Ma-ha Kiếp-tân-na) (Thera. 58)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở biên địa, tại thành phố tên Kukkuta, trong gia đình một vị vua và được đặt tên là Kappina. Khi phụ vương mất, ngài thừa tự ngôi vua với tên là Mahà-Kappina. Ðể tăng trưởng sự hiểu biết, ngài sai sứ giả mỗi buổi sáng đi ra khỏi bốn cửa thành, giữ lại các vị học giả và tin cho ngài biết. Thời ấy bậc Ðạo Sư đã ra đời và đang ở Sàvatthi. Các thương gia của thành phố Sàvatthi đem đồ đến Kukkutta bán, đem quà dâng vua. Vua hỏi tình hình ở Sàvatthi và dân chúng theo tôn giáo nào. Các thương gia thưa không trả lời cho vua được, vì chưa được súc miệng. Sau khi vua bảo đem nước súc miệng xong, các thương gia chấp tay và thưa: ‘Ở đất nước chúng tôi, Phật báu đã ra đời’. Khi nghe nói đến chữ Phật, vua cảm thấy hân hoan thoải mái, bảo thương gia nói lại ba lần, và thưởng chúng một trăm ngàn đồng tiền vàng. Các thương gia cũng nói đến Pháp báu và Tăng báu, và vua tặng thưởng gấp ba lần. Rồi vua từ bỏ thế tục và xuất gia. Các vị Bộ trưởng cũng theo gương vua. Rồi tất cả cùng đi tìm đức Bổn Sư và đi đến sông Hằng. Rồi họ tuyên bố, nếu có bậc Ðạo Sư, có đức Phật tối thượng thời móng chân các con ngựa không bị thấm ướt! Rồi họ đi ngang qua con sông ấy và qua một con sông khác nữa, sông Candabhàgà.

Hôm ấy, bậc Ðạo Sư dậy sớm khi rạng đông, với lòng từ bi, dùng Phật nhãn xem xung quanh thế giới và thấy Mahà Kappina đã từ bỏ vương quốc và đi đến với một số tùy tùng lớn để xuất gia. Bậc Ðạo Sư trước hết đi vào Sàvatthi khất thực với một số Tỷ-kheo, rồi Ngài bay đến bờ sông Candabhàgà, và ngồi xuống kiết-già, đối diện với bến nước và phóng hào quang. Mahà Kappina và các tùy tùng thấy được các hào quang liền đến đảnh lễ đức Phật. Thế Tôn thuyết pháp cho họ và tất cả đều chứng quả A-la-hán. Và xin trở thành Sa-môn. Ðức Phật nói: ‘Hãy đến, các Tỷ-kheo’, và như vậy là lễ thọ giới của họ. Rồi Thế Tôn đem toàn thể về Jetavana ngang qua hư không.

Một hôm Thế Tôn hỏi Mahà Kappina có thuyết pháp cho đại chúng không, và khi được trả lời không. Thế Tôn cho gọi Mahà Kappina và khuyên Mahà Kappina thuyết pháp cho đại chúng. Mahà Kappina vâng lời dạy của Thế Tôn và trong buổi thuyết pháp đầu tiên độ cho hơn ngàn Sa-môn chứng quả A-la-hán. Rồi đức Phật xác nhận Mahà Kappina là vị thuyết pháp đệ nhất cho chúng Tăng.

Một hôm, ngài giảng cho các Tỷ-kheo-ni như sau:

  1. Ai thấy sớm sự việc,
    Trước khi sự việc đến,
    Và biết được cả hai,
    Có lợi hay có hại,
    Thù hay bạn người ấy,
    Không thấy được sơ hở,
    Dầu quan sát kỹ càng.
  2. Với ai khéo tu tập,
    Niệm thở vào thở ra,
    Tiếp tục hành viên mãn,
    Như lời Phật thuyết giảng,
    Sẽ chói sáng đời này,
    Như trăng thoát vùng mây.
  3. Tâm ta thật trắng bạch,
    Vô lượng, khéo tu tập,
    Thấu triệt, chế ngự vững,
    Chói sáng khắp mọi phương.
  4. Bậc có tuệ vẫn sống,
    Dầu tài sản kiệt tận,
    Không có được trí tuệ,
    Có tiền, như không sống.
  5. Tuệ phê phán điều nghe,
    Tuệ tăng trưởng danh xưng,
    Ở đời người có tuệ,
    Ðược vui trong đau khổ.
  6. Pháp này thuộc hiện tại,
    Không vi diệu hy hữu,
    Ðâu có sanh, thì chết,
    Ðây không gì hy hữu.
  7. Sanh đã không gián đoạn,
    Sống có chết thường hằng,
    Sanh sanh, chết tại đấy,
    Pháp hữu tình là vậy.
  8. Ðiều lợi cho kẻ sống,
    Không lợi cho kẻ chết,
    Than khóc cho kẻ chết,
    Không danh, không thanh tịnh,
    Không được hàng Sa-môn,
    Bà-la-môn tán thán.
  9. Than khóc hại thân, mắt,
    Dung sắc, lực và trí,
    Nếu tâm tư, hoan hỷ,
    Các phương cũng hân hoan,
    Dầu hạnh phúc đi tìm,
    Không có gì an lạc.
  10. Do vậy các cư sĩ,
    Muốn nhận trong gia đình,
    Chỉ những người có trí,
    Và những người nghe nhiều,
    Với sức mạnh trí tuệ,
    Họ làm tròn nhiệm vụ,
    Như chiếc thuyền vượt qua,
    Con sông nước tràn đầy.

(CCXXXVI) Cùla-Panthaka (Thera. 59)

Câu chuyện của ngài đã được kể trong chương VIII. Phần còn lại được kể trong tập sớ Cùlasetthi-Jàtaka. Trong một trường hợp khác ngài nói lên những bài kệ như sau:

  1. Ta chậm chạp, tiến chậm,
    Trước ta bị khinh miệt,
    Anh ta đuổi ta đi:
    Nay, ngươi hãy về nhà.
  2. Ta bị đuổi như vậy,
    Tại cửa chính Tăng xá,
    Sầu khổ, đứng tại đấy,
    Vọng luyến lời Phật dạy.
  3. Tại đấy, Thế Tôn đến,
    Ngài rờ trên đầu ta,
    Với cánh tay, nắm ta,
    Dắt ta vào Tăng xá.
  4. Ðạo Sư thương xót ta,
    Cho ta khăn lau chân;
    Hãy an trú tâm tư,
    Vào vật thanh tịnh này.
    Và ngồi xuống một bên,
    Tâm tư khéo an trú.
  5. Ta nghe lời Ngài dạy,
    Sống hân hoan Chánh pháp,
    Ta thực hành thiền định,
    Ðể đạt đích tối thượng.
  6. Ta biết được đời trước,
    Thiên nhãn ta thanh tịnh,
    Ba minh đã đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.
  7. Pan-tha-ka hóa hiện,
    Dưới hàng ngàn hình thức,
    Ngồi vườn xoài xinh đẹp,
    Chờ đợi thời phát hiện.
  8. Rồi Ðạo Sư giữ ta,
    Một sứ giả báo thời,
    Ðúng thời được báo hiệu,
    Ta đến, ngang hư không.
  9. Ðảnh lễ chân Ðạo Sư,
    Một bên ta ngồi xuống.
    Biết ta đã ngồi xuống,
    Bậc Ðạo Sư chấp nhận.
  10. Bậc nhận đồ tế vật,
    Cả toàn thể thế giới,
    Là phước điền loài Người,
    Ngài chấp nhận cúng dường.

(CCXXXVII) Kappa (Thera. 59)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong vương quốc Magadha, làm con một vua bản xứ, kế vị ngôi vua, nhưng rơi vào hưởng thụ các dục vọng. Khi bậc Ðạo Sư với lòng từ bi, nhìn thế giới để xem ai xứng đáng được cứu độ. Bậc Ðạo Sư thấy ngài, nghĩ rằng Kappa có thể tu tập quán bất tịnh, xuất gia và chứng quả A-la-hán. Thế Tôn đi trên hư không đến Kappa, và nói với ngài với những câu kệ như sau:

  1. Ðầy nhiều loại uế vật,
    Chỗ chưa còn phần uế,
    Như vũng nước đọng lâu,
    Ung nhọt vết thương lớn.
  2. Ðầy những máu và mủ,
    Chìm đắm, trong hố phân,
    Thân ứ nước rỉ chảy,
    Luôn chảy nước bất tịnh.
  3. Trói bởi sáu mươi gân,
    Trét dùng thịt làm hồ,
    Mặc áo giáp bằng da,
    Thân hôi thúi vô dụng.
  4. Nối thành dây xúc xương,
    Cột lại với dây gân,
    Do chúng nhiều hợp sức,
    Tác thành những uy nghi.
  5. Thường tiến đến sự chết,
    Ðến gần cảnh tử thần,
    Ở đấy, bị quăng bỏ,
    Con người đi theo dục.
  6. Thân bị vô minh che,
    Trói bởi bốn trói buộc,
    Thân chìm trong bộc lưu,
    Mắc vào lưới tùy miên,
  7. Hệ lụy năm triền cái,
    Ám ảnh bởi tâm tư,
    Ði theo gốc khát ái,
    Che trùm bởi màn si.
  8. Thân này luân chuyển vậy,
    Dẫn đi bởi xe nghiệp,
    Khi thành công, khi bại,
    Chịu đựng nhiều ái sanh.
  9. Ai nghĩ ‘thân của tôi’,
    Là phàm phu ngu muội,
    Tăng mộ phần đáng sợ,
    Chấp chặt sự tái sanh.
  10. Ai tránh né thân này,
    Như tránh rắn dính phân,
    Họ bỏ gốc sanh hữu,
    Chứng Niết-bàn, vô lậu.

Kappa nghe lời dạy bậc Ðạo Sư, về thân phận các thân dưới nhiều hình ảnh, sợ hãi và nhàm chán thân mình, hốt hoảng xin xuất gia. Bậc Ðạo Sư giao cho một Tỷ-kheo làm lễ xuất gia. Kappa nhận mười đề tài tu tập và chứng quả A-la-hán. Ngài đi đến bậc Ðạo Sư, đảnh lễ, ngồi xuống một bên và nói lên chánh trí của mình với những bài kệ trên. Do vậy các bài kệ này trở thành bài kệ của ngài.

(CCXXXVIII) Upasena, Con Của Vanganta (Thera. 60)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở làng Nàlaka, làm con của nữ Bà-la-môn Rùpasàrì và đặt tên là Upasena (anh của Sàriputta). Khi đến tuổi trưởng thành và học ba tập Vệ-đà. Ngài xuất gia sau khi nghe đức Phật thuyết pháp. Sau một năm thọ giới, ngài nghĩ làm tăng trưởng hột giống Thánh chủng, độ cho một Tỷ-kheo và với Tỷ-kheo này, ngài đi đến bậc Ðạo Sư, bậc Ðạo Sư nghe được việc này, chỉ trích cử chỉ hấp tấp của ngài. Rồi Upasena suy nghĩ: ‘Nếu nay, vì có một đệ tử, ta bị bậc Ðạo Sư quở trách. Nay cũng nhân lý do này, ta sẽ được Ðạo Sư tán thán’. Rồi tu tập thiền quán. Ngài chứng được quả A-la-hán. Ngài chấp nhận lối sống hạnh đầu đà và khuyên các vị khác thực hành theo, và lời khuyên của ngài rất có kết quả khiến cho Thế Tôn chấp nhận ngài là đệ tử rất được nhiều người biết đến.

Một Tỷ-kheo hỏi ngài cần phải làm gì khác khi các Tỷ-kheo ở Kosambi tranh cãi nhau và có nạn phá hòa hợp Tăng. Upasena dạy Tỷ-kheo ấy như sau:

  1. Xứ viễn ly, không ồn,
    Chỗ thú rừng thường trú,
    Tỷ-kheo dọn sàng tọa,
    Tu học hạnh tịnh cư.
  2. Từ những đống rác rưới,
    Từ một phần, xa lộ,
    Làm Y Tăng-già-lê,
    Mang áo cũ sờn mòn.
  3. Với tâm tư hạ mình,
    Tiếp tục đi từng nhà,
    Tỷ-kheo sống khất thực,
    Căn hộ, khéo chế ngự.
  4. Bằng lòng món ăn thô,
    Không tìm nhiều vị khác;
    Nếu tham đắm các vị,
    Ý không vui tu thiền.
  5. Ít dục và biết đủ,
    Ẩn sĩ sống viễn ly,
    Không thân cận cả hai,
    Tại gia và xuất gia.
  6. Như kẻ ngu, người câm,
    Hãy tỏ mình như vậy,
    Bậc trí giữa chúng Tăng,
    Chớ có giảng quá dài.
  7. Chớ có chỉ trích ai,
    Hãy tránh làm hại ai,
    Chế ngự trong giới bổn,
    Tiết độ trong ăn uống.
  8. Khéo nắm giữ các tướng,
    Thiện xảo tâm diễn khởi,
    Chú tâm vào tịnh chỉ,
    Ðúng thời tu thiền quán.
  9. Ðủ tinh tấn nhẫn nại,
    Luôn chuyên chú bổn phận,
    Chưa đạt được khổ diệt,
    Kẻ trí tin tưởng tiến.
  10. Tỷ-kheo muốn thanh tịnh,
    Sống nếp sống như vậy,
    Mọi lậu hoặc đoạn tận,
    Chứng được tối tịch tịnh.

Như vậy vị Trưởng lão, trong khi giảng dạy vị Tỷ-kheo, nêu rõ quả chứng của mình và nói lên chánh trí.

(CCXXXIX) Gotama (Thera. 61)

Sanh ở Sàvatthi trước khi đức Phật ra đời, trong một gia đình Bà-la-môn từ Udicca. Ngài lớn lên, rất giỏi các tập Vệ đà và là một vị hùng biện vô địch.

Rồi Thế Tôn ra đời, chuyển bánh xe pháp sau khi hóa độ Yasa với các người bạn, đã đi đến Sàvatthi theo lời mời khẩn thiết của Anàthapindika (Cấp-cô-độc) Bà-la-môn Gotama thấy Thế Tôn, nghe pháp và xin xuất gia. Theo chỉ giáo của bậc Ðạo Sư, ngài được một Tỷ-kheo độ cho xuất gia, và được chứng quả A-la-hán trong khi đang cạo tóc. Sau khi sống một thời gian dài ở nước Kosala, ngài trở về Sàvatthi. Nhiều bà con của ngài, một số Bà-la-môn nổi tiếng đến viếng ngài và hỏi ngài những giáo lý chỉ đạo nào là phổ thông mà ngài nghĩ là cần phải thực hành. Ngài nói với họ như sau:

  1. Hãy biết hạnh phúc mình,
    Quan sát lời nghe giảng,
    Ðây cái gì thích hợp,
    Sa-môn hạnh mình theo.
  2. Bạn kẻ thiện trong đạo,
    Hành học pháp rộng lớn,
    Khéo nghe bậc Ðạo Sư,
    Ðây hợp Sa-môn hạnh.
  3. Với tâm kính chư Phật,
    Trọng Chánh pháp như thật,
    Và mến quý chư Tăng,
    Ðây hợp Sa-môn đạo.
  4. Giữ uy nghi, đi lại,
    Mạng sống tịnh, không chê,
    Tư tưởng khéo ổn định,
    Ðây hợp Sa-môn đạo.
  5. Ðiều làm hay không làm,
    Uy nghi được ái kính,
    An trú tăng thượng tâm,
    Ðây hợp Sa-môn đạo.
  6. Sàng tọa tại rừng núi,
    Xa vắng ít ồn ào,
    Thân cận bậc Mâu-ni,
    Ðây hợp Sa-môn đạo
  7. Giới hạnh và học nhiều,
    Như thật nghiên cứu pháp,
    Thiền quán những sự thật,
    Ðây hợp Sa-môn đạo.
  8. Tu quán trên vô thường,
    Tưởng vô ngã, bất tịnh,
    Không ưa thích tục sự,
    Ðây hợp Sa-môn đạo.
  9. Tu tập các Giác chi,
    Thần túc, căn là lực,
    Thu Chánh đạo Tám ngành,
    Ðây hợp Sa-môn đạo.
  10. Mâu-ni bỏ khát ái,
    Ðập tan gốc lậu hoặc,
    Hãy an trú giải thoát,
    Ðây hợp Sa-môn đạo.

Như vậy, ngài tán thán các hạnh thích hợp với đời sống một ẩn sĩ, đề cao khả năng của Tăng chúng, và chỉ rõ sự bất lực của một ẩn sĩ không theo Chánh pháp.

Rồi các Bà-la-môn ấy hoàn toàn chấp nhận giới luật, được an trú trong Chánh pháp.

Chương XI

-ooOoo-

Phẩm Mười Một Kệ

(CCXL) Sankicca (Thera. 62)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn nổi tiếng. Mẹ ngài chết khi sanh ngài, và ngài được cứu sống, chưa bị đốt cháy trên giàn hỏa. Vì rằng sự sống của một hữu tình trong đời sống cuối cùng không thể chết được, trước khi chứng quả A-la-hán, dầu cho có rơi từ núi Sineru (Tu-di). Khi lên bảy tuổi, được nghe mẹ ngài chết khi sanh ngài; ngài cảm thấy xúc động và phát nguyện xuất gia. Ngài được đưa tới gặp Tôn giả Sàriputta, và ngài chứng được quả A-la-hán, khi tóc ngài đang bị cạo. Ngài dâng đời sống ngài cho các tên cướp như thế nào để ba ngàn Tỷ-kheo được nói đến trong tập sớ Dhammapàla.

Rồi một cư sĩ muốn hầu hạ ngài, yêu cầu ngài sống gần chỗ vị ấy đang ở, nói như sau:

  1. Lợi ích ngài là gì,
    Ở rừng sâu, mùa mưa,
    Như U-ju-hà-na,
    Hỡi này ngài thân mến!
    Hang gió đẹp cho ngài,
    Sống một mình, tu thiền.

Rồi vị Trưởng lão, để nêu rõ vẻ đẹp của núi rừng và sự thật khác, trả lời như sau:

  1. Như gió mùa thổi mây,
    Trong thời tiết mùa mưa,
    Tưởng ta bay tràn khắp,
    Tưởng dung hòa viễn ly.
  2. Quạ đen, từ trứng sinh,
    Lấy nghĩa địa làm nhà,
    Khiến ta khởi lên niệm,
    Viễn ly đối với thân.
  3. Người kẻ khác không hộ,
    Người không hộ kẻ khác,
    Tỷ-kheo, sống an lạc,
    Không kỳ vọng các dục.
  4. Tảng đá có nước trong,
    Chỗ hội họp quy tụ,
    Các loài vượn mặt đen,
    Các loài nai nhút nhát,
    Dưới màn hoa nước chảy,
    Tảng đá ấy ta thích.
  5. Ta sống trong rừng núi,
    Trong hang động khe đá,
    Tại trú xứ xa vắng,
    Chỗ thú rừng qua lại.
  6. Hãy hại chúng, giết chúng!.
    Hãy làm khổ hữu tình,
    Ta không biết niệm ấy,
    Phi Thánh liên hệ sân,
    Ðạo Sư, ta hầu hạ,
    Lời Phật dạy làm xong,
    Gánh nặng đặt xuống thấp,
    Gốc sanh hữu, nhổ sạch.
  7. Vì đích gì, xuất gia,
    Bỏ nhà sống không nhà,
    Mục đích ấy, ta đạt,
    Mọi kiết sử tận diệt.
  8. Ta không thích thú chết,
    Ta không thích thú sống,
    Ta chờ thời gian đến,
    Như thợ làm việc xong.
  9. Ta không thích thú chết,
    Ta không thích thú sống,
    Ta chờ thời gian đến,
    Tỉnh giác, giữa chánh niệm.

Chương XII

-ooOoo-

Phẩm Mười Hai Kệ

(CCXLI) Sìlavat (Thera. 63)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con của vua Bimbisàra (Tần-bà-ta-la), và được đặt tên là Sìlavat. Khi đến tuổi trưởng thành, anh ngài là Ajàtasattu làm vua, muốn giết ngài, nhưng không giết được, vì ngài sống đời sống cuối cùng và chưa chứng quả A-la-hán. Rồi Thế Tôn, biết sự việc đã xảy ra bảo Mahà Maggallàna đi mời ngài đến. Hoàng tử Sìlavat xuống voi, thích nghi giáo lý với tâm tánh của ngài, ngài khởi lòng tin, xuất gia, và sau một thời gian, chứng quả A-la-hán. Rồi ngài ở Kosala, và khi Ajàtasattu sai những người đến giết ngài, ngài dạy cho những người ấy, hóa độ và những người ấy xuất gia học đạo. Và ngài giảng cho họ như sau:

  1. Ở đây hãy học giới,
    Khéo học tập ở đời,
    Giới thành đạt toàn diện,
    Ðưa đến mọi thành công.
  2. Bậc trí hãy hộ giới,
    Nếu kỳ vọng ba lạc,
    Ðược danh xưng tài sản,
    Sau chết, hưởng thiên lạc.
  3. Người trì giới, tự chế,
    Ðược nhiều người bạn tốt,
    Kẻ ác giới, hành ác,
    Mất mát các bạn bè.
  4. Người ác giới chỉ được,
    Ác danh, không tài sản,
    Bậc trì giới luôn được
    Khen danh xưng, tán thán.
  5. Khởi đầu, an trú giới,
    Giới là mẹ thiện pháp,
    Giới đứng đầu mọi pháp,
    Vậy hãy trong sạch giới.
  6. Giới hạn chế, phòng ngự,
    Làm sáng chói tâm tư,
    Là đầu bến chư Phật,
    Vậy hãy trong sạch giới
  7. Giới sức mạnh vô song,
    Giới, binh khí tối thượng,
    Giới, trang sức đệ nhất,
    Giới áo giáp hy hữu.
  8. Giới, đầu cầu cường dại,
    Giới, hương thơm vô thượng,
    Giới, hương thoa đệ nhất,
    Nhờ giới, bay bốn phương.
  9. Giới, tư lương cao nhất,
    Giới, hành trang tối thượng,
    Giới vận tải, đệ nhất,
    Nhờ giới, đi bốn phương.
  10. Ðây, kẻ xấu bị trách,
    Sau chết sanh đọa xứ,
    Kẻ ngu không định giới,
    Ưu tư khắp các chỗ.
  11. Ðây bậc tốt được khen,
    Sau chết sanh thoát giải,
    Kẻ trí khéo định giới,
    Hân hoan, khắp các chỗ.
  12. Ở đây, giới tối cao,
    Nhưng trí tuệ, tối thượng,
    Giữa loài Người, loài Trời,
    Bậc giới tuệ thắng lợi.

(CCXLII) Sunìta (Thera. 63)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình đổ rác, và sống với nghề đi quét đường, không đủ tiền để sống khỏi đói. Trong canh một Thế Tôn khởi lòng từ mẫn nhìn khắp thế giới và thấy trong tâm của Sunìta, có đủ điều kiện để chứng quả A-la-hán, chói sáng như ngọn đèn trong cái ghè. Khi trời đã mới sáng, Thế Tôn dậy, đắp y cầm y bát, với một số Tỷ-kheo tùy tùng, đi đến Vương Xá để khất thực và tìm đến con đường Sunìta đang quét dọn. Sunìta đang quét các đống rác gom lại từng đống, đổ vào thúng rồi gánh mang đi. Khi ngài thấy bậc Ðạo Sư đi đến với đoàn tùy tùng, ngài cảm thấy hoan hỷ xúc động không tìm được chỗ để ẩn núp, ngài đứng sát như mắc dính vào vách tường và chấp tay vái chào. Khi đức Bổn Sư đến gần, đức Phật với lời rất dịu ngọt hỏi ngài sao cam phận sống đời sống khổ sở như vậy, và có thể xuất gia được không? Ngài hoan hỷ chấp nhận và được đức Phật độ cho xuất gia với câu: ‘Hãy đến này các Tỷ-kheo!’. Bậc Ðạo Sư đưa ngài về tịnh xá, dạy cho ngài một phương pháp thiền quán. Ngài chứng được tám thiền chứng và năm thắng trí. Phát triển thiền quán, ngài chứng được thắng trí thứ sáu. Rồi Sakka và các Phạm thiên đến đảnh lễ ngài đã được ghi như sau:

Rồi bảy trăm chư Thiên,
Huy hoàng đi đến gần,
Tùy tùng đấng Phạm Thiên,
Và Thiên chủ Ðế Thích,
Họ sung sướng đảnh lễ,
Trưởng lão Sunìta,
Bậc chiến thắng cao sang,
Vượt qua già và chết!

Thế Tôn thấy ngài được chư Thiên đoanh vây, Thế Tôn mỉm cười và khen ngài, thuyết giảng cho ngài với câu kệ: ‘Với giới sống Phạm hạnh’ (kệ số 631). Rồi nhiều Tỷ-kheo, muốn rống tiếng con sư tử hỏi ngài sanh ra từ gia đình nào, vì sao lại xuất gia, làm thế nào để chứng quả, ngài trả lời cho họ với những bài kệ như sau:

  1. Ta sanh nhà hạ tiện,
    Nghèo khổ không đủ ăn,
    Nghề ta rất hèn hạ,
    Ta kẻ quét hoa rơi.
  2. Ta bị người nhàm chán,
    Miệt thị và khinh bỉ,
    Hạ mình xuống thật thấp,
    Ta kính lễ quần chúng.
  3. Rồi ta thấy đức Phật,
    Thượng thủ chúng Tỷ-kheo,
    Bậc Ðại Hùng vào thành,
    Magadha tối thượng.
  4. Ta quăng bỏ đòn gánh,
    Ðến gần để đảnh lễ,
    Với lòng thương xót ta,
    Bậc Thượng nhân đứng lại.
  5. Lễ chân Ðạo Sư xong,
    Ta đứng liền một bên,
    Ta xin được xuất gia,
    Bậc tối thượng mọi loài.
    Bậc Ðạo Sư từ bi,
    Từ mẫn khắp thế giới,
    Nói: ‘Hãy đến Tỷ-kheo’,
    Ðại giới, ta thọ vậy.
    Rồi ta sống trong rừng,
    Một mình không biếng nhác,
    Ta theo lời Ðạo Sư,
    Như bậc chiến thắng dạy.
    Trong đêm canh thứ nhất,
    Ta nhớ các đời trước,
    Trong đêm canh chặng giữa,
    Thiên nhãn ta thanh tịnh,
    Trong đêm canh cuối cùng,
    Ta phá khối si ám.
    Khi đêm vừa mở rộng,
    Rạng đông, trời ló rạng,
    Ðế Thích, Phạm Thiên đến,
    Chấp tay đảnh lễ ta,
    Ðảnh lễ bậc Thượng sanh!
    Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!
    Ngài đoạn tận lậu hoặc,
    Ngài xứng đáng cúng dường.
    Bậc Ðạo Sư thấy ta,
    Ðứng đầu chúng chư Thiên,
    Nở ra một nụ cười,
    Nói với ta nghĩa này.
    Nhờ khổ hạnh, Phạm hạnh,
    Nhờ tự chế, điều phục,
    Nhờ vậy, là Phạm chí,
    Ðây, Phạm chí tối thượng.

Chương XIII

-ooOoo-

Phẩm Mười Ba Kệ

(CCXLIII) Sona-Kolivisa (Thera. 65)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại Campà, trong gia đình một hội viên của Hội đồng thành phố nổi tiếng. Từ khi ngài sắp được sanh, tài sản lớn của phụ thân được tăng trưởng, và khi ngài được sanh, cả thành phố tổ chức hội lễ lớn. Vì ngài bố thí cúng dường cho một vị Ðộc giác Phật trong đời trước, nên đời này ngài có một thân hình như bằng vàng mịn và đặc biệt mềm mại, và ngài được gọi là Sona (vàng). Dưới chân và trên bàn tay của ngài có lông mịn màu vàng mọc lên, và ngài được nuôi dưỡng trong giàu sang xa hoa, có đến ba tòa lâu đài thích hợp cho từng mùa.

Khi bậc Ðạo Sư giác ngộ và chuyển bánh xe Pháp ở Ràjagaha (Vương Xá). Vua Bimbisàra cho mời Sona đến, ngài đến với một số đông tùy tùng, nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, khởi lòng tin và được phép cha mẹ cho xuất gia. Ngài nhận từ bậc Ðạo Sư một đề tài tu tập, nhưng không thể định tâm vì có liên lạc với đông người khi sống ở trong rừng. Ngài nghĩ rằng thân ngài quá được cung dưỡng để đạt được hạnh phúc, và đời sống ẩn sĩ làm thân mệt mỏi, ngài vượt lên trên những đau đớn vì chân ngài bị sưng khi ngài tập đi kinh hành, nhưng dầu ngài hết sức tinh tấn, ngài chưa thành đạt được quả chứng. Ngài nghĩ: ‘Ta không thể thành đạt con đường và quả vị thì sống xuất gia để làm gì? Tốt hơn ta hoàn tục và làm các công đức!’. Thế Tôn biết được tâm tư ngài, dạy cho ngài bài học của cây đàn, phải làm lắng dịu nhiệt lực với tu tập tịnh chỉ. Ðược chỉ dạy, ngài đi đến núi Linh Thứu và sau một thời gian, ngài chứng quả A-la-hán. Suy nghĩ trên thành tựu của mình, ngài tuyên bố chánh trí ngài như sau:

  1. Người xưa, cao trong nước,
    Phục vụ vua Ăng-ga,
    Nay lại cao trong pháp,
    So-na vượt đau khổ.
  2. Năm được cắt, năm bỏ,
    Năm thượng pháp tu tập,
    Tỷ-kheo vượt năm gút,
    Ðược gọi vượt bộc lưu.
  3. Tỷ-kheo tánh kiêu ngoa,
    Phóng dật, ưa vị ngoài,
    Giới, thiền định, trí tuệ,
    Không đi đến viên mãn.
  4. Việc phải làm, quăng bỏ,
    Không phải việc, lại làm,
    Kẻ kiêu ngoa phóng dật,
    Lậu hoặc được tăng trưởng.
  5. Những ai khéo tinh cần,
    Thường tu tập niệm thân,
    Không phải việc, không làm,
    Kiên trì việc nên làm.
    Bậc chánh niệm tỉnh giác,
    Lậu hoăc đi đến diệt.
  6. Trên đường thẳng được thuyết,
    Hãy bước, chớ quanh co,
    Hãy tự mình trách mình,
    Hãy đem Niết-bàn lại,
  7. Khi tinh cần nỗ lực,
    Căng thẳng, vượt mức độ,
    Thế gian, Vô Thượng Sư,
    Dùng ví dụ chiếc đàn,
    Bậc pháp nhãn, có mắt,
    Ngài thuyết pháp cho ta.
  8. Ta nghe lời Ngài giảng,
    Lạc trú lời giảng dạy,
    Bình tĩnh, ta thực hành,
    Ðể đạt đích tối thượng,
    Ba minh ta đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.
  9. Ai chuyên nhất xuất ly,
    Tâm tư hướng viễn ly,
    Ai chuyên nhất vô sân,
    Diệt trừ các chấp thủ.
  10. Ai chuyên nhất ái diệt,
    Tâm tư không si mê,
    Thấy sanh khởi các xứ,
    Tâm được khéo giải thoát.
  11. Vị Tỷ-kheo tâm tịnh,
    Ðược giải thoát chơn chánh,
    Không chất chứa việc làm,
    Ðiều phải làm không có.
  12. Như một hòn đá tảng,
    Không bị gió lay động,
    Cũng vậy toàn bộ phận,
    Sắc, vị, thanh, hương, xúc.
  13. Pháp ái bất khả ái,
    Không động, người như vậy,
    Tâm trú, không hệ lụy,
    Tùy quán, sự hoại diệt.

Chương XIV

-ooOoo-

Phẩm Mười Bốn Kệ

(CCXLIV) Revata (Thera. 67)

Các bài kệ của vị Trưởng lão này đã được đề cập trong phẩm một các bài kệ trước (XLII). Khi đến già, một hôm ngài đi đến yết kiến đức Phật và trú ở Sàvatthi, trong một ngôi rừng. Cảnh sát đến, đuổi bắt kẻ trộm, kẻ trộm quăng đồ ăn trộm gần ngài rồi bỏ chạy, các cảnh sát chạy đến, thấy đồ ăn trộm, liền bắt ngài dẫn đến vua Pasenadi. Vua truyền thả ngài và hỏi có phải ngài đã lấy trộm đồ? Ngài thuyết pháp nói lên sự kiện ngài không có thể làm một sự việc như vậy và nói những bài kệ như sau:

  1. Từ khi xa xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Ta không biết tư duy,
    Phi thánh, liên hệ sân.
  2. Hay làm hại, sát hại,
    Hay làm khổ hữu tình,
    Ta không biết tư duy,
    Trong thời gian dài này.
  3. Và ta biết lòng từ,
    Vô lượng khéo tu tập,
    Ta thứ lớp tích lũy,
    Như lời đức Phật dạy.
  4. Là bạn thân tất cả,
    Từ mẫn mọi hữu tình,
    Ta tu tập tâm từ,
    Luôn vui, không sân hận.
  5. Ta thích thú với tâm,
    Không động, không dao động,
    Ta tu tập Phạm trú,
    Ðược bậc thiện hành trì.
  6. Ta đạt được vô tầm,
    Ðệ tử bậc Chánh giác,
    Với im lặng bậc Thánh,
    Ta trực diện đạt được.
  7. Như núi đá không động,
    Ðứng vững khéo an trú,
    Cũng vậy là Tỷ-kheo,
    Ðạt được si mê diệt,
    Vị ấy như ngọn núi,
    Không gì làm dao động.
  8. Con người không uế nhiễm,
    Luôn tìm sự trong sạch,
    Tội nhẹ như đầu tóc,
    Xem nặng như mây khói.
  9. Như thành trì biên địa,
    Phòng hộ cả trong ngoài,
    Hãy phòng hộ tự ngã,
    Sát-na không bỏ qua.
  10. Ta không thích thú chết,
    Ta không thích thú sống,
    Ta chờ thời gian đến,
    Như thợ làm việc xong.
  11. Ta không thích thú chết,
    Ta không thích thú sống,
    Ta chờ thời gian đến,
    Tỉnh giác, giữ chánh niệm.
  12. Ðạo Sư, ta hầu hạ,
    Lời Phật dạy làm xong,
    Gánh nặng, đặt xuống thấp,
    Gốc sanh hữu, nhổ sạch.
  13. Vì đích gì xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Mục đích ấy, ta đạt,
    Mọi kiết sử diệt tận.
  14. Nỗ lực, chớ phóng dật,
    Ðấy lời ta giáo giới,
    Ta sẽ nhập Niết-bàn,
    Ta thoát mọi sanh y.

(CCXLV) Godatta (Thera. 67)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình lữ hành và đặt tên là Godatta. Sau khi cha chết, ngài sắp đặt nhà cửa, đem theo năm trăm cỗ xe hàng hóa, đi chỗ này chỗ khác, sống bằng nghề buôn bán. Một hôm, một con bò ngã qụy xuống đường, trong khi kéo xe, và các người làm công của ngài không thể đỡ con bò đứng dậy được, ngài tự đi đến đánh con bò rất nặng. Con bò tức giận vì sự tàn bạo của ngài nói lên giọng người: ‘Này Godatta, đã lâu ta đem tất cả sức lực ta kéo gánh nặng cho ông, nhưng nay ta không đủ sức kéo nên phải ngã quỵ xuống, ông đánh đập ta tàn nhẫn. Vậy chỗ nào ông tái sanh, ta cũng sẽ sanh làm kẻ thù của ông để làm hại ông!’. Ngài nghe vậy rất lấy làm xúc động, tự nghĩ: ‘Sao lại sống làm hại các loài hữu tình như vậy?’ Rồi ngài từ bỏ tất cả tài sản, xin xuất gia với một vị Trưởng lão, và sau một thời gian chứng quả A-la-hán.

Một hôm, khi ngài đang hưởng thọ sự an lạc giải thoát, ngài thuyết pháp cho chúng xuất gia và tại gia về các pháp thế gian:

  1. Như con bò giống tốt,
    Ðược huấn luyện tốt đẹp,
    Bị cột vào gánh nặng,
    Mang gánh nặng kéo đi,
    Bị áp đè quá nặng,
    Không lật đổ gánh nặng.
  2. Cũng vậy, ai nhiều tuệ,
    Như nước ở trong biển,
    Không khinh miệt người khác,
    Thánh pháp là như vậy,
    Ðối với các hữu tình.
  3. Sống trong vòng thời gian,
    Bị thời gian hàng phục,
    Hữu, phi hữu chi phối,
    Loài Người chịu đau khổ,
    Con cháu họ sầu ưu,
    Chính ngay trong đời này.
  4. Hân hoan, khi được lạc,
    Gặp khổ lại chán chường,
    Kẻ ngu bị não hại,
    Chi phối cả hai đường,
    Không thấy được như thật.
  5. Những ai giữa khổ lạc,
    Người dệt không chi phối,
    Ðứng vững như cột cửa,
    Không hân hoan chán chường
  6. Ðối với được hay mất,
    Với danh với không danh,
    Ðối với chê hay khen,
    Với khổ hay với lạc.
  7. Chúng tôi dính chỗ nào,
    Như giọt nước trên sen,
    Bậc anh hùng mọi chỗ,
    Ðược lạc, không bị bại.
  8. Người đúng pháp không được,
    Người được, không đúng pháp,
    Ðúng pháp nhưng không được,
    Hơn được không đúng pháp.
  9. Người có danh, ít trí
    Người có trí, không danh,
    Không danh nhưng có trí,
    Hơn ít trí, có danh.
  10. Ðược khen bởi kẻ ngu,
    Bị chê bởi kẻ trí,
    Ðược kẻ trí chê bai,
    Hơn được người ngu khen.
  11. Lạc do dục đem lại,
    Khổ do viễn ly sanh,
    Khổ do viễn ly sanh
    Hơn lạc do dục sanh.
  12. Làm phi pháp để sống,
    Làm đúng pháp, có chết,
    Làm đúng pháp, có chết,
    Hơn sống, làm phi pháp.
  13. Ai đoạn dục phẫn nộ,
    Tâm tịnh hữu, phi hữu
    Sống ở đời, không ái,
    Không thương yêu ghét bỏ.
  14. Sau khi tu Giác chi,
    Các căn và các lực,
    Ðạt tịch tịnh tối thắng,
    Chứng Niết-bàn vô lậu.

Chương XV

-ooOoo-

Phẩm Mười Lăm Kệ

(CCXLVI) Anna-Kondanna (Thera. 69)

Sanh trước Thế Tôn tại làng Donavatthu, không xa Kapilavatthu bao nhiêu, trong một gia đình Bà-la-môn rất giàu có, ngài được gọi với tên gia tộc là Kondanna. Lớn lên, ngài biết ba tập Vệ-đà và giỏi về đoán tướng. Khi bậc Bồ-tát mới sanh, ngài là một trong tám vị Bà-la-môn được mời đến đoán tướng. Dầu ngài mới học nghề, ngài thấy các tướng của bậc Ðại nhân trên đứa bé và nói, vị này sau sẽ thành Phật. Rồi ngài sống, chờ đợi vị Bồ-tát xuất gia. Khi vị Bồ-tát xuất gia, lúc hai mươi chín tuổi, Kondanna được nghe tin, liền xuất gia với bốn vị Bà-la-môn đoán tướng khác, như Vappa v.v… và trong sáu năm sống ở Uruvelà, gần vị Bồ-tát, khi vị Bồ-tát đang tu khổ hạnh. Lúc vị Bồ-tát không tu khổ hạnh nữa, các vị này chán chường bỏ đi đến Isipatana (chư Tiên đọa xứ). Rồi đức Phật đến Isipatana, thuyết kinh Chuyển Pháp Luân cho họ, và Kondanna cùng hàng vạn Phạm Thiên chúng chứng được Sơ quả. Ðến ngày thứ năm, nhờ bài kinh ‘Vô Ngã Tướng’, Kondanna chứng quả A-la-hán. Bậc Ðạo Sư trong buổi họp Tăng chúng ở tinh xá Kỳ Viên, đã xác chứng ngài là bậc Ðệ nhất trong các hàng Tăng chúng Tỷ-kheo (Xem. Ang. i. 26). Và trong một trường hợp khi Kondanna giảng về Bốn sự thật, đề cập đến ba tướng: Vô thường, Khổ, Vô ngã, với những phương pháp sai biệt, dựa trên Niết-bàn và giảng với sự lưu loát của đức Phật. Bài giảng ảnh hưởng mạnh mẽ đến Sakka (Ðế Thích) khiến vị này thốt lên những bài kệ:

  1. Ta bội phần hân hoan,
    Ðược nghe pháp vị lớn,
    Pháp được giảng ly tham,
    Hoàn toàn không chấp thủ.

Trong một trường hợp khác, thấy tâm tư của một số người còn bị chi phối nặng nề bởi tà kiến, nên ngài nói lên bài kệ như sau:

  1. Trên thế giới đất tròn,
    Nhiều màu sắc hình tướng,
    Làm say đắm tâm tư,
    Ta nghĩ là như vậy,
    Tướng tịnh rất hấp dẫn,
    Liên hệ đến tham dục.
  2. Như gió thổi tung bụi,
    Ðược mây trấn áp xuống,
    Các tư duy lắng dịu,
    Khi thấy, với trí tuệ.
  3. Mọi hành là vô thường
    Khi thấy với trí tuệ,
    Vị ấy nhàm chán khổ,
    Ðây con đường đến tịnh.
  4. Mọi hành là đau khổ,
    Khi thấy với trí tuệ,
    Vị ấy nhàm chán khổ,
    Ðây con đường đến tịnh.
  5. Mọi pháp là vô ngã,
    Khi thấy với trí tuệ,
    Vị ấy nhàm chán khổ,
    Ðây con đường đến tịnh.

Rồi ngài nêu rõ, ngài đã chứng được thiền quán ấy, và nói lên chánh trí, ngài nói rằng:

  1. Trưởng lão Kondanna,
    Giác ngộ bởi giác ngộ,
    Ðã sắc bén thoát ly,
    Ðoạn tận sanh và chết,
    Và đời sống Phạm hạnh,
    Ðược hoàn toàn viên mãn.
  2. Hoặc bộc lưu, bẫy mồi,
    Hoặc cột trụ vững chắc,
    Ngọn núi khó phá hoại,
    Sau khi chặt phá xong,
    Cột trụ và bẫy mồi,
    Chặt tảng đá khó phá,
    Hành thiền, vượt bờ kia,
    Thoát khỏi Ma trói buộc.
  3. Tỷ-kheo hoảng hốt động,
    Ði đến các bạn ác,
    Chìm trong bộc lưu lớn,
    Bị sóng lớn ngập tràn.
  4. Bậc trí không hoảng hốt,
    Không dao động, thận trọng,
    Các căn khéo chế ngự,
    Làm bạn với kẻ thiện,
    Bậc trí tuệ như vậy,
    Có thể đoạn đau khổ.
  5. Một người đen, gầy mòn,
    Yếu ốm, đầy đường gân,
    Tiết độ trong ăn uống,
    Tâm tư không ưa não.
  6. Trong rừng núi rộng lớn,
    Bị muỗi ruồi đốt cắn,
    Như con voi lâm trận,
    Ta chánh niệm, chịu đựng.
  7. Ta không thích thú chết,
    Ta không thích thú sống,
    Ta chờ thời gian đến,
    Như thợ làm việc xong.
  8. Ta không thích thú chết,
    Ta không thích thú sống,
    Ta chờ thời gian đến,
    Tỉnh giác, giữ chánh niệm.
  9. Ðạo Sư, ta hầu hạ,
    Lời Phật dạy, làm xong,
    Gánh nặng, đặt xuống thấp,
    Gốc sanh hữu, nhổ sạch.
  10. Vì mục đích xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Mục đích ấy, ta đạt,
    Ta cần gì ở rừng.

(CCXLVII) Udàyin (Thera. 69)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Kapilavatthu, trong một gia đình Bà-la-môn. Ngài thấy được uy lực của đức Phật khi đức Phật thăm gia đình ngài. Ngài khởi lòng tin, xuất gia và sau một thời gian, ngài thành bậc A-la-hán. Nay có đến ba vị Trưởng lão Udàyin: con một Bộ trưởng, tên là Kàludàyin (xem CCXXXIII), vị Bà-la-môn này và Ðại Udàyin. Khi kinh Ví dụ con voi được thuyết giảng, trong kinh này, con voi Sela của vua Pasenadi được tán thán, ngài Udàyin này cảm thấy phấn khởi khi nghĩ đến đức Phật, nghĩ rằng các người này chỉ tán thán một con vật, còn ta sẽ tán thán các đức tánh tốt đẹp của một con voi tuyệt diệu, tức là đức Phật. Rồi Ngài nói lên những bài kệ như sau:

  1. Ðức Phật, sanh làm người,
    Tự điều phục thiền định,
    Uy nghi Phạm thiên đạo,
    Hoan hỷ trong tâm tịnh.
  2. Loài người đảnh lễ Ngài,
    Bậc đạt được bờ kia,
    Ðối với hết thảy pháp,
    Chư Thiên đảnh lễ Ngài,
    Như vậy ta được nghe,
    Ta là A-la-hán.
  3. Vượt qua mọi kiết sử,
    Từ rừng đến Niết-bàn,
    Vui thoát ly các dục,
    Như vàng thoát khoáng sản.
  4. Vị ấy thật như voi,
    Tuyệt luân đẹp rực rỡ
    Ðứng trên đỉnh núi cao
    Dãy trường sơn Hi-mã,
    Trong mọi danh Nàga,
    Ngài chân danh Vô thượng.
  5. Rồi ta sẽ tán thán,
    Nàga này cho người,
    Nàga không làm ác,
    Nên được gọi Nàga,
    Từ tốn, không làm hại,
    Là hai chân Nàga.
  6. Chánh niệm và tỉnh giác,
    Hai chân khác Nàga,
    Voi Nàga là tín,
    Ngà màu trắng là xả
  7. Chánh niệm là cổ họng,
    Trí tuệ chỉ cho đầu,
    Suy tầm với cái vòi,
    Chỉ cho tư duy pháp.
    Hòa trú là bụng pháp,
    Viễn ly ví đuôi voi.
  8. Tu thiền, thở vô lạc,
    Nội tâm, khéo định tỉnh,
    Nàga đi, định tỉnh,
    Nàga đứng, định tỉnh.
  9. Nàga nằm, định tỉnh,
    Nàga ngồi, định tỉnh,
    Trong tất cả tình huống,
    Nàga sống chế ngự
    Ðây thành tích Nàga.
  10. Ăn đồ ăn không tội,
    Ðồ có tội không ăn;
    Ðược đồ ăn, y phục,
    Từ bỏ, không tích trữ.
  11. Kiết sử tế hay thô,
    Chặt đứt mọi trói buộc,
    Chỗ nào vị ấy đi,
    Bước đi, không kỳ vọng.
  12. Như sen sanh trong nước,
    Lớn lên được tăng trưởng,
    Không có dính nước ướt,
    Thơm ngát, rất khả ái.
  13. Cũng vậy bậc Chánh Giác,
    Sanh và trú ở đời,
    Không có dính sự đời,
    Như sen không dính nước.
  14. Như đống lửa cháy đỏ,
    Không củi tự tắt dần,
    Trong than tro lắng dịu,
    Ðược gọi lửa diệt tận.
  15. Ví dụ, bậc trí thuyết,
    Ðể nêu rõ ý nghĩa,
    Ðại Nàga sẽ hiểu,
    Những gì về Nàga,
    Do Nàga ấy giảng.
  16. Vô tham và vô sân,
    Vô si, không lậu hoặc,
    Nàga từ bỏ thân,
    Sẽ diệt độ Niết-bàn,
    Không còn có lậu hoặc.

Chương XVI

-ooOoo-

Phẩm Hai Mươi Kệ

(CCXLVIII) Adhimutta (Thera. 71)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh là con người chị của Trưởng lão Sankicca. Ngài xuất gia dưới sự hướng dẫn của cậu ngài, và khi còn là Sa-di, đã chứng quả A-la-hán. Sống hưởng an lạc giải thoát, ngài muốn thọ Ðại giới và đi về nhà để xin phép bà mẹ. Khi ngài đi, ngài bị các kẻ cướp bắt ngài và muốn dâng ngài để tế thần. Các tên cướp tấn công ngài nhưng ngài đứng, không khuất phục. Tên tướng cướp lấy làm ngạc nhiên, tán thán ngài và nói:

  1. Vì mục đích tế đàn,
    Hoặc vì đích tài sản,
    Những người chúng tôi giết,
    Từ trước cho đến nay,
    Không ai không sợ hãi,
    Họ run sợ, rên xiết.
  2. Nhưng ngài không khiếp sợ,
    Dung sắc càng hòa duyệt,
    Vì sao ngài không than,
    Trong đại nạn như vậy.

Adhimutta trả lời:

  1. Chủ cướp! Tâm không khổ,
    Với người không kỳ vọng,
    Mọi sợ hãi vượt qua,
    Với người kiết sử đoạn.
  2. Nhờ đoạn nhân sanh hữu,
    Pháp được thấy như thật,
    Ðối chết, không sợ hãi,
    Nhờ gánh nặng đặt xuống.
  3. Phạm hạnh ta khéo hành,
    Con đường khéo tu tập,
    Ta không có sợ chết,
    Khi bệnh hoạn được diệt.
  4. Phạm hạnh ta khéo hành,
    Con đường khéo tu tập,
    Hũu được thấy không ngọt,
    Như bỏ độc dược uống.
  5. Bờ kia đến, không thủ,
    Việc làm xong, vô lậu,
    Bằng lòng, thọ mạng diệt,
    Như thoát lò sát sinh.
  6. Pháp tánh đạt, tối thượng,
    Ở đời, tuyệt sở hữu.
    Như thoát ngôi nhà cháy,
    Trong chết không sầu muộn.
  7. Phàm có vật tụ họp,
    Ðược sanh hữu chỗ nào,
    Tuyệt đường mọi xuất ly,
    Ðại ẩn sĩ nói vậy.
  8. Ai hiểu rõ như vậy,
    Như đức Phật đã thuyết,
    Không còn nắm sanh hữu,
    Như hòn sắt cháy đỏ.
  9. Quá khứ ta không có,
    Tương lai, hiện tại không,
    Các hành không thực hữu,
    Ở đây, than khóc gì?
  10. Thanh tịnh pháp sanh khởi,
    Thanh tịnh hành tiếp tục,
    Bậc thấy được như thật,
    Không sợ hãi, thưa ngài.
  11. Với tuệ, thấy thế giới,
    Giống như cỏ, thân cây,
    Không có tánh ngã sở,
    Không sầu muộn, không ngã.
  12. Ta nhàm chán thân sắc,
    Không ham có sanh hữu,
    Khi thân này hoại diệt,
    Sẽ không có thân khác.
  13. Với thân ta, ngươi làm,
    Hãy làm như ý muốn,
    Ta không vì duyên ấy,
    Sẽ khởi lên sân, ái.
  14. Kẻ ấy nghe nói vậy,
    Hy hữu, lông dựng ngược,
    Quăng bỏ cả đao kiếm,
    Thanh niên nói với ta.
  15. Tôn giả hành hạnh gì,
    Ai Ðạo Sư Tôn giả,
    Ngài theo lời ai dạy,
    Ðược tánh không sầu não?

Adhimutta:

  1. Bậc toàn trí, toàn kiến,
    Thắng giả, giáo sư ta,
    Ðại từ bi Ðạo Sư,
    Y vương toàn thế giới.
  2. Pháp này vị ấy giảng,
    Ðưa đến đạt vô thượng,
    Theo lời dạy vị ấy,
    Ðược tánh không sầu não.
  3. Kẻ cướp nghe đại sĩ,
    Khéo thuyết giảng như vậy,
    Chúng liền quăng vất bỏ,
    Ðao gươm và vũ khí,
    Một số bỏ nghề chúng,
    Một số xin xuất gia.
  4. Sau khi chúng xuất gia,
    Trong giáo pháp Thiện Thệ,
    Họ tu tập Giác Chi,
    Năm lực, thành bậc trí.
    Tâm hân hoan, ý mãn,
    Các căn cảm xúc được,
    Niết-bàn đạo, vô vi.

(CCXLIX) Pàràpariya (Thera. 72)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Sàvatthi, làm một con Bà-la-môn nổi tiếng, và khi lớn lên ngài được gọi theo tên gia tộc Pàrapara là Pàràpariya. Ðược khéo giáo dục về văn hệ Bà-la-môn, một hôm ngài đi đến tịnh xá Jetavana trong khi Thế Tôn đang thuyết pháp, và đến ngồi nghe, gần phía bên ngoài hội chúng. Bậc Ðạo Sư, nhận xét tâm tánh ngài, dạy kinh ‘Căn tu tập Indriyabhàvanà’, nghe xong, ngài khởi lòng tin, xin xuất gia. Sau khi học kinh này thuộc lòng, ngài suy tư trên ý nghĩa, nghĩ rằng: ‘Trong những bài kệ, ý nghĩa được xuất hiện như thế này, thế này’. Sau khi suy tư về vấn đề các căn cảm thọ, ngài phát triển thiền quán và sau một thời gian, ngài chứng quả A-la-hán. Về sau, ngài nói lên thiền định của ngài với những bài kệ như sau:

  1. Khi Tỷ-kheo tên là,
    Pàràpariya,
    Ngồi độc cư một mình,
    Viễn ly, tu thiền định,
    Những tâm tư như sau,
    Ðược khởi lên nơi ngài:
  2. Có gì là thứ lớp,
    Là giới cấm, động tác?
    Con người làm phận mình,
    Không làm hại một ai?
  3. Các căn của loài Người,
    Làm lợi ích, làm hại,
    Không hộ trì, làm hại,
    Có hộ trì, làm lợi.
  4. Người chế ngự các căn,
    Nguời phòng hộ các căn,
    Người làm bổn phận mình,
    Không làm hại một ai.
  5. Con mắt đi đến sắc,
    Không chế ngự ngăn chận,
    Không thấy các nguy hiểm,
    Vị ấy không thoát khổ.
  6. Lỗ tai đi đến tiếng,
    Không chế ngự ngăn chặn,
    Không thấy sự nguy hiểm,
    Vị ấy không thoát khổ.
    732. Không thấy sự xuất ly,
    Thọ hưởng các mùi hương,
    Vị ấy không thoát khổ,
    Vì tham đắm các hương.
  7. Nhớ chua ngọt tối thượng,
    Nhớ vị đắng tối thượng,
    Bị ái vị nô lệ,
    Tâm không thể giác tỉnh.
  8. Tưởng nhớ các cảm xúc,
    Ðẹp đẽ và khoái cảm,
    Ðam mê, duyên tham ái,
    Gặp nhiều loại đau khổ.
  9. Ý đối các pháp này
    Tất cả là năm pháp,
    Không có thể phòng hộ,
    Khổ đi theo vị ấy.
  10. Phần lớn các thân xác,
    Ðầy tràn mủ và máu,
    Do người thù thắng làm,
    Thành hộp đẹp tô màu.
  11. Cay đắng như vị ngọt,
    Khổ do khả ái buộc,
    Như dao bén dính mật,
    Kẻ tham đâu có biết.
  12. Ai tham đắm nữ sắc,
    Nữ vị, nữ xúc chạm,
    Ai mê say nữ hương,
    Gặp nhiều loại đau khổ.
  13. Mọi dòng từ nữ nhân,
    Năm loại tràn năm xứ,
    Người có tinh tấn lực,
    Có thể ngăn chận chúng.
  14. Người có đích, trú pháp,
    Người thiện xảo, sáng suốt,
    Hoan hỷ làm nghĩa vụ,
    Liên hệ đến pháp, nghĩa.
  15. Chìm trong việc lợi tạm,
    Hãy bỏ việc không lợi,
    Nếu nó nghĩ việc ấy,
    Không phải việc nên làm,
    Vị ấy không phóng dật,
    Sáng suốt thấy rõ vậy.
  16. Nếu là việc làm tốt,
    Hân hoan hành đúng pháp,
    Hãy nắm việc làm ngay,
    Ðấy thật lạc tối thượng.
  17. Với phương tiện cao thấp,
    Lừa dối các người khác,
    Ðánh giết, làm sầu khổ,
    Hung bạo, áp đảo người.
  18. Như người mạnh đẽo gỗ,
    Dùng nêm đánh bật nêm,
    Cũng vậy là kẻ thiện,
    Dùng căn đánh bật căn.
  19. Tu tập tín, tấn, định,
    Huấn luyện niệm, trí tuệ,
    Dùng năm đánh đổ năm,
    Không tỳ vết bước tới.
  20. Là vị Bà-la-môn,
    Người có đích, trú pháp,
    Làm theo giáo huấn Phật,
    Làm toàn diện, toàn lực,
    Người ấy hưởng an lạc.

(CCL) Kelakàni (Thera. 298)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trước đức Phật ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn và đặt tên là Kelakàni. Quá kinh nghiệm về những vấn đề quá khứ, ngài chán nản dục vọng và xuất gia làm người du sĩ ngoại đạo.Tìm sự giải thoát tinh thần, ngài giao du nhiều chỗ, nghĩ rằng ai ở đời này đã đến được bờ bên kia. Ngài hỏi rất nhiều Sa-môn và Bà-la-môn nhưng không được trả lời thỏa đáng. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đã ra đời, đang chuyển Pháp Luân, đem lại hạnh phúc cho chúng sanh. Một hôm, Kelakàni nghe đức Phật thuyết pháp, khởi lòng tin, được xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Một hôm, ngồi với các Tỷ-kheo, nhớ đến sự khó nhọc tìm đạo và chứng đạo của mình, ngài tuyên bố với chúng Tỷ-kheo như sau:

  1. Lâu ngày, đầy nhiệt tình,
    Ta suy tư Chánh pháp,
    Hỏi Sa-môn, Phạm chí,
    Nhưng tâm không an tịnh.
  2. Ở đời, ai đã đến,
    Ðến được bờ bên kia,
    Ai đã chứng đạt được,
    Lặn sâu vào bất tử,
    Pháp ai ta chấp nhận,
    Pháp thông đệ nhất nghĩa.
  3. Mắc lưỡi câu bên trong,
    Như cá ăn mồi tục,
    Ta bị bắt, bị trói,
    Chẳng khác A-tu-la,
    Tên Vê-pa-xi-li,
    Bị lưới Ðế Thích trói.
  4. Ta kéo lê xiềng xích,
    Không sao thoát sầu bi,
    Ai cởi trói cho ta,
    Giúp ta chứng Chánh giác.
  5. Sa-môn, Phạm chí nào,
    Nói cách hủy hoại chúng,
    Pháp ai ta chấp nhận,
    Giúp từ bỏ già chết,
  6. Bị nghi hoặc trói buộc,
    Bị hăng say chi phối,
    Khiến tánh tình phẫn nộ,
    Khiến tâm tư cứng rắn,
    Bị xâu xé cắt đứt,
    Bởi lòng tham mạnh mẽ.
  7. Bị cung ái bắn trúng,
    Ba mươi kiến trói buộc,
    Xem sức mạnh ngực ta,
    Bị áp đè, vẫn vững,
  8. Các tùy kiến không đoạn,
    Các tư niệm dao động,
    Bị chúng đâm, ta run,
    Như lá bị gió thổi,
  9. Khởi lên từ nội tâm,
    Ðốt cháy nhanh ngã sở,
    Thân với sáu xúc xứ,
    Ngã hữu từ đấy sanh.
  10. Ta không thấy lương y,
    Rút mũi tên cho ta,
    Dùng cách khác dò tìm,
    Không dùng dao thăm dò.
  11. Có vị lương y nào,
    Không dao, không vết thương,
    Không hại đến tay chân,
    Rút mũi tên cho ta,
    Mũi tên đã đâm vào,
    Trong nội tâm của ta,
  12. Bậc Pháp chủ tối tôn,
    Loại trừ thuốc độc hại,
    Khi ta rơi vực sâu,
    Ðưa tay giúp đỡ ta,
    Tới đất liền an toàn.
  13. Ta lặn sâu trong hồ,
    Ðầy bụi bùn không thoát,
    Ðầy man trá, tật đố,
    Căng thẳng và hôn ám.
  14. Sấm trạo cử nổ vang,
    Mây kiết sử bao phủ,
    Thác nước tà tư duy,
    Liên hệ đến tham dục,
    Chúng lôi cuốn trôi ta,
    Vào đại dương tà kiến.
  15. Khắp nơi, dòng suối chảy,
    Cây leo đứng, đâm chồi,
    Ai chận đứng dòng ấy?
    Ai chặt đứt cây leo?
  16. Tôn giả hãy làm đê,
    Ngăn chận những dòng suối,
    Chớ có để dòng nước,
    Do ý sanh cuốn ngài,
    Như dòng nước cuốn gấp,
    Trôi cây chảy theo dòng.
  17. Cũng vậy ta sợ hãi,
    Bờ này tìm bờ kia,
    Khi ấy bậc Ðạo Sư,
    Có Thánh chúng hầu hạ,
    Với binh khí trí tuệ,
    Chờ y chỉ cho người.
  18. Ðưa ta, đang chìm đắm,
    Chiếc cầu thang, khéo làm,
    Phật thanh tịnh, vững chắc,
    Làm bằng lõi Chánh pháp,
    Rồi ngài nói với ta,
    Chớ có sợ hãi gì!.
  19. Leo lên lầu niệm xứ,
    Từ đấy ta quán sát,
    Loài Người ưa thân kiến,
    Trước đây, ta tự hào.
  20. Khi ta thấy con đường,
    Con thuyền cần leo lên,
    Ta không trú tự ngã,
    Vì thấy bến tối thượng.
  21. Mũi tên khởi tự ngã,
    Sanh do nhân sanh hữu
    Ngài dạy đường tối thượng,
    Chấm dứt các pháp ấy.
  22. Cột gút đã lâu ngày,
    ẩn nằm, trú trong da,
    Ðức Phật cởi, quăng đi,
    Loại bỏ mọi độc hại.

(CCLI) Ratthapàla (Thera. 75)

Trong thời Ðức Phật hiện tại, ngài sanh ra ở nước Kuru, trong thành phố Thullakotthita, con của một hội viên hội đồng thành phố tên Ratthapàla và được gọi theo tên gia tộc, ngài được sống trong nhung lụa, lớn lên được gả vợ và sống như một thiên thần. Khi đức Phật đến thuyết pháp ở Thullakotthila, Ratthapàla đến nghe giảng, khởi lòng tin, xin cha mẹ được xuất gia rất khó khăn. Ði đến bậc Ðạo Sư, ngài được thọ giới với một Tỷ-kheo theo lời giới thiệu của đức Phật, tu học rất tinh tấn, phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Rồi ngài được phép về thăm cha mẹ, đi đến Thullakotthita và đi khất thực từng nhà. Ðến nhà cha mẹ, ngài nhận được cơm chua đã lâu ngày nhưng ngài vẫn ăn như là đồ ăn bất tử. Ngày sau, theo lời mời của người cha, ngài đến thăm nhà và các người vợ trước của ngài, ăn mặc rất đẹp đẽ, hỏi ngài, vì những thiên nữ nào, ngài đã xuất gia. Ngài thuyết pháp cho họ về vô thường v.v… từ khước những hành vi cám dỗ của họ:

  1. Hãy xem bóng trang sức,
    Nhóm vết thương tích tụ,
    Bệnh hoạn, nhiều tham tưởng,
    Nhưng không gì trường cửu.
  2. Hãy nhìn sắc trang sức,
    Với châu báu, vòng tai,
    Bộ xương, da bảo phủ,
    Sáng chói nhờ y phục.
  3. Chân sơn với son, sáp,
    Mặt thoa với phấn bột,
    Chỉ mê hoặc kẻ ngu,
    Không mẹ bậc cầu giác.
  4. Tóc được uốn tám vòng,
    Mắt xoa với thuốc son,
    Chỉ mê hoặc kẻ ngu,
    Không mê bậc cầu giác.
  5. Như hộp thuốc mới sơn,
    Uế thân được trang điểm,
    Chỉ mê hoặc kẻ ngu,
    Không mẹ bậc cầu giác.
  6. Thợ săn bày lưới sập,
    Nai khôn không chạm lưới,
    Ăn mồi xong, ta đi,
    Mặc kẻ bắt nai khóc.
  7. Bẫy thợ săn bị cắt,
    Nai khôn không chạm lưới,
    Ăn mồi xong, ta đi,
    Mặc kẻ săn nai sầu.

Rồi Ratthapàla đi ngang qua hư không đến vườn nai của vua Koravya và ngồi trên một phiến đá. Người cha của ngài cho đóng chốt then cài cả bảy cái cửa, và cắt người giữ ngài không cho đi, lại lấy chiếc y vàng của ngài và choàng vào ngài y trắng của người cư sĩ. Do vậy ngài phải đi ngang qua hư không. Rồi vua Koravya, nghe ngài đã đến vườn nai, liền chào ngài và hỏi: ‘Thưa Tôn giả, ở đời người ta xuất gia vì một vài tai họa, như bệnh hoạn, như tai họa từ nhà vua, về tài sản, về gia đình. Ngài không có một tai họa gì, sao ngài lại xuất gia?’. Vị trưởng lão trả lời: ‘Thế giới là vô thường, không có gì trường cửu. Thế giới không có nơi nương tựa, thiếu thốn, không có thỏa mãn, làm nô lệ cho khát ái’. Rồi ngài nói lên những bài kệ như sau:

  1. Ta thấy người đời giàu,
    Ðược tiền, si không cho,
    Vì tham, cất chứa tiền,
    Chạy theo dục càng nhiều.
  2. Vua dùng lực chiếm đất,
    Chiếm ở đến bờ biên,
    Biên bên này chưa thỏa,
    Còn muốn biên bờ kia.
  3. Vua và rất nhiều người,
    Ai chưa chết, đã chết,
    Tái sanh, bị thiếu thốn,
    Chúng từ bỏ thân này,
    Nhưng ở đời lòng dục,
    Không bao giờ thỏa mãn.
  4. Bà con than khóc nó,
    Tóc xõa, rối tơ vò,
    Chúng nói: Ôi chúng ta,
    Không có được bất tử,
    Thân trùm vải, chúng mang,
    Dựng giàn hỏa, chúng thiêu.
  5. Bị cây đâm, cây thọc,
    Nó bị thiêu bị cháy,
    Chỉ với một tấm vải,
    Từ bỏ mọi tài sản,
    Kẻ chết không nương tựa,
    Bà con, bạn láng giềng.
  6. Kẻ thừa tự mang đi,
    Tài sản gia nghiệp nó.
    Riêng con người phải đi,
    Theo chỗ, nghiệp nó tạo,
    Tài sản không có đi,
    Ði theo người đã chết,
    Không con trai, không vợ,
    Không tài sản, quốc độ.
  7. Tài sản không làm sao,
    Mua được tuổi trường thọ;
    Phú quý nào có thể,
    Tránh khỏi được già suy.
    Bậc có trí nói rằng:
    Mạng sống này ít ỏi,
    Thật sự là vô thường,
    Luôn luôn bị biến hoại.
  8. Giàu, nghèo đều cảm xúc,
    Ngu, trí đồng cảm thọ,
    Kẻ ngu bị ngu đánh,
    Ngã quỵ, nằm dài xuống.
    Còn bậc trí không sợ,
    Ðối với mọi cảm xúc.
  9. Do vậy tuệ thắng tài,
    Nhờ tuệ đạt viên mãn,
    Chưa đạt được cứu cánh,
    Ðối với hữu, phi hữu,
    Kẻ ngu làm các nghiệp,
    Ác độc và bất thiện.
  10. Nhập thai, sanh đời khác,
    Luân hồi, tiếp tục sanh,
    Kẻ ít trí, tin tưởng,
    Nhập thai, sanh đời khác.
  11. Như kẻ trộm bị bắt,
    Quả tang, khi ăn trộm,
    Do nghiệp tự chính nó,
    Bị hại theo ác tội,
    Cũng vậy sau khi chết,
    Quần chúng trong đời sau,
    Do nghiệp tự chính nó,
    Bị hại theo ác tội.
  12. Các dục thật đẹp đẽ,
    Vị ngọt và khả ái,
    Chúng làm tâm đắm say,
    Với sắc và phi sắc,
    Do thấy sự nguy hiểm,
    Trong các dục công đức,
    Do vậy tôi xuất gia,
    Như vậy thưa Ðại vương,
  13. Như trái cây rụng xuống,
    Cũng vậy tuổi thanh niên,
    Lớn lên và già yếu,
    Rồi thân hoại mạng chung,
    Thấy vậy tôi xuất gia,
    Như vậy thưa Ðại vương,
    Ðời sống Sa-môn hạnh,
    Chơn thật, tốt đẹp hơn.
  14. Tín tâm tôi xuất gia,
    Vào giáo hội bậc thánh,
    Tôi xuất gia không tội,
    Không nợ, tôi thọ thực.
  15. Thấy dục như lửa hừng,
    Thấy vàng như dao đâm,
    Xem nhập thai là khổ,
    Họa lớn trong địa ngục.
  16. Thấy nguy hiểm như vậy,
    Ta cảm thấy hoảng sợ,
    Khi bị đâm, bị thương,
    Ta đạt được tịch tịnh,
    Và ta tận diệt được,
    Cả ba loại lậu hoặc.
  17. Ðạo Sư, ta hầu hạ,
    Lời Phật dạy, làm xong,
    Gánh nặng, đặt xuống thấp,
    Gốc sanh hữu, nhổ sạch.
  18. Vì đích gì xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Mục đích ấy ta đạt,
    Mọi kiết sử tận diệt.

(CCLII) Màlunkyaputta (Thera. 77).

Ðời sống của ngài được ghi trong chương VI (CCXIV) khi bậc Trưởng lão đã chứng quả A-la-hán, nói lên bài kệ để dạy cho các bà con về con đường. Nhưng trong những bài kệ này, bậc Trưởng lão chưa chứng quả A-la-hán, hỏi Thế Tôn về giáo lý vắn tắt, và được Thế Tôn trả lời:

– Này Màlunkyaputta, Ông nghĩ thế nào? Những pháp mà Ông chưa bao giờ thấy nghe, ngửi, nếm, cảm xúc, và nhận thức, hiện tại Ông không có lãnh thọ và đối với chúng, Ông cũng không muốn có cảm thọ và suy tưởng, vậy Ông có ước muốn, tha thiết được chúng hay không?’.

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Ở đây, này Màlunkyaputta, khi Ông không có cảm thọ, cảm tưởng chúng,Ông chỉ có thọ và tưởng thuần túy. Nếu là như vậy, thời Ông không có tham, sân, si. Do vậy, ở đây hay tại chỗ nào, hay đời sau chính như vậy, như vậy là sự chấm dứt đau khổ. Rồi Màlunkyaputta, nêu rõ ngài đã thâu nhận giáo lý được giảng dạy này, ngài nói lên trong những bài kệ như sau:

  1. Thấy sắc, niệm say mê,
    Nếu tác ý ái tưởng,
    Tâm tham đắm cảm thọ,
    Tâm nhập và an trú.
  2. Thọ người ấy tăng trưởng,
    Nhiều loại, do sắc sanh,
    Tham, hại tâm lớn mạnh,
    Chúng gia hại tâm nó,
    Khổ chất chứa như vậy,
    Rất xa vời Niết-bàn.
  3. Nghe tiếng, niệm say mê,
    Nếu tác ý ái tưởng,
    Tâm tham đắm cảm thọ,
    Xâm nhập và an trú.
  4. Thọ người ấy tăng trưởng,
    Nhiều loại, do tiếng sanh,
    Tham, hại tâm lớn mạnh,
    Chúng gia hại tâm nó,
    Khổ chất chứa như vậy,
    Rất xa vời Niết-bàn.
  5. Ngửi hương, niệm say mê,
    Nếu tác ý ái tưởng,
    Tâm tham đắm cảm thọ,
    Xâm nhập và an trú.
  6. Thọ người ấy tăng trưởng,
    Nhiều loại do hương sanh,
    Tham, hại tâm lớn mạnh,
    Chúng gia hại tâm nó.
    Khổ chất chứa như vậy,
    Rất xa vời Niết-bàn.
  7. Nếm vị, niệm say mê,
    Nếu tác ý ái tưởng,
    Tâm tham đắm cảm thọ,
    Xâm nhập và an trú.
  8. Thọ người ấy tăng trưởng,
    Nhiều loại do vị sanh,
    Tham, hại tâm lớn mạnh,
    Chúng gia hại tâm nó,
    Khổ chất chứa như vậy,
    Rất xa vời Niết-bàn.
  9. Cảm xúc, niệm say mê,
    Nếu tác ý ái tưởng,
    Tâm tham đắm cảm thọ,
    Xâm nhập và an trú.
  10. Thọ người ấy tăng trưởng,
    Nhiều loại, do xúc sanh,
    Tham, hại tâm lớn mạnh,
    Chúng gia hại tâm nó,
    Khổ chất chứa như vậy,
    Rất xa vời Niết-bàn.
  11. Biết pháp, niệm say mê,
    Nếu tác ý ái tưởng,
    Tâm tham đắm cảm thọ,
    Xâm nhập và an trú.
  12. Thọ người ấy tăng trưởng,
    Nhiều loại do ý sanh,
    Tham, hại tâm lớn mạnh,
    Chúng gia hại tâm nó,
    Khổ chất chứa như vậy,
    Rất xa vời Niết-bàn.
  13. Không tham nhiễm các sắc,
    Thấy sắc, giữ chánh niệm,
    Tâm không tham cảm thọ,
    Không xâm nhập, an trú.
  14. Thấy sắc như thế nào,
    Như vậy có cảm thọ,
    Từ bỏ không tích lũy,
    Chánh niệm, hành trì vậy.
  15. Như vậy, không chứa khổ,
    Ðược gọi gần Niết-bàn,
    Không tham nhiễm các tiếng,
    Nghe tiếng, giữ chánh niệm,
    Tâm không tham cảm thọ,
    Không xâm nhập an trú.
  16. Nghe tiếng như thế nào,
    Như vậy có cảm thọ,
    Từ bỏ không tích lũy,
    Chánh niệm, hành trì vậy.
    Như vậy không chứa khổ,
    Ðược gọi gần Niết-bàn.
  17. Không tham nhiễm các hương,
    Ngửi hương, giữ chánh niệm,
    Tâm không tham cảm thọ,
    Không xâm nhập an trú.
  18. Ngửi hương như thế nào,
    Như vậy, có cảm thọ,
    Từ bỏ, không tích lũy,
    Chánh niệm, hành trì vậy,
    Như vậy, không chứa khổ,
    Ðược gọi, gần Niết-bàn.
  19. Không tham nhiễm các vị,
    Nếm vị, giữ chánh niệm,
    Tâm không tham cảm thọ,
    Không xâm nhập, an trú.
  20. Nếm vị như thế nào,
    Như vậy, có cảm thọ,
    Từ bỏ, không tích lũy,
    Chánh niệm, hành trì vậy.
    Như vậy không chứa khổ,
    Ðược gọi, gần Niết-bàn.
  21. Không tham nhiễm các xúc,
    Cảm xúc giữ chánh niệm,
    Tâm không tham cảm thọ,
    Không xâm nhập, an trú.
  22. Cảm xúc như thế nào,
    Như vậy, có cảm thọ,
    Từ bỏ, không tích lũy,
    Chánh niệm, hành trì vậy.
    Như vậy không chứa khổ,
    Ðược gọi, gần Niết-bàn.
  23. Không tham nhiễm các pháp,
    Biết pháp, giữ chánh niệm,
    Tâm không tham cảm thọ,
    Không xâm nhập, an trú.
  24. Cảm xúc như thế nào,
    Như vậy, có cảm thọ,
    Từ bỏ, không tích lũy,
    Chánh niệm, hành trì vậy.
    Như vậy, không chứa khổ,
    Ðược gọi, gần Niết-bàn.

Rồi vị Trưởng lão đứng dậy, đảnh lễ bậc Ðạo Sư, rồi ra đi không bao lâu sau đó, phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán.

(CCLIII) Sela (Thera. 78)

Ðược sanh trong thời đức Phật hiện tại ở Anguttaràpa, trong một gia đình Bà-la-môn, tại một làng Bà-la-môn ở Apana, ngài được đặt tên là Sela. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài sống ở đấy, rất giỏi về ba tập Vệ-đà và về nghệ thuật Bà-la-môn, dạy các Mantrà (thần chú) cho ba trăm thanh niên Bà-la-môn. Trong khi ấy Thế Tôn rời bỏ Sàvatthi, đang du hành ở Anguttaràpa với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỷ-kheo. Biết được tám tánh thuần thục của Sela và các đệ tử của ngài, đức Phật dừng lại tại một khu rừng. Rồi ẩn sĩ Keniya, sau khi mời bậc Ðạo Sư với chúng Tỷ-kheo dùng cơm vào ngày sau, đang sửa soạn rất nhiều món đồ ăn. Rồi Sela với ba trăm đệ tử đến thăm am thất và hỏi có phải Keniya đang sửa soạn để đón mừng vị Ðại thần của vua. Khi Keniya trả lời là sửa soạn thức ăn để mời đức Phật, Sela cảm thấy hết sức xúc cảm với chữ đức Phật, đi đến gặp ngay đức Phật với các thanh niên đệ tử của mình. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm, ngài chiêm ngưỡng các tướng tốt đức Phật và nghĩ rằng: ‘Một vị có những tướng tốt như vậy, một là sẽ thành vị Chuyển luân Thánh vương, hai là sẽ thành Phật’. Một vị Phật khi nghe tán thán về mình sẽ lộ rõ chân tướng Phật của mình. Còn nếu chưa thành Phật, khi nghe tán thán về đức Phật sẽ cảm thấy khó chịu và bất mãn. Ngài quyết định nói lên lời tán thán đức Phật như sau:

  1. Thân trọn đủ, chói sáng,
    Khéo sanh và đẹp đẽ,
    Thế Tôn sắc vàng chói,
    Răng trơn láng, tinh cần.
  2. Ðối với người khéo sanh,
    Những tướng tốt trang trọng,
    Ðều có trên thân Ngài,
    Tất cả Ðại nhân tướng.
  3. Mắt sáng, mặt tràn đầy,
    Cân đối, thẳng, hoàn mỹ,
    Giữa chúng Sa-môn Tăng,
    Ngài chói như mặt trời.
  4. Vị Tỷ-kheo đẹp mắt,
    Da sáng như vàng chói,
    Với hạnh Sa-môn Ngài,
    Cần gì sắc tối thượng.
  5. Ngài xứng bậc Ðại vương,
    Chuyển luân, xa luân chủ,
    Chiến thắng khắp bốn phương,
    Bậc chúa tể Diêm phù.
  6. Vương tộc, hào phú vương,
    Là chư hầu của Ngài,
    Là vua giữa các vua,
    Là giáo chủ loài Người,
    Hãy trị vì quốc độ,
    Tôn giả Gotama!

Thế Tôn vâng theo ý muốn của Sela, trả lời:

  1. Sela, Ta là vua!
    Bậc Pháp vương, Vô thượng,
    Ta chuyển bánh xe pháp,
    Bánh xe chưa từng chuyển.

Phạm chí Sela nói:

  1. Ngài tự nhận giác ngộ.
    Bậc Pháp vương, Vô thượng,
    Ta chuyển bánh xe pháp,
    Gotama nói vậy.
  2. Ai sẽ là tướng quân?
    Là đệ tử Tôn giả?
    Ai theo giữ truyền thống,
    Xứng đáng bậc Ðạo Sư?
    Sau Ngài ai sẽ chuyển,
    Pháp luân Ngài đã chuyển?

Tôn giả Sàriputta đang ngồi bên phải Thế Tôn, đầu chói sáng đẹp đẽ như một đống vàng. Thế Tôn chỉ Sàriputta và nói:

  1. Thế Tôn: Này Sela,
    Ta chuyển bánh xe pháp,
    Bánh xe pháp vô thượng,
    Chính Sàriputta,
    Chuyển bánh xe Chánh pháp,
    Thừa tự Như Lai vị.
  2. Cần biết, Ta đã biết,
    Cần tu, Ta đã tu,
    Cần đoạn, Ta đã đoạn,
    Do vậy, Ta là Phật,
    Hỡi này Bà-la-môn.
  3. Còn gì nghi ở Ta,
    Hãy gác bỏ một bên,
    Hãy giải thoát khỏi chúng.,
    Hỡi này Bà-la-môn.
  4. Thấy được bậc Chánh Giác,
    Thật thiên nan vạn nan,
    Bậc Chánh Giác ra đời,
    Thật thiên nan vạn nan,
    Ta là bậc Chánh Giác,
    Bậc Y vương Vô thượng,
    Hỡi này Bà-la-môn.
  5. Là Phạm thiên khó sánh,
    Nhiếp phục các Ma quân,
    Hàng phục mọi đối nghịch,
    Ta hân hoan không sợ.

Bà-la-môn Sela hoàn toàn tin tưởng vào Thế Tôn, muốn xuất gia và thưa rằng:

  1. Chư Tôn giả hãy nghe!
    Như bậc có mắt giảng,
    Bậc Y vương Ðại hùng,
    Sư rử rống trong rừng!
  2. Thấy Phạm thiên vô tỷ,
    Nhiếp phục các Ma quân,
    Ai lại không tín thành,
    Cho đến kẻ hạ tiện.
  3. Ai muốn, hãy theo ta,
    Không muốn hãy đi ra,
    Ở đây ta xuất gia,
    Với bậc Tuệ tối thượng.

Các thanh niên Bà-la-môn, vì đã đạt được những điều kiện cần thiết, trả lời:

  1. Nếu Tôn giả tín thành,
    Giáo pháp bậc Chánh Giác,
    Chúng con cũng xuất gia,
    Với bậc Tuệ tối thắng!

Sela hoan hỷ thấy các thanh niên Bà-la-môn san sẻ chí nguyện của mình, đưa chúng đến trước mặt Thế Tôn và xin được xuất gia:

  1. Ba trăm Phạm chí ấy,
    Chấp tay xin được phép,
    Chúng con sống Phạm hạnh,
    Do Thế Tôn lãnh đạo.

Rồi Thế Tôn, thấy được Sela trong các đời quá khứ, Sela cũng đã dạy cho ba trăm đệ tử này trông các giống phước và nay trong đời cuối cùng, đã tạo được tuệ quán cho mình và cho các đệ tử, thấy rằng chúng đã thuần thục để xuất gia:

  1. Thế Tôn đáp: Sela,
    Phạm hạnh được khéo giảng,
    Thiết thực ngay hiện tại,
    Vượt khỏi thời gian tính,
    Ở đây sự xuất gia,
    Không uổng công, hoang phí,
    Với ai không phóng dật,
    Tinh tấn chuyên tu học.

Thế Tôn nói: ‘Hãy đến, Tỷ-kheo!’ Rồi với thần lực của Bổn sư, tất cả đều có y và bình bát, đảnh lễ đức Phật, bắt đầu học thiền quán và chứng quả A-la-hán vào ngày thứ bảy.

Rồi các vị ấy đến đức Phật, nói lên trí giác của mình, và Sela thưa:

  1. Kính bạch bậc Pháp nhãn,
    Cách đây trước tám ngày,
    Chúng con đã đến Ngài,
    Xin phát nguyện quy y,
    Thế Tôn trong bảy đêm,
    Ðã nhiếp phục chúng con,
    Ðã chế ngự chúng con,
    Trong giáo lý của Ngài.
  2. Ngài là bậc Giác giả,
    Ngài là bậc Ðạo Sư,
    Ngài là bậc Mâu-ni,
    Ðã chiến thắng quân ma,
    Sau khi đã đoạn trừ,
    Vượt qua biển sanh tử,
    Ngài giúp quần sanh này,
    Cùng vượt qua bể khổ.

840 Sanh y Ngài vượt qua,
Lậu hoặc Ngài nghiền nát,
Ngài là sư tử chúa,
Không chấp, không sợ hãi.

  1. Ba trăm Tỷ-kheo này,
    Ðồng chấp tay đứng thẳng,
    Ôi anh hùng chiến thắng,
    Hãy duỗi chân bước tới,
    Hãy để các đại nhân,
    Ðảnh lễ bậc Ðạo Sư.

(CCLIV) Bhaddiya kàligodhàyaputta (Thera. 80)

Sanh trong thời đức Phật hiện tại, ở Kapilavatthu, trong một dòng họ Sàkya, ngài được đặt tên là Bhaddiya. Khi đã trưởng thành, ngài từ bỏ gia đình, cùng với Anuruddha và bốn vị hoàng tộc khác, khi bậc Ðạo Sư đang ở trong vườn xoài, tại Anupiy. Khi xuất gia, ngài chứng được quả A-la-hán. Ngài được đức Phật xác chứng là đệ nhất trong những Tỷ-kheo thuộc về hoàng tộc. Mỗi khi ngài hưởng lạc giải thoát, lạc Niết-bàn trong lúc ở trong rừng, dưới một gốc cây, trong cảnh rừng tịch tịnh, ngài thường thốt ra lời: ‘Ôi hạnh phúc làm sao! Ôi, hạnh phúc làm sao!’ Ðược đức Phật hỏi vì sao ngài thốt ra lời ấy, ngài trả lời khi ngài trị vì quốc độ của ngài, dầu ngài được bảo vệ chặt chẽ, ngài vẫn cảm thấy sợ hãi, hoảng hốt. Nhưng nay ngài đã từ bỏ tất cả, ngài không còn trong trạng thái sợ hãi nữa. Rồi trước mặt Thế Tôn, ngài rống lên tiếng rống con sư tử:

  1. Khi ta ngồi cổ voi,
    Mang đồ mặc tế nhị,
    Ăn gạo thật ngon thơm,
    Với món thịt khéo nấu.
  2. Nay hiền thiện, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  3. Áo lượm rác, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  4. Thường khất thực, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  5. Mặc ba y, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  6. Ði từng nhà, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  7. Ăn một bữa kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  8. Ăn trong bát, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  9. Không ăn thêm, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  10. Sống trong rừng, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  11. Ngồi gốc cây, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  12. Sống ngoài trời, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  13. Trú nghĩa địa, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  14. Tùy xứ trú, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  15. Sống thường ngồi, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  16. Ham muốn ít, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  17. Sống biết đủ, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  18. Hạnh viễn ly, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  19. Không giao du, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  20. Sống tinh cần, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  21. Từ bỏ bát quý giá,
    Bằng vàng, bằng nhựa quý,
    Ta lấy bát bằng đất,
    Ðây quán đảnh thứ hai.
  22. Vòng thành cao bảo vệ,
    Vọng lâu, cửa kiên cố,
    Với lính tay cầm gươm,
    Ta đã sống sợ hãi.
  23. Nay hiền thiện, không sợ,
    Bỏ run sợ kinh hãi,
    Thiền tư, vào rừng sâu,
    Là con của Gô-dha.
  24. An trú trên giới uẩn,
    Chánh niệm, tu tuệ quán,
    Thứ lớp ta đạt được,
    Mọi kiết sử đoạn diệt.

(CCLV) Angulimàlà (Thera. 80)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một Bà-la-môn tên Bhaggava, giữ chức cố vấn tôn giáo cho vua nước Kosala. Trong đêm ngài sanh, các binh khí trong thành phố rực sáng, các binh giáp của vua cũng rực sáng, thành thử khi vua nằm trên giường thấy như vậy nên không thể ngủ được, thao thức và sợ hãi. Vị cố vấn nghi lễ tìm hiểu các vì sao và kết luận con mình đã sanh trúng đám sao ăn trộm. Sáng sớm, ông đến chầu vua và hỏi vua ngủ có an giấc không? Vua trả lời vua ngủ không an giấc được, vì cả đêm thấy áo giáp chói sáng và hỏi điềm ấy là điềm gì? Vị cố vấn trả lời là do mình sanh đứa con, áo giáp cả thành phố đều chói sáng, và khi được biết đứa con sau này có thể trở thành tên tướng cướp độc thân có thể chế ngự được, nên vua tha cho khỏi bị giết.

Vì ngài sanh, làm tâm vua phiền muộn nên được gọi là Himsaka, và sau không thấy ngài làm hại ai nên được gọi là Ahimasaka. Do nghiệp đời trước, ngài có sức mạnh của bảy con voi. Khi ngài học với vị giáo sư đầu tiên ở Takhasilà, ngài hầu hạ rất thành kính vị giáo sư và bà vợ, nên thường được thấy ngài bên cạnh vị giáo sư và bà vợ trong những bữa ăn, vì vậy khiến các thanh niên Bà-la-môn khác ganh ghét, và xúi vị giáo sư chống lại Ahimsaka. Vì học trò mình có sức mạnh phi thường, vị giáo sự tìm một kế để ám hại học trò mình bằng cách bảo Ahimsaka trả tiền học phí cho mình bằng một ngàn ngón tay phải, nghĩ rằng nếu Ahimsaka đem lại một ngón tay thời cũng đủ làm hại đệ tử mình rồi. Lòng hung ác đè nén của Ahimsaka được nổi dậy, ngài mặc áo giáp, đi vào rừng Jàlinì ở Kosalu núp trên một đồi núi, theo dõi người đi đường, và khi nào thấy người đi qua, liền chạy xuống, chặt ngón tay họ, treo trên một cây cho đến khi các loài diều hâu rứt ăn hết thịt. Rồi dùng các ngón tay làm một vòng hoa, ngài đeo nơi cổ và từ đó được gọi là Angulimàlà (kẻ đeo vòng hoa bằng ngón tay). Khi vì hành động ấy, đường sá trở thành vắng người, ngài đi vào trong làng và làng trở thành trống không. Vua bèn sai một lực lượng quân đội đi bắt Angulimàlà. Mẹ của Angulimàlà khuyên chồng nên đi để bảo Angulimàlà hãy chấm dứt hành động như vậy, nhưng người chồng từ chối, không muốn liên hệ với một người con như vậy nên để mặc nhà vua làm. Bà mẹ vì thương con, khi thấy chồng từ chối liền soạn đồ lương thực và đi tìm Angulimàlà để ngăn chận không cho làm điều ác.

Rồi Thế Tôn suy nghĩ rằng, nếu Angulimàlà gặp mẹ, sẽ giết mẹ cho đủ một ngàn ngón tay; nay là đời sống cuối cùng của Angulimàlà, nếu đức Phật không can thiệp thời sẽ có thiệt hại lớn. Sau bữa ăn đức Phật đi trên con đường dẫn đến rừng Jàlinì dầu có nhiều người ngăn cản. Khi Angulimàlà thấy mẹ, ngài tính lấy ngón tay của mẹ cho đủ số một ngàn ngón tay, thời đức Phật đến và đi giữa Angulimàlà và người mẹ, Angulimàlà liền bỏ ý định giết mẹ và quyết định giết vị Sa-môn cho đủ túc số. Angulimàlà liền rút gươm đuổi theo đức Phật, nhưng dầu ngài cố gắng thế nào cũng không làm sao đuổi kịp, dầu đức Phật vẫn đi khoan thai nhẹ nhàng. Angulimàlà yêu cầu đức Phật đứng lại, đức Phật trả lời đức Phật đã đứng rồi, chính Angulimàlà cần phải đứng lại. Câu trả lời làm Angulimàlà khó hiểu, tin rằng các Sa-môn bao giờ cũng nói thật nên ngài hỏi đức Phật:

  1. Này Sa-môn, Ngài đi,
    Lại nói: ‘Ta đứng rồi’.
    Ta đứng, Ngài lại nói:
    ‘Sao nhà ngươi chưa đứng?’
    Sa-môn, ta hỏi Ngài,
    Về ý nghĩa việc này,
    Sao Ngài đã đứng lại,
    Còn ta lại còn đi.

Thế Tôn trả lời:

  1. Angulimàlà,
    Ta luôn luôn đã đứng,
    Với tất cả chúng sanh,
    Ta từ bỏ gậy trượng,
    Còn ông đối hữu tình,
    Chưa có tự chế ngự,
    Do vậy Ta đã đứng,
    Còn Ông thời chưa đứng.

Trong khi đức Phật đứng như vậy, chói sáng đức hạnh của mình, Angulimàlà nhớ lại những gì mình được nghe về đức Phật, tuệ quán đạt đến mức thuần thục, hoan hỷ thấm nhuần toàn thân, như một làn nước dâng trào toàn thế giới. Tự nói với mình: ‘Thật lớn thay, tiếng rống sư tử này. Chắc đây là Sa-môn Gotama đã đến đây để cứu độ ta’. Ngài nói:

  1. Ðã lâu con tôn kính,
    Bậc vĩ đại Tiên nhân,
    Nay bậc Sa-môn này,
    Ðã bước vào Ðại lâm,
    Con nay sẽ sẵn sàng,
    Từ bỏ ngàn điều ác,
    Sau khi nghe kệ Ngài,
    Liên hệ đến Chánh pháp.
  2. Nói xong, tên tướng cướp,
    Liền quăng bỏ cây kiếm,
    Quăng bỏ cả khí giới,
    Xuống vực núi thâm sâu.
    Tên tướng cướp đảnh lễ,
    Dưới chân bậc Thiện Thệ,
    Chính ngay tại chỗ ấy,
    Xin đức Phật xuất gia.
  3. Ðức Phật đại từ bi,
    Là bậc đại Tiên nhân,
    Ðạo Sư cả nhân giới,
    Cùng với cả thiên giới,
    Nói lên những lời này:
    Hãy đến, thiện Tỷ-kheo,
    Như vậy, đối vị ấy,
    Thành tựu Tỷ-kheo tánh.

Angulimàlà sau khi xuất gia tu hành, chứng quả rồi nói lên quả chứng của mình:

  1. Ai trước sống phóng dật,
    Sau sống không phóng dật,
    Chói sáng thế giới này,
    Như trăng thoát mây che.
  2. Ai trước làm nghiệp ác,
    Nay lấy thiện chận lại,
    Chói sáng thế giới này,
    Như trăng thoát mây che.
  3. Ai Tỷ-kheo còn trẻ,
    Chuyên tâm hành Phật dạy,
    Chói sáng thế giới này,
    Như trăng thoát mây che.

Như vậy, sống trong hạnh phúc giải thoát, ngài đi vào thành khất thực. Có người ném đá vào ngài, có người lấy gậy đánh vào đầu ngài, và ngài về tịnh xá với bình bát bị bể. Ðức Phật khuyên ngài nên nhẫn nại chịu khổ, vì nghiệp quả của ngài đáng phải thiêu sống ở địa ngục, nay chỉ chịu khổ như vậy thôi. Rồi ngài phát tâm từ bi đối với tất cả chúng sanh.

  1. Mong rằng kẻ thù ta
    Ðược nghe lời Chánh pháp,
    Mong rằng kẻ thù ta
    Chuyên tâm lời Phật dạy,
    Mong rằng kẻ thù ta
    Thân cận với những người
    Ðã đạt được an tịnh,
    Sống thọ trì Chánh pháp.
  2. Mong rằng kẻ thù ta,
    Thời thời được nghe pháp,
    Thuyết giảng về nhẫn nhục,
    Tán thán về nhu hòa,
    Và sở hành của họ,
    Phù hợp với Chánh pháp.
  3. Vị chúng sanh như vậy,
    Không có ám hại ta,
    Hay cũng không ám hại,
    Một người khác nào hết.
    Người ấy sẽ đạt được,
    Sự an tịnh tối thượng,
    Sẽ bảo vệ hộ trì,
    Người mạnh và kẻ yếu.
  4. Người trị thủy dẫn nước,
    Kẻ làm tên nắn tên,
    Người thợ mộc uốn gỗ,
    Bậc trí nhiếp tự thân.
  5. Có kẻ được điều phục,
    Bởi gậy, móc và roi,
    Vị ấy điều phục ta,
    Không dùng gậy, dùng kiếm.
  6. Ta được tên Vô Hại,
    Trước có tên Làm Hại,
    Nay ta tên Chân Thật,
    Ta không hại một ai.
  7. Trước ta là tên cướp,
    Lừng danh ‘vòng ngón tay’,
    Chìm đắm dòng nước lớn,
    Cho đến khi quy Phật.
  8. Trước tay ta lấm máu,
    Lừng danh, ‘vòng ngón tay’,
    Hãy xem, ta quy y,
    Nhổ lên gốc tái sanh.
  9. Làm xong nhiều nghiệp vậy,
    Dẫn đến sanh ác thú,
    Cảm thọ nghiệp dị thục,
    Thoát nợ, ta thọ thực.
  10. Những kẻ ngu vô trí
    Ðam mê sống phóng dật,
    Kẻ trí không phóng dật,
    Như bảo vệ vật báu.
  11. Chớ đam mê phóng dật,
    Chớ say đắm dục lạc,
    Không phóng dật, thiền tư,
    Ðạt được lạc tối thượng.
  12. Ðến ta điều tốt đẹp,
    Không tốt đẹp, không đến,
    Lời khuyên bảo cho ta,
    Không có gì không tốt,
    Trong các pháp phân biệt,
    Có mặt ở trên đời,
    Pháp gì tối thượng nhất,
    Ta chọn, ta chứng đạt.
  13. Ðến ta, điều tốt đẹp,
    Không tốt đẹp, không đến,
    Lời khuyên bảo cho ta,
    Không có gì không tốt,
    Ba minh ta đạt được,
    Lời Phật dạy, làm xong.

887.Trong rừng, dưới gốc cây,
Hay trên núi trong hang,
Tại chỗ ấy, ta trú,
Tâm tư thật hứng khởi.

  1. Thật an lạc, ta nằm,
    Thật an lạc, ta dậy,
    Tâm tư thuần an lạc,
    Là nếp sống của ta,
    Thoát khỏi cạm bẫy Ma,
    Ôi, Ðạo Sư từ mẫn!
  2. Trước ta sanh Phạm chí,
    Hai hệ, dòng họ cao,
    Nay ta con Thiện Thệ,
    Ðạo Sư, bậc Pháp vương.
  3. Ái ly, không chấp thủ,
    Căn hộ trì, chế ngự,
    Ðoạn bỏ gốc tà ác,
    Ta đạt lậu hoặc diệt.
  4. Ta hầu hạ Ðạo Sư,
    Lời Phật dạy làm xong,
    Gánh nặng đã đặt xuống,
    Gốc sanh hữu nhổ sạch.

(CCLVI) Anuruddha (Thera. 83)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Kapilavatthu, trong nhà dòng họ Sakya Amitodana và được đặt tên là Anuruddha.Anh của ngài là Thích-ca Mahànàma, con người cậu của đức Phật. Ngài được nuôi dưỡng rất tế nhị, mỗi mùa ở mỗi nhà khác nhau, có các vũ nữ vũ sư đoanh vây, thọ hưởng sự giàu sang thần tiên. Khi được gọi làm người bảo vệ cho bậc Ðạo Sư, ngài đi đến đức Phật, trong rừng xoài ở Anupiyà, thọ giới xuất gia, và trong mùa an cư mùa mưa, ngài chứng Thiên nhãn. Nhận được đề tài thiền quán từ ngài Xá-lợi-phất. Ngài đi đến rừng trúc ở phương Ðông, hành thiền quán, và chứng được bảy tư duy của một vị Ðại nhân, nhưng chưa chứng được tư duy thứ tám. Bậc Ðạo Sư nhận thấy vậy liền dạy cho ngài quá trình tu chứng của bậc Thánh. Nhớ lại lời dạy này, Anuruddha phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán cùng với thắng trí và vô ngại giải thù thắng. Ngài được Thế Tôn xác nhận là bậc Thiên nhãn đệ nhất. Và ngài sống trong an lạc giải thoát. Một hôm ôn lại quá trình tu chứng của mình, ngài hoan hỷ phấn khởi, và nói lên bài kệ sau đây:

  1. Bỏ cha mẹ, bà con,
    Bỏ anh em, chị em,
    Bỏ năm dục trưởng dưỡng,
    A-na-luật tu thiền.
  2. Sống hệ lụy múa, ca,
    Dạy với tiếng xập xỏa,
    Sống vậy không đạt được,
    Cảnh giới đạo thanh tịnh,
    Vì rằng ta ưa thích,
    Trong giới vực của Ma.
  3. Và ta vượt tất cả,
    Vui thích lời Phật dạy,
    Vượt mọi loại bộc lưu,
    A-na-luật tu thiền.
  4. Sắc, thanh, vị, hương, xúc,
    Hấp dẫn, rất thích ý,
    Vượt qua tất cả chúng,
    A-na-luật tu thiền.
  5. Ði khất thực trở về,
    Ðơn độc, vị ẩn sĩ,
    Tìm vải từ đống rác,
    A-na-luật đạt được,
    Không còn các lậu hoặc.
  6. ẩn sĩ thâu, lượm lấy,
    Giặt, nhuộm, và đắp mặc,
    Các vải từ đống rác,
    Sáng suốt, A-na-luật,
    Không còn các lậu hoặc.
  7. Nhiều dục, không biết đủ,
    Ưa giao du, tháo động,
    Những pháp này có mặt,
    Thuộc tà ác, uế nhiễm,
  8. Chánh niệm và ít dục,
    Biết đủ, không não loạn,
    Thích viễn ly, hân hoan,
    Thường tinh cần tinh tấn.
  9. Những pháp này có mặt,
    Thuần thiện Bồ đề phần,
    Vị ấy không lậu hoặc,
    Bậc Ðại tiên nói vậy.
  10. Biết tâm tư ta vậy,
    Thế gian Vô Thượng Sư,
    Với thân do ý tạo,
    Thần thông đến với ta.
  11. Tùy theo ta nghĩ gì,
    Ngài thuyết rõ tất cả,
    Phật không ưa hý luận,
    Ngài thuyết không hý luận.
  12. Ngộ pháp ta hoan hỷ,
    Trú trong giáo pháp Ngài,
    Ba minh chứng đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.
  13. Suốt năm mươi lăm năm,
    Ta không bao giờ nằm,
    Trong hai mươi lăm năm,
    Ðoạn dứt được ngủ nghỉ.
  14. Không thở vô thở ra,
    Bậc như vậy trú tâm,
    Không tham dục, tịch tịnh,
    Bậc có mắt Niết-bàn.
  15. Với tâm không dao động,
    Sống cảm thọ cuối cùng,
    Như ngọn lửa diệt tắt,
    Tâm Ngài được giải thoát.
  16. Nay chính những pháp này,
    Là những pháp cuối cùng,
    Những cảm xúc thứ năm,
    Của bậc Ðại Mâu-ni,
    Sẽ không còn pháp khác,
    Bậc Chánh giác Niết-bàn.

Rồi một Thiên nhân, trước kia là người hầu cận ngài, thấy ngài già và ốm, vì lòng thương ngài, yêu cầu ngài tái sanh ở chư Thiên. Ngài trả lời như sau:

  1. Nay không còn tái sanh
    Trong thế giới chư Thiên,
    Này kẻ gieo cạm bẫy.
    Dòng sanh tử, đoạn tận,
    Nay không còn tái sanh.

Rồi vị Tỷ-kheo khác, không thấy vị Thiên nhân, không hiểu bậc Trưởng lão nói với ai. Ðể nói lên thần thông của mình, ngài nói câu kệ:

  1. Ai trong thời gian ngắn
    Biết thế giới ngàn cõi,
    Vị ấy thật xứng đáng,
    Ðược sống giới Phạm thiên,
    Nhưng nay Tỷ-kheo ấy,
    Ðầy đủ thần thông lực,
    Thấy được thời gian nào,
    Chư Thiên chết và sanh.

Rồi ngài nói lên nghiệp trước của ngài:

  1. Ðời trước ta đã sống,
    Tên Annabhara,
    Bần cùng, phải làm lụng,
    Lo nuôi sống tự thân,
    Rồi ta đến cúng dường,
    Bậc Sa-môn danh tiếng,
    Sa-môn với xưng danh,
    Ngài Uparittha.
  2. Rồi ta được sanh trưởng,
    Trong dòng họ Thích-ca,
    Ta được biết với tên,
    Là Anuruddha,
    Sống hệ lụy múa ca,
    Dạy với tiếng xập xỏa.
  3. Ta thấy bậc Chánh giác,
    Bậc Ðạo Sư vô úy,
    Tín tâm khởi nơi Ngài,
    Ta xuất gia không nhà.
  4. Ta biết các đời trước,
    Trước ta sống chỗ nào,
    Giữa cõi Ba mươi ba,
    Ta sanh làm Ðế Thích.
  5. Bảy lần làm Nhân chủ,
    Ta trị vì quốc độ,
    Ta chinh phục bốn phương,
    Làm chúa châu Diêm phù,
    Không dùng gậy dùng gươm,
    Trị vì với Chánh pháp.
  6. Từ đây bảy bảy lần,
    Mười bốn lần luân hồi,
    Ta biết được đời sống,
    Khi ta trú thiên giới.
  7. Trong thiền định năm chi,
    Tâm an tịnh nhất tâm,
    Tâm ta được khinh an,
    Thiên nhãn ta thanh tịnh.
  8. Ta biết sanh và chết,
    Chỗ đến đi hữu tình,
    Ðời này và đời khác,
    Ta trú thiền năm chi.
  9. Ta hầu hạ Ðạo Sư,
    Lời Phật dạy làm xong,
    Gánh nặng đã đặt xuống,
    Gốc sanh hữu nhổ sạch.
  10. Tại làng Vê-lu-va,
    Giữa dân tộc Vajji,
    Ta đi đến đoạn diệt,
    Chấm dứt dòng sanh tử,
    Dưới bóng của khóm trúc,
    Ta sẽ nhập Niết-bàn,
    Không còn có lậu hoặc.

(CCLVII) Pàràpariya (Thera. 84)

Ðời sống của ngài đã được nói đến phẩm CCXLIX. Các kệ trước được nói lên khi đức Bổn Sư còn sống. Khi ngài chưa chứng quả A-la-hán, về vấn đề sáu lực (năm căn và ý). Những bài kệ sau đây được nói lên khi đức Bổn Sư đã viên tịch và khi ngài sắp sửa mệnh chung. Trong những bài kệ này, ngài nói lên tương lai của các Tỷ-kheo khi họ theo tà pháp.

Câu kệ đầu do các vị chép sớ đặt vào:

  1. Ðây là những tư tưởng
    Của một vị Sa-môn,
    Tại rừng gọi Ðại lâm,
    Khi rừng đang trổ hoa,
    Ngài ngồi chỉ một mình,
    Viễn ly, tâm thiền định.
  2. Khác thay, những uy nghi,
    Của những vị Tỷ-kheo,
    Khi bậc Tối thượng nhân,
    Bậc Thế Tôn còn sống,
    Còn nay điều được thấy,
    Thật sai khác đi nhiều.
  3. Y để ngăn gió lạnh,
    Ðể che điều xấu hổ,
    Họ thọ dụng tiết độ.
    Biết đủ, từ đâu đến.
  4. Vị ngon hay vị dở
    Ðược ít hay được nhiều,
    Họ thọ dụng món ăn,
    Chỉ cần nuôi mạng sống,
    Tâm không có tham lam,
    Cũng không có say đắm.
  5. Các đồ vật để sống,
    Hay các loại dược phẩm,
    Họ không quá tha thiết
    Như đối lậu hoặc diệt.
  6. Dưới gốc cây trong rừng,
    Hay trong hang trong động,
    Chuyên tâm tu viễn ly,
    Sống lấy vậy cứu cánh.
  7. Sống khiêm tốn giản dị,
    Nhu hòa, ý kham nhậm,
    Với cử chỉ tao nhã,
    Không nói năng quàng xiên,
    Tâm tư hướng lợi ích
    Cho mình và cho người.
  8. Do vậy sở hành họ,
    Thật dễ thương tốt lành,
    Khi họ đi, họ ăn,
    Khi họ thọ dụng gì,
    Cử chỉ uy nghi họ,
    Như dòng dầu trơn mướt.
  9. Mọi lậu hoặc đoạn tận,
    Ðại thiền, đại thiện lợi,
    Nay những Trưởng lão ấy,
    Ðã hoàn toàn Niết-bàn,
    Ngày nay thật ít vị,
    Giống như các vị ấy,
  10. Do thiện pháp, trí tuệ,
    Bị hao mòn tiêu diệt,
    Lời dạy bậc chiến thắng,
    Tổng hợp mọi tối thượng,
    Về dự án hình thức,
    Bị sụp đổ hao mòn.
  11. Các pháp thuộc tà ác,
    Thời đại bị uế nhiễm,
    Ðối với họ những vị,
    An trú trong viễn ly,
    Hy vọng được chứng ngộ.
    Các diệu pháp còn lại.
  12. Uế nhiễm họ tăng trưởng,
    ảnh hưởng xấu nhiều người,
    Họ hình như chơi giỡn,
    Với những kẻ ngu si,
    Như bọn quỷ La-sát,
    Ðùa giỡn với kẻ điên.
  13. Bị uế nhiễm chinh phục,
    Chạy theo nhiễm này nọ,
    Ðối với vật uế nhiễm,
    Họ như người la to,
    Những đồ vật lấy được.
  14. Từ bỏ chân diệu pháp,
    Họ cãi lộn với nhau,
    Họ chạy theo tà kiến,
    Họ nghĩ: ‘Ðây tốt hơn’.
  15. Từ bỏ, xoay lưng lại,
    Tài sản, con và vợ,
    Do nhân muổng đồ xin,
    Họ làm việc không xứng.
  16. Họ ăn đến đầy bụng,
    Họ nằm phơi ra ngủ,
    Sau khi thức, họ nói,
    Ðiều bậc Ðạo Sư trách.
  17. Mọi mỹ nghệ thủ công,
    Họ tôn trọng học tập,
    Nội tâm không an tịnh,
    Bỏ mặc hạnh Sa-môn.
  18. Ðất, dầu, các loại bột,
    Nước, chỗ ngồi, cơm ăn,
    Họ tặng cho cư sĩ,
    Hy vọng được nhiều hơn.
  19. Cây tăm để xỉa răng,
    Loại trái Ka-pit-tha
    Lá hoa để nhai ăn,
    Ðồ khất thực đầy đủ,
    Cùng các loại trái xoài,
    Và trái A-ma-lặc.
  20. Với các loại dược phẩm,
    Họ giống như thầy thuốc,
    Họ làm các công việc,
    Chẳng khác người thế tục,
    Họ trang sức y phục,
    Giống như các kỹ nữ.
    Họ tự tỏ quyền uy,
    Chẳng khác người hoàng tộc.
  21. Giả dối và lừa đảo,
    Ngụy chứng và man trá,
    Với rất nhiều thủ đoạn,
    Ðể thọ hưởng tài vật.
  22. Sử dụng cách lường gạt,
    Chạy theo những mưu chước,
    Dùng phương tiện sinh sống,
    Kéo về nhiều tài sản.
  23. Họ quy tụ hội chúng,
    Vì nghề, không vì pháp,
    Họ thuyết pháp quần chúng,
    Vì lợi , không vì nghĩa.
  24. Những người ngoài Tăng đoàn,
    Lại tranh luận cãi nhau,
    Về quyền lợi Tăng đoàn,
    Không tàm quý liêm sỉ,
    Họ tự mình nuôi sống,
    Với quyền lợi kẻ khác.
  25. Một số thiếu tín thành,
    Dầu đầu trọc đắp y,
    Mong muốn được kính trọng,
    Ham quyền lợi danh vọng.
  26. Như vậy, như hiện nay,
    Nhiều việc đã đọa lạc,
    Thật không còn dễ dàng,
    Như thời lúc trước nữa,
    Hoặc cảm xúc chứng đắc,
    Ðiều chưa được xúc chứng,
    Hoặc gìn giữ duy trì,
    Ðiều đã được xúc chứng.
  27. Như người không mang giày,
    Ði trên chỗ có gai,
    Luôn luôn giữ chánh niệm,
    Cũng vậy vị ẩn sĩ,
    Khi đi vào trong làng,
    Cần gìn giữ chánh niệm.
  28. Nhớ vị tu đời trước,
    Nhớ nếp sống của họ,
    Dầu nay thời hậu lai,
    Vẫn có thể xúc chứng,
    Con đường đạo bất tử.
  29. Như vậy vị Sa-môn,
    Trong rừng cây Sàla,
    Các căn có tu tập,
    Nói lên lời như vậy,
    Phạm chí nhập Niết-bàn,
    ẩn sĩ đoạn tái sanh.

Chương XVII

-ooOoo-

Phẩm Ba Mươi Kệ

(CCLVIII) Phussa (Thera. 87)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một vị vua trị vì một tỉnh, được đặt tên là Phussa, và được giáo dục trong mọi tài năng của thanh niên hoàng tộc. Nhưng ngài có tâm hướng khác thường, không thiên về thế tục, nên khi nghe một vị Trưởng lão thuyết pháp, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Tu tập thiền định, ngài phát triển thiền quán và sau một thời gian, chứng được sáu thắng trí.

Một hôm, một ẩn sĩ tên Pandara-gotta nghe ngài thuyết pháp, thấy xung quanh có một số Tỷ-kheo giới đức nghiêm minh, tu tập, chế ngự thân và tâm, vị ẩn sĩ suy nghĩ: ‘Hệ thống này thật đáng tin tưởng, mong rằng hệ thống này được tồn tại!’. Rồi vị ấy hỏi ngài về tương lai sự tiến bộ các Tỷ-kheo như thế nào? Ngài trả lời với những bài kệ như sau, riêng bài kệ 949 do các nhà kiết tập đặt thêm vào:

  1. ẩn sĩ Pan-đa-ra,
    Thấy nhiều vị thành tín,
    Tự ngã có tu tập,
    Khéo hộ trì chế ngự
    Ngài mới đặt câu hỏi,
    Với vị tên Phussa.
  2. Trong thời gian tương lai,
    Sẽ có ước muốn gì?
    Sẽ có chí nguyện gì?
    Sẽ có cử chỉ gì?
    Mong ngài hãy trả lời,
    Câu hỏi của chúng tôi.
  3. ẩn sĩ Pan-đa-ra,
    Hãy nghe lời ta nói,
    Hãy thọ trì cẩn thận,
    Ta sẽ nói tương lai.
  4. Phẫn nộ và hiềm hận,
    Che đậy và cứng đầu,
    Nhiều lừa đảo ganh tị,
    Tương lai nhiều loại vậy,
  5. Họ tự cho có trí,
    Pháp sâu, chỉ đến bờ,
    Họ khinh nhờn Chánh pháp,
    Họ không kính trọng nhau.
  6. Nhiều nguy hiểm ở đời,
    Sẽ xảy ra tương lai,
    Pháp được khéo giảng này,
    Kẻ ngu làm uế nhiễm.
  7. Trong Tăng chúng, những vị,
    Có đức hạnh hạ liệt,
    Họ thường hay tuyên bố,
    Có tự tín, không sợ,
    Kẻ không học, lắm lời,
    Sẽ đứng vào thế mạnh.
  8. Trong Tăng chúng, những vị,
    Có giới hạnh tốt đẹp,
    Khi họ có tuyên bố,
    Tuyên bố đúng sự thật,
    Họ thường ở thể yếu,
    Hổ thẹn thiếu nhiệt thành.
  9. Bạc, vàng và đồng ruộng,,
    Ðất đai, dê và cừu,
    Nô tỳ nữ và trai,
    Kẻ ngu si vô trí,
    Sẽ thâu nhận tất cả,
    Trong tương lai là vậy.
  10. Kẻ ngu dễ nóng giận,
    Không định tĩnh trong giới,
    Kiêu ngạo, đi đó đây,
    Như thú ưa đánh nhau.
  11. Họ trở thành tháo động,
    Thường đắp y màu xanh,
    Lừa đảo và ngoan cố,
    Lắm mồm, ăn nói giả,
    Họ bắt chước giả bộ,
    Như bậc Thánh thời xưa.
  12. Với tóc bôi dầu láng,
    Dao động, mắt vẽ xanh,
    Ðắp y màu trắng ngà,
    Họ qua lại trên đường.
  13. Y vàng được khéo nhuộm,
    Lá cờ bậc La-hán,
    Ðược các bậc giải thoát,
    Ðắp mang không nhàm chán,
    Còn họ chán y vàng,
    Ái luyến đắp màu trắng.
  14. Họ trở thành tham lợi,
    Biếng nhác, ít tinh cần,
    Khó sống rừng hoang vu,
    Thích sống gần xóm làng.
  15. Những ai sợ được lợi,
    Luôn luôn ưa tà mạng,
    Họ học đòi người ấy,
    Thân cận, không tự chế.
  16. Những ai không được lợi,
    Họ không trọng không kính,
    Bậc khả kính, Hiền trí,
    Họ không có thân cận.
  17. Khinh cờ hiệu của mình,
    Ưa thích màu ngoại sắc,
    Có kẻ mang y trắng,
    Lá cờ hiệu ngoại đạo.
  18. Không kính y màu vàng,
    Thời ấy họ là vậy,
    Chờ đợi màu y vàng,
    Không phải của Tỷ-kheo.
  19. Bị đau khổ chinh phục,
    Bị quặn đau tên đâm,
    Chờ đợi đại khủng bố.
    Voi ta không nghĩ nghì.
  20. Khi bậc sáu ngà thấy,
    Cờ La-hán khéo nhuộm,
    Voi nói lên những kệ,
    Liên hệ đến mục đích.
  21. Ai sẽ mặc cà-sa,
    Tâm chưa rời uế trược,
    Không tự chế, không thực,
    Không xứng áo cà-sa.
  22. Ai rời bỏ uế trược,
    Khéo định trong giới luật,
    Tự nhiếp phục chơn thực,
    Thật xứng áo cà-sa.
  23. Phá giới, trí hạ liệt,
    Không tự chế, tham dục,
    Tâm loạn, thiếu phấn chấn,
    Không xứng áo cà-sa.
  24. Ai đầy đủ giới hạnh,
    Ly tham, có định tĩnh,
    Tâm tư thật trinh bạch,
    Vị ấy xứng áo cà-sa.
  25. Ai kiêu ngạo phóng đãng,
    Ngu si, không giới hạnh,
    Xứng đáng mặc áo trắng,
    Làm gì có cà-sa.
  26. Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni,
    Tâm uế, không tin kính,
    Tương lai sẽ ức hiếp,
    Ðối vị có tâm từ.
  27. Kẻ ngu mang y áo,
    Dầu được Trưởng lão dạy,
    Liệt trí sẽ không nghe,
    Không tự chế, tham dục.
  28. Kẻ ngu dầu dạy vậy,
    Không có kính trọng nhau,
    Sẽ không có vâng lời,
    Lời dạy giáo thọ sư,
    Giống như ngựa bất kham,
    Ðối với người đánh xe.
  29. Như vậy, thời tương lai,
    Hành tung sẽ là vậy.
    Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni,
    Khi thời tối hậu đến,
    Hãy ôn hòa thân ái,
    Hãy cung kính lẫn nhau.
  30. Ðại nạn ấy chưa đến,
    Trước khi đại nạn đến,
    Hãy ôn hòa thân ái,
    Hãy cung kính lẫn nhau.
  31. Hãy có tâm từ bi,
    Khéo chế ngự trong giới,
    Chuyên tinh tấn nỗ lực,
    Thường kiên trì phấn chấn.
  32. Thấy nguy hiểm phóng dật,
    Không phóng dật an ổn,
    Hãy tu Tám Thánh đạo,
    Giác chứng đạo bất tử.

Như vậy vị Trưởng lão nói với Tăng chúng của mình. Các bài kệ này là lời nói chánh trí của ngài.

(CCLIX) Sàriputta (Thera. 89)

Ðời của ngài và đời của Moggallàna gắn liền với nhau. Trong thời đức Phật tại thế, Sàriputta sanh tại thành Upatissa, không xa Vương Xá (Ràjagaha) bao nhiêu, mẹ là Rùpasàri; còn Moggallàna sanh ở thành Kolita, không xa thành Vương Xá (Ràjagaha) bao nhiêu, mẹ là Moggali. Vì cả hai là con của vị gia trưởng nên được đặt tên là Upatissa và Kolita. Cả hai đứa trẻ được nuôi dưỡng trong giàu sang và thiện xảo mọi khả năng.Trong một hội chợ lớn ở Vương Xá (Ràjagaha) vì tâm tư thuần thục, cả hai đều thấy tất cả quần chúng hội một trăm năm sau, sẽ bị thần chết mang đi, nên cả hai lo âu đi tìm con đường giải thoát. Cả hai xuất gia dưới sự chỉ đạo của Sanjaya, hẹn nhau ai chứng quả bất tử trước, sẽ nói cho người kia biết.

Dưới sự chỉ đạo của Sanjaya, cả hai không tìm được đạo giải thoát, và sau khi tìm hỏi các Sa-môn, Bà-la-môn gặp được Assajì và nhờ Assajì, gặp được Thế Tôn, cả hai đều xin xuất gia và được đức Phật độ cho làm Tỷ-kheo với câu: ‘Thiện lai Tỷ-kheo’.

Chứng được quả Dự lưu nhờ Assajì tóm tắt câu kệ, Moggallàna, bảy ngày sau khi xuất gia, tại làng Kallavàla ở Magadha, sau khi nhiếp phục được hôn trầm thụy miên, nhờ lời Thế Tôn khích lệ, sau khi nghe lời dạy về tu các giới, chứng được quả A-la-hán. Còn Sàriputta, nửa tháng sau khi xuất gia khi ở cùng đức Bổn Sư tại hang Sukarakhata ở Vương Xá (Ràjagaha) cũng được chứng quả A-la-hán. Về sau, tại Jetavana Thế Tôn xác chứng Sàriputta là đệ tử đệ nhất về trí tuệ và thiền quán, và Sàriputta sau khi được tôn làm nguyên soái Chánh pháp, một hôm nói lên chánh trí của mình, trước các đệ tử:

  1. Ai tùy theo năng lực,
    Có giới, tịnh, chánh niệm
    Không phóng dật hành trì,
    Sở hành đúng tư duy,
    Thích hướng nội, khéo định,
    Ðơn độc, biết tri túc,
    Với sở hành như vậy,
    Vị ấy gọi Tỷ-kheo.
  2. Ăn đồ ướt hay khô,
    Không ăn quá thỏa mãn,
    Bụng trống, ăn tiết độ,
    Tỷ-kheo trú chánh niệm.
  3. Ăn bốn, năm miếng xong,
    Rồi hãy uống nước uống,
    Thật đủ trú thoải mái,
    Với Tỷ-kheo tinh cần.
  4. Nhận lấy đồ hợp pháp,
    Y áo đáp nhu cầu,
    Thật đủ trú thoải mái,
    Với Tỷ-kheo tinh cần.
  5. Khi ngồi thế kiết-già,
    Ðầu gối phải mưa ướt,
    Thật đủ trú thoải mái,
    Với Tỷ-kheo tinh cần.
  6. Ai xem lạc là khổ,
    Ai xem khổ như tên,
    Ðứng chặng giữa cả hai,
    Do đâu, đời nắm được?
  7. Không cho ta ác dục,
    Biếng nhác tinh cần kém,
    Ít nghe, không tín kính,
    Do đâu, đời nắm được?
  8. Nghe nhiều, có hiền trí,
    Khéo định tĩnh trong giới,
    Chuyên chú an chỉ tâm,
    Hãy đứng lên trên đầu.
  9. Ai chuyên tâm hý luận,
    Như thú ưa hý luận,
    Rơi khỏi, trật Niết-bàn,
    Vô thượng, thoát khổ ách.
  10. Ai từ bỏ hý luận,
    Thích đạo phi hý luận,
    Ði đến được Niết-bàn,
    Vô thượng, thoát khổ ách.

Rồi vị Trưởng lão, một hôm thấy được chỗ ở của người em Revata (XLII, CCXLIV) đang ở, một khu rừng không nước đầy gai góc, ngài tán thán người em và nói:

  1. Tại làng hay trong rừng,
    Thung lũng hay đồi cao,
    Chỗ nào La-hán trú,
    Ðất ấy thật khả ái.
    992. Khả ái thay núi rừng,
    Chỗ người phàm không ưa,
    Vị ly tham sẽ thích,
    Vì không tìm dục lạc.

Rồi vị Trưởng lão,với lòng từ mẫn đối với Ràdha một Bà-la-môn bất hạnh, giúp Ràdha xuất gia tu hành. Về sau, khi đang du hành, ngài khích lệ Ràdha, bằng lòng với cử chỉ khiêm tốn của Ràdha:

  1. Như người chỉ của chôn,
    Cũng vậy, người thấy lỗi,
    Nói điều người trí trách,
    Hãy gần người trí vậy.
    Thân cận người như vậy,
    Chỉ tốt hơn, không xấu.

Một hôm, bậc Ðạo Sư không đi đến để giải tán nhóm Tăng chúng của Assaji-Runabbasu được tổ chức ở đồi Kità, Sàriputta được cử đi cùng với Moggallàna và các đệ tử của mình. Khi lời khuyên của Sàriputta không được nghe theo, ngài nói như sau:

  1. Cần phải khuyên, phải dạy,
    Phải ngăn chặn bất thiện,
    Làm vậy, người thiện thương,
    Người bất thiện không ưa.

Khi các Tỷ-kheo nói rằng chính du sĩ Dìghanakha, được Thế Tôn giảng dạy, được sửa soạn bởi hành động quá khứ, có thể làm nhiệm vụ ấy, Sàriputta can thiệp, nói rằng không phải:

  1. Thế Tôn, bậc có mắt,
    Thuyết pháp cho người khác,
    Khi pháp được thuyết giảng,
    Ta lắng tai nhiệt tình.
  2. Ta nghe, không uổng phí,
    Giải thoát không lậu hoặc,
    Không cần biết đời trước,
    Không cần được thiên nhãn.
  3. Ta không có phát nguyện,
    Chứng được tha tâm thông,
    Biết chúng sanh sống chết,
    Hay nhĩ giới thanh tịnh.

Ba câu kệ tiếp được nói lên về ngài, khi Sàriputta trú ở tinh xá hang bồ câu, không có bị thương khi bị quỷ Dạ-xoa đánh:

  1. Ngồi dưới một gốc cây,
    Ðầu trọc, đắp đại y,
    Trưởng lão tuệ đệ nhất,
    U-pa-tis tu thiền.
  2. Ðầy đủ thiền vô tầm
    Ðệ tử bậc Chánh giác,
    Với im lặng bậc Thánh,
    Ngay lúc ấy, đạt được. 

1000. Giống như ngọn núi đá, 

Không động, khéo vững trú, 

Cũng vậy, vị Tỷ-kheo, 

Ðã đoạn diệt si ám, 

Vị ấy như ngọn núi, 

Không có bị dao động.

Một hôm, bậc Trưởng lão không chú tâm, để tấm y rơi xuống. Một Sa-di nói: ‘Thưa Tôn giả y cần phải đắp xung quanh thân mình’. Tôn giả tán thán lời nói của người Sa-di và đắp lại tấm y trên thân. Và nói lên điều lỗi của mình, ngài nói bài kệ:

1001. Người không có uế nhiễm,

Luôn tầm cầu thanh tịnh,

Ác nhẹ như đầu lông,

Xem nặng như mây trời.

Rồi ngài nêu rõ sự xả ly của ngài đối với vấn đề sống chết.

1002. Ta không hoan hỷ chết, 

Ta không hoan hỷ sống

Ta sẽ bỏ thân này,

Tỉnh giác và chánh niệm.

1003.Ta không hoan hỷ chết

Ta không hoan hỷ sống,

Ta sẽ bỏ thân này,

Như thợ làm việc xong.

Rồi khi thuyết pháp, ngài nói lên những bài kệ:

1004.Cả hai chết, không chết,

Sau đời hay trước đời,

Hãy dấn thân tiến bước,

Chớ để hư, uổng phí,

Dầu một khắc, sát-na,

Chớ để uổng phí qua.

1005. Như ngôi thành biên địa,

Ðược bảo vệ trong ngoài,

Như vậy, hộ tự ngã,

Chớ để phí sát-na,

Sát-na qua, sầu muộn,

Chịu khổ trong địa ngục.

Rồi một hôm, thấy Tôn giả MahaKotthita, ngài nói lên ba câu kệ, tán thán khả năng tốt đẹp của MahàKotthita.

1006. Ðạt tịch tịnh, chỉ tức,

Ðọc chú, không cống cao,

Quét sạch các ác pháp,

Như gió quét lá cây.

1007. Ðạt tịch tịnh, chỉ tức,

Ðọc chú, không cống cao,

Gạt ngoài các ác pháp,

Như gió quét lá cây.

1008. Ðạt tịch tịnh an lặng,

Ý trong sáng không nhiễm,

Bậc trì giới trọn lành,

Có thể dứt đau khổ.

Câu kệ tiếp nói về các Tỷ-kheo xứ Vajjì tin tưởng ở Devadatta và chấp nhận giáo lý của Devadatta:

1009. Có người không ai tin,

Tại gia hay xuất gia,

Những ai trước là tốt,

Về sau trở thành xấu,

Hoặc trước là người xấu.

Sau trở thành người tốt.

1010. Hạng Tỷ-kheo tham dục,

Sống hôn trầm thụy miên,

Trạo cử và nghi ngờ,

Tâm đủ năm phiền não.

1011.Với ai, đối cả hai,

Ðược trọng, không được trọng,

Thiền định, không dao động,

An trú không phóng dật.

1012. Thiền tư luôn kiên trì,

Tuệ quán, kiến tế nhị,

Ưa thích chấp thủ diệt,

Vị ấy gọi chân nhân.

Ðể phân biệt sự sai khác, lấy Bổn Sư và mình làm thí dụ, ngài nói lên những bài kệ như sau:

1013. Biển lớn và đất lớn,

Núi và các phương trời,

Không ví dụ sánh được,

Phật, giải thoát thù thắng.

1014. Trưởng lão chuyển pháp luân,

Bậc đại trí, thiền định,

Như đất, nước và lửa,

Không tham không ghét bỏ.

1015. Ðạt được tuệ tối thắng,

Ðại giác, đại Mâu-ni,

Không chậm, tỏ chậm chạp

Thường sống thật thanh lương.

Ðể nêu rõ bổn phận của ngài đã làm xong, ngài nói:

1016. Ta hầu hạ Bổn Sư,

Lời Phật dạy làm xong,

Gánh nặng đã đặt xuống,

Gốc sanh hữu nhổ sạch.

Và khi ngài sắp nhận Niết-bàn, ngài giảng dạy các Tỷ-kheo đang họp xung quanh ngài như sau:

1017. Tinh cần, chớ phóng dật,

Ðây lời giáo huấn ta!

Ta sẽ nhập Niết-bàn,

Ta thoát mọi sanh y.

(XXLX) Ananda (Thera. 91)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh trong gia đình Thích-ca Amitedana. Vì các bà con nói ngài sanh đem hoan hỷ cho gia đình, nên được đặt tên là Ananda (Khánh Hỷ). Khi lớn lên, các sự kiện xuất gia, giác ngộ, chuyển Pháp luân được diễn ra, và sau khi Thế Tôn viếng thăm Kapilavatthu, ngài xuất gia với Bhaddiya và các người khác và được Thế Tôn thế độ cho. Sau khi nghe bài thuyết pháp của Punna Mantàni, ngài chứng được Sơ quả.

Trong hai mươi năm đầu, Thế Tôn không có thị giả riêng, khi thì Nàgasamàla, khi thì Nàgita, khi thì Upavàna, Sunakkhatta, Sa-di Cunda, Sàgata, Meghiya. Thế Tôn không có lựa chọn ai làm thị giả đặc biệt. Sau Thế Tôn khi đã năm mươi sáu tuổi, gợi ý muốn có một thị giả thường trực, có Tỷ-kheo đề nghị Ananda và Ananda chỉ nhận lời nếu Thế Tôn chịu từ chối bốn việc và chấp nhận bốn việc. Từ chối không cho Ananda, y, đồ ăn, một phòng riêng và mời ăn, vì nếu không từ chối thời Ananda bị hiểu lầm là hầu hạ Thế Tôn để được y, đồ ăn khất thực, phòng xá và mời ăn. Chấp nhận cho Ananda bốn việc là nếu Ananda được mời ăn, Thế Tôn bằng lòng đi dự; Thế Tôn bằng lòng gặp những người từ xa đi đến và do Ananda giới thiệu; Thế Tôn chấp nhận cho Ananda yết kiến nếu Ananda gặp phân vân khó xử; Thế Tôn sẽ giảng lại những giáo lý ngài dạy khi Ananda vắng mặt. Nếu Thế Tôn không chấp nhận bốn điều này, thời sự hầu hạ của Ananda không đem lại thiện quả gì. Thế Tôn chấp nhận điều Ananda yêu cầu.

Từ hôm ấy, Ananda hầu hạ Thế Tôn, đem nước, đem tăm xỉa răng, rửa chân, đi theo Thế Tôn, quét phòng cho Thế Tôn. Ban ngày, Ananda ở một bên đức Phật, nhắc nhở những điều cần làm; ban đêm cầm đèn và gậy. Ananda đi xung quanh phòng đức Phật sẵn sàng đáp ứng nếu Thế Tôn có gọi. Thế Tôn tại Jetavana, xác chứng Ananda là vị Tỷ-kheo đệ nhất về năm phương diện: Ða văn, tâm tư cảnh giác, sức mạnh đi bộ, lòng kiên trì và sự hầu hạ chu đáo. Như vậy, Ananda sau khi Thế Tôn nhập diệt vẫn chưa chứng quả A-la-hán, và đêm trước khi kỳ kiết tập thứ nhất được tổ chức, ngài phát tâm tinh cần tinh tấn, thiền quán suốt đêm, trong mái hiên nhưng chưa có hiệu quả. Rồi ngài vào phòng ngồi trên giường, muốn nằm xuống và khi đầu chưa đụng chiếc gối, chân chưa rời khỏi đất, trong khoảng thời gian ấy, ngài chứng được quả A-la-hán. Rồi ngài bước vào phòng kiết tập.

Các câu kệ của ngài được góp thâu lại và để vào trong tập Trưởng lão Tăng Kệ, khi Khuddaka Nikàya (Tiểu bộ kinh) được tụng đọc.

Những bài kệ đầu được nói lên, khi ngài khuyên các Tỷ-kheo thường thân cận với kẻ theo Devadatta:

1018. Hai lưỡi và phẫn nộ,

Xan tham, thích phá hoại,

Bậc trí không giao du,

Kẻ ác bạn kẻ xấu.

1019. Với bậc tin, dễ thương,

Vói bậc trí, nghe nhiều,

Bậc Hiền trí, giao du,

Kẻ thiện bạn chân nhân.

Các bài kệ sau được nói lên khi nữ cư sĩ Uttarà, vì nàng đẹp nên thiên về dục vọng và được nói lên để nàng thấy sự mỏng manh của thân nàng. Có người nói các bài kệ này nói lên cho những ai đắm say Ambapàli:

1020. Hãy xem bóng trang sức,

Nhóm vết thương tích tụ,

Bệnh hoạn nhiều tham tưởng,

Nhưng không gì trường cửu.

1021. Hãy nhìn sắc trang sức,

Với châu báu vòng tai,

Bộ xương, da bao phủ

Sáng chói nhờ y phục.

Hai câu kệ tiếp được vị Trưởng lão nói lên khi chứng quả A-la-hán, đêm ấy trên giường của mình:

1022. Nghe nhiều, diễn thuyết giỏi,

Thị giả bậc Giác giả,

Gánh nặng đã đặt xuống,

Ràng buộc được thoát ly,

Bậc họ Gotama,

Ðặt lưng nằm xuống nghỉ.

1023. Các lậu hoặc đoạn tận,

Ràng buộc được thoát ly,

Mọi chấp trước vượt qua,

Khéo đạt được thanh lương,

Gánh vác thân cuối cùng,

Ðến bờ kia sanh tử.

1024. Pháp an trú trong ấy,

Phật bà con mặt trời,

Trên đường đến Niết-bàn

Gotama an trú.

Một hôm Moggallàna người chăn bò, hỏi ngài lời dạy của đức Phật là gì, có bao nhiêu giáo lý tất cả. Vị Trưởng lão trả lời:

1025.Ta nhận từ đức Phật,

Tám mươi hai ngàn pháp,

Còn nhận từ Tỷ-kheo,

Thêm hai ngàn pháp nữa,

Tổng cộng tám tư ngàn,

Là pháp ta chuyển vận.

Một hôm, vị Trưởng lão nói cho một người sống bê tha phóng đãng sự nguy hiểm của một đời sống không giáo dục văn hóa:

1026. Người ít nghe ít học,

Lớn già như con bò,

Những thịt nó lớn lên,

Trí tuệ nó không lớn.

Những bài kệ tiếp nói cho vị Tỷ-kheo khinh khi những người ít học thua mình:

1027. Người học nhiều khinh miệt,

Kẻ học ít về học,

Như người mù mang đèn,

Ta có ý là vậy.

1028. Hãy kính người nghe nhiều,

Chớ hại điều sở học,

Ðấy cội gốc Phạm hạnh,

Do vậy, hãy trì pháp.

1029. Biết câu trước câu sau,

Biết nghĩa, giỏi từ cú,

Nắm giữ điều khéo nắm,

Suy tìm trên nghĩa lý.

1030. Chính nhờ đức kham nhẫn,

Sở nguyện được tác thành,

Sau khi đã tinh tấn,

Vị ấy lại cân nhắc,

Ðúng thời, ra nỗ lực,

Nội tâm khéo định tĩnh.

1031. Nghe nhiều, thọ trì pháp

Có tuệ, đệ tử Phật,

Chờ đợi thức tri pháp,

Nên thân cận vị ấy.

1032. Nghe nhiều thọ trì pháp,

Hộ tạng Ðại ẩn sĩ,

Cặp mắt, toàn thế giới,

Hãy lễ vị nghe nhiều.

1033. Ưa pháp, vui thích pháp,

Luôn suy tư Chánh pháp,

Tỷ-kheo nhớ niệm pháp,

Diệu pháp không tổn giảm.

Một hôm, ngài đốc thúc vị Tỷ-kheo dao động, biếng nhác như sau:

1034. Thân ích kỷ nặng chăng,

Không có ưa hoạt động,

Thời gian mòn mỏi qua,

Không thể đứng dậy sao?

Tham đắm theo thân lạc,

Từ đâu, Sa-môn lạc?

Những câu kệ sau, Trưởng lão Ananda đọc lên khi nghe tin Sàriputta mệnh chung:

1035. Mọi phương đều mờ mịt,

Pháp không khỏi nơi ta,

Người bạn tốt đã đi,

Tối tăm lan tràn khắp.

1036. Người bạn đã đi qua,

Ðạo Sư đã đi qua,

Bạn như vậy không còn,

Như quán thân hành niệm.

1037. Các vị xưa đã qua,

Vị mới ta không hạp,

Nay một mình ta thiền,

Như chim, khi mưa đến.

Câu kệ tiếp là của bậc Ðạo Sư. Câu tiếp là của Ananda, hoan hỷ làm theo lời vị Ðạo Sư:

1038. Từ các địa phương khác,

Nhiều người yết kiến Ta,

Chớ ngăn họ nghe pháp,

Nay thời họ gặp Ta.

1039. Từ các địa phương khác,

Quần chúng đến yết kiến,

Bổn Sư cho họ dịp,

Ðể được yết kiến Ngài;

Bậc có mắt không có,

Từ chối ngăn chận ai.

Năm câu kệ tiếp nêu rõ ngài là bậc thị giả đệ nhất:

1040. Trải hai mươi lăm năm

Ta chỉ là hữu học,

Dục tưởng không khởi lên,

Hãy xem pháp, pháp tánh.

1041. Trải hai mươi lăm năm,

Ta chỉ là hữu học,

Sân tưởng không khởi lên,

Hãy xem pháp, pháp tánh.

1042. Trải hai mươi lăm năm,

Ta hầu hạ Thế Tôn,

Với thân nghiệp từ hòa,

Như bóng không rời hình.

1043. Trải hai mươi lăm năm

Ta hầu hạ Thế Tôn,

Với khẩu nghiệp từ hòa,

Như bóng không rời hình.

1044. Trải hai mươi lăm năm,

Ta hầu hạ Thế Tôn,

Với ý nghiệp từ hòa,

Như bóng không rời hình.

1045. Khi đức Phật kinh hành,

Ta đi theo sau lưng,

Khi pháp được thuyết giảng,

Trí khởi lên nơi ta.

1046. Ta vẫn còn là người,

Có việc cần phải làm,

Ta chỉ là hữu học,

Tâm ý chưa chứng đạt,

Ðạo Sư nhập Niết-bàn,

Ai sẽ từ mẫn ta.

1047. Như vậy thật khủng khiếp

Như vậy thật kinh hoàng,

Khi bậc toàn tuyệt hảo,

Bậc Giác ngộ Niết-bàn.

Ba câu kệ tiếp, do các vị dự kỳ kiết tập thêm vào để tán thán Trưởng lão Ananda:

1048. Nghe nhiều, thọ trì pháp,

Hộ tạng Ðại ẩn sĩ,

Cặp mắt toàn thế giới,

Anan nhập Niết-bàn.

1049. Nghe nhiều, thọ trì pháp,

Hộ tạng Ðại ẩn sĩ,

Cặp mắt toàn thế giới

Ðoạn ám chỗ tối tăm.

1050. Ngài là bậc ẩn sĩ,

Với hành vị tuyệt hảo,

Với chánh niệm tuyệt hảo,

Với kiên trì tuyệt hảo,

Thọ trì chân diệu pháp,

Là Trưởng lão A-nan,

Là kho tàng sống động,

Ðầy châu báu ngọc ngà.

Câu kệ này được Ananda nói lên khi nằm trên giường, trong giờ phút cuối cùng:

1051. Ta hầu hạ Bổn Sư,

Lời Phật dạy làm xong,

Gánh nặng đã đặt xuống,

Gốc sanh hữu nhổ sạch.

Chương XVIII

-ooOoo-

Phẩm Bốn Mươi Kệ

(CCLXI) Mahà-Kassapa (Thera. 94)

Bậc Ðạo Sư đã ra đời, đang chuyển pháp luân và ở tại Ràjagaha (Vương Xá), khi ấy tại làng Bà-la-môn Mahàtittha ở Ràjagaha, ngài ra đời tên Pippali-mànava, con bà vợ chính của Bà-la-môn Kapila. Pippali-mànava, không chịu lập gia đình, xin ở nhà để hầu hạ cha mẹ, sau khi cha mẹ chết, sẽ xuất gia. Ðể làm cho bà mẹ bằng lòng, ngài cho làm tượng một thiếu nữ trẻ đẹp, mặc áo đỏ và đeo đồng trang sức, và nói với bà mẹ rằng nếu bà tìm cho được một thiếu nữ như vậy, ngài sẽ chịu lập gia đình. Bà mẹ sai các người Bà-la-môn đem theo tượng ấy và tìm cho được một thiếu nữ giống như vậy. Họ đến Sàgala, đặt tượng trên bờ sông và ngồi xuống xa bức tượng. Người vú của Bhaddà, sau khi tắm cho Bhaddà lại xuống sông tắm cho mình, thấy bức tượng, tưởng là Bhaddà và nói Bhaddà sao lại thiếu giáo dục như vậy, đánh nàng nơi má và biết được đó không phải là Bhaddà mà chỉ là một bức tượng bằng vàng. Các Bà-la-môn được đưa về nhà, được thấy Bhaddà, nhận Bhaddà giống như bức tượng và đưa tin về Kapila. Nhưng cả hai Pippali-mànava và Bhaddà đều không muốn lập gia đình, nên cả hai viết thư cho nhau nói rõ quyết định của mình. Hai người đưa thư gặp nhau giữa đường, đưa thư cho nhau coi, đánh tráo hai bức thư khác, và do vậy đám cưới được cử hành. Nhưng đêm tân hôn, hai người nằm cách nhau với một giấy hoa. Khi cha mẹ mệnh chung, cả hai quyết định cùng nhau xuất gia.

Hai người cùng mặc áo vàng, cắt tóc, mang bình bát, trước cùng đi với nhau, sau thấy bất tiện nên từ giã nhau, Pippali-mànava đi phía mặt, Bhaddà đi phía đường bên phía trái. Trước giới đức như vậy, quả đất rung động, và Thế Tôn biết được nguyên nhân nên ra ngồi giữa đường từ Nalandà đến Ràjagaha. Gặp Thế Tôn Mahà Kassapa đảnh lễ Thế Tôn, tôn Thế Tôn là bậc Thầy, tự nhận mình làm đệ tử. Cả hai về lại Magadha và Mahà Kassapa tu tập mười ba hạnh đầu đà. Ðến ngày thứ tám, ngài chứng quả A-la-hán. Bậc Ðạo Sư tuyên dương ngài là đầu đà thứ nhất. Và ngài nói lên kinh nghiệm của mình để giáo huấn các vị Tỷ-kheo.

Thấy các Tỷ-kheo ưa sống với quần chúng, và hay đến các nhà cư sĩ, ngài nói:

  1. Chớ du hành đi đầu,
    Do quần chúng tôn xưng,
    Tâm ý bị loạn động
    Thiền định khó tu chứng,
    Quần chúng tụ là khổ,
    Thấy vậy, tránh quần chúng.
  2. Bậc ẩn sĩ không đi,
    Ði đến các gia đình,
    Tâm ý bị loạn động,
    Thiền định khó tu chứng,
    Ai hăng say tham vị,
    Bỏ đích đem an lạc.
  3. Ðảnh lễ cúng dường này,
    Xuất phát từ gia đình
    Nên biết họ thực sự,
    Là đám bùn sa lầy.
    Như mũi tên tế nhị
    Rất khó rút ra khỏi,
    Kẻ xấu rất khó lòng.
    Từ bỏ sự cung kính.

II

Một lời khuyên các Tỷ-kheo hãy biết đủ với bốn vật dụng cần thiết:

  1. Từ trú xứ bước xuống,
    Ta vào thành khất thực,
    Ta cẩn thận đến gần,
    Một người cùi đang ăn.
  2. Với bàn tay lở loét,
    Nó bỏ vào một muỗng,
    Khi bỏ vào muỗng ấy,
    Ngón tay rời rơi vào.
  3. Dựa vào một chân tường,
    Ta ăn miếng ăn ấy,
    Ðang ăn và ăn xong,
    Ta không cảm ghê tởm.
  4. Miếng ăn đứng nhận được
    Xem như thuốc tiêu hôi,
    Chỗ nằm dưới gốc cây,
    Và y từ đống rác,
    Ai thọ dụng chúng được,
    Ðược gọi người bốn phương.

III

Về sau, khi được hỏi, sao ngài già như vậy, lại có thể hằng ngày leo lên đồi núi, ngài trả lời:

  1. Khi họ leo núi đá,
    Một số bị mạng chung,
    Thừa tự bậc Giác ngộ
    Tỉnh giác và chánh niệm,
    Dựa trên sức thần lực
    Kassapa leo núi.
  2. Ði khất thực trở về
    Ca-diếp leo tảng đá,
    Ngồi thiền, không chấp thủ,
    Ðoạn sợ hãi kinh hoàng.
  3. Ði khất thực trở về,
    Ca-diếp leo tảng đá,
    Ngồi thiền, không chấp thủ,
    Ðã đốt cháy, thanh lương.
  4. Ði khất thực trở về
    Ca-diếp leo tảng đá
    Ngồi thiền, không chấp thủ,
    Xong việc, không lậu hoặc.

IV

Sau khi được hỏi thêm, vì sao khi lớn tuổi ngài vẫn ở trên núi rừng? Trúc Lâm hay các tịnh xá không làm cho ngài thích ý chăng? Ngài trả lời:

  1. Khu đất thật khả ái,
    Với những vòng tràng hoa,
    Hoa tên Ka-rê-ri,
    Trải rộng ra cùng khắp,
    Với voi rú khả ý,
    Ðồi núi ấy ta thích
  2. Những hồ nước trong mát,
    Tuyệt đẹp, màu mây xanh,
    Che kín bởi loài bọ,
    Tên ‘kẻ chăn In-đa’
    Những ngọn núi đá ấy,
    Làm tâm ta thích thú.
  3. Giống đồi mây xanh biếc,
    Ví tháp đẹp lâu đài,
    Với vượn hú khả ý,
    Ðồi núi ấy, ta thích.
  4. Ðất bằng thật khả ái,
    Ðược mưa ướt thấm nhuần,
    Ðồi núi được ẩn sĩ,
    Làm thành nơi trú xứ.
    Vang lên tiếng chim công,
    Ðồi núi ấy ta thích.
  5. Vừa đủ ta chánh niệm,
    Hăng hái muốn tu thiền,
    Vừa đủ ta Tỷ-kheo
    Hăng hái muốn phước lợi.
  6. Vừa đủ ta Tỷ-kheo,
    Hăng hái muốn an lạc,
    Vừa đủ ta Tỷ-kheo,
    Hăng hái tu Du-già.
  7. Tràn đầy hoa cây gai,
    Như trời phủ làn mây,
    Ðầy mọi loài chim chóc,
    Ðồi núi ấy ta thích.
  8. Không đông chúng gia chủ
    Chỗ trú xứ đoàn thú,
    Ðầy mọi loài chim chóc,
    Ðồi núi ấy ta thích.
  9. Dưới tảng đá, băng đá,
    Có nước suối trong chảy,
    Có khỉ và có nai,
    Lai vãng sống gần bên,
    Cỏ cây bao trùm nước,
    Ðồi núi ấy ta thích.
  10. Người vậy không ưa thích,
    Cả năm loại nhạc khí,
    Khi đã được nhất tâm,
    Chơn chán thiền quán pháp.

V

Khi khuyên bảo các Tỷ-kheo thích thú các tục sự, và tham các vật cúng dường cần thiết cho sự sống, ngài nói:

  1. Chớ làm quá nhiều việc,
    Tránh quần chúng đua tranh,
    Người siêng tham đắm vị,
    Bỏ đích đem an lạc.
  2. Chớ làm nhiều công việc,
    Tránh việc không lợi này,
    Thân cực nhọc mệt mỏi,
    Người khổ không an chỉ.

VI

Các câu kệ sau được nói lên để khuyên bảo trong một vài trường hợp:

  1. Chỉ lắp bắp cái môi,
    Không thấy được tự ngã,
    Cổ cứng đờ nó đi,
    Nó nghĩ: ta tốt hơn.
  2. Không hơn nghĩ tốt hơn,
    Kẻ ngu nghĩ tự ngã,
    Bậc trí không tán thán,
    Người có trí cứng đờ.
  3. Ta tốt hơn, hay là
    Ta không được tốt hơn,
    Hay ta là dở hơn,
    Ta cũng tốt như vậy,
    Ai không có dao động
    Trong các loại mạn này.
  4. Có tuệ, nói như thật,
    Khéo định tĩnh trong giới,
    Ðạt được tâm an chỉ,
    Người ấy kẻ trí khen.
  5. Ai giữa đồng Phạm hạnh
    Không được có kính trọng,
    Vị ấy xa diệu pháp,
    Như đất xa bầu trời.
  6. Những ai có tàm quý,
    Thường chơn chánh an trú,
    Phạm hạnh được tăng trưởng,
    Họ đoạn được tái sanh.
  7. Tỷ-kheo cống cao động
    Dầu đắp y đống rác,
    Như con khỉ đội lốt,
    Với da con sư tử,
    Người vậy không có thể,
    Chói sáng nhờ y ấy.
  8. Không cống cao, không động,
    Thận trọng, căn chế ngự,
    Chói sáng với tấm y
    Ðược lượm từ đống rác,
    Chẳng khác con sư tử,
    Trong hang động núi rừng.

VII

Khi thấy chư Phạm thiên đảnh lễ ngài Sàriputta, và thấy Trưởng lão Kappina mỉm cười, ngài nói:

  1. Rất nhiều chư Thiên này
    Có thần thông, lừng danh,
    Cả mười ngàn chư Thiên,
    Tất cả Phạm hạnh chúng thiên.
  2. Ðứng đảnh lễ, chấp tay
    Ðối ngài Xá-lợi-phất,
    Vị tướng quân Chánh pháp
    Sáng suốt, đại thiền định.
    Ðảnh lễ bậc Thượng sanh,
    Ðảnh lễ bậc Tối thượng.
  3. Dựa vào gì, thiền tu,
    Chúng tôi không thắng trí.
  4. Kỳ diệu thay chư Phật,
    Hành xứ ngài thâm sâu,
    Chúng con không nghĩ được
    Dầu chúng con hội đủ
    Tài nghệ người bắn cung,
    Có thể chẻ sợi tóc.
  5. Khi thấy Xá-lợi-phất
    Xứng đáng được đảnh lễ,
    Ðược Phạm thiên chúng ấy,
    Ðảnh lễ, kính như vậy,
    Tôn giả Kappina,
    Liền mỉm cười vui vẻ.

VIII

Trưởng lão Kassapa rống lên tiếng rống sư tử của mình:

  1. Trong đám ruộng đệ tử
    Những vị theo đức Phật,
    Ngoại trừ bậc Tối tôn,
    Ðại ẩn sĩ Mâu-ni,
    Ta ưu việt Ðầu đà.
    Không ai bằng ta được.
  2. Ta hầu hạ Bổn Sư,
    Lời Phật dạy làm xong,
    Gánh nặng đã đặt xuống,
    Gốc sanh hữu nhổ sạch.
  3. Không nhiễm dính y phục
    Chỗ nằm và đồ ăn,
    Không thể trắc lường được
    Là con bậc Gotama!
    Như hoa sen trong sạch,
    Không thể dính nước vào,
    Ý thiên về xuất ly,
    Thoát ly cả ba giới.
  4. Với bậc Ðại ẩn sĩ,
    Cổ dựng trên niệm xứ,
    Tay dựa trên đức tin,
    Với đầu là Trí tuệ
    Bậc Ðại trí luôn luôn,
    Hành trì thật thanh lương.

Chương XIX

-ooOoo-

Phẩm Năm Mươi Kệ

(CCLXII) Tàlaputta (Thera. 97)

Trong thời gian đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình kịch sĩ, trở thành thiện xảo trong nghề diễn kịch thích hợp với người trong gia tộc và trở thành lừng danh khắp Ấn Ðộ, như nhà lãnh đạo một ban hát với năm trăm nữ nhân, với sự huy hoàng của nghề kịch, ngài dự các lễ ở làng, ở thị trấn, ở cung điện vua, và rất được sủng ái và danh tiếng. Khi ngài trình diễn ở Ràjagaha với nhiều thành công, ngài đến yết kiến đức Phật và hỏi có phải một kịch sĩ khi trên sâu khấu giả danh sự thật, làm cho khán giả ưa thích, vui cười, người ấy sau khi chêt được sanh vào chư Thiên hay cười. Ðức Phật ban đầu không trả lời. Ðến khi hỏi lần thứ tư, đức Phật trả lời những ai khiến cho con người thiên về tình dục, tiêu cực tâm tư hoang mang khiến người ta mất nhiệt tình, người như vậy sau khi chết sẽ sinh vào địa ngục. Nhưng nếu có tà kiến thời bị sanh vào địa ngục và súc sanh. Tàlaputta khóc không phải vì đức Phật nói chỗ tái sanh, chỉ vì bị các kịch sĩ xưa lừa dối nói rằng kịch sĩ sẽ được sanh trong một đời sống hạnh phúc.

Rồi Tàlaputta nghe lời đức Phật thuyết pháp, khởi lòng tin, xuất gia và sau một thời tu tập, chứng quả A-la-hán. Rồi nêu rõ với nhiều chi tiết, như thế nào ngài chế ngự và làm cho trong sạch tâm tư, đi đến chỗ giác ngộ thâm sâu, ngài nói lên những câu kệ như sau:

I

  1. Khi nào ta sẽ đến,
    Một mình, không có hai,
    Ở trong những hang động,
    Của các loại núi rừng,
    Ta quán mọi sanh hữu,
    Tất cả là vô thường,
    Nay ta là như vậy,
    Khi nào ta sẽ vậy?
  2. Khi nào ta sẽ là,
    ẩn sĩ mang y vá,
    Mang y vải màu vàng,
    Không của ta, không ái,
    Ðoạn trừ, diệt tham tâm,
    Ðoạn luôn cả sân, si,
    Ta đi đến khu rừng,
    Sẽ trú trong an lạc.
  3. Khi nào ta thấy được
    Thận này là vô thường,
    Bị chết già áp bức,
    Ổ giết chóc, bệnh tật
    Ta sẽ trú trong rừng,
    Một mình, quán vô úy
    Khi nào sẽ là vậy?
  4. Khi nào ta sẽ lấy
    Gươm sắc bén trí tuệ,
    Chặt dây leo khát ái,
    Với nhiều dây chằng chịt,
    Sanh khởi lên sợ hãi,
    Mang đến sự khổ đau.
    Khi nào sẽ là vậy?
  5. Khi nào ta sẽ là,
    Có sức mạnh rút gươm,
    Gươm do tuệ tạo thành,
    Là lửa sáng ẩn sĩ;
    Với sức mạnh đập tan
    Ác ma với Ma quân
    Trên chỗ ngồi sư tử,
    Khi nào sẽ là vậy?
  6. Khi nào ta sẽ được
    Hội tụ với bậc thiện,
    Ðược thấy giữa các vị,
    Ðảm nhận các trọng pháp,
    Tinh cần với các vị,
    Thấy sự vật như thật,
    Chiến thắng được các căn
    Khi nào sẽ là vậy?
  7. Khi nào nhác đói khát
    Gió, nóng, trùng bò sát,
    Sẽ không não hại ta,
    Ở Gi-ri-bhaje,
    Ðang lo đến tự ngã,
    Khi nào sẽ là vậy?
  8. Khi nào ta có thể
    Chánh niệm, gã định tĩnh
    Hiểu được với trí tuệ,
    Bốn sự thật khéo giảng,
    Bởi bậc Ðại ẩn sĩ,
    Khi nào sẽ là vậy?
  9. Khi nào ta sẽ chuyên
    Chú tâm vào an chỉ,
    Thấy được với trí tuệ,
    Sắc, thanh, hương, vị, xúc,
    Các pháp vô thường này,
    Như lửa cháy hừng đỏ,
    Khi nào ta sẽ vậy?
  10. Khi nào ta bị nói,
    Với lời nói thô ác,
    Không vì lý do ấy,
    Tâm trí bị thất vọng.
    Khi được lời tán thán,
    Không vì lý do ấy,
    Tâm tư được thỏa mãn.
    Khi nào ta sẽ vậy?
  11. Khi nào nhiều như củi,
    Cỏ, cây leo, thân cây,
    Ta cân nhắc bình đẳng,
    Những pháp vô lượng này,
    Nội pháp và ngoại pháp,
    Khi nào ta sẽ vậy?
  12. Khi nào mây đem mưa,
    Với nước mới trong rừng,
    Làm ướt y áo ta,
    Ta đi trên đường ướt,
    Con đường ẩn sĩ đi.
    Khi nào sẽ là vậy?
  13. Khi nào nghe trong rừng,
    Tiếng kêu của loài chim,
    Chim công, có mào đầu.
    Trong hang động núi rừng,
    Ta an trú suy tư,
    Ðể đạt quả bất tử,
    Khi nào ta sẽ vậy?
  14. Khi nào với thần thông,
    Ta có thể vượt qua,
    Không chìm, không sợ hãi,
    Sông Hằng, Yamunà,
    Sông Sarasvati,
    Với cửa sông hãi hùng,
    Với nước ào vực sâu,
    Khi nào sẽ là vậy?
  15. Khi nào, như con voi,
    Trên chiến trường tấn công,
    Ta sẽ phá tan tành,
    Lòng dục đối dục cảnh,
    Chuyên chú trong thiền định,
    Từ bỏ mọi tịnh tướng,
    Khi nào sẽ là vậy?
  16. Khi nào như người nghèo
    Mắc nợ chưa trả được,
    Bị kẻ giàu thúc bách,
    Tìm ra được của chôn,
    Ta sẽ được thoải mái,
    Họ được lời giảng dạy,
    Của vị Ðại ẩn sĩ,
    Khi nào sẽ được vậy?

II

  1. Nhiều năm ta được ngươi,
    Yêu cầu làm như sau:
    Như vậy là vừa rồi,
    Ngươi sống đời gia đình,
    Nay ta đã xuất gia,
    Do vậy, hỡi này tâm,
    Do vì lý do gì,
    Ngươi không có chuyên tâm?
  2. Này tâm, phải chăng ngươi,
    Yêu cầu ta như sau:
    Tại Giribbaje
    Loài chim có lông sáng,
    Ðón chào với tiếng kêu,
    Sấm của Ðại In-da.
    Hãy làm vị ấy vui,
    Ðang tu thiền trong rừng.
  3. Trong gia đình, bạn bè,
    Người yêu và bà con,
    Các du hí ở đời,
    Các đối tượng của dục,
    Tất cả đều từ bỏ,
    Ta chấp nhận thế này.
    Hỡi này tâm, ngươi không
    Bằng lòng với ta chăng?
  4. Việc này chỉ vì ta,
    Ðây không vì người khác,
    Khi đến thời vũ trang,
    Sao lại còn than khóc?
    Thế giới này toàn động,
    Chờ đợi là như vậy.
    Nên ta đã ra đi,
    Tìm cầu đạo bất tử.
  5. Vị nói điều khó nói,
    Tối thượng loài hai chân,
    Bậc Y vương vĩ đại,
    Ðánh xe điều ngự người,
    Với tâm không tham dục,
    Ngài khéo chế ngự được,
    Người khó lòng chế ngự,
    Chế ngự được tâm người,
    Vọng động như con vượn.
  6. Các dục có nhiều vẻ.
    Dịu ngọt, rất khả ý,
    Ở đây, hàng phàm phu,
    Vô trí, bị trói buộc.
    Họ muốn chịu đau khổ,
    Khi họ tìm tái sanh,
    Dắt dẫn bởi tâm họ,
    Họ chết trong địa ngục.
  7. Trong khu rừng vang lên,
    Tiếng chim công, chim cò,
    Chỗ trú xứ ưu tiên,
    Của loài beo, loài cọp,
    Ngươi sống tại chỗ ấy,
    Chớ chờ đợi về thân,
    Chớ có quá đam mê,
    Này tâm, hãy khích lệ,
    Hãy khuyên ta như trước,
  8. Hãy tu thiền, căn, lực
    Hãy tu định giác chi,
    Hãy giác chứng ba minh,
    Trong lời dạy đức Phật,
    Này tâm, hãy khích lệ,
    Hãy khuyên ta như trước.
  9. Hãy tu tập con đường
    Ðể đạt được bất tử,
    Ðường đưa đến thể nhập,
    Chỗ đoạn diệt mọi khổ.
    Con đường có tám ngành,
    Rửa sạch mọi uế nhiễm.
    Này tâm, hãy khích lệ,
    Hãy khuyên ta như trước.
  10. Hãy như lý quán sát,
    Các uẩn là đau khổ,
    Hãy từ bỏ xa ngươi,
    Những nguyên nhân đau khổ.
    Ngay trong thời hiện tại,
    Hãy chấm dứt đau khổ,
    Này tâm, hãy khích lệ,
    Hãy khuyên ta như trước.
  11. Hãy như lý tuệ quán,
    Là vô thường, là khổ,
    Là không, là vô ngã,
    Là tà ác, sát hại,
    Hãy chế ngự tâm ngươi,
    Chớ để nó chạy loạn.
    Này tâm, hãy khích lệ,
    Hãy khuyên ta như trước.
  12. Trọc đầu và xấu sắc,
    Ði đến bị nguyền rủa,
    Khi khất thực gia đình,
    Tay cầm hình đầu lâu,
    Nay ngươi có chú tâm,
    Vào lời dạy Bổn Sư,
    Vào lời Ðại ẩn sĩ,
    Này tâm, hãy khích lệ
    Hãy khuyên ta như trước.
  13. Hãy đi trên con đường,
    Tự ngã khéo chế ngự,
    Giữa các nhà, tâm ý
    Không ái luyến các dục,
    Như trăng vào tháng tròn,
    Không có bợn mây mù.
    Này tâm, hãy khích lệ,
    Hãy khuyên ta như trước.
  14. Hãy sống trong rừng núi,
    Ăn đồ ăn khất thực,
    Sống tại chỗ nghĩa địa,
    Mặc y lượm đống rác.
    Chỉ có ngồi không nằm
    Luôn vui hạnh Ðầu-đà,
    Này tâm, hãy khích lệ,
    Hãy khuyên ta như trước.
  15. Như người đã trồng cây,
    Liền tìm cho được trái,
    Nay ngươi ước muốn trái,
    Há chặt rễ cây sao?
    Này tâm, thật giống như,
    Ví dụ ngươi đã làm,
    Khi ngươi khích lệ ta,
    Trong vô thường dao động.
  16. Ngươi, vô sắc, cô độc,
    Kẻ lữ hành từ xa,
    Nay ta sẽ không làm,
    Theo lời nói của ngươi.
    Các dục là khổ đau,
    Cay đắng, sợ hãi lớn,
    Tâm hướng vọng Niết-bàn,
    Ta sẽ bước, đi tới.
  17. Ta đi tới xuất gia,
    Không phải vì bất hạnh,
    Không đùa vô liêm sỉ,
    Không vì duyên tâm hứng,
    Không bị đày đi xa,
    Không vì nhân mạng sống,
    Khi ta đã bằng lòng,
    Này tâm, đối với ngươi.
  18. Ít dục được tán dương,
    Bởi những bậc chân nhân,
    Kể cả đoạn giả dối,
    Và an tịnh đau khổ.
    Như vậy, hỡi này tâm,
    Khi ngươi khích lệ ta,
    Còn nay ngươi đi ngược,
    Ðiều ngươi trước quen làm.
  19. Khát ái và vô minh,
    Ðáng thương và đáng ghét,
    Sắc đẹp và lạc thọ,
    Dục trưởng dưỡng hấp dẫn,
    Tất cả đã quăng bỏ,
    Ta không có cố gắng,
    Ði đến một lần nữa,
    Những đồ đã quăng bỏ.
  20. Này tâm, khắp mọi nơi,
    Ta làm theo lời ngươi,
    Trải qua nhiều đời sống,
    Ngươi không tức giận ta,
    Và thân nội sanh này,
    Là lòng ngươi biết ơn!
    Trên đường luân hồi dài,
    Khổ do chính ngươi tạo.
  21. Này tâm, chính ngươi làm
    Tác thành con người ta,
    Chính ngươi làm, ta thành,
    Thành một Bà-la-môn,
    Thành vua chúa hoàng tộc,
    Một ngày là người buôn,
    Ngày kia thành nô tỳ,
    Hoặc thành loại chư Thiên.
    Tất cả đều do ngươi,
    Chính do ngươi tác thành.
  22. Chính do nhân nhà ngươi,
    Chúng ta thành Tu-la,
    Chính do ngươi tác thành,
    Ta rơi đáy địa ngục;
    Một thời thành súc sanh,
    Một thời thành ngạ quỷ,
    Tất cả đều do ngươi,
    Chính do ngươi tác thành.
  23. Ngươi sẽ không lừa ta,
    Nhiều lần, nhiều thời nữa,
    Như những người phù thủy,
    Bày các trò ảo thuật,
    Ngươi chơi lừa phỉnh ta,
    Như chơi với người điên,
    Này tâm, hãy nói ta,
    Chỗ nào ta lỗi lầm.
  24. Trước tâm này lang thang,
    Chạy chỗ này chỗ khác,
    Chạy chỗ nó ưa thích,
    Chạy chỗ nó vui sướng,
    Nay ta chế ngự tâm,
    Với như lý tư duy,
    Như câu móc chế ngự,
    Nhiếp phục con voi rừng.
  25. Với ta, bậc Ðạo Sư,
    Xác định đời vô thường,
    Ðời không có trường cửu,
    Ðời không có kiên thực.
    Này tâm, hãy đẩy ta,
    Nhảy vào lời Phật dạy,
    Khiến ta vượt bộc lưu,
    Rất khó được vượt qua.
  26. Ta nay đã xuất gia,
    Trong pháp Ðại ẩn sĩ
    Những người giống như ta,
    Không chấp nhận tổn thất.
  27. Rừng, biển, sông, đất liền,
    Bốn phương, phụ trên dưới,
    Tất cả là vô thường,
    Ba hữu là hoạn nạn,
    Này tâm, hãy đi đâu?
    Ngươi sẽ hưởng an lạc.
  28. Kìa, kìa, hỡi này tâm,
    Ðích ta thật vững chắc,
    Người sẽ làm được gì,
    Khiến ta phải quay lại,
    Này tâm, ta đâu còn,
    Tùy thuộc thế lực ngươi,
    Không ai chịu xúc chạm,
    Cái bị có hai miệng,
    Gớm ghiếc thay cái vật,
    Ðầy chín dòng chảy nước.
  29. Ôi, ngươi sẽ ưa sống,
    Trên đảnh sườn núi cao,
    Chỗ ở đàn heo nai,
    Hay cảnh đẹp thiên nhiên,
    Hay trong núi rừng sâu,
    Thấm mát mưa nước mới,
    Tại đấy ngươi sẽ thích,
    Ngươi lấy hang làm nhà.
  30. Loài chim lông cổ đẹp,
    Với mào đẹp, cánh đẹp,
    Với lông nhiều màu sắc,
    Ðón chào tiếng sấm vang,
    Với tiếng kêu dịu ngọt,
    Chúng sẽ làm ngươi thích,
    Ngươi tu tập thiền định,
    Trong núi rừng thâm sâu.
  31. Khi trời đổ mưa xuống,
    Trên đám cỏ bón phân,
    Và trong rừng nở hoa.
    Với đầu hoa như mây,
    Giữa rừng, ta sẽ nằm,
    Chẳng khác gì khúc cây,
    Ðối ta, rất mềm dịu,
    Thật giống như giường bông.
  32. Như vậy, ta sẽ làm,
    Giống như người chủ nhà,
    Những gì ta nhận được,
    Ta xem là vừa đủ,
    Như thợ da không nhác,
    Khéo làm cho nhuần nhuyễn,
    Cái bị bằng da mèo.
  33. Như vậy ta sẽ làm,
    Giống như người chủ nhà,
    Những gì ta nhận được,
    Ta xem là vừa đủ,
    Tinh tấn ta dẫn ngươi,
    Rơi vào thế lực ta.
    Như voi say bị nài,
    Khéo dùng móc chế ngự.
  34. Với ngươi khéo nhiếp phục,
    Khéo an trú vững vàng,
    Như người huấn luyện ngựa,
    Với con ngựa thuần thục,
    Ta có thể dấn bước
    Trên con đường an lành,
    Con đường được những vị
    Hộ trì tâm thường dùng.
  35. Ta sẽ trói chặt ngươi,
    Vào đối tượng cần thiết,
    Như con voi bị dây
    Trói chặt vào cây cột.
    Ta khéo hộ trì ngươi,
    Khéo luyện với chánh niệm.
    Nhờ vậy, ngươi sẽ thành,
    Không dựa mọi sanh hữu.
  36. Với tuệ, chặt tà đạo,
    Với lực, chận, hướng chánh
    Thấy tập khởi, diệt sanh,
    Ngươi sẽ là thừa tự
    Bậc phát ngôn tối thượng.
  37. Này tâm, ngươi dẫn ta,
    Ðến ngôi làng thô lỗ,
    Khiến trú vào thế lực
    Của bốn tưởng điên đảo,
    Hãy đến, theo vị ấy
    Vị chặt đứt kiết sử,
    Bậc có tâm đại bi,
    Bậc Mâu-ni vĩ đại.
  38. Như loài thú tự do,
    Trong ngôi rừng đẹp đẽ.
    Ngươi vào núi xinh đẹp
    Có mây làm vòng hoa,
    Tại đấy, không có người,
    Trong rừng ngươi sẽ thích,
    Nay tâm, chắc chắn vậy
    Ngươi sẽ đến bờ kia.
  39. Những ai còn rơi vào,
    Thế lực ý muốn ngươi,
    Nam nhân và nữ nhân,
    Hưởng an lạc ngươi cho
    Không trí, bị rơi vào
    Trong thế lực Ác-ma,
    Ai ưa thích sanh hữu,
    Sẽ là thuộc hạ ngươi,
    Hỡi này tâm của ta.

Chương XX

-ooOoo-

Phẩm Sáu Mươi Kệ

(CCLXIII) Mahà-Moggallàna (Thera. 104)

Ðời ngài được kể với đời ngài Sàriputta (CCLIX). Sau khi xuất gia một tuần, ở gần làng Kallavàla tại Magadha, trong khi du hành ngài bị hôn trầm thụy miên và được Thế Tôn dạy: ‘Này Moggallàna, biếng nhác không giống với im lặng của bậc Thánh’. Ngài liền tinh tấn chế ngự sự yếu đuối của mình. Khi chỉ nghe đề tài về các giới do đức Phật giảng dạy, ngài chứng được quả A-la-hán. Một thời, Thế Tôn ở tại Jetavana, xác chứng ngài là bậc thần thông đệ nhất. Các bài kệ của ngài được kiết tập thứ nhất.

I

Khích lệ các Tỷ-kheo:

  1. Chúng ta người ở rừng,
    Sống đồ ăn khất thực,
    Bằng lòng với miếng ăn
    Ðược bỏ rơi trong bát,
    Phá nát ma, ma quân,
    Nếu nội tâm khéo định.
  2. Chúng ta người ở rừng,
    Sống đồ ăn khất thực,
    Bằng lòng với miếng ăn,
    Ðược bỏ rơi trong bát,
    Dẹp sạch ma, ma quân,
    Như voi, nhà bằng lau.
  3. Chúng ta ở gốc cây,
    Nhẫn nại, tâm kiên trì,
    Bằng lòng với miếng ăn,
    Ðược bỏ rơi trong bát,
    Phá nát ma, ma quân,
    Nếu nội tâm khéo định
  4. Chúng ta ở gốc cây,
    Nhẫn nại, tâm kiên trì,
    Bằng lòng với miếng ăn,
    Ðược bỏ rơi trong bát,
    Dẹp sạch ma, ma quân,
    Như voi, nhà bằng lau.

II

Với một kỹ nữ muốn cám dỗ ngài:

  1. Với am, sườn bằng xương,
    May dính với gân thịt,
    Gớm thay, đầy hơi thối!
    Mang tay chân người khác,
    Làm thân thể của mình!
  2. Cái bị đựng đầy phân,
    Ðược da bao bọc lại,
    Ôi con Quỷ cái kia!
    Với vú bị ung nhọt,
    Thân Ngươi, chín dòng nước
    Luôn luôn được tuôn chảy.
  3. Thân Ngươi chín dòng nước
    Hôi thối, tạo trói buộc,
    Tỷ-kheo tránh thân ấy,
    Như kẻ sạch tránh phân.
  4. Nếu người khác biết Ngươi
    Như ta biết được Ngươi,
    Người ấy tránh xa Ngươi,
    Như khi mưa tránh phân.

Người đàn bà ấy cảm thấy hổ thẹn, đảnh lễ vị Truởng lão rồi thưa:

  1. Thật là vậy, Ðại hùng,
    Như Sa-môn, ngài nói:
    Ở đây, có kẻ đắm,
    Như bò già trong bùn.

Bậc Trưởng lão:

  1. Ai nghĩ có thể nhuộm,
    Bầu trời với màu nghệ,
    Hoặc với màu sắc khác
    Kẻ ấy chỉ thất bại.
  2. Tâm ta giống trời ấy,
    Nội tâm khéo định tĩnh,
    Chớ đem ác tâm đến
    Như chim rơi đống lửa.
  3. Hãy xem bóng trang sức
    Nhóm vết thương tích tụ,
    Bệnh hoạn nhiều tham tưởng
    Nhưng không gì trường cửu.

III

Khi được tin Trưởng lão Sàriputta viên tịch:

  1. Ôi, thật hãi hùng thay!
    Ôi! Lông tóc dựng ngược,
    Bậc đủ nhiều đức tánh,
    Xá-lợi-phất nhập diệt.
  2. Các hành là vô thường
    Có sanh phải có diệt,
    Sau khi sanh, chúng diệt,
    Nhiếp chúng là an lạc.

IV

Nói về Trưởng lão Tissa:

  1. Những ai thấy năm uẩn,
    Là khác, không phải ngã,
    Quán thấu vật tế nhị,
    Như tên đâm mũi tóc.
  2. Những ai thấy các hành,
    Là khác, không phải ngã,
    Chúng thấu triệt tế nhị,
    Như têm đâm mũi tóc.

V

Nói về Trưởng lão Vaddhamàna
1163. Như bị kiếm chém xuống,
Như bị lửa cháy đầu,
Vị Tỷ-kheo xuất gia,
Chánh niệm, đoạn tham dục.

  1. Như bị kiếm chém xuống,
    Như bị lửa cháy đầu,
    Vị Tỷ-kheo xuất gia,
    Chánh niệm, đoạn tham hữu.

VI

Tuyên bố liên hệ đến kinh Pàsàdakamma:

  1. Ðược khuyên bảo bởi vị,
    Ðã tu tập tự ngã,
    Mang thân này tối hậu,
    Với ngón chân ta làm,
    Rung chuyển cả lâu đài,
    Migàramàtu.

VII

Nói liên hệ với một Tỷ-kheo:

  1. Không với nhu nhược này,
    Không với ít lực này
    Có thể chứng Niết-bàn,
    Giải thoát mọi buộc ràng.
  2. Vị Tỷ-kheo trẻ này,
    Con người tối thượng này,
    Chiến thắng ma, ma quân,
    Mang thân này tối hậu.

VIII

Về đời sống viễn ly của mình:

  1. Giữa đồi Vebhàra,
    Giữa đồi Pandava,
    Sét đánh vào hang động,
    Con bậc Vô tỷ ấy,
    Ðã đi vào hang núi,
    Ðang ngồi nhập thiền định.

IX

Ði vào Ràjagaha (Vương Xá) để khất thực, ngài khuyến giáo người cháu của Sàriputta, một Bà-la-môn có tà kiến, người này thấy ngài Ðại-ca-diếp, cảm thấy ghê tởm, như thấy được một nữ thần bất hạnh.

An tịnh và thoải mái,
Ẩn sĩ trú vùng xa,
Thừa tự Phật tối thắng,
Ðược Phạm thiên tán thán.

  1. Hỡi này Bà-la-môn,
    Hãy đảnh lễ Ca-diếp,
    Ngài là con thừa tự,
    Bậc Giác Ngộ tối thắng,
    Ẩn sĩ trú vùng xa
    An tịnh và thoải mái.
  2. Vị trải trăm đời sống,
    Ðều thuộc dòng Phạm chí,
    Học giả, giỏi Vệ-đà,
    Sanh tiếp tục làm người.
  3. Dầu là bậc giáo sư,
    Thấu triệt ba Vệ-đà,
    Ðảnh lễ vị như vậy,
    Chỉ giá một mười sáu.
  4. Vị ấy trước bữa ăn,
    Thấy được tám giải thoát.
    Thuận hướng và nghịch hướng.
    Rồi mới đi khất thực.
  5. Chớ có đến tấn công
    Một Tỷ-kheo như vậy,
    Hỡi này Bà-la-môn,
    Chớ có đào tự ngã,
    Hãy khởi ý tín nhiệm
    Vị La hán như vậy,
    Chấp tay đảnh lễ gấp,
    Chớ để đầu ông hỏng.

X

Khi khuyến giáo một Tỷ-kheo tên Potthila:

  1. Người không thấy diệu pháp,
    Dẫn đầu về luân hồi,
    Chạy theo hướng tà đạo,
    Ðường cong không nên đi.
  2. Như con sâu dính phân,
    Say mê theo các hành,
    Ðắm sâu vào lợi danh,
    Trống rỗng, hỡi Pôt-thi.

XI

Tán thán Tôn giả Sàriputta:

  1. Hãy xem Tôn giả này
    Xá-lợi-phất đẹp sắc,
    Giải thoát cả hai phần,
    Nội tâm khéo định tĩnh.
  2. Không bị tên khát ái,
    Các kiết sử đoạn tận,
    Ba minh đã đạt được,
    Sát hại xong thần chết,
    Ðáng được người cúng dường,
    Là ruộng phước vô thượng.

XII

Do ngài Sàriputta nói lời tán thán Moggallàna:

  1. Có nhiều chư Thiên này,
    Có thần lực danh xưng,
    Ðến mười ngàn chư Thiên
    Tất cả Phạm phụ Thiên.
    Họ đứng chấp hai tay
    Ðảnh lễ Mục-kiền-liên.
  2. Ðảnh lễ thượng sanh nhân!
    Ðảnh lễ vô thượng nhân!
    Lậu hoặc ngài đã đoạn,
    Ngài xứng được cúng dường.
  3. Ðược trời người đảnh lễ,
    Ðã sanh, bậc thắng chết,
    Như sen không dính nước,
    Ngài không dính các hành.
  4. Vị trong một sát-na,
    Biết đời, dưới ngàn cách,
    Chẳng khác Ðại Phạm Thiên,
    Tỷ-kheo ấy Thiên tử
    Ðầy đủ thần thông lực,
    Thấy được những thời cơ
    Chết sống của mọi loài.

XIII

Mahà-Moggàllàna nói lên, xác nhận khả năng của mình:

  1. Xá-lợi-phất với tuệ,
    Giới hạnh, an tịnh tâm,
    Tỷ-kheo đến bờ kia,
    Vị ấy thật tối thượng.
  2. Nhưng ta ngay giây phút
    Ðến trăm ngàn triệu lần,
    Biến hóa tự thân được,
    Ta thiện xảo biến hóa,
    Thuần thục với thần thông.
  3. Dòng họ Môg-gal-la,
    Sống thiền định trí tuệ
    Ði đến bờ bên kia,
    Không ái giáo pháp đạt.
    Hiền trí, các căn tịnh,
    Chặt đứt các trói buộc,
    Như voi bựt đứt ngang,
    Dây leo đã mục nát.
  4. Ta hầu hạ Bổn Sư,
    Lời Phật dạy làm xong,
    Gánh nặng đã đặt xuống,
    Gốc sanh hữu nhổ sạch.
  5. Sanh của ta đã tận,
    Chiến thắng dạy làm xong,
    Lưới danh được đoạn diệt,
    Gốc sanh hữu nhổ lên,
    Mục đích hạnh xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Ðích ấy đã đạt được,
    Mọi kiết sử diệt xong.

La mắng Màra đã vào và ra khỏi bụng ngài:

  1. Ðịa ngục ấy thế nào,
    Dù si bị nấu sôi,
    Vì đánh Vidhura,
    Ðệ tử Kà-kùsandha.
  2. Có trăm loại cọc sắt,
    Tự cảm thọ riêng biệt,
    Ðịa ngục là như vậy,
    Dù si bị nấu sôi,
    Vì đánh Vidhura,
    Ðệ tử Kakusandha.
  3. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
    Hiểu biết rõ như vậy,
    Vì người đánh Tỷ-kheo,
    Kanha chịu khổ thọ.
  4. Dựng lên giữa biển cả,
    Cung điện trải nhiều kiếp,
    Bằng ngọc chói lưu ly,
    Huy hoàng cùng chiếu diệu,
    Tiên nữ múa tại đây,
    Trang sức màu dị biệt.
  5. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
    Hiểu biết rõ như vậy,
    Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
    Kanha chịu khổ thọ.
  6. Ai Thế Tôn khuyến khích,
    Chúng Tỷ-kheo chứng kiến,
    Với ngón chân rung chuyển
    Lầu mẹ Migàra.
  7. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
    Hiểu biết rõ như vậy,
    Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
    Kanha chịu khổ thọ.
  8. Với ngón chân rung chuyển,
    Lầu Vi-ja-yan-ta,
    Ðầy đủ thần thông lực,
    Chư Thiên cũng hoảng sợ.
  9. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
    Hiểu biết rõ như vậy,
    Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
    Kanha chịu khổ thọ.
  10. Ai hỏi vị Sakka,
    Tại lầu Vijayan,
    Hiền giả, ngươi có biết,
    Ái tận được giải thoát?
    Sakka đã chân thành,
    Trả lời câu được hỏi.
  11. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
    Hiểu biết rõ như vậy,
    Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
    Kanha chịu khổ thọ.
  12. Ai từng hỏi Phạm thiên
    Tại hội chúng Thiện Pháp:
    Hiền giả nay vẫn chấp,
    Các tà kiến thuở xưa,
    Có thấy cảnh huy hoàng
    Phạm thiên cảnh thiên giới.
  13. Brahmà đã chân thành,
    Tiếp tục đáp câu hỏi:
    Tôn giả tôi không chấp
    Các tà kiến thuở xưa.
  14. Tôi thấy sự huy hoàng
    Phạm thiên cảnh thiên giới,
    Sao nay tôi nói được,
    Tôi thường hằng thường tại?
  15. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
    Hiểu biết rõ như vậy,
    Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
    Kanha chịu khổ thọ.
  16. Ai với sự giải thoát,
    Cảm xúc Cao Sơn đảnh,
    Rừng đông Videha
    Và người nằm trên đất,
  17. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
    Hiểu biết rõ như vậy.
    Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
    Kanha chịu khổ thọ.
  18. Thật sự lửa không nghĩ:
    ‘Ta đốt cháy kẻ ngu’,
    Kẻ ngu đột kích lửa,
    Tự mình bị thiêu cháy.
  19. Cũng vậy này Ác-ma,
    Ngươi đột kích Như Lai,
    Tự đốt mình cháy mình,
    Như kẻ ngu chạm lửa.
  20. Ác ma tạo ác nghiệp,
    Do nhiễu hại Như Lai,
    Ngươi nghĩ chăng Ác-ma,
    Ác quả không đến ta.
  21. Ðiều ác Ác ma làm,
    Chất chứa đã lâu rồi,
    Ác-ma, hãy tránh Phật,
    Chớ vọng tưởng Tỷ-kheo.
  22. Tỷ-kheo chống Ác ma,
    Tại rừng Bhe-kalà,
    Vị Dạ-xoa thất vọng,
    Biến mất tại chỗ ấy.

Như vậy, Tôn giả Mahà-Moggallàna nói lên những bài kệ.

Chương XXI

-ooOoo-

Phẩm Bảy Mươi Mốt Kệ (Ðại Tập)

(CCLXIV) Vangìsa (Thera. 109)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Vangìsa và được dạy ba tập Vệ-đà. Ngài được trọng vọng cúng dường, nhờ gõ trên sọ người và biết được kiếp trước của người ấy. Các Bà-la-môn thấy Vangìsa là một nguồn lợi dưỡng nên đem ngài đi chỗ này chỗ khác. Trong ba năm, Vangìsa đoán kiếp trước trên các sọ người được mang đến, và lấy tiền khoảng một trăm, một ngàn, Kahapana (đồng tiền vàng) mỗi đầu người. Ngài nghe danh tiếng của Thế Tôn, muốn đến yết kiến Thế Tôn, nhưng các Bà-la-môn ngăn lại.

Vangìsa không nghe đi yết kiến đức Phật. Khi đức Phật hỏi Vangìsa biết được nghề gì, ngài trả lời có thể đoán được sọ người, bằng cách lấy móng tay gõ trên sọ người và đoán được số mệnh người ấy trong ba năm. Thế Tôn bảo Vangìsa đoán sọ người sanh vào địa ngục, vào loài Người, hàng chư Thiên và một vị giải thoát. Vangìsa có thể đoán số mạng ba hạng người kia nhưng đối với vị đã giải thoát thời không thể nói được gì. Cuối cùng, ngài yêu cầu Thế Tôn và được trả lời như sau:

Ai biết thật hoàn toàn,
Sự sanh diệt chúng sanh,
Không tham trước, Thiện Thệ,
Giác ngộ đạt Chánh giác,
Vị ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn,
Thiên, Nhân, Càn-thát-bà,
Không biết chỗ sở thú,
Lậu hoặc được đoạn trừ,
Bậc Ứng Cúng, La-hán,
Vị ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
(Kinh Tập, kệ 643-644 – Trung Bộ kinh II, 196M)

Sau khi nghe xong, Vangìsa yêu cầu đức Phật dạy cho con đường đạt đến đích ấy, xin xuất gia và đức Phật bảo Trưởng lão Nigrodhakappa độ cho xuất gia rồi dạy cho quán ba mươi hai bộ phận của thân và tuệ quán. Cuối cùng ngài chứng quả A-la-hán, từ bỏ các Bà-la-môn cũ, dùng nhiều câu tán thán Thế Tôn (Si, 185) và đức Phật xác chứng ngài là vị Tỷ-kheo đệ nhất về thuyết pháp. Những điều ngài nói lên trước và sau khi chứng quả A-la-hán được kiết tập bởi ngài Ananda và các vị khác trong kỳ kiết tập thứ nhất như sau:

I

Khi còn là Sa-di, sau khi bị ảnh hưởng vì thấy nhiều thiếu nữ mặc áo đẹp, ngài nói lên những cảm thọ được nhiếp phục của ngài:

  1. Với ta đã xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Tư tưởng này chạy loạn,
    Khởi lên từ hắc ám.
  2. Nhà bắn cung thiện xảo,
    Thượng sanh giỏi cung pháp,
    Ngàn người bắn khắp phía,
    Không nao núng chút nào.
  3. Nếu phụ nữ có đến,
    Dầu nhiều hay đông hơn,
    Sẽ không dao động ta,
    Vì ta trú Chánh pháp.
  4. Chính ta từng được nghe,
    Phật dòng họ Mặt Trời,
    Giảng đạo hướng Niết-bàn,
    Ở đây ý ta thích.
  5. Như vậy ta an trú,
    Ác ma, ngươi có đến,
    Ta sẽ làm như vậy,
    Ngươi không thấy đường ta.

II

Ðược nói khi nhiếp phục các cảm thọ của mình như sân hận v.v…

  1. Ta bỏ lạc bất lạc,
    Mọi tâm tư gia sự,
    Không tạo một chỗ nào,
    Thành cơ sở tham dục,
    Ai thoát rừng, ly tham,
    Mới ứng danh Tỷ-kheo.
  2. Phàm địa giới, không giới,
    Cả sắc giới trong đời,
    Ðều biến hoại vô thường,
    Hiểu vậy, sống liễu tri.
  3. Chúng sanh thường chấp trước,
    Ðối với các sanh y,
    Ðối vật họ thấy nghe,
    Họ xúc chạm suy tư,
    Ở đây ai đoạn dục,
    Tâm tư không nhiễm ô.
    Không mắc dính chỗ này,
    Vị ấy danh Mâu-ni.
  4. Ðối sáu mươi tám kiến,
    Thuộc phàm phu phi pháp,
    Không học phái tà chấp,
    Vị ấy chân Tỷ-kheo.
  5. Vẹn toàn, tâm thường định,
    Không dối trá thận trọng,
    Ly ái, vị Mâu-ni,
    Chứng đạt đường an tịnh,
    Tùy duyên nhập Niết Bàn,
    Vị ấy chờ thời đến.

III

Nói đến khi ngài nhiếp phục cử chỉ của ngài về khả năng nói dễ dàng của mình:

  1. Ðệ tử Gotama,
    Hãy từ bỏ kiêu mạn,
    Trên con đường kiêu mạn,
    Hãy tránh né hoàn toàn,
    Ham mê đường kiêu mạn,
    Sẽ hối trách dài dài.
  2. Bị lừa bởi lừa dối,
    Bị hại bởi kiêu mạn,
    Loài Người rơi địa ngục,
    Chúng sầu khổ lâu dài,
    Bị hại về kiêu mạn,
    Họ phải sanh địa ngục.
  3. Không bao giờ sầu muộn,
    Tỷ-kheo chiến thắng đạo,
    Chơn chánh dấn thân bước,
    Hưởng danh dự an lạc,
    Như thật được tên gọi,
    Là bậc đã thấy pháp.
  4. Do vậy ở đời này,
    Không thô lậu, không kiêu,
    Ðoạn triền cái, thanh tịnh,
    Ðoạn kiêu mạn, không dư,
    Với minh, tâm an tịnh,
    Bậc đoạn tận khổ đau.

IV

Khi còn là Sa-di, ngài hầu Tôn giả Ananda, khi Tôn giả được một vị đại thần của vua mời đến thăm Tôn giả và ngài được vây quanh với những nữ nhân trang sức đẹp đẽ, những người này kính lễ Tôn giả, hỏi thăm và nghe Tôn giả thuyết pháp. Nhưng Vangìsa lại bị kích thích và tham dục khởi lên. Ngài nghĩ như vậy là không tốt cho hiện tại và tương lai của ngài. Ngài nói lên tâm trạng của mình cho Tôn giả Ananda:

  1. Dục ái đốt cháy tôi!
    Tâm tôi bị thiêu cháy,
    Lành thay Gotama,
    Vì lòng từ nói lên,
    Pháp tiêu diệt lửa hừng.

Và Tôn giả Ananda trả lời:

  1. Chính vì điên đảo tưởng,
    Tâm ông bị thiêu đốt,
    Hãy từ bỏ tịnh tướng,
    Hệ lụy đến tham dục.
  2. Nhìn các hành vô thường,
    Khổ đau, không phải ngã,
    Dập tắt đại tham dục,
    Chớ để bị cháy dài,
    Hãy tu tâm bất tịnh,
    Nhứt tâm, khéo định tĩnh,
    Tu tập thân hành niệm,
    Hành hạnh nhiều yếm ly.
  3. Hãy tập hạnh vô tướng,
    Ðoạn diệt mạn tùy miên,
    Nhờ quán sân kiêu mạn,
    Hạnh ông sẽ an tịnh.

V

Ðược nói lên sau khi Thế Tôn dạy kinh về ‘Sự vật được khéo nói’, tán thán Thế Tôn:

  1. Ai nói lên lời gì,
    Lời ấy không khổ mình,
    Lời không làm hại người,
    Lời ấy là thiện thuyết.
  2. Ai nói lời ái ngữ,
    Lời nói khiến hoan hỷ,
    Lời nói không ác độc,
    Lời nói là ái ngữ.
  3. Lời chân, lời bất tử,
    Thường pháp xưa là vậy,
    Thiện nhân trú trên chân,
    Trên nghĩa và trên pháp.
  4. Lời đức Phật nói lên,
    Ðạt an ổn Niết-bàn,
    Chấm dứt mọi khổ đau,
    Thật nói lời tối thượng.

VI

Nói lên để tán thán Tôn giả Sàriputta:

  1. Trí tuệ thâm, trí giả,
    Thiện xảo đạo, phi đạo,
    Xá-lợi-phất đại trí,
    Thuyết pháp chúng Tỷ-kheo.
  2. Ngài giảng cách tóm tắt,
    Ngài cũng thuyết rộng rãi,
    Như tiếng chim Sà-li,
    Tiếng ngài được nói lên.
  3. Lời ngài giảng tuôn trào,
    Tiếng ngài nghe ngọt lịm,
    Với giọng điệu ái luyến,
    Êm tai và mỹ diệu,
    Họ lắng tai nghe pháp,
    Tâm phấn khởi hoan hỷ.

VII

Nói lên sau khi Thế Tôn thuyết trong kinh Pavàranà (Tự Tứ):

  1. Nay ngày rằm thanh tịnh,
    Năm trăm Tỷ-kheo họp,
    Bậc Thánh đoạn kiết phược,
    Vô phiền, dứt tái sanh.
  2. Như vua chuyển luân vương
    Ðại thần hầu xung quanh,
    Du hành khắp bốn phương,
    Ðất này đến hải biên.
  3. Như vậy các đệ tử,
    Ðã chứng được Ba minh,
    Sát hại được tử thần,
    Những vị này hầu hạ,
    Bậc thắng trận chiến trường,
    Vô thượng lữ hành chủ.
  4. Tất cả con Thế Tôn,
    Không ai là vô dụng,
    Xin chí thành đảnh lễ,
    Bậc nhổ tên khát ái,
    Xin tâm thành cung kính
    Bậc dòng họ Mặt Trời.

VIII

Nói lên tán thán Thế Tôn khi Thế Tôn đang thuyết pháp cho các Tỷ-kheo về vấn đề Niết-bàn:

  1. Hơn một ngàn Tỷ-kheo
    Hầu hạ bậc Thiện Thệ,
    Ngài thuyết vô cấu pháp
    Niết-bàn vô bố úy.
  2. Họ nghe pháp rộng lớn
    Bậc Chánh giác thuyết giảng;
    Bậc Chánh giác chói sáng,
    Chúng Tỷ-kheo vây quanh.
  3. Bạch Thế Tôn, Thiện Thệ,
    Ngài thật bậc Long tượng
    Bậc ẩn sĩ thứ bảy,
    Trong các vị ẩn sĩ,
    Ngài trở thành mây lớn,
    Mưa móc ban đệ tử.
  4. Con từ nghỉ trưa đến,
    Muốn yết kiến Ðạo Sư,
    Ôi bậc Ðại anh hùng,
    Con là đệ tử Ngài,
    Con tên Vangìsa,
    Ðảnh lễ dưới chân Ngài.

Rồi Thế Tôn hỏi:

– Này Vangìsa, những bài kệ này của Ông, có phải Ông suy nghĩ từ trước hay được khởi lên tại chỗ?

– Bạch Thế Tôn, những bài kệ này của con, không phải suy nghĩ từ trước chính được khởi lên tại chỗ.

– Vậy này Vangìsa, hãy cho nhiều bài kệ nữa, không suy nghĩ từ trước, được khởi lên tại chỗ.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn, Tôn giả Vangìsa vâng đáp Thế Tôn, nói lên những bài kệ tán thán Thế Tôn, những bài kệ không suy nghĩ từ trước:

  1. Thắng Ác ma tà đạo,
    Ngài sống chướng ngại đoạn,
    Hãy thấy bậc giải thoát,
    Thoát ly mọi hệ phược,
    Không y trước phân tích,
    Thành từng phần rõ ràng.
  2. Ngài nói lên con đường,
    Nhiều pháp môn khác biệt,
    Giúp mọi người vượt qua,
    Dòng bộc lưu nguy hiểm,
    Chính trên pháp bất tử,
    Ðược ngài thường tuyên thuyết
    Chúng con bậc pháp kiến,
    Vững trú, không thối chuyển.
  3. Bậc tạo dựng quanh mình,
    Ngài thâm nhập các pháp,
    Thấy được chỗ vượt qua,
    Tất cả mọi kiến xứ,
    Sau khi biết và chứng,
    Ngài thuyết tối thượng xứ.
  4. Pháp như vậy khéo giảng
    Ai có thể phóng dật,
    Khi được biết pháp ấy,
    Pháp khéo giảng như vậy,
    Do vậy trong giáo pháp,
    Ðức Thế Tôn, Thiện Thệ,
    Luôn luôn không phóng dật,
    Hãy đảnh lễ, tu học.

IX

Nói lên để tán thán Tôn giả Annà Kondannà (An-nhã Kiều-trần-như):

  1. Sau đức Phật hiện tại,
    Trưởng lão được Chánh giác,
    Chính là Kondannà,
    Nhiệt tâm và tinh cần,
    Chứng được an lạc trú,
    Sống viễn ly liên tục.
  2. Thực hành lời sư dạy,
    Ðệ tử chứng được gì,
    Tất cả ngài chứng được,
    Nhờ tu học tinh tấn.
  3. Ðại uy lực ba minh,
    Thiện xảo tâm tư người,
    Phật tử Kondannà
    Ðảnh lễ chân Ðạo Sư.

X

Nói lên để tán thán Tôn giả Moggallàna, trước mặt Thế Tôn, khi Tôn giả Moggallàna nhận thấy tâm của năm trăm vị La-hán, hội họp tại Hắc Sơn, trên sườn núi Isigili, tại Rajagaha đều giải thoát khỏi tái sanh:

  1. Cao trên sườn đồi núi
    Những vị chứng Ba minh,
    Những vị đoạn tử thần,
    Các đệ tử hầu hạ,
    Bậc Thánh giả Mâu-ni,
    Ðã vượt qua đau khổ.
  2. Ðại thần lực Mục-liên,
    Quán tâm các vị ấy
    Biết họ được giải thoát
    Không còn có sanh y.
  3. Như vậy họ hầu hạ,
    Gotama Mâu-ni
    Ngài vượt qua đau khổ,
    Mọi sở hành đầy đủ,
    Mọi đức tánh vẹn toàn.

XI

Nói lên để tán thán Thế Tôn, chói sáng với dung sắc và huy hoàng của mình, khi Thế Tôn được chúng Tăng và cư sĩ bao vây xung quanh tại hồ sen Gaggara ở Campà:

  1. Như mặt trăng giữa trời
    Mây mù được quét sạch,
    Chói sáng như mặt trời,
    Thanh tịnh không cấu uế,
    Cũng vậy Ngài thật là,
    Ðại Mâu-ni Hiền thánh,
    Danh xưng ngài sáng chói,
    Vượt qua mọi thế giới.

XII

Nói lên khi ngài mới chứng quả A-la-hán, suy tư trên kinh nghiệm của mình và về Bổn sư:

  1. Thuở trước ta mê thơ,
    Bộ hành khắp mọi nơi,
    Từ làng này thành này,
    Qua làng khác thành khác,
    Ta thấy bậc Chánh giác
    Ðạt bờ kia mọi pháp.
  2. Nghe pháp ta tín thành
    Tín khởi lên nơi ta.
  3. Ta nghe lời Ngài dạy,
    Về uẩn, xứ và giới,
    Sau khi biết, xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà.
  4. Vì hạnh phúc số đông,
    Như Lai sanh ở đời,
    Ngài tạo ra giải pháp,
    Cho nữ nhân, nam nhân.
  5. Vì hạnh phúc của họ,
    Mâu-ni chứng Bồ-đề,
    Ngài thấy luật chi phối
    Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni.
  6. Vì lòng thương chúng sanh,
    Bốn sự thật khéo thuyết,
    Bởi vị có con mắt
    Phật, bà con Mặt Trời.
  7. Ngài thuyết Khổ, Khổ tập
    Sự vượt qua đau khổ,
    Con đường đạo Tám ngành,
    Ðưa đến khổ an chỉ.
  8. Như vậy là những điều
    Ðược nói lên như thật,
    Và ta được thấy họ
    Ðúng như thật là vậy,
    Ta đạt được mục đích,
    Lời Phật dạy làm xong.
  9. Thật tốt thay cho ta!
    Ðược sống gần đức Phật,
    Trong các pháp phân tích,
    Pháp tối thượng, ta đến.
  10. Ðại thắng trí tuyệt đích,
    Thế giới được thanh tịnh,
    Ðạt Ba minh, thần lực,
    Thiện xảo biết tâm người.

XIII

Hỏi giáo thọ sư của mình là Nigrodha Kappa có nhập Niết-bàn khi mệnh chung:

  1. Con hỏi bậc Ðạo Sư,
    Bậc trí tuệ tối thắng
    Tại Aggàlava
    Tỷ-kheo đã mệnh chung,
    Có danh vọng danh xưng
    Nhập Niết-bàn tịch tịnh.
  2. Nigrodha Kappa
    Chính là tên vị ấy,
    Chính Thế Tôn đặt tên,
    Cho vị Phạm-chí ấy!
    Vị ấy đảnh lễ cầu Ngài,
    Sống tầm cầu giải thoát,
    Tinh cần và tinh tấn,
    Kiên cố thấy Chánh pháp.
  3. Bạch Thích-ca, chúng con
    Ðệ tử Ngài tất cả,
    Chúng con đều muốn biết,
    Thưa bậc Nhãn biến tri!
    An trú tai chúng con,
    Sẵn sàng để được nghe,
    Ngài Ðạo Sư chúng con
    Ngài là bậc Vô thượng.
  4. Hãy đoạn nghi chúng con,
    Hãy nói con vị ấy,
    Ðã được tịch tịnh chưa?
    Bậc trí tuệ rộng lớn!
    Hãy nói giữa chúng con,
    Bậc có mắt cùng khắp,
    Như Thiên chủ Ðế Thích,
    Lãnh đạo ngàn chư Thiên.
  5. Phàm những cột gút gì,
    Ở đây, đường si ám,
    Dự phần với vô trí
    Trú xứ cho nghi hoặc,
    Gặp được đức Như Lai,
    Họ đều không còn nữa,
    Mắt này mắt tối thắng,
    Giữa cặp mắt loài người.
  6. Nếu không có người nào,
    Ðoạn trừ các phiền não,
    Như gió thổi tiêu tan,
    Các tầng mây dưới thấp,
    Màn đêm tức bao trùm,
    Tất cả toàn thế giới,
    Những bậc có hào quang,
    Không có thể chói sáng.
  7. Bậc trí là những vị,
    Tạo ra những ánh sáng,
    Con xem ngài như vậy
    Ôi bậc trí sáng suốt.
    Chúng con đều cùng đến,
    Bậc tu hành thiền quán,
    Giữa hội chúng chúng con,
    Hãy nói về Kappa!
  8. Hãy gấp, phát tiếng lên,
    Tiếng âm thanh vi diệu,
    Như con chim thiên nga,
    Giương cổ lên để hát,
    Phát âm từng tiếng một,
    Với giọng khéo ngân nga,
    Tất cả bọn chúng con,
    Trực tâm nghe lời ngài.
  9. Vị đoạn tận sanh tử,
    Không còn chút dư tàn,
    Vị tẩy sạch phiền não,
    Con cầu ngài thuyết pháp,
    Kẻ phàm phu không thể,
    Làm theo điều nó muốn,
    Bậc Như Lai làm được
    Ðiều được ước định làm.
  10. Câu trả lời của ngài,
    Thật đầy đủ trọn vẹn,
    Ðược chơn chánh nắm giữ,
    Bậc chánh trực trí tuệ,
    Hãy chấp tay cuối cùng,
    Con khéo vái chào ngài,
    Chớ làm con si ám,
    Bậc trí tuệ tối cao!.
  11. Sau khi đã được biết,
    Thánh pháp thượng và hạ,
    Chớ làm con si ám,
    Bậc tinh tấn tối cao,
    Như vào giữa mùa hè,
    Nóng bức khát khao nước
    Chúng con ngóng trông lời,
    Hãy mưu sự hiểu biết!.
  12. Kappa sống Phạm hạnh,
    Nếp sống có mục đích,
    Phải chăng sống như vậy,
    Là sống không uổng phí!
    Vị ấy chứng tịch tịnh,
    Hay còn dư tàn lại,
    Ðược giải thoát thế nào,
    Hãy nói chúng con nghe.

Thế Tôn:

  1. Vị ấy trên danh sắc
    Ðã đoạn tận tham ái,
    Thế Tôn ở nơi đây,
    Ðã trả lời như vậy,
    Vượt qua được già chết,
    Không còn có dư tàn,
    Thế Tôn nói như vậy,
    Bậc tối thắng thứ năm.

Vangìsa:

  1. Nghe vậy, con tịnh tín,
    Với lời nói của ngài,
    Bậc ẩn sĩ thứ bảy!
    Và lời hỏi của con,
    Không phải là vô ích!
    Và vị Bà-la-môn,
    Không có lừa dối con.
  2. Nói gì thời làm vậy,
    Thật xứng đệ tử Phật,
    Chặt đứt lưới rộng chắc,
    Của thần chết xảo quyệt.
  3. Ôi Thế Tôn, Kappa,
    Thấy căn nguyên chấp thủ,
    Thật sự đã vượt qua,
    Thế lực của Ma vương,
    Thế lực thật khó vượt.
  4. Ngài lớn hơn chư Thiên,
    Con đảnh lễ kính Ngài!
    Con đảnh lễ con Ngài!
    Bậc tối thượng hai chân
    Bậc Hậu duệ, Ðại hùng!
    Bậc Long tượng đích tôn.

Như vậy, Tôn giả Vangìsa nói lên những câu kệ của mình.

Kinh Tiểu Bộ – Khuddaka Nikàya

Giáo sư Trần Phương Lan dịch Việt

Tập 7 – Ngạ Quỷ Sự

-ooOoo-

Mục Lục

 

Phẩm I – Phẩm Con Rắn
1. Chuyện – Thí Dụ Phước Ðiền (Khettùpamà)
2. Chuyện – Con Lợn Rừng (Sùkara)
3. Chuyện Ngạ Quỷ Có Mồm Hôi Thối (Pùtimukkha)
4. Chuyện Hình Nhân Bằng Bột (Pitthadhìtalika)
5. Chuyện Ngạ Quỷ Ngoại Bức Tường (Tirokuddapeta)
6. Chuyện Ngạ Quỷ Ăn Thịt Năm Ðứa Bé (Pàncaputtakhadaka)
7. Chuyện Ngạ Quỷ Ăn Thịt Bẩy Ðứa Bé (Sattaputtakhadaka)
8. Chuyện Con Bò (Gona)
9. Chuyện Ông Chủ Thợ Dệt (Mahàpesakàra)
10. Chuyện Nữ Nhân Sói Ðầu (Khallàtiya)
11. Chuyện Con Voi (Nàga)
12. Chuyện Con Rắn (Uraga)
Phẩm II – Phẩm Ubbarì
1. (13) Chuyện Người Tìm Giải Thát Vòng Luân Hồi (Samsàramocaka)
2. (14) Chuyện Mẹ Của Trưởng Lão Sàriputta (Sàriputtatheramàtu)
3. (15) Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Mattà (Mattàpetì)
4. (16) Chuyện Nữ Ngã Quỷ Nandà (Nandàpetì)
5. (17) Chuyện Mattakundalì (Mattakundalì)
6. (18) Chuyện Ðại Vương Kanha (Kanha)
7. (19) Chuyện Ngạ Quỷ Dhanapàla (Dhanapàlapeta)
8. (20) Chuyện Tiểu Chủ Ngân Khố (Cùlasetthi)
9. (21) Chuyện Ankura (Ankura)
10. (22) Chuyện Mẹ Của Uttara (Uttaramatù)
11. (23) Chuyện Cuốn Chỉ (Sutta)
12. (24) Chuyện Nữ Quỷ Ở Hồ Kannamunda (Kannamundapetì)
13. (25) Chuyện Hoàng Hậu Ubbarìi (Ubbarì)
Phẩm III -Tiểu Phẩm
1. (26) Chuyện Không Chìm Trong Nước (Abhijjamana)
2. (27) Chuyện Ngạ Quỷ Núi Sànuvàsin (Sànuvàsinpeta)
3. (28) Chuyện Nữ Quỷ Hồ Ràthakàrà (Ràthakàràpetì)
4. (29) Chuyện Rơm Trấu (Bhusa)
5. (30) Chuyện Chàng Trai (Kumàra)
6. (31) Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Serinì (Serinì)
7. (32) Chuyện Người Săn Nai (Migaludda)
8. (33) Chuyện Người Săn Nai Thứ Hai (Dutiyamigaludda)
9. (34) Chuyện Những Phán Quyết Gian Dối (Kùtavinicchayika)
10. (35) Chuyện Khinh Xá Lợi (Dhàtuvivanna)
Phẩm IV – Ðại Phẩm
1. (36) Chuyện Vua Ambasakkhara (Ambasakkhara)
2. (37) Chuyện Serìsaka (Serìsaka)
3. (38) Chuyện Quỷ Thần Nandaka (Nandakapeta)
4. (39) Chuyện Ngạ Quỷ Revatì
5. (40) Chuyện Cây Mía (Ucchu)
6. (41) Chuyện Các Vương Tử (Kumara)
7. (42) Chuyện Vị Vương Tử (Rajaputta)
8. (43) Chuyện Những Ngạ Quỷ Ăn Phân (Gùthakhadaka)
9. (44) Chuyện Thứ Hai Về Các Ngạ Quỷ Ăn Phân (Gùthakhadaka)
10. (45) Chuyện Bầy Ngạ Quỷ (Ganapeta)
11. (46) Chuyện Ngạ Quỷ Thành Pàtaliputta (Pataliputtapeta)
12. (47) Chuyện Các Trái Xoài (Amba)
13. (48) Chuyện Trục Xe và Cây Gỗ (Akkharukkha)
14. (49) Chuyện Thu Góp Tài Sản (Bhogasamharan)
15. (50) Chuyện Các Nam Tử Của Nhà Triệu Phú (Setthiputta)
16. (51) Chuyện Sáu Vạn Cái Búa (Satthikùtasahassa)

***

Giới thiệu tập 7 – Ngạ Quỷ Sự

Gs. Trần Phương Lan

Chuyện Ngạ quỷ (Petavatthu) là tập kinh song hành với tập chuyện Thiên cung, miêu tả cảnh giới đau khổ của những người đã tạo ác nghiệp từ Tăng chúng cho đến giới cư sĩ tại gia. Các loài quỷ (Peta) trong các chuyện này gồm hai loại: một loại Ngạ quỷ hoàn toàn chịu khổ đau mọi mặt, và một loại quỷ thần được hưởng một phần hạnh phúc do một số thiện nghiệp đã làm và một phần khổ đau do ác nghiệp đời trước.

Tuy nhiên một số quỷ này được hưởng phước báo khi may mắn gặp thân nhân hay một vị Tỷ kheo thương xót nhận làm các thiện sự, bố thí, cúng dường v.v… rồi hồi hướng công đức về chúng để mong chúng được thoát khổ cảnh. Ở đây ta gặp những vần kệ miêu tả sự tương phản giữa hai cảnh giới ngạ quỷ và thần tiên của các loài quỷ.

Phẩm I – Phẩm Con Rắn

  1. Chuyện Thí Dụ Phước Ðiền (Khettùpamà)

Ðức Thế Tôn kể chuyện này trong lúc đang trú tại chỗ nuôi sóc ở Veluvana (Trúc Lâm) gần Ràjagaha (Vương Xá).

Thời ấy, ở Vương Xá có một người chủ ngân khố giàu sang vô cùng và chỉ được biết qua danh hiệu Ðại phú ông (Mahàdhanasetthi). Ông có một con trai độc nhất rất khả ái và xinh đẹp. Khi cậu đến tuổi trưởng thành, cha mẹ cậu suy nghĩ như vầy: ‘Nếu con ta chi tiêu một ngàn đồng mỗi ngày, thì dù cả trăm năm nữa số lượng tài sản này cũng sẽ không hết’.

Họ chẳng dạy cậu một nghề gì cả, vì suy nghĩ: ‘Việc học nghề sẽ tốn nhiều công sức mệt nhọc, cứ để nó an nhàn thân tâm hưởng thọ giàu sang thỏa thích’.

Thay vì dạy nghề, khi cậu đến tuổi mười sáu, họ cưới cho cậu một cô dâu kiều diễm, nhưng hoàn toàn thiếu đạo hạnh. Cùng với cô vợ, cậu đổ hết thời giờ vào việc hưởng thụ, thích thú tầm cầu dục lạc.

Khi cha mẹ mất, cậu phung phí tiền của vào đám vũ nữ, ca nhân và các đám vui chơi khác; sau khi tiêu hết tài sản, cậu trở nên nghèo khó, phải cố xoay xở để sống bằng cách vay nợ. Nhưng khi cậu không còn có thể vay được nữa và bị các chủ nợ thúc bách, cậu đưa hết ruộng vườn, trang trại, nhà cửa cùng các gia sản khác rồi trở thành kẻ hành khất, sống trong nhà tế bần của thành phố ấy.

Bấy giờ, một hôm, bọn cướp gặp cậu và bảo:

– Này chú, xem đây, chú làm sao ra khỏi cuộc sống khốn khổ này, chú còn trẻ và có năng lực. Hãy đi theo bọn ta và sống đầy đủ thoải mái bằng cách trộm cắp. Bọn ta sẽ tập luyện cho chú.

Cậu đồng ý và đi theo chúng. Bọn trộm cướp cho cậu một cây gậy lớn; và trong khi chúng đột nhập vào một cái nhà mà bọn chúng đã đục thủng một lỗ lớn, chúng đặt cậu ở chỗ ra vào và nói:

– Nếu có ai đến, hãy đánh chết nó đi.

Cậu vốn tâm trí đần độn, không phân biệt bạn thù, liền đứng đó và chỉ chờ đợi người khác đi đến.

Bấy giờ, người trong nhà trở dậy, chạy đi thật nhanh, nhìn đây đó, chợt thấy cậu đứng ở lỗ thủng ấy. Họ vừa nói:

– Chúng đây rồi, quân khốn kiếp, lũ trộm cướp, họ vừa chụp lấy cậu đưa đến nhà vua, trình:

– Tâu Ðại vương, tên trộm này bị bắt lúc đang phá nhà.

Vua ra lệnh cho đám quân giữ thành:

– Chặt đầu nó đi.

Bọn này giam cậu vào ngục và đưa đến nơi hành hình, chúng đánh cậu bằng roi trong lúc cậu đi theo tiếng trống xử tội. Cùng lúc quần chúng la lớn:

– Tên cướp phá hoại này đã bị bắt ở thành này.

Bấy giờ ở trong thành ấy, có nàng hoa khôi tên là Sulasà đang đứng bên cửa sổ. Nàng thấy cậu bị dẫn đi ngang, và vì nàng đã quen biết cậu từ thời trước nên nàng có cảm tình với cậu vốn là người từng đạt đại phú quí trong thành này, nàng liền cho gửi mứt bánh và nước uống, lại nhờ người nhắn với bọn giữ thành:

– Cầu mong các tôn ông đợi cho đến lúc người này ăn xong mứt bánh và uống nước.

Cùng lúc ấy trong thành này, Tôn giả Mahà-Moggallàna đang quán sát bằng thiên nhãn và thấy tình cảnh nguy khốn của kẻ này, Tôn giả động lòng bi mẫn và suy nghĩ: ‘Vì kẻ này chưa hề làm công đức gì, mà chỉ tạo ác nghiệp, y sẽ bị tái sanh vào địa ngục. Nay nếu ta đi ra và y cho ta mứt bánh và nước uống, y sẽ được tái sanh vào hội chúng các địa thần. Ta phải giúp đỡ kẻ này’.

Vì vậy Tôn giả liền xuất hiện trước tội nhân ngay khi mứt bánh và nước được mang đến. Khi cậu thấy vị Trưởng lão, tâm cậu được an lạc và cậu suy nghĩ: ‘Ta có lợi ích gì nhờ ăn mứt bánh này nếu ta phải chết? Giờ đây, chúng sẽ làm hành trang cho ta lên đường đi đến thế giới bên kia’.

Thế là cậu nhờ đưa bánh mứt và nước uống đi cúng vị Trưởng lão. Khi Tôn giả Moggallàna thấy nỗi thống khổ của cậu đã trở thành hoan hỷ, Tôn giả ngồi xuống và ăn uống xong rồi đứng dậy đi lên đường.

Còn người ấy bị các đao phủ đưa đến nơi xử tội và chém đầu. Nhờ hành động tín thành đối với Trưởng lão Moggallàna, phước điền vô thượng ở đời, kẻ ấy xứng đáng được tái sanh vào thiên giới cao cả. Nhưng vì niềm luyến ái phát ra đối với Sulasà khi cậu suy nghĩ: ‘Ta tạo được lễ cúng dường này là nhờ nàng’, nên ngay lúc lâm chung, tâm cậu trở thành bất tịnh và cậu tái sanh vào cảnh giới thấp hơn, làm vị thần ở trong cây chuối lớn có tàn lá rậm rạp trong rừng hoang.

Bấy giờ tình cờ vị thần thấy Sulasà trong vườn của nàng liền mang nàng đến nơi cư trú của vị ấy. Mẹ nàng than khóc, bảo vị ấy sau một tuần phải đem nàng trở lại. Bà mẹ kể chuyện cho mọi người nghe, khi họ hỏi bà sự việc đã xảy ra, và họ tràn đầy kinh ngạc bảo nhau:

– Các bậc A-la-hán quả thật là phước điền vô thượng ở đời, ngay một hành động từ bi nhỏ bé đối với chư vị cũng làm cho con người tái sanh vào cõi chư Thiên.

Chư Tăng thuật chuyện này lên đức Thế Tôn, Ngài bèn ngâm các vần kệ này để giải thích sự việc:

  1. Bậc Thánh ví như các ruộng đồng,
    Người cho là chính các nhà nông,
    Hạt gieo là vật đem dâng cúng,
    Kết quả từ đây được hưởng phần.
  2. Hạt giống đây và đám ruộng đồng
    Dành cho ngạ quỷ lẫn người trồng,
    Nơi nầy ngạ quỷ thường an hưởng,
    Thí chủ tín thành phước đức tăng.
  3. Vì hành thiện nghiệp ở trên đời,
    Cúng lễ các ma quỷ đói mồi,
    Sẽ đến cõi thiên làm trú xứ,
    Nhờ người đã tạo nghiệp an vui.

Khi pháp thoại chấm dứt, tám vạn bốn ngàn người được đắc Pháp nhãn.

  1. Chuyện Con Lợn Rừng (Sukàra)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại chỗ nuôi sóc ở Veluvana (Trúc Lâm) gần Ràjagaha (Vương Xá).

Tương truyền ngày xưa khi đức Thế Tôn Kassapa (Ca-diếp) thuyết Pháp, một Tỷ-kheo đã điều phục tự thân, nhưng thiếu phòng hộ ngôn ngữ, nên đã mạ ly các Tỷ-kheo khác. Lúc từ trần, vị ấy tái sanh vào địa ngục. Sau khi đã bị thiêu đốt tại đó cả một kiếp, vị ấy rời cõi ấy và trong kiếp này tái sanh gần thành Ràjagaha, dưới chân núi Gijjhakùta (Linh Thứu), vị ấy luôn bị đói khát giày vò. Thân thể vị ấy có màu vàng ròng, nhưng miệng lại giống mõm lợn rừng.

Vào thời ấy, Tôn giả Nàrada đang trú tại núi Linh Thứu. Vừa cầm y bát, vị ấy khởi hành từ sáng sớm để khất thực. Trong lộ trình đến Ràjagaha, vị ấy thấy ngạ quỷ kia trên đường. Khi hỏi về hạnh nghiệp mà ngạ quỷ kia đã tạo, vị ấy đã ngâm các vần kệ sau:

  1. Nhà ngươi vàng rực khắp toàn thân,
    Chiếu ánh sáng ra khắp mọi vùng,
    Song miệng ngươi như mồm lợn đực,
    Nghiệp gì ngươi tạo kiếp xưa chăng?

Ngạ quỷ đáp lời:

  1. Xưa con điều phục khéo về thân,
    Nhưng khẩu con không được hộ phòng,
    Vì thế hình hài con vậy đó,
    Nà-ra-da thấy rõ con cùng.

Ngạ quỷ ấy còn nói lời khuyên này với Trưởng lão:

  1. Nà-ra-da, vậy hãy xem đây,
    Con muốn trình Tôn giả việc này:
    Ðừng phạm ác tà về khẩu nghiệp,
    E ngài sẽ hóa mõm heo vầy!

Thế rồi Tôn giả Nàrada, sau khi đã đi khất thực trong thành Vương Xá và sau buổi ngọ trai, trở về trình sự việc này với bậc Ðạo Sư, Ngài dùng đó làm đề tài thuyết pháp.

  1. Chuyện Ngạ Quỷ Có Mồm Hôi Thối (Pùtimukkha)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại chỗ nuôi sóc ở Veluvana (Trúc Lâm).

Ngày xưa vào thời đức Thế Tôn Kassapa (Ca-diếp) có hai thiện gia nam tử theo lời giáo huấn của Ngài, đã xuất gia bỏ đời thế tục. Thực hành đầy đủ giới luật và sống khổ hạnh khắc nghiệt, hai vị an trú hòa hợp với nhau ở một nơi kia trong làng.

Sau đó một Tỷ-kheo có ác tính, thích mạ ly, đã đến trú xứ của hai vị. Hai Trưởng lão này ân cần nhận vị ấy và qua ngày thứ hai lại cùng vị ấy đi khất thực.

Dân chúng tích cực tuân lời dạy của chư vị và cúng dường chư vị đủ cháo, gạo, cơm và nhiều thực phẩm khác. Vị kia suy nghĩ: ‘Làng này thật là nơi ở tốt để khất thực và dân chúng đầy đủ tín tâm cúng dường thực phẩm ngon lành. Ðây lại có bóng mát và nước. Ta có thể sống sung sướng ở đây nhưng chẳng thể được bao lâu hai Tỷ-kheo này cũng trú cùng nơi này. Ðược rồi, vậy thì ta sẽ làm sao cho họ không đến đây ở nữa’. Thế là vị ấy phỉ báng người nọ với người kia. Hai vị dần dần sinh ra hoài nghi và suy nghĩ: ‘Dẫu sao cũng có thể như vậy’, và mất lòng tin, chư vị tránh mặt nhau, rồi không ai bảo ai, mỗi người ra đi tìm một nơi dễ chịu hơn.

Dân chúng hỏi vị Tỷ-kheo phỉ báng:

– Bạch Tôn giả, chư vị Trưởng lão đi đâu rồi?

Vị ấy đáp:

– Suốt đêm hai vị tranh cãi nhau; hai vị ra đi chẳng để ý đến lời ta bảo: ‘Xin đừng tranh cãi, hãy hòa hợp’, và còn nhiều chuyện khác nữa, ta nói thêm: ‘Những người nào có tính như vậy thường thích đánh nhau to’. Sau đó quần chúng van nài:

– Cứ để chư vị Trưởng lão đi, tuy nhiên vì chúng đệ tử, xin Tôn giả ở lại đây và đừng hối tiếc gì cả.

Vị ấy đồng ý đáp:

– Ðược lắm.

Trong khi ở đó vài ngày, vị ấy suy xét: ‘Do tham muốn trú xứ, ta đã ly gián hai Tỷ-kheo này. Ôi! Ta đã quyết tâm tạo nhiều ác nghiệp’. Bị lòng hối hận sâu xa giày vò và ngã bệnh vì tinh thần dao động, chẳng bao lâu vị ấy từ trần và tái sanh vào địa ngục Avìci (Vô gián hay A-tỳ).

Về sau vị ấy tái sanh vào kiếp này làm một ngạ quỷ có mồm hôi thối ở không xa thành Ràjagaha. Thân thể vị ấy có màu vàng ánh, nhưng sâu bọ lúc nhúc bò ra từ mồm vị ấy cấu xé mãi khiến mồm vị ấy bốc mùi hôi thối. Thời ấy Tôn giả Nàrada từ đỉnh Linh Thứu đi xuống, thấy ngạ quỷ kia, bèn ngâm vần kệ hỏi về hạnh nghiệp của vị ấy:

  1. Ngươi có màu da sáng đẹp sao,
    Như chư Thiên ở cõi trời cao,
    Ngươi đang lơ lửng trong không khí,
    Song miệng ngươi hôi thối biết bao,
    Vì đám bọ sâu đang cắn xé,
    Kiếp xưa ngươi tạo ác hành nào?

Ngạ quỷ đáp:

  1. Là một Tỷ-kheo có ác ngôn,
    Dù con giữ khổ hạnh vuông tròn,
    Con không chế ngự về ngôn ngữ,
    Con được màu da sáng tựa vàng
    Nhờ khổ hạnh xưa, song miệng thối
    Vì lời phỉ báng của mồm con.
  2. Chính Ngài đã thấy việc này rồi
    Ai giới đức và thương xót đời,
    Sẽ bảo: ‘Ngươi đừng nên phỉ báng
    Cũng không dối trá, nói sai lời,
    Về sau hóa Dạ-xoa thần lực,
    Hưởng thọ thú vui như ý ngươi.
  3. Chuyện Hình Nhân Bằng Bột (Pitthadhìtalika)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Sàvatthi (Xá-vệ) trong Jetavana (Kỳ-viên).

Thời ấy người nhũ mẫu đem cho cháu gái của ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) một hình tượng bằng bột để làm đồ chơi.

Một hôm cô bé làm rơi hình tượng ấy vỡ tan. Nó kêu lên: ‘Con gái ta đã chết rồi!’, và khóc mãi, đám gia nhân không ai dỗ dành được.

Bấy giờ bậc Ðạo Sư đang ở trong nhà ông Cấp Cô Ðộc, vị này đang ngồi gần Ngài. Bà nhũ mẫu đem cô bé đến bên ông chủ. Ông hỏi:

– Tại sao con bé khóc?

Rồi vừa ôm cháu vào lòng, ông vừa dỗ dành nó và bảo:

– Ông sẽ cho cháu một đứa con gái khác để làm tặng vật.

Rồi ông thưa trình bậc Ðạo Sư:

– Bạch Thế Tôn, vì cháu nội của con khóc về chuyện hình tượng bằng bột, con ước mong dâng lễ vật cúng dường. Xin Thế Tôn chấp thuận đến nhà con ngày mai cùng với năm trăm Tỷ-kheo.

Ðức Thế Tôn nhận lời. Như vậy đức Thế Tôn đã đến và sau buổi ngọ trai, Ngài nói lời tùy hỷ công đức và ngâm các vần kệ này:

  1. Với mọi quan tâm, kẻ có lòng
    Phải dâng lễ cúng các gia tông,
    Các vong linh những người thân thuộc,
    Cùng với chư Thiên lẫn thổ thần.
  2. Trì Quốc, Ða Văn, Quảng Mục vương,
    Thiên vương Tăng Trưởng giữ trần gian,
    Tứ Thiên vương được người tôn kính,
    Thí chủ không mất quả phước phần.
  3. Bởi vì kêu khóc hoặc sầu bi,
    Thương tiếc than van chẳng ích gì,
    Không lợi gì cho người quá cố,
    Khi thân nhân giữ thói lề kia.
  4. Song lễ vậy này được cúng dâng
    Khéo đem an trú ở chư Tăng,
    Quả này hiện tại và sau nữa
    Lợi lạc lâu dài với cổ nhân.

Ðức Thế Tôn đã thuyết pháp như vậy rồi ra đi. Bà vợ và gia quyến vị Ðại phú ông theo gương vị ấy. Do vậy họ làm lễ đại cúng dường suốt một tháng. Rồi vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) nghe tin này cũng dâng lễ vật dồi dào lên Tăng chúng. Khi dân chúng thấy vậy, họ lần lượt làm theo nhà vua và làm lễ đại cúng dường suốt cả tháng, một lễ đại cúng dường có nguồn gốc từ hình tượng bằng bột ấy.

  1. Chuyện Ngạ Quỷ Ngoại Bức Tường (Tirokuddapeta)

Bậc Ðạo sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Ràjagaha (Vương Xá).

Chín mươi hai kiếp về trước, có một kinh thành tên là Kàsipuri. Vua Jayasena ngự trị nơi ấy có chánh hậu là Sirimà, vương tử Phussa chứng đắc Vô Thường Chánh Ðẳng Giác, tức là đức Cổ Phật thứ mười tám sau đức Phật Dipankara (Nhiên Ðăng).

Bấy giờ Ðại Vương Jayasena sinh tâm ngã mạn, suy nghĩ: ‘Vì vương tử của ta sinh ra đời làm đức Phật, đã thành tựu đại sự xuất thế, chỉ riêng ta có Phật, chỉ riêng ta có Pháp, chỉ riêng ta có Tăng chúng’. Do đó nhà vua luôn luôn hầu cận bên đức Phật và không dành cơ hội cho kẻ khác.

Ba hoàng đệ của đức Thế Tôn ấy do bà mẹ khác sinh ra, bèn suy nghĩ: ‘Quả thật chư Phật ra đời vì lợi ích của quần sinh khắp thế gian này, chứ không phải vì riêng một ai. Nay phụ vương ta không dành cơ hội cho người khác. Làm thế nào ta có thể phụng sự đức Thế Tôn và Tăng chúng? Nào chúng ta hãy thi hành một chiến thuật’.

Thế là chư vị gây rối tại vùng biên địa. Sau đó khi nhà vua nghe tin về vụ rối loạn này, liền phái ba vương tử đi bình định biên thùy. Ba vị tuân lệnh và khi trở về, nhà vua hài lòng ban chư vị một điều ước, phán bảo:

– Hãy chọn thứ gì các vương nhi muốn.

Ba vị tâu:

– Chúng thần nhi ước mong hầu cận đức Thế Tôn.

Nhà vua từ chối, phán:

– Hãy chọn thứ khác.

Ba vị tâu:

– Chúng thần nhi không màng thứ gì khác cả.

Nhà vua lại phán:

– Thôi được, các vương nhi có quyền chọn theo ý muốn.

Ba vị đến gần đức Thế Tôn và thưa:

– Bạch Thế Tôn, chúng đệ tử ước mong phụng sự đức Thế Tôn ba tháng. Xin đức Thế Tôn hoan hỷ an cư ba tháng mưa với chúng đệ tử.

Ðức Thế Tôn chấp thuận. Ba vị hoàng tử tự thân hành gửi một thông điệp đến cho người được chỉ định trông coi tỉnh nọ, bảo: ‘Trong suốt ba tháng này, chúng ta cần phục vụ đức Thế Tôn, bắt đầu bằng cách xây một tinh xá, và cung cấp đủ mọi thứ cần thiết’.

Sau đó chư vị hết lòng cung kính phục vụ đức Thế Tôn cùng Tăng chúng. Khi các viên quan cai trị tỉnh này đã cúng dường tinh xá xong, các vị chấp hành việc an cư mùa mưa ấy. Một vị thủ kho hàng gia, con trai một gia chủ, là người mộ đạo cùng với vợ đã tìm được niềm tin, vị ấy trân trọng cúng dường Tăng chúng với đức Phật làm thượng thủ. Người được chỉ định cai quản tỉnh này theo gương vị kia cùng với mười một ngàn dân đem các vật đến cúng dường với tất cả lòng thành kính.

Vào dịp ấy, có một số người bất mãn trong lòng, sau khi ngăn cản những vật đóng góp, chính họ lại ăn các phẩm vật và nổi lửa đốt trai đường.

Sau khi ba vương tử cùng đoàn tùy tùng đã cúng dường đức Thế Tôn và từ giã Ngài xong, ba vị đi thẳng đến phụ vương.

Khi trở về, đức Thế Tôn đắc Niết-bàn vô dư y, ba vương tử và người cai quản tỉnh ấy, vị thủ kho báu hoàng gia dần dần theo thời gian đều từ trần và cùng với quần chúng ở đó được tái sanh thiên giới, còn số người bất mãn trong tâm bị tái sanh địa ngục.

Chín mươi hai kiếp trôi qua như vậy, trong lúc hai hạng người trên cứ lần lượt tái sanh từ thiên giới này đến thiên giới khác và từ địa ngục này đến địa ngục khác. Rồi đến hiền kiếp này, vào thời đức Thế Tôn Kassapa, đám người bất mãn trong tâm tái sanh vào loài ngạ quỷ.

Vào thời ấy, loài người thường cúng dường vì lợi ích của đám quyến thuộc quá cố của họ và nêu rõ: ‘Lễ vật này xin dành cho quyến thuộc của chúng tôi’. Do đó, các vong linh được an lạc. Thế rồi, chính các vong linh ấy cũng nhận biết điều này, nên sau khi đến gần đức Phật Kassapa, các vị ấy hỏi:

– Bạch Thế Tôn, giờ đây làm thế nào chúng con có thể đạt được an lạc như vầy’?

Ðức Thế Tôn đáp:

– Hiện nay chư vị chưa có thể đạt được an lạc ấy, nhưng thời gian về sau, sẽ có một đức Phật ở thế gian tên gọi là Gotama. Vào thời của đức Thế Tôn ấy, sẽ có một vị vua tên là Bimbisàra, trong chín mươi hai kiếp nữa kể từ đây sẽ là quyến thuộc của chư vị. Vua ấy sẽ dâng lễ cúng dường đức Phật và sẽ hồi hướng công đức ấy đến chư vị, sau đó chư vị sẽ được an lạc.

Thời bấy giờ, khi điều này được phát biểu, thì cũng như thể ta nói với các vong linh ấy: ‘Ngày mai chư vị sẽ được an lạc’.

Về sau, khi thời kỳ có đức Phật này đã qua, đức Thế Tôn (Gotama) giáng sanh vào cõi đời, ba vương tử cùng với một ngàn người từ thiên giới tái sanh vào quốc độ Magadha (Ma-kiệt-đà) trong các gia đình Bà-la-môn.

Theo thời gian, sau khi từ giã đời thế tục, ba vị trở thành các nhà khổ hạnh bện tóc, trú tại đỉnh núi Gayà, người trước kia cai quản tỉnh thành ấy trở thành vua Bimbisàra; người thủ khố hoàng gia, con của vị gia chủ, trở thành đại phú trưởng nghiệp đoàn có tên Visàkha; vợ vị ấy trở thành con gái của một vị đại phú trưởng nghiệp đoàn và được đặt tên Dhammadinnà, còn đám quần chúng được tái sanh làm các vị cận thần của vua.

Bấy giờ đức Thế Tôn Gotama giáng sanh cõi trần, sau bảy tuần Giác Ngộ, Ngài đến Benares (Ba-la-nại) chuyển Pháp luân. Ngài giáo hóa ba vị đạo sĩ bện tóc, sau khi Ngài đã khởi đầu giáo hóa năm vị khổ hạnh, và thâu nhận cả ngàn đệ tử. Sau đó Ngài đi đến Ràjagaha và an trú vua Bimbisàra vào Sơ quả Dự Lưu cùng với hơn một vạn Bà-la-môn và cư sĩ ỏ tại xứ Anga (Ưng-già) và Magadha.

Tuy nhiên các ngạ quỷ ở quanh cung vua suy nghĩ: ‘Giờ đây nhà vua sẽ làm lễ cúng tế cho chúng ta được hưởng phước’. Trong lúc nhà vua làm tế lễ, nhà vua suy nghĩ: ‘Ta không biết bây giờ đức Thế Tôn đang trú ở đâu?’. Do vậy, nhà vua không hồi hướng công đức đến ai cả. Vì các ngạ quỷ không nhận được thí vật nào cả, chúng rất thất vọng thốt tiếng kêu thảm thiết mỗi đêm ở hoàng cung.

Rạng ngày, nhà vua hoảng sợ trình đức Thế Tôn về chuyện đã xảy ra và hỏi:

– Bạch Thế Tôn, Ngài đã nghe tiếng nào như vậy chưa? Con băn khoăn không biết việc gì xảy ra với con.

Ðức Thế Tôn đáp:

– Thưa Ðại vương, xin đừng sợ, không có gì bất thường xảy ra với Ðại vương đâu, mà thịnh vượng sẽ đến với Ðại vương thôi. Giờ đây, quả thật là quyến thuộc của Ðại vương đã tái sanh vào loài ngạ quỷ. Trong suốt một kiếp, chúng đã lang thang khắp nơi và chỉ mong ước điều này: ‘Nhà vua sẽ làm lễ cúng dường đức Phật và hồi hướng công đức ấy cho chúng ta’. Hôm qua, khi Ðại vương dâng lễ, Ðại vương đã không hồi hướng công đức. Do đó, chúng mất hết hy vọng và thốt tiếng kêu la.

Nhà vua hỏi:

– Bạch Thế Tôn, bây giờ làm sao chúng có thể nhận được thí vật?

Ðức Phật đáp:

– Thưa Ðại vương, quả thật chúng có thể nhận.

Nhà vua nói:

– Bạch Thế Tôn, vậy Thế Tôn hãy nhận lời thỉnh cầu của con vào ngày mai, con sẽ hồi hướng công đức lễ vật ấy cho chúng.

Ðức Thế Tôn nhận lời.

Sau đó, nhà vua ra lệnh chuẩn bị lễ cúng dường hào phóng, và thông báo thời giờ lên đức Thế Tôn, Ngài liền đến Hoàng cung. Bầy ngạ quỷ cũng đến và suy nghĩ: ‘Hôm nay chúng ta sẽ hưởng được món gì đó’, rồi đứng bên ngoài các bức tường và hàng rào.

Sau đó đức Thế Tôn làm cho mỗi ngạ quỷ đều hiện hình trước nhà vua. Trong khi vua dâng nước rửa, vua hồi hướng công đức ấy cho chúng với những lời này: ‘Mong công đức này dành cho quyến thuộc ta’. Lập tức xuất hiện các ao sen đầy sen súng cho bọn ngạ quỷ. Chúng tắm rửa và uống nước ở đó, được giảm nhẹ nỗi thống khổ của chúng vì bất hạnh, lao nhọc và khát nước, nên da chúng trở nên vàng ánh.

Nhà vua dâng lễ cúng dường cháo gạo và các thức ăn đủ loại cứng mềm rồi hồi hướng công đứng lễ vật ấy cho chúng. Trong chốc lát liền xuất hiện cho chúng các thực phẩm khác, thậm chí cả thực phẩm thiên giới, khiến chúng hân hoan hưởng thọ.

Nhà vua lại cúng dường y phục và sàng tọa, tinh xá rồi hồi hướng công đức lễ vật ấy. Sau đó liền xuất hiện cho chung các thiên y, thiên cung, sàng tọa, khăn phủ và đồ trang sức. Ðức Thế Tôn quyết định làm cho tất cả hạnh phúc tuyệt vời này của họ được hiển lộ trước vua; khi nhìn thấy vậy, vua vô cùng hoan hỷ.

Rồi đức Thế Tôn, sau khi thọ thực xong, và được thỉnh cầu, Ngài kể chuyện ngạ quỷ ngoài bức tường thay lời tùy hỷ công đức.

  1. Bọn chúng đứng kia, ngoài bức tường,
    Những nơi trống trải, ngã tư đường,
    Chúng đang đứng ở ngoài song cửa,
    Khi đã về nhà tại cố hương.
  2. Dù tràn trề ẩm thực liên miên
    Ðủ loại cứng mềm được dọn lên,
    Cũng chẳng có ai cần bọn chúng,
    Bởi vì nghiệp chúng đã gây nên.
  3. Những người lân mẫn, lắm tình thương
    Ðúng lúc đem cho đám họ hàng
    Các thức cao lương, đồ ẩm thực
    Với lời cầu nguyện: ‘Ðể dành phần
    Lễ này cho đám người thân thuộc,
    Mong các họ hàng được phước ân’.
  4. Và các đám này đã đến đây,
    Các vong linh của họ hàng này,
    Thảy đều tụ tập đồng vui hưởng
    Các thực phẩm đều phong phú thay.
  5. Chúng cầu: ‘Trường thọ các người thân,
    Nhờ các vị, ta được hưởng ân,
    Lòng quý trọng ta đà biểu lộ,
    Người cho chẳng thiếu quả dành phần’.
  6. Chốn kia không có cấy cày đâu,
    Cũng chẳng hề nuôi súc vật nào,
    Buôn bán như đây đều chẳng có,
    Cũng không đổi vật lấy vàng trao.
  7. Bên kia thế giới các vong linh
    Nhờ vật cúng dường để dưỡng sinh,
    Như nước đổ từ trên núi xuống
    Cúng dường nuôi ngạ quỷ thân tình.
  8. Giống như tất cả các dòng sông
    Chảy xuống đổ đầy cả đại dương,
    Cũng vậy những gì người bố thí
    Từ đây nuôi sống các vong nhân.
  9. Những thân bằng quyến thuộc trong nhà
    Trước đã cho ta, giúp đỡ ta;
    Mong mọi người ban phần ngạ quỷ,
    Nhớ công họ tạo thuở xưa xa.
  10. Bởi vì kêu khóc hoặc sầu bi,
    Thương tiếc, than van chẳng ích gì,
    Không lợi gì cho người quá cố,
    Khi thân nhân giữ thói lề kia.
  11. Song lễ vật này được cúng dâng
    Khéo đem an trú ở chư Tăng,
    Quả này hiện tại và sau nữa
    Lợi lạc lâu dài với cổ nhân.
  12. Ðây là nghĩa vụ của thân nhân
    Tôn trọng vong linh, đã cúng dâng,
    Tăng chúng được thêm nhiều dõng lực,
    Người làm công đức lớn vô ngần.

Khi pháp thoại chấm dứt, tám vạn bốn ngàn người đã đắc Pháp nhãn do tri kiến sanh khởi từ sự kiện tái sanh vào cảnh giới ngạ quỷ. Tâm họ đầy xúc động vì được tán thán và họ càng nỗ lực tinh cần. Ngày hôm sau đức Thế Tôn cũng dạy chư Thiên và loài Người bài kinh ‘Ngoài Bức Tường’ ấy. Do vậy suốt bảy ngày đều diễn ra sự đắc Pháp nhãn như trên.

  1. Chuyện Ngạ Quỷ Ăn Thịt Năm Ðứa Bé (Pàncaputtakhadaka)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Sàvatthi (Xá-vệ).

Trong làng nọ không xa Sàvatthi, có một người vợ địa chủ không sinh con. Quyến thuộc của ông nói: ‘Ðể ta kiếm một cô gái khác cho ông’. Nhưng ông không muốn, do lòng yêu thương vợ. Về sau, khi nghe chuyện này, bà vợ giục chồng đi cưới vợ khác để khỏi tuyệt dòng giống.

Nhưng khi cô vợ mới có thai, người vợ vô sinh, lòng đầy ganh tỵ, đem thức ăn uống đãi một vị du sĩ và nhờ ông ấy thực hiện việc phá thai. Cô vợ kể chuyện với mẹ, bà liền triệu tập gia quyến đến bảo người vợ vô sinh:

– Chị đã làm chết con nó còn ở trong bụng.

Người ấy đáp:

– Tôi vô tội.

Họ bảo:

– Nếu chị vô tội, vậy hãy thề đi.

Người ấy bèn thề độc, thách thức tai họa xảy đến nếu bà có tội. Không lâu sau đó, người ấy từ trần và tái sanh làm một nữ ngạ quỷ xấu xí ở không xa thành phố này. Cùng thời ấy, có tám Tỷ-kheo đang an cư mùa mưa trong tỉnh đi đến Sàvatthi để yết kiến bậc Ðạo Sư, vừa vào một nơi trong rừng có bóng mát và nước chảy không xa làng ấy. Sau đó nữ ngạ quỷ hiện hình trước các vị Trưởng lão, một vị trong số ấy liền hỏi:

  1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
    Ngươi thở mùi hôi thối nặc nồng,
    Bao phủ toàn thân đầy bọ nhặng,
    Ngươi là ai đứng ở đây chăng?

Nữ ngạ quỷ đáp:

  1. Tôn giả, con là ngạ quỷ nương,
    Thần dân khốn khổ của Diêm vương,
    Vì con đã phạm hành vi ác,
    Con đến cõi ma đói ẩn thân.
  2. Sáng ngày năm đứa bé con sinh,
    Chiều tối năm trai lại hiện hình,
    Tất cả, con đều xâu xé hết,
    Nhưng không vừa đủ để nuôi mình.
  3. Lòng con đang nóng cháy như rang,
    Bốc khói vì cơn đói bạo tàn,
    Con chẳng tìm đâu ra nước uống,
    Hãy nhìn tai họa giáng đầu con.

Khi nghe xong chuyện này, vị Trưởng lão hỏi:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hành gì
    Do khẩu, ý, thân đã thực thi,
    Nay phải đền bù vào tội lỗi,
    Ngươi xâu xé thịt lũ hài nhi?

Sau đó nữ ngạ quỷ kể cho vị Trưởng lão về những việc đã làm:

  1. Vợ bé chồng con đang có thai,
    Con mưu việc ác chống nàng hoài,
    Chính con với trí tâm điên đảo
    Ðã khiến nàng kia sẩy bé trai.
  2. Thai chừng hai tháng máu tuôn tràn,
    Bà mẹ giận đưa các họ hàng,
    Bà ấy bảo con thề độc hại,
    Và con bị phỉ báng muôn vàn.
  3. Chính con đã nhận lấy lời thề
    Khủng khiếp, tràn đầy giả dối kia:
    ‘Nếu việc ấy do tôi tự tạo,
    Thì tôi ăn thịt đám hài nhi’.
  4. Do kết quả hành nghiệp của mình
    Cùng lời thề độc ác gian manh,
    Con xấu xé thịt bầy con trẻ,
    Vì quá khứ, con vấy máu tanh.

Chư vị Trưởng lão xúc động xót thương nữ ngạ quỷ, bèn đến nhà vị địa chủ kia bảo ông hồi hướng đến ngạ quỷ công đức buổi thọ trai mà ông cúng dường chư vị. Lập tức nữ ngạ quỷ thoát khỏi cảnh khốn khổ kia, nhận được nhiều ân phước và hiện hình ban đêm cho người chồng thấy. Sau đó chư Trưởng lão đến Sàvatthi đúng thời và trình lên đức Thế Tôn vấn đề ấy.

  1. Chuyện Ngạ Quỷ Ăn Thịt Bảy Ðứa Bé (Sattaputtakhadaka)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Sàvatthi (Xá-vệ).

Trong một làng nọ không xa Sàvatthi, một đệ tử tại gia có hai con trai xinh đẹp, đủ tài năng đức độ. Vì thế, mẹ chúng khinh thường chồng bà. Chán cảnh bị vợ khinh thường, ông đem về một cô vợ khác còn trẻ lại chóng có thai. Bà vợ cả sinh lòng ganh tỵ, thuyết phục một y sĩ bằng cách trả một số tiền, để làm cho tình địch phải trụy thai.

Thời ấy nhiều vị Trưởng lão, đã an cư mùa mưa ở một nơi trong làng, đang đi đến Săavatthi để yết kiến đức Thế Tôn. Nhân dịp này, chư vị ở lại đêm gần làng ấy. Sau đó nữ ngạ quỷ này xuất hiện trước chư Trưởng lão. Vị trưởng đoàn hỏi ngạ quỷ qua vần kệ:

  1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
    Ngươi thở mùi hôi thối nặc nồng,
    Bao phủ toàn thân đầy bọ nhặng,
    Nguơi là ai đứng ở đây chăng?

Nữ ngạ quỷ đáp:

  1. Tôn giả, con là ngạ quỷ nương,
    Thần dân khốn khổ của Diêm vương,
    Vì con đã phạm hành vi ác,
    Con đến cõi ma đói ẩn thân.
  2. Sáng ngày bảy đứa trẻ con sinh,
    Chiều tối bảy trai lại hiện hình,
    Tất cả, con đều xâu xé hết,
    Song không vừa đủ để nuôi mình.
  3. Lòng con đang cháy nóng như rang,
    Bốc khói, vì cơn đói bạo tàn,
    Con chẳng được tâm hồn lắng dịu,
    Khác nào lửa đốt, khổ muôn vàn.

Vị trưởng đoàn lại hỏi:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hạnh gì,
    Từ khẩu, ý, thân đã thực thi,
    Vì phạm lỗi lầm nào quá khứ,
    Mà ngươi ăn thịt đám hài nhi?

Nữ ngạ quỷ đáp:

  1. Ngày xưa con có được hai trai,
    Bọn chúng trưởng thành đủ cả hai,
    Khi đã thấy con mình lớn mạnh,
    Con thường khinh bỉ lão chồng tồi.
  2. Sau đó chồng con nổi hận sân,
    Cưới về thêm một ả hồng quần,
    Khi nàng kia đã mang thai nghén,
    Con nảy sinh tâm ác hại nhân.
  3. Con có tâm gian xảo, ác tà
    Khiến cho nàng phải bị thai sa,
    Máu tuôn khủng khiếp và ghê rợn,
    Việc ấy xảy vào tháng thứ ba.
  4. Khi ấy mẹ nàng nổi hận sân,
    Liền đưa con đến đám thân nhân,
    Bà truyền con nói lời thề độc,
    Và bảo mọi người phỉ báng con.
  5. Chính con đã nhận thấy lời thề,
    Khủng khiếp tràn đầy giả dối kia:
    ‘Nếu việc ấy do tôi tự tạo,
    Thì tôi ăn thịt đám hài nhi’.
  6. Do kết quả hành nghiệp của mình,
    Cùng lời thề độc ác gian manh,
    Con xấu xé thịt bầy con trẻ,
    Vì quá khứ, con vấy máu tanh. 

8. Chuyện Con Bò (Gona)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên).

Thuở đó ở Sàvatthi (Xá-vệ), người cha của một gia chủ nọ qua đời. Người con bị nỗi ưu phiền hành hạ và cứ khóc than mãi. Trong khi kẻ ấy đi lang thang như một người điên, ông thường hỏi bất cứ kẻ nào ông gặp: ‘Thế người có thấy cha tôi chăng?’ Không ai có thể xua tan nỗi ưu phiền của ông cả.

Nhưng trong lòng ông, như một ngọn đèn ở trong cái chai, đang bừng lên một khả năng đột xuất hướng về Nhập lưu đạo.

Trong lúc bậc Ðạo Sư đang quán sát thế gian vào buổi sáng, Ngài thấy điều kiện chắc chắn này và suy nghĩ: ‘Ðưa đến cho người này quả Dự Lưu thật là thích hợp sau khi kẻ ấy đã kể lại sự việc quá khứ và dẹp bỏ sầu bi’.

Vì thế ngày hôm sau, Ngài đi khất thực về, liền cùng một Tỷ-kheo trẻ đến cửa nhà vị kia. Khi nghe bậc Ðạo Sư đã đến, người ấy bước ra đón Ngài. Khi bậc Ðạo Sư đã an tọa, vị gia chủ nói:

– Bạch Thế Tôn, Ngài biết cha con đã đi về đâu rồi.

Bậc Ðạo Sư hỏi vị ấy:

– Này cư sĩ, ông hỏi về cha ông ở đời này hay đời trước?

Khi nghe những lời này, nỗi buồn của vị ấy dịu bớt: ‘Ta có rất nhiều cha trong quá khứ’ và vị ấy đã lấy lại được đôi chút thanh thản. Rồi bậc Ðạo Sư thuyết một bài giảng ngắn và ra đi về nơi cư trú của Ngài. Sau đó chư Tỷ-kheo bắt đầu pháp thoại về chuyện này.

Khi vừa đến nơi, bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này chư Tỷ-kheo, chư vị đang bàn luận gì khi ngồi tụ tập ở đây?

Chư vị kể lại vấn đề. Ngài đáp:

– Không phải chỉ giờ đây Ta mới xua tan nỗi ưu phiền của người kia, trong đời quá khứ nỗi ưu phiền của kẻ ấy cũng đã được tiêu trừ’. Và theo lời thỉnh cầu của chư vị, Ngài kể câu chuyện đã xảy ra thời trước.

Thuở xưa tại thành Benares (Ba-la-nại), người cha của một gia chủ từ trần. Bị sầu bi trấn áp, vị ấy đập ngực than khóc và cung kính đi quanh dàn hỏa thiêu. Con trai vị ấy là Sujàta, một nam tử thông minh lanh lợi, đầy đủ trí tuệ tối thượng, đang suy xét một phương cách xua tan nỗi ưu phiền của cha, chợt thấy ngoài kinh thành một con bò chết, chàng liền đặt phía trước nó một ít nước và cỏ chàng vừa đem tới nơi. Chàng đưa con bò một nắm cỏ, vừa ra lệnh như thể con bò đang sống, vừa đứng cạnh đó, chàng nói: ‘Ăn đi, ăn đi, uống đi, uống đi!’.

Khi người qua đường thấy chàng, họ nói:

– Này Sujàta, chú có điên không mà đưa cỏ với nước cho con bò chết?

Nhưng chàng không hề đáp lại lời nào. Vì thế dân chúng tìm đến cha chàng và bảo ông:

– Con trai ông đã nổi điên nên đưa cỏ và nước cho một con bò chết.

Khi vị gia chủ nghe việc này, nỗi ưu phiền về thân phụ liền mất đi. Lòng lo âu, vị ấy vội vàng đến trách cậu con trai:

– Con chẳng còn là Sujàta thông minh, lanh lợi và có trí tuệ nữa ư? Tại sao con lại đưa cỏ và nước cho một con bò chết?

Vị ấy ngâm hai vần kệ về việc này:

  1. Sao con có vẻ giống người khùng,
    Con cắt cỏ non, lại nói thầm
    Cùng với bò già vừa mới chết,
    Luôn môm bảo nó: ‘Hãy ăn, ăn!’
  2. Chẳng phải nhờ ăn uống, dỗ dành
    Mà con bò chết sẽ hồi sinh,
    Con tôi khờ dại ngây ngô quá
    Quả giống người đâu đó, thật tình.

Sujàta ngâm các vần kệ sau đáp lời:

  1. Bốn chân này với chiếc đầu này,
    Với cái đuôi và thân thể đây,
    Ðôi mắt là đây còn đủ cả,
    Con bò phải đứng dậy lên ngay!
  2. Song đôi tay với cả đôi chân,
    Thân thể và đầu tóc của ông,
    Nay chúng ở đâu, nào chẳng thấy,
    Khóc than đống đất, phải cha khùng?

Người cha đáp:

  1. Lòng ta quả thực nóng bừng
    Giống như sữa lạc đổ trong lửa đào,
    Nay vừa được tưới nước vào,
    Và làm tiêu tán biết bao khổ sầu.
  2. Quả con nhổ mũi tên đau
    Nỗi sầu kia đã cắm sâu vào lòng,
    Con xua mọi nỗi đau buồn
    Vì cha thương tiếc phụ thân của mình.
  3. Tâm ta đã được an bình,
    Nỗi buồn dứt bỏ trong mình từ nay,
    Ta không khóc nữa giờ đây,
    Sau khi nghe những lời này, con thân.
  4. Vậy là các bậc trí nhân,
    Ðầy lòng lân mẫn ân cần thiết tha
    Xua tan sầu não cho ta
    Như Su-jà với cha già giờ đây.

Rồi người cha đi gội đầu, ăn uống và tham gia công việc của mình. Khi từ trần, vị ấy tái sanh Thiên giới.

Như vậy Sujàta đã trở thành vị Bảo hộ thế giới.

  1. Chuyện Ông Chủ Thợ Dệt (Mahàpesakàra)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Sàvatthi (Xá-vệ).

Lúc ấy chừng mười Tỷ-kheo, sau khi nhận được đề tài thực hành thiền quán từ bậc Ðạo Sư, đang tìm một nơi cư trú. Vì thời kỳ an cư mùa mưa gần kề, chư vị thấy một chỗ tốt đẹp vừa ý ở trong rừng với bóng mát và nước chảy, và chỉ xa làng một khoảng thuận tiện để đi khất thực. Chư vị ngủ qua đêm tại đó và hôm sau vào làng khất thực.

Dân chúng đón mừng chư Tỷ-kheo và cầu xin chư vị vào đây cư trú mùa mưa. Sau đó vị trưởng nghiệp đoàn thợ dệt cung kính cúng dường hai Tỷ-kheo đủ tứ sự cần thiết, trong khi số đoàn viên thợ dệt khác phục vụ từng vị Tỷ-kheo.

Bấy giờ vợ người chủ thợ dệt không mộ đạo, không có lòng tin, theo tà kiến và tham lam, không phụng sự Tăng chúng. Sau đó người chủ này cưới cô em gái bà và cho làm bà chủ nhà. Nàng có lòng tin và nhiệt thành phục vụ chư Tăng.

Tất cả những thợ dệt này cũng tặng mỗi người một chiếc y cho mỗi Tỷ-kheo đang thực hành an cư mùa mưa ở đó.

Thế rồi, người vợ ích kỷ của chủ nghiệp đoàn thợ dệt,với ác tâm buông lời mạ lỵ chồng: ‘Mong mọi thức uống ăn mà ông cúng các Tỷ-kheo đệ tử chân chánh của đức Phật sẽ trở thành phân dơ và y phục sẽ thành những tấm sắt nóng bỏng trong kiếp sau’.

Khi từ trần, vị chủ nghiệp đoàn thợ dệt tái sanh ở rừng Vindhya làm một vị thần đầy vẻ huy hoàng. Người vợ xan tham ấy tái sanh làm nữ ngạ quỷ ở không xa nơi ông ở. Nữ ngạ quỷ trần truồng xấu xí, bị đói khát giày vò,và khi đến gần vị địa thần này, nó nói:

– Thưa phu quân, thiếp trần truồng đi lang thang bị đói khát hành hạ vô cùng khổ cực, xin hãy cho thiếp y phục và thức ăn uống.

Vị thần liền cho nó một số thực phẩm thần tiên của mình, nhưng khi ngạ quỷ vừa cầm lấy, các thứ này lập tức biến thành phân dơ và y phục nó vừa mặc vào liền hóa ra tấm sắt nóng cháy. Ngạ quỷ vừa nôn mửa vừa kêu khóc và đi lang thang trong nỗi thống khổ cùng cực.

Vào thời ấy, một Tỷ-kheo đang đi đến yết kiến bậc Ðạo Sư, cùng với một đoàn lữ hành đông đảo vào rừng Vindhya. Sau khi đã du hành ban đêm, đến sáng đoàn lữ hành thấy một nơi đầy bóng mát và nước chảy, họ liền thả đàn bò ra và ngừng lại để nghỉ chân.

Sau đó, vị Tỷ-kheo muốn ở riêng một mình nên đã đi xa một đoạn ngắn, trải chiếc y lên thảm cỏ dày dưới gốc cây và nằm xuống. Thân thể mệt nhọc vì cuộc hành trình ban đêm, vị ấy liền ngủ thiếp đi.

Sau khi đoàn lữ hành đã nghỉ ngơi xong, họ lên đường, nhưng vị Tỷ-kheo ấy chưa dậy. Mãi đến chiều tối vị ấy thức giấc và vì mất bạn đồng hành, vị ấy theo đường nhỏ đi mãi cuối cùng đến tận nơi cư ngụ của vị thần nói trên.

Khi vị thần thấy vị Tỷ-kheo, liền hóa ra hình người và chào đón vị ấy, đưa vị ấy vào lâu đài của mình và sau khi đã cúng dường dầu xoa chân cùng các lễ vật khác, vị thần đảnh lễ và ngồi xuống. Vừa lúc ấy nữ ngạ quỷ cũng đến và nói:

– Thưa phu quân, xin hãy cho thiếp thức ăn uống và y phục.

Vị thần cho nó đủ các thứ này, nhưng ngay lúc nó cầm chúng, thì chúng vẫn biến thành phân dơ và tấm sắt nóng cháy như cũ. Khi vị Tỷ-kheo thấy thế, lòng hết sức xúc động và hỏi vị thần qua hai vần kệ:

  1. Phân dơ máu mủ hiện lên đầy
    Cho nó, vì sao có quả này?
    Hạnh nghiệp gì người này đã tạo
    Mà nay ăn máu mủ như vầy?
  2. Y phục sáng tươi, trắng, mịn màng
    Mới cho ngạ quỷ, dệt bằng lông,
    Tức thì chúng hóa thành sắt nóng,
    Ðã tạo nghiệp gì, ngạ quỷ nương?

Vị thần đáp:

  1. Tôn giả, đây là vợ của con,
    Bà không bố thí, tính xan tham,
    Khi con cúng các Sa-môn ấy,
    Bà phỉ báng con với ác ngôn:
  2. ‘Mong ông ăn uống đám phân dơ,
    Nước tiểu, máu tanh, mủ thối tha,
    Ðây số phận ông về kiếp khác,
    Áo quần sẽ hóa sắt nung lò’.
    Bởi vì ác nghiệp ngày bà tạo,
    Bà phải ăn phân mãi đến giờ.

– Giờ đây có phương tiện gì giải thoát bà khỏi cảnh giới ngạ quỷ?

Tỷ-kheo đáp:

– Nếu ta dâng cúng đức Phật và Thánh chúng hay chỉ một Tỷ-kheo và hồi hướng công đức đến nữ ngạ quỷ, nó sẽ hưởng được phước phần và theo cách ấy nó sẽ thoát khỏi khổ đau.

Khi nghe vậy, vị thần liền cúng vị Tỷ-kheo thực phẩm và hồi hướng công đức cúng dường cho nữ ngạ quỷ. Tức thì nó được đầy đủ, tâm hân hoan hưởng thọ các thực phẩm thần tiên. Sau đó vị thần trao tận tay vị Tỷ-kheo ấy một đôi thiên y dâng cúng đức Thế Tôn và hồi hướng công đức ấy đến nữ ngạ quỷ. Ngay sau đó, ngạ quỷ được mặc y phục thần tiên, được cung cấp đủ mọi thứ nó ước mong tương tự như một Thiên nữ cõi trời.

Ngoài ra, vị Tỷ-kheo, nhờ thần lực của vị thần kia, ngay hôm ấy đã đến Sàvatthi.

  1. Chuyện Nữ Nhân Sói Ðầu (Khallàtiya)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Sàvatthi (Xá-vệ).

Thời xưa tại Benares (Ba-la-nại), có một nữ nhân sống nhờ sắc đẹp của mình. Bấy giờ tóc nàng thật dài đen nhánh, mịn màng, mềm mại và óng ả, cuộn lại rất đẹp. Các bím tóc nàng được kết thành hai nắm tay, mỗi khi buông lơi, chúng xuống tận thắt lưng nàng.

Lúc đó một số nữ nhân ganh tỵ bàn luận cùng nhau và sau khi mua chuộc nữ tỳ của nàng, lại gửi cho cô ả một thứ thuốc sẽ hủy hoại mái tóc nàng. Bấy giờ nữ tỳ pha thuốc ấy vào bột tắm và đưa cho chủ nhân vào lúc nàng đi tắm ở sông Hằng. Nàng dùng thứ thuốc pha ấy tẩm vào tóc thật kỹ đến tận gốc và nhảy vào dòng nước. Ngay khi nàng vừa ngâm mình vào nước, tóc nàng liền rụng ra tận gốc, sạch trơn tru và đầu nàng trông giống trái mướp đắng.

Sau đó, trông xấu xí như chim bồ câu bị vặt hết lông, nàng hổ thẹn không dám vào thành nữa, phải choàng khăn phủ đầu và cư trú ngoại thành. Khi nỗi hổ thẹn đã qua đi và đã biết ép hạt mè, nàng sinh sống bằng nghề bán dầu và rượu mạnh.

Một hôm, khi hai ba người đàn ông say rượu đã ngủ mê man, nàng lấy trộm tất cả y phục của họ đang treo lủng lẳng. Rồi một ngày nọ, nàng thấy một vị Thánh Tăng đi khất thực, sau khi mời vị ấy vào, nàng cúng dường một chiếc bánh làm bằng hạt dẻ trộn dầu mè. Vì thương xót nàng, vị ấy nhận bánh và ăn.

Nàng đứng đó với tâm hoan hỷ, che lên trên vị ấy một chiếc lọng. Vị Trưởng lão xúc động, nó lời tùy hỷ công đức và ra đi.

Bấy giờ nàng phát nguyện: ‘Ước mong ta sẽ được mái tóc đen mịn màng óng ả, mềm mại như tơ cuốn lên thật đẹp’.

Về sau nàng từ trần, và nhờ kết quả thiện nghiệp của nàng, nàng được tái sanh giữa đại dương một mình trong một lâu đài bằng vàng, tóc nàng được phục hồi như nàng đã ước nguyện, song vì nàng đã lấy trộm y phục của đám đàn ông, nay nàng phải bị trần truồng. Nàng cứ tái sanh mãi trong lâu đài bằng vàng kia và phải chịu sống trần truồng một kiếp tại đó.

Rồi về sau, đức Thế Tôn Gotama giáng thế, và trong lúc Ngài trú tại Sàvatthi, một trăm thương nhân có nhà ở đó lên thuyền đến xứ Suvannabhùmi (Kim Ðịa). Thuyền của họ bị bão tố trôi giạt đến bờ kia. Lúc ấy nữ quỷ cùng lâu đài hiện ra trước mặt họ. Khi vị trưởng đoàn thương nhân thấy nữ quỷ, liền hỏi:

  1. Nàng là ai trú ở lâu đài,
    Xin hỏi, sao không đến phía ngoài?
    Mau bước ra đây, này nữ chủ,
    Cho ta chiêm ngưỡng lực hùng oai.

Nữ quỷ đáp:

  1. Ta đây khốn khổ lại trần truồng,
    Không dám bước ra bởi thẹn thưồng
    Che tấm thân mình bằng mái tóc,
    Vì ta ít tạo nghiệp hiền lương.

Thương nhân:

  1. Ta sẽ đem y phục tặng nàng,
    Mặc vào che kín, hỡi hồng nhan,
    Bước ra, nữ chủ, ta mong muốn
    Nhìn ngắm nàng mang đủ lực thần.

Nữ quỷ:

  1. Những vật gì chư vị tặng ta
    Cũng không giúp ích được ta mà.
    Song đây có một người đồ đệ
    Ðầy đủ lòng tin đức Phật đà.
  2. Sau khi đem áo tặng người này,
    Hồi hướng cho ta phước đức vầy,
    Ta sẽ được ban nhiều hạnh phúc,
    Mọi nguồn lạc thú sẽ tràn đầy.

Sau khi nghe nàng nói, các thương nhân tắm rửa và thoa dầu thơm lên người đệ tử tại gia kia và khoác lên chàng một bộ y phục.

Chư vị kết tập Kinh điển ngâm ba vần kệ để giải thích việc này:

  1. Khi đã tắm chàng, đám phú thương
    Cho chàng cư sĩ tẩm dầu hương,
    Và cho chàng được mang y phục,
    Nữ quỷ hưởng công đức cúng dường.

7-8. Kết quả này do việc cúng dường:
Tràn đầy y phục với đồ ăn.
Xiêm y thanh lịch, nàng trong trắng
Khoác lụa Ba-la-nại tuyệt trần,
Vừa mỉm miệng cười, nàng mỹ nữ
Bước ra lầu ấy, lại thưa rằng:
‘Ðây là kết quả từ công đức
Lễ vật các ngài đã hiến dâng’.

Thương nhân:

  1. Lâu đài lắm kiểu cách cao sang
    Khả ái, tươi vui, sáng rỡ ràng,
    Thần nữ nói cho đoàn lữ khách
    Nghiệp gì đây kết quả cho nàng?

Nữ thần:

  1. Gặp người khất sĩ bước du hành,
    Chân chánh Tỷ-kheo, dạ tín thành,
    Ta đến cúng dường người bánh dẻ
    Trộn dầu mè với chính tay mình.
  2. Vì thiện nghiệp này ta hưởng đây
    Trong lâu đài đã biết bao ngày
    Như là kết quả phần công đức,
    Song chẳng còn lâu ở chốn này.
  3. Sau bốn tháng nay sắp đến gần,
    Rồi ta sẽ gặp Dạ-ma thần,
    Xuống miền địa ngục đầy tàn khốc,
    Ta sẽ đọa kinh khủng tột cùng.
  4. Ngục bốn góc và bốn cửa vào,
    Ðược chia phần nhỏ thật cân sao,
    Chung quanh tường sắt đều bao bọc,
    Và sắt che trên đỉnh mái cao.
  5. Nền bằng sắt rực lửa bừng bừng,
    Nóng bỏng, chói lòa khắp mọi phương,
    Ðịa ngục muôn đời còn đứng mãi,
    Trải dài luôn cả trăm do-tuần.
  6. Nơi kia ta chịu khổ lâu dài
    Thọ quả do tà nghiệp chín muồi,
    Vì thế ta thường than khóc mãi,
    Chuyện này quả thật chẳng hề nguôi.

Tâm vị đệ tử tại gia đầy xúc động thương cảm, chàng nói:

– Này nữ thần, do năng lực của lễ vật nàng cúng dường ta, nàng đã thành tựu mọi ước nguyện một cách sung mãn. Nhưng giờ đây, do cúng dường các đệ tử tại gia này và ghi nhớ mọi đức hạnh của bậc Ðạo Sư, nàng sẽ thoát khỏi tái sanh vào địa ngục.

Nữ thần vô cùng hạnh phúc, thiết đãi chư vị đầy đủ các loại ẩm thực, y phục, châu báu thần tiên và đưa tận tay chư vị một bộ y dâng đức Thế Tôn. Nàng cung kính đảnh lễ và nói:

– Xin hãy đến Sàvatthi và đảnh lễ đức Thế Tôn cùng các lời này của ta nhắn gởi: ‘Bạch đức Thế Tôn, có một nữ quỷ kia khấu đầu đảnh lễ chân đức Thế Tôn’.

Sau đó nhờ thần lực của mình, nàng đưa chiếc thuyền đến cảng cùng ngày hôm đó. Các thương nhân ấy đúng thời đến dâng lễ vật lên đức Thế Tôn và kể lại toàn thể câu chuyện trên.

  1. Chuyện Con Voi (Nàga)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên).

Tôn giả Samkicca vào lúc bảy tuổi đã đắc quả A-la-hán ngay tại phòng cạo tóc, và khi còn làm Sa-di, trú trong rừng với ba mươi Tỷ-kheo, vị ấy đã cứu chư vị thoát chết bởi tay của năm trăm tên cướp. Sau khi đã giáo hóa cả bọn đạo tặc kia và khuyến dụ chúng vào đời tu hành xuất gia, vị ấy cùng Tăng chúng này đến yết kiến bậc Ðạo Sư ở Benares (Ba-la-nại) và trú tại Isipatana (Trú xứ của Chư Tiên).

Thời ấy tại Benares, một Bà-la-môn theo tà đạo có hai trai một gái. Ba người con này gia nhập đoàn cư sĩ tại gia đảnh lễ cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn, mặc dù cha mẹ họ không có lòng tôn kính ấy.

Bấy giờ do một cơn bão, cả năm người ấy bị đè bẹp và chết vì ngôi nhà cũ kỹ ọp ẹp của họ sụp đổ. Sau đó vị Bà-la-môn và vợ tái sanh làm ngạ quỷ, còn hai trai và cô gái được làm các địa thần.

Lúc ấy một cháu trai của Bà-la-môn kia là đệ tử của Tôn giả Samkicca, đến tham kiến theo lời thầy và trong lúc vị ấy đứng đó, nhờ thần lực của thầy mình, vị ấy thấy hai địa thần cùng cô em cỡi xe đến tham dự lễ hội các thần Dạ-xoa và cũng thấy luôn cả hai ngạ quỷ theo sau họ, bèn bảo các ngạ quỷ này:

  1. Một thần cỡi bạch tượng đưa đường,
    Ở giữa, xe la kéo một chàng,
    Phía cuối, một nàng ngồi chiếc cáng
    Chiếu đầy ánh sáng khắp mười phương.
  2. Song hai ngươi nắm búa trong tay,
    Tan nát toàn thân lẫn mặt mày,
    Ác nghiệp nào xưa ngươi đã tạo,
    Sao ngươi uống máu của nhau vầy?

Hai ngạ quỷ:

  1. Thần ngồi phía trước dẫn đưa đường
    Trên bạch tượng kia, vật bốn chân,
    Ðó chính là con ta, trưởng tử,
    Cúng dường, nay được hưởng hồng ân.
  2. Còn thần ngồi giữa ở trên xe
    Có bốn con la kéo bốn bề,
    Xe chạy thật nhanh, là quý tử,
    Thanh cao thí chủ, sáng ngời kia.
  3. Cô gái ngồi sau chiếc cáng dài,
    Nữ thần thông tuệ cặp mắt nai
    Dịu hiền, cô út nhà ta đó,
    Nàng hưởng nửa phần hạnh phúc thôi.
  4. Những thần này với trí khinh an,
    Kiếp trước đã dâng lễ cúng dường
    Lên các Bà-la-môn, ẩn sĩ,
    Còn ta keo kiệt lại xan tham
    Ðã từng phỉ báng nhiều tu sĩ.
    Vì chúng ngày xưa đã phát ban,
    Nay chúng thong dong đi khắp chốn,
    Ta khô như sậy bị cưa ngang.

Khi đã nêu ra ác nghiệp, chúng còn giải thích như vầy:

– Chúng ta là anh và chị dâu của mẹ ngươi.

Nghe vậy người cháu đau lòng hỏi:

  1. Hai vị thường ăn thực phẩm nào?
    Loại giường của các vị ra sao?
    Cách nào nuôi sống, người sai phạm
    Trọng tội, khi đầy đủ biết bao
    Thực phẩm dồi dào, nhưng bất hạnh
    Và nay đang chịu quả thương đau?

Hai ngạ quỷ:

  1. Ta đánh nhau và uống máu nhau,
    Dù uống đã nhiều, vẫn khát khao,
    Chẳng được thức gì ăn để sống,
    Chúng ta không thỏa mãn đâu nào.
  2. Như những người không biết cúng dường
    Mạng chung, vào cõi Dạ-ma-vương,
    Sau khi nhận thấy phần ăn uống,
    Chẳng hưởng được gì lợi lạc thân.
  3. Chịu đói khát nhiều ở cõi âm,
    Lâu dài ngạ quỷ phải than thân,
    Bởi vì chúng bị luôn hành hạ
    Do chúng tạo bao nghiệp ác gian,
    Chúng thường nhận lãnh nhiều đau khổ
    Như là quả báo đắng cay tràn.
  4. Tài sản giàu sang chẳng vững vàng,
    Ðời người trên thế giới vô thường,
    Từ vô thường biết vô thường ấy,
    Người trí đi tìm chốn trú an.
  5. Những người biết Ðạo pháp bình yên,
    Nếu có trí vầy chớ lãng quên
    Dâng lễ cúng dường khi đã học
    Lời chư La-hán, chúng Tăng hiền.
  6. Chuyện Con Rắn (Uraga)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên).

Thuở ấy tại Sàvatthi (Xá-vệ) tương truyền con trai một vị đệ tử tại gia từ trần. Người cha đắm mình vào nỗi sầu khổ khóc than, không bước ra ngoài; vị ấy không thể làm gì được nên chỉ ở trong nhà.

Lúc ấy, Bậc Ðạo Sư vừa xuất định Ðại bi từ sáng sớm đang quán sát cõi trần với Phật nhãn, sau khi thấy người đệ tử tại gia kia, Ngài cầm y bát và đến đứng ngay tại cửa nhà vị ấy.

Vị đệ tử ấy vội vã đi ra tiếp đón Ngài, đỡ lấy bình bát và mời Ngài vào trong. Ðức Thế Tôn nói với vị ấy:

– Này cư sĩ, sao ông có vẻ mang nặng sầu tư?

Vị ấy đáp:

– Bạch Thế Tôn, quả thật con trai yêu quý của con vừa qua đời, nên con mang nặng sầu tư.

Sau đó, đức Thế Tôn, bậc ly sầu, kể cho vị ấy nghe chuyện Tiền Thân Con Rắn (Kinh Bổn Sanh số 354).

Thuở xưa trong quốc độ Kàsi, ở Ba-la-nại có một gia đình Bà-la-môn được mệnh danh Dhammapala (Hộ pháp). Trong nhà này, vị Bà-la-môn, bà vợ, con trai, con gái, con dâu, nữ tỳ, tất cả mọi người đều hân hoan thích thú hướng tâm niệm về cái chết. Bất cứ ai rời khỏi nhà đều nói cho những người khác biết và ra đi không hề bị ai để ý gì cả.

Rồi một hôm, vị Bà-la-môn cùng con trai ra đồng và cày ruộng, trong khi cậu trai nhóm lửa để sấy khô cây cỏ. Tức thì một con rắn hổ mun sợ hãi bò ra khỏi lỗ cây và cắn cậu trai vị Bà-la-môn. Cậu từ trần và hóa sanh làm Sakka Thiên chủ.

Còn vị Bà-la-môn, sau khi tắm rửa thật sạch sẽ và xoa dầu thơm cho mình xong, được đám người hộ tống vây quanh, vị ấy đặt thi thể con lên dàn hỏa và châm lửa giống như thể vị ấy đang đốt một đống củi vậy. Vị ấy cứ đứng đó, không sầu não cũng chẳng tự hành hạ mình, sau khi đã chú tâm vào niệm vô thường.

Bấy giờ con trai vị Bà-la-môn đã hóa sanh làm Sakka Thiên chủ chính là Bồ-tát. Sau khi suy xét thiện nghiệp đã làm ở kiếp trước và đầy lòng thương xót cha Ngài cùng quyến thuộc, Ngài liền đến chỗ ấy, giả dạng một Bà-la-môn.

Khi Ngài thấy mọi người không than khóc, liền bảo:

– Này, chư vị đang nướng thịt súc vật à, cho ta một ít; ta đang đói đây.

– Này Bà-la-môn, không phải là con vật đâu, con người đấy.

Bồ-tát hỏi:

– Thế đó là kẻ thù của chư vị chăng?

Người cha đáp:

– Chẳng phải kẻ thù đâu, mà là đứa con được bảo dưỡng trong lòng chúng tôi đấy, chính đứa con trai yêu quý đầy đủ các đức tính ưu tú của chúng tôi đấy.

Bồ-tát lại hỏi:

– Thế tại sao ông không khóc con?

Vị Bà-la-môn đáp:

  1. Như con rắn trút bỏ da tàn,
    Ðạt đến trưởng thành chính bản thân,
    Cũng vậy, khi thân không hưởng lạc,
    Ðúng thời, người chết phải từ trần.
  2. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng
    Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương,
    Cho nên tôi chẳng hề than khóc,
    Nó đã đi theo đúng bước đường.

Sau đó Sakka Thiên chủ hỏi bà mẹ:

– Bà ơi, người chết ấy là gì của bà?

Bà đáp:

– Thưa Ngài, tôi đã cưu mang nó mười tháng trong bụng, tôi cho nó bú mớm, tôi dẫn dắt tay chân nó, nó là con trai tôi đã khôn lớn rồi.

Thiên chủ hỏi:

– Cho dù cha là đàn ông thường không khóc chứ lòng mẹ chắc chắn là mềm yếu. Tại sao bà không khóc?

Nghe vậy, bà đáp:

  1. Không gọi, từ đâu nó đến đây,
    Chẳng ai cho phép, nó đi ngay,
    Nó đi, nó đến đều như vậy,
    Sao phải khóc than nó chốn này?
  2. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng
    Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương,
    Cho nên tôi chẳng hề than khóc,
    Nó đã đi theo đúng bước đường.

Sau đó, Ngài hỏi người chị:

– Này cô, người ấy là gì của cô?

– Thưa Ngài, đó là anh trai của con.

– Này cô, chị em gái thường rất yêu mến anh em trai. Tại sao cô không khóc?

Cô chị giải thích:

  1. Nếu con khóc, sẽ phải gầy mòn,
    Bù đắp, có gì trả lại con?
    Còn phát sinh ra nhiều bất lợi
    Cho bà con, quyến thuộc, thân bằng.
  2. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng
    Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương,
    Cho nên con chẳng hề than khóc,
    Kẻ đã đi theo đúng bước đường.

Sau đó, Ngài lại hỏi người quả phụ:

– Người đó là gì đối với chị?

– Thưa Ngài, đó là chồng của con.

– Này chị, các người vợ thường rất yêu thương chồng mình. Tại sao chị không khóc?

Nàng liền giải thích:

  1. Giống như đứa trẻ nọ kêu than
    Khi mặt trăng kia cứ lặn dần,
    Làm chính việc này đâu có khác
    Người nào thương khóc kẻ từ trần.
  2. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng
    Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương,
    Cho nên con chẳng hề than khóc,
    Kẻ đã đi theo đúng bước đường.

Sau đó Ngài hỏi cô nữ tỳ:

– Này cô, người ấy là gì của cô?

– Thưa Ngài, đó là cậu chủ con.

– Nếu vậy, chắc có lẽ cậu ấy đã đánh đập cô, và cô sắp làm quản gia rồi, bởi thế cô không than khóc, vì suy nghĩ: ‘Ta rất sung sướng được thoát khỏi người đã chết này’.

Nữ tỳ đáp:

– Thưa Ngài, xin đừng nói như vậy với con. Ðiều ấy không đúng. Cậu chủ nhà đối với con đầy kiên nhẫn, thân ái, ân cần, cư xử đúng mực chân chánh như một thanh niên trưởng thành được nuôi dạy chu đáo.

– Thế tại sao cô không khóc?

Nàng đáp:

  1. Giống như trường hợp Bà-la-môn
    Có một chiếc bình đã vỡ toang
    Không thể phục hồi, và cũng vậy,
    Hoài công thương khóc kẻ từ trần.
  2. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng
    Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương,
    Cho nên con chẳng hề than khóc,
    Kẻ đã đi theo đúng bước đường.

Khi Sakka Thiên chủ đã nghe pháp thoại của cả nhà ấy xong, Ngài hân hoan nói:

– Chư vị đã chân chánh tu tập niệm chết. Từ nay về sau chư vị không cần cày bừa lao động gì nữa cả.

Ngài liền hóa hiện ra bảy thứ báu vật tràn đầy nhà họ và khuyên nhủ với họ với những lời này:

– Hãy chuyên tâm bố thí, hành trì Ngũ giới và giữ ngày Trai giới (Bố-tát).

Sau đó Ngài xuất lộ nguyên hình trước mặt họ và trở về cõi của Ngài. Còn vị Bà-la-môn và gia đình luôn bố thí, thực hành mọi thiện sự khác và sau khi sống đời trường thọ, liền được tái sanh lên thiên giới.

Phẩm II – Phẩm Ubbarì

  1. (13) Chuyện Người Tìm Giải Thoát Vòng Luân Hồi (Samsàmocaka)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm)

Thuở ấy, trong làng Itthakàvati ở nước Magadha và làng Dìgharàji có nhiều người mang nặng tà kiến, muốn tìm giải thoát vòng luân hồi sanh tử. Trước đó có một nữ nhân được tái sanh và một gia đình như vậy. Vì giết hại nhiều gián, dế và châu chấu, khi từ trần, bà tái sanh làm ngạ quỷ, chịu mọi nỗi khổ đói khát giày vò suốt năm trăm năm.

Thời đức Thế Tôn Gotama đang ở tại Ràjagaha, nữ nhân ấy một lần nữa tái sanh vào cùng gia đình như trước kia tại Itthakàvati. Một hôm, khi nàng đang chơi đùa cùng các cô gái khác trên đường cái gần cổng làng, thì Tôn giả Sàriputta cùng mười hai Tỷ-kheo khác đi ngang qua và các cô gái kia vội vàng đảnh lễ. Nhưng cô này vẫn đứng yên tại chỗ một cách vô lễ. Sau đó vị Trưởng lão suy xét quá khứ và tương lai của cô, động lòng thương xót, phê bình thái độ của cô với các cô kia. Họ liền nắm tay cô và kéo cô đến đảnh lễ chư vị.

Về sau, cô gái từ trần lúc sanh con và lại tái sanh giữa loài ngạ quỷ. Ban đêm, nữ ngạ quỷ ấy xuất hiện trước Tôn giả Sàriputta, vị ấy thấy nó liền hỏi:

1.Trần truồng và xấu xí hình dung,
Gầy guộc và thân thể nổi gân,
Ngươi yếu ớt, xương sườn lộ rõ,
Người là ai, hiện đến đây chăng?

Nữ ngạ quỷ đáp:

  1. Tôn giả, con là ngạ quỷ nương,
    Thần dân khốn khổ của Diêm Vương,
    Vì con đã phạm hành vi ác,
    Con đến cõi ma đói ẩn thân.

Tôn giả Sàriputta:

  1. Ngày xưa ngươi phạm ác gì
    Do thân, khẩu, ý thân đã thực thi,
    Vì hạnh nghiệp nào, ngươi đã đọa
    Từ đây đến cảnh giới âm ty?

Nữ ngạ quỷ:

  1. Tôn giả, con không có họ hàng,
    Mẹ cha, quyến thuộc để khuyên lơn:
    ‘Này con, hãy có tâm thành kính
    Với các Sa-môn, hãy cúng dường’.
  2. Ngũ bách niên từ đó đến đây,
    Con lang thang với tấm thân này,
    Trần truồng, đói khát luôn hành hạ,
    Ðây quả do nhiều ác nghiệp gây.
  3. Kính bái hiền nhân với tín tâm
    Bạch ngài đại lực, xót thương con,
    Cúng dường lấy đức cho con hưởng,
    Giải thoát con từ cảnh khổ thân.

Chư vị kết tập Kinh điển kể tiếp chuyện này:

  1. Chấp thuận với lời: ‘Ðược lắm thay!’
    Vì lòng bi mẫn cõi đời này,
    Cúng dường Tăng chúng phần cơm nhỏ,
    Một mảnh y cùng chén nước đầy,
    Xá-lợi-phất Tôn nhân phát nguyện
    Dành cho ngạ quỷ phước phần này.
  2. Lập tức ngay sau lễ cúng dâng,
    Phước phần hồi hướng đến vong nhân,
    Ðây là kết quả từ công đức:
    Thức uống, thức ăn, lẫn áo quần.
  3. Sáng ngời, y phục thật thanh tân,
    Tơ lụa Ba-la-nại tuyệt trần,
    Mang đủ nữ trang và kiểu áo,
    Ðến gần Xá-lợi-phất Tôn nhân.

Tôn giả Sàriputta hỏi:

  1. Hỡi nàng Thiên nữ, dáng siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương sáng rỡ ràng,
    Thiên nữ, sắc nàng trông chói lọi,
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Dung sắc này do nghiệp quả nào,
    Phước phần nàng hưởng bởi vì sao,
    Bất kỳ lạc thú nào yêu chuộng
    Trong dạ, nàng đều thỏa ước ao?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Vẻ huy hoàng chiếu khắp mười phương?

Nữ ngạ quỷ đáp:

  1. Trước con hình vóc chỉ trơ xương,
    Gầy guộc, đói cơm, lại ở truồng,
    Da dẻ nhăn nheo, nhờ Giác giả
    Từ bi nhìn cảnh ngộ đau thương.
  2. Khi ngài ban tặng chủng hiền Tăng
    Một mảnh y vàng, một miếng ăn,
    Và chén nước kia, ngài đã chuyển
    Phước phần công đức đến cho con.
  3. Hãy nhìn kết quả của phần ăn:
    Lạc thú mà con vẫn ước mong,
    Con được cả ngàn năm thọ hưởng
    Thức ăn đầy đủ các mùi hương.
  4. Hãy nhìn kết quả phát sinh ra
    Từ một mảnh trong chiếc áo kia:
    Y phục giờ đây đầy đủ loại
    Khác nào quốc độ chúa Nan-da.
  5. Tôn giả, nay con có biết bao
    Áo quần, mền đắp thật dồi dào,
    Bằng tơ lụa với lông loài vật,
    Ðủ loại vải dày mỏng đẹp sao.
  6. Sung mãn và cao quý tuyệt vời,
    Chúng treo lơ lửng ở trên trời,
    Con mang tùy ý, thưa Tôn giả,
    Bất cứ loại nào thích thú thôi.
  7. Hãy nhìn kết quả tạo nên phần
    Từ chén nước trong đã cúng dâng:
    Có bốn hồ sen sâu thẳm thẳm
    Ðược xây dựng khéo léo vô ngần.
  8. Bến bờ xinh đẹp, nước trong xanh,
    Nhè nhẹ hương thơm, dịu mát lành,
    Bao phủ toàn sen xanh, đỏ thắm,
    Tràn đầy ngó súng mọc chung quanh.
  9. Phần con an hưởng thú vui chơi,
    Chẳng sợ gì đâu bốn góc trời,
    Tôn giả, nay con về cõi đất
    Ðể con đảnh lễ đấng thương đời. 

2. (14) Chuyện Mẹ Của Trưởng Lão Sàriputta (Sàriputtatheramàtu)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm).

Một hôm, các Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất), Mahà-Moggallàna (Ðại Mục-kiền-liên), Anurudha (A-na-luật-đà) và Kapppina (Kiếp-tân-na) đang trú tại một nơi trong khu rừng không xa thành Ràjagaha (Vương Xá).

Bấy giờ ở Benares (Ba-la-nại) có một Bà-la-môn đại phú gia, vốn là một giếng nước đầy đối với các Sa-môn, Bà-la-môn, đám dân nghèo, du sĩ, lữ khách, hành khất; vị ấy cúng dường bố thí thực phẩm, y phục, sàng tọa và nhiều vật dụng khác.

Vị ấy điều hành sinh hoạt của mình và bố thí tùy theo cơ hội phù hợp với các khách vãng lai, đủ mọi vật cần thiết cho tuyến đường trường. Vị ấy thường dặn bà vợ:

– Này bà, đừng quên việc bố thí này, bà phải chuyên tâm chăm lo bố thí như đã được định đoạt.

Bà vợ đồng ý, nhưng khi ông ra đi, bà liền cắt giảm tục lệ cúng dường chư Tăng. Hơn nữa, đối với đám lữ khách đến xin cư trú, bà chỉ vào túp lều xiêu vẹo bị bỏ phế đằng sau nhà và bảo họ:

– Hãy ở lại đó.

Khi đám du sĩ đến xin thực phẩm nước uống và các thức khác, bà thường buông lời nguyền rủa, kể ra cho từng người bất cứ vật gì ô uế đáng ghê tởm và bảo:

– Hãy ăn phân đi! Hãy uống nước tiểu đi! Hãy uống máu đi! Hãy ăn óc mẹ ngươi đi!

Do nghiệp lực trói buộc, lúc từ trần, bà tái sanh làm nữ ngạ quỷ chịu nỗi khốn cùng phù hợp với ác hạnh của bà. Khi nhớ lại đám quyến thuộc trong tiền kiếp, bà ước mong đến gần Tôn giả Sàriputta, và bà liền đến nơi ngài cư trú.

Các vị thổ thần trong nhà ngài không chấp nhận cho nữ quỷ vào. Do đó nữ quỷ nói như sau:

– Trong kiếp thứ năm kể về trước, ta là mẹ của Tôn giả Trưởng lão Sàriputta, hãy cho phép ta vào cửa để thăm ngài.

Vừa nghe vậy, chư thần liền cho phép nữ quỷ.

Khi nữ quỷ vào trong, nữ quỷ đứng cuối am thất và thấy ngài. Chợt trông thấy nữ quỷ, ngài động lòng từ bi liền hỏi nữ quỷ:

  1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
    Gầy guộc và thân thể nổi gân,
    Ngươi yếu ớt, xương sườn lộ rõ,
    Người là ai, hiện đến đây chăng?

Nữ ngạ quỷ đáp:

  1. Tôn giả, xưa ta mẹ của ngài,
    Trong nhiều kiếp trước ở trên đời,
    Tái sanh cảnh giới loài ma quỷ,
    Ðói khát giày vò mãi chẳng thôi.
  2. Những thứ gì nôn tháo, bọt mồm,
    Nước mũi tuôn ra, nước dãi đờm,
    Chất mỡ rỉ ra từ xác chết
    Bị thiêu, máu sản phụ lâm bồn.
  3. Máu chảy ra từ các vết thương,
    Hoặc từ đầu, mũi bị cưa ngang,
    Những gì cấu uế trong nam nữ,
    Ðói lả, ta đều phải lấy ăn.
  4. Máu mủ ta ăn của các loài,
    Và luôn máu mủ của con người,
    Không nơi cư trú, không nhà cửa,
    Nằm chiếc giường đen nghĩa địa hoài.
  5. Tôn giả, xin Tôn giả cúng dường,
    Vì ta, ngài bố thí ban ân,
    Ðể cho ta hưởng phần công đức,
    Giải thoát ta từ máu, mủ, phân.

Ngày hôm sau, Tôn giả Sàriputta cùng ba vị Tỷ-kheo kia khất thực trong thành Vương Xá, đến tận cung Ðại vương Bimbisàra (Tần-bà-sa).

Nhà vua hỏi:

– Chư Tôn giả, tại sao chư vị đến đây?

Tôn giả Mahà-Moggallàna trình vua những việc đã xảy ra. Nhà vua phán:

– Chư Tôn giả, trẫm chấp thuận việc ấy.

Nhà vua bảo chư vị ra đi, triệu vị cận thần vào và truyền lệnh:

– Hãy xây trong khu rừng của thành này bốn am thất được cung cấp đủ bóng mát và nước chảy.

Khi các am thất đã được hoàn tất, nhà vua đem chúng cùng các vật dụng cần thiết trong cuộc sống cúng dường Trưởng lão Sàriputta. Sau đó vị ấy dâng tặng lễ vật này lên Tăng chúng khắp thế gian do đức Phật làm thượng thủ và hồi hướng công đức ấy đến nữ ngạ quỷ kia.

Nữ ngạ quỷ hưởng các lợi lạc này liền được tái sanh lên thiên giới. Bấy giờ đầy đủ mọi thứ cần dùng, một hôm Thiên nữ đến gần Tôn giả Mahà-Moggallàna và kể cho vị ấy nghe tất cả mọi chi tiết trong hai kiếp tái sinh làm ngạ quỷ và Thiên nữ.

Do đó, chuyện kể rằng:

  1. Khi nghe mẹ đã nói gần xa,
    Thương xót, ngài U-pa-tis-sa,
    Triệu tập Mục-kiền-liên đại lực,
    Cùng A-na-luật, Kiếp-tân-na.
  2. Khi đã làm xong bốn cái am,
    Ngài dâng lễ cúng tứ phương Tăng,
    Am tranh, thực phẩm và hồi hướng
    Công đức về cho mẹ hưởng phần.
  3. Lập tức ngay sau lễ cúng dâng,
    Phước phần hồi hướng đến vong nhân,
    Ðây là kết quả từ công đức:
    Thức uống, thức ăn, lẫn áo quần.
  4. Xiêm y thanh lịch hiện dần ra,
    Ðệ nhất Ba-la-nại lụa là,
    Tô điểm ngọc vàng, nhiều kiểu áo,
    Ðến gần Tôn giả Ko-li-ta.

Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi:

  1. Hỡi nàng Thiên nữ, dáng siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương sáng rỡ ràng,
    Thiên nữ, sắc nàng trông chói lọi,
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Dung sắc này do nghiệp quả nào,
    Phước phần nàng hưởng bởi vì sao,
    Bất kỳ lạc thú nào yêu chuộng
    Trong dạ, nàng đều thỏa ước ao?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Vẻ huy hoàng chiếu khắp mười phương?

Thiên nữ đáp:

  1. Xá-lợi-phất Tôn giả cúng dường,
    Nhờ đây, con hạnh phúc hân hoan,
    Bốn phương con chẳng hề kinh hãi,
    Tôn giả chính là bậc xót thương
    Khắp cõi trần gian, thưa Giác giả,
    Con về đây kính lễ tôn nhan. 

3. (15) Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Mattà (Mattà)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên).

Thuở ấy tại Sàvatthi (Xá-vệ) có một vị địa chủ đầy tín tâm và đạo hạnh. Tuy thế, bà vợ Mattà lại không có lòng tin, không mộ đạo, bản tính hay nóng giận và không có con.

Sau đó, ông sợ dòng họ bị tuyệt tự, đã cưới một phụ nữ khác tên là Tissà. Nàng có lòng tin, mộ đạo và làm đẹp lòng chồng, nàng sinh một con trai được đặt tên là Bhùta. Là bà chủ nhà, nàng kính cẩn phục vụ bốn Tỷ-kheo thọ trai.

Không thể chịu đựng mãi tình địch, khi đã quét nhà xong, Mattà đổ rác lên đầu Tissà. Về sau Mattà từ trần và tái sanh làm nữ ngạ quỷ, phải chịu nỗi khốn khổ năm phần vì nghiệp lực của mình.

Nỗi thống khổ của bà được thấy rõ trong bài kinh này. Rồi một hôm, nữ ngạ quỷ nhớ lại quá khứ, liền hiện hình trước Tissà lúc ấy đang tắm rửa sau nhà. Khi thấy ngạ quỷ, Tissà hỏi:

  1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
    Gầy guộc và thân thể nổi gân,
    Ngươi yếu ớt, xương sườn lộ rõ,
    Ngươi là ai hiện đến đây chăng?

Mattà:

  1. Mat-tà là chị, hỡi Tis-sà,
    Chị lấy chồng chung một kiếp xưa,
    Do chị đã gây nên ác nghiệp,
    Từ đây đọa đến cõi yêu ma.

Tissà:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hạnh gì
    Do khẩu, ý, thân chị thực thi,
    Vì hạnh nghiệp nào nên đã đọa
    Từ đây đến cảnh giới âm ty?

Mattà:

  1. Xưa chị ác tâm, lắm hận sân,
    Xan tham, dối trá, lại ghen hờn,
    Vì dùng ác ngữ làm thương tổn,
    Chị đoạ từ đây đến cõi âm.

Tissà:

  1. Em còn nhớ mọi chuyện ngày xưa,
    Chị thật hung hăng thuở bấy giờ,
    Song có việc này em muốn hỏi:
    Tại sao mình chị phủ đồ dơ?

Mattà:

  1. Một buổi em vừa tắm gội xong,
    Áo quần sạch sẽ mới vừa mang,
    Chị đây, quả thật, còn hơn thế,
    Chị điểm tô nhiều món nữ trang.
  2. Khi điểm trang vầy, chị ngó qua
    Em đang nói chuyện với chồng ta,
    Chính vì việc ấy, niềm ganh tỵ,
    Cuồng nộ trong lòng bộc phát ra.
  3. Rồi chị cầm đồ rác bụi lên,
    Ðúng là chị đã rải đầu em,
    Vì do kết quả hành vi ấy,
    Chị phải giờ đây chịu lấm lem.

Tissà:

  1. Thật em biết mọi chuyện ngày xưa,
    Chị rảy lên em lắm bụi dơ,
    Nhưng có việc này em muốn hỏi:
    Tại sao chị ngứa ngáy giày vò?

Mattà:

  1. Tìm dược thảo, xưa hai chúng ta
    Cùng đi vào tận chốn rừng già,
    Em tìm các cỏ cây làm thuốc,
    Chị hái quả cây Ka-pi-ka.
  2. Lúc ấy em không biết chút nào,
    Giường em, chị rải chúng nhiều sao,
    Vì do kết quả hành vi ấy,
    Chị bị giày vò, ngứa biết bao!

Tissà:

  1. Thật ra, em biết rõ hoàn toàn
    Chị rải trái kia khắp cả giường,
    Song có việc này em muốn hỏi:
    Tại sao chị phải chịu trần truồng?

Mattà:

  1. Ngày kia có cuộc họp thân bằng,
    Tụ tập họ hàng lại thật đông,
    Em đã được mời đi dự lễ
    Cùng chồng ta đó, chị thì không.
  2. Thế rồi em chẳng biết hoàn toàn,
    Chị lấy cất đi mọi áo quần,
    Do chính việc này sinh kết quả,
    Giờ đây chị phải chịu trần truồng.

Tissà:

  1. Thật ra em biết chuyện kia mà,
    Chị lấy áo quần em quẳng xa,
    Song có việc này em muốn hỏi:
    Sao mùi xú uế chị xông ra?

Mattà:

  1. Vòng hoa, hương liệu, với trầm hương
    Chị lấy của em vứt hố phân,
    Do quả chị làm ra ác nghiệp,
    Chị xông mùi xú uế vô cùng.

Tissà:

  1. Ðúng là em biết rõ điều này,
    Ác nghiệp kia do chị đã gây,
    Song có việc này em muốn hỏi:
    Tại sao chị khốn khổ như vầy?

Mattà:

  1. Tài sản trong nhà của chúng ta
    Thuộc về cả chị lẫn em mà,
    Cúng dường bố thí là công đức,
    Song chị không hề tự tạo ra
    Một chỗ trú an, nay khốn khổ,
    Là do kết quả lỗi lầm xưa.
  2. Em thường bảo chị chính lời này:
    Chị cả đang hành ác nghiệp đây,
    Song nếu không làm điều tổn đức,
    Về sau sẽ hưởng phước tràn đầy’.

Tissà:

  1. Thái độ hận sân, chị đến gần
    Bên em, chị tật đố ghen hờn,
    Hãy nhìn quy luật điều chân lý:
    Kết quả hành vi ác đã làm.
  2. Chị lắm gia nhân ở tại nhà,
    Nữ trang đầy đủ thật xa hoa,
    Ngày nay chúng được người ngoài hưởng,
    Lạc thú ở đời chỉ thoảng qua.
  3. Giờ đây, cha của bé Bhù-ta
    Từ chợ sắp quay trở lại nhà,
    Ông sẽ tặng quà cho chị đó,
    Ðừng đi, hãy đợi lát giây mà.

Mattà:

  1. Trần truồng, dị tướng, quá hao gầy,
    Mình mẩy đường gân nổi rõ đầy,
    Ðây chiếc khố che phần hạ thể,
    Ðừng cho bố trẻ thấy ta vầy.

Tissà:

  1. Này, chị muốn em tặng thứ nào,
    Làm gì giúp đỡ chị hay sao,
    Ðể cho chị được nhiều an lạc,
    Hạnh phúc mọi điều thỏa ước ao?

Mattà:

  1. Ðây bốn Tỷ-kheo của chúng Tăng,
    Và thêm vào đó bốn Sa-môn,
    Cúng dường tám vị và hồi hướng
    Công đức cho ta được hưởng phần,
    Sau đó, ta tràn đầy hạnh phúc,
    Thỏa lòng ao ước được hồng ân.

Chuyện kể tiếp:

  1. ‘Ðược lắm!’, nàng vừa nói vậy xong,
    Liền đem dâng cúng tám Sa-môn
    Phạn trai, cùng với nhiều y phục,
    Hồi hướng phước phần đến cổ nhân.
  2. Lập tức ngay sau lễ cúng dâng,
    Phước phần hồi hướng đến vong nhân,
    Ðây là kết quả từ công đức:
    Thức uống, thức ăn, lẫn áo quần.
  3. Sáng ngời, y phục thật thanh tân,
    Tơ lụa Ba-la-nại tuyệt trần,
    Mang đủ nữ trang và kiểu áo,
    Ðến gần vợ kế của phu nhân.

Tissà:

  1. Hỡi nàng Thiên nữ, dáng siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương sáng rỡ ràng,
    Thiên nữ, sắc nàng trông chói lọi,
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Dung sắc này do nghiệp quả nào,
    Phước phần nàng hưởng bởi vì sao,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, nàng đều thỏa ước ao?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Vẻ huy hoàng chiếu khắp mười phương?

Mattà:

  1. Mat-tà là chị, hỡi Tis-sà,
    Chị lấy chung chồng một kiếp qua,
    Do chị đã gây nên ác nghiệp,
    Từ đây đọa tới cõi yêu ma,
    Nhờ em dâng lễ, nay an hưởng.
    Chị chẳng sợ gì mọi hướng xa.
  2. Mong em trường thọ với thân nhân!
    Em hỡi, mong em hưởng phước ân
    Ðạt cảnh ly sầu bi, dục vọng,
    Cõi trời của Hóa Lạc Thiên thần.
  3. Em sống đời sùng đạo, cúng dường,
    Tại đây bố thí, hỡi hồng nhan,
    Ðoạn trừ gốc rễ xan tham ấy,
    Em đến cõi thiên, phước nghiệp tràn. 

4. (16) Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Nandà (Nandàpeti)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên).

Ở một làng nọ không xa Sàvatthi (Xá-vệ) có một đệ tử tại gia đầy lòng tin và mộ đạo. Tuy thế, vợ vị ấy tên là Nandà lại không có lòng tin, không mộ đạo, xan tham, dễ nóng giận, ác ngữ, thường tỏ ra bất kính và bất tuân lời chồng. Bà thường la mắng ồn ào như trống nổi và say mê phỉ báng mạ lỵ.

Khi từ trần và tái sanh làm nữ ngạ quỷ, bà cư trú gần làng ấy. Rồi một hôm, bà xuất hiện trước mặt cư sĩ Nandasena đang đi trên đường. Khi thấy nữ ngạ quỷ, chàng ngâm kệ hỏi:

  1. Ðen đủi và hình tướng dữ dằn,
    Thân mình xương xẩu thật kinh hoàng,
    Nhà ngươi mắt đỏ, răng vành chạch,
    Ta chắc ngươi không phải thế nhân.

Nữ ngạ quỷ:

  1. Nan-dà là thiếp, hỡi Nan-da,
    Thiếp chính vợ chàng một kiếp xưa,
    Vì đã dùng ngôn từ phỉ báng,
    Từ đây đọa đến cảnh yêu ma.

Nandasena:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hạnh gì
    Do khẩu, ý, thân đã thực thi,
    Vì hạnh nghiệp nào nên đã đọa
    Từ đây đến cảnh giới âm ty?

Nữ ngạ quỷ:

  1. Xưa thiếp ác ngôn, lắm hận sân,
    Thiếp thường không kính trọng phu quân,
    Vì dùng lời lẽ gây thương tổn,
    Thiếp đọa từ đây tới cõi âm.

Nandasena:

  1. Ta tặng nàng đây chiếc áo choàng,
    Áo này nàng hãy lấy mà mang,
    Sau khi nàng đã choàng xong áo,
    Ta sẽ dẫn nàng đến cố hương.
  2. Nàng sẽ được ta tặng áo quần,
    Về nhà đủ thức uống, đồ ăn,
    Rồi nàng sẽ ngắm đôi nam tử,
    Dâu của nàng là một ác nhân.

Nữ ngạ quỷ:

  1. Những gì chàng tặng, dẫu trao tay,
    Cũng chẳng giúp cho thiếp thật hay,
    Song với Tỷ-kheo đầy giới đức,
    Ða văn, ly dục ở đời này,
  2. Cúng dường chư vị đủ cao lương,
    Hồi hướng về cho thiếp phước ân,
    Thiếp sẽ được ban nhiều hạnh phúc,
    Ðạt thành mọi nguyện ước toàn phần.

Ba vần kệ tiếp theo được chư vị kết tập Kinh điển ngâm:

  1. ‘Ðược lắm!’, chàng vừa hứa hẹn xong,
    Cúng dường hào phóng lễ chàng dâng
    Dồi dào thực phẩm mềm và cứng,
    Y phục, dù, hương liệu, tọa sàng,
    Ðủ loại dép giày, hoa kết chuỗi,
    Sau khi dâng cúng các hiền Tăng
    Ly tham, đạo hạnh, đa văn đủ,
    Chàng chuyển phước phần đến cổ nhân.
  2. Lập tức ngay sau lễ cúng dâng,
    Phước phần hồi hướng đến vong nhân,
    Ðây là kết quả phần công đức,
    Thức uống, thức ăn lẫn áo quần.
  3. Sáng ngời, y phục thật thanh tân,
    Tơ lụa Ba-la-nại tuyệt trần,
    Mang đủ nữ trang và kiểu áo,
    Nàng liền tiến đến vị phu quân.

Nandasena:

  1. Hỡi nàng Thiên nữ dáng siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương sáng rỡ ràng,
    Thiên nữ, sắc nàng trông chói lọi
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Dung sắc này do nghiệp quả nào,
    Phước phần nàng hưởng bởi vì sao?
    Bất kỳ lực thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, nàng đều thỏa ước ao?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Vẻ huy hoàng chiếu khắp mười phương?

Thiên nữ:

  1. Nan-dà là thiếp, hỡi Nan-da,
    Thiếp chính vợ chàng một kiếp qua,
    Do đã phạm vào bất thiện nghiệp,
    Từ đây đọa tới cõi yêu ma,
    Nhờ chàng dâng lễ, nay an hưởng,
    Thiếp chẳng sợ gì mọi hướng xa.
  2. Mong chàng trường thọ với thân nhân,
    Gia chủ, mong chàng hưởng phước ân,
    Ðạt cảnh ly sầu bi, dục vọng,
    Cõi trời của Hóa Lạc Thiên thần.
  3. Chàng sống đời sùng đạo, cúng dâng,
    Tại đây, bố thí, hỡi phu quân,
    Ðoạn trừ gốc rễ xan tham ấy,
    Chàng đến cõi thiên chẳng lỗi lầm. 

5. (17) Chuyện Mattakundalì (Mattakundalì)

Chuyện này đã được kể ở Tập “Chuyện Thiên Cung”, Phẩm II, số 9: Thiên tử Ðeo Vòng Tai.

  1. (18) Chuyện Ðại Vương Kanha (Kanha)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana.

Ở thành Sàvatthi, con trai của một vị đệ tử tại gia từ trần. Người cha đau buồn không thể tắm rửa ăn uống hay quan tâm đến công việc của mình, mà cũng không đi phụng sự đức Phật. Vị ấy thường nói lảm nhảm:

– Con yêu quý của ta đã bỏ đi đâu rồi! Tại sao nó ra đi trước ta?

Trong lúc bậc Ðạo Sư đang quán sát thế gian vào lúc rạng đông. Ngài thấy người kia có đủ cơ duyên đắc đạo quả. Ngày hôm sau, được chúng Tỷ-kheo vây quanh, Ngài đi vào Sàvatthi để khất thực. Sau khi thọ trai, Ngài cùng thị giả Ananda đến cửa nhà người ấy. Lập tức các gia nhân báo cho vị đệ tử cư sĩ kia và đưa vị ấy đến tiếp kiến bậc Ðạo Sư.

Khi Ngài thấy vị ấy ngồi một bên, Ngài bảo:

– Này cư sĩ, ông đang phiền muộn điều gì chăng?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

– Này cư sĩ, các bậc trí nhân ngày xưa không còn than khóc đứa con yêu từ trần sau khi đã nghe chuyện của các bậc Hiền trí.

Rồi theo lời thỉnh cầu của người gia chủ, Ngài kể chuyện cổ tích này.

Thời xưa trong thành Dvàravati, có mười huynh đệ hoàng gia: Vàsudeva, Baladeva, Candadeva, Suriyadeva, Aggideva, Varunadeva, Ajjuna, Pajjuna, Ghatapandita và Ankura. Trong số này, có con trai của Ðại Vương Vàsudeva từ trần.

Vị vua ấy tràn ngập nỗi sầu bi, xao lãng mọi phận sự quân vương, cứ nằm dài trên giường, chắp tay lên đầu và nói lảm nhảm. Lúc ấy Ghatapandita (Trí giả Ghata) suy nghĩ: ‘Không ai ngoài ta có thể xua tan nỗi ưu phiền của Hoàng huynh. Ta sẽ dùng mưu kế dẹp bỏ nỗi sầu của Hoàng huynh’.

Vì thế vị ấy làm ra vẻ điên khùng vừa nhìn lên trời, vừa lang thang khắp kinh thành, bảo:

– Cho ta con thỏ! Cho ta con thỏ!

Lúc ấy dân chúng toàn thành suy nghĩ: ‘Ghatapandita đã phát điên rồi!’.

Lúc ấy vị quốc sư tên là Rohineyya đi đến Ðại vương Vàsudeva và mở đầu câu chuyện với vần kệ này:

  1. Ðứng lên! Tâu Ðại đến Kan-ha,
    Sao Ðại đế nằm mãi thế kia?
    Ích lợi gì khi ngài ngủ thiếp?
    Chàng là bào đệ của ngài mà,
    Là tim, mắt phải ngài yêu quý,
    Gió cuốn Gha-ta hóa dại khờ!

Bậc Ðạo Sư tiếp tục câu chuyện với vần kệ này:

  1. Khi nghe lời của Ro-hi-ya,
    Ðại đế Ke-sa, dáng xót xa,
    Nặng trĩu sầu tư, liền đứng dậy
    Chỉ vì bào đệ của nhà vua.

Sau đó nhà vua từ lầu thượng bước xuống và đi đến gặp Ghatapandita. Nhà vua ôm chặt bào đệ với đôi tay và nói chuyện với chàng:

  1. Sao dáng điên rồ, đệ thẩn thơ
    Khắp kinh thành đất nước Dvà-ra,
    Thì thầm: ‘Thỏ! Thỏ!’ luôn mồm ấy,
    Loại thỏ gì kia đệ ước mơ?
  2. Thỏ dầu bằng ngọc hoặc vàng ròng,
    Hoặc bạc hay là loại thỏ đồng,
    Bảo ngọc, san hô, loài đá quý,
    Ta làm cho đệ thỏa cầu mong.
  3. Còn có nhiều loài thỏ biết bao
    Vẫn thường chạy nhảy chốn rừng sâu,
    Loại này ta cũng mang cho đệ,
    Loại thỏ nào đâu đệ ước ao?

Ghatapandita đáp:

  1. Những loại thỏ này đệ chẳng ham,
    Những loài cư trú khắp trần gian,
    Ke-sa-va, hãy mau đem xuống
    Cho đệ thỏ kia chốn Quảng Hàn!

Khi nghe chàng nói, nhà vua đau buồn suy nghĩ: ‘Chắc chắn em ta đã hóa điên rồi’, và bảo:

  1. Bào đệ, chắc em sẽ bỏ đời,
    Vì em mơ ước chuyện xa vời,
    Chuyện mà không có ai mơ ước:
    Con thỏ cung trăng ở cõi trời!

Khi đã nghe những lời của nhà vua xong, Ghatapandita đứng yên và đáp:

– Này Hoàng huynh, Hoàng huynh cũng đã hủy hoại cuộc đời của mình nhưng không đạt được con thỏ trên cung trăng mà Hoàng huynh mơ ước.

Rồi vị ấy ngâm vần kệ này:

  1. Nếu Kan-ha quả thật trí cao
    Dạy cho người khác khỏi ưu sầu,
    Giờ đây sao vẫn còn than khóc
    Nam tử từ trần đã bấy lâu?

Trong khi đang đứng giữa đường cái, vị ấy nói như sau:

– Quả thật đệ ước mơ một điều rõ ràng, có thể hiểu được, nhưng Hoàng huynh lại than khóc về một điều không thể hiểu được như thế kia.

Rồi vị ấy ngâm kệ thuyết pháp với nhà vua:

  1. Mong con ta sống chẳng từ trần!
    Không một người hay một vị thần
    Có thể đạt điều không thể đạt,
    Sao điều không thể lại cầu mong?
  2. Không có bùa thiêng hoặc thuốc thang,
    Chẳng loài dược thảo hoặc tiền vàng
    Ðủ công năng để làm hồi phục
    Người chết Hoàng huynh vẫn khóc than.
  3. Chính đám phú gia lắm bạc vàng,
    Quốc vương, quý tộc có giang san,
    Những người phong phú bao tiền của
    Cũng chẳng thoát tay lão tử thần.
  4. Sát-ly, Sa-môn với Thủ-đà,
    Puk-ku-sa, Vệ-xá, Chiên-đà,
    Những người này với toàn gia tộc
    Cũng chẳng thoát tay lão-tử ma.
  5. Những kẻ chuyên trì tụng chú thần
    Sáu phần sáng tạo bởi La-môn,
    Bọn này, bọn khác dùng tà thuật
    Cũng chẳng thoát tay lão-tử vong.
  6. Ngay các trí nhân thật chánh chân,
    Các nhà khổ hạnh đã điều thân,
    Sa-môn, ẩn sĩ, dù tu luyện,
    Ðến đúng thời cơ cũng mạng vong.
  7. Những bậc suốt đời tu tập tâm,
    Những người phận sự đã làm xong,
    Những người giải thoát, ly tham dục,
    Ðoạn thiện ác hành, cũng bỏ thân.

Như vậy Ghatapandita thuyết pháp với nhà vua. Khi nhà vua đã nghe xong, nỗi đau buồn liền tan biến và tâm trí trở nên thanh thản. Nhà vua ngâm kệ để tán thán Ghatapandita:

  1. Lòng ta quả thực nóng bừng,
    Khác nào sữa lạc đổ trong lửa đào,
    Em vừa tưới nước lạnh vào,
    Giờ đây ta dứt hết bao khổ sầu.
  2. Quả em nhổ mũi tên đau
    Nỗi ưu phiền đã cắm sâu vào lòng,
    Xua tan mọi nỗi thương tâm,
    Sầu tư nặng trĩu, khóc thầm vì con.
  3. Giờ đây trút bỏ đau buồn,
    Lòng ta lắng dịu, trí thường khinh an,
    Ta không còn phải khóc than,
    Từ khi nghe những lời vàng của em.
  4. Vậy là những bậc trí hiền,
    Ðầy lòng bi mẫn, ưu phiền xóa ngay,
    Như Gha-ta tiểu đệ này
    Ðã làm huynh trưởng từ rày an tâm.
  5. Kẻ nào bầu bạn hiền nhân
    Vẫn thường hầu cận thiết thân bên mình,
    Với lời khuyên nhủ chí tình
    Như Gha-ta với trưởng huynh của chàng.

Bậc Ðạo Sư thuyết pháp thoại này và bảo:

– Như vậy, này cư sĩ, những người trí tuệ ngày xưa dứt bỏ ưu phiền vì con sau khi đã nghe chuyện của các bậc hiền nhân.

Sau đó vừa thuyết giảng các Thánh đế, Ngài vừa đưa chuyện Tiền thân này vào cơ hội trên. Khi pháp thoại chấm dứt, vị cư sĩ ấy đã được an trú vào quả vị Dự Lưu.

  1. (19) Chuyện Ngạ Quỷ Dhanapàla (Dhanapàlapeta)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana.

Trước khi đức Phật đản sinh, trong quốc độ Dasanna, tại kinh thành Erakaccha, có một vị chủ ngân khố tên là Dhanapàla (Tài Hộ), là một người không có lòng tin, không mộ đạo, keo kiệt và đầy tà kiến. Những công việc của vị này có thể hiểu được qua Kinh điển Pàli. Lúc từ trần, vị ấy tái sanh làm ngạ quỷ trong một vùng sa mạc hoang vắng. Ngạ quỷ đi lang thang khắp nơi, bị đói khát giày vò hành hạ.

Thời ấy, một số thương nhân sống ở Sàvatthi chất đầy hàng hóa lên năm trăm cỗ xe và khi đã đến Uttarapatha, họ bán các hàng ấy. Sau đó, họ lại chất đầy hàng hóa lên xe để trở về.

Họ khởi hành lên đường về nhà lúc chiều tối họ đến tại một gốc cây. Ở đấy họ tháo cương bỏ bầy bò ra và tạm trú qua đêm. Thế rồi ngạ quỷ kia bị cơn khát nước giày vò liền đến nơi ấy kiếm thứ gì để uống, nhưng không được giọt nào, nó liền thốt tiếng kêu. Khi thấy nó, các thương nhân hỏi:

  1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
    Gầy guộc và thân thể nổi gân,
    Ngươi yếu ớt, xương sườn lộ rõ,
    Ngươi là ai đấy, hỡi vong nhân?

Ngạ quỷ đáp:

  1. Tôn giả, ta là ngạ quỷ nhân,
    Thần dân xấu số của Diêm vương,
    Vì ta đã phạm hành vi ác,
    Ta đến nơi ma đói ẩn thân.

Ðám thương nhân:

  1. Ngày xưa ngươi phạm ác hành gì,
    Do khẩu, ý, thân đã thực thi,
    Vì hạnh nghiệp nào ngươi đã đọa
    Từ đây đến cảnh giới âm ty?

Ngạ quỷ:

  1. Kinh thành bộ tộc Da-san-na,
    Danh vọng lẫy lừng E-ra-ka,
    Thuở trước ta là nhà triệu phú,
    Với tên Tài Hộ tặng cho ta.
  2. Tám mươi ngàn chẵn cỗ xe lừa
    Chất chứa vàng ròng sở hữu ta,
    Thuở đó ta nhiều vàng bạc lắm,
    Ngọc trai, ngọc mắt báo đầy nhà.
  3. Như vậy ta là đại phú ông,
    Nhưng ta lại chẳng muốn cho không,
    Khi ta ăn uống, ta cài cửa
    Ðể bọn ăn mày chẳng ngóng trông.
  4. Xưa ta không mộ đạo, xan tham,
    Keo kiệt, dùng lời nói hại nhân,
    Ta cản nhiều người chuyên bố thí,
    Những người làm phận sự chuyên cần.
  5. Ta nói: ‘Không sao có phước phần
    Dành cho việc bố đức thi ân,
    Tu thân đâu có đem thành quả?’
    Ta phá bao nguồn nước vệ đường,
    Ao giếng, hồ sen, vườn cảnh đẹp,
    Lối đi hiểm trở khó băng ngang.
  6. Như vậy ta không tạo phước ân,
    Làm người gây ác nghiệp từ trần,
    Tái sanh vào xứ loài ma quỷ,
    Ðói khát luôn hành hạ khổ thân,
    Từ đấy đến nay ta tạ thế
    Tính ra vừa đủ năm lăm năm.
  7. Ẩm thực ta không được hưởng phần,
    Do không có bố đức thi ân,
    Thì điều tai hại là như vậy,
    Vì ngạ quỷ luôn hiểu biết rằng:
    ‘Nếu chẳng muốn thi ân bố đức,
    Thì điều tai hại cũng ngang bằng’.
  8. Thuở trước ta không muốn phát ban,
    Ta không bố thí các kho tàng,
    Mặc dù bố thí là công đức,
    Ta chẳng tạo nên chốn trú an.
  9. Ngày nay ta hối hận ăn năn,
    Nặng trĩu trong lòng bởi phải mang
    Hậu quả việc làm bao ác nghiệp,
    Và sau bốn tháng sẽ từ trần.
  10. Ðọa miền địa ngục hãi hùng sao,
    Có bốn góc và bốn cửa vào,
    Ngục được chia phần theo kích thước,
    Xung quanh bao bọc với tường rào
    Làm bằng sắt nóng và trên mái
    Cũng có sắt che tận đỉnh cao.
  11. Nền bằng sắt rực lửa bừng bừng,
    Nóng bỏng, chói lòa khắp mọi phương,
    Ðịa ngục muôn đời còn đứng mãi,
    Trải dài luôn cả trăm do-tuần.
  12. Nơi kia ta chịu khổ lâu dài,
    Thọ quả do tà nghiệp chín muồi,
    Vì thế ta thường ân hận mãi,
    Khóc than thực tế chẳng hề nguôi.
  13. Bởi vậy ta đem chuyện thật hay
    Nói cùng chư vị họp nơi đây,
    Ðừng bao giờ phạm hành vi ác,
    Dù giấu kín hay được tỏ bày.
  14. Nếu ngươi đang phạm việc sai lầm,
    Hoặc sắp phạm, thì nỗi khổ tâm
    Sẽ chẳng rời ngươi, dù trốn tránh,
    Bay lên trời đến giữa hư không.
  15. Hãy luôn tôn kính mẹ cùng cha,
    Quý trọng bậc niên trưởng tại nhà,
    Quy ngưỡng Bà-la-môn, đạo sĩ,
    Do vầy, thiên giới sẽ chờ ta.
  16. Không giữa trời hay giữa biển thanh
    Dẫu đi vào kẽ núi non xanh,
    Cũng không tìm được trong trần thế
    Nơi chốn thoát thân khỏi ác hành.

Các thương nhân thương xót ngạ quỷ liền rảy nước vào mồm nó. Nhưng vì ác nghiệp của ngạ quỷ kia, nó không thể nuốt được. Họ hỏi nó:

– Thế giờ đây ngươi không thể nào dịu bớt đôi chút khổ đau?

Ngạ quỷ đáp:

– Có thể được khi ác nghiệp này đã được tiêu trừ. Nếu giờ đây có lễ vật cúng dường đức Như Lai hoặc chư đệ tử của Ngài và công đức lễ cúng dường ấy được hồi hướng đến ta, thì ta sẽ được giải thoát ra khỏi kiếp sống ngạ quỷ này.

Khi các thương nhân đã nghe chuyện ngạ quỷ xong, họ trở về Sàvatthi, trình lên đức Thế Tôn, rồi suốt bảy ngày làm đại lễ cúng dường Tăng chúng có đức Phật làm thượng thủ và hồi hướng công đức ấy đến ngạ quỷ.

  1. (20) Chuyện Tiểu Chủ Ngân Khố (Cùlasetthi)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm).

Ở Benares (Ba-la-nại) có gia chủ Cùlasetthi (Tiểu chủ ngân khố) là người không có lòng tin, không mộ đạo, keo kiệt, không bố thí và khinh thường các thiện sự công đức. Lúc từ trần vị ấy tái sanh giữa loài ngạ quỷ.

Bấy giờ con gái vị ấy là Anulà đang sống tại nhà chồng ở Andhakavinda. Nàng mong muốn cúng dường các Bà-la-môn để lấy phước đức cho cha nên đã chuẩn bị cơm và các thực phẩm khác làm lễ vật.

Khi ngạ quỷ biết tin này, lòng đầy hy vọng liền bay qua không gian hướng về nơi kia và đến Ràjagaha (Vương Xá).

Thời ấy vua Ajatasattu (A-xà-thế) theo sự xúi giục của Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) đã giết hại phụ vương. Vì lòng hối hận giày vò và gặp cơn ác mộng, nhà vua không ngủ được. Trong lúc đang đi dạo quanh quẩn trên thượng lầu, nhà vua thấy ngạ quỷ kia đang bay qua không gian, liền hỏi:

  1. Ngươi là vị khổ hạnh trần truồng,
    Gầy guộc, ban đêm vượt dặm đường.
    Vì lý do gì, cho trẫm biết,
    Trẫm ban ngươi mọi vật giàu sang.

Ngạ quỷ đáp:

  1. Thành Ba-la-nại tiếng vang lừng,
    Nơi ấy ta là một phú ông
    Không bố thí và ham hưởng lạc,
    Vì làm ác, đọa cảnh Diêm công.
  2. Ðói khổ làm ta kiệt quệ dần,
    Ta đau như thể bị kim châm,
    Vì gây ác nghiệp, cho nên phải
    Ði đến bà con để kiếm ăn,
    Song những kẻ nào tâm biển lận
    Vẫn không tin tưởng chuyện cho rằng
    Thi ân bố đức đem thành quả
    Xuất hiện đời sau giữa thế nhân.
  3. Con gái ta thường nói với ta:
    ‘Con mong dâng cúng các ông cha’.
    Bà-la-môn muốn cho người khác
    Ði dự tiệc bằng cách nói ra:
    ‘Ta sắp được mời ăn thịnh soạn
    Tại nơi kia ở An-dha-ka’.

Chuyện kể tiếp:

  1. Vua truyền: ‘Khi đã nhận xong phần,
    Ngươi trở lại đây vội bước chân,
    Trẫm muốn ban ngươi nhiều phước lộc,
    Nếu nhà ngươi có một nguyên nhân,
    Trình cho trẫm biết ngay duyên cớ,
    Trẫm sẽ nghe điêù xứng tín tâm.
  2. ‘Mong vậy!’, quỷ vừa mới nói ra,
    Liền bay đi đến phố An-dha.
    Nơi kia chúng hưởng đồ dâng cúng,
    Song hội chúng không xứng đáng mà,
    Sau đó về thành Vương Xá ấy,
    Một lần nữa yết kiến nhà vua.
  3. Khi vua nhìn ngạ quỷ quay về,
    Liền bảo: ‘Nay ta phải cúng gì?
    Hãy nói thế nào là cách thức
    Khiến ngươi hưởng lạc thú tràn trề?’

Ngạ quỷ đáp:

  1. Phục vụ Tỷ-kheo với Phật-đà,
    Thức ăn, đồ uống, áo cà-sa,
    Cúng dường lấy phước cho ta hưởng,
    Ta sẽ hân hoan trọn kiếp mà.
  2. Tức thì vua bước xuống hoàng cung,
    Dâng lễ tự tay đến chúng Tăng,
    Trình đức Như Lai về việc ấy,
    Rồi đem công đức tặng vong nhân.
  3. Chói lòa ánh sáng, được tôn vinh,
    Trước mặt quân vương, quỷ hiện hình:
    ‘Ta đã trở thành thần đại lực,
    Không người nào sánh kịp uy danh.
  4. Hãy nhìn ta hưởng đại vinh quang
    Do Ðại vương vừa mới phát ban,
    Khi đã cúng Tăng-già đại lễ,
    Từ đây ta được mãi hân hoan,
    Vì có biết bao nhiêu phước lộc,
    Ta đầy hỷ lạc, hỡi quân vương’. 

9. (21) Chuyện Ankura (Ankura)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Sàvatthi (Xá-vệ).

Trong trường hợp này, Ankura không phải là ngạ quỷ, nhưng vì có liên hệ với ngạ quỷ, nên chuyện được gọi là chuyện ngạ quỷ Ankura.

Trong thị trấn Asitanjana, ở vùng Kamsabhoga, tỉnh Uttaràpatha, có vị vương tử của vua Mahàsàgara, chúa tể xứ Uttaramadhura, tên là Upasàgara cùng vương phi Devagabbhà, công chúa của vua Mahà-kamsaka, sinh được bầy con này: Anjanadevì, Vàsudeva, Baladeva, Candadeva, Suriyadeva, Aggideva, Varunadeva, Ajjuna, Pajjuna, Ghatapandita và Ankura.

Vasudeva và các huynh đệ khởi binh từ kinh thành Asitanjana và theo thời gian tận diệt tất cả mọi vua chúa trong sáu mươi ba ngàn kinh thành thuộc toàn quốc Hồng Ðào (Ấn Ðộ), rồi dừng chân ở thành Dvàravatì và định cư tại đó.

Về sau họ chia vương quốc ra làm mười phần, nhưng họ lại quên phần chị là công chúa Anjanadevì. Khi họ nhớ đến bà, một vương tử đưa ý kiến:

– Chúng ta hãy chia làm mười một phần.

Lập tức tiểu vương tử Ankura nói:

– Hãy đưa phần tiểu đệ cho vương tỷ; tiểu đệ sẽ sống bằng nghề thương mãi, chư vương huynh gửi tiền thuế của tiểu đệ đến vương tỷ, mỗi người từ quốc độ của mình.

Họ chấp thuận và sau khi đã gửi phần trợ cấp của người em cho chị, chín vua kia đều sống tại Dvàravatì.

Tuy thế, Ankura lại theo nghề thương mãi và thường xuyên bố thí rộng rãi. Bấy giờ vị ấy có một người nô lệ làm thủ kho vốn rất quan tâm đến phúc lợi của chủ.

Ankura cưới cho người này một thiếu nữ có gia thế đàng hoàng về làm vợ. Vì người nô lệ chết sớm, Ankura cho con trai người này hưởng tiền lương đã được trả cho cha nó lúc trước.

Khi đứa bé này đến tuổi khôn lớn, trong triều vua có lời bàn xì xào rằng kẻ nô lệ ấy không phải là một nô lệ.

Khi công chúa Anjanadevì nghe chuyện này, bà dùng ví dụ con bò sữa và giải phóng cậu trai ra khỏi tình trạng nô lệ, rồi nói:

– Một bà mẹ được tự do không có gì thua kém một đứa con trai được tự do.

Song nỗi hổ thẹn khiến cậu con trai bỏ ra đi đến kinh thành Bheruva, tại đó cậu cưới con gái của một người thợ may và sinh sống bằng nghề thợ may.

Thời ấy trong thành Bheruva có một vị chủ nghiệp đoàn đại phú tên là Asayha vẫn cúng dường bố thí hào phóng cho các Sa-môn, Bà-la-môn, du đãng, lữ hành, cùng đám ăn mày, khất sĩ. Người thợ may hân hoan thích thú về việc này, thường chỉ cho những người không biết chỗ ấy, đến tận dinh cơ của gia tộc Asayha với lời dặn:

– Hãy đi đến đó và nhận được nhiều tặng vật xứng đáng.

Hành động của vị này được đề cập trong Kinh tạng Pàli. Khi từ trần, vị ấy tái sanh làm một địa thần trong vùng sa mạc, ở một cây đa kia, tại đó tay phải vị thần thường ban phát các đồ vật đem lại lạc thú.

Bấy giờ cũng trong thành Bheruva ấy có một người tham dự vào việc bố thí hào phóng của Asayha, nhưng vì kẻ ấy không có lòng tin, không mộ đạo, đầy tà kiến và tỏ ra bất kính đối với các thiện sự công đức, nên khi từ trần, kẻ ấy tái sanh làm ngạ quỷ ở gần nơi cư trú của vị thần kia. Hạnh nghiệp của vị ấy cũng được tìm thấy trong Kinh tạng Pàli.

Lúc ấy Asayha đã từ trần và cộng trú với Sakka Thiên chủ ở cõi trời Ba mươi ba. Một thời gian sau đó, Ankura chất đầy hàng hóa lên năm trăm cỗ xe, trong khi một Bà-la-môn khác cũng làm như vậy. Hai người này cùng cả ngàn cỗ xe đi vào một sa mạc hiểm trở và lạc đường.

Trong khi họ lang thang quanh quẩn nơi ấy, thì cỏ, nước và thực phẩm cạn dần. Ankura phái đám hầu cận đi tìm nước. Lúc ấy thần Dạ-xoa kia đang ban phát các đồ vật đem lại lạc thú, chợt thấy tình cảnh nguy khốn của họ, và nhớ đến công ơn mà Ankura đã làm cho mình đời trước, liền chỉ cho vị này cây đa mà thần đang cư trú, và suy nghĩ: ‘Bây giờ đây ta phải giúp đỡ người này’.

Thời ấy, cây đa này đầy cành lá rậm ráp, rủ bóng che dày đặc và có hàng ngàn chồi non. Cây trải dài, cao và rộng cả một do-tuần. Khi thấy cây đa, Ankura rất hân hoan thích thú bảo cắm lều ngay tại đó. Thần Dạ-xoa đưa tay phải ra và lập tức cung cấp nước uống.

Sau khi đám người này được cung cấp đủ mọi nhu cầu theo nguyện vọng, và đã nghỉ ngơi sau cuộc hành trình, vị Bà-la-môn thương nhân nảy lên ý tưởng ngu si này: ‘Sau khi đã đi từ đây đến Kamboja để kiếm tài sản, thì chúng ta sẽ làm được việc gì? Chi bằng ta hãy tìm cách bắt lấy thần Dạ-xoa đưa lên xe. Rồi sau đó cùng thần ấy đi thẳng về kinh thành của ta’.

Với ý tưởng này trong trí, vị Bà-la-môn nói kế hoạch của mình cùng Ankura:

  1. Ðích ta tìm ở Kam-bo-ja
    Thành tựu khi ta gặp Dạ-xoa,
    Thần ấy cho ta bao ước muốn,
    Bắt thần cùng ở với đoàn ta.
  2. Hãy bắt lấy ngay Ðại lực thần,
    Cho dù cưỡng bách hoặc bằng lòng,
    Hãy đưa thần ấy lên xe gấp,
    Trở lại Dvà-ra vội bước chân.

Khi vị Bà-la-môn đã nói vậy xong, Ankura liền đề cập pháp thực hành của các thiện nhân, vừa phản đối vị kia:

  1. Với cây rủ bóng, ngẫu nhiên ngồi,
    Nằm nghỉ, ta không bẻ nhánh chơi,
    Vì kẻ nào hay làm phản bạn,
    Là người gây ác nghiệp trên đời.

Vị Bà-la-môn đáp lời, theo quan niệm khôn ngoan thông thường chủ trương rằng căn bản của sự thành công là loại bỏ đạo đức giả:

  1. Với cây cao bóng mát tình cờ
    Ta đến nằm, ngồi thật tự do,
    Có thể đốn cây ngay tận gốc,
    Nếu điều này có lợi cho ta.

Ankura:

  1. Với cây rủ bóng ngẫu nhiên ngồi,
    Nằm nghỉ, ta không hái lá chơi,
    Vì kẻ nào hay làm phản bạn,
    Là người gây ác nghiệp trên đời.

Bà-la-môn:

  1. Với cây cao bóng mát tình cờ
    Ta đến nằm ngồi thật tự do,
    Có thể nhổ cây luôn cả rễ,
    Nếu điều này có lợi cho ta.

Ankura:

  1. Tình cờ ta ở lại nhà ai,
    Dù chỉ một đêm đến sáng mai,
    Ta được người kia mời ẩm thực,
    Ta không nghĩ kế hại cho người,
    Tri ân là một điều cần thiết
    Ðược các thiện nhân tán thán hoài.
  2. Tình cờ ta trú ngụ nhà ai,
    Cho dẫu một đêm, chỉ một thôi,
    Và được người kia mời ẩm thực,
    Không nên nghĩ việc ác cho người,
    Kẻ nào tay chẳng gây tai hại
    Cũng chấm dứt mưu phản bạn đời.
  3. Ngày trước nếu ai có thiện hành,
    Về sau phạm tội ác vào mình,
    Bàn tay trong sạch người kia thiếu,
    Sẽ chẳng gặp đâu phận tốt lành.

Lúc ấy vị Bà-la-môn trở nên yên lặng. Tuy nhiên thần Dạ-xoa đã nghe cả hai người nói chuyện, liền nổi giận với vị Bà-la-môn và nói:

– Hãy cho gã Bà-la-môn độc ác này lãnh phần xứng đáng với gã.

Rồi để chứng tỏ rằng thần không dễ bị bất cứ ai khuất phục, thần bảo:

  1. Ta đâu dễ bị một Thiên thần
    Khuất phục, hay vua chúa, thế nhân,
    Ta chính Dạ-xoa, thần đại lực,
    Phi nhanh như chớp giữa hư không,
    Và ta thọ hưởng hình dung đẹp,
    Phúc phận cho ta đủ lực hùng.

Ankura:

  1. Bàn tay ngài chói sáng vàng ròng,
    Có mật rỉ và các suối trong
    Ðầy tặng vật tuôn từ mọi ngón,
    Nước cây trái ngọt nhỏ thành dòng,
    Nên ta tin chắc ngài oai lực
    Là chính Pu-rin-da hiện thân.

Thần Dạ-xoa:

  1. Ta chẳng là tiên, chẳng Thát-bà,
    Chẳng Sak-ka hiệu Pu-rin-da,
    An-ku-ra hỡi, ta là quỷ
    Ðã đến đây từ Bhe-ru-na.

Ankura:

  1. Xưa ngài có tính cách ra sao,
    Ðời trước ngài theo nếp sống nào,
    Vì Thánh hạnh gì, tay ấy vẫn
    Hoàn thành thiện sự biết là bao?

Thần Dạ-xoa:

  1. Kiếp trước ta là một thợ may,
    Suốt đời cùng khổ sống qua ngày,
    Ở Bhe-ru phố, ta không có
    Phương tiện gì ban phát tự tay.
  2. Thuở ấy, tiệm ta ở cạnh nhà
    Của người mộ đạo A-say-ha,
    Chuyên gia bố thí đầy hào phóng,
    Khiêm tốn làm bao thiện sự mà.
  3. Các đám ăn mày đến chỗ kia,
    Cùng đinh thập loại hỏi thăm ta:
    ‘Chúc ông may mắn! Xin cho biết
    Ði đến nơi đâu được phát quà?’
  4. Khi các tiện dân đến hỏi ta,
    Ta cho biết chỗ A-say-ha,
    Vừa đưa tay phải ra, vừa bảo:
    ‘Chúc bạn gặp may, đến chốn kia,
    Nhà của A-say-ha ở đó
    Tặng vật dồi dào được phát ra’.
  5. Do vậy tay ta nay phát phân
    Những gì chư vị đến cầu mong,
    Nhờ nguyên nhân ấy, tay ta đó
    Ðang nhỏ mật ngon ngọt cả dòng,
    Vì Thánh hạnh xưa, ta tiếp tục
    Hoàn thành thiện sự với tay không.

Ankura:

  1. Như thế xưa ngài chẳng tặng ai
    Vật gì đâu với chính tay ngài,
    Nhưng vì thích thú nhìn người khác
    Bố thí, nên tay phải trải dài.
  2. Do vậy tay ngài nay biếu không
    Những gì cần thiết với tha nhân,
    Nhờ nguyên nhân ấy, tay ngài đó
    Ðang nhỏ mật ngon ngọt cả dòng,
    Vì Thánh hạnh xưa, ngài tiếp tục
    Hoàn thành thiện sự với tay thần.
  3. Ngài hỡi, người kia có tín tâm
    Dùng đôi tay lấy của cho không,
    Sau khi đã bỏ thân phàm tục,
    Người ấy đi đâu, hãy nói cùng.

Thần Dạ-xoa:

  1. Ta chẳng biết gì thuở đã qua,
    Chuyện sanh tử của An-gi-ra,
    Người thành tựu việc không hề có,
    Song đã nghe từ Ves-sa-va,
    Người ấy sanh Thiên và cộng trú
    Cùng chư Thiên hội chúng Sak-ka.

Ankura:

  1. Bố thí, làm lành đúng khả năng
    Quả nhiên đầy đủ lợi vô ngần,
    Khi nhìn kẻ khác ban ân phước,
    Ai chẳng muốn làm thiện sự chăng?
  2. Từ đây đến xứ Dva-ra-ka
    Quả thật khi về đất nước xưa,
    Ta sẽ phân chia nhiều tặng vật,
    Việc này đem hạnh phúc cho ta.
  3. Ta sẽ tặng nhiều thức uống ăn,
    Áo quần, sàng tọa, chỗ nương thân,
    Lối đi qua các nơi nguy hiểm,
    Ðào giếng, và ao nước vệ đường.

Vừa lúc ấy, một ngạ quỷ xuất hiện, Ankura liền hỏi:

  1. Sao tay ngươi các ngón cong queo,
    Và miệng của ngươi lệch một chiều,
    Ðôi mắt ngươi tuôn trào nước mãi,
    Nhà ngươi đã tạo ác hành nào?

Ngạ quỷ:

  1. Với người mộ đạo An-gi-ra,
    Gia chủ làm công đức tại nhà,
    Tôi đã liên quan về thiện sự,
    Xưa tôi giám sát việc chia quà.
  2. Nơi kia, khi thấy bọn xin ăn,
    Những kẻ thèm cơm nước phát phân,
    Ðã đến, tôi liền qua phía khác,
    Và tôi làm bộ mặt mày nhăn.
  3. Nên tay tôi các ngón cong queo,
    Và miệng của tôi lệch một chiều,
    Ðôi mắt tôi tuôn trào nước mãi,
    Ngày xưa tôi tạo ác hành nhiều.

Ankura:

  1. Kẻ khốn khổ kia, thật đúng là
    Miệng ngươi méo lệch bởi ngày xưa
    Ngươi nhăn mày mặt khi nhìn thấy
    Người khác phân chia các món quà.
  2. Vì sao ta có thể phát phân
    Y phục, tọa sàng, thức uống ăn,
    Mà lại mong nhờ tay kẻ khác
    Giúp ta phục vụ các tha nhân?
  3. Từ đây đến xứ Dvà-ra-ka,
    Quả thật khi về đất nước xưa,
    Ta sẽ phân chia nhiều tặng vật,
    Việc này đem lại hạnh phúc cho ta.
  4. Ta sẽ tặng nhiều thức uống ăn,
    Áo quần, sàng tọa, chỗ nương thân,
    Lối đi qua các nơi nguy hiểm,
    Ðào giếng, và ao nước vệ đường.

Chư vị kết tập Kinh điển tiếp tục câu chuyện qua các vần kệ:

  1. Sau khi trở về Dvà-ra-ka,
    Vị ấy vừa quay bước đến nhà,
    Liền thiết lập công trình bố thí,
    Việc này đem hạnh phúc chan hòa.
  2. Với tâm thanh thản, vị này ban
    Y phục, thức ăn uống, tọa sàng,
    Nơi chốn cho bao người tạm trú,
    Ðào ao và giếng nước bên đàng.
  3. Ai muốn áo choàng, thức uống ăn?
    Ngựa bò ai mỏi mệt hay chăng?
    Từ nơi đây họ đem dây buộc
    Bò ngựa vào xe để chở hàng,
    Ai muốn nước hoa, dù đỡ nắng,
    Ai cần giày dép hoặc hoa tràng?
  4. Như vầy bọn chúng cứ kêu la,
    Bọn hớt tóc và bán nước hoa,
    Ðầu bếp, không ngừng từ sáng tối
    Ở ngôi nhà của An-ku-ra.

Tiếp theo đó là câu chuyện giữa Ankura và Sindhaka, một chàng trai được chỉ định trông coi việc bố thí của vị ấy.

Ankura:

  1. Các bọn người kia vẫn nghĩ rằng:
    ‘An-ku-ra ngủ thật bình an’,
    Sin-dha-ka hỡi, ta trằn trọc,
    Vì chẳng thấy đâu bọn cái bang.
  2. Chắc các người kia nghĩ đến mình:
    ‘An-ku-ra ngủ thật ngon lành’.
    Sin-dha-ka hỡi, ta trằn trọc
    Vì chẳng thấy đâu đám lữ hành.

Sindhaka:

  1. Nếu Sak-ka, chúa cõi Băm-ba,
    Ban tặng cho ngài một ước mơ,
    Ngài sẽ chọn gì trong thế giới,
    Mong ngài bày tỏ, An-ku-ra?

Ankura:

  1. Nếu Sak-ka, chúa cõi Băm-ba,
    Ðem một điều mong ước tặng ta,
    Ta sẽ cầu xin từ buổi sáng
    Khi vừa thức giấc sớm tinh mơ,
    Món ăn thiên giới luôn đầy đủ,
    Hành khất tín thành cũng hiện ra.
  2. Mong ước khi ta đang phát ban,
    Công năng bố thí chẳng tiêu tan,
    Sau khi bố thí, không ân hận,
    Ta ước tâm ta được lạc an,
    Trong lúc ta thi ấn bố đức,
    Ấy điều ta ước tự Thiên Hoàng.

Như vậy, Ankura đã tuyên bố nguyện vọng của mình. Lúc ấy tại nơi kia, một người đang ngồi mang tên Sonaka, có phẩm hạnh tốt. Người ấy muốn khuyên can vị này đừng bố trí quá nhiều, liền bảo:

  1. Chớ nên cho tất cả gia tài,
    Ngài phải hộ phòng sản nghiệp thôi,
    Vì thế, bạc vàng là chắc chắn
    Có giá trị hơn bố thí hoài,
    Bố thí quá nhiều sinh kết quả
    Gia đình không thể sống lâu dài.
  2. Bậc hiền không chấp nhận xan tham,
    Cũng chẳng tán đồng quá phát ban,
    Vì thế, ngài nhìn xem của cải
    Tốt hơn là bố thí tràn lan;
    Người nào có quyết tâm chân chánh,
    Sẽ chọn đường trung đạo lạc an.

Ankura:

  1. Ông nói điều này quả thật hay,
    Phần ta muốn bố thí từ đây,
    Và cầu mong những người lương thiện,
    Mộ đạo mau chân đến chốn này;
    Như đám mây tràn đầy vực thẳm,
    Ta mong bồi dưỡng hạng ăn mày.
  2. Nếu ta tâm trí được bình an,
    Khi thấy bọn hành khất hỏi han
    Hoan hỷ vì thi ân bố đức,
    Ðấy là hạnh phúc giữa nhân gian.
  3. Nếu trí tâm ta được lặng yên,
    Khi nhìn hành khất đến cầu xin,
    Hân hoan vì việc ban ân huệ,
    Như vậy là thành tựu phước điền.
  4. Trước khi bố thí, phải hân hoan,
    Tâm trí hân hoan lúc phát ban,
    Hoan hỷ sau khi ta bố thí,
    Thế là thành đạt phước nhân gian.

Chư vị kết tập Kinh tạng Pàli tiếp tục kể chuyện này:

  1. Sáu mươi ngàn chẵn chuyến xe bò
    Thực phẩm hằng ngày được phát cho
    Các đám người trong nhà thí chủ
    Nguyện làm thiện sự An-ku-ra.
  2. Ðầu bếp ba ngàn sống tại gia
    Của người thí chủ An-ku-ra,
    Ðiểm trang vàng ngọc, hoa tai đủ,
    Tận tụy nhiệt tâm phát tặng quà.
  3. Thanh niên trai tráng sáu mươi ngàn
    Ðeo đủ hoa tai với ngọc vàng,
    Ðang bổ củi trong nhà thí chủ
    Cử hành đại bố thí nhân gian.
  4. Nữ nhi một vạn sáu như hoa
    Tô điểm đồ trang sức ngọc ngà,
    Nhào bột thành bao hình bánh ngọt,
    Cử hành đại bố thí toàn gia.
  5. Mười sáu ngàn kìa đám nữ nhân
    Xiêm y đủ mọi vẻ thanh tân,
    Tay cầm muỗng tại nhà gia chủ
    Phục vụ đại công đức phát phân.
  6. Phát ban nhiều tới biết bao người,
    Người quý cao thay cống hiến hoài,
    Bố thí ân cần, tay chỉ bảo,
    Quan tâm chăm sóc mãi không thôi.
  7. Nhiều tuần trăng, tháng tháng trôi qua,
    Chẳng biết bao năm với bốn mùa,
    Suốt một thời gian dài đăng đẵng,
    Không ngừng bố thí, An-ku-ra.
  8. An-ku-ra bố thí lâu dài,
    Cống hiến phát ban suốt cả đời,
    Ðến lúc từ trần, lìa bỏ xác,
    Ði lên thiên giới, cõi Ba mươi.

Khi vị ấy đã được tái sanh ở đó và đang hưởng thiên lạc, thì vào thời đức Thế Tôn Gotama, một thanh niên có tên Indaka đầy nhiệt tâm cúng dường một phần thực phẩm lên Tôn giả Trưởng lão Anuruddha (A-na-luật-đà) trong lúc vị này đang đi khất thực.

Khi Indaka từ trần, và nhờ năng lực công đức đã trở thành phước điền, vị ấy tái sanh lên cõi Ba mươi ba. Vì thế chuyện kể tiếp:

  1. Lấy cơm đầy muỗng, In-da-ka
    Dâng Trưởng lão A-na-luật-đà,
    Khi xả báo thân phàm tục ấy,
    Chàng lên cộng trú cõi Băm-ba.

58-59. Trong mười phương diện, In-da-ka
Vượt trội An-ku-ra thật xa:
Khả ái sắc, thanh, hương, vị, xúc,
Trường tồn thọ mạng, đẹp màu da,
Phước phần, danh vọng và quyền lực,
Chàng đều vượt hẳn An-ku-ra.

  1. Ở trong thiên giới, cõi Băm-ba,
    Bậc Tối thượng nhân, đức Phật-đà,
    Ðang ngự trên ngai Hoàng bảo thạch,
    Dưới chân của đại thọ San-hô.
  2. Khi chư Thiên tụ tập mười phương,
    Ðảnh lễ đấng Toàn Giác Thế Tôn
    Vừa đến cõi thiên, đang trú ngụ
    Ở trên thượng đỉnh của Cao Sơn.
  3. Không một thần tiên ở cõi trời
    Sánh bằng đức Phật vẻ hùng oai,
    Vượt lên tất cả chư Thiên ấy,
    Duy nhất Thế Tôn chiếu rạng ngời.
  4. Ðồng thời có mặt An-ku-ra
    Cách đó mười hai dặm phía xa,
    Nhưng ở không xa đức Phật mấy,
    In-da-ka vượt An-ku-ra.
  5. Khi đức Phật vừa chợt ngó qua
    An-ku-ra với In-da-ka,
    Muốn làm hai vị tăng công đức,
    Ðức Phật bèn cất tiếng nói ra:
  6. ‘Lâu dài bố thí, An-ku-ra,
    Xưa phát phân nhiều để lợi tha,
    Nay vẫn đang ngồi xa cách quá,
    Ðến nơi này ở phía gần ta’.
  7. Ðược đấng Toàn tri kiến bảo ban,
    An-ku-ra vội nói lên rằng:
    ‘Lợi gì bố thí thời xưa ấy,
    Vì thiếu người tương xứng cúng dường?
  8. In-da-ka hiện ở nơi đây,
    Dù đã cúng dường ít ỏi thay,
    Chàng vẫn sáng ngời hơn tất cả,
    Như trăng vượt các đám sao dày’.

Ðức Phật liền dạy bảo:

  1. Ví như trong đám ruộng khô cằn
    Hạt giống dù vô số được trồng,
    Chúng vẫn không đem nhiều kết quả,
    Và không làm đẹp ý nhà nông.
  2. Cũng vậy đem nhiều của phát ban
    Cho người độc ác hoặc tà gian,
    Sẽ không tạo quả lành phong phú,
    Và chẳng làm vui kẻ cúng dường.
  3. Nhưng khi ít hạt được gieo trồng
    Trong chỗ đất tươi tốt ruộng đồng,
    Lại có nhiều mưa hòa gió thuận,
    Ðược mùa làm đẹp ý nhà nông.
  4. Cũng vậy, khi tôn kính chánh nhân,
    Những người đạo hạnh giữa nhân quần,
    Thiện hành dù chỉ là nho nhỏ,
    Cũng tạo công năng đại phước phần.
    Chư vị kết tập Kinh điển tiếp tục kể chuyện:
  5. Vậy phải biết phân biệt cúng dường
    Ðem về phước báo lớn vô lường,
    Cúng dường có chú tâm suy xét,
    Thí chủ lên thiên giới trú an.
  6. Ta phải cúng dâng lễ tín thành
    Lên người xứng đáng giữa quần sanh,
    Lễ dâng như vậy đem thành quả
    Phong phú như gieo hạt đất lành. 

10. (22) Chuyện Mẹ Của Uttara (Uttaramàtu)

Sau khi bậc Ðạo Sư diệt độ, vào thời Ðại hội kết tập Kinh điển đầu tiên đang diễn tiến, Tôn giả Mahà-Kaccayàna (Ðại Ca-chiên-diên) cùng mười hai Tỷ-kheo đang cư trú trong ngôi rừng nọ gần Kosambi (Kiều-thưởng-di).

Thời ấy Uttara, vị nam tử thừa kế của vị quốc sư triều vua Udena, đang cùng đám thợ mộc đi tìm gỗ để sửa nhà, và được Trưởng lão này thuyết pháp.

Về sau Uttara thường cúng dường vị ấy thực phẩm và xây tặng vị ấy một thảo am.

Song bà mẹ của Uttara căm hận những việc cúng dường ấy. Bà bảo:

– Ta mong bất cứ thức ăn uống nào con cúng các Sa-môn mà ta không đồng ý đều trở thành máu cho con uống ở đời sau.

Tuy thế, vào ngày cúng dường am thất, bà cho phép tặng một bó lông đuôi công. Khi từ trần, bà tái sanh làm nữ ngạ quỷ và do đã cúng dường một bó lông đuôi công ấy, nữ ngạ quỷ có mái tóc đen thật dài, uốn lượn óng ả rất đẹp và dài tha thướt.

Bất cứ khi nào nữ ngạ quỷ bước xuống tự nhủ: ‘Ta sẽ uống nước sông Hằng’ thì dòng sông trở thành máu đỏ. Sau khi đã đi lang thang suốt năm mươi năm bị đói khát giày vò, ngày kia nữ ngạ quỷ chợt thấy Trưởng lão Kankhàrevata (Kankhà Ly-bà-la) ngồi nghỉ trưa bên bờ sông Hằng:

Cuộc đối thoại này tiếp theo sau hai vần kệ đầu của chư vị kết tập Kinh điển:

  1. Khi một Tỷ-kheo đến nghỉ trưa
    Và ngồi trên bến nước Hằng hà,
    Gần người, nữ quỷ hình ghê rợn,
    Dáng điệu rụt rè, tiến bước ra.
  2. Mái tóc quỷ nương ấy thật dài
    Thả ra chấm đất, được buông lơi,
    Che thân bằng các chùm tóc ấy,
    Nữ quỷ thưa Tôn giả chuyện đời:

Nữ ngạ quỷ:

  1. Năm mươi năm đã giã từ trần,
    Con chẳng biết gì thức uống ăn.
    Tôn giả, cho con xin chút nước,
    Hiện con đang khát nước muôn phần.

Tỷ-kheo:

  1. Ðây dòng nước mát của sông Hằng
    Chảy xuống từ miền núi Tuyết Sơn,
    Hãy lấy nước kia và uống gấp,
    Sao ngươi xin nước ở trên dòng?

Nữ ngạ quỷ:

  1. Tôn giả, xin thưa, nếu chính con
    Tự tay lấy nước ở dòng sông,
    Nước liền thành máu, và vì thế
    Con khẩn cầu ngài chút nước trong.

Tỷ-kheo:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hành nào
    Do khẩu, ý, thân đã phạm vào,
    Từ nghiệp quả gì tay ấy chạm
    Nước sông Hằng hóa máu, vì sao?

Nữ ngạ quỷ:

  1. Nam tử của con, Ut-ta-ra,
    Xưa vốn là cư sĩ tại gia
    Ðem cúng các Sa-môn thực phẩm,
    Tọa sàng, dược liệu, áo cà-sa.
  2. Lòng con sôi động bởi xan tham
    Thúc giục, nên con phỉ báng chàng:
    ‘Bất cứ vật gì ta chẳng muốn
    Ngươi đem dâng cúng các Sa-môn,
  3. ‘Ut-ta-ra, thứ ấy, ta cầu
    Thành máu cho ngươi ở kiếp sau’.
    Do nghiệp quả này, tay chạm phải
    Nước sông Hằng hóa máu từ lâu’.

Khi ấy Tôn giả Revata cúng dường nước lên Tăng chúng và hồi hướng công đức cho nữ ngạ quỷ. Sau đó Tôn giả đi khất thực và khi đã nhận được thức ăn Tôn giả cúng dường chư Tăng. Rồi Tôn giả lấy một ít giẻ rách từ đống rác, rửa sạch, phơi khô xong, Tôn giả may thành y và cúng dường Tăng chúng.

Nhờ vậy nữ ngạ quỷ thọ hưởng thiên lạc, liền trình với vị Trưởng lão sự việc cùng bày tỏ niềm hạnh phúc thần tiên mà nó đã đạt được.

  1. (23) Chuyện Cuộn Chỉ (Sutta)

Trong một làng kia gần Sàvatthi, bảy trăm năm trước khi bậc Ðạo Sư xuất hiện, có một nam tử phục vụ một vị Ðộc Giác Phật. Chàng trai ấy bị rắn cắn, từ trần vào ngày cưới vợ. Trong khi phục vụ, chàng đã tạo nhiều phước nghiệp nhưng vì chàng luyến ái vị tân nương, nên chàng tái sanh làm một quỷ thần trong lâu đài có đầy đủ quyền lực và vinh quang.

Do ước muốn đưa tân nương về lâu đài của mình, khi thấy một vị Ðộc Giác Phật đang may áo, vị thần hiện hình người lại gần Ðộc Giác Phật và hỏi:

– Thưa Tôn giả, Ngài có cần chỉ không?

Vị ấy đáp:

– Này cư sĩ, ta đang bận may áo.

Vị thần chỉ tay về phía nhà cô dâu vừa góa bụa ấy và bảo:

– Tôn giả có thể xin chỉ ở nhà kia.

Vị ấy làm như vậy và được cô gái tặng một cuộn chỉ.

Còn vị thần vẫn mang hình người đến xin phép bà mẹ cô gái cho vị ấy ở lại vài ngày, rồi đổ đầy tiền vào các nồi niêu trong nhà ấy. Sau đó vị ấy ra đi cùng cô gái về lâu đài của mình

Bà mẹ đem nhiều tiền cho họ hàng và đám lữ hành nghèo khổ. Khi từ trần, bà dặn:

– Nếu con gái ta trở về, hãy chỉ cho nó số tiền này.

Bảy trăm năm sau, bậc Ðạo Sư giáng sinh ở đời và đến Sàvatthi. Thời ấy, nữ nhân kia vẫn còn sống với vị quỷ thần và xin vị ấy đưa nàng về nhà cũ, nàng bảo:

  1. Thiếp đem dâng cúng thuở xưa xa
    Lên một Tỷ-kheo đã xuất gia
    Vừa bước đến gần, xin ít chỉ.
    Việc xưa đem kết quả nay là
    Phước phần thiếp hưởng luôn phong phú,
    Vô số thiên y cứ hiện ra.
  2. Muôn hoa bao phủ cả lâu đài,
    Gia bộc, nô tỳ đủ gái trai,
    Tô điểm lâu đài trăm vẻ đẹp;
    Thiếp nay tận hưởng thú vui chơi
    Và mang đủ loại thiên y báu,
    Tài sản dồi dào chẳng thể vơi.
  3. Phước báo này do một nghiệp xưa,
    Hân hoan, hạnh phúc hưởng bây giờ;
    Khi nào thiếp trở về nhân thế,
    Thiếp sẽ thực hành việc lợi tha.
    Chàng hãy đưa đường xưa lối cũ,
    Phu quân hỡi, thiếp muốn về nhà.

Khi nghe nàng nói, vị thần không muốn đi, vì lòng thương xót người vợ yêu quý, vị ấy bảo:

  1. Ðã bảy trăm năm nàng đến đây,
    Về kia già yếu khổ thân ngay.
    Nay ta nói thật cho nàng biết:
    Tất cả họ hàng đã bỏ thây.
    Nàng sẽ làm gì nơi chốn ấy
    Khi nàng đã giã biệt nơi này?
    Nàng ấy không tin, lại nói nữa:
  2. Chỉ cách bảy năm thiếp đến đây,
    Hưởng bao thiên lạc bấy lâu nay,
    Khi nào thiếp trở về nhân thế,
    Thiếp sẽ thực hành thiện sự ngay.
    Chàng hãy đưa đường xưa lối cũ,
    Phu quân hỡi, thiếp muốn chia tay.
  3. Thế rồi lập tức nắm tay chàng,
    Thần dẫn nàng về chốn cố hương,
    Nay hóa bà già đi khập khểnh,
    Bảo bà: ‘Dặn với các thân nhân
    Ðến nơi kia: Hãy làm điều thiện,
    Hạnh phúc đời sau được hưởng phần’.

Khi bà già ấy đến nơi cư trú của đám họ hàng, bà tự xưng danh cho họ biết. Rồi bà đem số tiền họ trả lại bà đi cúng dường phẩm vật lên các Sa-môn, Bà-la-môn và khuyên bảo đám người thường lui tới với bà:

  1. Chính mắt ta trông thấy rõ ràng
    Các loài ngạ quỷ gặp đau buồn
    Bởi vì không biết làm điều thiện,
    Cũng vậy loài người giữa thế gian.
    Hành thiện tạo nên nhiều phúc lạc,
    Thiên thần, nhân loại mãi hân hoan. 

12. (24) Chuyện Nữ Quỷ Ở Hakannamunda (Kannamundapetì)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Sàvatthi.

Tương truyền rằng thuở xưa vào thời đức Phật Kassapa, ở xứ Kimbilà có một đệ tử tại gia đã thọ Tam quy, cùng chung niềm tín ngưỡng với năm trăm cư sĩ khác chuyên tâm thực hành các thiện sự như trồng hoa viên, xây cầu cống, làm đường sá, và các việc công ích khác.

Vị ấy đã xây một tinh xá cúng dường giáo hội Tỷ-kheo và thỉnh thoảng cùng đến nơi ấy với các cư sĩ kia. Các bà vợ của hội chúng này cũng rất hòa hợp với nhau, thường cùng đi đến tinh xá cúng dường vòng hoa, hương liệu, dầu xoa và trên đường đi vẫn nghỉ ngơi tại các hoa viên và nhà trọ.

Rồi một ngày kia, một số kẻ bất lương đang tụ tập với nhau trong nhà trọ của một bà chủ kia, trông thấy nhan sắc diễm lệ của các nữ nhân khi họ đến nghỉ ngơi tại đó, liền đem lòng say mê.

Biết đám nữ nhân này lương thiện, chúng bắt đầu bàn tán với nhau:

– Ai có khả năng thực hiện việc phá giới hạnh với một nữ nhân trong đám này?

Lập tức một gã đáp:

– Tôi đây.

Bọn chúng liền bảo:

– Chúng ta hãy đánh cuộc với hắn một ngàn đồng tiền.

Chúng đánh cuộc như thế và thêm:

– Nếu bạn thành công, chúng tôi sẽ đưa cho bạn một ngàn đồng; nếu không thì bạn phải đưa số ấy cho bọn ta.

Vì ước mong thắng cuộc và sợ mất tiền, gã bày đủ mưu kế trong lúc đám nữ nhân nghỉ chân tại đó. Vừa chơi đàn thất huyền cầm du dương vừa hát tình ca êm ái, gã dụ dỗ được một nàng trong đám ấy phá giới hạnh, khiến bọn bất lương kia phải mất một ngàn đồng tiền.

Bị gã này đánh bại, bọn chúng bèn đem chuyện ấy kể cho chồng nàng nghe. Vị này không tin, nhưng cũng hỏi nàng:

– Nàng có phải là hạng người như các kẻ kia vừa nói chăng?

Nàng phủ nhận ngay:

– Thiếp không biết những chuyện như vậy.

Vì chàng không tin nàng, nàng liền chỉ con chó đang đứng gần đó và thề độc;

– Nếu thiếp làm ác hạnh như vậy thì mong con chó đen tai cụt này xé xác thiếp ra khi thiếp tái sanh kiếp sau.

Ngoài ra, khi đám nữ nhân biết rõ nàng đã phá giới hạnh, được chất vấn:

– Nữ nhân này đã phạm tà hạnh kia hay là không phạm?

Họ cũng thề dối trá:

– Nếu chúng tôi biết thì mong chúng tôi trở thành nô tỳ của bà ấy ở kiếp tái sanh.

Về sau người gian phụ kia bị hối hận vì tội lỗi cũ giày vò, nên héo mòn dần và qua đời. Nàng được tái sanh làm một nữ quỷ trong một lâu đài bên bờ hồ Kannamunda (Tai cụt) là một trong bảy hồ lớn ở vùng Himalaya (Tuyết Sơn), chúa tể của núi đồi.

Hơn nữa, chung quanh mọi phía của lâu đài xuất hiện một hồ sen để vui chơi thỏa thích. Khi đám nữ nhân kia từ trần, do hậu quả lời thề dối trá mà họ đã nói ra, họ liền trở thành bầy nô tỳ của nàng.

Trong lâu đài ấy, nhờ các thiện nghiệp nàng đã thực hiện trong kiếp trước, nàng hưởng thọ lạc thú thần tiên suốt ngày, nhưng đến nửa đêm, do động lực của ác hạnh xưa thúc giục, nàng thức dậy từ tọa sàng và đi đến hồ sen, rồi bị một con chó ngao cắn xé tan thân tại chỗ.

Ngay sau đó nàng lập tức biến hình trở lại với dung sắc kiều diễm như cũ và bước lên lâu đài của nàng, nằm xuống tọa sàng.

Tuy nhiên, đám nô tỳ kia lại phải chịu vất vả nhọc nhằn hầu hạ nàng liên tục ngày đêm. Cứ thế năm trăm năm trôi qua, và bởi vì bọn nữ quỷ nhân hưởng lạc thú thần tiên mà thiếu vắng các đức lang quân, nên chúng bắt đầu mong nhớ họ.

Bấy giờ tại nơi ấy có một con sông phát xuất từ hồ Kannamunda và do một kẽ nứt trong núi, đã chảy xuống tận sông Hằng. Gần con sông ấy có một vườn xoài sanh trái tiên, cùng với các loại cây mít và nhiều cây khác. Do vậy bọn chúng suy nghĩ: ‘Bây giờ đây, chúng ta sẽ ném các trái xoài này vào dòng sông; như thế khi đã thấy các trái cây trôi bồng bềnh xuống dưới nước, một số nam nhân có thể đến đây để tìm xoài. Sau đó chúng ta sẽ hưởng lạc thú với họ’.

Bọn chúng đều làm như vậy. Bấy giờ khi các trái xoài bị thả trôi giạt, đám đạo sĩ khổ hạnh lượm được một ít, các sơn nhân tiều phu tìm được số khác, còn một số nữa tấp vào bờ. Tuy thế, có một quả xoài trôi vào dòng sông Hằng và theo thời gian đến tận Ba-la-nại.

Thuở ấy, vua Ba-la-nại đang tắm trên sông Hằng và được một tấm lưới đồng bao bọc. Thế rồi trái xoài kia đã được dòng nước cuốn đi theo hướng ấy và mắc vào lưới đồng.

Khi các cận vệ của vua nhìn thấy trái xoài tiên to lớn tuyệt hảo về màu sắc lẫn hương vị, họ liền đem dâng vua. Ðể thử xoài, nhà vua cắt một lát và đưa cho một tên cướp khét tiếng đã bị giam vào ngục. Khi ăn xong, tên cướp trình:

– Tâu Ðại vương, tiểu tử chưa bao giờ ăn được thứ xoài như vậy. Có lẽ đây là xoài tiên.

Nhà vua cho gã một lát nữa. Sau khi ăn xong, làn da nhăn nheo và râu tóc hoa râm của gã biến mất; gã trở thành một chàng trai tuấn tú và có thể nói gã đã hồi xuân.

Khi thấy vậy, nhà vua tràn đầy kinh ngạc, ăn ngay trái xoài và cũng nhận được sự kỳ diệu hy hữu trong cơ thể. Nhà vua liền hỏi:

– Các trái xoài này kiếm được ở đâu?

Ðám cận thần đáp:

– Tâu Hoàng thượng, chúng thần nghe nói ở vùng Tuyết Sơn, chúa tể của núi đồi.

– Vậy có thể tìm ra chúng chăng?

– Tâu Hoàng thượng, đám thợ rừng có thể biết việc ấy.

Nhà vua truyền đưa đám thợ rừng vào, ban một ngàn đồng tiền cho một người thợ nghèo và bảo gã ra đi:

– Này, hãy đi mang xoài tiên về cho trẫm ngay.

Kẻ ấy đi lên thượng lưu sông Hằng đến tận hồ Kannamunda. Khi gã đã đi quá xa con đường của mọi người, gã gặp liên tiếp ba vị ẩn sĩ khổ hạnh chỉ đường, vị thứ ba khuyên gã:

– Hãy rời bỏ sông Hằng lớn này, đi theo dòng sông nhỏ kia và cứ lên mãi cho đến khi chú thấy một kẽ nứt trong núi đá. Rồi chú phải vào sâu trong đó ban đêm với ngọn đèn. Vì con sông này không chảy ban đêm, nên chú có thể du hành cách ấy.

Gã làm theo lời dặn, và vào lúc rạng đông, gã đến một vùng có chính vườn xoài tuyệt diệu ấy. Khu rừng vang dội tiếng hót du dương của nhiều đàn chim đủ loại và được tô điểm thêm vẻ đẹp bằng những khóm cây xanh sum suê vươn những cành lá trĩu xuống dưới sức nặng của các chùm trái. Cả vùng rực rỡ trong làn ánh sáng tỏa ra từ vô số châu ngọc. (Hai câu này được bổ sung từ tập Sớ giải của Dhammapala).

Thế rồi, khi các nữ nhân vắng chồng đã lâu, nay thấy gã đi đến từ xa, vội chạy tới bảo nhau:

– Người này thuộc về ta! Người này thuộc về ta!

Thuở ấy, gã chưa từng làm các thiện nghiệp xứng đáng hưởng thọ lạc thú thần tiên với hội chúng này trong tiên cảnh. Vì thế chỉ thoạt trông thấy chúng, gã đã kinh hoàng vừa chạy vừa thét lớn. Khi về tới Ba-la-nại, gã trình nhà vua mọi sự đã xảy ra.

Khi nghe việc này, trong tâm nhà vua khởi lên một ước muốn gặp các nữ quỷ thần kia và hưởng thú ăn xoài tiên. Vì thế nhà vua liền giao quốc độ cho các vị cận thần, và lấy cớ đi săn, nhà vua đem cung tên và kiếm cùng vài thị vệ khởi hành về vùng ấy như lời người thợ rừng dặn.

Sau khi đi được vài do-tuần, nhà vua giã từ đám cận vệ và tiếp tục đi với người thợ rừng. Sau một khoảng đường nữa, nhà vua lại bảo gã trở về. Vào lúc rạng đông, nhà vua đã đến vườn xoài trong tiên cảnh.

Thuở ấy, khi các nữ quỷ thần thấy nhà vua hồi xuân như một tiên đồng giáng thế, liền ra nghênh tiếp và khi biết ngài là một quân vương, chúng liền đưa vào lâu đài, dâng các thứ tiên thực và phục vụ ngài như ý.

Thế rồi sau một trăm năm mươi năm trôi qua, một hôm nhà vua thức dậy nửa đêm và thấy nữ quỷ đã phạm giới kia đi ra phía bờ hồ sen. Ðộng lòng hiếu kỳ, ngài đi theo nữ quỷ. Sau đó ngài thấy nữ quỷ bị một con chó lớn vồ xé xác ngay khi vừa mới tới nơi. Suốt ba ngày liền ngài suy xét, không làm sao có thể hiểu được ý nghĩa việc này. Hôm sau này cầm mũi tên nhọn bắn con chó kia bỏ mạng và vừa khi nữ quỷ đã nhảy vào hồ sen, lập tức ngài thấy nàng xuất hiện với dung sắc phục hồi như trước.

Ngài liền ngâm kệ hỏi nàng những sự việc đã xảy ra:

  1. Ðây vàng ròng đúc các cầu thang
    Nằm dựa lên trên dải cát vàng,
    Diễm lệ, ngát hương hoa súng trắng,
    Gây niềm lạc thú tận tâm can.
  2. Bao cây làm thảm phủ trên hồ,
    Theo gió đủ mùi hương thoảng đưa,
    Hồ mọc tràn đầy sen đỏ thắm
    Ðiểm tô sen trắng nỏn cành tơ.
  3. Lay động theo làn gió nhẹ nhàng
    Mặt hồ kỳ thú tỏa hương lan,
    Âm vang với tiếng thiên nga, hạc,
    Văng vẳng hồng nga hót gọi đàn.
  4. Ðây các bầy chim đủ mọi loài,
    Ngân nga bao tiếng hót êm tai,
    Cây trồng sanh quả tiên phong phú,
    Rừng mọc kỳ hoa ở khắp nơi.

5-6. Thành phố như đây thật tuyệt vời
Khó tìm thấy ở cõi người đời.
Nàng nhiều cung điện bằng vàng bạc,
Lấp lánh bốn phương chiếu sáng ngời.
Lại có năm trăm tỳ nữ ấy
Sẵn sàng phục vụ lệnh nàng thôi.

  1. Bọn chúng mang vòng ốc, vỏ trai,
    Ðiểm trang y phục dệt vàng tươi,
    Nàng nhiều sàng tọa bằng vàng bạc
    Ðưọc trải da dê quý phía ngoài.
  2. Tất cả đều chu đáo sẵn sàng,
    Bên trong được phủ với chăn màn
    Dệt bằng lông thú, khi nằm xuống,
    Nàng thọ hưởng bao nỗi lạc hoan.
  3. Tuy nhiên, khi đến nửa đêm khuya,
    Nàng thức dậy và cất bước ra
    Ði tới hoa viên đầy lạc thú
    Bao quanh hồ nước phủ liên hoa.
  4. Bên bờ nàng đứng lại soi mình,
    Tiên nữ ở trên thảm cỏ xanh,
    Bỗng một chó ngao tai cắt cụt
    Vồ nàng xé xác đến tan tành.
  5. Khi nàng đã bị nát toàn thân,
    Và đã biến thành một bộ xương,
    Nàng vội nhảy vào hồ nước biếc,
    Hình hài trở lại đẹp muôn phần.
  6. Thân thể nàng nay đã vẹn toàn,
    Cực kỳ diễm lệ, đóa hồng nhan,
    Ðiểm trang đủ thứ thiên y đẹp,
    Nàng đến cho ta diện kiến nàng.
  7. Ngày xưa nàng phạm ác hành nào
    Do khẩu, ý, thân đã phạm vào,
    Con chó cụt tai nay xé xác
    Bởi vì quả báo tội gì sao?

Khi được nhà vua hỏi như vậy, nữ quỷ liền kể chuyện đời này:

  1. Ngày xưa ở xứ Kim-bi-la,
    Có một nam cư sĩ tại gia,
    Ðệ tử với tâm thành mộ đạo,
    Thiếp là ác phụ nghiệp gian tà.
  2. Bởi vì thiếp phạm tội dâm loàn,
    Chồng của thiếp lên tiếng hỏi han:
    ‘Nàng đã tạo ra điều bất xứng
    Là không tiết hạnh với chồng nàng’.
  3. Thế rồi thiếp phải nói lời thề
    Giả dối tràn đầy khủng khiếp kia:
    ‘Thiếp chẳng dám lừa chàng việc ấy,
    Dù thân hay ý cũng chưa hề.
  4. Song nếu thiếp vi phạm việc này
    Dù thân hay ý bấy lâu rày,
    Thì mong con chó ngao tai cụt
    Cắn xé thiếp tan nát cả thây’.
  5. Thiếp từng chịu đựng bảy trăm năm
    Quả báo do tà hạnh, dối gian,
    Từ ấy, chó ngao tai cắt cụt
    Xé thân từng mảnh thật kinh hoàng.

Nàng nói như vậy xong rồi lại ngâm hai vần kệ ca ngợi đặc ân mà nhà vua đã ban cho nàng:

  1. Quân vương thần lực thật cao cường,
    Ngài đã đến đây cứu quỷ nương,
    Ðược thoát chó ngao tai cụt ấy,
    Thiếp không còn sợ hãi, đau buồn.
  2. Quân vương, thiếp kính cẩn tôn sùng
    Ðảnh lễ cầu xin đấng chúa công
    Hãy thọ hưởng thần tiên lạc thú,
    Quân vương và thiếp hãy vui chung.

Ngay lúc ấy bỗng nhiên nhà vua cảm thấy chán sống ở cảnh tiên kia, liền nói ý định giã từ cho nàng biết và ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Ta đã hưởng bao thú cõi tiên,
    Cùng nàng hoan lạc thật vô biên,
    Giờ đây, tiên nữ, ta mong ước,
    Mau hãy đem ta trở lại liền.

Khi đã nghe lời của nhà vua, nữ quỷ thần ở lâu đài ấy không chịu nổi sự biệt ly. Lòng nàng rối bời vì đau khổ ưu phiền và toàn thân nàng run lên xúc động. Song dù nàng đã dùng đủ cách khẩn cầu nhà vua, nàng cũng không thể thuyết phục ngài ở lại được nữa.

Nàng đành đưa ngài về kinh đô cùng nhiều châu báu và rước ngài vào cung điện. Sau đó nàng than khóc bi thảm và trở về trú xứ của nàng ngay. Khi nhà vua thấy vậy, lòng ngài xúc động vô cùng. Từ đó về sau ngài thực hành nhiều thiện sự như bố thí cùng các phương tiện khác và được sanh lên cõi thiên.

Thế rồi khi đức Thế Tôn Gotama giáng sanh ở cõi đời, và theo thời gian đã đến cư trú tại thành Sàvatth, một hôm Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành vào vùng núi này trông thấy nữ thần cùng đoàn tùy tùng của nàng, bèn hỏi về hạnh nghiệp mà nàng đã tạo trước kia. Nàng kể với Tôn giả mọi sự và Tôn giả trình bày câu chuyện ấy lên đức Thế Tôn.

  1. (25) Chuyện Hoàng Hậu Ubbarì (Ubbarì)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana.

Ở Sàvatthi, người chồng của một nữ đệ tử tại gia vừa từ trần. Nàng ưu phiền đi đến nghĩa địa khóc than. Khi đức Thế Tôn nhận thấy nàng đã đạt thành các đức tính đưa đến quả Dự Lưu, ngài động lòng bi mẫn, đi đến nhà nàng và hỏi tại sao nàng khóc. Nàng đáp:

– Bạch đức Thế Tôn, quả con đang đau buồn vì xa cách một người thân của con.

Sau đó đức Thế Tôn kể một chuyện quá khứ.

Thuở xưa trong quốc độ Pancala ở thành Kapila có một vị vua mệnh danh Cùlani Brahmadatta chuyên tâm làm phước nghiệp sự lợi ích cho thần dân và không hề phạm Thập Vương pháp.

Một hôm mong muốn nghe thần dân bàn tán việc gì trong xứ sở của mình, ngài bèn cải trang làm một thợ may và rời kinh thành mà không có ai hầu cận.

Trong lúc ngài du hành từ làng này sang làng khác, quận này sang quận khác, ngài nhận thấy toàn quốc không có trộm cướp và bất công đàn áp, dân chúng sống thân thiện với nhau và có thể là an trú trong mọi nhà cửa mở toang.

Lòng vui mừng hớn hở, ngài khởi hành quay về kinh và đi đến một thị trấn nọ, ngài vào nhà một góa phụ nghèo khó. Khi thấy ngài, bà ấy hỏi:

– Này Tôn ông là ai? Tôn ông từ đâu đến đây?

Ngài đáp:

– Này hiền phụ, ta là một thợ may; ta đang đi quanh quẩn may thuê vá mướn để kiếm tiền. Nếu bà có vật gì cần may, bà hãy đưa cho ta, cả quần áo lẫn khăn đội đầu, ta sẽ may cho bà.

Bà liền nói:

– Chúng tôi không có việc gì cần làm về quần áo hoặc khăn đội đầu cả. Ông đi làm cho các người khác nhé.

Trong khi ngài ở vùng đó vài ngày, ngài thấy con gái bà có đủ tướng mạo tốt lành của phúc phận và đức hạnh, ngày sau ngài liền bảo bà mẹ:

– Nếu con gái bà chưa gả cho ai, thì xin bà hãy gả cho tôi. Tôi có đủ khả năng tìm kế sinh nhai để mẹ con bà no ấm.

Bà ấy gả con gái cho ngài. Sau khi đã ở lại với nàng vài ngày, ngài đưa cho nàng một ngàn đồng tiền vàng Kahàpana và nói:

– Ta sẽ trở lại trong vòng vài ngày thôi. Hiền thê chớ lo buồn gì cả.

Ngay sau đó ngài trở về kinh thành. Khi đã truyền lệnh đắp đường thật bằng phẳng giữa kinh đô và làng ấy cùng trang hoàng mọi sự xong xuôi, ngài đi đến nơi kia trong cảnh huy hoàng rực rỡ. Sau khi đã chất một đống tiền vàng lớn trên thân cô thiếu nữ và truyền đem nàng đi tắm rửa trong các chậu bằng vàng bạc, ngài đặt tên nàng là Ubbarì và phong nàng ngôi hoàng hậu.

Ngài ban cho quyến thuộc nàng ngôi làng ấy và sau đó đưa nàng về kinh trong cảnh oai nghi lộng lẫy. Ngài sống đời hạnh phúc với nàng, trị nước phồn vinh và sau đó băng hà.

Nỗi ưu phiền của Ubbarì được các vị kết tập Kinh điển kể lại như vầy:

  1. Brah-ma-dat, đại đế ngày xưa,
    Chúa tể của dòng Pan-ca-la,
    Sau khoảng ngày đêm cai trị nước,
    Mạng chung, đại đế đã băng hà.
  2. Hoàng hậu Ub-ba-rì khóc hoài,
    Lên đàn tế lễ hỏa thiêu ngài,
    Dù không còn thấy hình tiên đế,
    Bà vẫn gào: ‘Brah-ma-dat ôi!
  3. Ðến nơi kia một vị hiền nhân,
    Bậc Thánh đầy đức hạnh chánh chân,
    Vào dịp lễ tang, ngài muốn hỏi
    Những người đang tụ tập quây quần:
  4. ‘Dàn hỏa táng ai chết thế này?
    Các vòng hoa tỏa ngát hương bay,
    Vợ ai đang khóc chồng nàng vậy?
    Người ấy là ai quá vãng đây?
    Dù chẳng thấy đâu người đã khuất,
    Nàng gào: ‘Brah-ma-dat thương thay!’
  5. Những người đang ở đó thưa liền:
    ‘Hoàng hậu là đây, chính vợ hiền;
    Cầu phúc phần ngài, thưa Thánh giả,
    Cầu vua Brah-ma-dat thăng Thiên’.
  6. Ðây là dàn hỏa táng thi hài
    Tỏa ngát hương bay khắp mọi nơi.
    Hoàng hậu là đây đang khóc lóc
    Tiên vương vừa khuất bóng trên đời,
    Dù không còn thấy ngài đâu nữa,
    Bà khóc: ‘Brah-ma-dat hỡi ôi!’

Vị khổ hạnh liền bảo hoàng hậu Ubbarì:

  1. ‘Tám vạn sáu ngàn người bấy lâu
    Tên Brah-ma-dat cũng như nhau,
    Ðược thiêu trong nghĩa trang này vậy;
    Vì kẻ nào nàng phải khổ đau?’

Ubbarì:

  1. Tôn giả, con thương tiếc chúa công
    Cù-la-ni đế, chính con dòng,
    Làm vua bộ tộc Pan-ca ấy,
    Người đã ban con mọi ước mong.

Vị khổ hạnh:

  1. Tất cả những ai được gọi là
    Brah-ma-dat cũng đã làm vua,
    Ðều là con của Cù-la đế,
    Chúa tể của dòng Pan-ca-la.
  2. Sanh tử dòng kia cứ chuyển vần,
    Nàng làm hoàng hậu đã bao lần,
    Sao nàng quên lãng bao chồng cũ,
    Và chỉ tiếc thương vị cuối cùng?

Ubbarì:

  1. Chính vì con có phận hồng nhan,
    Tôn giả, từ xưa, vậy phải chăng
    Mọi việc theo dòng đời tiếp diễn,
    Mà ngài cất tiếng để khuyên răn?

Vị khổ hạnh:

  1. Nàng đã từng làm một nữ nhân,
    Nam nhi, thú vật, biết bao lần,
    Ðiều này chẳng thấy đâu biên giới
    Với việc tái sanh ở cõi trần.

Ubbarì:

  1. Lòng con quả thật nóng bừng
    Như là sữa lạc đổ trong lửa đào,
    Ngài vừa tưới nước lạnh vào
    Giờ đây con dứt biết bao khổ sầu.
  2. Chính ngài nhổ mũi tên đau
    Nỗi ưu phiền đã cắm sâu vào lòng.
    Xua tan mọi nỗi thương tâm
    Sầu tư nặng trĩu, khóc thầm quân vương.
  3. Giờ đây trút bỏ đau buồn,
    Lòng con lắng dịu, trí thường bình an,
    Con không còn phải khóc than
    Sau khi nghe những lời vàng ngài răn.

Ðể phát họa sự chứng đắc của Ubbarì, bậc Ðạo Sư ngâm bốn vần kệ:

  1. Khi nàng nghe được các lời ca
    Ðáng cảm phục từ bậc xuất gia,
    Nàng đắp chiếc y, cầm lấy bát,
    Ra đi theo cuộc sống không nhà.
  2. Khi giã từ nhà, cất bước lên
    Ði vào cuộc sống giữa thiên nhiên,
    Nàng liền tu tập tâm từ ái,
    Ðể được tái sanh cõi Phạm thiên.
  3. Nàng đã viễn du mọi xóm làng,
    Kinh thành, thị trấn, các hoàng cung,
    Ưu-lâu-tần ấy là tên gọi
    Thôn xóm nàng thân hoại mạng chung.
  4. Khi nàng đã phát triển từ tâm
    Ðể được tái sanh ở Phạm cung,
    Nàng đã đoạn trừ tâm nữ giới,
    Trở thành một vị Phạm thiên thần.

Phẩm III – Tiểu Phẩm

  1. (26) Chuyện Không Chìm Trong Nước (Abhijjamàna)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm)

Về phía Tây Benares (Ba-la-nại) bên kia sông Hằng, khi ta đi qua thị trấn Vàsabha, trong thôn làng tên gọi Cundatthilà có một người thợ săn.

Y giết hươu nai trong rừng, nấu loại thịt ngon nhất trên than hồng và khi ăn xong, y buộc những thứ còn lại trong cái thúng bằng lá, mang trên đòn gánh đi vào làng.

Khi đám trẻ con thấy y ở cổng thị trấn, chúng chìa tay ra, chạy tới xin:

– Cho tôi miếng thịt! Cho tôi miếng thịt!

Vì thế y cho mỗi đứa trẻ một miếng thịt nhỏ. Một hôm y chỉ mang hoa và cho mỗi đứa một chùm. Khi từ trần, y tái sanh làm ngạ quỷ. Vừa đói vừa khát, y bước đi trên sông Hằng mà không bị chìm, mong tìm về quê làng cùng bà con thân thuộc.

Vị đại thần của vua Bimbisàra (Tần-bà-sa) sau khi đi dẹp quân phiến loạn xong, trở về bằng thuyền xuống dòng sông, trông thấy ngạ quỷ kia đang đi xuôi dòng, bèn hỏi:

  1. Ngươi chẳng bị chìm xuống nước sông,
    Ngươi đi trên mặt nước sông Hằng,
    Thân mình trần trụi, và tuy thế,
    Người đội vòng hoa khéo điểm trang,
    Như thể thoát ly thân phận quỷ,
    Ngươi đi đâu đó, ở đâu chăng?

Bấy giờ những chuyện do ngạ quỷ và đại thần Kiliya nói được các vị kết tập Kinh điển kể lại qua các vần kệ sau:

  1. Ngạ quỷ đáp lời: ‘Tôi sẽ đi
    Về thôn làng cũ Cun-dat-thi,
    Giữa nơi đây với Và-sa phố,
    Kế cận Ba-la-nại sá gì!
  2. Khi ấy, đại thần nổi tiếng kia,
    Người mang danh hiệu Ko-li-ya,
    Ðem cho ngạ quỷ phần cơm chín,
    Một bộ áo và bánh mạch nha.
  3. Ngừng chiếc thuyền kia, vị đại thần
    Bảo tìm người hớt tóc cúng dâng,
    Khi người hớt tóc dùng đồ cúng,
    Ngạ quỷ hưởng ngay quả phước ân.
  4. Tức thì quỷ phục sức cao sang
    Mang đủ vòng hoa khéo điểm trang,
    Ngạ quỷ đứng nơi kia hưởng thọ
    Lễ dâng cúng tạo phước ân tràn,
    Vì duyên cớ ấy ta nên cúng
    Cho ngạ quỷ vì biết xót thương.

Như vậy vị đại thần Koliya cảm thấy xót thương ngạ quỷ ấy và làm lễ bố thí cho nó theo cách được nói trên. Vị ấy tiếp tục xuôi dòng và đến Ba-la-nại lúc rạng đông.

Ðức Thế Tôn du hành qua không gian để đón mừng hội chúng và đứng trên bờ.

Ðại thần Koliya vô cùng hoan hỷ, thỉnh cầu đức Thế Tôn thọ trai tại nhà vị ấy. Ðức Thế Tôn im lặng nhận lời.

Với tâm thanh thản, đại thần Koliya cúng dường thực phẩm lên đức Phật và chúng Tăng. Sau đó, khi một đám đông dân chúng tụ họp lại, đức Thế Tôn vì lòng lân mẫn chúng sanh đã làm phép mầu khiến cho một số ngạ quỷ xuất hiện trước quần chúng và kể chuyện chúng đã đọa lạc như vậy bằng cách nào.

Chư vị kết tập Kinh điển diễn tả như sau:

  1. Một bọn mang đầy giẻ rách bung,
    Bọn kia lấy tóc để che thân,
    Cả bầy ngạ quỷ tìm lương thực,
    Lang bạt đi quanh quẩn khắp vùng.
  2. Ra đi tìm kiếm xứ xa xôi,
    Song chẳng nhận đâu được miếng mồi,
    Ðói khát trở về nằm bất tỉnh,
    Ngã nhào xuống đất trốn đi thôi.
  3. Một bọn ngã nằm xuống đất dơ,
    Chúng không làm thiện nghiệp ngày xưa,
    Chúng trông như thể đang thiêu đốt
    Vì lửa hạ và cất tiếng thưa:

9-10. ‘Xưa là ác phụ mẫu trong nhà,
Chẳng tạo nơi an trú chúng ta
Qua các việc thi ân bố đức,
Dù nhiều thực phẩm được quăng xa,
Chúng ta đã chẳng đem phân phát
Cho những đoàn du sĩ xuất gia.

  1. Trong lúc muốn làm việc ác gian,
    Biếng lười, bướng bỉnh, lại tham ăn,
    Chúng ta cho chút phần thừa thải
    Và phỉ báng người được phát ban.
  2. Nô tỳ và sản nghiệp toàn gia,
    Ngay cả đồ trang sức ngọc ngà,
    Giờ đây phục vụ bao người khác,
    Ðau buồn giành lại số phần ta.
  3. Những người đan giỏ đáng chê bai,
    Những kẻ đóng xe bị đọa đày,
    Những bọn tắm thuê cho kẻ khác,
    Chiên-đàn hạ đẳng, đám ăn mày.

14-15. Trong nhà hạ liệt, bọn cùng đinh
Như vậy, bọn này được tái sanh,
Ấy phận dành cho người biển lận;
Còn người xưa tạo nghiệp an lành,
Là người bố thí, tay hào phóng,
Chiếu sáng vườn Thiên lạc hiển vinh.

  1. Hưởng thọ bao hoan lạc cõi trời,
    Họ làm chúa tể các lâu đài,
    Từ đây họ tái sanh cao quý,
    Giữa các phú gia ở cõi người.
  2. Trong nhà nóc nhọn có nhiều tầng,
    Ngay cả hoàng cung, với tọa sàng
    Bao phủ chăn màn lông thú quý,
    Những người đã nhiếp phục điều thân,
    Tái sanh vào các nhà lương thiện,
    Ðầy đủ tiện nghi giữa thế nhân,
    Tay của mỗi người cầm chiếc quạt
    Ðược làm bằng các sợi lông công.
  3. Bất cứ nơi nào họ bước ra,
    Họ đều điểm ngọc với cài hoa;
    Gia nhân hộ tống ngay bên cạnh,
    Tìm đủ thú vui sáng tối mà.
  4. Nan-da-ra, Hỷ lạc Viên này
    Không phải để dành cho những ai
    Chẳng tạo tác nên nhiều phước nghiệp,
    Mà dành riêng biệt để cho người
    Ðã hoàn thành được nhiều công đức,
    Là Ðại Lâm Viên của cõi trời
    Tam thập tam thiên đầy lạc thú,
    Không vì phiền não, mãi vui tươi.
  5. Chẳng đời này hoặc cõi đời sau
    Hạnh phúc dành cho những kẻ nào
    Không tạo tác nên nhiều phước nghiệp,
    Song đời này lẫn cõi đời sau
    Ðể dành hạnh phúc cho bao kẻ
    Làm các thiện hành phước nghiệp cao.
  6. Vậy những ai mong chúng bạn hiền,
    Phải hoàn thành thiện nghiệp tinh chuyên,
    Bởi vì người tạo nhiều công đức
    Hưởng lạc thú nhiều ở cõi thiên. 

2. (27) Chuyện Ngạ Qu​ỷ Núi Sànuvàsin (Sànuvàsinpeta)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm).

Ngày xưa ở thành Ba-la-nại, vương tử của vua Kitava, trong lúc dạo chơi từ vườn ngự uyển về, thấy một vị Ðộc Giác Phật tên là Sunetta đang đi khất thực, bèn buông lời thô lỗ phỉ báng Ngài. Ngay khi vương tử tiến bước lên thì cảm thấy cơ thể nóng bừng như thiêu đốt trong lửa địa ngục.

Vì bệnh này vị ấy từ trần và tái sanh vào địa ngục Avìci (A-tỳ hay Vô gián). Sau đó vị ấy mạng chung và tái sanh làm ngạ quỷ và kế tiếp trong thời kỳ có đức Thế Tôn Gotama xuất hiện, vị ấy tái sanh vào một làng chài lưới gần thị trấn Kundi.

Vì nhớ lại các kiếp trước, vị ấy không đi đánh cá cùng các người khác và thường quăng cá trở ra biển khi họ mang về. Quyến thuộc trong gia đình đuổi vị ấy ra khỏi nhà, nhưng một người em trai vẫn thương mến vị ấy.

Rồi Trưởng lão Ananda khuyến giáo vị ấy xuất gia làm Tỷ-kheo; về sau đắc quả A-la-hán, vị ấy cư trú cùng nhóm mười hai Tỷ-kheo trên núi Sànuvàsin.

Còn quyến thuộc vị ấy tái sanh làm ngạ quỷ. Bấy giờ cha mẹ vị ấy hổ thẹn vì suy nghĩ: ‘Kiếp trước ta đã đuổi con ra khỏi nhà’, nên không đến gần vị ấy, nhưng bảo người em trai xưa kia thương yêu vị ấy ra đi.

Khi quỷ nhân này đã vào làng của vị Trưởng lão đang đi khất thực, nó quỳ xuống đất với đầu gối bên phải, xuất hiện nguyên hình với dáng điệu đảnh lễ tôn kính và ngâm vần kệ:

– Kính thưa Tôn giả, mẹ và cha….

Song năm vần kệ đầu do chư vị kết tập Kinh điển đưa vào đây để làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Có vì Trưởng lão ở Kun-di,
    Trú tại núi Sà-nu-và-si,
    Ðiều phục các căn, người khổ hạnh,
    Pot-tha-pà ấy chính danh kia.
  2. Em trai, cùng với mẹ và cha,
    Khốn khổ thần dân cõi Dạ-ma,
    Vì tạo ác hành trong kiếp trước,
    Từ đời này đã hóa ra ma.
  3. Ở nơi đọa xứ, ốm trơ xương
    Như chiếc kim, lao nhọc, ở truồng,
    Hốc hác, lo âu, đầy sợ hãi,
    Chúng không còn có vẻ hung tàn.
  4. Có chú em kia vội bước chân,
    Cô thân trên nẻo vắng, mình trần,
    Quỳ tay chân xuống như thùng nước
    Trước Trưởng lão này, quỷ hiện thân.
  5. Bấy giờ Trưởng lão chẳng quan tâm,
    Lặng lẽ người đi, cất bước chân,
    Song ngạ quỷ liền cho Trưởng lão
    Biết ngay sự việc, vội thưa rằng:
    ‘Tôi là em của ngài tiền kiếp,
    Ðã đọa vào loài quỷ đói ăn.
  6. Kính thưa Tôn giả, mẹ cùng cha
    Khốn khổ, thần dân cõi Dạ-ma.
    Vì tạo ác hành trong kiếp trước,
    Từ đời này đã hóa ra ma.
  7. Ở nơi đọa xứ ốm trơ xương
    Như chiếc kim, lao nhọc, ở truồng,
    Hốc hác, lo âu, đầy sợ hãi,
    Chúng không còn có vẻ hung tàn.
  8. Xin hãy từ bi, hãy xót thương,
    Cúng dường hồi hướng đến vong nhân.
    Phước phần nhờ lễ ngài dâng cúng
    Những kẻ hung tàn được miếng ăn’.
  9. Khi Trưởng lão này với chúng Tăng
    Mười hai vị khất thực quanh vùng,
    Thế rồi tụ tập cùng nơi chốn,
    Mục đích là chiêu đãi bữa ăn.
  10. Tỷ-kheo bèn nói với chư Tăng:
    ‘Xin hãy cho tôi tất cả phần
    Ðã nhận, để tôi dâng Giáo hội,
    Vì thương xót quyến thuộc thân nhân’.
  11. Chúng Tăng giao thực phẩm cho người,
    Trưởng lão dâng trai phạn thỉnh mời,
    Trong lúc cúng dường phần thực phẩm,
    Người đem công đức hướng về nơi
    Song thân, tiểu đệ và cầu nguyện:
    ‘Mong quyến thuộc nay hưởng phước trời’.
  12. Lập tức sau khi chuyển phước phần,
    Cao lương liền xuất hiện dần dần
    Ngon lành, thịnh soạn, đầy hương vị,
    Sau đó chú em của Thánh Tăng
    Ðã trở thành chàng trai tuấn tú,
    Tráng cường, hạnh phúc, lại thưa rằng:
  13. ‘Tôn giả, xin thưa, các thức ăn
    Giờ đây phong phú, hãy nhìn trông,
    Chúng tôi trần trụi, xin cầu nguyện
    Mong ước sao cho đủ áo quần’.
  14. Khi giẻ rách người đã lượm xong
    Từ trong đống rác ở bên đường,
    Người may giẻ rách thành y phục
    Dâng cúng Tỷ-kheo khắp bốn phương.
  15. Trong lúc người làm lễ cúng dâng,
    Tỷ-kheo hồi hướng đến thân nhân
    Phước phần lễ vật này mang đến
    Cha mẹ, chú em, ước nguyện rằng:
    ‘Mong lễ vật này cho quyến thuộc
    Họ hàng được hưởng trọn hồng ân’.
  16. Lập tức sau khi chuyển phước phần,
    Xiêm y liền xuất hiện dần dần;
    Thế rồi phục sức xiêm y đẹp,
    Chàng hiện nguyên hình trước Thánh Tăng:
  17. ‘Xin thưa, ở quốc độ Nan-da,
    Các thứ mền chăn quả thực là
    Phong phú, song còn hơn thế nữa,
    Áo quần, màn phủ ở quanh ta.
  18. Chúng làm bằng lụa hoặc bằng lông,
    Bằng vải dày hay các sợi bông,
    Chúng thật dồi dào và quý báu,
    Ðang treo lơ lửng giữa hư không.
  19. Y phục chúng tôi nay cứ mang
    Thứ gì yêu quý tận tâm can,
    Kính thưa Tôn giả, xin cầu nguyện
    Cho chúng tôi nhà để trú an’.
  20. Trưởng lão liền xây một thảo am
    Cúng dường lên cả tứ phương Tăng,
    Ngay khi dâng lễ, người cầu nguyện
    Công đức chuyển cho cả họ hàng.
  21. Lập tức sau khi chuyển phước phần,
    Cửa nhà liền xuất hiện dần dần,
    Có nhiều tòa lớn xây lầu các,
    Thiết kế đầy cân xứng mọi tầng.

Ngạ quỷ thưa:

  1. ‘Nhân giới không sao có loại nhà
    Cao sang tốt đẹp giống như ta,
    Những lâu đài thấy trên thiên giới
    Cũng giống nhà ta có đấy mà!
  2. Rực rỡ huy hoàng khắp mọi nơi
    Lâu đài chiếu sáng bốn phương trời;
    Giờ đây, Tôn giả, xin cầu nguyện
    Cho chúng tôi đầy nước uống thôi’.
  3. Trí giả đổ đầy thùng nước trong,
    Rồi đem dâng cúng tứ phương Tăng,
    Ngay khi làm lễ, người cầu nguyện
    Công đức chuyển cho các họ hàng.
  4. Lập tức sau khi chuyển phước phần,
    Nước trong liền xuất hiện dần dần,
    Có bốn hồ sen sâu thăm thẳm
    Xây dựng đầy cân xứng tuyệt trần.
    26. Nước hồ trong vắt đến bên bờ
    Mát lạnh mùi hương nhẹ thoảng đưa,
    Bao phủ toàn sen xanh, đỏ thắm,
    Tràn đầy hoa súng với cành tơ.
  5. Sau khi tắm rửa, uống vừa xong,
    Chúng lại hiện lên trước Thánh Tăng:
    ‘Tôn giả, chúng tôi nhiều nước lắm,
    Song chân cẳng lại bị đau rần.
  6. Trong lúc quẩn quanh ở mọi nơi,
    Ngã nhào trên sỏi đá, cây gai,
    Kính thưa Tôn giả, xin cầu nguyện
    Cho được chiếc xe chở chúng tôi’.
  7. Trưởng lão cầm lên một chiếc hài
    Cúng dâng Giáo hội bốn phương trời,
    Trong khi làm lễ người cầu nguyện
    ‘Mong quyến thuộc nay được thảnh thơi’.
  8. Lập tức sau khi chuyển phước lành,
    Cả bầy ngạ quỷ hiện nguyên hình
    Trên xe tiến đến đồng thanh nói:
    ‘Tôn giả từ bi với chúng sanh.
  9. Nhận được xiêm y thực phẩm rồi
    Ngôi nhà, nước uống, chiếc xe ngồi,
    Tôn giả, chúng tôi xin kính lễ
    Bậc Thánh từ bi giữa cõi đời’.

Vị Trưởng lão kể sự kiện trên với đức Thế Tôn, Ngài lấy chuyện làm đề tài thuyết pháp.

  1. (28) Chuyện Nữ Quỷ Hồ Ràthakàrà (Rathakàràpeti)

Trong lúc đang trú tại Sàvatthi (Xá-vệ), bậc Ðạo Sư kể chuyện này liên hệ đến một nữ quỷ thần.

Thuở xưa vào thời đức Thế Tôn Kassapa, có một nữ nhân kia thực hành nhiều công đức thiện sự và cúng dường Tăng chúng một tinh xá tốt đẹp, rồi từ trần, và do một ác nghiệp khác, nàng tái sanh làm nữ quỷ thần trong một lâu đài ở vùng Tuyết Sơn, chúa tể của núi non, gần hồ Ratthakàra.

Nhờ các công đức thiện sự, nơi đó hiện ra cho nàng một lâu đài tuyệt mỹ làm toàn bằng ngọc báu, khắp nơi đều đầy lạc thú hấp dẫn, lại có một hồ sen, giống như vườn thiên giới Nandana (Hoan lạc Viên).

Toàn thân nàng có màu vàng ròng, yêu kiều diễm lệ, được khéo điểm trang rất khả ái. Nàng cư trú tại lâu đài ấy không có nam nhân nào cả. Tuy thế, trong lòng nàng lại khởi lên ước vọng bầu bạn với nam nhân.

Thế rồi nàng thả vài quả xoài xuống dòng sông, suy nghĩ: ‘Ðây là một mưu kế’. Tất cả đều được hiểu như trong chuyện Hồ Kannamunda (Chuyện 12, phẩm II).

Trong trường hợp này, có một thanh niên sống ở Ba-la-nại thấy trên sông Hằng một quả xoài và muốn biết nguồn gốc của nó. Vì vậy, đi theo dòng chàng tìm kiếm được đối tượng của mình ở tận nơi cư trú của nàng.

Nàng hân hoan đón tiếp chàng vào nhà nàng và khi chàng đã nhìn thấy mọi vẻ nguy nga lộng lẫy của nó, chàng ngâm kệ hỏi nàng:

  1. Nàng đi lên đến một lâu đài
    Có cột trụ xanh biếc sáng ngời
    Kiểu cách muôn màu, phong phú quá,
    Ở đây tiên nữ thật hùng oai,
    Trông nàng chẳng khác vầng trăng sáng
    Vằng vặc tròn quay ở giữa trời.
  2. Da nàng quả thật giống vàng ròng,
    Hình dáng huy hoàng đẹp mắt trông,
    An tọa trên ngai cao tột đỉnh,
    Cô đơn vì thiếu bóng lang quân.
  3. Chung quanh nàng có đủ hồ sen,
    Nhiều loại hoa sen trắng mọc chen,
    Cát phủ đáy hồ, quanh bến nước
    Bằng vàng, chẳng thấy lấm bùn đen.
  4. Thiên nga xinh đẹp thỏa lòng mơ,
    Bơi lội chung quanh mặt nước hồ;
    Khi tụ họp, kêu ầm ỷ quá,
    Vui tai như tiếng trống rung to.
  5. Huy hoàng rực rỡ bóng thuyền quyên,
    Nàng dựa mình trên một chiếc thuyền,
    Mí mắt vòng cung đang tỏa sáng,
    Giọng cười, tiếng nói thật êm đềm,
    Tứ chi nàng thập phần thanh lịch,
    Nàng rạng ngời trong vẻ diệu huyền.
  6. Lầu các nàng không chút bụi trần,
    Có vườn tiên lạc thú vô ngần,
    Hiện thân hạnh phúc gia tăng mãi,
    Ðang đứng ở trên khoảng đất bằng,
    Tiên nữ có dung nhan tối thắng,
    Ta mong hưởng lạc thú cùng nàng.

Nàng ngâm kệ đáp lời:

  1. Làm nghiệp nào mang quả đến đây,
    Trí chàng hãy hướng đến nơi này,
    Hoàn thành những nghiệp nào sanh quả
    Có thể nhận ra ở chốn này.
    Nhờ cách ấy, sau chàng sẽ được
    Thiếp là tiên nữ thích vui vầy.

Khi chàng trai nghe xong lời của nàng quỷ thần, chàng trở về cõi người. Tại đó chàng quyết tâm quán tưởng đến nơi kia và do kết quả ấy, chàng thực hành nhiều thiện nghiệp. Chẳng bao lâu chàng từ trần và tái sanh tại nơi ấy gần bên nàng.

Các vị kết tập Kinh điển ghi vần kệ cuối cùng kể lại chuyện chàng cộng trú cùng nàng:

  1. ‘Mong vậy!’ Chàng trai vội đáp lời,
    Rồi chàng tạo các nghiệp trên đời
    Phát sinh kết quả về nơi nọ,
    Khi đã làm xong phước nghiệp rồi,
    Chàng được tái sanh vào chốn ấy
    Cùng nàng bầu bạn cảnh bồng lai. 

4. (29) Chuyện Rơm Trấu (Bhusa)

Trong lúc đang trú tại Sàvatthi (Xá-vệ), bậc Ðạo Sư kể chuyện này liên hệ đến bốn ngạ quỷ.

Trong một ngôi làng nọ không xa Sàvatthi, một gian thương kiếm kế sinh nhai bằng cách đong lường dối trá và các phương pháp bất lương khác như pha trộn tạp chất vào lúa gạo. Vợ, con trai, con dâu kẻ ấy cũng gian ác như các vần kệ kể lại.

Khi tái sanh làm ngạ quỷ ở rừng Vindhya, nỗi thống khổ của chúng đều được nói ra đây.

Bấy giờ Tôn giả Mahà-Moggallàna đang đi du hành qua vùng núi đồi, một hôm đến tận nơi ấy, thấy chúng, liền hỏi chúng đã tạo các ác nghiệp nào:

  1. Tên này ăn trấu, nọ ăn rơm,
    Trong lúc ngươi ăn phẩn đáng nhờm,
    Còn nữ quỷ này ăn thịt nó,
    Quả gì nghiệp ấy thật kinh hồn?

Ðể đáp lời Trưởng lão, vợ kẻ gian thương giải thích các hạnh nghiệp do chúng đã tạo nên:

  1. Tên này đánh mẹ thuở xưa xa,
    Tên nọ bán buôn chẳng thật thà,
    Còn nữ quỷ này ăn thịt nó,
    Ðánh lừa với vọng ngữ gian tà.
  2. Khi được làm người giữa chúng sanh,
    Tôi là người vợ, chủ gia đình,
    Ðem tài sản giấu người chân chánh,
    Cũng chẳng hề cho chút để dành.
    Tôi đã giấu che bao của cải,
    Còn buông lời dối trá gian manh:
    ‘Nếu tôi cất giấu gì trong đó,
    Thì phẩn là lương thực của mình’.
  3. Do kết quả từ việc trước đây,
    Cùng lời dối trá của tôi vầy,
    Bữa cơm tôi có mùi ngon ngọt
    Ðã hóa thành phân thối thế này.
  4. Hành nghiệp nào đều có quả mang,
    Vì hành nghiệp chẳng tự tiêu tan,
    Nên tôi ăn uống phân dơ bẩn
    Giòi bọ hôi tanh thật đáng nhàm.

Khi đã nghe xong lời của nữ ngạ quỷ, Trưởng lão liền kể lại chuyện lên đức Thế Tôn, Ngài lấy đó làm đề tài thuyết pháp.

  1. (30) Chuyện Chàng Trai (Kumàra)

Tại Sàvatthi (Xá-vệ), nhiều đệ tử tại gia trở thành hội chúng nghe pháp, xây dựng trong thành phố này một ngôi đình lớn rồi cúng dường thực phẩm lên bậc Ðạo Sư và Tăng chúng.

Một người phản đối những gì đem dâng cúng các ‘Sa-môn trọc đầu’. Mẹ y xin sám hối với đức Thế Tôn và cúng dường cháo gạo suốt một tuần. Con trai bà từ trần chẳng bao lâu sau đó và tái sanh làm con một kỹ nữ sang trọng.

Khi nàng biết đó là một nam nhi, nàng cho người đem nó quăng ra nghĩa địa. Tại đó hài nhi được công năng thiện nghiệp của chính nó bảo vệ nên không bị ai phá hại, cứ nằm ngủ ngon lành như trong lòng mẹ.

Chuyện kể rằng chư thần linh đã chăm sóc nó. Thế rồi khi đức Thế Tôn với lòng đại bi, thức dậy từ sáng sớm, dùng Phật nhãn quán sát thế gian, Ngài thấy bé trai này và đi đến nghĩa địa.

Nhiều người tụ tập lại, bảo nhau:

– Bậc Ðạo Sư đã đến đây chắc phải vì một duyên cớ nào đó ở chốn này.

Rồi họ thưa Ngài:

– Bạch Thế Tôn, đứa bé này đã làm nghiệp gì trong đời trước?

Ðức Phật liền kể chuyện cho họ nghe.

Sau đó một đại phú gia nhận nuôi đứa bé và nói:

– Trước sự hiện diện của chính đức Thế Tôn, con xin nhận đứa trẻ này làm con.

Ðức Thế Tôn trở về tinh xá với lời sau:

– Ðứa bé này đã được phú gia kia bảo hộ và sẽ làm lợi ích cho nhiều người.

Sau khi người ấy từ trần, chàng trai thừa hưởng gia tài và thích thú các việc bố thí cùng nhiều thiện sự khác.

Chư vị kết tập Kinh điển nên vấn đề này qua sáu vần kệ sau:

  1. Kỳ diệu thay tri kiến Phật-đà,
    Cách Ngài tiên đoán nghiệp người ta,
    Bao người đã tạo nên công lớn,
    Lắm kẻ ít gây thiện nghiệp mà.
  2. Cậu bé bị quăng bỏ nghĩa trang,
    Bú tay, sống sót cả đêm trường,
    Không thần hay rắn làm thương tổn,
    Vì phước nghiệp từ kiếp trước mang.
    Bầy chó liếm đôi chân cậu bé,
    Quạ diều, sơn cẩu chỉ đi ngang.
  3. Ðàn chim đã tẩy sạch đồ dơ,
    Bầy quạ lau đôi mắt trẻ thơ,
    Chẳng có người chăm lo bảo hộ,
    Cũng không hương cải, thuốc đem cho.
  4. Chúng chẳng biết đâu đến mặt trăng
    Kết giao với nguyệt điện, cung Hằng,
    Cũng không rải hạt cầu may mắn
    Cho trẻ đọa trong cảnh khốn cùng,
    Ðã bị mang đi đêm tối nọ,
    Quăng vào nghĩa địa ở trong rừng.
  5. Hài nhi ấy được cả chư thần
    Ðảnh lễ, cùng bên các thế nhân
    Thấy trẻ cựa mình như một đống
    Sanh tô, trong cảnh ngộ nguy nan,
    Chỉ còn sức sống thêm đôi chút
    Khi Ðại Trí Nhân thấy, bảo rằng:
    ‘Ðứa trẻ này nhờ tài sản lớn
    Sẽ thành đại phú hộ trong vùng’.

Các đệ tử tại gia hỏi:

  1. Hạnh nguyện nào đây của trẻ thơ?
    Tu hành gì cuộc sống bây giờ?
    Vì sao thiện nghiệp này sanh quả,
    Khi họa như vầy đã xảy ra
    Cho trẻ, rồi ngày sau hưởng thọ
    Uy quyền đầy phú quý vinh hoa?

Bấy giờ cách đức Thế Tôn tuyên thuyết khi nghe các đệ tử tại gia hỏi, được các vị kết tập Kinh điển trình bày như sau:

  1. Những người kia đã cúng Tăng-già,
    Với thượng thủ là đức Phật-đà,
    Dịp ấy, trẻ không đồng ý kiến
    Buông lời thô lỗ, chẳng ôn hòa.
  2. Từ khi xua đuổi ý như trên,
    Hỷ lạc về sau, trí thản nhiên,
    Dâng cúng suốt tuần phần cháo gạo
    Ðức Như Lai trú tại Kỳ Viên.
  3. Ấy nguyện đời xưa của trẻ thơ,
    Còn đời tu tập chính bây giờ,
    Thiện hành kia đã mang thành quả,
    Khi họa như vầy đã xảy ra
    Cho trẻ, rồi về sau hưởng thọ
    Uy quyền đầy phú quý vinh hoa.
  4. Chàng sống đời trường thọ bách niên,
    Hưởng bao niềm lạc thú vô biên,
    Ðến khi hủy hoại thân phàm tục,
    Ðược tái sanh đồng trú cõi thiên.

6 (31) Chuyện Ngạ Quỷ Serinì (Serinì)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên).

Tương truyền ở quốc độ Kuru (Câu-lâu) tại thành phố Hatthinipura có một gái giang hồ tên là Serinì. Khi dân trong thành chào đón chư Tăng đến thuyết pháp, họ thúc giục nàng:

– Nàng hãy đến cúng dường chư Tăng để tạ ân.

Nàng từ chối đáp:

– Sao tôi lại phải cúng dường lễ vật cho các Sa-môn trọc đầu này chứ? Sao tôi lại phải từ bỏ một thứ gì đó vì con người vô dụng ấy?

Khi từ trần, nàng tái sanh làm một nữ ngạ quỷ ở sau hào lũy của một tường thành nơi biên địa. Thế rồi một cư sĩ tại gia từ thành Hatthinipura đến vùng thành lũy này để buôn bán, vào lúc rạng đông đi ngang hào lũy để điều hành công việc, trông thấy nữ ngạ quỷ liền hỏi, qua vần kệ:

  1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
    Hốc hác, và thân thể nổi gân
    Người ốm yếu, xương sườn lộ rõ,
    Ngươi là ai hiện đến đây chăng?

Nữ ngạ quỷ đáp:

  1. Tôn giả, con là ngạ quỷ nương,
    Thần dân khốn khổ của Diêm Vương,
    Vì con đã phạm hành vi ác,
    Con đến cõi ma đói ẩn thân.

Vị cư sĩ ngâm kệ hỏi:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hành gì
    Do khẩu, ý, thân đã thực thi?
    Vì hạnh nghiệp nào ngươi đã tạo
    Từ đây tới cảnh giới âm ty?

Nữ ngạ quỷ đáp lại vần kệ:

  1. Con đã đi quanh bến tắm công,
    Lang thang suốt cả nửa tuần trăng.
    Mặc dù bố thí là công đức,
    Con chẳng cho mình chỗ trú thân.
  2. Khi con khát nước, đến dòng sông,
    Sông nước trở thành bãi trống không;
    Những lúc nắng, con ngồi bóng mát,
    Tàng cây lại hóa nóng bừng bừng.
  3. Cơn gió như thiêu đốt, lửa hồng,
    Thổi ào lên khắp cả thân con,
    Nhưng con xứng đáng nhiều đau khổ
    Hơn thế này, Tôn giả đoái thương.
  4. Xin Tôn giả đến Hat-pu-ra,
    Và kể chuyện ngay với mẹ già:
    ‘Ta đã thấy con bà thuở trước,
    Thần dân khốn khổ cõi Diêm-la.
    Vì nàng đã phạm hành vi ác,
    Từ cõi đời đi đến cõi ma’.
  5. Giờ đây con có món tư trang
    Ðể dành lên đến bốn trăm ngàn,
    Con không hề nói cho ai biết,
    Con đã giấu ngay dưới tọa sàng.
  6. Xin mẹ con dâng lễ cúng dường,
    Phước phần hồi hướng đến tên con,
    Chúc bà được sống đời trường thọ;
    Khi mẹ con dâng lễ cúng dường,
    Hồi hướng về con phần phước đức,
    Thỏa nguyền, con hạnh phúc hân hoan’.

Trong lúc nữ ngạ quỷ kể chuyện này, vị ấy chú ý lắng nghe lời nói, và về sau, khi đã làm xong công việc, vị ấy đến kể chuyện kia cho bà mẹ nó.

Các vị kết tập Kinh điển ghi lại các vần kệ sau:

  1. Người ấy thuận lòng, vội nói ra:
    ‘Ðược rồi!’ và đến Hat-pu-ra,
    Nói: ‘Ta đã thấy con bà đó,
    Khốn khổ, thần dân cõi Dạ-ma.
    Vì đã tạo nên điều ác nghiệp
    Từ đời này đến cõi tà ma’.
  2. Dịp kia, nàng đã bảo cùng ta:
    ‘Xin kể chuyện ngay với mẹ già:
    Ta đã thấy con bà thuở trước
    Thần dân khốn khổ cõi Diêm-la.
    Vì nàng đã phạm hành vi ác,
    Từ cõi đời đi đến cõi ma’.
  3. Giờ đây nàng có món tư trang
    Ðể dành lên đến bốn trăm ngàn,
    Nàng không hề nói cho ai biết
    Nàng đã giấu ngay dưới tọa sàng.
  4. Xin mẹ nàng dâng lễ cúng dường,
    Phước phần hồi hướng đến cho nàng,
    Chúc bà được sống đời trường thọ;
    Khi mẹ nàng dâng lễ cúng dường,
    Hồi hướng về nàng phần phước đức,
    Thỏa nguyền, nàng hạnh phúc hân hoan’.
  5. Do vậy, bà dâng lễ cúng dường
    Phước phần hồi hướng đến tên nàng,
    Tức thì nữ quỷ liền an lạc,
    Hạnh phúc, dung nhan đẹp lạ thường!

Khi mẹ nàng nghe chuyện này, bà liền cúng dường Tăng chúng như nàng ước nguyện và hồi hướng công đức về nàng.

  1. (32) Chuyện Người Săn Nai (Migaludda)

Ðức Thế Tôn kể chuyện này trong lúc đang trú tại Trúc Lâm.

Ở thành Ràjagaha (Vương Xá) có người thợ săn kia sống bằng cách săn bắn và giết hươu nai suốt ngày đêm. Tuy nhiên, y lại có một bạn thân là cư sĩ tại gia thường khuyên răn y, nhưng y chỉ nghe theo một phần. Do đó, y tái sanh làm quỷ thần ở trong lâu đài.

Tôn giả Trưởng lão Narada thấy quỷ và ngâm kệ hỏi:

  1. Chàng nay là một đấng nam nhi,
    Hầu cận đủ nô bộc, nữ tỳ,
    Ðêm tối, sáng ngời bao dục lạc,
    Ban ngày phải chịu lắm sầu bi,
    Như vầy do ở trong tiền kiếp
    Chàng đã tạo nên các nghiệp gì?
    Quỷ này giải thích các nghiệp đã làm:
  2. Trong thành Vương Xá, nước non xinh,
    Xưa tại Ða Sơn, cảnh hữu tình,
    Tôi kẻ săn nai, lòng độc ác
    Với bàn tay vấy máu vì mình.
  3. Giữa loài vô hại ở trong rừng
    Tôi quẩn quanh với trí bạo hung,
    Luôn thấy lạc hoan khi giết hại
    Những con vật ấy, thật buông lung.
  4. Mặc dù tôi bản tính như vầy,
    Tôi có bạn thân thiết lắm thay,
    Cư sĩ tại gia lòng mộ đạo
    Tín thành, lân mẫn với tôi đây,
    Cản ngăn tôi, đã nhiều lần nói:
    ‘Ðừng tạo hành vi ác thế này’.
  5. ‘Bạn hỡi, đừng nên tạo ác hành,
    Sợ rằng sẽ gặp cảnh không lành,
    Nếu mong hạnh phúc khi thân hoại,
    Ðừng thích thú vì việc sát sanh’.
  6. Mặc dù nghe lý lẽ khuyên can
    Của chính người đây, một bạn vàng
    Thương xót, mong tôi nhiều hạnh phúc,
    Tôi không tuân Giáo pháp hoàn toàn,
    Vì từ lâu đã tìm vui thú
    Việc ác, nên không có trí quang.
  7. Lần nữa, chính là bậc trí nhân
    Xót thương, dạy bảo phải điều thân:
    ‘Ban ngày nếu sát sanh’, chàng dặn,
    Ðêm tối, phải điều phục phát tâm!’.
  8. Vì vậy ban ngày tôi sát sanh,
    Về đêm, tôi chế ngự thân mình,
    Giờ đây, dạo bước trong đêm tối,
    Nhưng sáng ngày tôi chịu khổ hình.
  9. Nhờ thiện hành, tôi hưởng một đêm
    Với bao lạc thú của thần tiên;
    Ban ngày bầy chó ngao ùa tới,
    Nhảy vọt khắp nơi xé xác liền!
  10. Những người nào nhất mực tinh cần,
    Lời Thiện Thệ tuân thủ quyết tâm,
    Sẽ đạt vẹn toàn Bất tử giới,
    Niết-bàn, là trạng thái siêu nhân. 

8. (33) Chuyện Người Săn Nai Thứ Hai (Dutiyaludda)

Ðức Thế Tôn kể thêm chuyện này nữa trong lúc đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm).

Tương truyền tại Ràjagaha một người thợ săn trẻ tuổi kia, mặc dù giàu có, vẫn rời bỏ mọi lạc thú giàu sang và đi săn hươu nai suốt ngày đêm. Kẻ ấy cũng theo lời khuyên của một vị Trưởng lão khi có người bạn cư sĩ khẩn cầu, và từ bỏ việc đi săn ban đêm, nên nhận quả báo ở đời sau giống như chuyện trên.

Trưởng lão Nàrada hỏi quỷ ấy qua các vần kệ sau:

  1. Trong tòa cao ốc, một lâu đài,
    Trên tọa sàng, lông thú phủ ngoài,
    Năm thứ đàn tơ đang nhẹ trổi,
    Lòng chàng thích thú nhạc êm tai.

2-3. Ban ngày vào lúc mới hừng đông,
Chàng bị đuổi ra tận nghĩa trang,
Và phải chịu bao điều thống khổ,
Nghiệp nào đã tạo ác về thân,
Về lời, hay ý trong tiền kiếp,
Nay chịu khổ này có phải chăng?
Sau đó quỷ liền kể chuyện sau:

  1. Trong thành Vương Xá thật xinh tươi,
    Cổ lũy Ða Sơn cảnh tuyệt vời,
    Tôi chính thợ săn trong kiếp trước,
    Buông lung, tôi thích thú vui chơi.
  2. Mặc dù tôi bản tính hung tàn,
    Tôi có bạn thân, cận sự nam,
    Mộ đạo, tín thành, thường đón tiếp
    Tỷ-kheo, đệ tử đức Cồ-đàm,
    Viếng thăm gia quyến; chàng thương xót
    Ngăn cản tôi, và vẫn bảo ban:

6-10. (Giống các vần kệ 5-10 ở chuyện trước).

  1. (34) Chuyện Những Phán Quyết Gian Dối (Kùtavinicchayika)

Trong lúc bậc Ðạo Sư đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm), ngài kể chuyện này liên quan đến những phán quyết gian dối.

Thời ấy, vua Bimbisàra (Tần-bà-sa) hành trì Trai giới (Bồ-tát giới) sáu ngày mỗi tháng. Nhiều người theo gương vua giữ giới. Nhà vua thường hỏi những người thỉnh thoảng vào triều kiến:

– Này, khanh có hành trì ngày trai giới hay không hành trì?

Thế rồi có một người kia đã được bổ nhiệm làm phán quan, một kẻ lừa dối, bất lương, thường nhận hối lộ và hung bạo nhưng lại sợ nói ra: ‘Tôi không phải là người giữ giới’. Vì vậy, y nói:

– Tâu Ðại vương, hạ thần có giữ giới.

Khi đã ra về sau buổi triều kiến vua, một người bạn hỏi y:

– Này hiền hữu, hiền hữu có giữ giới gì hôm nay chăng?

Y đáp:

– Này hiền hữu, vì sợ hãi nên tôi đã nói thế lúc yết kiến đức vua, chứ tôi không giữ giới.

Sau đó người bạn bảo y:

– Nếu chỉ còn nửa ngày trai giới thì hôm nay bạn hãy giữ như vậy. Hãy phát nguyện giữ giới đi.

Y đồng ý, trở về nhà, rửa mặt và chuyên tâm giữ giới. Ðêm ấy y vừa về đến nhà thì mạng sống bị gián đoạn vì một cây cột đổ xuống từ ngôi nhà ọp ẹp của y trong một cơn gió mạnh.

Ngay sau khi chết, y tái sanh làm một quỷ thần trong lâu đài ở vực sâu dưới núi. Dù y chỉ giữ nửa ngày trai giới trong một đêm thôi, y vẫn được phước báo với một đoàn tùy tùng gồm mười ngàn tiên nữ hộ tống và hưởng lạc thú thần tiên, nhưng do quả báo từ các phán quyết gian dối và nói láo kia, y tự lấy tay móc thịt trên lưng mình và xé ra ăn.

Khi Tôn giả Nàrada từ đỉnh núi Linh Thứu đi xuống, thấy y, liền hỏi qua bốn vần kệ:

  1. Ngươi đội tràng hoa, miện, vòng vàng,
    Tứ chi ngươi tẩm ướt chiên-đàn,
    Trông ngươi có dáng đầy thanh thản,
    Ngươi giống mặt trời rực ánh quang.

2-3. Ðoàn thị nữ này hộ tống ngươi,
Mười ngàn tiên nữ rất xinh tươi
Ðeo vòng vỏ ốc và trang điểm
Tấm lưới vàng kia lấp lánh hoài,
Hình dáng ngươi gây niềm cảm phục,
Ngươi đầy quyền lực thật hùng oai.

  1. Tay ngươi móc thịt ở lưng ăn,
    Ác nghiệp nào do khẩu, ý, thân
    Ðã tạo? Giờ đây ngươi cấu xé
    Thịt lưng mình bởi nghiệp nào chăng?
    Quỷ này kể chuyện mình qua bốn vần kệ:
  2. Tôi hành động giữa cõi phàm trần
    Ðem tổn hại cho chính bản thân
    Bằng cách vu oan và vọng ngữ,
    Dối lừa và phỉ báng tha nhân.
  3. Tại đó, xưa tôi họp việc chung
    Ðến khi tôi phải nói chân ngôn,
    Thì tôi bài bác điều công chánh,
    Và lại quay về việc dối gian.
  4. Vậy người nào phỉ báng tha nhân
    Sẽ phải tự mình xé nát thân,
    Như chính hôm nay tôi phải chịu
    Tự mình lấy thịt ở lưng ăn.
  5. Nà-ra-da đã thấy điều này:
    Bi mẫn là người nói thẳng ngay.
    Ðứng phỉ báng, buông lời dối trá,
    E ngài sẽ xẻ thịt lưng vầy! 

10. (35) Chuyện Khinh Khi Xá Lợi (Dhàtuvivanna)

Khi đức Thế Tôn diệt độ tại Kusinara (Câu-thi-na), ở Lâm Viên Upavattana trong rừng Sàla song thọ, và sau khi việc phân chia xá lợi đã hoàn thành, vua Ajàtasattu (A-xà-thế) nhận phần của mình xong, liền làm lễ cúng dường suốt bảy năm bảy tháng bảy ngày.

Nhưng có tám vạn sáu ngàn người, vì không có lòng tin và đầy tà kiến từ lâu, đã mê lầm và có nhiều vọng tưởng điên đảo, cho nên dù đã sống trong một hoàn cảnh an lành, cũng tái sanh vào loài ngạ quỷ.

Chính trong thành Vương Xá này, có bà vợ, con gái, con dâu của một phú gia kia với tâm thành tín đem hương liệu, vòng hoa và nhiều lễ vật khác khởi hành đi đến bảo Tháp xá-lợi, bảo nhau:

– Chúng ta muốn đi cúng dường xá-lợi.

Người gia chủ phỉ báng việc cúng dường này với những lời mạ lỵ:

– Cúng dường đống xương thì có ý nghĩa gì chứ?

Song họ không quan tâm đến lời nói của kẻ ấy và ra đi. Khi từ trần họ tái sanh lên thiên giới, còn kẻ ấy tái sanh làm ngạ quỷ.

Thế rồi một hôm, Tôn giả Mahà-Kassapa vì lòng bi mẫn đứng tại khuôn viên bảo Tháp, ngâm ba vần kệ hỏi ngạ quỷ đã khinh thường xá-lợi:

  1. Ngươi đang lơ lửng giữa hư không,
    Ngươi thở mùi hôi thối nặc nồng,
    Sâu bọ đang đua nhau cấu xé
    Mặt người rách nát thối vô cùng.
  2. Ngày xưa ngươi phạm ác hành nào,
    Nay chúng cầm gươm mãi chém vào,
    Chúng rảy cường toan khắp cả mặt,
    Thân ngươi, rồi cắt mãi, vì sao?
  3. Ngươi đã làm nên ác nghiệp gì
    Do từ thân, khẩu, ý tư duy?
    Hành vi nào kiếp xưa gây tạo,
    Nay phải chịu đau khổ cực kỳ?

Ngạ quỷ đáp lại như sau:

  1. Trong thành Vương Xá thật xinh tươi,
    Cổ lũy Ða Sơn, cảnh tuyệt vời,
    Tôn giả, tôi là người đại phú
    Bạc vàng thóc lúa khắp nơi nơi.
  2. Vợ tôi, con gái, vợ con trai
    Ðem đủ sen xanh, các đóa lài,
    Cùng với dầu thơm dâng bảo Tháp,
    Tôi ngăn cản họ mãi không thôi.
    Ðó là ác nghiệp ngày xưa ấy
    Ðã được tạo ra bởi chính tôi.
  3. Tám vạn sáu ngàn bọn chúng tôi
    Chịu bao đau khổ chẳng riêng ai,
    Vì tôi khinh việc người dâng cúng
    Bảo Tháp, nay tôi chịu khổ hoài.
  4. Vậy người nào lộ vẻ hung tàn,
    Khi Thánh lễ đang được cúng dường
    Lên bảo Tháp tôn vinh xá-lợi,
    Xin Tôn giả cất tiếng khuyên can.
  5. Tôn giả nhìn kìa đám mỹ nương
    Ðeo vòng hoa đẹp khéo trang hoàng,
    Hưởng nhiều phước báo vì dâng lễ,
    Phú quý vinh hoa thật rỡ ràng.
  6. Khi các trí nhân thấy việc này
    Gây niềm cảm xúc, diệu kỳ thay,
    Họ liền sùng bái và tôn kính
    Bậc đại hiền nhân ấy chính ngài.
  7. Khi tôi rời cảnh ngộ thương đau,
    Và được làm người ở kiếp sau,
    Tôi sẽ tinh cần dâng lễ bái
    Cúng dường Tháp xá-lợi dài lâu.

Phẩm IV – Ðại Phẩm

  1. (36) Chuyện Vua Ambasakkhara (Ambasakkhara)

Trong lúc đức Thế Tôn đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên) một vị vua dòng họ Licchavi mệnh danh Ambasakkhara, là một người không mộ đạo, có tà kiến, đang trị vì ở Vesàli (Tỳ-xá-ly).

Tại đó lại có một thương nhân chánh trực đã bắc cầu bằng những thanh gỗ chiên-đàn qua một đầm lầy. Trái lại, cháu trai vị ấy đã lấy trộm hàng hóa đem đến tiệm của chú, nên bị xử hình phạt đóng thân vào cọc. Người chú bị chặt đầu và hóa thành một địa thần cỡi ngựa thuần bạch, vào nửa đêm lại đến thăm cháu đang bị đóng cọc và bảo: ‘Hãy cố sống thì hơn’.

Bấy giờ vua Ambasakkhara muốn chiếm vợ của một thần dân, liền sai người ấy đi lấy đất đỏ và hoa súng đỏ ở một hồ sen cách xa kinh thành ba do-tuần, và buộc y phải trở về trước khi trời tối nếu không sẽ bị giết. Ðồng thời vua ra lệnh đóng cổng thành trước khi trời tối. Nhờ chư thần giúp đỡ, người kia đem đất đỏ và hoa súng đỏ về kịp trước khi trời tối, nhưng gọi cổng thành không được, y phải nhờ sự làm chứng của vị quỷ thần ấy. Sau đó vua đích thân đi gặp vị quỷ thần để tìm hiểu sự việc. (Bổ sung Tập Sớ).

Các vần kệ này kể lại chuyện trên. Vần kệ đầu do các vị kết tập Kinh điển đưa vào:

  1. Kinh thành dân chúng xứ Vaj-ji,
    Tên gọi là thành Tỳ-xá-ly,
    Tại đó có vì vua ngự trị,
    Am-ba-sa, tộc Lic-cha-vi,
    Khi nhìn thấy quỷ ngoài thành ấy,
    Vua muốn biết, nên hỏi tức thì:
  2. ‘Kẻ này không có chỗ nằm ngồi,
    Cùng chẳng hề đi tới, bước lui,
    Không thức uống ăn, quần áo mặc,
    Cũng không tỳ nữ, một mình thôi.
  3. Quyến thuộc thân bằng thuở đã qua
    Có lòng thương xót nó bây giờ,
    Song không có khả năng nhìn nó,
    Họ đã bỏ rơi nó thật mà.
  4. Kẻ nào sa sút chẳng thân bằng,
    Bạn bỏ rơi khi thấy khốn cùng,
    Hễ thấy phồn vinh, vây lấy bạn,
    Người đang hưng thịnh, lắm thân nhân.
  5. Khi hưởng thụ xong hết bạc vàng,
    Gia tài chắc đã phải tan hoang,
    Thân hình vấy máu đang rời rã
    Như hạt sương treo, đến số tàn.
  6. Với người đang chịu cảnh đau thương,
    Khủng khiếp trên cây cọc gỗ mun,
    Vua hỏi: ‘Quỷ kia, sao lại nói:
    Ngươi cần phải sống, sống thì hơn?’

Quỷ thần:

  1. Người này trên cọc chính thân nhân,
    Tôi nhớ kiếp xưa ở cõi trần,
    Nên đã xót thương khi thấy nó
    Phải vào địa ngục bởi tà tâm.
  2. Lic-cha-vi chúa thượng, từ đây
    Kẻ đã tạo ra ác nghiệp này
    Vào ngục tái sanh đầy khủng khiếp,
    Nóng bừng, gay gắt, hãi kinh thay.
  3. Ngay cái cọc kia đủ mọi phần,
    Tốt hơn địa ngục biết bao lần,
    Ước mong nó chẳng sa vào ngục
    Gay gắt, kinh hoàng, thật khổ thân.
  4. Nếu kẻ ấy nghe tôi nói vầy,
    Nó đầy sầu khổ, tắt hơi ngay,
    Cho nên trước nó tôi không nói,
    E chỉ vì tôi nó bỏ thây.

Quân vương:

  1. Vụ án người này ta biết qua,
    Song ta muốn hỏi chuyện thêm mà;
    Nếu ngươi cho phép, ta xin hỏi,
    Song chớ giận hờn với chúng ta.

Quỷ thần:

  1. Việc ấy tôi xin hứa thật lời,
    Chuyện này không kể với người đời
    Không có tín tâm vào Ðạo pháp,
    Dù tôi không muốn, hãy tin tôi;
    Hỏi ngay những việc gì ngài muốn,
    Tôi sẽ đáp tùy sức đó thôi.

Quân vương:

  1. Những gì ta thấy tận mắt ta,
    Ước mong ta đủ tín tâm mà,
    Nếu không tin dẫu khi ta thấy,
    Ấy việc riêng ta, hỡi Dạ-xoa!

Quỷ thần:

  1. Tôi đã được ngài hứa thủy chung,
    Khi ngài nghe pháp hãy thành tâm,
    Ði tìm tri kiến cao hơn nữa,
    Với trí chẳng ô nhiễm, sáng trong.
    Những pháp ngài chưa nghe hoặc đã,
    Tôi đều muốn nói hết cho thông.

Quân vương:

  1. Trên ngựa trang hoàng, ngươi đến đây
    Tìm người bị đóng cọc phanh thây,
    Ðây là phong cách ngươi đi lại,
    Kỳ diệu và cao quý hiển bày.
    Do bởi nghiệp nào xưa đã tạo
    Mà nay được phước báo như vầy?

Quỷ thần:

  1. Chính giữa kinh thành Tỳ-xá-ly,
    Xuyên qua đầm ở khoảng đường đi,
    Có nơi nọ cực kỳ nguy hiểm,
    Với dạ tín thành, một bữa kia,
    Tôi lấy gỗ chiên-đàn trắng bạch
    Bắc qua chỗ ấy có nề chi.
  2. Sau đó chúng tôi đặt bước chân,
    Chúng tôi và những kẻ qua đường,
    Ðây là phương tiện rất kỳ diệu,
    Xứng đáng được chiêm ngưỡng giữa trần,
    Do chính nghiệp ngày xưa đã tạo,
    Giờ đây đem phước báo cho thân.

Quân vương:

  1. Hình dáng ngươi soi sáng mọi phương,
    Khắp nơi đều phảng phất mùi hương.
    Nhà ngươi có cả thần thông lực
    Của một Dạ-xoa lực dị thường.
    Nhưng việc gì xưa đem kết quả
    Nhà ngươi nay phải chịu trần truồng?

Quỷ thần:

  1. Luôn giữ tín tâm thoát hận sân,
    Nói lời từ tốn với tha nhân
    Việc xưa kia đã đem thành quả
    Hình dáng thần tiên mãi sáng bừng.
  2. Khi tôi lưu ý đến thanh danh
    Của những người an trú Pháp hành,
    Tôi trịnh trọng trình bày việc ấy,
    Việc xưa đem kết quả cho mình:
    Mùi hương tiên giới trên thân thể
    Liên tục thoảng đưa thật dịu lành.
  3. Khi các bạn tôi tắm bến sông,
    Tôi đem quần áo giấu quanh vùng,
    Tôi không ác ý, thích đùa giỡn,
    Nay chịu trần truồng thật khổ thân.

Quân vương:

  1. Nếu ai làm ác để đùa nhau,
    Người bảo đây là quả kiếp sau;
    Song nếu ai làm không bỡn cợt,
    Thì người bảo kết quả nào đâu?

Quỷ thần:

  1. Bất cứ ai làm ác cố tâm
    Ngôn từ, hành động quá buông lung,
    Phải vào địa ngục sâu tăm tối,
    Chắc chắn khi thân hoại mạng chung.
  2. Kẻ nào mong thế giới quang vinh,
    Tìm thích thú trong các thiện hành,
    Bố thí, bản thân luôn chế ngự,
    Mạng chung vào thế giới thanh minh.

Khi quỷ thần đã phân tích sơ lược các nghiệp quả, nhà vua không tin, bèn ngâm kệ:

  1. Tại sao ta phải tin điều này
    Là quả thiện hành, ác nghiệp đây?
    Việc đã thấy ta cần tín ngưỡng?
    Người nào thuyết phục được ta vầy?

Quỷ thần:

  1. Khi ngài đã mắt thấy tai nghe,
    Ngài hãy tin vào nghiệp quả kia,
    Nếu thiện ác đều không hiện hữu,
    Sao người hạnh phúc, kẻ ê chề?
  2. Nếu chúng sanh không tạo thiện hành,
    Và gây ác nghiệp giữa nhân sanh,
    Thì nhân quần, dẫu cao hay thấp,
    Chẳng có tai ương, hoặc phước lành.
  3. Nhưng bởi chúng sanh tạo thiện hành,
    Và gây ác nghiệp giữa nhân sanh,
    Nên nhân quần, dẫu cao hay thấp,
    Ðều gặp tai ương hoặc phước lành.
  4. Có hai loại nghiệp báo trên đời,
    Ta phải hiểu ngay: Một hạng người
    Ðược hạnh phúc, và người chịu khổ.
    Chư Thiên hưởng lạc thú trên trời,
    Song người ngu bị nhiều hành hạ
    Khi thấy quả hai mặt chín muồi.

Khi được nhà vua hỏi:

– Như vầy ngươi đã tin vào nghiệp quả, tại sao ngươi lại phải chịu cảnh khốn khổ này?

Quỷ thần đáp:

  1. Không ai làm việc thiện vì tôi,
    Hồi hướng về tôi, chẳng có người,
    Dâng cúng áo, giường, đồ ẩm thực,
    Nên tôi trần trụi, khổ trên đời!

Khi nghe quỷ thần ước muốn nhận đủ áo quần và nhiều vật dụng khác, nhà vua bảo:

  1. Quả thật giờ đây có cách nào
    Nhà ngươi được áo mặc hay sao?
    Nói cho ta biết về nguồn gốc,
    Ta sẽ nghe lời tín nhiệm mau.

Quỷ thần đáp:

  1. Có vị Tỷ-kheo ở tại đây
    Kap-pi-ta ấy chính danh này,
    Ngài chuyên Thiền định, và cao đạo,
    Giải thoát, điều thân, ứng cúng thay.
    Sống chế ngự mình bằng giới luật,
    An nhiên, đạt trí tối cao vầy.
  2. Ngài vốn nói năng thật dịu hiền,
    Ôn tồn, nhỏ nhẹ, giọng êm đềm,
    Ðón chào niềm nở đầy chân thật,
    An tịnh trú trong giới luật nghiêm,
    Xứng đáng cúng dường nhiều lễ vật
    Từ loài người đến cả chư Thiên.
  3. Thanh thản đoạn trừ lưới ác tâm,
    Chánh chân, vô ngã, lại ly tham,
    Ngài không có ước mong gì nữa,
    Chẳng có sanh y ở thế gian,
    Nên ngài giải thoát, tâm an tịnh,
    Tam minh chứng đắc thật vinh quang.
  4. Mặc dù quần chúng thấy hình ngài,
    Ngài chẳng tiếng tăm, quen biết ai;
    Dân chúng Bạt-kỳ thường vẫn gọi
    Ngài là bậc trí tuệ cao vời.
    Thiên thần biết rõ ngài ly dục,
    Người có tín tâm sống ở đời.
  5. Nếu chúa thượng dâng lễ cúng ngài
    Và đem công đức hướng về tôi,
    Một, hai bộ áo do ngài nhận
    Cũng đủ cho tôi có mặc rồi.

Quân vương:

  1. Bậc ẩn sĩ kia đang ở đâu?
    Chúng ta yết kiến ở phương nào?
    Hôm nay ngài đánh tan nghi hoặc,
    Tà kiến giăng đầy tự bấy lâu.

Quỷ thần:

  1. Ở Kap-pi-na, ngài tọa thiền,
    Ðược bao quanh bởi các thần tiên,
    Ngài đang thuyết pháp, ly sân hận,
    Chân chánh như danh tiếng đã truyền.

Quân vương:

  1. Ta đi làm việc ấy giờ đây,
    Ta sẽ dâng y ẩn sĩ này
    Khi bộ y kia ngài đã nhận,
    Thì ngươi sẽ có áo quần ngay.

Rồi cả hai cùng đi đến chỗ ấy và quỷ thần nói:

  1. Với người xuất thế, bản thân tôi
    Không yết kiến khi chẳng đúng thời.
    Chúa thượng, giờ đây không thích hợp.
    Ðúng thời, hãy viếng chỗ ngài ngồi.

Các vần kệ sau do chư vị kết tập Kinh điển ghi:

  1. Khi quỷ thần vừa nói vậy xong,
    Nhà vua được cả đám tùy tùng
    Ðưa về lại chốn kinh thành ấy,
    Tư thất của vua ở hậu cung.
  2. Từ đó, thực hành giới tại gia,
    Nhà vua tắm gội, chọn từ nhà
    Xiêm y tám bộ và đi cúng,
    Ðược đám tùy tùng hộ tống ra.
  3. Khi nhà vua đến tận nơi này,
    Thấy ẩn sĩ tâm thanh tịnh đầy
    Ðã trở về sau thời khất thực,
    An nhiên, tĩnh tọa dưới gốc cây.
  4. Ðúng lúc vua đi yết kiến ngài,
    Vấn an sức khoẻ, sống an vui;
    ‘Lic-cha-vi ấy là thân tộc,
    Tỳ-xá-ly thành, đất nước tôi,
    Tôi chính Am-ba-sa, tộc trưởng,
    Mong ngài hoan hỷ, kính thăm ngài.
  5. Tôn giả, xin ngài hãy nhận ngay
    Tám y tốt đẹp cúng dâng này,
    Ðể tôi có thể đầy an lạc,
    Vì mục đích này tôi đến đây.

Ẩn sĩ:

  1. Sa-môn ẩn sĩ, dẫu từ xa,
    Ðều phải tránh cung điện của vua,
    Nơi đó, bao nhiêu bình bát vỡ,
    Thầy tu bị xé áo cà-sa!
  2. Nhiều người khác đấm đá kinh sao,
    Như búa, Tỷ-kheo phải ngã nhào,
    Ẩn sĩ xuất gia mang tổn hại,
    Chính tay ngài đã biết là bao!

48-49. Dầu mè, đệm cỏ chẳng hề ban,
Chẳng chỉ dùm ai lạc bước đàng,
Từ một người mù, ngài lấy gậy
Ngài vừa phóng dật, lại xan tham;
Bây giờ vì lý do nào vậy,
Bằng cách nào ngài muốn phát ban?

Quân vương:

  1. Tôn giả, tôi công nhận thật ngôn,
    Tôi làm thương tổn các Sa-môn,
    Tôi mong đùa giỡn, không tà ý,
    Việc phạm lỗi xưa thật bạo tàn.
  2. Kẻ kia làm ác để bông lơn,
    Hạnh phúc nó không được vẹn toàn,
    Nó nhận khổ đau, dầu trẻ tuổi,
    Số phần nó phải chịu trần truồng,
    Còn gì khốn đốn hơn cho nó
    Chính việc này đây có phải không?
  3. Tôi thấy nó mang nặng lỗi lầm,
    Nên tôi dâng lễ vật, Tôn nhân,
    Xin ngài nhận tám y tôi cúng
    Hồi hướng về cho vị quỷ thần.

Ẩn sĩ:

  1. Bố thí, dĩ nhiên được nhận mà,
    Ước công vô lượng với nhà vua,
    Nay tôi nhận tám y ngài tặng,
    Mong lễ vật hồi hướng Dạ-xoa.
  2. Rồi vua nhấp nước tự bàn tay
    Ðể tẩy trần và dâng cúng ngay
    Tám bộ y lên ngài Trưởng lão:
    ‘Ước mong y được nhận như vầy!
    Và hãy nhìn xem thần đại lực
    Mặc nhiều quần áo thỏa lòng thay!
  3. Tức thì vua thấy chính thần nhân
    Tẩm ướt dầu tinh chất gỗ trầm,
    Hình dáng cao sang, dòng quý tộc,
    Cỡi trên lưng tuấn mã oai hùng,
    Ðiểm trang y phục huy hoàng quá,
    Ðược hộ tống và đạt lực thần.
  4. Với niềm vui sướng, dạ hân hoan,
    Khuôn mặt vui tươi, hạnh phúc tràn,
    Vì thấy nghiệp mình đem quả lớn,
    Vua vừa nhìn tận mắt hoàn toàn.
  5. Vua bước lên và nói với thần:
    ‘Từ nay ta cúng các Sa-môn,
    Ta không có vật gì không cúng,
    Ðại quỷ, ngài là bậc cứu nhân’.

Quỷ thần:

  1. Chúa thượng cho tôi hưởng phước ân
    Cúng dường đâu có phải hoài công,
    Phần tôi sẽ tạo tình bằng hữu
    Giữa một phi nhân với thế nhân.

Quân vương:

  1. Ngài là quyến thuộc lẫn thân bằng,
    Chánh đạo, nơi nương tựa, hộ thần!
    Ta khẩn cầu ngài và đảnh lễ,
    Ta mong được tái ngộ thần nhân.

Quỷ thần:

  1. Ví thử ngài làm mất tín tâm,
    Thích nhiều tà kiến, hóa xan tham,
    Và trong trạng thái tà tâm ấy
    Ngài được gặp tôi để vấn an,
    Tôi sẽ chẳng cùng ngài nói chuyện,
    Dẫu tôi thấy mặt, hỡi quân vương!
  2. Còn nếu ngài tôn trọng Pháp chân,
    Hân hoan bố thí, tự điều thân,
    Là nguồn cung cấp cho tu sĩ,
    Nếu có duyên may gặp quỷ nhân,
    Và nếu tôi đây nhìn thấy mặt,
    Thì tôi sẽ đáp lễ ân cần.
  3. Mau thả người ra khỏi cọc này,
    Vì ta thân thiết chính nhờ đây,
    Tôi đang nghĩ đến người đau khổ,
    Nay đã kết giao tại chốn này.
  4. Và nếu người này được thoát thân,
    Sẽ làm thiện nghiệp rất tinh cần,
    Ngày sau thoát ngục sâu tăm tối,
    Thiện nghiệp đều mang lại phước phần.
  5. Chúa công tham kiến Kap-pi-ta,
    Ðúng lúc cúng dường bậc xuất gia,
    Ðến trước mặt ngài, ngồi thỉnh ý,
    Và ngài sẽ nói vấn đề ra.
  6. Gặp Tỷ-kheo kia, thỉnh ý ngài,
    Tạo nhiều công đức, trí cao vời,
    Tùy theo tri kiến, ngài phân giải
    Các pháp chưa nghe giữa mọi người,
    Ngài sẽ thuyết về tất cả pháp
    Ðưa đường đến cảnh giới vui tươi.
  7. Khi vua đã nói chuyện tư riêng
    Cùng vị phi nhân, kết bạn hiền,
    Vua đến Lic-cha-vi bộ tộc,
    Nói cùng đại hội họp theo phiên:
  8. ‘Các người xin hãy lắng nghe lời,
    Ta sẽ tìm đường lối tốt thôi.
    Kẻ ác bị treo vào cọc ấy
    Bị trừng phạt nặng, khổ tơi bời.
  9. Hai mươi đêm ấy khoảng thời gian
    Nó đã bị ràng buộc tấm thân,
    Nó chẳng biết đâu là sống chết,
    Ta xin đại hội thả tù nhân!’.

Ðại hội:

  1. ‘Mau thả luôn hai kẻ ấy ngay,
    Nào ai từ chối việc như vầy?
    Xin làm những việc ngài thông hiểu,
    Ðại hội tuân theo ý chỉ này’.
  2. Nơi kia, vua vội vã ra đi,
    Phóng thích người trên cọc tức thì,
    Rồi bảo: ‘Bạn này, đừng sợ hãi’,
    Và giao cho các vị lương y.
  3. Rồi vua yết kiến Kap-pi-ta,
    Ðúng lúc cúng dường bậc xuất gia,
    Ðến trước mặt ngài, ngồi thỉnh ý
    Và tìm các lý lẽ nêu ra.

Quân vương:

  1. Kẻ ác bị treo ở cọc kia
    Chịu nhiều trừng phạt, khổ ê chề,
    Hai mươi đêm tấm thân ràng buộc,
    Nó chẳng sống còn hoặc chết đi.
  2. Bây giờ tôi đã đến buông tha
    Cứu nó theo lời quỷ Dạ-xoa,
    Xin hỏi, phải chăng còn có cách,
    Làm cho nó thoát ngục Diêm-la?
  3. Tôn giả, bảo tôi biết cách gì,
    Chúng tôi tin tưởng lắng tai nghe,
    Phải chăng không thể tiêu trừ nghiệp,
    Cho dẫu ta không hiểu chuyện kia?

Ẩn sĩ:

  1. Nếu ngày đêm nỗ lực tinh cần
    Nó thực hiện nhiều thiện nghiệp nhân,
    Nó sẽ thoát ra từ ngục tối,
    Thiện nghiệp phải đem lại phước phần.

Quân vương:

  1. Nay tôi hiểu rõ chuyện này rồi,
    Tôn giả, giờ đây thương xót tôi,
    Bậc trí dạy cho tôi Giáo pháp
    Ðể tôi khỏi đọa ngục Diêm đài.

Ẩn sĩ:

  1. Ngay tự hôm nay với tín tâm
    Ngài qui y Phật, Pháp,Tăng nhân;
    Ðồng thời, thân thực hành năm giới
    Trọn vẹn và không có lỗi lầm.

78-79. Từ nay ngài bỏ giết muôn loài,
Không lấy vật chi chẳng tặng ngài,
Không uống rượu nồng, không nói dối,
Hãy bằng lòng với vợ ngài thôi.
Trang nghiêm lãnh tám công thù thắng
Ðưa đến nhiều thành quả đẹp tươi.

  1. Với tâm thanh thản, hãy đem dâng
    Các bậc chánh chân những vật cần,
    Y phục, đồ ăn bình khất thực,
    Nơi an trú với chỗ ngồi nằm,
    Thức ăn đủ loại mềm và cứng,
    Thức uống và nơi chốn nghỉ chân.
  2. Thiết đãi Tỷ-kheo thức uống ăn,
    Những người có giới hạnh siêu quần,
    Ða văn và thoát ly tham dục,
    Công đức vẫn luôn phát triển dần.
  3. Thực hành Chánh pháp thật tinh chuyên
    Với nhiệt tình luôn ngày lẫn đêm,
    Ngài tự cứu mình từ địa ngục,
    Thiện hành mang phước báo nhân thiên.

Quân vương:

  1. Ngay tự hôm nay với tín tâm
    Tôi quy y Phật, Pháp, Tăng nhân;
    Ðồng thời, thân thực hành năm giới
    Trọn vẹn và không có lỗi lầm.

84-85. Từ nay tôi bỏ giết muôn loài,
Không lấy vật gì chẳng tặng tôi,
Không uống rượu nồng, không nói dối,
Biết bằng lòng với vợ mình thôi.
Trang nghiêm lãnh tám công thù thắng
Ðưa đến nhiều thành quả đẹp tươi.

  1. Với các vị cao đạo, Thánh Tăng,
    Thoát ly tham dục, lại đa văn,
    Dâng y, thực phẩm trong bình bát,
    Sàng tọa và nơi chốn nghỉ chân,
    Ðủ loại thức ăn mềm hoặc cứng,
    Cùng nhiều thức uống, chỗ ngồi nằm.
    Tìm trong Phật pháp niềm an lạc,
    Tôi quyết không dao động bản thân.
  2. Am-ba-sa, vị Líc-cha-vi,
    Kẻ tại gia thành Tỳ-xá-ly,
    Ðã trở nên người như vậy đó,
    Ðầy tâm thành tín, tính nhu mì,
    Nhiệt tình thực hiện nhiều công hạnh,
    Với chúng Tỷ-kheo, quyết hộ trì.
  3. Khi người trên cọc đã bình an,
    Tự nguyện, người từ giã thế gian,
    Ðến với Kap-pi-ta ẩn sĩ,
    Rồi hai người đắc quả Sa-môn.
  4. Ðây chính cách hầu cận Thánh Tăng,
    Quả nhiều cho các thiện hiền nhân,
    Người trên cọc đạt phần ưu thắng,
    Trong lúc Am-ba quả nhỏ hơn.

Sau đó Tôn giả Mahàkappitaka đi đến Sàvatthi đảnh lễ bậc Ðạo Sư và trình lên Ngài vấn đề đã được vị quỷ thần kể cho nhà vua nghe. Bậc Ðạo Sư lấy đó làm đề tài thuyết pháp cho hội chúng đang hiện diện.

  1. (37) Chuyện Serìssaka

(Chuyện này giống như Chuyện 10, Phẩm VII ở tập Chuyện Thiên Cung).

  1. (38) Chuyện Quỷ Thần Nandaka (Nandakapeta)

Khoảng hai trăm năm sau khi bậc Ðạo Sư diệt độ, có vua Pingala ngự trị Surattha (Vương quốc an lạc). Vị tướng cầm đầu quân đội nhà vua là Nandaka đầy tà kiến.

Chư vị kết tập Kinh điển kể lại chuyện những người này:

  1. Tương truyền lãnh chúa Pin-ga-la
    Ngự trị thần dân Su-rat-tha,
    Khi đã đi chầu triều Khổng tước,
    Trên đường vua trở lại quê nhà.
  2. Trong cơn nóng bức giữa ban ngày,
    Vua đến một nơi có vũng lầy,
    Nhìn thấy một con đường khả ái,
    Là nơi trú ngụ quỷ ma đầy.
  3. Vua ấy bảo ngay vị quản xa:
    ‘Con đường này khả ái cho ta,
    An toàn, yên tĩnh, đầy may mắn,
    Theo lối này đi, hỡi quản xa’.
  4. Vua xứ Su-ra tự chốn đây
    Tiến lên cùng với đội quân ngài,
    Bốn đoàn hộ tống đều đi trước,
    Hướng dẫn thần dân xứ sở này.
  5. Với dáng lo âu, một lão gia
    Nói như vầy với chúa Su-ra:
    ‘Chúng ta đi lạc đường rồi đó,
    Thật đáng hãi kinh, rợn tóc da.
  6. Mặt tiền ta thấy một con đường,
    Song phía sau không thấy hướng phương,
    Tất cả chúng ta đang lạc bước
    Ðến gần quân của Diệm-ma vương.
  7. Có một mùi ma quỷ bốc ra,
    Tiếng ồn khủng khiếp được nghe qua’.
    Su-ra lãnh chúa liền kinh hoảng
    Vội nói như vầy với quản xa:
  8. ‘Nay chúng ta đang lạc bước đường,
    Thật là lạnh gáy, đáng kinh hoàng,
    Mặt tiền thấy một con đường nọ,
    Song phía sau không thấy có hướng phương.
  9. Nay chúng ta đang lạc bước đường
    Ðến gần quân của Diệm-ma vương,
    Một mùi ma quỷ đang xông khắp,
    Khủng khiếp tai nghe một tiếng ồn!’
  10. Nhà vua đang ngự ở lưng voi
    Ngơ ngác nhìn quanh bốn hướng trời,
    Chợt thấy một cây đa rợp bóng,
    Sum suê cành lá thật xanh tươi.
  11. Cây có màu xanh xám tựa mây,
    Ðỉnh cây có sắc của sương dày,
    Nhà vua hỏi vị quan điều ngự:
    ‘Ta thấy vật chi lớn thế này,
    Như đám mây xanh màu xám ngắt,
    Ðỉnh cây có sắc tựa sương bay?’.

Quan điều ngự:

  1. Chúa công, đó chính một cây đa,
    Cành lá sum suê tỏa bóng ra,
    Cây có màu mây xanh xám ngắt,
    Ðỉnh cây có sắc tựa sương sa.
  2. Su-ra chúa tể lại lên đường,
    Về hướng cây cao lớn dị thường,
    Sắc tựa đám mây xanh xám ngắt,
    Ðỉnh cây lại có một màu sương.
  3. Nhà vua bước xuống tự lưng voi,
    Ði đến gần cây nọ một hồi,
    Cùng với quần thần và cận vệ,
    Ở ngay gốc rễ, chúa công ngồi.
  4. Vua thấy bánh và hủ nước trong,
    Một ngươi có dáng điệu Thiên thần,
    Ðiểm tô đủ loại đồ trang sức,
    Ði đến ngỏ lời với chúa công:
  5. ‘Chúa công! Hân hạnh được chào mừng,
    Chư vị đến đây thế cũng gần,
    Chúa thượng, xin mời ngài uống nước
    Và dùng bánh, hỡi vị anh hùng!’

17-18. Nhà vua cùng với đám quần thần,
Cận vệ bên mình uống nước trong,
Ăn bánh rồi vua cất tiếng hỏi:
‘Xin cho biết, có phải Thiên nhân,
Thác-bà, hạy chính là Thiên chủ
Pu-rín-dà-da ấy phải chăng?
Không biết ngài nên ta muốn hỏi,
Làm sao ta biết được tôn ông?

Quỷ thần:

  1. Tôi đây không phải một Thiên nhân,
    Chẳng phải Sak-ka, chẳng Nhạc thần,
    Tôi chính quỷ nhân, tâu chúa thượng,
    Từ Su-ra đến ở ma cung.

Quân vương:

  1. Ngày trước ngài công đức thế nào,
    Ở Su-ra xử thế ra sao,
    Ngài theo Phạm hạnh nào từ trước,
    Nay hưởng cảnh vinh hiển biết bao?

Quỷ thần:

  1. Xin hãy lắng nghe, hỡi chúa công,
    Là người khai quốc, vị anh hùng,
    Quốc sư tế lễ nghe tôi nói,
    Cùng các quân nhân, các đại thần.
  2. Chúa công, tôi đến tự Su-ra,
    Thuở trước tính tình thật xấu xa,
    Tà kiến mang đầy cùng ác ý,
    Xan tham, hay mạ ly người ta.
  3. Tôi ngăn lắm kẻ thật nhân từ
    Hành thiện sự nhiều để lợi tha,
    Tôi cản bước chân bao kẻ khác
    Sẵn lòng lấy của cải đem cho.
  4. Bảo: ‘Bố thí không tạo phước phần
    Ðâu là kết quả tự điều thân?
    Không hề có đạo sư nào cả,
    Ai sẽ phạt người không hiến dâng?
  5. Giữa các hữu tình đồng đẳng nhau,
    Tại sao kính trọng vị niên cao,
    Có đâu nỗ lực và tinh tấn,
    Nói đến tinh cần bởi cớ sao?
  6. Bố thí không mang quả phước phần,
    Cũng không trừ diệt một cừu nhân;
    Mỗi người được những gì cần có,
    Và nhận những gì phải đến thân.
  7. Chẳng có mẹ cha, huynh đệ đâu,
    Không đời này cũng chẳng đời sau,
    Cũng không bố thí, không dâng cúng,
    Không có gì bền vững được lâu.
  8. Hễ ai đánh đập một người nào,
    Hoặc có đem người khác chặt đầu,
    Cũng chẳng làm gì gây tổn hại
    Giữa muôn loài vật sống bên nhau.
  9. Mỗi mạng sống đều bất khả phân,
    Dầu hình bát giác hoặc cầu lăn,
    Nó cao đến cả năm trăm dặm,
    Ai có thể tiêu diệt nó chăng?
  10. Cũng giống cuộn dây được ném ra
    Từ người thả nó, chạy lăn xa,
    Như vầy là mạng người đang sống
    Thoát được những ai thả nó mà.
  11. Như người từ giã một ngôi làng
    Vào một làng kia, phải thấy đường,
    Cũng vậy, một con người tận số
    Bước vào thân xác mới tha phương.
  12. Như người từ giã một ngôi nhà,
    Và bước vào nơi trú ngụ kia,
    Cũng vậy, là con người tận số
    Ði vào một cảnh giới phương xa.
  13. Sau khi qua hết nẻo luân hồi
    Tám triệu bốn trăm ngàn kiếp trôi,
    Tất cả kẻ ngu cùng bậc trí
    Thảy đều chấm dứt khổ đau rồi.
    Lạc, ưu đo được bằng thùng, giỏ
    Người chiến thắng thông hiểu sự đời,
    Kẻ khác đều là phường xuẩn ngốc’,
    Tôi mang tà kiến cả đời tôi.
  14. Xưa kia tôi lầm lạc, lắm mê si,
    Tà kiến, tôi không đạo hạnh gì,
    Tôi lại xan tham, hay phỉ báng,
    Không đầy sáu tháng, sẽ ra đi.

35-36. Ðọa vào ngục hãi kinh sao,
Có bốn góc, và bốn cửa vào,
Ngục được chia phần theo kích thước,
Xung quanh bao bọc với tường rào,
Làm bằng sắt nóng và trên mái
Cũng có sắt che tận đỉnh cao.

  1. Nền sắt ánh lên lửa nóng bừng,
    Sáng ngời mọi phía trăm do-tuần,
    Trăm ngàn năm đã trôi qua mất,
    Lập tức một âm thanh chuyển rung.
    Những kẻ tà tâm và ác tính
    Ðã từng phỉ báng các chân nhân
    Bị hành địa ngục vô lượng kiếp,
    Chốn ấy sẽ đau khổ chẳng ngừng.
  2. Cho nên tôi thống thiết than van
    Kết quả ác hành kia phải mang,
    Xin lắng nghe tôi, tâu chúa thượng,
    Anh hùng khai quốc, chúc an khang!
    Nguyên tôi có một cô con gái,
    Tên gọi Ut-ta-ra thật ngoan.
  3. Nàng hành thiện sự thấy an vui
    Giữ Bát quan trai giới đúng thời,
    Nàng sống điều thân, ham bố thí,
    Nhân từ, khôn khéo lúc trao lời.
  4. Nhất mực tuân theo giáo pháp nhà,
    Nàng làm dâu quý tộc danh gia,
    Nàng là đệ tử Ngài Viên Giác,
    Bậc trí vinh quang, tộc Thích-ca.
  5. Một Tỷ-kheo cao đạo khác thường,
    Ra đi khất thực, bước vào làng,
    Mắt người cúi xuống, thân điều phục,
    Chánh niệm và phòng hộ các căn
    Trong lúc đi từng nhà khất thực,
    Dần dần người đến tận nhà nàng.
  6. Ut-ta-ra lúc ấy nhìn người,
    Chúc chúa công luôn hưởng phước trời!
    Nàng đã dâng người bình nước uống
    Cùng nhiều bánh bột, lại thưa lời:
  7. ‘Tôn giả, cha con đã mất rồi,
    Mong sao lễ mọn giúp cho người’.
    Không lâu sự việc nàng vừa thấy,
    Kết quả tức thì đến với tôi.
  8. Tôi hưởng thức ăn, lạc thú tràn,
    Khác nào Thiên đế Tỳ-sa-môn,
    Hỡi anh hùng mở mang bờ cõi,
    Xin lắng nghe đây, tấu chúa công.
  9. Phật-đà được gọi đấng siêu nhân
    Giữa các Thiên, nhân ở cõi trần,
    Hãy đến quy y vào đức Phật,
    Cùng đàn thê tử, hỡi anh hùng.
  10. Nhiều người đạt bất tử, vô sanh,
    Do chính Ðạo kia có tám ngành,
    Cùng vợ con đi tìm Giáo pháp
    Ðể quy y, hỡi bậc hùng anh!
  11. Cùng bước đi trên bốn Ðạo này,
    Trú trong bốn Quả quý cao thay,
    Chư Tăng trực hạnh và tu luyện
    Giới đức trang nghiêm, trí tuệ đầy.
  12. Hỡi bậc anh hùng, xin hãy đi
    Cùng đàn thê tử thọ Tam quy,
    Mau mau bỏ giết loài sanh vật,
    Không lấy trộm cho dẫu vật gì,
    Không uống rượu nồng, không nói dối,
    Hãy bằng lòng với vị vương phi.

Quân vương:

  1. Ngài muốn ta an lạc, Dạ-xoa,
    Ngài mong lợi ích với hoàng gia,
    Phần ta thực hiện lời ngài dạy,
    Ngài chính là sư phụ của ta.

50-51. Ta đến quy y đấng Phật-đà,
Tối cao Giáo pháp, với Tăng-già,
Ta mau bỏ hết điều sanh sát,
Không lấy vật gì chẳng tặng ta,
Không uống rượu nồng, không nói dối,
Biết bằng lòng với vợ trong nhà.

  1. Ta bỏ khoe khoang với xảo ngôn,
    Nhanh như thể đổ xuống dòng sông,
    Ta nôn ra hết bao tà kiến,
    Thích thú tuân lời dạy Thế Tôn.
  2. Nói vầy xong, chúa tể Su-ra
    Từ bỏ ngay quan điểm ác tà,
    Ðảnh lễ Thế Tôn, rồi chúa thượng
    Hướng về đông ngự giá vương xa.

Nhờ thần lực của vị quỷ nhân, nhà vua về kinh thành kịp ngày hôm ấy. Về sau, đúng thời, vua tường thuật chuyện ấy với chư Tỷ-kheo và chư vị này lại trình vấn đề với chư Trưởng lão biên soạn Giáo pháp để đưa câu chuyện vào Hội đồng kết tập Kinh tạng thứ ba. (Bổ sung từ Tập Sớ).

  1. (39) Chuyện Ngạ Quỷ Revatì

(Chuyện này giống chuyện số 2 Phẩm V của Chuyện Thiên Cung).

  1. (40) Chuyện Cây Mía (Ucchu)

Trong khi đức Thế Tôn đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm), một người đang chở mía, cầm một khúc mía, vừa đi vừa ăn. Các vần kệ này kể lại câu chuyện trên.

Một hôm, Tôn giả Mahà-Moggallàna (Ðại Mục-kiền-liên) đang đi khất thực vào Vương Xá, gặp một ngạ quỷ thưa trình như sau:

  1. Một rừng mía lớn hiện bên mình,
    Bát ngát, mùa phong phú tốt lành,
    Song nó không cho tôi chút ít,
    Kính thưa Tôn giả đại uy danh,
    Nghiệp gì gây quả này như vậy,
    Tôn giả cho tôi biết sự tình?
  2. Tôi đang thống khổ, bị hành thân,
    Tôi cố gắng tìm chút để ăn,
    Tôi phấn đấu hoài bên khóm mía,
    Sắp tàn hơi thở, chết kề gần,
    Tôi than khóc tấm thân đày đọa,
    Do nghiệp gì đem quả ấy chăng?
  3. Thất bại, tôi nhào xuống đất ngay,
    Lăn tròn trong lửa đốt thiêu này
    Như con cá nọ, tôi than khóc,
    Nước mắt nhỏ ra cả mặt mày,
    Tôn giả, xin ngài cho biết rõ,
    Nghiệp gì đem kết quả như vầy?
  4. Tôi đói khát và kiệt sức tàn,
    Kinh hoàng, tôi chẳng biết bi hoan,
    Chúc ngài hưởng phước, tôi xin hỏi,
    Làm thế nào tôi được mía ăn?

Tôn giả Moggallàna:

  1. Khi làm người ở một thời xưa,
    Ngươi đã tạo nên một nghiệp tà,
    Ta nói cho ngươi nghe việc ấy,
    Khi nghe, ngươi biết chuyện vừa qua.
  2. Ngươi bước trên đường, lấy mía ăn,
    Một Tỳ-kheo đến tự sau lưng,
    Bảo ngươi rằng muốn xin đôi chút,
    Ngươi chẳng đáp lời, chẳng hé răng.
  3. Cho dẫu ngươi không muốn nói năng,
    Người kia vẫn nói, giọng xin van:
    ‘Cho tôi khúc mía, thưa ông chủ’,
    Sau đó ngươi cho một ít phần
    Từ phía sau lưng và kết quả
    Nghiệp kia ngươi đã lãnh vào thân.
  4. Nhìn đây! Cầm mía ở sau mình,
    Hãy lấy mía ăn thật thỏa tình,
    Do chính việc này, ngươi sẽ được
    Hân hoan, thích thú, hưởng ân lành!
  5. Nó đi cầm mía tự sau mình,
    Khi đã cầm, ăn thật thỏa tình,
    Do chính cách này, nên nó được
    Hân hoan, thích thú, hưởng ân lành.

Ngạ quỷ ấy bèn cầm một bó mía cúng dường vị Trưởng lão và vị này đem dâng đức Phật ở Trúc Lâm. Ðức Thế Tôn cùng hội chúng Tỷ-kheo dùng mía ấy rồi nói lời tùy hỷ công đức.

Từ đó về sau ngạ quỷ ấy có thể ăn mía thỏa thích.

Theo thời gian, ngạ quỷ được tái sanh giữa hội chúng cõi trời Ba mươi ba.

  1. (41) Chuyện Các Vương Tử (Kumara)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Jevatana (Kỳ Viên)

Tương truyền Ðại Vương nước Kosala (Kiều-tát-la) trị vì tại Sàvatthi (Xá-vệ) có hai vương tử khả ái đang độ hoa niên. Trong nỗi đam mê dục vọng của tuổi trẻ không được kềm chế, hai vị đã phạm tội tà dâm nên sau khi từ trần hai vị tái sanh làm ngạ quỷ bị đè bẹp trong một ống cống.

Suốt đêm, ngạ quỷ thường than khóc với những tiếng kêu la khủng khiếp. Dân chúng nghe vậy rất kinh hãi.

Do sự việc này, dân chúng cúng dường đại lễ lên Giáo hội do đức Phật cầm đầu và bảo nhau:

– Ðiềm xấu này phải chấm dứt.

Sau đó họ trình lên đức Thế Tôn những việc đang xảy ra. Ngài bảo:

– Này chư đệ tử, chư vị không thể chấm dứt tiếng kêu la này được đâu.

Rồi Ngài nói rõ nguyên nhân sự việc này cho hội chúng qua các vần kệ sau:

  1. Có một kinh thành tên Xá-vệ,
    Ở trên sườn núi Tuyết, cao sơn,
    Tôi nghe vầy: Có đôi vương tử
    Là các con trai bậc đế vương.
  2. Phóng dật buông lung các dục tham,
    Tìm nguồn lạc thú ở trần gian,
    Chúng không suy xét tương lai chúng,
    Tận hưởng thú vui hiện tại tràn.
  3. Khi chúng bỏ thân xác thế nhân
    Ði sang thế giới khác người trần,
    Dù không ai thấy, thường kêu khóc
    Về ác nghiệp xưa chúng đã làm
  4. ‘Quả thật nhiều người đáng cúng dâng
    Với nhiều lễ vật’, chúng than van,
    ‘Xưa ta chẳng tạo nên công đức
    Ðem đến cho mình chỗ trú an’.
  5. ‘Ác nghiệp nào đời trước tạo ra,
    Do vầy từ giã chốn hoàng gia,
    Tái sanh vào cõi loài ma đói,
    Chịu đói khát giày xéo chúng ta?
  6. Những kẻ làm vua cõi thế nhân
    Sẽ không làm chúa tể âm cung,
    Sang, hèn, hai loại đều quanh quẩn
    Bị đói khát hành hạ khổ thân.
  7. Biết rằng đau khổ có nguồn căn
    Vua chúa buông lung phóng dật tâm,
    Nam tử bỏ vương quyền ngã mạn,
    Do vầy, thành một vị Thiên nhân,
    Sau khi xả báo thân phàm tục,
    Bậc trí tái sanh cõi sáng bừng’.

Như vậy, bậc Ðạo Sư kể lại số phận của các ngạ quỷ xong, liền hồi hướng về chúng công đức do đám người này cúng dường lễ vật và thuyết pháp theo ý Ngài.

  1. (42) Chuyện Vợ Vương Tử (Ràjaputta)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Jevatana (Kỳ Viên).

Thuở xưa có một nam tử của vua mệnh danh là Kitava làm tổn thương một vị Ðộc Giác Phật. Chàng phải đọa vào địa ngục nhiều ngàn năm, và chính vì lỗi lầm kia, chàng bị tái sanh vào loài ngạ quỷ. Chuyện của chàng đã được kể đầy đủ chi tiết trong sự tích các ngạ quỷ ở Sànuvàsi (Số 27, phẩm III)

Bấy giờ trong khi kể cho một vị Trưởng lão nghe số phận đám quyến thuộc quá vãng của ngạ quỷ kia, bậc Ðạo Sư bảo:

– Quả thật không phải chỉ quyến thuộc của ông, mà cả ông nữa, lúc trở thành ngạ quỷ trong đời trước, sau khi từ giã thế giới này, cũng đã chịu nỗi thống khổ khốc liệt.

Rồi do lời thỉnh cầu của vị Trưởng lão, Ngài kể chuyện này:

  1. Quả do các nghiệp tạo ngày xưa
    Có thể làm dao động trí ta
    Liên hệ sắc, thanh, hương, vị, xúc,
    Những gì đem lạc thú say sưa.
  2. Ông hoàng đã hưởng thú cao sang,
    Ðàn địch, ái ân thật ngập tràn,
    Sau lúc nhàn du quanh thượng uyển,
    Chàng đi vào cổ lũy Ða Sơn.
  3. Chốn kia chàng thấy Su-net-ta,
    Thanh tịnh, điều thân, một Phật gia,
    Thiểu dục, khiêm cung và biết đủ
    Với bình khất thực kiếm từng nhà.
  4. Hoàng nam bước xuống tự lưng voi,
    Và đến Hiền nhân ấy, thốt lời:
    ‘Tôn giả, xin chào!’ rồi lập tức
    Chàng cầm bình bát ném lên trời.
  5. Ném vỡ chiếc bình xuống đất kia,
    Vừa cười vừa nói lúc đi xa:
    ‘Ta là vương tử Ki-ta chúa,
    Ðạo sĩ có làm ích lợi ta?’
  6. Quả báo cho hành động bất nhân
    Thật là khắc nghiệt, khổ muôn phần,
    Tương truyền vương tử về sau đó
    Phải đọa vào trong ngục tối tăm.
  7. Hơn năm mươi vạn năm đày thân
    Trong ngục tối đau khổ tận cùng
    Vì tội lỗi mà chàng đã tạo,
    Bị nhiều hình phạt đến xoay vần.
  8. Chàng cứ nằm, đưa mặt xuống sàn
    Xoay quanh phải, trái, biết bao lần,
    Ðôi chân chổng ngược lên cao mãi;
    Rồi đứng thẳng, người ngốc khổ thân.

9-10. Qua mấy ngàn năm, mấy vạn năm,
Bị hành địa ngục khổ vô ngần,
Chính vì tội lỗi chàng gây tạo,
Quả khắc nghiệt kia phải lãnh phần
Bởi những người đưa tay phá hại
Bậc Hiến trí giải thoát mê lầm.

  1. Sau khi đã trải biết bao năm
    Trong ngục khổ đau thật hãi hùng,
    Chàng phải mạng chung vì đói khát,
    Trở thành một ngạ quỷ mình trần.
  2. Như vầy, khi thấy cảnh đau thương
    Do vị vua buông thả kỷ cương,
    Ta chẳng làm vua buông thả nữa,
    Mà nên hướng đến tính khiêm nhường.
  3. Ngay cả trong đời sống hiện thời,
    Người tôn trọng Phật đáng khen hoài,
    Có đầy trí tuệ, khi thân hoại,
    Ðược tái sanh vào cõi sáng tươi. 

8. (43) Chuyện Những Ngạ Quỷ Ăn Phân (Gùthakhàdaka)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên).

Tương truyền trong một thị trấn nọ không xa Sàvatthi, có một gia chủ ra lệnh xây một tinh xá cúng dường vị Tỷ-kheo vốn là bạn thân của mình. Về sau nhiều Tỷ-kheo từ khắp nơi đến cư trú tại đó.

Khi thấy chư Tăng, dân chúng liền cung cấp đủ mọi thứ cần dùng. Bấy giờ vị Tỷ-kheo thân tín của chủ nhà không chịu được cảnh này và lòng đầy ganh tỵ (như các vần kệ kể lại).

Về sau Tôn giả Mahà-Moggallàna thấy vị ấy và hỏi:

  1. Ngươi chính là ai, khốn khổ thân,
    Ðứng kia, vừa đến tự hầm phân,
    Nói cho ta biết hành vi ác
    Ngươi đã làm trong quá khứ chăng?

Ngạ quỷ:

  1. Tôn giả, tôi là ngạ quỷ nhân,
    Thần dân khốn khổ Dạ-ma quân,
    Vì tôi đã phạm hành vi ác,
    Từ cõi đời, tôi đến cõi âm.

Trưởng lão:

  1. Thời xưa đã phạm ác hành gì
    Do khẩu, ý, thân đã thực thi?
    Vì nghiệp quả nào ngươi đã tạo
    Giờ ngươi phải chịu cảnh sầu bi?

Ngạ quỷ:

  1. Nhà tôi thường trú một Tỳ-kheo,
    Tật đố và ganh tỵ đủ điều,
    Ở tại nhà tôi, ham dục lạc,
    Vị này phỉ báng, xan tham nhiều.
  2. Tôi đã nghe lời của ác nhân,
    Và tôi khiển trách các Sa-môn;
    Bởi vì tôi phạm hành vi ấy,
    Từ cõi đời, tôi đến cõi âm.

Trưởng lão:

  1. Bạn thiết của ngươi chính kẻ thù
    Giả danh bạn đấy, hỡi người ngu,
    Ðến khi thân hoại, đi nơi khác,
    Số phận nào cho kẻ giả tu?

Ngạ quỷ:

  1. Nay tôi đang đứng ở trên đầu
    Của phạm nhân này tự bấy lâu,
    Nó đã đọa vào miền ngạ quỷ,
    Chỉ mình tôi, nó phải theo hầu
  2. Vật nào người khác trút cho vơi
    Liền trở thành đồ ăn của tôi,
    Và nó, đến phiên mình, kiếm sống
    Những gì tôi tống khứ ra ngoài!

Tôn giả Mahà-Moggallàna tường thuật sự việc này lên đức Thế Tôn, Ngài liền giải thích ý nghĩa của nó và nêu rõ mối nguy hiểm của sự chỉ trích người khác.

  1. (44) Chuyện Thứ Hai Về Các Ngạ Quỷ Ăn Phân (Gùthakhàdaka)

Trong lúc đang trú tại Jetavana, bậc Ðạo Sư kể chuyện này giống như chuyện trên. Ở đây, một nữ cư sĩ xây tinh xá và bị tái sanh làm nữ ngạ quỷ.

Các vần kệ đều giống nhau.

  1. (45) Chuyện Bầy Ngạ Quỷ (Ganapeta)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana.

Tương truyền tại Sàvatthi, có một đám người không mộ đạo, không có lòng tin và có tật xan tham, keo kiệt. Họ thường thờ ơ đối với những ý tưởng họ đã chấp nhận cùng nhiều vấn đề khác trong cuộc đời.

Sau khi đã sống một thời gian dài, họ từ trần và tái sanh làm ngạ quỷ gần kinh thành. Rồi một hôm, Tôn giả Mahà-Moggallàna đi đến Sàvatthi để khất thực, Tôn giả thấy bầy ngạ quỷ trên đường, bèn hỏi chúng:

  1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
    Hốc hác, khắp thân thể nổi gân,
    Gầy guộc, các xương sườn lộ rõ,
    Vậy là ai đó, các tôn ông?

Bầy ngạ quỷ:

  1. Tôn giả, chúng con chính quỷ nhân,
    Thần dân khốn khổ Dạ-ma quân,
    Chúng con đã phạm hành vi ác,
    Từ cõi đời, đi đến cõi âm.

Trưởng lão:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hành gì
    Do khẩu, ý, thân đã thực thi?
    Vì nghiệp quả nào nên đã đọa
    Từ đây tới cảnh giới âm ty?

Bầy ngạ quỷ:

  1. Cả bọn đi quanh bến tắm công,
    Lang thang suốt cả nửa tuần trăng;
    Chúng con chẳng tạo nơi an trú
    Bằng cách đem tài vật cúng dâng.
  2. Chúng con kinh hãi đến dòng sông,
    Sông nước trở thành bãi trống không;
    Ngày nắng chúng con vào bóng mát,
    Tàn cây lại hóa nóng bừng bừng.
  3. Cơn gió như thiêu đốt, lửa hồng
    Thổi ào lên khắp cả toàn thân,
    Chúng con xứng đáng nhiều đau khổ
    Hơn thế này, Tôn giả biết chăng?
  4. Ðói khát mong cầu thức uống ăn,
    Chúng con đi cả mấy do-tuần,
    Trở về không được gì đâu cả,
    Cơ khổ! Chúng con ít phước phần.
  5. Ðói lả và bất tỉnh ngã lăn
    Chúng con gục xuống đất khô cằn,
    Tấm thân sóng sượt nằm co quắp,
    Ðầu ngã lộn nhào xuống dưới chân.
  6. Do vậy chúng con phải ngã liền
    Xuống nền đất lạnh khổ triền miên;
    Chúng con đấm ngực và đầu tóc,
    Cơ khổ! Chúng con ít phước duyên.
  7. Tôn giả, chúng con xứng lãnh phần
    Khổ đau này nữa thật nhiều lần.
    Chúng con chẳng tạo nơi an trú
    Cho chính mình bằng cách cúng dâng.
  8. Quả thật, khi từ biệt cõi này,
    Tái sanh nhân thế kiếp sau đây,
    Chúng con nguyện hết lòng hào phóng,
    Tu tập giới, hành thiện sự ngay.

Vị Trưởng lão trình đức Thế Tôn toàn thể sự việc này.

  1. (46) Chuyện Ngạ Quỷ Thành Pàtaliputta (Pàtaliputtapeta)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Jetavana.

Tương truyền một số đông thương nhân từ Sàvatthi và Pàtaliputta đi thuyền đến Suvannabhumì (Xứ vàng). Ở đó có một người trong bọn họ là một đệ tử tại gia luyến ái một nữ nhân, mắc bệnh và từ trần.

Mặc dù vị ấy đã làm nhiều thiện sự, vị ấy vẫn không được sanh lên thiên giới; nhưng vì luyến ái người yêu, vị ấy tái sanh làm một quỷ thần trong lâu đài giữa đại dương. Ở đấy quỷ thần vẫn giữ tình yêu đối với nữ nhân kia.

Riêng phần nàng đã lên thuyền du hành đến Xứ vàng ấy. Bấy giờ vị quỷ thần muốn chiếm nàng, liền chận đường đi của chiếc thuyền. Lúc ấy các thương nhân suy nghĩ trong trí: ‘Này, thế nào đây? Thuyền không đi được nữa!’.

Vì thế họ rút thăm để quyết định số phận mỗi người. Do thần lực, chiếc thăm rớt xuống ba lần trên không ai khác hơn nữ nhân mà quỷ thần đang mong ước.

Chẳng bao lâu sau khi nàng bị thả xuống biển thì chiếc thuyền nhanh chóng tiến lên về hướng Xứ vàng kia. Thế rồi vị phi nhân đem nàng vào lâu đài của mình và hưởng hạnh phúc bên nàng.

Một năm sau, nàng sinh ra bất mãn và cầu xin vị quỷ thần:

– Bao lâu em còn sống ở đây, em sẽ không thể tìm được các cảnh giới khác. Xin tôn ông đưa em về thành Pàtaliputta.

Ðáp lời khẩn cầu này, quỷ thần bảo:

  1. Nàng đã thấy bao địa ngục rồi,
    Các miền súc vật, quỷ và người,
    A-tu-la với Thiên thần nữa,
    Nàng đã nhận ra nghiệp chín muồi,
    Ta sẽ đưa nàng về phố cũ
    Bình an, hành thiện sự trên đời.

Nàng hoan hỷ đáp lại:

  1. Chàng muốn em an lạc, Dạ-xoa,
    Chàng mong em lợi ích sâu xa,
    Em xin thực hiện lời chàng dạy,
    Chàng đối với em chính đạo sư,
    Em đã thấy bao miền địa ngục,
    Các miền súc vật, quỷ, người ta,
    A-tu-la với Thiên thần nữa,
    Em đã nhìn xem nghiệp báo mà.
    Em nguyện thi hành nhiều thiện sự
    Ngay khi vừa đến chốn quê nhà.

Sau đó vị quỷ thần đem nàng ấy cùng du hành qua không gian; rồi đặt nàng xuống ngay giữa thành Pàtaliputta, và đi về đường cũ. Lập tức thân bằng quyến thuộc của nàng cùng nhiều người khác trông thấy nàng, họ vô cùng hân hoan và nhận xét:

– Chúng ta nghe trước kia nàng đã bị thả xuống biển cả và chết rồi. Thật phước đức quá! Không ngờ nàng được trở về bình an!

Vì thế họ hỏi nàng về mọi chuyện phiêu lưu mạo hiểm kia. Nàng liền kể cho họ nghe tất cả.

Khi trở về, các thương nhân ấy đến Sàvatthi trình sự việc lên bậc Ðạo Sư.

  1. (47) Chuyện Các Trái Xoài (Amba)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Sàvatthi.

Ở Sàvatthi có một gia chủ đã khánh kiệt tài sản. Khi vợ từ trần, vị ấy để con gái duy nhất lại cho một người bạn, rồi vay một số tiền, mua hàng hóa lên đến một trăm đồng Kahàpana và đi buôn bán theo một đoàn lữ hành.

Chẳng bao lâu vị ấy trở lại kinh thành và kiếm thêm năm trăm đồng nữa. Sau đó vị ấy đi về nhà nhưng liền bị bọn cướp tấn công. Các thương nhân chạy trốn đây đó, còn gia chủ này ném các đồng tiền vào bụi cây rồi ẩn mình.

Tuy nhiên bọn đạo tặc kia tìm ra vị ấy và giết đi. Do lòng tham luyến của cải, vị ấy tái sanh làm một ngạ quỷ ngay tại chỗ kia.

Cô con gái nhớ đến người cha quá cố liền cúng cháo gạo trong một cái bình bằng đồng và một số trái xoài dâng đức Thế Tôn, thỉnh cầu Ngài nhận lễ vật như thể do cha nàng cúng vậy. Từ đó ngạ quỷ kia hưởng thọ một lâu đài mỹ lệ.

Về sau, đám thương nhân ấy lại du hành và dừng chân ban đêm ngay đúng chỗ kia, trông thấy vị quỷ thần liền hỏi:

  1. Hồ sen ngài có diệu kỳ thay,
    Bến nước làm ta phải đắm say
    Bờ thật phẳng lì, nhiều nước mát,
    Trang hoàng hoa đủ loại như vầy,
    Một bầy ong điểm tô đây đó,
    Sao ngài được cảnh mỹ hồ này?
  2. Ðây ngài lại có một vườn xoài
    Tuyệt mỹ và sinh quả mọi thời,
    Vườn được trang hoàng hoa nở rộ,
    Bầy ong điểm xuyết khắp nơi nơi,
    Làm sao ngài được lâu đài ấy
    Xin nói cho ta biết hỡi ngài?

Quỷ thần:

  1. Con gái ta làm lễ cúng dâng
    Cháo hoa, xoài chín, nước trong ngần,
    Chính vì việc ấy nên ta được
    Hưởng bóng cây êm mát tuyệt trần.

Sau đó vị quỷ thần đưa cho họ năm trăm đồng tiền Kahàpana ấy và bảo:

– Hãy lấy một nửa số tiền đây và sau khi giải thích phần tiền kiếm được này của tôi, hãy giao nó cho con gái tôi rồi dặn: ‘Hãy sống cho đầy đủ sung sướng’.

Ðúng thời, đám thương nhân trở lại Sàvatthi, kể chuyện này với cô gái ấy, rồi đặt vào tay nàng đầy đủ số tiền mà cha nàng đã cho nàng. Nàng bèn đưa số tiền ấy giao cha nuôi. Nhưng ông trả lại hết cho nàng và bảo:

– Số tiền này không thuộc về ai cả trừ con.

Rồi ông cưới nàng về làm vợ người con trai trưởng của ông. Theo thời gian, nàng sinh được một trai và nàng thường hát ru con với bài ca này:

  1. Nhìn phước báo ngay ở cõi trần
    Do dâng lễ vật, tự điều thân.
    Xưa ta tỳ nữ nhà danh giá,
    Nay được làm dâu, nữ chủ nhân.

Rồi một hôm, bậc Ðạo Sư nhận xét nàng đã thuần thục trong tri thức, liền phóng một hình ảnh đầy đủ hào quang ngay trước mặt nàng và xuất hiện toàn thân.

Vào dịp này, Ngài ngâm vần kệ:

  1. Các bậc chánh chân thường nhiếp phục
    Những điều bất lạc bằng hân hoan,
    Những điều thù oán bằng từ ái,
    Nhiếp phục khổ đau với lạc an. 

13. (48) Chuyện Trục Xe và Cây Gỗ (Akkharukkha)

Trong khi bậc Ðạo Sư đang trú tại Sàvatthi, một đệ tử tại gia chất đầy hàng hóa lên xe và đi Videha (Vi-đề-ha) để buôn bán.

Khi đã đặt hàng xuống đó, vị ấy chất đầy đoàn xe số hàng hóa mới đem về và lên đường trở lại Sàvatthi.

Trong khi đang đi giữa rừng, cái trục của một chiếc xe bị gãy. Bấy giờ có một người đang muốn tìm cây gỗ, liền đem rìu lớn, rìu nhỏ đi ra khỏi làng. Khi đang đi quanh trong rừng, kẻ ấy đến nơi kia và thấy vị đệ tử tại gia đang buồn khổ vì trục xe bị gãy. Y thấy thương xót người này, liền đi đẵn cây xuống, và sau khi làm xong một trục xe vững chắc, y ráp cái trục vào xe ấy mà không lấy từ kẻ kia tiền phí tổn gì cả.

Nhưng về sau, y từ trần và tái sanh ngay chỗ này trong khi rừng làm một địa thần.

Khi suy xét hạnh nghiệp của mình, vị địa thần đến nhà người đệ tử tại gia ấy vào ban đêm, đứng ngay cửa lớn và ngâm kệ này:

Vật gì mà kẻ ấy đem cho,
Không chỉ trở thành như vật xưa,
Vậy hãy cứ phân chia tặng vật,
Nhờ đem cho, kẻ ấy đi qua
Cả hai thế giới, và do đó
Kẻ ấy đi lên. Hãy tiến tu!

Khi trở lại Sàvatthi,vị thương nhân trình chuyện này lên bậc Ðạo Sư.

  1. (49) Chuyện Thu Góp Tài Sản (Bhogasamharana)

Trong lúc đức Thế Tôn đang trú tại Trúc Lâm, bốn nữ nhân tại Vương Xá dùng nhiều phương tiện gian dối buôn bán sữa lạc, mật ong, dầu mè, ngũ cốc và nhiều thực phẩm khác.

Suốt đời họ chỉ lo thu góp của cải một cách ngu si, và vì vậy sau khi chết, họ tái sanh làm bầy nữ ngạ quỷ trong ống cống ngoại thành.

Ban đêm bầy ngạ quỷ chịu mọi thống khổ ngập tràn, thường đi quanh quẩn vừa thét lên những tiếng khủng khiếp vang dậy, vừa than khóc:

  1. Ta đã góp thu lắm bạc vàng
    Công bằng cùng với chẳng công bằng
    Khi người khác hưởng bao tài vật,
    Phần chúng ta nay thật thảm thương.

Khi dân chúng nghe chuyện này, họ vô cùng kinh hoảng và sáng hôm sau liền đem nhiều lễ vật cúng dường đến hầu cận đức Thế Tôn rồi trình lên Ngài những tiếng hét kia. Ngài lại ngâm vần kệ của bầy ngạ quỷ và kể chuyện chúng đã sống đời trước ra sao.

  1. (50) Chuyện Các Nam Tử Của Nhà Triệu Phú (Setthiputta)

Bấy giờ đức Thế Tôn đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên) ở Sàvatthi (Xá-vệ).

Thời ấy, một hôm Ðại vương Pasenadi (Ba-tư-nặc) của nước Kosala (Kiều-tát-la) phục sức lộng lẫy ngự trên mình voi với vẻ oai nghi đầy quyền lực. Nhà vua thấy trên thượng lầu của một nhà kia có một nữ nhân đang nhìn xuống, trông diễm lệ như một Thiên nữ.

Lòng nhà vua đâm ra mê mẩn vì trí nhà vua vốn buông lung khó kiềm chế được. Vì thế nhà vua ra hiệu cho một người ngồi kế sau mình. Và mọi việc được thực hiện giống như trong Chuyện Ngạ Quỷ Ambasakkhara, nhưng có điểm khác biệt này.

Ở đây, người đàn ông ấy thực ra đã đến nơi trước khi hoàng hôn, nhưng cổng thành đã đóng. Vì thế, y buộc vào cột trụ của cổng thành gói đất đỏ và bó sen xanh mà y đã mang về và đi vào Kỳ Viên.

Bấy giờ trong lúc đang an giấc, giữa canh khuya, nhà vua nghe bốn vần này: ‘Sa, na, du và so’ được thét vang một cách đau đớn.

Tương truyền đây là bốn vần đầu của bốn câu kệ do bốn con trai một vị triệu phú thành Xá-vệ thốt ra. Vào thời hoa niên họ đã tham đắm dục lạc và đi với vợ nhiều người khác, tạo nên điều thất đức. Khi từ trần, họ tái sanh vào Ðịa ngục Chảo sắt gần kinh thành ấy.

Nhà vua vô cùng kinh hãi, và rạng ngày hôm sau liền kể cho vị tế sư nghe sự việc đã xảy ra. Vị ấy đang mong kiếm một số lợi nhuận, bèn thưa:

– Tâu Ðại vương, than ôi, một đại họa xảy ra. Xin Ðại vương cử hành tế lễ đầy đủ bốn phần.

Nhà vua truyền lệnh thi hành việc này.

Khi hoàng hậu Mallikà (Mạt-lợi) nghe chuyện, liền thưa với nhà vua:

– Tâu Ðại vương, tại sao vì nghe lời của một Bà-la-môn, Ðại vương lại muốn làm một việc gây tổn thương và sát hại nhiều sanh vật như vậy? Nay Ðại vương nên tham kiến đức Thế Tôn là bậc Minh Hạnh vô song và khi Ngài giải thích ra sao thì Ðại vương phải làm theo như vậy.

Sau đó vị Ðại vương đến tham kiến bậc Ðạo Sư và trình Ngài sự việc trên. Ðức Thế Tôn bảo:

– Thưa Ðại vương, Ðại vương sẽ không gặp nguy hiểm nào vì việc ấy cả.

Rồi Ngài kể chuyện ngay từ đầu về tiếng thét của những người tái sanh vào địa ngục Lohakumbhi (Chảo sắt). Sau đó Ngài đọc cho nhà vua nghe đầy đủ các vần kệ mà chúng đã bắt đầu thốt ra:

1-2. Với người trong ngục bị hành thân
Suốt cả thời gian sáu vạn năm,
Việc ấy khi nào thì chấm dứt?
– Sẽ không chấm dứt. Chẳng sau cùng.
Bao giờ chấm dứt? – Không nhìn thấy,
Quả bạn và ta phạm lỗi lầm.

  1. Chúng ta đang phải sống đau thương
    Vì chúng ta không biết cúng dường
    Những vật cần cho khi có sẵn,
    Ta không tạo chỗ trú an toàn.
  2. Quả thật khi từ biệt chốn đây
    Ðược làm người ở cõi đời này,
    Ta nguyền hào phóng, chuyên trì giới,
    Ta quyết làm nhiều thiện sự ngay.

Khi bậc Ðạo Sư ngâm các vần kệ xong, Ngài thuyết pháp đầy đủ chi tiết. Lúc kết thúc bài giảng, người đàn ông đã đi tìm đất đỏ và hoa sen ấy được an trú vào Sơ quả Dự Lưu. Còn nhà vua, lòng đầy xúc động, liền bỏ tham đắm vợ người khác và hài lòng với vợ của mình.

  1. (51) Chuyện Sáu Vạn Cái Búa (Satthikùtasahassa)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Trúc Lâm.

Ngày xưa trong thành Ba-la-nại, có một người què giỏi nghề ném đá. Chuyện này là Chuyện Tiền Thân Sàlittaka số 107, phần chính được kể qua các vần kệ.

Thế rồi một hôm Tôn giả Mahà-Moggallàna đang đi xuống từ núi Linh Thứu, Tôn giả nhìn thấy ngạ quỷ này và hỏi:

  1. Tại sao ngươi cứ chạy xoay vần
    Như chú nai đi lạc phát cuồng,
    Chắc chắn ngày xưa gây ác nghiệp
    Ngươi nghĩ thế nào việc ấy chăng?

Ngạ quỷ đáp:

  1. Tôn giả, con là ngạ quỷ nhân,
    Thần dân khốn khổ Dạ-ma quân,
    Vì con đã phạm hành vi ác,
    Con đến cõi ma đói ẩn thân.
  2. Sáu mươi ngàn chiếc búa vừa tròn
    Bổ xuống đầu con, chẻ sọ con.

Trưởng lão hỏi tiếp:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hành gì
    Do khẩu, ý, thân đã thực thi,
    Vì nghiệp quả nào ngươi đã tạo,
    Từ đời này đến cõi âm ty?
  2. Sáu mươi ngàn chiếc búa liên hồi
    Bổ xuống đầu ngươi, chẻ sọ ngươi!

Ngạ quỷ:

  1. Ngày xưa con thấy Su-net-ta,
    Hoàn thiện các căn, một Phật gia,
    Vừa đến gốc cây ngồi tĩnh tọa,
    An nhiên thiền định, chẳng âu lo.
  2. Con ném ngài bằng cục đá vôi
    Làm tan vỡ cả chiếc đầu ngài,
    Vì hành vi ấy ngày xưa phạm,
    Con phải chịu đau khổ thật dài.
  3. Sáu mươi ngàn chiếc búa vừa tròn
    Bổ xuống đầu con, chẻ sọ con.

Khi nghe vầy, vị Trưởng lão giải thích:

  1. Vì Chánh pháp, này hỡi ác nhân,
    Sáu mươi ngàn chiếc búa xoay vần
    Giờ đây đánh xuống đầu ngươi mãi,
    Chẻ nát đầu ngươi sáu vạn lần.

Kinh Tiểu Bộ – Khuddaka Nikàya

Giáo sư Trần Phương Lan dịch Việt

Tập 6 – Thiên Cung Sự

-ooOoo-

Mục Lục

Phẩm I : Lâu Ðài Nữ Giới

1. Lâu Ðài Có Sàng Toạ (Pìtha – Vimàna).
2. Lâu Ðài Có Sàng Tọa Thứ Hai (Dutiyapìthà – Vimàna)
3. Lâu Ðài Có Sàng Toạ Thứ Ba (Tatiyapìyhà -Vimàna)
4. Lâu Ðài Có Sàng Toạ Thứ Tư (Catutthapìthà -Vimàna)
5. Lâu Ðài Có Con Voi (Kunjara-Vimàna)
6. Lâu Ðài Có Chiếc Thuyền (Nàvà-Vimàna)
7. Lâu Ðài Có Chiếc Thuyền Thứ Hai (Dutiyanàvà-Vimàna)
8. Lâu Ðài Có Chiếc Thuyền Thứ Ba (Tatiyamàvà -Vimàna)
9. Lâu Ðài Có Ngọn Ðèn (Dipa -Vimàna)
10. Lâu Ðài Do Cúng Mè (Tiladakkhina -Vimàna)
11. Lâu Ðài Trinh Phụ (Patibbatà -Vimàna)
12. Lâu Ðài Trinh Phụ Thứ Hai (Dutiyapatibbatà -Vimàna)
13. Lâu Ðài Của Nàng Dâu (Sunisà -Vimàna)
14. Lâu Ðài Nàng Dâu Thứ Hai (Dutiyasunisà -Vimàna)
15. Chuyện thứ mười lăm Lâu Ðài Của Uttarà (Uttarà -Vimàna)
16. Chuyện thứ mười sáu Lâu Ðài Của Sirimà (Sirimà -Vimàna)
17. Chuyện thứ mười bẩy Lâu Ðài Của Kesakàri (Kesakàri-Vimàna)

Phẩm II – Cittalatà

1. (18) Lâu Ðài Của Nữ Tỳ (Dàsi -Vimàna)
2. (19) Lâu Ðài Của Lakhumà (Lakhumà -Vimàna)
3. (20) Lâu Ðài Của Người Cho Cơm Cháy (Acàmàdàykà -Vimàna)
4. (21) Lâu Ðài Của Nàng Chiên Ðà La (Candàlì -Vimàna)
5. (22) Lâu Ðài Của Phu Nhân Khả Ái (Bhaddhitthi -Vimàna)
6. (23) Lâu Ðài Của Sonadinnà (Sonadinnà -Vimàna)
7. (24) Lâu Ðài Của Uposatha (Uposatha -Vimàna)
8. – 9. (25-26) Lâu Ðài Của Niddà và Suniddà (Niddà- Suniddà -Vimàna)
10. (27) Lâu Ðài Của Người Nử Thí Chủ (Bhìkkhàdàyikà -Vimàna)
11. (28) Lâu Ðài Của Nữ Thí Chủ Thứ Hai (Dutiyabhikkhàdàyikà -Vimàna)

Phẩm III – Pàricchattaka

1. (29) Lâu Ðài Huy Hoàng (Ulàra -Vimàna)
2. (30) Lâu Ðài Do Cúng Mía (Ucchu -Vimàna)
3. (31) Lâu Ðài Có Chiếc Trường Kỷ (Pallanka -Vimàna)
4. (32) Lâu Ðài Của Latà (Latà -Vimàna)
5. (33) Lâu Ðài Của Guttila (Guttila -Vimàna)
6. (34) Lâu Ðài Rực Rỡ (Daddlha -Vimàna)
7. (35) Lâu Ðài Của Sesavati (Sesavati -Vimàna)
8. (36) Lâu Ðài Của Mallikà (Mallikà -Vimàna)
9. (37) Lâu Ðài Của Visàlakkhì (Visàlakkhì -Vimàna)
10. (38) Lâu Ðài Cây San Hô (Paricchattaka -Vimàna)

Phẩm IV – Ðỏ Sẫm

1. (39) Lâu Ðài Ðỏ Sẫm (Manjetthaka -Vimàna)
2. (40) Lâu Ðài Sáng Chói (Pabhassara -Vimàna)
3. (41) Lâu Ðài Trên Con Voi (Nàga -Vimàna)
4. (42) Lâu Ðài Alomà (Alomà -Vimàna)
5. (43) Lâu Ðài Người Cúng Cháo Gạo (Kanjikadàyika -Vimàna)
6. (44) Lâu Ðài Tinh Xá (Vihàra -Vimàna)
7. (45) Lâu Ðài Bốn Nữ Nhân (Caturitthi -Vimàna)
8. (46) Lâu Ðài Vườn Xoài (Amba -Vimàna)
9. (47) Lâu Ðài Hoàng Kim (Pita -Vimàna)
10. (48) Lâu Ðài Do Cúng Mía (Ucchu -Vimàna)
11. (49) Lâu Ðài Do Sự Ðảnh Lễ (Vandana -Vimàna)
12. (50) Lâu Ðài Của Rajjumàlà (Rajjumàlà-Vimàna)

Phẩm V – Ðại Xa

1. (51) Lâu Ðài Tiên Nhái (Mandukadevaputta -Vimàna)
2. (52) Lâu Ðài Của Revatì (Revatì -Vimàna)
3. (53) Lâu Ðài Của Chatta, Nam tử Bà-la-môn (Chattamànava -Vimàna)
4. (54) Lâu Ðài Của Người Cúng Cháo (Kakkatakarasadàyaka -Vimàma)
5. (55) Lâu Ðài Của Người Giữ Cửa (Dvàrapàlaka -Vimàna)
6. (56) Lâu Ðài Do Công Ðức Thiện Sự (Karanìya -Vimàna)
7. (57) Lâu Ðài Thứ Hai Do Công Ðúc Thiện Sự (Dutiyakaraniya -Vimàna)
8. (58) Lâu Ðài Do Cúng Cây Kim (Sùci -Vimàna)
9. (59) Lâu Ðài Thứ Hai Do Cúng Cây Kim (Dutiyasùci -Vimàna)
10. (60) Lâu Ðài Con Voi (Nàga -Vimàna)
11. (61) Lâu Ðài Con Voi Thứ Hai (Dutiyanàga -Vimàna)
12. (62) Lâu Ðài Con Voi Thứ Ba (Tatiyanàga -Vimàna)
13. (63) Lâu Ðài Có Cỗ Xe Nhỏ (Cùlaratha -Vimàna)
14. (64) Lâu Ðài Có Cỗ Xe Lớn (Mahàratha -Vimàna)

Phẩm VI – Pàyasi

1. (65) Lâu Ðài Gia Chủ (Agàriya -Vimàna)
2. (66) Lâu Ðài Gia Chủ Thứ Hai (Dutiya-Agàriya -Vimàna)
3. (67) Lâu Ðài Của Người Cúng Trái Cây (Phaladàya-Vimàna)
4. (68) Lâu Ðài Của Người Cúng Chỗ Cư Trú (Upassayadàya-Vimàna)
5. (69) Lâu Ðài Của Người Cúng Chỗ Cư Trú Thứ Hai (Dutiya- Upassayadàyaka -Vimàna)
6. (70) Lâu Ðài Của Người Cúng Món Khất Thực (Bhikkhàdàyaka -Vimàna)
7. (71) Lâu Ðài Của Người Giữ Lúa Mạch (Yavapàlaka -Vimàna)
8. (72) Lâu Ðài Của Vị Thiên Tử Ðeo Vòng Tai (Kundalì -Vimàna)
9. (73) Lâu Ðài Của Vị Thiên Tử Thứ Hai Ðeo Vòng Tai (Dutiyakundalì -Vimàna)
10. (74) Lâu Ðài Của Uttara (Uttara -Vimàna)

Phẩm VII – Sunikkhitta

1. (75) Lâu Ðài Cittalatà (Cittalatà -Vimàna)
2. (76) Lâu Ðài Nandana (Nandana-Vimàna)
3. (77) Lâu Ðài Có Trụ Ngọc Bích (Manithùna -Vimàna)
4. (78) Lâu Ðài Bằng Vàng (Suvanna -Vimàna)
5. (79) Lâu Ðài Vườn Xòai (Amba -Vimàna)
6. (80) Lâu Ðài Của Người Chăn Bò (Gopàla -Vimàna)
7. (81) Lâu Ðài Của Kanthaka (Ngựa Kiền Trắc) (Kanthaka -Vimàna)
8. (82) Lâu Ðài Có Nhiều Màu Sắc (Anekavanna -Vimàna)
9. (83) Lâu Ðài Của Vị Thiên Tử Ðeo Vòng Tai Sáng Chói (Mattakundalì -Vimàna)
10. (84) Lâu Ðài Của Serissaka (Serissaka -Vimàna)
11. (85) Lâu Ðài Của Sunikkhitta (Sunikkhitta -Vimàna)

***

Giới thiệu tập 6 – Thiên Cung Sự

Gs. Trần Phương Lan

Chuyện Thiên cung (Vimanavatthu) gồm bảy chương, trong đó có 4 chương miêu tả các lâu đài trên Thiên giới dành cho các nữ nhân và 3 chương dành cho nam nhân. Tất cả các vị này đều đã sống đời đạo hạnh, hành trì Ngũ giới và Bát quan trai giới cùng các việc thiện khác, tùy theo phương tiện khả năng của mình.

Tất cả các chuyện này đã do Tôn giả Maha Moggallana (Ðại Mục-kiền-liên) tường trình lên Ðức Phật sau khi Tôn giả nhập định và nhờ thần lực đi lên cõi Thiên để gặp chư Thiên và hỏi chuyện. Về sau Ðức Phật dùng các đề tài này để thuyết pháp.

Ở tập kinh này, chúng ta được dịp thưởng thức các vần thi kệ miêu tả đầy đủ mọi chi tiết về các kỳ quan trên thiên giới mà ta chưa từng gặp trong các tập kinh trước đây của 5 bộ Nikàya. Các vần kệ đầy thi vị hòa lẫn đạo vị ấy nói lên tính cách phong phú trữ tình của văn học Pàli được chư Tỷ kheo sáng tác với mục đích khuyến giáo sự tu tập của giới Phật tử tại gia.

Phẩm I – Lâu đài nữ giới

Ðảnh Lễ Ðức Thế Tôn, Bậc A-La-Hán, Chánh Ðẳng Giác

1- Chuyện thứ nhất – Lâu Ðài Có Sàng Tọa (Pìtha-Vimàna)

Một thời đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi (Xá-vệ), ở Jetavana (Kỳ Viên) trong tinh xá ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc). Sau khi vua Pasenadi (Ba-tư-nặc), nước Kosala (Kiều-tát-la), đã cúng dường suốt bảy ngày lễ vật vô thượng lên Tăng chúng với đức Phật là thượng thủ và nhà đại phú Anàthapindika đã cúng dường suốt ba ngày để phù hợp với lễ vật của nhà vua, và đại đệ tử nữ cư sĩ Visàkhà (Tỳ-xá-khư) đã cúng dường đại lễ vật như thế, tin đồn về sự cúng dường vô thượng được truyền đi khắp cõi Jambudìpa (Diêm-phù-đề): ‘Phải chăng bố thí cúng dường chỉ đặc biệt phát sinh kết quả lớn khi đó là sự bố thí hào phóng với lễ vật cao sang như vậy, hay đúng hơn, đó là sự bố thí cúng dường tùy theo phương tiện của mình?’.

Khi Tăng chúng nghe lời bình luận này, chư vị trình lên đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn bảo:

– ‘Không phải chỉ do hiệu lực của tặng vật mà việc bố thí cúng dường đặc biệt phát sinh kết quả lớn, song đúng hơn, do hiệu lực của tín tâm và phước điền của những người nhận được vật cúng dường. Vì vậy, dù chỉ nhỏ bằng một nắm thóc hay một tấm giẻ, một tọa cụ bằng cỏ lá hay một hạt đậu trong nước tiểu hôi thối của trâu bò, được cúng dường với lòng thành cho một người xứng đáng nhận lễ vật cũng sẽ có đại kết quả, đại vinh quang và thấm nhuần khắp nơi’.

Thiên chủ Sakkha (Ðế Thích) đã nói như vầy:

‘Nếu có tín tâm, thì không một vật cúng dường nào có thể nói là không quan trọng.
Khi nó được dâng lên đức Như Lai, Chánh Ðẳng Giác hay vị đệ tử của Ngài’.

Bấy giờ, chuyện này được phổ biến rộng khắp cõi Diêm-phù-đề.

Quần chúng tùy theo phương tiện của họ bố thí, cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn, du sĩ lữ hành và hạng người cùng khổ; họ cung cấp nước uống trong sân nhà hoặc để ghế ngồi ở cổng ra vào.

Thời ấy có một Tỷ-kheo đầy đủ hảo tướng oai nghi, đến khất thực đúng thời trước một nhà kia. Tại đó, vị thiện gia tín nữ chào đón vị ấy, cung kính đảnh lễ và trải một tấm vải vàng được ủi thẳng trên sàng tọa của bà rồi đem lại dâng vị ấy.

Bà cúng dường món ăn mà bà có thể sắm được và quạt hầu vị ấy. Vốn tâm tín thành, bà suy nghĩ: ‘Nay vừa phát sinh một phước điền vô thượng dành cho ta’.

Khi vị Tỷ-kheo đã thọ thực xong, vị ấy thuyết pháp về sự cúng dường sàng tọa và thực phẩm v.v… rồi ra đi. Khi bà ấy nghĩ về việc bố thí của bà và bài pháp thoại, tâm bà lập tức rung động với niềm hoan lạc và bà cúng dường vị Tỷ-kheo cả chiếc sàng tọa ấy nữa.

Ít lâu sau, bà mắc bệnh từ trần và được tái sinh vào cõi trời Ba mươi ba trong một lâu đài bằng vàng dài mười hai do-tuần (dặm). Bà có một đoàn tùy tùng hầu cận gồm một ngàn tiên nữ. Vì trước kia bà cúng dường sàng tọa, nên tại đấy xuất hiện cho bà một chiếc sàng tọa bằng vàng dài một do-tuần, du hành thật nhanh qua bầu trời, giống như một ngôi nhà có nóc nhọn. Vì thế nó được gọi là Lâu đài có sàng tọa. Vì chiếc sàng tọa được cúng dường trước kia có phủ tấm vải màu vàng lên, nên lâu đài này bằng vàng, chứng tỏ sự tương tự giữa nghiệp và quả. Vì sàng tọa đã được cúng dường với tâm hoan hỷ mãnh liệt, nên Lâu đài di chuyển rất nhanh. Vì lễ vật ấy được cúng dường với sự thích thú của người xứng đáng nhận nó, nên lâu đài có thể di chuyển tùy theo sở thích của bà. Vì hiệu quả tín tâm hoan hỷ của nữ nhân kia, nên lâu đài rực rỡ và sáng chói.

Bấy giờ vào một ngày lễ hội, chư Thiên đều đi được, mỗi vị tùy theo phương tiện do uy lực của mình đến Hỷ lạc Viên Nandana để vui chơi trong ngự uyển, vị Thiên nữ kia phục sức thiên y và điểm trang thiên bảo, khởi hành trong lâu đài có sàng tọa đầy oai nghi với cả ngàn thị nữ hộ tống.

Lúc ấy, Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành lên cõi thiên, vừa đến cảnh giới trời Ba mươi ba và xuất hiện gần chỗ Thiên nữ này. Khi thấy Tôn giả, vị Thiên nữ vô cùng hoan hỷ, cung kính bước xuống khỏi sàng tọa tiến đến gần vị Trưởng lão, cúi mình đảnh lễ với năm phần thân thể sát đất, rồi đứng lên bày tỏ sự tôn trọng với đôi tay chấp lại, mười đầu ngón sát vào nhau.

Mặc dầu vị Trưởng lão này nhờ thần lực đa diện của trí tuệ, đã tự mình thấy rõ như thể ngắm quả Myrobalan trong lòng bàn tay, các thiện nghiệp và ác nghiệp do Thiên nữ này cũng như các vị khác đã tạo ra, nhờ khả năng tri kiến của Tôn giả về nghiệp quả tương ứng, tuy nhiên, vì ngay khi vừa tái sanh cõi trời, các Thiên nữ liền hỏi: – ‘Tiểu nữ đã từ trần tại đâu và được tái sanh vào thế giới này?’ – ‘Tiểu nữ đã làm thiện nghiệp gì để được phước phần này?’, và theo lệ thường, chư vị ấy đều đi đến kết luận đúng đắn, do đó, vị Trưởng lão muốn làm sáng tỏ nghiệp quả cho thế giới chư Thiên, bèn bảo Thiên nữ này kể lại hạnh nghiệp vị ấy đã làm, rồi ngâm các vần kệ sau:

  1. Tọa sàng kim sắc thật huy hoàng,
    Di chuyển nhanh như ý của nàng,
    Nàng đội vòng hoa, trang phục đẹp,
    Sáng như tia chớp giữa mây ngàn.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương?
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  5. Khi được làm người giữa thế nhân,
    Con mang sàng tọa nhỏ đem dâng,
    Vái chào cung kính khách xa đến,
    Tay chắp, cúng dường theo khả năng.
  6. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  7. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. Chuyện thứ hai – Lâu Ðài Có Sàng Tọa Thứ Hai (Dutiyapìthà-Vimàna)

2 - Chuyện thứ hai – Lâu Ðài Có Sàng Tọa Thứ Hai (Dutiyapìthà-Vimàna)

Phần giải thích và bình luận chuyện này phải được hiểu tương ứng với những gì đã nói trong chuyện thứ nhất. Song có điểm dị biệt là:

Chuyện kể rằng một nữ nhân sống ở Sàvatthi thấy một Tỷ-kheo đến nhà bà khất thực; với tâm tín thành, khi muốn cúng dường vị ấy một tọa sàng, bà trải một tấm vải xanh trên tọa sàng của bà tặng vị ấy. Vì thế, khi bà tái sanh lên thiên giới, tại đó xuất hiện cho bà một sàng tọa làm bằng ngọc bích. Do vậy, có các vần kệ:

  1. Tọa sàng ngọc bích thật huy hoàng,
    Di chuyển nhanh như ý của nàng,
    Nàng đội vòng hoa, trang phục đẹp,
    Sáng như tia chớp giữa mây ngàn.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương?
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  5. Khi được làm người giữa thế nhân,
    Con mang sàng tọa nhỏ đem dâng,
    Vái chào cung kính khách xa đến,
    Tay chắp, cúng dường theo khả năng.
  6. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ,
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  7. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

3- Chuyện thứ ba – Lâu Ðài Có Sàng Tọa Thứ Ba (Tatiyapìtha-Vimàna)

Tại Ràjagaha (Vương Xá) (như chuyện số 1), vị nữ nhân phát nguyện lúc dâng cúng sàng tọa của bà: ‘Ước mong hạnh nghiệp này sẽ làm nhân duyên cho ta được một sàng tọa bằng vàng trong kiếp sau’.

Do đó, có truyền thuyết như vầy:

  1. Tọa sàng kim sắc thật huy hoàng,
    Di chuyển nhanh như ý của nàng,
    Nàng đội vòng hoa, trang phục đẹp,
    Sáng như tia chớp giữa mây ngàn.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương?
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
    5. Vì một hành vi nhỏ của con,
    Ðây là kết quả sắc huy hoàng,
    Ngày xưa khi ở trong tiền kiếp,
    Con được làm người giữa thế gian.
  5. Con gặp một vô lậu Thánh Tăng,
    An nhiên tâm trí, chẳng mê lầm,
    Với người, con có lòng thành tín,
    Ðem đến tận tay chiếc tọa sàng.
  6. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  7. Xin trình Tôn giả đại oai thần,
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

4- Chuyện thứ tư – Lâu Ðài Có Sàng Tọa Thứ Tư (Catutthapìtha-Vimàna)

Hoàn cảnh chuyện này cũng ở Ràjagaha. Chuyện phải được hiểu như đã được tả ở Lâu đài thứ hai vì nữ nhân tặng sàng tọa sau khi trải tấm vải xanh lên đó, nên đời sau một Lâu đài bằng ngọc bích cũng xuất hiện cho bà. Phần còn lại cũng giống như chuyện đã được kể về Lâu đài thứ nhất. Do đó có truyền thuyết:

  1. Toạ sàng ngọc bích thật huy hoàng,
    Di chuyển nhanh như ý của nàng,
    Nàng đội vòng hoa, trang phục đẹp,
    Sáng như tia chớp giữa mây ngàn.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương?
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  5. Vì một hành vi nhỏ của con,
    Ðây là kết quả sắc huy hoàng,
    Ngày xưa khi ở trong tiền kiếp,
    Con được làm người giữa thế gian.
  6. Con gặp một vô lậu Thánh Tăng,
    An nhiên tâm trí, chẳng mê lầm,
    Với người, con có lòng thành tín,
    Ðem đến tận tay chiếc tọa tàng.
  7. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Là con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  8. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

5- Chuyện thứ năm – Lâu Ðài Con Voi (Kunjara-Vima ana)

Ðức Thế Tôn lúc ấy đang trú tại Ràjagaha ở chỗ nuôi sóc trong Veluvana (Trúc Lâm). Bất ngờ một hôm có lễ hội được công bố khắp thành Ràjagaha. Mọi người đều phục sức thật đẹp và đi dự lễ hội.

Bấy giờ Ðại vương Bimbisàra thể theo nguyện vọng của thần dân, ngự ra khỏi cung và đi dự lễ quanh kinh thành trong cảnh vô cùng uy nghi rực rỡ. Thời ấy một thiện nữ nhân trú tại Ràjagaha thấy cảnh huy hoàng của nhà vua, lòng đầy kinh ngạc thích thú, bèn hỏi những người có tiếng thông thái:

– Nhờ phước nghiệp gì ta tạo được cảnh vinh quang như thiên giới này?

Họ bảo nàng:

– Này bạn, một thiện nghiệp cũng như viên ngọc quý làm thỏa nguyện, hay cây thần ban điều ước này.

Khi nghe thế, nàng tự nhủ: ‘Ta thấy kết quả trên thiên giới còn vĩ đại hơn phần thưởng kia (do việc bố thí cúng dường)’. Từ đấy nàng trở nên nhiệt tâm thực hành các công đức thiện nghiệp.

Bấy giờ, cha mẹ gửi cho nàng một bộ y phục mới, một sàng tọa mới, một bó hoa sen, sữa lạc, mật ong, đường và gạo. Khi thấy các thứ này, nàng tự bảo: ‘Ta muốn bố thí, và bây giờ các lễ vật xứng đáng bố thí cúng dường đã có trong tay ta’. Và với lòng hoan hỷ, nàng chuẩn bị lễ vật, nhà cửa và bản thân vào ngày hôm sau.

Thời ấy Tôn giả Sàriputta đi khất thực trong thành Ràjagaha, vào đường phố với oai nghi của một người đang đặt xuống chiếc túi đựng một ngàn đồng tiền.

Người nữ tỳ của nàng thấy vị Trưởng lão liền thưa:

– Bạch Tôn giả, xin đưa bình bát cho tiện nữ.

Và nàng nói thêm:

– Xin Tôn giả đi lối này để làm đặc ân cho một tín nữ.

Tôn giả trao nàng chiếc bình bát. Nàng dẫn Tôn giả đến nhà. Lúc ấy nữ nhân kia chào đón và phục vụ Tôn giả. Trong lúc nàng thiết đãi ngài, nàng phát nguyện: ‘Do uy lực của phước nghiệp này, ước mong ta sẽ được mọi cảnh vinh quang trên thiên giới, đầy đủ các thiên tượng, trùng các và sàng tọa, và ước mong không lúc nào thiếu hoa sen’.

Kế đó, khi vị Trưởng lão đã thọ thực xong, nàng rửa bình bát và đổ đầy lạc, mật ong, đường, cùng các thứ khác, lại lấy một xấp vải trải lên sàng tọa và trao tận tay vị Trưởng lão.

Sau khi vị Trưởng lão đã giã từ, nàng ra lệnh cho hai gia nhân:

– Hãy đem sàng tọa này và bình bát đến tinh xá, cúng dường Trưởng lão ấy rồi trở về.

Họ tuân lệnh. Về sau, nàng từ trần và được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài bằng vàng cao một trăm do-tuần và có một đoàn tùy tùng hộ tống, gồm một ngàn tiên nữ.

Do ước nguyện của nàng, một con voi quý cao năm do-tuần xuất hiện cho nàng, được quấn quanh mình với các vòng hoa sen và trang điểm cân đai toàn vàng.

Bấy giờ vào một ngày lễ hội, chư Thiên đều đi dự, mỗi vị tùy theo uy lực của mình đến Hỷ Lạc Viên Nandana để vui chơi trong ngự uyển.

(Từ đây về sau câu chuyện cũng giống như phần sớ giải Lâu đài thứ nhất). Như vậy chuyện này phải được hiểu như trong chuyện ấy, song ở đây, Tôn giả Moggallàna ngâm các vần kệ sau:

  1. Voi nàng như ngọn núi huy hoàng,
    Tô điểm cân đai đủ ngọc vàng,
    Khả ái, oai hùng, đầy tốc lực,
    Nhẹ nhàng di chuyển giữa không gian.
  2. Ðây là một bảo tượng liên hoa,
    Ánh sáng sen xanh, đỏ tỏa ra,
    Chân cẳng voi đầy hương phấn phủ,
    Sen vàng treo lủng lẳng trên ngà.
  3. Rải rác hoa sen khắp mặt đường,
    Phẳng lì, tô điểm cánh sen tàn,
    Khiến lòng mê mẩn, đầy êm ái,
    Vương tượng bước đi thật nhịp nhàng.
  4. Trong lúc tượng vương tiến bước lên,
    Chuỗi chuông vàng trổi khúc êm đềm,
    Chung thanh chẳng khác nào âm nhạc
    Năm thứ đàn tơ hợp tấu nên.
  5. An tọa trên lưng đại tượng vương,
    Xiêm y nàng trắng, khéo trang hoàng,
    Trông nàng thù thắng về dung sắc,
    Vượt hẳn bao tiên nữ cả đoàn.
  6. Kết quả này do việc cúng dường,
    Hay trì giới, hoặc chắp tay nàng?
    Khi nàng được hỏi điều như vậy.
    Hãy nói cho ta biết rõ ràng.
  7. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  8. Thấy một Sa-môn đủ tướng hiền,
    Hân hoan Thiền định, trí an nhiên,
    Con dâng sàng tọa đầy hoa rắc,
    Với một tấm khăn vải phủ lên.
  9. Tâm tín thành, tay tự trải khăn,
    Rải hoa sen nở đã gần tàn,
    Cùng chung các cánh hoa sen rụng,
    Khắp chốn bao quanh chiếc tọa sàng.
  10. Kết quả này do thiện nghiệp duyên,
    Nên con nhận được của chư Thiên
    Ân tình phụng sự và thương mến,
    Con được tôn vinh ở cõi tiên.
  11. Quả thực kẻ nào có tín tâm
    Muốn đem sàng tọa để cung dâng
    Những người giải thoát, tâm thanh tịnh,
    Sẽ được như con, hưởng phước ân.
  12. Vậy do ước vọng được an lành,
    Mong quả lớn sau sẽ đạt thành,
    Phải tặng tọa sàng cho những vị
    Mang thân đời cuối chẳng lai sanh. 

6- Chuyện thứ sáu – Lâu Ðài Có Chiếc Thuyền (Nàvà-Vimàna)

Trong lúc đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi (Xá-vệ), mười sáu Tỷ-kheo đã an cư mùa mưa trong một ngôi làng, khởi hành đến Sàvatthi vào mùa nắng, bảo nhau: ‘Chúng ta sẽ đến yết kiến đức Thế Tôn và nghe Pháp’.

Trên đường đi, có một sa mạc không có nước, vì chư vị bị sức nóng bức bách và không tìm ra nước, chư vị liền đến vùng lân cận một ngôi làng. Tại đó, một nữ nhân cầm bình nước đang đi tới giếng.

Bấy giờ chư Tăng thấy nàng bèn bảo:

– Nếu ta đi đến nơi mà nàng đang đi, thì chúng ta có thể xin nước.

Chư vị đi theo nàng, thấy cái giếng, bèn dừng lại bên nàng. Nàng kéo nước từ giếng lên và thấy chư vị, nàng tự nhủ: ‘Những bậc chân chánh này đang khát nước’, rồi cung kính mời chư vị uống nước. Chư vị lấy cái lọc nước từ túi xách ra, lọc nước và uống thật nhiều nước như ý muốn, tẩm mát tay chân, nói lời chúc lành với nữ nhân vì đã tặng nước cho chư vị, rồi ra đi. Nàng ghi nhớ công đức ấy trong lòng và thỉnh thoảng nàng lại nghĩ đến việc ấy.

Về sau nàng từ trần và tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba. Do uy lực công đức của nàng, tại chỗ ấy đã xuất hiện cho nàng một Lâu đài vĩ đại, được làm tăng vẻ mỹ lệ bằng một cây thần ban điều ước. Chung quanh cây là một dòng suối chảy với nước trong như khối ngọc và đôi bờ cát trắng trải dài lấp lánh như những chuỗi ngọc trai và dải bạc.

Ở hai bên bờ và ngay cổng đi vào lạc viên của Lâu đài là một hồ sen lớn, được tô điểm với các chùm sen ngũ sắc và một chiếc thuyền bằng vàng.

Thiên nữ ấy an trú tại đó, hưởng thiên lạc, vui chơi nhàn nhã trong chiếc thuyền kia. Rồi một hôm, Tôn giả Mahà-Moggallàna trong lúc du hành đến cõi trời, thấy nàng Thiên nữ đang vui chơi như vậy, bèn hỏi:

  1. Tiên nương đang đứng ở trong thuyền
    Có mái vàng che phủ phía trên,
    Nàng bước xuống hồ sen ngắt hái
    Một hoa sen với cánh tay tiên.
    2. Trùng các là nơi nàng trú thân,
    Lâu đài có nóc nhọn nhiều tầng,
    Khéo xây ngăn nắp và cân xứng,
    Rực rỡ, sáng ngời khắp bốn phương.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú gì nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương.
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  5. Khi được làm người giữa thế nhân,
    Kiếp xưa sinh ở chốn phàm trần,
    Con thấy chư Tăng đang khát nước,
    Quyết lòng, con kéo nước lên dâng.
  6. Quả thật ai đầy đủ nhiệt tâm,
    Ðem dâng nước uống đến chư Tăng
    Khát nhiều, mỏi mệt, ngày sau được
    Suối mát đầy sen nở trắng ngần.
  7. Bên mình nước mát với đôi bờ
    Cát trắng viền luôn chảy lững lờ,
    Ðầy đủ sà-la, xoài, ngọc quế,
    Kèn, đào, ti-lak nở muôn hoa.
  8. Phong cảnh càng tăng vẻ mỹ quang,
    Lâu đài rực sáng tuyệt trần gian,
    Ðây là kết quả hành vi ấy,
    Ai tạo phước lành hưởng lạc an.
  9. Trùng các là nơi con trú thân,
    Lâu đài có nóc nhọn nhiều tầng,
    Khéo xây ngăn nắp và cân xứng,
    Rực rỡ, sáng ngời khắp bốn phương.
  10. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  11. Xin trình Tôn giả đại oai thần,
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đấy, oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

7- Chuyện thứ bảy – Lâu Ðài Có Chiếc Thuyền Thứ Hai (Dutiyanàvà Vimàna)

Trong lúc đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi, có một Tỷ-kheo đã đoạn tận lậu hoặc, vào đầu mùa mưa, muốn khởi sự an cư trong một làng xóm, nên vị ấy khởi hành sau buổi ngọ trai, lên đường đi từ Sàvatthi đến làng ấy.

Khi mệt mỏi vì khát nước và đường xa, vị ấy ghé đến một làng nọ. Thấy không nơi nào có bóng cây và nước uống trong vùng lân cận, lại bị cơn mệt nhọc trấn áp, vị ấy đắp thượng y đi vào làng, dừng chân ở cửa nhà thôn trưởng. Tại đó, có một nữ nhân thấy vị này bèn hỏi:

– Tôn giả từ đâu đến?

Và khi thấy vị ấy mỏi mệt, khát nước, bà mời vị ấy vào nhà và ngồi trên sàng tọa. Bà lại đưa nước rửa chân, dầu để xoa chân và quạt hầu vị ấy.

Khi cơn nóng đã dịu, bà dọn nước ngọt, thơm mát mời vị ấy. Vị Trưởng lão uống nước xong, cơn khát lắng xuống, vị ấy cám ơn bà và ra đi. Về sau bà từ trần, được tái sinh vào cõi trời Ba mươi ba. Mọi việc cần được hiểu như ở chuyện Lâu đài trước. Các vần kệ cũng giống như vậy. 

8- Chuyện thứ tám – Lâu Ðài Có Chiếc Thuyền Thứ Ba (Tatiyanàvà-Vimàna )

Trong lúc đức Thế Tôn du hành quanh thị trấn với hội chúng Tỷ-kheo đông đảo, Ngài đến một ngôi làng Bà-la-môn tên là Thùna ở quốc độ Kosala. Các gia chủ Bà-la-môn ở Thùna nghe tin: ‘Người ta nói rằng Sa-môn Gotama đã đến tại cánh đồng làng ta’.

Bây giờ các gia chủ Bà-la-môn là ngoại đạo có tà kiến, bản tính keo kiệt, bảo nhau:

– Nếu Sa-môn Gotama vào làng này và ở lại độ hai ba ngày, vị ấy sẽ an trú tất cả dân làng này vào Giáo pháp của vị ấy. Khi ấy giáo lý Bà-la-môn sẽ không có nơi nương tựa.

Và cố ngăn cản đức Thế Tôn dừng chân tại đấy, họ đưa thuyền bè ra khỏi bến đậu và làm cho cầu cống trở thành vô dụng. Họ lấp kín các giếng nước trừ một giếng cũ đầy cỏ rác và che giấu các mạch nước, nhà nghỉ và lầu trọ. Chuyện được kể trong Kinh Udàna (Cảm Hứng Ngữ) như vậy ở phẩm VII, 9.

Ðức Thế Tôn biết được ác nghiệp của họ và sinh lòng thương xót họ, bèn du hành giữa không gian cùng chư Tỷ-kheo vượt qua sông, rồi tiếp tục đi đến làng Bà-la-môn Thùna. Ngài rời đường cái và ngồi xuống một gốc cây.

Vào lúc ấy, một số nữ nhân đi ngang và xách nước gần đức Thế Tôn, trong lòng đã có sự giao ước: ‘Nếu Sa-môn Gotama đến đây, không được ai tiếp đón vị ấy, và khi vị ấy đến nhà nào thì không ai được đem thực phẩm cho vị ấy hoặc đệ tử của vị ấy cả’.

Rồi một nữ tỳ của một gia chủ Bà-la-môn đi đến với một ghè nước, thấy đức Thế Tôn được một hội chúng Tỷ-kheo vây quanh, nhận ra rằng chư vị đều khát nước và mệt mỏi; với lòng đầy tín thành, nàng muốn đem nước cúng dường chư vị. Nàng tự nhủ: ‘Cho dù dân chúng làng này đã quyết định không được cho Sa-môn Gotama thứ gì cả, thậm chí cũng không được đảnh lễ cung kính, tuy nhiên, nếu khi ta đã tìm ra các phước điền vô thượng, xứng đáng được cúng dường này, ta lại không làm nơi nương tựa cho ta bằng cách chỉ đem nước cúng dường mà thôi, thì biết bao giờ ta mới được giải thoát khỏi cuộc sống đau khổ trong đời sau? Ta hãy vui lòng để chủ ta và mọi người trong làng này đập ta, trói ta, ta vẫn quyết cúng dường nước cho phước điền như thế’.

Khi nàng đã quyết tâm như vậy, mặc dù các nữ nhân khác đang xách nước cố ngăn cản nàng, nàng vẫn không quan tâm đến tính mạng mình, nhấc ghè nước trên đầu xuống, đặt sang một bên, đến gần đức Thế Tôn với lòng đầy hân hoan, hạnh phúc, nàng đảnh lễ với năm phần thân thể sát đất, và dâng nước lên Ngài.

Ðức Thế Tôn nhận ra tín tâm của nàng, và để ban đặc ân cho nàng. Ngài rửa tay chân và uống nước mát. Nước trong bình không giảm xuống. Cô gái thấy vậy càng tăng tín tâm, đem nước đến lần lượt cho mỗi vị Tỷ-kheo, rồi cho tất cả chư vị. Nước cũng vẫn không giảm bớt. Lòng đầy hân hoan phấn khởi, với bình nước vẫn đầy như bao giờ, nàng trở về nhà.

Gia chủ Bà-la-môn của nàng nghe tin nàng đem cho nước uống. ‘Nó đã phá luật lệ của làng này và ta sẽ bị chê cười’, ông bảo. Lòng nổi cơn giận bừng bừng sôi sục, ông ném nàng xuống đất đấm đá túi bụi. Vì bị trận đòn tàn nhẫn ấy, nàng qua đời, được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba và một Lâu đài xuất hiện cho nàng như được tả trong chuyện Lâu đài có chiếc thuyền thứ nhất.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, hãy đem nước giếng cho Ta.

Vị Trưởng lão đáp:

– Bạch Thế Tôn, giếng ở đây đã bị dân chúng Thùna làm ô nhiễm. Con không thể lấy nước được.

Nhưng đức Thế Tôn ra lệnh cho vị này lần thứ hai, lần thứ ba, vị Trưởng lão cầm bình bát của đức Thế Tôn và đi về phía giếng. Khi vị ấy đến, nước giếng đã dâng đầy lên cao, tràn khỏi miệng, và chảy ra mọi phía.

Mọi thứ rác rến trồi lên mặt nước và chảy đi sạch. Vì nước dâng lên, các mạch nước khác cũng tràn đầy, nên làng này bị nước vây quanh, và vùng đất quanh làng bị chìm ngập. Các Bà-la-môn thấy việc hi hữu, lòng đầy kinh ngạc lẫn kỳ thú, họ đến xin đức Thế Tôn tha lỗi. Lập tức nước lụt biến mất dần.

Dân chúng liền cung cấp chỗ ở lên đức Thế Tôn và chư Tăng, thỉnh cầu chư vị ngày mai và ngày kế tiếp đi đến thọ trai. Sau khi đã chuẩn bị đại lễ cúng dường, họ dâng cao lương mỹ vị đủ loại cứng và mềm lên chư Tăng với đức Phật là vị thượng thủ.

Khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong, và cất tay ra khỏi bình bát, toàn thể dân chúng Thùna đều ngồi đảnh lễ cung kính quanh Ngài.

Ngay lúc ấy, Vị Thiên nữ quán sát thành tựu của nàng và nhận ra nguyên nhân chính là việc nàng cúng dường nước uống. Lòng đầy hoan hỷ, nàng nói:

– Tốt lắm, nay ta muốn đảnh lễ đức Thế Tôn, ta muốn tuyên bố cho thế giới loài Người biết thành quả to lớn của các thiện nghiệp, thậm chí rất nhỏ nhặt, được thực hành cho những người theo đúng chánh đạo.

Với nhiệt tâm tràn trề, cùng đoàn tùy tùng một ngàn tiên nữ hộ tống trong lạc viên của nàng có cả tòa Lâu đài kia, nàng xuất hiện với đại oai thần của Thiên giới trước sự chứng kiến của toàn thể dân chúng.

Nàng bước xuống khỏi Lâu đài, đến gần đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và đứng trong dáng điệu cung kính. Sau đó đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ kết quả công đức của nàng cho đám quần chúng trước mặt Ngài, bèn hỏi nàng qua các vần kệ:

  1. Tiên nương đang đứng ở trong thuyền
    Có mái vàng che phủ phía trên,
    Nàng bước xuống hồ sen ngắt hái
    Một hoa sen với cánh tay tiên.
  2. Trùng các là nơi nàng trú thân,
    Lâu đài có nóc nhọn nhiều tầng,
    Khéo xây ngăn nắp và cân xứng,
    Rực rỡ, sáng ngời khắp bốn phương.
  3. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú gì nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  4. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương.
  5. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Ðức Phật tòan giác hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  6. Khi được làm người giữa thế nhân,
    Kiếp xưa sinh ở chốn phàm trần,
    Con thấy chư Tăng đang khát nước,
    Quyết lòng, con kéo nước lên dâng.
  7. Quả thật ai đầy đủ nhiệt tâm,
    Ðem dâng nước uống đến chư Tăng
    Khát nhiều, mỏi mệt, ngày sau được
    Suối mát đầy sen nở trắng ngần.
  8. Bên mình nước mát với đôi bờ
    Cát trắng viền luôn chảy lững lờ,
    Ðầy đủ sà-la, xoài, ngọc quế,
    Kèn, đào, ti-lak nở muôn hoa.
  9. Phong cảnh càng tăng vẻ mỹ quang,
    Lâu đài rực sáng tuyệt trần gian,
    Ðây là kết quả hành vi ấy,
    Ai tạo phước lành hưởng lạc an.
  10. Trùng các là nơi con trú thân,
    Lâu đài có nóc nhọn nhiều tầng,
    Khéo xây ngắn nắp và cân xứng,
    Rực rỡ, sáng ngời khắp bốn phương.
  11. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  12. Nhờ đấy, nay con có lực thần,
    Dung quang sáng chói khắp mười phương,
    Ðây là kết quả phần công hạnh
    Ðem nước dâng đức Phật cúng dường.

Sau đó đức Thế Tôn thuyết pháp và giảng Bốn Thánh Ðế. Khi pháp thoại chấm dứt, vị Thiên nữ được an trú vào sơ quả Dự Lưu. 

9- Chuyện thứ chín – Lâu Ðài Có Ngọn Ðèn (Dìpa-Vimàna)

Trong lúc đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi, vào ngày Bố-tát (trai giới) nhiều thiện nam tín nữ cư sĩ tuân thủ ngày này, thực hành sự bố thí buổi sáng trước giờ ngọ, mỗi người tùy theo phương tiện của mình, thọ thực trước giờ quy định và y phục chỉnh tề với áo khoác ngoài sạch sẽ, cầm vòng hoa, hương liệu đi đến tinh xá vào buổi chiều, hầu cận chư Tỷ-kheo làm phát khởi tín tâm và nghe pháp buổi chiều tối.

Trong lúc chư vị vẫn còn nghe pháp và muốn ở lại qua đêm trong tinh xá, thì trời tối dần. Lúc ấy một nữ nhân suy nghĩ: ‘Mọi người cần có đèn ở đây’, và bà đem đèn cùng các vật để thắp đèn từ nhà đến, thắp đèn lên, đặt trước pháp tòa và nghe pháp. Hài lòng vì đã cúng dường đèn, bà tràn ngập niềm hân hoan, hạnh phúc và ra về sau khi cung kính đảnh lễ chư Tăng.

Về sau bà từ trần và được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài bằng ngọc báu rực rỡ. Song vì hào quang của thân thể Thiên nữ này quá vĩ đại, nàng sáng chói hơn các Thiên nữ khác và tỏa ánh sáng khắp mười phương.

Bấy giờ, một hôm Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành lên Thiên giới (như các truyện trước) nhưng ở đây, Tôn giả đặt câu hỏi bắt đầu bằng ba vần kệ:

  1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
    Nàng đứng, toàn thân đều tỏa sáng
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Vì sao nàng có được hào quang
    Thanh tịnh, vượt xa hẳn mọi nàng?
    Vì cớ gì thân nàng rực rỡ,
    Làm cho sáng chói khắp mười phương?
  4. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương.
  5. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  6. Thuở được làm người giữa thế nhân,
    Kiếp xưa sinh ở chốn phàm trần,
    Khi màn đêm tối buông dày đặc,
    Con thắp đèn lên để cúng dâng.
  7. Khi trời tốt mịt một đêm đen,
    Ai thắp đèn cho tỏa sáng lên,
    Sẽ tái sanh trong lầu bảo ngọc
    Ðầy hoa nở rộ cạnh hồ sen.
  8. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  9. Con là Thiên nữ tỏa hào quang
    Thanh tịnh, vượt xa hẳn mọi nàng,
    Vì thế toàn thân con rực rỡ,
    Làm cho sáng chói khắp mười phương?
  10. Xin trình Tôn giả đại oai thần,
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đấy, oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

10- Chuyện thứ mười – Lâu Ðài Do Cúng Mè (Tiladakkhina-Vimàna)

Bấy giờ đức Thế Tôn đang trú ở Sàvatthi, tại Kỳ Viên, trong tinh xá ông Cấp Cô Ðộc. Thời ấy tại Ràjagaha có một nữ nhân đang mang thai, rửa sạch mè và phơi khô vì bà muốn uống một ít dầu mè.

Thọ mạng của bà sắp chấm dứt, và bà có số phận phải chết ngay hôm ấy với các hạnh nghiệp chồng chất đưa đến tái sanh vào địa ngục.

Bấy giờ, đức Thế Tôn, trong khi quán sát thế gian vào lúc rạng đông, với Thiên nhãn Ngài thấy bà và suy nghĩ: ‘Nữ nhân này sắp chết hôm nay có thể tái sanh vào địa ngục. Vậy bây giờ Ta hãy làm cho bà ấy tái sanh thiên giới bằng cách nhận mè do bà ấy bố thí’.

Chỉ trong chốc lát, Ngài đi từ Sàvatthi đến Ràjagaha, và trong khi Ngài đi khất thực ngang qua thành Ràjagaha, Ngài đến cửa nhà bà. Nữ nhân ấy thấy đức Thế Tôn, lòng tràn ngập hân hoan hạnh phúc, vội đứng lên chắp hai tay, và thấy không có gì khác xứng đáng để cúng dường, bà rửa tay chân và lùa mè lại thành một đống, bà bụm cả hai tay lại, bốc đầy mè và đặt nắm mè vào bình bát đức Thế Tôn. Do lòng từ mẫn đối với bà, đức Thế Tôn bảo: ‘Mong con được an lạc’, rồi tiếp tục lên đường.

Ðêm ấy, lúc gần rạng đông, bà kia từ trần và được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài bằng vàng rộng mười hai do-tuần.

Tôn giả Mahà-Moggallàna, trong lúc du hành lên cõi trời (như được tả trên đây), gặp bà và hỏi:

  1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
    Nàng đứng, toàn thân đều tỏa sáng
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú gì nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
    Dung quang sáng chói khắp mười phương.
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  5. Trong đời sống trước giữa phàm trần,
    Con được sinh làm một thế nhân,
    Con gặp Phật-đà vô lậu hoặc,
    An nhiên tâm trí, chẳng mê lầm.
  6. Gặp Phật, con đầy đủ tín thành,
    Cúng dường lễ vật chính tay mình,
    Lòng không tham vọng, đem mè tặng
    Ðấng Giác Ngộ là bậc xứng danh.
  7. Vì thế sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  8. Xin trình Tôn giả đại oai thần,
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đấy, oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

11- Chuyện thứ mười một – Lâu Ðài Trinh Phụ (Patibbatà-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi. Trong thành ấy có một trinh phụ. Nàng sống hòa hợp với chồng, nhẫn nại và thông minh. Nàng không la mắng ai, dù khi hờn giận, nàng nói năng dịu dàng, chân thật, đầy tín tâm và cúng dường bố thí tùy theo phương tiện của nàng.

Khi lâm trọng bệnh, nàng từ trần và được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba. Phần còn lại cũng giống như chuyện đã được kể:

  1. Thiên nga, sếu, hạc với chim công,
    Cu gáy du dương lượn khắp vòng
    Lầu các, lạc viên, hoa tuyệt sắc,
    Dập dìu bao ngọc nữ tiên đồng.
  2. Thiên nữ đằng kia đại lực hùng,
    Thay hình đổi dạng với thần thông,
    Cùng đoàn tiên nữ vây quanh ấy
    Múa hát vui chơi thật thỏa lòng.
  3. Ðạt thành thiên lực đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  5. Khi được làm người giữa thế nhân,
    Con là trinh phụ chẳng tà dâm,
    Như hiền mẫu chở che con trẻ,
    Không nói lời thô lúc hận sân.
  6. Chân thật, đoạn trừ các vọng ngôn,
    Hân hoan bố thí, tính ân cần,
    Với tâm thành tín, con cung kính
    Hào phóng cúng dường thức uống ăn.
  7. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  8. Xin trình Tôn giả đại oai thần,
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Vì thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

12- Chuyện thứ mười hai – Lâu Ðài Trinh Phụ Thứ Hai (Dutiyapatibbatà-Vimàna)

Tại Sàvatthi, tương truyền có một nữ đệ tử tại gia là một trinh phụ, mộ đạo, đầy tín tâm. Bà giữ Ngũ giới, bố thí tùy theo phương tiện và khi từ trần, bà được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba. Phần còn lại như đã được tả ở trên:

  1. Trụ bằng ngọc bích sáng muôn màu,
    Thiên nữ oai nghi thượng thúy lâu,
    Nhờ đại thần thông nàng lạc trú,
    Thay hình đổi dạ thỏa mong cầu.
  2. Tiên nữ vây quanh ở khắp nơi,
    Ðàn ca múa hát mãi vui chơi,
    Thần thông thiên giới nàng thành tựu
    Do tạo đức gì ở cõi người,
    Oai lực của nàng sao rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng mọi phương trời?
  3. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  4. Khi làm người giữa cõi nhân gian,
    Là đệ tử Ngài có Nhãn quang,
    Con bỏ sát sanh loài thú vật,
    Và không lấy của cải tha nhân.
  5. Con chẳng hề ham uống rượu nồng,
    Con không nói láo, chỉ yêu chồng,
    Với lòng thành tín, con cung kính
    Dâng cúng dồi dào thức uống ăn.
  6. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  7. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

13- Chuyện thứ mười ba – Lâu Ðài Của Nàng Dâu (Sunisà-Vimàna)

Tại Sàvatthi, trong ngôi nhà kia, có một nàng dâu vốn là một thiện gia tín nữ, thấy một Trưởng lão Tỷ-kheo đã đoạn tận lậu hoặc đến nhà khất thực, lòng nàng tràn ngập hân hoan, hạnh phúc, thầm nghĩ: ‘Một phước điền vô thượng đã xuất hiện cho ta’, nàng bèn cầm phần chiếc bánh nếp mà nàng đã nhận cho mình và cung kính cúng dường vị Tỷ-kheo. Vị ấy nhận bánh, nói lời tùy hỷ công đức và tiếp tục đi.

Về sau, nàng dâu ấy qua đời và được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba. Phần còn lại cũng giống như đã được giải thích ở trên.

  1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương với ánh quang.
    Nàng đứng, toàn thân đều tỏa sáng
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  5. Con làm dâu ở tại nhà chồng,
    Khi được làm người giữa thế nhân,
    Thấy một Tỷ-kheo vô lậu hoặc,
    An nhiên tâm trí, chẳng mê lầm.
  6. Với người, con có tín tâm thành,
    Dâng bánh bằng tay của chính mình,
    Trước đã cúng người phần chiếc bánh,
    Nay con hưởng thú Lạc Viên đình.
  7. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  8. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân.
    Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. Chuyện thứ mười bốn – Lâu Dài Nàng Dâu Thứ Hai (Dutiyasunisà-Vimàna)

14- Chuyện thứ mười bốn – Lâu Dài Nàng Dâu Thứ Hai (Dutiyasunisà-Vimàna)

Giống chuyện Lâu Ðài Nàng Dâu ở trước, chỉ trừ điểm: Ở đây, vật cúng dường là phần bánh bột gạo (Kummàsa) 

15- Chuyện thứ mười lăm – Lâu Ðài Của Uttarà (Uttarà-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Ràjagaha, ở chỗ nuôi sóc trong Trúc Lâm. Thời ấy có một người nghèo tên là Punna, sống làm công cho một vị triệu phú chủ ngân khố ở Ràjagaha. Vợ y có tên Uttarà và con gái cùng tên Uttarà là hai người duy nhất trong nhà y.

Ngày kia, tại Ràjagaha có lễ hội suốt bảy ngày. Ông triệu phú nghe tin đó, nên khi Punna đến vào sáng sớm, ông bảo:

– Này chú, tất cả gia nhân ta đều muốn cử hành lễ hội, vậy chú muốn dự lễ hay muốn làm việc lấy tiền công?

Punna đáp:

– Thưa ông chủ, những việc như lễ hội để dành cho người giàu, chứ nhà con không có cả gạo để nấu cháo ngày mai nữa. Lễ hội có nghĩa gì với con chứ? Nếu có đôi bò, con sẽ đi cày.

Ông chủ đáp:

– Ðược rồi, thế thì lấy bò ra.

Punna đem đôi bò lực lưỡng và cây cày tốt về bảo vợ:

– Nàng ơi, dân chúng trong thành đang làm lễ hội. Còn ta sắp đi làm công vì nhà ta nghèo. Nhưng ngay hôm nay, nàng hãy nấu gấp đôi phần ăn dành cho ta và đem đến chỗ ta.

Sau đó y ra đồng.

Bây giờ, Trưởng lão Sàriputta đã nhập Diệt định suốt bảy ngày, vừa xuất định, bèn quán sát thế giới và suy nghĩ: ‘Hôm nay ta sẽ có dịp làm ân cho ai?’

Tôn giả thấy Punna xuất hiện trong phạm vi nhận thức của mình, liền quán sát thêm và suy nghĩ: ‘Nay người này có phải là thiện nam tử chăng? Y có thể làm ơn cho ta chăng?

Khi nhận thấy Punna là một thiện nam tử có khả năng làm ơn phước, và vì thế sẽ tạo nên kết quả lớn cho y, Tôn giả cầm y, bát đi ra đồng nơi y làm việc cày bừa, rồi đứng đó nhìn vào bụi cây ở cuối bờ ruộng.

Ngay khi Punna thấy vị Trưởng lão, y ngừng cày, đảnh lễ Tôn giả với năm phần thân thể sát đất và tự nhủ:

– Vị ấy cần cái tăm xỉa răng.

Y đưa Tôn giả cái tăm xỉa răng đã làm sẵn sàng để dùng. Sau đó Tôn giả kéo bình bát và khăn lọc nước từ túi xách ra và đưa cho y. Y tự nhủ: ‘Vị ấy cần nước uống’. Punna bèn cầm lấy khăn lọc nước uống và trao cho Tôn giả.

Tôn giả suy nghĩ: ‘Người này ở tại chính ngôi nhà cuối cùng trong làng. Nếu ta đi đến cửa nhà ấy, vợ y sẽ không thấy ta. Vậy, ta sẽ đứng lại ngay tại đây cho đến khi vợ y bước ra đường cái với phần ăn của y’.

Tôn giả đợi đó một lát, và khi biết rằng vợ y đã lên đường, Tôn giả ra đi về phía thành phố. Khi người vợ thấy vị Truởng lão trên đường, bà suy nghĩ: ‘Thỉnh thoảng ta có một vật xứng đáng để cúng dường thì ta lại không thấy ai xứng đáng để nhận nó. Thỉnh thoảng ta gặp một người xứng đáng, ta lại không có gì xứng đáng cúng dường. Song hôm nay ta lại gặp một nguời xứng đáng, đồng thời ta lại có vật xứng đáng cúng dường. Chắc chắn ngài sẽ làm ơn cho ta’.

Bà đặt đĩa thức ăn xuống đó, đảnh lễ vị Trưởng lão với năm phần thân thể sát đất rồi thưa:

– Bạch Tôn giả, xin hãy làm ơn nhận cho tôi tớ của Tôn giả mà không quan tâm đến món thực phẩm này ngon hay dở’.

Lúc ấy vị Trưởng lão đưa bình bát ra, và khi bà cầm đĩa với một tay và trao thức ăn cúng dường Tôn giả bằng tay kia, Tôn giả bảo:

– Thôi đủ rồi.

Khi vừa đúng nửa dĩa được cúng dường, Tôn giả lấy tay che bình bát lại. Bà đáp:

– Bạch Tôn giả, một phần ăn không thể chia hai. Nếu Tôn giả không muốn làm ơn cho tôi tớ của ngài trong đời này thì xin Tôn giả làm ơn cho đời sau. Con muốn cúng dường tất cả, chứ không phải để lại bất cứ vật gì.

Nói vậy xong, sau khi đặt mọi vật vào bình bát, bà phát nguyện:

– Ước mong con được dự phần vào Ðạo pháp mà Tôn giả đã chứng đắc.

Tôn giả đáp:

– Mong được như vậy.

Tôn giả nói lời tùy hỷ công đức lúc đang đứng, và khi Tôn giả đã ngồi xuống một nơi thuận lợi có nuớc chảy, Tôn giả thọ thực.

Người vợ ấy về nhà, kiếm một ít gạo và nấu cơm nữa.

Trong lúc Punna đã cày xong nửa thửa ruộng, và không thể nào chịu nổi cơn đói, y tháo cái cày ra khỏi đôi bò, đi vào bóng cây, ngồi xuống nhìn ra đường.

Bấy giờ vợ y đang đi trên đường, cầm thức ăn và thấy y, bà suy nghĩ: ‘Chàng đang ngồi đó mong chờ ta vì bị cơn đói hành hạ. Giả sử chàng mắng chửi, bảo: ‘Nó đi trễ quá!’, và giả sử chàng lấy gậy đánh ta, thì việc ta làm vừa rồi sẽ không có kết quả gì. Vậy ta sẽ nói trước với chàng để ngăn cản việc ấy’.

Với ý tưởng này trong trí, bà bảo:

– Thưa phu quân, hôm nay, ngay chính ngày duy nhất này, hãy tạo nhiệt tâm, tinh tấn, đừng làm cho việc thiếp vừa làm trở thành vô hiệu quả. Trong khi thiếp đang đem cơm cho chàng từ sáng sớm, thiếp thấy vị Tướng quân Chánh pháp đi trên đường. Thiếp cúng dường ngài phần ăn của chàng và sau đó về nhà nấu cơm lại và đem đây. Xin phu quân hãy tạo nhiệt tâm.

Y đáp:

– Nàng đang nói gì thế?

Và khi đã nghe câu chuyện, y đáp:

– Này nàng, nàng đã làm rất chánh đáng khi đem phần ăn của ta cúng dường bậc xứng đáng này. Hôm nay, lúc tảng sáng, ta cũng cúng dường ngài cái tăm xỉa răng và nước súc miệng.

Và với tâm thành tín, y thỏa mãn với câu chuyện vợ y vừa kể, rồi mệt mỏi vì ăn cơm trễ trong ngày, y kê đầu lên lòng vợ và ngủ thiếp đi.

Bấy giờ, tất cả phần đất được cày từ sáng sớm, gồm cả đất được nghiền nát, đều trở thành vàng sáng chói và luôn giữ vẻ rực rỡ, như một đám hoa kanikàra màu vàng óng ả.

Khi Punna thức dậy, y nhìn và bảo vợ:

– Này nàng, ta thấy hình như cả đám đất được cày đã trở thành vàng. Nàng hãy cho ta biết, chẳng phải mắt ta bị lóa vì ta ăn cơm quá trễ lúc xế trưa đấy chứ?

Bà đáp:

– Thưa phu quân, thiếp cũng thấy đất có vẻ như thế.

Y đứng lên, đến đó cầm một cục đất đập vào đầu cái cày, thấy nó chính là vàng bèn kêu to:

– Ô kìa, kết quả việc bố thí cúng dường vị Tướng quân Chánh pháp xứng đáng ấy đã xuất hiện ngay hôm nay rồi. Song rõ ràng là ta không thể hưởng riêng số tài sản quá lớn như vậy.

Y đổ đầy vàng vào cái dĩa vợ y đem lại và đi đến cung vua, khi được vua cho phép, y bước vào đảnh lễ, và vua hỏi:

– Này nhà ngươi, có việc gì thế?

Y đáp:

– Tâu Hoàng Thượng, hôm nay mảnh đất hạ thần đã cày đều biến thành vàng khối cả, và vẫn còn nguyên như vậy. Số vàng ấy này cần phải được trình lên Hoàng thượng.

– Nhà ngươi là ai? Nhà vua hỏi.

– Tiểu thần tên là Punna.

– Song nhà ngươi đã làm gì hôm nay?

– Tảng sáng nay, tiểu thần dâng cái tăm xỉa răng và nuớc súc miệng lên vị Tướng quân Chánh pháp và vợ tiểu thần dâng ngài thức ăn được đem đến cho tiểu thần.

Khi vua nghe vậy, ngài bảo:

– Ngay hôm nay, kết quả do bố thí cúng dường đã xuất hiện. Này nhà ngươi, ta sẽ làm gì đây?

– Xin Hoàng thượng phái nhiều ngàn chiếc xe đi chở vàng về dâng Hoàng thượng.

Nhà vua truyền đoàn xe ra đi.

Khi quân của vua cầm vàng lên và bảo:

– Vàng này thuộc về Hoàng thượng.

Mỗi thỏi vàng họ cầm đều hóa thành đất. Khi họ về trình vua, ngài hỏi họ:

– Các người nói gì khi cầm vàng?

Họ đáp:

– Chúng thần bảo vàng thuộc về Hoàng thượng.

Nhà vua bảo:

– Thế thì các ngươi hãy đến lần nữa và bảo trong lúc nhặt vàng: ‘Vàng này thuộc về Punna’.

Họ tuân lệnh. Mọi thỏi vàng được nhặt lên vẫn giữ nguyên trạng. Họ mang vàng về chất thành đống trong sân chầu. Ðống vàng cao đến tám mươi cubít (khoảng 40 mét) . Nhà vua triệu tập đám thị dân đến hỏi:

– Người nào trong thành này có nhiều vàng như vậy chăng?

– Tâu Hoàng Thượng, không.

– Thế phải tặng cái gì cho người có như vậy?

– Tâu Hoàng thượng, chiếc lọng của một đại phú chủ ngân khố (setthi)

Nhà vua phán:

– Hãy cho ngươi ấy làm vị Ðại phú gia.

Rồi ngài trao cho y chiếc lọng Ðại phú gia và nhiều vàng bạc.

Lúc ấy Punna trình nhà vua:

– Tâu Hoàng thượng, suốt thời gian qua chúng thần ở đậu nhà người khác. Xin Hoàng thượng ban cho chúng thần một nơi để ở.

Nhà vua bảo:

– Thế thì hãy xem đây. Chốn này giống như rừng hoang. Hãy dọn dẹp sạch sẽ mọi sự và xây nhà mới.

Rồi vua chỉ cho y thấy cảnh nhà vị Ðại phú gia trước kia. Chỉ trong vài ngày, ngài đã truyền xây một nhà mới trên khuôn viên ấy, rồi cử hành lễ tân gia và lễ nhận chức vụ cùng một thể. Y lại làm lễ cúng dường Tăng chúng với đức Phật là vị thượng thủ suốt bảy ngày.

Sau đó, vị Ðại phú gia cũ ở Ràjagaha đi hỏi con gái của Puna về làm vợ cho con trai ông. Y đáp:

– Tôi không muốn gả con gái tôi.

Vị Ðại phú gia bảo:

– Ðừng làm như vậy. Ông đã được may mắn ngay thời gian ông đang ở nhà chúng tôi. Nay hãy gả con gái ông cho con trai tôi.

Punna đáp:

– Con trai ông không phải là kẻ mộ đạo. Con gái tôi không thể sống thiếu sự nương tựa Tam Bảo. Chỉ vì vậy mà tôi không muốn gả con gái tôi cho cậu ấy.

Sau đó nhiều người có địa vị đến khẩn cầu y:

– Ðừng phá vỡ mối giao hảo của ông với ông này. Xin hãy gả con gái cho con ông ấy.

Y chịu theo lời khẩn cầu của họ và gả con gái đúng vào ngày rằm trăng tròn tháng Asàlhi (khoảng tháng sáu-bảy). Nàng đi về sống với nhà chồng.

Từ khi về đó, nàng không được phép đến gần Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni, cũng không được bố thí cúng dường hoặc nghe pháp. Khoảng hai tháng rưỡi như vậy trôi qua, nàng hỏi đám nô tỳ hầu cận:

– Nay mùa mưa còn lại bao lâu nữa?

– Thưa tiểu thư, còn nửa tháng.

Nàng nhắn tin với cha: ‘Tại sao họ lại thả con vào cảnh lao tù như vậy? Thà rằng trước kia cha đóng dấu trên người con và cho con làm nô tỳ kẻ khác còn hơn gả con vào trong một gia đình không có lòng tin vào đạo. Từ lúc đến đây, con không được phép làm một thiện sự công đức nào cả, thậm chí cũng không được nhìn một Tỷ-kheo’.

Bấy giờ cha nàng, sau khi bày tỏ nỗi buồn phiền, bèn nói: ‘Than ôi, thật khổ thân con ta!’. Rồi truyền đem mười lăm ngàn đồng kahàpana đến giao cho nàng và nhắn tin: ‘Trong kinh thành này có một kỹ nữ sang trọng tên là Sirimà. Mỗi ngày nàng kiếm được một ngàn (kahàpana). Con hãy dùng số tiền này nhờ người đưa nàng đến gặp con, trao nàng cho chồng con, rồi con hãy tự mình thực hành mọi thiện sự như con muốn’.

Uttarà làm như vậy. Khi chồng nàng thấy Sirimà liền hỏi:

– Chuyện gì đây?

Nàng đáp:

– Thưa phu quân, trong nửa tháng này xin hãy để cho cô bạn của thiếp săn sóc chàng, còn suốt nửa tháng này thiếp không muốn làm gì ngoài việc cúng dường bố thí và nghe pháp.

Chồng nàng nhìn kiều nữ kia và dục vọng khởi lên, liền đồng ý ngay:

– Ðược rồi, tốt lắm.

Về phần Uttarà, nàng gởi lời cung thỉnh Tăng chúng với đức Phật là bậc thượng thủ: ‘Bạch Thế Tôn, suốt nửa tháng này xin đừng đi nơi nào khác, mà chỉ nhận lễ cúng dường tại đây’.

Khi nhận được sự đồng ý của bậc Ðạo Sư, nàng nói:

– Từ nay cho đến Ðại lễ Tự Tứ (Mahàpavàranà), ta sẽ có thể hầu cận bậc Ðạo Sư và nghe pháp.

Với lòng hân hoan về việc ấy, nàng đi quanh sắp đặt mọi sự cần làm trong nhà bếp, bảo: ‘Hãy nấu cháo cách này, làm bánh cách nọ’.

Bấy giờ chồng nàng suy nghĩ: ‘Ngày mai là Ðại lễ Tự Tứ, vừa đứng ở cửa sổ nhìn ra nhà bếp vừa tự hỏi: ‘Bây giờ không biết con bé ngốc nghếch này đang bận làm gì?’ Chàng thấy nàng đang đi quanh, thân ướt đẫm mồ hôi, dính đầy tro bụi, lấm lem cả than lẫn bồ hóng do mọi việc chuẩn bị, liền nói:

– Con bé ngốc nghếch này không thụ hưởng xa hoa lạc thú trong một nơi như thế này. Nó cứ đi quanh quẩn với lòng hân hoan chỉ vì ước muốn hầu hạ đám Tỷ-kheo trọc đầu.

Rồi chàng cười to và bỏ đi. Khi chàng bỏ đi, Sirimà đang đứng cạnh chàng và tự nhủ: ‘Nay chàng thấy gì khiến chàng cười to vậy?’ Rồi nhìn ra cửa sổ ấy, nàng thấy Uttarà và suy nghĩ: ‘Chàng nhìn vợ và cười to, chắc có sự mật thiết giữa hai người’.

Bấy giờ chuyện kể rằng, mặc dù kiều nữ này đã làm khách mời suốt nửa tháng trong nhà này, tuy thế, vì nàng đang hưởng thụ xa hoa lạc thú, nàng quên nghĩ đến địa vị khách mời của mình, lại có ý tưởng: ‘Ta là chủ nhà này’.

Nàng đem lòng căm hận Uttarà và tự nhủ: ‘Ta sẽ phá nó’, liền đi xuống từ thượng lầu, vào nhà bếp và đến nơi người ta đang làm bánh, lấy cái muỗng lớn múc một ít dầu bơ nóng sôi, đi về phía Uttarà.

Uttarà thấy nàng đi đến, suy nghĩ: ‘Bạn ta đã làm ơn cho ta. Chu vi quả đất này quá hẹp, Phạm Thiên giới quá thấp, song đức độ của bạn ta thật vĩ đại vì nhờ nàng, ta mới có thể cúng dường và nghe pháp. Nếu ta tức giận nàng, thì dầu bơ này sẽ làm bỏng ta, nếu không, nó sẽ không làm bỏng ta’.

Dầu bơ ấy, dù được tưới trên đỉnh đầu nàng, vẫn giống như nước lạnh vì toàn thân nàng được thấm nhuần từ tâm. Rồi khi các nô tỳ của Uttarà thấy Sirimà tiến đến phía họ sau khi đã múc đầy một muỗng bơ khác và suy nghĩ: ‘Bơ này cũng sẽ nguội lạnh sao?’, họ đe dọa nàng:

– Ơ kìa, ác nữ nhân kia! Sao ngươi dám tưới dầu sôi trên đầu bà chủ ta?

Rồi từ mọi nơi trong nhà bếp, họ xông tới lấy tay chân đấm đá nàng và xô xuống đất. Dù Uttarà muốn ngăn cản họ, nàng cũng không thể chận họ được.

Sau đó Uttarà đứng bên Sirimà, xua các nô tỳ lui ra, và nói với Sirimà bằng giọng trách móc:

– Tại sao cô lại làm một việc tai hại như vậy?

Rồi nàng lấy nước ấm tắm cho kiều nữ và xoa đầu nàng ấy với loại dầu đã được lọc kỹ cả trăm lần.

Ngay lúc ấy, Sirimà nhận ra sự thực nàng chỉ là khách mời, bèn suy nghĩ: ‘Ta đã làm một việc tai hại khi rắc dầu sôi lên đầu nàng. Thậm chí nàng cũng không ra lệnh cho đám nô tỳ: ‘Giữ lấy nó!’, nàng lại còn xua họ đi ra khi họ đả thương ta và làm cho ta những việc đáng làm. Nếu ta không xin nàng thứ lỗi, đầu ta sẽ bị vỡ ra bảy mảnh’.

Nàng liền quỳ xuống chân Uttarà và nói:

– Xin bà tha thứ cho tôi.

Uttarà đáp:

– Ta là cô con gái còn có cha. Nếu cha ta tha thứ, ta sẽ tha thứ nàng.

– Thưa bà, tôi sẽ xin lỗi cả thân phụ bà là Ðại phú gia Punna nữa.

– Thân phụ Punna là người cha đã sinh ra ta trong vòng luân hồi sinh tử (samsàra). Song nếu vị thân phụ đã sinh ra ta trong vòng không luân hồi (Nibbàna) tha thứ nàng thì ta sẽ tha thứ.

– Thế ai là vị thân phụ sinh ra bà trong vòng không luân hồi?

– Ðức Phật Chánh Ðẳng Giác.

– Tôi không quen biết Ngài. Làm sao bây giờ?

– Bậc Ðạo Sư sẽ đến đây vào ngày mai với Tăng chúng của Ngài. Nàng hãy đem bất cứ lễ vật cúng dường nào nàng sắm được và đến đây xin Ngài tha thứ.

– Thưa bà, được lắm.

Sirimà nói xong, đứng dậy về nhà nàng, ra lệnh cho năm trăm nữ tỳ chuẩn bị nhiều loại món ăn cứng và mềm, và ngày hôm sau, nàng đem mọi lễ vật thiết đãi ấy đi đến nhà Uttarà rồi ngồi đợi, chứ không dám đặt thứ gì vào bình bát của Tăng chúng với đức Phật là vị thượng thủ. Chính Uttarà nhận lấy mọi lễ vật và sắp đặt mọi việc cả. Còn Sirimà và đoàn tùy tùng của nàng đợi khi buổi thọ thực hoàn tất, liền quỳ dưới chân bậc Ðạo Sư, lúc ấy bậc Ðạo Sư hỏi nàng:

– Cô có lỗi gì?

– Bạch Thế Tôn, hôm qua con đã làm như vậy như vậy, song bạn con đã chận đám nô tỳ ấy đang đả thương con. Thay vào đó nàng đã làm ơn cho con. Con nhận thấy đức hạnh của nàng, bèn xin nàng tha lỗi, song nàng bảo với con rằng khi nào con được Thế Tôn tha lỗi thì ‘Ta sẽ tha lỗi’.

– Có đúng như cô ấy nói không, Uttarà?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Bạn con đã đổ dầu sôi lên đầu con.

– Thế lúc ấy con nghĩ gì?

– Con nghĩ: ‘Chu vi quả đất quá hẹp, Phạm Thiên giới quá thấp, song đức hạnh của bạn con thật vĩ đại, bởi vì nhờ nàng giúp đỡ, con mới có thể cúng dường lễ vật và nghe pháp. Nếu con tức giận nàng thì dầu ấy cứ làm bỏng con; còn nếu không thì nó không làm bỏng con’. Nghĩ như vậy, con đã làm cho nàng được thấm nhuần từ tâm tỏa rộng.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Lành thay, lành thay. Uttarà, ta cần phải nhiếp phục hận sân như vậy.

Và để làm sáng tỏ ý nghĩa này: ‘Ta phải lấy vô sân nhiếp phục người sân hận, nhiếp phục người phỉ báng bằng cách không phỉ báng; nhiếp phục người mạ lị bằng cách không mạ lị; nhiếp phục người keo kiệt bằng cách đem cho tài vật của mình; và nhiếp phục người nói dối bằng lời chân thật’, Ngài ngâm vần kệ:

Ta lấy vô sân thắng hận sân,
Lấy hiền lương nhiếp phục tà gian,
Lấy hào phóng thắng người keo kiệt,
Lấy thật chân thắng kẻ vọng ngôn.

Khi Ngài đã ngâm vần kệ xong, Ngài thuyết giảng Tứ Ðế, Uttarà được an trú vào quả Nhất Lai. Còn chồng nàng và cha mẹ chồng nàng đều đắc quả Dự Lưu. Về sau, khi Uttarà từ trần, nàng tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba.

Khi Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành lên thiên giới như đã tả ở trên, thấy Thiên nữ Uttarà, bèn đặt câu hỏi nàng qua vần kệ bắt đầu với:

  1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
    Nàng đứng, toàn thân đều tỏa sáng
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức giữa thế nhân,
    Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?’
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng gỉải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  5. Tính con không tật đố, ghen hờn,
    Keo kiệt, khi đang sống với chồng,
    Tuân phục chồng, không hề giận dỗi,
    Giữ ngày trai giới thật tinh cần.
  6. Vào ngày mười bốn với mười lăm,
    Mồng tám, những ngày có sáng trăng,
    Ðặc biệt là ngày trong nửa tháng
    Liên quan Bố-tát giới tu thân.
  7. Con hành trì giới Bát quan trai,
    Ðức hạnh bản thân giữ suốt đời,
    Như vậy trong Lâu đài lạc trú,
    Ðiều thân tiết độ, cúng dường hoài.
  8. Hại mạng sát sanh, con tránh xa,
    Giữ mình không dối trá sai ngoa,
    Cũng không lấy vật gì phi pháp,
    Tránh rượu nồng say, các dục tà.
  9. Hân hoan giữ Ngũ giới tu hành,
    Thánh Ðế con nghiên cứu thật tinh,
    Ðệ tử đức Cồ-đàm Chánh Giác,
    Nhãn quan thấu suốt, đại uy danh.
  10. Bản thân giữ đạo đức nghiêm trang,
    Ðạt được thanh danh thật vẻ vang,
    Nay thọ hưởng công mình đã tạo,
    Con thường hạnh phúc lẫn khang an.
  11. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  12. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.

Và bạch Tôn giả, xin hãy làm ơn nhân danh con, cung kính đảnh lễ chân Thế Tôn và nói: ‘Tín nữ có tên Uttarà cung kính khấu đầu đảnh lễ chân Thế Tôn’ được chăng? Thực sự, bạch Tôn giả, nếu đức Thế Tôn có tuyên bố cho con đạt được một trong các Sa-môn quả, thì điều ấy cũng không lạ gì’.

Về sau đức Thế Tôn đã tuyên bố quả Bất Lai cho nàng. 

16- Chuyện thứ mười sáu – Lâu Ðài Của Sirimà (Sirimà-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn đang trú tại Ràjagaha (Vương Xá) ở chỗ nuôi sóc trong Trúc Lâm. Thời ấy Sirimà, kỳ nữ sang trọng đã được nói đến trong chuyện trước, cũng từ giã nghề nghiệp ô uế của nàng, vì nàng đã đắc quả Dự Lưu và bắt đầu cúng dường thực phẩm hằng ngày cho tám vị trong Tăng chúng được chọn theo phiếu.

Từ buổi đầu, tám Tỷ-kheo đã đến nhà nàng hằng ngày. Nàng thường múc đầy các bình bát và nói: ‘Xin hãy dùng một ít bơ, hãy dùng một ít sữa…’ Phần ăn mỗi người nhận được đủ cho ba bốn người. Mỗi ngày số thực phẩm cúng dường có giá trị bằng mười sáu kahàpana (giá hai con bò sữa).

Một hôm, một Tỷ-kheo đã thọ hưởng buổi ngọ trai dành cho tám vị xong, bèn đi đến một tinh xá cách đó ba do-tuần (khoảng 20 km).

Bấy giờ, về buổi chiều, trong lúc vị ấy ngồi hầu cận chư Trưởng lão, chư vị hỏi:

– Này Hiền hữu, Hiền hữu đã thọ thực tại đâu ngay trước khi đến đây?

– Tiểu đệ đã dự buổi ngọ trai dành cho tám vị tại nhà cô Sirimà.

– Thế cô Sirimà đem cúng dường thực phẩm mà cô ấy đã làm cho ngon lành chăng?

– Tiểu đệ không thể nào tả hết buổi ngọ trai kia. Cô ấy cúng dường thực phẩm đã chuẩn bị rất thịnh soạn. Chỉ một phần ăn một người nhận được cũng đủ cho ba bốn người. Song còn đặc biệt thù thắng hơn cả lễ vật được bố thí là dung sắc của cô ấy, vì cô ấy có dung sắc tuyệt mỹ thế này thế này…’ Rồi vị ấy kể lại mọi vẻ đẹp hấp dẫn của nàng.

Bấy giờ, một Tỷ-kheo đã nghe lời tường thuật mọi vẻ diễm lệ của nàng, mặc dù chưa thấy nàng, chỉ mới nghe kể về nàng, vị ấy đã đâm ra si tình nàng và nghĩ thầm: ‘Ta muốn đi nhìn nàng’.

Vị ấy bèn nói về số hạ lạp (mùa an cư đã trải qua) và hỏi một Tỷ-kheo về vị trí của mình trong Giáo đoàn. Khi nghe vị kia bảo:

– Này Hiền hữu, ngày mai Hiền hữu sẽ là vị Tỷ-kheo trưởng thượng, Hiền hữu sẽ được dự một buổi ngọ trai dành cho tám vị.

Vị ấy liền cầm y bát ngay lúc ấy, và khởi hành từ lúc rạng đông, vị ấy vào phòng phát phiếu và đã làm vị Tỷ-kheo trưởng thượng, vị ấy đi thọ dụng một buổi ngọ trai dành cho tám vị.

Song ngay đúng lúc vị Tỷ-kheo đã thọ trai ngày hôm trước vừa ra đi, thì một căn bệnh phát ra trong thân thể Sirimà. Vì thế nàng cởi hết tư trang và đi nằm.

Lúc ấy đám gia nhân của nàng thấy các Tỷ-kheo đã đến để thọ buổi ngọ trai dành cho tám vị, liền báo tin cho nàng. Vì không thể chính tay cầm các bình bát hoặc mời chư Tăng an tọa, nàng ra lệnh cho các nữ tỳ:

– Này các chị, hãy cầm lấy bình bát, mời chư Trưởng lão an tọa, dâng chư vị nước cháo để uống, rồi dọn các thức ăn cứng (bánh trái), và khi đến giờ ngọ trai (buổi cơm chính trước ngọ), hãy múc đầy các bình bát và dâng chư vị.

Họ làm theo lệnh ấy, Nàng lại bảo:

– Hãy quàng tay qua người tôi và đưa tôi vào. Tôi muốn đảnh lễ chư vị Tôn giả.

Rồi nhờ họ dìu dắt, nàng được đưa vào tiếp kiến các Tỷ-kheo và đảnh lễ chư vị với thân hình run rẩy. Khi vị Tỷ-kheo (đã si tình nàng) thấy nàng, vị ấy suy nghĩ: ‘Dầu đang bệnh, nữ nhân này vẫn có dung sắc mỹ lệ sáng tươi, vậy thì lúc nàng khỏe mạnh, tô điểm mọi thứ nữ trang, nàng còn đẹp đến dường nào?’ và các lậu hoặc chất chứa từ vô lượng kiếp nổi dậy tấn công vị ấy. Vị ấy trở nên thẫn thờ, không thể ăn cơm được nữa, bèn cầm bát trở về tinh xá, đậy bình bát lại, để sang một bên, và trải một góc chiếc y rồi nằm xuống. Sau đó dù một bạn đồng tu đến van nài, vị ấy cũng không thể ăn gì được. Vị ấy cứ thế nhịn ăn.

Ngay tối hôm ấy, Sirimà từ trần. Nhà vua gửi lời nhắn với bậc Ðạo Sư: ‘Bạch Thế Tôn, Sirimà, em út của y sĩ Jìvaka đã từ trần’. Khi bậc Ðạo Sư nghe tin ấy, Ngài gửi lời nhắn với nhà vua: ‘Không nên hỏa thiêu thi hài Sirimà. Hãy đưa thi hài ấy xuống đặt ở chỗ các xác chết chưa thiêu và canh giữ để các loài diều quạ đừng ăn thịt nó’.

Nhà vua làm theo như vậy.

Ba ngày liên tiếp trôi qua, vào ngày thứ tư xác bắt đầu sình lên. Dòi bọ bắt đầu bò ra từ chín lỗ. Toàn thân chẳng khác nào một thùng gạo thối. Nhà vua truyền lệnh khắp kinh thành:

– Ngoại trừ trẻ con phải giữ trong nhà, tất cả mọi người nào không đi viếng Sirimà đều phải nộp phạt tám kahàpana (giá tiền một con bò sữa).

Rồi nhà vua gửi lời nhắn với bậc Ðạo Sư: ‘Xin chư Tăng cùng với đức Phật là vị thượng thủ hãy đến viếng Sirimà’.

Bậc Ðạo Sư thông báo với các Tỷ-kheo:

– Chúng ta sẽ đi viếng Sirimà.

Vị Tỷ-kheo trẻ đã nằm dài suốt bốn ngày không để ý gì lời ai nói, cũng không ăn uống gì. Thậm chí thức ăn trong bình bát đã hôi thối, vị ấy cũng không nhấc chân lên. Nay một vị đồng tu đi đến bảo:

– Này Hiền hữu, bậc Ðạo Sư sắp đi viếng Sirimà đấy.

Chỉ mới nghe nhắc đến tên Sirimà, vị Tỷ-kheo trẻ, dù đang đói lả người, cũng vùng dậy. Vị đồng bạn hỏi:

– Bậc Ðạo Sư sắp đi viếng Sirimà, thế Hiền hữu có đi không?

– Tôi sẽ đi.

Vị ấy đáp rồi vừa đổ cơm ra, vị ấy vừa rửa bình bát và cùng đi với Tăng chúng.

Bậc Ðạo Sư được chúng Tỷ-kheo vây quanh đứng thành một nhóm. Hội chúng Tỷ-kheo-ni, đám triều thần và thiện nam tín nữ đứng riêng thành từng nhóm. Bậc Ðạo Sư hỏi nhà vua:

– Thưa Ðại vương, cô ấy là ai thế?

– Bạch Thế Tôn, đây là em gái của Jìvaka, tên là Sirimà.

– Ðây là Sirimà ư?

– Chính thế, bạch Thế Tôn.

– Thế thì hãy đánh trống truyền lệnh khắp kinh thành rằng bất kỳ ai muốn đều có thể chiếm được Sirimà với giá một ngàn kahàpana.

Nhà vua truyền làm như vậy.

Chẳng có ai buồn nói ‘có’ hay ‘không’ trước lời đề nghị ấy cả. Nhà vua nói với bậc Ðạo Sư:

– Bạch Thế Tôn, không ai nhận lời cả.

– Thưa Ðại vương, thế thì hạ giá xuống.

Nhà vua lại bảo truyền lệnh bằng trống.

– Hãy lấy nàng với giá năm trăm kahàpana.

Khi không thấy ai nhận, nhà vua lại truyền trống lệnh:

– Hãy lấy Sirimà với giá hai trăm rưỡi!

– Với giá hai trăm.

– Với giá một trăm.

– Với giá năm chục.

– Với giá hai mươi lăm kahàpana.

– Với giá mười kahàpana.

– Với giá năm kahàpana.

– Với giá một kahàpana.

– Với giá một nửa kahàpana.

– Với giá một phần tư kahàpana.

– Với giá một màsaka (= 1/10 kahàpana).

– Với giá một kàkanikà (1/10 màsaka).

Và cuối cùng nhà vua truyền trống lệnh:

– Hãy nhận lấy không tốn tiền!

Song cũng chẳng có ai nói ‘có’ hay ‘không’ trước lời đề nghị trên cả. Nhà vua nói:

– Bạch Thế Tôn, không ai muốn nhận nàng dù chẳng tốn tiền.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, hãy xem đây, một nữ nhân được cả thế giới ái mộ ngay trong kinh thành này, ngày trước, họ đưa một ngàn kahàpana để hưởng một ngày bên cô ấy, thế mà bây giờ không ai muốn nhận lấy dù chẳng tốn gì cả. Ðấy sắc thân là như vậy, đầy mầm thối nát hủy hoại, chỉ được tô điểm ngọc vàng để làm cho hấp dẫn, thật ra đó là một đống thịt đầy thương tích vì có chín lỗ chảy chất ô uế, được kết hợp lại nhờ ba trăm cái xương, luôn luôn đau nhức, đã làm chủ đề cho biết bao tư tưởng vì thế giới ngu si này cứ chiêm ngưỡng nó, một tấm thân không chút bền vững.

Và Ngài ngâm kệ để thuyết giảng điều này:

Hãy ngắm hình nhân được vẽ màu,
Kết thành một đống vết thương đau,
Chủ đề của biết bao tư tưởng,
Nhức nhối, không bền vững chút nào.

Khi kết thúc bài giảng, vị Tỷ-kheo si tình nàng Sirimà đã xả ly mọi nỗi tham đắm dục vọng, vị ấy phát triển thiền quán và thành tựu quả A-la-hán. Tám mươi bốn ngàn người khác đắc Pháp nhãn.

Và thời ấy Thiên nữ Sirimà, sau khi đã chiêm ngưỡng cảnh vinh quang thành đạt của nàng, lại chiêm ngưỡng nơi nàng đã giã từ và thấy đức Thế Tôn được hội chúng Tỷ-kheo vây quanh cùng đám dân chúng đang tu tập quanh thi thể nàng.

Rồi được năm trăm tiên nữ của nàng hộ tống cùng năm trăm cỗ xe, nàng xuất hiện nguyên hình, bước xuống khỏi cỗ xe, đảnh lễ đức Thế Tôn cùng với đoàn tùy tùng của nàng rồi nàng đứng yên trong dáng điệu sùng kính.

Lúc ấy Tôn giả Vangìsa đứng gần đức Thế Tôn, liền thưa với Ngài:

– Bạch Thế Tôn, con xin phép hỏi một câu.

– Này Vangìsa, hãy hỏi đi. Ðức Thế Tôn đáp.

Tôn giả Vangìsa liền hỏi Thiên nữ Sirimà câu này:

  1. Ðàn ngựa thắng cương khéo điểm trang,
    Lực thần thẳng tiến xuống trần gian,
    Năm trăm xa mã theo hầu cận,
    Ðược đám quản xa giục bước đường.
  2. Ðứng trong xa mã đại huy hoàng,
    Tỏa sáng, dung quang thật vẹn toàn,
    Rực rỡ như ngàn sao chiếu rọi,
    Hỡi nàng Thiên nữ sắc vinh quang,
    Từ loài sanh chúng nào đi đến
    Ðảnh lễ dưới chân Phật Thượng nhân?

Khi được vị Trưởng lão hỏi vậy, Thiên nữ giải thích về bản thân nàng:

  1. Người bảo, tối cao giữa hữu tình
    Là nơi Thiên chúng thích thay hình,
    Từ sanh loại ấy, nàng Thiên nữ
    Biến hóa hình dung thỏa ý mình,
    Con đã đến đây xin đảnh lễ
    Phật-đà tối thượng giữa quần sanh.

Khi Thiên nữ đã giải thích như vậy về sự tái sanh của nàng giữa chư Thiên Hoá Lạc, vị Trưởng lão lại muốn nàng kể về kiếp trước của nàng, công đức thiện nghiệp nàng đã tạo và lòng mộ đạo của nàng:

  1. Thuở trước nàng theo thiện hạnh nào,
    Vinh quang vô lượng ấy nhờ đâu,
    Phi hành đại lực, đầy an lạc,
    Tỏa sáng mười phương sắc nhiệm mầu.
  2. Thiên chúng vây quanh, đầy mến thương,
    Từ đâu tận số, đến Thiên đường,
    Nàng vâng lời dạy người nào đó,
    Có phải môn đồ Phật Thế Tôn?

Ðể giải đáp vấn đề được vị Trưởng lão hỏi, Thiên nữ ngâm các vần kệ này.

  1. Ở kinh thành khéo dựng huy hoàng,
    Hầu hạ quân vương thật vẻ vang,
    Con được luyện chuyên về múa hát,
    Si-ri-mà, chúng gọi tên con.
  2. Giác giả tối cao, Phật Thế Tôn
    Dạy con Khổ, Tập, ấy vô thường,
    Niết-bàn, Khổ diệt, là trường cửu,
    Ðây Ðạo thẳng ngay, Ðạo cát tường.
  3. Khi nghe Bất tử, vô duyên sanh,
    Tối thượng Như Lai Ðạo pháp lành,
    Con chế ngự cao theo giới luật,
    Trú an trong Phật Pháp quang vinh.
  4. Khi hiểu Niết-bàn chẳng nhiễm ô,
    Như Lai tối thượng thuyết minh cho,
    Chính con đạt định tâm an tịnh,
    Tịnh tín tối cao quả thật là.
  5. Khi đắc Pháp kia chẳng diệt vong,
    Làm con xuất chúng, vững an lòng,
    Nổi danh thiền quán, không nghi hoặc,
    Con đã được dân chúng kính nhường,
    Con thọ hưởng bao niềm lạc thú,
    Hân hoan tâm trí thật vô lường.
  6. Thiên nữ là con thấy Pháp Ngài,
    Môn đồ đức tối thượng Như Lai,
    Vì con thấy Pháp, tâm an trú
    Sơ quả Dự Lưu, chẳng đọa rồi.
  7. Cung kính Pháp Vương sáng tuyệt trần,
    Ðến gần đảnh lễ đấng Siêu nhân,
    Và con đảnh lễ toàn Tăng chúng
    Thích thú thiện hành, tạo phước ân.
  8. Mừng vui, phấn khởi ở trong tâm,
    Khi thấy Như Lai, Ðại trí nhân,
    Là bậc vinh quang trên thế giới,
    Ngài điều ngự những kẻ nhu nhuần
    Ngài trừ diệt hết lòng tham ái,
    Thích thú thiện lương, vị trưởng đoàn,
    Con kính lễ chân Ngài tối thượng,
    Từ bi, lân mẫn cõi phàm trần’.

Như vậy Thiên nữ Sirimà long trọng tuyên bố niềm tin nàng đã chấp nhận và bày tỏ lòng quy ngưỡng Tam Bảo. Nàng đảnh lễ đức Thế Tôn cùng Tăng chúng, rồi sau khi nàng trang nghiêm đi vòng quanh chư vị, nàng trở lại thiên giới.

Ðức Thế Tôn lấy việc nàng từ thiên giới xuống trần làm cơ hội thuyết giảng pháp thoại. Khi chấm dứt pháp thoại, vị Tỷ-kheo đã từng mơ tưởng Sirimà chứng đắc quả A-la-hán, và pháp thoại cũng rất lợi ích đối với toàn thể hội chúng ấy.

17- Chuyện thứ mười bảy – Lâu Ðài Của Kesakàri (Kesakàri-Vimàna)

Bấy giờ đức Thế Tôn trú tại Ba-la-nại trong vườn Nai ở Trú xứ chư Tiên (Isipatàna). Buổi sáng các Tỷ-kheo đắp y, cầm y bát và đi vào Ba-la-nại. Chư vị đến gần cửa nhà một Bà-la-môn.

Trong nhà ấy, có con gái vị Bà-la-môn, tên Kesakàri đang bắt chấy trên đầu mẹ nàng gần cửa, thấy các Tỷ-kheo đi ngang qua, bèn hỏi mẹ:

– Mẹ ơi, các vị này từ giã đời thế tục hình như còn ở độ tuổi xuân xanh, thanh lịch, đẹp trai, dáng ưa nhìn, không gặp tai họa khổ đau nào cả. Thế tại sao chư vị xuất gia ở tuổi này?

Mẹ nàng đáp:

– Này con, có vị Thích tử xuất gia từ dòng họ Thích-ca đã hiện ra ở đời làm bậc Ðạo Sư được gọi là đức Phật. Ngài thuyết pháp, hoàn thiện ở phần đầu, phần giữa, và phần cuối cả về ý nghĩa lẫn ngôn từ. Ngài tuyên bố đời Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ và thanh tịnh. Chư vị này đã xuất gia vì nghe pháp ấy.

Bấy giờ có một cư sĩ tại gia đã đắc Sơ quả và hiểu pháp, nghe được câu chuyện khi đi ngang qua đường ấy và đến gần hai mẹ con. Vị nữ nhân Bà-la-môn hỏi vị ấy:

– Này cư sĩ, nhiều thiện nam tử từ bỏ tài sản quý giá và đại gia tộc thân quyến để xuất gia trong dòng họ Thích-ca. Vì cớ gì họ xuất gia như vậy?

Vị cư sĩ nghe bà nói, liền đáp:

– Vì thấy sự nguy hiểm trong dục lạc và lợi ích của xuất gia.

Vị ấy giải thích đầy đủ chi tiết về động lực ấy theo khả năng hiểu biết cao nhất của mình, vừa nêu rõ các đức tính của Tam Bảo vừa thuyết giảng sự hữu ích tiện lợi của Ngũ giới liên hệ đến đời nay và đời sau.

Sau đó, thiếu nữ Bà-la-môn hỏi vị ấy:

– Thế chúng tôi có thể hưởng phần hữu ích tiện lợi mà Tôn giả vừa nói, qua sự quy y Tam Bảo và giữ Ngũ giới chăng?

Vị ấy đáp:

– Tại sao lại không? Những điều được đức Thế Tôn thuyết giảng cần được mọi loài hưởng phần đều nhau.

Rồi vị ấy cho nàng thọ Tam quy và Ngũ giới. Khi nàng đã chấp nhận Tam quy và hành trì Ngũ giới, nàng hỏi:

– Thế còn phải làm gì nữa ngoài việc này?

Thấy nàng có trí thông tuệ, người ấy nghĩ thầm: ‘Chắc hẳn nàng là một trong số người hội đủ khả năng điều kiện’. Và khi giảng giải bản chất của thân thể, vị ấy nói đến đối tượng của thiền quán là ba mươi hai phần của thân, vị ấy gợi lên cho nàng sự nhàm chán sắc thân và ngoài ra, sau khi làm cho nàng xúc động với một bài pháp thoại liên hệ đến Vô thường, Khổ, Vô ngã, vị ấy chỉ con đường đưa đến tuệ quán và từ giã nàng.

Nàng ghi nhớ mọi sự vị ấy nói và với niềm suy tư do nhận thức sự bất tịnh của thân, nàng phát triển tuệ quán và chẳng bao lâu chứng đắc Sơ quả Dự Lưu vì nàng thành tựu đủ mọi điều kiện.

Về sau nàng từ trần và được tái sanh làm Thiên nữ hầu cận Sakka Thiên chủ. Ðoàn tùy tùng của nàng gồm một trăm ngàn tiên nữ. Khi Sakka Thiên chủ thấy nàng, ngài kinh ngạc và ái mộ nàng, bèn hỏi các công đức nàng đã làm trước kia:

  1. Cung điện này, nơi ta trú an,
    Trụ bằng ngọc bích, sáng huy hoàng,
    Khéo xây dựng để trường tồn mãi,
    Mọi phía cây vàng tỏa bóng râm,
    Ðã được tạo nên do kết quả
    Của công đức thiện nghiệp ta làm.
  2. Ai đã từng sanh trưởng ở đây,
    Ðều là ngọc nữ cõi trời này,
    Một trăm ngàn chẵn đoàn tiên nữ;
    Vì thiện nghiệp nàng đã đến đây,
    Nàng thật vinh quang đầy ánh sáng,
    Ðứng kia Thiên nữ vẻ vang thay.
  3. Như vầng trăng, chúa tể muôn sao,
    Chiếu sáng hơn tinh tú biết bao,
    Cũng vậy, nàng sáng ngời rực rỡ,
    Giữa đoàn tiên nữ đẹp dường nào.
  4. Nàng đã từ đâu xuất hiện đây,
    Hỡi nàng tuyệt sắc đến trời này?
    Ind-ra Thiên chủ cùng Thiên chúng
    Tam thập tam Thiên giới hiện nay
    Ngưỡng mộ Phạm Thiên và bởi thế
    Chẳng ai nhàm chán ngắm nàng vầy.

Khi được Sakka Thiên chủ hỏi thế, vị Thiên nữ đáp hai vần kệ sau:

  1. Ðế Thích ân cần đã hỏi han:
    ‘Nàng từ đâu đến, chốn từ trần?’
    Xưa kia thành phố Kà-si ấy
    Tên gọi Ba-la-nại lẫy lừng,
    Tại đó, ngay trong thành phố nọ,
    Ke-sa-kà ấy chính tiền thân.
  2. Con có lòng thành tín Phật-đà,
    Chuyên tâm quy ngưỡng Pháp, Tăng-già,
    Ðoạn nghi, trọn vẹn con trì giới,
    Ðạt thành các quả vị vừa qua,
    Giáo pháp vững tin, đường Giác ngộ,
    Thân thường không tật bệnh chi mà.

Sau đó, Sakka Thiên chủ hoan hỷ vì thành tựu công đức của nàng và cảnh vinh hiển trên thiên giới của nàng, bèn ngâm kệ đáp lại:

  1. Chúng ta hoan hỷ đón mừng nàng,
    Nhờ Giáo pháp, nàng chiếu ánh quang,
    Tịnh tín, nàng hoàn toàn kính ngưỡng
    Phật-đà, Giáo pháp, với chư Tăng,
    Ðoạn nghi, trọn vẹn tu trì giới,
    Ðạt đến các thành quả vẻ vang,
    Giáo pháp vững tin, đường Giác ngộ,
    Thân thường vô bệnh, được khang an.

Sau đó Sakka Thiên chủ kể cho Tôn giả Trưởng lão Mahà-Moggallàna về sự kiện này, Tôn giả lại trình với đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy đề tài ấy làm dịp thuyết pháp thoại cho hội chúng. Bài pháp ấy có ích lợi cho thế giới bao gồm cả Thiên giới nữa.

Tổng Kết

– Năm tọa sàng (bốn tọa sàng và một con voi), ba chiếc thuyền, một ngọn đèn, một nắm mè.

– Hai bà vợ, hai nàng dâu, Uttarà, Sirimà Kesakarikà.

Phẩm này được biết qua các chuyện trên.

Phẩm II – Cittalatà

  1. (18) Chuyện thứ nhất – Lâu Ðài Của Nữ Tỳ (Dàsi-Vimàra)

Trong khi đức Thế Tôn trú tại Kỳ Viên, một đệ tử tại gia ở Sàvatthi đến tinh xá về buổi chiều cùng nhiều cư sĩ khác và nghe pháp. Khi hội chúng đã đứng lên, vị ấy đến gần đức Thế Tôn và thưa:

– Bạch Thế Tôn, từ nay về sau con xin cúng dường bốn buổi ngọ trai vĩnh viễn.

Sau đó, đức Thế Tôn thuyết pháp thoại cho vị ấy được lợi lạc nhân dịp này và bảo vị ấy ra về. Vị ấy trình với Tỷ-kheo phụ trách ngọ trai:

– Bạch Tôn giả, con đã chuẩn bị bốn buổi ngọ trai vĩnh viễn cúng dường Tăng chúng. Từ ngày mai, xin chư vị Tôn giả đến nhà con.

Xong vị ấy ra về. Vị ấy giải thích vấn đề này cho người nữ tỳ và bảo:

– Trong vấn đề này, nhà ngươi phải luôn luôn tinh cần.

– Thưa vâng, được lắm. Nàng đáp.

Bản tính nàng đầy thành tín, mong muốn làm công đức, có thiện hạnh, vì thế mỗi ngày nàng dậy rất sớm, chuẩn bị các món ăn thức uống hảo hạng.

Sau khi quét dọn chỗ ngồi thật sạch sẽ, nàng lau chùi cẩn thận với nước hoa, sắp đặt sàng tọa và khi chư Tỷ-kheo đến, nàng mời chư vị ngồi đó, cung kính đảnh lễ, cúng dường chư vị hương liệu, vòng hoa, chiên-đàn, đèn và phục vụ chư vị thật trọng thể.

Bấy giờ, một hôm, khi chư Tỷ-kheo đã thọ thực xong, nàng đến gần đảnh lễ và nói như vầy:

– Bạch chư Tôn giả, xin chư Tôn giả cho biết, làm thế nào được giải thoát hoàn toàn các khổ đau do sanh, lão, bệnh, tử?

Chư Tỷ-kheo ấy bèn cho nàng thọ Tam quy và Ngũ giới, giảng giải bản chất của sắc thân, và gợi cho nàng suy nghĩ về lão tử. Sau đó, chư vị thuyết giảng cho nàng nghe về tính vô thường.

Nàng giữ giới suốt mười sáu năm liền, thỉnh thoảng nàng tác ý suy tư thật chuyên tâm. Một ngày kia, nàng đã được lợi lạc vì nghe pháp, lại nhờ tri kiến của nàng đạt đến thuần thục, nàng phát triển tuệ quán và chứng đắc quả Dự Lưu.

Chẳng bao lâu sau, nàng từ trần và tái sanh làm vị Thiên nữ hầu cận được Sakka Thiên chủ sủng ái. Khi nàng thơ thẩn trong các hoa viên đây đó, được nghe cả sáu mươi ngàn nhạc khí hòa tấu long trọng cử hành đại hội, nàng tận hưởng đại thiên lạc thỏa thích với đám tùy tùng hộ tống quanh nàng.

Tôn giả Mahà-Moggallàna thấy nàng trong cách được tả trên bèn hỏi nàng:

  1. Chẳng khác nào Thiên chủ Sak-ka,
    Ở Lâm Viên lạc thú Cit-ta,
    Nàng đi thơ thẩn, đoàn tiên nữ
    Hầu cận quanh nàng rộn múa ca,
    Làm tất cả phường trời rực rỡ
    Như vì sao cứu hộ Ta-bà.
  2. Vì đâu nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương.
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  5. Khi được làm người giữa chúng sanh,
    Con là tỳ nữ một gia đình,
    Môn đồ của Trí Nhân Viên Giác,
    Ðức Phật Cồ-đàm đại hiển vinh.
  6. Thành công nhờ nỗ lực tinh cần,
    Trong Giáo pháp Ngài bất động nhân,
    Mong ước thân này dầu hủy hoại,
    Con không hề giảm sút chuyên tâm.
  7. Con đường Ngũ giới để tu thân
    Thật vững chắc và tạo phước ân,
    Ðược bậc trí hiền này dạy bảo,
    Không gai, lưới, bẫy, thẳng như chân.
  8. Hãy nhìn kết quả của tinh cần
    Thành tựu do tỳ nữ tiểu nhân,
    Nay được hầu bên Thiên chủ ấy,
    Sak-ka với tối thượng quyền năng.
  9. Sáu mươi ngàn nhạc cụ đàn tơ
    Thức tỉnh con từ giấc ngủ mơ,
    Alamba, Gaggara, Bhìma,
    Sàdhuvàdin và Samsaya.
  10. Pokkhara và Suphassa,
    Vinàmokkhà cùng các nàng kia,
    Nandà cũng như Sunandà,
    Sonadinnà và Sucimhità.
  11. Alambusà, Missakesi,
    Cùng nàng tiên ác Pundarìkà,
    Eniphassa và Suphassà,
    Subhaddà và Muduvàdinì.
  12. Các nàng Thiên nữ diễm kiều này
    Ðánh thức thần tiên lúc ngủ say,
    Buổi sáng các nàng thường đến bảo:
    – Chúng em múa hát giúp vui đây.
  13. Nan-da-na, Hỷ lạc Viên này,
    Không phải để dành cho những ai
    Chẳng tạo tác nên nhiều phước nghiệp,
    Mà dành riêng biệt để cho người
    Ðã hoàn thành được nhiều công đức,
    Là Ðại Lâm viên của cõi trời
    Tam thập tam thiên đầy lạc thú,
    Không gì phiền não, mãi vui tươi.
  14. Chẳng đời này hoặc cõi đời sau,
    Cực lạc dành cho những kẻ nào
    Không tạo tác nên nhiều phước nghiệp,
    Song đời này lẫn cõi đời sau,
    Ðể dành cực lạc cho bao kẻ
    Làm các thiện hành phước nghiệp cao.
  15. Vậy những ai mong chúng bạn hiền,
    Phải làm thiện nghiệp thật tinh chuyên,
    Vì người tạo được nhiều công đức,
    Hưởng lạc thú nhiều ở cõi thiên. 

2- (19) Chuyện thứ hai – Lâu Ðài Của Lakhumà (Lakhumà-Vimàna)

Bấy giờ đức Thế Tôn đang trú tại Ba-la-nại. Thời ấy có một cổng vào thành Ba-la-nại tên là Ngư Phủ Môn. Một ngôi làng được dựng lên gần đó cũng được mang tên Ngư Phủ Môn.

Tại đó có một nữ nhân tên Lakhumà, một người mộ đạo, có lòng tin, đầy đủ trí tuệ thông minh, thường đảnh lễ các Tỷ-kheo lúc chư vị đi vào làng qua cổng ấy, nàng đưa chư vị đến nhà nàng, lấy thực phẩm cúng dường chư vị, và do đó tín tâm nàng tăng trưởng, nàng dựng lên một cái đình để thiết đãi chư Tăng, nghe pháp theo hội chúng của chư vị. Rồi sau khi đã được an trú vào Tam quy và Ngũ giới, nàng chuyên tâm tinh cần tu tập các đề tài thiền quán mà nàng đã học, chẳng bao lâu, nhờ tạo đủ mọi điều kiện cần thiết, nàng tự an trú vào quả vị Dự Lưu.

Về sau nàng từ trần và được tái sinh vào một Lâu đài lớn ở cõi trời Ba mươi ba. Ðoàn tùy tùng của nàng gồm một ngàn tiên nữ. Nàng trú tại đó thọ hưởng thiên lạc.

Trong chuyến du hành lên thiên giới, Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi nàng như vầy:

  1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
    Nàng đứng, toàn thân đều tỏa sáng
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Bèn giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  5. Xuất phát từ làng Ngư Phủ Môn,
    Ðó là nơi trú ngụ thân con,
    Nơi chư giác giả môn đồ Phật
    Qua lại ngày xưa ở dọc đường.
  6. Thuở ấy con đầy đủ nhiệt tâm
    Ðem cơm, bánh, sữa, để cung dâng,
    Ðậu, rau xanh mát, tương chua mặn,
    Làm thực phẩm cho bậc chánh chân.
  7. Vào ngày mười bốn với mười lăm,
    Mồng tám, những ngày có sáng trăng,
    Ðặc biệt là ngày trong nửa tháng
    Liên quan Bố-tát giới tu thân.
  8. Con hành trì giới bát quan trai,
    Ðức hạnh bản thân giữ suốt đời,
    Như vậy trong Lâu đài lạc trú,
    Ðiều thân tiết độ, cúng dường hoài.
  9. Hại mạng, sát sanh, con tránh xa,
    Giữ mình không dối trá sai ngoa,
    Cũng không lấy vật gì phi pháp,
    Tránh rượu nồng say, các dục tà.
  10. Hân hoan giữ Ngũ giới tu hành,
    Thánh đế con nghiên cứu thật tinh,
    Ðệ tử đức Cồ-đàm Chánh Giác,
    Nhãn quang thấu suốt, đại uy danh.
  11. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  12. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Vì thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.

Và bạch Tôn giả, xin hãy làm ơn nhân danh con đảnh lễ chân Thế Tôn và nói: ‘Tín nữ có tên Lakkhumà in khấu đầu đảnh lễ chân Thế Tôn’. Thực sự, bạch Tôn giả, nếu đức Thế Tôn có tuyên bố cho con đạt được một trong các Sa-môn quả, thì điều ấy cũng không lạ gì’.

Về sau, đức Thế Tôn đã tuyên bố quả Nhất Lai cho nàng.

  1. (20) Câu chuyện thứ ba – Lâu Ðài Của Người Cho Cơm Cháy (Acàmadàyikà-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại thành Ràjagaha (Vương Xá), ở chỗ nuôi sóc trong Trúc Lâm. Cũng vào thời ấy, những người trong một gia đình kia tại Vương Xá bị bệnh dịch tả. Mọi người trong nhà ấy đều chết trừ một nữ nhân. Kinh hoàng vì nỗi sợ chết, nàng bỏ nhà cùng tất cả tiền bạc thóc lúa bên trong ấy chạy trốn qua một chỗ nứt của vách tường.

Vì không ai giúp đỡ, nàng đến nhà một gia đình khác, xin ở nhờ phía sau. Người trong nhà ấy thương hại nàng đem cho nàng cháo gạo, cơm chín và cơm cháy cùng các thứ còn sót lại trong nồi niêu. Nhờ lòng rộng lượng của họ, nàng có thể sống tại đó.

Vào thời ấy Tôn giả Mahà-Kassapa (Ðại Ca-diếp) đã nhập Diệt Ðịnh suốt bảy ngày và đã xuất định, trong lúc Tôn giả suy nghĩ: ‘Hôm nay ta sẽ làm ơn cho ai bằng cách nhận thức ăn? Ta sẽ giải thoát sầu bi cho ai?’, Tôn giả thấy nữ nhân kia gần mạng chung và một ác nghiệp đưa đến địa ngục đã xuất hiện cho nàng.

Tôn giả suy nghĩ: ‘Khi ta đến gần, nữ nhân này sẽ cho ta cơm cháy mà nàng nhận được cho phần mình, và do chính hành động ấy nàng sẽ được tái sanh vào Hóa Lạc thiên giới. Khi ta đã giải thoát cho nàng khỏi tái sinh vào địa ngục như vậy, chắc chắn ta sẽ tạo hạnh phúc thiên giới cho nàng’.

Sau khi đã đắp y vào buổi sáng sớm, Tôn giả cầm y bát và đi về phía nơi nàng cư trú.

Bấy giờ, Sakka Thiên chủ giả dạng cúng dường Tôn giả thực phẩm thiên giới đầy đủ mọi hương vị thơm ngon cùng nhiều loại cháo, canh và cà-ri. Vị Trưởng lão nhận ra ngài, bèn chối từ và bảo:

– Này Kosiya, tại sao ngài đã thành tựu các công đức thiện sự lại làm như vậy? Xin đừng làm hỏng dịp may của những kẻ bất hạnh khốn khổ’.

Rồi Tôn giả đi đến đứng trước nữ nhân kia. Nàng ước muốn cúng dường Tôn giả một vật gì đó, liền suy nghĩ: ‘Ở đây không có gì xứng đáng để cúng dường vị Trưởng lão đại oai nghi này cả’, và nàng nói:

– Xin ngài hãy tiến lên một chút nữa.

Vị Trưởng lão chỉ bước lùi lại một bước và không nhận thứ gì do các người khác cúng dường. Nàng thấy rõ ràng Tôn giả muốn giúp nàng, bèn cùng dường Tôn giả miếng cơm cháy của mình, Tôn giả vừa ăn ngay tại đó vừa bảo:

– Trong tiền kiếp thứ ba trước đây, cô đã là mẹ của ta.

Xong Tôn giả ra đi.

Nàng từ trần ngay đêm ấy và được tái sanh vào hội chúng Hóa Lạc thiên. Sau đó Thiên chủ Sakka biết tin nàng từ trần và không thấy nàng ở trong hội chúng cõi trời Ba mươi ba bèn đến gần Tôn giả Mahà-Kassapa vào khoảng canh giữa đêm và hỏi:

  1. Khất thực, ngài đang tiến bước lên,
    Rồi Ngài yên lặng đứng gần bên
    Một nàng hành khất bần cùng nọ,
    Sống ở nhà sau của láng giềng.
  2. Nàng ấy có tâm đạo tín thành,
    Dâng ngài cơm cháy với tay mình,
    Rồi nàng xả báo thân trần tục,
    Nàng đến cảnh nào lúc tái sanh?

Sau đó vị Trưởng lão nói đến sanh thú kia để đáp lời ngài:

  1. Khất thực, tôi đang tiến bước lên,
    Rồi tôi yên lặng đứng gần bên
    Một nàng hành khất bần cùng nọ
    Sống ở nhà sau của láng giềng.
  2. Nàng ấy có tâm đạo tín thành,
    Dâng tôi cơm cháy với tay mình,
    Rồi nàng xả báo thân trần tục,
    Giải thoát khổ đau lúc tái sanh.
  3. Có loài Thiên chúng đại thần thông,
    Thích thú thay hình đổi dạng luôn,
    Nàng ở cõi trời đầy hạnh phúc,
    Nhờ cho cơm cháy, dạ hân hoan.

Khi Sakka Thiên chủ nghe kết quả vĩ đại, lợi ích vĩ đại của việc nàng cúng dường như vậy, liền nói:

  1. Ô kìa! Tặng vật kẻ ăn mày
    Ðem cúng ngài Ca-diếp, hợp thay!
    Thực phẩm được xin từ kẻ khác
    Ðã mang kết quả lớn như vầy!
  2. Nữ hoàng chánh hậu Chuyển luân vương,
    Khả ái toàn thân, đẹp vẹn toàn,
    Yểu điệu dưới mắt nhìn Thánh Chúa,
    Cũng không có giá trị ngang bằng
    Một phần mười sáu nàng hành khất
    Ðem một miếng cơm cháy cúng dường.
  3. Một trăm con ngựa, trăm cân vàng,
    Xa giá do la kéo, một trăm,
    Kiều nữ trăm ngàn trang điểm ngọc
    Hoa tai, giá trị cững không bằng
    Một phần mười sáu nàng hành khất
    Ðem một miếng cơm cháy cúng dường.
  4. Một trăm voi ở Tuyết Cao Sơn,
    Ngà giống càng xe, thật tráng cường,
    Vương tượng oai hùng mang áo giáp,
    Cân đai vàng ngọc cũng không bằng
    Một phần mười sáu nàng hành khất
    Ðem một miếng cơm cháy cúng dường.
  5. Dù người nắm giữ mọi quyền năng
    Khắp bốn đại châu cũng chẳng bằng
    Chỉ một phần mười sáu lễ vật
    Người đem cơm cháy đến cung dâng.

Trưởng lão Mahà-Kassapa trình lên đức Thế Tôn tất cả mọi sự do Sakka Thiên chủ nói với Tôn giả, đức Thế Tôn lấy đó làm đề tài thuyết pháp.

  1. (21) Chuyện thứ tư – Lâu Ðài Của Nàng Chiên-Ðà-La (Candàlì-Vimàna)

Trong lúc đức Thế Tôn đang trú ngụ tại Ràjagaha, Ngài nhập định Ðại bi mà chư Phật thường trú, sau đó xuất định và quán sát thế gian. Ngài thấy ngay trong thành phố ấy tại khu vực của dân chúng Candàla (Chiên-đà-la, hạng người vô loại khốn cùng không ai tiếp xúc) có một bà lão sắp mạng chung và một ác nghiệp đưa đến địa ngục đã xuất hiện cho bà.

Với tâm Ðại bi, muốn làm cho bà tạo một nghiệp lành đưa đến cõi trời, Ngài suy nghĩ: ‘Ta sẽ an trú kẻ ấy vào thiên giới’, Ngài liền cùng đại chúng Tỷ-kheo vào Ràjagaha khất thực.

Vào lúc ấy, bà lão Chiên-đà-la chống gậy ra khỏi thành, thấy đức Thế Tôn đến gần, và khi bà đối diện Ngài, bà dừng lại. Ðức Thế Tôn cũng dừng lại và đứng ngay trước mặt bà như thể cản bà tiến lên.

Sau đó, Tôn giả Mahà-Moggallàna, biết tâm bậc Ðạo Sư và cũng biết thọ mạng bà lão sắp hết, bèn thúc giục bà đảnh lễ đức Thế Tôn:

  1. Lễ chân đức Phật Go-ta-ma,
    Vì xót thương cho số phận bà,
    Giác giả tối cao, danh tiếng rộng,
    Ðứng ngay trước mặt, hỡi Chiên-đà.
  2. Hãy hướng tâm đầy đủ thiện duyên
    Về Ngài La-hán, bậc an nhiên,
    Mau mau đảnh lễ, hai tay chắp,
    Vì mạng sống kia chẳng được bền!

Khi bà lắng nghe lời Tôn giả, lòng đầy xúc động, bà phát khởi tâm tín hướng về bậc Ðạo Sư, liền đảnh lễ Ngài với năm phần thân thể sát đất, và do hân hoan trước đức Phật, bà nhất tâm đứng yên lặng, đầu cúi xuống. Ðức Thế Tôn bảo:

– Thế này là đủ để bà ấy lên thiên giới.

Xong Ngài vào thành với đại chúng Tỷ-kheo. Ngay lập tức sau đó, một con bò cái chạy trốn cùng với bê con, lao về phía bà già, lấy cặp sừng húc bà chết tại chỗ.

Ðể giải thích tất cả sự kiện này, chư vị Trưởng lão kết tập Kinh điển ngâm hai vần kệ;

  1. Ðược lời khuyên của bậc chân nhân
    Là bậc mang thân xác cuối cùng,
    Bà lão Chiên-đà liền đảnh lễ
    Cồ-đàm Giác Giả, đại danh lừng.
  2. Bò cái đá người khốn khổ trên,
    Lúc bà đang đứng chắp tay lên
    Khấu đầu đảnh lễ ngài Viên Giác,
    Người chiếu hào quang giữa bóng đêm.

Sau đó, bà được tái sanh giữa cõi trời Ba mươi ba. Bà có một đoàn tùy tùng hộ tống gồm cả một trăm ngàn tiên nữ.

Ngay đúng ngày hôm ấy, bà đã hóa thành một Thiên nữ trong Lâu đài của mình, hiện xuống cõi trần, tiến đến gần Tôn giả Mahà-Moggallàna và cung kính đảnh lễ Tôn giả.

Ðể giải thích việc này Thiên nữ nói:

  1. Bạch Tôn giả đại lực anh hùng,
    Con đã đạt thiên giới lực thần,
    Ðến đảnh lễ người vô lậu hoặc,
    An nhiên, thanh tịnh, ở trong rừng.

Bậc Trưởng lão hỏi:

  1. Nàng Thiên nữ có sắc như vàng,
    Danh tiếng cao vời, tỏa ánh quang,
    Tô điểm ngọc châu, vừa hiện xuống
    Từ lâu đài, đảnh lễ nghiêm trang,
    Ðược đoàn tiên nữ theo hầu cận,
    Hãy nói là ai đó hỡi nàng?

Ðược Trưởng lão hỏi, Thiên nữ đáp bốn vần kệ:

  1. Tôn giả, con là kẻ khốn cùng,
    Ðược ngài thúc giục, bậc anh hùng,
    Con liền đảnh lễ Cồ-đàm Phật,
    Bậc Ứng Cúng, danh vọng lẫy lừng.
  2. Khi con đảnh lễ chân Ngài xong,
    Là kẻ khốn cùng, con mạng vong,
    Hiện ở Lâu đài muôn diễm lệ,
    Lâm viên Hỷ Lạc cõi thiên cung.
  3. Trăm ngàn tiên nữ đứng hầu con,
    Xuất chúng, con hơn hẳn cả đoàn,
    Vượt trội các nàng về mỹ sắc,
    Vinh quang danh vọng, mạng trường tồn.
  4. Nhiệt tâm, con tỉnh giác tinh cần,
    Khi đã làm nhiều thiện sự xong,
    Tôn giả, con về đây đảnh lễ
    Bậc hiền lân mẫn cõi phàm trần.

Lần nữa, một vần kệ lại được chư vị kết tập Kinh điển thêm vào:

  1. Khi việc này vừa được nói xong,
    Nàng Chiên-đà ấy dáng tri ân
    Xác minh việc trước, và quỳ lạy
    Bậc Ứng Cúng rồi biến mất luôn.

Tôn giả Mahà-Moggallàna trình lại sự kiện ấy lên đức Thế Tôn. Ngài liền lấy đó làm đề tài thuyết pháp cho hội chúng được hưởng nhiều lợi lạc.

  1. (22) Chuyện thứ năm – Lâu Ðài Của Phu Nhân Khả Ái (Bhaddhitthi-Vimàna)

Bấy giờ, Thế Tôn trú tại Sàvatthi ở Kỳ Viên trong tinh xá ông Cấp Cô Ðộc. Thời ấy ở thành phố Kimbila có một nam tử của một gia chủ tên Rohaka, là người mộ đạo, có tín tâm, tuân thủ giới luật toàn vẹn. Cũng tại đó, trong một gia đình cùng hoàn cảnh tương tự, có một thiếu nữ mộ đạo, tín thành, được đặt tên Bhaddà (Cát Tường) vì bản chất tốt đẹp của nàng.

Bấy giờ cha mẹ Rohaka cầu hôn nàng Bhaddà cho con trai mình. Khi đúng ngày lành, họ rước nàng về và cử hành hôn lễ, hai người sống đời hòa thuận. Vì có đức hạnh hoàn toàn, người vợ nổi danh là Phu nhân Khả ái.

Thời ấy, hai vị Ðại đệ tử cùng đoàn hộ tống năm trăm Tỷ-kheo đang du hành trong nước đến thành Kimbila. Rohaka biết tin chư vị đến đó, hân hoan đón chư Trưởng lão, cung kính đảnh lễ chư vị và mời chư vị thọ trai ngày hôm sau.

Vào hôm ấy, khi đã thiết đãi chư Trưởng lão cùng hội chúng tùy tùng, Rohaka cùng vợ và các con nghe pháp, thọ Tam quy và nguyện tuân hành Ngũ giới. Còn vợ chàng thực hành các ngày Bát quan trai giới cùng giữ gìn giới đức toàn vẹn, nên nàng được chư Thiên thần ái mộ đặc biệt.

Do chính đặc ân đó, nàng đã vô hiệu hóa một lời vu cáo xảy đến cho nàng và danh tiếng về đức hạnh cùng sự đoan chính toàn vẹn của nàng lan truyền khắp nơi trên trần thế.

Nguyên do là trước đó nàng ở nhà một mình tại thành Kimbila trong khi chồng nàng đang ở Takkasilà để buôn bán, nhân lúc cao hứng muốn vui chơi vào một dịp lễ hội, nàng được bạn bè khuyến khích, bèn đi gặp chồng nàng tại Takkasilà sau khi vị gia thần đã dùng uy lực giữ nàng ở lại đó.

Từ lúc gặp gỡ chồng, nàng thọ thai rồi được đưa về thành Kimbila, theo thời gian, tình trạng thọ thai của nàng đã rõ ràng, nàng bị mẹ chồng và nhiều người khác nghi ngờ nàng ngoại tình.

Nhưng rồi do uy lực của chính vị thần kia, khi cả thành phố Kimbila có vẻ như bị chìm ngập trong đại hồng thủy của sông Hằng, nàng đã làm cho sự ô nhục đổ lên đầu nàng phải thối lui nhờ mãnh lực của lời tuyên thệ trang nghiêm đi kèm với quyết tâm chứng thực sự trinh tiết của nàng, chẳng khác nào cơn đại hồng thủy của sông Hằng cùng các đợt sóng hỗn loạn hạ dần xuống.

Khi tái hợp với chồng và đưa ra chiếc nhẫn làm tin cùng các vật kỷ niệm chàng đã chân thành tặng nàng, nàng phá tan mối ngờ vực, nên được chồng nàng cùng toàn thể bà con thân thuộc và người đời tôn trọng. Do vậy tương truyền là danh tiếng về đức hạnh và sự đoan chính toàn vẹn của nàng vang dậy đến chân trời góc đất.

Sau đó, nàng từ trần và tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba. Khi đức Thế Tôn từ Sàvatthi du hành đến cõi trời ấy và an tọa nên Thạch bàn Pandukambala (ngai Hoàng bảo thạch của Sakka) dưới gốc cây San hô (Pàricchattaka), và trong khi Thiên chúng đến cung kính đảnh lễ Ngài, Thục Nữ khả ái cũng đến ngồi một bên.

Ðức Thế Tôn bèn hỏi nàng về hạnh nghiệp mà nàng đã tạo qua các vần kệ:

  1. Sắc trắng, vàng, xanh, đỏ, tía, đen,
    Ðược nhiều tơ mịn phủ lên trên,
    Muôn màu, muôn vẻ kia tô điểm
    Cây mạn-đà-la ở cõi thiên.
  2. Chuỗi mạn-đà-la có đủ màu
    Mà nàng đang đội ở trên đầu,
    Hỡi nàng Thiên nữ đầy thông tuệ,
    Chẳng thấy cây kia ở cõi nào.
  3. Vinh quang Thiên nữ hiện thân đây
    Tam thập tam thiên, cảnh giới này,
    Khi được hỏi, cho ta biết rõ,
    Nghiệp gì mang đến quả như vầy?

Khi được hỏi đức Thế Tôn hỏi vậy, nàng Thiên nữ đáp lại các vần kệ sau:

  1. Mọi người đều biết ở Kim-la
    ‘Khả ái Phu nhân’, kẻ tại gia,
    Ðầy đủ tín tâm, trì giới hạnh,
    Hân hoan bố thí, cúng Tăng già.
  2. Các thứ đèn dầu, thức uống ăn,
    Tọa sàng, y phục với đồ dùng,
    Con dâng cúng những người chân chánh
    Với mọi niềm thành kính nhiệt tâm.
  3. Vào ngày mười bốn với mười lăm,
    Mồng tám, những ngày có sáng trăng,
    Ðặc biệt là ngày trong nửa tháng
    Liên quan Bố-tát giới tu thân.
  4. Con hành trì giới Bát quan trai,
    Ðức hạnh bản thân giữ suốt đời,
    Kiêng kỵ sát sanh loài thú vật,
    Tránh xa dối trá, nói hai lời.
  5. Ðoạn trừ trộm cắp, thói tà dâm,
    Không uống thuốc say hoặc rượu nồng,
    Thích thú con tu hành Ngũ giới,
    Chuyên tâm học Thánh Ðế tinh thông.
  6. Là đệ tử Ngài có Nhãn quang,
    Sinh thời con sống thật tinh cần,
    Nhờ cơ duyên tốt xưa con tạo,
    Thiện nghiệp làm xong bỏ cõi trần,
    Con nhẹ bước trong vườn Hỷ lạc
    Với ánh hào quang của bản thân.
  7. Xưa cúng dường bao thức uống ăn
    Chư Tăng, hai đệ tử thần thông,
    Bậc Hiền đại tuệ đầy bi mẫn,
    Nhờ tạo cơ duyên lúc mạng vong,
    Thiện nghiệp hoàn thành, con nhẹ bước
    Trong vườn Hỷ lạc với hào quang.
  8. Xưa con trì giới Bát quan trai
    Ðem phước lạc nhiều vô lượng thôi,
    Với các nghiệp lành con thực hiện,
    Cùng cơ duyên đã tạo trên đời,
    Nay con nhẹ bước vườn Hoan lạc
    Trong ánh hào quang tỏa sáng ngời. 

6. (23) Chuyện thứ sáu – Lâu Ðài Của Sonadinnà (Sonadinnà-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Kỳ Viên tinh xá. Thời ấy ở Nalandà có một nữ đệ tử tại gia tên là Sonadinnà, một người mộ đạo, có tín tâm, thường xuyên giữ đức hạnh và đoan chính trang nghiêm, ân cần phụng sự chư Tỷ-kheo với bốn vật cần dùng, cùng hành trì Bát quan trai giới.

Nàng được lợi lạc do nghe pháp và tạo đầy đủ điều kiện nhân duyên, tu tập Tứ Thánh đế, lấy đó làm đề tài thiền quán của nàng, nên nàng đắc quả vị Dự Lưu. Về sau, khi lâm trọng bệnh, nàng từ trần và tái sanh lên cõi trời Ba mươi ba.

Tôn giả Mahà Moggallàna hỏi nàng qua các vần kệ sau:

  1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
    Nàng đứng, toàn thân đều tỏa sáng
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương?
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  5. Ngày xưa con ở Na-lan-dà,
    Tín nữ So-na được gọi là,
    Ðầy đủ tín tâm, trì giới hạnh,
    Hân hoan bố thí, cúng Tăng già.
  6. Các thứ đèn dầu, thức uống ăn,
    Tọa sàng, y phục với đồ dùng,
    Con dâng cúng những người chân chánh
    Cùng với niềm thành kính nhiệt tâm.
  7. Vào ngày mười bốn với mười lăm,
    Mồng tám, những ngày có sáng trăng,
    Ðặc biệt là ngày trong nửa tháng
    Liên quan Bố-tát giới tu thân.
  8. Con hành trì giới Bát quan trai,
    Ðức hạnh bản thân giữ suốt đời,
    Kiêng kỵ sát sanh loài thú vật,
    Tránh xa dối trá nói hai lời.
  9. Ðoạn trừ trộm cắp thói tà dâm,
    Không uống thuốc say hoặc rượu nồng,
    Thích thú con tu hành Ngũ giới,
    Chuyên tâm học Thánh Ðế tinh thông,
    Con là đệ tử Cồ-đàm Phật,
    Bậc Nhãn quang danh vọng lẫy lừng.
  10. Vì thế sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  11. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

7. (24) Chuyện thứ bảy – Lâu Ðài Của Uposathà (Uposathà-Vimàna)

Chuyện này cũng tương tự chuyện Lâu đài trước, nhưng có những điểm khác biệt là ở đây, Uposathà là một nữ đệ tử tại gia ở Sàketa, và sau khi nàng đã giải thích cho Tôn giả Mahà-Moggallàna những gì đã xảy ra trước kia mà nay dung sắc của nàng chiếu sáng khắp mười phương, nàng lại nói thêm về một lỗi lầm của nàng:

  1. Xưa vẫn thường nghe Hỷ Lạc Viên,
    Trong con khởi dục vọng triền miên,
    Tâm con giữ chặt niềm mơ ước
    Nên tái sanh về Hỷ Lạc Viên.
  2. Con chẳng hành trì pháp Ðạo Sư,
    Ngài là thân tộc của vầng ô,
    Trí con không hướng điều cao thượng,
    Do vậy, ăn năn mãi đến giờ.

Vị Trưởng lão hỏi:

  1. U-po-thà, trú tại Lâu đài
    Trong khoảng bao lâu, hãy đáp lời,
    Khi được hỏi xem nàng có biết
    Bao lâu thọ mạng ở trên trời?

Thiên nữ đáp:

  1. An trú đây ba mươi triệu năm,
    Và thêm vào đó sáu mươi ngàn,
    Bạch Tôn giả, đến khi thân hoại,
    Con sẽ đồng sinh với thế nhân.

Trưởng lão nói:

  1. Vậy nàng đừng sợ, U-po-thà,
    Nàng đã được ngay đức Phật-đà
    Tuyên bố Dự Lưu là xuất chúng,
    Với nàng, đọa xứ đã rời xa.

8, 9. (25, 26) Chuyện thứ tám và chín – Các Lâu Ðài Của Niddà Và Suniddà (Niddà-Suniddà-Vimàna)

Chuyện hai Lâu đài thứ tám và thứ chín có nguồn gốc ở Ràjagaha. Các vần kệ cũng giống chuyện 23 không có gì khác lạ.

  1. (27) Chuyện thứ mười – Lâu Ðài Của Nữ Thí Chủ (Bhikkhàdàyikà-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi. Thời ấy tại Uttaramadhurà có một nữ nhân thọ mạng đã hết và phải tái sanh vào đọa xứ.

Vào lúc rạng đông, đức Thế Tôn vừa xuất khỏi định Ðại bi, và quán sát thế gian, Ngài thấy nữ nhân ấy.

Muốn an trú kẻ ấy vào thiện thú, Ngài ra đi một mình xuống Madhurà vào vùng ngoại ô của thành phố để khất thực.

Vừa lúc ấy, bà kia đã chuẩn bị xong thức ăn tại nhà và đặt sang một bên, rồi ra đi với chiếc ghè đến chỗ có nước để tắm. Khi trở về nhà với ghè nước đầy, bà thấy đức Thế Tôn liền thưa:

– Có lẽ đức Thế Tôn đã nhận món cúng dường?

Ðức Thế Tôn bảo:

– Ta sẽ nhận.

Bà ấy hiểu rằng Ngài chưa nhận món khất thực. Vì thế bà đặt ghè nước xuống, đến gần đức Thế Tôn cung kính đảnh lễ Ngài và thưa:

– Bạch Thế Tôn con muốn cúng dường, xin Ngài hãy cho phép con.

Ðức Thế Tôn đồng ý bằng cách im lặng. Bà ấy biết rằng Ngài đã nhận lời, bèn tiến lên về trước sửa soạn chỗ ngồi ở một nơi đã được rảy nước và quét sạch, xong đứng chờ Ngài đến.

Ngài bước vào ngồi xuống. Bà cúng dường Ngài thức ăn và cũng ngồi xuống. Khi thọ thực xong, Ngài rút tay khỏi bình bát và nói lời tùy hỷ công đức, rồi tiếp tục lên đường.

Bà ấy nghe Ngài chúc lành, cảm thấy hân hoan hạnh phúc vô cùng, và vì bà không vơi niềm hoan hỷ do đức Phật mang lại, nên bà vẫn đứng cung kính đảnh lễ cho đến khi Ngài đi khuất dạng.

Chỉ sau đó vài ngày, bà từ trần và được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba.

Bấy giờ Tôn giả Mahà-Moggallàna đang du hành giữa Thiên chúng, thấy Thiên nữ này có đại thần thông và đại oai lực của chư Thiên hiện đang hưởng cảnh vinh quang trên thiên giới, mà ngay cả tri kiến một bậc Giác ngộ cũng không thể xác định được hạn lượng của cảnh ấy.

Tôn giả bèn ngâm các vần kệ hỏi về thiện nghiệp công đức mà nàng đã làm. Các vần kệ này cũng giống như trước:

  1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
    Nàng đứng, toàn thân đều tỏa sáng
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương?
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  5. 6. Kiếp xưa sinh ở chốn phàm trần,
    Con được làm người giữa thế nhân,
    Con gặp Phật-đà vô lậu hoặc,
    An nhiên tâm trí, chẳng mê lầm,
    Với Ngài, con có lòng thành tín,
    Dâng cúng tận tay các món ăn.
  6. Vì thế sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong da
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  7. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Vì thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương. (28) Chuyện thứ mười một – Lâu Ðài Cuả Nữ Thí Chủ Thứ Hai (Dutiyabhikkhàdàyika-Vimàna)

11. (28) Chuyện thứ mười một – Lâu Ðài Cuả Nữ Thí Chủ Thứ Hai (Dutiyabhikkhàdàyika-Vimàna)

Chuyện này cũng giống chuyện Lâu đài trước, trừ điểm ở đây đức Thế Tôn trú tại Ràjagaha, và nữ nhân cúng dường cho một Tỷ-kheo vô lậu hoặc, an nhiên tâm trí, chẳng còn si mê.

Tổng Kết

Lâu đài Nữ tỳ và Lakhuma, Người cho cơm cháy, Candàli, Phu nhân Khả ái, và Sonadinnà, Uposathà, Niddà, và Suniddà, cùng hai Nữ thí chủ.

Phẩm này được biết qua các chuyện trên.

Phẩm III – Pàricchattaka

  1. (29) Chuyện thứ nhất – Lâu Ðài Huy Hoàng (Ulàra-Vimàna)

Bấy giờ, bậc Ðạo Sư trú tại Ràjagaha, ở Trúc Lâm. Thời ấy ở Ràjagaha trong một gia đình thường cúng dường Tôn giả Mahà-Moggallàna có một thiếu nữ chuyên tâm bố thí và thích thú bố thí.

Tại nhà ấy, các loại thực phẩm cứng và mềm đều được làm sẵn sàng trước buổi ngọ trai chính thức. Thời ấy, cô gái kia thường đem bố thí nửa phần thức ăn mà nàng có trong nhà. Nàng không ăn trừ khi đã bố thí xong.

Ngay cả khi nàng không thấy một vị xứng đáng nhận phần cúng dường, nàng cũng để dành một số thực phẩm cho đến khi nàng gặp một vị như thế. Nàng cũng bố thí luôn cho đám hành khất nữa.

Bấy giờ mẹ nàng thường hân hoan hạnh phúc tự nhủ: ‘Con gái ta chuyên tâm bố thí và thích thú bố thí cúng dường’. Rồi bà cho nàng phần ăn gấp đôi. Khi một phần ăn mà nàng nhận đã được phân phát, bà mẹ lại cho nàng phần thứ hai. Nàng cũng tiếp tục phân phát phần ấy.

Cứ vậy với thời gian trôi qua, khi đến tuổi, cha mẹ nàng đem gả nàng cho con trai một gia đình khác cũng ở trong thành phố này. Song gia đình này có tà kiến, không mộ đạo.

Bấy giờ, Tôn giả Mahà-Moggallàna đang lúc đi khất thực từng nhà, dừng lại trước cửa nhà cha chồng của thiếu nữ kia. Khi nàng thấy Tôn giả, lòng đầy thành tín, liền thưa:

– Bạch Tôn giả, xin hãy vào đây.

Nàng mời Tôn giả vào trong, cung kính đảnh lễ và cầm lấy chiếc bánh đã được bà mẹ chồng để dành. Nhưng không thể tìm ra bà, nàng tự nhủ: ‘Ta sẽ kể với mẹ sau về việc này và làm cho bà hân hoan vì thiện sự của ta’, rồi nàng dâng bánh lên Trưởng lão.

Vị Trưởng lão nói lên tùy hỷ công đức và tiếp tục lên đường. Còn cô gái thưa với mẹ chồng:

– Con đã cúng dường Tôn giả Mahà-Moggallàna chiếc bánh mà mẹ để dành.

Khi nghe nàng nói vậy, bà mẹ chồng kêu lên:

– Con này thật vô phép quá! Mày đã đem cho một Sa-môn đồ vật của ta mà thậm chí cũng không xin phép nữa!

Rồi, bà nói giọng lắp bắp vì bị cơn giận trấn áp và không còn suy nghĩ phải trái, liền chụp cái chày gãy nện túi bụi vào vai cô gái.

Cô gái này thể chất mong manh yếu đuối và thọ mạng sắp chấm dứt, nay bị thương tích trầm trọng gây đau đớn khốc liệt, chỉ trong vòng vài ngày nàng qua đời và được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba.

Mặc dù nàng đã tạo được nhiều nghiệp lành, việc nàng đã đặc biệt cúng dường Trưởng lão này vẫn là tối thắng hơn cả.

Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành lên cõi trời như được tả ở trên, liền hỏi nàng:

  1. Ðoàn tiên hộ tống thật huy hoàng,
    Dung sắc nàng làm sáng thập phương,
    Ngọc nữ múa đàn cùng hát xướng,
    Tiên đồng trang điểm biết bao chàng.
  2. Tiên chúng làm nàng hỷ lạc luôn,
    Vây quanh hầu cận thật vinh quang,
    Ðây Lâu đài của nàng vàng ánh,
    Thiên nữ, nàng trông đẹp rỡ ràng.
  3. Nàng là bà chủ đám tiên này,
    Ðược hưởng tràn trề lạc thú thay,
    Ðầy đủ oai thần, dòng quý tộc,
    Hân hoan giữa hội chúng như vầy,
    Hỡi nàng Thiên nữ, khi ta hỏi,
    Hãy nói nghiệp gì tạo quả đây.

Khi được Trưởng lão hỏi như vậy, Thiên nữ đáp:

  1. Khi được sinh ra giữa thế nhân,
    Con là người ở cõi phàm trần,
    Ðã làm dâu của gia đình nọ
    Yếu kém về đức hạnh bản thân.
  2. Giữa người keo kiệt , chẳng tâm thành,
    Con có lòng tin, đức hạnh lành,
    Trong lúc ngài đang đi khất thực,
    Con dâng chiếc bánh tự tay mình.
  3. Con đã trình thưa với mẹ chồng,
    ‘Mới đây vừa đến một Sa-môn,
    Với Ngài, con có lòng thành tín,
    Ðem bánh dâng bằng tay của con’.
  4. Bà mẹ chồng liền mắng nhiếc con:
    ‘Con dâu thiếu lễ giáo gia môn,
    Mày không muốn hỏi xin ta đấy,
    Khi muốn cho hành khất dọc đường!’.
  5. Rồi mẹ chồng con nổi giận đầy,
    Ðánh con túi bụi với cây chày,
    Trúng vai con đã làm thương tổn,
    Con chẳng sống thêm được mấy ngày.
  6. Lúc ấy con thân hoại mạng chung,
    Tự do, giải thoát cõi trần gian,
    Tái sanh hội chúng trời Ðao lợi,
    Tam thập tam thiên hỷ lạc tràn.
  7. Vì thế sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  8. Xin trình Tôn giả đại oan thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

2. (30) Chuyện thứ hai – Lâu Ðài Do Cúng Mía (Ucchu-Vimàna)

Bấy giờ, bậc Ðạo Sư trú tại Ràjagaha cũng giống như trong chuyện trước. Song điểm khác ở đây là: nàng cúng dường khúc mía, và bị đánh bằng cái ghế chết ngay lập tức và được tái sanh lên cõi trời Ba mươi ba.

Ngay đêm ấy, nàng đến yết kiến bậc Trưởng lão, và giống như mặt trăng, mặt trời, nàng làm cho Linh Thứu Sơn rực sáng trong khoảnh khắc ấy. Ðảnh lễ Tôn giả xong, nàng đứng sang một bên với dáng điệu cung kính. Sau đó Trưởng lão hỏi nàng:

  1. Quả đất cùng chung các vị thần
    Ðược làm rạng rỡ thật vinh quang,
    Như vầng nhật nguyệt, nàng soi sáng
    Với ánh huy hoàng, vẻ mỹ quan,
    Như Phạm Thiên siêu quần bạt chúng
    Giữa Trời Ðao lợi với Thiên Hoàng.
  2. Hỡi nàng mang các chuỗi thanh liên,
    Cùng chuỗi bảo châu ở trán trên,
    Da tựa vàng ròng, trang điểm đẹp,
    Xiêm y tuyệt mỹ của thần tiên,
    Nàng là ai đó, này Thiên nữ,
    Ðảnh lễ ta rồi đứng một bên?
  3. Nghiệp gì nàng đã tạo trên đời,
    Kiếp trước sinh ra ở cõi người?
    Bố thí vẹn toàn hay giữ giới?
    Nhờ đâu vinh hiển, được lên trời?
    Hỡi nàng Thiên nữ, khi ta hỏi,
    Nghiệp quả gì đây, hãy trả lời.

Khi được Trưởng lão hỏi vậy, nàng Thiên nữ giải thích:

  1. Mới đây, Tôn giả, chính trong làng,
    Khất thực, đến nhà của chúng con,
    Con cúng dường ngài cây mía nhỏ
    Với lòng thành tín, nhiệt tâm tràn.
  2. Sau đó mẹ chồng mắng chửi con:
    ‘Mày quăng khúc mía ở đâu chăng?’
    – Con không quăng cũng không ăn mía,
    Con cúng Sa-môn đạt tịnh an.
  3. ‘Quyền của ta đây hoặc của mày?’
    Mẹ chồng nói vậy, chửi con ngay,
    Bà cầm chiếc ghế quăng con ngã,
    Vong mạng, con thành Thiên nữ đây.
  4. Ðó là thiện nghiệp trước con làm,
    Phước quả này con hưởng vẹn toàn,
    Thiên chúng cùng con vui thỏa thích
    Năm nguồn dục lạc tạo hân hoan.
  5. Ðó là thiện nghiệp trước con làm,
    Phước quả này con hưởng vẹn toàn,
    Thiên chủ cùng chư Thiên bảo hộ,
    Ban cho dục lạc đủ năm nguồn.
  6. Phước quả này không phải nhỏ nhoi,
    Cúng dường mía kết quả cao vời,
    Nay con hưởng lạc cùng Thiên chúng,
    Tìm thú vui năm dục cõi trời.
  7. Phước quả này không phải nhỏ nhen,
    Cúng dường khúc mía với lòng tin
    Tạo thành kết quả đầy vinh hiển,
    Ðược hộ phò trong Hỷ lạc Viên,
    Tam thập tam thiên nhờ Ðế Thích,
    Như ngài ngàn mắt trú bình yên.
  8. Tôn giả, hiền nhân thương xót con,
    Ðến gần, con hỏi có khang an,
    Rồi con dâng cúng ngài cây mía
    Với tín tâm và hỷ lạc tràn. 

3. (31) Chuyện thứ ba – Lâu Ðài Có Chiếc Trường Kỷ (Pallanka-Vimàna)

Bấy giờ, bậc Ðạo Sư trú tại Sàvatthi, ở Kỳ Viên. Thời ấy tại thành Sàvatthi, có con gái của một đệ tử tại gia được kết hôn với một nam tử của một gia đình khác cùng gia thế và hoàn cảnh tương tự trong thành ấy.

Nằng có bản tánh tốt đẹp, giữ giới hạnh toàn vẹn, tôn trọng chồng, hành trì Ngũ giới và đúng các ngày Bố-tát, nàng giữ Bát quan trai giới. Sau đó từ trần, nàng tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba.

Tôn giả Trưởng lão Mahà-Moggallàna du hành lên cõi thiên như (đã được tả trên) và hỏi nàng:

  1. Trên bảo tọa tô điểm ngọc vàng,
    Trăm hoa rải rắc, đẹp huy hoàng,
    Trú kia, Thiên nữ oai nghi quá,
    Biến hóa hình dung với lực thần.
  2. Ðàn tiên này hộ tống quanh nàng,
    Nhảy múa hát ca, tạo lạc an,
    Nàng đắc thần thông Thiên chúng ấy,
    Nay là Thiên nữ đại vinh quang,
    Xưa làm người ở trong trần thế,
    Nàng tạo nên công đức gì chăng?
    Uy lực nàng vì sao rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?

Thiên nữ giải thích cho Tôn giả qua các vần kệ này:

  1. Khi được làm người giữa thế nhân,
    Con là dâu quý tộc giàu sang,
    Vâng lời chồng bảo, không hờn giận,
    Và giữ ngày trai giới nhiệt tâm.
  2. Kiếp xưa con đã được làm người,
    Lòng dạ thơ ngây, thuở thiếu thời,
    Làm đẹp ý chồng, tâm tín cẩn,
    Ngày đêm phụng sự để vui đời.
  3. Ngày xưa, giữ đạo lý luân thường,
    Không sát sanh, tà dục, ác gian,
    Không uống rượu nồng, không nói láo,
    Con hoàn thành giới luật chu toàn.
  4. Vào ngày mười bốn với mười lăm,
    Và các ngày mồng tám, sáng trăng,
    Ðặc biệt là ngày trong nửa tháng
    Liên quan Bố-tát giới tu thân,
    Lòng thành, trì Bát quan trai giới
    Theo đúng pháp hành với nhiệt tâm.
  5. Hành trì Thánh thiện pháp liên quan
    Tám giới trang nghiêm, quả lạc an,
    Tuân phục phu quân, và khả ái,
    Con là đệ tử Phật Cồ-đàm.
  6. Hành thiện pháp xưa ở giữa đời,
    Dự phần ưu thắng vượt hơn người,
    Ðến khi thân hoại, con thành đạt
    Thần lực chư Thiên, đến cõi trời.
  7. Trong Lâu đài lạc thú, vinh quang,
    Ðược cả quần tiên hộ tống luôn,
    Thiên nữ một đoàn đem hỷ lạc
    Cho con trường thọ ở thiên đường. 

4. (32) Chuyện thứ tư – Lâu Ðài Của Latà (Latà-Vimàna)

Bấy giờ, bậc Ðạo Sư trú tại Sàvatthi, ở Kỳ Viên. Thời ấy có một cô gái tên Latà, con của một đệ tử cư sĩ sống ở Sàvatthi, một thiếu nữ có học thức, nhiều tài năng và thông minh, về nhà chồng. Nàng rất khả ái đối với chồng, cha mẹ chồng, nói năng dịu dàng, nhân từ đối với gia nhân, có khả năng đảm đương công việc gia đình, tánh tình hiền thiện, thực hành giới hạnh hoàn hảo, thích thú bố thí, nàng lại tinh cần giữ Ngũ giới trọn vẹn và tuân thủ các ngày Bát quan trai giới.

Sau một thời gian nàng từ trần, và tái sanh làm con gái của Ðại Thiên Vương Vessavana (Tỳ-sa-môn). Song nàng vẫn có tên là Latà. Ngoài ra còn có bốn chị em khác là Sajjà, Pavarà, Acchimatì và Sutà.

Tất cả năm chị em đều được Sakka Thiên chủ bảo dưỡng và đưa vào vị trí thị giả của ngài nhờ khả năng ca múa. Song Latà được sủng ái nhất vì tài đàn hát múa của nàng. Khi nào các nàng hội họp, đều có tranh luận về tài năng âm nhạc. Cả năm đều đi đến Ðại Thiên vương Vessavana và hỏi:

– Tân phụ vương, ai trong chúng con có tài nhất về đàn hát múa ca?

Ngài đáp:

– Này các con, hãy đến chơi nhạc ở hội chúng chư Thiên bên bờ hồ Anottata. Tại đó, tài năng đặc biệt của các con sẽ thể hiện.

Các nàng làm theo lời ngài. Tại đó các tiên đồng không thể nào tự kiềm chế được khi Latà nhảy múa. Chư vị cười rộ lên vì tràn ngập kỳ thú, hoan nghênh không ngớt và vẫy khăn liên tục, chư vị gây huyên náo đến độ làm cho núi Tuyết Sơn như thể đang rung động.

Nhưng khi các nàng khác nhảy múa thì chư vị ngồi yên lặng như sơn ca mùa đông. Như vậy tại đại hội ấy, tài năng đặc biệt của Latà đã thể hiện rõ ràng.

Sau đó tư tưởng này khởi lên trong tâm Thiên nữ Sutà: ‘Vì hạnh nghiệp gì nàng Latà này đã vượt trội chúng ta về vinh quang hiển đạt? Nào, ta muốn hỏi về hạnh nghiệp Latà đã làm’. Nàng đến hỏi và nàng kia giải thích vấn đề cho nàng rõ.

Ðại vương Vessavana bèn trình toàn thể câu chuyện với Tôn giả Mahà-Moggallàna nhân dịp Tôn giả du hành lên thiên giới. Khi trình bày vấn đề lên đức Thế Tôn từ duyên cớ đầu tiên của câu chuyện, Tôn giả nói về các nàng Latà, Sajjà, Pavatà, Acchimatì và Sutà như sau:

  1. Năm nàng đây chính các tiên nương,
    Con gái Tỳ-sa-môn Ðại vương,
    Thiên đế huy hoàng, cao cả ấy,
    Sáng ngời đức tính, tỏa hào quang.
  2. Năm nàng Thiên nữ đến bên dòng,
    Phủ kín hoa sen, tắm mát xong,
    Khi đã đùa chơi, cùng múa hát,
    Su-tà lại hỏi La-tà rằng:
  3. Hỡi nàng mang các chuỗi sen xanh,
    Và chuỗi bảo châu ở trán mình,
    Da tựa vàng ròng, đen nháy mắt,
    Sáng ngời như thể sắc thiên thanh,
    Cuộc đời nàng lại thêm trường thọ,
    Vì cớ sao nàng được nổi danh?
  4. Thiên chủ quý yêu bạn nhất đoàn,
    Hoàn toàn khả ái vẻ dung nhan,
    Bạn tài giỏi múa ca đàn hát,
    Và được quần tiên đến hỏi han.
    Sau khi Sutà hỏi, Latà liền đáp:
  5. Khi được làm người giữa thế nhân,
    Em là dâu quý tộc giàu sang,
    Tuân lời chồng bảo, không hờn giận,
    Luôn giữ ngày trai giới nhiệt tâm.
  6. Thuở em là một kẻ phàm nhân,
    Em đã làm vui đẹp ý chồng,
    Cha mẹ, em chồng, người giúp việc,
    Cho nên được tiếng tốt vang lừng.
  7. Do hoàn thành thiện nghiệp xưa kia,
    Em xuất chúng luôn cả tứ bề:
    Thọ mạng, dung quang và hạnh phúc,
    Khang an, hưởng lạc thú tràn trề.
  8. Các nàng nghe chuyện La-tà chăng?
    Nàng giải đáp lời ta hỏi thăm:
    Các đức phu quân là thiện thú
    Tối cao cho cả đám hồng quần.
  9. Tất cả chúng ta trong Pháp chân,
    Hãy chăm lo phục vụ phu quân,
    Nơi đâu những kẻ là trinh phụ
    Theo Ðạo pháp này phải tận tâm
    Thực hiện những điều La-tà nói,
    Chúng ta sẽ hưởng được thiên ân.
  10. Sư tử lang thang khắp núi rừng,
    Trú trong hang đá, chốn nương thân,
    Giết tan các vật nào hèn yếu,
    Vì nó ăn loài thú bốn chân.
  11. Vậy tín nữ theo các Thánh nhân,
    Lòng thành, nương tựa đức phu quân,
    Với chồng, giữ trọn niềm trinh tiết,
    Tiêu diệt xan tham, thắng hận sân,
    Người ấy thực hành theo Chánh pháp,
    Ðời sau thọ hưởng cảnh thiên đàng. 

5. (33) Chuyện thứ năm – Lâu Ðài Của Guttila (Guttila-Vimàna)

Trong lúc đức Thế Tôn trú tại Ràjagaha, Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành lên thiên giới, như đã kể ở trên, đến cõi trời Ba mươi ba. Ở đó trong ba mươi sáu Lâu đài liên tiếp, Tôn giả thấy ba mươi sáu Thiên nữ hưởng thọ thiên lạc vinh quang với một đoàn tùy tùng gồm cả ngàn tiên nữ, và Tôn giả lần lượt hỏi, bắt đầu với vần kệ. ‘Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm’ về các thiện nghiệp được các nàng thành tựu.

Sau khi Tôn giả hỏi, các Thiên nữ đáp lời với các vần kệ, mà vần đầu tiên là:

Con đã dâng y đẹp tuyệt trần…

Sau đó Tôn giả về nhân thế, trình câu chuyện lên đức Thế Tôn. Khi nghe chuyện, đức Thế Tôn nói:

– Này Moggallàna, không phải các Thiên nữ chỉ được ông hỏi và đáp lời như vậy mà thôi, nhưng xưa kia, hội chúng ấy cũng được Ta hỏi và trả lời như vậy.

Rồi vị Trưởng lão thỉnh cầu, Ngài kể lại cuộc đời Guttila, một chuyện Tiền thân của Ngài. (Xem chuyện “Tiền thân đức Phật”, quyển II số 243, Guttila Jàtaka).

  1. Thất huyền cầm ấy thật du dương,
    Ta phải đàn êm ái lạ thường,
    Ðệ tử mời ta ra nhảy múa,
    Ko-si-ya, hãy giúp ta cùng.
  2. – Ta là nơi chốn bạn nương nhờ,
    Ta vẫn thường tôn trọng giáo sư,
    Ðệ tử sẽ không sao thắng bạn,
    Giáo sư này sẽ thắng môn đồ.

Tương truyền rằng ba mươi sáu Thiên nữ ấy đã sinh làm người vào thời đức Phật Kassapa (Ca-diếp cổ Phật trước đức Gotama), và đã thực hành các công đức thiện sự như vầy; một người dâng y, một người dâng hương, một người dâng trái cây tuyệt hảo, một người dâng nước mía, một người in dấu năm ngón tay có tẩm hương tại Tháp của đức Thế Tôn, một người hành trì ngày trai giới, một người dâng nước lên một Sa-môn lúc ấy đang thọ thực vào giờ ngọ trai, một người vô sân phục vụ cha mẹ chồng cáu kỉnh, một nữ tỳ tận trung chuyên cần, một người dâng cháo sữa lên một Sa-môn đang khất thực, một người dâng mật mía, một người dâng khúc mía, một người dâng quả timbaru, một người dâng dưa hấu, một người dâng dưa bở, một người dâng dưa leo, một người dâng hoa phàrusaka, một người dâng lò than nhỏ bằng đất (để sưởi), một người dâng bó củ sen, một người dâng một nắm lá thuốc, một người dâng tương chua, một người dâng bánh mè, một người dâng dây thắt lưng, một người dâng dây treo ở vai, một người dâng tấm vải buộc vết thương, một người dâng quạt, một người dâng quạt lá kè, một người dâng dụng cụ đuổi ruồi bằng lông chim công, một người dâng dù che nắng, một người dâng mứt, một người dâng bánh ngọt.

Tất cả vị này được tái sanh cùng đoàn tùy tùng gồm cả ngàn tiên nữ để làm thị nữ của Sakka Thiên chủ. Khi được Guttila, giáo sư âm nhạc, hỏi thăm, mỗi vị lần lượt giải thích các thiện nghiệp đã làm, bắt đầu với vần kệ: ‘Tín nữ dâng y đẹp tuyệt trần’ v.v….

  1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
    Nàng đứng, toàn thân đều tỏa sáng
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
    6. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Bèn giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng.
  4. Tín nữ dâng y đẹp tuyệt trần,
    Là người vinh hiển giữa nhân quần,
    Người nào dâng các y như thế
    Sẽ đạt thiên cung đẹp thỏa lòng.
  5. Hãy ngắm Lâu đài đây của con,
    Là Thiên nữ, con biến hóa khôn lường,
    Vinh quang nhất giữa đàn tiên nữ,
    Hãy ngắm quả thành tựu phước ân.
  6. Vì thế sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào ưa chuộng
    Trong dạ, tức thì xuất hiện ngay.
  7. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.

Giống như Lâu đài này của người dâng y, bốn Lâu đài kế tiếp cũng được triển khai như vậy: Các vần kệ thứ 3 đến thứ 10 được lập lại bốn lần với các điểm thay đổi sau:

  1. Tín nữ dâng hoa đẹp tuyệt trần, …
  2. Tín nữ dâng hương ngát tuyệt trần, …
  3. Tín nữ cúng dâng quả tuyệt trần, …
  4. Tín nữ dâng cam lộ tuyệt trần, …
  5. Con đã in hình năm ngón tay,

Tẩm hương lên bảo Tháp thờ Ngài

Thế Tôn Ca-diếp thời sơ cổ,….

Giống như Lâu đài người in dấu năm ngón tay tẩm hương, bốn Lâu đài kế tiếp cũng được triển khai như vậy, và lập lại các vần kệ từ 8 đến 10, nhưng có các biến đổi sau đây thay thế vần kệ 18:

  1. Con thấy Tăng Ni ở dọc đường,
    Khi con nghe pháp của chư Tôn,
    Con tuân thủ một ngày trai giới,

    20. Khi đứng trên dòng với tín tâm,
    Con dâng cúng nước một Sa-môn,

    21. Xưa con hầu hạ mẹ cha chồng
    Cáu kỉnh, gắt gay lại cộc cằn,
    Con chẳng hận sân hay oán ghét,
    Giữ gìn giới đức thật chuyên tâm.
  2. Con là người phục dịch tha nhân,
    Nô lệ chuyên cần việc bản thân,
    Con chẳng hận sân hay ngã mạn,
    Con là người đã được chia phần.
  3. Khi đã hoàn thành sự nghiệp xong,
    Tái sanh thiện thú, được hân hoan,

    24. Con dâng cháo sữa một Sa-môn
    Ðang bước đi cầu thực giữa đường,
    Hãy ngắm Lâu đài con được hưởng….

Giống như Lâu đài của người cúng cháo sữa, hai mươi lăm Lâu đài khác cũng phải được khai triển như vậy:

  1. Con dâng mật mía….
    26. Con dâng khúc mía nhỏ…
    27. Con dâng quả timbaru…
    28. Con dâng dưa hấu…
    29. Con dâng dưa bở….
    30. Con dâng dưa leo….
    31. Con dâng hoa phàrusaka….
    32. Con dâng lò sưởi tay…
    33. Con dâng một nắm rau xanh….
    34. Con dâng một bó hoa nhỏ…
    35. Con dâng một bó củ sen…
    36. Con dâng một nắm lá thuốc…
    37. Con dâng cháo xoài…
    38. Con dâng bánh mè…
    39. Con dâng dây thắt lưng..
    40. Con dâng dây treo ở vai…
    41. Con dâng tấm vải buộc vết thương…
    42. Con dâng cây quạt…
    43. Con dâng cây quạt lá kè…
    44. Con dâng dụng cụ đuổi ruồi bằng lông công…
    45. Con dâng cây dù che nắng…
    46. Con dâng đôi dép…
    47. Con dâng bánh dẻo…
    48. Con dâng mứt kẹo…
    49. Con dâng bánh ngọt lên một Sa-môn đi khất thực….
    50. Hãy ngắm Lâu đài đây của con,
    Là Thiên nữ con biến hóa khôn lường,
    Vinh quang nhất giữa đàn tiên nữ,
    Hãy ngắm quả thành tựu phước ân.
  2. Vì thế sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  3. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Vì thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.
  4. Lành thay ta đã đến hôm nay,
    Hạnh phúc bừng lên, rạng rỡ ngày,
    Vì được thấy đàn Thiên nữ ấy
    Thay hình đổi dạng thỏa lòng đây.
  5. Ðã nghe thiện pháp các nàng tiên,
    Ta quyết thực hành lắm phước duyên:
    Bố thí, tinh cần, thân chế ngự,
    Ta nguyền đến cảnh chẳng ưu phiền. 

6. (34) Chuyện thứ sáu – Lâu Ðài Rực Rỡ (Daddalha-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi ở Kỳ Viên. Thời ấy trong một làng nhỏ của thị trấn Nàlaka có một người khá giả, tình nguyện phụng sự Tôn giả Trưởng lão Revata (Ly-bà-la). Người ấy được hai con gái: một nàng tên Bhaddà, nàng kia là Subhaddà.

Bhaddà về nhà chồng, đầy đủ tín tâm và thông tuệ, nhưng nàng lại không sinh con. Nàng bèn nói với chồng:

– Thiếp có một em gái tên Subhaddà, hãy cưới em gái thiếp. Nếu em thiếp sanh con trai, nó cũng là con của thiếp và dòng dõi này không bị tuyệt tự.

Chồng bảo nàng:

– Ðược lắm.

Và chàng làm theo đề nghị của vợ.

Bấy giờ Bhaddà khuyên nhủ Subhaddà:

– Này em, hãy thích thú bố thí, và tinh cần sống theo chánh hạnh, như vậy sẽ có nhiều lợi lạc cho em trong đời hiện tiền này và đời sau.

Một hôm, Subhaddà theo lời khuyên của chị và làm theo điều nàng bảo, thỉnh cầu Tôn giả Revatà đến thọ thực cùng bảy vị khác. Chư vị đến nhà nàng. Ðầy đủ tín tâm, nàng tự tay phục vụ chư vị và thiết đãi Tôn giả Revatà cùng chư Tỷ-kheo các món cao lương mỹ vị đủ loại cứng và mềm. Vị Trưởng lão nói lời tùy hỷ công đức rồi ra đi.

Về sau, Subhaddà từ trần và tái sanh vào hội chúng Hóa Lạc thiên. Còn Bhaddà, trước kia chỉ cúng dường cho các cá nhân riêng lẻ, nên được tái sanh làm thị nữ của Sakka Thiên chủ.

Bấy giờ Subhaddà, nhân lúc suy nghĩ lại thành quả của chính mình,tự hỏi: ‘Vì công đức nào mà nay ta đã hóa sinh tại đây?’. Và nhận ra chính nàng đạt được cảnh giới này do cúng dường Tăng chúng theo lời khuyên của Bhaddà. Rồi trong lúc nàng hỏi: ‘Thế Bhaddà nay ở đâu?’, nàng thấy chị nàng đã tái sanh làm thị nữ của Sakka, và do lòng thương tưởng chị kiếp trước, nàng bước vào Lâu đài của chị. Lúc ấy Bhaddà hỏi nàng:

  1. Chói lọi dung nhan đẹp rỡ ràng,
    Hỡi nàng Thiên nữ đại vinh quang,
    Sáng ngời vượt hẳn bao Thiên nữ
    Tam thập tam thiên giới vẻ vang.
  2. Ta chẳng nhớ ta đã gặp nàng,
    Ðây lần đầu diện kiến dung nhan,
    Từ Thiên chúng cõi nào đi đến,
    Và gọi tên ta thật rõ ràng?
    Nàng ngâm hai vần kệ giải thích:
  3. Bhad-dà, em chính Su-bhad-dà,
    Khi ở cõi người một kiếp xưa,
    Em lấy chồng chung cùng chị đó,
    Em là tiểu muội chị đây mà.
  4. Ðến lúc em thân hoại mạng chung,
    Tự do giải thoát cõi hồng trần,
    Về sau cộng trú cùng Thiên chúng
    Hóa Lạc thiên vui thú tột cùng.

Bhaddà lại hỏi nàng:

  1. Những người làm thiện nghiệp an lành
    Ði đến cõi trời để tái sanh,
    Em được sanh cùng Thiên chúng ấy,
    Su-bhad-dà phát biểu phân minh.
  2. Nhưng làm sao có pháp môn nào
    Em được người nào dạy ở đâu,
    Bố thí cách nào hành thiện sự
    Làm em sáng chói giữa trời cao?
  3. Ðã đạt đến danh vọng lẫy lừng,
    Vinh quang xuất chúng, hưởng thiên ân,
    Khi nàng Thiên nữ nghe lời hỏi,
    Quả ấy nghiệp gì, hãy giải phân.

Subhaddà đáp:

  1. Cúng dường vừa đúng tám phần ăn,
    Kiếp trước tự tay em hiến dâng,
    Ðầy đủ tín tâm đem bố thí
    Chúng Tỳ-kheo xứng đáng chia phần.
  2. Vì thế sắc em đẹp thế này,
    Và em vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  3. Xin trình Thiên nữ đại oai thần
    Công đức em làm giữa thế nhân,
    Vì thế oai nghi em rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương.

Sau đó Bhaddà hỏi nàng:

  1. Với tự tay mình, đủ tín tâm
    Chị đem nhiều thực phẩm cung dâng
    Sa-môn, Phạm hạnh, thân điều phục,
    Hơn cả em ngày trước đã làm.
  2. Sau khi đã bố thí nhiều hơn,
    Chị đến với Thiên chúng hạ tầng,
    Sao em cúng ít hơn thời ấy,
    Lại được vinh quang thật lẫy lừng?
    Thiên nữ, khi em vừa được hỏi,
    Nghiệp gì quả ấy, hãy phân trần.

Subhaddà lại nói:

  1. Xưa em gặp một vị tu hành,
    Là bậc thầy làm khởi tín thành,
    Em thỉnh cầu ngài về thọ thực,
    Ly-bà-la, với bảy đồng hành.
  2. Ngài chú tâm làm lợi hữu tình,
    Vì lòng lân mẫn đối quần sanh,
    Dạy em: ‘Bố thí lên Tăng chúng’,
    Vì vậy em y giáo phụng hành.
  3. Lễ vật cúng dường lên chúng Tăng
    Trú an trong quả lớn vô ngần,
    Chị đem bố thí từng người một
    Chẳng được hưởng nhiều quả phước ân.

Khi Subhadda đã nói như vậy, Bhaddà chấp nhận ý nghĩa trên và ước mong đời sau sẽ nhiệt tình noi gương em nàng, bèn ngâm kệ:

  1. Nay biết cúng dường lên chúng Tăng
    Ðược nhiều phước quả lớn vô ngần,
    Khi nào trở lại làm người nữa,
    Chị sẽ chuyên tâm việc cúng dường
    Lên chúng Tỷ-kheo nhiều mãi mãi,
    Lòng đầy hào phóng, chẳng xan tham.

Rồi Subhaddà trở lại thiên giới của nàng. Sau đó, khi Sakka Thiên chủ thấy Thiên nữ ấy sáng chói nhờ hào quang của sắc thân nàng vượt trội hơn hẳn Thiên chúng cõi trời Ba mươi ba, và đã nghe câu chuyện giữa hai nàng, nên ngay sau khi Subhaddà biến mất, ngài không biết nàng là ai, bèn hỏi Bhaddà:

  1. Ai là Thiên nữ, hỡi Bhad-dà,
    Trò chuyện cùng nàng thật nết na,
    Nàng ấy vượt lên về mỹ sắc
    Mọi Thiên thần cõi Ba mươi ba?
    Nàng tâu trình Thiên chủ:
  2. Tâu ngài Thiên chủ, ở phàm trần,
    Kiếp trước sinh làm một nữ nhân,
    Nàng đã cùng con làm tỷ muội,
    Chúng con thời ấy lấy chung chồng,
    Bởi vì nàng cúng dường Tăng chúng,
    Nay sáng ngời lên với phước ân.

Sau đó Sakka Thiên chủ thuyết pháp, nêu rõ thành quả vĩ đại của lễ vật đáng tuyên dương mà nàng đã cúng dường Tăng chúng:

  1. Ngày xưa Thiên nữ ấy em nàng,
    Nhờ thiện pháp, nay chiếu ánh quang,
    Nàng đã cúng dường lên Thánh chúng,
    Trú an trong quả lớn vô lường.
  2. Trước kia trên đỉnh Thứu Linh Sơn,
    Ta hỏi Phật-đà, đức Thế Tôn,
    Về sự kết thành do bố thí,
    Nơi nào đem quả lớn khôn lường.
  3. Ðối với phàm nhân chúng hữu tình
    Cúng dường mong phước đức phần mình,
    Nơi nào bố thí nhiều thành quả
    Mang lại cho người lúc tái sanh?
  4. Phật-đà trước đã hiểu tinh tường
    Nghiệp quả tạo nên bởi cúng dường,
    Bố thí nơi nào đem quả lớn,
    Nên Ngài giảng giải với ta rằng:
  5. Bốn người đang tiến bước lên đường,
    Và bốn người đắc quả trú an,
    Tăng chúng chánh chân và chú trọng
    Thực hành Giới, Ðịnh, Tuệ tinh cần.
  6. Ðối với phàm nhân, chúng hữu tình
    Cúng dường mong phước đức cho mình,
    Dâng nhiều lễ vật lên Tăng chúng
    Ðem quả lớn về lúc tái sanh.
  7. Vì Tăng chúng rộng lớn mênh mang,
    Sâu thẳm không lường giống đại dương,
    Ðệ tử bậc Anh hùng dưới thế
    Là người tối thắng giữa phàm nhân,
    Nơi nào Tăng chúng đi truyền pháp,
    Chư vị đều mang đến ánh quang.
  8. Những người đem lễ cúng chư Tăng,
    Lễ vật cúng dường thật chánh chân,
    Bố thí, hiến dâng theo Chánh pháp,
    Lễ kia mang quả lớn vô cùng,
    Cúng dường lễ vật lên Tăng chúng
    Ðược các Phật-đà tán thán luôn.
  9. Tích đức này đây chính phước điền,
    Những người kia tiến bước đi lên
    Giữa đời, tâm ngập tràn hoan hỷ,
    Khi đã diệt ô nhiễm thấp hèn
    Của thói xan tham cho tận gốc,
    Không còn lầm lỗi, sẽ sanh Thiên.

Sakka Thiên chủ kể toàn chuyện này với Tôn giả Mahà-Moggallàna, Tôn giả lại trình lên Thế Tôn. Ngài lấy đó làm một dịp thuyết pháp.

  1. (35) Chuyện thứ bảy – Lâu Ðài Của Sesavati (Sesavati-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Kỳ Viên. Thời ấy trong làng Nàlaka nước Ma-kiệt-đà (Magadha) có một nàng dâu trong nhà một gia chủ giàu tiền của.

Chuyện kể rằng nhiều kiếp trước, khi ngôi kim Tháp rộng một do-tuần đang được xây để thờ đức Thế Tôn Kassapa, nàng còn là một thiếu nữ cùng đi với mẹ đến khuôn viên của đền thờ này và hỏi mẹ:

– Mẹ ơi, các người này đang làm gì thế?

– Họ đang đúc gạch bằng vàng để xây tháp.

Khi nghe vậy, cô gái có tín tâm liền bảo mẹ:

– Mẹ ơi, ở cổ con có món nữ trang nhỏ này bằng vàng. Con muốn đem nó tặng vào ngôi bảo Tháp.

– Thế thì tốt lắm, con hãy đem cúng nó đi.

Rồi tháo món nữ trang từ cổ con gái ra trao tận tay người thợ vàng, bà bảo:

– Ðây là phần đóng góp của con bé này. Hãy thêm nó vào viên gạch ông đang đúc nhé.

Người thợ vàng làm theo lời ấy.

Về sau cô gái từ trần và do công đức đặc biệt kia, được tái sanh vào thiên giới, rồi lần lượt đi từ thiện thú này đến thiện thú khác; vào thời đức Thế Tôn Gotama, nàng tái sanh ở làng Nàlaka.

Một hôm nàng được mẹ sai đi làm việc cho bà, nàng đem một ít tiền đến một tiệm mua dầu. Trong tiệm này có một gia chủ đang đào đất để lấy một số lớn đồng tiền, vàng, ngọc trai, châu báu đủ loại đã được cha chôn giấu để dành từ xưa. Người chủ tiệm thấy rằng vì nghiệp quả của mình, chúng đã biến thành sỏi đá. Sau đó vị ấy chất thành một đống, cất vào một nơi để quan sát chúng vừa tự bảo: ‘Do năng lực của những người đầy đủ công đức, chúng sẽ trở thành vàng bạc, đồng tiền như xưa’.

Bấy giờ cô gái thấy vậy bèn hỏi:

– Sao các đồng tiền kahàpana và châu báu được chất đống thế này? Hiển nhiên chúng cần phải được cất giữ đúng đắn mới phải.

Người chủ tiệm nghe vậy tự nghĩ: ‘Cô gái này có đại phước đức. Nhờ cô này tất cả của cải này sẽ biến thành vàng bạc cả, và sẽ có giá trị cho ta. Ta sẽ đối xử với cô ấy thật ân cần tử tế’.

Ông liền đến gặp mẹ nàng và xin cầu hôn nàng:

– Xin hãy gả con gái bà cho con trai tôi.

Ông trao tặng nàng một số tài sản lớn, tổ chức lễ cưới linh đình và rước cô gái về nhà mình.

Sau đó, nhận thấy rõ đức hạnh của nàng, ông mở kho gia bảo ra và nói:

– Con thấy cái gì đây?

Nàng đáp:

– Con chẳng thấy gì ngoài một đống tiền, vàng, và châu báu.

Ông lại bảo:

– Các châu báu này đã biến mất vì kết quả các nghiệp ác của nhà ta, nay nhờ các nghiệp ưu thắng của con, chúng đã trở thành bảo vật. Vậy từ nay chỉ mình con trong nhà này được cai quản mọi sự. Còn chúng ta sẽ chỉ dùng những thứ gì do con định đoạt.

Từ đó mọi người biết nàng qua danh hiệu Sesavati (Nữ phú gia).

Vào thời ấy Tôn giả Tướng quân Chánh pháp Sàriputta biết các hành nghiệp của đời mình đã chấm dứt, bèn suy nghĩ: ‘Ta sẽ trao bảo vật cho mẹ ta, nữ nhân Bà-la-môn Rùpasari, để làm nơi nương tựa cho bà, rồi ta sẽ đắc Niết-bàn vô dư y’.

Tôn giả liền đến gần đức Thế Tôn, thông báo cho Ngài biết Niết-bàn vô dư y của mình sắp đến, và theo lệnh của bậc Ðạo Sư, Tôn giả thị hiện một phép đại thần thông, rồi nói hàng ngàn lời tán thán đức Thế Tôn và khởi hành; mặt vừa hướng thẳng về phía Thế Tôn, vừa lùi dần cho đến khi khuất dạng Ngài.

Khi đã ra đi khuất dạng, Tôn giả còn đảnh lễ Ngài một lần nữa, rồi được chúng Tỷ-kheo vây quanh, Tôn giả rời tinh xá. Tôn giả đưa huấn thị cho Tăng chúng xong, lại an ủi Tôn giả Ananda, và bảo tứ chúng quay về sau khi tiễn đưa Tôn giả. Vừa đúng lúc đến làng Nalaka, an trú mẫu thân Tôn giả vào quả vị Dự Lưu. vào lúc rạng đông, Tôn giả đắc Niết-bàn vô dư y ngay ở trong căn phòng mà Tôn giả đã được sinh ra. Sau đó cả chư Thiên và loài Người cùng làm lễ cung kính cúng dường di hài Tôn giả suốt bảy ngày. Họ làm dàn hỏa thiêu cao một trăm cubit (45m) với đủ loại chiên-đàn và hương liệu.

Nàng Sesavati cũng nghe tin về Niết-bàn vô dư y của Tôn giả. Nàng bảo: ‘Ta sẽ đi đảnh lễ ngài’, và dặn gia nhân đặt hoa bằng vàng đầy hộp và đem hương liệu đến, nàng muốn xin phép cha chồng ra đi.

Ông bảo nàng:

– Con đang mang thai và ở đó đông nghẹt cả người, vậy con nên ở nhà và gửi hương hoa đến thôi.

Tuy thế, nàng đầy tín tâm, suy nghĩ: ‘Cho dù có nguy hiểm đến tính mạng ta tại đó, ta cũng muốn đi hành lễ cúng dường’. Rồi không nghe lời khuyên của ông, nàng cùng các người hầu cận ra đi, cúng dường hương hoa xong, nàng đứng chắp tay trước ngực trong dáng điệu sùng kính.

Vào lúc ấy, một con voi đang lên cơn động tình ở trong đoàn tùy tùng của hoàng gia đến làm lễ cúng dường Tôn giả Trưởng lão, thình lình chạy vào đó, khi mọi người thấy nó, liền hốt hoảng chạy trốn vì sợ chết, đám đông ấy dẫm chết Sesavati, nàng đã ngã gục trong đám người chen lấn nhau.

Nàng đã hoàn thành lễ cúng dường và từ trần với niềm tin đối với Tôn giả. Tâm đầy thành tín, nàng được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba.

Khi quan sát thành quả của nàng và suy luận ra nguyên nhân, nàng thấy chính là do lễ cúng dường Tôn giả Trưởng lão, nên với lòng thành tín hướng về Tam Bảo, nàng cùng Lâu đài của nàng du hành đến đảnh lễ bậc Ðạo Sư, vừa bước xuống khỏi Lâu đài, nàng đứng chắp tay trước ngực trong dáng điệu sùng kính.

Thời ấy Tôn giả Vangìsa, đang ngồi cạnh đức Thế Tôn nói như vầy:

– Bạch Thế Tôn, con muốn hỏi Thiên nữ kia về công đức phước nghiệp mà nàng đã làm.

Ðức Thế Tôn bảo:

– Này Vangìsa, cứ làm như vậy đi.

Sau đó Tôn giả Vangìsa ngâm kệ tán thán Lâu đài của nàng trước tiên:

  1. Với ánh sáng ngời của thủy tinh,
    Bạc vàng bao phủ khắp chung quanh,
    Lâu đài diễm lệ đầy màu sắc,
    Ta thấy nơi cư trú hiển vinh,
    Ðầy đủ cửa vòng cung chạm trổ,
    Cát vàng rải rắc lối Thiên đình.
  2. Như mặt trời xua bóng tối tan,
    Về thu chiếu sáng khắp mười phương,
    Lâu đài chói lọi trên thiên đỉnh
    Như cột lửa bừng ánh dạ quang.
  3. Chẳng khác nào tia chớp sáng lòa,
    Khiến hồn mê mẩn giữa trời xa,
    Vang lừng chũm chọe, đàn, kèn, trống,
    Tráng lệ như thành phố Ind-ra.
  4. Ðây đó hoa sen đỏ, trắng, xanh,
    Hoa lài, dâm bụt đỏ đầy cành,
    A-so-ka với Sà-la nở,
    Cây đẹp tỏa hương ngát dịu lành.
  5. Viền quanh thông, mít, Bhu-ja-ka,
    Chằng chịt hoa leo đám cọ dừa,
    Sen, súng đâm chồi như bảo ngọc,
    Hồ sen tuyệt mỹ, hỡi tiên nga!
  6. Bất kỳ dưới nước có hoa nào,
    Hoặc ở đất bằng hoa mọc sao,
    Dù thuộc thiên thần hay hạ giới,
    Chúng đều mọc ở tại lầu cao.
  7. Ðây là kết quả sự tu hành,
    Ðiều phục tự thân, được hóa sanh,
    Do nghiệp gì, Lâu đài đạt được?
    Hỡi nàng Thiên nữ nói cho minh.

Sau đó Thiên nữ đáp:

  1. Cách nào con đạt Lâu đài này
    Có công, hạc, trĩ đến từng bầy,
    Hồng nga, ngỗng xám, sơn ca hót,
    Vang dội tiếng chim lảnh lót thay.
  2. Ðầy đủ cây hoa tỏa rộng cành:
    Vô ưu, đào đỏ với kèn xanh,
    Làm sao con đạt Lầu thiên giới,
    Tôn giả nghe con sẽ thuyết trình.
  3. Hưng thịnh miền đông Ma-kiệt-đà,
    Có làng tên gọi Na-la-ka,
    Xưa làm dâu một nhà nơi ấy,
    Dân chúng gọi con ‘Nữ phú gia’.
  4. Tâm con tràn ngập nỗi hân hoan,
    Rải rắc hoa thơm khắp đại nhân,
    Ngài được trời, người đồng kính mộ
    Về tài thuyết pháp lẫn hồng ân,
    Phước điền vô thượng là Tôn giả
    Xá-lợi-phất vừa xả báo thân.
  5. Sau khi con kính lễ ngài xong,
    Ngài đã về nơi tối thượng tầng,
    Ðại giác giả mang thân cuối ấy,
    Con từ giã thể xác phàm trần,
    Ði lên Tam thập tam thiên giới,
    Con đến nơi này để trú thân. 

8. (36) Chuyện thứ tám – Lâu Ðài Của Mallikà (Mallikà-Vimàna)

Sau khi, đã hoàn thành nhiệm vụ của bậc Giác Ngộ, từ thời Chuyển Pháp luân cho đến thời giáo hóa du sĩ ngoại đạo Subhadda, vào lúc rạng đông một đêm trăng tròn tháng Visàkha, giữa đôi Sàla song thọ tại Upavattana, rừng Sàla của các quốc vương Malla ở Kusinàrà, đức Thế Tôn, nơi nương tựa của thế gian đã viên tịch trong Niết-bàn giới vô dư y, và trong lúc kim thân của Ngài được chư Thiên và loài Người cúng dường, một tín nữ ở Kusinàrà tên Mallikà thuộc dòng họ các quốc vương Malla, vợ của Bandhula, một người mộ đạo, đầy tín tâm, lấy nước hương thơm rửa bộ nữ trang hình tấm mạng lớn (để phủ quanh thân), giống như bộ nữ trang của đại tín nữ Visàkhà, và lau chùi thật bóng với một miếng vải mịn, rồi đem theo nhiều đồ vật khác như hương liệu, vòng hoa v.v…. đến đảnh lễ di hài đức Thế Tôn.

[Ðây chỉ là phần sơ lược, còn chuyện Mallikà có đầy đủ chi tiết trong bộ Luận Pháp cú (Dh.A.III.119, Mallikàdevivatthu) ]

Về sau, Mallikà từ trần và được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba. Vì nàng đã cúng dường lễ vật như vậy, nên nàng được hưởng vô lượng Thiên lạc huy hoàng. Xiêm y nữ trang, lâu đài, đều sáng chói với thất bảo, cùng với ánh sáng của vàng ròng tuyệt hảo, rực rỡ chiếu khắp mười phương với kim sắc như thể rải rắc mọi hướng với những tia vàng tinh chất.

Bấy giờ Tôn giả Nàrada đang du hành giữa Thiên chúng, trông thấy nàng bèn lại gần. Nàng cung kính đảnh lễ Tôn giả, rồi đứng chắp tay trong dáng điệu sùng kính. Tôn giả hỏi nàng:

  1. Thiên nữ khoác y phục ánh vàng,
    Ðiểm trang đầy ngọc báu kim hoàn,
    Thượng y vàng chói trông kiều diễm,
    Nàng chiếu sáng dầu chẳng điểm trang.
  2. Nàng đeo vòng đủ sắc là ai,
    Chiếc mão điểm trang tỏa sáng ngời,
    Che phủ mạng vàng ròng óng ả,
    Với bao hàng chuỗi ngọc buông lơi.
  3. Bảo vật hoàng kim kết ngọc hồng,
    Ngọc trai và ngọc thạch chen lồng,
    Minh châu mắt báo và hồng ngọc
    Như mắt bồ câu ngọc sáng trong.
  4. Tiếng chim khổng tước đáng yêu thay,
    Tiếng của hồng nga chúa ở đây
    Cùng tiếng sơn ca êm ái quá,
    Dịu dàng nghe chúng hót từng bầy,
    Khác nào âm điệu đàn năm thứ
    Ðồng tấu lên hòa khúc nhạc hay.
  5. Xe của nàng hoàn hảo sáng ngời,
    Khảm đầy bảo ngọc thật xinh tươi,
    Thiên xa lộng lẫy và cân xứng,
    Hình dáng hài hòa khắp mọi nơi.
  6. Thân sắc nàng như bức tượng vàng,
    Ðứng bên xe ngọc tỏa hào quang,
    Hỡi nàng Thiên nữ, khi ta hỏi,
    Hãy nói nghiệp gì quả ấy mang?

Và Thiên nữ đáp lời:

  1. Tấm mạng vàng ròng với bảo trân,
    Ngọc trai dày đặc phủ kim ngân,
    Lòng thành con cúng Cồ-đàm Phật
    Vô lượng phước điền tịch diệt xong.
  2. Sau khi thiện sự đã hoàn toàn,
    Công đức được chư Phật tán dương,
    Con thọ hưởng Lâu đài hạnh phúc,
    Vô sầu, vô bệnh, mãi an khương.
  3. (37) Chuyện thứ bảy – Lâu Ðài Của Visàlakkhì (Visàlakkhì-Vimàna)

Sau khi đức Thế Tôn đã viên tịch, khi Ðại vương Ajàtasattu (A-xà-thế) đã xây một đại Tháp ở Ràjagaha trên phần xá-lợi mà vua nhận được và cử hành lễ hội cúng dường xong, cô con gái một nhà làm vòng hoa tên Sunandà, một tín nữ, một vị Thánh đệ tử đắc quả Dự Lưu, gửi nhiều tràng hoa thơm đến cúng bảo Tháp, và vào các ngày trai giới, chính nàng đi đến đó lễ bái.

Về sau, lúc từ trần, nàng được tái sanh làm thị nữ của Sakka Thiên chủ và một hôm Thiên chủ đi vào Lâm viên Cittalatà, thấy nàng đứng đó mà không bị ảnh hưởng bởi ánh hào quang của tất cả các vị Thiên thần chung quanh nàng.

Ngài bèn hỏi nàng lý do:

  1. Thiên nữ là ai cặp mắt huyền,
    Trong vườn lạc thú Cit-ta Viên,
    Nàng đang đi dẫn đầu tiên chúng
    Hầu cận quanh nàng ở cõi thiên.
  2. Khi chư Thiên cõi Ba mươi ba
    Vào Lạc Viên này đủ mã, xa,
    Tất cả hào quang toàn hội chúng
    Ðồng thời được phóng tỏa lan ra.
  3. Song nàng đã đến tận nơi đây,
    Dạo bước Lâm viên lạc thú này,
    Thân thể nàng không ai chiếu sáng,
    Vì sao dung sắc được như vầy,
    Hỡi nàng Thiên nữ, khi nghe hỏi,
    Hãy nói nghiệp gì tạo quả đây?

Khi được Sakka Thiên chủ hỏi, Thiên nữ Sunandà đáp lời qua các vần kệ này:

  1. Thiên chủ, nghiệp xưa tạo quả này,
    Hình dung, sanh thú của con đây,
    Vinh quang, uy lực, tâu Thiên chủ,
    Xin lắng nghe con sẽ giải bày.
  2. Vương Xá thành đầy lạc thú kia,
    Con là tín nữ Su-nan-dà,
    Tín tâm đầy đủ hành trì giới,
    Bố thí hân hoan rộng rãi mà.
  3. Các thứ đèn dầu, thức uống ăn,
    Tọa sàng, y phục thứ cần dùng,
    Con dâng cúng những người chơn chánh,
    Cùng với niềm thành tín nhiệt tâm.
  4. Vào ngày mười bốn với mười lăm,
    Mồng tám, những ngày có sáng trăng,
    Ðặc biệt là ngày trong nửa tháng
    Liên quan Bố-tát giới tu thân,
    Con hành trì Bát quan trai giới,
    Ðức hạnh con luôn sống hộ phòng.
  5. Hại mạng sát sanh con tránh xa,
    Giữ mình không dối trá sai ngoa,
    Cũng không trộm cắp hay tà dục,
    Thói uống rượu say cũng đoạn trừ.
  6. Hân hoan giữ Ngũ giới tu hành,
    Thành Ðế con nghiên cứu thật tinh,
    Ðệ tử đức Cồ-đàm Giác giả,
    Là người có mắt, đấng lừng danh.
  7. Thuở trước một nhà quyến thuộc con
    Ðã đưa con đủ loại hoa vòng,
    Con dâng tất cả vòng hoa ấy
    Tại tháp của Ngài, đức Thế Tôn.
  8. Vào ngày trai giới có trăng rằm,
    Con đến cúng dường với tín tâm,
    Hương liệu, vòng hoa, dầu đủ thứ,
    Tại đền bảo Tháp, chính tay dâng.
  9. Vì hạnh nghiệp ngày trước của con,
    Dâng tràng hoa, tấu đức Thiên hoàng,
    Hình dung, cảnh giới này con đạt,
    Vinh hiển cao sang, đủ lực thần.
  10. Vì hạnh nghiệp xưa tạo ở đời,
    Con thường giữ giới Bát quan trai,
    Kết thành thiện quả ngày sau đến,
    Thiên chủ, con mong đạt Bất lai.

Rồi Sakka Thiên chủ trình vấn đề này với Tôn giả Vangìsa. Tại Hội nghị kết tập Kinh điển, Tôn giả thuật chuyện này với chư Trưởng lão thời ấy đang biên soạn Giáo pháp và chư vị thêm chuyện này đúng như thật vào Kinh tạng.

  1. (38) Chuyện thứ mười – Lâu Ðài Cây San Hô (Paricchattaka-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn, trú tại Sàvatthi, trong Kỳ Viên. Một đệ tử tại gia đầy tín thành cúng dường thực phẩm lên đức Thế Tôn tại nhà riêng vô cùng trọng thể.

Ngay lúc ấy một nữ nhân lượm củi trong Hắc lâm thấy một cây Vô ưu (Asoka) đang nở hoa. Bà đi nhặt các cành hoa đến rải quanh đức Thế Tôn, cung kính đảnh lễ Ngài rồi ra về.

Sau đó bà từ trần, được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba, hưởng lạc thú tại Hỷ lạc Viên Nandana, cùng với đoàn tiên nữ ca múa tham dự lễ hội dưới cây Thiên hoa San hô. Tôn giả Mahà-Moggallàna cũng thấy nàng và hỏi nàng như vầy:

  1. Cùng với San hô, các loại hoa,
    Vườn tiên tuyệt mỹ đẹp lòng ta,
    Kết thành từng chuỗi hoa thiên giới,
    Nàng thích thú và cất tiếng ca.
  2. Trong khi nàng múa với toàn thân,
    Xoay tít tứ chi khắp mọi phương,
    Âm nhạc thiên đình vang vọng đến
    Bên tai nghe quả thật du dương.
  3. Trong khi nàng múa với toàn thân,
    Xoay tít tứ chi khắp mọi phương,
    Nhè nhẹ hương trời lan tỏa rộng,
    Làn hương dịu ngọt tạo hân hoan.
  4. Ðang lúc nàng di chuyển dáng hình,
    Trâm cài tóc bím kết bên mình,
    Âm vang như tiếng tơ hòa tấu
    Năm thứ đàn huyền diệu hợp thành.
  5. Vòng tai được gió thổi ngang qua,
    Lay động theo làn gió nhẹ đưa,
    Âm hưởng các vòng vàng ngọc ấy
    Khác nào năm tiếng nhạc đồng hòa.
  6. Và hương của các chuỗi phương hoa
    Khả ái trên đầu nhẹ tỏa ra,
    Thoang thoảng bay đi khắp mọi hướng
    Giống như cây mạn-thù-sa-ka,
  7. Nàng thở làn hương thật ngọt ngào,
    Nàng nhìn vẻ đẹp cõi trời cao,
    Hỡi nàng Thiên nữ khi nghe hỏi,
    Hãy nói quả đây của nghiệp nào.
    Sau đó Thiên nữ đáp lời:
  8. Thuở trước con dâng cúng Phật-đà
    Những vòng hoa đẹp A-so-ka,
    Ðỏ hồng, rực sáng như màu lửa,
    Ngào ngạt hương thơm thoang thoảng đưa.
  9. Khi đã thực hành thiện nghiệp xong,
    Nghiệp lành được đức Phật tuyên dương,
    Nay con thọ hưởng nhiều ân phước,
    Vô bệnh, vô sầu, mãi lạc an.

Tổng Kết

– Lâu đài Huy Hoàng, Lâu đài người cúng khúc mía, Lâu đài Trường kỷ, Lâu đài Lata.

– Lâu đài Guttila, Lâu đài Sáng chói, Lâu đài Sesavati, Lâu đài Mallikà, Lâu đài Vìsalakkhi,

– Lâu đài Cây San hô.

Phẩm này được biết qua các chuyện trên.

Phẩm IV – Ðỏ sẫm

  1. (39) Chuyện thứ nhất – Lâu Ðài Ðỏ Sẫm (Manjetthaka-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn đang trú tại Sàvatthi, trong Kỳ Viên. Lúc Ngài đang được cúng dường thực phẩm theo cách được miêu tả trong Lâu đài trước, một nữ tỳ của nhà nọ đã lượm hoa từ cây Sàla đang nở rộ trong Hắc Lâm, xâu từng chuỗi thành những bó hoa nhỏ, rồi lượm rất nhiều hoa quý, những hoa đã rụng, và nàng đi vào thành.

Nàng thấy đức Thế Tôn đang an tọa trong ngôi đình, và với tín tâm, nàng trân trọng cúng dâng các bó hoa ấy đặt chung quanh tọa cụ của Ngài, rải thêm các hoa kia, rồi cung kính đảnh lễ Ngài, đi vòng quanh Ngài ba lần theo đúng nghi thức và ra đi.

Về sau nàng từ trần, và được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba. Tại đây, một Lâu đài dành cho nàng được làm bằng pha lê đỏ, và trước đó là một rừng Sàla hùng vĩ với mặt đất được rải cát vàng. Khi Thiên nữ bước ra khỏi Lâu đài và đi vào rừng Sàla, các cây hoa rạp mình xuống và rắc hoa trên thân nàng.

Tôn giả Mahà Moggallàna đến gần nàng như đã tả ở trên, và hỏi nàng:

  1. Ðỏ sẫm lầu cao trải cát vàng,
    Kìa nàng Thiên nữ thật vinh quang,
    Nàng đang thưởng thức đàn hòa tấu,
    Năm thứ âm thanh tuyệt dịu dàng.
  2. Nàng bước xuống lầu lộng lẫy kia
    Làm bằng châu ngọc trải kim sa,
    Vào rừng song thọ Sà-la ấy,
    Diễm lệ muôn đời nở rộ hoa.
  3. Dưới từng gốc đại thọ Sà-la,
    Nàng đứng dừng chân, Thiên nữ kia,
    Hùng vĩ cây nghiêng mình cúi rạp
    Trước nàng, rải rắc cả muôn hoa.
  4. Mùi hương của đại thọ Sà-la,
    Lay động theo làn gió nhẹ đưa,
    Chim chóc dập dìu bay mọi hướng,
    Khác nào cây mạn-thù-sa-ka.
  5. Nàng thở làn hương thanh tịnh thay,
    Nàng nhìn vẻ đẹp quý cao này,
    Hỡi nàng Thiên nữ, khi nghe hỏi,
    Hãy nói nghiệp gì tạo quả đây.

Khi được nghe Trưởng lão hỏi, nàng Thiên nữ ngâm các vần kệ đáp lời:

  1. Thuở được làm người giữa thế nhân,
    Con là nô lệ của nhà chồng,
    Khi nhìn đức Phật đang an tọa,
    Con rải Sa-la để cúng dâng.
  2. Thời ấy tâm đầy đủ tín thành,
    Con dâng lên với chính tay mình
    Phật-đà một chiếc vòng hoa đẹp
    Bằng đám Sà-la kết thật tinh.
  3. Khi đã thực hành thiện nghiệp xong,
    Nghiệp lành đức Phật tuyên dương,
    Nay con thọ hưởng nhiều ân phước,
    Vô bệnh, vô sầu, mãi lạc an. 

2. (40) Chuyện thứ hai – Lâu Ðài Sáng Chói (Pabhassara-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Ràjagaha. Thời ấy ở Ràjagaha có một đệ tử cư sĩ đầy tín thành đối với Trưởng lão Mahà-Moggallàna. Một trong hai cô con gái vị này là một tín nữ có lòng thành kính đối với bậc Trưởng lão ấy.

Một hôm Tôn giả Mahà-Moggallàna đi khất thực trong thành Ràjagaha, đến tận nhà ấy. Cô gái thấy Tôn giả, lòng đầy hoan hỷ, bảo sửa soạn chỗ ngồi, và khi Tôn giả đã an tọa tại đó, nàng cúng dường một tràng hoa lài và đổ đầy mật mía vào bình bát của Trưởng lão. Tôn giả vẫn ngồi yên vì muốn nói lời tùy hỷ công đức. Cô gái tỏ ý rằng nàng không có thì giờ để nghe Tôn giả vì đang bận nhiều công việc nhà, và nói:

– Con sẽ xin nghe Pháp vào một ngày khác.

Rồi nàng cung kính đảnh lễ vị Trưởng lão và giã từ, ngay hôm ấy nàng từ trần và tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba. Tôn giả Mahà Moggallàna đến gần nàng và hỏi nàng qua các vần kệ này:

  1. Thiên nữ dung nhan đẹp rỡ ràng,
    Xiêm y lấp lánh tỏa hào quang,
    Tứ chi bóng loáng chiên-đàn phấn,
    Vĩ đại thay thần lực của nàng,
    Thiên nữ là ai đầy diễm lệ,
    Thấy ta, nàng đảnh lễ nghiêm trang?
  2. Sàng tọa cao sang dát bảo châu,
    Sáng ngời nàng ngự ở trên lầu,
    Hào quang tỏa chiếu như Thiên chủ
    Trong Hỷ lạc Viên chẳng khác đâu.
  3. Ngày trước nàng tu thiện hạnh nào,
    Nghiệp gì, nàng hưởng quả trời cao,
    Hỡi nàng Thiên nữ, khi nghe hỏi,
    Hãy nói quả này bởi cớ sao?

Ðược Trưởng lão hỏi như vầy, nàng Thiên nữ giải thích qua các vần kệ:

  1. Tôn giả đi xin vật cúng dường,
    Con dâng mật mía với hoa tràng,
    Ðây là kết quả hành vi ấy,
    Con hưởng thọ thiên giới lạc an.
  2. Song con ân hận mãi trong tâm,
    Vì đã trót gây việc lỗi lầm,
    Tôn giả, con không nghe Chánh pháp,
    Pháp Vương khéo giảng ở trên trần.
    6. Vậy con xin chúc: ‘Phước phần ngài’.
    Lân mẫn phần con, bất cứ ai
    Khích lệ con vào trong đạo lý,
    Pháp Vương khéo gỉảng ở trên đời.
  3. Bất cứ ai đầy đủ tín tâm,
    Tin vào đức Phật, Pháp, Tăng đoàn,
    Ðều hơn con hẳn về dung sắc,
    Thọ mạng, hào quang, danh vọng vang,
    Thiên chúng này hơn con các mặt
    Hiển vinh thần lực đại huy hoàng. 

3. (41) Chuyện thứ ba – Lâu Ðài Trên Con Voi (Nàga-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Ba-la-nại ở Isipatana (Trú xứ chư Tiên) trong Vườn Nai. Thời ấy một đệ tử tại gia, sống ở Ba-la-nại, là kẻ mộ đạo, đầy tín tâm, thực hành giới đức, nhờ người khác dệt một bộ y và giặt thật sạch để cúng dường đức Thế Tôn.

Bà đi đến đặt bộ y dưới chân Ngài và nói như vầy:

– Bạch Thế Tôn, mong đức Thế Tôn từ bi nhận bộ y này để con được hạnh phúc an lạc lâu dài.

Ðức Thế Tôn nhận bộ y và nhìn thấy các đức tính đầy đủ của bà, bèn thuyết pháp cho bà. Lúc kết thúc, bà đắc quả Dự Lưu, cung kính đảnh lễ Thế Tôn, đi quanh Ngài một vòng đúng nghi thức, rồi về nhà.

Chẳng bao lâu sau, bà từ trần và được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba, và được Sakka Thiên chủ sủng ái, đặt danh hiệu Yasuttarà.

Do uy lực công đức của Thiên nữ này, một con voi cao quý xuất hiện được phủ trong tấm lưới bằng vàng: rồi một chiếc đình bằng bảo ngọc hiện ra trên lưng voi, bên trong có bảo tọa bằng ngọc trang hoàng lộng lẫy. Trong đôi ngà voi có hai hồ sen diễm lệ, rực rỡ với hoa sen, hoa súng, đồng thời hiện ra. Tại đó, trên các đài sen, các tiên nữ cầm năm loại nhạc cụ đàn ca múa hát.

Ðức Thế Tôn, sau khi đã ở tại Ba-la-nại một thời gian như ý, liền khởi hành về phía Sàvatthi. Ðến đó, Ngài trú trong Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên nữ ấy suy ngẫm về cảnh cực lạc của nàng và duyên cớ việc kia, liền nhận thấy: ‘Việc này là do nhân duyên cúng dường bậc Ðạo Sư’.

Lòng đầy hoan hỷ, tín thành và cung kính đối với Ngài, nàng phi hành qua không gian trên lưng bảo tượng huy hoàng của nàng khi đêm đã về khuya, rồi giáng hạ từ lưng voi, đến đảnh lễ đức Thế Tôn, vươn đôi tay ra chắp lại và đứng gần đó.

Tôn giả Vangìsa được sự đồng ý của Thế Tôn, bèn hỏi nàng như vầy:

  1. Ngự trên thiên tượng thật huy hoàng,
    Bao phủ toàn châu báu ngọc vàng,
    Ðại tượng oai hùng kim võng phủ,
    Cân đai đẹp lộng lẫy muôn phần,
    Hỡi nàng Thiên nữ đầy trân bảo,
    Ðã đến đây qua giữa cõi không.
  2. Phía trên của mỗi chiếc ngà voi
    Xuất hiện hồ sen nở đẹp tươi,
    Trong tựa pha lê, làn nước mát,
    Từng đoàn nữ nhạc bước ra ngoài
    Giữa hồ sen khiến lòng mê mẩn,
    Tiên chúng này đang múa tuyệt vời.
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại huy hoàng,
    Nàng đã đạt bao đại lực thần,
    Công đức gì xưa nàng đã tạo,
    Khi tái sanh làm một thế nhân?
    Vì sao thần lực nàng ngời sáng,
    Dung quang chiếu tỏa khắp mười phương?

Ðược vị Trưởng lão hỏi như vậy, Thiên nữ đáp lại qua các vần kệ này:

  1. Khi đến Ba-la-nại thuở xưa,
    Con dâng đức Phật bộ cà-sa,
    Bái chân Ngài, kế con ngồi xuống,
    Hoan hỷ chấp tay lễ Phật-đà.
  2. Ðức Phật màu da sáng tựa vàng,
    Dạy con Khổ, Tập, ấy vô thường,
    Niết-bàn, Khổ diệt là trường cửu,
    Ngài dạy con dần biết đúng Ðường.
  3. Ðời con ngắn ngủi vội lìa trần,
    Từ đó mạng chung được hóa thân,
    Uy danh ở giữa đoàn Thiên chúng
    Tam thập tam thiên thật lẫy lừng,
    Ái hậu Sak-ka cùng mỹ hiệu
    Ya-sut-ta hiển hách mười phương. 

4. (42) Chuyện thứ tư – Lâu Ðài Alomà (Alomà-Vimàna)

Trong lúc đức Thế Tôn trú gần Ba-la-nại tại Isipatana (Trú xứ chư Tiên) trong Lộc Uyển, Ngài vào thành Ba-la-nại để khất thực. Tại đó một nữ nhân nghèo khó tên Alomà thấy Ngài, với tâm đầy thành tín, nhưng không có gì khác để cúng dường, bèn suy nghĩ: ‘Một vật như thế này được cúng dường đức Thế Tôn sẽ có kết quả vĩ đại cho ta’.

Rồi bà đem dâng Ngài chiếc bánh kummàsa bằng bột gạo khô cứng, không có muối và bể vụn. Do việc cúng dường này, tâm bà cảm thấy hoan hỷ.

Ðức Thế Tôn nhận bánh.

Về sau bà từ trần và được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba. Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi nàng:

  1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
    Nàng đứng toàn thân đều tỏa sáng
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  5. Ở Ba-la-nại ấy ngày xưa,
    Con có lòng tin tưởng Phật-đà,
    Thân tộc mặt trời đầy ánh sáng,
    Tay con dâng bánh kum-mà-sa.
  6. Hãy nhìn phước báo kum-mà-sa,
    Miếng bánh không nêm muối cứng khô,
    Ai chẳng thực hành nhiều thiện sự,
    Khi nhìn hạnh phúc A-lo-mà?
  7. Vì thế sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  8. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Vì thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

5. (43) Chuyện thứ năm – Lâu Ðài Của Người Cúng Cháo Gạo (Kanjikadàyika-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Andhakavinda. Thời ấy một cơn bệnh do trúng gió phát sinh trong bụng Thế Tôn.

Ðức Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, khi ông đi khất thực hãy đem về một ít cháo chua để làm thuốc trị bệnh cho Ta.

– Bạch Thế Tôn, con sẽ làm như vậy.

Tôn giả hứa xong, cầm bình bát do Tứ Ðại Thiên vương tặng, đến đứng trước cửa nhà vị y sĩ cận sự của Tôn giả.

Bà vợ của y sĩ thấy Tôn giả, liền đảnh lễ, cầm bình bát và bảo vị Trưởng lão:

– Bạch Tôn giả, Tôn giả cần loại thuốc gì?

Ta thấy rõ bà ấy là người thông minh nên đã nhận ra: ‘Trưởng lão này đến đây khi cần dược liệu, chứ không phải thực phẩm’.

Và khi Tôn giả bảo:

– Xin cho một ít cháo gạo.

Bà suy nghĩ: ‘Thuốc này không phải dành cho Sư phụ ta, quả thật chiếc bình bát này không phải của ai khác ngoài chiếc bình của đức Thế Tôn. Nào, ta hãy tìm cho được loại cháo gạo thích hợp với vị cứu nhân độ thế’.

Lòng tràn ngập hân hoan cung kính, bà nấu món cháo với nước trái táo, đổ đầy bình bát và để dùng chung với món cháo, bà sửa soạn thêm vài thực phẩm khác nữa.

Nhờ dùng món này, bệnh của đức Thế Tôn được thuyên giảm. Về sau, bà ấy từ trần, tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba, thọ hưởng đại thiên lạc.

Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi bà như vầy:

  1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
    Nàng đứng toàn thân đều tỏa sáng
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  5. Kiếp xưa con ở An-dha-ka,
    Con cúng cháo dâng đức Phật-đà,
    Ðấng có hào quang dùng món cháo
    Nấu cùng trái táo với dầu pha.
  6. Trộn chút hồ tiêu, với tỏi ta,
    Cho thêm vào ít nước là-ma,
    Với lòng thành tín con dâng cúng
    Lên đấng chánh nhân, đức Phật-đà.
  7. Nữ hoàng chánh hậu Chuyển luân vương,
    Khả ái toàn thân đẹp vẹn toàn,
    Yểu điệu dưới mắt nhìn Thánh chúa,
    Cũng không có giá trị ngang bằng
    Một phần mười sáu người thành tín
    Ðem món cháo hoa ấy cúng dường.
  8. Một trăm con ngựa, trăm cân vàng,
    Xa giá do la kéo, một trăm,
    Kiều nữ trăm ngàn trang điểm ngọc,
    Hoa tai, giá trị cũng không bằng
    Một phần mười sáu người thành tín
    Ðem món cháo hoa ấy cúng dường.
  9. Một trăm voi ở Tuyết Cao Sơn
    Ngà giống càng xe, thật tráng cường,
    Vương tượng oai hùng mang áo giáp,
    Cân đai vàng ngọc cũng không bằng
    Một phần mười sáu người thành tín
    Ðem món cháo hoa ấy cúng dường.
  10. Dù người nắm giữ mọi quyền năng,
    Khắp bốn đại châu cũng chẳng bằng
    Chỉ một phần mười sáu lễ vật
    Người đem món cháo ấy cung dâng. 

6. (44) Câu chuyện thứ sáu – Lâu Ðài Tịnh Xá (Vihàra-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn đang trú tại Sàvatthi, trong Kỳ Viên tinh xá. Thời ấy Visàkhà, vị đại đệ tử nữ cư sĩ, đã được các bạn hữu và người hầu cận thúc giục đi chơi một vòng trong hoa viên nhân một ngày lễ hội. Ðược tắm rửa và xoa dầu thơm cẩn thận, bà ăn một bữa thịnh soạn xong, tự trang điểm với ‘bộ nữ trang đại quý giá’, rồi được một đám bạn đồng hành năm trăm người hầu cận, bà rời nhà ra đi với đoàn người hộ tống linh đình.

Trong khi tiến về hoa viên, bà suy nghĩ: ‘Cuộc vui chơi nhàn nhã như thuở còn thiếu nữ đối với ta giờ đây có nghĩa gì? Nào, ta hãy đi đến tinh xá, đảnh lễ đức Thế Tôn cùng chư Tôn giả làm phát khởi tín tâm, và ta sẽ nghe pháp’.

Bà liền đi đến tinh xá, dừng lại bên đường cởi bộ trang sức đại quý báu ấy ra, trao vào tay một nữ tỳ, kính lễ đức Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Bà nghe pháp xong, cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn, đi vòng quanh Ngài theo đúng nghi thức, và rời tinh xá. Vừa đi một chặng đường ngắn, bà liền bảo nữ tỳ:

– Nào, ta muốn đeo bộ nữ trang.

Trước đây cô gái ấy đã buộc nó thành một gói, đặt trong tinh xá, rồi đi quanh quẩn một lúc, đến giờ ra về lại quên bẵng việc kia. Nàng thú nhận:

– Con quên mất, chắc nó còn ở đó. Con sẽ đi kiếm về đây.

Và nàng liền quay lại. Visàkhà lại bảo:

– Ðược rồi, nếu nó đã được cất trong tinh xá và quên mất, thì vì lợi ích của tinh xá, ta sẽ cúng dường bộ trang sức ấy.

Rồi bà trở lại tinh xá, đến gần đức Thế Tôn, cung kính đảnh lễ Ngài, trình lên Ngài ý định của bà và thưa:

– Bạch Thế Tôn, con muốn xây một tinh xá, ước mong đức Thế Tôn từ bi cho phép con.

Ðức Thế Tôn chấp thuận bằng cách im lặng.

Khi Visàkhà đã dâng lễ cúng dường bộ nữ trang đặc biệt ấy trị giá chín trăm triệu đồng tiền vàng, Tôn giả Trưởng lão Moggallàna giám sát công trình xây cất ấy.

Ngôi tinh xá được hoàn tất trong vòng chín tháng, dành cho đức Phật Thế Tôn và Tăng chúng một tòa Lâu đài thích hợp để an trú, trang bị đủ một ngàn phòng. Năm trăm phòng ở tầng dưới và năm trăm phòng ở tầng trên, tương truyền đó là một lâu đài như ở trên Thiên giới, sàn được xây như một bức tranh bằng châu báu cẩn hình những vòng hoa được phát họa tuyệt mỹ. Những bức tranh trên da thú, trát thạch cao trắng đẹp mắt, những đồ gỗ đánh bóng tinh xảo mỹ thuật và các phần nội thất cân xứng hài hòa như tường, cột, kèo, đòn tay, tấm trang trí góc tường, trụ cửa lớn, cửa sổ, cầu thang v.v… khéo thiết kế khả ái; và các gian nhà phụ, tư thất, mái đình, mái hiên, đại loại như thế, đều được dựng lên.

Khi tinh xá đã xong và bà sắp cử hành lễ cúng đường tặng vật trị giá chín trăm triệu đồng tiền vàng, bà nhìn thấy vẻ huy hoàng của Lâu đài trong lúc bà bước lên thượng lầu cùng năm trăm bạn đồng hành và hoan hỷ nói với họ:

– Bất cứ công đức gì ta nhận được nhờ xây cất Lâu đài này, xin chư vị đồng hưởng, ta xin phân phát đều công đức đến chư vị đã dự phần vào đây.

– Quả thật, mong được như vậy, quả thật.

Chư vị ấy đồng thanh nói với lòng tín thành và tất cả đều hoan hỷ.

Vào dịp ấy, có một tín nữ dự phần vào việc đồng hưởng công đức này với một tâm tư đặc biệt. Chẳng bao lâu sau đó, nàng từ trần và được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba. Do uy lực công đức của nàng, một Lâu đài vĩ đại xuất hiện cho nàng, có thể du hành qua không gian, tráng lệ với nhiều nhà có nóc nhọn, hoa viên, hồ sen v.v… dài mười sáu do-tuần và rộng tám do-tuần, tỏa sáng một trăm do-tuần nhờ hào quang của chính nó. Khi Thiên nữ đi đâu, nàng cùng đi với Lâu đài ấy và một đoàn hộ tống gồm cả ngàn tiên nữ.

Về phần Visàkhà, nhờ công đức bố thí hào phóng và tín tâm cao độ, đã được tái sanh vào cõi trời Hóa Lạc, đạt đến ngôi vị chánh hậu của Sunimmita Thiên chủ.

Bấy giờ Tôn giả Anuruddha, trong lúc du hành lên thiên giới, thấy bạn của Visàkhà đã được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba, bèn hỏi nàng như vầy:

  1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
    Nàng đứng toàn thân đều tỏa sáng
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Trong khi nàng múa với toàn thân,
    Xoay tít tứ chi khắp mọi phương,
    Âm nhạc thiên đình vang vọng đến
    Bên tai nghe quả thật du dương.
  3. Trong khi nàng múa với toàn thân,
    Xoay tít tứ chi khắp mọi phương,
    Nhè nhẹ hương trời lan tỏa rộng,
    Làn hương dịu ngọt tạo hân hoan.
  4. Ðang lúc nàng di chuyển dáng hình,
    Trâm cài bím tóc kết bên mình,
    Âm vang như tiếng tơ hòa tấu
    Năm thứ đàn huyền diệu hợp thành.
  5. Vòng tai được gió thổi ngang qua,
    Lay động theo làn gió nhẹ đưa,
    Âm hưởng các vòng vàng ngọc ấy
    Khác nào năm tiếng nhạc đồng hòa.
  6. Và hương thơm của các tràng hoa
    Khả ái, dịu dàng cứ tỏa ra
    Từ đỉnh đầu nàng bay mọi hướng
    Giống như cây Mạn-thù-sa-ka.
  7. Nàng thở làn hương dịu ngọt sao,
    Nàng nhìn vẻ đẹp thật thanh cao,
    Hỡi nàng Thiên nữ khi nghe hỏi,
    Hãy nói quả đây của nghiệp nào.
    Nàng Thiên nữ đáp lại như vầy:
  8. Tôn giả, ở thành Xá-vệ xưa,
    Bạn xây tinh xá cúng Tăng-già,
    Với tâm thành tín, con hoan hỷ
    Khi thấy tòa nhà đẹp mắt ta.
  9. Do hoan hỷ tịnh lạc như vầy,
    Con được Lâu đài tuyệt diệu đây,
    Mười sáu do-tuần trong mọi phía,
    Nhờ thần lực nhẹ lướt trời mây.
  10. Lâu đài có nóc nhọn nhiều tầng,
    Cân xứng, được quy hoạch mọi phần,
    Ánh sáng tỏa tràn lan rực rỡ
    Chung quanh khắp cả trăm do-tuần.
  11. Con có hồ sen ở chốn này,
    Cá pu-thu lội lượn lờ đây,
    Nước trong lấp lánh đôi bờ mép
    Viền với cát vàng ánh đẹp thay.
  12. Mặt hồ đầy đủ loại hoa sen,
    Hoa súng trắng ngần mọc phủ lên,
    Làm đắm say lòng, cơn gió nhẹ
    Ðưa làn hương dịu tỏa khắp miền.
  13. Các khu rừng mọc khóm hồng đào,
    Cùng với dừa, cau, mít, cọ dầu,
    Bao loại cây không trồng vẫn mọc
    Ở bên trong của cả lầu cao.
  14. Vang lên bao tiếng nhạc êm đềm,
    Văng vẳng tiếng cười nói của tiên,
    Nếu kẻ nào mơ nhìn cảnh ấy,
    Cũng thành người hạnh phúc vô biên!
  15. Lâu đài được tạo dựng như vầy,
    Nhìn ngắm thật là tuyệt diệu thay,
    Chiếu sáng khắp nơi nhờ thiện nghiệp,
    Ta cần tạo phước đức đời này.

Sau đó vị Trưởng lão muốn nàng nói đến nơi tái sanh của Visàkhà, bèn ngâm kệ:

  1. Rõ ràng nhờ tịnh lạc hân hoan
    Nàng được Lâu đài tuyệt mỹ quan,
    Còn nữ nhân kia dâng tặng vật,
    Ðâu là sanh thú hóa thân nàng?

Ðể giải thích vấn đề được vị trưởng lão hỏi, nàng đáp:

  1. Tôn giả, nàng kia chính bạn hiền,
    Nàng xây tinh xá đại trang nghiêm,
    Cúng dường Tăng chúng, am tường pháp,
    Nên đã tái sanh Hóa Lạc thiên.
  2. Su-nim-ta Chánh hậu là nàng,
    Phước quả nghiệp kia khó nghĩ bàn,
    Tôn giả, những điều ngài muốn hỏi,
    Con đã giải thích thật tinh tường.
  3. Bởi vậy, nên khuyên nhủ thế nhân
    Hân hoan bố thí đến chư Tăng,
    Lắng tai nghe pháp, tâm thành tín,
    Sinh được làm người thật khó khăn.
  4. Ngài, bậc Ðạo Sư dạy bước Ðường,
    Giọng Ngài như giọng Phạm Thiên vương,
    Làn da trông giống như vàng ánh,
    Hãy cúng dường hoan hỷ chúng Tăng,
    Thí vật dâng lên đầy tín ngưỡng
    Sẽ đem phước quả lớn vô lường.
  5. Tám người được bậc trí tuyên dương,
    Bốn cặp xứng danh đáng cúng dường
    Là các môn đồ Ngài Thiện Thệ,
    Lễ dâng chư vị quả vô lường.
  6. Bốn vị đi trên Ðạo thực hành,
    Bốn người được trú quả an lành,
    Chư Tăng chánh hạnh và chuyên chú
    Giữ giới luật nhằm đạt trí minh.
  7. Với mọi hữu tình, các thế nhân
    Cúng dường mong phước báo cầu ân,
    Lễ dâng hào phóng lên Tăng chúng
    Ðem phước tái sanh quả bội phần.
  8. Vì Tăng chúng rộng lớn mênh mang,
    Vô lượng vô biên tựa đại dương,
    Ðệ tử bậc Anh hùng dưới thế,
    Là người tối thắng giữa phàm nhân,
    Nơi nào Tăng chúng đi truyền pháp,
    Chư vị đều mang đến ánh quang.
  9. Những người đem lễ cúng chư Tăng,
    Lễ vật cúng dường thật chánh chân,
    Bố thí, hiến dâng theo Chánh pháp,
    Lễ kia đem quả lớn vô ngần,
    Cúng dường lễ vật lên Tăng chúng
    Ðược các Phật-đà tán thán luôn.
  10. Tích đức này đây chính phước điền,
    Những người kia tiến bước đi lên
    Giữa đời, tâm ngập tràn hoan hỷ,
    Khi đã diệt ô nhiễm thấp hèn
    Của thói tham xan cho tận gốc,
    Không còn lầm lỗi, sẽ sanh Thiên.

Và Tôn giả Anurudha từ đây trở về nhân giới, trình lên bậc Ðạo Sư vấn đề này đúng như Tôn giả đã nghe từ vị Thiên nữ kia. Ðức Thế Tôn lấy việc này làm cơ hội để thuyết pháp.

  1. (45) Chuyện thứ bảy – Lâu Ðài Bốn Nữ Nhân (Caturitthi-Vimàna)

Trong lúc đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi, Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành thiên giới như đã kể trên, đến cõi trời Ba mươi ba. Tại đó trong bốn Lâu đài liên tiếp, Tôn giả thấy bốn Thiên nữ thọ hưởng thiên lạc, mỗi nàng có một đoàn hộ tống cả ngàn tiên nữ.

Tôn giả lần lượt hỏi các thiện nghiệp mà thuở trước các nàng đã tạo:

  1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
    Nàng đứng toàn thân đều tỏa sáng
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?

Và ngay khi được Tôn giả hỏi, các Thiên nữ lần lượt đáp lời. Vần kệ này được ngâm để diễn tả sự kiện trên:

  1. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng.

Tương truyền rằng vào thời đức Thế Tôn Kassapa, các nữ nhân này được tái sanh vào một gia đình lương thiện thành Pannakata, tại quốc độ có tên Esikà. Khi đến tuổi trưởng thành, các nàng về nhà chồng và sống đời hòa hợp.

Một nàng trong đám ấy thấy một Tỷ-kheo đi khất thực, bèn cúng dường một bó hoa súng xanh với tâm thành kính, một nàng cúng một bó hoa sen xanh cho một Tỷ-kheo khác, một nàng nữa cúng một bó sen đỏ, và một nàng nữa cúng các nụ hoa lài.

Sau đó từ trần, các nàng được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba. Mỗi nàng có một đoàn hộ tống gồm cả ngàn tiên nữ. Sau khi thọ hưởng thiên lạc ở đó đến tròn thọ mạng, các nàng từ giã cõi ấy và nhờ phước phần còn lại của nghiệp quả xưa, đã được tái sanh vào thời đức Phật Gotama ở cùng cõi trời này và được Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi theo cách đã được mô tả như trên.

Một nàng kể cho Trưởng lão nghe về hạnh nghiệp kiếp xưa nàng đã tạo:

  1. Con đã cúng dường bó súng xanh
    Một Tỳ-kheo khất thực trong thành,
    E-si-kà quốc, cao hùng vĩ,
    Rực rỡ Pan-na-kat đẹp xinh.
  2. Vì thế sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào lòng dạ
    Mến chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  3. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Vì thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương.

Tôn giả hỏi lại một nàng khác:

  1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
    Nàng đứng toàn thân đều tỏa sáng
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  5. Ðem bó sen xanh đến cúng dường
    Một Tỳ-kheo khất thực trên đường,
    E-si-kà quốc, cao hùng vĩ,
    Rực rỡ Pan-na-kat vẻ vang.
  6. Vì thế sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào lòng dạ
    Mến chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
    14. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Vì thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương.

Tôn giả lại hỏi một nàng khác:

  1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
    Nàng đứng toàn thân đều tỏa sáng
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  5. Trắng ngần là củ, cánh sen xanh,
    Mọc nước hồ, con hái mấy cành,
    Dâng cúng Tỷ-kheo đi khất thực,
    E-si-kà quốc, ở kinh thành
    Huy hoàng tên gọi Pan-na-kat,
    Diễm lệ cao vời vợi nổi danh.
  6. Vì thế sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào lòng dạ
    Mến chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  7. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Vì thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương.

Tôn giả lại hỏi một nàng khác nữa:

  1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm,
    Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
    Nàng đứng toàn thân đều tỏa sáng
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:

Nàng ấy đáp lại:

  1. Con là tín nữ Su-ma-nà,
    Hái nụ lài dâng, sắc trắng ngà
    Ðến một người tâm đầy hỷ lạc,
    Tỷ-kheo khất thực ở thành xưa,
    E-si-ka quốc, cao hùng vĩ,
    Diễm lệ huy hoàng Pan-kat-ta.
  2. Vì thế sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào lòng dạ
    Mến chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  3. Xin trình Tôn giả đại oai thần,
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Vì thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương.

8. (46) Chuyện thứ tám – Lâu Ðài Vườn Xoài (Amba-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi. Thời ấy một tín nữ tại đó nghe nói về kết quả vĩ đại và lợi ích vĩ đại do cúng dường tinh xá, nên lòng đầy nhiệt thành, nàng cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn và nói như vầy:

– Bạch đức Thế Tôn, con muốn nhờ người xây một tinh xá. Con cầu mong đức Thế Tôn chỉ cho con một nơi thích hợp.

Ðức Thế Tôn đưa huấn thị đến chư Tăng. Chư vị chỉ cho bà một nơi thích hợp. Sau đó bà sai người xây một tinh xá, chung quanh có trồng xoài. Tinh xá được những hàng cây xoài bao bọc đầy đủ bóng mát và nước ngọt, đất màu trắng rải rác cát vàng như những chuỗi ngọc trai, thật hoàn hảo tráng lệ làm say lòng người.

Tín nữ ấy lại trang hoàng tinh xá với thảm đủ màu và tràng hoa, hương liệu chẳng khác kinh thành thiên giới; bà thắp đèn dầu và phủ lên các cây xoài một lớp khăn vải mới, rồi cúng dường tinh xá lên chư Tăng.

Về sau bà từ trần và được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba.

Tại đấy xuất hiện cho Thiên nữ một Lâu đài vĩ đại có vườn xoài bao bọc. Nàng được đoàn tiên nữ vây quanh hộ tống và hưởng thọ thiên lạc.

Tôn giả Mahà-Moggallàna đến gần nàng và hỏi:

  1. Nàng có vườn xoài giống cảnh tiên,
    Mê hồn, cung điện thật trang nghiêm,
    Ngân vang bao tiếng đàn hòa tấu,
    Tiên chúng reo ca văng vẳng lên.
  2. Một cây đèn vĩ đại vàng ròng
    Mãi mãi chiếu lan tỏa ánh hồng,
    Bao bọc chung quanh, cây cối mọc
    Với khăn che phủ trái bên trong.
  3. Vì sao nàng được cảnh vườn xoài,
    Cung điện uy nghi đẹp tuyệt vời,
    Vì cớ nào dung sắc diễm lệ,
    Tại sao nàng hiển hách trên trời,
    Bất kỳ lạc thú nào lòng dạ
    Yêu chuộng, liền xuất hiện tức thời?
  4. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
  5. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  6. Kiếp trước sinh làm một thế nhân,
    Ở cõi người trong chốn phàm trần,
    Con xây tinh xá, xoài bao bọc,
    Ðem cúng dường lên cả chúng Tăng.
  7. Khi ngôi tinh xá ấy vừa xong,
    Con sẵn sàng làm lễ cúng dâng,
    Bao phủ vườn xoài bằng vải mới
    Ðể nâng đỡ trái ở bên trong.
  8. Khi đã thắp cao một ngọn đèn,
    Tự tay con thực phẩm đưa lên
    Chư Tăng của Phật-đà vô thượng,
    Thành tín, con dâng cúng Thánh hiền.
  9. Vì thế vườn con đẹp tuyệt vời,
    Lâu đài tráng lệ thật hùng oai,
    Ngân nga bao tiếng đàn hòa tấu,
    Tiên chúng ca vang vọng khắp nơi.
  10. Một cây đèn vĩ đại vàng ròng
    Mãi mãi chiếu lan tỏa ánh hồng,
    Bao bọc chung quanh, cây cối mọc
    Với khăn che phủ trái bên trong.
  11. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  12. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Vì thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

9. (47) Chuyện thứ chín – Lâu Ðài Hoàng Kim (Pìta-Vimàna)

Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, và khi Ðại vương Ajàtasattu (A-xà-thế) đã dựng đại Tháp ở Ràjagaha để thờ phần xá-lợi của đức Thế Tôn và cử hành lễ cúng dường xong, một tín nữ đem bốn đóa hoa leo kosàtakì đến dâng bảo Tháp, bất kể các mối hiểm nguy dọc đường.

Ngay lúc ấy, một con bò cái cùng với một con bê con hung hăng xông tới tấn công bà bằng đôi sừng, giết bà tại chỗ. Bà được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba, xuất hiện ngay khi Sakka Thiên chủ đang ngự trên thiên xa đến du ngoạn vườn thiên lạc, ngài bèn ngâm kệ hỏi:

  1. Nàng Thiên nữ sắc phục kim hoàng,
    Trang điểm bao châu báu ngọc vàng,
    Thoa phấn chiên-đàn vàng óng ả,
    Hoa sen vàng rực rỡ từng tràng.
  2. Lâu đài nàng cũng sắc kim hoàng,
    Thực phẩm, kim đôn lẫn tọa sàng,
    Cùng chiếc lọng che vàng óng ánh,
    Quạt, xe, bầy ngựa thảy bằng vàng.
  3. Hạnh nghiệp gì nàng tạo trước đây,
    Thuở nàng sinh ở cõi người vầy?
    Hỡi nàng Thiên nữ khi nghe hỏi,
    Hãy nói nghiệp xưa kết quả này.
    Nàng giải thích qua các vần kệ:
  4. Tấu trình Thiên đế, có cây kia,
    Vị đắng, tên là Ko-sát-ta,
    Con hái bốn hoa từ nhánh ấy,
    Ðem dâng bảo Tháp đức Tôn Sư.
  5. Con đủ tín thành tâm hướng lên
    Ðạo Sư bảo tích, Tháp linh thiêng,
    Trí con chuyên chú vào điều ấy,
    Con chẳng quan tâm để ý nhìn.
  6. Vì thế bò kia đã giết con,
    Ước mong con chẳng được vuông tròn,
    Nếu con tích đức nhiều như ý,
    Kết quả ắt là phải lớn hơn.
  7. Như vậy là do nghiệp ở đời,
    Tấu Mà-gha, chúa tể trên trời,
    Khi con bỏ xác thân phàm tục,
    Con được lên đây phụng sự ngài.
  8. Nghe vậy Thiên vương Mà-gha-va,
    Ngọc hoàng của cõi Ba mươi ba,
    Muốn làm hoan hỷ toàn thiên giới,
    Liền bảo Mà-ta-li quản xa:
  9. Này xem đây, hỡi Mà-ta-li,
    Kết quả diệu kỳ, vĩ đại kia,
    Dầu vật nhỏ dâng người đức độ,
    Vẫn đem công đức lớn nhiều bề.
  10. Khi thành tâm cúng vật tầm thường
    Lên đức Như Lai, đấng Pháp Vương,
    Bậc Giác Ngộ hay chư đệ tử,
    Vật kia có giá trị khôn lường.
  11. Mà-ta-li, vậy hãy nhanh chân,
    Thiên chúng hãy tôn kính cúng dường,
    Công đức tăng nhiều là phước lạc,
    Như Lai bảo Tháp ấy mang phần.
  12. Dầu Phật ở đời hoặc xả thân,
    Quả đều bình đẳng với an tâm,
    Vì do kết quả tâm kiên định,
    Thiện thú dành cho các thiện nhân.
  13. Chính đức Như Lai hiện giữa đời
    Là vì lợi ích của muôn loài,
    Sau khi phục vụ người hành thiện,
    Bố thí đi lên đến cõi trời.

Khi đã nói xong lời này, Sakka Thiên chủ liền rời Hỷ lạc Viên và đến đảnh lễ cúng dường bảo tháp Cùlàmani suốt bảy ngày. Một thời gian sau, khi Tôn giả Nàrada du hành lên thiên giới, Thiên chủ ngâm kệ trình bày sự kiện trên với Tôn giả. Vị Trưởng lão thuật lại với chư vị kết tập Kinh điển nên chư vị này đưa chuyện ấy vào Ðại Tạng Kinh.

  1. (48) Chuyện thứ mười – Lâu Ðài Do Cúng Mía (Ucchu-Vimàna)

Chuyện này cũng giống như chuyện Lâu đài của người dâng mía trước đây (số 30). Nhưng ở đây, bà mẹ chồng dùng hòn đất ném chết con dâu. Vì điểm này, hai câu chuyện đã được truyền tụng riêng biệt.

  1. Quả đất cùng chung các vị thần
    Ðược làm rạng rỡ thật vinh quang,
    Như vầng nhật nguyệt, nàng soi sáng
    Với ánh huy hoàng, vẻ mỹ quan,
    Như Phạm Thiên siêu quần bạt chúng
    Giữa trời Ðao lợi với Thiên hoàng.
  2. Hỡi nàng mang các chuỗi thanh liên,
    Cùng chuỗi bảo châu ở trán trên,
    Da tựa vàng ròng, trang điểm đẹp,
    Xiêm y tuyệt mỹ của thần tiên,
    Nàng là ai đó, này Thiên nữ,
    Ðảnh lễ ta rồi đứng một bên?
  3. Nghiệp gì nàng đã tạo trên đời,
    Kiếp trước sinh ra ở cõi người?
    Bố thí vẹn toàn hay giữ giới?
    Nhờ đâu vinh hiển được lên trời?
    Hỡi nàng Thiên nữ, khi ta hỏi,
    Nghiệp quả gì đây, hãy trả lời.
    Sau đó vị Thiên nữ giải thích:

Các kệ từ 4-11 cũng giống như kệ 4-11 ở chuyện 30, chỉ trừ chữ ‘chiếc ghế’ được thay bằng ‘hòn đất’.

  1. (49) Chuyện thứ mười một – Lâu Ðài Do Sự Ðảnh Lễ (Vandana-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi. Thời ấy nhiều Tỷ-kheo, sau khi đã an cư mùa mưa ở một tinh xá trong làng kia và đã làm lễ. Tự tứ vào lúc bế mạc xong, liền du hành qua một làng khác, trên đường đi đến Sàvatthi để đảnh lễ đức Thế Tôn. Tại đó một vị nữ nhân đến đảnh lễ chư Tăng với tâm đầy thành tín, kính cẩn và thiện ý. Về sau nàng từ trần được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba và Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi nàng:

  1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
    Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
    Nàng đứng toàn thân đều tỏa sáng
    Như vì sao cứu hộ trần gian.
  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:
  5. Khi được làm người giữa thế nhân,
    Gặp Tỳ-kheo giới hạnh chuyên cần,
    Với tâm thành tín và hoan hỷ
    Con chắp hai tay lễ dưới chân.

6.Vì thế sắc con đẹp thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào lòng dạ
Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.

  1. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

12. (50) Chuyện thứ mười hai – Lâu Ðài Của Rajjumàlà (Rajjumàlà-Vimàna)

Thời ấy, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi, trong Kỳ Viên tinh xá. Bấy giờ ở một ngôi làng nhỏ vùng Gayà có một Bà-la-môn gả con gái cho con trai một Bà-la-môn khác. Nàng dâu về nắm quyền hành trong nhà ấy, ngay từ đầu đã sinh lòng ác cảm với con gái của một nữ tỳ, nên thường đánh mắng nhục mạ cô bé.

Khi cô bé lớn dần, nàng dâu lại đối xử tàn tệ hơn nữa (tục truyền rằng vào thời đức Phật Kassapa, hai nàng này đã có mối liên hệ ngược với hiện tại).

Ðể đề phòng việc cô chủ kéo tóc mình mỗi khi đánh đập, cô bé nữ tỳ đến tiệm cắt tóc nhờ cạo trọc đầu. Sau đó cô chủ đang cơn giận dữ bảo rằng cô bé kia chẳng có thể thoát khỏi tay mình bằng cách cạo đầu, liền buộc một sợi dây quanh cổ cô bé và kéo cô ngã xuống, rồi lại không chịu để cô bé tháo dây ra, từ đó cô bé có tên Rajjumàlà: Vòng dây đeo cổ.

Bấy giờ một ngày kia, bậc Ðạo Sư vừa xuất định Ðại bi, thấy Rajjumàlà có đầy đủ khả năng đạt quả Dự Lưu, bèn đến ngồi dưới một gốc cây tỏa hào quang rực rỡ.

Lúc ấy cô bé Rajjumàlà khốn khổ kia chỉ muốn chết, cầm chiếc ghè đi ra đường giả vờ lấy nước và tìm một cây để treo cổ. Khi thấy đức Phật, với tâm hướng về Ngài, cô suy nghĩ: ‘Ví thử đức Thế Tôn thuyết pháp cho những người như ta thì sao? Ta có thể được giải thoát khỏi cuộc đời khốn cùng này’.

Ðức Phật xem xét kỹ, liền gọi cô:

– Rajjumàlà!

Cô bé như được tắm nước cam lồ, vội đến gần đảnh lễ Ngài. Ngài dạy cô Tứ Ðế và cô đắc quả Dự Lưu. Kế đó Ngài đi vào làng và ngồi dưới gốc cây khác.

Bấy giờ cô bé không thể tự hủy hoại mình nữa, bèn suy nghĩ với lòng nhẫn nhục, thân thiện và từ ái: ‘Thôi cứ để mặc cho bà chủ Bà-la-môn này đánh đập, làm tổn thương ta thế nào tùy ý’. Rồi cô trở về lấy nước vào ghè.

Ông chủ nhà đứng ở cửa bảo:

– Cô đã đi lấy nước thật lâu và mặt lại rạng rỡ thế kia. Ta thấy cô có vẻ hoàn toàn khác hẳn, có việc gì vậy?

Cô bé kể chuyện cho chủ, ông hài lòng và bước vào bảo cô dâu:

– Thôi con đừng làm gì Rajjumàlà nữa.

Rồi ông vội vàng đi đến yết kiến bậc Ðạo Sư và cung kính mời Ngài thọ thực. Sau đó, cả ông cùng dâu con trong nhà đi vào ngồi cạnh bậc Ðạo Sư. Ngài kể cho họ việc xảy ra kiếp trước giữa cô dâu và Rajjumàlà, cùng với một bài thuyết pháp thích hợp. Sau đó Ngài trở về Sàvatthi, còn vị Bà-la-môn nhận Rajjumàlà làm con nuôi và từ đó nàng dâu ông đối xử với cô rất tốt đẹp.

Khi nàng từ trần, Rajjumàlà được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba và cũng được Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi:

  1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
    Ðang múa theo âm nhạc nhịp nhàng,
    Toàn thể tứ chi nàng uyển chuyển
    Thiên hình vạn trạng giữa không gian.
  2. Trong khi nàng múa với toàn thân,
    Xoay tít tứ chi khắp mọi phương,
    Âm nhạc Thiên đình vang vọng đến
    Bên tai nghe quả thật du dương.
  3. Trong khi nàng múa với toàn thân,
    Xoay tít tứ chi khắp mọi phương,
    Nhè nhẹ hương trời lan tỏa rộng,
    Làn hương dịu ngọt tạo hân hoan.
  4. Ðang lúc nàng di chuyển dáng hình,
    Trâm cài bím tóc kết bên mình,
    Âm vang như tiếng tơ hòa tấu
    Năm thứ đàn huyền diệu hợp thành.
  5. Vòng tai được gió thổi ngang qua,
    Lay động theo làn gió nhẹ đưa,
    Âm hưởng các vòng vàng ngọc ấy
    Khác nào năm tiéng nhạc đồng hòa.
  6. Và hương thơm của các tràng hoa
    Khả ái, dịu dàng cứ tỏa ra
    Từ đỉnh đầu nàng bay mọi hướng
    Giống như cây Mạn-thù-sa-ka.
  7. Nàng thở làn hương dịu ngọt sao,
    Nàng nhìn vẻ đẹp thật thanh cao,
    Hỡi nàng Thiên nữ khi nghe hỏi,
    Hãy nói quả đây của nghiệp nào?

Khi được vị Trưởng lão hỏi như vậy, nàng ngâm các vần kệ giải thích, bắt đầu bằng câu chuyện tiền thân của nàng:

  1. Kiếp trước làm nô lệ một nhà
    Bà-la-môn ở tại Gàya,
    Raj-ju-mà chính tên con đó,
    Ðức mỏng, phận hèn mọn xấu xa.
  2. Bị mắng nhiếc đau khổ ngập tràn,
    Cùng đe dọa, đánh đập hung tàn,
    Con cầm ghè lớn đi tìm nước,
    Và định đi luôn để thoát nàn.
  3. Vứt chiếc ghè ra khỏi mặt đường,
    Con đi vào tận chốn rừng hoang,
    Nghĩ rằng đây chính nơi con chết,
    Ích lợi gì đời sống của con?
  4. Khi đã làm thòng lọng vững vàng,
    Buộc dây vào cổ thụ bên đường,
    Con nhìn quanh quẩn và suy nghĩ:
    Ai đó đang cư trú giữa rừng?
  5. Con thấy Phật-đà, bậc trí nhân,
    Từ bi đối với cõi trần gian,
    Ðang ngồi tĩnh tọa, tâm thiền định,
    Vô úy, Ngài không sợ tứ phương.
  6. Bỗng nhiên con rúng động tâm can,
    Kinh ngạc, lòng con thấy lạ thường,
    Ai ở trong rừng này đấy nhỉ,
    Thiên thần hay chỉ một người phàm?
  7. Thanh thản, và làm khởi tín tâm,
    Ngài từ rừng ái đạt ly tham,
    Cảnh con thấy khiến tâm an tịnh,
    Ðây chẳng ai ngoài Tối Thượng nhân.
  8. Tất cả các căn khéo hộ phòng,
    Hân hoan thiền định, trí tinh thông,
    Ngồi đây ắt hẳn Ngài Viên Giác
    Từ ái hướng tâm đến cõi trần.
  9. Như sư tử trú ẩn hang rừng,
    Khơi dậy niềm lo sợ hãi hùng,
    Vô địch, không loài nào đánh phá,
    Cơ may thật hiếm thấy hoa sung.
  10. Với những lời thân ái dịu dàng,
    Ðức Như Lai dạy bảo cùng con:
    ‘Raj-ju, hãy đến nơi an trú
    Quy ngưỡng Như Lai, đức Thế Tôn’.
  11. Khi được nghe âm điệu của Ngài
    Nhẹ nhàng, đầy ý nghĩa, êm tai,
    Ngọt ngào, hiền dịu và thân ái
    Xua hết bao sầu não ở đời.
  12. Như Lai từ mẫn khắp trần gian,
    Biết rõ tâm con đã sẵn sàng,
    Ðầy đủ tín thành và sáng suốt,
    Ngài liền cất tiếng dạy con rằng:
  13. Ðây là Khổ Thánh đế, Ngài khuyên,
    Khổ Tập là nguồn gốc khởi lên,
    Khổ Diệt là đây, Tam Thánh đế,
    Ðường vào Bất tử, Ðạo bình yên.
  14. Cương quyết theo lời khuyến dụ kia
    Của Ngài thuần thiện, đấng Từ bi,
    Con liền đạt đến tâm an tịnh,
    Bất tử, Niết-bàn, không thoái suy.
  15. Tâm con kiên định ngập tình thương,
    Tin tưởng vào Tam Bảo vững vàng,
    Bất động trong con niềm chánh kiến,
    Con là đích nữ bậc Y Vương.
  16. Nay con hưởng lạc thú, vui chơi,
    Hoan hỷ, vô ưu, khắp cõi trời,
    Con đội tràng hoa Thiên nữ đẹp,
    Cam lồ con uống tạo niềm vui.
  17. Sáu mươi ngàn nhạc cụ đàn tơ
    Thức tỉnh con từ giấc ngủ mơ:
    Alamba, Gaggara, Bhìma,
    Sàdhuvadin và Samsaya.
  18. Pokkhara và Suphassa,
    Vìnàmokkhà cùng các nàng kia,
    Nandà cũng như Sunandà,
    Sonadinà và Sucimhità.
  19. Alambusà, Missakesi,
    Cùng nàng tiên ác Pundarikà,
    Eniphassà, Suphassà,
    Subhaddà và Muduvàdinì.
  20. Các nàng Thiên nữ diễm kiều này
    Ðánh thức thần tiên lúc ngủ say,
    Buổi sáng các nàng thường đến bảo:
    ‘Chúng em múa hát giúp vui đây’.
  21. Nan-da-na, Hỷ lạc Viên này,
    Không phải để dành cho những ai
    Chẳng tạo tác nên nhiều phước nghiệp,
    Mà dành riêng biệt để cho người
    Ðã hoàn thành được nhiều công đức,
    Là Ðại Lâm viên của cõi trời
    Tam thập tam thiên đầy lạc thú,
    Không gì phiền não, mãi vui chơi.
  22. Chẳng đời này hoặc ở đời sau,
    Cựu lạc dành cho những kẻ nào
    Không tạo tác nên nhiều phước nghiệp,
    Song đời này lẫn cõi đời sau
    Ðể dành cực lạc cho bao kẻ
    Làm các thiện hành, phước nghiệp cao.
  23. Với những ai mong chúng bạn hiền,
    Phải làm thiện nghiệp thật tinh chuyên,
    Vì người tạo được nhiều công đức,
    Hưởng lạc thú nhiều ở cõi thiên.
  24. Như Lai xuất hiện ở trên đời
    Là chính vì an lạc mọi loài,
    Xứng đáng cho người dâng lễ vật,
    Phước điền vô thượng của bao người,
    Sau khi dâng lễ, tâm thành kính,
    Các thí chủ vui hưởng cõi trời.

Tổng Kết

Lâu đài đỏ sẩm, Lâu đài sáng chói, Lâu đài trên con voi, Lâu đài Alomà, Lâu đài của người cúng cháo gạo, Lâu đài tinh xá, Lâu đài Bốn nữ nhân, Lâu đài vườn xoài, Lâu đài hoàng kim, Lâu đài do cúng mía, Lâu đài do sự đảnh lễ, Lâu đài Rajjumàlà.

Phẩm này được biết qua các chuyện trên.

Phẩm V – Ðại xa

  1. (51) Chuyện Thứ Nhất – Lâu Ðài Tiên Nhái (Mandukadevaputta-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn ở tại Campà (Chiêm-bà) trên bờ ao sen Gaggarà. Từ rạng đông, vừa xuất định Ðại bi, Ngài quán sát: ‘Hôm nay về buổi chiều lúc Ta thuyết pháp, một con nhái nghe giọng Ta và mải mê theo dõi, liền bị một kẻ nào đó sát hại, sẽ phải chết. Nó sẽ được tái sanh lên thiên giới và sẽ trở lại trong khi hội chúng đang chăm chú nghe, do vậy sẽ có sự thông hiểu Giáo pháp rộng rãi’.

Khi mọi việc trong ngày xong xuôi, Ngài bắt đầu thuyết giảng cho tứ chúng đệ tử tại bờ ao. Lúc ấy một con nhái suy nghĩ: ‘Ðây được gọi là pháp’, nó liền ra khỏi ao và ngồi ở cuối đám thính chúng.

Một kẻ chăn bò thấy bậc Ðạo Sư thuyết giảng và hội chúng đang yên lặng lắng nghe, bèn đứng dựa vào cây gậy cong và đạp nhằm con nhái. Con nhái được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài bằng vàng rộng mười hai do-tuần và được một đám tiên nữ hầu cận.

Khi suy nghĩ lại nghiệp nào đã khiến cho mình được tái sanh ở đó, vị Thiên tử thấy không có gì ngoài sự chăm chú nghe lời đức Thế Tôn.

Ngay lập tức chàng cùng Lâu đài ấy giáng trần, bước ra ngoài vừa thấy đức Thế Tôn, liền đến yết kiến và cung kính đảnh lễ Ngài. Ðức Thế Tôn muốn thị hiện oai nghi của Ngài bèn hỏi kệ:

  1. Chàng Thiên tử sắc đẹp siêu phàm,
    Tiên chúng vây quanh đủ lực thần,
    Ðang chiếu khắp mười phương sáng chói,
    Là ai, chàng đảnh lễ ta chăng?

Vị Thiên tử bèn ngâm kệ giải thích tiền thân của chàng:

  1. Con là một nhái bén ngày xưa,
    Loài vật sinh ra ở nước hồ,
    Trong lúc con nghe Ngài thuyết pháp,
    Bỗng con chết bởi chú chăn bò.
  2. Ai muốn trong chốc lát tịnh tâm,
    Hãy nhìn uy lực đủ thần thông,
    Oai nghi, dung sắc, đoàn hầu cận,
    Và ánh hào quang của chính con.
  3. Những vị chuyên nghe pháp đã lâu,
    Bạch Cồ-đàm Phật, đấng ly sầu,
    Những người ấy đạt tâm không động,
    Ði đến nơi không có khổ đau.

Sau đó đức Thế Tôn, nhìn thấy rõ các khả năng mà hội chúng ấy đã đạt được, bèn thuyết pháp đầy đủ chi tiết. Vào lúc Ngài kết thúc bài giảng, chàng Thiên tử nhái đã được an trú vào quả Dự Lưu. Sau khi cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn, chàng trở về cõi trời.

  1. (52) Chuyện thứ hai – Lâu Ðài Của Revatì (Revatì-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú gần Bàrànasi, (Ba-la-nại) tại Isipatana (Trú xứ chư Tiên), trong Lộc Uyển. Thời ấy có một đệ tử cư sĩ, bố thí rất hào phóng và phụng sự Tăng chúng tên Nandiya, Cha mẹ chàng muốn chàng cưới cô em họ Revatì, nhưng nàng không mộ đạo, không sẵn lòng bố thí, nên Nandiya không thích lấy nàng. Sau đó bà mẹ bảo chàng:

– Nàng ấy sẽ theo lời khuyên của ta.

Thế là chàng bằng lòng và họ kết hôn với nhau, sinh được hai con trai.

Sau đó Nandiya chuyên tâm bố thí rộng rãi, chàng xây một sảnh đường tại tinh xá ở Isipatana và dâng lên đức Như Lai cùng rảy nước cúng dường vào tay Ngài. Ðồng thời, tại cõi trời Ba mươi ba xuất hiện một Lâu đài rộng mười hai do-tuần với cả đoàn tiên nữ hầu cận.

Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành lên thiên giới, trông thấy Lâu đài bèn hỏi đức Thế Tôn Lâu đài ấy được dành cho ai. Ðức Thế Tôn ngâm kệ:

  1. Một người lữ khách tha phương
    An toàn lui gót cố hương trở về,
    Thân nhân, quyến thuộc, bạn bè
    Ân cần chào đón tràn trề hân hoan.
  2. Cũng như thiện nghiệp đã làm
    Sẽ luôn chào đón sẵn sàng thiện nhân,
    Một khi từ giã cõi trần,
    Khác gì quyến thuộc đón mừng đời sau.
    (Pháp Cú 219-220)

Nghe điều này, Nandiya càng hân hoan bố thí và thực hành phước đức. Sau đó chàng đi làm công việc xa nhà và dặn Revatì tiếp tục thi hành thiện sự với lòng tinh cần. Nàng chấp thuận, nhưng trong khi xa nhà, chàng vẫn tiếp tục cúng dường Tăng chúng và bố thí cho kẻ nghèo khổ, thì nàng chỉ vài ngày sau đã ngưng bố thí cho kẻ nghèo khổ, đem cúng dường thực phẩm loại xấu lên chư Tăng và rải số cá thịt vụn khắp nơi để chư Tăng bị khiển trách.

Khi Nandiya trở về nghe mọi chuyện, liền giao trả Revatì lại cho nhà cha mẹ nàng nhưng vẫn cấp dưỡng nàng nhiều hơn. Một thời gian sau chàng từ trần và được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong Lâu đài đã được dành cho chàng.

Phần nàng đã ngưng mọi việc bố thí cúng dường và vẫn còn nhục mạ chư Tăng:

– Chính vì họ mà tất cả tài sản và lợi lộc của ta đều giảm sút.

Lúc ấy Thiên vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) truyền bảo hai quỷ Yakkha (Dạ-xoa) đến Bàrànasi thông báo rằng Revatì sẽ bị ném vào địa ngục vào ngày thứ bảy kể từ hôm ấy. Dân chúng nghe chuyện này đều kinh hoàng, nhưng Revatì đi lên thượng lầu khóa cửa lại và ngồi xuống.

Sau một tuần, hai quỷ Yakkha thật dễ sợ với bộ râu tóc sáng lòa, răng nhọn hoắc và mắt đỏ ngầu như máu bước vào bảo:

– Này Revatì tính tình độc ác kia hãy dậy đi.

Chúng chụp cổ nàng lôi kéo khắp phố phường để mọi người trông thấy, rồi đưa nàng lên không gian đến cõi trời Ba mươi ba, xong lại dẫn xuống địa ngục đầy tội nhân mặc cho nàng than khóc thê thảm.

Bọn ngục tốt của thần Yama (Diêm Vương) thả nàng vào địa ngục đầy tội nhân ấy. Chuyện được kể như vầy:

  1. Này đứng lên, Re-va-tì ác tánh,
    Cửa đưa vào địa ngục đã mở toang,
    Hỡi nữ nhân đủ các thói xan tham,
    Ta sẽ dẫn ngươi vào miền ác thú,
    Nơi kẻ đến phải khóc than sầu khổ,
    Kẻ bị giam vào ngục chịu đau buồn.
    Chư vị kết tập Kinh tạng kể tiếp chuyện này:
  2. Nói vậy xong hai quỷ dữ mắt hồng,
    Thân đồ sộ, là Diêm vương sứ giả,
    Re-va-tì, mỗi tay cầm một gã,
    Khởi hành lên hội chúng của chư Thiên.

Như vậy được hai quỷ Yakkha đưa lên cõi trời Ba mươi ba, Revatì được đặt gần Lâu đài của Nandiya và nhìn thấy ánh sáng của Lâu đài tỏa ra như mặt trời, nàng hỏi hai quỷ này:

  1. Lâu đài ai tấp nập cả bầy tiên,
    Ðang lấp lánh như mặt trời sáng chói,
    Cõi Thiên cung được bao vây bằng lưới
    Dệt vàng đang chiếu tựa ánh chiêu dương.
  2. Ðoàn tiên nương tẩm đệ nhất chiên-đàn,
    Tô điểm đẹp cho tiên cung mọi mặt,
    Vẻ tráng lệ, Lâu đài như vầng nhật,
    Ai sanh Thiên, đang hưởng cảnh Lâu đài?

Bọn chúng bảo nàng:

  1. Xưa ở thành Ba-la-nại một người
    Có tên gọi Nan-di-ya cư sĩ,
    Không xan tham, chàng cúng dường hậu hỉ,
    Ðây Lâu đài chàng, thị nữ cả đoàn,
    Ðang sáng bừng như ánh mặt trời quang.
  2. Ðàn tiên nữ tẩm chiên-đàn đẹp nhất,
    Ðang làm đẹp cho Lâu đài mọi mặt,
    Vẻ diễm kiều không khác ánh mặt trời,
    Chàng sanh Thiên đang hưởng cảnh Lâu đài.

Nàng đáp lại:

  1. Ta là vợ Nan-di-ya thuở trước,
    Nữ chủ nhân nắm quyền khắp gia tộc,
    Nay muốn cùng chàng hưởng cảnh Lâu đài,
    Ta chẳng mong nhìn địa ngục trần ai.

Song bọn chúng bảo:

– Ngươi có mong muốn hay không thì có liên quan gì đến ta?

Và chúng ngâm kệ:

  1. Ðây địa ngục dành cho ngươi độc dữ
    Trong thế gian nơi loài người cư trú,
    Phước đức không hề được chính ngươi làm,
    Những kẻ nào đầy sân hận xan tham,
    Tính ác độc không thể nào đạt tới
    Cảnh đồng cư với người lên thiên giới.

Nói vậy xong hai quỷ Yakkha biến mất ngay tại đó. Nhưng khi nhìn thấy hai ngục tốt tương tự sắp kéo nàng và thả vào Phẩn nị địa ngục (địa ngục đầy phân dơ) tên là Samsavaka, nàng lại hỏi:

  1. Cái gì đây để lộ đám phân dơ,
    Cái gì đây mùi xú uế bốc ra,
    Phân gì đó đang bồng bềnh trôi chảy?
  2. Sam-sa-ka bách trượng sâu là đấy.
    Re-va-tì sẽ cháy mấy ngàn năm.

Nàng hỏi thêm:

  1. Những ác hành nào về khẩu, ý, thân,
    Khiến ta đến Sam-sa-ka bách trượng?

Chúng đáp:

  1. Ðám lữ hành, Bà-la-môn, Trưởng thượng,
    Ngươi đều đem lời dối trá phỉnh lừa,
    Ðây chính là ác nghiệp tạo ngày xưa.
  2. Vậy ngục Sam-sa-ka sâu bách trượng
    Chính là nơi Re-va-tì được hưởng,
    Và bị thiêu đốt cả mấy ngàn năm.
    Sau đó chúng kể cho nàng nghe các khổ hình:
  3. Ngục tốt đem chặt đứt cả tay chân,
    Chúng cắt cả đôi tai cùng chiếc mũi,
    Và sau đó bầy quạ diều ùa tới,
    Xâu xé người đang giãy giụa đằng kia.

Nàng lại kêu gào van xin chúng đưa nàng trở lại cõi người:

  1. Tốt lành thay nếu ta được đưa về,
    Ta sẽ tạo phước nhiều nhờ bố thí,
    Sống chế ngự, tự điều thân, hoan hỷ,
    Những người làm như vậy hạnh phúc tràn,
    Và ngày sau không hối hận ăn năn.

Bọn ngục tốt đáp lời:

  1. Ngày xưa ngươi sống buông lung phóng dật,
    Nên ngày nay phải khổ đau than khóc,
    Phải chịu bao nghiệp quả chính ngươi làm.

Và nàng lại nói:

  1. Ai từ trên thiên giới xuống trần gian
    Phải nói vậy cùng ta khi được hỏi:
    ‘Nên cúng dường cho những người giữ giới
    Thức uống ăn, y phục với tọa sàng’.
  2. Còn kẻ nào đầy sân hận xan tham,
    Và ác tánh không thể nào cộng trú
    Với những người lên cõi trời, thiện thú.
  3. Ví từ đây ta trở lại làm người,
    Giữ giới và hào phóng, sống trong đời,
    Ta sẽ thực hiện biết bao thiện sự
    Do bố thí, công bằng, tâm chế ngự.
  4. Lòng tín thành, ta sẽ lập vườn hoa,
    Và đắp đường trong khoảng đất hoang sơ,
    Xây hồ nước, giếng đào cho dân chúng.
  5. Ngày mười bốn, ngày rằm và mồng tám,
    Ðặc biệt ngày nửa tháng có liên quan
    Bát quan trai là giới luật tám phần.
  6. Bố-tát giới, ta sẽ luôn phòng hộ,
    Không phóng dật và giữ gìn đức độ,
    Chuyên cúng dường, việc ta thấy thật lòng.
    Các vị kết tập Kinh điển kể tiếp chuyện này.
  7. Trong khi nàng giãy giụa, hét đau thương,
    Chúng liền thả chân nàng, đầu lộn xuống,
    Vào địa ngục kinh hoàng sâu trăm trượng.

Và nàng ngâm câu kệ cuối cùng:

  1. Ngày xưa ta vốn biển lận, xan tham,
    Phỉ báng nhiều ẩn sĩ, Bà-la-môn,
    Và lừa phỉnh chồng ta bằng lời dối,
    Nay cháy trong ngục kinh hoàng u tối.

Các vị kết tâp Kinh điển kết luận bằng câu này:

‘Bấy giờ không có Thiên nữ nào trong Lâu đài của Revatì, nhưng vì chuyện có liên quan đến việc Nandiya Thiên tử đạt được Lâu đài, nên nó cũng xếp vào phẩm Lâu đài Nam giới’.

  1. (53) Chuyện thứ ba – Lâu Ðài Của Chatta, Nam tử Bà-la-môn (Chattamànava-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn đang trú tại Sàvatthi trong Kỳ Viên. Thời ấy có một nam tử Bà-la-môn tên Chatta đã học tập xong dưới sự hướng dẫn của một Bà-la-môn ở Setavyà và đã đi về nhà xin được một ngàn đồng tiền kahàpana của cha mẹ để làm học phí, rồi khởi hành trở lại Setavyà đem trả cho thầy. Bọn cướp nghe được tin này bèn lập mưu để giết chàng và cướp của trên đường.

Lúc ấy bậc Ðạo Sư vừa xuất định Ðại bi liền khởi hành từ sáng sớm đến ngồi dưới gốc cây trên con đường chàng sắp đi qua.

Khi chàng trai đi qua, Ngài hỏi thăm công việc của chàng và sau đó hỏi chàng đã biết Tam quy y và Ngũ giới chưa. Chàng trả lời chưa, và đức Thế Tôn dạy chàng học Tam quy Ngũ giới.

  1. Giữa thế nhân, Ngài biện tài đệ nhất,
    Ðức Thế Tôn, đại trí, tộc Thích-ca,
    Phận sự xong, Ngài đã đến bờ kia,
    Ngài đầy đủ lực hùng và cương nghị.
  2. Hãy đi đến quy y Ngài Thiện Thệ,
    Ðạo pháp này ly ái dục, vô phiền,
    Pháp không do tạo tác, thật diệu huyền,
    Thật êm ái, khéo giải bày phân tích.
  3. Ðời thường nói: quả đem nhiều lợi ích
    Khi cúng dường lên Tám vị tịnh tâm
    Trong Bốn đôi gồm Giác giả chân nhân,
    Hãy đi đến quy y vào Thánh chúng.

Trong khi chàng đi đường, ghi nhớ các điều trên vào lòng, bọn cướp tấn công và giết chàng, lấy hết tiền bạc. Song chàng được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba cùng một Lâu đài rộng ba mươi do-tuần và tỏa ánh sáng hai mươi do-tuần.

Dân chúng ở Setavyà tìm thấy xác chàng liền báo tin cho cha mẹ chàng, còn những người từ Ukkattha đến kể chuyện cho vị giáo sư và đám tang được cử hành.

Rồi bậc Ðạo Sư đi đến, để Chatta có cơ hội giáng trần và nói rõ cho nhiều người biết những nghiệp chàng đã làm. Chatta cũng nghĩ như vậy nên chàng xuất hiện cùng với Lâu đài của chàng.

Khi quần chúng tự hỏi: ‘Ðây là Thiên thần hay Phạm Thiên?’, bậc Ðạo Sư liền hỏi kệ để làm sáng tỏ phước nghiệp mà vị Thiên tử này đã tạo:

  1. Mặt trời không sáng bừng lên như vậy,
    Sao Phussa, vầng nguyệt cũng không bằng
    Ðại hào quang này quả thực vô song,
    Ai là vị giáng trần từ thiên giới?
    5. Ánh hào quang tràn lan khắp một cõi
    Hai chục do-tuần che ánh mặt trời,
    Mỹ cung này thanh tịnh, sáng tuyệt vời
    Thậm chí khiến màn đêm như ánh nắng.
  2. Với hoa sen đủ màu cùng hoa súng
    Trải khắp nơi tô điểm đẹp vô ngần,
    Bao phủ bằng màn lưới dệt vàng ròng,
    Lâu đài chiếu giữa trời như vầng nhật.
  3. Khoác xiêm y đỏ hồng hay vàng rực,
    Ngát mùi hương thạch huệ với chiên-đàn,
    Bầy tiên da láng mướt, ánh như vàng,
    Ðông đúc tựa ngàn sao trời rực rỡ.
  4. Ðây nhiều loại tiên đồng và ngọc nữ
    Ðeo đầy hoa, và các món trang hoàng,
    Theo gió đưa hương phảng phất nhẹ nhàng,
    Ðược bao phủ với kim hoàn thất bảo.
  5. Phép tu thân nào đây là phước báo?
    Nhờ nghiệp quả gì chàng hóa sanh đây,
    Làm thế nào chàng đến mỹ lâu này?
    Khi được hỏi, hãy giải bày thứ tự.
    Vị Thiên tử giải thích qua các vần kệ này:
  6. Khi Ðạo Sư đã gặp chàng nam tử
    Bà-la-môn trên đại lộ vùng này,
    Với từ bi, Ngài giáo giới giảng bày,
    Chat-ta đã được nghe Ngài thuyết pháp,
    Ðấng Phật Bảo, ‘Xin phụng hành’, chàng đáp.
  7. Con đến gần người Chiến thắng huy hoàng
    Ðể quy y Giáo pháp với Tăng đoàn,
    Bạch Thế Tôn, con nói ‘không’ trước nhất,
    Sau đó con hành trì theo giới luật.
  8. Không sống theo tà hạnh tạo đau thương,
    Vì các trí nhân không thể tán dương
    Sự buông thả đối với loài sinh vật,
    Bạch Thế Tôn, con nói ‘không’ trước nhất,
    Rồi về sau con giữ đúng luật Ngài.
  9. Không lấy vật gì, sở hữu của ai,
    Không thể nghĩ: của không cho mà lấy,
    Bạch Thế Tôn, con nói ‘không’ trước đấy,
    Rồi về sau con giữ đúng luật Ngài.
  10. Tà hạnh là đi đến vợ của ai,
    Những phụ nữ được người nhà che chở.
    Bạch Thế Tôn, con nói ‘không’ trước đó,
    Rồi về sau con giữ đúng luật Ngài.
  11. Ðừng nói điều dối trá hoặc sai lời,
    Vì bậc trí không tán dương dối trá,
    Bạch Thế Tôn, con nói ‘không’ trước đó,
    Rồi về sau con giữ đúng luật Ngài.
  12. Chất rượu nồng làm lý trí xa rời
    Con người – Vậy hãy tránh luôn tất cả.
    Bạch Thế Tôn, con nói ‘không’ trước đó,
    Rồi về sau con giữ đúng luật Ngài.
  13. Quả thực con hành Ngũ giới trên đời,
    Ði đúng hướng theo Như Lai Chánh pháp,
    Trên con đường, giữa hai làng, gặp cướp,
    Chúng giết con vì của cải gia tài.
  14. Con thi hành thiện sự đúng mức này,
    Vượt mức ấy không thể làm công đức,
    Nhờ thiện hạnh, hóa sanh theo nghiệp lực,
    Lên cõi trời, hưởng lạc thú thỏa lòng.
  15. Hãy nhìn đây do lối sống tương đồng
    Với Chánh pháp, và thực hành giới luật.
    Khi lắm kẻ ít niềm vui ao ước
    Hạnh phúc con đang sáng chói huy hoàng.
  16. Hãy xem nhờ tiểu pháp ấy gọn gàng,
    Ðến thiện thú, con đạt niềm an lạc;
    Vậy con nghĩ những ai thường nghe Pháp,
    Sẽ đạt thành Bất tử, tối an bình.
  17. Theo Giáo pháp Như lai, việc thực hành
    Dù ít, quả vẫn được nhiều lợi lớn.
    Nhìn Chat-ta nhờ thiện hành, chiếu sáng
    Cõi đất này chẳng khác mặt trời kia.
  18. Vậy thiện hành, ta có thể làm gì?
    Một số kẻ vẫn cùng nhau thảo luận.
    Nếu ta muốn lại làm người, hãy sống,
    Bước trên đời theo giới luật thực hành.
  19. Ðạo Sư vì lợi ích, xót quần sanh,
    Sáng sớm gặp ta trong tình cảnh ấy.
    Ta đến gần Ngài xứng danh như vậy,
    ‘Xin từ bi cho học Pháp Thế Tôn’.
  20. Những ai đây dứt luyến ái dục tham,
    Hữu ái tùy miên, si mê tận diệt,
    Những người nào không nhập thai kế tiếp,
    Sẽ đạt thành tịch tịnh, chứng Niết-bàn’.

Khi bậc Ðạo sư đã thuyết giảng cho hội chúng xong, vị Thiên tử được an trú vào quả Dự Lưu, đảnh lễ đức Thế Tôn và từ biệt song thân, trở về thiên giới.

  1. (54) Chuyện thứ tư – Lâu Ðài Của Người Cúng Cháo (Kakkatakarasadàyaka-Vimàma)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Ràjagaha trong Trúc Lâm. Thời ấy một Tỷ-kheo đang thực hành thiền quán bỗng ngã bệnh vì chứng đau tai rất trầm trọng. Thuốc chữa của y sĩ chẳng công hiệu gì. Vị ấy trình với đức Thế Tôn, Ngài biết cháo cua là thứ thuốc chữa bệnh ấy, bèn dặn vị Tỷ-kheo đến khất thực ở vùng đồng ruộng nước Ma-kiệt-đà.

Vị ấy đến đó và đứng khất thực tại cửa lều người giữ ruộng. Người này, sau khi nấu món cháo cua làm thức ăn, liền mời vị ấy ngồi và cúng một ít cháo.

Vị Tỷ-kheo vừa nếm món cháo thì trở nên khoẻ mạnh như thể được tắm với cả trăm gàu nước mát. Tâm trí thanh thản nhờ thức ăn thích hợp, vị ấy hướng tâm trở về thiền quán và chứng đắc quả A-la-hán ngay cả trước khi ăn xong bữa. Vị ấy bảo người giữ ruộng:

– Này cư sĩ, nhờ phước quả công đức này, Hiền hữu sẽ không còn bị thân bệnh và tâm bệnh nữa.

Chúc phước xong, vị ấy ra đi. Về sau người giữ ruộng từ trần, được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một căn phòng làm bằng ngọc bích, giữa một tòa Lâu đài bằng vàng rộng mười hai do-tuần, trụ bằng ngọc được trang hoàng uy nghiêm với bảy trăm sảnh đường có nóc nhọn cao vút. Trước cửa lâu đài, một con cua bằng vàng được treo trên một chuỗi ngọc trai. Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành lên thiên giới, thấy cảnh này, liền hỏi:

  1. Lầu các trụ cao bằng ngọc bích,
    Mười hai dặm trải rộng chung quanh,
    Bảy trăm nóc nhọn huy hoàng quá,
    Trụ ngọc, nền vàng thật hiển vinh.
  2. Chàng uống ăn, và trú lạc an,
    Khi đàn tiên trổi khúc du dương,
    Ðây là thiên lạc đầy năm thứ,
    Tiên nữ múa, trang điểm ngọc vàng.
  3. Vì sao chàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì chàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào chàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  4. Hỡi chàng Thiên tử đại oai thần,
    Chàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Thần lực chàng vì sao rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
  5. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho chàng:
  6. ‘Kìa trên cửa nọ có cua vàng
    Ðứng để nhắc con nhớ rõ ràng
    Những hạnh nghiệp làm trong quá khứ,
    Cua này sáng chói cả mười càng.
  7. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất lỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  8. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương’. 

5. (55) Chuyện thứ năm – Lâu Ðài Của Người Giữ Cửa (Dvàrapàlaka-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn đang trú tại Ràjagaha trong Trúc Lâm. Thời ấy, một đệ tử cư sĩ chuẩn bị bốn buổi ngọ trai vĩnh viễn cúng dường Tăng chúng. Song lo sợ trộm cướp, vị ấy thường khóa cửa nhà vì nhà vị ấy tọa lạc ở ranh giới tận cùng của kinh thành.

Bởi thế chư Tỷ-kheo đến theo lời mời thọ thực đôi khi phải chịu đói trở về. Vị ấy nghe vợ kể lại chuyện này, bèn chỉ định một người giữ cửa đón chư Tỷ-kheo đến đó và phục vụ chu đáo.

Khi vị thí chủ từ trần, vị ấy được tái sanh vào cõi Dạ-ma thiên, còn người giữ cửa, khi từ trần, được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài bằng vàng rộng mười hai do-tuần, giống như trong truyện trước.

Khi được Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi như trên, vị ấy đáp lại:

Các câu kệ từ 1 đến 5 giống chuyện 54.

  1. ‘Cõi thiên thọ mạng cả ngàn năm,
    Thiện nghiệp con là đã tán xưng,
    Ðảnh lễ thành tâm và bởi vậy,
    Người hành công đức sẽ trường tồn,
    Ðược cung cấp với nhiều thiên lạc
    Trên cõi trời cao hưởng phước phần.
  2. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  3. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương’. 

6. (56) Chuyện thứ sáu – Lâu Ðài Do Công Ðức Thiện Sự (Karanìya-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn đang trú tại Sàvatthi trong Kỳ Viên. Một đệ tử tại gia, sau khi đi tắm về từ sông Aciravati, đến yết kiến và thỉnh cầu đức Thế Tôn thọ trai tại nhà mình rồi tiếp đãi Ngài rất long trọng. Phần còn lại cũng giống như chuyện trước.

Vị Thiên tử đáp lời như sau:

Các kệ từ 1 đến 5 giống chuyện 54.

  1. Phước nghiệp phải làm bởi trí nhân,
    Là người có trí tuệ tinh thông,
    Cho nên những vật đem dâng cúng
    Chư Phật chánh chân quả bội phần.
  2. Phật-đà quả thật đã xuất hành
    Vì muốn cho an lạc chúng sanh,
    Ngài đã từ rừng vào xóm ấy,
    Con lên Ðao-lợi bởi tâm thành.
  3. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  4. Xin trình Tôn giả đại oai thần,
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đó oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

7. (57) Chuyện thứ bảy – Lâu Ðài Thứ Hai Do Công Ðúc Thiện Sự (Dutiyakaraniya-Vimàna)

Chuyện này cũng giống chuyện thứ sáu, trừ điểm ở chuyện trước, thực phẩm cúng dường đức Thế Tôn, còn ở đây dâng một Trưởng lão.

Các kệ từ 1 đến 5 giống chuyện 54.

  1. Công đức phải làm bởi trí nhân,
    Là người có trí tuệ tinh thông,
    Cho nên những vật đem dâng cúng
    Trưởng lão chánh chân quả bội phần.
  2. Chính Tỳ-kheo nọ đã đi ra
    Vì muốn cho con lợi lạc mà,
    Ngài đã vào rừng từ xóm ấy,
    Tâm thành, con đạt cõi Băm-ba.

8.Vì vậy sắc con đẹp thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.

  1. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đó oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

8. (58) Chuyện thứ tám – Lâu Ðài Do Cúng Cây Kim (Sùci-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn đang trú tại Ràjagaha trong Trúc Lâm. Thời ấy có việc may y cho Tôn giả Sàriputta nên cần một cây kim.

Khi đến khất thực tại nhà một thợ rèn và được hỏi Tôn giả cần thứ gì, Tôn giả liền nói về nhu cầu kia. Người thợ rèn có tâm thành tín cúng dường Tôn giả hai cây kim và dặn Tôn giả phải nói nếu còn cần thêm nữa.

Sau khi từ trần, người thợ rèn được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba và Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi vị Thiên tử:

(Các kệ từ 1 đến 5 giống chuyện 54)

  1. Những gì ban tặng, vật đem cho,
    Riêng kết quả không giống thế kia,
    Những vật gì cần đem cúng cấp,
    Chính riêng điều ấy tốt hơn xa,
    Một cây kim được con dâng cúng,
    Ðối với con, kim lợi lạc to.
  2. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  3. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đó oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.
  4. (59) Chuyện thứ chín – Lâu Ðài Thứ Hai Do Cúng Cây Kim (Dutiyasùci-Vimàna)

Thời ấy, Ðức Thế Tôn đang trú tại Ràjagaha trong Trúc Lâm. Bấy giờ một người thợ may nọ thấy một Tỷ-kheo vá áo với cây kim được rèn tại Trúc Lâm, bèn cúng dường vị ấy vài cây kim của mình cùng chiếc bao.

Câu hỏi được đặt cho người thợ may sau khi người ấy được tái sinh vào cõi trời Ba mươi ba cũng giống chuyện trước.

(Các kệ từ 1 đến 5 giống chuyện 54).

  1. Kiếp xưa sinh ở chốn phàm trần,
    Con được làm người giữa thế nhân,
    Thấy một Tỷ-kheo vô lậu hoặc,
    An nhiên tâm trí, chẳng mê lầm,
    Với Ngài, con có lòng thành kính,
    Bèn lấy kim, tay tự cúng dâng.
  2. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  3. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đó oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

10. (60) Chuyện thứ mười – Lâu Ðài Con Voi (Nàga-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn đang trú tại Sàvatthi trong Kỳ Viên. Lúc ấy Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành lên cõi trời Ba mươi ba, thấy một Thiên tử cỡi một đại tượng thuần bạch cùng một đoàn tùy tùng đông đảo bay qua không gian tiến về phía Tôn giả.

Vị Thiên tử xuống voi và đảnh lễ, Tôn giả liền hỏi vị ấy về hạnh nghiệp đã làm:

  1. Ngự trên bạch tượng sáng toàn thân,
    Thuần chủng, phi nhanh, thật tráng hùng.
    Voi báu huy hoàng, khăn phủ đẹp,
    Chàng đến đây qua giữa cõi không.
  2. Bên trên của mỗi chiếc ngà voi
    Xuất hiện hồ sen nở đẹp tươi,
    Trong tựa pha lê làn nước mát,
    Từng đoàn nữ nhạc bước ra ngoài
    Giữa hoa sen khiến lòng mê mẩn,
    Tiên chúng này đang múa tuyệt vời.
  3. Hỡi chàng Thiên tử đại huy hoàng,
    Chàng đã đạt bao đại lực thần,
    Công đức gì xưa chàng đã tạo
    Khi tái sinh làm một thế nhân,
    Vì sao thần lực chàng ngời sáng,
    Dung quang chiếu tỏa khắp mười phương?
  4. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho chàng:
  5. ‘Tự tay con lấy tám hoa tàn,
    Và với thành tâm, đến cúng dường
    Ở tại nơi kia là bảo Tháp
    Phật-đà Ca-diếp đại vinh quang.
  6. Vì vậy sắc con đẹp thế này
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  7. Xin trình Tôn giả đại oai thần,
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đó oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

11. (61) Chuyện thứ mười một – Lâu Ðài Con Voi Thứ Hai (Dutiyanàga-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn đang trú tại Ràjagaha trong Trúc Lâm. Thời ấy, một đệ tử tại gia có lòng tin, sống theo giới luật, hành trì ngày Bố-tát giới, cúng dường Tăng chúng và đến nghe pháp tại tinh xá cùng đem các tặng phẩm, nên khi từ trần được tái sanh lên cõi trời Ba mươi ba. Ở đó, một voi trắng vĩ đại phục vụ vị ấy cùng một đoàn hầu cận, vị ấy thường đến du ngoạn trong hoa viên.

Một hôm, lòng nôn nóng muốn bày tỏ niềm tri ân, vị ấy ngồi trên voi lúc nửa đêm từ thiên giới xuống Trúc Lâm rồi đứng đó trong dáng điệu sùng kính trước đức Thế Tôn.

Tôn giả Vangìsa đang đứng hầu Thế Tôn và được Thế Tôn cho phép, bèn hỏi vị ấy:

  1. Ngự trên bạch tượng đại hùng cường,
    Chàng dạo chơi và được cả đoàn
    Tiên nữ theo hầu quanh thượng uyển,
    Như sao cứu hộ sáng mười phương.
  2. Vì sao chàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì chàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào chàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  3. Hỡi chàng Thiên tử đại oai thần,
    Chàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Nhờ thế oai nghi chàng rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương?
  4. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Liền giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho chàng:
  5. Kiếp xưa sinh giữa chốn phàm nhân,
    Là đệ tử Ngài có Nhãn quang,
    Con bỏ sát sinh loài thú vật,
    Tránh xa thói trộm cắp tà gian.
  6. Con không uống rượu, chẳng sai lời,
    Tri túc, không ham muốn vợ người,
    Thành tín, con cung dâng thực phẩm
    Dồi dào mọi thứ chẳng hề vơi.
  7. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  8. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đó oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.

12. (62) Chuyện thứ mười hai – Lâu Ðài Con Voi Thứ Ba (Tatiyanàga-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Ràjagaha ở Trúc Lâm. Thời ấy ba vị Trưởng lão A-la-hán đến một làng để an cư mùa mưa, sau đó đi vào Ràjagaha đảnh lễ đức Thế Tôn.

Lúc đi ngang qua đồn điền mía của một Bà-la-môn có tà kiến, chư vị hỏi người giữ vườn:

– Chúng tôi có đến Ràjagaha kịp hôm nay chăng?

– Thưa Tôn giả, không thể. Còn một chặng đường dài độ nửa do-tuần nữa, xin Tôn giả ở lại đây và ngày mai đi tiếp.

– Ở đây có chỗ nào chúng tôi có thể ở lại chăng?

– Thưa không, nhưng tôi sẽ nói cho Tôn giả một chỗ.

Rồi người giữ vườn ấy dựng gấp các lều tranh bằng thân mía, khúc cây v.v…, kẻ ấy cúng dường chư vị món cơm và nước mía. Sau bữa cơm, kẻ ấy lại tiễn đưa mỗi vị với một cây mía, vì cho rằng cái đó lấy từ phần sản phẩm của mình, nên ra về trong nỗi hân hoan và đặt hy vọng vào sự an lạc của mình mai sau.

Nhưng chủ nhân khu vườn gặp chúng Tăng, hỏi chư vị làm cách nào lấy được mía, và khi nghe xong, liền đùng đùng nổi giận chạy về vườn lấy gậy đánh người kia chết ngay với một đòn như trời giáng.

Nhờ công đức trên, vị ấy được tái sanh vào hội chúng chư Thiên ở Thiện pháp đường (Sudhammà), làm chủ một con voi toàn trắng rất oai hùng.

Cha mẹ và bà con vị ấy khóc thương khi đến dự đám tang, nhưng vị ấy giáng trần giữa mọi người trong cảnh uy nghi, rồi một người bản chất thông minh đến hỏi thăm vị ấy về thiện sự đã làm:

  1. Từ cung trời ngự xuống phàm trần,
    Ai cỡi trên thiên tượng trắng ngần,
    Âm nhạc thiên đình êm dịu trổi
    Ðón chào ngài giữa cõi không gian?
  2. Có phải là Thiên tử, Nhạc thần,
    Sak-ka Thiên chủ, đại danh lừng,
    Ngày xưa bố thí rất hào phóng,
    Chưa biết ngài, ta muốn hỏi han?
    Vị ấy giải thích vấn đề:
  3. Chẳng phải là Thiên tử, Nhạc thần,
    Sak-ka Thiên chủ đại danh lừng,
    Ngày xưa bố thí rất hào phóng,
    Ta thuộc chư Thiên Thiện pháp đường.

Người kia lại hỏi:

  1. Ta hỏi ngài, này Thiện pháp thiên,
    Chắp tay, ta đảnh lễ trang nghiêm:
    Việc gì ngài tạo trong nhân giới,
    Nay Thiện pháp đường, đã được lên?

Vị ấy ngâm kệ đáp lời:

  1. Ai cúng dường lều mía, cỏ khô,
    Hoặc lều bằng áo rách thô sơ,
    Cúng dường được một trong ba thứ,
    Lên Thiện pháp đường ở với ta. 

13. (63) Chuyện thứ mười ba – Lâu Ðài Có Cỗ Xe Nhỏ (Cùlaratha-Vimàna)

Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, xá-lợi của Ngài được chia đều và theo sự lãnh đạo của Tôn giả Ðại Ca-diếp, chư Tăng được triệu tập để đọc lại Giáo pháp. Chư vị đệ tử đến an trú mùa mưa, mỗi vị cùng đi với hội chúng của mình, sống ở nhiều nơi khác nhau để quan tâm chăm sóc đám quần chúng cần được dẫn dắt vào đạo.

Bấy giờ Tôn giả Mahà-Kaccàna (Ðại Ca-chiên-diên) trú tại một khu rừng ở vùng biên địa. Thời ấy vua Assaka đang ngự trị tại thành Pota của xứ Assaka. Vương tử Sujàta, con bà chánh hậu của vua, bị cha đuổi vì nghe theo lời nài nỉ của một tiểu thứ phi, nên chàng phải vào rừng ở.

Vào thời đức cổ Phật Kassapa, mặc dù chàng đã làm Tỷ-kheo một dạo, về sau chàng lại từ trần như một người thế tục, và giờ đây tái sanh làm vương tử có tên Sujàta. Khi mẫu hậu chàng qua đời sớm, bà chánh hậu mới của vua cha chàng cũng có một hoàng nam, Nhà vua hài lòng liền ban cho bà một điều ước.

Khi Sujàta lên mười sáu tuổi, chánh hậu đòi vua cha ban điều ước kia, bà yêu cầu nhà vua phong cho hoàng nam của bà làm người kế vị. Nhà vua từ chối, vì Thái tử sẽ là người kế vị vua về sau.

Song bà cứ tiếp tục làm phiền lòng vua để buộc vua phải giữ lời hứa, cho đến khi vua cảm thấy phải làm theo ý bà, đành rơi lệ bảo cho Sujàta biết sự việc.

Thái tử đau buồn trước nỗi khổ của vua cha, liền xin phép vào rừng ở ẩn. Nhà vua đề nghị xây cho chàng một thành phố khác, song chàng không thuận, chàng cũng không muốn được gửi sang ở với các vương tử nước láng giềng. Nhà vua ôm lấy con từ giã và cho chàng ra đi với lời dặn là chàng phải trở về khi vua băng hà để cai trị vương quốc.

Sống trong rừng với đám sơn nhân, một hôm chàng đi săn nai và đuổi theo con nai cho đến khi nó mất dạng gần túp lều lá của Trưởng lão Mahà-Kaccàna, Tôn giả bèn ngâm kệ hỏi chàng như vầy:

  1. Chàng đứng dựa vào một chiếc cung
    Làm bằng gỗ tốt thật oai hùng,
    Chàng là quý tộc, là vương tử,
    Hay thợ săn lang bạt giữa rừng?
    Sau đó chàng đáp lại, giải thích thân thế mình:
  2. Con là vương tử As-sa-ka,
    Tôn giả, con lang bạt thật xa
    Vào chốn rừng già, xin nói rõ,
    Tên con thường gọi Su-jà-ta.
  3. Con thường săn bắn các nai rừng,
    Con dấn sâu vào chốn đại lâm,
    Song chính nai kia, con chẳng thấy,
    Mà con thấy được đại tôn nhân.
    Vị Trưởng lão đáp lại với lời chào đón ân cần:
  4. Xin đón chào chàng, đại quý nhân,
    Thấy chàng trong dạ thật vui mừng,
    Này đây nước lạnh xin chàng lấy,
    Vì thế chàng đi rửa sạch chân.
  5. Nước uống này đây mát biết bao
    Ðem từ trong núi đá hang sâu,
    Uống ngay nước mát, này vương tử,
    Và hãy ngồi trên thảm cỏ lau.

Và vương tử đáp lại lời chào đón ân cần của Trưởng lão:

  1. Lời ngài nghe quả thật êm tai,
    Bậc đại trí nhân, ấy chính ngài,
    Vừa nói những lời hiền dịu quá,
    Thiện tâm nhằm chủ đích cao vời.
  2. Ngài thích thú sao lại ở rừng,
    Xin ngài hãy nói, hỡi Ngưu vương,
    Lắng nghe đường lối ngài khuyên bảo,
    Con sẽ hành theo Pháp đúng đường.

Bấy giờ Trưởng lão nói đến cách thực hành Ðạo pháp chánh chân của chính mình cũng thích hợp với chàng nữa:

  1. Không sát hại sinh vật mọi loài,
    Tránh xa trộm cắp ấy niềm vui,
    Lòng không tà dục, này vương tử,
    Và rượu nồng say, dứt bỏ rồi.
  2. Tránh xa ác pháp, sống công bằng,
    Học tập nhiều và biết nhớ ân,
    Những việc này đây cần tán thán,
    Là điều xứng đáng giữa phàm trần.
  3. Vương tử, giờ đây hãy biết rằng
    Trong vòng năm tháng sắp qua dần,
    Có cơ chàng gặp Diêm vương diện,
    Vậy hãy lo mau giải thoát thân.

Sau đó vương tử hỏi về phương tiện giải thoát mình:

  1. Ðến xứ nào nay con phải đi,
    Con cần thực hiện việc làm gì,
    Hoặc là tri thức nào cần học
    Ðể khỏi thành già chết thế kia?

Rồi Trưởng lão ngâm kệ thuyết pháp cho chàng:

  1. Chẳng miền nào ở cõi trần gian
    Ðể học gì hay có việc làm,
    Vương tử đến kia mong có được
    Con người không lão, tử, suy tàn.
  2. Những người đại phú, lắm kho tàng,
    Hay võ tướng quyền quý, quốc vương,
    Dầu đủ bạc vàng và thóc lúa,
    Cũng không thoát lão tử thông thường.
  3. Chắc chàng đã biết các vương tôn
    Con của An-dha, thật tráng cường,
    Vô địch, song khi dứt thọ mạng,
    Những người này cũng phải tan xương.
  4. Chẳng ai võ tướng, Bà-la-môn,
    Nô lệ, dân quê, hạng quét đường,
    Hoặc có người nào nhờ đẳng cấp,
    Không già, không chết, mãi trường tồn.
  5. Những người đọc mật chú thiêng liêng
    Từ sáu nguồn kinh của Phạm Thiên,
    Dẫu các người này nhờ kiến thức,
    Cũng không thoát lão tử triền miên.
  6. Dù người giác ngộ, bậc tu nhân
    Ðã đạt tịnh tâm, chế ngự thân,
    Ngay các bậc hiền nhân khổ hạnh
    Ðúng thời cũng bỏ xác phàm trần.
  7. Thậm chí A-la-hán trí minh,
    Vô ưu, phận sự đã hoàn thành,
    Ðến thời cũng đặt thân này xuống
    Vào lúc diệt vong thiện ác hành.

Bấy giờ nam tử nói đến những việc chính chàng cần phải làm:

  1. Các kệ ngài ngâm thật khéo thay,
    Hiền nhân, mục đích quý cao vầy.
    Nhớ lời vàng ngọc, con an tịnh,
    Xin hãy cho con nương tựa đây.

Sau đó Trưởng lão ngâm kệ dạy bảo chàng:

  1. Ðừng tìm nương tựa ở nơi ta,
    Hãy hướng đến ngay đức Phật-đà,
    Là bậc Ðại Hùng, Ngài Thích tử,
    Ta từng quy ngưỡng những ngày qua.

Chàng trai lại hỏi:

  1. Ở xứ nào đâu có Ðạo Sư,
    Kính thưa Tôn giả, tự bây giờ,
    Con đi yết kiến Ngài Vô thượng,
    Thắng giả oai hùng của chúng ta.
    Trưởng lão đáp:
  2. Trong quốc độ kia ở phía Ðông,
    Ok-kà-ka tộc, chính con dòng,
    Ngài là tối thượng trong thiên hạ,
    Ðã đắc vô dư Bát Niết-bàn.

Khi vương tử đã nghe Trưởng lão thuyết pháp, chàng được an trú vào Tam quy và Ngũ giới, vì thế chàng nói:

  1. Giá đức Phật-đà, Ðại Ðạo Sư,
    Vẫn còn trụ thế đến bây giờ,
    Hẳn con sẽ nguyện đi ngàn dặm
    Ðể yết kiến Ngài, thỏa ước mơ.
  2. Song chính vì nay bậc Ðạo Sư
    Ðã hoàn toàn tịch diệt vô dư,
    Con xin Tôn giả cho an trú,
    Vào bậc Ðại Hùng của chúng ta.
  3. Con đến quy y Phật Thế Tôn,
    Và con quy ngưỡng Pháp vô song,
    Và con quy ngưỡng toàn Tăng chúng
    Của cả trời, người ở thế gian.
  4. Từ nay con tránh giết muôn loài,
    Không lấy các tài vật của ai,
    Không uống rượu nồng, không nói dối,
    Và tri túc với vợ mình thôi.

Trưởng lão nói như vầy:

– Bây giờ chàng hãy về với vua cha, đời sống của chàng thật ngắn ngủi, chàng sẽ chết trong vòng năm tháng nữa thôi, vậy hãy làm công đức thiện sự.

Chàng trai làm theo lời dạy và chỉ sau bốn tháng, chàng từ trần rồi tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba. Nhờ uy lực công đức của chàng, một cỗ xe được trang hoàng bảy báu vật xuất hiện dài bảy do-tuần (dặm). Xe có cả đoàn hộ tống hàng ngàn tiên nữ.

Khi vua cha đã cử hành tang lễ cho con và dâng cúng đại lễ lên chư Tăng xong, vua đến cúng dường bảo Tháp trong tinh xá. Vị Trưởng lão cũng đến đó. Còn vị Thiên tử giáng trần trong cỗ xe thiên giới kia, đảnh lễ Trưởng lão và chào mừng vua cha.

Trưởng lão ngâm kệ hỏi chàng:

  1. Như vạn hào quang của mặt trời
    Xoay vần chiếu sáng khắp nơi nơi,
    Cỗ xe vĩ đại chàng đang ngự
    Giăng trải chung quanh bảy dặm dài.
  2. Bao phủ bên trên các phiến vàng,
    Ngọc trai, ngọc thạch cẩn toàn thân,
    Các khung chạm trổ đầy vàng bạc
    Ngọc bích khéo tô điểm tuyệt trần.
  3. Trang trí mặt tiền, ngọc bích xanh,
    Càng xe, hồng ngọc vẽ nên hình,
    Cân đai bầy ngựa toàn vàng bạc
    Làm đẹp xe lao vút thật nhanh.
  4. Chàng đang đứng giữa chiếc xe vàng
    Vượt hẳn quần tiên hộ tống chàng,
    Trông chàng chẳng khác ngôi Thiên chủ
    Trong chiếc thiên xa, ngựa cả ngàn,
    Thiên tử lừng danh và đại lực,
    Nhờ đâu chàng được cảnh huy hoàng?

Khi được Trưởng lão hỏi vậy, Thiên tử giải đáp qua các vần kệ:

  1. Tôn giả, con là Thái tử xưa,
    Tên con thường gọi Su-jà-ta,
    Nhờ ngài bi mẫn cho con được
    An trú vào trong giới tại gia.
  2. Vì biết đời con sắp sửa tàn,
    Ngài đem xá-lợi Ðạo Sư ban,
    Bảo: ‘Su-jà hãy nghiêng mình lễ,
    Việc ấy cho con lợi lạc tràn’.
  3. Khi con đã kính lễ nghiêm trang,
    Hương liệu, vòng hoa được cúng dường,
    Con bỏ xác thân phàm tục ấy,
    Và lên vườn Hỷ lạc thiên đường.
  4. Trong vườn Hỷ Lạc Nan-da-na,
    Nơi lắm bầy chim đến điểm tô,
    Con được cả đàn tiên hộ tống,
    Hân hoan xem vũ nhạc đồng ca.

Nói vậy xong, vị Thiên tử đảnh lễ Trưởng lão và giã từ vua cha, rồi lên xe trở về thiên giới. Trưởng lão kể lại toàn câu chuyện đã diễn ra giữa đôi bên với các Trưởng lão kết tập Kinh điển vào thời kỳ họp Hội đồng của chư vị.

  1. (64) Chuyện thứ mười bốn – Lâu Ðài Có Cỗ Xe Lớn (Mahàratha-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú ở Savàtthi, trong Kỳ Viên. Và Tôn giả Mahà-Moggallàna đang du hành cõi trời Ba mươi ba, thấy một Thiên tử tên Gopàla vừa rời Lâu đài bước lên cỗ xe uy nghi của chàng để nhàn du trong vườn Thiên lạc. Vị Thiên tử thấy Tôn giả, liền xuống xe và đứng trước Ngài, chắp tay đảnh lễ.

Tôn giả Mahà Moggallàna hỏi chàng:

  1. Trên xe tô điểm biết bao màu,
    Tráng lệ với thiên mã dẫn đầu,
    Ðang tiến bước về vườn Hỷ lạc,
    Hình chàng chiếu sáng giữa trời cao,
    Giống như thí chủ đầy hào phóng,
    Thiên chủ Va-sa-va thuở nào.
  2. Càng xe chàng được đúc bằng vàng,
    Cân đối sườn, vai thật nhịp nhàng,
    Trụ đúc tinh vi nhờ thợ khéo,
    Như trăng rằm chiếu ánh hào quang.
  3. Xe này được phủ lưới bằng vàng,
    Rực rỡ nhiều châu ngọc điểm trang
    Lấp lánh, tạo âm thanh dịu nhẹ
    Sáng ngời nhờ lắm quạt tay mang.
  4. Trục xe thiết kế thật cầu kỳ,
    Và được trang hoàng giữa bánh xe,
    Các trục được tô trăm nét vẽ,
    Sáng ngời như chớp lóe trăm tia.
  5. Xe được phủ đầy các loại tranh,
    Khung xe rộng chiếu cả ngàn hình,
    Âm thanh kỳ diệu nghe từ đó
    Chẳng khác đàn năm thứ hợp thành.
  6. Mặt tiền xe ấy được trang hoàng
    Châu ngọc theo hình dáng mặt trăng,
    Thanh tịnh hào quang luôn chiếu sáng,
    Chứa tia vàng óng ánh tràn lan,
    Tỏa ra như thể cùng hòa lẫn
    Tia ngọc xanh xanh thật dịu dàng.
  7. Cả đàn tuấn mã được trang hoàng
    Châu ngọc theo hình dáng mặt trăng,
    Cổ ngựa ngẩng cao đầy tốc lực,
    Thân hình cao lớn, thật hùng cường,
    Phi nhanh khi chúng vừa hay biết
    Ý muốn gì trong trí của chàng.
  8. Tứ chi đàn ngựa khéo hòa đồng
    Phi vút nhanh khi biết ý chàng,
    Chúng rước chàng đi êm ái quá,
    Ngựa thuần dễ dạy, chẳng hung hăng,
    Chúng hân hoan kéo xe tiên ấy,
    Tối thượng giữa loài ngựa bốn chân.
  9. Chuyển động quay cuồng giữa cõi không,
    Chúnh cùng nhảy nhót lại khua rân
    Cân đai phát tiếng nghe kỳ diệu,
    Chẳng khác đàn năm thứ họa đồng.
  10. Tiếng xe cùng với tiếng cân đai,
    Tiếng vó câu và ngựa hí dài,
    Âm thanh kỳ diệu nghe từ đó
    Như nhạc vườn Thiên lạc tuyệt vời.
  11. Mắt nhìn e thẹn, dáng linh dương,
    Tiên nữ trong xe đứng một đàn,
    Ðôi mí mắt dày,cười mỉm miệng,
    Làn da láng mướt, giọng oanh vàng,
    Khoác xiêm y kết đầy lam ngọc,
    Ðược các Nhạc thần kính lễ luôn.
  12. Y phục quần tiên sắc đỏ, vàng,
    Mắt to màu đỏ sẫm, cao sang,
    Hình dung yểu điệu, cười duyên dáng,
    Tay chắp trên xe hộ tống chàng.
  13. Xiêm y rực rỡ, chuỗi vòng vàng,
    Khả ái toàn thân, ngón búp măng,
    Diễm lệ dung nhan, tiên chúng ấy
    Trên xe, tay chắp, đứng hầu chàng.
  14. Vài nàng ngọc nữ lại trang hoàng
    Các cuộc tóc tiên kết gọn gàng,
    Rực rỡ, sẵn sàng làm đẹp ý,
    Trên xe, tay chắp, đứng hầu chàng.
  15. Xanh, đỏ, đóa sen khéo điểm trang,
    Vòng hoa đầu đội, ngát mùi hương,
    Chiên-đàn đệ nhất thơm ngào ngạt,
    Làm đẹp lòng, tuân lệnh sẵn sàng,
    Ðang ở trên xe, tay chắp lại,
    Cả đàn tiên nữ đứng hầu chàng.
  16. Ðóa sen xanh, đỏ khéo trang hoàng,
    Cùng các tràng hoa, hương tỏa lan
    Ðệ nhất chiên-đàn thơm sực nức,
    Sẵn sàng tuân lệnh, đẹp lòng chàng,
    Trên xe, đang đứng, hai tay chắp,
    Hộ tống chàng, tiên nữ cả đàn.
  17. Các món trang hoàng trên cổ vai,
    Tay, chân, đầu tóc lẫn đôi tai,
    Làm mười phương thảy đều bừng sáng,
    Như nắng mùa thu chiếu rạng ngời.
  18. Lay động theo làn gió nhẹ nhàng,
    Vòng hoa tay với các kim hoàn
    Phát ra âm hưởng toàn trong trẻo,
    Thánh thót làm mê mẩn các nàng,
    Ðối với mọi người nào hiểu biết,
    Tiếng này êm dịu nhất trần gian.
  19. Trong vườn Thiên lạc cả hai bên,
    Xa, tượng, và dàn nhạc trổi lên,
    Khiến chàng hoan hỷ, này tiên chúa,
    Như phiếm đàn tơ với lục huyền.
  20. Trong khi đang trổi các huyền cầm,
    Mỹ lệ, dáng đàn đẹp mắt trông,
    Khơi dậy trong lòng bao hỷ lạc,
    Các tiên nữ khéo luyện tinh thông,
    Ðứng trên các đóa hoa sen nở,
    Lã lướt tự nhiên, múa lượn vòng.
  21. Và khi vũ điệu đã hòa đàn,
    Cùng được diễn bày, ca hát vang
    Ðây đó trong xe chàng, hội chúng
    Các nàng tiên nữ thật huy hoàng,
    Làm mười phương thảy đều bừng sáng,
    Cùng múa hai bên thật nhịp nhàng.
  22. Chàng hưởng lạc theo nhạc cả dàn,
    Khác nào Thiên chủ đại vinh quang
    Tay cầm bảo trượng thiên lôi ấy,
    Lòng rộn niềm vui với tiếng đàn.
  23. Thiện nghiệp gì chàng đã thực hành
    Ở trong kiếp trước giữa quần sanh,
    Phải chàng giữ giới hay hoan hỷ
    Sống chánh chân, tu tập pháp lành?
  24. Cảnh này vinh hiển đại oai thần,
    Chàng vượt xa Thiên chúng bội phần,
    Không thể phát sinh từ việc nhỏ,
    Hoặc do Trai giới giữ tinh cần.
  25. Hay quả này do việc cúng dường,
    Hay do giữ giới luật thông thường,
    Hoặc do đảnh lễ đầy cung kính?
    Ðược hỏi, xin cho biết hỡi chàng!

Vị Thiên tử giải thích vấn đề khi được Ðại Trưởng lão hỏi:

  1. Chàng Thiên tử ấy kỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho chàng:
  2. Ðiều phục các căn, đức Phật-đà,
    Viên thành trí lực, Kas-sa-pa,
    Là người vô thượng trên nhân giới,
    Cửa Bất tử Ngài đã mở ra,
    Thiên đế tối cao trên thượng giới,
    Mang trăm tướng phước đức sâu xa.
  3. Con thấy Ngài, vương tượng đại hùng,
    Như vòng vàng ánh, vượt qua dòng,
    Thấy Ngài, tâm trí con an tịnh,
    Ngài, vị thiện ngôn thật lẫy lừng.
  4. An tịnh, con đi trải tọa sàng
    Ðầy hoa được rải rắc trang hoàng,
    Dâng Ngài đủ các thức ăn uống,
    Y phục tối ưu để cúng dường.
  5. Sau khi con đã cúng dường xong
    Ngài, bậc tối cao giữa thế nhân,
    Y phục, tọa sàng và thực phẩm,
    Loại mềm, loại cứng đủ cần dùng,
    Con an hưởng tại thành thiên giới,
    Giữa các cõi thiên mãi chuyển luân.
  6. Khi đã dâng lên lễ cúng Ngài
    Dồi dào phẩm vật cách như vầy,
    Ba lần thanh tịnh, con từ bỏ
    Thể xác phàm trần tại chỗ đây,
    Con hưởng an vui thiên lạc phố
    Khác nào Thiên chủ In-da này.
  7. Thọ mạng, dung nhan, lạc, tráng cường,
    Kẻ nào mong muốn tối cao sang,
    Hãy đem thực phẩm đầy thanh tịnh
    Dâng cúng lên người trí tịnh an.
  8. Chẳng phải đời này hoặc kiếp sau,
    Có ai bằng Phật hoặc hơn đâu,
    Với người mong quả nhờ công đức,
    Ngài trở thành hình tượng tối cao
    Giữa những bậc hiền nhân xứng đáng
    Với lời nguyện ước đạt mong cầu.

Trong khi chàng nói như vậy, Trưởng lão biết tâm trí chàng đã sẵn sàng không có gì trở ngại, liền thuyết giảng các Thánh Ðế và vào lúc kết thúc, Tôn giả an trú chàng vào quả Dự Lưu.

Sau đó, khi trở về cõi người, Trưởng lão trình đức Thế Tôn câu chuyện giữa Tôn giả và Thiên tử kia. Bậc Ðạo Sư lấy đề tài ấy làm cơ hội thuyết pháp cho hội chúng đang có mặt lúc bấy giờ.

Tổng Kết

Lâu đài Con nhái, Revatì, Con cua,
Người giữ cửa, Hai Công đức thù thắng,
Hai cây kim, Ba con voi, và Hai cỗ xe,

Phẩm Lâu đài Nam giới được biết qua các chuyện này.

Phẩm VI – Pàyasi

  1. (65) Chuyện thứ nhất – Lâu Ðài Gia Chủ (Agàriya-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Ràjagaha, trong Trúc Lâm. Thời ấy có một gia đình giàu sang đạo đức, một nguồn tài lợi dồi dào cho Tăng chúng và Ni chúng. Hai vị cha mẹ suốt thời thực hành công đức nhân danh Tam Bảo, lúc từ trần được tái sanh lên cõi trời Ba mươi ba. Một lâu đài bằng vàng dài mười dặm được dành riêng cho hai vị.

Tôn giả Mahà Moggallàna hỏi như vầy:

  1. Sáng rực như vườn lạc Cit-ta,
    Khu vườn đệ nhất cõi Băm-ba
    Lâu đài đây của chàng bừng sáng
    Ở giữa không gian thực chói lòa
  2. Ðạt thành thần lực đại hùng cường,
    Chàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
  3. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho chàng:
  4. Con cùng hiền phụ giữa phàm trần,
    Sống tại gia, làm lợi chúng Tăng,
    Thực phẩm dồi dào đem cống hiến
    Với tâm thành tín tự tay dâng.
  5. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ,
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.

6.Xin trình Tôn giả đại oai thần
Công đức con làm giữa thế nhân
Nhờ đó oai nghi con rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?

  1. (66) Chuyện thứ hai – Lâu Ðài Gia Chủ Thứ Hai (Dutiya-Agàriya-Vimàna)

Giống như chuyện trên về mọi mặt.

  1. (67) Chuyện thứ ba – Lâu Ðài Của Người Cúng Trái Cây (Phaladàya-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Ràjagaha trong Trúc Lâm. Thời ấy vua Bimbisàra muốn ăn xoài trái mùa. Dù khó khăn, người làm vườn cũng hứa sẽ nỗ lực làm cho cây có trái theo phương pháp cưỡng bách.

Khi bốn trái xoài đã chín, kẻ ấy hái đem dâng vua. Nhưng vừa chợt thấy Tôn giả Mahà-Moggallàna, y suy nghĩ: ‘Ta muốn dâng xoài cúng vị Tôn giả cao quý này và sẵn sàng để đức vua giết chết hay trừng phạt ta, vì lợi lạc tại đời này do phụng sự vua thật không đáng kể, nhưng công đức đời này và đời sau do việc cúng dường vị Tôn giả xứng đáng này thật là vô lượng’.

Vì thế y đem xoài cúng dường Tôn giả và trình việc ấy lên nhà vua. Vua truyền đám hầu cận vào phán:

– Hãy xem kỹ có phải kẻ ấy đã nói đúng với trẫm chăng.

Vị trưởng lão đem xoài dâng đức Thế Tôn, Ngài chia đều cho các Trưởng lão Sàriputta, Mahà Moggallàna, và Mahà-Kassapa. Nhà vua nghe vậy rất hài lòng vì sự can đảm của người làm vườn, liền ban cho y một ngôi làng, y phục, tư trang, và bảo y san sẻ công đức ấy cho vua. Y đáp:

– Tâu Ðại vương, hạ thần xin san sẻ. Xin Ðại vương hãy chọn lợi lạc gì tùy ý.

Khi từ trần, người làm vườn được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài bằng vàng rộng dài mười sáu dặm.

Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi vị Thiên tử:

  1. Lầu các trụ cao bằng ngọc bích,
    Rộng dài mười sáu dặm chung quanh,
    Bảy trăm nóc nhọn huy hoàng quá,
    Trụ ngọc nền vàng thật hiển vinh.
  2. Chàng uống ăn cư trú lạc an,
    Khi đàn tiên trổi khúc du dương,
    Sáu tư tiên nữ tài sắc đủ,
    Những vị đồng cư trú ngọc đường.
    Ở cõi Ba mươi ba rực rỡ,
    Múa ca, hưởng lạc thú khôn lường.
  3. Ðạt thành thần lực đại hùng cường,
    Chàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang sáng chói khắp mười phương?
  4. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả do chàng:
  5. Cúng dường quả được quả tràn đầy,
    Ai tín tâm dâng các vị này
    Ðang sống cuộc đời đầy chánh hạnh,
    Khi lên Ðao-lợi hưởng như vầy,
    Ðược nhiều thành quả công to lớn,
    Vì thế con dâng bốn quả cây.
  6. Vậy ai tìm hạnh phúc, bình an,
    Trường cửu, nên đem quả cúng dường,
    Dù ước đạt thành Thiên giới lạc,
    Hay là lạc thú cõi nhân gian.
  7. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ,
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  8. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đó oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.

 4. (68) Chuyện thứ tư – Lâu Ðài Của Ngừơi Cúng Chỗ Cư Trú (Upassayadàyaka-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn đang trú tại Ràjagaha ở Trúc Lâm. Thời ấy một Tỷ-kheo, sau mùa mưa, lên đường đến yết kiến Thế Tôn, vào một làng nọ tìm chỗ cư trú thích hợp qua đêm. Vị ấy hỏi một cư sĩ tại gia, người này bàn chuyện với vợ xong, liền mời vị Tỷ-kheo làm khách trọ, và hôm sau khi khách lại khởi hành, chủ nhà đem tặng một cục đường mía.

Về sau lúc từ trần, vị cư sĩ tái sanh cùng vợ trên cõi trời Ba mươi ba trong một lâu đài bằng vàng mười hai dặm.

Tôn giả Mahà Moggallàna hỏi vị ấy:

  1. Như mặt trăng đi giữa đỉnh đầu,
    Khi mây tan biến, chiếu toàn cầu,
    Lâu đài chàng đứng trên thiên giới,
    Tỏa ánh sáng ngời đẹp biết bao.
  2. Ðạt thành thần lực đại hùng cường,
    Chàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
  3. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho chàng:
  4. Con cùng hiền phụ ở phàm trần
    Thỉnh bậc A-la-hán trú chân,
    Với tấm lòng thành, con cống hiến
    Dồi dào thực phẩm tự tay dâng.
  5. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  6. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đó oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.

5. (69) Chuyện thứ năm – Lâu Ðài Của Người Cúng Chỗ Cư Trú Thứ Hai (Dutiya-Upassayadàyaka-Vimàna)

Chuyện này giống hệt chuyện trước, trừ điểm ở đây có nhiều Tỷ-kheo, và Tôn giả Mahà-Moggallàna ví Lâu đài với mặt trời.

  1. (70) Chuyện thứ sáu – Lâu Ðài Của Người Cúng Món Khất Thực (Bhikkhàdàyaka-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Ràjagaha. Thời ấy một Tỷ-kheo đang đi trên đường cái vào làng nọ khất thực và dừng ở cửa nhà kia. Vị chủ nhà vừa rửa tay chân và ngồi xuống để ăn, liền đổ hết phần cơm mình vào bát vị Tỷ-kheo; sau khi nói lời tùy hỷ công đức, vị ấy ra đi. Chủ nhà hân hoan suy nghĩ: ‘Ta đã cúng dường một Tỷ-kheo đang đói và ta đã nhịn ăn”. Sau đó từ trần, vị ấy được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài bằng vàng mười hai dặm.

Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi vị ấy:

  1. Lầu các trụ cao bằng ngọc bích,
    Mưòi hai dặm trải rộng chung quanh,
    Bảy trăm nóc nhọn huy hoàng quá,
    Trụ ngọc nền vàng thật hiển vinh.
  2. Ðạt thành thần lực đại hùng cường,
    Chàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.
  3. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho chàng.
  4. Khi làm người giữa cõi phàm nhân,
    Thấy một Tỷ-kheo mệt đói cơm,
    Con đã cúng dường ngài thực phẩm,
    Món ăn duy nhất đủ toàn phần.
  5. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ,
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  6. Xin trình Tôn giả đại oai thần,
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương.

7. (71) Chuyện thứ bảy – Lâu Ðài Của Người Giữ Lúa Mạch (Yavapàlaka-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Ràjagaha, trong Trúc Lâm. Thời ấy một cậu bé nghèo giữ ruộng lúa mạch đã đem bánh Kummàsa để ăn sáng. Khi cậu ngồi xuống ăn, một vị Trưởng lão vô lậu bước đến chỗ ấy. Cậu hỏi:

– Thưa Tôn giả đã thọ thực chưa?

Vị Trưởng lão im lặng. Cậu bé hiểu điều này có nghĩa là ‘chưa’ liền nói:

– Thưa Tôn giả, bây giờ đã quá trễ nên không thể tìm ra món ăn gần giờ ngọ trai như vầy. Xin Tôn giả dùng miếng bánh Kummàsa này vì lòng thương xót con.

Vị Trưởng lão vì từ bi đối với cậu đã dùng miếng bánh trong khi cậu đứng nhìn, rồi nói lời tùy hỷ và ra đi. Với tâm đầy thành tín, cậu bé nghĩ mình đã làm việc tốt khi cúng dường một người như thế.

Về sau, khi từ trần, cậu được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài như đã tả ở trên. Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi cậu:

  1. Lầu các trụ cao bằng ngọc bích,
    Mười hai dặm trải rộng chung quanh,
    Bảy trăm nóc nhọn huy hoàng quá,
    Trụ ngọc nền vàng thật hiển vinh.
  2. Ðạt thành thần lực đại hùng cưòng,
    Chàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.
  3. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho chàng:
  4. Khi làm người giữa cõi phàn nhân,
    Giữ lúa mạch trong đám ruộng đồng,
    Con thấy Tỷ-kheo vô lậu hoặc,
    An nhiên tâm trí, chẳng mê lầm.
  5. Với ngài, con có tấm lòng thành,
    Con tự tay dâng bánh của mình,
    Cúng bánh Kum-mà-sa thuở ấy,
    Nay vui vườn Hỷ lạc thiên đình.
  6. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  7. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức ơn làm giữa thế nhân,
    Nhờ thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.
  8. (72) Chuyện thứ tám – Lâu Ðài Của Vị Thiên Tử Ðeo Vòng Tai (Kundalì-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Kỳ Viên. Thời ấy, hai vị Ðại đệ tử cùng hội chúng du hành giữa dân chúng Kàsi vừa đến một tinh xá kia lúc trời tối.

Một đệ tử tại gia liền đến rửa chân chư vị và xoa dầu thơm cho chư vị, rồi thỉnh chư vị thọ thực hôm sau. Vị ấy chuẩn bị một buổi cúng dường thịnh soạn. Sau khi nói lời tùy hỷ công đức, chư Trưởng lão lại lên đường. Còn vị ấy về sau từ trần, được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài bằng vàng dài mười hai dặm.

Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi vị ấy:

  1. Y phục chỉnh tề, hoa chuỗi mang,
    Ðôi vòng tai rực rỡ trang hoàng,
    Tóc râu chải chuốt, khăn đầu đội,
    Chàng ngự Lâu đài, giống mặt trăng.
  2. Khi đàn tiên trổi khúc du dương,
    Sáu bốn nàng tài sắc vẹn toàn
    Ðồng trú cõi Băm-ba, rực rỡ,
    Múa ca, hưởng lạc thú, khôn lường.
  3. Ðạt thành Thiên lực đại hùng cường,
    Chàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
  4. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho chàng:
  5. Khi được làm người giữa thế nhân,
    Gặp nhiều ngài đức độ Sa-môn
    Có đầy chánh hạnh và tri kiến,
    Ái diệt, đa văn, tiếng lẫy lừng.
  6. Với các ngài, con có tín tâm,
    Cúng dường thức uống lẫn đồ ăn,
    Với lòng thành tín, con dâng tặng
    Mọi lễ vật phong phú trọn phần.
  7. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  8. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.
  9. (73) Chuyện thứ chín – Lâu Ðài Của Vị Thiên Tử Thứ Hai Ðeo Vòng Tai (Dutiyakùdalì – Vimàna)

Chuyện này xảy ra giống như chuyện trên. Các vấn đề cũng giống nhau, từ câu kệ 5, thay: Thấy nhiều ngài đức độ Sa-môn,

bằng: Thấy nhiều ngài hảo tướng Sa-môn.

  1. (74) Chuyện thứ mười – Lâu Ðài Của Uttara (Uttara-Vimàna)

Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, và Hội đồng kết tập Kinh điển tiến hành, Tôn giả Kummàra-Kassapa (Cưu-ma-la Ca-diếp) đã đến thành phố Setavyà với nhiều Tỷ-kheo và trú tại vườn Simsapà. Lúc ấy quốc vương Pàyàsi (Tệ Túc) nghe tin này, liền viếng thăm và chào mừng Tôn giả. Trong khi bàn luận về các quan điểm tà kiến của vua, vị Trưởng lão thuyết giảng cho vua tin có đời sau như được kể trong kinh Pàyàsi (Trường Bộ số 23).

Khi từ giã, vua Pàyàsi đem các tặng vật cúng dường. Nhưng vì vua tặng thực phẩm kém cỏi và y phục thô sơ không thích hợp, vốn chưa quen việc ấy trước kia, sau khi từ trần, vua cộng trú với Thiên chúng ở cõi thấp cùng Tứ Ðại Thiên vương.

Còn thanh niên Bà-la-môn Uttara phụ tá vua trong việc cúng dường, lại bố thí hào phóng và đầy lòng kính trọng, nên tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài mười hai dặm. Ðể tỏ lòng biết ơn, vị ấy xuất hiện cùng Lâu đài trước Trưởng lão Kummàra Kassapa và đảnh lễ Tôn giả. Trưởng lão hỏi vị ấy:

  1. Như điện Thiên vương, Thiện pháp đường,
    Nơi chư Thiên cộng trú bình an,
    Lâu đài này của chàng Thiên tử
    Ðứng giữa không gian, sáng rỡ ràng.
  2. Ðạt thành thiên lực đại hùng cường,
    Chàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
  3. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho chàng:
  4. Khi được làm người giữa thế gian,
    Con là nam tử Bà-la-môn,
    Thời vua Tệ Túc, con phân phát
    Tài sản, vì tôn quý chánh nhân.
  5. Với các ngài, con có tín tâm,
    Cúng dường thức uống lẫn đồ ăn,
    Với lòng thành kính, con dâng tặng
    Mọi lễ vật phong phú trọn phần.
  6. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ,
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  7. Xin trình Tôn giả đại oai thần,
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.

Tổng Kết

Lâu Ðài Hai Gia Chủ, Người Cúng Trái Cây, Hai Người Cúng Chỗ Cư Trú, Người Giữ Ruộng Lúa Mạch, Hai Vị Thiên Tử Ðeo Vòng Tai, Vua Pàyàsi (Tệ Túc)

Phẩm VII – Sunikkhitta

  1. (75) Chuyện thứ nhất – Lâu Ðài Cittalatà (Cittalatà-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi, trong Kỳ Viên. Thuở ấy có một đệ tử tại gia nghèo khó sống nhờ làm công cho người khác. Vị ấy có lòng mộ đạo và phụng dưỡng song thân già yếu của mình, vì vị ấy nghĩ: ‘Ðàn bà ở trong nhà thường nắm quyền cai quản. Họ ít khi quý trọng cha mẹ chồng’.

Như vậy vị ấy tiếp tục giữ giới luật và các ngày trai giới Bố-tát. Sau khi từ trần, vị ấy được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài mười hai dặm.

Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành như đã tả ở trên, hỏi vị ấy:

  1. Sáng rực như vườn lạc Cit-ta,
    Khu vườn đệ nhất cõi Băm-ba,
    Lâu đài đây của chàng bừng sáng
    Ở giữa không gian thực chói lòa.
  2. Ðạt thành thần lực đại hùng cường,
    Chàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
  3. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðức Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho chàng:
  4. Khi được làm người giữa thế nhân,
    Con là thợ khốn khổ, cùng bần,
    Con thường cấp dưỡng hai thân lão,
    Ngưỡng mộ người cao quý chánh chân.
  5. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  6. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.

2. (76) Chuyện thứ hai – Lâu Ðài Nandana (Nandana-Vimàna)

Cũng giống như chuyện trước, trừ điểm ở đây: Người thợ nghèo đã có vợ và câu kệ đầu đổi là: Sáng rực như vườn Nan-da-na,…

  1. (77) Chuyện thứ ba – Lâu Ðài Có Trụ Ngọc Bích (Manithùna-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi, trong Kỳ Viên. Thời ấy có nhiều Trưởng lão sống trong rừng. Ðể chư vị có thể vào làng khất thực, một đệ tử tại gia làm cho các đường mòn được bằng phẳng, dọn sạch các bụi cây, bắc cầu qua suối, đắp bờ và dẫn nước vào các ao lớn v.v.. cùng bố thí và giữ Ngũ giới. Về sau từ trần, vị ấy được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài bằng vàng mười hai dặm.

Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi vị ấy như sau:

  1. Lầu các trụ cao bằng ngọc bích
    Mười hai dặm trải rộng chung quanh,
    Bảy trăm nóc nhọn huy hoàng quá,
    Trụ ngọc nền vàng thật hiển vinh.
  2. Chàng uống ăn, cư trú lạc an,
    Khi đàn tiên trổi khúc du dương,
    Ðây là thiên vị, năm thiên lạc,
    Thiên nữ múa, trang điểm ngọc vàng.
  3. Vì sao chàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì chàng vinh hiển đây,
    Những lực thú nào chàng mến chuộng,
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  4. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho chàng:
  5. Khi được làm người giữa thế nhân,
    Con xây đường nhỏ ở trong rừng,
    Và trồng cây lớn trong tinh xá,
    Kính mến người đức hạnh chánh chân.
  6. Với các ngài, con có tín tâm,
    Cúng dường thức uống lẫn đồ ăn,
    Với lòng thành kính con dâng tặng
    Mọi lễ vật phong phú trọn phần.
  7. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  8. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. 

4. (78) Câu chuyện thứ tư – Lâu Ðài Bằng Vàng (Suvanna-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Andhakavinda. Thời ấy một đệ tử giàu có và mộ đạo xây cúng dường Ngài một ‘hương thất’ trên một đồi trọc, thỉnh Ngài đến ở đó và phụng sự Ngài. Sau một thời gian sống chế ngự với giới luật thanh tịnh, lúc từ trần, vị ấy được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài ngọc bích tuyệt đẹp với mái bằng vàng.

Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi vị ấy:

  1. Ở trên một ngọn núi vàng ròng,
    Lâu đài rực sáng chiếu quanh vùng,
    Tấm màn lưới dệt vàng bao phủ,
    Và lưới chuông rung nhẹ thật trong.

2-3. Trụ tám cạnh tinh xảo thập phần,
Xây bằng cẩm thạch cả toàn thân,
Bảy châu báu tạo thành từng cạnh,
Vàng, bạc, lưu ly với ngọc trân,
Lại dát ngọc mắt mèo mã não,
Ngọc trai, và ngọc sắc hồng vân.

  1. Nền màu rực rỡ, đẹp mắt sao,
    Không chút bụi lay động dính vào,
    Ðược các kèo vàng hoàng ngọc cẩn
    Cùng nâng cả mái điện lên cao.

5-6. Và bốn cầu thang dựng bốn phưong,
Các cung ngọc sáng tựa vầng dương,
Bốn hành lang được xây cân xứng,
Chiếu khắp bốn phương thật rỡ ràng.

  1. Trong cung này tráng lệ huy hoàng,
    Chàng chính là Thiên tử đại quang,
    Với sắc siêu phàm, chàng chiếu sáng,
    Trông chàng chẳng khác ánh chiêu dương.
  2. Kết quả này do việc cúng dường,
    Hoặc do giữ giới luật thông thường,
    Hoặc do đảnh lễ đầy cung kính?
    Ðược hỏi, xin cho biết hỡi chàng.
  3. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho chàng:
  4. Kiếp xưa con ở An-dha-ka,
    Con có lòng tin bậc Ðạo Sư,
    Thân tộc mặt trời, là đức Phật,
    Con xây tinh xá ở đồi xa.
  5. Tại đó, con đầy đủ tín tâm,
    Vòng hoa, hương liệu, thứ gì cần,
    Dầu thoa các loại và tinh xá,
    Con thỉnh Ðạo Sư đến cúng dâng.
  6. Vì thế nay con hưởng phước phần:
    Ở vườn Hỷ lạc, chủ Thiên cung;
    Trong vườn Hỷ lạc đầy kỳ thú,
    Nơi lắm đàn chim đến trú chân,
    Con được các nàng tiên hộ tống,
    Múa ca, đem lạc thú vô ngần. 

5. (79) Chuyện thứ năm – Lâu Ðài Vườn Xoài (Amba-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Ràjagaha, trong Trúc Lâm. Thời ấy có một người nghèo được thuê giữ vườn xoài. Một hôm về mùa nắng gắt, vị ấy thấy Tôn giả Sàriputta đến gần, mệt nhoài vì cơn nóng, liền thưa:

– Bạch Tôn giả, ngài có vẻ quá mệt nhọc vì trời nóng. Lành thay, nếu Tôn giả có lòng thương xót con, xin hãy bước vào vườn xoài nghỉ ngơi chốc lát.

Trưởng lão chấp thuận, ngồi xuống gốc cây xoài, người ấy liền đem cúng dường Tôn giả nước uống và nước rửa tay chân, sau đó lòng đầy hoan hỷ vì công đức đã tạo được.

Sau khi từ trần, vị ấy được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba, và Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi vị ấy:

  1. Lầu các trụ cao bằng ngọc bích,
    Mười hai dặm trải rộng chung quanh,
    Bảy trăm nóc nhọn huy hoàng quá,
    Trụ ngọc nền vàng thật hiển vinh.
  2. Chàng uống ăn, cư trú lạc an,
    Khi đàn tiên trổi khúc du dương,
    Ðây là thiện vị, năm thiên lạc,
    Tiên nữ múa, trang điểm ngọc vàng.
  3. Vì đâu chàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì chàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào chàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  4. Hỡi chàng Thiên tử đại oai thần,
    Chàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
  5. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây, là kết quả cho chàng:
  6. Vào tháng cuối mùa hạ nóng rang,
    Mặt trời thiêu đốt, nắng chang chang,
    Con làm thuê mướn cho người khác,
    Tưới nước vườn xoài của chủ nhân.
  7. Thế rồi lúc ấy vị Hiền Tăng,
    Xá-lợi-phất, danh tiếng lẫy lừng,
    Thể xác của ngài đều mệt mỏi,
    Nhưng không mỏi mệt cái tinh thần.
  8. Con đang tưới nước các cây xoài,
    Nhìn thấy ngài, con vội đến mời:
    ‘Tôn giả, con dâng ngài nước tắm,
    Lành thay, an lạc sẽ lâu dài!’
  9. Tôn giả vì lòng thương xót ai,
    Ðặt bình bát xuống tấm y ngoài,
    Mang y độc nhất, ngài ngồi xuống
    Trong bóng mát ngay dưới gốc xoài.
  10. Với lòng thành tín bậc cao Tăng
    Con tắm rửa ngài với nước trong,
    Mang chiếc y vàng, ngài tỉnh tọa
    Dưới bóng gốc xoài đang trải dăng.
  11. Vườn xoài được tưới nước tươi xanh,
    Tôn giả được con tắm mát lành,
    Công đức này con làm chẳng nhỏ,
    Hân hoan ngài biến mãn thân mình.
  12. Ðây là mức độ việc an lành
    Trong kiếp trước con đã thực hành,
    Khi được thoát thân người thế tục,
    Con lên vườn Hỷ lạc thiên đình.
  13. Nan-da-na, Hỷ lạc Viên này,
    Nơi lắm chim muông đến cả bầy,
    Con được các nàng tiên hộ tống,
    Cùng nhau ca múa thật vui thay. 

6. (80) Chuyện thứ sáu – Lâu Ðài Của Người Chăn Bò (Gopàla-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Ràjagaha, trong Trúc Lâm. Lúc ấy một người chăn bò đã rời Ràjagaha để đưa bò đi ăn cỏ ngoài đồng và thấy Tôn giả Mahà-Moggallàna đang tiến bước. Tôn giả nhận thấy kẻ kia sắp mạng chung, liền đi đến gần bên cạnh y. Do dự, y không biết có nên mời Trưởng lão món bánh ngọt Kummàsa mà y đã đem theo, hay giữ cho đàn bò khỏi vào các vườn đậu.

Khi đã quyết định không thể bỏ lỡ cơ hội tốt, dù các chủ vườn có thể làm gì đi nữa, y cúng dường phần ăn của mình và Trưởng lão đã chấp nhận vì lòng từ mẫn. Sau đó người chăn bò vội vàng đi giữa đàn bò, vô ý đạp giẫm một con rắn và bị nó cắn ở chân.

Lòng tràn ngập hân hoan hạnh phúc khi nhìn thấy Trưởng lão thọ thực, người ấy bị nọc rắn xâm nhập quá mạnh và từ trần, được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài mười hai dặm.

Tôn giả Mahà-Moggallàna thấy chàng, liền hỏi:

  1. Tỷ-kheo thấy một vị Thiên nam
    Tô điểm vòng hoa, thật vẻ vang,
    Trong một Lâu đài cao, vĩnh cửu,
    Trông chàng như dáng vị thần trăng,
    Ở trong cung điện trên thiên giới,
    Tôn giả bèn lên tiếng hỏi chàng:
  2. Lộng lẫy xiêm y, hoa chuỗi mang,
    Ðôi vòng tai rực rỡ trang hoàng,
    Tóc râu chải chuốt, khăn đầu đội,
    Sáng chói, trong cung tựa Quảng Hàn.
  3. Khi đàn tiên trổi khúc du dương,
    Sáu bốn nàng tài sắc vẹn toàn
    Ðồng trú cõi Băm ba, rực rỡ,
    Múa ca, hưởng lạc thú khôn lường.
  4. Ðạt thành thiên lực, đại hùng cường,
    Chàng tạo đức gì giữa thế nhân?
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang sáng chói khắp mười phương?
  5. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây, là kết quả cho chàng:
  6. Khi được làm người giữa thế nhân,
    Con chăn bò kẻ khác chuyên cần,
    Giữ đàn bò khỏi ăn vườn đậu,
    Thì một Sa-môn bước đến gần.
  7. ‘Nay hai phận sự phải hoàn thành’,
    Tôn giả, con suy nghĩ thật nhanh,
    Xem xét kỹ càng và hiểu pháp,
    Con dâng ngài bánh với tay mình.
  8. Con chạy ra vườn đậu lẹ làng,
    Trước khi bò dẫm đất tha nhân,
    Nhưng rồi rắn hổ mang đen lớn
    Cắn phải chân con lúc vội vàng.
  9. Tuyệt vọng, con đau đớn tận cùng,
    Sa-môn mở gói bánh ra ăn,
    Vì lòng bi mẫn cho con đó,
    Con được sanh thiên lúc mạng chung.
  10. Con đã làm nên thiện nghiệp vầy,
    Và đang hưởng phước lạc nhờ đây,
    Chính ngài, Tôn giả, đầy bi mẫn,
    Con tạ thâm ân, đảnh lễ ngài.
  11. Trong cõi Thiên, ma, thế giới này,
    Chẳng ai bi, trí được như vầy,
    Ngài là Tôn giả đầy bi mẫn,
    Con tạ ơn sâu, đảnh lễ ngài.
  12. Trong cõi đời này hoặc kiếp sau,
    Chẳng ai bi, trí sánh bằng đâu,
    Chính ngài, Tôn giả, đầy bi mẫn,
    Con tạ thâm ân, đến khấu đầu. 

7. (81) Chuyện thứ bảy – Lâu Ðài Của Kanthaka (Ngựa Kiền-trắc) (Kanthaka-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi trong Kỳ Viên. Thời ấy khi Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành lên thiên giới, một vị Thiên tử tên Kanthaka bước ra khỏi Lâu đài của chàng, đang lên xe đến vườn Thượng uyển với cả đoàn tùy tùng đông đảo trong oai nghi đầy thiên lực.

Khi thấy Tôn giả, vị Thiên vội xuống xe và đảnh lễ Tôn giả. Vị Trưởng lão hỏi chàng:

1-2. Như trăng rằm, chúa tể muôn sao,
Tinh tú vây quanh tựa đứng chầu,
Mặt nguyệt xoay vần hình thỏ ngọc,
Lâu đài Thiên tử sáng dường nào,
Nguy nga tráng lệ trên thiên giới,
Như mặt trời lên giữa cõi cao.

3-4. Ngọc bích, lưu ly, mã não, vàng,
Ngọc trai, hồng ngọc, bạc trang hoàng,
Nền màu rực rỡ đầy kỳ thú,
Ngọc bích dát trên khắp mặt sàng,
Trùng các nóc cao vời tuyệt mỹ,
Cung điện chàng xây dựng vẻ vang.

  1. Chàng có hồ sen tạo mỹ quan,
    Cá Pu-thu lội nước tung tăng,
    Nước hồ lấp lánh và trong vắt,
    Bờ được viền quanh với cát vàng.
  2. Mặt hồ bao phủ các hoa sen,
    Hoa súng lan tràn khắp phía trên
    Làm đắm say lòng, cơn gió thoảng
    Tỏa làn hương tuyệt diệu quanh miền.

7-8. Ðôi bờ có đủ các cây rừng
Kết trái đơm hoa thật khéo trồng,
Khi chàng an tọa như Thiên chủ,
Tràng kỷ chân vàng, lót thảm lông.

  1. Tiên nữ hầu chàng khéo điểm trang,
    Vòng hoa đủ loại, với kim hoàn,
    Làm chàng thích thú, chàng an hưởng
    Ðại lực thần như đấng Ngọc hoàng.
  2. Tù và, kèn, trống với huyền cầm,
    Trống lớn, trong con đánh bập bùng,
    Thiên tử hưởng tràn đầy lạc thú,
    Khi đàn, ca, vũ nhạc vang lừng.
  3. Này đây thiên sắc với thiên thanh,
    Thiên vị, thiên hương đẹp ý mình,
    Thiên xúc mượt mà, êm dịu quá,
    Thật là vạn trạng với thiên hình.
  4. Trong cung này rực rỡ huy hoàng,
    Chàng chính là Thiên tử đại quang,
    Với sắc siêu phàm chàng chiếu sáng,
    Trông chàng chẳng khác ánh chiêu dương.
  5. Kết quả này do việc cúng dường,
    Hoặc do giữ giới luật thông thường,
    Hoặc do đảnh lễ đầy cung kính?
    Ðược hỏi, xin cho biết hỡi chàng.
  6. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho chàng:
  7. Trong chốn kinh thành tuyệt diệu xưa,
    Ca-tỳ-la-vệ, tộc Thích-ca,
    Con là Kiền-trắc, cùng sinh nhật
    Với Thái tử là Sĩ-đạt-ta.
  8. Vào nửa đêm, vương tử xuất gia,
    Ði tìm Giác Ngộ, giã từ nhà,
    Với bàn tay dịu bao màn lưới,
    Các móng đồng thau chiếu sáng lòa.
  9. Ngài bảo con, vừa vỗ mạn sườn:
    ‘Hãy mang ta, hỡi bạn thân thương,
    Khi nào giác ngộ đường Vô thượng,
    Ta sẽ giúp người khắp thế gian’.
  10. Khi được nghe lời nói của Ngài,
    Lòng con rộn rã vạn niềm vui,
    Với tâm phấn khởi đầy hoan hỷ
    Tuân lệnh trên, con vội hý dài.
  11. Khi biết hoàng nam Tịnh Phạn vương,
    Ðại danh lừng lẫy, cỡi lưng con,
    Với tâm phấn khởi đầy hoan hỷ
    Con rước người vô thượng chí tôn.
  12. Vượt qua đất nước của người ta,
    Khi mặt trời lên đã quá xa,
    Ngài bước đi, lòng không luyến tiếc,
    Bỏ con cùng với chú Chan-na.
  13. Con liếm chân Ngài với lưỡi con,
    Chân Ngài có các móng màu đồng,
    Và con kêu khóc nhìn theo mãi,
    Khi thấy Ngài đi, bậc Ðại Hùng.
  14. Vì không còn thấy bóng huy hoàng
    Của Thái tử, con Tịnh Phạn vương,
    Con ngã quỵ ngay, lâm trọng bệnh,
    Và nhanh chóng giã biệt trần gian.
  15. Chính nhờ Ngài có đại oai thần
    Ở tại thiên cung con trú thân,
    Thành phố chư Thiên này có đủ
    Biết bao niềm lạc thú vô ngần.
  16. Khi nghe Ngài Giác Ngộ viên thành,
    Hỷ lạc trong lòng con khởi sanh,
    Do chính căn nguyên thuần thiện ấy
    Mà con sẽ tận diệt vô minh.
  17. Nếu như Tôn giả có đi ra,
    Và yết kiến Ngài, bậc Ðạo Sư,
    Tôn giả nói giùm con kính lễ
    Dưới chân đức Phật Go-ta-ma.
  18. Con sẽ hầu thăm bậc Ðại Hùng,
    Là người không có kẻ ngang bằng,
    Khó tìm thấy được người che chở
    Như đức Phật che chở cõi trần.
  19. Rồi chàng Thiên tử, dáng tri ân,
    Biết lợi lạc nên đã đến gần,
    Khi đã nghe lời Ngài có Mắt,
    Chàng thanh tịnh Pháp Nhãn ly trần.
  20. Tẩy sạch lòng nghi, đạt tín tâm,
    Phát nguyền tu tập vững tinh cần,
    Khấu đầu đảnh lễ chân sư phụ,
    Chàng biến mất ngay khỏi cõi trần.

8. (82) Chuyện thứ tám – Lâu Ðài Có Nhiều Mầu Sắc (Anekavanna-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Kỳ Viên. Tôn giả Mahà-Moggallàna đang du hành lên cõi trời Ba mươi ba và được một Thiên tử có nhiều màu sắc rực rỡ đến gần, đứng lại chắp tay đảnh lễ cung kính.

Trưởng lão hỏi chàng:

  1. Hiện lên lầu các đẹp muôn màu,
    Xua đuổi bao phiền não, khổ sầu,
    Rực rỡ huy hoàng, đoàn hộ tống
    Gồm bao tiên nữ đứng quanh hầu,
    Trông chàng, như một vì Thiên đế,
    Cõi Hóa Lạc thiên, thích thú sao!
  2. Chàng không có kẻ sánh ngang bằng,
    Không kẻ nào hơn danh vọng chàng,
    Hoặc phước đức hay là đại lực,
    Trong trời Ðao lợi, mọi Thiên thần
    Thảy đều kính lễ chàng như thể
    Thần cõi người cung kính mặt trăng.
  3. Các nàng tiên nữ ở hai bên
    Múa hát vui chơi thỏa ước nguyền,
    Chàng đã đắc thần thông biến hóa,
    Tràn đầy đại lực của chư Thiên.
  4. Kiếp xưa sinh ở chốn phàm trần,
    Chàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì có gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương?
  5. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho chàng:
  6. Tôn giả, con sinh một kiếp xưa,
    Môn đồ Thắng giả Su-me-dha,
    Con còn phàm tục, chưa thành đạo,
    Dù đã bảy năm sống xuất gia.
  7. Khi Thắng giả là bậc Ðạo Sư,
    Vượt qua dòng lũ, đắc vô dư,
    Con liền đảnh lễ bên ngôi Tháp,
    Bảo Tháp được châu ngọc điểm tô,
    Bao phủ lưới vàng ròng rực rỡ,
    Mang nhiều an lạc đến tâm tư.
  8. Con chẳng cúng dâng lễ vật nào,
    Song con khuyến khích các đồng bào:
    ‘Các người sẽ được lên thiên giới,
    Ðến bảo Tháp Ngài đảnh lễ mau,
    Ngài xứng đáng cho ta kính lễ,
    Người xưa vẫn nói vậy từ lâu’.
  9. Thiện sự này xưa con đã làm,
    Nay con hướng lạc thú thiên đàng,
    Hân hoan hội chúng trời Ðao lợi,
    Vì phước báo chưa đến lúc tàn. 

9. (83) Chuyện thứ chín – Lâu Ðài Của Vị Thiên Tử Ðeo Vòng Tai Sáng Chói (Mattakundalì-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Kỳ Viên. Có một Bà-la-môn sống tại đó rất giàu nhưng không có lòng tin vào đạo và không bao giờ bố thí cho ai vật gì cả, nên được đặt danh hiệu Người Không bao giờ Bố thí.

Ông lại thường dạy bảo con trai là Mattakundalin đừng đến gần đức Thế Tôn hay các đệ tử của Ngài. Chàng tuân lệnh. Khi chàng lâm bệnh, ông cha cũng không cung cấp thuốc thang gì cho đến khi chàng nguy kịch, các thầy thuốc được mời đến đều bảo bệnh đã vô phương cứu chữa.

Bấy giờ bậc Ðạo Sư vừa xuất định Ðại bi, thấy Ngài có thể cứu độ cả hai cha con, bèn đến gần nhà họ và phóng hào quang. Chàng trai rúng động toàn thân vì hoan hỷ, đảnh lễ Ngài và nằm xuống.

Ngay sau khi đức Thế Tôn ra đi, chàng từ trần và được tái sanh vào một Lâu đài mười hai dặm trong hội chúng cõi trời Ba mươi ba. Ngày hôm sau tang lễ, ông cha ra nghĩa địa vừa khóc than vừa gọi tên con.

Chàng Thiên tử thấy ông cha, liền xuất hiện trước mặt ông như chàng Mattakundalin đang khóc với hai tay chắp lại vì đau buồn, vừa kêu: ‘Ôi mặt trăng! Ôi mặt trời!’.

Vị Bà-la-môn liền hỏi:

  1. Mang chuỗi hoa, vòng tai điểm trang,
    Làn da tẩm phấn bột chiên-đàn,
    Chàng than khóc với đôi tay chắp,
    Sầu khổ vì sao ở giữa rừng?
    Chàng Thiên tử đáp lại ông:
  2. Bằng vàng đúc, sáng rực huy hoàng,
    Xuất hiện ngày xưa xe của con,
    Ðôi bánh xe này con chẳng thấy,
    Do buồn khổ ấy, muốn lìa trần.
    Vị Bà-la-môn lại nói với chàng:
  3. Ðúc bằng hồng ngọc, bạc, hay vàng,
    Hãy nói cho ta biết rõ ràng,
    Nam tử Bà-la-môn quý mến,
    Ta đi tìm cặp bánh cho chàng.

Thanh niên Bà-la-môn ấy muốn hạ lòng tự cao của vị Bà-la-môn đã không mua thuốc thang gì cho chàng, liền nói:

– Hẳn chúng lớn bằng mặt trăng mặt trời kia.

Và chàng yêu cầu ông như sau:

  1. Nam tử La-môn nói với ông:
    ‘Ðôi vòng nhật nguyệt vẫn thường trông,
    Xe con vàng đúc thường bừng sáng
    Với cặp bánh này giữa cõi không!’

Vị Bà-la-môn bảo:

  1. Chàng La-môn quả thật điên khùng,
    Chàng kiếm thứ đồ chẳng thể mong,
    Ta chắc rồi đây chàng sẽ chết,
    Vì chàng không thể được trời, trăng!

Thanh niên Bà-la-môn đáp:

– Thế ai điên khùng hơn ai, người khóc đòi vật có thể thấy được hay người khóc đòi vật không thể thấy?

  1. Ta thường thấy lặn, mọc, trời, trăng,
    Ðặc tính, sắc màu lúc chuyển luân,
    Song kẻ mạng chung nào thấy được,
    Giữa ta, ai khóc thật điên khùng?

Nghĩ rằng chàng nói có lý, vị Bà-la-môn bảo chàng:

  1. Quả chàng nói đúng, Bà-la-môn,
    Than khóc vầy, ta ngu xuẩn hơn,
    Ta khóc than vì người đã chết,
    Khác nào con trẻ khóc đòi trăng?

Và vị Bà-la-môn không còn buồn khi ngâm vần kệ trên, ông lại ngâm các vần kệ tán thán chàng thanh niên Bà-la-môn ấy:

  1. Lòng ta thiêu đốt nóng bừng,
    Như là sữa lạc đổ trong lửa đào,
    Nay vừa được tưới nước vào,
    Và đang lắng dịu biết bao khổ sầu.
  2. Quả chàng nhổ mũi tên đau
    Nỗi buồn kia đã cắm sâu vào lòng,
    Xua tan mọi mối thương tâm
    Của người cha đã đau buồn vì con.
  3. Giờ đây mát lạnh, dịu lòng,
    Mũi tên đã nhổ, ta không còn buồn,
    Ta không còn phải khóc than,
    Sau khi nghe nói, hỡi chàng La-môn!

Sau đó vị Bà-la-môn hỏi chàng:

– Thế chàng là ai?

và ngâm kệ tiếp:

  1. Có phải chàng Thiên tử, Nhạc thần,
    Sak-ka Thiên chủ đại danh lừng,
    Thi ân hào phóng, trang nam tử,
    Con của ai, ta muốn biết chàng?

Chàng liền nói với ông về bản thân mình:

  1. Con là nam tử của ngài đây,
    Ngài hỏa thiêu con nghĩa địa này,
    Ngài đã khóc than và khổ não,
    Còn con làm thiện nghiệp riêng tây,
    Nay lên cộng trú cùng Thiên chúng
    Tam thập tam thiên lạc thú đầy.

Vị Bà-la-môn hỏi:

  1. Cúng dường lớn nhỏ ở trong nhà,
    Ta chẳng thấy đâu, trước đến giờ,
    Hoặc giữ giới hay ngày Bố-tát,
    Làm sao con đạt cõi Băm-ba?

Thanh niên Bà-la-môn đáp:

  1. Xưa con bệnh hoạn ở trong phòng,
    Ðau đớn ngập tràn cả tấm thân,
    Con thấy Phật-đà vô lậu hoặc,
    Ðoạn nghi, Thiện Thệ, trí viên toàn.
  2. Tâm con tràn ngập nỗi hân hoan,
    Ðảnh lễ Như Lai với tín tâm,
    Khi thiện sự con vừa thực hiện,
    Con lên cộng trú chúng Thiên thần.

Khi chàng đang nói vậy, toàn thân vị Bà-la-môn tràn đầy nhiệt tình và ông nói:

  1. Thật là hy hữu, diệu kỳ thay,
    Ðây kết quả hành động chắp tay,
    Ta cũng hân hoan, tâm tín ngưỡng,
    Quy y đức Phật tự ngày nay.

Sau đó vị Thiên tử muốn khuyên ông quy y và nhận Ngũ giới, lại ngâm hai vần kệ:

  1. Ngay tự hôm nay với tín tâm
    Ngài quy y Phật, Pháp cùng Tăng,
    Hành trì Ngũ giới, chuyên tu tập,
    Giữ trọn vẹn không có lỗi lầm.
  2. Từ nay ngài tránh sát muôn loài,
    Không lấy vật chi chẳng tặng ngài,
    Không uống rượu nồng, không nói dối,
    Và tri túc với vợ mình thôi.

Khi chàng Thiên tử đã khuyên ông nhận Tam quy và Ngũ giới như vậy, vị Bà-la-môn đồng ý với lời chàng và bảo:

19-20. Chàng muốn an lạc, Dạ-xoa,
Chàng mong hạnh phúc với ta mà,
Ta tuân lời dặn, này Thiên tử,
Chành chính là thầy giáo của ta,
Ta sẽ quy y vào Phật, Pháp.
Và quy y hội chúng Tăng-già.

  1. Từ nay ta tránh sát muôn loài,
    Không lấy các tài vật của ai,
    Không uống rượu nồng, không nói dối,
    Và tri túc với vợ mình thôi. 

10. (84) Chuyện thứ mười – Lâu Ðài Của Serissaka (Serissaka-Vimàna)

Sau khi đức Thế Tôn đã viên tịch, Tôn giả Kumàra-Kassapa (Cưu-ma-la Ca-diếp) cùng với năm trăm Tỷ-kheo đến thành Setavyà. Tại đó, Tôn giả thuyết phục vua Pàyàsi (Tệ Túc) từ bỏ các tà kiến, và an trú vua vào chánh kiến.

Từ đó về sau, nhà vua thích làm công đức, cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn, song không được chu đáo, vì trước kia chưa quen việc ấy, nên sau khi từ trần, vua được tái sanh vào một Lâu đài ở nơi hoang vắng trong rừng cây Sirìsa thuộc trú xứ của Tứ Ðại Thiên vương.

Tục truyền rằng ngày xưa một số thương nhân nước Anga-Magadha đi đến xứ Sindhu và Sovìra, thường du hành ban đêm vì sợ cơn nóng ban ngày, nên đã đi lạc đường. Trong số ấy có một đệ tử cư sĩ đầy đủ mọi khả năng chứng đắc quả A-la-hán, và đã tham gia đoàn lữ hành để kiếm tiền cấp dưỡng cha mẹ.

Muốn giúp đỡ vị ấy, Thiên tử Serissaka xuất hiện cùng Lâu đài của mình, rồi hỏi đám thương nhân đã đến vùng sa mạc hoang vu không cây cỏ nước non này bằng cách nào. Bọn họ trả lời chàng.

Ðể giải thích chuyện này, các vị kết tập Kinh điển đưa vào hai vần kệ đầu tiên:

  1. Hãy lắng nghe câu chuyện Dạ-xoa
    Và thương nhân gặp gỡ đường xa,
    Chuyện hay khéo kể cho nhau rõ,
    Vậy hãy lắng nghe cả chúng ta.
  2. Pà-yà-si, chính hiệu nhà vua,
    Bạn của địa thần, danh tiếng xa,
    Ðang hưởng lạc trong Lầu các ấy,
    Vị Thiên thần hỏi đám thương gia:
  3. ‘Trong rừng hiểm trở vắng phàm nhân,
    Sa mạc khô cằn, chẳng có ăn,
    Thật khó đi vào vùng cát trắng,
    Nhiều người mất trí sợ nguy nan.
  4. Không có cây hay trái ở đây,
    Cũng không nhiên liệu, thức ăn này,
    Không gì ngoài bụi mù và cát,
    Sức nóng đang thiêu đốt đọa đày.
  5. Hoang mạc cằn như ấm sắt nung,
    Không gì lợi lạc tựa âm cung,
    Xưa là trang trại bầy ăn cướp,
    Ðáng rủa nguyền thay cả một vùng.
  6. Vậy các ngươi do động lực nào,
    Cớ gì ước muốn đến đây sao?
    Các ngươi vội vã cùng nhau đến,
    Vì sợ, tham lam, lạc lối vào?
    Các thương nhân liền đáp:
  7. Lữ khách thương nhân Ma-kiệt-đà,
    An-ga, cùng đến So-vì-ra,
    Ðã mang theo thật nhiều hàng hóa,
    Mong muốn giàu sang, kiếm lợi mà.
  8. Không sao chịu được khát ban ngày,
    Cùng xót thương bò ngựa cả bầy,
    Ðến bước này đây, đoàn lữ khách
    Gặp ban đêm giữa lúc canh chầy.
  9. Khốn khổ chúng tôi phải lạc đường,
    Rối như mù lạc lối rừng hoang,
    Giữa vùng cát khó du hành quá,
    Tâm trí hoang mang chẳng biết phương.
  10. Ðang lúc này đây được thấy ngài,
    Dạ-xoa thần lạc trú Lâu đài,
    Những điều chưa thấy bao giờ cả,
    Hy vọng khởi lên với chúng tôi,
    Vì chúng tôi vừa nhìn thấy thế,
    Chúng tôi đều hạnh phúc, mừng vui.

Vị Thiên tử lại hỏi:

  1. Sa mạc hoang vu vượt đại dương,
    Con đường khúc khuỷu phải đi ngang
    Bằng dây rừng kết làm cầu nối,
    Lại có nhiều khe suối động hang,
    Thật khó đi vào nhiều thị trấn,
    Các ngươi lặn lội kiếm giàu sang.
  2. Khi vào lãnh thổ các vua kia,
    Nhìn mọi người trong xứ khác xa,
    Những việc các ngươi nghe thấy đó,
    Có gì kỳ thú kể cho ta.

Bọn thương nhân nghe vị Thiên tử hỏi, liền đáp:

  1. Việc chúng tôi nghe thấy trước đây
    Không gì kỳ thú sánh nơi này,
    Siêu phàm, Thiên tử, không hề chán,
    Khi ngắm mỹ quang tuyệt hảo vầy.
  2. Các hồ sen trải giữa trời cao,
    Phong phú hoa đua nở đẹp biết bao,
    Sen trắng cùng cây luôn kết trái,
    Tỏa làn hương tuyệt diệu dường nào.
  3. Một trăm trụ ngọc bích cao xanh,
    Các đế san hô kết thủy tinh,
    Mã não mắt mèo, hồng ngọc thắm,
    Trụ toàn ngọc sáng kết thành hình.
  4. Lâu đài tráng lệ ở trên đầu,
    Ngàn trụ oai nghi tuyệt mỹ sao,
    Hành lang vàng với tường đầy ngọc,
    Nền dát vàng xen lẫn bảo châu.
  5. Lâu đài sáng rực tựa vàng ròng
    Ở tại Jam-bon, một lạch sông,
    Sáng loáng cầu thang, sân thượng, bệ,
    Oai hùng, cân xứng, đẹp vô ngần.
  6. Trong điện ngọc đầy thức uống ăn,
    Một đàn tiên nữ đứng quây quần,
    Ngân vang kèn trống và đàn địch,
    Ngài được cung nghênh với tán xưng.
  7. Ngài được bầy tiên tạo lạc an,
    Thượng lầu kỳ thú của thiên đàng,
    Ngài oai nghi hưởng đầy ân phước,
    Lộng lẫy cao sang chẳng nghĩ bàn,
    Như Ðại Thiên vương Tỳ-xá ngự
    Na-li-nì thượng uyển vinh quang.
  8. Ngài là Thiên nữ, Dạ-xoa thần,
    Thiên chủ mang hình dáng thế nhân?
    Lữ khách cả đoàn nay kính hỏi,
    Xin ngài cho biết rõ danh xưng.

Bấy giờ vị Thiên tử nói rõ về bản thân mình:

  1. Ta là Thiên tử Se-ris-sa,
    Ta giữ vùng sa mạc thật xa,
    Cai quản miền này và xứ nọ,
    Tuân hành thiên lệnh Ves-sa-va.

Bấy giờ các thương nhân hỏi về hạnh nghiệp của chàng:

  1. Ngài hưởng lạc này bởi ngẫu nhiên,
    Hay ngài được tặng bởi chư Thiên?
    Do ngài xây dựng, do thành tựu?
    Lữ khách thương nhân muốn hỏi xem,
    Bằng cách nào đây ngài hưởng được
    Lâu đài lạc thú giữa quần tiên?

Vị Thiên tử lại ngâm kệ bác bỏ bốn sự phỏng đoán này và nêu rõ đó chính là do công đức:

  1. Chẳng phải do ta được ngẫu nhiên,
    Hoặc ta được tặng bởi chư Thiên,
    Do ta xây dựng, do thành tựu,
    Mà chính do công đức tạo nên.

Các thương nhân liền hỏi về bản chất công đức ấy:

  1. ‘Phạm hạnh nào hay bởi nguyện cầu?
    Quả này do pháp thiện hành sao?
    Thương nhân lữ khách này xin hỏi:
    Ngài được Lâu đài bởi tại đâu?’

Vị Thiên tử lại bác bỏ cả bốn điều phỏng đoán trên, và trình bày công hạnh do mình đã tích trữ trước kia:

  1. Pa-ya-sì thuở trước là ta,
    Cai trị thần dân Kiều-tát-la,
    Keo kiệt, xan tham, tin đoạn diệt,
    Không tin nhân quả, lạc đường tà.
  2. Thế rồi có một vị Sa-môn,
    Cưu-ma Ca-diếp, bậc đa văn,
    Biện tài tuyệt diệu, nhiều phương tiện
    Thuyết pháp, xua tà kiến khỏi tâm.
  3. Khi nghe lời thuyết pháp từ ngài,
    Ta nguyện làm cư sĩ suốt đời:
    Không sát sanh và không trộm cắp,
    Cũng không uống rượu, nói sai lời,
    Cũng không tà dục và tri túc
    Với vợ mình, không muốn vợ ai.
  4. Ðó là lời nguyện sống trong lành,
    Kết quả đây là của thiện hành,
    Chính bởi các hành vi phước đức
    Lâu đài này được hưởng phần mình.

Khi ấy các thương nhân đã thấy vị Thiên tử cùng Lâu đài của chàng, liền khởi lòng tin vào nghiệp quả, và ngâm hai vần kệ nêu rõ niềm tin của họ vào nghiệp quả:

  1. Quả thật, trí nhân nói thật chân,
    Không hề nói khác, các hiền nhân,
    Nơi nào người thiện làm công đức,
    Nơi ấy người an hưởng thỏa lòng.
  2. Nơi nào có khổ não, kêu thương,
    Chết chóc, nhiều ràng buộc, khổ buồn,
    Nơi ấy, các người làm ác nghiệp
    Khó lòng thoát khỏi cảnh thê lương.

Trong khi họ ngâm kệ, một trái Sirìra chín rụng từ cây xuống cổng Lâu đài và vị Thiên tử có vẻ buồn. Các thương nhân thấy thế, liền ngâm kệ khác:

  1. Giờ đây Thiên chúng vẻ bồn chồn,
    Lúng túng như đang dính vũng bùn,
    Thiên tử, vì đâu ngài bất mãn,
    Vì đâu hội chúng chẳng vui lòng?

Khi nghe hỏi vị Thiên tử đáp lại:

  1. Bạn này, các khóm Si-rì-sa,
    Thoang thoảng thiên hương lan tỏa ra
    Vào tận Lâu đài, hương phảng phất
    Ngày đêm xua đuổi bóng âm u.
  2. Khóm này, sau mỗi một trăm niên,
    Một trái nở ra, chín, rụng liền,
    Một trăm năm đã qua từ lúc
    Ta hiện lên đây giữa chúng Thiên.
  3. Biết rằng ta sống giữa thiên cung
    Ngũ bách niên trường, sẽ mạng chung,
    Khi thọ mạng tàn, công đức tận,
    Cho nên ta hoảng sợ buồn lòng.
    Lúc ấy các thương nhân liền an ủi chàng:
  4. Thiên tử làm sao phải muộn phiền,
    Khi ngài ngự ngũ bách chu niên
    Lâu đài tuyệt mỹ vô song địch?
    Chắc chắn những ai phước đức hèn
    Chỉ được sinh vào nơi thấp kém,
    Là người phải chịu khổ triền miên.

Vị Thiên tử chấp nhận lời nói của họ, cảm thấy được an ủi, bèn ngâm kệ:

  1. Những lời khích lệ đẹp lòng sao,
    Bạn nói những lời khen ngợi nhau,
    Song bạn hỡi, giờ ta bảo hộ,
    Cất bước bình an thoả ước ao.

Các thương nhân muốn bày tỏ lòng biết ơn, lại ngâm kệ:

  1. Khi nào đi đến So-vì-ra,
    Và đến Sin-dhu kiếm lợi to,
    Cùng với biết bao quà tặng quý,
    Chúng tôi dâng lễ Se-ris-sa.

Nhưng vị Thiên tử từ chối lễ vật hào phóng và muốn khuyên nhủ họ những việc cần làm, liền ngâm kệ:

  1. Chớ nên dâng lễ Se-ris-sa,
    Còn mọi việc kia sẽ xảy ra,
    Song phải kiên tâm hành Chánh pháp,
    Và cần tránh các nghiệp gian tà.

Vị ấy lại ngâm kệ để nêu gương tốt cho họ theo và tán thán các đức tính của người cư sĩ mà vị ấy mong muốn bảo vệ an toàn:

  1. Có vị tại gia của lữ đoàn,
    Học nhiều, giữ giới nguyện tinh cần,
    Cúng dường hào phóng, đầy thân ái,
    Tri túc, khôn ngoan, đúng trí nhân.
  2. Chàng không cố ý nói sai lời,
    Cũng chẳng chuyên tâm hại đến ai,
    Không thốt lời phân ly, phỉ báng,
    Nói lời dịu ngọt, thật êm tai.
  3. Biết vâng lời, kính trọng, tu thân,
    Tẩy sạch mình theo giới hạnh luôn,
    Người ấy sống đời cao thượng lắm,
    Nương nhờ Chánh pháp, dưỡng song thân.
  4. Ta chắc chàng đi kiếm bạc vàng
    Chỉ vì muốn phụng dưỡng song thân,
    Chứ không phải chính vì mình vậy,
    Bởi thế khi cha mẹ mãn phần,
    Chàng sẽ hành trì đời Phạm hạnh,
    Hướng về xuất thế, thoát ly trần.
  5. Thẳng ngay, không hóc hiểm, mưu mô,
    Thiện sự thành công, chẳng dối lừa,
    Giải quyết việc gì, không kiếm cớ,
    Sao người như vậy phải ưu tư?
  6. Vì lý do này ta hiện thân,
    Hãy quy ngưỡng Pháp, hỡi thương nhân,
    Giá không chàng, bạn thành tro bụi,
    Hoảng sợ như mù lạc lối hoang.
    Chỉ trích chàng là điều thật dễ,
    Phúc thay gặp gỡ bậc hiền lương!

Ðám thương nhân muốn biết rõ chi tiết về người đang được nói đến một cách tổng quát như vậy, liền hỏi:

  1. Người ấy là ai tự bấy nay,
    Tên chàng, bộ tộc, thợ hay thầy?
    Chúng tôi mong muốn nhìn người ấy
    Ngài đã xót thương xuất hiện đây,
    Quả thật phần chàng nhiều lợi lạc,
    Nhờ ngài mến chuộng đến như vầy.

Bấy giờ vị Thiên tử nêu tên họ và bộ tộc chàng kia:

  1. Người này tên gọi Sam-ba-va,
    Hớt tóc, người tu tập tại gia,
    Kiếm sống bằng dao, bàn chải tóc,
    Cả đoàn biết thị giả này mà!
    Vì chàng là một người lương thiện,
    Các bạn đừng nên nhạo báng ta.

Sau đó đám thương nhân nhận ra chàng kia, liền nói:

  1. Chúng tôi đều biết rõ người này,
    Nhưng chẳng biết chàng đức hạnh thay,
    Nay chúng tôi cùng xin đảnh lễ
    Khi nghe ngài nói quý cao vầy.

Bấy giờ, sau khi mời mọi người bước vào Lâu đài của mình, vị Thiên tử ngâm kệ khích lệ họ:

  1. Bất cứ ai trong đám lữ hành,
    Trung niên, trưởng lão, hoặc xuân xanh,
    Xin mời tất cả lên lầu thượng,
    Ðể bọn xan tham ngắm phước lành.

Trong phần kết thúc, chư vị kết tập Kinh điển ngâm sáu vần kệ:

  1. Mọi người tại đó nói to lên,
    Khi đặt chàng cư sĩ trước tiên:
    ‘Tôi thứ nhất’, rồi lên điện ngọc,
    Như cung Ðế Thích của chư Thiên.
  2. Cả đoàn lữ khách nói như vầy:
    ‘Tôi trước tiên’, nhận Ngũ giới này,
    Từ bỏ sát sanh loài thú vật,
    Cũng không trộm cắp, rượu nồng say,
    Cũng không nói dối, và tri túc
    Với vợ mình, không muốn vợ ai.
  3. Cả đoàn lữ khách nói đồng thanh:
    ‘Tôi trước tiên’, trì giới, khởi hành,
    Hoan hỷ ngập tràn nhờ đại lực
    Dạ-xoa thần hỗ trợ đồng tình.
  4. Ði vào địa phận So-vì-ra,
    Vì muốn bạc vàng, kiếm lợi to,
    Khi việc làm xong, tròn phận sự,
    Trở về an ổn phố Pà-ta.
  5. Tất cả bình yên trở lại nhà,
    Trùng phùng thê tử cả toàn gia,
    Mừng vui, hạnh phúc, đầy hoan lạc,
    Làm lễ tôn vinh Thiên tử kia,
    Lễ hội tưng bừng và rộn rã,
    Cùng xây trú xứ Se-ris-sa.
  6. Như vậy là bầu bạn thiện nhân
    Ðược nhiều lợi lạc lớn vô ngần,
    Kết giao các thiện nhân trong Pháp,
    Nhờ một người, toàn thể hưởng ân. 

11. (85) Chuyện thứ mười một – Lâu Ðài Của Sunikkhitta (Sunikkhitta-Vimàna)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi, trong Kỳ Viên. Thời ấy như đã nói trên, Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành trên thiên giới, đến cõi trời Ba mươi ba.

Một vị Thiên tử đang đứng ở cửa Lâu đài của chàng liền đến gần cung kính đảnh lễ Tôn giả. Thuở tiền kiếp, khi ngôi kim Tháp rộng một dặm đã được dựng để thờ xá-lợi của đức Phật Kassapa, bốn hội chúng thường đến cúng dường lễ vật.

Có một cư sĩ, sau khi dâng hoa tại đó, đã chưng bày lại những bông hoa được sắp đặt vụng về, rồi làm lễ cúng lần nữa. Vị ấy lấy các hoa kia làm đề tài thiền quán và tưởng niệm các đức tính của bậc Ðạo Sư, rồi đặt trọn công đức này vào lòng.

Về sau lúc từ trần, nhờ uy lực của hạnh nghiệp này, vị ấy được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba với một đám tùy tùng đông đảo. Tôn giả Mahà-Moggallàna ngâm kệ hỏi vị ấy:

  1. Lầu các trụ cao bằng ngọc bích,
    Mười hai dặm trải rộng chung quanh,
    Bảy trăm nóc nhọn huy hoàng quá,
    Trụ ngọc nền vàng thật hiển vinh.
  2. Chàng uống ăn, cư trú lạc an,
    Khi đàn tiên trổi khúc du dương,
    Ðây là thiên vị, năm thiên lạc,
    Tiên nữ múa, trang điểm ngọc vàng.
  3. Vì sao chàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì chàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào chàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
  4. Hỡi chàng Thiên tử đại oai thần,
    Chàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương?

Vị Thiên tử ngâm kệ nói về hạnh nghiệp đã làm. Các vị kết tập Kinh điển giải thích việc này:

  1. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho chàng:
  2. Khi sắp đặt xong một chuỗi hoa
    Mà người đã sắp đặt qua loa,
    Rồi dâng hoa tại ngôi kim Tháp
    Ðấng Thiện Thệ là Kas-sa-pa,
    Con đắc đại thần thông, đại lực,
    Hưởng đầy thiên lạc cõi Băm-ba.
  3. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
  4. Xin trình Tôn giả đại oai thần,
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Vì thế oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương.

Tổng Kết

– Lâu đài Hai Người Nghèo, Hai Tinh Xá.
– Một Người làm thuê, Một Kẻ Chăn Bò, Kanthaka.
– Lâu đài Nhiều Màu Sắc, Mattakundalin, Serissaka, Sunikkhitta.

Ðó là Phẩm thứ Bảy về Lâu đài Nam giới.

Kinh Tiểu Bộ – Khuddhaka Nikaya

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tập 5 – Kinh Tập

Sutta Nipata

-ooOoo-

Mục Lục

Chương Một – Phẩm Rắn (Uragavagga) Chương Hai – Tiểu Phẩm
1. Kinh Rắn 1. Kinh Châu Báu
2. Dhaniya 2. Kinh Hôi Thối
3. Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng 3. Kinh Xấu Hổ
4. Kinh Kasibbàradvàja, Người Cày Ruộng 4. Kinh Ðiềm Lành Lớn
5. Kinh Cunda 5. Kinh Sùciloma
6. Kinh Bại Vong 6. Kinh Hành Chánh Pháp
7. Kinh Kẻ Bần Tiện 7. Kinh Pháp Bà La Môn
8. Kinh Từ Bi 8. Kinh Chiếc Thuyền
9. Kinh Hemavata 9. Kinh Thế Nào Là Giới
10. Kinh Alavaka 10. Kinh Ðứng Dậy
11. Kinh Kinh Thắng Trận 11. Kinh Ràhula
12. Kinh Vị ẩn sĩ 12. Vangiụsa
  13. Kinh Chánh Xuất Gia
  14. Kinh Dhammika
Chương Ba – Ðại Phẩm Chương Bốn – Phẩm Tám
1. Kinh Xuất Gia 1. Kinh Về Dục
2. Kinh Tinh Cần 2. Kinh Hang Ðộng Tám Kệ
3. Kinh Khéo Thuyết 3. Kinh Sân Hận Tám Kệ
4. Kinh Sundarika Bhàradvàja 4. Kinh Thanh Tịnh Tám Kệ
5. Kinh Màgha 5. Kinh Tối Thắng Tám Kệ
6. Kinh Sabhiya 6. Kinh Gìa Tám Kệ
7. Kinh Sela 7. Kinh Tissametteyya
8. Kinh Mũi Tên 8. Kinh Pasùra
9. Kinh Vàsettha 9. Kinh Màgandiya
10. Kinh Kokàliya 10. Kinh Trước Khi Bị Hủy Hoại
11. Kinh Nàlaka 11. Kinh Tranh Luận
12. Kinh Hai Pháp Tùy Quán 12. Sự Tập Hợp Nhỏ Bé
  13. Những Vấn Ðề To Lớn
  14. Kinh Tuvataka
  15. Kinh Chấp Trượng
  16. Kinh Sàriputta
Chương Năm – Trên Ðường Ðến Bờ Bên Kia
1. Bài Kệ Mở Ðầu 10. Cau Hỏi Của Thanh Niên Todeyya
2. Câu Hỏi Của Thanh Niên Ajita 11. Câu Hỏi Của Thanh Niên Kappa
3. Câu Hỏi Của Thanh Niên Tissametteyya 12. Câu Hỏi Của Thanh Niên Jatukanniụ
4. Câu Hỏi Của Thanh Niên Punnaka 13. Câu Hỏi Của ThanhNiên Bhadràvudha
5. Câu Hỏi Của Thanh Niên Mettagù 14. Câu Hỏi Của Thanh Niên Udaya
6. Câu Hỏi Của Thanh Niên Dhotaka 15. Câu Hỏi Của Thanh Niên Posàla
7. Câu Hỏi Của Thanh Niên Upasiụva 16. Câu Hỏi Của Thanh Niên Magharàja
8. Câu Hỏi Của Thanh Niên Nanda 17. Câu Hỏi Của Thanh Niên Pingiya
9. Câu Hỏi Của Thanh Niên Hemaka 18. Kết Luận

***

Giới Thiệu Kinh Tập (Sutta Nipata)

Hoà thượng Thích Minh Châu

Tập Sutta Nipatà là kinh thứ 5, trong 15 kinh thuộc Bộ Khuddaka Nipàta tức là Tiểu Bộ Kinh. Bộ Tiểu Bộ Kinh gồm có 15 kinh:

  1. Khuddakapàtha (Tiểu Tụng Kinh),
  2. Dhammapada (Pháp Cú),
  3. Udàna (Phật Tự Thuyết Kinh, Cảm Hứng Ngữ),
  4. Itivuttaka (Như Thị Ngữ Kinh, Phật Thuyết Như Vậy),
  5. Vimànavatthu (Thiên Cung Sự Kinh),
  6. Petavatthu (Ngạ Quỷ Sự Kinh),
  7. Theragàthà (Trưởng Lão Tăng Kệ),
  8. Therigàthà (Trưởng Lão Ni Kệ),
  9. Jàtaka (Bổn Sanh),
  10. Mahàniddesa (Ðại Nghĩa Tích),
  11. Cùlaniddesa (Tiểu Nghĩa Tích),
  12. Patisambhidàmagga (Vô Ngại Giải Ðạo),
  13. Apadàna (Thí Dụ Kinh),
  14. Buddhavamsa (Phật Sử)
  15. Cariyàpitaka (Tiểu Nghĩa Kinh, Sở Hạnh Tạng).

Theo một phân loại khác, Luật Tạng, Luận Tạng và tất cả kinh chưa được sưu tập vào 4 Bộ Nikàyà chính, lập thành Tiểu Bộ Kinh. Các vị thọ trì Trường Bộ Kinh không chấp nhận các kinh Khuddakapàtha, Cariyàpitaka và Apadàna, và phân loại các kinh khác vào Luận Tạng. Các vị thọ trì Trung Bộ Kinh không chấp nhận tập Khuddakapàtha, nhưng chấp nhận các kinh còn lại và phân loại chúng vào Kinh tạng. Theo truyền thống Miến Ðiện, 4 tập khác được cộng thêm vào, như Milindapanha, Suttasamgaha, Petakopadesa và Nettipakarana.

Kinh Tập này gồm có 5 Chương:

  1. Chương I, Phẩm Rắn (Uragavagga) gồm có 12 kinh;
  2. Chương II, Tiểu Phẩm gồm có 14 kinh.
  3. Chương III, Ðại Phẩm gồm có 12 kinh;
  4. Chương IV, Phẩm Tám gồm có 16 kinh;
  5. Chương V,  PhẩmTrên Con Ðường Ðến Bờ Bên Kia, gồm có 17 kinh tất cả.

Tổng cộng kinh này có 5 Chương và 71 bài kinh.

*

Ðặc biệt của tập này gồm những kinh có thể được xem là những kinh xưa nhất, cổ nhất, nghĩa là gần với thời đức Phật nhất. Chúng tôi dựa trên một số yếu tố để xác nhận tánh chất thật sự nguyên thủy của Bộ Suttànipàta này, về cả hai mặt Văn cú và Nội dung.

Trước hết, Tập Suttanipàta viết bằng một thể văn Pàli xưa nhất và cổ kính nhất, so sánh với các thể văn chúng ta thường được gặp trong các Bộ Dìgha Nikàya (Trường Bộ), Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Samyutta Nikàya (Tương Ưng Bộ), Anguttara Nikàya (Tăng Chi Bộ). Nhiều thể văn gần với văn Vedà (Vệ Ðà) được tìm thấy rất nhiều trong tập này, nhưng không tìm thấy trong các tập khác, như các danh từ và động từ số nhiều: sitàse, upatthitàse, caramàse. Các hình thức chủ cách số nhiều và sử dụng cách số ít của một số danh từ như: vinicchayà thế cho vinicchayàni, lakkhanà thế cho lakkhanàni, mantà thế cho mantàya. Ngoài ra, chúng ta thường gặp các nguyên mẫu Vedà như vippahàtane, sampayàtave, unnametave rất ít khi được tìm thấy trong các tập kinh khác. Nhiều khi chúng ta thấy một số danh từ đặc biệt như chữ datthu thế cho disvà, atisìtvà thế cho atikkamivà, maga thế cho miga, tumo thế cho so v.v… Những danh từ này rất gần với tiếng Vệ đà không tìm thấy ở các bộ kinh khác. Như vậy, chứng tỏ Tập Suttanipàta được viết trong thời kỳ xưa nhất của ngôn ngữ Pàli, chưa được trau chuốt lưu loát, nhiều âm điệu như ngôn ngữ Pàli sau này. Giá trị cổ kính của ngôn ngữ Pàli trong tập này đánh giá tánh chất nguyên thủy của tập Suttanipàta.

Một yếu tố nữa giúp chúng ta biết giá trị cổ kính của tập này là một số kinh của tập này được tìm thấy trong các bộ kinh khác, và chứng tỏ các kinh khác đã sưu tầm một số kinh hiện có trong bộ Suttanipàta. Ví dụ kinh Seta (Sn. 548-573) được tìm thấy trong Majjhima Nikàya M.i. 146; kinh Vàsettha (Sn. 594-656) được tìm thấy cũng trong Majjhima Nikàya M.ii. 196.

*

Ngoài ra, tập Suttanipàta có ghi chép lại một vài giai đoạn trong đời sống tìm đạo và học đạo của Thái tử, những mẫu chuyện này rất giản dị và mộc mạc, không có xen lẫn thần thông phù phép với những hình ảnh thật đơn sơ và tươi đẹp.

Kinh Xuất gia (Sn. 405-424) diễn tả cuộc gặp gỡ giữa Thái tử với Vua Bimbisàra, khi Thái tử vừa mới xuất gia. Vua Bimbisàra đứng trên lầu nhìn xuống thấy Thái tử đang đi khất thực.

“Bình Sa Vương thấy Ngài,
Ðứng trên sân lầu thượng
Thấy đầy đủ tướng tốt,
Bèn nói lên lời này.” (409)

Sau khi sai sứ giả đi theo để tìm chỗ Thái tử, Vua Bimbisàra liền đi đến gặp Thái tử và thưa:

“Ngài thanh niên tuổi trẻ,
Ngây thơ, bước vào đời,
Cao đẹp được viên mãn,
Thiện sanh giòng Sát lỵ…
Tài sản ta cho ngươi.
Hãy hưởng và trả lời.” (420-421)

Và Thái tử dứt khoát trả lời :

“Giòng họ thuộc mặt trời
Sanh tộc là Thích Ca,
Từ bỏ gia tộc ấy,
Thưa vua Ta xuất gia.
Ta không có thiết tha,
Ðối với các loại dục,
Thấy nguy hiểm trong dục,
Bỏ chúng, là an ổn;
Ta sẽ đi, tinh tấn,
Ý Ta được hoan hỷ.” (423-424)

Kinh Tinh Tấn tiếp theo nói lên sự cám dỗ của Ác ma. Khi Thái tử ngồi dưới cây Bồ đề tu hành, Ác ma đến gần, nói lên giọng từ mẫn :

“Ngươi ốm, không dung sắc
Nhà ngươi gần chết rồi,
Cả ngàn phần, ngươi chết;
Chỉ một phần còn sống.
Hãy sống, sống tốt hơn,
Sẽ làm các công đức.” (426-427)

Thái tử trả lời từ tốn, nhưng không kém phần nghị lực :

“Bà con ác phóng dật,
Ngươi đến đây làm gì?
Với công đức nhỏ bé,
Ta đâu có cần đến!
Ðây có tín, tinh tấn,
Và Ta có trí tuệ,
Như vậy Ta tinh tấn
Sao ngươi hỏi Ta sống.” (431-432)

Và Thái tử nói lên quyết tâm chiến đấu của mình :

“Ôi này Ma Nu Ci!
Ðây là quân đội ngươi,
Ðây quân đội chiến trận
Của giòng họ Kanhà,
Kẻ nhát, không thắng ngươi
Ai thắng ngươi được lạc.
Ta mang cỏ Munja
Vững thay, đáng đời sống
Thà Ta chết chiến trận
Tốt hơn sống thất bại.” (439-440)

Và cuối cùng, Ác ma thất bại trước dũng chí của Thái tử và vừa bỏ đi vừa than:

“Bảy năm ta bước theo
Chân theo chân Thế Tôn,
Không tìm được lỗi lầm
Nói Thế Tôn chánh niệm,
Như quạ bay xung quanh,
Hòn đá như đống mỡ.”
“Có thể có gì mềm?
Có thể có gì ngọt?
Không tìm được vị ngọt
Quạ từ đó bay đi!
Như quạ mổ hòn đá
Ta bỏ Gotama.” (446-448)

Câu chuyện thứ ba nói về ẩn sĩ Asita (A Tư Ðà) đoán tướng cho Thái tử. Asita thấy Chư thiên vui mừng liền hỏi duyên cớ. Chư thiên đáp :

“Tại xứ Lâm tì ni
Trong làng các Thích Ca,
Có sanh vị Bồ tát
Báu tối thắng, vô tỷ.
Ngài sanh, đem an lạc
Hạnh phúc cho loài người,
Do vậy chúng tôi mừng
Tâm vô cùng hoan hỷ.
Ngài, chúng sanh tối thượng
Ngài, loài người tối thắng,
Bậc Ngưu Vương loài người
Thượng Thủ mọi sanh loại.
Ngài sẽ chuyển Pháp luân,
Trong khu rừng ẩn sĩ,
Rống tiếng rống sư tử,
Hùng mạnh, nhiếp loài thú.” (683-684)

Ðạo sư Asita liền vội vàng đi đến Kapilavatthu để được chiêm ngưỡng Thái tử.

“Sau khi thấy Thái tử,
Chói sáng như lửa ngọn,
Thanh tịnh như Sao ngưu
Vận hành giữa hư không
Sáng chiếu như mặt trời
Giữa trời thu mây tịnh
Ẩn sĩ tâm hoan hỷ
Ðược hỷ lạc rộng lớn.” (687)

Khi thấy Thái tử chói sáng như mặt trời, khi nghĩ đến viễn ảnh chánh pháp được tuyên thuyết, nghĩ đến phận mình già yếu, A Tư Ðà đã phát khóc.

“Khi vị ấy nghĩ đến
Số mệnh của tự mình,
Số mệnh không tốt đẹp,
Vị ấy rơi nước mắt”… (691)

Trước sự lo lắng của các vị Thích Ca, ẩn sĩ A Tư Ðà giải tỏa mối lo lắng:

“Thấy họ Thích lo lắng
Vị ẩn sĩ trả lời:
Ta không thấy bất hạnh
Xảy đến cho Thái tử
Ðối với (Thái tử) ấy,
Chướng ngại sẽ không có.
Vị này không hạ liệt,
Chớ có lo lắng gì.
Thái tử này sẽ chứng
Tối thượng quả Bồ đề,
Sẽ chuyển bánh xe Pháp
Thấy thanh tịnh tối thắng
Vì lòng từ thương xót,
Vì hạnh phúc nhiều người,
Và đời sống Phạm hạnh
Ðược truyền bá rộng rãi
Thọ mạng ta ở đời
Còn lại không bao nhiêu
Ðến giữa đời sống Ngài,
Ta sẽ bị mệnh chung.
Ta sẽ không nghe Pháp
Bậc tinh cần vô tỷ
Do vậy ta sầu não,
Bất hạnh và khổ đau.” (692-694)

*

Yếu tố thứ tư xác nhận sự cổ kính của Kinh Tập này là một số câu văn, một số ví dụ, một số hình ảnh được diễn tả, đã trở thành những câu cách ngôn dân gian.

Biển lớn thì im lặng. Khe nước thời chảy ồn. Cái gì trống kêu to. Cái gì đầy thì yên lặng. Những ví dụ này cho chúng ta thấy những kẻ ít hiểu biết thì hay nói nhiều, những kẻ hiểu biết nhiều thời thường im lặng như 2 câu kệ sau đây :

“Hãy học các giòng nước,
Từ khe núi vực sâu
Nước khe núi chảy ồn
Biển lớn đầy im lặng.” (720)

“Cái gì trống kêu to,
Cái gì đầy, im lặng,
Ngu như ghè vơi nước
Bậc Trí như ao đầy.” (721)

Với những kẻ hay nói, họa sẽ tự miệng sanh, như câu kệ khéo diễn tả dưới đây:

“Phàm con người đã sanh,
Sanh với búa trong miệng,
Kẻ ngu khi nói bậy,
Tự chặt đứt lấy mình.” (657)

Hình ảnh sau đây, có vẻ trào phúng, nói đến đàn quạ thấy hòn đá lầm tưởng là miếng thịt mỡ, đến mổ để tìm cái gì ngọt, khi mổ xong biết mình lầm liền bay đi. Câu kệ châm biếm Ác ma đi theo đức Phật để tìm cơ hội hại Ngài, cuối cùng hại Ngài không được nên bỏ đi.

“Như quạ bay xung quanh
Hòn đá như đống mỡ.
“Có thể có gì mềm?”
“Có thể có gì ngọt?” (447)

“Không tìm được gì ngọt
Quạ từ đó bay đi
Như quạ mổ hòn đá
Ta bỏ Gotama.” (448)

Một câu kệ nữa nói đến sóng biển không sanh ở giữa biển đại dương, cho chúng ta biết, kẻ đã giải thoát bao giờ cũng trầm tĩnh yên lặng, như bài kệ sau đây:

“Như chính giữa trung ương
Của biển cả đại dương,
Sóng biển không có sanh,
Biển hoàn toàn đứng lặng
Cũng vậy, vị tỷ kheo,
Ðứng lặng không giao động
Không có sự bồng bột
Náo nức ở giữa đời.” (920)

Ðức Phật khuyên các người xuất gia, nên sống riêng một mình tinh tấn tu hành, như con tê giác chỉ có một sừng, sống một mình trong rừng.

“Do thân cận giao thiệp
Thân ái từ đấy sanh,
Tùy thuận theo thân ái,
Khổ này có thể sanh.
Nhìn thấy những nguy hại,
Do thân ái sanh khởi,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng”. (36)

“Như nai trong núi rừng
Không gì bị trói buộc,
Tự đi chỗ nó muốn
Ðể tìm kiếm thức ăn,
Như các bậc hiền trí
Thấy tự do giải thoát,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.” (37)

*

Khi đức Phật thuyết pháp, giới thiệu đạo mới của Ngài, Ngài phải đương đầu với hai hệ thống xã hội rất hùng mạnh đang ngự trị trên xã hội Ấn Ðộ bấy giờ, tức là tổ chức Sa môn và tổ chức Bà la môn. Mỗi hệ thống có một số giáo chủ cầm đầu với hội chúng, với chủ thuyết, với phương pháp tu hành sai biệt và nhiều khi mâu thuẫn nhau. Ðức Phật đã mạnh dạn loại bỏ những gì Ngài xem là trở ngại cho con người giác ngộ và giải thoát, và tự mình vạch ra một con đường mới mẻ đặc biệt của Ngài.

Trước hết, đức Phật không chấp nhận đời sống người tu hành mà còn đoán số, đoán mộng, bói toán, ăn các đồ ăn do kệ tụng đem lại :

“Ta không có thọ dụng
Ðồ ăn từ kệ tụng,
Hỡi này Bà la môn,
Ðây không phải là pháp,
Của những người có trí.
Chư Phật đều từ bỏ,
Ca hát các bài kệ.” (480)

“Chớ có dùng bùa chú,
Anthava Vedà,
Chớ tổ chức đoán mộng,
Coi tướng và xem sao,
Mong rằng đệ tử Ta,
Không đoán tiếng thú kêu
Không chữa bệnh không sanh,
Không hành nghề lang băm.” (927)

Ðức Phật cũng không chấp nhận cầu mong điềm lành. Các chư Thiên hỏi đức Phật làm thế nào được điềm lành (Mangalam), đức Phật trả lời bằng 48 hành động tốt, vì chỉ có hành động lành là điềm lành tối thượng, như kinh Mangala sutta đã khéo diễn tả :

“Không thân cận kẻ ngu
Như gần gũi bậc trí,
Ðảnh lễ người đáng lễ
Là điềm lành tối thượng.” (259)

“Học nhiều nghề nghiệp giỏi,
Khéo huấn luyện, học tập
Nói những lời khéo nói.
Là điềm lành tối thượng.” (261)

“Hiếu dưỡng mẹ và cha
Nuôi dưỡng vợ và con
Làm nghề không rắc rối,
Là điềm lành tối thượng.” (262)

“Bố thí, hành đúng pháp,
Săn sóc các bà con,
Làm nghiệp, không lỗi lầm,
Là điềm lành tối thượng.” (263)

“Chấm dứt, từ bỏ ác,
Chế ngự đam mê rượu,
Trong pháp không phóng dật,
Là điềm lành tối thượng.” (264)

“Kính lễ và hạ mình
Biết đủ và biết ơn
Ðúng thời, nghe chánh pháp
Là điềm lành tối thượng.” (265)

Như vậy, đức Phật bác bỏ sự tin tưởng ở điềm lành và khuyến khích làm các hạnh lành, vì các hạnh lành là điềm lành tối thượng.

Thêm một bước nữa, đức Phật không chấp nhận quan điểm của các Bà la môn, tin tưởng ở thuyết thọ sanh tử cho mình là giai cấp đáng tôn trọng nhất, chỉ vì sanh ra từ miệng Phạm thiên và do vậy các giai cấp Sát đế lỵ, Phệ xá và Thủ đà phải tôn trọng phục vụ giai cấp Bà la môn. Ðức Phật chống lại quan điểm thọ sanh này và tuyên bố rằng chỉ do hành động mới đánh giá giá trị con người, xem con người có đáng tôn trọng hay không.

“Bần tiện không vì sanh.
Phạm chí không vì sanh,
Do hành, thành bần tiện,
Do hành thành Phạm chí.” (136)

“Không phải do thọ sanh (*)
Ðược gọi Bà la môn!
Không phải do thọ sanh,
Gọi phi Bà la môn
Chính do sự hành động,
Ðược gọi Bà la môn
Chính do sự hành động
Gọi phi Bà la môn.” (Trung Bộ Kinh)

(*) thọ sanh: đẻ

Bước thêm một bước nữa, đức Phật bác bỏ các luận thuyết, các triết lý suông, vì chúng không thể đưa con người đến giải thoát, an tịnh. Có đến 63 luận thuyết thịnh hành trong thời đức Phật và đức Phật đều bác bỏ chúng, vì chúng chỉ gây thêm tranh luận :

“Các Sa môn tranh luận,
Có đến 63 thuyết,
Các ngôn thuyết văn tự
Y đây, các tưởng khởi.” (538)

“Ai thiên trú trong kiến,
Xem kiến ấy tối thắng
Ở đời đặt kiến ấy
Vào địa vị tối thượng,
Người ấy nói tất cả,
Người khác là hạ liệt,
Do vậy không vượt khỏi
Sự tranh luận ở đời.” (796)

“Những ai muốn tranh luận
Sau khi vào hội chúng,
Chúng công kích lẫn nhau,
Chúng gọi nhau là ngu
Cái làm nó cống cao
Cũng là đất hại nó,
Tuy vậy nó vẫn nói
Lời cống cao kiêu mạn.” (830)

“Không phải từ tri kiến
Từ truyết thống, từ trí
Không phải từ giới cấm,
Thanh tịnh được đem đến.” (839)

“Ngươi đã có cuồng tín,
Không đưa đến thanh tịnh
Vì đã có thiên vị,
Với tri kiến tác thành.” (910)

Sau khi bác bỏ mê tín dị đoan, tà kiến, truyền thống, điềm lành, các luận thuyết, tế thần, tế lửa, v.v… Ðức Phật tự mình xây dựng con đường giải thoát, giác ngộ của mình. Và tập Suttanipàta sưu tầm cho chúng ta thấy, những bài kệ diễn tả đức Phật, sai khác với các ngoại đạo sư hiện tại như thế nào.

Trước hết, Ngài là bậc có mắt, cakkhumantu, có pháp nhãn thấy rõ tất cả :

“Ðức Phật thật có mắt
Ðối với tất cả pháp. (161)

“Bậc có mắt xuất hiện
Ðời này và thiên giới
Quét sạch mọi u ám,
Ðộc cư, chứng an lạc.” (956)

“Vị ấy Chánh đẳng giác
Hỡi này Bà la môn,
Bậc có mắt thấy được
Trong tất cả các pháp.” (992)

Ðức Phật là vị có một cái nhìn sáng suốt, một sự hiểu biết thấu triệt, thấy đau khổ trong các chủ thuyết, không chấp nhận chủ thuyết nào, tìm đến chân lý, Ngài thấy được sự an tịnh nội tâm.

“Với Ta không có nói!
Ta nói như thế này,
Sau khi quan sát kỹ
Sự chấp thủ trong pháp
Trong tất cả tri kiến.
Ta không có chấp trước,
Ta thấy sự cất chứa
Tịch tịnh trong nội tâm.” (837)

“Ai đã chặt sanh hữu,
Không còn gieo giống thêm,
Sanh hữu đã đoạn tận,
Không còn muốn thọ sanh,
Ðược gọi là ẩn sĩ
Một mình đi im lặng,
Bậc ẩn sĩ đã thấy
Con đường tịch tịnh ấy.” (208)

Nếp sống đức Phật giới thiệu là một nếp sống của vị ẩn sĩ, Mâu ni, một vị đã từ bỏ gia đình sống không gia đình, không có trú xứ nào.

“Thân mật, sinh sợ hãi,
Trú xứ sanh bụi bậm
Không trú xứ, không thân
Hình ảnh bậc ẩn sĩ.” (207)

Một vị đã nhiếp phục tham ái và ái dục, không để ái dục chi phối.

“Vị ấy sống viễn ly
Mọi sự việc ở đời…
Như hoa sen có gai,
Sinh ra ở trong nước,
Không bị nước và bùn
Mắc dính và thân ướt,
Như vậy bậc ẩn sĩ
Nói an tịnh, không tham,
Không bị dục và đời,
Mắc dính và thấm ướt.” (845)

Một vị ẩn sĩ không có thiếu thốn, không có tri kiến, không có tà kiến, từ bỏ các chủ thuyết và không có tranh luận với ai ở đời.

“Chính đối với vị ấy,
Ngã, phi ngã đều không
Vị ấy đã tẩy sạch,
Mọi tà kiến ở đời.” (787)

“Một số người nói rằng
Ðây mới là sự thật,
Chứng nói các người khác,
Là trống không giả dối.
Do chấp thủ như vậy,
Chúng tranh luận đấu tranh,
Vì sao bậc Sa môn.
Không cùng nói một lời.” (88)

“Thường trú xả, chánh niệm,
Không nghĩ mình bằng người.
Hơn người thua kém người
Vị ấy không bồng bột.” (855)

Sống đời sống viễn ly, không tham đắm vật gì, vị ẩn sĩ sống đời sống vô hữu, không có “Ta”; không có “của Ta”, thực hành hạnh vô ngã một cách tốt đẹp.

“Vị ấy không con cái,
Thú vật, ruộng, tài sản,
Không có gì nắm lấy,
Là ta, là không ta.” (858)

“Ai không có vật gì,
Không có, không sầu muộn,
Không đi đến các pháp
Vị ấy gọi an tịnh.” (861)

“Không nghĩ: “đây của tôi”
Không nghĩ: “đây của người”
Người không có tự ngã
Không sầu gì không ngã.” (951)

Nhờ thực hành vô ngã, vị ẩn sĩ đi đến an tịnh trong nội tâm:

“Hãy giữ được an tịnh
Về phía từ nội tâm,
Ðã không có tự ngã,
Từ đâu có vô ngã!” (919)

Và đích cuối cùng của con đường tu hành, đối với vị ẩn sĩ là “Niết bàn tịch tịnh”.

“Từ bỏ lòng tham dục,
Ðây tỷ kheo có tuệ,
Chứng bất tử tịch tịnh,
Niết bàn giới, thường trú!” (204)

*

Một điểm son đáng chú ý là tập này có một số kinh rất được phổ thông, và được chư Tăng các nước Nam Tông tụng đọc thường xuyên như kinh Ratanasutta (kinh Châu Báu), kinh Mangalasutta (kinh Ðiềm Lành) và kinh Mettasutta (kinh Từ Bi). Ngoài ra có nhiều bài kinh ngắn gọn, ý tứ hàm xúc, tán thán hạnh ẩn sĩ làm nổi bật đặc điểm của kinh này là tán dương ở đời sống của vị xuất gia tầm đạo, như kinh Rắn, kinh Vị ẩn sĩ, kinh Ràhula, kinh Dhammika, kinh Nàlaka, kinh Paràbhida, kinh Tuvataka, kinh Attadanda, kinh Sàriputta. Những kinh này phần lớn đề cập đến hạnh ẩn sĩ, và như vậy làm nổi bật bối cảnh an tịnh tu hành mà Kinh Tập này đề cao một cách đặc biệt.

Hòa Thượng Thích Minh Châu
Thiền viện Vạn Hạnh
Sài Gòn, 1978 (PL. 2522)

Chương Một – Phẩm Rắn (Uragavagga)

(I) Kinh Rắn (Sn 1)

  1. Ai nhiếp phục phẫn nộ
    Ðang được dấy khởi lên,
    Như dùng chất linh dược,
    Ngăn độc rắn lan rộng
    Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
    Bờ này và bờ kia,
    Như loài rắn thoát bỏ
    Da rắn cũ già xưa.
  2. Ái cắt đứt tham dục,
    Không còn chút dư tàn,
    Như kẻ hái hoa sen
    Sanh ra từ ao hồ.
    Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
    Bờ này và bờ kia,
    Như loài rắn thoát bỏ
    Da rắn cũ già xưa.
  3. Ai cắt đứt tham ái,
    Không còn chút dư tàn,
    Làm cho nước cạn khô,
    Dòng nước chảy nhanh mạnh
    Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
    Bờ này và bờ kia,
    Như loài rắn thoát bỏ
    Da rắn cũ già xưa.
  4. Ai phá hoại kiêu mạn
    Không còn chút dư tàn,
    Như nước mạnh tàn phá
    Cây cỏ lau yếu hèn,
    Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
    Bờ này và bờ kia,
    Như loài rắn thoát bỏ
    Da rắn cũ già xưa.
  5. Ai trong các sanh hữu,
    Không tìm thấy lõi cây,
    Như kẻ đi hái hoa,
    Trên cây sung không hoa.
    Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
    Bờ này và bờ kia,
    Như loài rắn thoát bỏ
    Da rắn cũ già xưa.
  6. Với ai trong nội tâm,
    Không còn có phẫn hận,
    Ðã vượt thoát ra khỏi,
    Cả hữu và phi hữu.
    Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
    Bờ này và bờ kia,
    Như loài rắn thoát bỏ
    Da rắn cũ già xưa.
  7. Với ai những tầm tư,
    Ðược làm cho tan biến
    Nội tâm khéo sửa soạn,
    Không còn chút dư tàn.
    Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
    Bờ này và bờ kia,
    Như loài rắn thoát bỏ
    Da rắn cũ già xưa.
  8. Ai không đi quá trớn,
    Cũng không quá chậm trễ,
    Ðã nhiếp phục toàn diện,
    Hý luận chướng ngại này.
    Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
    Bờ này và bờ kia,
    Như loài rắn thoát bỏ
    Da rắn cũ già xưa.
  9. Ai không đi quá trớn,
    Cũng không quá chậm trễ,
    Biết rõ được ở đời,
    Sự này toàn hư vọng.
    Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
    Bờ này và bờ kia,
    Như loài rắn thoát bỏ
    Da rắn cũ già xưa.
  10. Ai không đi quá trớn,
    Cũng không quá chậm trễ,
    Từ bỏ, không có tham,
    Sự này toàn hư vọng.
    Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
    Bờ này và bờ kia,
    Như loài rắn thoát bỏ
    Da rắn cũ già xưa.
  11. Ai không đi quá trớn,
    Cũng không quá chậm trễ,
    Từ bỏ, không tham dục,
    Sự này toàn hư vọng.
    Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
    Bờ này và bờ kia,
    Như loài rắn thoát bỏ
    Da rắn cũ già xưa.
  12. Ai không đi quá trớn,
    Cũng không quá chậm trễ,
    Từ bỏ, ly sân hận,
    Sự này toàn hư vọng.
    Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
    Bờ này và bờ kia,
    Như loài rắn thoát bỏ
    Da rắn cũ già xưa.
  13. Ai không đi quá trớn,
    Cũng không quá chậm trễ,
    Từ bỏ, ly si ám,
    Sự này toàn hư vọng.
    Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
    Bờ này và bờ kia,
    Như loài rắn thoát bỏ
    Da rắn cũ già xưa.
  14. Với ai, các tùy miên,
    Hoàn toàn không hiện hữu,
    Các nguồn gốc bất thiện
    Ðược nhổ lên trừ sạch.
    Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
    Bờ này và bờ kia,
    Như loài rắn thoát bỏ
    Da rắn cũ già xưa.
  15. Với ai, không có gì,
    Do phiền não sanh khởi,
    Làm duyên trở lui lại,
    Về lại bờ bên này.
    Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
    Bờ này và bờ kia,
    Như loài rắn thoát bỏ
    Da rắn cũ già xưa.
  16. Với ai, không có gì,
    Do rừng ái sanh khởi,
    Tạo nhân khiến trói buộc
    Con người vào tái sanh.
    Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
    Bờ này và bờ kia,
    Như loài rắn thoát bỏ
    Da rắn cũ già xưa.
  17. Ai đoạn năm triền cái,
    Không sầu khổ bực phiền,
    Vượt qua được nghi hoặc,
    Thoát mũi tên phiền não.
    Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
    Bờ này và bờ kia,
    Như loài rắn thoát bỏ
    Da rắn cũ già xưa.

(II) Kinh Dhaniya (Sn 3)

Dhaniya:

  1. Cơm ta, nấu đã chín,
    Sữa uống, ta vắt xong,
    Mục đồng Dhaniya,
    Ðã nói lên như vậy.
    Trên bờ sông Mahì,
    Ta chung sống đồng cư,
    Chòi lá được khéo lợp,
    Lửa đốt được cháy đỏ.
    Nếu là ý người muốn,
    Thần mưa, hãy mưa đi.

Thế Tôn:

  1. Ta đoạn được phẫn nộ,
    Tâm hoang vu không còn,
    Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
    Ðã nói lên như vậy.
    Trên bờ sông Mahì,
    Ta chỉ sống một đêm,
    Chòi lá được rộng mở,
    Lửa đốt được tịch tịnh.
    Nếu là ý người muốn,
    Thần mưa, hãy mưa đi.

Dhaniya:

  1. Ruồi lằn và muỗi mòng,
    Ở đây không tìm thấy,
    Mục đồng Dhaniya,
    Ðã nói lên như vậy.
    Trên cánh đồng cỏ mọc,
    Ðàn bò đi ăn cỏ,
    Dầu cơn mưa có đến,
    Chúng có thể chịu đựng.
    Nếu là ý người muốn,
    Thần mưa, hãy mưa đi.

Thế Tôn:

  1. Các bè đã được cột,
    Khéo tác thành tốt đẹp,
    Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
    Ðã nói lên như vậy.
    Ai qua được bờ kia,
    Nhiếp phục dòng nước mạnh,
    Lợi ích của chiếc bè,
    Ðâu còn thấy cần thiết.
    Nếu là ý người muốn,
    Thần mưa, hãy mưa đi.

Dhaniya:

  1. Vợ ta khéo nhu thuận,
    Không có tham dục gì,
    Mục đồng Dhaniya
    Ðã nói lên như vậy.
    Ðã lâu ngày chung sống,
    Vừa đẹp ý đẹp lòng,
    Ta không nghe điều gì,
    Thuộc ác hạnh về nàng.
    Nếu là ý người muốn,
    Thần mưa, hãy mưa đi.

Thế Tôn:

  1. Tâm Ta khéo nhu thuận,
    Ðược giải thoát, mở rộng,
    Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
    Ðã nói lên như vậy.
    Lâu ngày tu viên mãn,
    Khéo nhiếp phục chế ngự,
    Trong Ta các pháp ác,
    Không còn được tìm thấy.
    Nếu là ý người muốn,
    Thần mưa, hãy mưa đi.

Dhaniya:

  1. Với lợi tức thâu hoạch,
    Ta tự nuôi sống ta,
    Mục đồng Dhaniya
    Ðã nói lên như vậy,
    Con ta và cả ta,
    Sống chung không bệnh hoạn,
    Ta không nghe điều gì,
    Thuộc ác hạnh về chúng.
    Nếu là ý người muốn,
    Thần mưa, hãy mưa đi.

Thế Tôn:

  1. Ta không có làm mướn,
    Cho một ai ở đời,
    Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
    Ðã nói lên như vậy
    Với điều được chứng đắc,
    Ta du hành thế giới,
    Về tiền công cần thiết,
    Không thể có nơi Ta.
    Nếu là ý người muốn,
    Thần mưa, hãy mưa đi.

Dhaniya:

  1. Ðây có các bò cái,
    Ðây có các bò con,
    Mục đồng Dhaniya
    Ðã nói lên như vậy.
    Ðây có những bò mẹ,
    Mang thai, nối giống dòng,
    Ðây có những bò đực,
    Những con chúa đầu đàn.
    Nếu là ý người muốn,
    Thần mưa, hãy mưa đi.

Thế Tôn:

  1. Ðây không có bò cái,
    Ðây không có bò con,
    Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
    Ðã nói lên như vậy.
    Ðây không có bò mẹ,
    Mang thai, nối giống dòng,
    Ðây không có bò đực,
    Những con chúa đầu đàn.
    Nếu là ý người muốn,
    Thần mưa, hãy mưa đi.

Dhaniya:

  1. Cây cột được đóng sâu,
    Không còn bị dao động,
    Mục đồng Dhaniya
    Ðã nói lên như vậy.
    Các dây bằng cây lau,
    Ðược bện lại mới chắc,
    Và các con bò con,
    Không thể nào giật đứt.
    Nếu là ý người muốn,
    Thần mưa, hãy mưa đi.

Thế Tôn:

  1. Giống như con bò đực,
    Giật đứt các trói buộc,
    Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
    Ðã nói lên như vậy.
    Như voi làm bựt đứt
    Các giây leo héo mục,
    Ta không còn đi đến,
    Chỗ thai tạng tái sanh.
    Nếu là ý người muốn,
    Thần mưa, hãy mưa đi.
  2. Rồi mưa lớn đổ xuống,
    Làm đầy tràn đất trũng,
    Làm tràn ngập đất cao,
    Nghe trời gầm, mưa, thét,
    Mục đồng Dhaniya,
    Nói lên lời như sau:

Dhaniya:

  1. Lợi thay cho chúng ta,
    Ðâu phải là lợi nhỏ,
    Chúng ta được chiêm ngưỡng,
    Bậc Chánh Giác, Thế Tôn.
    Ôi! Kính bậc Pháp nhãn,
    Con xin quy y Ngài,
    Kính bậc Ðại ẩn sĩ,
    Hãy là Thầy chúng con.
  2. Vợ con và cả con,
    Là những người nhu thuận,
    Xin sống đời Phạm hạnh,
    Dưới chân bậc Thiện Thệ.
    Ðược đến bờ bên kia,
    Vượt khỏi sanh già chết,
    Chúng con sẽ trở thành
    Người đoạn tận đau khổ.

Màra:

  1. Ai có các con trai,
    Hoan hỷ với con trai,
    Ðây là lời Ác ma,
    Ðã nói lên như vậy
    Người chủ các con bò,
    Hoan hỷ với con bò.
    Còn người thì hoan hỷ,
    Ðối với sự sanh y,
    Ai không có sanh y,
    không thể có hoan hỷ.

Thế Tôn:

  1. Ai có các con trai,
    Sầu muộn với con trai,
    Bậc Thế Tôn, Chánh Giác,
    Ðã nói lên như vậy.
    Người chủ các con bò,
    Sầu muộn với con bò;
    Sầu muộn của con người,
    Chính do sự sanh y,
    Ai không có sanh y,
    Không thể có sầu muộn.

(III) Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng (Sn 6)

  1. Ðối với các hữu tình,
    Từ bỏ gậy và trượng,
    Chớ làm hại một ai
    Trong chúng hữu tình ấy.
    Con trai không ước muốn,
    Còn nói gì bạn bè,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  2. Do thân cận giao thiệp,
    Thân ái từ đấy sanh,
    Tùy thuận theo thân ái,
    Khổ này có thể sanh.
    Nhìn thấy những nguy hại,
    Do thân ái sanh khởi,
    Hãy sống riêng một mình,
    Như tê ngưu một sừng.
  3. Do lòng từ thương mến,
    Ðối bạn bè thân hữu,
    Mục đích bị bỏ quên,
    Tâm tư bị buộc ràng,
    Do thấy sợ hãi này,
    Trong giao du mật thiết,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  4. Ai nhớ nghĩ chờ mong,
    Ðối với con và vợ,
    Người ấy bị buộc ràng,
    Như cành tre rậm rạp,
    Còn các ngọn tre cao,
    Nào có gì buộc ràng,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  5. Như nai trong núi rừng,
    Không gì bị trói buộc,
    Tự đi chỗ nó muốn
    Ðể tìm kiếm thức ăn.
    Như các bậc Hiền trí,
    Thấy tự do giải thoát,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  6. Giữa bạn bè thân hữu,
    Bị gọi lên gọi xuống,
    Tại chỗ ở trú xứ,
    Hay trên đường bộ hành.
    Thấy tự do giải thoát,
    Không có gì tham luyến,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  7. Giữ bạn bè thân hữu,
    Ưa thích, vui cười đùa,
    Ðối với con, với cháu,
    Ái luyến thật lớn thay,
    Nhàm chán sự hệ lụy,
    Với những người thân ái,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  8. Khắp cả bốn phương trời,
    Không sân hận với ai,
    Tự mình biết vừa đủ,
    Với vật này vật khác,
    Vững chịu các hiểm nguy,
    Không run sợ dao động,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  9. Có số người xuất gia,
    Chung sống thật khó khăn,
    Cũng như các gia chủ,
    Ở tại các cửa nhà,
    Sống vô tư vô lự,
    Giữa con cháu người khác,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  10. Từ bỏ, để một bên,
    Mọi biểu dương gia đình,
    Như loại cây san hô,
    Tước bỏ mọi lá cây,
    Bậc anh hùng cắt đứt,
    Mọi trói buộc gia đình.
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  11. Nếu tìm được bạn lành,
    Thận trọng và sáng suốt,
    Bạn đồng hành chung sống,
    Bạn thiện trú Hiền trí.
    Cùng nhau đồng nhiếp phục,
    Tất cả mọi hiểm nạn,
    Hãy sống với bạn ấy,
    Hoan hỷ, giữ chánh niệm.
  12. Nếu không được bạn lành,
    Thận trọng và sáng suốt,
    Bạn đồng hành chung sống,
    Bạn thiện trú Hiền trí.
    Hãy như vua từ bỏ,
    Ðất nước bị bại vong,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  13. Thật chúng ta tán thán,
    Các bằng hữu chu toàn,
    Bậc hơn ta, bằng ta,
    Nên sống gần thân cận.
    Nếu không gặp bạn này.
    Những bậc không lầm lỗi,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  14. Thấy đồ trang sức vàng,
    Lấp lánh và sáng chói,
    Ðược con người thợ vàng,
    Khéo làm, khéo tay làm,
    Hai chúng chạm vào nhau,
    Trên hai tay đeo chúng,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  15. Như vậy nếu ta cùng
    Với một người thứ hai,
    Tranh luận cãi vã nhau,
    Sân hận, gây hấn nhau,
    Nhìn thấy trong tương lai,
    Sợ hãi hiểm nguy này,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  16. Các dục thật mỹ miều,
    Ngọt thơm và đẹp ý,
    Dưới hình sắc, phi sắc,
    Làm mê loạn tâm tư,
    Thấy sự nguy hiểm này,
    Trong các dục trưởng dưỡng,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  17. Ðây là một mụn nhọt,
    Và cũng là tai họa,
    Một tật bệnh, mũi tên,
    Là sợ hãi cho ta,
    Thấy sự nguy hiểm này,
    Trong các dục trưởng dưỡng,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  18. Lạnh lẽo và nóng bức,
    Ðói bụng và khát nước,
    Gió thổi, ánh mặt trời.
    Muỗi lằn và rắn rết.
    Tất cả xúc chạm này,
    Ðều chịu đựng vượt qua,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  19. Như con voi to lớn,
    Từ bỏ cả bầy đàn,
    Thân thể được sanh ra,
    To lớn tợ hoa sen,
    Tùy theo sự thích thú,
    Sống tại chỗ rừng núi,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  20. Ai ưa thích hội chúng,
    Sự kiện không xảy ra,
    Người ấy có thể chứng,
    Cảm thọ thời giải thoát.
    Cân nhắc lời giảng dạy,
    Ðấng bà con mặt trời,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  21. Ðược giải thoát vượt khỏi,
    Các tri kiến hý luận,
    Ðạt được quyết định tánh,
    Chứng đắc được con đường.
    Nơi ta trí được sanh,
    Không cần nhờ người khác,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  22. Không tham, không lừa đảo,
    Không khát dục, gièm pha,
    Mọi si mê ác trược,
    Ðược gạn sạch quạt sạch.
    Trong tất cả thế giới,
    Không tham ái ước vọng,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  23. Với bạn bè độc ác,
    Hãy từ bỏ lánh xa,
    Bạn không thấy mục đích,
    Quen nếp sống quanh co,
    Chớ tự mình thân cận,
    Kẻ đam mê phóng dật,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  24. Bậc nghe nhiều trì pháp,
    Hãy gần gũi người ấy,
    Bạn người tâm rộng lớn,
    Người thông minh biện tài,
    Biết điều không nên làm,
    Nhiếp phục được nghi hoặc,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  25. Mọi du hí vui đùa,
    Và dục lạc ở đời,
    Không điểm trang bày biện,
    Không ước vọng mong cầu,
    Từ bỏ mọi hào nhoáng,
    Nói lên lời chân thật,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  26. Với con và với vợ,
    Với cha và với mẹ,
    Tài sản cùng lúa gạo,
    Những trói buộc bà con,
    Hãy từ bỏ buộc ràng,
    Các dục vọng như vậy,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  27. Chúng đều là trói buộc,
    Lạc thú thật nhỏ bé,
    Vị ngọt thật ít oi,
    Khổ đau lại nhiều hơn,
    Chúng đều là câu móc,
    Bậc trí biết như vậy,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  28. Hãy chặt đứt, bẻ gãy,
    Các kiết sử trói buộc,
    Như các loài thủy tộc,
    Phá hoại các mạng lưới.
    Như lửa đã cháy xong,
    Không còn trở lui lại,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  29. Với mắt cúi nhìn xuống,
    Chân đi không lưu luyến,
    Các căn được hộ trì,
    Tâm ý khéo chế ngự.
    Không đầy ứ, rỉ chảy,
    Không cháy đỏ bừng lên,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  30. Hãy trút bỏ, để lại,
    Các biểu tượng gia chủ,
    Như loại cây san hô,
    Loại bỏ các nhành lá.
    Ðã đắp áo cà sa,
    Xuất gia bỏ thế tục,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  31. Không tham đắm các vị,
    Không tác động, không tham,
    Không nhờ ai nuôi dưỡng,
    Chỉ khất thực từng nhà.
    Ðối với mọi gia đình,
    Tâm không bị trói buộc,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  32. Từ bỏ năm triền cái
    Che đậy trói buộc tâm,
    Ðối với mọi kiết sử,
    Hãy trừ khử, dứt sạch,
    Không y cứ nương tựa,
    Chặt đứt ái sân hận,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  33. Hãy xoay lưng trở lại
    Ðối với lạc và khổ,
    Cả đối với hỷ ưu,
    Ðược cảm thọ từ trước,
    Hãy chứng cho được xả,
    An chỉ và thanh tịnh;
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  34. Tinh cần và tinh tấn,
    Ðạt được lý chân đế,
    Tâm không còn thụ động,
    Không còn có biếng nhác,
    Kiên trì trong cố gắng,
    Dõng lực được sanh khởi,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  35. Không từ bỏ độc cư,
    Hạnh viễn ly thiền định,
    Thường thường sống hành trì,
    Tùy pháp trong các pháp.
    Chơn chánh nhận thức rõ,
    Nguy hiểm trong sanh hữu,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  36. Mong cầu đoạn diệt ái,
    Sống hạnh không phóng dật,
    Không đần độn câm ngọng,
    Nghe nhiều, giữ chánh niệm.
    Các pháp được giác sát,
    Quyết định, chánh tinh cần.
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  37. Như sư tử, không động,
    An tịnh giữa các tiếng,
    Như gió không vướng mắc,
    Khi thổi qua màn lưới.
    Như hoa sen không dính,
    Không bị nước thấm ướt,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  38. Giống như con sư tử,
    Với quai hà hùng mạnh,
    Bậc chúa của loài thú,
    Sống chinh phục chế ngự.
    Hãy sống các trú xứ,
    Nhàn tịnh và xa vắng,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  39. Từ tâm, sống trú xả,
    Bi tâm, hạnh giải thoát,
    Sống hành trì thực hiện,
    Hỷ tâm, cho đúng thời,
    Không chống đối và chậm,
    Với một ai ở đời.
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  40. Ðoạn tận lòng tham ái,
    Sân hận và si mê,
    Chặt đứt và cắt đoạn,
    Các kiết sử lớn nhỏ
    Không có gì sợ hãi,
    Khi mạng sống gần chung,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.
  41. Có những bạn vì lợi,
    Thân cận và chung sống,
    Những bạn không mưu lợi,
    Nay khó tìm ở đời.
    Người sáng suốt lợi mình,
    Không phải người trong sạch,
    Hãy sống riêng một mình
    Như tê ngưu một sừng.

(IV) Kinh Bhàradvàja, Người Cày Ruộng (Sn 12)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Magadha, tại núi Dakkhinàgini, trong một làng Bà-la-môn tên Ekanàlà. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Kasibhàradvàja có khoảng năm trăm lưỡi cày sẵn sàng, vì là thời gieo mạ. Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi đến chỗ Bà-la-môn Kasibhàradvàja đang làm việc. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Kasibhàradvàja đang phân phát đồ ăn. Rồi Thế Tôn đi đến chỗ phân phát đồ ăn, sau khi đến, Ngài đứng một bên, Bà-la-môn Kasibhàradvàja thấy Thế Tôn đang đứng một bên để khất thực, liền nói với Thế Tôn:

– Này Sa-môn, ta cày và ta gieo, sau khi cày, sau khi gieo, ta ăn. Và Sa-môn, hãy cày và gieo. Sau khi cày và gieo, hãy ăn!

– Này Bà-la-môn, Ta cũng cày và cũng gieo. Sau khi cày và sau khi gieo, Ta ăn.

– Nhưng chúng tôi không thấy cái ách, hay cái cày, hay lưỡi cày, hay gậy thúc trâu bò, hay các con bò đực của Tôn giả Gotama. Vậy mà Tôn giả Gotama nói: “Này Bà-la-môn, Ta có cày và Ta có gieo. Sau khi cày và sau khi gieo, Ta ăn “.

Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja nói lên với Thế Tôn bài kệ:

Bhàradvàja:

  1. Người tự nhận Người cày,
    Ta không thấy Người cày,
    Hãy trả lời chúng tôi,
    Ðã hỏi về Người cày,
    Chúng tôi muốn rõ biết,
    Người cày như thế nào?

Thế Tôn:

  1. Lòng tin là hột giống,
    Khổ hạnh là cơn mưa,
    Trí tuệ đối với Ta
    Là ách và lưỡi cày,
    Xấu hổ là cán cày,
    Ý là sợi dây buộc,
    Và niệm đối với Ta
    Là lưỡi cày, gậy thúc.
  2. Với thân khéo phòng hộ,
    Với lời khéo phòng hộ,
    Với món ăn trong bụng,
    Biết tiết độ, chế ngự,
    Ta tác thành chơn thực,
    Ðể cắt dọn cỏ rác,
    Sự giải thoát của Ta
    Thật hiền lành nhu thuận.
  3. Với tinh cần tinh tấn,
    Ta gánh chịu trách nhiệm,
    Ta tự mình đem lại
    An ổn khỏi khổ ách.
    Như vậy, Ta đi tới,
    Không trở ngại thối lui,
    Chỗ nào Ta đi tới,
    Chỗ ấy không sầu muộn.
  4. Cày bừa là như vậy,
    Ðược quả là bất tử,
    Sau cày bừa như vậy,
    Mọi khổ được giải thoát.

Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja lấy một bát bằng đồng lớn, cho đổ đầy với cháo sữa dâng đức Phật và thưa:

– Thưa Tôn giả Gotama, hãy dùng cháo sữa, Tôn giả là người đi cày! Tôn giả Gotama đi cày quả bất tử!

Thế Tôn:

  1. Ta không hưởng vật dụng,
    Do tụng kệ đem lại,
    Ðây không phải là pháp,
    Của bậc có chánh kiến
    Chư Phật đều bác bỏ,
    Tụng hát các bài kệ,
    Khi pháp có hiện hữu,
    Truyền thống là như vậy.
  2. Hỡi này Bà-la-môn,
    Người cần phải cúng dường,
    Ðồ ăn vật uống khác,
    Bậc đại sĩ toàn diện,
    Ðã đoạn các lậu hoặc,
    Ðã lắng dịu dao động,
    Ta chính là thửa ruộng,
    Cho những ai cầu phước.

– Vậy, thưa Tôn giả Gotama, con sẽ cho ai cháo sữa này?

– Này Bà-la-môn, Ta không thấy ai ở thế giới, với chư Thiên, chư Ma, chư Phạm thiên, hay trên đời này với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, có thể sau khi ăn, tiêu hóa được món cháo sữa này, trừ Như Lai hay đệ tử của Như Lai. Vậy, này Bà-la-môn, Ông hãy đổ cháo sữa này trên chỗ không có cỏ xanh, hay nhận chìm trong nước không có sinh vật.

Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja đem nhận chìm cháo sữa ấy vào nước không có sinh vật. Cháo sữa ấy khi bị đổ xuống nước, nó sôi lên, sôi lên sùng sục, nó phun khói, nó bốc khói lên. Ví như một lưỡi cày, phơi cả ngày dưới ánh nắng, được đem quăng xuống nước, lưỡi cày ấy sôi lên sùng sục, nó phun khói, nó bốc khói lên. Cũng vậy, cháo sữa ấy, khi bị đổ xuống nước, nó sôi lên, sôi lên sùng sục, nó phun khói, nó bốc khói lên. Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja hoảng hốt, rợn tóc gáy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, và bạch Thế Tôn:

– Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Ví như, thưa Tôn giả Gotama, một người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, mở toang ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, pháp được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày. Con xin qui y Tôn giả Gotama, qui y Pháp, qui y chúng Tỷ-kheo. Mong rằng con được xuất gia với Tôn giả Gotama, được thọ đại giới.

Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja được xuất gia với Sa-môn Gotama, được thọ đại giới. Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả Bhàradvàja sống một mình, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Không bao lâu, do vì mục đích gì, bậc thiên nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú cứu cánh Phạm hạnh ấy. Vị ấy thắng tri: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa “. Tôn giả Bhàradvàja trở thành một vị A-la-hán.

(V) Kinh Cunda (Sn 16)

  1. Người thợ rèn Cunda,
    Nói lên lời như sau:
    Con hỏi bậc Ðại sĩ,
    Bậc trí tuệ rộng lớn,
    Ðấng Giác ngộ, Pháp chủ,
    Ðã đoạn tận khát ái,
    Bậc tối thượng hai chân,
    Bậc đánh xe tối thắng,
    Xin Ngài nói ở đời,
    Có bao nhiêu Sa-môn?

Thế Tôn:

  1. Chỉ có bốn Sa-môn,
    Không có hạng thứ năm,
    Thế Tôn đáp Cunda,
    Này Cunda, là vậy.
    Ta tỏ bày cho Ông,
    Ðược hỏi điều tự thấy,
    Bậc chiến thắng con đường,
    Bậc thuyết giảng con đường,
    Bậc sống trên con đường,
    Kẻ làm ô uế đạo.

Cunda:

  1. Người thợ rèn Cunda,
    Liền bạch với Thế Tôn:
    Chư Phật nói thế nào,
    Bậc chiến thắng con đường,
    Bậc thiền định con đường,
    Sao gọi không ước lường?
    Con hỏi xin trả lời,
    Vị sống đúng con đường?
    Xin trình bày cho con,
    Kẻ làm đường ô uế.

Thế Tôn:

  1. Ai vượt khỏi nghi hoặc,
    Vị thoát khỏi mũi tên,
    Ưa thích cảnh Niết-bàn,
    Không tham đắm vật gì,
    Bậc lãnh đạo thế giới,
    Chư Thiên và loài Người,
    Chư Phật gọi vị ấy,
    Bậc chiến thắng con đường.
  2. Ai ở đời biết được,
    Pháp tối thượng, tối thượng,
    Nói lên và phân tích,
    Pháp ở đây là vậy.
    Vị chặt đứt nghi hoặc,
    Bậc ẩn sĩ, không dục,
    Bậc Tỷ-kheo thứ hai
    Ðược gọi thuyết con đường.
  3. Ai sống trên con đường,
    Con đường pháp khéo giảng,
    Sống chế ngự chánh niệm,
    Bước đường không lỗi lầm,
    Tỷ-kheo thứ ba này
    Ðược gọi sống trên đường.
  4. Ai sống ưa che đậy,
    Dưới hình thức giới cấm,
    Xông xáo, nhớp gia đình,
    Bạt mạng và man trá,
    Không chế ngự nhiếp phục,
    Sống lắm mồm lắm miệng.
    Người sở hành như vậy
    Là kẻ ô uế đạo.
  5. Vị cư sĩ thâm hiểu
    Các hạng người như vậy,
    Thánh đệ tử, nghe nhiều,
    Có trí tuệ thông hiểu,
    Sau khi rõ biết chúng,
    Tất cả là như vậy.
    Thấy vậy, vững lòng tin,
    Không có bị sút giảm
    Làm sao lại lẫn lộn,
    Kẻ ác với người thiện,
    Làm sao xem giống nhau,
    Bậc tịnh, kẻ không tịnh.

(VI) Kinh Bại Vong (Paràbhava) (Sn 18)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi một Thiên nhơn, sau khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn với những bài kệ:

Thiên nhân:

  1. Về bại vong con người,
    Con hỏi Gotama,
    Con đến hỏi Thế Tôn,
    Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn:

  1. Thật dễ hiểu thành công,
    Thật dễ hiểu bại vong,
    Ưa mến pháp, thành công,
    Thù ghét pháp bại vong.

Thiên nhân:

  1. Như vậy, chúng con rõ,
    Thứ nhất về bại vong,
    Thứ hai, mong Ngài nói,
    Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn:

  1. Ai mến kẻ bất thiện,
    Không ái luyến bậc thiện,
    Thích pháp kẻ bất thiện,
    Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân:

  1. Như vậy, chúng con rõ,
    Thứ hai về bại vong,
    Thứ ba, mong Ngài nói,
    Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn:

  1. Người tánh ưa thích ngủ,
    Thích hội chúng, thụ động,
    Biếng nhác, thường phẫn nộ,
    Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân:

  1. Như vậy, chúng con rõ,
    Thứ ba về bại vong.
    Thứ tư, mong Ngài nói,
    Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn:

  1. Ai với mẹ hay cha,
    Già yếu, tuổi trẻ hết,
    Tuy giàu không giúp đỡ,
    Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân:

  1. Như vậy, chúng con rõ,
    Thứ tư về bại vong.
    Thứ năm, mong Ngài nói,
    Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn:

  1. Ai nói dối lường gạt,
    Sa-môn, Bà-la-môn,
    Hay các khất sĩ khác,
    Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân:

  1. Như vậy, chúng con rõ,
    Thứ năm về bại vong.
    Thứ sáu, mong Ngài nói,
    Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn:

  1. Người giàu có tài sản,
    Có vàng bạc thực vật,
    Hương vị ngọt một mình,
    Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân:

  1. Như vậy, chúng con rõ
    Thứ sáu về bại vong.
    Thứ bảy, mong Ngài nói,
    Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn:

  1. Người tự hào về sanh,
    Về tài sản dòng họ,
    Khinh miệt các bà con,
    Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân:

  1. Như vậy, chúng con rõ,
    Thứ bảy về bại vong,
    Thứ tám, mong Ngài nói,
    Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn:

  1. Người đắm say nữ nhân,
    Ðắm say rượu, cờ bạc,
    Hoang phí mọi lợi đắc,
    Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân:

  1. Như vậy, chúng con rõ,
    Thứ tám về bại vong.
    Thứ chín, mong Ngài nói,
    Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn:

  1. Không vừa đủ vợ mình,
    Ðược thấy giữa dâm nữ,
    Ðược thấy với vợ người,
    Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân:

  1. Như vậy, chúng con rõ,
    Thứ chín về bại vong.
    Thứ mười, mong Ngài nói,
    Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn:

  1. Người tuổi trẻ đã qua,
    Cưới cô vợ vú tròn,
    Ghen nàng không ngủ được,
    Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân:

  1. Như vậy, chúng con rõ,
    Thứ mười về bại vong.
    Thứ mười một, xin nói,
    Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn:

  1. Ðàn bà, hay đàn ông,
    Rượu chè, tiêu hoang phí,
    Ðược địa vị quyền thế,
    Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân:

  1. Như vậy, chúng con biết,
    Thứ mười một bại vong.
    Thứ mười hai, xin nói,
    Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn:

  1. Tài sản ít, ái lớn,
    Sanh gia đình hoàng tộc,
    Ở đây muốn trị vì,
    Chính cửa vào bại vong.
  2. Bại vong này ở đời,
    Bậc trí khéo quán sát,
    Ðầy đủ với chánh kiến,
    Sống hạnh phúc ở đời.

(VII) Kinh Kẻ Bần Tiện (Vasalasuttam) (Sn 21)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvathi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực. Lúc bấy giờ, tại trú xứ của Bà-la-môn Aggikabhàradvàja, lửa tế lễ được đốt cháy, đồ cúng dường được dâng cao. Rồi Thế Tôn, trong khi thứ lớp khất thực ở Sàvatthi, đi đến trú xứ của Bà-la-môn Aggibhàradvàja. Bà-la-môn Aggibhàradvàja thấy Thế Tôn từ xa đi đến, thấy vậy bèn nói với Thế Tôn:

– Ở đây kẻ trọc đầu, ở đây kẻ Sa-môn ti tiện, ở đây kẻ bần tiện, hãy đứng lại.

Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với Bà-la-môn Aggibhàradvàja:

– Này Bà-la-môn, Người có biết người bần tiện hay những pháp tạo ra kẻ bần tiện không?

– Này Tôn giả Gotama, tôi không biết kẻ bần tiện hay những pháp tạo ra kẻ bần tiện. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp như thế nào cho tôi, để tôi được biết về kẻ bần tiện hay các pháp tạo thành kẻ bần tiện.

– Vậy này Bà-la-môn, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.

– Thưa vâng, Tôn giả!

Bà-la-môn Aggibhàradvàja vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

  1. Người phẫn nộ, hiềm hận,
    Ác nhân, gièm pha người,
    Ác tà kiến, man trá,
    Ðược biết là bần tiện.
  2. Ai ở đây hại vật,
    Một sanh, hoặc hai sanh,
    Không thương xót hữu tình,
    Ðược biết là bần tiện.
  3. Ai làm hại vây hãm,
    Các làng, các thị trấn,
    Kẻ cướp đoạt có tiếng,
    Ðược biết là kẻ bần tiện.
  4. Tại làng hay tại rừng,
    Vật sở hữu của người,
    Lấy trộm của không cho,
    Ðược biết là kẻ bần tiện.
  5. Ai vay nợ của người,
    Bị đòi liền trốn tránh,
    Ta đâu mắc nợ ngươi,
    Ðược biết là kẻ bần tiện.
  6. Ai vì ham vật mọn,
    Kẻ đang đi trên đường,
    Giết hại cướp vật mọn,
    Ðược biết là kẻ bần tiện.
  7. Ai vì mình, vì người,
    Hay vì nhân tài sản,
    Làm nhân họ nói láo,
    Ðược biết là kẻ bần tiện.
  8. Ai được thấy giữa vợ
    Của bà con, bạn thân,
    Ép buộc hay ưng thuận,
    Ðược biết là kẻ bần tiện.
  9. Ai với mẹ hay cha,
    Già yếu, tuổi trẻ qua,
    Tuy giàu không giúp đỡ,
    Ðược biết là kẻ bần tiện.
  10. Ai với mẹ hay cha,
    Với anh chị, nhạc mẫu,
    Làm hại, dùng lời mắng,
    Ðược biết là kẻ bần tiện.
  11. Ai được hỏi mục đích,
    Lại khuyên lời trái đích,
    Khuyên bảo nên che đậy,
    Ðược biết là kẻ bần tiện.
  12. Ai làm các nghiệp ác,
    Muốn không biết mình làm,
    Ai làm hạnh che đậy,
    Ðược biết là kẻ bần tiện.
  13. Ai đến nhà người khác,
    Ăn món ăn ngon lành,
    Lại không đáp lễ lại,
    Ðược biết là bần tiện.
  14. Ai nói dối lường gạt,
    Sa-môn, Bà-la-môn,
    Hay các người nghèo khác,
    Ðược biết là bần tiện.
  15. Dùng lời mắng, không cho,
    Sa-môn, Bà-la-môn,
    Khi thời ăn uống đến,
    Ðược biết là bần tiện.
  16. Ở đời nói không thật,
    Bị si mê che đậy,
    Tham cầu chút lợi nhỏ,
    Ðược biết là bần tiện.
  17. Ai đề cao tự ngã,
    Khi miệt giá trị người,
    Hạ mình với tự cao,
    Ðược biết là bần tiện.
  18. Ai gây hấn, hà tiện,
    Ác dục và xan tham,
    Xảo quyệt, không tàm quí,
    Ðược biết là bần tiện.
  19. Ai phỉ báng đức Phật,
    Hay đệ tử của Ngài,
    Hàng xuất gia, tại gia,
    Ðược biết là bần tiện.
  20. Ai không phải La-hán,
    Tự nhận là La-hán,
    Kẻ trộm Phạm thiên giới,
    Chính tối hạ bần tiện.
    Những hàng bần tiện này,
    Ta nói rõ cho Ông.
  21. Bần tiện không vì sanh,
    Phạm chí không vì sanh,
    Do hành, thành bần tiện,
    Do hành, thành Phạm chí.
  22. Do đây, nên hiểu biết,
    Như Ta trình bày rõ,
    Màtanga được danh,
    Bần tiện, ăn thịt chó.
  23. Danh tối thượng khó đạt,
    Màtanga đạt được,
    Nhiều Sát-ly, Phạm chí,
    Ðến hầu hạ vị ấy.
    139. Vị ấy leo thiên xa,
    Trên đường lớn không bụi,
    Từ bỏ mọi dục tham,
    Ðạt được Phạm thiên giới,
    Thọ sanh không ngăn chận,
    Vị ấy sanh Phạm thiên.
  24. Có những Bà-la-môn,
    Sanh gia đình Ðạo sư,
    Hay sanh những gia đình
    Quyến thuộc với bùa chú,
    Họ vẫn thường được thấy,
    Làm các điều ác nghiệp,
  25. Hiện tại bị khinh miệt,
    Ðời sau sanh ác thú,
    Thọ sanh không ngăn chận,
    Sanh ác thú đáng khinh.
  26. Bần tiện không vì sanh,
    Phạm chí không vì sanh,
    Do hành thành bần tiện,
    Do hành thành Phạm chí.

Khi được nói vậy, Bà-la-môn Bhàradvàja bạch Thế Tôn:

– Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thưa Tôn giả Gotama, ví như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, mở toang ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Pháp được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày. Con nay qui y Tôn giả Gotama, qui y Pháp và qui y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời qui ngưỡng.

(VIII) Kinh Từ Bi (Metta Sutta) (Sn 25)

  1. Vị thiện xảo mục đích,
    Cần phải làm như sau:
    Sau khi hiểu thông suốt,
    Con đường an tịnh ấy,
    Có khả năng, trực tánh,
    Thật sự, khéo chân trực,
    Dễ nói và nhu hòa,
    Không có gì cao mạn.
  2. Sống cảm thấy vừa đủ,
    Nuôi sống thật dễ dàng,
    Ít có sự rộn ràng,
    Sống đạm bạc giản dị.
    Các căn được tịnh lạc,
    Khôn ngoan và thật trọng,
    Không xông xáo gia đình,
    Không tham ái, tham vọng.
  3. Các sở hành của mình,
    Không nhỏ nhen vụn vặt,
    Khiến người khác có trí,
    Có thể sanh chỉ trích.
    Mong mọi loài chúng sanh,
    Ðược an lạc, an ổn,
    Mong họ chứng đạt được,
    Hạnh phúc và an lạc.
  4. Mong tất cả những ai,
    Hữu tình có mạng sống,
    Kẻ yếu hay kẻ mạnh,
    Không bỏ sót một ai,
    Kẻ dài hay kẻ lớn,
    Trung, thấp, loài lớn, nhỏ.
  5. Loài được thấy, không thấy,
    Loài sống xa, không xa,
    Các loài hiện đang sống,
    Các loài sẽ được sanh,
    Mong mọi loài chúng sanh
    Sống hạnh phúc an lạc.
  6. Mong rằng không có ai,
    Lường gạt lừa dối ai,
    Không có ai khinh mạn,
    Tại bất cứ chỗ nào.
    Không vì giận hờn nhau,
    Không vì tưởng chống đối.
    Lại có người mong muốn,
    Làm đau khổ cho nhau.
  7. Như tấm lòng người mẹ,
    Ðối với con của mình,
    Trọn đời lo che chở,
    Con độc nhất mình sanh.
    Cũng vậy, đối tất cả
    Các hữu tình chúng sanh,
    Hãy tu tập tâm ý,
    Không hạn lượng rộng lớn.
  8. Hãy tu tập từ tâm,
    Trong tất cả thế giới,
    Hãy tu tập tâm ý,
    Không hạn lượng rộng lớn.
    Phía trên và phía dưới,
    Cũng vậy, cả bề ngang,
    Không hạn chế, trói buộc,
    Không hận, không thù địch.
  9. Khi đứng, hay khi đi,
    Khi ngồi, hay khi nằm,
    Lâu cho đến khi nào,
    Khi đang còn tỉnh thức,
    Hãy an trú niệm này,
    Nếp sống này như vậy,
    Ðược đời đề cập đến,
    Là nếp sống tối thượng.
  10. Ai từ bỏ tà kiến,
    Giữ giới, đủ chánh kiến,
    Nhiếp phục được tham ái,
    Ðối với các dục vọng,
    Không còn phải tái sanh,
    Ði đến thai tạng nữa.

(IX) Kinh Hemavata (Sn 27)

Sàtàgira:

  1. Nay đúng vào ngày rằm,
    Ngày trai giới, bố-tát,
    Nói vậy là dạ-xoa,
    Tên Sàtàgira,
    Ðêm đã được an trú,
    Ðêm đẹp như cõi trời,
    Hãy gặp Gotama,
    Bậc Ðạo Sư vô thượng.

Hemavata:

  1. Có phải ý vị ấy,
    Tâm nguyện thật khéo phát?
    Nói vậy là dạ-xoa,
    Tên Hemavata,
    Có phải đối sanh loại,
    Có tâm tư như vậy?
    Có phải các tư duy,
    Ðược khéo léo điều phục
    Ðối với các pháp khả ái,
    Và pháp không khả ái?

Sàtàgira:

  1. Ý vị ấy là vậy,
    Tâm nguyện thật khéo phát,
    Nói vậy là dạ-xoa,
    Tên Sàtàgira,
    Ðối với mọi sanh loại,
    Có tâm tư như vậy,
    Như vậy là tư duy,
    Ðược khéo léo điều phục.

Hemavata:

  1. Có phải là vị ấy
    Không lấy vật không cho?
    Nói vậy là dạ-xoa,
    Tên Hemavata,
    Có phải với hữu tình,
    Vị ấy khéo chế ngự?
    Có phải với phóng dật,
    Vị ấy khéo viễn ly?
    Có phải đối thiền định,
    Vị ấy không từ bỏ?

Sàtàgira:

  1. Vị ấy không có lấy
    Những vật không được cho,
    Nói vậy là dạ-xoa,
    Tên Sàtàgira,
    Vị ấy với hữu tình,
    Rất khéo léo chế ngự,
    Vị ấy với phóng dật,
    Thật sự sống viễn ly,
    Ðức Phật đối thiền định,
    Không từ bỏ, sao lãng.

Hemavata:

  1. Có phải là vị ấy,
    Không nói lời nói láo?
    Nói vậy là Dạ-xoa,
    Tên Hemavata,
    Có phải là vị ấy
    Ðoạn tận các trách nhiệm?
    Có phải là vị ấy
    Không nói lời vu khống?
    Có phải là vị ấy
    Không nói lời phù phiếm?

Sàtàgira:

  1. Và thật sự vị ấy,
    Không nói lời nói láo,
    Nói vậy là Dạ-xoa,
    Tên Sàtàgira,
    Ðoạn tận đường ác ngữ,
    Không nói lời vu khống,
    Vị ấy nói những lời
    Sáng suốt, có nghĩa lý.

Hemavata:

  1. Có phải đối các dục,
    Vị ấy không tham ái?
    Ðây là lời Dạ-xoa,
    Tên Hemavata,
    Có phải tâm vị ấy
    Không có bị dao động?
    Có phải tâm vị ấy
    Vượt khỏi sự si ám?
    Có phải thật vị ấy,
    Có mắt đối các pháp?

Sàtàgira:

  1. Vị ấy không tham ái
    Ðối với các dục vọng,
    Ðây là lời Dạ-xoa,
    Tên Sàtàgira,
    Tâm không có dao động,
    Vượt khỏi mọi si ám,
    Ðức Phật thật có mắt
    Ðối với tất cả pháp.

Hemavata:

  1. Có phải là vị ấy
    Ðầy đủ về các minh?
    Ðây là lời Dạ-xoa
    Tên Hemavata,
    Có phải là vị ấy
    Sở hành thật thanh tịnh?
    Có phải là vị ấy
    Các lậu hoặc đoạn tận?
    Có phải là vị ấy
    Không còn có tái sanh?

Sàtàgira:

  1. Sự thật là vị ấy,
    Ðầy đủ với các minh,
    Ðây là lời Dạ-xoa,
    Tên Sàtàgira
    Sở hành thật thanh tịnh,
    Mọi lậu hoặc đoạn tận,
    Thật sự đối vị ấy,
    Không còn có tái sanh.

Hemavata:

  1. (a) Có phải vị ẩn sĩ,
    Với tâm được viên mãn,
    Mọi việc làm vị ấy
    Ðược làm khéo hoàn mãn,
    Có phải người tán thán,
    Một cách đúng Chánh pháp.
    Vị đầy đủ trí đức,
    Ðầy đủ cả hạnh đức.

Sàtàgira:

  1. (b) Thật sự vị ẩn sĩ,
    Với tâm được viên mãn,
    Mọi việc làm vị ấy
    Ðược làm khéo hoàn mãn.
    Thật sự Ông tùy hỉ
    Một cách đúng Chánh pháp,
    Vị đầy đủ trí đức,
    Ðầy đủ cả hạnh đức.

Cả hai:

  1. Thật sự vị ẩn sĩ,
    Với tâm được viên mãn,
    Mọi việc làm vị ấy
    Ðược làm khéo hoàn mãn.
    Chúng ta hãy yết kiến
    Tôn giả Gotama,
    Vị đầy đủ trí đức,
    Ðầy đủ cả hạnh đức.

Hemavata:

  1. Bắp chân giống như nai,
    Thon vững chắc, bền bỉ,
    Giản dị ít nhu cầu,
    Không tham đắm vật gì.
    Hãy đi đến yết kiến
    ẩn sĩ Gotama,
    Vị hành trì thiền định,
    Trong rừng núi xa vắng.
  2. Sống cô độc một mình,
    Như sư tử, như voi,
    Ngài không có tham đắm,
    Không cầu mong các dục.
    Chúng ta hãy đi đến,
    Và hỏi thăm vị ấy
    Về con đường giải thoát
    Khỏi cạm bẫy Ác ma.

Cả hai:

  1. Vị tuyên bố giải thích,
    Vị đạt đến mọi pháp,
    Bậc giác ngộ vượt khỏi
    Hận thù và sợ hãi,
    Chúng ta hãy đến học
    Sa-môn Gotama.

Hemavata:

  1. Do pháp nào có mặt,
    Thế giới được sanh khởi,
    Nói vậy là dạ-xoa,
    Tên Hemavata.
    Do pháp nào có mặt,
    Tác thành sự giao hợp?
    Sự chấp thủ ở đời,
    Là chấp thủ cái gì?
    Do pháp nào có mặt,
    Thế giới bị tàn hại?

Thế Tôn:

  1. Do sáu pháp có mặt,
    Thế giới được sanh khởi,
    Này Hemavata,
    Thế Tôn nói như vậy.
    Do sáu pháp có mặt,
    Tác thành sự giao hợp,
    Sự chấp thủ ở đời,
    Là chấp thủ sáu pháp,
    Do sáu pháp có mặt,
    Thế giới bị tàn hại.

Hemavata:

  1. Do chấp thủ cái gì,
    Ðây thế giới bị hại?
    Ðược hỏi, hãy nói lên,
    Về con đường thoát đời.
    Làm thế nào đau khổ,
    Ðược giải thoát hoàn toàn?

Thế Tôn:

  1. Ðây, năm dục trưởng dưỡng,
    Ý được gọi thứ sáu,
    Bỏ ước muốn ở đây,
    Như vậy, thoát đau khổ.
  2. Ðây, con đường thoát đời.
    Như thật nói Ông rõ,
    Ðường này Ta nói Ông,
    Như vậy, thoát đau khổ.

Hemavata:

  1. Ðây, ai vượt bộc lưu?
    Ðây, ai vượt biển lớn?
    Không chân đứng bám víu,
    Ai không chìm vực sâu?

Thế Tôn:

  1. Ai luôn luôn đủ giới,
    Có tuệ, khéo thiền định,
    Tâm hướng nội, chánh niệm,
    Vượt bộc lưu khó vượt.
  2. Ai từ bỏ dục tưởng,
    Vượt khỏi mọi kiết sử,
    Ai, hỷ, hữu đoạn tận,
    Không chìm vào vực sâu.

Hemavata:

  1. Vị trí tuệ thâm sâu,
    Thấy được đích tế nhị,
    Vị không có sở hữu,
    Không tham đắm dục hữu.
    Hãy yết kiến vị ấy,
    Vị luôn luôn giải thoát,
    Bậc đại sĩ tiến bước,
    Trên con đường Thiên đạo.
  2. Bậc danh xưng vô thượng,
    Bậc thấy đích tế nhị,
    Bậc ban bố trí tuệ,
    Không tham đắm dục tạng.
    Hãy yết kiến vị ấy,
    Vị Toàn trí, Thiện tuệ,
    Bậc Ðại sĩ tiến bước
    Trên con đường Thánh đạo.
  3. Hôm nay thật chúng con
    Ðược thấy điềm tốt lành,
    Ðược hào quang chói sáng,
    Của bình minh tốt lành.
    Vì chúng con được thấy,
    Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác,
    Bậc đã vượt bộc lưu,
    Bậc đã đoạn lậu hoặc.
  4. Ngàn vị dạ-xoa này,
    Có thần lực danh xưng,
    Tất cả xin đi đến
    Y tựa quy ngưỡng Ngài,
    Ngài là bậc Ðạo Sư,
    Vô thượng của chúng con.
  5. Chúng con sẽ bộ hành
    Làng này qua làng khác,
    Thành này qua thành khác,
    Ðảnh lễ bậc Chánh giác,
    Ðảnh lễ thiện pháp tánh,
    Của Chánh pháp vi diệu.

(X) Kinh Alavaka (Sn 31)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Alavi, tại trú xứ của Dạ-xoa Alavaka. Rồi Dạ-xoa Alavaka đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói với Thế Tôn:

– Này Sa-môn, hãy đi ra.

– Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi ra.

– Này Sa-môn, hãy đi vào.

– Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi vào. Lần thứ hai, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn:

– Này Sa-môn, hãy đi ra.

– Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi ra:

– Này Sa-môn, hãy đi vào.

– Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi vào.

Lần thứ ba, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn:

– Này Sa-môn, hãy đi ra.

– Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi ra.

– Này Sa-môn, hãy đi vào.

– Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi vào.

Lần thứ tư, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn:

– Này Sa-môn, hãy đi ra.

– Này Hiền giả, Ta sẽ không đi ra cho Ông. Ông cần gì hãy làm?

– Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ngài. Nếu Ngài không trả lời cho ta, ta sẽ làm tâm trí Ngài điên loạn, hay ta sẽ bóp nát quả tim của Ngài, hay nắm chân của Ngài, ta sẽ quăng qua bờ sông bên kia sông Hằng.

– Này Hiền giả, Ta không thấy một ai trong thế giới với chư Thiên, với Ác ma và với Phạm thiên, trong quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn với chư Thiên và loài Người, lại có thể làm tâm Ta điên loạn, hay bóp nát quả tim của Ta, hay nắm chân quăng Ta qua bên kia bờ sông Hằng. Tuy vậy, này Hiền giả, Ông cứ hỏi như ý Ông muốn.

Rồi Dạ-xoa với bài kệ nói với Thế Tôn:

Alavaka:

  1. Ở đời, tài sản gì,
    Tối thắng cho con người?
    Cái gì khéo thực hành
    Ðem lại chơn an lạc.
    Cái gì trong các vị,
    Là vị ngọt tối thượng?
    Nếp sống như thế nào,
    Gọi nếp sống tối thắng?

Thế Tôn:

  1. Ở đời này, lòng tin,
    Tối thắng cho con người,
    Cái gì khéo thực hành,
    Ðem lại chơn an lạc?
    Chánh pháp khéo thực hiện,
    Ðem lại chơn an lạc,
    Sự thật trong các vị,
    Là vị ngọt tối thượng,
    Nếp sống với trí tuệ,
    Là nếp sống tối thắng.

Alavaka:

  1. Thế nào vượt bộc lưu?
    Thế nào vượt biển lớn?
    Thế nào vượt qua khổ?
    Thế nào thật thanh tịnh?

Thế Tôn:

  1. Với tín, vượt bộc lưu,
    Không phóng dật, vượt biển,
    Tinh tấn, vượt đau khổ,
    Với tuệ, được thanh tịnh.

Alavaka:

  1. Thế nào được trí tuệ?
    Thế nào được tài sản?
    Thế nào đạt danh xưng?
    Thế nào cột bạn hữu?
    Ðời này qua đời sau,
    Thế nào, chết không sầu?

Thế Tôn:

  1. Tin tưởng bậc La-hán,
    Tin pháp, đạt Niết-bàn,
    Khéo nghe, được trí tuệ,
    Bậc trí, không phóng dật.
  2. Làm thích đáng trách nhiệm,
    Phấn đấu được tài sản,
    Với sự thật được danh,
    Bố thí cột bạn bè.
  3. Ai là người gia chủ,
    Tin tưởng bốn pháp này,
    Sự thật và Chánh pháp,
    Kiên trì và bố thí,
    Vị ấy sau khi chết,
    Nhất định không sầu muộn.
  4. Hãy hỏi các vị khác,
    Sa-môn, Bà-la-môn,
    Nếu có pháp nào khác
    Ở đời, lại thắng hơn,
    Sự thật và nhiếp phục,
    Bố thí và kham nhẫn?

Alavaka:

  1. Sao nay con rộng hỏi,
    Sa-môn, Bà-la-môn,
    Nay con được rõ biết,
    Hiện, vị lai hạnh phúc.
  2. Vì hạnh phúc cho con,
    Mong rằng bậc Giác Ngộ,
    Hãy đi đến an trú,
    Tại xứ Alavi.
    Nay con đã rõ biết.
    Chỗ nào thí, quả lớn.
  3. Con sẽ đi bộ hành,
    Làng này qua làng khác,
    Thành này qua thành khác,
    Ðảnh lễ bậc Giác Ngộ,
    Ðảnh lễ thiện pháp tánh
    Của Chánh pháp vi diệu.

(XI) Kinh Thắng Trận (Sn 34)

  1. Hoặc là đi hay đứng,
    Hoặc là ngồi hay nằm,
    Hoặc co tay, duỗi tay,
    Như vậy, thân dao động.
  2. Ràng buộc với xương gân,
    Trét thoa với da thịt,
    Thân được da che đậy,
    Như thật không thấy rõ.
  3. Trong một bụng chứa đầy,
    Cục gan, và bọng đái,
    Quả tim và buồng phổi,
    Cả thận, và tỳ tạng.
  4. Nước mũi, và nước miếng,
    Mồ hôi, và nước mỡ,
    Máu, và nước khớp xương,
    Mật, và bạch huyết cầu.
  5. Từ chín nguồn nước này,
    Bất tịnh luôn luôn chảy,
    Từ mắt, đồ bẩn chảy,
    Từ tai, đồ bẩn chảy.
  6. Nước mũi từ lỗ mũi,
    Từ miệng, có khi chảy,
    Chảy mật, và niêm dịch,
    Từ thân, mồ hôi bẩn.
  7. Trong đầu thật trống rỗng,
    Chứa đầy những óc, não.
    Bị vô minh dắt dẫn,
    Kẻ ngu nghĩ tịnh sạch.
  8. Khi bị chết nằm xuống,
    Phồng lên, và xanh bầm,
    Quăng bỏ trong nghĩa địa,
    Bà con không đoái hoài.
  9. Chó, dã can đến ăn,
    Chó sói, các côn trùng,
    Quạ, diều hâu đến ăn,
    Còn có hữu tình khác.
  10. Ðược nghe lời Phật dạy,
    Tỷ-kheo có trí tuệ,
    Vị ấy liễu tri thân,
    Thấy thân đúng như thật.
  11. Ðây thế nào, kia vậy,
    Kia thế nào, đây vậy,
    Ðối với thân trong ngoài,
    Từ bỏ mọi lòng dục.
  12. Từ bỏ lòng tham dục,
    Ðây Tỷ-kheo có tuệ,
    Chứng bất tử, tịch tịnh,
    Niết-bàn giới thường trú.
  13. Thân này với hai chân,
    Bất tịnh và hôi thúi,
    Ðầy xác chết, chảy nước,
    Lại được giữ, nâng niu.
  14. Với thân thể như vậy,
    Ai lại nghĩ đề cao,
    Hay khinh miệt kẻ khác,
    Trừ kẻ không thấy gì.

(XII) Kinh ẩn sĩ (Sn 35)

  1. Thân mật, sanh sợ hãi,
    Trú xứ, sanh bụi bặm,
    Không trú xứ, không thân,
    Hình ảnh bậc ẩn sĩ.
  2. Ai đã chặt sanh hữu,
    Không còn gieo giống thêm,
    Sanh hữu đã đoạn tận,
    Không muốn nó tùy sanh,
    Ðược gọi là ẩn sĩ,
    Một mình đi im lặng,
    Bậc đại sĩ đã thấy,
    Con đường tịch tịnh ấy.
  3. Sau khi ước lượng đất,
    Tìm hiểu được hột giống,
    Không còn muốn tham ái,
    Ðược tiếp tục tùy sanh,
    Vị ấy chân ẩn sĩ,
    Thấy sanh diệt chấm dứt,
    Ðoạn tận mọi lý luận,
    Không rơi vào tính toán.
  4. Ðã rõ mọi trú xứ,
    Không ham trú xứ nào,
    Vị ấy chân ẩn sĩ,
    Không tham, không say đắm.
    Không còn phải ra sức,
    Ðã đạt bờ bên kia.
  5. Bậc chiến thắng toàn diện,
    Bậc toàn tri, thiện tuệ,
    Ðối với tất cả pháp,
    Không còn bị ô nhiễm.
    Bậc từ bỏ tất cả,
    Ái đoạn diệt, giải thoát.
    Các bậc trí nhận thức,
    Vị ấy thật ẩn sĩ.
  6. Vị có trí tuệ lực,
    Giới cấm được đầy đủ,
    Ðịnh tĩnh, thích thiền định,
    Gìn giữ trì chánh niệm,
    Giải thoát các trói buộc,
    Không hoang vu, lậu tận,
    Các bậc trí nhận thức,
    Vị ấy thật ẩn sĩ.
  7. Bộ hành, riêng một mình,
    ẩn sĩ, không phóng dật,
    Trước chê bai, tán thán,
    Không có bị dao động.
    Như sư tử, không sợ,
    Giữa các tiếng vang động.
    Như gió không vướng lưới,
    Như son không dính nước,
    Bậc lãnh đạo mọi người,
    Người không ai lãnh đạo.
    Các bậc trí nhận thức,
    Vị ấy thật ẩn sĩ.
  8. Vị nào biết xử sự,
    Như cột trụ hồ tắm,
    Khi người khác nói lời,
    Lời khen chê cực đoạn,
    Vị không có tham ái,
    Với căn khéo định tĩnh,
    Các bậc trí nhận thức,
    Vị ấy thật ẩn sĩ.
  9. Ai thật tự mình đứng
    Thẳng như cây thoi đưa,
    Nhàm chán các nghiệp ác,
    Quán sát chánh, bất chánh,
    Các bậc trí nhận thức,
    Vị ấy thật ẩn sĩ.
  10. Ai biết tự chế ngự,
    Không làm các điều ác,
    Trẻ và hạng trung niên,
    Bậc ẩn sĩ chế ngự,
    Vị không nên chọc giận,
    Vì không làm ai giận,
    Các bậc trí nhận thức,
    Vị ấy thật ẩn sĩ.
  11. Ai sống nhờ người cho,
    Nhận lãnh đồ khất thực,
    Nhận từ trên, từ giữa,
    Hay từ chỗ còn lại,
    Không đủ để tán thán,
    Không nói lời hạ mình,
    Các bậc trí nhận thức,
    Vị ấy thật ẩn sĩ.
  12. Sống thụ hạnh ẩn sĩ,
    Từ bỏ sự dâm dục,
    Ai lúc còn tuổi trẻ,
    Không bị trói buộc gì,
    Từ bỏ mạn, phóng dật,
    Ðược hoàn toàn giải thoát,
    Các bậc trí nhận thức,
    Vị ấy thật ẩn sĩ.
  13. Rõ biết được thế giới,
    Thấy được lý chân đế,
    Vượt khỏi được bộc lưu,
    Vượt biển lớn như vậy.
    Vị chặt đứt trói buộc,
    Không ỷ lại, vô lậu.
    Các bậc trí nhận thức,
    Vị ấy thật ẩn sĩ.
  14. Hai nếp sống không giống.
    An trú, thật xa nhau,
    Gia chủ, có vợ con,
    Không ngã sở, khéo nhiếp,
    Gia chủ không chế ngự,
    Ngăn chận hữu tình khác,
    Bậc ẩn sĩ luôn luôn,
    Che chở loài hữu tình.
  15. Giống như loại chim công,
    Loại chim có cổ xanh,
    Không bao giờ sánh bằng
    Chim thiên nga nhanh nhẹn.
    Cũng vậy, người gia chủ,
    Không sánh bằng Tỷ-kheo,
    Bậc ẩn sĩ viễn ly,
    Sống thiền định trong rừng.

Chương Hai – Tiểu Phẩm

(I) Kinh Châu Báu (Ratana Sutta) (Sn 39)

  1. Phàm ở tại đời này,
    Có sanh linh tụ hội,
    Hoặc trên cõi đất này,
    Hoặc chính giữa hư không
    Mong rằng mọi sanh linh,
    Ðược đẹp ý vui lòng,
    Vậy, hãy nên cẩn thận,
    Lắng nghe lời dạy này.
  2. Do vậy các sanh linh,
    Tất cả hãy chú tâm,
    Khởi lên lòng từ mẫn,
    Ðối với mọi loài, người.
    Ban ngày và ban đêm,
    Họ đem vật cúng dường,
    Do vậy không phóng dật,
    Hãy giúp hộ trì họ.
  3. Phàm có tài sản gì,
    Ðời này hay đời sau,
    Hay ở tại thiên giới,
    Có châu báu thù thắng,
    Không gì sánh bằng được,
    Với Như Lai, Thiện Thệ
    Như vậy, nơi Ðức Phật,
    Là châu báu thù diệu,
    Mong với sự thật này,
    Ðược sống chơn hạnh phúc.
  4. Ðoạn diệt và ly tham,
    Bất tử và thù diệu,
    Phật Thích Ca Mâu-Ni,
    Chứng pháp ấy trong thiền.
    Không gì sánh bằng được,
    Với pháp thù diệu ấy.
    Như vậy, nơi Chánh pháp,
    Là châu báu thù diệu,
    Mong với sự thật này,
    Ðược sống chơn hạnh phúc.
  5. Phật Thế Tôn thù thắng,
    Nói lên lời tán thán,
    Pháp thiền định trong sạch,
    Liên tục không gián đoạn,
    Không gì sánh bằng được,
    Pháp thiền vi diệu ấy,
    Như vậy, nơi Chánh pháp,
    Là châu báu thù diệu
    Mong với sự thật này,
    Ðược sống chơn hạnh phúc.
  6. Tám vị bốn đôi này,
    Ðược bậc thiện tán thán,
    Chúng đệ tử Thiện Thệ,
    Xứng đáng được cúng dường.
    Bố thí các vị ấy,
    Ðược kết quả to lớn.
    Như vậy, nơi Tăng chúng,
    Là châu báu thù diệu.
    Mong với sự thật này,
    Ðược sống chơn hạnh phúc.
  7. Các vị lòng ít dục,
    Với ý thật kiên trì,
    Khéo liên hệ mật thiết,
    Lời dạy Gotama!.
    Họ đạt được quả vị,
    Họ thể nhập bất tử,
    Họ chứng đắc dễ dàng,
    Hưởng thọ sự tịch tịnh,
    Như vậy, nơi tăng chúng,
    Là châu báu thù diệu,
    Mong với sự thật này,
    Ðược sống chơn hạnh phúc.
  8. Như vậy cột trụ đá,
    Khéo y tựa lòng đất,
    Dầu có gió bốn phương,
    Cũng không thể dao động,
    Ta nói bậc chơn nhân,
    Giống như ví dụ này.
    Vị thể nhập với tuệ,
    Thấy được những Thánh đế,
    Như vậy, nơi Tăng chúng,
    Là châu báu thù diệu.
    Mong với sự thật này,
    Ðược sống chơn hạnh phúc.
  9. Những vị khéo giải thích,
    Những sự thật Thánh đế,
    Những vị khéo thuyết giảng,
    Với trí tuệ thâm sâu,
    Dầu họ có hết sức,
    Phóng dật không tự chế,
    Họ cũng không đến nỗi,
    Sanh hữu lần thứ tám.
    Như vậy, nơi Tăng chúng,
    Là châu báu thù diệu.
    Mong với sự thật này,
    Ðược sống chơn hạnh phúc.
  10. Vị ấy nhờ đầy đủ,
    Với chánh kiến sáng suốt,
    Do vậy, có ba pháp,
    Ðược hoàn toàn từ bỏ.
    Thân kiến và nghi hoặc,
    Giới cấm thủ cũng không;
    Ðối với bốn đọa xứ,
    Hoàn toàn được giải thoát;
    Vị ấy không thể làm,
    Sáu điều ác căn bản.
    Như vậy, nơi Tăng chúng,
    Là châu báu thù diệu.
    Mong với sự thật này,
    Ðược sống chơn hạnh phúc.
  11. Dầu vị ấy có làm
    Ðiều ác gì đi nữa,
    Với thân hay với lời,
    Kể cả với tâm ý,
    Vị ấy không có thể
    Che đậy việc làm ấy,
    Vị ấy được nói rằng,
    Không thể thấy ác đạo.
    Như vậy, nơi Tăng chúng,
    Là châu báu thù diệu.
    Mong với sự thật này,
    Ðược sống chơn hạnh phúc.
  12. Ðẹp là những cây rừng
    Có bông hoa đầu ngọn,
    Trong tháng ba nóng bức,
    Những ngày hạ đầu tiên,
    Pháp thù thắng thuyết giảng,
    Ðược ví dụ như vậy,
    Pháp đưa đến Niết-bàn,
    Pháp hạnh phúc tối thượng.
    Như vậy, nơi Ðức Phật,
    Là châu báu thù diệu
    Mong với sự thật này,
    Ðược sống chơn hạnh phúc.
  13. Cao thượng, biết cao thượng,
    Cho, đem lại cao thượng,
    Bậc vô thượng thuyết giảng,
    Pháp cao thượng thù thắng.
    Như vậy, nơi đức Phật,
    Là châu báu thù diệu.
    Mong với sự thật này,
    Ðược sống chơn hạnh phúc.
  14. Nghiệp cũ đã đoạn tận,
    Nghiệp mới không tạo nên,
    Với tâm tư từ bỏ,
    Trong sanh hữu tương lai.
    Các hột giống đoạn tận,
    Ước muốn không tăng trưởng,
    Bậc trí chứng Niết-bàn,
    Ví như ngọn đèn này.
    Như vậy, nơi Tăng chúng,
    Là châu báu thù diệu.
    Mong với sự thật này,
    Ðược sống chơn hạnh phúc.
  15. Phàm ở tại đời này,
    Có sanh linh tụ hội,
    Hoặc trên cõi đất này,
    Hoặc chính giữa hư không,
    Hãy đảnh lễ đức Phật,
    Ðã như thực đến đây,
    Ðược loài Trời, loài Người,
    Ðảnh lễ và cúng dường.
    Mong rằng với hạnh này,
    Mọi loài được hạnh phúc.
  16. Phàm ở tại nơi này,
    Có sanh linh tụ hội,
    Hoặc trên cõi đất này,
    Hoặc chính giữa hư không.
    Hãy đảnh lễ Chánh pháp,
    Ðã như thực đến đây,
    Ðược loài Trời, loài Người,
    Ðảnh lễ và cúng dường.
    Mong rằng với hạnh này,
    Mọi loài được hạnh phúc.
  17. Phàm ở tại nơi này,
    Có sanh linh tụ hội,
    Hoặc trên cõi đất này,
    Hoặc chính giữa hư không.
    Hãy đảnh lễ chúng Tăng
    Ðã như thực đến đây,
    Ðược loài Trời, loài Người,
    Ðảnh lễ và cúng dường.
    Mong rằng với hạnh này,
    Mọi loài được hạnh phúc.

(II) Kinh Hôi Thối (Amagandha) (Sn 42)

Bà-la-môn:

  1. Các bậc Thiện chơn chánh,
    Ăn hạt giống cây thuốc,
    Ăn đậu đũa, đậu rừng,
    Ăn lá, ăn rễ cây,
    Ăn trái các dây leo,
    Nhận được thật đúng pháp.
    Vị ấy không nói láo,
    Vì các dục thúc đẩy.
  2. Ôi ngài Kassapa,
    Ai ăn các món ăn,
    Do người khác bố thí,
    Khéo làm, khéo chưng dọn,
    Trong sạch và thù thắng;
    Ăn lúa gạo thơm ngon.
    Ai ăn uống như vậy
    Là ăn thịt hôi thối.
  3. Này bà con Phạm thiên,
    Chính Ngài tuyên bố rằng:
    Ta không ăn đồ thối,
    Ðể nuôi sống thân Ta.
    Nhưng Ngài ăn món ăn
    Bằng lúa gạo thơm ngon,
    Ăn thịt các loài chim,
    Nấu ăn thật khéo léo
    Ta hỏi Kassapa:
    Ý nghĩa sự kiện này,
    Ngài định nghĩa thế nào,
    Là ăn đồ hôi thối?

Ðức Phật Kassapa:

  1. Sát sanh và hành hình,
    Ðả thương và bắt trói,
    Trộm cắp và nói láo,
    Man trá và lừa đảo,
    Giả bộ kẻ học thức,
    Ði lại với vợ người,
    Ðây là đồ ăn thối,
    Ăn thịt không phải thối.
  2. Ở đời, các hạng người,
    Không chế ngự lòng dục,
    Ðam mê các vị ngon,
    Liên hệ đến bất tịnh,
    Theo chủ nghĩa hư vô,
    Bất chánh khó hướng dẫn,
    Ðây là ăn đồ thối,
    Ăn thịt không phải thối.
  3. Ai thô bạo, dã man,
    Sau lưng nói gièm pha,
    Phản bạn không từ bi,
    Lại cống cao ngạo mạn,
    Tánh không có bố thí,
    Không cho ai vật gì,
    Ðây là ăn đồ thối,
    Ăn thịt không phải thối,
  4. Phẫn nộ và kiêu mạn,
    Cứng đầu và chống đối
    Man trá và tật đố,
    Nói vô ích, huênh hoang,
    Kiêu mạn và quá mạn,
    Thân mật với kẻ ác,
    Ðây là ăn đồ thối,
    Ăn thịt không phải thối,
  5. Ác giói, nợ không trả,
    Làm người điểm chỉ viên,
    Làm những nghề dối trá,
    Ở đây, kẻ giả vờ,
    Ở đây người bần tiện,
    Những người làm ác nghiệp,
    Ðây là ăn đồ thối,
    Ăn thịt không phải thối.
  6. Ở đời đối hữu tình,
    Người không biết kiềm chế,
    Lấy cướp sở hữu người,
    Chú tâm làm hại người,
    Ác giới và tàn nhẫn
    Ác ngữ, thiếu lễ độ,
    Ðây là ăn đồ thối,
    Ăn thịt không phải thối,
  7. Hạng tham ô, thù nghịch,
    Tìm cách để giết hại,
    Luôn luôn hướng về ác,
    Sau chết sanh tối tăm,
    Chúng sanh ấy rơi vào,
    Ðịa ngục đầu xuống trước.
    Ðây là ăn đồ thối,
    Ăn thịt không phải thối,
  8. Không phải do cá thịt,
    Cùng các loại nhịn ăn,
    Không phải do lõa thể,
    Ðầu trọc và bện tóc,
    Không do tro trét mình,
    Mặc da thú khô cứng,
    Không phải do săn sóc,
    Nuôi dưỡng lửa tế tự,
    Không do nhiều khổ hạnh,
    Ðể được chứng bất tử,
    Không bùa chú tế tự,
    Các tế đàn thời tiết,
    Làm con người trong sạch,
    Nếu nghi hoặc chưa đoạn.
  9. Do sống hộ trì căn,
    Với các căn nhiếp phục,
    Vững trú trên Chánh pháp,
    Thích chân trực, hiền hòa,
    Vượt khỏi các tham ái,
    Ðoạn tận mọi khổ đâu,
    Bậc trí không nhiễm dính,
    Ðiều được thấy, được nghe.
  10. Nhiều lần, Thế Tôn thuyết,
    Ý nghĩa lời dạy này,
    Bậc bác học kệ chú,
    Thâm hiểu ý nghĩa ấy.
    Bậc ẩn sĩ nói lên,
    Với những kệ tuyệt diệu,
    Bậc không ăn đồ thối,
    Ðộc lập, khó hướng dẫn.
  11. Nghe xong những lời dạy,
    Lời Thế Tôn khéo nói,
    Chấm dứt ăn đồ thối,
    Ðoạn tận mọi khổ đau,
    Vị ấy đảnh lễ Phật,
    Với tâm ý nhún nhường,
    Thỉnh cầu được cho pháp,
    Xuất gia tại nơi đây.

(III) Kinh Xấu Hổ (Sn 45)

  1. Ai mở miệng tuyên bố:
    Tôi là bạn của anh,
    Sở hành vượt xấu hổ,
    Lại khinh chán bạn mình,
    Không chịu khó gắng làm,
    Công việc có thể làm.
    Cần biết người như vậy,
    Không phải bạn của tôi.
  2. Ai đối với bạn hữu,
    Chỉ làm với lời nói,
    Lời nói đẹp, khả ái,
    Nhưng chỉ lời nói suông,
    Bậc trí biết người ấy,
    Người chỉ nói, không làm.
  3. Người luôn luôn chú ý,
    Nghi ngờ sự thiếu sót,
    Tìm kiếm các nhược điểm,
    Người ấy không phải bạn,
    Với ai có thể nắm,
    Như con nằm trên ngực,
    Người ấy mới thật bạn,
    Không bị ai chia ly.
  4. Ai mong lợi ích quả,
    Tu tập các sự kiện,
    Ðem lại sự hân hoan,
    Tu tập sự an lạc,
    Ðem lại thưởng, tán thán,
    Gánh trách nhiệm làm người.
  5. Uống xong vị viễn ly,
    Uống xong vị an tịnh,
    Không sợ hãi, không ác,
    Hưởng vị ngọt, pháp hỷ.

(IV) Kinh Ðiềm Lành Lớn (Kinh Ðại Hạnh Phúc – Mahamangala Sutta) (Sn 46)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi một Thiên nhân, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, vị Thiên nhân ấy với bài kệ bạch Thế Tôn:

Thiên nhân:

  1. Nhiều Thiên nhân và Người,
    Suy nghĩ đến điềm lành,
    Mong ước và đợi chờ,
    Một nếp sống an toàn,
    Xin Ngài hãy nói lên
    Về điềm lành tối thượng.

Thế Tôn:

  1. Không thân cận kẻ ngu,
    Nhưng gần gũi bậc trí,
    Ðảnh lễ người đáng lễ
    Là điềm lành tối thượng.
  2. Ở trú xứ thích hợp,
    Công đức trước đã làm,
    Chân chánh hướng tụ tâm,
    Là điều lành tối thượng.
  3. Học nhiều, nghề nghiệp giỏi,
    Khéo huấn luyện học tập,
    Nói những lời khéo nói
    Là điềm lành tối thượng.
  4. Hiếu dưỡng mẹ và cha,
    Nuôi dưỡng vợ và con,
    Làm nghề không rắc rối
    Là điềm lành tối thượng.
  5. Bố thí, hành đúng pháp,
    Săn sóc các bà con,
    Làm nghiệp không lỗi lầm
    Là điềm lành tối thượng.
  6. Chấm dứt, từ bỏ ác,
    Chế ngự đam mê rượu,
    Trong pháp, không phóng dật
    Là điềm lành tối thượng.
    265. Kính lễ và hạ mình,
    Biết đủ và biết ơn,
    Ðúng thời, nghe Chánh pháp
    Là điềm lành tối thượng.
  7. Nhẫn nhục, lời hòa nhã,
    Yết kiến các Sa-môn,
    Ðúng thời, đàm luận pháp,
    Là điềm lành tối thượng.
  8. Khắc khổ và Phạm hạnh,
    Thấy được lý Thánh đế,
    Giác ngộ quả Niết bàn
    Là điềm lành tối thượng.
  9. Khi xúc chạm việc đời,
    Tâm không động, không sầu,
    Không uế nhiễm, an ổn
    Là điềm lành tối thượng.
  10. Làm sự việc như vậy,
    Không chỗ nào thất bại,
    Khắp nơi được an toàn,
    Là điềm lành tối thượng.

(V) Kinh Sùciloma (Sn 47)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú tại Gayà, ở Tamkitamanca tại trú xứ của Dạ-xoa Sùciloma. Lúc bấy giờ, Dạ-xoa Khara, Dạ-xoa Sùciloma đi qua Thế Tôn không bao xa. Dạ-xoa Khara nói với Dạ-xoa Sùciloma: Ðây là Sa-môn. Ðây không phải là Sa-môn. Ðây là Sa-môn hay là Sa-môn giả hiệu. Rồi Dạ-xoa Sùciloma đi đến Thế Tôn, sau khi đến cọ xát thân Thế Tôn. Thế Tôn tránh né thân của mình, rồi Dạ-xoa Sùciloma nói với Thế Tôn:

– Có phải Sa-môn sợ ta?

– Này Hiền giả, Ta không sợ Ông, nhưng xúc phạm với Ông là ác.

– Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ngài, nếu Ngài không trả lời cho ta, ta sẽ làm cho tâm Ngài điên loạn, hay bóp nát quả tim của Ngài, hay nắm chân của Ngài, ta sẽ quăng qua bờ bên kia sông Hằng.

– Này Hiền giả, Ta không thấy một ai trong thế giới chư Thiên, với chư Thiên, Ác ma và Phạm Thiên, trong quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn với chư Thiên và loài Người, lại có thể làm cho tâm Ta điên loạn hay bóp nát quả tim của Ta, hay nắm chân của Ta, sẽ quăng Ta qua bờ bên kia sông Hằng. Tuy vậy, này Hiền giả, Ông cứ hỏi Ta như ý Ông muốn.

Rồi Dạ-xoa Sùciloma với câu kệ nói với Thế Tôn:

Sùciloma:

  1. Từ những nguyên nhân nào,
    Tham và sân khởi lên?
    Không ưa thích, ưa thích,
    Sợ hãi từ đâu sanh?
    Từ đâu được sanh khởi,
    Các suy tầm của ý,
    Như đứa trẻ độc ác,
    Thả cho con quạ bay?

Thế Tôn:

  1. Từ những nguyên nhân này,
    Tham, sân được khởi lên,
    Không ưa thích, ưa thích,
    Sợ hãi từ đây sanh,
    Từ đây được sanh khởi,
    Các suy tầm của ý,
    Như đứa trẻ độc ác,
    Thả cho con quạ bay.
  2. Sự hiện hữu của ngã,
    Chính do thân ái sanh,
    Như các loại cây bàng,
    Do thân cây bàng sanh.
    Sự triền phược các dục,
    Thật rộng lớn vô cùng,
    Như cây Màluvà,
    Tỏa rộng lan khắp rừng.
  3. Hãy nghe! Này Dạ-xoa,
    Những ai được rõ biết
    Từ đâu, khiến sanh khởi,
    Họ tẩy sạch nhân ấy.
    Họ vượt qua dòng nước,
    Chảy mạnh khổ vượt này,
    Trước chưa được vượt qua,
    Không còn có tái sanh.

(VI) Kinh Hành Chánh Pháp (Sn 49)

  1. Pháp hạnh và Phạm hạnh,
    Ðược gọi là tối thượng hạnh,
    Nếu là người xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà.
  2. Nếu bản tánh lắm mồm,
    Ưa làm hại như thú,
    Ðời sống ấy ác độc,
    Làm ngã tăng bụi trần.
  3. Tỷ-kheo ưa cãi nhau,
    Bị vô minh che đậy,
    Không biết pháp luật dạy,
    Pháp do Phật tuyên thuyết.
  4. Bị vô minh lãnh đạo,
    Hại bậc tu tập ngã,
    Không biết đường ô nhiễm,
    Ðưa đến cõi địa ngục.
  5. Vị Tỷ-kheo như vậy,
    Rơi vào chỗ đọa xứ,
    Ði đầu thai chỗ này,
    Ðến đầu thai chỗ khác,
    Ði từ tối tăm này,
    Ðến chỗ tối tăm khác.
    Vị ấy sau khi chết,
    Rơi vào chỗ khổ đau.
  6. Như hố phân đầy tràn,
    Sau nhiều năm chất chứa,
    Cũng vậy, kẻ uế nhiễm,
    Thật khó lòng gột sạch.
  7. Hỡi này các Tỷ-kheo,
    Hãy biết người như vậy,
    Hệ lụy với gia đình,
    Ác dục, ác tư duy,
    Ác uy nghi cử chi,
    Ác sở hành, hành xứ.
  8. Tất cả đều đồng tình,
    Tránh xa ngưòi như vậy,
    Hãy thổi nó như bụi,
    Hãy quăng nó như rác.
  9. Hãy đuổi kẻ nói nhiều,
    Kẻ Sa-môn giả hiệu,
    Sau khi đuổi ác dục,
    Ác uy nghi hành xứ.
  10. Hãy giữ mình trong sạch,
    Chung sống kẻ trong sạch,
    Sống thích đáng, chánh niệm,
    Rồi hòa hợp, sáng suốt,
    Hãy chấm dứt khổ đau.

(VII) Kinh Pháp Bà-la-môn (Sn 50)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi nhiều Bà-la-môn đại phú ở Kosala già yếu, cao niên, trưởng lão, đã đến tuổi trưởng thượng, đã gần mãn cuộc đời, đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Bà-la-môn đại phú ấy bạch Thế Tôn:

– Thưa Tôn giả Gotama, hiện nay còn có những Bà-la-môn nào được thấy là theo pháp Bà-la-môn của những Bà-la-môn thời xưa?

– Này các Bà-la-môn, hiện nay không còn thấy các Bà-la-môn theo pháp Bà-la-môn của các Bà-la-môn thời xưa?

– Lành thay, Tôn giả Gotama hãy nói cho pháp Bà-la-môn của các Bà-la-môn thời xưa. Nếu Tôn giả Gotama không thấy gì phiền phức.

– Vậy này các Bà-la-môn, hãy nghe và khéo tác ý. Ta sẽ nói.

– Thưa vâng, Tôn giả.

Các Bà-la-môn đại phú ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:

  1. Các ẩn sĩ thời xưa,
    Chế ngự, sống khắc khổ,
    Bỏ năm dục trưởng dưỡng,
    Hành lý tưởng tự ngã.
  2. Phạm chí, không gia súc,
    Không vàng bạc lúa gạo,
    Học hỏi là tài sản,
    Họ che chở hộ trì,
    Kho tàng tối thượng ấy.
  3. Ðồ ăn được sửa soạn,
    Ðược đặt tại ngưỡng cửa,
    Với lòng tin, họ soạn
    Ðể cúng bậc Thánh cầu.
  4. Với vải mặc nhiều màu,
    Với giường nằm trú xứ,
    Từ quốc độ giàu có,
    Họ đảnh lễ Phạm chí.
  5. Không bị ai xâm phạm
    Là Phạm chí thời ấy,
    Không bị ai chiến hại,
    Họ được pháp che chở,
    Không ai ngăn chận họ,
    Tại ngưỡng cửa gia đình.
  6. Từ trẻ đến bốn tám,
    Các Phạm chí thời xưa,
    Họ sống hành Phạm hạnh,
    Tầm cầu minh và hạnh.
  7. Các vị Bà-la-môn,
    Không đến giai cấp khác,
    Không mua người làm vợ,
    Chung sống trong tình thương,
    Họ đi đến với nhau,
    Trong niềm hoan hỷ chung.
  8. Ngoại trừ thời gian ấy,
    Thời có thể thụ thai,
    Là người Bà-la-môn,
    Không đi đến giao cấu.
  9. Họ tán thán Phạm hạnh,
    Giới, học thức, nhu hòa,
    Khắc khổ và hòa nhã,
    Bất hại và nhẫn nhục.
  10. Vị tối thắng trong họ,
    Là Phạm thiên, nỗ lực,
    Vị ấy không giao hợp,
    Cho đến trong cơn mộng.
  11. Ở đời, bậc có trí,
    Học theo hạnh vị ấy,
    Họ tán thán Phạm hạnh,
    Giới đức và nhẫn nhục.
  12. Họ xin cơm, sàng tọa,
    Vải mặc, bơ và dầu,
    Thâu nhiếp thật đúng pháp,
    Họ tổ chức tế tự,
    Trong lễ tế tự ấy,
    Họ không giết bò cái.
  13. Như mẹ và như cha,
    Như anh, như bà con,
    Bò là bạn tối thượng,
    Từ chúng, sanh được vị.
  14. Bò cho ăn, cho sức,
    Cho dung sắc, cho lạc
    Biết được lợi ích này,
    Họ không giết hại bò.
  15. Họ đoan trang thân lớn,
    Có dung sắc, danh xưng,
    Bản tánh là nhiệt tình,
    Trong hành thiện dứt ác,
    Họ còn sống ở đời,
    Dân chúng hưởng an lạc.
  16. Giữa họ có đảo lộn,
    Họ thấy vật nhỏ nhen.
    Thấy huy hoàng nhà vua,
    Thấy trang sức phụ nữ.
  17. Các cỗ xe khéo làm,
    Thắng với ngựa thuần thục,
    Trang hoàng với tấm thảm,
    Nhiều sắc lại nhiều màu.
    Các trú xứ phòng ốc,
    Khéo chia, khéo ngăn cách.
  18. Ðàn bà mập vây quanh,
    Chúng người đẹp hầu hạ,
    Bà-la-môn tham đắm,
    Tài sản lớn của người.
  19. Ðọc các bài kệ tụng,
    Họ đến Okkàla,
    Ngài được tài sản lớn,
    Ngài được lúa gạo nhiều.
    Hãy thiết lập tế đàn,
    Vì tài sản ngài lớn,
    Hãy thiết lập tế đàn,
    Vì tiền bạc ngài lớn.
  20. Rồi vua, bậc lãnh tụ,
    Vương chủ các xa binh,
    Ðược các Bà-la-môn
    Nhiếp phục và cảm hóa,
    Tổ chức các tế đàn,
    Về ngựa và về người,
    Quăng con nêm, nước thánh,
    Với các cửa then cài.
    Lễ tế đàn này xong,
    Họ cho các Phạm chí,
    Rất nhiều loại tài sản.
  21. Bò, giường nằm, áo mặc,
    Nữ nhân trang sức đẹp,
    Các cỗ xe khéo làm,
    Thắng với ngựa thuần thục,
    Trang hoàng với tấm thảm,
    Nhiều sắc lại nhiều màu.
  22. Các trú xứ đẹp đẽ,
    Khéo chia, khéo ngăn cách,
    Ðầy các loại lúa gạo,
    Họ cho các Phạm chí,
    Rất nhiều là tài sản.
  23. Ở đây, được tài sản,
    Phạm chí thích cất chứa,
    Lòng dục chúng thỏa mãn,
    Khát ái càng tăng trưởng,
    Họ lại đọc kệ tụng,
    Họ đến Okkàka.
  24. Như nước, đất và vàng,
    Tài sản và lúa gạo,
    Cũng vậy là các bò,
    Ðối với các loài, người.
    Chúng là những vật dụng,
    Cần thiết cho hữu tình.
    Hãy thiết lập tế đàn,
    Vì tài sản ngài lớn,
    Hãy thiết lập tế đàn,
    Vì tiền bạc ngài lớn?
  25. Rồi vua, bậc lãnh tụ,
    Vương chủ các xa binh,
    Ðược các Bà-la-môn,
    Nhiếp phục và cảm hóa,
    Tổ chức các tế đàn,
    Trăm ngàn bò bị giết
  26. Không phải với bàn chân,
    Cũng không phải với sừng.
    Con bò hại một ai,
    Chúng được khéo nhiếp phục
    Như con dê, con cừu,
    Chúng cho nhiều ghè sữa,
    Tuy vậy, vua ra lệnh,
    Nắm sừng bắt lấy chúng,
    Giết chúng bằng dao gươm.
  27. Rồi chư Thiên, Tổ tiên,
    Ðế Thích, A-tu-la,
    Với các hàng Dạ-xoa,
    Ðồng thanh cùng la lớn,
    Như vậy là phi pháp,
    Khi gươm giết hại bò.
  28. Trước đã có ba bệnh,
    Dục, ăn không đủ già,
    Do giết hại muôn thú,
    Chúng lên đến chín tám.
  29. Trượng phạt phi pháp này,
    Từ xưa truyền đến nay,
    Vật vô tội bị giết,
    Còn người lễ tế đàn,
    Thối thất khỏi Chánh pháp,
  30. Vậy tùy pháp cổ này,
    Bị bậc trí khiển trách,
    Chỗ nào lễ tế đàn,
    Như vậy, được xem thấy,
    Quần chúng liền chỉ trích,
    Các vị lễ tế đàn.
  31. Như vậy, pháp bị hoại,
    Hạng Thủ-đà, Phệ-xá,
    Bị phân ly chia rẽ,
    Các hạng Sát-đế-lị
    Bị chia năm, chẻ bảy
    Còn vợ khinh rẽ chồng.
  32. Các Sát-lị hoàng tộc,
    Các bà con Phạm thiên,
    Cùng với hạng người khác,
    Ðược gia tộc che chở,
    Họ bỏ quên sanh chủng,
    Họ rơi vào các dục.

Khi nghe nói vậy, các Bà-la-môn đại phú ấy bạch Thế Tôn;

– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, trình bày rõ những gì bị che kín chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, hay đem đèn sáng vào trong bóng tối đễ những ai có mắt có thể nhìn thấy sắc. Cũng vậy, Pháp được Tôn giả Gotama với nhiều pháp môn trình bày giải thích. Chúng con xin quy y Tôn giả Gotama quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng.

(VIII) Kinh Chiếc Thuyền (Sn 55)

  1. Từ vị nào một người,
    Rõ biết được Chánh pháp,
    Hãy đảnh lễ vị ấy,
    Như chư Thiên, Inda,
    Vị ấy được đảnh lễ,
    Tâm tư sanh hoan hỷ,
    Nghe nhiều, học hỏi nhiều,
    Thuyết trình chơn diệu pháp.
  2. Vị sáng suốt chú tâm,
    Suy tư và quán sát
    Thực hành pháp tuỳ pháp,
    Trở thành vị hiểu biết,
    Thông minh và thận trọng,
    Không phóng dật, vị ấy,
    Theo gương vị như vậy.
  3. Ai phục vụ kẻ ngu,
    Ngu si, tâm bé nhỏ,
    Mục đích chưa đạt được,
    Lại ganh tị tật đố,
    Chính ở đây Chánh pháp,
    Không phát triển tu tập,
    Chưa vượt thoát nghi hoặc,
    Người ấy bị tử vong.
  4. Như người nhảy xuống sông,
    Dòng sông nước ngập tràn,
    Nước sông, nhớp đục ngầu,
    Dòng nước chảy nhanh mạnh
    Người ấy bị lôi cuốn,
    Theo dòng nước trôi đi,
    Làm sao nó có thể,
    Giúp người khác vượt dòng.
  5. Cũng vậy, với người nào,
    Pháp không được tu tập,
    Không quán sát ý nghĩa,
    Của những vị nghe nhiều,
    Tự mình không rõ biết,
    Nghi hoặc chưa vượt qua,
    Làm sao nó có thể,
    Giúp người khác thiền định.
  6. Như người được leo lên,
    Chiếc thuyền mạnh vững chắc,
    Ðược trang bị đầy đủ,
    Mái chèo và tay lái;
    Người như vậy ở đây,
    Giúp nhiều người ngược dòng,
    Rõ biết những phương tiện,
    Thiện xảo và sáng suốt.
  7. Như vậy, bậc sáng suốt,
    Luôn luôn tự tu tập,
    Bậc nghe nhiều hiểu nhiều,
    Không còn bị dao động,
    Vị ấy giúp đỡ được,
    Các người khác tu thiền,
    Làm khởi lên nguyên nhân,
    Tha thiết muốn nghe pháp.
  8. Do vậy, hãy thân cận,
    Bậc chân nhân hiền sĩ,
    Bậc sáng suốt, có trí,
    Bậc nghe nhiều học nhiều.
    Sau khi biết mục đích,
    Cố gắng khéo hành trì,
    Rõ biết được Chánh pháp,
    Vị ấy được an lạc.

(IX) Kinh Thế Nào là Giới (Sn 56)

  1. Thế nào là giới đức?
    Thế nào là chánh hạnh?
    Cần phải làm tăng trưởng.
    Thân khẩu ý nghiệp nào?
    Ðể người chánh nhập cuộc,
    Ðạt được đích tối thượng?
  2. Kính lễ bậc trưởng thượng,
    Không ganh tị một ai,
    Cần phải biết thời gian,
    Ðể yết kiến Ðạo sư,
    Biết được đúng thời khắc,
    Thuyết pháp bắt đầu giảng,
    Hãy cẩn thận lắng nghe,
    Lời giảng được khéo nói.
  3. Hãy đi đến đúng thời,
    Trước mặt vị Ðạo Sư,
    Từ bỏ tánh cứng đầu,
    Với thái độ khiêm tốn,
    Hãy nhớ nghĩ ức niệm,
    Hãy chơn chánh hành trì,
    Mục đích và Chánh pháp,
    Chế ngự và Phạm hạnh
  4. Vui thích trong Chánh Pháp
    Hoan hỷ trong Chánh Pháp,
    An trú trên Chánh pháp,
    Biết phân tích Chánh pháp,
    Sở hành không làm gì,
    Có lời uế nhiễm pháp,
    Chịu hướng dẫn lãnh đạo,
    Lời trung thực khéo nói.
  5. Bỏ cười đùa, lắm miệng,
    Khóc than và sân hận,
    Làm những điều man trá,
    Lừa đảo, tham, kiêu mạn,
    Bồng bột và bạo ngôn,
    Cứng rắn và đam mê,
    Sống từ bỏ tất cả,
    Ly say đắm, kiên trì.
  6. Thức tri được cốt lõi,
    Những lời đươc khéo nói,
    Ðươc nghe khéo thức tri,
    Cốt lõi của thiền định,
    Với con người hấp tấp,
    Lại phóng dật buông lung,
    Trí tuệ, đều được nghe,
    Không có thể tăng trưởng.
  7. An vui thích Chánh pháp,
    Do bậc Thánh tuyên thuyết,
    Họ trở thành vô thượng,
    Về lời ý và nghiệp,
    Họ an tịnh nhu hòa,
    An trú trên thiền định,
    Chứng đạt được cốt lõi,
    Pháp được nghe, trí tuệ.

(X) Kinh Ðứng Dậy (Sn 57)

  1. Hãy đứng dậy, ngồi dậy,
    Với người mộng ích gì?
    Kẻ bệnh ngủ làm gì?
    Khi mũi tên phiền lụy.
  2. Hãy đứng dậy, ngồi dậy,
    Hãy kiên trì học tập,
    Ðạt cho được an tịnh,
    Ðừng để cho thần chết,
    Biết Ông là phóng dật,
    Mê hoặc, chinh phục Ông.
  3. Chư Thiên và loài Người,
    Sống y chỉ tầm cầu,
    Hãy vượt ái dục này,
    Chớ để thời khắc qua,
    Khi thời khắc đã qua,
    Bị sầu khổ địa ngụ.
  4. Phóng dật là bụi nhơ,
    Bụi do phóng dật khởi,
    Với minh, không phóng dật,
    Tự mình rút mũi tên

(XI) Kinh Ràhula (Sn 58)

Thế Tôn:

  1. Thường chung sống người hiền,
    Thầy có khinh miệt không?
    Người cầm đuốc loài Người,
    Ðược thầy tôn trọng không?

Ràhula:

  1. Thường chung sống người hiền,
    Con không có khinh miệt.
    Người cầm đuốc loài Người,
    Thường được con tôn trọng.

Thế Tôn:

  1. Bỏ năm dục trưởng dưỡng,
    Khả ái và đẹp ý,
    Với lòng tin xuất gia,
    Hãy trở thành con người,
    Làm chấm dứt khổ đau.
  2. Thân cận với bạn lành,
    Sống trú xứ xa vắng,
    Viễn ly không ồn ào,
    Hãy tiết độ ăn uống
  3. Y áo, đồ khất thực,
    Vật dụng và sàng tọa,
    Chớ có tham ái chúng,
    Chớ trở lui đời này.
  4. Chế ngự trong giới bổn,
    Phòng hộ trong năm căn,
    Hãy tu tập niệm thân,
    Sống với nhiều nhàm chán.
  5. Hãy từ bỏ tịnh tướng,
    Hệ lụy với tham ái,
    Tu tập tâm bất tịnh,
    Nhất tâm, khéo định tĩnh.
  6. Hãy tu tập vô tướng,
    Bỏ đi, mạn tùy miên,
    Do nhiếp phục kiêu mạn,
    Ngươi sẽ sống an tịnh.

Như vậy, Thế Tôn thường giáo giới Tôn giả Ràhula với những bài kệ này.

(XII) Kinh Vangìsa (Sn 59)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế tôn sống ờ Alavi, tại điện Aggàlava. Lúc bấy giờ, giáo sư thọ sư của Tôn giả Vangìsa, tên là Nigrodhakappa tại điện Aggalava, mệnh chung không bao lâu. Rồi Tôn giả Vangìsa, trong khi thiền định độc cư, tư tưởng sau đây được khởi lên: “Không biết bậc giáo thọ sư của ta có hoàn toàn nhập Niết-bàn hay không hoàn toàn nhập Niết-bàn?”. Rồi Tôn giả Vangìsa vào buổi chiều, từ thiền tịnh đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Vangìsa bạch Thế Tôn:

– Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi Thiền tịnh độc cư, con khởi lên tư tưởng như sau: “Không biết bậc giáo thọ sư của con có hoàn toàn nhập Niết Bàn hay không, hoàn toàn nhập Niết-bàn?”

Rồi Tôn giả Vangìsa, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, chấp tay vái chào Thế Tôn và với bài kệ, nói lên với Thế Tôn:

Vangìsa:

  1. Con hỏi bậc Ðạo Sư,
    Bậc trí tuệ tối thượng,
    Ai chặt đứt nghi hoặc,
    Ngay trong đời hiện tại?
    Tại Aggàlava,
    Tỷ-kheo đã mệnh chung,
    Có danh vọng danh xưng,
    Nhập Niết bàn tịch tịnh.
  2. Nigrodhakappa,
    Chính là tên vị ấy,
    Chính Thế Tôn đặt tên,
    Cho vị Phạm chí ấy,
    Vị ấy đảnh lễ Ngài,
    Sống tầm cầu giải thoát,
    Tinh cần và tinh tấn,
    Kiên cố thấy Chánh Pháp.
  3. Bạch Thích Ca, chúng con
    Ðệ tử Ngài, tất cả
    Chúng con đều muốn biết
    Bậc Pháp nhãn biến tri,
    An trú tại chúng con,
    Sẵn sàng để được nghe,
    Ngài Ðạo sư chúng con,
    Ngài là bậc Vô thượng.
  4. Hãy đoạn nghi chúng con,
    Cho con biết vị ấy,
    Ðã được tịch tịnh chưa
    Bậc trí tuệ rộng lớn,
    Hãy nói giữa chúng con,
    Bậc có mặt cùng khắp,
    Như Thiên chủ Ðế Thích,
    Lãnh đạo ngàn chư Thiên.
  5. Phàm những cột gút gì,
    Ở đây, đường si ám,
    Dự phần với vô trí,
    Trú xứ cho nghi hoặc;
    Gặp được đức Như Lai,
    Họ đều không còn nữa.
    Mắt này mắt tối thắng,
    Giữa cặp mắt loài Người.
  6. Nếu không có người nào,
    Ðoạn trừ các phiền não,
    Như gió thổi tiêu tan
    Các tầng mây dưới thấp,
    Màn đen tức bao trùm,
    Tất cả toàn thế giới,
    Những bậc có hào quang,
    Không có thể chói sáng.
  7. Bậc trí là những vị
    Tạo ra những ánh sáng,
    Con xem Ngài như vậy.
    Ôi! Bậc trí sáng suốt,
    Chúng con đều cùng đến,
    Bậc tu hành thiền quán,
    Giữa hội chúng, chúng con,
    Hãy nói về Kappa!
  8. Hãy gấp phát tiếng lên,
    Tiếng âm thanh vi diệu,
    Như con chim thiên nga,
    Giương cổ lên để hót,
    Phát âm từng tiếng một,
    Với giọng khéo ngân nga,
    Tất cả bạn chúng con,
    Trực tâm nghe lời Ngài.
  9. Vị đoạn tận sanh tử,
    Không còn chút dư tàn,
    Vị tẩy sạch phiền não,
    Con cầu Ngài thuyết pháp,
    Kẻ phàm phu không thể
    Làm theo điều nó muốn.
    Bậc Như Lai làm được,
    Ðiều được ước định làm,
  10. Câu trả lời của Ngài
    Thật đầy đủ trọn vẹn,
    Ðược chơn chánh nắm giữ,
    Bậc chánh trực trí tuệ.
    Ðây chắp tay cuối cùng,
    Con khéo vái chào Ngài,
    Chớ làm con si ám,
    Bậc trí tuệ tối cao.
  11. Sau khi đã được biết
    Thánh pháp thượng và hạ,
    Chớ làm con si ám,
    Bậc tinh tấn tối cao,
    Như vào giữa mùa hè,
    Nóng bức khát khao nước,
    Chúng con ngóng trông lời,
    Hãy mưa sự hiểu biết.
  12. Kappa, sống Phạm hạnh,
    Nếp sống có mục đích,
    Phải chăng sống như vậy
    Là sống không uổng phí?
    Vị ấy chứng tịch tịnh,
    Hay còn dư tàn lại,
    Ðược giải thoát thế nào,
    Hãy nói chúng con nghe!

Thế Tôn:

  1. Vị ấy trên danh sắc,
    Ðã đoạn tận tham ái,
    Thế Tôn ở nơi đây
    Ðã trả lời như vậy,
    Vượt qua được già chết,
    Không còn có dư tàn,
    Thế Tôn nói như vậy,
    Bậc tối thắng thứ năm.

Vangìsa:

  1. Nghe vậy, con tịnh tín,
    Với lời nói của Ngài,
    Bậc ẩn sĩ thứ bảy?
    Và lời hỏi của con.
    Không phải là vô ích!
    Và vị Bà-la-môn
    Không có lừa dối con.
  2. Nói gì thời làm vậy,
    Thật xứng đệ tử Phật,
    Chặt đứt lưới rộng chắc
    Của thần chết xảo quyệt.
  3. Ôi! Thế Tôn, Kappa
    Thấy căn nguyên chấp thủ,
    Thật sự đã vượt qua
    Thế lực của Ma vương,
    Thế lực thật khó vượt.

(XIII) Kinh Chánh xuất gia (Sn 63)

Người hỏi:

  1. Tôi hỏi bậc ẩn sĩ,
    Có trí tuệ rộng lớn,
    Ðã vượt qua bờ kia,
    Tịch tịnh, tự an trú.
    Làm sao một Tỷ-kheo,
    Bỏ nhà, bỏ các dục,
    Lại có thể chơn chánh
    Du hành ở trên đời?

Thế Tôn:

  1. Ai nhổ lên điềm lành,
    Như vậy, Thế Tôn đáp
    Các sao băng mộng mị,
    Và các tướng lành dữ,
    Vị ấy đoạn trừ được,
    Các lỗi lầm điềm lành;
    Tỷ kheo ấy chơn chánh
    Du hành ở trên đời.
  2. Tỷ-kheo nhiếp phục tham,
    Ðối với các dục vọng,
    Tại thiên giới, nhân giới,
    Vượt hữu, chứng tri pháp;
    Tỷ kheo ấy chơn chánh
    Du hành ở trên đời.
  3. Tỷ kheo bỏ hai lưỡi,
    Bỏ phẩn nộ, xan tham,
    Với tùy thuộc chống đối,
    Ðoạn tận thật hoàn toàn,
    Tỷ kheo ấy chơn chánh
    Du hành ở trên đời.
  4. Sau khi đã từ bỏ,
    Cả ái và phi ái,
    Không chấp thủ một ai,
    Không y chỉ chỗ nào,
    Giải thoát được hoàn toàn
    Các kiết sử trói buộc,
    Tỷ-kheo ấy chơn chánh
    Du hành ở trên đời.
  5. Ai không tìm lõi cây,
    Ðối với các sanh y,
    Có thể nhiếp phục tham,
    Ðối với các chấp thủ,
    Vị ấy không y chỉ,
    Không để ai dắt dẫn,
    Tỷ-kheo ấy chơn chánh
    Du hành ở trên đời.
  6. Với lời và với ý,
    Và với cả nghiệp làm,
    Không chống đối một ai,
    Chơn chánh biết diệu pháp,
    Thường cố gắng hướng đến,
    Ðường Niết bàn tịch tịnh,
    Tỷ-kheo ấy chơn chánh
    Du hành ở trên đời.
  7. Tỷ-kheo không tự cao,
    Khi người đảnh lễ mình,
    Dầu có bị nhiếc mắng,
    Không khởi tâm tức tối,
    Ðược đồ ăn của người,
    Không có sự tham đắm,
    Tỷ kheo ấy chơn chánh
    Du hành ở trên đời.
  8. Tỷ-kheo sau khi đoạn,
    Tham dục và sanh hữu,
    Từ bỏ, không làm hại,
    Không trói buộc một ai,
    Vị ấy vượt nghi hoặc,
    Ðã rút ra mũi tên,
    Tỷ-kheo ấy chơn chánh
    Du hành ở trên đời.
  9. Tỷ-kheo sau khi biết,
    Ðiều thích đáng cho mình,
    Không làm hại một ai,
    Có mặt ở trên đời,
    Sau khi đã biết pháp
    Như thật, như thế nào,
    Tỷ-kheo ấy chơn chánh
    Du hành ở trên đời.
  10. Với ai, các tuỳ miên,
    Không còn có tồn tại,
    Và cội gốc bất thiện,
    Ðược nhổ lên tận trừ,
    Vị ấy không tham dục,
    Không có hy cầu gì.
    Tỷ-kheo ấy chơn chánh
    Du hành ở trên đời.
  11. Ai đoạn tận lậu hoặc,
    Ðoạn trừ cả kiêu mạn,
    Mọi con đường tham dục,
    Ðược chế ngự nhiếp phục,
    Ðược nhiếp phục tịch tịnh,
    Tự ngã được an lập,
    Tỷ-kheo ấy chơn chánh
    Du hành ở trên đời.
  12. Có lòng tin, nghe pháp,
    Thấy được quyết định tánh,
    Bậc hiền không phe phái,
    Giữa rất nhiều phe phái,
    Có thể nhiếp phục được,
    Tham, sân và hận thù,
    Tỷ-kheo ấy chơn chánh
    Du hành ở trên đời.
  13. Thanh tịnh và chiến thắng,
    Kéo lên màn che kín,
    Tự tại trong các pháp,
    Ðến bờ kia, bất động,
    Ðoạn diệt các sở hành,
    Thiện xảo trong chánh trí,
    Tỷ-kheo ấy chơn chánh
    Du hành ở trên đời.
  14. Trong những thời quá khứ,
    Trong những thời vị lai,
    Vượt qua các chủ thuyết,
    Trí tuệ thật thanh tịnh,
    Với tất cả mọi xứ,
    Ðược hoàn toàn giải thoát.
    Tỷ-kheo ấy chơn chánh
    Du hành ở trên đời.
  15. Rõ biết được Pháp cú,
    Chứng tri được Chánh pháp,
    Thấy được sự mở rộng,
    Ðoạn tận các lậu hoặc,
    Ðối tất cả sanh y,
    Ðược trừ diệt hoàn toàn,
    Tỷ-kheo ấy chơn chánh
    Du hành ở trên đời.

Người hỏi:

  1. Bạch Thế Tôn, chắc chắn,
    Thực sự là như vậy,
    Tỷ-kheo được chế ngự,
    Ðã an trú như vậy,
    Ðã nhiếp phục hoàn toàn,
    Tất cả các kiết sử,
    Tỷ-kheo ấy chơn chánh
    Du hành ở trên đời.

(XIV) Kinh Dhammika (Sn 66)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn ông Anàthapindika. Rồi nam cư sĩ Dhammika đi đến Thế Tôn với năm trăm nam cư sĩ, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Dhammika nói lên những bài kệ với Thế Tôn:

Dhammika:

  1. Kính thưa Gotama,
    Bậc trí tuệ rộng lớn,
    Con xin kính hỏi Ngài,
    Vấn đề đặc biệt này:
    Với vị đệ tử Ngài,
    Làm thế nào là thiện?
    Nếu là vị xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Hay là vị có nhà,
    Sống đời nam cư sĩ?
  2. Ngài rõ biết đường đi,
    Cùng mục đích tối hậu,
    Của Thế Tôn đời này,
    Và thế giới chư Thiên.
    Không ai so sánh Ngài,
    Bậc thấy nghĩa thù diệu,
    Chính Ngài được tôn xưng,
    Là đức Phật thù thắng.
  3. Ngài biết tất cả trí,
    Ngài trình bày Chánh pháp,
    Vì lòng thương, từ mẫn,
    Ðối với mọi chúng sanh,
    Ngài mở rộng bức màn,
    Bậc có mắt mọi nơi
    Không cấu uế, thanh tịnh,
    Ngài chói toàn thế giới.
  4. Vị vua loài Nàgà
    Tên Eràvano,
    Ðã đến gần bên Ngài,
    Ðược nghe: Ngài chiến thắng.
    Vị ấy tìm đến Ngài,
    Ðể nghe lời khuyên nhủ,
    Sau khi nghe, thích thú
    Nói lên lời: Lành thay!.
  5. Vua Vessavana,
    Kuvera đến Ngài,
    Tìm hiểu hỏi han Ngài
    Về vấn đề diệu pháp,
    Ðược hỏi, ôi bậc trí,
    Hãy nói lên cho vua!
    Sau khi nghe, vị ấy,
    Cũng thích thú, ưa thích.
  6. Các bậc ngoại đạo này
    Ưa luận tranh khẩu chiến,
    Các tà mạng ngoại đạo,
    Hay các Ni-kiền Tử,
    Tất cả không vượt qua,
    Hơn thắng trí của Ngài,
    Như người đang đứng lại,
    Không thắng kẻ đi mau.
  7. Các Bà-la-môn này,
    Ưa luận tranh khẩu chiến,
    Có những bậc Phạm-chí,
    Ðã đến tuổi trưởng thượng,
    Tất cả đều trói buộc,
    Bởi tư tưởng của Ngài,
    Kể cả những hạng người,
    Tự phụ nói khoe khoang.
  8. Pháp này là tế nhị,
    Ðem lại nguồn an lạc,
    Ðã được bậc Thế Tôn
    Khéo nói, khéo thuyết giảng,
    Tất cả mọi hạng người,
    Ðều thích thú ưa nghe,
    Ðược hỏi, hãy nói lên,
    Ôi đức Phật tối thượng.
  9. Các vị Tỷ-kheo này,
    Ðang ngồi đây tất cả,
    Kể cả nam cư sĩ,
    Tất cả đều chờ nghe,
    Hãy để họ nghe pháp,
    Bậc Vô uế Giác ngộ,
    Như chư Thiên nghe lời,
    Vàsava khéo nói!

Thế Tôn:

  1. Tỷ-kheo, hãy nghe Ta,
    Ta khiến các Thầy nghe,
    Pháp đoạn trừ điều ác,
    Tất cả hãy trọ trì,
    Với ai thấy ý nghĩa,
    Nghĩ ngợi có suy tư,
    Hãy sống theo chánh hạnh,
    Thích hợp với xuất gia.
  2. Tỷ-kheo chớ ra ngoài,
    Trong thời gian phi thời,
    Hãy vào làng khất thực,
    Ðúng thời, thì hãy đi,
    Ai đi đứng phi thời,
    Bị bẫy sập trói buộc.
    Do vậy các đức Phật,
    Không có đi phi thời.
  3. Các sắc và các tiếng,
    Các vị, hương và xúc,
    Chính những loại pháp ấy
    Làm mê hoặc chúng sanh.
    Hãy nhiếp phục, lòng dục,
    Ðối với các pháp ấy,
    Hãy vào cho đúng thời,
    Ðể dùng buổi ăn sáng.
  4. Tỷ-kheo được đúng thời,
    Các đồ ăn khất thực,
    Hãy đi về một mình,
    Ngồi tại chỗ an tịnh,
    Suy tư hướng nội tâm,
    Ý không chạy ra ngoài,
    Làm cho thoát ra khỏi,
    Mọi chấp thủ tự ngã.
  5. Nếu vị ấy có nói,
    Với một vị đệ tử,
    Hay nói với một vị
    Một Tỷ-kheo nào khác,
    Hãy nói cho vị ấy,
    Sự thù diệu Chánh pháp,
    Không có nói hai lưỡi,
    Không bài xích một ai,
  6. Nhưng có những hạng người,
    Dùng khẩu chiến bằng lời,
    Những hạng người tuệ nhỏ,
    Chúng ta không tán thán,
    Triền phược trói buộc họ,
    Từ chỗ này chỗ kia,
    Ở đây họ dẫn tâm,
    Ðưa tâm đi quá xa.
  7. Ðồ khất thực, tinh xá,
    Cùng sàng tọa trú xứ,
    Nước để trừ bụi nhớp,
    Y áo Tăng-già-lê,
    Sau khi nghe Chánh pháp,
    Do Thiện Thệ thuyết giảng,
    Bậc đệ tử thắng tuệ,
    Quán sát, hãy dùng chúng.
  8. Do vậy đồ khất thực,
    Sàng tọa và trú xứ,
    Nước để trừ bụi nhớp,
    Y áo Tăng-già-lê,
    Ðối với những pháp ấy,
    Ðừng để cho dính nhiễm.
    Tỷ-kheo như giọt nước,
    Không dính trên lá sen.
  9. Trách nhiệm của gia chủ,
    Ta cũng nói các Ông,
    Làm theo đúng như vậy,
    Ðệ tử là tốt lành.
    Pháp Tỷ-kheo toàn diện,
    Khó thành tựu đầy đủ,
    Vì là người gia chủ,
    Phải làm nhiều việc đời.
  10. Chớ giết loài hữu tình,
    Chớ bảo người giết hại,
    Hay chấp nhận kẻ khác,
    Giết hại các người khác,
    Ðối với mọi sanh loại,
    Từ bỏ các hình phạt,
    Ðối với kẻ mạnh bạo,
    Như đối kẻ run sợ.
  11. Rồi hãy quyết từ bỏ,
    Lấy của không được cho,
    Ðệ tử khéo sáng suốt,
    Vật gì, vật của ai,
    Chớ khiến người khác lấy,
    Chớ chấp nhận lấy trộm.
    Hãy từ bỏ, chấm dứt,
    Mọi của cải không cho.
  12. Hãy từ bỏ, tránh xa
    Ðời sống phi Phạm hạnh,
    Như bậc trí tránh né,
    Lửa cháy hố than hừng.
    Nếu tự mình bất lực,
    Không thể sống Phạm hạnh,
    Thời chớ có xâm phạm
    Vợ của các người khác.
  13. Khi đi đến hội chúng,
    Hay đi đến đoàn chúng,
    Hay một mình một người,
    Chớ nói lời nói láo,
    Chớ khiến người nói láo,
    Chớ chấp nhận nói láo,
    Tất cả điều không thật,
    Hãy tránh xa từ bỏ.
  14. Chớ sống theo nếp sống,
    Uống rượu và say rượu,
    Với vị là cư sĩ,
    Ðã chấp nhận pháp này,
    Chớ khiến nguời uống rượu,
    Chớ chấp thuận uống rượu
    Sau khi biết uống rượu,
    Cuối đường là điên cuồng.
  15. Chỉ kẻ ngu say rượu,
    Mới làm các điều ác,
    Và khiến các người khác,
    Sống buông lung phóng dật,
    Hãy từ bỏ, tránh xa
    Xứ phi công đức này,
    Khiến điên cuồng si mê,
    Làm kẻ ngu thỏa thích.
  16. Chớ có giết hữu tình,
    Chớ lấy của không cho,
    Chớ nói láo không thật,
    Chớ uống rượu say mê,
    Từ bỏ phi Phạm hạnh,
    Không hành trì dâm dục
    Không có ăn ban đêm,
    Không ăn lúc phi thời.
  17. Chớ mang các vòng hoa,
    Chớ dùng các nước thơm,
    Hãy nằm trên mặt đất,
    Trên thảm chiếu trải dài,
    Tám hạnh này được gọi
    Là hạnh ngày trai giới,
    Do đức Phật giảng dạy,
    Ðể chấm dứt khổ đau.
  18. Từ nay ngày trai giới,
    Chia nửa tháng hai phần,
    Ngày mười bốn, mười lăm,
    Hay ngày tám mỗi tháng,
    Với tâm ý hoan hỷ,
    Thực hành thần thông pháp
    Gồm có đủ tám phần,
    Khéo đầy đủ vẹn toàn.
  19. Do vậy, vào buổi sáng,
    Thực hành ngày trai giới,
    Bậc có trí sáng suốt,
    Với tâm tư tín thành,
    Với tâm ý tùy hỷ,
    Cúng dường Tỷ-kheo Tăng,
    Với món ăn đồ uống,
    Hợp với khả năng mình.
  20. Hãy nuôi dưỡng mẹ cha,
    Hợp pháp và đúng pháp,
    Và cũng đúng với pháp,
    Hãy làm nghề buôn bán,
    Người gia chủ như vậy,
    Sở hành không phóng dật,
    Ðược sanh làm Thiên nhân,
    Tên là: “Tự chói sáng”.

Chương Ba – Ðại Phẩm

(I) Kinh Xuất Gia (Sn 72)

Ananda:

  1. Xuất gia, tôi tán thán,
    Như Pháp nhãn xuất gia,
    Sau khi Ngài quán sát,
    Chấp thuận hạnh xuất gia.

406.Trói buộc, sống gia đình,
Tụ hội mọi bụi đời,
Phóng khoáng, đời xuất gia,
Thấy vậy nên xuất gia.

  1. Sau khi Ngài xuất gia,
    Thân ác nghiệp Ngài tránh,
    Từ bỏ lời nói ác,
    Mạng sống Ngài thanh tịnh.
  2. Phật đi đến Vương Xá,
    Ðến chỗ núi bao vây,
    Tại nước Ma-kiệt-đà,
    Ngài sống hạnh khất sĩ,
    Mang theo thật đầy đủ,
    Các tướng tốt quang minh.
  3. Bình Sa vương thấy Ngài,
    Ðứng trên sân lầu thượng,
    Thấy đầy đủ tướng tốt,
    Bèn nói lên lời này:
  4. Các Ông hãy chăm sóc
    Người đẹp, lớn, thanh tịnh,
    Thành tựu với hạnh đức,
    Chỉ nhìn vừa một tầm.
  5. Mắt nhìn xuống, chánh niệm,
    Gia đình không hạ tiện,
    Hãy cho sứ giả theo,
    Tỷ-kheo sẽ đi đâu?
  6. Ðược sai, sứ giả ấy
    Ði theo sau lưng Ngài,
    Tỷ-kheo sẽ đi đâu?
    Trú xứ sẽ chỗ nào?
  7. Khất thực, từng nhà một,
    Căn hộ trì chế ngự,
    Bình bát được mau đầy,
    Tỉnh giác và chánh niệm.
  8. Sau khi đi khất thực,
    Ẩn sĩ ra khỏi thành,
    Leo lên Pandava,
    Sẽ trú xứ tại đấy.
  9. Thấy vị ấy đến chỗ,
    Các sứ giả ngồi chờ,
    Còn một vị đi về,
    Kể lại chuyện vua hay.
  10. Ðại vương, Tỷ-kheo ấy,
    Phía đông Pandava,
    Ngồi như cọp, bò chúa,
    Như sư tử trong hang.
  11. Nghe sứ giả, đức vua
    Với cỗ xe thù thắng,
    Vội vàng ra khỏi thành,
    Ði đến Pandava.
  12. Ði được, vua đi xe,
    Rồi xuống xe đi bộ,
    Ðức vua tiến lại gần,
    Và vào chỗ Ngài ở.
  13. Ngồi xuống, vua nói lên
    Lời hỏi thăm chào đón,
    Lời lẽ chào đón xong,
    Vua nói lên nghĩa này.
  14. Người thanh niên tuổi trẻ,
    Ngây thơ, bước vào đời,
    Ðẹp cao được đầy đủ,
    Thiện sanh dòng Sát-ly.
  15. Trang hoàng binh đội ngũ,
    Trước mắt cả binh đoàn,
    Tài sản ta cho Người,
    Hãy hưởng và trả lời
    Về vấn đề thọ sanh.

Thế Tôn:

  1. Trên sườn núi Tuyết sơn,
    Sống dân tộc đoạn trực,
    Tài sản nghị lực đủ,
    Ở xứ Kosala.
  2. Dòng họ thuộc mặt trời,
    Sanh tộc là Thích-ca,
    Từ bỏ gia tộc ấy,
    Thưa vua, Ta xuất gia,
    Ta không có tha thiết,
    Ðối với các loại dục.
  3. Thấy nguy hiểm trong dục,
    Bỏ chúng, là an ổn,
    Ta sẽ đi, tinh tấn,
    Ý Ta, được hoan hỷ.

(II) Kinh Tinh Cần (Sn 74)

Thế Tôn:

  1. Bên sông Ni-liên-thuyền,
    Ta tinh cần tinh tấn,
    Cố gắng, Ta thiền định,
    Ðạt an ổn khổ ách.
  2. Ác ma đến gần Ta,
    Nói lên lời từ mẫn,
    Ông ốm không dung sắc,
    Ông đã gần chết rồi.
  3. Cả ngàn phần, Ông chết,
    Chỉ một phần còn sống,
    Hãy sống, sống tốt hơn,
    Sẽ làm các công đức.
  4. Như Ông sống Phạm hạnh,
    Hãy đốt lửa tế tự,
    Hãy chất chứa công đức,
    Ông tinh tấn làm gì?
  5. Khó thay, đường tinh tấn,
    Khó làm, khó đạt được.
    Ác ma đứng gần Phật,
    Nói lên những kệ này.
  6. Thế Tôn đã đáp lại
    Lời Ác ma như sau:
    Bà con ác phóng dật,
    Ngươi đến đây làm gì?
  7. Với công đức nhỏ bé,
    Ta đâu có cần đến?
    Với ai cần công đức,
    Ác ma đáng nói chúng.
  8. Ðây có tín, tinh tấn,
    Và Ta có trí tuệ,
    Như vậy, Ta tinh tấn,
    Sao Ngươi hỏi Ta sống?
  9. Gió này làm khô cạn,
    Cho đến các dòng sông,
    Làm sao khô cạn máu,
    Khi Ta sống tinh tấn?
  10. Dầu máu có khô cạn,
    Mật, đàm Ta khô cạn,
    Dầu thịt có hủy hoại,
    Tâm Ta càng tịnh tín,
    Ta lại càng vững trú,
    Niệm, tuệ và thiền định.
  11. Do Ta sống như vậy,
    Ðạt được thọ tối thượng,
    Tâm không cầu các dục,
    Nhìn chúng sanh thanh tịnh.
  12. Dục, đội quân thứ nhất.
    Thứ hai, gọi bất lạc,
    Thứ ba, đói và khát,
    Thứ tư, gọi tham ái.
  13. Năm, hôn trầm thụy miên,
    Thứ sáu, gọi sợ hãi,
    Thứ bảy, gọi nghi ngờ,
    Tám, dèm pha ngoan cố.
  14. Lợi, danh và cung kính,
    Danh vọng được tà vạy,
    Ai tự đề cao mình,
    Hủy báng các người khác.
  15. Ôi, này Na-mu-ci,
    Ðây là quân đội Ngươi,
    Ðây quân đội chiến trận,
    Của dòng họ Kanhà,
    Kẻ nhát, không thắng Ngươi,
    Ai thắng Ngươi, được lạc.
  16. Ta mang cỏ munja,
    Vững thay, đây đời sống,
    Thà Ta chết chiến trận,
    Tốt hơn, sống thất bại.
  17. Bị thấy đắm ở đây,
    Số Sa-môn, Phạm chí,
    Không biết được con đường,
    Bậc giới đức thường đi.
  18. Thấy khắp quân đội dàn,
    Ác ma trên lưng voi,
    Ta bước vào chiến trận,
    Không để ai chiếm đoạt.
  19. Ðội ngũ quân nhà Ngươi,
    Ðời này và chư Thiên,
    Không một ai thắng nổi,
    Ta đến Ngươi với tuệ,
    Như hòn đá dập nát,
    Chiếc bát chưa nung chín.
  20. Nhiếp phục được tâm tư,
    Khéo an trú chánh niệm,
    Ta sẽ đi bộ hành,
    Nước này qua nước khác,
    Ðể huấn luyện rộng rãi,
    Cho những người đệ tử.
  21. Không phóng dật, tinh cần,
    Họ hành lời Ta dạy,
    Dầu Ngươi không muốn vậy,
    Họ vẫn sẽ đi tới,
    Chỗ nào họ đi tới,
    Chỗ ấy không sầu muộn.

Ác-ma:

  1. Bảy năm, ta bước theo,
    Chân theo chân Thế Tôn,
    Không tìm được lỗi lầm,
    Nơi Thế Tôn chánh niệm.
  2. Như quạ bay xung quanh,
    Hòn đá như đống mỡ,
    Có thể có gì mềm?
    Có thể có gì ngọt?
  3. Không tìm được gì ngọt,
    Quạ từ đó bay đi,
    Như quạ mổ hòn đá,
    Ta bỏ Gotama.
  4. Bị sầu muộn chi phối,
    Cây đàn rơi khỏi nách,
    Kẻ Dạ-xoa ác ý,
    Tại đấy liền biến mất.

(III) Kinh Khéo Thuyết (Sn 78)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana… Thế Tôn nói như sau:

– Thành tựu bốn chi phần, này các Tỷ-kheo, lời nói được khéo nói, không phải vụng nói, không có lỗi lầm, không bị người trí quở trách. Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chỉ nói lời khéo nói, không nói lời vụng nói; chỉ nói lời đúng pháp, không nói lời phi pháp; chỉ nói lời khả ái, không nói lời phi khả ái; chỉ nói lời đúng sự thật, không nói lời không đúng sự thật. Thành tựu với bốn chi phần này, này các Tỷ-kheo, lời nói là được khéo nói không phải vụng nói, không có lỗi lầm, không bị người trí quở trách.

Thế Tôn thuyết như vậy. Thiện Thệ thuyết như vậy xong bậc Ðạo Sư lại nói thêm như sau:

  1. Bậc Thiện nhân nói lên,
    Lời khéo nói tối thượng,
    Thứ hai, nói đúng pháp,
    Thứ ba, nói khả ái
    Không nói phi khả ái,
    Thứ tư, nói chân thật
    Không nói không chân thật.

Rồi Tôn giả Vangìsa từ chỗ ngồi đứng dậy đắp y vào một bên vai, chắp tay hướng đến Thế Tôn và bạch Thế Tôn:

– Ý nghĩ này đến với con, bạch Thiện Thệ.

– Hãy nói lên ý kiến ấy, này Vangìsa!.

Rồi Tôn giả Vangìsa, trước mặt Thế Tôn, nói lên lời tán thán với những bài kệ thích ứng:

Vangìsa:

  1. Hãy nói lên lời nói,
    Không thiêu đốt tự ngã,
    Không làm hại người khác,
    Lời nói ấy khéo nói.
  2. Hãy nói lời khả ái,
    Nói lời khiến hoan hỷ,
    Không mang theo ác hại,
    Khiến người khác ưa thích.
  3. Chân thật, lời bất tử,
    Ðây thường pháp là vậy,
    Họ nói, bậc Thiện nhân,
    An trú trên chân thật,
    Trên mục đích, trên pháp.
  4. Lời gì đức Phật nói,
    An ổn, đạt Niết-bàn,
    Ðoạn tận các khổ đau,
    Ðấy lời nói tối thượng.

(IV) Kinh Sundarika Bhàradvàja (Sn 80)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở phía dân chúng Kosala, trên bờ sông Sundarikà. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja đốt lửa thiêng trên bờ sông Sundarikà và đang cử hành các tế lễ lửa. Rồi Bà-la-môn Sundarikabhàradavàja, sau khi đốt lửa thiêng, sau khi cử hành các lễ tế lửa, từ chỗ ngồi đứng dậy và ngó xung quanh bốn phương nghĩ rằng: “Ai có thể ăn đồ ăn còn lại của lễ tế tự này?”.

Rồi Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja thấy Thế Tôn ngồi dưới một gốc cây, không bao xa, đầu che trùm lại; thấy vậy, tay trái cầm đồ tế tự còn lại, tay mặt cầm cái bình nước, đi đến Thế Tôn. Thế Tôn nghe tiếng chân của Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja liền mở đầu ra. Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja nghĩ rằng: “Ðầu trọc là vị này. Một kẻ đầu trọc là vị này”, và muốn đi trở lại. Rồi Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja suy nghĩ: “Ở đây, cũng có một số Bà-la-môn trọc đầu. Vậy ta hãy đi đến vị này và hỏi về thọ sanh”. Rồi Bà-la-môn Sundaikabhàradvàja đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói với Thế Tôn:

– Thọ sanh của Tôn giả là thế nào?

Rồi Thế Tôn nói với Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja những bài kệ:

Thế Tôn:

  1. Ta không phải Phạm chí,
    Cũng không phải con vua,
    Cũng không phải buôn bán,
    Không phải là ai hết,
    Do liễu tri giai cấp,
    Của các hàng phàm phu,
    Ta kẻ trí ở đời,
    Bộ hành, không sở hữu.
  2. Mang áo Tăng-già-lê,
    Ta sống, không gia đình,
    Với tóc được cạo sạch,
    Tự ngã được an tịnh,
    Ở đời Ta không nhiễm,
    Với các thiếu niên nào,
    Không xứng đáng, Ông hỏi,
    Hỏi Ta về thọ sanh.

Bà-la-môn:

  1. Thật sự, thưa Tôn giả,
    Các vị Bà-la-môn
    Thường hỏi Bà-la-môn,
    Có phải người Phạm chí?

Thế Tôn:

Nếu Ông nói lên rằng:
Ông là Bà-la-môn,
Và nếu Ông hỏi Ta
Không phải Bà-la-môn,
Vậy Ta sẽ hỏi Ông
Về Sàvitti này,
Gồm có mười hai câu,
Và hai mươi bốn chữ.

Bà-la-môn:

  1. Do y tựa vào gì,
    Các ẩn sĩ, loài Người,
    Sát-đế-lị Phạm chí,
    Ðã tổ chức tế đàn,
    Cho các hàng chư Thiên,
    Rộng rãi trong đời này?

Thế Tôn:

Vị nào đạt cứu cánh,
Vị nào hiểu Vệ-đà,
Trong lễ tế đàn này,
Thọ hưởng đồ cúng dường,
Ta tuyên bố, nói rằng
Lễ ấy được tăng thịnh.

Bà-la-môn:

  1. Chắc chắn tế đàn ấy,
    Cúng dường được tăng thịnh.
    Vì chúng ta thấy được,
    Vị am hiểu Vệ-đà,
    Nếu chúng ta không thấy,
    Ðược một ngưòi như Ông,
    Một người khác thọ hưởng
    Ðồ cúng dường tế đàn.

Thế Tôn:

  1. Vì Ông, này Phạm chí,
    Ðến Ta vì cần thiết,
    Với mục đích rõ ràng,
    Vậy nay Ta hỏi Ông,
    Ông có thể tìm được
    Một bậc trí ở đây,
    An tịnh, không sân hận,
    Không khổ, không tầm cầu?

Bà-la-môn:

  1. Tôi vui trong tế đàn,
    Tôn giả Gotama,
    Tôi tha thiết ao ước,
    Ðược cúng dường tế đàn,
    Nhưng tôi không được biết,
    Tôn giả hãy dạy tôi!
    Hãy nói lên cho tôi,
    Chỗ cúng dường tăng thịnh.

Thế Tôn:

Vậy này Bà-la-môn,
Hãy lắng tai mà nghe,
Ta nay sẽ vì Ông,
Tuyên thuyết pháp vi diệu.

  1. Chớ hỏi về thọ sanh,
    Hãy hỏi về hạnh đức,
    Thật vậy, từ củi gỗ,
    Một ngọn lửa được sanh,
    Từ gia đình thấp kém,
    Bậc ẩn sĩ, có trí,
    Ðược huấn luyện thuần thục,
    Ðược xấu hổ chế ngự.
  2. Ðược chân thật huấn luyện,
    Ðược nhiếp phục chế ngự,
    Bậc đạt đến hiểu biết,
    Phạm hạnh được viên thành,
    Hãy đúng thời cúng dường,
    Ðồ cúng dường vị ấy.
    Vậy vị Phạm chí nào
    Muốn nguyện cầu công đức,
    Hãy tổ chức tế đàn,
    Với cúng dường như vậy.
  3. Những vị nào, bỏ dục,
    Du hành, không gia đình,
    Khéo chế ngự nhiếp phục,
    Như con thoi trực chỉ.
    Ðúng thời đối vị ấy,
    Hãy cúng đồ tế tự,
    Vị Phạm chỉ cầu phước,
    Hãy bố thí như vậy,
    Hãy tổ chức tế đàn,
    Với cúng dường như vậy.
  4. Những vị đã ly tham,
    Các căn khéo định tĩnh,
    Như trăng được giải thoát,
    Khỏi nanh vuốt Ràhu,
    Hãy đúng thời cúng dường,
    Ðồ cúng dường vị ấy,
    Vậy vị Phạm hạnh nào,
    Muốn nguyện cầu công đức,
    Hãy tổ chức tế đàn,
    Với cúng dường như vậy.
  5. Không tham dính vật gì,
    Họ du hành ở đời,
    Luôn luôn giữ chánh niệm,
    Từ bỏ ngã sở kiến,
    Hãy đúng thời cúng dường,
    Ðồ cúng dường vị ấy.
    Vậy vị Phạm chí nào,
    Muốn cầu nguyện công đức,
    Hãy tổ chức tế đàn,
    Với cúng dường như vậy.
  6. Ai từ bỏ các dục,
    Tự nhiếp phục, du hành.
    Ai biết sự chấm dứt,
    Của sanh và sự chết,
    Tịch tịnh và mát lạnh.
    Mát lạnh như nước hồ.
    Như Lai thật xứng đáng,
    Ðồ cúng dường tế tự.
  7. Bình đẳng kẻ bình đẳng,
    Xa lánh không bình đẳng,
    Như Lai chứng đạt được,
    Trí tuệ không giới hạn,
    Không bị dính, uế nhiễm,
    Ðời này hay đời sau.
    Như Lai thật xứng đáng,
    Ðồ cúng dường tế tự.
  8. Trong ai không man trá,
    Không sống với kiêu mạn,
    Ai không có tham dục,
    Không của ta, không cầu,
    Phẫn nộ được đoạn trừ,
    Tự ngã thật tịch tịnh,
    Vị Bà-la-môn ấy,
    Cấu uế, sầu muộn đoạn,
    Như Lai thật xứng đáng,
    Ðồ cúng dường tế tự.
  9. Ai đoạn diệt hoàn toàn
    Mọi trú xứ của ý,
    Không còn có nắm giữ,
    Sự vật gì ở đời,
    Không còn có chấp thủ,
    Ðời này hay đời sau.
    Như Lai thật xứng đáng,
    Ðồ cúng dường tế tự.
  10. Tâm ai thật định tĩnh,
    Vượt khỏi được bộc lưu,
    Rõ biết được Chánh pháp,
    Với tri kiến tối thượng,
    Lậu hoặc được đoạn trừ,
    Mang thân này tối hậu.
    Như Lai thật xứng đáng,
    Ðồ cúng dường tế tự.
  11. Với ai, các hữu lậu,
    Và lời nói thô ác,
    Ðược đoạn tận chấm dứt,
    Không còn có tồn tại,
    Vị ấy đạt hiểu biết,
    Giải thoát mọi khía cạnh.
    Như Lai thật xứng đáng,
    Ðồ cúng dường tế tự.
  12. Giữa những người nhiễm trước,
    Vị ấy không nhiễm trước,
    Giữa chúng sanh kiêu mạn,
    Vị ấy không kiêu mạn,
    Liễu tri được đau khổ,
    Kể cả ruộng và đất.
    Như Lai thật xứng đáng,
    Ðồ cúng dường tế tự.
  13. Không dựa vào ước vọng,
    Vị ấy thấy viễn ly,
    Vượt qua sự hiểu biết,
    Cùng tri kiến người khác,
    Ðối với mọi sở duyên,
    Vị ấy đều không có,
    Như Lai thật xứng đáng,
    Ðồ cúng dường tế tự.
  14. Vị ấy chứng tri được
    Các pháp gần hay xa,
    Ðược đoạn trừ, chấm dứt,
    Không còn có hiện hữu,
    An tịnh, không chấp thủ,
    Ðược hoàn toàn giải thoát
    Như Lai thật xứng đáng,
    Ðồ cúng dường tế tự.
  15. Thấy được sự đoạn tận,
    Sanh diệt các kiết sử,
    Trừ được đường tham dục,
    Không còn lại dư tàn.
    Thanh tịnh, không lỗi lầm,
    Không cấu uế, không nhiễm.
    Như Lai thật xứng đáng,
    Ðồ cúng dường tế tự.
  16. Ai không thấy tự ngã,
    Với tự ngã của mình,
    Ðịnh tâm và chánh trực,
    Kiên trì không dao động,
    Vị ấy không có dục,
    Không cứng cỏi, phân vân.
    Như Lai thật xứng đáng,
    Ðồ cúng dường tế tự.
  17. Với ai không còn nữa,
    Nguyên nhân của si mê,
    Biết rõ và thấy rõ,
    Ðối với hết thảy pháp,
    Và mang nặng thân này,
    Thân này thân cuối cùng.
    Chứng đạt Chánh Ðẳng Giác,
    Vô thượng an ổn xứ,
    Ðạt cho đến như vậy,
    Bậc Dạ-xoa thanh tịnh.
    Như Lai thật xứng đáng,
    Ðồ cúng dường tế tự.

Bà-la-môn:

  1. Ðây đồ con cúng dường,
    Ðồ cúng dường chân thật,
    Con đã tìm thấy được,
    Bậc trí đức như vậy,
    Phạm thiên hãy chứng giám,
    Thế Tôn hãy chấp nhận,
    Thế Tôn hãy thọ hưởng,
    Ðồ cúng dường của con.

Thế Tôn:

  1. Ta không có thọ dụng
    Ðồ ăn từ kệ tụng,
    Hỡi này Bà-la-môn,
    Ðây không phải là pháp,
    Của những người có trí,
    Chư Phật đều từ bỏ,
    Ca hát các bài kệ,
    Chỗ nào pháp an trú,
    Hỡi này Bà-la-môn,
    Ðấy chính là truyền thống.
  2. Ông cần phải cúng dường,
    Ðồ ăn, đồ uống khác,
    Bậc Ðại sĩ toàn vẹn,
    Ðoạn tận các lậu hoặc,
    Ðã đoạn tận trao hối,
    Không còn bị dao động,
    Ngài chính là thửa ruộng,
    Cho người cầu công đức.

Bà-la-môn:

  1. Thế Tôn, con muốn biết,
    Người có tin như con,
    Ai có thể hưởng thọ,
    Ðồ cúng dường của con,
    Trong khi lễ tế đàn,
    Con phải tìm đến ai?
    Lời Ngài dạy thế nào,
    Con sẽ đạt cho được.

Thế Tôn:

  1. Với ai, không xông xáo,
    Với ai, tâm không động,
    Giải thoát khỏi các dục,
    Với ai bỏ hôn trầm,
  2. Lãnh đạo kẻ biên giới,
    Thiện xảo trong sanh tử,
    Ẫn sĩ đầy đủ tuệ,
    Ðã đến lễ tế đàn.
  3. Nhiếp phục kiêu ngạo xong,
    Hãy chắp tay đảnh lễ,
    Cúng dường đồ ăn uống,
    Cúng dường vậy tăng trưởng.

Bà-la-môn:

  1. Ngài là bậc Giác Ngộ,
    Xứng đáng được cúng dường,
    Ngài là ruộng phước đức,
    Vô thượng, không gì hơn,
    Vị tiếp nhận cúng dường,
    Xứng đáng toàn thế giới.
    Bố thí cho Tôn giả,
    Kết quả thật to lớn.

Rồi Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja bạch Thế Tôn:

– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, hay phơi bày ra những gì bị che kín, hay chỉ đường cho kẻ lạc hướng, hay đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mặt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con nay quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Hãy cho con được xuất gia với Tôn giả Gotama. Hãy cho con thọ đại giới.

Và Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja… trở thành một vị A-la-hán.

(V) Kinh Màgha (Sn 86)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, trên núi Gijjhakàta. Rồi thanh niên Màgha đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Màgha bạch Thế Tôn:

– Thưa Tôn giả Gotama, con là người bố thí, là thí chủ, rộng rãi, mong muốn được yêu cầu. Con tầm cầu tài sản đúng pháp, sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp, với những tài sản thâu hoạch đúng pháp, tạo dựng đúng pháp, con cho một nguời, con cho hai người, con cho ba người, con cho bốn người, con cho năm người, con cho sáu người, con cho bảy người, con cho tám người, con cho chín người, con cho mười người, con cho hai mươi người, con cho ba mươi người, con cho bốn mươi người, con cho năm mươi người, con cho một trăm người, con cho nhiều hơn nữa. Thưa Tôn giả Gotama, con cho như vậy, con bố thí như vậy, con có được nhiều phưóc đức không?

– Này thanh niên, Con cho như vậy, Con bố thí như vậy Con được nhiều phước đức. Này thanh niên, ai là người bố thí, là người thí chủ rộng rãi, mong muốn được yêu cầu, ai tầm cầu tài sản đúng pháp sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp, với những tài sản thâu hoạch đúng pháp, tạo dựng đúng pháp, ngưòi ấy cho một người… cho một trăm người, cho nhiều hơn nữa, người ấy được nhiều công đức.

Rồi thanh niên Màgha nói lên lời Thế Tôn những bài kệ:

Thanh niên Màgha:

  1. Thanh niên Màgha thưa:
    Tôn giả Gotama,
    Con hỏi bậc Hiền hòa,
    Mặc cà sa không nhà,
    Ai ưa muốn được cầu,
    Là thí chủ, gia chủ
    Mong muốn được phước đức,
    Bố thí, mong cầu phước.
    Ở đây, thí người khác,
    Ðồ ăn và đồ uống,
    Tại đâu nên bố thí,
    Ðể đồ cúng được tịnh.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn bèn trả lời:
    Này thanh niên Màgha,
    Ai ưa muốn được cầu,
    Là thí chủ, gia chủ,
    Mong muốn được phước đức,
    Bố thí, mong cầu phước,
    Ở đây, thí người khác
    Ðồ ăn và đồ uống,
    Người ấy cần phải thí,
    Người xứng đáng cúng dường.

Màgha:

  1. Thanh niên Màgha thưa:
    Tôn giả Gotama,
    Ai ưa muốn được cầu,
    Là thí chủ, gia chủ,
    Mong muốn được phước đức,
    Bố thí, mong cầu phước,
    Ở đây, thí người khác
    Ðồ ăn và đồ uống,
    Thế Tôn hãy nói con
    Nên cúng dường cho ai?

Thế Tôn:

  1. Những ai sống ở đời,
    Thật sự không nhiễm trước,
    Hoàn toàn không sở hữu,
    Tự ngã được nhiếp phục,
    Ðúng thời, đối vị ấy,
    Hãy cúng đồ tế tự.
    Vị Phạm chí cầu phước,
    Hãy bố thí như vậy.
  2. Những ai đã chặt đứt,
    Mọi kiết sử trói buộc,
    Nhiếp phục được giải thoát,
    Không dao động, mong cầu.
    Ðúng thời, đối vị ấy,
    Hãy cúng đồ tế tự.
    Vị Phạm chí cầu phước,
    Hãy bố thí như vậy.
  3. Những ai đã giải thoát
    Mọi kiết sử trói buộc,
    Nhiếp phục được giải thoát,
    Không khổ, không mong cầu,
    Ðúng thời, đối vị ấy,
    Hãy cúng đồ tế tự.
    Vị Phạm chí cầu phước,
    Hãy bố thí như vậy.
  4. Vị nào đã đoạn tận,
    Tham, sân và cả si,
    Các lậu hoặc đã đoạn,
    Phạm hạnh đã thành tựu,
    Ðúng thời, đối vị ấy,
    Hãy cúng đồ tế tự.
    Vị Phạm chí cầu phước,
    Hãy bố thí như vậy.
  5. Ai sống không man trá,
    Và không có kiêu mạn,
    Những vị sống không tham,
    Không ngã sở, không cầu,
    Ðúng thời, đối vị ấy,
    Hãy cúng đồ tế tự.
    Vị Phạm chí cầu phước,
    Hãy bố thí như vậy.
  6. Những ai đối với ai,
    Không rơi vào hệ lụy,
    Vượt khỏi được bộc lưu,
    Du hành không ngã sở,
    Ðúng thời, đối vị ấy,
    Hãy cúng đồ tế tự,
    Vị Phạm chí cầu phước,
    Hãy bố thí như vậy.
  7. Với ai không tham ái,
    Một vật gì ở đời,
    Không ái hữu, phi hữu,
    Ðời này hay đời sau,
    Ðúng thời, đối vị ấy,
    Hãy cúng đồ tế tự.
    Vị Phạm chí cầu phước,
    Hãy bố thí như vậy.
  8. Những ai từ bỏ dục,
    Sống không có gia đình,
    Khéo léo biết chế ngự,
    Như con thoi, chính trực,
    Ðúng thời, đối vị ấy.
    Hãy cúng đồ tế tự.
    Vị Phạm chí cầu phước,
    Hãy bố thí như vậy.
  9. Những ai, ly tham ái,
    Các căn khéo định tĩnh,
    Như mặt trăng thoát khỏi,
    Nanh vuốt của Ràhu,
    Ðúng thời, đối vị ấy,
    Hãy cúng đồ tế tự.
    Vị Phạm chí cầu phước,
    Hãy bố thí như vậy.
  10. Những ai được an tịnh,
    Ly tham, ly phẩn nộ,
    Sau khi bỏ đời này,
    Không còn có sanh thú,
    Ðúng thời, đối vị ấy,
    Hãy cúng đồ tế tự.
    Vị Phạm chí cầu phước,
    Hãy bố thí như vậy.
  11. Ðoạn sanh tử đã xong,
    Không còn chút dư tàn,
    Nghi ngờ và phân vân,
    Tất cả được nhiếp phục,
    Ðúng thời, đối vị ấy,
    Hãy cúng đồ tế tự.
    Vị Phạm chí cầu phước,
    Hãy bố thí như vậy.
  12. Những ai sống ở đời
    Tự mình làm hòn đảo,
    Không có vật sở hữu,
    Giải thoát được trọn vẹn,
    Ðúng thời, đối vị ấy,
    Hãy cúng đồ tế tự.
    Vị Phạm chí cầu phước,
    Hãy bố thí như vậy.
  13. Những ai ngay đời này,
    Như thật rõ biết được,
    Ðây đời sống cuối cùng,
    Không còn có tái sanh,
    Ðúng thời, đối vị ấy,
    Hãy cúng đồ tế tự
    Vị Phạm chí cầu phước,
    Hãy bố thí như vậy.
  14. Ai đạt tuệ tối thượng,
    Ưa thiền, giữ chánh niệm,
    Ðạt được sự giác ngộ,
    Chỗ quy ngưỡng nhiều người.
    Ðúng thời, đối vị ấy,
    Hãy cúng đồ tế tự,
    Vị Phạm chí cầu phước,
    Hãy bố thí như vậy.

Màgha:

  1. Thật sự câu con hỏi,
    Không trống không, vô ích,
    Thế Tôn nói cho con,
    Những ai đáng cúng dường.
    Ở đây Ngài đã biết,
    Sự thật như thế nào.
    Như vậy chính là pháp,
    Ngài được biết như vậy.
  2. Rồi thanh niên Màgha,
    Lại thưa thêm như sau:
    Ai ưa muốn được cầu,
    Là thí chủ, gia chủ,
    Mong muốn được phước đức,
    Bố thí, mong cầu phước,
    Ở đây, thí người khác,
    Ðồ ăn và đồ uống,
    Thế Tôn hãy nói con,
    Pháp tế tự hoàn toàn.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn nói Màgha,
    Hãy tế đàn, tế tự,
    Phải làm cho trong sạch,
    Hoàn toàn mọi tâm tư,
    Ðối người lễ tế đàn,
    Ðối tượng là đồ cúng,
    Hãy an trú ở đây,
    Từ bỏ sự sân hận.
  2. Vị ấy đoạn tận tham,
    Nhiếp phục cả sân hận,
    Tu tập tâm từ bi,
    Vô lượng khắp tất cả,
    Với hạnh không phóng dật,
    Ngày đêm luôn tu tập,
    Cùng khắp mọi phương hướng,
    Biến mãn vô lượng tâm.

Màgha:

  1. Ai trong sạch, giải thoát,
    Ai còn bị trói buộc,
    Ai với tự thân mình,
    Ði đến Phạm Thiên giới?
    Vì không biết, con hỏi.
    Hãy nói lên, ẩn sĩ,
    Mong Thế Tôn chứng giám,
    Cho con ngày hôm nay,
    Con được thấy Phạm thiên,
    Ngài đối với chúng con,
    Thật sự Ngài ngang bằng,
    Với Phạm thiên không khác,
    Ôi! Bậc chói hào quang,
    Làm thế nào được sanh,
    Lên cảnh giới Phạm thiên?

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn đáp Màgha:
    Ai tổ chức tế đàn,
    Ðầy đủ cả ba phần,
    Tế đàn ấy tăng thịnh,
    Với những người được cúng.
    Xứng đáng được cúng dường.
    Tế đàn như vậy xong,
    Chơn chánh muốn được cầu,
    Ta nói vị ấy sanh,
    Tại cảnh giới Phạm thiên.

Khi nói được như vậy, thanh niên Màgha bạch Thế Tôn:

– Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama!.

Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama!… Từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

(VI) Kinh Sabhiya (Sn 91)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, du sĩ Sabhiya, một du sĩ ngoại đạo, được một Thiên nhân trước kia là bà con huyết thống, nói lên những câu hỏi sau đây: “Này Sabhiya, vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, khi được hỏi những câu hỏi này, trả lời cho Ông, thời Ông hãy sống Phạm hạnh với người ấy”.

Rồi du sĩ Sabhiya, sau khi học những câu hỏi ấy từ vị Thiên nhân ấy, phàm có những Sa-môn, Bà-la-môn nào có hội chúng, có đồ chúng, bậc đạo sư đồ chúng được biết đến, có danh vọng, các ngoại đạo sư, được quần chúng ái mộ, như Pùrana Kacsapa, Makkhali Gosàla, Ajita Kesa Kambali, Pakudha Kacàyana, Sanjaya Belatthiputta, Nigantha Nàtaputta, Sabhiya đi đến các vị ấy và hỏi những câu hỏi ấy. Các vị ấy, được du sĩ Sabhiya hỏi những câu hỏi ấy, không có thể giải đáp. Do không có thể giải đáp, họ biểu lộ phẩn nộ, sân hận, bất mãn. Họ vặn hỏi trở lại du sĩ Sabhiya. Rồi du sĩ Sabhiya suy nghĩ như sau: “Các vị Tôn giả, Sa-môn, Bà-la-môn ấy có hội chúng, có đồ chúng, bậc đạo sư, đồ chúng được biết đến, có danh vọng, có ngoại đạo sư, được quần chúng ái mộ, như Pùrana Kassapa… Nigantha Nàtaputta. Các vị ấy được ta hỏi những câu hỏi không có thể giải đáp. Do không có thể giải đáp, họ biểu lộ phẩn nộ, sân hận, bất mãn họ vặn hỏi trở lại ta. Vậy ta haỹ trở lui đời sống hạ liệt, thọ hưởng các dục”. Rồi du sĩ Sabhiya suy nghĩ như sau: “Có Sa-môn Gotama này, có hội chúng, có đồ chúng, bậc lãnh đạo hội chúng, được biết đến, có danh vọng, sáng lập ra giáo phái, được quần chúng ái mộ, vậy ta hãy đi đến Sa-môn Gotama và hỏi những câu hỏi này. Rồi du sĩ ngoại đạo Sabhiya suy nghĩ như sau: “Các vị Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy đã già, đã lớn tuổi, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đi quá nửa đời người, đã đạt đến mức cuối tuổi thọ, là những bậc trưởng lão, được nhiều người biết đến, xuất gia đã lâu ngày, có hội chúng, có đồ chúng, bậc lãnh đạo hội chúng, được biết đến, có danh vọng, các ngoại đạo sư được quần chúng ái mộ, như Pùrana Kassapa… Nigantha Nàtaputta. Các vị ấy được ta hỏi những câu hỏi, không có thể giải đáp. Do không có thể giải đáp, họ biểu lộ phẩn nộ, sân hận, bất mãn. Và họ vặn hỏi trở lại ta. Không biết Sa-môn Gotama có thể trả lời những câu hỏi này của ta. Sa-môn Gotama còn trẻ và mới được xuất gia”. Rồi du sĩ ngoại đạo Sabhiya suy nghĩ như sau: “Không nên gạt bỏ, không nên khinh thường một Sa-môn vì vị ấy còn trẻ tuổi; nếu vị Sa-môn còn trẻ, nhưng vị ấy có đại thần, đại uy lực. Vậy ta hãy đi đến Sa-môn Gotama và hỏi những câu hỏi này”.

Rồi du sĩ ngoại đạo Sabhiya bộ hành ra đi đến Ràjagaha, tiếp tục bộ hành, đi đến Vương Xá Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc, đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên du sĩ Sabhiya nói lên với Thế Tôn những bài kệ:

Sabhiya:

  1. Sabhiya nói rằng:
    Tôi đến, có nghi ngờ,
    Hy vọng có thể hỏi
    Những câu hỏi với Ngài.
    Mong Ngài chấm dứt được,
    Những câu hỏi cho tôi.
    Những câu được tôi hỏi,
    Hãy thứ lớp giải đáp.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn đáp du sĩ:
    Ông từ xa đi đến,
    Hy vọng có thể hỏi,
    Những câu hỏi với Ta,
    Ta sẽ chấm dứt được,
    Những câu hỏi cho Ông
    Những câu được Ông hỏi,
    Ta thứ lớp giải đáp.
  2. Du sĩ Sabhiya,
    Hãy hỏi Ta câu hỏi,
    Tuỳ theo ý Ông muốn,
    Ông hỏi câu hỏi nào,
    Ta sẽ chấm dứt được,
    Câu hỏi ấy cho Ông.

Rồi du sĩ Sabhiya suy nghĩ như sau: “Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Ta không bao giờ có được cơ hội, đối với các Sa-môn, Bà-la-môn khác. Nay cơ hội này được Sa-môn Gotama tạo ra cho ta, hân hoan, hoan hỷ, phấn chấn, hỷ lạc ” Sabhiya hỏi Thế Tôn câu hỏi:

Sabhiya:

  1. Sabhiya hỏi rằng:
    Tôn giả Gotama,
    Do đạt được những gì,
    Ðược gọi là Tỷ-kheo?
    Nhờ gì, gọi nhu hòa?
    Thế nào gọi chế ngự?
    Và phải như thế nào,
    Ðược gọi bậc Giác ngộ?
    Ðược con hỏi như vậy,
    Mong Thế Tôn trả lời.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn bèn đáp lại:
    Hỡi này Sabhiya,
    Ai chính với con đường,
    Do tự mình tạo ra,
    Ði đến sự tịch mịch,
    Vượt qua các nghi hoặc,
    Từ bỏ, đoạn tận hẳn
    Cả hữu và phi hữu,
    Phạm hạnh đã thành tựu,
    Tái sanh đã đoạn tận,
    Vị ấy được xứng danh,
    Gọi là vị Tỷ-kheo.
  2. Vị trú xả, chánh niệm,
    Tại bất cứ chỗ nào,
    Vị không làm hại ai,
    Cùng khắp cả thế giới,
    Vượt bộc lưu, tịnh ý,
    Không có bị dao động,
    Vị nào không đột khởi,
    Vị ấy gọi nhu hòa.
  3. Vị nào có các căn,
    Ðược huấn luyện tu tập,
    Cả nội và cả ngoại,
    Trong tất cả thế giới,
    Vị nào thông suốt được
    Ðời này và đời sau,
    Ðúng thời, nghi điều phục,
    Vị ấy gọi chế ngự.
  4. Ai phân tích các kiếp,
    Toàn diện và hoàn toàn,
    Luân chuyển cả hai mặt,
    Chết đi và sanh lại,
    Bụi bặm được dứt sạch,
    Không uế nhiễm, thanh tịnh,
    Ðạt được sanh đoạn diệt,
    Vị ấy gọi Phật-đà.

Rồi du sĩ Sabhiya, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, hoan hỷ, hân hoạn, phấn khởi, phát sanh hỷ tâm, liền hỏi Thế Tôn thêm câu nữa.

Sabhiya:

  1. Sabhiya hỏi rằng:
    Tôn giả Gotama,
    Do đạt được những gì,
    Ðược gọi là Bà-la-môn?
    Nhờ gì, gọi Sa-môn?
    Thế nào là tắm sạch?
    Và phải như thế nào?
    Ðược gọi là voi chúa?
    Ðược con hỏi như vậy,
    Mong Thế Tôn trả lời.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn liền đáp lại:
    Hỡi này Sabhiya,
    Ai loại khỏi ra ngoài,
    Tất cả các ác pháp,
    Không uế, khéo định tĩnh,
    Kiên trì, vững an trú,
    Vượt qua được luân hồi,
    Hoàn toàn về mọi mặt,
    Không y chỉ vị ấy,
    Ðược gọi Bà-la-môn.
  2. Ðược an tịnh, tịch tịnh,
    Ðoạn tận cả thiện ác,
    Không cấu uế, rõ biết,
    Ðời này và đời sau,
    Chế ngự và nhiếp phục,
    Cả vấn đề sanh tử,
    Vị đức tánh như vậy,
    Ðược gọi là Sa-môn.
  3. Ai gột sạch, tắm sạch
    Tất cả các ác pháp,
    Kể cả trong lẫn ngoài,
    Khắp tất cả thế giới,
    Giữa chư Thiên, loài Người,
    Bị thời kiếp chi phối,
    Không rơi vào thời kiếp,
    Ðược gọi đã tắm sạch.
  4. Ai không làm điều ác,
    Mọi điều ác ở đời,
    Tất cả các kiết sử,
    Không dính mắc, trói buộc,
    Khắp tất cả mọi nơi,
    Không dính, không trói buộc,
    Vị đức tánh như vậy,
    Ðược gọi là voi chúa.

Rồi du sĩ Sabhiya lại hỏi thêm câu nữa:

Sabhiya:

  1. Sabhiya hỏi rằng:
    Tôn giả Gotama,
    Thế nào chư Phật gọi
    Vị chiến thắng đất ruộng,
    Do gì, gọi là thiện?
    Thế nào gọi bậc trí,
    Và phải như thế nào
    Ðược gọi là ẩn sĩ?
    Ðược con hỏi như vậy,
    Mong Thế Tôn trả lời.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn bèn đáp lại:
    Hỡi này Sabhiya,
    Ai quán sát nhiếp phục,
    Ruộng đất thật toàn diện
    Chư Thiên và loài Người,
    Là đất ruộng Phạm thiên,
    Giải thoát được trói buộc,
    Cội gốc mọi đất ruộng,
    Vị đức tánh như vậy,
    Ðược gọi thắng đất ruộng.
  2. Ai quán sát nhiếp phục,
    Kho tàng thật toàn diện,
    Chư Thiên và loài Người,
    Là đất ruộng Phạm thiên,
    Giải thoát được trói buộc,
    Cội gốc mọi kho tàng,
    Vị đức tánh như vậy,
    Ðược gọi vị thiện xảo.
  3. Ai quán sát nhiếp phục,
    Cả hai tâm và ý,
    Cả nội và cả ngoại,
    Về trí tuệ thanh tịnh,
    Nhiếp phục chế ngự được,
    Các pháp đen và trắng,
    Vị đức tánh như vậy,
    Ðược gọi bậc Hiền trí,
  4. Sau khi đã biết được,
    Pháp bất thiện, pháp thiện,
    Cả nội và cả ngoại,
    Trong tất cả thế giới,
    Vị ấy được cúng dường,
    Chư Thiên và loài Người,
    Vượt qua lưới trói buộc,
    Vị ấy gọi ẩn sĩ.

Rồi du sĩ Sabhiya… lại hỏi Thế Tôn thêm câu hỏi nữa:

Sabhiya:

  1. Sabhiya hỏi rằng:
    Tôn giả Gotama,
    Do đạt được những gì
    Ðược gọi bậc có trí?
    Nhờ gì, gọi tùy trí?
    Thế nào xưng tinh tấn?
    Thế nào được danh xưng,
    Là vị đã thuần thục?
    Ðược con hỏi như vậy,
    Mong Thế Tôn trả lời.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn liền đáp lại:
    Hỡi này Sabhiya,
    Ai quán sát Vệ-đà,
    Hoàn toàn và toàn diện,
    Ðược Sa-môn, Phạm chí,
    Ðạt được rất đầy đủ,
    Vị ấy gọi ly tham,
    Trong tất cả cảm thọ,
    Do vượt qua Vệ-đà,
    Ðược gọi bậc Vệ-đà?
  2. Do quán sát, quán triệt,
    Các hý luận, danh sắc,
    Kể cả nội và ngoại,
    Về cội gốc bệnh hoạn,
    Vị ấy thoát trói buộc,
    Cội gốc các bệnh hoạn,
    Vị đức tánh như vậy
    Ðược gọi vị rõ biết
  3. Vị ở đời từ bỏ
    Tất cả các pháp ác,
    Với tinh tấn vượt qua,
    Mọi khổ đau địa ngục,
    Vị ấy có tinh tấn,
    Có tinh cần, siêng năng,
    Vị đức tánh như vậy,
    Ðược gọi vị có trí.
  4. Với ai các trói buộc,
    Bị bựt đứt, huỷ hoại,
    Nguồn gốc các tham ái,
    Vị ấy được giải thoát,
    Khỏi tất cả gốc tham,
    Vị đức tánh như vậy,
    Ðược gọi vị thuần thục.

Rồi du sĩ Sabhiya.. lại hỏi Thế Tôn thêm câu hỏi nữa:

Sahiya:

  1. Sabhiya hỏi rằng:
    Tôn giả Gotama,
    Do đạt được những gì,
    Ðược gọi vị được nghe?
    Nhờ gì, gọi bậc Thánh?
    Sở hành như thế nào,
    Như thế nào được tên,
    Là một người du sĩ?
    Ðược con hỏi như vậy,
    Mong Thế Tôn trả lời.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn bèn đáp lại:
    Hỡi này Sabhiya!
    Do ở đời được nghe,
    Thắng tri tất cả pháp,
    Pháp có lỗi, không lỗi,
    Phàm mọi pháp ở đời,
    Là vị đã chiến thắng,
    Ðoạn nghi, được giải thoát,
    Trọn vẹn không dao động,
    Ðược gọi, vị có nghe.
  2. Sau khi đoạn, chặt đứt,
    Mọi lậu hoăc chấp trước,
    Vị ấy sau khi biết
    Không đi đến thai tạng,
    Ðoạn trừ và từ bỏ,
    Ba loại tưởng bùn nhơ,
    Không đi vào thời kiếp,
    Ðược gọi là bậc Thánh.
  3. Vị nào ở nơi đây,
    Thành tựu các giới hạnh,
    Thiện xảo mọi lãnh vực,
    Rõ biết được Chánh Pháp,
    Cùng khắp cả mọi nơi,
    Không chấp trước, giải thoát,
    Không sân hận một ai,
    Ðược gọi là có hạnh.
  4. Ai không làm các nghiệp
    Ðưa đến quả đau khổ
    Phía trên và phía dưới,
    Bề ngang và chặng giữa,
    Sống với sự liễu tri,
    Từ bỏ, không chấp nhận,
    Man trá và kiêu mạn,
    Tham ái và phẫn nộ,
    Làm cho đến cùng tận,
    Cả danh và cả sắc,
    Vị này đã đạt được,
    Tên gọi là du sĩ.

Rồi du sĩ Sabhiya hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy; hoan hỷ, hân hoan, phấn chấn, hỷ duyệt sanh khởi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thương y vào một bên vai, chấp tay hướng đến Thế Tôn, trước mặt Thế Tôn, thốt lên những câu kệ thích đáng:

  1. Ôi, bậc tuệ rộng lớn!
    Nhiếp phục sự tụ họp,
    Các Sa-môn tranh luận,
    Có đến sáu (mươi) ba thuyết,
    Các ngôn thuyết văn tự,
    Y đây các tưởng khởi,
    Vị ấy vượt qua được,
    Dòng nước mạnh sanh tử.
  2. Ngài đi đến tận cùng,
    Ðến bờ kia đau khổ,
    Bậc La-hán, Chánh Giác,
    Con nghĩ Ngài lậu tận,
    Ngài chói sáng, thông minh.
    Với trí tuệ rộng lớn,
    Ngài đoạn tận đau khổ,
    Ðưa con qua bờ kia.
  3. Ngài thấy, Ngài biết rõ
    Những điều con nghi ngờ,
    Ngài giúp con vượt qua,
    Con xin đảnh lễ Ngài,
    Bậc ẩn sĩ đạt được,
    Con đường thật an tịnh,
    Ôi, bà con mặt trời!
    Không hoang vu, nhu hòa.
  4. Ðiều xưa con nghi ngờ,
    Ðều được Ngài giải đáp,
    Ôi, bậc có Pháp nhân!
    Ngài thật là ẩn sĩ
    Bậc Chánh Ðẳng, Chánh Giác,
    Ngài không còn triền cái.
  5. Với Ngài, mọi ưu não,
    Ðược phá tan, đoạn diệt,
    Ngài tịnh tịch, chế ngự,
    Tâm kiên trì, thành thực.
  6. Ngài là bậc long tượng,
    Trong các hàng long tượng,
    Ngài là đại anh hùng
    Chư Thiên đều hoan hỷ,
    Cả hai Nàrada,
    Và cả Pabbatà,
    Ðều hoan hỷ tín thọ,
    Lời thuyết giảng của Ngài.
  7. Chúng con xin đảnh lễ,
    Con người thuần thục nhất,
    Chúng con xin đảnh lễ,
    Con người tối thượng nhất,
    Trong cảnh giới Trời, Người,
    Không ai sánh được Ngài,
  8. Ngài chính là Ðức Phật,
    Ngài chính là Ðạo Sư,
    Ngài là bậc ẩn sĩ,
    Ðã chiến thắng Ác ma,
    Ngài chặt đứt tuỳ miên,
    Ðã vượt qua sanh tử,
    Ngài giúp chúng sanh này,
    Vượt qua bể sanh tử.
  9. Ngài vượt khỏi sanh y,
    Ngài phá tan lậu hoặc,
    Ngài là bậc sư tử,
    Không chấp thủ, chấp trước,
    Mọi sợ hãi, hoảng hốt,
    Ngài đoạn tận, trừ diệt.
  10. Như hoa sen tươi đẹp.
    Nước không thể dính vào,
    Cũng vậy cả thiện ác,
    Cả hai không dính Ngài,
    Ôi anh hùng vĩ đại,
    Xin Ngài duỗi chân ra,
    Sabhiya chúng con,
    Ðảnh lễ bậc Ðạo Sư.

Rồi du sĩ Sabhiya lấy đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn:

– Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!… Con xin quy y Thế Tôn, Pháp và chúng Tỷ-kheo. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho con được xuất gia với Thế Tôn, mong cho con thọ đại giới.

– Này Sabhiya, ai trước kia thuộc ngoại đạo, nay xin xuất gia, xin thọ đại giới trong Pháp Luật này cần phải sống biệt trú trong bốn tháng. Sau bốn tháng, nếu tâm các Tỷ-kheo thỏa thuận, có thể cho vị ấy xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng ở đây, Ta biết sự sai biệt giữa các chúng sanh.

– Bạch Thế Tôn, nếu những ai trước kia thuộc ngoại đạo, nay xin xuất gia, xin thọ đại giới trong Pháp Luật này, sống biệt trú bốn tháng. Sau bốn tháng, nếu tâm các Tỷ-kheo thỏa thuận, có thể cho vị ấy xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo, con sẽ sống biệt trú bốn năm. Sau bốn năm, nếu tâm con thỏa thuận hãy cho xuất gia, cho con thọ đại giới để trở thành Tỷ-kheo.

Du sĩ Sabhiya được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới… rồi Tôn giả Sabhiya trở thành một vị A-la-hán.

(VII) Kinh Sela (Sn 102-112)

(Xem kinh Sela, Trung Bộ Kinh, Tập II)

(VIII) Kinh Mũi Tên (Sn 112)

  1. Sinh mạng của loài Người,
    Ở đời không ai biết,
    Không tướng, nhiều phiền toái,
    Nhỏ nhoi, liên hệ khổ.
  2. Không có sự gắng nào,
    Khiến sống thoát khỏi chết,
    Sau khi già là chết,
    Pháp hữu tình là vậy.
  3. Như các trái chín muồi,
    Có sợ bị rơi sớm,
    Cũng vậy, người được sanh,
    Thường có sợ bị chết.
  4. Như người thợ làm ghè
    Làm chén bát đất sét,
    Cuối cùng, bể tất cả,
    Mạng sống người là vậy.
  5. Trẻ tuổi và lớn tuổi,
    Người ngu và kẻ trí,
    Tất cả đi đến chết,
    Cuối cùng rồi cũng chết.
  6. Những ai chết chi phối,
    Ði qua đến đời sau,
    Cha không cứu được con,
    Hay bà con cứu nhau.
  7. Hãy xem, các bà con
    Ðứng nhìn và than khóc,
    Từng người, đi đến chết,
    Như bò mang đi giết,
  8. Như vậy, thế giới này
    Bị già chết chi phối,
    Do vậy, bậc nhiều trí,
    Biết đời, nên không sầu
  9. Ai không biết con đường,
    Ðường đến và đuờng đi,
    Do không thấy hai ngã,
    Than khóc, không lợi ích.
  10. Nếu thật sự than khóc,
    Ðem lại lợi ích gì,
    Kẻ ngu tự hại mình,
    Người có mắt sẽ làm.
  11. Không với sầu, nước mắt,
    Khiến nội tâm an tịnh,
    Khổ càng tăng trưởng thêm,
    Thân càng bị gia hại.
  12. Ốm yếu, sắc da tái,
    Tự mình hại chính mình,
    Kẻ chết không được hộ,
    Than khóc thật vô ích.
  13. Chúng sanh không bỏ sầu,
    Càng gặp nhiều đau khổ,
    Càng rên khóc kẻ chết,
    Càng bị sau chi phối.
  14. Hãy xem các người khác
    Ði theo hạnh nghiệp mình,
    Rơi vào giới thần chết,
    Hữu tình đầy hoảng sợ.
  15. Loài Người còn mong ước,
    Thế này hay thế khác,
    Nhưng sự việc xảy ra,
    Hoàn toàn thật sai khác,
    Như vậy tánh không có,
    Xem định tánh của đời.
  16. Nếu loài Người sống được,
    Sống hơn một trăm năm,
    Rồi không có bà con,
    Ở đây, bỏ mạng sống.
  17. Do vậy, sau khi nghe
    Bậc La-hán thuyết giảng,
    Hãy nhiếp phục than van,
    Khi thấy kẻ bị chết,
    Hãy suy nghĩ như sau,
    Ta không còn vị ấy.
  18. Như nhà lửa bị cháy,
    Nhờ nước, lửa dập tắt,
    Cũng vậy, bậc Hiền trí,
    Có tuệ trí, thiện xảo,
    mau chóng nhiếp phục sầu,
    Như bông gió thổi bay.
  19. Ai tự tìm hạnh phúc,
    Hãy tự mình rút tên,
    Mũi tên là than khóc,
    Tham cầu tư ưu sầu.
  20. Ai đã rút mũi tên,
    Không nương tựa nhờ cậy,
    Tâm vị ấy đạt được,
    Sự an lành an tịnh,
    Vượt khỏi mọi ưu sầu,
    Tâm không sầu, tịch tịnh.

(IX) Kinh Vàsettha (Sn 115)

(Kinh này giống với kinh Vàsettha, số 98 của Trung Bộ Kinh, Tập II)

(X) Kinh Kokàliya (Sn 123)

Như vầy tôi nghe:

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn của ông Anàthapindika. Rồi Tỷ-kheo Kokàliya đi đến Thế Tôn sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Kokàliya bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Sàiputta và Moggallàna là ác dục, bị ác dục chinh phục.

– Này Kokàliya, chớ có vậy! Này Kokàliya, chớ có vậy! Này Kokàliya, tâm hãy tinh tấn đối với Sàriputta và Moggallàna. Hiền thiện Sàriputta và Moggallàna.

Lần thứ hai, Tỷ-kheo Kokàliya bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có lòng tin và tin tưởng, đối với con, Sàriputta và Moggalàna là ác dục, bị ác dục chinh phục.

– Này Kokàaliya, chớ có vậy! Này Kokàliya, chớ có vậy! Này Kokàliya, tâm hãy tinh tấn đối với Sàriputta và Moggallàna. Hiền thiện Sàriputta và Moggallàna

Lần thứ ba, Tỷ-kheo Kokàliya bạch Thế Tôn… Hiền thiện là Sàriputta và Moggallàna…

Rồi Tỷ-kheo Kokàliya từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi. Tỷ-kheo Kokàliya ra đi không lâu, toàn thân của Tỷ-kheo Kokàliya nổi lên những mụt to bằng hạt cải; sau khi lớn lên bằng hột đậu; chúng lớn lên bằng hột đậu lớn; sau khi lớn bằng hột đậu lớn, chúng lớn lên bằng hòn đá; sau khi lớn lên bằng hòn đá, chúng lớn lên bằng trái táo; sau khi lớn lên bằng trái táo, chúng lớn lên bằng trái àmala; sau khi lớn lên bằng trái àmala, chúng lớn lên bằng trái vilva; sau khi lớn lên bằng trái vilva, chúng lớn lên bằng trái billi, chúng bị phá vỡ, mủ và máu chảy ra.

Rồi Tỷ-kheo Kokàliya do bệnh này bị mệnh chung. Bị mệnh chung, Tỷ-kheo Kokàliya sanh trong địa ngục Sen hồng, với tâm hận thù đối với Sàriputta và Moggallàna.

Rồi Phạm thiên Sahampati sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Ðứng một bên, Phạm thiên Sahampati bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàliya phải sanh vào địa ngục Sen hồng, với tâm hận thù đối với Sàriputta và Moggallàna.

Phạm thiên Sahampati nói như vậy, sau khi nói xong, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ ấy.

Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã qua, liền bảo các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, hồi hôm Phạm thiên Sahampati, khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Ta, sau khi đến đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng một bên, này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati bạch với Ta: “Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàliya đã mệnh chung và Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàliya sau khi mệnh chung đã sanh địa ngục Sen hồng với tâm hận thù đối với Sàriputta và Moggallàna”.

Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati nói như vậy. Sau khi nói xong, đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.

Ðược nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, bao nhiêu là tuổi thọ trong địa ngục Sen hồng?

– Thật dài, này Tỷ-kheo, là tuổi thọ trong địa ngục Sen hồng, không dễ gì tính được bao nhiêu năm, bao nhiêu trăm năm, bao nhiêu ngàn năm, hay bao nhiêu trăm ngàn năm.

– Bạch Thế Tôn, có thể tính được chăng bằng ví dụ?

Thế Tôn đáp:

– Có thể được, này Tỷ-kheo. Này Tỷ-kheo, ví như có hột đậu mè nặng hai mươi khàrika, theo đo lường nước Kosala. Ví dụ sau một trăm năm, một người lấy ra một lần một hột mè. Này Tỷ-kheo, còn mau hơn là bao hột mè, nặng hai mươi ngàn khàrika ấy, theo đo lường của nước Kosala, đi đến tiêu hao, đi đến hao mòn do phương tiện ấy, so sánh với tuổi thọ ở địa ngục Abbuda. Này Tỷ-kheo hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Abbuda; bằng một tuổi thọ ở địa ngục Nirabbuda. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Nirabbuda, bằng một tuổi thọ ở địa ngục Ababa. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Ahaha bằng một tuổi thọ ở địa ngục Atata. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Atata bằng một tuổi thọ ở địa ngục Kumuda. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Kumuda bằng một tuổi thọ ở địa ngục Sogandhika. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Sogandhika bằng một tuổi thọ ở địa ngục Uppala (Hoa sen xanh). Này các Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Uppala bằng một tuổi thọ ở địa ngục Pundarika (Hoa sen). Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Pundarika bằng một tuổi thọ ở địa ngục Pudumà. Này Tỷ Kheo Kokàliya sanh tại địa ngục Pudumà với tâm hận thù Sàripputta và Moggallàna.

Thế Tôn nói như vậy. Sau khi nói như vậy, bậc Thiện Thệ lại nói thêm:

  1. Phàm con người đã sanh,
    Sanh với búa trong miệng,
    Kẻ ngu khi nói bậy,
    Tự chặt đứt lấy mình.
  2. Ai khen kẻ đáng chê,
    Ai chê người đáng khen,
    Tự chất chứa bất hạnh,
    Do lỗ miệng của mình,
    Chính do bất hạnh ấy,
    Nên không được an lạc.
  3. Nhỏ thay bất hạnh này,
    Trong canh bạc rủi may,
    Do quăng con xúc xắc,
    Tài sản bị hoại vong,
    Lớn hơn bất hạnh này,
    Tự mình gây cho mình,
    Với người có ác ý,
    Ðối chư Phật, Thiện Thệ.
  4. Trải thời gian trăm ngàn
    Ở Nirabbuda,
    Ba mươi sáu và năm
    Ở tại Abbuda,
    Với lời và ác ý,
    Ai phỉ báng bậc Thánh,
    Người ấy sẽ rơi vào
    Các cõi dữ địa ngục.
  5. Kẻ nói không chân thật,
    Ði đến cõi địa ngục,
    Ai tự mình có làm,
    Lại nói: “Tôi không làm”,
    Cả hai sau khi chết,
    Ðều được xem đồng đẳng,
    Hành động họ hạ liệt,
    Ðời sau, đồng làm người.
  6. Ai khởi lên ác tâm,
    Ðối người không ác ý,
    Ðối người sống thanh tịnh,
    Không có gì uế nhiễm,
    Ác ấy trở lui lại,
    Ðến với kẻ ngu ấy,
    Như bụi bặm nhỏ nhiệm
    Quăng ngược chiều gió thổi.
  7. Ai hệ lụy đắm trước,
    Các chủng loại tham dục,
    Người ấy với lời nói,
    Chỉ trích các người khác,
    Không lòng tin, xan lẫn,
    Không rộng rãi với người,
    Xan tham và keo kiết,
    Quen thói nói xấu người.
  8. Này Ông, miệng ác độc,
    Không chân thật, không thánh,
    Kẻ giết hại sanh linh,
    Kẻ ác, kẻ làm ác,
    Người hạ liệt, bất hạnh,
    Thuộc về loại hạ sanh,
    Ở đời, chớ nói nhiều
    Ông là dân địa ngục.
  9. Ông rắc rải bụi trần,
    Khiến mọi người bất hạnh,
    Ông nói xấu bậc hiền,
    Làm ác điều tội ác,
    Sau khi Ông đã làm
    Rất nhiều điều ác hạnh,
    Ông đi đến vực thẳm,
    Trong thời gian dài dài
  10. Hành động bất cứ ai,
    Không đi đến tiêu diệt,
    Rồi nó cũng đến Ông,
    Bắt gặp được nghiệp chủ,
    Kẻ ngu làm điều ác,
    Ðời sau thấy mình khổ.
  11. Nó đi đến tại chỗ
    Bị đánh bằng roi sắt,
    Tại chỗ có cọc sắt,
    Với cạnh lưỡi bén nhọn
    Ở đấy nó có được
    Các món ăn thích đáng,
    Giống như những hòn sắt,
    Ðược nung nấu cháy đỏ,
  12. Tại đấy không ai nói
    Lời nhẹ nhàng an ủi,
    Không có ai vội vã,
    Ðến che chở hộ trì,
    Họ bước vào hầm lửa,
    Ðang cháy đỏ hừng hực.
  13. Với lưới, kẻ giữ ngục,
    Trùm kín bao phủ họ,
    Tại đấy với gậy sắt,
    Họ hành hạ đánh đập,
    Họ đi qua vực đen,
    Tối tăm không thấy đường,
    Như đi qua đám mù,
    Ðang dầy đặc tràn rộng.
  14. Họ đi đến bước vào
    Các chum ghè bằng sát,
    Họ bước vào hầm lửa,
    Ðang cháy đỏ hừng hực,
    Tại đấy, họ bị nấu,
    Trong thời gian lâu dài,
    Họ nổi lên chìm xuống,
    Trong những hầm lửa ấy.
  15. Rồi kẻ làm điều ác,
    Bị nung nấu tại đấy,
    Giữa đống mủ và máu,
    Xen kẽ và lẫn lộn,
    Tùy theo phương hướng nào,
    Nó theo chiều hướng nằm,
    Ở đấy, bị rửa nát,
    Khi bị xúc chạm vào.
  16. Trong nước, chỗ trú ẩn
    Của các loài côn trùng,
    Kẻ làm các điều ác,
    Bị nung nấu tại đấy,
    Cho đến những bờ bến
    Không có cho nó đi,
    Vì chum ghè mọi phía,
    Ðều tròn đầy như nhau.
  17. Trong rừng đầy lá gươm,
    Sắc bén và mũi nhọn,
    Họ đi vào rừng ấy,
    Chân tay bị chém đứt
    Sử dụng các câu móc,
    Chúng móc lưỡi dài ra
    Rồi những kẻ ngục tối
    Hành hạ đánh giết họ,
  18. Họ đi vào cảnh giới,
    Gọi Vêtarani,
    Khó vượt qua, tràn đầy,
    Lưỡi dao, búa sắc bén,
    Tại chỗ ấy, kẻ ngu,
    Bị rơi, bị rớt vào,
    Những kẻ làm điều ác,
    Sau khi tạo nghiệp ác.
  19. Tại đấy, các chim thú,l
    Ăn thịt kẻ rên la,
    Những bầy, đàn quạ đen,
    Ðen thui và lốm đốm,
    Các loài chó, dã can,
    Cùng với các chim kên,
    Các diều hâu, chim quạ,
    Xé xác những kẻ ấy.
  20. Thật rất là đau khổ
    Nếp sống này, tại đấy,
    Nếp sống kẻ làm ác,
    Loài Người thấy được vậy,
    Do vậy, ở đời này,
    Với mạng sống còn lại,
    Là người làm công việc,
    Không biếng nhác thụ động.
  21. Những hột mè mang lại,
    Ðịa ngục Paduma,
    Ðược kẻ trí đếm kỹ,
    Số đến Nahuta,
    Lên đến số năm tỷ,
    Tức năm ngàn vạn triệu,
    Còn nữa lên đến số,
    Một trăm hai mươi ức.
  22. Khổ cho đến như vậy,
    Ðịa ngục được nói đến,
    Tại đấy cần phải sống,
    Lâu cho đến như vậy.
    Như vậy, giữa những người,
    Trong sạch, thiện tốt lành,
    Hãy luôn luôn hộ trì,
    Lời nói và ý nghĩa.

(XI) Kinh Nàlaka (Sn 131)

  1. ẩn sĩ Asita,
    Trong lúc giữa ban ngày,
    Thấy chúng các chư Thiên
    Cõi trời Ba mươi ba,
    Họ hoan hỷ vui vẻ,
    Với y áo, thanh tịnh,
    Họ cung kính In-đa,
    Các vị ấy cầm áo
    Với nhiệt tình nói lên,
    Những lời khen tán thán.
  2. Thấy chư Thiên hoan hỷ,
    Dõng dạc và phấn chấn,
    Với tâm tư cung kính,
    Ở đây, vị ấy nói.

Asita:

Vì sao chúng chư Thiên
Lại nhiệt tình hoan hỷ?
Họ cầm áo vui múa,
Là do nhân duyên gì?

  1. Trong thời gian chiến trận,
    Với các Asura,
    Dững sĩ được thắng trận
    Asura bại trận,
    Thời gian ấy họ không,
    Lông tóc dựng ngược dậy,
    Họ thấy gì hy hữu,
    Chư Thiên hoan hỷ vậy.
  2. Họ la lớn ca hát,
    Và họ tấu nhạc trời,
    Họ múa tay, vỗ tay,
    Họ múa nhảy vũ điệu,
    Nay ta hỏi các Ông,
    Trú đảnh núi Meru,
    Các Ngài hãy mau chóng,
    Giải tỏa điều ta nghĩ.

Chư Thiên:

  1. Tại xứ Lumbini
    Trong làng các Thích-ca,
    Có sanh vị Bồ Tát,
    Báu tối thắng, vô tỷ,
    Ngài sanh, đem an lạc,
    Hạnh phúc cho loài Người,
    Do vậy chúng tôi mừng,
    Tâm vô cùng hoan hỷ.
  2. Ngài, chúng sanh tối thượng,
    Ngài loài Người tối thắng,
    Bậc Ngưu vương loài Người,
    Thượng thủ mọi sanh loại;
    Ngài sẽ chuyển Pháp luân,
    Trong khu rừng ẩn sĩ,
    Rống tiếng rống sư tử,
    Hùng mạnh nhiếp loài thú.
  3. Sau khi nghe lời ấy,
    ẩn sĩ Asita,
    Liền vội vàng bước xuống,
    Và đi đến đầu đài,
    Của đức vua Tịnh Phạn.
    Ðến nơi Ngài ngồi xuống,
    Nói với các Thích-Ca:
    “Hoàng tử nay ở đâu,
    Ta nay muốn thấy Ngài”.
  4. Thấy Thái tử chói sáng
    Rực rỡ như vàng chói
    Trong lò đúc nấu vàng,
    Ðược thợ khéo luyện thành,
    Bừng sáng và rực rỡ,
    Với dung sắc tuyệt mỹ,
    Họ Thích trình Thái-tử,
    Cho ẩn sĩ Tư-đà.
  5. Sau khi thấy Thái tử
    Chói sáng như lửa ngọn,
    Thanh tịnh như sao ngưu
    Vận hành giữa hư không,
    Sáng chiếu như mặt trời
    Giữa trời thu, mây tịnh,
    Ẩn sĩ tâm hân hoan
    Ðược hỷ lạc rộng lớn.
  6. Chư Thiên cầm ngôi lọng
    Ðưa lên giữa hư không,
    Cây lọng có nhiều cành,
    Có hàng ngàn vòng chuyền.
    Họ quạt với phất trần,
    Có tán vàng, lông thú,
    Nhưng không ai thấy được,
    Kẻ cầm lọng, phất trần.
  7. Bậc ẩn sĩ bện tóc,
    Tên Kà-ha-xi-ri,
    Thấy Thái tử nằm dài
    Trên tấm chăn màu vàng,
    Như đồng tiền bằng vàng,
    Lại trên đầu Thái tử
    Có lông trắng đưa lên,
    Tâm ẩn sĩ phấn khởi,
    Ðẹp ý, lòng hân hoan
    Ðưa tay bồng Thái tử.
  8. Sau khi ẩm bồng lên
    Con trai dòng họ Thích,
    Bậc cầu đạo tìm hiểu,
    Vượt khổ, nhờ tướng, chú,
    Tâm tư được hoan hỷ,
    Thốt lên lời như sau:
    Vị này bậc Vô thượng,
    “Tối thượng loài hai chân”.
  9. Khi vị ấy nghĩ đến,
    Số mệnh của tự mình,
    Số mệnh không tốt đẹp,
    Vị ấy rơi nước mắt,
    Thấy vậy, các Thích Ca,
    Hỏi ẩn sĩ đang khóc;
    “Có sự gì chướng ngại
    Sẽ xảy cho Thái tử?”.
  10. Thấy họ Thích lo lắng,
    Vị ẩn sĩ trả lời:
    “Ta không thấy bất hạnh
    Xảy đến cho Thái tử,
    Ðối với Thái tử ấy,
    Chướng ngại sẽ không có,
    Vị này không hạ liệt,
    Chớ có lo lắng gì.
  11. Thái tử này sẽ chứng
    Tối thượng quả Bồ đề,
    Sẽ chuyển bánh xe pháp,
    Thấy thanh tịnh tối thắng,
    Vì lòng tử thương xót,
    Vì hạnh phúc nhiều người,
    Và đời sống Phạm hạnh,
    Ðược truyền bá rộng rãi.
  12. Thọ mạng ta ở đời
    Còn lại không bao nhiêu,
    Ðến giữa đời sống Ngài
    Ta sẽ bị mệnh chung.
    Ta không được nghe pháp,
    Bậc tinh cần vô tỷ,
    Do vậy ta sầu não,
    Bất hạnh và khổ đau”.
  13. Sau khi khiến họ Thích,
    Sanh hoan hỷ rộng lớn,
    Bậc sống theo Phạm hạnh,
    Bước ra khỏi nội thành.
    Vị ấy vì lòng từ,
    Thương con trai của chị,
    Khích lệ nó học pháp,
    Bậc tinh cần vô tỷ.
  14. Khi Ông nghe tiếng Phật,
    Từ người khác nói lên,
    Bậc đã đạt Bồ-đề,
    Ðã đi con đường pháp,
    Hãy đi đến chỗ ấy,
    Hỏi kỹ về đạo pháp,
    Và sống đời Phạm hạnh,
    Dưới bậc Thế Tôn ấy.
  15. Như vậy, được khuyên bảo,
    Bởi vị nghĩ hạnh phúc,
    Vị thấy ở tương lai,
    Ðường tối thắng thanh tịnh.
    Do vậy Nà-la-ka,
    Với phước đức chất chứa,
    Sống với căn hộ trì,
    Chờ đợi bậc chiến thắng.
  16. Khi nghe tin Pháp luân,
    Ðược bậc chiến thắng chuyển,
    Ðến thấy được hoan hỷ,
    Bậc ẩn sĩ Ngưu vương,
    Hỏi Mâu ni tối thắng,
    Pháp Mâu ni tối thượng,
    Như A-xi-ta khuyên
    Trong buổi gặp gỡ trước.

(Kệ mở đầu đã xong)

  1. Lời A-xi-ta này,
    Con biết là như thật,
    Con hỏi Gotama,
    Ðường giải thoát mọi pháp.
  2. Không nhà, con đi đến
    Tìm hạnh người khất sĩ,
    Con hỏi bậc ẩn sĩ
    Hãy nói lên cho con,
    Con đường đạo tối thượng,
    Ðưa đến đạo Mâu-ni,
  3. Thế Tôn đáp như sau:
    Khó hành, khó thực hiện,
    Là đạo hạnh Mâu ni,
    Ta sẽ cho Ông biết,
    Hãy đến lắng tai nghe,
    Ta sẽ nói cho Ông,
    Hãy vững trí, an thần,
    Hãy kiên trì bền chí.
  4. Hãy tu hạnh Sa-môn,
    Không để bị dao động,
    Giữa khen chê trong làng,
    Hãy chế ngự tâm sân,
    Sống hạnh thật an tịnh,
    Không cống cao kiêu mạn.
  5. Tiếng cao thấp phát ra,
    Như ngọn lửa trong vườn,
    Nữ nhân hay cám dỗ,
    Chớ cám dỗ ẩn sĩ.
  6. Hãy từ bỏ dâm dục,
    Xả mọi dục cao thấp.
    Ðối hữu tình yếu mạnh,
    Không đối nghịch, tham đắm.
  7. Ta thế nào, họ vậy,
    Họ thế nào, Ta vậy,
    Lấy ngã làm ví dụ,
    Chớ giết, chớ bảo giết.
  8. Hãy bỏ dục, bỏ tham,
    Ðây phàm phu bị nắm,
    Bậc có mắt hành đạo,
    Vượt địa ngục, loài Người.
  9. Bụng đói, ăn chừng mực,
    Ít dục, không tham lam.
    Vị ấy không ham dục,
    Không dục, thật tịch tịnh.
  10. Sau khi đi khất thực,
    Ẩn sĩ vào rừng sâu,
    Ði đến dưới gốc cây,
    Sửa soạn ngồi an tịnh.
  11. Bậc Hiền trí hành thiền,
    Hoan hỷ trong rừng sâu,
    Hành thiền dưới gốc cây,
    Thỏa mãn sở thích mình.
  12. Khi đêm hết, sáng đến,
    Cần phải đi đến làng,
    Chớ hân hoan khất thực,
    Ðồ mang từ làng đi.
  13. ẩn sĩ không đi gấp,
    Ðến làng, giữa gia đình,
    Tìm ăn, cắt nói chuyện,
    Không nói chuyện liên hệ.
  14. Nếu được, thật là tốt,
    Không được, cũng là tốt,
    Nghĩ vậy, cả hai mặt,
    Vị ấy trở về cây.
  15. Ði với bát cầm tay,
    Không câm, dáng như câm,
    Chớ khinh, đồ cho ít,
    Không chê người đem cho.
  16. Bậc Sa-môn thuyết giảng,
    Con đường cao và thấp,
    Nhưng đến bờ bên kia,
    Không có hai con đường,
    Tuy vậy chớ nghĩ rằng,
    Ðường này chỉ là một.
  17. Với ai, không có tham,
    Tỷ-kheo cắt dòng nước,
    Ðoạn tận hành thiện ác,
    Vị ấy không sầu não.
  18. Thế Tôn lại nói thêm:
    Ta dạy cho các Ông
    Thức tri hạnh ẩn sĩ,
    Hãy tu như lưỡi dao,
    Với lưỡi ấn nóc họng,
    Hãy hạn chế bao tử.
  19. Tâm chớ có thụ động,
    Nhưng chớ nghĩ quá nhiều.
    Không hôi hám, độc lập,
    Sống cứu cánh Phạm hạnh
  20. Hãy tập ngồi một mình,
    Sống đúng hạnh Sa-môn.
    Sống một mình được gọi
    Là hạnh bậc ẩn sĩ,
    Nếu tự mình tìm được
    Thoải mái trong cô độc.
  21. Hãy chói sáng mười phương,
    Sau khi nghe tiếng nói,
    Của các bậc hiền sĩ,
    Hãy hành thiền, bỏ dục,
    Mong đệ tử của Ta,
    Tăng trưởng tâm và tín.
  22. Hãy học các dòng nước,
    Từ khe núi vực sâu.
    Nước khe núi chảy ồn,
    Biển lớn động im lặng.
  23. Cái gì trống kêu to,
    Cái gì đầy yên lặng,
    Ngu như ghè vơi nước,
    Bậc trí như ao đầy.
  24. Khi Sa-môn nói nhiều,
    Nói liên hệ đến đích,
    Tự biết nên thuyết pháp,
    Tự biết nên nói nhiều.
  25. Ai biết, biết tự chế,
    Ai biết, không nói nhiều,
    Vị ấy là ẩn sĩ,
    Xứng đáng hạnh ẩn sĩ,
    Vị ấy là ẩn sĩ,
    Ðạt được hạnh ẩn sĩ.

(XII) Kinh Hai Pháp Tuỳ Quán (Sn 139)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Ðông Viên, tại lâu đài mẹ của Migàra. Lúc bấy giờ, trong ngày trai giới Uposatha, vào ngày rằm, trăng tròn, trong đêm rằm, Thế Tôn ngồi giữa trời với chúng Tỷ-kheo đoanh vây. Rồi Thế Tôn nhìn xung quanh chúng Tỷ-kheo đang yên lặng, nói với các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, phàm có những thiện pháp nào thuộc bậc Thánh có khả năng hướng thượng, đưa đến giác ngộ; này các Tỷ-kheo, đối với các thiện pháp thuộc bậc Thánh có khả năng hướng thượng đưa đến giác ngộ ấy do lý do gì các Thầy nghe những pháp ấy? Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thể được hỏi như vậy, các Thầy có thể trả lời cho những người câu hỏi ấy như sau: “Vì muốn có như thật trí đối với hai pháp”. Và nếu các Thầy nói: “Thế nào là hai?”. – “Ðây là khổ, đây là khổ tập”, đây là tuỳ quán thứ nhất. “Ðây là khổ diệt, đây là con đường đưa đến khổ diệt”, đây là tùy quán thứ hai.

Này các Tỷ-kheo, như vậy do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp, không có phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, được chờ đợi là một trong hai quả sau đây: Ðược chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn.

Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

  1. Ai không tuệ tri khổ,
    Và hiện hữu của khổ,
    Và chỗ khổ hoàn toàn
    Ðược đoạn tận không dư,
    Vị ấy không biết đường,
    Ðưa đến khổ an tịnh.
  2. Không có tâm giải thoát,
    Không có tuệ giải thoát,
    Vị ấy không có thể
    Ðoạn tận sanh và già.
  3. Những ai tuệ tri khổ
    Và hiện hữu của khổ
    Và chỗ khổ hoàn toàn
    Ðược đoạn tận không dư,
    Vị ấy biết con đường,
    Ðưa đến khổ an tịnh.
  4. Ðầy đủ tâm giải thoát,
    Với trí tuệ giải thoát,
    Những vị ấy có thể
    Với trí tuệ giải thoát,
    Ðoạn tận sanh và già.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: “Có thể có chân chánh tuỳ quán hai pháp, theo một pháp môn khác không?” Các Thầy cần phải trả lời: “Có thể có”. Có thể có như thế nào? “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên sanh y”, đây là tuỳ quán pháp thứ nhất. “Do sự đoạn diệt, ly tham, các sanh y không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán thứ hai.

– Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tuỳ quán hai pháp, không có phóng dật, nhiệt tâm tinh cần, được chờ đợi là một trong hai quả sau đây: Ðược chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn.

Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

  1. Chính do duyên sanh y,
    Các khổ được sanh khởi,
    Tất cả các khổ đau,
    Sai biệt ở trên đời,
    Ai chính do vô minh
    Tạo lên sự sanh y,
    Kẻ ngu ấy gặp khổ
    Nối tiếp nhau sanh trưởng,
    Do vậy vị hiểu biết,
    Không tạo lên sanh y,
    Tuỳ quán được hiện hữu
    Của sanh và của khổ.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: “Có thể có chân chánh tùy quán hai pháp theo một pháp môn khác không?” Các Thầy cần phải trả lời: “Có thể có”. Có thể có như thế nào? “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên vô minh”, đây là tùy quán thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham, vô minh không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai.

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp, không có phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, được chờ đợi là một trong hai quả sau đây: Ðược chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn.

Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo sư lại nói thêm:

  1. Những ai tiếp tục rơi,
    Dòng luân chuyển sanh tử,
    Ðến hữu này hữu khác,
    Sanh thú do vô minh.
  2. Vô minh này, đại si,
    Ðưa đến luân chuyển dài,
    Chúng sanh, minh đạt được,
    Không còn phải tái sanh.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:… “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên các hành”, đây là tuỳ quán pháp thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham, các hành không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo sư lại nói thêm:

  1. Phàm khổ gì hiện hữu,
    Tất cả duyên các hành,
    Do đoạn diệt các hành,
    Khổ không có hiện hữu.
  2. Do biết nguy hiểm này,
    Khổ do duyên các hành,
    Tịnh chỉ tất cả hành,
    Do phá hoại các tưởng,
    Như vậy, khổ được diệt,
    Biết như thực là vậy.
  3. Bậc Hiền trí chánh kiến,
    Hiểu biết, với chánh trí,
    Nhiếp phục Ma kiết sử,
    Không đi đến tái sanh.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:… “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thức”, đây là tùy quán pháp thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham thức không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai.

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp, bậc Ðạo sư lại nói thêm:

  1. Phàm khổ gì hiện hữu,
    Tất cả do duyên thức,
    Với thức được đoạn diệt,
    Khổ không có hiện hữu.
  2. Do biết nguy hiểm hày,
    Khổ do duyên các thức,
    Tỷ-kheo tịnh chỉ thức,
    Không dục ái, tịch tịnh.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:…. “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên xúc”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham xúc không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai.

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

  1. Những ai, xúc chi phối,
    Chạy theo dòng sanh hữu,
    Những người hành tà đạo,
    Xa vời diệt kiết sử.
  2. Những ai liễu tri xúc,
    Nhờ trí, thích an tịnh,
    Do họ thắng tri xúc,
    Không dục ái, tịch tịnh.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:… “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thọ”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham thọ không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

  1. Với lạc thọ, khổ thọ,
    Hay bất khổ, bất lạc;
    Nội thọ và ngoại thọ,
    Phàm có cảm thọ gì.
  2. Biết được đây là khổ,
    Giả dối bị hủy hoại.
    Thấy các xúc hoại diệt,
    Như vậy, đây ly tham,
    Tỷ-kheo diệt các thọ,
    Không dục ái, tịch tịnh.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:… “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên ái”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham ái, không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chán tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

  1. Người có ái bạn đường,
    Bị luân chuyển dài dài,
    Ðến hữu này, hữu khác,
    Luân chuyển không dừng nghỉ.
  2. Do biết nguy hiểm nầy,
    Chính ái tác thành khổ,
    Ly ái, không chấp thủ,
    Chánh niệm, Tỷ-kheo hành.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:…. “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thủ”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham thủ không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

  1. Do duyên thủ, có hữu,
    Do hữu, đi đến khổ,
    Từ sanh nên có chết,
    Ðây hiện hữu của khổ.
  2. Do vậy, bậc Hiền trí,
    Diệt thủ, nhờ chánh trí,
    Nhờ thắng trí sanh diệt,
    Không đi đến tái sanh.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:… “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên khởi xướng”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. “Do đoạn diệt ly tham khởi xướng không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

  1. Phàm khổ gì hiện hữu,
    Tất cả duyên khởi xướng,
    Do đoạn diệt khởi xướng,
    Khổ không có hiện hữu.
  2. Do biết nguy hiểm này,
    Khổ do duyên khởi xướng,
    Từ bỏ mọi khởi xướng,
    Không khởi xướng, giải thoát.
  3. Do đoạn tận hữu ái,
    Tâm Tỷ-kheo tịch tịnh,
    Vượt khỏi sanh luân chuyển
    Vị ấy không tái sanh.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:… “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thức ăn”, đây là pháp tùy quán quán thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham thức ăn không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

  1. Phàm khổ gì hiện hữu,
    Tất cả duyên thức ăn,
    Do đoạn diệt thức ăn,
    Khổ không có hiện hữu.
  2. Do biết nguy hiểm này,
    Khổ do duyên thức ăn,
    Liễu tri mọi thức ăn,
    Không y mọi thức ăn.
  3. Nhờ chánh trí không bệnh,
    Ðoạn diệt các lậu hoặc,
    Thọ dụng các thức ăn,
    Giác sát, trú Chánh pháp,
    Vị đạt được trí tuệ,
    Không rơi vào ước lượng.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:… “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên dao động”, đây là pháp tùy quán quán thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham dao động không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

  1. Phàm khổ gì hiện hữu,
    Tất cả duyên dao động,
    Do đoạn diệt dao động,
    Khổ không có hiện hữu.
  2. Do biết nguy hiểm này,
    Khổ do duyên dao động,
    Do vậy, bỏ dao động,
    Chận dừng lại các hành,
    Không có gì chướng ngại
    Không chấp thủ, chánh niệm,
    Vị Tỷ-kheo bộ hành,
    Khắp tất cả chân trời.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:… “Ai có nương tựa, thì bị dao động”, đây là pháp tùy quán quán thứ nhất. “Ai không có nương tựa, không bị dao động”, đây là pháp tùy quán thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

  1. Không nương tựa, không động,
    Nương tựa có chấp thủ,
    Chấp hữu này, hữu khác,
    Không chinh phục luân chuyển.
  2. Sau khi rõ biết được,
    Nguy hiểm tai hại nầy,
    Trong các sự nương tựa,
    Có sợ hãi lớn lao,
    Không nương tựa y chỉ,
    Không chấp thủ, chánh niệm,
    Vị Tỷ-kheo bộ hành,
    Khắp tất cả chân trời.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: “Có thể có như thế nào?” Này các Tỷ-kheo “Các pháp vô sắc an tịnh hơn các sắc pháp”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. “Sự đoạn diệt an tinh hơn các pháp vô sắc”, đây là pháp tùy quán thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

  1. Chúng sanh thuộc sắc giới,
    Chúng sanh trú vô sắc,
    Không tuệ tri đoạn diệt,
    Chúng đi đến tái sanh.
  2. Những ai liễu tri sắc,
    Khéo an trú vô sắc,
    Giải thoát trong đoạn diệt,
    Họ từ bỏ sự chết.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: “Có thể có như thế nào?” Này các Tỷ-kheo, “Cái gì được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người suy tưởng: “Ðây là sự thật”, cái ấy được các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: “Cái này là hư vọng”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. Này các Tỷ-kheo, “Cái gì được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người suy tưởng: “Ðây là hư vọng”, cái ấy được các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: “Cái này là chân thật”, đây là pháp tùy quán thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

  1. Hãy xem thế giới nầy,
    Với thế giới chư Thiên,
    Hoan hỷ với phi ngã,
    An trú trên danh sắc,
    Nghĩ rằng danh sắc này
    Là chân thật không ngụy.
  2. Dầu họ nghĩ thế nào,
    Khi danh sắc đổi khác,
    Danh sắc là hư vọng,
    Giả dối sống tạm bợ,
  3. Niết-bàn không hư ngụy,
    Bậc Thánh chân thật biết,
    Họ thắng tri chân thật,
    Không ái dục, tịch tịnh.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: “Có thể có như thế nào?” Này các Tỷ-kheo, “Cái gì được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người suy tưởng: “Ðây là an lạc”, cái ấy được các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: “Cái này là khổ”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. Này các Tỷ-kheo, “Cái gì được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người suy tưởng: “Ðây là khổ”, cái ấy được các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: “Cái này là lạc”, đây là pháp tùy quán thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

  1. Sắc, tiếng, hương, vị, xúc,
    Tất cả những pháp này,
    Khả lạc, hỷ, khả ý,
    Khi nào chúng hiện hữu.
  2. Thế giới với chư Thiên
    Xem chúng là khả lạc,
    Khi chúng bị hoại diệt,
    Mới thấy chúng là khổ.
  3. Bậc Thánh thấy là lạc,
    Khi có thân đoạn diệt,
    Ðây hoàn toàn trái ngược,
    Ðiều mọi giới được thấy.
  4. Ðiều người khác gọi lạc,
    Bậc Thánh gọi là khổ,
    Ðiều người khác gọi khổ,
    Bậc Thánh biết là lạc,
    Hãy xem pháp khó biết,
    Kẻ không thấy mê mờ.
  5. Kẻ bị che, tối tăm,
    Kẻ không thấy, tối mù,
    Bậc thiện, được rộng mở,
    Bậc thấy, được ánh sáng,
    Kẻ ngu dầu có gần,
    Cũng không biết con đường,
    Cũng không có thiện xảo,
    Ðối Chánh pháp Phật dạy.
  6. Bị hữu tham chiến bại,
    Bị trôi theo dòng hữu,
    Rơi vào Ma chi phối,
    Pháp này khó chánh giác.
  7. Ai ngoài các bậc Thánh,
    Xứng đáng đạo chánh giác.
    Do chánh trí đạo ấy
    Chứng vô lậu Niết-bàn.

Thế Tôn thuyết như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỉ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi pháp này được giảng, tâm của hơn sáu mươi Tỷ-kheo giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

Chương Bốn – Phẩm Tám

(I) Kinh về Dục (Sn 151)

  1. Ai ao ước được dục,
    Nếu dục được thành tựu,
    Chắc tâm ý hoan hỷ,
    Ðược điều con người muốn.
  2. Nếu người có dục ấy,
    Ước muốn được sanh khởi,
    Các dục ấy bị diệt,
    Bị khổ như tên đâm.
  3. Ai tránh né các dục
    Như chân tránh đầu rắn,
    Chánh niệm vượt thoát được,
    Ái triền này ở đời.
  4. Người nào tham đắm dục,
    Ruộng đất, vàng, bò, ngựa,
    Người nô tỳ, phục vụ,
    Nữ nhân và bà con.
  5. Như người không sức lực,
    Bị các dục chinh phục,
    Tai họa dẫm đạp nó,
    Khổ đau bước theo nó,
    Như nước ùa tràn vào,
    Chiếc thuyền bị vỡ nát.
  6. Do vậy người thường niệm,
    Từ bỏ các loài dục,
    Bỏ dục, vượt bộc lưu,
    Tát thuyền đến bờ kia.

(II) Kinh Hang Ðộng tám kệ (Sn 151)

  1. Chúng sanh vào trong hang,
    Chấp chặt bị bao trùm,
    Người có thái độ vậy,
    Chìm sâu trong si mê.
    Hạnh viễn ly với nó,
    Như vậy thật xa vời,
    Các dục ở trong đời,
    Không dễ gì đoạn tận.
  2. Dục cầu làm nhân duyên,
    Bị lạc hữu trói buộc,
    Họ rất khó giải thoát,
    Không thể có người khác,
    Ðến giải thoát cho mình,
    Họ cầu việc đã qua,
    Họ mong việc chưa lại;
    Họ tham đắm các dục,
    Những dục này hiện tại,
    Và những dục quá khứ.
  3. Ai tham đắm các dục,
    Bị trí buộc si mê,
    Họ xan tham keo kiết.
    An trú trên bất chánh,
    Khi rơi vào đau khổ,
    Họ sầu muộn than khóc,
    Ở đây sau khi chết,
    Tương lai sẽ thế nào?
  4. Do vậy ở tại đây,
    Con người cần học tập,
    Những gì mình biết được,
    Là bất chánh ở đời.
    Do nhân duyên như vậy,
    Mà sống không bất chánh,
    Vì rằng bậc Thánh nói:
    Ngắn thay, sanh mạng này.
  5. Ta thấy ở trên đời,
    Loài Người run, sợ hãi,
    Ði đến khát ái này,
    Trong những loại sanh hữu.
    Phàm những người thấp kém,
    Than van trước miệng chết,
    Chưa viễn ly khát ái,
    Ðối với hữu, phi hữu.
  6. Hãy nhìn những người ấy,
    Run sợ trong tự ngã,
    Như cá chỗ ít nước,
    Trong dòng sông khô cạn,
    Thấy được sự kiện này,
    Hãy sống không của ta,
    Không làm sự việc gì,
    Khiến tham đắm các hữu.
  7. Hãy nhiếp phục ước muốn,
    Ðối với hai cực đoan,
    Nhờ liễu tri các xúc,
    Không còn có tham đắm,
    Cái gì tự ngã trách,
    Cái ấy không có làm,
    Bậc trí không bị nhớp,
    Bởi những gì thấy nghe.
  8. Do liễu tri các tưởng,
    Vượt qua khỏi bộc lưu,
    Bậc Mâu-ni không nhiễm,
    Ðối với mọi chấp thủ,
    Với mũi tên rút ra,
    Sở hành không phóng dật,
    Không cầu mong đời này,
    Không mong ước đời sau.

(III) Kinh Sân Hận tám kệ (Sn 153)

  1. Thật có một số người
    Nói lên với ác ý,
    Và thật cũng có người,
    Nói lên ý chân thật.
    Dầu có lời nói gì,
    ẩn sĩ không liên hệ,
    Do vậy bậc Mâu-ni,
    Không chỗ nào hoang vu.
  2. Người ước muốn dắt dẫn,
    Thiên trú điều sở thích,
    Làm sao từ bỏ được,
    Ðiều tà kiến của mình,
    Khi tự mình tác thành,
    Quan điểm riêng của mình,
    Như điều nọ được biết,
    Hãy để nó nói vậy.
  3. Người không có ai hỏi,
    Lại nói cho người khác,
    Biết đến những giới cấm,
    Của tự cá nhân mình.
    Bậc thiện xảo nói rằng,
    Như vậy không Thánh pháp,
    Nếu ai tự nói lên
    Lời tán thán tự ngã.
  4. Vị Tỷ-kheo an tịnh,
    Sống hết sức tịch tịnh,
    Khi tán thán giới đức,
    Không nói “Tôi là vậy”.
    Bậc thiện xảo nói rằng
    Như vậy là Thánh pháp
    Với vị ấy đề cao,
    Ở đời, không khởi lên.
  5. Với những ai các pháp,
    Ðược sửa soạn tác thành,
    Ðược đặt ra phía trước,
    Không phải không tranh luận,
    Khi đã thấy lợi ích,
    Trên tự thân của mình,
    Y đấy, duyên dao động,
    Ðạt được sự tịch tịnh.
  6. Ðối với các thiên kiến,
    Không dễ gì vượt qua,
    Thẩm sát các pháp xong,
    Mới tác thành chấp trước.
    Do vậy là con người,
    Ðối với trú xứ ấy,
    Có khi quyết từ bỏ,
    Có khi chấp nhận Pháp.
  7. Vị tẩy sạch loại bỏ,
    Không tìm được ở đời,
    Các kiến được sửa soạn,
    Ðối với hữu, phi hữu.
    Bỏ man trá, kiêu mạn,
    Vị tẩy sạch loại bỏ,
    Vị ấy đi với gì,
    Vị ấy không chấp thủ.
  8. Với ai có chấp thủ,
    Bị chỉ trích trong Pháp,
    Với ai không chấp thủ,
    Lấy gì có thể nói?
    Chính đối với vị ấy,
    Ngã, phi ngã đều không,
    Vị ấy đã tẩy sạch,
    Mọi tà kiến ở đời.

(IV) Kinh Thanh Tịnh tám kệ (Sn 154)

  1. Ta thấy vị thanh tịnh,
    Vị tối thượng, không bệnh,
    Sự thanh tịnh con người,
    Với tri kiến, đạt được.
    Nắm giữ quan điểm này.
    Xem đấy là tối thượng,
    Vị này sẽ xem trí,
    Là tùy quán thanh tịnh.
  2. Nếu thanh tịnh con người,
    Do tri kiến đạt được,
    Hay với trí vị ấy,
    Từ bỏ sự đau khổ
    Vị ấy có sanh y,
    Ngoài Thánh đạo được tịnh,
    Vị ấy nói như vậy,
    Do tri kiến cá nhân.
  3. Bà-la-môn không nói,
    Ngoài Thánh đạo được tịnh,
    Với điều được thấy nghe,
    Giới đức, được thọ tưởng;
    Với công đức, ác đức,
    Vị ấy không nhiễm trước,
    Từ bỏ mọi chấp ngã,
    Không làm gì ở đời.
  4. Từ bỏ tri kiến cũ,
    Y chỉ tri kiến mới,
    Ði đến sự tham đắm,
    Không vượt qua ái dục;
    Họ nắm giữ chấp trước,
    Họ từ bỏ xa lánh,
    Như khỉ thả cành này,
    Rồi lại nắm cành khác,
  5. Người tự mình chấp nhận,
    Các chủng loại giới cấm,
    Ði chỗ cao chỗ thấp,
    Sống bị tưởng chi phối;
    Người có trí rộng lớn,
    Nhờ trí tuệ, quán pháp,
    Có trí, không đi đến
    Các pháp cao và thấp.
  6. Vị ấy đạt thù thắng,
    Trong tất cả các pháp,
    Phàm có điều thấy, nghe,
    Hay cảm thọ, tưởng đến;
    Với vị tri kiến vậy,
    Sống đời sống rộng mở,
    Không bị ai ở đời,
    Có thể chi phối được.
  7. Họ không tác thành gì,
    Họ không đề cao gì,
    Họ không có nói lên,
    Ðây tối thắng thanh tịnh,
    Không dính líu tham đắm,
    Mọi chấp trước triền phược,
    Họ không tạo tham vọng,
    Bất cứ đâu ở đời.
  8. Với vị Bà-la-môn
    Ðã vượt khỏi biên giới,
    Sau khi biết và thấy,
    Không có kiến chấp trước.
    Tham ái không chi phối,
    Cũng không tham, ly tham,
    Vị ấy ở đời này,
    Không chấp thủ gì khác.

(V) Kinh Tối Thắng tám kệ (Sn 156)

  1. Ai thiên trú trong kiến,
    Xem kiến ấy tối thắng,
    Ở đời đặt kiến ấy,
    Vào địa vị tối thượng.
    Người ấy nói tất cả,
    Người khác là hạ liệt,
    Do vậy không vượt khỏi,
    Sự tranh luận ở đời.
  2. Khi nó thấy lợi ích,
    Ðến với tự ngã nó,
    Ðối với vật thấy nghe,
    Giới đức hay thọ tưởng;
    Vị ấy ở tại đấy,
    Liền chấp trước nắm giữ,
    Nó thấy mọi người khác,
    Là hạ liệt thấp kém.
  3. Người y chỉ kiến ấy,
    Thấy người khác hạ liệt,
    Bậc thiện nói như vậy,
    Ðấy là sự trói buộc;
    Do vậy đối thấy nghe,
    Thọ, tưởng hay giới cấm,
    Bậc Tỷ-kheo không có
    Y chỉ, nương tựa vào.
  4. Chớ có tác thành ra
    Tri kiến ở trên đời,
    Từ ở nơi chánh trí,
    Hay từ nơi giới đức,
    Không bận tâm so sánh,
    Tự ngã bằng người khác,
    Không có suy nghĩ đến,
    Ðây “liệt ” hay đây “thắng”.
  5. Ðoạn tận, từ bỏ ngã,
    Không chấp thủ sự gì,
    Không tác thành, dựng nên,
    Nương tựa ở nơi trí,
    Chân thật giữa tranh chấp
    Không theo phe phái nào,
    Vị ấy không đi theo
    Một loại tri kiến nào.
  6. Với ai, hay cực đoan,
    Không có hướng nguyện gì,
    Với hữu và phi hữu,
    Hay đời này đời sau,
    Vị ấy không an trú,
    Tại một trú xứ nào,
    Từ bỏ mọi chấp thủ,
    Ðối với tất cả pháp.
  7. Ðối vị ấy ở đây,
    Những gì được thấy nghe,
    Ðược cảm thọ tưởng đến,
    Chút suy tưởng cũng không;
    Vị Bà-la-môn ấy
    Không chấp thủ tri kiến,
    Không ai ở đời này
    Có thể chi phối được.
  8. Họ không tác thành gì,
    Họ không đề cao gì,
    Các pháp không được họ,
    Chấp trước nắm giữ gì
    Không một Phạm chí nào,
    Bị giới cấm dắt dẫn,
    Ði đến bờ bên kia,
    Vị ấy không trở lui.

(VI) Kinh Già (Sn 158)

  1. Sinh mạng này ngắn thay,
    Trong trăm năm, rồi chết,
    Nếu ai sống hơn nữa,
    Rồi cũng chết vì già.
  2. Loài Người sầu vì ngã,
    Mọi chấp thủ vô thường,
    Trống không là đời này,
    Thấy vậy sống không nhà.
  3. Vì loài Người nghĩ rằng
    Cái này là của tôi,
    Cái ấy bị sự chết,
    Làm hoại diệt hư tàn.
    Biết vậy, bậc Hiền trí,
    Không gọi, không hướng đến,
    Cái này ngã của ta,
    Cái này là của ta.
  4. Như những gì hiện lên,
    Trong giấc ngủ mộng mị,
    Con người khi tỉnh dậy,
    Không còn thấy được gì.
    Cũng vậy ở đời này,
    Người được ưa, ái luyến,
    Rồi sẽ chết mất đi,
    Không ai còn thấy được.
  5. Các loại hạng người ấy
    Ðược thấy và được nghe,
    Nên họ được gọi tên,
    Tên này hay tên khác.
    Với người đã chết đi,
    Chỉ được gọi tên không,
    Vì chỉ có tên suông,
    Sẽ được còn tồn tại.
  6. Tham đắm cái của ta,
    Họ không có từ bỏ,
    Sầu khổ và than van,
    Cùng xan tham keo kiết.
    Do vậy bậc ẩn sĩ,
    Sau khi bỏ chấp thủ,
    Ðã sống một đời sống,
    Thấy được sự an ổn.
  7. Ðối với vị Tỷ-kheo
    Sống thanh vắng một mình,
    Sống tu tập tâm ý,
    Hướng đến hạnh viễn ly,
    Nếp sống vậy được nói,
    Hòa hợp với vị ấy,
    Và không nêu tự ngã,
    Trong hiện hữu của mình.
  8. Vị ẩn sĩ không tựa,
    Không y chỉ một ai,
    Không làm thành thương yêu,
    Không tác thành ghét bỏ.
    Do vậy trong sầu than,
    Trong xan tham keo kiết,
    Như nước trên lá cây,
    Không dính ướt làm nhơ.
  9. Giống như một giọt nước,
    Không dính ướt hoa sen,
    Như nước trên bông sen,
    Khôn dính ướt làm nhơ.
    Ðối với vật thấy nghe,
    Ðược cảm thọ tưởng đến,
    Cũng vậy bậc ẩn sĩ
    Không dính ướt tham đắm.
  10. Do vậy bậc tẩy sạch,
    Không có suy tư đến,
    Ðiều được thấy được nghe,
    Ðược cảm thọ tưởng đến.
    Vị ấy muốn thanh tịnh,
    Không có dựa gì khác,
    Vị ấy không tham đắm,
    Cũng không có ly tham.

(VII) Kinh Tissametteyya (Sn 160)

  1. Tissa Metteyya,
    Tôn giả nói như sau:
    Thế Tôn hãy nói lên,
    Sự tai hại của người,
    Ðắm say về dâm dục,
    Sau khi nghe, chúng con
    Sẽ học tập lời Ngài,
    Lời dạy về viễn ly.
  2. Thế Tôn nói như sau:
    Hỡi này Metteyya,
    Ai đắm say dâm dục,
    Quên mất lời giảng dạy,
    Rơi vào đường tà vạy,
    Nếp sống ấy không thánh.
  3. Ai trước sống một mình,
    Nay rơi vào dâm dục,
    Như xe bị nghiêng ngã,
    Người ấy ở trong đời,
    Ðược gọi là phàm phu,
    Ðược gọi là hạ liệt.
  4. Tiếng tốt có từ trước,
    Người ấy bị tổn giảm,
    Thấy vậy hãy học tập,
    Từ bỏ sự dâm dục.
  5. Chi phối bởi suy tư,
    Trầm ngâm như kẻ nghèo,
    Nghe tiếng trách người khác,
    Như kẻ bị thất vọng.
  6. Bị người khác buộc tội,
    Nó làm các đao kiếm,
    Trở thành người tham lớn,
    Chấp thủ điều vọng ngôn.
  7. Ðược danh là Hiền trí,
    An trú sống một mình,
    Nếu rơi vào dâm dục,
    Sầu não như kẻ ngu.
  8. Thấy nguy hại như vậy,
    Bậc ẩn sĩ trước sau,
    Kiên trì sống cô độc,
    Không thực hành dâm dục.
  9. Hãy học tập viễn ly,
    Ðây hạnh thánh tối thượng,
    Không nghĩ mình tối thắng,
    Dầu gần được Niết-bàn.
  10. Sở hành bậc ẩn sĩ,
    Trống không, không mong dục,
    Bậc vượt khỏi bộc lưu,
    Ðược các người ở đời,
    Bị tham dục trói buộc,
    Ganh tị và thèm muốn.

(VIII) Kinh Pasùra (Sn 161)

  1. Ở đây chính thanh tịnh,
    Họ thuyết giảng như vậy,
    Họ nói trong pháp khác,
    Không có sự thanh tịnh,
    Họ nói chỗ y chỉ,
    Ở đây là thanh tịnh,
    Họ rộng rãi an trú,
    Trong sự thật của mình.
  2. Những ai muốn tranh luận,
    Sau khi vào hội chúng,
    Họ công kích lẫn nhau,
    Họ gọi nhau là ngu,
    Họ đi đến người khác,
    Và khởi lên tranh luận,
    Họ muốn được tán thán,
    Họ gọi chúng thiện xảo.
  3. Ham mê thích tranh luận,
    Ở giữa các hội chúng,
    Ước muốn được tán thán,
    Họ sợ hãi thất bại,
    Khi bị đánh thất bại,
    Họ trở thành rủn chí,
    Bị chê, họ nổi giận,
    Kẻ tìm lỗi người khác.
  4. Khi các nhà thẩm sát,
    Phê bình các câu hỏi,
    Tuyên bố cuộc tranh luận,
    Ði đến chỗ thất bại,
    Kẻ nói lời hạ liệt,
    Than khóc và sầu não,
    Họ rên rỉ than van,
    Nó đã đánh bại ta.
  5. Giữa các vị Sa-môn,
    Các tranh luận khởi lên,
    Trong các tranh luận này,
    Có chiến thắng chiến bại.
    Do thấy rõ như vậy,
    Không vui thích tranh luận
    Dầu có được tán thán,
    Cũng không lợi ích gì.
  6. Hay trong tranh luận này,
    Nó được lời tán thán,
    Sau khi đã nói lên,
    Chính giữa các hội chúng.
    Do vậy nó vui cười,
    Nó tự hào kiêu hãnh,
    Ðạt được mục đích ấy,
    Như tâm ý nói lên.
  7. Cái làm nó cống cao,
    Cũng là đất hại nó,
    Tuy vậy nó vẫn nói,
    Lời cống cao kiêu mạn,
    Khi thấy được như vậy,
    Hãy đừng có tranh luận,
    Bậc thiện xảo nói rằng,
    Thanh tịnh không do vậy.
  8. Cũng như bậc anh hùng,
    Nuôi dưỡng đồ ăn vua,
    La hét muốn tìm cầu,
    Một địch thủ anh hùng,
    Ôi anh hùng hãy tránh,
    Chỗ nào có vị ấy,
    Từ trước đã không có,
    Sự đấu tranh như vậy.
  9. Những ai chấp tri kiến,
    Tranh luận về kiến ấy,
    Tuyên bố thuyết giảng rằng:
    Chỉ đây là sự thật,
    Ông hãy nói với họ,
    Ở đây không tranh luận,
    Ông hãy nói thêm rằng
    Ở đây không địch thủ.
  10. Cuộc chiến đấu đã tàn,
    Những ai sống như vậy,
    Không có sự va chạm,
    Giữa kiến này kiến khác,
    Hỡi này Pasùra!
    Ông được gì nơi họ,
    Với người không chấp thủ,
    Một sự gì tối thượng?
  11. Vậy Ông hãy đi đến,
    Suy tư ngẫm nghĩ kỹ,
    Với tâm ý suy tư,
    Trên những loại tri kiến,
    Hãy hoà đồng chung hợp,
    Với bậc đã tẩy sạch,
    Ông không có thể không
    Cùng vị ấy tiến bước.

(IX) Kinh Màgandiya (SN 163)

Thế Tôn:

  1. Sau khi thấy khát ái,
    Bất lạc và tham đắm,
    Không thể có ưa muốn,
    Ðối với sự dâm dục.
    Sao, với bao đầy tràn,
    Nước tiểu, phân uế này,
    Ta không có ước muốn,
    Với chân động chạm nó.

Màgandiya:

  1. Nếu Ngài không ước muốn:
    Ngọc báu như thế này,
    Nữ nhân được mong cầu,
    Bởi rất nhiều đế vương,
    Hãy nói như thế nào,
    Là tri kiến của Ngài,
    Giới cấm và sinh mạng,
    Cùng sự hữu phát sanh.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn liền trả lời,
    Cho Màgandiya,
    Với Ta không có nói,
    Ta nói như thế này,
    Sau khi quán sát kỹ
    Sự chấp thủ trong pháp,
    Trong tất cả tri kiến,
    Ta không có chấp trước,
    Ta thấy sự cất chứa,
    Tịch tịnh trong nội tâm.

Màgandiya:

  1. Màgandiya nói:
    Các lý thuyết quyết định,
    Ngài nói vị ẩn sĩ,
    Không nắm giữ thuyết nào.
    Còn về ý nghĩa này,
    Của hai chữ nội tịnh,
    Thế nào là bậc Hiền trí,
    Hiểu biết hai chữ ấy?

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn nói như sau:
    Này Màgandiya,
    Không phải từ tri kiến,
    Từ truyền thống, từ trí,
    Không phải từ giới cấm,
    Thanh tịnh được đem đến.
    Người ta nói như vậy,
    Nhưng cũng không phải là
    Không kiến, không truyền thống,
    Không trí, không giới cấm,
    Từ bỏ tất cả chúng,
    Không chấp thủ sự gì,
    Bậc thiện không y chỉ,
    Không ước muốn sanh hữu.

Màgandiya:

  1. Màgandiya nói:
    Nếu không từ tri kiến,
    Từ truyền thống, từ trí,
    Không phải từ giới cấm,
    Thanh tịnh được đưa đến.
    Người ta nói như vậy,
    Cũng không phải không kiến,
    Không truyền thống, không trí,
    Không giới luật giới cấm,
    Thanh tịnh được đem đến
    Con nghĩ rằng pháp vậy,
    Là pháp kẻ ngu si,
    Vì rằng thật có người,
    Nhờ kiến đến thanh tịnh.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn nói như sau:
    Này Màgandiya,
    Nếu y vẫn tri kiến,
    Ông còn tiếp tục hỏi,
    Chính do những chấp thủ,
    Ði đến sự ngu si,
    Từ đó, Ông không thấy,
    Một chút gì về tưởng,
    Do vậy, Ông chớ thấy,
    Tất cả là ngu si.
  2. Bằng ta thắng hơn ta,
    Hay thấp kém hơn ta,
    Ai suy nghĩ như vậy,
    Do vậy đấu tranh khởi,
    Ai không bị dao động
    Bởi ba vấn đề ấy,
    Như vậy, đối vị ấy,
    Không bằng, không thù thắng.
  3. Sao Bà-la-môn ấy
    Lại nói: “Ðây sự thật “,
    Ðây chính là nói láo,
    Ðể gây nên tranh luận,
    Với ai không hề có,
    Bằng nhau, không bằng nhau.
    Do đâu nó có thể,
    Mắc vào tranh luận được.
  4. Ðoạn tận mọi nhà cửa,
    Sống là kẻ không nhà,
    Ẩn sĩ không thân thiết,
    Với một ai ở làng,
    Trống không các dục vọng,
    Không xem trọng sự gì,
    Không nói chuyện tranh luận,
    Với một ai ở đời.
  5. Vị ấy sống viễn ly,
    Mọi sự việc ở đời,
    Bậc Long tượng không chấp,
    Và không nói đến họ.
    Như hoa sen có gai,
    Sanh ra ở trong nước,
    Không bị nước và bùn,
    Mắc dính và thấm ướt.
    Như vậy bậc ẩn sĩ,
    Nói an tịnh, không tham,
    Không bị dục và đời,
    Mắc dính và thấm ướt.
  6. Bậc trí, không do kiến,
    Cũng không do thọ tưởng,
    Ði đến sự kiêu mạn,
    Không có tham dự vào,
    Không để cho hành động,
    Cho truyền thống dắt dẫn,
    Không để bị chi phối,
    Trong trú xứ của ý.
  7. Người không ưa thích tưởng,
    Không có bị trói buộc,
    Vị được tuệ giải thoát,
    Không có sự si mê,
    Và những ai chấp thủ,
    Tư tưởng và tri kiến,
    Người ấy sống xung đột,
    Với mọi người ở đời.

(X) Kinh Trước khi bị hủy hoại (Sn 166)

Người hỏi:

  1. Người sống đời an tịnh,
    Kiến và giới thế nào?
    Con hỏi Gotama,
    Là bậc người tối thượng.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn đáp như sau:
    Ly ái trước thân hoại,
    Không y chỉ ban đầu,
    Không y chỉ cuối cùng,
    Không kể đến vật giữa,
    Không có ưa thích nào.
  2. Không phẫn nộ, không sợ,
    Không khoa đại, không hối,
    Nói hòa nhã, không động,
    Bậc ẩn sĩ thận ngôn.
    Không ước vọng tương lai,
    Không sầu muộn quá khứ,
    Thấy viễn ly giữa xúc,
    Không để kiến dắt dẫn.
  3. Sống riêng, không man trá,
    Không thích, không xan tham,
    Không xông xáo nhàm chán,
    Không đi đến hai lưỡi.
  4. Không mê vật khả ái,
    Cũng không có quá mạn,
    Nhu hòa, nhưng ứng biện,
    Không vọng tín, không tham.
  5. Không tu tập vì lợi,
    Không được lợi, không sân,
    Không bị ái kích thích,
    Không đam mê các vị.
  6. Thường trú xả, chánh niệm,
    Ở đời, không nghĩ mình,
    Bằng hơn hay thua người,
    Vị ấy, không bồng bột.
  7. Không y chỉ một ai,
    Biết pháp, không y chỉ,
    Vị ấy không có ái,
    Ðối với hữu, phi hữu.
  8. Ta gọi vị an tịnh,
    Không mong cầu các dục,
    Vị ấy không triền phược,
    Vượt khỏi các tham trước.
  9. Vị ấy không con cái,
    Thú vật, ruộng, đất đai,
    Không có gì nắm lấy,
    Là ta, là không ta.
  10. Phàm phu có buộc tội,
    Hoặc Sa-môn, Phạm chí,
    Vị ấy không quan tâm,
    Trong lời nói không động,
  11. Không tham, không xan lẫn,
    Ẩn sĩ không nói cao,
    Không nói bằng, nói thấp,
    Không đi đến thời kiếp,
    Vì vị ấy vượt khỏi,
    Sự chi phối thời kiếp.
  12. Ai không có vật gì,
    Không có, không sầu muộn,
    Không đi đến các pháp,
    Vị ấy gọi an tịnh.

(XI) Kinh Tranh luận (Sn 168)

Người hỏi:

  1. Từ đâu được khởi lên,
    Các tranh luận, đấu tranh,
    Than van và sầu muộn,
    Cùng với tánh xan tham,
    Mạn và tăng thượng mạn,
    Kể cả với hai lưỡi,
    Từ đâu chúng sanh nhiều,
    Mong Ngài hãy nói lên.

Thế Tôn:

  1. Từ ái sanh khởi nhiều,
    Các tranh luận, đấu tranh
    Than van và sầu muộn,
    Cùng với tánh xan tham,
    Mạn và tăng thượng mạn,
    Kể cả với hai lưỡi,
    Các tranh luận, đấu tranh,
    Ðều liên hệ xan tham,
    Những lời nói hai lưỡi,
    Khởi lên từ tranh luận.

Người hỏi:

  1. Do những nhân duyên nào,
    Khả ái sanh ở đời?
    Hay những tham lam nào,
    Ðược lưu hành ở đời?
    Ước vọng và thành đạt,
    Là do nhơn duyên nào?
    Khiến loài Người được sanh,
    Trong thời gian tương lai?

Thế Tôn:

  1. Do ước muốn là nhân,
    Khả ái sanh ở đời,
    Hay với những tham lam,
    Ðược lưu hành ở đời,
    Ước vọng và thành đạt,
    Do ước muốn làm nhân,
    Khiến loài Người được sanh,
    Trong thời gian tương lai.

Người hỏi:

  1. Ước muốn sanh ở đời
    Là do nhân duyên nào?
    Hay cả những quyết định,
    Do nhân nào được sanh?
    Phẫn nộ và vọng ngữ,
    Cùng với cả nghi hoặc,
    Hoặc là những pháp nào,
    Ðược Sa-môn nói đến?

Thế Tôn:

  1. Khả ý, bất khả ý,
    Ðược gọi vậy ở đời,
    Do y chỉ nơi chúng,
    Ước muốn được sanh khởi.
    Sau khi thấy trong sắc,
    Cả hữu và phi hữu,
    Chúng sanh mới làm được,
    Những quyết định ở đời.
  2. Phẫn nộ và vọng ngữ,
    Cùng với cả nghi hoặc,
    Những pháp này lưu hành,
    Khi pháp đôi có mặt,
    Kẻ nghi hãy học tập,
    Trên con đường chánh trí,
    Sau khi biết các pháp,
    Do Sa-môn thuyết giảng.

Người hỏi:

  1. Khả ý, bất khả ý,
    Là do nhân duyên nào,
    Do cái gì không có,
    Họ không có hiện hữu.
    Còn về ý nghĩa này,
    Về phi hữu và hữu,
    Hãy nói cho chúng con,
    Nguyên nhân gì chúng sanh?

Thế Tôn:

  1. Do nhân duyên cảm xúc,
    Khả ý, bất khả ý,
    Nếu không có cảm xúc,
    Họ cũng không hiện hữu,
    Còn về ý nghĩa này,
    Về phi hữu và hữu,
    Ta nói cho Ông rõ,
    Nguyên nhân này, chúng sanh.

Người hỏi:

  1. Còn cảm xúc ở đời,
    Do nhân gì sanh khởi,
    Hay các loại chấp thủ,
    Do từ đâu sanh nhiều,
    Do cái gì không có,
    Ngã sở hữu không có,
    Cái gì không hiện hữu,
    Khiến không có cảm xúc?

Thế Tôn:

  1. Do duyên danh và sắc,
    Nên có các cảm xúc,
    Do nhân các ước muốn,
    Nên có những chấp thủ,
    Nếu ước muốn không có,
    Ngã sở hữu cũng không,
    Do sắc không hiện hữu,
    Khiến không có cảm xúc.

Người hỏi:

  1. Sở hành như thế nào,
    Sắc pháp không hiện hữu,
    An lạc và khổ đau,
    Thế nào không có mặt,
    Hãy nói lên cho con,
    Không có như thế nào,
    Chúng con muốn được biết,
    Tâm ý con nói vậy.

Thế Tôn:

  1. Không có tưởng các tưởng,
    Không có tưởng vô tưởng,
    Phi tưởng cũng không có,
    Vô hữu tưởng cũng không.
    Do sở hành như vậy,
    Sắc pháp không hiện hữu,
    Do nhân duyên các tưởng,
    Hý luận được hình thành.

Người hỏi:

  1. Ngài đã nói chúng con,
    Những điều chúng con hỏi,
    Có điều nữa hỏi Ngài,
    Mong Ngài trả lời cho,
    Bậc Hiền trí nói rằng,
    Như thế này tối thượng,
    Nghĩa là ở đời này,
    Sự thanh tịnh Dạ-xoa
    Hay là chúng muốn nói,
    Có điều gì khác nữa?

Thế Tôn:

  1. Bậc Hiền trí nói rằng,
    Như thế là tối thượng,
    Nghĩa là ở đời này,
    Sự thanh tịnh Dạ-xoa,
    Như có người nói rằng,
    Chính là sự hoại diệt,
    Lại một số thiện nhân,
    Nói rằng: “Không dư y”.
  2. Biết được những pháp ấy,
    Ðều nương tựa y chỉ,
    Biết vậy bậc ẩn sĩ,
    Suy tư trên y chỉ,
    Biết được, nên giải thoát,
    Không đi đến tranh luận,
    Bậc Hiền không tìm đến,
    Cả hữu và phi hữu.

(XII) Những vấn đề nhỏ bé (Sn 171)

Người hỏi:

  1. Mỗi người tự thiên chấp,
    Về tri kiến của mình,
    Do chấp thủ sai biệt,
    Bậc thiện xảo nói lên,
    Ai biết như thế này,
    Vị ấy biết được pháp,
    Ai chỉ trích điểm này,
    Vị ấy không hoàn toàn.
  2. Do chấp thủ như vậy,
    Họ tranh luận với nhau,
    Họ nói kẻ khác ngu.
    Không có khéo thiện xảo.
    Trong những lời nói này,
    Lời nói ai chân thật,
    Hay tất cả vị này,
    Là những bậc khéo nói?

Thế Tôn:

  1. Nếu không có chấp thuận,
    Pháp của các người khác,
    Nói kẻ khác là ngu,
    Tuệ như vậy thấp kém.
    Tất cả là ngu si,
    Có tuệ thật thấp kém.
    Tất cả tri kiến này.
    Ðều chỉ là thiên chấp.
  2. Nếu các cuộc tranh luận,
    Ðược tri kiến gạn lọc,
    Trí tuệ được thanh tịnh,
    Thiện xảo trí sáng suốt,
    Họ không có một ai,
    Là trí tuệ hạ liệt,
    Và tri kiến của họ,
    Ðược hoàn toàn viên mãn.
  3. Ta không có nói rằng:
    “Ðây chính là sự thật”.
    Các người ngu với nhau,
    Cùng nhau nói như vậy,
    Với tri kiến tự mình,
    Họ nói là chân thật,
    Do vậy các người khác,
    Ðược họ xem là ngu.

Người hỏi:

  1. Một số người nói rằng:
    “Ðây mới là sự thật”
    Họ nói các người khác,
    Là trống không, giả dối,
    Do chấp thủ như vậy,
    Họ tranh luận đấu tranh,
    Vì sao bậc Sa-môn,
    Không cùng nói một lời?

Thế Tôn:

  1. Sự thật chỉ có một,
    Không sự thật thứ hai,
    Người hiểu biết tranh luận,
    Với người có hiểu biết,
    Nhưng chân thật họ khen,
    Chỉ sự thật của họ,
    Do vậy bậc Sa-môn,
    Không cùng nói một lời.

Người hỏi:

  1. Vì sao họ nói lên,
    Những chân thật sai khác,
    Vì sao bậc thiện xảo,
    Lại nói lời tranh luận,
    Nếu các sự thật ấy,
    Là nhiều và sai biệt,
    Hay họ chỉ nhớ đến,
    Những suy luận của họ.

Thế Tôn:

  1. Thật sự các sự thật,
    Không có nhiều sai biệt,
    Từ các luồng tư tưởng,
    Về thường còn ở đời,
    Do họ suy nghĩ đến,
    Tư tưởng các tri kiến,
    Họ nói có hai pháp,
    Sự thật và giả dối.
  2. Các pháp được thấy nghe,
    Ðược giữ giới, thọ tưởng,
    Họ y cứ pháp này,
    Họ suy tư, nhìn thấy,
    An trú các quyết định,
    Họ chê cười người khác,
    Họ nói các người khác,
    Là ngu si bất thiện.
  3. Vì rằng đối người khác,
    Nó xem là ngu si,
    Tự mình gọi chính mình,
    Là thiện xảo tốt đẹp,
    Do chính mình khen mình,
    Vị ấy gọi thiện xảo,
    Khinh thường các người khác,
    Lời người ấy là vậy.
  4. Vị ấy quá say mê,
    Với tri kiến của mình,
    Nên trở thành kiêu mạn,
    Viên mãn tự ý mình,
    Tự mình với tâm ý,
    Làm lễ quán đảnh mình,
    Do vậy, bị say mê,
    Trong tri kiến của mình.
  5. Nếu người khác nói rằng:
    Nó là hạng hạ liệt.
    Như vậy đối tự mình,
    Kẻ kia cũng liệt tuệ,
    Nếu tự nó sáng suốt,
    Bậc Hiền trí hiểu biết,
    Không có ai ngu si,
    Giữa các bậc Sa-môn.
  6. Những ai tuyên bố pháp,
    Sai khác với pháp này,
    Ði ngược lại thanh tịnh,
    Không là người hoàn toàn,
    Như vậy các ngoại đạo,
    Tuyên bố thật rộng rãi,
    Do lòng tham tri kiến,
    Họ quá sức đam mê.
  7. Những ai tuyên bố rằng,
    Chính đây là thanh tịnh,
    Họ nói không thanh tịnh,
    Trong các pháp sai khác.
    Như vậy các ngoại đạo,
    An trú thật rộng rãi,
    Họ kiên trì tuyên bố,
    Con đường riêng của mình.
  8. Ai kiên trì tuyên bố,
    Con đường riêng của mình,
    Sao ở đây có thể,
    Nói người khác là ngu?
    Vị ấy tự chê mình,
    Ðem lại tiếng liệt tuệ,
    Người khác nói nói ngu,
    Không được pháp thanh tịnh.
  9. An trú trên quyết định,
    Tự mình lượng sức người
    Vị ấy ở trên đời,
    Chỉ tăng thêm tranh luận,
    Ai từ bỏ tất cả,
    Mọi quyết định, chủ trương,
    Không bị người ở đời,
    Chê là kẻ liệt tuệ.

(XIII) Những vấn đề to lớn (Sn 174)

Người hỏi:

  1. Với những ai thiên vị,
    Ðối với những tri kiến này,
    Chỉ đây là sự thật,
    Họ cãi cọ tranh luận,
    Tất cả những người ấy,
    Ðem lại sự chỉ trích,
    Hay chính tại ở đây,
    Họ được lời tán thán?

Thế Tôn:

  1. Ðây chỉ là nhỏ bé,
    Không đủ đem an tịnh,
    Ta nói về hai quả
    Của các loại đấu tranh.
    Sau khi thấy như vậy,
    Chớ có nên tranh luận,
    Nên thấy rằng an ổn,
    Không phải đất tranh luận.
  2. Phàm những thế tục này,
    Ðược sanh giữa phàm phu,
    Bậc trí không dựa vào,
    Tất cả thế tục này,
    Ðã không có quan tâm,
    Sao nay tìm quan tâm,
    Sao có thể kham nhẫn,
    Với vật được thấy nghe.
  3. Bậc xem giới tối thượng,
    Nói tịnh nhờ chế ngự,
    Chấp thủ giới cấm xong,
    Họ an trú như vậy.
    Ở đây họ tu tập,
    Do đây được thanh tịnh,
    Họ chỉ khéo nói năng,
    Họ bị hữu dắt dẫn.
  4. Nếu có ai vi phạm,
    Giới hạnh và giới cấm,
    Người ấy sẽ run sợ,
    Vì sở hành khiếm khuyết.
    Ở đây người ấy than,
    Cố gắng được thanh tịnh,
    Như lữ hành lạc đoàn,
    Như kẻ bỏ gia đình.
  5. Ðối với giới cấm thủ,
    Sau khi đoạn tất cả,
    Cùng với các sở hành,
    Có tội,không có tội,
    Không còn có cố gắng,
    Thanh tịnh, không thanh tịnh,
    Hãy sống hạnh viễn ly,
    Không chấp thủ an tịnh.
  6. Người y chỉ khổ hạnh,
    Người y chỉ nhàm chán,
    Kẻ dựa vào nghe thấy,
    Hay dựa vào thọ tưởng,
    Họ là hạng nói lớn,
    Tán thán sự thanh tịnh,
    Chưa đoạn được tham ái,
    Ðối với hữu, phi hữu.
  7. Với ai có nỗ lực,
    Cầu mong và ham muốn,
    Họ mới phải run sợ,
    Với những kiến của mình,
    Với những ai ở đời,
    Không có sanh và chết,
    Do gì, khiến họ sợ,
    Họ tham vọng cái gì?

Người hỏi:

  1. Có những người tuyên bố,
    Pháp này là tối thượng,
    Nhưng người khác lại nói,
    Pháp ấy là hạ liệt.
    Ai nói lời chân thật,
    Giữa hai hạng người này,
    Hay tất cả hạng này,
    Ðều là hạng khéo nói?
  2. Với pháp tự của mình,
    Nói pháp này viên mãn
    Chỉ trích pháp người khác,
    Là thấp kém hạ liệt,
    Do chấp thủ như vậy,
    Họ luận tranh đấu tranh,
    Mọi thế tục tự mình,
    Họ nói là chân thật.

Thế Tôn:

  1. Nếu có bị người khác,
    Khinh rẻ là hạ liệt,
    Như vậy giữa các pháp,
    Không gì thù thắng sao?
    Kẻ phàm phu nói rằng
    Pháp người khác hạ liệt,
    Cương quyết tự đề cao,
    Pháp mình không hạ liệt.
  2. Như mọi người tôn thờ,
    Chánh pháp của tự mình,
    Giống như họ tán thán,
    Mọi sở hành bản thân,
    Tất cả những lời nói
    Trở thành lời chân thật,
    Sự thanh tịnh đối họ,
    Tự mỗi người tác thành.
  3. Với người Bà-la-môn,
    Không người khác lãnh đạo,
    Sau khi đã nghiên cứu,
    Chấp thủ trong các pháp,
    Do vậy nên vị ấy
    Vượt khỏi các tranh luận,
    Không thấy pháp người khác,
    Có thể thù thắng hơn.
  4. Họ nói: “Tôi thấy, biết,
    Cái này là như vậy”.
    Họ đi đến quan điểm,
    Thanh tịnh nhờ tri kiến,
    Vị ấy đã thấy vậy,
    Cần gì kiến người khác,
    Vượt qua được quan điểm,
    Thanh tịnh nhờ pháp khác.
  5. Người có mắt thấy được,
    Cả danh và cả sắc,
    Sau khi thấy được họ,
    Sẽ biết họ là vậy,
    Hãy để họ được thấy,
    Các dục nhiều hay ít,
    Bậc thiện xảo không nói,
    Thanh tịnh là nhờ dục.
  6. Người đã gọi cuồng tín,
    Không đưa đến thanh tịnh,
    Vì đã có thiên vị,
    Với tri kiến tác thành,
    Y chỉ nơi cái gì,
    Nơi đấy là tinh sạch,
    Người tuyên bố thanh tịnh,
    Thấy ở đấy như vậy.
  7. Phạm chí không rơi vào,
    Thời gian và ước lượng,
    Không theo các tri kiến,
    Không bà con với trí,
    Biết được các thế tục,
    Do phàm phu chấp thủ,
    Các người khác học hỏi,
    Vị ấy sống hỷ xả.
  8. Không chấp thủ triền phược,
    ẩn sĩ sống ở đời,
    Giữa tranh luận khởi lên,
    Không theo phe phái nào,
    Sống an tịnh, hỷ xả,
    Giữa những người không tịnh,
    Các người khác học hỏi,
    Vị ấy sống không học.
  9. Từ bỏ lậu hoặc cũ,
    Không tạo lậu hoặc mới,
    Không đi đến ước muốn,
    Không cuồng tín chấp thủ,
    Vị Hiền trí như vậy,
    Thoát khỏi các tà kiến,
    Không tham dính ở đời,
    Không bị ngã chỉ trích.
  10. Không có sự thù hằn
    Ðối với tất cả pháp,
    Phàm có thấy nghe gì,
    Cùng với tưởng và thọ,
    ẩn sĩ không hệ lụy,
    Ðã đặt gánh nặng xuống
    Không liên hệ thời gian,
    Không chấm dứt, không cầu,
    Thế Tôn nói như vậy.

(XIV) Kinh Tuvataka (Con đường mau chóng) (Sn 179)

Người hỏi:

  1. Con hỏi bậc Ðại tiên,
    Bậc bà con mặt trời,
    Con đường đến viễn ly,
    Con đường đến an tịnh,
    Tỷ-kheo sau khi thấy,
    Làm thế nào mát lạnh,
    Không có sự chấp thủ,
    Một vật gì ở đời?

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn đáp như sau:
    Hãy chặt đứt hoàn toàn,
    Gốc rễ các hý luận,
    Mọi tư tưởng “tôi là “,
    Tất cả phải chấm dứt,
    Phàm có nội ái nào,
    Sau khi nhiếp phục chúng,
    Thường chánh niệm học tập.
  2. Phàm có loại pháp gì,
    Ðược thắng tri hoàn toàn,
    Hoặc thuộc về nội pháp,
    Hay thuộc về ngoại pháp,
    Chớ có làm kiên trì,
    Bất cứ một pháp nào,
    Trạng thái ấy không gọi,
    Sự mát lạnh của tịnh.
  3. Chớ có nghĩ như sau:
    Cái kia là tốt hơn,
    Ðây là hạ liệt hơn,
    Hay đây là ngang bằng,
    Do phải bị xúc chạm,
    Với các sắc sai biệt,
    Hãy chớ để tự mình,
    An trú trên vọng tưởng.
  4. Hãy giữ được an tịnh,
    Về phía tự nội tâm,
    Tỷ-kheo không cầu tìm,
    An tịnh từ chỗ khác,
    Với người được an tịnh,
    Từ phía tự nội tâm,
    Ðã không có tự ngã,
    Từ đâu có vô ngã.
  5. Như chính giữa trung ương,
    Của biển cả đại dương,
    Sóng biển không có sanh,
    Biển hoàn toàn đứng lặng,
    Cũng vậy, này Tỷ-kheo
    Hãy đứng lặng không động,
    Không tạo nên bồng bột,
    Ðối sự gì ở đời.

Người hỏi:

  1. Vị có mắt rộng mở
    Ðã tuyên bố rõ ràng,
    Pháp có thể chế ngự,
    Mọi nguy hiểm khó khăn,
    Bậc Hiền thiện mong Ngài,
    Tuyên bố rõ con đường,
    Hay về biệt giải thoát,
    Hoặc về pháp thiền định?

Thế Tôn:

  1. Chớ có những con mắt,
    Ðầy dẫy những tham đắm!
    Hãy chận đứng lỗ tai,
    Nghe câu chuyện của làng.
    Lại chớ nên đắm say,
    Các mùi vị ngon lành,
    Chớ xem là của ta,
    Mọi sự vật ở đời!
  2. Trong khi được cảm giác,
    Với các loại cảm xúc,
    Tỷ-kheo không than van,
    Bất cứ một điều gì.
    Vị ấy không cầu mong,
    Dầu lại sanh hữu nào,
    Và không có run sợ,
    Rơi vào các kinh hoàng.
  3. Các đồ ăn thâu được,
    Cùng với các đồ uống,
    Các món ăn nhai được,
    Các đồ vải mặc được,
    Chớ có cất chứa chúng,
    Những đồ vật nhận được,
    Chớ có quá lo âu,
    Nếu không thâu được chúng.
  4. Hãy tu tập thiền định
    Chớ làm kẻ lang thang,
    Chớ ưa thích trạo cử,
    Ðừng rơi vào phóng dật,
    Ðối với các chỗ ngồi,
    Cùng với các chỗ nằm,
    Tỷ-kheo hãy an trú,
    Những chỗ không tiếng động.
  5. Ngủ nghỉ có chừng mực,
    Chớ có ngủ quá nhiều,
    Hãy luôn luôn tỉnh thức,
    Nỗ lực và nhiệt tâm,
    Hãy từ bỏ biếng nhác,
    Man trá, cười, chơi đùa,
    Hãy từ bỏ dâm dục,
    Bỏ ưa thích trang điểm.
  6. Chớ có dùng bùa chú,
    A-thar-va Vệ-đà,
    Chớ tổ chức đoán mộng,
    Coi tướng và xem sao,
    Mong rằng đệ tử Ta,
    Không đoán tiếng thú kêu,
    Không chữa bệnh không sanh,
    Không hành nghề lang băm.
  7. Tỷ-kheo không run sợ,
    Khi bị người chỉ trích,
    Cũng không có cống cao,
    Khi được khen tán thán,
    Hãy từ bỏ tham ái,
    Cùng với tánh xan tham,
    Kể luôn cả phẫn nộ,
    Cùng với nói hai lưỡi.
  8. Tỷ-kheo không an trú,
    Trong nghề nghiệp bán buôn,
    Lại không có chỉ trích,
    Bất cứ tại chỗ nào,
    Khi ở tại thôn làng,
    Không tức giận một ai,
    Chớ có vì lợi dưỡng,
    Nói chuyện với quần chúng.
  9. Tỷ-kheo không nên nói,
    Khoa trương quá mức độ,
    Và cũng không nói lời
    Có dụng ý lợi dưỡng.
    Chớ có học tập theo,
    Lối sỗ sàng trâng tráo,
    Chớ có thốt ra lời
    Khiêu khích xung đột ai!
  10. Chớ có bị dắt dẫn,
    Rơi vào lời nói láo,
    Không cố ý làm nên,
    Ðiều man trá giả dối,
    Chớ có khinh người khác,
    Về vấn đề sinh mạng,
    Về vấn đề trí tuệ,
    Và vấn đề giới hạnh.
  11. Sau khi phẫn uất nghe
    Nhiều ngôn từ lời lẽ
    Của các vị Sa-môn,
    Hay những kẻ phàm phu,
    Chớ có phản ứng họ,
    Với những lời thô ác,
    Bậc hiền lành an tịnh,
    Không phản pháo một ai.
  12. Sau khi rõ biết được
    Pháp này là như vậy,
    Tỷ-kheo hãy học tập,
    Sáng suốt và chánh niệm,
    Rõ biết sự mát lạnh,
    Ðược gọi bậc “an tịnh “,
    Chớ có sống phóng dật,
    Trong lời dạy Cù-đàm.
  13. Bậc đã được chiến thắng,
    Không ai chiến thắng nổi
    Tự mình thấy được pháp,
    Không nghe theo tin đồn,
    Do vậy hãy học tập
    Luôn luôn không phóng dật,
    Với tâm tư cung kính,
    Lời dạy đức Thế Tôn,
    Thế Tôn nói như vậy.

(XV) Kinh Chấp trượng (Sn 182)

Thế Tôn:

  1. Từ người cầm các trượng,
    Sợ hãi được sanh ra,
    Hãy xem các loài người,
    Trong khi đấu tranh nhau,
    Ta sẽ nói sợ hãi,
    Như Ta đã được biết.
  2. Thấy loài, người vùng vẫy,
    Như cá trong nước cạn,
    Thấy họ chống đối nhau,
    Ta rơi vào sợ hãi.
  3. Ðời toàn không lõi cây,
    Mọi phương đều dao động
    Muốn cho mình ngôi nhà,
    Ta không thấy nhà ở.
  4. Cuối cùng là xung đột,
    Thấy vậy Ta chán ngắt,
    Ðây Ta thấy mũi tên,
    Khó thấy, gắn vào tim.
  5. Ai bị mũi tên đâm,
    Chạy khắp mọi phương hướng,
    Ai rút mũi tên ra,
    Không chạy, liền ngồi xuống.
  6. Ở đây sự học tập,
    Ðã được nói rõ lên,
    Phàm triền phược ở đời,
    Chớ liên hệ với chúng,
    Ðâm thủng dục hoàn toàn,
    Tự học tập Niết-bàn.
  7. Chân thật không xông xáo,
    Không man trá, hai lưỡi,
    Không phẫn nộ, ẩn sĩ,
    Vượt tham ác, xan tham.
  8. Người nghĩ đến Niết-bàn,
    Bỏ ngủ, nhác, thụy miên,
    Không sống với phóng dật,
    Không an trú, quá mạn.
  9. Không rơi vào nói láo,
    Không tham ái các sắc,
    Cần liễu tri quá mạn,
    Sống từ bỏ bạo ác.
  10. Không hoan hỷ việc cũ,
    Không nhẫn chịu sự mới,
    Trong tổn giảm không sầu,
    Không liên hệ tham ái,
  11. Ái, Ta gọi bộc lưu,
    Mong cầu gọi bọt nước,
    Sở duyên gọi biến kể,
    Bùn dục khó vượt qua.
  12. ẩn sĩ không rời chân,
    Phạm chí trú đất liền,
    Vị từ bỏ tất cả,
    Thật được gọi an tịnh.
  13. Biết vậy, gọi người biết,
    Biết rồi không y pháp,
    Chơn chánh sống ở đời,
    Không tham ái một ai.
  14. Ai ở đây vượt dục,
    Ái khó vượt ở đời,
    Không sầu, không tham muốn,
    Cắt dòng không trói buộc.
  15. Trước Ông làm khô cạn
    Sau Ông không vật gì,
    Ở giữa không nắm giữ,
    Ông sẽ sống an tịnh.
  16. Toàn diện đối danh sắc,
    Không gì nghĩ “của ta”
    Không có gì không sầu,
    Không có già ở đời.
  17. Không nghĩ “đây của tôi “,
    Không nghĩ “đây của người “,
    Người không có tự ngã,
    Không sầu vì không ngã.
  18. Không tàn bạo, không tham,
    Không dục, thường đồng đẳng,
    Ðược hỏi Ta nói lên,
    Lợi ích bậc bất động.
  19. Bậc ly dục rõ biết,
    Vị ấy không sở hành,
    Thoát ly, không tinh cần,
    Thấy an ổn khắp nơi.
  20. Bậc ẩn sĩ, không nói,
    Bằng nhau, thua, hơn nhau,
    An tịnh, ly xan tham,
    Không nhận, không bác bỏ.
    Thế Tôn giảng như vậy.

(XVI) Kinh Sàriputta (Xá-lợi-phất) (Sn 185)

Sàriputta:

  1. Trước con chưa từng thấy,
    Chưa ai từng được nghe,
    Tiếng nói thật ngọt ngào,
    Như tiếng bậc Ðạo Sư,
    Từ cõi Ðâu-suất đến,
    Xá-lợi-phất nói vậy.
  2. Bậc có mắt xuất hiện,
    Ðời này và thiên giới,
    Quét sạch mọi u ám,
    Ðộc cư, chứng an lạc.
  3. Bậc Giác ngộ, độc lập,
    Như thật, không man trá,
    Ngài đến ở đời này,
    Lãnh đạo các đồ chúng,
    Từ nhiều người trói buộc,
    Con đến với câu hỏi.
  4. Vị Tỷ kheo nhàm chán,
    Sống an tọa, trống không,
    Tại gốc cây, nghĩa địa,
    Hay núi rừng hang sâu.
  5. Tại chỗ cao thấp ấy,
    Có bao nhiêu sợ hãi,
    Khiến Tỷ kheo không run,
    Tại trú xứ vắng lặng?
  6. Bao nguy hiểm ở đời,
    Tỷ Kheo cần chinh phục,
    Trong hướng đi bất tử,
    Tại trú xứ xa vắng?
  7. Ngôn ngữ và hành xứ
    Của vị ấy là gì?
    Có bao nhiêu giới cấm,
    Tỷ Kheo cần tinh tấn?
  8. Chấp nhận học tập gì,
    Vị Tỷ Kheo nhất tâm,
    Thông minh, giữ chánh niệm,
    Tẩy sạch các cấu uế,
    Trên tự ngã của mình,
    Như thợ lọc vàng bạc?

Thế Tôn:

  1. Này Sàriputta,
    Thế Tôn bèn trả lời:
    Với người biết nhàm chán,
    Có gì là khoan khoái!
    Khi sử dụng sàng tọa,
    Tại chỗ tịnh trống không,
    Với ai muốn giác ngộ,
    Sống đúng với tùy pháp,
    Ta sẽ nói người ấy,
    Như Ta đã quán tri.
  2. Vị Tỷ kheo có trí,
    Chánh niệm sống biên địa,
    Không có sợ năm điều,
    Ðáng sợ hãi ở đời.
    Các loại ruồi, mối bay
    Cùng các loài bò sát,
    Xúc chạm của loài người,
    Cùng các loại bốn chân.
  3. Vị ấy không nên sợ,
    Tri kiến của người khác,
    Khi đã được thấy biết,
    Nhiều sợ hãi của chúng,
    Bậc tìm đến chí thiện,
    Thấy được các nguy hiểm
    Cần phải lo khắc phục
    Tất cả nguy hiểm khác.
  4. Khi thọ lãnh bệnh hoạn,
    Khi cảm xúc đói khổ,
    Với lạnh và cực nóng,
    Cần phải nhiếp phục chúng,
    Bị chúng cảm xúc nhiều,
    Kẻ không bỏ nhà cửa
    Cần tinh tấn cần mẫn,
    Lòng hết sức kiên trì.
  5. Chớ ăn trộm, ăn cắp,
    Chớ nói lời nói láo,
    Hãy cảm xúc từ tâm,
    Ðối kẻ yếu, kẻ mạnh,
    Khi rõ biết tâm tư,
    Trong tình trạng dao động,
    Hãy gột sạch, tẩy sạch,
    Phần hắc ám đen tối.
  6. Chớ để bị chi phối,
    Bởi phẫn nộ, quá mạn,
    Hãy đào chúng tận gốc,
    Và an trú như vậy,
    Ðối những gì khả ái,
    Hay đối không khả ái,
    Hãy hoàn toàn nhiếp phục,
    Chớ để bị chi phối.
  7. Thiên trọng về trí tuệ,
    Hoan hỷ trong chí thiện,
    Hãy chận đứng loại bỏ,
    Nguy hiểm ách nạn ấy,
    Hãy khắc phục bất lạc,
    Ðối trú xứ vắng lặng,
    Hãy khắc phục bốn pháp,
    Khiến sầu muộn khóc than.
  8. Ta sẽ ăn những gì,
    Và được ăn tại đâu.
    Thật khó khăn ta ngủ,
    Nay ta ngủ tại đâu?
    Với những tư tưởng ấy,
    Vị ấy có thể than,
    Bậc hữu học, không nhà,
    Hãy nhiếp phục trừ chúng.
  9. Với đồ ăn, vải mặc,
    Ðúng thời, thâu hoạch được,
    Cần ước lượng vừa đủ,
    Với mục đích thỏa mãn,
    Chế ngự đối với chúng,
    Sống nhiếp phục trong lòng,
    Dầu phẫn uất, không nói,
    Những lời độc thô ác.
  10. Với mắt cúi nhìn xuống,
    Chân không đi lang thang,
    Chú tâm vào thiền định,
    Với rất nhiều tỉnh giác,
    Cố gắng tu tập xả,
    Tự ngã khéo định tĩnh,
    Hãy cắt đứt trừ khử,
    Các nghi ngờ hối tiếc.
  11. Bị buộc, tội bằng lời,
    Chánh niệm, tâm hoan hỉ,
    Phá hoại sự cứng rắn,
    Giữa các đồng Phạm hạnh,
    Nói lên những lời nói,
    Hiền thiện và đúng thời,
    Không để tâm suy tư,
    Các chủ thuyết người khác.
  12. Lại nữa, năm loại vua,
    Hiện có ở trên đời,
    Hãy học nhiếp phục chúng.
    Luôn luôn giữ chánh niệm.
    Ðối với sắc và tiếng,
    Ðối với vị và hương,
    Cùng đối các cảm xúc,
    Hãy chế ngự tham ái.
  13. Hãy chế ngự ước muốn,
    Ðối với những pháp ấy,
    Vị Tỷ kheo chánh niệm,
    Tâm tư khéo giải thoát,
    Rồi đúng thời vị ấy,
    Chơn chánh suy tư pháp,
    Với chuyên tâm nhất trí,
    Hãy đoạn tận hắc ám.
    Thế Tôn nói như vậy.

Chương Năm – Phẩm Con Ðường Ðến Bờ Bên Kia

(I) Bài kệ mở đầu (Sn 190)

  1. Từ thành phố đẹp đẽ,
    Của các Kô-xa-la,
    Có vị Bà-la-môn,
    Thông đạt các chú thuật,
    Hướng tầm vô sở hữu,
    Hướng phía Nam bước tới.
  2. Trong nước Át-xa-ka,
    Gần xứ A-la-ka,
    Vị ấy sống trên bờ,
    Sông Gô-đa-và-rà,
    Nuôi sống bằng trái cây,
    Bằng đồ ăn lượm vặt.
  3. Gần chỗ vị ấy ở,
    Có làng đất rộng rãi,
    Với tài sản thâu thập,
    Tổ chức tế đàn lớn.
  4. Ðại tế đàn lễ xong,
    Vị ấy trở về am,
    Trong khi bước vào am,
    Một Phạm-chí khác đến.
  5. Chân sưng húp, run rẩy
    Ðầy bùn, đầu lấm bụi,
    Người ấy bước đến gần,
    Và xin năm trăm tiền.
  6. Sau khi thấy vị ấy,
    Ba-va-ri mời ngồi,
    Hỏi thăm, thiện, an lạc
    Rồi nói lời như sau:

Bàvarim:

  1. Những gì tôi cho được,
    Tôi đã cho tất cả,
    Phạm chí hãy tin tôi,
    Tôi không có năm trăm.

Phạm-chí:

  1. Nếu điều ta xin Ông,
    Tôn giả không đáp ứng,
    Sau bảy ngày, đầu Ông
    Sẽ bị vỡ, bảy mảnh!
  2. Sau khi làm chú thuật,
    Kẻ man trá tuyên bố,
    Những lời nói đáng sợ,
    Nghe những lời nói ấy,
    Phạm-chí Ba-va-ri
    Cảm thấy lòng đau khổ.
  3. Gầy ốm, không uống ăn,
    Bị tên sầu muộn đâm,
    Với tâm tư như vậy,
    Ý khó vui trong thiền,
  4. Thấy lo sợ buồn khổ,
    Một Thiên nhân đi đến,
    Muốn bạn được hạnh phúc,
    Nói với Ba-va-ri.

Thiên nhân:

  1. Kẻ man trá muốn tiền,
    Không rõ biết về đầu,
    Về đầu, đánh bể đầu,
    Trí ấy nó không có.

Bàvarim:

  1. Này bạn,nếu bạn biết,
    Hãy nói câu hỏi tôi,
    Về đầu, đánh bể đầu,
    Chúng tôi nghe lời người.

Thiên nhân:

  1. Tôi không biết việc này,
    Trí này, tôi không có,
    Về đầu, đánh bể đầu,
    Bậc chiến thắng thấy được.

Bàvarim:

  1. Vậy ai có thể biết,
    Trên quả đất tròn này,
    Về đầu, đánh bể đầu,
    Thiên nhân, nói tôi biết.

Thiên nhân:

  1. Từ thành Ka-pi-la,
    Bậc lãnh đạo thế giới,
    Xuất hiện ra ở đời,
    Là con cháu, hậu duệ,
    Của vua Ok-ka-ka
    Thích tử, chiếu hào quang.
  2. Vị ấy Chánh Ðẳng Giác,
    Hỡi này Bà-la-môn,
    Ðã đi đến bờ kia,
    Ðối với tất cả pháp,
    Ðạt được cả sức mạnh,
    Của tất cả thắng trí,
    Bậc có mặt thấy được
    Trong tất cả các pháp.
    Ðạt được sự diệt tận,
    Của tất cả các pháp,
    Ðược giải thoát, diệt tận,
    Ðối với các sanh y.
  3. Bậc Giác ngộ, Thế Tôn,
    Bậc có mắt thuyết pháp,
    Hãy đến hỏi vị ấy,
    Vị ấy sẽ trả lời.
  4. Nghe tiếng Chánh Ðẳng Giác,
    Ba-va-ri phấn khởi,
    Sầu muộn được giảm bớt,
    Ðược hoan hỷ rộng lớn.
  5. Vị Ba-va-ri ấy,
    Hoan hỷ và phấn khởi,
    Cảm thấy lòng cảm động,
    Hỏi vị thiên nhân ấy.

Bàvarim:

995b. Ở tại thôn làng nào,
Ở tại thị trấn nào,
Ở tại quốc độ nào,
Lãnh đạo thế giới trú?
Tại đấy, tôi sẽ đi,
Ðảnh lễ bậc Giác ngộ,
Bậc Vô thượng loài Người.

Thiên nhân:

  1. Ở tại Xa-vat-thi,
    Trong thành Kô-xa-la,
    Bậc chiến thắng an trú,
    Với trí tuệ rộng lớn,
    Với hiểu biết thù thắng,
    Rộng rãi và cùng khắp.
    Vị ấy là Thích tử,
    Không gánh nặng vô lậu,
    Bậc Ngưu vương loài Người,
    Biết rõ về đỉnh đầu,
    Biết rõ đánh vỡ đầu.
  2. Rồi vị Bà-la-môn,
    Cho gọi các đệ tử,
    Là những vị thông đạt,
    Về bùa chú kệ tụng.

Bàvarim:

997b. Hãy đến, các thanh niên,
Ta sẽ nói, hãy nghe,
Những lời ta nói lên.

  1. Vị ấy rất khó gặp,
    Rất hiếm hiện ở đời,
    Nay sanh ra ở đời,
    Ðược danh bậc Chánh giác,
    Hãy đi gấp Xá-vệ,
    Thấy được bậc Vô thượng.

Các đệ tử:

  1. Kính thưa Bà-la-môn,
    Thế nào chúng con biết,
    Sau khi thấy vị ấy,
    Biết vị ấy là Phật,
    Chúng con chưa được biết
    Hãy nói chúng con biết!

Bàvarim:

  1. Trong những kệ bùa chú,
    Ðược truyền lại đến nay,
    Có nói đến tướng tốt,
    Của một bậc Ðại nhân,
    Có nói ba mươi hai,
    Trọn đủ, được liên tục.
  2. Ai có trên tay chân,
    Ðủ tướng đại nhân ấy,
    Chỉ có hai sanh thú,
    Không có cái thứ ba.
  3. Nếu trú tại gia đình,
    Chinh phục quả đất này,
    Không dùng trượng, dùng kiếm,
    Giáo hóa đúng Chánh pháp.
  4. Nếu vị ấy xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Rộng mở màn vô minh,
    Vị ấy, được trở thành,
    Bậc Chánh đẳng Chánh giác,
    Bậc Ứng cúng, Vô thượng.
  5. Với tâm ý, hãy hỏi,
    Sanh, tánh tướng của ta,
    Kệ chú, đệ tử ta,
    Về đầu, đánh bể đầu.
  6. Nếu vị ấy là Phật,
    Thấy rõ, không che kín,
    Với lời, vị ấy đáp,
    Các câu hỏi bởi ý.
  7. Nghe lời Ba-va-ri,
    Mười sáu người đệ tử,
    Tất cả là Phạm chí,
    Tên là A-ji-ta,
    Tis-xa-mêt-tê-ya,
    Pun-na-ka, Mết-gu,
    Cùng với Ðo-ta-ka,
    Và U-pa-xi-va,
    Nan-da, Hê-ma-ka,
    Tô-đê-ya, Kap-pa,
    Với Ja-tu-kan-ni,
    Là bậc danh Hiền trí.
  8. Và Bha-drà-vu-đa,
    Cùng với U-da-ya,
    Phạm Chí Po-xà-la,
    Và Mo-gha-rà-jà,
    Là bậc có trí tuệ,
    Cùng với Pin-gi-ya,
    Là vị đại ẩn sĩ,
    Tất cả những vị ấy.
  9. Mỗi người có đồ chúng,
    Có danh xưng ở đời,
    Tu thiền, ưa thiền định,
    Bậc có trí sáng suốt,
    Mang theo những dấu tích,
    Ðời sống trước của mình.
  10. Ðảnh lễ Ba-va-ri,
    Thân phía hữu hướng Ngài,
    Tất cả đều bện tóc,
    Mặc áo vải da thú,
    Mặt hướng về phía Bắc,
    Tất cả chúng ra đi.
  11. Trước hết, họ đi ngang,
    Ðến Pa-tít-thà-na,
    Của xứ A-la-ka,
    Rồi Ma-hi-xa-ti,
    Tiếp đến Uj-jê-ni,
    Và đến Gô-nad-đăng,
    Tiếp đến Vê-đi-xăng,
    Va-na-xa-ha-yăng,
  12. Ði đến Kô-xăm-bi,
    Ði đến Xa-kê-ta,
    Rồi đến Xa-vat-thi,
    Là thành phố tối thượng,
    Kế đến Xê-ta-vyam,
    Ka-pi-la-vat-thu,
    Rồi đến tòa lâu đài,
    Tên Ku-xi-na-ra,
    Rồi đi đến Pa-va,
    Và thành phố Bhô-ga,
    Tiếp đến Vê-xá-ly,
    Thành phố Ma-ga-đa,
    Rồi Pa-xe-na-ka,
    Ngôi điện đẹp, khả ái.
  13. Như người khát, nước mát,
    Như người buôn, lợi lớn,
    Như nóng bức, bóng mát,
    Họ gấp leo ngọn núi.
  14. Thế Tôn, trong lúc ấy,
    Dẫn đầu chúng Tỷ-kheo,
    Ngài đang thuyết Chánh pháp,
    Cho các vị Tỷ-kheo,
    Giống như con sư tử,
    Rống tiếng rống trong rừng.
  15. A-ja-ta thấy Phật,
    Như mặt trời vàng chói,
    Như mặt trăng ngày rằm,
    Ðược tròn đầy viên mãn.
  16. Và thấy tay chân Ngài,
    Ðầy đủ các tướng tốt,
    Hoan hỷ đứng một bên,
    Hỏi câu hỏi tâm ý.

Ajita:

  1. Hãy nói về thọ sanh,
    Nói dòng họ, các tướng,
    Về tối thượng kệ chú,
    Phạm chí đọc bao nhiêu?

Thế Tôn:

  1. Tuổi thọ trăm hai mươi,
    Dòng họ Bà-va-ri,
    Trên tay chân, ba tướng,
    Thông đạt ba Vệ-đà.
  2. Về tướng và truyền thuyết,
    Về tự vựng, lễ nghi,
    Tụng đọc được năm trăm,
    Ðạt tối thượng diệu pháp.

Ajita:

  1. Bậc Vô thượng, đoạn ái,
    Hãy nói lên tường tận
    Các tướng Ba-va-ri,
    Ðể chúng con không nghi.

Thế Tôn:

  1. Lưỡi che kín mặt mày,
    Giữa hàng mi, lông trắng,
    Có da bọc âm tàng,
    Hãy biết vậy, thanh niên.
  2. Không nghe câu hỏi gì,
    Chỉ nghe câu trả lời,
    Quần chúng rất ngạc nhiên,
    Chắp tay tự suy nghĩ.

Dân chúng:

  1. Thiên, Phạm thiên, Ðế thích,
    Hay Xu-jam-pa-ti
    Ai, với ý hỏi Ngài,
    Xin nói cho được biết?

Ajita:

  1. Ba-va-ri tìm hỏi,
    Về đầu, đánh bể đầu,
    Thế Tôn hãy trả lời,
    Ðoạn nghi hoặc chúng con?
    Ôi, thưa bậc Tiên nhân!

Thế Tôn:

  1. Vô minh là đỉnh đầu,
    Hãy hiểu biết như vậy,
    Minh là đánh bể đầu,
    Liên hệ dục tinh tấn,
    Với lòng tin, chánh niệm,
    Liên hệ với thiền định.
  2. Với cảm thọ lớn mạnh,
    Thanh niên tự chế ngự,
    Ðắp áo da một bên,
    Với đầu, đảnh lễ chân.

Ajita:

  1. Phạm chí Ba-va-ri,
    Cùng đệ tử, thưa Ngài,
    Tâm phấn khởi, đẹp ý,
    Lễ chân, bậc có mắt.

Thế Tôn:

  1. Phạm chí Ba-va-ri,
    Hãy sống được an lạc,
    Cùng với các đệ tử!
    Mong Ông sống an lạc,
    Thọ mạng được lâu dài,
    Hỡi này kẻ thanh niên.
  2. Ba-va-ri và Ông,
    Có mọi nghi ngờ gì,
    Cơ hội đến, hãy hỏi,
    Tùy theo ý Ông muốn.
  3. Ðược bậc Chánh Ðẳng Giác,
    Cho cơ hội tốt đẹp,
    A-ji-ta liền ngồi,
    Chắp tay hỏi Như Lai,
    Hỏi câu hỏi thứ nhất,
    Chính ngay tại chỗ ấy,
    Kệ mở đầu đã xong.

(II) Câu hỏi của thanh niên A-ji-ta (Sn 197)

Ajita:

  1. Tôn giả A-ji-ta:
    Do gì, đời bị che,
    Do gì, không chói sáng,
    Hãy nói lên cái gì,
    Làm uế nhiễm cuộc đời,
    Cái gì sợ hãi lớn?

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn liền đáp lại:
    Ðời bị vô minh che,
    Do xan tham, phóng dật,
    Ðời không được chói sáng,
    Ta nói do mong cầu,
    Nên đời bị uế nhiễm,
    Chính là sự đau khổ,
    Nên có sợ hãi lớn.

Ajita:

  1. Tôn giả A-ji-ta:
    Mọi nơi dòng nước chảy,
    Cái gì ngăn dòng nước?
    Hãy nói lên cái gì?
    Chế ngự được dòng nước?
    Cái gì đóng dòng nước?

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn liền đáp lại:
    Hỡi này A-ji-ta,
    Các dòng nước ở đời,
    Chánh niệm ngăn chận lại,
    Chánh niệm được Ta gọi,
    Chế ngự các dòng nước,
    Và chính do trí tuệ,
    Ðóng lại các dòng nước.

Ajita:

  1. Tôn giả A-ji-ta:
    Trí tuệ và chánh niệm,
    Cùng với danh và sắc,
    Kính thưa bậc Tôn giả,
    Hãy nói điều con hỏi,
    Từ đâu chúng bị diệt?

Thế Tôn:

  1. Câu hỏi gì Ông hỏi,
    Hỡi này A-ji-ta,
    Ta sẽ đáp cho Ông,
    Chỗ nào danh và sắc,
    Ðược đoạn diệt hoàn toàn,
    Không còn lại dư tàn,
    Chính do đoạn diệt thức,
    Danh sắc được đoạn diệt.

Ajita:

  1. Những ai biết tư sát,
    Các pháp thuộc hữu vi,
    Cùng với bậc hữu học,
    Và phàm phu ở đời,
    Ðược hỏi, Ngài hãy nói,
    Về nếp sống của họ?
    Bậc thận trọng sáng suốt,
    Hãy nói lên, thưa Ngài!

Thế Tôn:

  1. Chớ tham đắm các dục,
    Giữ tâm tư an tịnh,
    Thiện xảo trong các pháp,
    Tỷ-kheo giữ chánh niệm,
    Sống đời sống xuất gia.

(III) Các câu hỏi của thanh niên Tissametmeyya (Sn 199)

Yissa:

  1. Tissa Met-tey-ya:
    Ai thỏa mãn ở đời,
    Với ai không dao động,
    Ai thắng tri hai biên,
    Ở giữa, không dính líu,
    Ai Ngài gọi đại nhân,
    Ở đời, ai vượt khỏi,
    Thêu dệt các ái nhiễm?

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn liền đáp rằng:
    Hỡi này Met-tê-ya!
    Giữa dục, sống Phạm hạnh,
    Không ái, luôn chánh niệm,
    Tỷ-kheo lặng tính toán,
    An tịnh, không dao động.
  2. Ai thắng tri hai biên,
    Chặng giữa, nhờ suy tư,
    Không dính líu bị nhiễm,
    Ta gọi là đại nhân,
    Vị ấy, ở đời này,
    Vượt khỏi sự thêu dệt,
    Các ái nhiễm tham muốn.

(IV) Câu hỏi của thanh niên Punnaka (Sn 199)

Punnaka:

  1. Tôn giả Pun-na-ka:
    Với ai không dao động,
    Thấy rõ được cội gốc,
    Con đến với câu hỏi,
    Liên hệ đến mục đích,
    Bậc ẩn sĩ, loài Người,
    Sát-đế-ly, Phạm chí,
    Do họ y chỉ gì,
    Tế đàn cho chư Thiên.
    Ðã tổ chức rộng lớn?
    Con hỏi bậc Thế Tôn,
    Hãy trả lời cho con.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn bèn đáp rằng:
    Hỡi này Pun-na-ka!
    Bậc ẩn sĩ loài Người,
    Sát-đế-ly, Phạm chí,
    Ðã tổ chức rộng lớn,
    Tế đàn cho chư Thiên.
    Khi họ thành già yếu,
    Họ tổ chức tế đàn,
    Vì rằng họ hy vọng,
    Ðược sanh ở đời này,
    Hỡi này Pun-na-ka!

Punnaka:

  1. Tôn giả Pun-na-ka:
    Bậc ẩn sĩ loài Người,
    Sát-đế-ly, Phạm chí,
    Ðã tổ chức rộng lớn,
    Tế đàn cho chư Thiên.
    Thế Tôn nghĩ thế nào,
    Họ không có phóng dật
    Trên con đường tế đàn,
    Họ vượt qua già chết,
    Ðược hay không, thưa Ngài,
    Con hỏi đức Thế Tôn,
    Con mong Ngài trả lời?

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn trả lời rằng:
    Hỡi này Pun-na-ka,
    Họ hy vọng, tán thán,
    Họ cầu nguyện, cúng lễ,
    Họ cầu nguyện các dục,
    Do duyên vì lợi dưỡng,
    Chuyên tâm lo tế đàn,
    Ưa thích, tham sanh hữu,
    Họ không vượt già chết,
    Ta nói lên như vậy.

Punnaka:

  1. Tôn giả Pun-na-ka:
    Nếu chúng chuyên tế đàn,
    Nhưng không thể vượt qua,
    Già chết với tế đàn,
    Thời ai sống ở đời,
    Trong thế giới Nhơn, Thiên,
    Ðã vượt qua già chết,
    Ai được vậy, thưa Ngài,
    Con hỏi đức Thế Tôn,
    Ngài trả lời cho con?

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn trả lời rằng:
    Hỡi này Pun-na-ka,
    Ai tính toán cao thấp,
    Ước lượng vậy ở đời,
    Ai không bị dao động,
    Bất cứ đâu ở đời,
    An tịnh, không phun khói,
    Không phiền não, không cầu,
    Vị ấy vượt già chết,
    Ta nói lên như vậy.

(V) Câu hỏi của thanh niên Mettagu (Sn 201)

Mettagu:

  1. Tôn giả Mêt-ta-gu:
    Con xin hỏi Thế Tôn,
    Mong Thế Tôn trả lời,
    Vấn đề con đã hỏi,
    Con nghĩ Ngài hiền trí,
    Tự ngã đã tu tập,
    Từ đâu, ở trong đời,
    Ðau khổ này khởi lên,
    Với nhiều loại như vậy?

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn trả lời rằng:
    Hỡi này Mêt-ta-gu,
    Ông hỏi ta vấn đề,
    Sanh khởi của khổ đau,
    Ta sẽ nói cho Ông,
    Như Ta đã được biết,
    Chính do duyên sanh y,
    Nên khổ được khởi lên,
    Với nhiều loại như vậy,
    Khác biệt ở trong đời.
  2. Những ai vì vô minh,
    Tác thành các sanh y,
    Kẻ ngu tạo đau khổ,
    Tiếp tục được sanh khởi,
    Do vậy kẻ hiểu biết,
    Không nên tạo sanh y,
    Vì thấy sự sanh khởi,
    Của sanh và đau khổ.

Mettagu:

  1. Ðiều chúng con đã hỏi,
    Ngài đã đáp chúng rồi,
    Nay xin hỏi câu khác,
    Mong Ngài giải đáp cho,
    Thế nào bậc Hiền trí,
    Vượt khỏi dòng nước mạnh,
    Vượt khỏi sanh và già,
    Cùng sầu muộn than khóc,
    Mong rằng bậc ẩn sĩ,
    Hãy khéo trả lời con,
    Ðúng như Ngài đã biết,
    Pháp nhĩ là như vậy?

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn trả lời rằng:
    Hỡi này Mêt-ta-gu,
    Ta sẽ nói cho Ông,
    Pháp thiết thực hiện tại,
    Không do trao truyền lại,
    Sau khi biết pháp ấy,
    Vị ấy sống chánh niệm,
    Vượt tham ái ở đời.

Mettagu:

  1. Thưa bậc Ðại ẩn sĩ,
    Con hết sức hoan hỷ,
    Chánh pháp vô thượng ấy,
    Sau khi biết pháp ấy,
    Sống gìn giữ chánh niệm,
    Vượt tham ái ở đời.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn đáp lại rằng:
    Hỡi này Mêt-ta-gu,
    Phàm Ông rõ biết gì,
    Trên dưới, ngang ở giữa,
    Hãy từ bỏ hoan hỷ,
    Hãy từ bỏ trú xứ,
    Chớ để cho ý thức,
    An trú trên sanh hữu.
  2. An trú vậy, chánh niệm,
    Tỷ-kheo không phóng dật,
    Sau khi bỏ sở hành,
    Ðưa đến ngã, sở hữu.
    Ðối với sanh và già,
    Sầu muộn và than khóc,
    Ở đây, biết được vậy,
    Hãy từ bỏ đau khổ.

Mettagu:

  1. Con cảm thấy hoan hỉ,
    Lời nói bậc Ðại sĩ;
    Ðoạn tận được sanh y,
    Ðược Ngài khéo tuyên thuyết.
    Chắc chắn đức Thế Tôn,
    Ðã đoạn tận đau khổ,
    Vì pháp này được Ngài,
    Rõ biết là như vậy.
  2. Những vị ấy hãy đoạn,
    Hãy từ bỏ đau khổ,
    Những người ấy được Ngài
    Thường thường dạy, giáo hóa.
    Con xin đảnh lễ Ngài,
    Hãy đến, bậc Long tượng,
    Mong Thế Tôn thường hằng,
    Giáo hóa dạy dỗ con.

Thế Tôn:

  1. Vị Bà-la-môn nào,
    Ðược thắng tri, có trí,
    Không có sở hữu gì,
    Không ái luyến dục hữu,
    Chắc chắn vị như vậy,
    Vượt qua bộc lưu này,
    Ðã đến được bờ kia,
    Không cứng cỏi không nghỉ.
  2. Người ấy sau khi biết,
    Thông suốt được Thánh điển,
    Không dính ái triền này,
    Về hữu và phi hữu,
    Vị ấy ly tham ái,
    Không phiền lụy không cầu,
    Ta nói rằng vị ấy,
    Ðã vượt khỏi sanh già.

(VI) Câu hỏi của thanh niên Dhotaka (Sn 204)

Dhotaka:

  1. Tôn giả Dhô-ta-ka:
    Con xin hỏi Thế Tôn,
    Mong Ngài trả lời cho,
    Con chờ đợi lời Ngài,
    Kính thưa bậc Ðại sĩ,
    Nghe lời Ngài tuyên bố,
    Chúng con sẽ tự mình,
    Học tập giới Niết-bàn.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn đáp lại rằng:
    Hỡi này Dhô-ta-ka,
    Ở đây Ông nhiệt tâm,
    Sáng suốt và chánh niệm,
    Từ đây, nghe tuyên bố,
    Tự học tập Niết-bàn.

Dhotaka:

  1. Con thấy ở thế giới,
    Chư Thiên và loài Người,
    Sở hành của Phạm chí,
    Không một gì sở hữu.
    Con đảnh lễ chính Ngài,
    Bậc có mắt cùng khắp,
    Kính thưa bậc Thích tử,
    Hãy giải thoát cho con,
    Tất cả mọi nghi ngờ.

Thế Tôn:

  1. Hỡi này Dhô-ta-ka,
    Ta sẽ không đi đến,
    Giải thoát cho một ai,
    Có nghi ngờ ở đời,
    Khi pháp được Ông biết,
    Là tối thượng tối thắng,
    Như vậy Ông vượt khỏi,
    Dòng nước chảy mạnh này.

Dhotaka:

  1. Hãy giáo hóa, từ mẫn,
    Ôi bậc đại Phạm thiên,
    Ðể con được rõ biết,
    Pháp viễn ly vô thượng,
    Như vậy con sẽ sống,
    Như trời không áp bức,
    Sở hành ở đời này,
    An tịnh và độc lập.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn liền nói rằng:
    Hỡi này Dho-ta-ka,
    Ta sẽ giảng cho Ông,
    Pháp tịch tịnh hiện tại;
    Không do xưa truyền lại,
    Sau khi biết pháp này,
    Hãy sống, giữa chánh niệm
    Vượt tham ái ở đời.

Dhotaka:

  1. Con cảm thấy hoan hỷ,
    Pháp bậc Ðại sĩ giảng,
    Pháp tịch tịnh vô thượng;
    Sau khi biết pháp này,
    Con sẽ sống chánh niệm,
    Vượt tham ái ở đời.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn lời đáp lại:
    Hỡi này Dho-ta-ka,
    Phàm Ông rõ biết gì,
    Cao, thấp, ngang, chặng giữa,
    Sau khi được rõ biết,
    Tham ái này ở đời,
    Chớ tạo nên khát ái
    Với hữu và phi hữu.

(VII) Câu hỏi của thanh niên Upasiva (Sn 205)

Upasiva:

  1. Tôn giả U-pa-si-va:
    Kính thưa bậc Thích tử,
    Một mình, không y chỉ,
    Con không thể vượt khỏi,
    Dòng nước lớn mạnh này,
    Kính thưa bậc Biến nhãn,
    Hãy nói cho sở duyên,
    Y chỉ sở duyên này,
    Có thể vượt qua khỏi,
    Dòng nước chảy mạnh này.

Thế Tôn:

  1. Ðây lời dạy Thế Tôn:
    Này U-pa-si-va,
    Biết gìn giữ chánh niệm,
    Không mong đợi vật gì,
    Ông sẽ vượt bộc lưu,
    Nương tựa: “không có gì “,
    Ngày đêm ngươi nhận thấy,
    Ðoạn dục, ly nghi ngờ,
    Ái diệt là Niết-bàn.

Upasiva:

  1. U-pa-si-va nói:
    Ai là người ly tham,
    Ðối với tất cả dục,
    Y chỉ không có gì,
    Từ bỏ mọi gì khác,
    Ðược giải thoát hoàn toàn,
    Tưởng giải thoát tối thượng,
    Tại đấy vị ấy trú,
    Không tiếp tục đi tới.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn nói như sau:
    Này U-pa-si-va,
    Ai hoàn toàn ly tham,
    Ðối với tất cả dục,
    Y chỉ không có gì,
    Từ bỏ mọi gì khác,
    Ðược giải thoát hoàn toàn,
    Tương giải thoát tối thượng,
    Tại đấy, vị ấy trú,
    Không tiếp tục đi tới.

Upasiva:

  1. Nếu vị ấy tại đấy,
    An trú không đi tiếp,
    Trong một số nhiều năm,
    Ôi bậc có biến nhãn!
    Nếu vị ấy tại đấy,
    Ðược mát lạnh giải thoát,
    Với vị được như vậy,
    Còn có thức hay không?

Thế Tôn:

  1. Ðây lời Thế Tôn nói:
    Hỡi U-pa-si-va!
    Cũng giống như ngọn lửa,
    Bị sức gió mạnh thổi,
    Ði đến chỗ tận cùng,
    Không có thể ước lượng,
    Cũng vậy, vị ẩn sĩ,
    Ðược giải thoát danh thân,
    Ði đến chỗ tận cùng,
    Không có thể ước lượng.

Upasiva:

  1. Vị đi đến tận cùng,
    Có phải không hiện hữu,
    Hai vị ấy thường hằng,
    Ðạt được sự không bệnh,
    Lành thay, bậc ẩn sĩ,
    Hãy trả lời cho con,
    Có vậy, con hiểu được,
    Pháp như thật Ngài giảng.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn nói như sau:
    Hỡi U-pa-si-va,
    Người đi đến tận cùng,
    Không thể còn ước lượng,
    Với gì, nói đến nó,
    Không còn có cái ấy,
    Khi tất cả các pháp,
    Ðã được nhổ hẳn lên,
    Mọi con đường nói phô,
    Ðược nhổ lên sạch hết.

(VIII) Các câu hỏi của thanh niên Nanda (Sn 207)

Nanda:

  1. Tôn giả Nan-da nói:
    Quần chúng có nói rằng:
    Có ẩn sĩ ở đời,
    Ngài nghĩ như thế nào?
    Chúng gọi là ẩn sĩ
    Vị có đầy đủ trí?
    Hay vị đầy đủ mạng?

Thế Tôn:

  1. Các bậc thiện nói rằng:
    Ở đời này Nan-da,
    Không phải vì tri kiến,
    Vì truyền thống, vì trí
    Ðược gọi là ẩn sĩ,
    Ta chỉ gọi ẩn sĩ,
    Những ai diệt quân lực,
    Không phiền não, không cầu.

Nanda:

  1. Tôn giả Nan-đa thưa:
    Có Sa-môn, Phạm chí,
    Nói rằng sự thanh tịnh
    Là nhờ thấy, nhờ nghe;
    Có người lại nói rằng:
    Thanh tịnh do giới cấm;
    Có người lại nói rằng:
    Thanh tịnh do nhiều pháp.
    Bạch Thế Tôn, như vậy,
    Là sở hành của chúng,
    Vậy Ngài nghĩ thế nào,
    Chúng có thể vượt qua,
    Sanh và già thưa Ngài,
    Con kính hỏi Thế Tôn,
    Mong Ngài trả lời con.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn nói: Nan-đa!
    Sa-môn, Phạm chí này,
    Nói rằng sự thanh tịnh
    Là nhờ thấy, nhờ nghe;
    Có người lại nói rằng:
    Thanh tịnh do giới cấm;
    Có người lại nói rằng:
    Thanh tịnh do nhiều pháp.
    Dầu chúng ở tại đây,
    Với sở hành như vậy,
    Ta nói chúng không vượt,
    Khỏi sanh và khỏi già.

Nan-da:

  1. Tôn giả Nan-đa thưa:
    Sa-môn, Phạm chí này,
    Nói rằng sự thanh tịnh
    Là nhờ thấy, nhờ nghe;
    Có người lại nói rằng:
    Thanh tịnh do giới cấm;
    Có người lại nói rằng:
    Thanh tịnh do nhiều pháp.
    Thưa ẩn sĩ, Ngài nói:
    Chúng không vượt bộc lưu,
    Vậy ai có thể được,
    Giữa thế giới Trời, Người,
    Có thể vượt qua được,
    Sanh và già, thưa Ngài,
    Con xin hỏi Thế Tôn
    Mong Ngài trả lời con.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn nói: Nan-đa
    Ta không nói tất cả,
    Sa-môn, Bà-la-môn
    Bị sanh già che lấp.
    Những ai ở đời này,
    Ðoạn tận khắp tất cả,
    Ðiều được nghe được thấy,
    Ðược cảm tưởng, giới cấm,
    Và đoạn nhiều pháp khác,
    Liễu tri ái, vô lậu,
    Ta nói những người ấy,
    Vượt qua được bộc lưu.

Nanda:

  1. Con cảm thấy hoan hỷ,
    Lời Ðại sĩ Cù-đàm,
    Ðược Ngài khéo thuyết giảng,
    Về chấm dứt sanh y,
    Những ai ở đời này,
    Ðoạn tận khắp tất cả,
    Ðiều được nghe, được thấy,
    Ðược cảm tưởng, giới cấm,
    Và đoạn nhiều pháp khác,
    Liễu tri ái, vô lậu,
    Ta nói những người ấy,
    Vượt qua khỏi bộc lưu.

(IX) Các câu hỏi của thanh niên Hemaka (Sn 209)

Hemaka:

  1. Tôn giả He-ma-ka:
    Những ai trong thời trước,
    Ðã trả lời cho con,
    Về lời dạy Cù-đàm,
    Trước đã như thế nào,
    Sau sẽ là như vậy,
    Tất cả đều truyền thống,
    Tất cả tăng suy tư.
  2. Ðây, con không hoan hỷ,
    Ngài nói Pháp cho con,
    Ôi mong bậc ẩn sĩ,
    Nói Pháp đoạn khát ái,
    Biết xong, sống chánh niệm,
    Vượt ái trước ở đời.

Thế Tôn:

  1. He-ma-ka ở đây,
    Ðối các Pháp khả ái,
    Ðược nghe và được thấy,
    Ðược cảm tưởng, nhận thức,
    Tẩy sạch ước muốn tham,
    Là Niết-bàn, bất tử.
  2. Biết vậy, giữ chánh niệm,
    Hiện tại, đạt mát lạnh,
    Vị ấy thường an tịnh,
    Vượt chấp trước ở đời.

(X) Câu hỏi của thanh niên Todeyya (Sn 210)

Todeyya:

  1. Tôn giả Tô-đê-ya:
    Ai sống không dục vọng,
    Ai sống không có ái,
    Ai vượt khỏi nghi hoặc,
    Giải thoát của vị ấy,
    Giải thoát như thế nào?

Thế Tôn:

  1. Ðây lời nói Thế Tôn:
    Hỡi nãy Tô-đê-ya,
    Ai sống không dục vọng,
    Ai sống không có ái,
    Ai vượt khỏi nghi hoặc
    Giải thoát của vị ấy
    Không có gì là khác.

Todeyya:

  1. Vị sống không ước vọng
    Hay sống có ước vọng,
    Vị ấy có trí tuệ,
    Hay tác thành trí tuệ,
    Ôi kính bậc Biến nhãn,
    Hãy trả lời con rõ,
    Ðể con có thể biết,
    Thế nào là ẩn sĩ,
    Ôi kính bậc Thích tử.

Thế Tôn:

  1. Vị sống không ước vọng,
    Không có ước vọng nào,
    Vị ấy có trí tuệ,
    Không tác thành trí tuệ,
    Như vậy, Tô-đê-ya,
    Hãy biết bậc ẩn sĩ,
    Không có sở hữu gì,
    Không tham dính dục hữu.

(XI) Câu hỏi của thanh niên Kappa (Sn 211)

Kappa:

  1. Tôn giả Káp-pa nói:
    Những ai đứng giữa nước,
    Trong dòng nước mạnh chảy,
    Giữa sợ hãi lớn lao,
    Thưa Ngài hãy nói lên,
    Hòn đảo cho những kẻ,
    Bị già chết chinh phục,
    Ngài nói con hòn đảo,
    Ðể không có khổ khác,
    Giống như đau khổ này.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn nói Kap-pa,
    Những ai đứng giữa nước,
    Trong dòng nước mạnh chảy,
    Giữa sợ hãi lớn lao,
    Ta nói Ông hòn đảo,
    Cho những ai đang bị,
    Già và chết chinh phục.
  2. Hòn đảo vô song này,
    Không sở hữu, chấp trước,
    Ta nói Ông Niết-bàn,
    Già chết được đoạn diệt,
  3. Biết vậy, giữ chánh niệm,
    Hiện tại đạt mát lạnh,
    Không rơi vào ma lực,
    Không tùy tùng theo ma.

(XII) Câu hỏi của thanh niên Jatukanni (Sn 212)

Jatukanni:

  1. Ja-tu-kan-ni nói:
    Ðược nghe bậc anh hùng,
    Không tham đắm dục vọng,
    Nên con đã đến đây,
    Ðể hỏi bậc vô dục,
    Ðã thoát khỏi bộc lưu,
    Bậc sanh với con mắt,
    Hãy nói đường an tịnh,
    Thế Tôn hãy như thật,
    Nói cho con được biết.
  2. Chinh phục dục vọng xong,
    Thế Tôn sống ở đời,
    Như mặt trời chiếu sáng,
    Cõi đất với hào quang,
    Bậc trí tuệ rộng lớn,
    Hãy nói pháp cho con,
    Kẻ trí tuệ bé nhỏ,
    Do rõ biết pháp này,
    Ở đây, con đoạn được,
    Kể cả sanh và già.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn nói như sau:
    Hỡi Ja-tu-kan-ni!
    Hãy nhiếp phục lòng tham,
    Ðối với các dục vọng;
    Hãy nhìn hạnh xuất ly,
    Ðưa đến sự an ổn;
    Chớ chấp chờ, từ bỏ,
    Sự vật gì ở đời.
  2. Những gì có trước Ông,
    Hãy làm nó khô cạn,
    Ðừng có sự vật gì,
    Ở phía đàng sau Ông,
    Ở giữa, Ông không chấp,
    Ông sẽ sống an tịnh.
  3. Hỡi này Bà-la-môn!
    Ðối với danh và sắc,
    Hoàn toàn không tham đắm,
    Không có các lậu hoặc,
    Chính do lậu hoặc này,
    Bị thần chết chi phối.

(XIII) Câu hỏi của thanh niên Bhadràvudha (Sn 213)

Bhadràvudha:

  1. Bha-đra-vu-đa nói:
    Con có lời yêu cầu,
    Bậc Thiện Tuệ nói lên,
    Bậc bỏ nhà, đoạn ái,
    Bất động, bỏ hỷ ái,
    Giải thoát, vượt bộc lưu,
    Thời gian, không chi phối,
    Nghe xong, bậc Long tượng,
    Từ đây, họ ra đi.
  2. Quần chúng sai biệt ấy,
    Từ quốc độ tụ họp,
    Họ ao ước khát vọng,
    Ðược nghe lời của Ngài,
    Ôi anh hùng chiến thắng,
    Ngài hãy khéo trả lời,
    Pháp Ngài dạy thế này,
    Như vậy họ hiểu biết.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn nói như sau:
    Này Bha-đra-vu-đa!
    Hãy nhiếp phục tất cả,
    Mọi tham ái chấp thủ,
    Trên, dưới cả bề ngang,
    Và kể luôn chặng giữa,
    Những ai có chấp thủ,
    Sự gì ở trong đời,
    Chính do sự việc ấy,
    Ác ma theo người ấy.
  2. Do vậy, bậc hiểu biết,
    Không có chấp thủ gì,
    Tỷ-kheo giữ chánh niệm,
    Trong tất cả thế giới,
    Phàm có sở hữu gì,
    Vị ấy không mong ước,
    Nhìn xem quần chúng này,
    Là chúng sanh chấp thủ,
    Trong lãnh vực của Ma,
    Bị tham dính chấp trước.

(XIV) Câu hỏi của thanh niên Udaya (Sn 214)

Udaya:

  1. Tôn giả U-da-ya:
    Con đến với câu hỏi,
    Về tất cả mọi pháp,
    Ðể hỏi bậc tu thiền,
    Bậc an tọa không bụi;
    Trách nhiệm đã làm xong,
    Bậc không có lậu hoặc,
    Ðã đạt bờ bên kia,
    Hãy nói trí giải thoát
    Ðể phá hoại vô minh.

Thế Tôn:

  1. Ðây lời Thế Tôn nói:
    Hỡi này U-đa-ya,
    Ðoạn ước muốn, dục vọng,
    Và cả hai loại ưu,
    Và trừ bỏ hôn trầm,
    Ngăn chận mọi hối hận.
  2. Ta nói trí giải thoát,
    Ðể phá hoại vô minh,
    Thanh tịnh nhờ xả niệm,
    Suy tư pháp đi trước.

Udaya:

  1. Ðời cái gì trói buộc,
    Cái gì, đời vận hành?
    Do đoạn được cái gì,
    Ðược gọi là Niết-bàn?

Thế Tôn:

  1. Ðời bị hỷ trói buộc,
    Suy tầm là sở hành,
    Do đoạn được khát ái,
    Ðược gọi là Niết-bàn.

Udaya:

  1. Người sở hành chánh niệm,
    Thức được diệt thế nào?
    Con đến hỏi Thế Tôn,
    Nghe lời Thế Tôn nói.

Thế Tôn:

  1. Ai không có hoan hỷ,
    Với nội và ngoại thọ,
    Sở hành chánh niệm vậy,
    Thức đạt được hoại diệt.

(XV) Câu hỏi của thanh niên Posàla (Sn 215)

Posàla:

  1. Tôn giả Po-sa-la:
    Vị nói về quá khứ,
    Bất động nghi hoặc đoạn,
    Ðã đến bờ bên kia,
    Con đến với câu hỏi
    Hỏi về hết thảy pháp.
  2. Với ai, sắc tưởng diệt,
    Ðoạn tận hết thảy thân,
    Nhìn thấy nội và ngoại,
    Thật sự không có gì,
    Con hỏi bậc Thích-ca,
    Thế nào người như vậy,
    Có thể bị dắt dẫn?

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn bèn đáp rằng:
    Hỡi này Pô-sa-la,
    Như Lai được thắng trí,
    Tất cả nhờ thức trú,
    Rõ biết vị an trú,
    Giải thoát, đạt cứu cánh.
  2. Biết được sự tác thành,
    Thuộc về vô sở hữu,
    Biết hỷ là kiết sử,
    Do thắng tri như vậy,
    Tại đấy, thấy như vậy,
    Ðây là trí như thật,
    Của vị Bà-la-môn,
    Ðã thành tựu Phạm hạnh.

(XVI) Câu hỏi của thanh niên Mogharàja (Sn 216)

Mogharàja:

  1. Mo-gha-rà-ja nói:
    Ðã hai lần con hỏi,
    Bậc có mắt, họ Thích,
    Ngài chưa trả lời con,
    Nhưng con được nghe rằng,
    Cho đến lần thứ ba,
    Vị Thiên nhân ẩn sĩ,
    Sẽ trả lời cho con.
  2. Ðời này và đời sau,
    Phạm thiên giới, thiên giới,
    Con không rõ quan điểm,
    Gotama lừng danh.
  3. Vị thầy được thù diệu,
    Con đến với câu hỏi,
    Cần nhìn đời thế nào,
    Ðể thần chết không thấy.

Thế Tôn:

  1. Này Mô-gha-ra-ja,
    Hãy nhìn đời trống không,
    Luôn luôn giữ chánh niệm,
    Nhô lên ngã tùy kiến,
    Như vậy vượt tử vong,
    Hãy nhìn đời như vậy,
    Thần chết không thấy được.

(XVII) Câu hỏi của thanh niên Pingiya (Sn 217)

Pingiya:

  1. Tôn giả Pin-gi-ya:
    Con đã già, yếu đuối,
    Không còn có dung sắc,
    Mắt không thấy rõ ràng,
    Tai không nghe thông suốt,
    Ðể con khỏi mệnh chung,
    Với tâm tư si ám,
    Mong Ngài nói Chánh pháp,
    Nhờ rõ biết pháp ấy,
    Chính tại ở đời này,
    Con đoạn tận sanh già.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn đáp lại rằng:
    Hỡi này Pin-gi-ya,
    Thấy được sự tác hại,
    Trong các loại sắc pháp,
    Chúng sanh sống phóng dật,
    Bị phiền lụy trong sắc,
    Do vậy, Pin-gi-ya,
    Ông chớ có phóng dật,
    Hãy từ bỏ sắc pháp
    Chớ đi đến tái sanh.

Pingiya:

  1. Bốn phương chính, bốn phụ,
    Cộng thêm trên và dưới,
    Như vậy có mười phương,
    Và trong thế giới này,
    Không có sự việc gì,
    Mà Ngài không được thấy,
    Không nghe, không nghĩ đến,
    Và không được thức tri,
    Hãy nói đến Chánh pháp,
    Nhờ rõ biết pháp này,
    Con ngay tại đời này,
    Ðoạn tận được sanh già.

Thế Tôn:

  1. Thế Tôn nói như sau:
    Hỡi này Pin-gi-ya!
    Thấy chúng sanh loài Người,
    Rơi vào trong khát ái,
    Bị già nua đốt cháy,
    Bị già nua chinh phục
    Do vậy, Pin-gi-ya,
    Ông chớ có phóng dật
    Hãy từ bỏ khát ái,
    Không còn bị tái sanh.

(XVIII) Kết luận

Thế Tôn nói như vậy. Trong khi ở tại Magadha, tại điện Phà-xa-na-ka, Thế Tôn được mười sáu Bà-la-môn đệ tử của Bàvani tìm đến, được hỏi nhiều câu hỏi và Ngài đã trả lời. Nêu từng câu hỏi một, sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực hành pháp và tùy pháp, thì có thể đi đến bờ bên kia của già chết. Những pháp này có thể đưa người qua bờ bên kia, cho nên pháp môn này cũng được gọi là Pàràyanam: “Con đường đưa đến bờ bên kia”.

  1. Phạm chí Ajita,
    Tissa-Met-tayya,
    Phạm chí Pun-na-ka,
    Cùng với Met-ta-gù,
    Thanh niên Dhotaka,
    Và Upasiva,
    Nan-đa, He-ma-ka,
    Cả hai vị thanh niên.
  2. To-dey-ya, Kap-pà;
    Và Ja-tu-kha-ni,
    Với Bhad-rà-vu-dha
    Phạm chí U-da-ya
    Phạm chí Po-sà-la,
    Với Mo-gha-rà-ja
    Là bậc đại Hiền trí,
    Cùng với bậc đại sĩ,
    Tên là Pin-gi-ya.
  3. Những vị này đi đến,
    Ðức Phật, bậc Tiên nhân,
    Bậc hạnh đức đầy đủ,
    Những vị này đi đến,
    Bậc giác ngộ tối thượng,
    Hỏi câu hỏi tế nhị.
  4. Ðức Phật đã như thật,
    Trả lời các vị ấy,
    Tùy theo các câu hỏi,
    Và bậc đại ẩn sĩ
    Trả lời những câu hỏi,
    Khiến các Bà-la-môn,
    Ðược hoan hỷ vui thích.
  5. Họ được vui, hoan hỷ,
    Nhờ Phật, bậc có mắt,
    Nhờ bà con mặt trời,
    Họ hành trì Phạm hạnh,
    Dưới chỉ đạo hướng dẫn,
    Bậc trí tuệ tuyệt diệu.
  6. Theo từng câu hỏi một,
    Tùy đức Phật thuyết giảng,
    Ai như vậy hành trì,
    Ði được từ bờ này,
    Ðến được bờ bên kia.
  7. Ði được từ bờ này,
    Ðến được bờ bên kia,
    Tu tập đạo vô thượng,
    Và chính con đường ấy,
    Ðưa đến bờ bên kia,
    Do vậy được tên gọi,
    Con đường đến bờ kia.

Rồi Tôn giả Pingiya đi về Godhàvari và nói lại với Bà-la-môn Bàvari những điều đã xảy ra.

Pingiya:

  1. Tôn giả Pin-gi-ya:
    Con sẽ đọc tụng lên
    Con đường đến bờ kia,
    Ngài được thấy thế nào,
    Ngài nói lên thế ấy,
    Bậc vô cấu, quảng trí,
    Bậc lãnh đạo không dục,
    Bậc Niết-bàn an tịnh,
    Làm sao do nhân gì,
    Ngài nói điều không thật.
  2. Bậc đã đoạn trừ hết,
    Uế nhiễm và si mê,
    Bậc đã diệt trừ sạch,
    Kiêu mạn và gièm pha,
    Con sẽ nói tán thán,
    Âm thanh vi diệu ấy.
  3. Bậc quét sạch u ám,
    Phật-đà, bậc Biến nhãn,
    Ðã đến, tận cùng đời,
    Ðã vượt qua sanh hữu,
    Bậc không có lậu hoặc,
    Ðoạn tận mọi đau khổ,
    Vị được gọi sự thật,
    Hỡi vị Bà-la-môn,
    Con được hầu vị ấy.
  4. Như chim bỏ rừng hoang,
    Ðến ở rừng nhiều trái,
    Cũng vậy con từ bỏ,
    Những bậc thấy nhỏ nhen,
    Con đạt đến biển lớn,
    Chẳng khác con thiên nga.
  5. Những ai trong đời khác,
    Ðã nói cho con nghe,
    Lời dạy bậc Cù-đàm
    Như vậy đã xảy ra,
    Như vậy sẽ xảy đến,
    Tất cả là tin đồn,
    Chỉ làm tăng nghi ngờ.
  6. Chỉ một vị an trú,
    Quét sạch các hắn ám,
    Sanh trưởng gia đình quý,
    Vị ấy chiếu hào quang,
    Cù-đàm, bậc quảng tuệ,
    Cù-đàm, bậc quảng trí.
  7. Ai thuyết pháp cho con,
    Pháp thiết thực hiện tại,
    Ðến ngay không chờ đợi,
    Ái diệt, vượt đau khổ,
    Vị ấy không ai sánh.

Bàvari:

  1. Hỡi này Pin-gi-ya,
    Sao Ông lại không thể,
    Sống xa lánh vị ấy,
    Chỉ trong một chốc lát,
    Bậc Cù-đàm quảng tuệ,
    Bậc Cù-đàm quảng trí,
  2. Vị thuyết pháp cho người,
    Pháp thiết thực hiện tại,
    Ðến ngay không chờ đợi,
    Ái diệt, vượt đau khổ,
    Vị ấy không ai sánh.

Pingiya:

  1. Hỡi này Bà-la-môn,
    Con không có thể được,
    Sống xa lánh vị ấy
    Chỉ trong một chốc lát,
    Gotama quảng tuệ,
    Gotama quảng trí.
  2. Vị thuyết pháp cho con,
    Pháp thiết thực hiện tại,
    Ðến ngay không chờ đợi,
    Ái diệt, vượt đau khổ,
    Vị ấy không ai sánh.
  3. Chính con thấy vị ấy,
    Với ý, với con mắt,
    Ngày đêm không phóng dật,
    Kính thưa Bà-la-môn,
    Con trải qua suốt đêm
    Ðảnh lễ, kính vị ấy,
    Do vậy con nghĩ rằng,
    Con không xa vị ấy.
  4. Với tín và với hỷ,
    Với ý luôn chánh niệm,
    Không làm con xa rời,
    Lời dạy Gotama!
    Chính tại phương hướng nào,
    Bậc quảng tuệ đi đến,
    Chính ở phương hướng ấy,
    Con được dắt dẫn đến.
  5. Với con tuổi đã già,
    Yếu đuối, không sức mạnh,
    Do vậy thân thể này,
    Không đến được chỗ ấy,
    Với tâm tư quyết chí,
    Con thường hằng đi đến.
    Vì rằng thưa Phạm chí,
    Ý con cột vị ấy.
  6. Nằm dài trong vũng bùn,
    Vùng vẫy, vật qua lại,
    Con đã bơi qua lại,
    Ðảo này đến đảo khác,
    Con đã thấy đức Phật,
    Vượt bộc lưu, vô lậu.

Ðến đây, khi chúng đang nói, đức Phật hiện ra và nói:

Thế Tôn:

  1. Cũng như Vak-ka-li
    Nhờ tin, được giải thoát,
    Với Bhad-rà-vu-dha,
    A-la-vi, Cù-đàm,
    Cũng vậy, Ông đã được,
    Giải thoát nhờ lòng tin.
    Hỡi này Pin-gi-ya,
    Ông sẽ đi đến được,
    Ðến được bờ bên kia,
    Của thế giới thần chết.

Pingiya:

  1. Ðược nghe lời ẩn sĩ,
    Con tăng trưởng tịnh tín,
    Bậc Chánh đẳng Chánh giác,
    Ðã vén lên tấm màn,
    Không cứng cỏi, biện tài.
  2. Thắng tri các chư Thiên,
    Biết tất cả cao thấp,
    Bậc Ðạo Sư chấm dứt,
    Tất cả các câu hỏi,
    Với những ai tự nhận,
    Còn có chỗ nghi ngờ.
  3. Không run rẩy, dao động,
    Không ai có thể sánh,
    Chắc chắn con sẽ đi,
    Tại đây, con không nghi,
    Như vậy, thọ trì Ta
    Như tâm người tín giải.

Phẩm “Con đường đi đến bờ bên kia ” đã xong.

Kinh Tiểu Bộ – Khuddhaka Nikaya

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tập 4 – Kinh Phật Thuyết Như Vậy

Itivuttaka

-ooOoo-

Mục Lục

Chương 1: Tập Một Pháp Chương 3: Tập Ba Pháp
Chương 2: Tập Hai Pháp Chương 4: Tập Bốn Pháp

***

Giới thiệu Tập Kinh Phật Thuyết Như Vậy

(Itivuttaka)

Tỳ kheo Thanissaro

Tập kinh Phật Thuyết Như Vậy (Itivuttaka), thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khudaka Nikaya), là một tập hợp 112 bài kinh ngắn, có tựa đề bắt nguồn từ câu “Ðức Thế Tôn thuyết giảng như vầy” (Itivuttam). Tập kinh chia thành bốn chương: chương một pháp, chương hai pháp, chương ba pháp, và chương bốn pháp.

Tập kinh nầy do một vị nữ cư sĩ tên là Khujjuttara kết hợp sau khi thuật lại các lời giảng của Ðức Phật, cho Hoàng hậu Samavati và các cung nữ khác của Vua Udena, xứ Kosambi. Hoàng hậu không thể rời hoàng cung để đến nơi Phật ngụ nghe Phật thuyết giảng, cho nên Hoàng hậu sai bà Khujjuttara đi nghe thuyết giảng, ghi nhớ, rồi trở về hoàng cung để thuật lại cho bà và 500 vị cung phi khác nghe. Bà Khujjuttara có trí nhớ lạ thường và rất thông minh, khéo giảng pháp, nên Ðức Phật đã từng khen ngợi rằng bà là vị Ðệ Nhất Thanh Văn trong hàng nữ đệ tử cư sĩ (Tăng Chi Bộ I.14). Bà cũng là một vị thầy tài giỏi để hướng dẫn hoàng hậu và các cung phi khác trong việc hành trì Chánh Pháp. Khi nội cung bị hỏa hoạn làm thiệt mạng hoàng hậu và tất cả các cung phi, Ðức Phật cho biết rằng tất cả các vị đó đã đắc quả giải thoát, tối thiểu là quả Nhập Lưu (Tu Ðà Hoàn) – như đã ghi lại trong kinh Phật Tự Thuyết (Ud VII.10).

Tên gọi “Itivuttaka” cũng được dùng trong bảng phân loại đầu tiên về 9 thể tài kinh điển Phật Giáo (*), một bảng phân loại có mặt trước khi có sự sắp đặt Tam Tạng Pali như chúng ta biết hiện nay. Thật khó mà biết chắc chắn rằng bản Itivuttaka Pali ngày nay có phải hoàn toàn là bản Itivuttaka nêu ra trong bảng phân loại đó hay không. Kinh tạng Hán văn có chứa bản dịch của Itivuttaka, thường cho rằng do ngài Huyền Trang dịch. Bản dịch nầy có rất nhiều đoạn giống như bản Itivuttaka Pali. Sự khác biệt chính yếu là bản dịch của ngài Huyền Trang không có nhiều bài kinh trong Chương III và hoàn toàn không có Chương IV. Có thể là những phần nầy đã được kết tập về sau trong tạng Pali, nhưng không được kết tập vào tạng Sanskrit để dịch ra Hán văn. Cũng có thể là ngài Huyền Trang không hoàn tất bản dịch vì nó được dịch trong những tháng cuối trong đời của ngài.

Lịch sử nguyên thủy của kinh Phật Thuyết Như Vậy có nhiều vấn đề phức tạp vì khởi thủy, kinh chỉ được truyền khẫu qua nhiều thế kỷ rồi mới được viết xuống giấy. Tuy nhiên đây là một trong những bộ kinh trong tạng Pali rất được nhiều người quý chuộng vì tập kinh bao gồm các bài giảng của Ðức Phật với nhiều đề tài giáo lý căn bản – từ giản dị đến sâu sắc – trong một hình thức rõ ràng, ngắn gọn và trực tiếp.

(*) 9 thể tài: Kinh (sutta), Ứng tụng (geyya), Biện giải (veyyākarana), Kệ tụng (gātha), Cảm hứng ngữ (hay Tự thuyết) (udāna), Như thị ngữ (hay Bổn sự) (itivuttaka), Bổn sanh (jātaka), Vị tằng hữu (abbhutadhamma), và Phương quảng (vedalla).

Tỳ kheo Thanissaro
(Bình Anson lược dịch)

Giới Thiệu Kinh Phật Thuyết Như Vậy

(Itivuttaka)

Hòa thượng Thích Minh Châu

Tập Itivuttaka – “Kinh thuyết như vậy”, thuộc Bộ Khuddaka Nikàya (Tiểu Bộ Kinh) gồm có 112 kinh với các bài kệ, chia thành 4 chương, chương một pháp, chương hai pháp, chương ba pháp, chương bốn pháp. Như vậy là một sự phân loại các đề tài theo pháp số, như kiểu tập Tăng Chi Bộ Kinh. Sở dĩ được gọi là “Itivuttaka: Thuyết như vậy”, là vì phần lớn các kinh này đều bắt đầu với câu: “Ðây là điều đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A la hán nói đến và tôi đã được nghe”, và được kết luận với câu: “Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe”. Có một số kinh ở chặng giữa không có các câu mở đầu và câu kết như thế này, nhưng đến các kinh cuối lại được ghi trở lại.

Theo truyền thống, như đã được ghi trong tập sớ được xem là của tôn giả Dhammapàla, Khujjuttarà một nữ cư sĩ, thường đi nghe Thế Tôn thuyết pháp cho chúng tỷ kheo, nàng ngồi sau lưng một bức màn trở thành một bậc đa văn, nghe nhiều, giỏi về chánh pháp và giỏi về trí tuệ. Nàng được nội cung của Vua Udena yêu cầu nói lại những điều đã được nghe và sau khi nghe, học thuộc lòng những điều đã được nghe. Nàng được Thế Tôn khen và gọi là đa văn đệ nhất. Theo truyền thống, chính là tập Itivuttaka này, nàng đã được nghe và truyền tụng lại. Tập sớ có ghi rằng chúng tỷ kheo cũng học thuộc lòng tập kinh này, và chính tôn giả Ananda đã đọc lại bộ kinh này, trong kỳ kiết tập thứ nhất ở Ràjagahà (Vương xá). Các kinh ở chương bốn pháp dài hơn và không có kinh Hán tạng tương đương và được xem là ghi chép về sau. Một số kinh trong tập này được tìm thấy trong tập Tăng Chi Bộ Kinh và Puggala-pannatti. (Theo sự chú giải của bản dịch Anh văn).

Về phương diện nội dung tập Itivuttaka không đề cập tới đời sống đức Phật, đời sống các đại đệ tử của đức Phật như chúng ta được thấy trong tập Udàna. Tập này chú trọng nhiều hơn đến phần giáo lý căn bản, định nghĩa những pháp số, phân loại theo bốn chương một pháp, hai pháp, ba pháp, bốn pháp. Nói một cách khác, một số đề tài đã được lựa chọn, định nghĩa, giải thích một cách ngắn gọn để các đệ tử có thể tìm hiểu, học thuộc lòng và nắm giữ được phần căn bản trong giáo lý của đức Phật. Như vậy, giải thích được truyền thống: xem rằng chính Khujjuttarà, nghe được những lời Thế Tôn dạy, nhớ lấy rồi thuyết lại cho các đệ tử khác, nhờ vậy tập nầy được lưu truyền.

Kinh “Phật thuyết như vậy”, xuất xứ từ kinh Tạng Pàli là kinh thuộc kinh điển Thượng Tọa Bộ, trung thành gìn giữ lời dạy của đức Phật.

Trước hết, kinh này không đề cập đến Abhidhamma (Thắng Pháp, Vi Diệu Pháp), không đề cập đến các chuyện tiền thân (Jàtaka) và như vậy kinh này không thuộc về văn học Abhidhamma và văn học Jàtaka — hai văn học này chỉ được bắt nguồn, kết thành trong giai đoạn thứ hai là giai đoạn các học phái, từ khoảng 300 năm đến 100 năm trước kỷ nguyên. Kinh này không nằm trong giai đoạn phát triển thứ ba là thời hưng khởi của Ðại thừa (100 năm trước kỷ nguyên đến 100 năm sau kỷ nguyên). Như vậy, kinh này nằm trong giai đoạn đạo Phật nguyên thủy khoảng 450 năm đến 350 năm trước kỷ nguyên khi lời dạy của đức Phật chưa bị pha trộn, xen lẫn bởi những phát triển về sau. Sự kiện này được phần nội dung của kinh này chứng minh như chúng ta sẽ rõ sau này, và cũng được xác định theo truyền thống, vì kinh này được nữ cư sĩ Khujjuttarà đích thân nghe đức Phật rồi về thuyết giảng lại để được học hỏi ghi nhớ và truyền lại cho đến ngày nay.

Nói về đức Phật hiện tại và rộng hơn nữa, nói về Như Lai (Tathagata), chúng ta sẽ thấy đức Phật chưa được thần thánh hóa, chưa dùng thần thông để hóa độ chúng sanh.

Như Lai được diễn tả như một bực đã giác ngộ thế giới, “Thế giới tập khởi, thế giới đoạn diệt, con đường đưa đến thế giới đoạn diệt.”

“Này các tỷ kheo, thế giới được Như Lai Chánh đẳng giác, Như Lai không hệ lụy đối với đời. Này các tỷ kheo, thế giới tập khởi được Như Lai Chánh Ðẳng Giác. Thế giới tập khởi được Như Lai đoạn tận. Này các tỷ kheo, Thế giới đoạn diệt được Như Lai giác ngộ. Này các tỷ kheo, con đường đưa đến thế giới đoạn diệt được Như Lai Chánh đẳng giác; con đường đưa đến thế giới đoạn diệt được Như Lai đã tu tập.”

“Cái gì này các tỷ kheo, trong toàn thế giới với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới cùng với quần chúng Sa môn, Bà la môn chư Thiên và loài người được thấy, được nghe, được thọ tưởng, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu, được ý tư sát, tất cả đều được Như Lai Chánh đẳng giác. Do vậy được gọi là Như Lai. Này các tỷ kheo, từ đêm Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh đẳng giác đến đêm Ngài nhập Niết bàn, không có dư y, trong thời gian ấy điều gì Ngài nói, tuyên bố nêu rõ lên, tất cả là như vậy, không có khác được, do vậy được gọi là Như Lai.

“Này các tỷ kheo, Như Lai nói gì làm vậy, làm gì nói vậy; vì rằng nói gì làm vậy, làm gì nói vậy, nên được gọi Như Lai.

“Này các tỷ kheo, trong toàn thể thế giới, Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa môn, Bà la môn, chư Thiên và loài người, Như Lai là bậc chiến thắng, không bị chiến bại, toàn tri, toàn kiến, được tự tại, do vậy được gọi là Như Lai (Kinh số 112).”

Hình ảnh Như Lai là vậy, hình ảnh Thế Tôn không có khác hơn, ở đây Thế Tôn tượng trưng cho Pháp và những ai thấy pháp, sống theo Pháp, người ấy mới gần Thế Tôn như kinh số 92 nêu rõ:

“Này các tỷ kheo, nếu một tỷ kheo nắm lấy viền áo Tăng già lê đi theo sau lưng Ta, chân bước theo chân, nhưng vị ấy có tham ái trong các dục, với lòng sắc xảo, với tâm sân hận, ý tư duy nhiễm ác, thất niệm, không tỉnh giác, không định tỉnh, tâm tán loạn, với các căn hoang dại, vị ấy xa hẳn Ta và Ta xa vị ấy.

“Vì cớ sao? Này các tỷ kheo, tỷ kheo ấy không thấy pháp. Do không thấy pháp nên không thấy Ta. Này các tỷ kheo, nếu tỷ kheo sống xa đến 100 do tuần và vị ấy không có tham ái trong các dục, với lòng tham không sắc xảo, tâm không sân hận, ý tư duy không nhiễm ác, chánh niệm tỉnh giác, định tỉnh nhất tâm, các căn được chế ngự, vị ấy gần hẳn Ta và Ta gần vị ấy.

“Vì cớ sao? Này các tỷ kheo, tỷ kheo ấy thấy pháp. Do thấy pháp nên thấy Ta”.

Trong kinh số 100, chính Ðức Phật tự tả mình như sau:

“Này các tỷ kheo, Ta là Bà la môn, người được đến yêu cầu (yàcayogo), tay luôn luôn thanh tịnh (payatapàni) mang thân cuối cùng, vô thượng y sĩ chữa trị (bhisakko) y sĩ giải phẫu (sallakatta). Các ngươi thật là con của Ta (arasà) từ miệng sanh, từ pháp sanh, từ pháp tạo thành, thừa tự pháp, không thừa tự tài vật.”

Ðức Phật tự xưng là y sĩ chữa trị (bhisakkà), tự xưng là y sĩ giải phẫu (sallakatta). Ngài xem các đệ tử như con của Ngài, từ miệng sanh, từ pháp sanh, là những con cháu thừa tự pháp. Ðâu đâu cũng thấy vai trò trọng yếu của chánh pháp, vì đức Phật là tượng trưng cho Pháp, tự miệng mình thuyết pháp độ chúng sanh. Rõ hơn nữa là xác nhận hai loại thuyết pháp của đức Phật, như kinh 35 đã nêu rõ:

“Có hai loại thuyết pháp của Như Lai, bậc A la hán, chánh đẳng giác, cái này tiếp nối cái kia. Thế nào là hai? Hãy thấy Ác là ác. Ðây là thuyết pháp thứ nhất. Sau khi thấy ác là ác, ở đây hãy nhàm chán, hãy từ bỏ, hãy thoát ly! Ðây là thuyết pháp thứ hai!”

Ðức Phật đã là đức Phật nguyên thủy, thời mục đích của sự tu hành, sự cứu cánh của Phạm hạnh và mục tiêu giải thoát giác ngộ là những mục tiêu trung thành với giáo pháp chánh thống nguyên thủy.

Mục đích của đạo Phật là giải quyết vấn đề sanh lão bệnh tử, tức là chấm dứt sự đau khổ cho con người. Và đoạn kinh sau này xác chứng rằng sự đau khổ có thể được chấm dứt và trạng thái đau khổ được chấm dứt là Niết bàn. Dưới đây là định nghĩa của Niết bàn ấy trong kinh số 44:

“Này các tỷ kheo, có hai Niết bàn giới này. Thế nào là hai? Niết bàn giới có dư y và Niết bàn giới không dư y.

“Này các tỷ kheo, thế nào là Niết bàn giới có dư y? Ở đây, này các tỷ kheo, tỷ kheo là bậc A la hán, các lậu hoặc đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích: hữu kiết sử đã diệt, đã giải thoát nhờ chánh trí. Trong vị ấy, năm căn còn tồn tại. Ngang qua các căn ấy, vị ấy hưởng thọ khả ý, không khả ý, vì rằng tự ngã không có thương hại nên cảm giác lạc khổ. Với vị ấy, tham diệt, sân diệt, si diệt. Này các tỷ kheo, đây gọi là Niết bàn có dư y.

“Này các tỷ kheo, thế nào là Niết bàn không có dư y? Ở đây, này các tỷ kheo, tỷ kheo là bậc A la hán, các lậu hoặc đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử đã diệt, đã giải thoát nhờ chánh trí. Ở đây, đối vị ấy, mọi cảm thọ đều không có hoan hỷ ưa thích, sẽ được lắng dịu”.

Một kinh nữa, kinh số 43 xác nhận sự hiện diện của trạng thái giải thoát này, ngay trong đời hiện tại, có mặt trên quả đất này:

“Này các tỷ kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành, không làm ra. Này các tỷ kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành, không làm ra, thời ở đây không có thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện hữu, khỏi tác thành, khỏi làm ra. Do vì này các tỷ kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành, không làm ra, nên có thể trình bày được sự xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện hữu, khỏi tác thành, khỏi làm ra”.

Ở đây, có hai nhận xét quan trọng. Ðức Phật khi nhập Niết bàn có dư y ở Kusinàra, không phải là mất hẳn, tiêu diệt hoàn toàn, vì như vậy là theo thuyết đoạn diệt đạo Phật không chấp nhận. Ở đây, tham sân si không còn, lạc thọ khổ thọ không khởi lên, nhưng mọi cảm thọ đều được lắng dịu, mát lạnh, thanh lương. Nhận xét quan trọng thứ hai là sự đau khổ có thể đoạn diệt ngay trong đời sống hiện tại với những vị đã chứng quả A la hán. Và dầu chưa chứng được quả A la hán, nếu hành trì theo lời Phật dạy, thời có thể đoạn trừ dần dần các sự khổ đau.

Vấn đề quan trọng thứ hai, sau mục đích giải thoát và giác ngộ là những pháp môn giúp người tu hành đạt đến mục đích đoạn tận khổ đau. Chúng ta sẽ thấy pháp môn tuy nhiều, nhưng không bao giờ ra ngoài pháp môn Giới-Ðịnh-Tuệ, pháp môn duy nhất để đưa người hành trì đoạn tận khổ đau.

“Này các tỷ kheo, một tỷ kheo có giới tốt lành (kalyàmasìlo), có pháp tốt lành, có tuệ tốt lành, được gọi trong pháp và luật này là vị toàn hảo.

“Này các tỷ kheo, một tỷ kheo có giới tốt lành, có pháp tốt lành, có tuệ tốt lành được gọi trong pháp và luật này là vị toàn hảo (kevalì). Này các tỷ kheo, thế nào là giới tốt lành? Ở đây, này các tỷ kheo, tỷ kheo giữ giới, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp. Như vậy này các tỷ kheo, là tỷ kheo có giới tốt lành. Và thế nào là có pháp tốt lành? Ở đây, này các tỷ kheo, tỷ kheo sống chuyên tâm chuyên chú tu tập bảy pháp giác chi. Như vậy này các tỷ kheo, là tỷ kheo có pháp tốt lành. Và thế nào là tuệ tốt lành? Ở đây này các tỷ kheo, tỷ kheo do diệt trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng tri chứng ngộ chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Như vậy, này các tỷ kheo là tỷ kheo có tuệ tốt lành. Như vậy, một người có giới tốt lành, có pháp tốt lành, có tuệ tốt lành được gọi trong pháp và luật này là vị toàn hảo (kevalì) (Kinh số 97).”

Cũng theo chiều hướng trên, ba hình ảnh được phát họa diễn tả ba hạng người, tùy theo mức độ đối trị được với dục và hữu:

“Này các tỷ kheo, những ai bị trói buộc bởi trói buộc của dục, những ai bị trói buộc bởi trói buộc của hữu, là những bậc đến lại, đi đến lại có mặt ở đây. Những ai chế ngự được sự trói buộc của dục, này các tỷ kheo, nhưng còn bị trói buộc bởi trói buộc của hữu, những vị ấy là hạng bất lai, không trở lui lại có mặt ở đây. Những ai chế ngự được sự trói buộc của dục, chế ngự được sự trói buộc của hữu, những vị ấy là những bậc A la hán, đã đoạn tận các lậu hoặc (Kinh 97).”

Tiếp theo là một số phương pháp tu học, một nếp sống đưa đến hai quả Chánh trí hay nếu có dư y thời được quả Bất lai, những quả cao nhất trong con đường tu hành, nghĩa là đoạn tận được khổ đau.

“Này các tỷ kheo, hãy sống ưa muốn ẩn dật, thiền tịnh, thích thú ẩn dật thiền tịnh, thành tựu quán tri, hành trì hạnh đi đến các ngôi nhà trống (Kinh số 45).”

“Này các tỷ kheo, hãy an trú vào lợi ích của học tập, cho trí tuệ tối thượng, cho lỏi cây giải thoát, cho niệm được tăng trưởng… (Kinh số 46).”

“Này các tỷ kheo, tỷ kheo phải sống cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác, thiền tịnh, hoan hỷ, tín thanh và ở đây quán tri đúng thời trong các pháp thiện… (Kinh số 47)”

Những vị thực hành theo pháp môn này thời có hy vọng đoạn trừ được khổ đau.

Ðức Phật còn dạy tỷ kheo làm thế nào đã đối trị 3 cảm thọ — lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ:

“Này các tỷ kheo, lạc thọ cần phải được xem như là khổ, khổ thọ cần phải được xem như là vô thường. Vì rằng, này các tỷ kheo, tỷ kheo đã xem lạc thọ như là khổ, đã xem khổ thọ như là mũi tên, đã xem bất khổ bất lạc thọ như là vô thường. Này các tỷ kheo, tỷ kheo này gọi là bậc Thánh, đã chân chánh thấy, đã chặt đứt ái, đã giải tỏa kiết sử, đã chân chánh thắng tri mạn, đã đoạn tận khổ đau.” (Kinh số 53)

“Này các tỷ kheo, cần phải quán sát một cách như thế nào, do quán sát như vậy, thức của vị ấy đối với ngoại trần không có tán loạn, không có tản rộng, tâm không trú trước nội tâm, không chấp thủ không bị khủng bố, sẽ không có sự sanh, tập khởi của khổ về sanh già chết trong tương lai (Kinh số 94).”

“Này các tỷ kheo, những Sa môn hay Bà la môn nào không như thật quán tri đây là khổ tập, không như thật quán tri đây là khổ diệt, không như thật quán tri đây là con đường đưa đến khổ diệt. Những Bà là môn ấy, này các tỷ kheo, không được Ta chấp nhận là Sa môn trong các hạng Sa môn hay Bà la môn trong các hạng Bà la môn. Với các vị tôn giả ấy ngay trong hiện tại cũng không tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú mục đích Sa môn hạnh hay mục đích Bà la môn hạnh. Những Sa môn hay Bà la môn nào, này các tỷ kheo, như thật quán tri đây là khổ, như thật quán tri đây là khổ tập, như thật quán tri đây là khổ diệt, như thật quán tri đây là con đường đưa đến khổ diệt, thời, này các tỷ kheo, các Sa môn hay Bà la môn ấy được Ta chấp nhận là Sa môn trong các hạng Sa môn hay Bà la môn trong các hạng Bà la môn và các vị tôn giả ấy, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí chứng ngộ chứng đạt và an trú mục đích Sa môn hạnh hay mục đích Bà la môn hạnh (Kinh số 103).” (…)

Hòa thượng Thích Minh Châu
Thiền viện Vạn Hạnh
Sài Gòn, 1978 (PL. 2522)

Chương Một – Một Pháp

Phẩm I

(I) (Ek I, 1) (It. 1)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ một pháp. Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh. Thế nào là một pháp? Tham, này các Tỷ-kheo, là một pháp, các Thầy hãy từ bỏ! Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Với tham bị tham đắm,
Chúng sanh đi ác thú,
Bậc thiền quán, chánh trí,
Từ bỏ tham ái ấy,
Từ bỏ, không bao giờ
Trở lại tại đời này.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(II) (Ek I, 2) (It. 1)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo hãy từ bỏ một pháp. Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh. Thế nào là một pháp? Sân, này các Tỷ-kheo, là một pháp các Thầy hãy từ bỏ. Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến:

Với sân bị sân hận,
Chúng sanh đi ác thú,
Bậc thiền quán, chánh trí
Từ bỏ sân hận ấy,
Từ bỏ, không bao giờ
Trở lại tại đời này
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(III) (Ek I, 3) (It. 2)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ một pháp. Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh. Thế nào là một pháp? Si, này các Tỷ-kheo, là một pháp các Thầy hãy từ bỏ. Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Với si bị si mê
Chúng sanh đi ác thú,
Bậc thiền quán, chánh trí
Từ bỏ si mê ấy,
Từ bỏ, không bao giờ
Trở lại tại đời này
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(IV) (Ek I, 4) (It. 2)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ một pháp. Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh. Thế nào là một pháp? Phẫn nộ, này các Tỷ-kheo, là một pháp các Thầy hãy từ bỏ. Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Với phẫn nộ phẫn uất.
Chúng sanh đi ác thú,
Bậc thiền quán, chánh trí
Từ bỏ phẫn nộ ấy,
Từ bỏ, không bao giờ
Trở lại tại đời này.

Ðây là ý nghĩa đã được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(V) (Ek 1,5) (It. 3)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ một pháp. Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh. Thế nào là một pháp? Gièm pha, này các Tỷ kheo, là một pháp các Thầy hãy từ bỏ. Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Với gièm pha, gièm người,
Chúng sanh đi ác thú,
Bậc thiền quán, chánh trí
Từ bỏ gièm pha ấy,
Từ bỏ, không bao giờ
Trở lại tại đời này.

Ý nghĩa này đã được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(VI) (Ek1,6) (It.3)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ một pháp. Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh. Thế nào là một pháp? Mạn, này các Tỷ kheo, là một pháp các Thầy hãy từ bỏ. Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Với kiêu mạn kiêu căng,
Chúng sanh đi ác thú,
Bậc thiền quán, chánh trí
Từ bỏ kiêu mạn ấy,
Từ bỏ, không bao giờ
Trở lại tại đời này
.

Ý nghĩa này đã được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(VII) (Ek I, 7) (It. 3)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, ai không thắng tri, không liễu tri tất cả, ở đây tâm không ly tham, từ bỏ, không thể diệt được khổ đau. Này các Tỷ-kheo, ai thắng tri, liễu tri tất cả, ở đây tâm ly tham, từ bỏ, có thể diệt được khổ đau.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Ai hiểu, rõ biết được,
Tất cả là tất cả,
Ðối với tất cả chỗ,
Không có sự tham đắm,
Vị như vậy chắc chắn,
Liễu tri được tất cả,
Và có thể vượt qua,
Tất cả mọi đau khổ.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(VIII) (Ek I, 8) (It. 4)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, ai không thắng tri không liễu tri Mạn, ở đây tâm không ly tham, không từ bỏ, thời không có thể diệt được khổ đau. Này các Tỷ-kheo, ai thắng tri liễu tri Mạn, ở đây tâm ly tham, từ bỏ, có thể diệt được khổ đau.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Người bị mạn chi phối,
Do bị mạn trói buộc,
Nên hoan hỷ sanh hữu,
Do không liễu tri mạn,
Nên đi đến tái sanh.
Những ai đoạn diệt mạn,
Giải thoát, mạn hoại diệt,
Họ thắng mạn trói buộc,
Họ vượt qua nhiếp phục,
Tất cả mọi đau khổ.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(IX) (Ek I, 9) (It. 5)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, ai không thắng tri không liễu tri Tham, ở đây tâm không ly tham, không từ bỏ, không có thể diệt trừ khổ đau. Này các Tỷ-kheo, ai thắng tri liễu tri Tham, ở đây tâm ly tham, từ bỏ, thời có thể diệt được khổ đau.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Với tham, bị tham đắm,
Chúng sanh đi ác thú,
Bậc thiền quán, chánh trí
Từ bỏ tham ái ấy,
Từ bỏ, không bao giờ
Trở lại tại đời này
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(X) (Ek I, 10) (It. 5)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, ai không thắng tri không liễu tri Sân, ở đây tâm không ly tham, không từ bỏ, không có thể diệt trừ khổ đau. Này các Tỷ-kheo, ai thắng liễu tri Sân, ở đây, tâm ly tham, từ bỏ, có thể diệt được khổ đau.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Với sân bị sân hận,
Chúng sanh đi ác thú,
Bậc thiền quán, chánh trí
Từ bỏ sân hận ấy,
Từ bỏ, không bao giờ
Trở lại tại đời này.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

Phẩm II

(XI) (Ek II, 1) (It. 6)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, ai không thắng tri, không liễu tri Si, ở đây tâm không ly tham, không từ bỏ, không có thể diệt trừ khổ đau. Này các Tỷ-kheo, ai thắng tri liễu tri Si, ở đây tâm ly tham, từ bỏ, có thể diệt được khổ đau.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Với si, bị si mê,
Chúng sanh đi ác thú,
Bậc thiền quán, chánh trí
Từ bỏ si mê ấy,
Từ bỏ không bao giờ,
Trở lại tại đời này
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XII) Ek II, 2) (It. 7)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, ai không thắng tri không liễu tri Phẫn nộ, ở đây tâm không ly tham, không từ bỏ, không có thể diệt trừ khổ đau. Này các Tỷ-kheo, ai thắng tri liễu tri Phẫn nộ, ở đây tâm ly tham, từ bỏ có thể diệt được khổ đau.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Với phẫn nộ phẫn uất,
Chúng sanh đi ác thú,
Bậc thiền quán, chánh trí,
Từ bỏ phẫn nộ ấy,
Từ bỏ, không bao giờ
Trở lại tại đời này.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XIII) (Ek II, 3) (It. 7)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, ai không thắng tri không liễu tri Gièm pha, ở đây tâm không ly tham, không từ bỏ, không có thể diệt trừ khổ đau. Này các Tỷ-kheo, ai thắng tri liễu tri Gièm pha, ở đây tâm ly tham, từ bỏ, có thể diệt được khổ đau.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Với gièm pha gièm người,
Chúng sanh đi ác thú,
Bậc thiền quán, chánh trí
Từ bỏ, gièm pha ấy,
Từ bỏ, không bao giờ
Trở lại tại đời này.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(XIV) (Ek II, 4) (It. 7)

Ðiều này được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy một triền cái nào khác, do bị bao trùm bởi triền cái ấy, chúng sanh trong một thời gian dài, lưu chuyển. Này các Tỷ-kheo, tức là Vô minh triền cái. Này các Tỷ-kheo, bị bao trùm bởi Vô minh triền cái, chúng sanh trong một thời gian dài chạy dài, lưu chuyển.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Không có một pháp khác,
Quần sanh bị bao phủ,
Ngày đêm chạy lưu chuyển,
Như bao phủ bởi si
Và ai đoạn diệt si,
Ðâm thủng khối u ám,
Họ không lưu chuyển nữa,
Trong họ, nhân không còn
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XV) (Ek II, 5) (It. 8)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy một kiết sử nào khác, do bị cột bởi kiết sử ấy, chúng sanh trong một thời gian dài, chạy dài, lưu chuyển, này các Tỷ-kheo tức là Ái kiết sử. Này các Tỷ-kheo, bị cột với ái kiết sử, chúng sanh trong một thời gian dài, chạy dài lưu chuyển.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Người có ái làm bạn,
Thời gian dài, lưu chuyển,
Không vượt được lưu chuyển,
Sanh hữu vậy hay khác.
Ai biết nguy hiểm này,
Biết ái tác thành khổ,
Bỏ ái, không chấp trước,
Tỷ-kheo giữ chánh niệm,
Bỏ gia đình xuất gia,
Sống nếp sống như vậy.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XVI) (Ek II. 6) (It. 9)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, với vị Tỷ-kheo hữu học, tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi các triền ách, sau khi làm thành nội chi phần, Ta không thấy một chi phần nào khác, được nhiều lợi ích như vậy, này các Tỷ-kheo, tức là Như lý tác ý. Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo tác như lý tác ý, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Vị Tỷ kheo hữu học,
Hành như lý tác ý,
Không một pháp nào khác,
Nhiều lợi ích như vậy.
Ðể đạt cho bằng được,
Lợi ích thật tối thượng.
Vị Tỷ kheo như lý,
Tinh tấn và tinh cần,
Có thể thành đạt được,
Sư đoạn diệt khổ đau
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XVII) (Ek II. 7) (It. 10)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, với vị Tỷ-kheo hữu học, tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi các triền ách, sau khi làm thành ngoại chi phần, Ta không thấy một chi phần nào khác, được nhiều lợi ích như vậy, này các Tỷ-kheo, tức là làm bạn với thiện. Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo làm bạn với thiện, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Tỷ-kheo làm bạn thiện,
Tôn kính và kính trọng,
Làm theo những lời nói,
Của bạn bè thân hữu,
Tỉnh giấc và chánh niệm,
Vị ấy sẽ tuần tự,
Ðạt được sự hoại diệt,
Tất cả mọi kiết sử.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XVIII) (Ek II, 8) (It. 10)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có một pháp khởi lên ở đời, khi khởi lên đem lại bất hạnh cho nhiều người, đem lại bất lợi cho nhiều người, đem lại không lợi ích cho nhiều người, đem lại bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người.

Thế nào là một pháp? Phá hòa hợp Tăng. Này các Tỷ-kheo, khi chúng Tăng bị phá hoại, thì có những tranh luận với nhau, có những mắng nhiếc lẫn nhau, có những ngăn cách lẫn nhau, có những từ bỏ lẫn nhau. Ở tại đấy, những người không hòa hợp, không đi đến hòa hợp và những người có hòa hợp, sự nhất trí đi đến nơi khác.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Bị rơi vào đọa xứ,
Bị rơi vào địa ngục,
Trú đến trọn cả kiếp,
Người phá hòa hợp Tăng.
Ưa thích phá hòa hợp,
An trú trên phi pháp,
Rơi rớt, vượt ra khỏi.
An ổn khỏi khổ ách;
Kẻ phá sự hòa hợp,
Của Tăng chúng hòa hợp,
Bị nung nấu trọn kiếp,
Trong cảnh giới địa ngục.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XIX) (Ek II, 9) (It. 11)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo có một pháp khởi lên ở đời, khi khởi lên đem lại hạnh phúc cho nhiều người, đem lại lợi ích cho nhiều người, không đem lại lợi ích cho nhiều người, không đem lại bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người.

Thế nào là một pháp? Sự hòa hợp chúng Tăng. Này các Tỷ-kheo, khi chư Tăng được hòa hợp, không có những tranh luận với nhau, không có những mắng nhiếc lẫn nhau, không có những ngăn cách lẫn nhau, không có những từ bỏ lẫn nhau. Ở tại đây, những người không hòa hợp đi đến hòa hợp, và những người hòa hợp lại càng hòa hợp hơn nữa.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Hạnh phúc là chúng Tăng,
Ðược sống trong hòa hợp,
Giúp đỡ, ưa hòa hợp,
Thích hòa hợp, trú pháp
Không rơi rớt, vượt khỏi,
An ổn khỏi khổ ách,
Kẻ tạo được hòa hợp,
Giữa Tăng chúng Tỷ-kheo,
Trọn kiếp được an vui,
Trong cảnh giới chư Thiên
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XX) (Ek II, 11) (It. 12)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Ở đây này các Tỷ-kheo, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của một người ác ý như vậy, và nếu trong thời gian này, người này mạng chung, như vậy tương xứng người này bị rơi vào địa ngục. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì tâm người ấy ác ý. Này các Tỷ-kheo, vì nhân tâm ác ý, như vậy ở đây một số loài hữu tình su khi thân hoại mạng chung bị sanh vào cõi ác, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Biết được tâm ác ý,
Của hạng người ở đời,
Ðức Phật giữa Tỷ-kheo,
Ðã nói ý nghĩa này.
Chính trong thời gian này,
Người ấy bị mạng chung,
Sẽ bị sanh địa ngục,
Vì tâm nó ác độc,
Tùy theo lấy những gì,
Tương xứng bị rơi xuống,
Như vậy được tương xứng,
Do nhân tâm ác ý,
Chúng sanh đi ác thú.

Ý nghĩa này đã được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

Phẩm III

(XXI) (Ek III, 1) (It. 13)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Ở đây, này các Tỷ-kheo, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của một người thiện ý như vậy, và nếu trong thời gian này, người này mạng chung, như vậy tương xứng, người này được sanh lên thiên giới. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì tâm người ấy thiện ý. Này các Tỷ-kheo, vì nhân tâm thiện ý, như vậy ở đây, một số loài hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Biết được tâm thiện ý,
Của hạng người ở đời,
Ðức Phật giữa Tỷ-kheo,
Ðã nói ý nghĩa này,
Chính trong thời gian này,
Người ấy bị mạng chung,
Người ấy sẽ được sanh,
Lên thiên giới thiện thú,
Vì tâm có thiện ý,
Tuỳ theo lấy những gì,
Tương xứng được lãnh thọ,
Như vậy được tương xứng.
Do nhân tâm thiện ý,
Chúng sanh đi thiện thú
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(XXII) (Ek III, 2) (It. 14)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, chớ có sợ hãi các công đức. Này các Tỷ-kheo, công đức là đồng nghĩa với an lạc, cái gì khả lạc, khả hỷ, khả ái, khả ý, tức là công đức. Này các Tỷ-kheo, Ta thắng tri thọ hưởng quả dị thục, khả lạc, khả hỷ, khả ái, khả ý trong một thời gian dài của các công đức đã làm trong một thời gian dài. Sau khi tu tập từ tâm trong bảy năm, Ta đã không trở lui lại đời này trong bảy tăng kiếp và hoại kiếp. Trong thời kỳ kiếp tăng, Ta là chư Thiên Quang Âm; Trong thời kỳ kiếp giảm, Ta sanh trong lâu đài trống không ở Phạm Thiên. Tại đấy Ta là Phạm Thiên, Ðại Phạm Thiên bậc chinh phục, bậc không bị ai chinh phục, bậc nhìn thấy tất cả, bậc có quyền lực. Này các Tỷ-kheo, ba mươi sáu lần Ta đã là Thiên chủ Ðế Thích. Nhiều trăm lần, Ta đã làm vua, vị vua Chuyển Luân, trị vì đúng pháp, bậc Pháp vương, bậc chiến thắng bốn phương, bậc đã đạt được sự an ổn trong quốc độ, bậc đầy đủ bảy báu. Còn nói gì khi Ta là vị vua ở địa phương. Này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: “Quả này là do nghiệp nào Ta đã làm, là quả dị thục của nghiệp nào mà nay, Ta được đại thần lực như vậy, đại uy lực như vậy?”. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: “Ðây là quả ba nghiệp Ta đã làm, là quả dị thục của ba nghiệp, do vậy Ta nay đựơc đại thần lực như vậy, đại uy lực như vậy. Tức là bố thí, nhiếp phục, chế ngự”.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Hãy để cho vị ấy,
Học tập về công đức,
Công đức là lạc căn,
Tối thượng trong tương lai,
Hãy tu tập bố thí,
Sống nếp sống an tịnh,
Và tu tập từ tâm.
Sau khi đã tu tập,
Các pháp này như vậy,
Tức là cả ba pháp,
Khiến an lạc sanh khởi,
Bậc Hiền trí được sanh
Trong thế giới an lạc,
Thế giới không sân hận
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(XXIII) (Ek III,3) (It. 16)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đem lại hai lợi ích, an trú ngay hiện tại và lợi ích cho tương lai.

Thế nào là một pháp? Không phóng dật trong các thiện pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là một pháp được tu tập, được làm cho sung mãn, đem lại được hai lợi ích, an trú ngay trong hiện tại và lợi ích cho tương lai.

Thế Tôn đã nói lên lợi ích này. Ở đây, điều này được nói đến.

Bậc Hiền trí tán thán,
Không phóng dật hành thiện,
Bậc Hiền không phóng dật,
Ðem lại hai lợi ích,
Lợi ích ngay đời này,
Và lợi ích tương lai
Bậc trí do thắng trí,
Chứng đắc được lợi ích,
Nên được gọi bậc trí.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(XXIV) (Ek III, 4) (It. 17)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Các xương của một người, này các Tỷ-kheo, chạy dài, lưu chuyển có thể lớn như một đồi xương, một chồng xương, một đống xương, như núi Vepulla này, nếu có người thâu người lượm xương lại, gìn giữ chúng không làm chúng hủy hoại.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây điều này được nói đến.

Chồng chất như xương người,
Chỉ sống có một kiếp,
Chất đống bằng hòn núi,
Bậc Ðại sĩ nói vậy,
Ðống xương ấy được nói,
Lớn như Vepulla,
Phía Bắc núi Linh Thứu,
Thành núi Magadha,
Người thấy bốn sự thật,
Với chân chánh trí tuệ
Khổ và khổ tập khởi
Sẽ vượt qua đau khổ
Con đường Thánh tám ngành,
Dẫn đến khổ tịnh chỉ,
Người ấy phải luân chuyển,
Tối đa là bảy lần,
Là vị đoạn tận khổ,
Ðoạn diệt mọi kiết sử.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(XXV) (Ek III, 5) (It. 18)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe.

Phàm một người nào đã vi phạm một pháp, Ta nói rằng không có ác nghiệp nào vị ấy không làm được. Thế nào là một pháp? Này các Tỷ-kheo, tức là rõ biết mà nói láo.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Người nào đã nói láo,
Là vi phạm một pháp,
Không kể đến đời sau,
Không ác gì không làm
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(XXVI) (Ek III, 6) (It. 18)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, nếu các chúng sanh có thể biết như Ta đã biết, quả dị thục của sự san sẻ bố thí họ sẽ không thụ hưởng nếu họ không bố thí và uế nhiễm xan tham không có ám ảnh tâm của họ và an trú. Dầu là miếng cuối cùng của họ, dầu là miếng ăn tối hậu, họ sẽ không thọ hưởng nếu họ không san sẻ, khi có người nhận của họ. Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu các chúng sanh không biết như Ta đã biết quả dị thục của san sẻ bố thí họ sẽ thọ hưởng, không có bố thí, và uế nhiễm xan tham ám ảnh tâm của họ và an trú.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đấy, điều này được nói đến.

Nếu các hàng chúng sanh,
Có thể biết như vậy,
Như bậc Ðại ẩn sĩ,
Ðã nói, tuyên bố lên,
Qua dị thục lớn thay,
Của san sẻ bố thí!
Nhiếp phục uế xan tham,
Với tâm thật thanh tịnh
Ðúng thời họ bố thí,
Ðối với các thánh nhân,
Tại đây bố thí vậy,
Có quả thật to lớn
Cho nhiều các thức ăn,
Kính lễ người đáng kính,
Từ đãy xả, từ bỏ,
Ðịa vị làm con người,
Các người làm bố thí
Ðược đi đến cõi Trời,
Họ đi đến cõi trời,
Tại đấy chúng hoan hỷ,
Với mọi điều sở thích,
Họ thọ hưởng như ý,
Vị không có xan tham,
Ðược thọ hưởng đầy đủ,
Quả dị thục của chúng,
Nhờ san sẻ bố thí.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XXVII) (Ek III, 7) (It. 19)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, phàm có những phước nghiệp sự nào đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp sự ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát. Chỉ có từ tâm giải thoát vượt qua chúng những nghiệp sự ấy, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.

Này các Tỷ-kheo, ví như ánh sáng của chùm sao, tất cả ánh sáng ấy không bằng một phần mười sáu ánh sáng của mặt trăng. Ánh sáng của mặt trăng vượt quả ánh sáng của chùm sao chói sáng, bừng sáng, và rực sáng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có những nghiệp vụ đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp vụ ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát. Chỉ có từ tâm giải thoát, vượt qua chúng, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.

Này các Tỷ-kheo, ví như vào tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, trên bầu trời thanh tịnh, các mây được quét sạch, mặt trời mọc lên trên bầu trời, phá tan mọi tối tăm ở hư không, chói sáng, bừng sáng và rực sáng. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, phàm có những nghiệp vụ đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp vụ ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát. Chỉ có từ tâm giải thoát, vượt qua chúng, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.

Ví như này các Tỷ-kheo, vào tháng cuối mùa mưa, vào tiết mùa thu, khi hư không mở rộng không có mây mù, mặt trời vươn thẳng lên trời không, quét sạch mọi tối tăm trên trời, chói sáng, bừng sáng và rực sáng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có những nghiệp vụ nào đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp vụ ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát. Chỉ có từ tâm giải thoát vượt qua chúng, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.

Ví như này các Tỷ-kheo, khi đêm đã gần tàn, sao mai chói sáng, bừng sáng và rực sáng. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, phàm có những nghiệp vụ nào đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp vụ ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát. Chỉ có từ tâm giải thoát vượt qua chúng, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Ai tu tập từ tâm,
Không phóng dật chánh niệm,
Các kiết sử giảm thiểu,
Nhờ thấy sanh y diệt.
Nếu tâm không độc ác,
Ðối với một hữu tình,
Với từ tâm như vậy,
Vị ấy là bậc Thiện,
Với tâm tư từ mẫn,
Ðối tất cả hữu tình,
Bậc Thánh tự tác thành,
Công đức thật vô lượng.
Ai chiến thắng quả đất,
Ðầy dẫy những hữu tình,
Bậc vua chúa chơn chánh,
Như các vị tiên nhân,
Tổ chức khắp mọi nơi,
Ðủ các loại tế đàn,
Lễ tế đàn với ngựa,
Lễ tế đàn với người,
Quăng cọc, rượu chiến thắng,
Lễ chốt cửa dẹp lại,
Họ không tác thành được
Một phần thứ mười sáu,
Với người khéo tu tập,
Tâm ý thật từ mẫn,
Như ánh sáng mặt trăng,
Thắng sáng mọi vì sao,
Ai không có giết hại,
Không khiến người giết hại,
Không có chinh phục người,
Không khiến người chinh phục,
Với tâm tư từ mẫn,
Ðối với mọi chúng sanh,
Vị ấy không hận thù,
Ðối với bất cứ ai.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

Chương Hai – Hai Pháp

Phẩm I

(XXVIII) (Duk. I, 1) (It. 22)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ hai pháp, ngay trong hiện tại, an trú đau khổ có hoạn nạn, có ưu não, có nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, chờ đợi là ác thú. Thế nào là hai? Không hộ trì các căn và không tiết độ trong ăn uống. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ hai pháp này, ngay trong hiện tại an trú đau khổ, có hoạn nạn, có ưu não, có nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, chờ đợi là ác thú.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Mắt, tai, mũi và lưỡi,
Kể cả thân và ý,
Những cửa này ở đây,
Tỷ-kheo không hộ trì,
Ăn uống không tiết độ,
Ðau khổ về thân thể,
Các căn không hộ trì,
Ðau khổ về tâm tư
Vị ấy phải thọ lãnh
Những đau khổ như vậy,
Thân thể bị thiêu đốt,
Tâm tư bị thiêu đốt,
Dầu là đêm hay ngày,
An trú khổ như vậy.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(XXIX) (Duk. I, 2) (It. 23)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ hai pháp, ngay trong hiện tại, an trú an lạc, không có hoạn nạn, không có ưu não, không có nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là thiện thú. Thế nào là hai? Hộ trì các căn và tiết độ trong ăn uống. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ hai pháp này, ngay trong hiện tại, an trú an lạc, không có hoạn nạn, không có ưu não, không có nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là thiện thú.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Mắt, tai, mũi và lưỡi,
Kể cả thân và ý,
Những cửa này ở đây,
Tỷ-kheo khéo hộ trì,
Ăn uống có tiết độ,
An lạc về thân thể,
Các căn có hộ trì,
An lạc về tâm tư,
Vị ấy được thọ lãnh
Những an lạc như vậy.
Thân không bị thiêu đốt,
Tâm không bị thiêu đốt,
Dầu là đêm hay ngày,
An trú lạc như vậy
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(XXX) (Duk. I, 3) (It. 24)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có hai pháp này làm cho nung nấu. Thế nào là hai? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người không làm điều lành, không làm điều thiện, không che chở người sợ hãi, làm điều ác, ngoan cố trong việc làm, làm điều không thiện. Người ấy bị nung nấu bởi ý nghĩ: “Ta đã làm điều ác”. Này các Tỷ-kho, hai pháp này làm cho nung nấu.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Làm xong thân ác hạnh,
Hay nói các lời ác,
Làm xong ý ác hạnh,
Hay bất cứ gì khác
Có liên hệ lỗi lầm.
Không làm các nghiệp lành,
Làm các điều bất thiện,
Khi thân hoại mạng chung,
Người có ác trí tuệ
Bị sanh vào địa ngục.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(XXXI) (Duk. I,4) (It. 25)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có hai pháp không làm cho nung nấu. Thế nào là hai? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm điều lành, làm điều thiện, che chở người sợ hãi, không làm điều ác, không ngoan cố trong việc làm, làm điều thiện. Người ấy không bị nung nấu vì nghĩ rằng: “Ta đã làm điều lành”, không bị nung nấu vì nghĩ rằng: “Ta không làm điều ác”. Này các Tỷ-kheo, hai pháp này không làm cho nung nấu.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Từ bỏ thân làm ác,
Hay nói các lời ác,
Từ bỏ ý ác hành,
Hay bất cứ gì khác
Có liên hệ lỗi lầm.
Không làm các nghiệp ác,
Làm nhiều điều thiện sự,
Khi thân hoại mạng chung,
Người có thiện trí tuệ,
Ðược sanh lên cõi trời
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(XXXII) (Duk. I,5) (It. 26)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, đầy đủ hai pháp, một người như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là hai? Ác giới và ác kiến. Này các Tỷ-kheo, đầy đủ hai pháp này, một người, như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Người nào được thành tựu,
Ðầy đủ hai pháp này,
Ðầy đủ với ác giới,
Và đầy đủ ác kiến,
Khi thân hoại mạng chung,
Người có ác trí tuệ,
Người ấy phải bị sanh,
Vào cảnh giới địa ngục.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(XXXIII) (Duk. I,6) (It. 26)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Ðầy đủ hai pháp, này các Tỷ-kheo, một người như vậy tương xứng được sanh lên thiên giới. Thế nào là hai? Giới hiền thiện và Kiến hiền thiện. Ðầy đủ hai pháp này, này các Tỷ-kheo, một người như vậy tương xứng được sanh lên thiên giới. Thế nào là hai? Giới hiền thiện và Kiến hiền thiện. Ðầy đủ hai pháp này, này các Tỷ-kheo, một người như vậy tương xứng được sanh lên thiên giới.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Người nào được thành tựu,
Ðầy đủ hai pháp này,
Ðầy đủ Giới hiền thiện,
Ðầy đủ Kiến hiền thiện
Khi thân hoại mạng chung,
Người có chánh trí tuệ,
Người ấy sẽ được sanh
Vào cảnh giới cõi trời

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(XXXIV) (Duk. I,7) (It. 27)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có nhiệt tình, không có sợ hãi, không có thể chứng được Chánh giác, không có thể chứng được Niết-bàn, không có thể chứng được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có nhiệt tình, có sợ hãi, có thể chứng được giác ngộ, có thể chứng được Niết-bàn, có thể chứng được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Người không có nhiệt tình,
Không có biết sợ hãi,
Biếng nhác, không tinh cần,
Nhiều hôn trầm thụy miên,
Không biết đến xấu hổ,
Không có lòng tôn kính,
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Không có thể đạt tới,
Tối thượng Chánh-Ðẳng-Giác.
Ai giữ được chánh niệm,
Thông minh, tu thiền định,
Nhiệt tình, biết sợ hãi,
Và không có phóng dật,
Sau khi chặt đứt được
Kiết sử sanh và già,
Ở đây có thể đạt,
Chánh Ðẳng Giác vô thượng
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XXXV) (Duk. I,8) (It. 28)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, Phạm hạnh được sống, không vì mục đích lừa dối quần chúng, không vì mục đích nịnh hót quần chúng, không vì mục đích được lợi ích, lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, nghĩ rằng: “Mong rằng quần chúng biết đến ta”. Này các Tỷ-kheo, Phạm hạnh được sống vì mục đích chế ngự và vì mục đích đoạn tận.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nghe:

Với mục đích chế ngự,
Với mục đích đoạn tận,
Không kể người nói gì,
Thế Tôn đã thuyết giảng
Về nếp sống Phạm hạnh,
Một nếp sống đưa đến
Thể nhập vào Niết-bàn,
Ðường này là con đường
Ðược các bậc Ðại nhân,
Ðược các Ðại ẩn sĩ,
Noi theo và thực hiện,
Và những ai dấn bước,
Chính trên con đường ấy,
Như đức Phật đã dạy,
Sẽ làm khổ lắng dịu,
Và thực hành làm đúng,
Như lời Ðạo sư dạy.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XXXVI) (Duk. I,9) (It. 26)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, Phạm hạnh được sống, không vì mục đích lừa dối quần chúng, không vì mục đích nịnh hót quần chúng, không vì mục đích được lợi ích, lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, nghĩ rằng: “Mong rằng quần chúng biết đến ta”. Này các Tỷ-kheo, Phạm hạnh được sống vì mục đích thắng tri, vì mục đích liễu tri.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điêù này được nói đến:

Với mục đích thắng tri,
Với mục đích liễu tri
Không kể ngưòi nói gì,
Thế Tôn đã thuyết giảng
Về nếp sống Phạm hạnh,
Một nếp sống đưa đến,
Thể nhập vào Niết-bàn,
Ðường này là con đường
Ðược các bậc Ðại nhân,
Ðược các Ðại ẩn sĩ
Noi theo và thực hiện,
Và những ai dấn bước,
Chính trên con đường ấy,
Như đức Phật đã dạy.
Sẽ làm khổ lắng dịu,
Và thực hành làm đúng,
Như lời Ðạo sư dạy.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XXXVII) (Duk. I,10) (It. 27)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Ðầy đủ hai pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngay trong hiện tại an trú với nhiều lạc hỷ, như lý nỗ lực để diệt tận các lậu hoặc. Thế nào là hai? Với sự hứng khởi đối với những trường hợp đáng phấn khởi, và như lý tinh cần đối với phấn khởi. Thành tựu hai pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngay trong hiện tại sống với nhiều lạc hỷ, như lý nỗ lực để diệt tận các lậu hoặc.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Bậc có trí phấn khởi,
Trường hợp đáng phấn khởi,
Vị Tỷ-kheo nhiệt tình,
Thông minh và cẩn trọng,
Quán xuyến nhìn sự vật,
Với trí tuệ Bát-nhã,
Nhiệt tình trú như vậy,
Sống đời sống an tịnh,
Không bồng bột hăng say,
Chú lực tâm tịnh chỉ,
Có thể đạt chứng được,
Ðoạn diệt các khổ đau.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

Phẩm II

(XXXVIII) (Duk. II, 1) (It. 31)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo. Với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, hai tầm tứ được hành trì nhiều đó là an ổn và ẩn dật. Này các Tỷ-kheo, Như Lai ưa thích không làm hại, thích thú không làm hại. Với Như Lai ấy, này các Tỷ-kheo, ưa thích không làm hại này, thích thú không làm hại này, tầm tứ này được hành trì nhiều. “Với cử chỉ uy nghi này Ta không làm hại một ai, dầu là loài động vật hay không động vật”. Này các Tỷ-kheo, Như Lai ưa thích ẩn dật, thích thú ẩn dật. Với Như Lai ấy, này các Tỷ-kheo, ưa thích ẩn dật này, thích thú ẩn dật. Với Như Lai ấy, này các Tỷ-kheo, ưa thích ẩn dật này, thích thú ẩn dật này, tầm tứ này được hành trì nhiều! Phàm có bất thiện gì, thì đều được đoạn tận. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy an trú, hân hoan trong không làm hại, thích thú trong không làm hại. Này các Tỷ-kheo, với các Thầy an trú, hân hoan trong không làm hại, thích thú trong không làm hại, tầm tứ này sẽ được hành trì nhiều. “Với cử chỉ uy nghi naỳ, chúng ta không làm hại một ai, dầu là loài động vật hay không động vật”. Này các Tỷ-kheo, hãy an trú hân hoan trong ẩn dật, thích thú trong ẩn dật. Này các Tỷ-kheo, với các Thầy an trú hân hoan trong ẩn dật, thích thú trong ẩn dật, tầm tứ này sẽ được hành trì nhiều. Còn có gì bất thiện, còn có gì chưa đoạn tận, còn có gì chúng ta phải từ bỏ nữa đâu?

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Như Lai, bậc Giác ngộ,
Bậc có thể nhẫn nại,
Những gì mà người khác,
Không có thể nhẫn nại,
Hai tầm tứ, vị ấy
Hành trì và thực hiện,
Trước hết được nói đến,
Là an ổn tầm tứ,
Thứ đến là ẩn dật,
Thứ hai được trình bày,
Phá tan màn hắc ám,
Ðã đến bờ bên kia,
Bậc Ðại sĩ đạt được,
Quyền lực không lậu hoặc,
Ðạt thân mạng tối hậu
Trong ái diệt, giải thoát.
Vị ẩn sĩ như vậy,
Chắc mang thân tối hậu,
Ta nói rằng vị ấy
Từ bỏ được kiêu mạn,
Thoát khỏi được già lão,
Ðạt được bờ bên kia.
Như đứng trên tảng đá,
Trên đỉnh núi đầu non,
Ðưa mắt nhìn xung quanh,
Quần chúng dưới chân mình,
Cũng vậy bậc Thiện tuệ,
Leo lên lầu Chánh pháp
Biến nhãn không sầu muộn,
Nhìn xuống đám quần sanh,
Bị ưu tư sầu khổ,
Bị sanh già áp bức.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XXXIX) (Duk. II, 2) (It. 33)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Có hai loại thuyết pháp của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh-Ðẳng Giác, cái này tiếp nối cái kia. Thế nào là hai? “Hãy thấy ác là ác”, đây là thuyết pháp thứ nhất. Sau khi thấy ác là ác, ở đây, “Hãy nhàm chán, hãy từ bỏ, hãy thoát ly”, đây là thuyết pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, có hai loại thuyết pháp này của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, cái này tiếp nối cái kia.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Với Như Lai, Phật Ðà,
Từ mẫn mọi chúng sanh,
Hãy thấy lời thuyết giảng,
Tuần tự pháp theo pháp,
Hai pháp được trình bày,
Một là hãy nhìn rõ,
Pháp ác là pháp ác
Và chính tại ở đây,
Từ bỏ, không tham đắm.
Từ đây, không tham đắm,
Hãy làm cho an tịnh,
Mọi khổ đau phiền não
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XL) (Duk. II, 3) (It. 34)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, vô minh đi trước, làm cho đạt được các pháp bất thiện; tiếp theo là không xấu hổ, không sợ hãi. Này các Tỷ-kheo, minh đi trước, làm cho đạt được các pháp thiện; tiếp theo là xấu hổ và sợ hãi.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Phàm có ác thú gì,
Ðời này và đời sau,
Tất cả do vô minh,
Làm gốc, làm cội rễ,
Dục tham được cất chứa,
Vì rằng kẻ ác dục,
Không xấu hổ, không kính,
Từ đó nó khởi ác,
Do vậy đi đọa xứ.
Vậy hãy nên từ bỏ,
Dục tham và vô minh,
Muốn minh được sanh khởi,
Tỷ-kheo cần từ bỏ
Tất cả mọi ác thú.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XLI) (Duk. II, 4) (It. 35)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, những chúng sanh nào bị thối đọa khỏi Thánh trí tuệ, những chúng sanh ấy là khéo thối đọa, ngay trong hiện tại, họ an trú trong đau khổ, với tàn hại, với ưu não, với nhiệt não. Sau khi thân hoại mạng chung, chờ đợi là ác thú. Này các Tỷ-kheo, những chúng sanh nào không bị thối đọa khỏi Thánh trí tuệ, những chúng sanh ấy không có thối đọa. Ngay trong hiện tại, họ an trú trong an lạc, không có tàn hại, không có ưu não, không có nhiệt não. Sau khi thân hoại mạng chung, chờ đợi là thiện thú.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Thối đọa khỏi trí tuệ,
Hãy nhìn xem, thế giới
Với hàng ngũ chư Thiên,
An trú trong danh sắc,
Nghĩ rằng: “Ðây sự thật”
Nhưng thù thắng ở đời,
Lại chính là trí tuệ,
Chính tuệ dắt dẫn đến
Thể nhập được Niết-bàn,
Và chơn chánh quán tri,
Sự hoại diệt sanh hữu,
Chư Thiên và loài Người,
Hoan hỷ được chiêm ngưỡng,
Chư Phật Chánh Ðẳng Giác,
Những bậc giữ chánh niệm,
Ðầy đủ với trí tuệ,
Mang thâm này cuối cùng.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XLLII) (Duk. II, 5) (It. 36)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có hai pháp trắng này che chở cho đời. Thế nào là hai? Xấu hổ và sợ hãi. Này các Tỷ-kheo, nếu hai pháp này không che chở cho đời, thời ở đây không có sự phân biệt giữa mẹ, chị em của mẹ, vợ của anh em của mẹ hay giữa vợ của bậc giáo thọ sư, giữa những người vợ của những bậc đáng được kính trọng; thế giới sẽ rơi vào loạn luân như các loài dê cừu, gia cầm, heo, chó và các con chó rừng. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có hai pháp trắng này che chở cho đời, cho nên ở đây có sự phân biệt giữa mẹ, chị em của mẹ, vợ của anh em của mẹ, hay vợ của bậc giáo thọ sư, giữa những người vợ của những bậc đáng được kính trọng.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Với những ai không có,
Xấu hổ và sợ hãi,
Liên tục và thường xuyên,
Họ đi xuống bào thai,
Dựa trên gốc tinh dịch
Họ đi đến sanh tử,
Với những ai chánh trí,
Xấu hổ và sợ hãi,
Liên tục và thường xuyên,
Vững trú trên Phạm hạnh,
Họ được sự an tịnh,
Tái sanh được diệt tận.

ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XLIII) (Duk. II, 6) (It. 37)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có hai cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành, không làm ra. Này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành, không làm ra, thì ở đây không thể trình bày được sự xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện hữu, khỏi tác thành, khỏi làm ra. Do vì, này các Tỷ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành, không làm ra, nên có thể trình bày được sự xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện hữu, khỏi tác thành, khỏi làm ra.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Có cái sanh, hiện hữu,
Cái khởi lên làm ra,
Hữu vi không thường hằng,
Tác thành ra già chết,
Một ổ của bệnh hoạn,
Mỏng manh, giòn, dễ vỡ,
Nhờ đồ ăn nuôi dưỡng,
Nên mới được hiện hữu,
Vật ấy thật không đủ
Ðể hoan hỷ ưa thích,
Thật có cái xuất ly,
Ra khỏi được cái ấy,
Thật có vượt lý luận,
Thường hằng, không sanh khởi,
Không có cái khởi lên,
Con đường không cấu uế,
Không đưa đến sầu muộn,
Ðoạn diệt các pháp khổ,
Sự tịnh chỉ mọi hành,
An lạc thật tịnh lạc.

Ý nghĩa này đã được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XLIV) (Duk. III, 7) (It. 38)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có hai Niết-bàn giới này. Thế nào là hai? Niết-bàn giới có dư y và Niết-bàn giới không có dư y.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Niết-bàn giới có dư y? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử đã diệt, đã giải thoát nhờ chánh trí. Trong vị ấy, năm căn còn tồn tại, ngang qua các căn ấy, vị ấy hưởng thọ khả ý, không khả ý vì rằng tự ngã không có thương hại cảm giác lạc khổ. Với vị ấy, tham diệt, sân diệt, si diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Niết-bàn có dư y.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Niết-bàn giới không có dư y? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử đã diệt, đã giải thoát nhờ chánh trí. Ở đây, đối vị ấy, mọi cảm thọ đều không có hoan hỷ ưa thích, sẽ được lắng dịu. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Niết-bàn không có dư y. Này các Tỷ-kheo có hai Niết-bàn giới này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này, ở đây điều này được nói đến.

Hai Niết-bàn giới này,
Ðược vị có pháp nhãn,
Trình bày và thuyết giảng,
Không y tựa như vậy,
Một loại Niết-bàn giới,
Ở đây, thuộc hiện tại
Còn có các dư y,
Nuôi dưỡng hữu bị diệt.
Không dư y Niết bàn,
Lại thuộc về tương lai,
Với vị đạt giới này,
Mọi hữu diệt hoàn toàn.
Những ai với chánh trí,
Biết con đường vô vi,
Tâm tư được giải thoát,
Nuôi dưỡng hữu bị diệt,
Những ai chứng đạt được
Gốc lõi của các pháp,
Hoan hỷ trong diệt tận,
Những vị ấy như vậy,
Ðã từ bỏ hoàn toàn,
Tất cả mọi sanh hữu
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XLV) (Duk. II, 8) (It 39)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, hãy sống ưa muốn ẩn dật thiền định, thích thú ẩn dật thiền định, chuyên chú nội tâm tịnh chỉ, không gián đoạn thiền tịnh, thành tựu quán tri, hành trì hạnh đi đến các ngôi nhà trống. Này các Tỷ-kheo sống ưa muốn ẩn dật thiền định, thích thú ẩn dật thiền tịnh, chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ, không gián đoạn thiền tịnh, thành tựu quán trí, hành tri hạnh đi đến các ngôi nhà trống, thời được chờ đợi là một trong hai quả này: ngay trong hiện tại được chánh trí, hay nếu có dư y, được quả Bất Lai.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Những ai tâm an tịnh,
Thông minh và thận trọng,
Chánh niệm tu thiền định,
Quán nhìn pháp chơn chánh,
Không chờ đợi ham muốn,
Ðối với các loại dục,
Ưa muốn không phóng dật,
Sống an tịnh có mặt,
Thấy được sự sợ hãi,
Trong nếp sống phóng dật,
Họ không bị thối đọa,
Họ đến gần Niết bàn
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XLVI) (Duk. II, 9) (It. 40).

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, hãy an trú cho lợi ích của học tập, cho trí tuệ tối thượng, cho lõi cây giải thoát, cho niệm được tăng thượng. Này các Tỷ-kheo, an trú cho lợi ích của học tập, cho trí tuệ tối thượng, cho lõi cây giải thoát, cho niệm được tăng thượng, thời được chờ đợi là một trong hai quả này: được chánh tri ngay trong hiện tại, hay nếu có dư y, chứng được Bất-lai.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Bậc hữu học viên mãn,
Không còn bị thối đọa,
Ðạt tối thượng trí tuệ,
Thấy sanh được diệt tận.
Ta nói chắc chắn rằng,
Ẩn sĩ Mâu-ni ấy,
Mang sắc thân cuối cùng.
Ðã từ bỏ kiêu mạn,
Ðã vượt qua bờ kia,
Thoát khỏi sự già yếu.
Do vậy hãy luôn luôn,
Vui trong thiền, thiền định,
Nhiệt tâm và nỗ lực,
Thấy sanh được diệt tận,
Hỡi này các Tỷ-kheo,
Hãy nhiếp phục ma quân,
Tu tập vượt qua được,
Thoát khỏi sự già chết.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LVIII) (Duk. II, 10) (It. 41)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phải sống cảnh giác, chánh niệm, tỉnh giác, thiền định, hoan hỷ, tín thành, và ở đây quán tri đúng thời trong các pháp thiện. Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo sống cảnh giác, chánh niệm, tỉnh giác, thiền định, hoan hỷ, tín thành, quán tri đúng thời trong các pháp thiện, thời được chờ đợi là một trong hai quả này: Ðược chánh tri ngay trong hiện tại, hay nếu có dư y, chứng được Bất lai.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Hỡi các bậc cảnh giác,
Hãy lắng nghe điều này,
Những ai còn nằm ngủ,
Hãy thức dậy tỉnh thức,
Thức tỉnh là tốt hơn,
Hơn kẻ đang nằm ngủ,
Ðối với người thức tỉnh,
Không có sự sợ hãi,
Người thức tỉnh, thức giấc,
Chánh niệm và tỉnh giấc,
Thiền định, tâm hoan hỷ,
Nhiệt tình đầy tín thành,
Chơn chánh biết thời giờ,
Thắng quán đến Chánh pháp,
Ðạt được sự nhất tâm,
Quét sạch mọi tăm tối.
Do vậy hãy tu tập,
Thức tỉnh và nhiệt tình,
Vị Tỷ-kheo thông minh,
Thận trọng, chứng cảnh thiền,
Chặt đứt các kiết sử,
Trói buộc sanh với già,
Chính tại ở đời này,
Chứng chánh giác Vô thượng
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XLVIII) (Duk. II, 11) (It. 42)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người bị đọa lạc, bị đọa vào địa ngục nếu họ không đoạn tận lỗi lầm của họ. Thế nào là hai? Ai sống phi Phạm hạnh, lại tự cho sống Phạm hạnh. Ai đối với người sống Phạm hạnh viên mãn, thanh tịnh, lại buộc tội chỉ trích là phi Phạm hạnh không có căn cứ. Này các Tỷ-kheo, hai hạng người này bị đọa lạc, bị đọa vào địa ngục, nếu họ không đoạn tận lỗi lầm của họ.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Ai nói lời không chơn,
Rơi vào cõi địa ngục,
Ai sau khi đã làm,
Lại nói tôi không làm,
Cả hai sau khi chết,
Ðều đồng đẳng như nhau,
Họ đều là những người,
Làm các nghiệp hạ liệt,
Thuộc về cảnh đời sau,
Lại có rất nhiều người,
Tuy mang áo cà-sa,
Họ không có chế ngự,
Ðối với các pháp ác,
Do họ làm nghiệp ác,
Họ phải sanh địa ngục,
Tốt hơn đối với họ,
Là nuốt cục sắt tròn
Cháy đỏ như đống lửa,
Còn hơn kẻ ác giới,
Không biết có chế ngự,
Nếu có ăn dùng gì,
Các món ăn quốc độ.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XLIX) (Duk. II, 12) (It. 43)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, chư Thiên và loài Người bị xâm chiếm bởi hai tà kiến, một số người chấp chặt, một số người đi quá trớn, một số người có mắt thấy được.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là một số người chấp chặt? Này các Tỷ-kheo, có chư Thiên và loài Người ưa muốn sanh hữu, khi các pháp đoạn diệt sanh hữu được giảng cho họ, tâm họ không có phấn khởi, không có tín thành, không có an trú, không có bị lôi cuốn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đó là một số người chấp chặt.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là một số người đi quá trớn? Nhưng có một số người lo âu, xấu hổ, nhàm chán với sanh hữu, hoan hỷ, phi sanh hữu. Họ nói: “Vì rằng khi thân hoại mạng chung, tự ngã này bị chặt đứt, bị hoại diệt, không có tồn tại sau khi chết. Quan điểm này là thiết thực, là thù thắng, là chân thật”. Như vậy này các Tỷ-kheo, đó là một số người đi quá trớn.

Và này các Tỳ Kheo, thế nào là một số có mắt được thấy? Ở đây, Tỷ-kheo thấy sự sanh hữu là sanh hữu, sau khi thấy sự sanh hữu, vị ấy hướng đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt. Như vậy này các Tỷ-kheo, đó là những người có mắt được thấy.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Những ai đã thấy được
Sanh hữu là sanh hữu,
Thấy được sự vượt qua
Của sự sanh hữu ấy.
Những vị ấy giải thoát,
Ðối như thật hiện hữu,
Vì nhờ đoạn diệt được
Tham ái đối sanh hữu.
Nếu vị ấy liễu tri,
Sanh hữu là sanh hữu,
Vị ấy ly tham ái
Ðối hữu và phi hữu,
Tỷ-kheo quyết phi hữu,
Ðối với chính sanh hữu,
Sẽ không còn đi đến
Sanh đi rồi sanh lại.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

Chương Ba – Ba Pháp

Phẩm I

(L) (Tik. I, 1) (It. 45)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba căn bản bất thiện này. Thế nào là ba? Tham là căn bản bất thiện; Sân là căn bản bất thiện; Si là căn bản bất thiện. Này các Tỷ-kheo, có ba căn bản bất thiện này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Tham, sân, si làm hại,
Người có tâm ác độc,
Họ tự mình hiện hữu,
Như giả từ lõi, vỏ.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LI) (Tik. I, 2) (It. 45)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba giới này. Thế nào là ba? Sắc giới, vô sắc giới, diệt giới. Này các Tỷ-kheo, có ba giới này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Ai liễu tri sắc giới,
Không an trú vô sắc,
Những ai được giải thoát,
Ðối với đoạn diệt giới,
Các chúng sanh như vậy,
Xả ly được thần chết,
Với thân cảm giác được,
Bất tử, không sanh y,
Xả ly, từ bỏ hẳn,
Sanh y đưa đến hữu,
Sau khi tự chứng được,
Không còn có lậu hoặc,
Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác,
Thuyết pháp con đường chánh,
Không có gì sầu muộn,
Trong sạch không cấu uế.

Ý nghĩa này đã được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LII) (Tik. I, 3) (It. 46)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba cảm thọ này. Thế nào là ba? Lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ. Này các Tỷ-kheo, có ba cảm thọ này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Ðịnh tĩnh và tỉnh giác,
Chánh niệm đệ tử Phật,
Quán tri các cảm thọ,
Và hiện hữu các thọ.
Tại đấy, tâm được diệt,
Con đường đưa đến diệt,
Tỷ-kheo nhờ diệt thọ,
Không ham muốn, tịch tịnh
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LIII) (Tik. I, 4) (It. 47)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba cảm thọ này. Thế nào là ba? Lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ. Này các Tỷ-kheo, lạc thọ cần phải được xem như là khổ. Khổ thọ cần phải được xem như là mũi tên. Bất khổ bất lạc thọ cần phải được xem như là vô thường. Vì rằng này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã xem lạc thọ như là khổ, đã xem khổ thọ như là mũi tên, đã xem bất khổ bất lạc thọ như là vô thường, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này gọi là bậc Thánh đã chơn chánh thấy, đã chặt đứt ái, đã giải toả kiết sử đã chơn chánh thắng tri mạn, đã đoạn tận khổ đau.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Ai thấy lạc là khổ,
Thấy khổ là mũi tên,
Thấy bất khổ bất lạc
Thọ ấy là vô thường,
Tỷ-kheo ấy thật sự
Ðã thấy thật chơn chánh,
Chính tại ở nơi đây,
Từ đấy được giải thoát.
Thành tựu được thắng trí,
Bậc ẩn sĩ an tịnh
Chắc chắn đã vượt qua
Các ách nạn trói buộc
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LIV) (Tik. I, 5) (It. 48)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba tầm cầu này. Thế nào là ba? Dục tầm cầu, hữu tầm cầu, Phạm hạnh tầm cầu. Này các Tỷ-kheo, có ba tầm cầu này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Ðịnh tĩnh và tỉnh giác,
Chánh niệm đệ tử Phật,
Quán tri các tầm cầu,
Và hiện hữu tầm cầu,
Ở đây, tâm ấy diệt.
Và con đường đến diệt.
Tỷ-kheo do diệt tận,
Các loại tầm cầu ấy,
Không còn có ước muốn
Ðược lắng dịu tịch tịnh
.

Ý nghĩa này đã được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LV) (Tik. I, 6) (It. 48)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba tầm cầu này. Thế nào là ba? Dục tầm cầu, hữu tầm cầu, Phạm hạnh tầm cầu. Này các Tỷ-kheo, có ba tầm cầu này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Dục và hữu tầm cầu,
Cùng Phạm hạnh tầm cầu
Nếu chấp trước nắm giữ
Chính đây là sự thật,
Như vậy là chất chứa,
Ðủ mọi loại kiến xứ,
Với ai không ham muốn
Ðối với các loại tham,
Vị ấy được giải thoát,
Nhờ diệt được khả ái,
Tầm cầu được từ bỏ,
Kiến xứ được nhổ lên,
Tỷ-kheo do diệt tận
Các loại tầm cầu ấy,
Không còn có mong cầu,
Không còn có nghi hoặc.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LVI) (Tik. I, 7) (It. 49)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba lậu hoặc này. Thế nào là ba? Dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Này các Tỷ-kheo, có ba lậu hoặc này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Ðịnh tĩnh và tỉnh giác
Chánh niệm đệ tử Phật,
Quán tri các lậu hoặc,
Và hiện hữu lậu hoặc,
Ở đây tâm được diệt,
Và con đường đến diệt,
Tỷ-kheo đã diệt tận,
Các loại lậu hoặc ấy,
Không còn có ước muốn,
Ðược lắng dịu, tịch tịnh
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LVII) (Tik. I,8) (It. 49)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba loại lậu hoặc này. Thế nào là ba? Dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Này các Tỷ-kheo, có ba lậu hoặc này. Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, ý nghĩa này được nói đến.

Ai đoạn trừ dục lậu,
Ly tham thoát vô minh,
Hữu lậu được đoạn trừ,
Giải thoát khỏi sanh y,
Mang cái thân cuối cùng,
Dẹp tan cỗ xe ma.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LVIII) (Tik. I, 9) (It. 50)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba khát ái này. Thế nào là ba? Dục ái, hữu ái, phi hữu ái. Này các Tỷ-kheo, có ba khát ái này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, ý nghĩa này được nói đến.

Trói buộc bởi ái triền,
Tâm ưa hữu, phi hữu,
Bị ma triền trói buộc,
Chúng sanh ấy không được,
An ổn khỏi ách nạn.
Chúng sanh đi luân chuyển,
Ðến sanh rồi đến chết.
Những ai đoạn được ái,
Ly ái hữu, phi hữu,
Họ đến bờ bên kia,
Trong thế giới hiện tại,
Họ đã chứng đạt được,
Các lậu hoặc đoạn tận
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LIX) (Tik. I, 10) (It. 50).

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Thành tựu với ba pháp, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo vượt qua được thế lực của Ác ma, và chói sáng như mặt trời. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thành tựu vô học giới uẩn, thành tựu vô học định uẩn, thành tựu vô học tuệ uẩn. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo vượt qua được thế lực của Ác-ma, và chói sáng như mặt trời.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Giới, định và trí tuệ,
Với ai khéo tu tập,
Vị ấy vượt qua khỏi
Thế lực của Ác ma,
Và chói sáng rực sáng,,
Như mặt trời chói sáng
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

Phẩm II

(LX) (Tik. II, 1) (It. 51)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba phước nghiệp sự này. Thế nào là ba? Phước nghiệp sự do bố thí tác thành, phước nghiệp sự do giới tác thành, và phước nghiệp do sự tu tập tác thành. Này các Tỷ-kheo, có ba phước nghiệp sự này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Hãy để cho người ấy,
Học tập làm công đức,
Hướng dẫn đến tương lai
Ðem lại căn an lạc.
Hãy tu tập bố thí,
Tập sở hành an tịnh,
Và tu tập từ tâm,
Tu xong ba pháp ấy,
Những pháp khởi lạc thọ.
Bậc Hiền trí được sanh,
Tại thế giới an lạc,
Không phiền não hận thù
.

Ý nghĩa này đã được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LXI) (Tik. II, 2) (It. 52)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba con mắt này. Thế nào là ba? Mắt thịt, mắt chư Thiên và mắt trí tuệ. Này các Tỷ-kheo có ba loại mắt này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Mắt thịt, mắt chư Thiên,
Vô thượng mắt trí tuệ,
Có ba loại mắt ấy,
Ðược bậc Vô thượng nhân,
Ðã tuyên bố trình bày,
Sanh khởi của mắt thịt,
Con đường mắt chư Thiên,
Từ đấy, trí khởi lên,
Tuệ nhãn là tối thượng,
Ai chứng được mắt ấy,
Giải thoát mọi đau khổ.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LXII) (Tik. II, 3) (It. 53)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba căn này. Thế nào là ba? Vị tri đương tri căn, tri căn, cụ tri căn (căn: “Tôi sẽ biết điều chưa được biết”; căn về sự biết; căn của người đã biết). Này các Tỷ-kheo, có ba loại căn này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Vị hữu học học tập,
Ði theo con đường thẳng,
Ở trong sự diệt tận,
Trí thứ nhất khởi lên,
Từ đó không gián đoạn,
Tiếp theo là chơn trí,
Chính từ chơn trí ấy,
Ðạt được sự giải thoát
Chắc chắn vị như vậy,
Là vị có chánh trí,
Giải thoát ta bất động,
Nhờ diệt hữu kiết sử,
Vị đầy đủ các căn
Chắc chắn được an tịnh,
Và ưa thích con đường,
Ðưa đến sự an tịnh,
Mang thân thể cuối cùng,
Sau khi đánh bại được
Ác ma với con voi
Ðược cỡi khi lâm trận
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LXIII) (Tip. II, 4) (It. 53)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba thời gian này. Thế nào là ba? Thời gian quá khứ, thời gian tương lại, thời gian hiện tại. Này các Tỷ-kheo, có ba thời gian này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Chúng sanh cần tưởng đến
Những gì được tuyên bố,
An trú thật vững vàng,
Trên điều được tuyên bố
Nếu không có liễu tri,
Ðiều đáng được tuyên bố,
Họ đi đến ách nạn,
Dưới ách của thần chết.
Nếu đã liễu tri được
Ðiều đáng được tuyên bố,
Vị ấy không nghĩ đến,
Ðiều đã được nói lên,
Chính nhờ có tâm ý,
Giải thoát được cảm giác,
Về con đường an tịnh
Vô thượng không gì hơn.
Ai thật được đầy đủ,
Về điều đáng tuyên bố,
Tự mình được an tịnh,
Ưa thích đường an tịnh,
Sống bình tĩnh tinh tấn.
An trú trên chánh pháp,
Vị ấy vượt tên gọi,
Thành đạt được trí tuệ.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LXIV) (Tik. II, 5) (It. 54)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba ác hành này. Thế nào là ba? Thân ác hành, ngữ ác hành, ý ác hành. Này các Tỷ-kheo, có ba ác hành này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Làm ác hạnh về thân,
Làm ác hạnh về lời,
Làm ác hạnh về ý,
Và bất cứ hạnh gì,
Ðều được gọi hạnh ác,
Không làm nghiệp lành nào,
Làm nhiều nghiệp không thiện,
Khi thân hoại mạng chung,
Với trí tuệ hạ liệt,
Vị ấy phải sanh vào
Trong cảnh giới địa ngục
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LXV) (Tik. II, 6) (It. 55)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba thiện hành này. Thế nào là ba? Thân thiện hành, ngữ thiện hành, ý thiện hành. Này các Tỷ-kheo, có ba thiện hành này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Từ bỏ thân làm ác,
Từ bỏ lời nói ác,
Từ bỏ ý nghĩ ác,
Và bất cứ hạnh gì,
Ðược gọi là hạnh ác,
Không làm các điều ác,
Làm nhiêù những hạnh lành,
Khi thân hoại mạng chung,
Với trí tuệ thù thắng,
Vị ấy được sanh lên,
Trong cảnh giới chư Thiên
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LXVI) (Tik. II, 7) (It. 55)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba thanh tịnh này. Thế nào là ba? Thân thanh tịnh, lời thanh tịnh, ý thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, có ba thanh tịnh này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Thân và lời thanh tịnh
Và ý cũng thanh tịnh,
Không có các lậu hoặc,
Ðầy đủ sự thanh tịnh,
Vị như vậy được gọi
Ðã từ bỏ tất cả
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LXVII) (Tik. II, 8) (It. 56)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba trầm lặng này. Thế nào là ba? Thân trầm lặng, lời trầm lặng, ý trầm lặng. Này các Tỷ-kheo, có ba trầm lặng này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Thân và lời trầm lặng
Và ý cũng trầm lặng,
Không có các lậu hoặc,
Ðầy đủ với trầm lặng
Của các bậc chân ẩn sĩ,
Ðuợc tên gọi là vị
Ðã tắm sạch điều ác
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LXVIII) (Tik. II, 9) (It. 56)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, với ai tham chưa đoạn tận, sân chưa đoạn tận, si chưa đoạn tận. Này các Tỷ-kheo, người ấy được gọi là người bị trói buộc với Ác ma, bị bẫy lưới của Ác ma bao trùm, bị làm theo ý Ác ma muốn. Này các Tỷ-kheo, với ai tham đã đoạn tận, sân đã đoạn tận, si đã đoạn tận, này các Tỷ-kheo, người ấy được gọi là người không trói buộc với Ác ma, được thoát khỏi bẫy lưới của Ác ma, không bị làm theo Ác ma muốn.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến

Với ai đã từ bỏ
Tham, sân và vô minh,
Vị ấy được gọi là
Ðã tu tập tự ngã,
Ðã trở thành Phạm Thiên
Bậc Như Lai, Phật-đà,
Bậc đã vượt qua được,
Hận thù và sợ hãi,
Bậc đoạn tận tất cả,
Ðược gọi danh như vậy
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LXIX) (Tik. II, 10) (It. 57)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Với Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào, này các Tỷ-kheo, tham chưa đoạn tận, sân chưa đoạn tận, si chưa đoạn tận; này các Tỷ-kheo, vị ấy được gọi là vị chưa vượt qua đại dương, với sóng biển, với sóng ngầm, với nước xoáy, với cá mập, với các loài La-sát. Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo ni nào, tham đã đoạn tận, sân đã đoạn tận, si đã đoạn tận; này các Tỷ-kheo, vị ấy được gọi là: “Ðã vượt qua đại dương, với sóng biển, với sóng ngầm, với nước xoáy, với cá mập, với các loài la-sát, đã vượt qua bờ kia, là vị Bà-la-môn đã đứng trên đất liền.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Với ai đã từ bỏ
Tham, sanh và vô minh,
Vị ấy được gọi là
Ðã vượt qua biển này,
Với cá mập, Dạ-xoa,
Với sóng biển hãi hùng,
Rất khó được vượt qua,
Là vị vượt ác triền,
Ðã từ bỏ thần chết,
Không còn có sanh y,
Ðã từ bỏ đau khổ,
Không còn có tái sanh,
Ðã đi đến mục đích,
Không thể ước lượng được,
Ta nói rằng vị ấy
Làm ma vương si ám.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

Phẩm III

(LXX) (Tik. III, 1) (It. 58)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Ta đã thấy, này các Tỷ-kheo, các chúng sanh thành tựu thân làm ác, thành tựu lời nói ác, thành tựu ý nghĩ ác, chỉ trích các bậc Thánh, có tà kiến, chấp nhận các nghiệp bị tà kiến chi phối. Sau khi thân hoại mạng chung, họ bị sanh vào cõi dữ, ác thú đọa xứ, địa ngục. Này các Tỷ-kheo, sau khi không nghe một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác nói lên, Ta nói nên lời nói này: “Này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy các chúng sanh thành tựu thân làm ác, thành tựu lời nói ác, thành tựu ý nghĩ ác, chỉ trích các bậc Thánh, có tà kiến, chấp nhận các nghiệp bị tà kiến chi phối, sau khi thân hoại mạng chung, chúng phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục”. Và này các Tỷ-kheo, vì rằng Ta tự mình biết, tự mình thấy, tự mình tìm ra, nên Ta tuyên bố rằng: “Này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy các chúng sanh, thành tựu thân làm ác, thành tựu lời nói ác, thành tựu ý nghĩ ác, chỉ trích các bậc Thánh, có tà kiến, chấp nhận các nghiệp bị tà kiến chi phối, sau khi thân hoại mạng chung, họ phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục”.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Dẫn ý vào đường tà
Nói những lời tà ngữ,
Với thân làm nghiệp tà,
Người ở đời làm vậy.
Ít nghe, ít học hỏi,
Không làm các công đức,
Ở đây sống trong đời,
Với sanh mạng ít oi,
Khi thân hoại mạng chung,
Người ấy với liệt tuệ,
Bị sanh vào địa ngục
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LXXI) (Tik, III, 2) (It. 59)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Ta đã thấy, này các Tỷ-kheo, các chúng sanh thành tựu thân làm thiện, thành tựu nói lời thiện, thành tựu ý nghĩ thiện, không chỉ trích các bậc Thánh, có chánh kiến, chấp nhận các nghiệp được chánh kiến chi phối, sau khi thân hoại mạng chung, họ được sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Này các Tỷ-kheo, sau khi không nghe một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác nói lên, Ta nói lên lời nói này: “Này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy các chúng sanh thành tựu thân làm thiện, thành tựu lời nói thiện, thành tựu ý nghĩa thiện không chỉ trích các bậc Thánh, có chánh kiến, chấp nhận các nghiệp được chánh kiến chi phối, sau khi thân hoại mạng chung, họ được sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này”. Và này các Tỷ-kheo, vì rằng Ta tự mình biết, tự mình thấy, tự mình tìm ra, nên Ta tuyên bố rằng: “Này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy các chúng sanh, thành tựu thân làm thiện, thành tựu lời nói thiện, thành tựu ý nghĩ thiện, không chỉ trích các bậc Thánh, có chánh kiến, chấp nhận các nghiệp được chánh kiến chi phối, sau khi thân hoại mạng chung, họ sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này”.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Dẫn ý vào đường chánh,
Nói những lời chánh ngữ,
Với thân làm nghiệp chánh,
Người ở đời làm vậy.
Nghe nhiều học hỏi nhiều
Làm các việc công đức,
Ở đây sống trong đời,
Với sanh mạng ít oi,
Khi thân hoại mạng chung,
Người ấy với trí tuệ.
Người ấy làm như vậy,
Ðược sanh lên cõi Trời
.

Ý nghĩa này đã được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LXXII) (Tik, III, 3) (It. 60)

Ðiều này được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba xuất ly giới này. Thế nào là ba? Sự xuất ly này khỏi các dục, tức là viễn ly. Sự xuất ly này khỏi các sắc, tức là vô sắc. Sự đoạn diệt cái gì được hiện hữu, được làm ra, được duyên khởi, là sự xuất ly cái ấy. Này các Tỷ-kheo, có ba xuất ly giới này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Biết được xuất ly dục,
Vượt qua được các sắc,
Tịnh chỉ tất cả hành,
Luôn luôn cảm nhiệt tình,
Tỷ-kheo ấy thấy chánh,
Từ đấy, chính ở đây,
Vị ấy được giải thoát,
Thắng trí được viên thành,
Sống nếp sống an tịnh
Vị ấy sống như vậy,
Thật sự là ẩn sĩ,
Ðã vượt khỏi các ách
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(LXXIII) (Tik. III, 4) (It. 61)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, các pháp vô sắc an tịnh tốt hơn các sắc pháp; đoạn diệt an tịnh tốt hơn các pháp vô sắc.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Chúng sanh đi đến sắc,
Có chúng trú vô sắc,
Không quán tri đoạn diệt,
Họ đi đến tái sanh.
Những ai liễu tri sắc,
Không an trú vô sắc,
Chính trong sự đoạn diệt,
Họ đạt được giải thoát,
Các hạng người như vậy,
Họ bỏ rơi thần chết.
Với thân cảm xúc được,
Bất tử không sanh y,
Sanh y được xả ly,
Chứng được, không lậu hoặc,
Vị Chánh đẳng Chánh giác,
Thuyết giảng về con đường
Con đường không sầu muộn
Con đường không cấu uế.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe:

(LXXIV) (Tik. III, 5) (It. 62)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, các ba hạng con trai này xuất hiện, có mặt ở đời. Thế nào là ba? Ưu sanh, tùy sanh, liệt sanh.

Và này các Tỷ-kheo. Thế nào là ưu sanh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, cha mẹ của người con không quy y Phật, không quy y Pháp, không quy y Tăng, không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà hạnh trong các dục, không từ bỏ nói láo, không từ bỏ đắm say rượu men rượu nấu, ác giới theo ác pháp. Còn người con của họ quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men rượu nấu, giữ giới, theo pháp lành. Như vậy, này các Tỷ-kheo, người con ấy được ưu sanh.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào người con trai tùy sanh? Ở đây này các Tỷ-kheo, cha mẹ của người con quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men rượu nấu, giữ giới, theo các pháp lành. Người con trai của họ cũng quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men rượu nấu, giữ giới, theo các pháp lành. Như vậy này các Tỷ-kheo, là người con tùy sanh.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người con trai liệt sanh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, cha mẹ của người con trai này quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu, giữ giới, theo các pháp lành. Và người con của họ không quy y Phật, không quy y Pháp, không quy y Tăng, không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà hạnh trong các dục, không từ bỏ nói láo, không từ bỏ đắm say rượu men rượu nấu, ác giới, theo ác pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người con liệt sanh. Này các Tỷ-kheo, có ba hạng con trai này có mặt, xuất hiện ở đời.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Bậc Hiền trí ước muốn,
Con trai ưu, tùy sanh,
Không ước muốn liệt sanh,
Một gánh nặng gia đình,
Ðời có những con này,
Trở thành nam cư sĩ,
Sống đầy đủ tín giới,
Biết nghe lời người khác,
Xa lìa sự xan tham.
Những người con như vậy,
Như trăng thoát đám mây,
Chói sáng giữa hội chúng
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LXXV) (Tik. III, 6) (It. 64)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là ba? Hạng người như hạn hán, hạng người như chỉ mưa trong địa phương và hạng người như mưa đổ xuống khắp tất cả.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người như hạn hán? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người không bố thí cho ai cả, không cho đồ ăn, đồ uống, vải, xe cộ, vòng hoa, hương, dầu xoa, sàng tọa, đèn đuốc cho Sa-môn, Bà-la-môn, cho các người ăn xin nghèo khổ khốn cùng. Này các Tỷ-kheo, hạng người như vậy như hạn hán không mưa.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người như chỉ mưa trong địa phương? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người có bố thí cho một số người, nhưng không bố thí cho một số người. Dầu số người đó là Sa-môn, Bà-la-môn hay các người ăn xin nghèo khổ, khốn cùng, họ không bố thí đồ ăn đồ uống, vải, xe cộ, vòng hoa, hương dầu xoa, sàng tọa, đèn đuốc. Này các Tỷ-kheo, hạng người như vậy là hạng người như mưa chỉ trong địa phương.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người như mưa đổ xuống khắp tất cả? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người cho tất cả mọi người, cho đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, dầu xoa, sàng tọa, đèn đuốc, cho các người Sa-môn, Bà-la-môn cho các người ăn xin nghèo đói khốn cùng. Này các Tỷ-kheo, có ba hạng người này, có mặt, hiện hữu ở đời.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Không cho hạng Sa-môn,
Không cho Bà-la-môn,
Không cho kẻ khốn cùng,
Không cho người ăn xin
Không san sẻ cho người,
Những đồ thâu hoạch được,
Như đồ ăn, đồ uống,
Cùng các vật thực khác,
Hạng ấy thật giống như,
Hạn hán không mưa móc,
Hạng người ấy được gọi
Là hạng người hạ liệt.

Không cho một hạng người,
Chỉ lựa cho một số,
Hạng ấy được Hiền trí,
Gọi là những hạng người
Chỉ mưa tại địa phương,
Không mưa tại chỗ khác.

Hạng người mưa bố thí,
Cùng khắp tất cả chỗ,
Có lòng thương từ mẫn,
Ðối với mọi loại hữu tình,
Với tâm thật hoan hỷ,
Tung vải cho cùng khắp.
Hãy cho! Hãy cho nữa,
Vị ấy luôn nói vậy.
Như mây giông gầm thét
Chớp sáng mưa đổ xuống,
Tràn ngập chỗ đất cao,
Tràn đầy chỗ đất trũng,
Chảy tràn với nước ngập.
Cũng vậy ở đời này,
Có một số hạng người,
Hạng người giống như vậy.
Thâu hoạch được đúng pháp,
Tài sản do nỗ lực.
Với đồ ăn đồ uống
Vị ấy chơn chánh đãi,
Những chúng sanh khốn cùng
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LXXVI) (Tik, III, 7) (It. 67)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Do hy vọng được ba lạc này, bậc Hiền trí hộ trì giới. Thế nào là ba? “Mong rằng lời tán thán sẽ đến với ta”, bậc Hiền trí hộ trì giới. “Mong rằng, tài sản sẽ khởi lên cho ta”, bậc Hiền trí hộ trì giới. “Mong rằng khi thân hoại mạng chung, ta sẽ sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này” bậc Hiền trí hộ trì giới. Này các Tỷ-kheo, do hy vọng được ba lạc này, bậc Hiền trí hộ trì giới.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, ý nghĩa này được nói đến.

Bậc trí hộ trì giới,
Hy vọng được ba lạc,
Ðược khen, được tài sản,
Ðời sau sống hoan hỷ,
Trong cảnh giới chư Thiên.
Nếu không làm điều ác,
Nhưng theo kẻ làm ác,
Thì bị nghi làm ác,
Và bị tăng tiếng xấu.
Giống như người làm bạn,
Giống như người làm theo,
Người này giống người ấy
Giống như người cộng trú.
Người theo, người được theo,
Xúc chạm, được xúc chạm,
Như cây tên nhiễm độc
Nhiễm bó tên chưa nhiễm,
Bậc Trí vì sợ nhiễm,
Nên không bạn kẻ ác.
Với ngọn cỏ kusa,
Dùng gói đồ cá thúi,
Kusa hay mùi thúi,
Cũng vậy, gần kẻ ngu.
Còn người dùng ngọn lá,
Gói hương Ta-ga-ra,
Ngọn lá bay mùi thơm
Cũng vậy, gần bậc Trí.
Do vậy, nhờ nghĩ đến
Cái giỏ bằng lá ấy,
Biết được những cái gì
Sẽ rơi vào tự mình,
Bậc Hiền trí không theo,
Những hạng người bất thiện,
Chỉ biết làm bạn thân,
Những người lành hiền thiện.
Những kẻ ác, bất thiện,
Dắt dẫn đến địa ngục,
Còn những kẻ tốt lành,
Ðạt đến cảnh thiện thú.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LXXVII) (Tik. III, 8) (It. 69)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, thân này bị hủy hoại, thức bị lụn tàn, tất cả sanh y là vô thường, khổ, chịu sự biến hoại.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, ý nghĩa này được nói đến.

Biết thân bị huỷ hoại,
Còn thức bị lụn tàn,
Thấy sợ trong sanh y,
Hiểu được sanh và chết.
Sau khi chứng đạt được,
Sự an tịnh tối thượng,
Tự ngã được tu tập,
Chỉ còn đợi thời gian.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LXXVIII) (Tik. III, 9) (It. 69)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, các chúng sanh tùy theo giới, giao thân chung dòng với các chúng sanh. Hạng chúng sanh hướng hạ giao thân, chung dòng với các chúng sanh hướng hạ. Các chúng sanh hướng thượng giao thân, chung dòng với các chúng sanh hướng thượng.

Này các Tỷ-kheo, trong thời gian quá khứ, các chúng sanh tùy theo giới đã giao thân, chung dòng với các chúng sanh. Hạng chúng sanh hướng hạ đã giao thân, chung dòng với các chúng sanh hướng hạ. Hạng chúng sanh hướng thượng đã giao thân, chung dòng với các chúng sanh hướng thượng.

Này các Tỷ-kheo, trong thời tương lai, các chúng sanh tùy theo giới, sẽ giao thân, sẽ chung dòng với các chúng sanh. Hạng chúng sanh hướng hạ sẽ giao thân, chung dòng với các chúng sanh hướng hạ. Hạng chúng sanh hướng thượng sẽ giao thân, chung dòng với các chúng sanh hướng thượng.

Này các Tỷ-kheo, hiện nay cũng vậy, trong thời hiện tại, các chúng sanh tùy theo giới, giao thân chung dòng với các chúng sanh. Hạng chúng sanh hướng hạ giao thân, chung dòng với các chúng sanh hướng hạ. Hạng chúng sanh hướng thượng giao thân, chung dòng với các chúng sanh hướng thượng.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Rừng dục được sanh lên,
Chính do sự cộng trú,
Rừng dục được chặt đứt,
Chính nhờ không cộng trú,
Như leo tấm gỗ nhỏ,
Bị chìm dưới sông lớn,
Cũng vậy, nếu đi đến
Với kẻ lười, biếng nhác,
Bậc sống đời tốt lành,
Rồi cũng bị chìm luôn.
Do vậy hãy tránh xa,
Kẻ lười không tinh tấn,
Hãy chung sống cộng trú,
Với bậc Thánh viễn ly,
Với những bậc tinh cần
Sống trong cảnh thiền định,
Với những vị thường xuyên,
Siêng năng và cần mẫn
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(LXXIX) (Tik. III, 10) (It. 71)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba pháp này đưa đến tổn giảm cho Tỷ-kheo hữu học. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hữu học ưa thích công việc, thích thú công việc, đam mê ưa thích công việc; ưa thích nói chuyện, thích thú nói chuyện, đam mê ưa thích nói chuyện; ưa thích nằm ngủ, thích thú nằm ngủ, đam mê ưa thích nằm ngủ. Này các Tỷ-kheo, có ba pháp này đưa đến sự tổn giảm cho Tỷ-kheo hữu học.

Này các Tỷ-kheo, có ba pháp này không đưa đến tổn giảm cho Tỷ-kheo hữu học. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hữu học không ưa thích công việc, không thích thú công việc, không đam mê ưa thích công việc; không ưa thích nói chuyện, không thích thú nói chuyện, không đam mê ưa thích nói chuyện; không ưa thích nằm ngủ, không thích thú nằm ngủ, không đam mê ưa thích nằm ngủ. Này các Tỷ-kheo, có ba pháp này không đưa đến tổn giảm cho Tỷ-kheo hữu học.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Tỷ-kheo thích công việc,
Thích thú trong nói chuyện,
Và ưa thích nằm ngủ,
Sống dao động trạo cử;
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Không thể nào chứng ngộ,
Chứng Bồ-đề tối thượng,
Do vậy, đối vị ấy,
Cần phải ít công việc,
Phải ít sự nằm ngủ,
Không được có tháo động,
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Mới có thể chứng được,
Chứng tối thượng Bồ-đề
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

Phẩm IV

(LXXX) (Tik. IV, 1) (It. 72)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba tầm tư bất thiện này. Thế nào là ba? Tầm tư liên hệ đến tự đề cao mình; tầm tư liên hệ đến lợi dưỡng, cung kính, danh vọng; tầm tư liên hệ đến lo lắng cho người khác. Này các Tỷ-kheo, có ba tầm tư bất thiện này.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Ai có sự liên hệ,
Tự đề cao chính mình,
Liên hệ đến lợi dưỡng
Cung kính và tôn trọng,
Ai ưa thích, vui thích,
Làm thân, làm bạn hữu,
Những vị ấy đứng xa
Diệt tận các kiết sử.
Ai từ bỏ con cái,
Từ bỏ các loài vật,
Từ bỏ các lễ cưới
Bỏ cất chứa tài sản
Tỷ-kheo ấy có thể,
Chứng Bồ-đề vô thượng
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(LXXXI) (Tik. IV, 2) (It. 73)

Này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy các chúng sanh bị cung kính chinh phục, bị tâm cung kính xâm chiếm, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

Này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy các chúng sanh bị không cung kính chinh phục, tâm bị không cung kính xâm chiếm, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

Này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy các chúng sanh khi tâm bị chinh phục, bị xâm chiếm bởi cả hai cung kính và không cung kính, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

Này các Tỷ-kheo, sau khi không nghe một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác nói lên, Ta nói lên lời nói này: “Này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy các chúng sanh, bị cung kính chinh phục, tâm bị cung kính xâm chiếm, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

Này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy các chúng sanh, khi bị không cung kính chinh phục, tâm bị không cung kính xâm chiếm, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

Này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy các chúng sanh khi bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm bởi cả hai cung kính và không cung kính, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục”.

Và này các Tỷ-kheo, vì rằng Ta tự mình biết, tự mình thấy, tự mình tìm ra nên Ta tuyên bố rằng: “Này các Tỷ-kheo, ta đã thấy các chúng sanh, khi bị cung kính chinh phục, tâm bị cung kính xâm chiếm, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy các chúng sanh, khi bị không cung kính chinh phục, tâm bị không cung kính xâm chiếm, sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đoạ xứ, địa ngục. Này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy các chúng sanh, khi bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm bởi cả hai cung kính và không cung kính, sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục”.

Ai khi được cung kính,
Khi không được cung kính,
Trong cả hai trường hợp,
Tâm định không lay chuyển.
Sống hạnh không phóng dật,
Tâm thường nhập thiền tư,
Với tâm tưởng tế nhị,
Chánh quán các sở kiến,
Ưa thích chấp thủ diệt,
Ðược gọi bậc chân nhân
.

(LXXXII) (Tik. IV, 3) (It. 75)

Này các Tỷ-kheo, giữa chư Thiên, có ba tiếng chư Thiên này thỉnh thoảng được vang lên, tuỳ thời được khởi lên. Thế nào là ba?

Này các Tỷ-kheo, khi nào bậc Thánh đệ tử cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, nghĩ đến xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình; trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, tiếng chư Thiên được vang lên: “Vị Thánh đệ tử này nghĩ đến chiến đấu với Ác ma”. Này các Tỷ-kheo, đây là tiếng chư Thiên thứ nhất, thỉnh thoảng được vang lên giữa chư Thiên, tùy thời được khởi lên.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi nào bậc Thánh đệ tử sống chuyên tâm tu tập về Bảy Bồ-đề phần; trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, tiếng chư Thiên được vang lên: “Vị Thánh đệ tử này chiến đấu với Ác ma”. Này các Tỷ-kheo, đây là tiếng chư Thiên thứ hai, thỉnh thoảng được vang lên giữa chư Thiên, tùy thời được khởi lên.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi nào bậc Thánh đệ tử, với sự diệt tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, tiếng chư Thiên vang lên: “Vị Thánh đệ tử này đã chiến thắng trong chiến trận. Ðứng đầu trong chiến trận, sau khi chiến thắng, vị ấy an trú”. Này các Tỷ-kheo, đây là tiếng chư Thiên thứ ba, thỉnh thoảng được vang lên giữa chư Thiên, tùy thời được khởi lên.

Này các Tỷ-kheo, giữa chư Thiên có tiếng chư Thiên này, thỉnh thoảng được vang lên, tuỳ thời được khởi lên.

Thấy đệ tử chánh giác
Chiến thắng trong chiến trận,
Chư Thiên cũng đảnh lễ,
Bậc vĩ đại như vậy,
Bậc trí tuệ chín muồi.
Chúng tôi đảnh lễ Ngài,
Người được luyện thuần thục,
Vì Ngài đã chiến thắng,
Trận đánh rất khó thắng.
Ngài đã chiến thắng được
Quân đội của thần chết,
Không còn trở ngại gì,
Nhờ giải thoát của Ngài.
Như vậy các Thiên nhân,
Ðảnh lễ vị như vậy,
Vị đạt được mục đích,
Chắc chắn các Thiên nhân,
Ðảnh lễ trong vị ấy,
Pháp gì giúp thoát được,
Khỏi thần chết chi phối
.

(LXXXIII) (Tik. IV, 4) (It. 76)

Này các Tỷ-kheo, khi nào một Thiên nhân mệnh chung từ bỏ thân chư Thiên, có năm tướng xuất hiện ra trước: “Các vòng hoa héo úa, áo quần bị uế nhiễm, mồ hôi chảy ra từ nách, thân sắc trở thành xấu xí, Thiên nhân không hoan hỷ tại chỗ ngồi chư Thiên”. Này các Tỷ-kheo, chư Thiên sau khi biết Thiên tử này mệnh chung, nói ba lời để cổ vũ: “Từ đây, Hiền giả hãy đi đến cõi lành! Sau khi đi đến cõi lành, hãy nhận được những gì khéo nhận được. Sau khi nhận được những gì khéo nhận, hãy khéo an trú”.

Ðược nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, thế nào được gọi là đi đến cõi lành của chư Thiên? Bạch Thế Tôn, thế nào được gọi là nhận được những gì khéo nhận được của chư Thiên? Bạch Thế Tôn, thế nào được gọi là khéo an trú của chư Thiên?

– Này các Tỷ-kheo, được địa vị làm người được gọi là đi đến cõi lành của chư Thiên. Khi được địa vị làm người, được lòng tin trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, này các Tỷ-kheo, đây được gọi là nhận được những gì khéo nhận được của chư Thiên. Khi lòng tin được nhập vào, được an trú thành gốc rễ, kiên trì, không bị làm tan nát bởi Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên nhân, Ác ma, Phạm thiên hay bất cứ ai ở đời thì được gọi là khéo an trú của chư Thiên.

Khi nào vị Thiên nhân,
Từ bỏ thân chư Thiên,
Vì thọ mạng đã hết,
Ba tiếng được thốt lên,
Do chư Thiên an ủi,
Cổ vũ khiến hoan hỷ.
Từ đây, này Hiền giả,
Hãy đi đến cõi lành,
Cộng trú với loài Người.
Khi đã được làm người,
Trong Chánh pháp vi diệu,
Hãy lấy được lòng tin,
Lòng tin ấy vô thượng.
Hiền giả hãy thâm nhập,
Vào trong lòng tin ấy,
An trú thành gốc rễ,
Cho đến trọn sanh mạng,
Không bị làm tan nát,
Trong điệu pháp khéo giảng.
Từ bỏ thân làm ác,
Từ bỏ lời nói ác,
Từ bỏ ý nghĩ ác,
Và mọi hành động khác,
Ðược xem là thuộc ác.
Thân làm các hạnh lành,
Làm nhiều lời nói lành,
Sau khi ý nghĩ lành,
Vô lượng, không sanh y.
Rồi làm các công đức
Cho sanh y đời sau
Làm xong nhiều công đức
Với bố thí rộng rãi,
Rồi an trú người khác,
Bị tử vong chi phối,
Trong đời sống Phạm hạnh,
Trong Chánh pháp vi diệu.
Với lòng từ mẫn này,
Chư Thiên khi biết được.
Một Thiên nhân mệnh chung,
Liền nói lời cổ vũ.
Thiên nhân hãy đến đây,
Hãy đến lại nhiều lần
.

(LXXXIV) (Tik. IV, 5) (It. 78)

Có ba hạng người này xuất hiện ở đời, xuất hiện đem lại hạnh phúc cho nhiều người, an lạc cho nhiều người, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Thế nào là ba?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, trình bày Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người thứ nhất xuất hiện ở đời, xuất hiện đem lại hạnh phúc cho nhiều người, an lạc cho nhiều người, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc, cho chư Thiên và loài Người.

Lại nữa này các Tỷ-kheo, đệ tử của bậc Ðạo Sư ấy, bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã đoạn tận, Phạm hạnh đã thành tựu, việc cần làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, mục đích của mình đã đạt được, hữu kiết sử đã đoạn tận, đã giải thoát nhờ chánh trí. Vị ấy thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, trình bày Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người thứ hai xuất hiện ở đời, xuất hiện đem đến hạnh phúc cho nhiều người, an lạc cho nhiều người vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đệ tử bậc Ðạo Sư ấy là bậc hữu học, đang đi trên con đường, vị nghe nhiều, giới cấm được gìn giữ. Vị ấy cũng thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, trình bày Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người thứ ba xuất hiện ở đời, xuất hiện đem đến hạnh phúc cho nhiều người, an lạc cho nhiều người, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Này các Tỷ-kheo, có ba hạng người xuất hiện ở đời, xuất hiện đem đến hạnh phúc cho nhiều người, an lạc cho nhiều người, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.

Bậc Ðạo Sư ở đời,
Ðại ẩn sĩ thứ nhất,
Tiếp nối theo vị ấy
Là đệ tử Ðạo Sư,
Ðã tu tập tự ngã,
Tiếp đến bậc hữu học,
Ðang đi trên con đường,
Bậc nghe nhiều học nhiều,
Bậc giới cấm đầy đủ.

Ba vị tối thượng này,
Giữa chư Thiên, loài Người,
Bậc tác thành hào quang,
Bậc tuyên bố Chánh pháp
Mở toang cửa bất tử,
Ðã giúp đỡ nhiều người.
Thoát ly khỏi ách nạn.

Những ai tùy bước theo,
Con đường khéo thuyết giảng,
Bởi bậc Vô Thượng Sĩ,
Bậc cầm đầu lữ hành,
Vị ấy tại đời này,
Chấm dứt mọi khổ đau,
Những vị không phóng dật,
Trong giáo lý Thiện Thệ
.

(LXXXV) (Tik. IV, 6) (It. 80)

Này các Tỷ-kheo, hãy sống tuỳ quán bất tịnh trên thân, hãy khéo an trú niệm hơi thở vô hơi thở ra, đặt niệm trước mặt, hướng về nội tâm; hãy sống tùy quán vô thường trong tất cả các hành.

Này các Tỷ-kheo, khi sống tùy quán bất tịnh trên thân tham tùy miên đối với tịnh giới được đoạn trừ; khi khéo an trú niệm hơi thở vô hơi thở ra, đặt niệm trước mặt, hướng về nội tâm, thời các tâm hướng ngoại, dự phần vào tổn hại không có; khi sống tùy quán vô thường trong tất cả hành, thời vô minh trừ diệt, minh được khởi lên.

Quán bất tịnh trên thân,
Niệm thở vô thở ra,
Tịnh chỉ tất cả hành,
Thường nhiệt tâm, chánh kiến,
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Ðã thấy rất chơn chánh,
Từ đấy ở nơi đây,
Vị ấy được giải thoát,
Thắng trí được thành tựu,
Lắng dịu thật an tịnh,
Vị ẩn sĩ như vậy,
Chắc vượt khỏi ách nạn
.

(LXXXVI) (Tik. IV, 7) (It, 81)

Với vị Tỷ-kheo hành trì tùy pháp đúng pháp, đây là cách thức đúng đắn để giải thoát những chữ: “Thực hành tùy pháp đúng pháp”. Khi vị ấy nói vị ấy nói đúng pháp không phải phi pháp; khi vị ấy suy tư, vị ấy suy tư với suy tư đúng pháp, không phải suy tư phi pháp. Do từ bỏ hai điều ấy, vị ấy trú xả, chánh niệm tỉnh giác.

Thích pháp, hân hoan pháp,
Suy tư trên Chánh pháp,
Tỷ-kheo tùy niệm pháp,
Chánh pháp không tổn giảm,
Khi đi hoặc khi đứng,
Khi ngồi hoặc khi nằm,
Nội tâm được chế ngự
Vị ấy đạt an tịnh.

(LXXXVII) (Tik. IV, 8) (It. 82)

Này các Tỷ-kheo, có ba tầm bất thiện này, tác thành mù, tác thành không mắt, tác thành không trí, đưa đến tuệ đoạn diệt, dự phần vào tổn hại, không đưa đến Niết-bàn. Thế nào là ba?

Này các Tỷ-kheo, dục tầm tác thành mù, tác thành không mắt, tác thành không trí, đưa đến tuệ đoạn diệt, dự phần vào tổn hại, không đưa đến Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, sân tầm tác thành mù, tác thành không mắt, tác thành không trí, đưa đến tuệ đoạn diệt, dự phần vào tổn hại, không đưa đến Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, hại tầm tác thành mù, tác thành không mắt, tác thành không trí, đưa đến tuệ đoạn diệt, dự phần vào tổn hại, không đưa đến Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, có ba tầm bất thiện này, tác thành mù, tác thành không mắt, tác thành không trí, đưa đến tuệ đoạn diệt, dự phần vào tổn hại, không đưa đến Niết-bàn.

Này các Tỷ-kheo, có ba thiện tầm này, tác thành không mù, tác thành mắt, tác thành trí, làm tăng trưởng trí tuệ, không dự vào phần tổn hại, đưa đến Niết-bàn. Thế nào là ba? An ổn tầm, này các Tỷ-kheo, tác thành không mù, tác thành mắt, tác thành trí, làm tăng trưởng trí tuệ, không dự phần làm tổn hại, đưa đến Niết-bàn. Vô sân tầm, này các Tỷ-kheo, tác thành không mù, tác thành mắt, tác thành trí, làm tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào tổn hại, đưa đến Niết-bàn. Vô hại tầm, này các Tỷ-kheo, tác thành không mù, tác thành mắt, tác thành trí, làm tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào tổn hại, đưa đến Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, có ba thiện tầm này, tác thành không mù, tác thành mắt, tác thành trí, làm tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào tổn hại, đưa đến Niết-bàn.

Hãy suy tư, suy tầm,
Ba tầm thuộc chánh thiện,
Ðối ba tư duy ác,
Hãy từ bỏ, lánh xa.
Vị ấy chăc chế ngự,
Hành tướng các tư duy,
Như cơn mưa dẹp sạch,
Các bụi bậm chất chứa.
Vị ấy thật chắc chắn
An tịnh tầm với tâm.
Ở đây vị ấy đạt,
Con đường an tịnh đạo
.

(LXXXVIII) (Tik. IV, 9) (It. 83)

Này các Tỷ-kheo, có ba nội uế, nội thù này, nội đối thủ, nội sát nhân, nội thù địch này. Thế nào là ba?

Tham, này các Tỷ-kheo, là nội uế, nội thù, nội đối thủ, nội sát thủ, nội sát nhân, nội thù địch. Sân, này các Tỷ-kheo, là nội uế, nội thù, nội đối thủ, nội sát nhân, nội thù địch. Si, này các Tỷ-kheo, là nội uế, nội thù, nội đối thủ, nội sát nhân, nội thù địch. Này các Tỷ-kheo, có ba nội uế, nội thù, nội đối thủ, nội sát nhân, nội thù địch này.

Tham sanh ra bất hạnh,
Tham làm tâm dao động,
Tham chính là sợ hãi,
Sanh ra từ bên trong,
Loài Người không rõ biết
Loại tham đặc biệt ấy.
Người tham không biết rõ
Ðâu chính là lợi ích,
Người tham không thấy được
Ðâu chính là Chánh pháp.
Mù lòa và tối tăm,
Sẽ xuất hiện, có mặt,
Ở nơi một người nào,
Có tham cùng chung sống.
Ai đoạn trừ được tham,
Không tham vật đáng tham,
Với ai tham đoạn trừ
Như giọt nước lá sen.
Sân sanh ra bất hạnh,
Sân làm tâm dao động.
Sân chính là sợ hãi,
Sanh ra từ bên trong
Loài Người không rõ biết,
Lòng sân đặc biệt ấy.
Người sân không biết rõ
Ðâu chính là lợi ích,
Người sân không thấy được
Ðâu chính là Chánh pháp,
Mù lòa và tối tăm,
Sẽ xuất hiện, có mặt,
Ở nơi sân người nào,
Có sân cùng chung sống.
Ai đoạn trừ được sân,
Không sân việc đáng sân,
Với ai, sân đoạn trừ,
Như quả cây ta-la
Ðược chặt đứt khỏi cành.
Si sanh ra bất hạnh,
Si làm tâm dao động,
Si chính là sợ hãi,
Sanh ra từ bên trong,
Loài Người không rõ biết
Lòng si đặc biệt ấy
Người si không rõ biết
Ðâu chính là lợi ích,
Người si không thấy được
Ðâu chính là Chánh pháp,
Mù lòa và tối tăm
Sẽ xuất hiện, có mặt,
Ở nơi một người nào,
Có si cùng chung sống.
Ai đoạn trừ được si,
Không si việc đáng si,
Vị ấy quét sạch được
Tất cả mọi si ám,
Như mặt trời mọc lên,
Quét sạch mọi tăm tối.

(LXXXIX) (Tik. IV, 10) (It. 85)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, bị chinh phục bởi ba phi diệu pháp, với tâm bị chúng xâm chiếm, Devadatta bị rơi vào đọa xứ, bị rơi vào địa ngục, trú cả kiếp ở đây, không thể cứu chữa. Thế nào là ba? Bị chinh phục bởi ác dục tâm bị ác dục xâm chiếm, Devadatta bị rơi vào đoạ xứ, bị rơi vào địa ngục, trú cả kiếp ở đấy, không thể cứu chữa. Bị chinh phục bởi ác bằng hữu, với tâm bị ác bằng hữu xâm chiếm, Devadatta bị rơi vào đọa xứ, bị rơi vào địa ngục, trú cả kiếp ở đấy, không thể cứu chữa. Dầu cho còn có những thượng pháp cần phải làm, do đạt được những chứng đắc đặc biệt, nhưng chỉ có giá trị tầm thường, Devadatta đã dừng lại giữa đường. Này các Tỷ-kheo, bị chinh phục bởi ba phi diệu pháp này, với tâm bị chúng xâm chiếm, Devadatta bị rơi vào đọa xứ, bị rơi vào địa ngục, trú cả kiếp ở đấy, không thể cứu chữa.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Người khởi lên ác dục,
Không được sanh đời này,
Hãy biết nhờ điểm này,
Sanh thú người ác dục.
Ta được nghe như sau
Về Ðề-va-đát-ta:
Ðược biết là Hiền trí,
Ðược nhận có tự ngã,
Ðã đứng, được chói sáng,
Chói sáng với danh vọng.
Tự xem mình bằng Ngài
Ðã chống lại Như Lai,
Do vậy, bị rơi vào,
Cõi địa ngục A-tỳ,
Với bốn cửa đóng chặt,
Ðầy đủ những sợ hãi.
Chắc chắn ai xâm phạm,
Vị không có ác tâm,
Vị không làm điều ác,
Phải cảm xúc ác ấy,
Vì tâm bị uế nhiễm,
Không có biết tôn trọng.
Ai nghĩ làm ô nhiễm,
Toàn cả bể đại dương,
Với các ghè đựng đầy,
Ðầy cả với thuốc độc.
Không thể ô nhiễm được,
Vì đại dương quá lớn.
Cũng vậy đối với Như Lai,
Ai lấy lời làm hại,
Vị đường đi chơn chánh,
Vị có tâm an tịnh,
Lời nói không dùng tới,
Bậc chứng ngộ như vậy.
Bậc trí cần làm bạn
Với một người như vậy,
Cần phải gần thân cận,
Với người được như vậy,
Tỷ-kheo cùng đi theo,
Một tuyến đường người ấy,
Vị ấy sẽ đạt đến,
Sự đoạn diệt khổ đau.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

Phẩm V

(XC) (Tik. V, 1) (It. 87)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có ba tín thành tối thượng này. Thế nào là ba?

Này các Tỷ-kheo, so sánh các chúng sanh, không chân, hai chân, bốn chân hay nhiều chân, có sắc hay không có sắc, có tưởng, không có tưởng, hay không có tưởng không không có tưởng. Như Lai được xem là tối thượng đối với chúng, tức là bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác. Này các Tỷ-kheo, những ai có lòng tin thành với đức Phật, những vị ấy có lòng tín thành nơi tối thượng. Với những ai có lòng tín thành nơi tối thượng, quả dị thục là quả tối thượng.

Này các Tỷ-kheo, so sánh các pháp hữu vi hay vô vi, ly tham được xem là tối thượng đối với họ, tức là kiêu mạn bị nhiếp phục, khát ái bị chế ngự, chấp nhận được nhổ lên, lưu chuyển bị cắt đứt, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, những ai có lòng tín thành nơi ly tham, những vị ấy có lòng tín thành nơi tối thượng; với những ai có lòng tin nơi tối thượng, quả dị thục là quả tối thượng.

Này các Tỷ-kheo, so sánh Tăng chúng hay hội chúng, Tăng chúng đệ tử của Như Lai được xem là tối thượng, tức là bốn đôi, tám vị. Chúng đệ tử này của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Này các Tỷ-kheo, những ai có lòng tín thành nơi Tăng chúng, những vị ấy có lòng tín thành nơi tối thượng. Với những ai có lòng tín thành nơi tối thượng, này các Tỷ-kheo có ba quả dị thục là quả tối thượng.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây điều này được nói đến.

Những ai có lòng tin,
Lòng tín nơi tối thượng,
Chính là sự rõ biết,
Biết Chánh pháp tối thượng.
Những ai có lòng tin,
Nơi đức Phật tối thượng,
Bậc Vô thượng xứng đáng,
Xứng đáng được cúng dường.
Những ai có lòng tin,
Nơi Chánh pháp tối thượng,
Những pháp rời bỏ tham,
An tịnh, thật tịnh lạc.
Những ai có lòng tin,
Nơi Tăng chúng tối thượng.
Những ruộng phước công đức,
Vô thượng không gì hơn.

Những ai đã bố thí,
Với đối tượng tối thượng,
Công đức được tăng trưởng,
Tăng trưởng đến tối thượng.
Thọ mạng được tối thượng,
Dung sắc cũng tối thượng,
Danh vọng, tiếng đồn tốt,
An lạc và sức mạnh.
Bậc trí có bố thí,
Bố thí vị tối thượng,
Vị định tĩnh, thiền định,
Trong Chánh pháp tối thượng,
Chư Thiên hay loài Người,
Ðạt được sự tối thượng,
Họ sung sướng hân hoan
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(XCI) (Tik. V, 2) (It. 89)

Này các Tỷ-kheo, nghĩa này là nghề tận cùng trong các nghề nuôi sống, tức là đi bát khất thực; Này các Tỷ-kheo, danh từ nhiếc mắng ở trong đời là nói rằng: “Ông là kẻ đi bát, với bát cầm tay, ông đi khắp mọi nơi”. Tuy vậy chính nghề nuôi sống này được các thiện gia nam tử chấp nhận, những người sống vì lý tưởng, vì duyên sống với lý tưởng, không bị thúc đẩy làm nghề ấy vì sợ vua, vì sợ ăn trộm, vì mắc nợ, vì sợ hãi, không phải vì mất nghề nuôi sống; nhưng vì nghĩ rằng: “Nay ta bị rơi vào sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị khổ tràn đầy, bị khổ chinh phục. Rất có thể, một số phương pháp chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này có thể trình bày”.

Này các Tỷ-kheo, thiện nam tử này xuất gia như vậy, tham ái trong các dục, với lòng tham sắc xảo, với tâm sân hận, ý tư duy nhiễm ác, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, với các căn hoang dại. Này các Tỷ-kheo, như một que lửa lấy từ chỗ thiêu xác, cả hai đầu đều cháy đỏ, ở giữa lại lắm phân, không hoàn thành được mục đích làm que củi ở trong làng hay ở trong rừng. Này các Tỷ-kheo, Ta nói người này như ví dụ như vậy, dầu cho bỏ tài sản gia đình nhưng không làm viên mãn mục đích Sa-môn hạnh.

Tài sản ở gia đình,
Ðược đoạn tận từ bỏ,
Nhưng khó dự phần được,
Mục đích Sa-môn hạnh,
Tự đưa đến tổn hại,
Và đưa đến tán loạn,
Giống que lửa thiêu xác,
Ði đến chỗ hoại vong.
Tốt hơn nuốt hòn sắt,
Chảy đỏ, một cục lửa,
Nếu kẻ hành ác giới,
Ăn đồ ăn quốc độ,
Không biết có chế ngự.

(XCII) (Tik. V, 3) (It. 90)

Này các Tỷ-kheo, nếu một Tỷ-kheo nắm lấy viền áo Tăng-già lê đi theo sau lưng Ta, chân bước theo chân, nhưng vị ấy có tham ái trong các dục, với lòng sắc xảo, với tâm sân hận, ý tư duy nhiễm ác, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, với các căn hoang dại, vị ấy xa hẳn Ta và Ta xa vị ấy. Vì cớ sao?

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy không thấy Pháp. Do không thấy Pháp nên không thấy Ta. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống xa đến một trăm do-tuần và vị ấy không có tham ái trong các dục, với lòng tham không sắc xảo, tâm không sân hận, ý tư duy không nhiễm ác, chánh niệm tỉnh giác, định tĩnh nhất tâm, các căn được chế ngự, vị ấy gần hẳn Ta và Ta gần vị ấy. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy thấy Pháp. Do thấy Pháp nên thấy Ta.

Nếu có thể bước theo,
Nhưng nhiều dục bực phiền.
Hãy xem người như vậy,
Thật là xa, rất xa,
Xa giữa người ái dục
Và người không ái dục,
Xa giữa người lắng dịu
Và người không lắng dịu,
Xa giữa người tham ái
Và người đã trừ ái.
Sau khi thắng tri Pháp,
Bậc Hiền trí biết Pháp,
Như ao không gió thổi,
Không dao động, tịnh chỉ.
Hãy xem người như vậy,
Thật là gần, rất gần,
Gần giữa người không ái,
Và người không có ái,
Gần giữa người lắng dịu,
Và người được lắng dịu,
Gần giữa người không tham,
Và người trừ tham ái
.

(XCIII) (Tik. V, 4) (It. 92)

Này các Tỷ-kheo, có ba loại lửa này. Thế nào là ba? Lửa tham, lửa sân, lửa si. Này các Tỷ-kheo, có ba loại lửa này.

Lửa tham đốt cháy người,
Say mê trong các dục,
Còn lửa sân đốt cháy,
Những người có sân hận,
Những người giết, sát hại,
Các loại có sanh mạng.
Còn lửa si đốt cháy,
Những kẻ bị mê muội,
Những kẻ không tinh luyện,
Trong giáo pháp bậc Thánh,
Do không được biết rõ
Các loại lửa như vậy,
Nên loài Người ưa thích,
Vui thích với có thân.
Họ làm cảnh dịa ngục,
Ðược lớn mạnh tăng trưởng,
Kể cả giới bàng sanh,
Chỗ sanh xứ súc vật,
Cùng với A-tu-la,
Với cảnh giới quỷ đói,
Họ không được thoát khỏi,
Trói buộc của Ác ma.
Nhưng ai ngày và đêm,
Chú tâm vào, chuyên học,
Học những lời giảng dạy,
Bậc Chánh đẳng Chánh giác.
Họ làm cho lắng dịu
Ngọn lửa của lòng tham,
Luôn luôn ý thức được,
Tánh bất tịnh sự vật.
Với lòng thương, từ mẫn,
Những hạng người tối thượng,
Làm lắng dịu, chỉ tịnh,
Ngọn lửa của sân hận.
Còn ngọn lửa si mê,
Với trí tuệ dập tắt,
Trí tuệ này đưa đến
Thể nhập vào chân lý,
Bậc thận trọng sáng suốt,
Ngày đêm làm lắng dịu
Các loại lửa như vậy,
Không có biết mệt mỏi,
Họ làm cho lắng dịu,
Không một chút dư tàn,
Những bậc Thánh đã thấy,
Bậc trí tuệ hiểu biết,
Là những bậc Hiền trí,
Thấy được nhờ chánh trí
Do họ thắng tri được,
Sự diệt tận của sanh,
Nên họ không đi đến,
Sanh đi rồi sanh lại.

(XCIV) (Tik. V, 5) (It. 93)

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cần phải quán sát một cách như thế nào, như thế nào, do quán sát như vậy, thức của vị ấy đối với ngoại trần không có tán loạn, không có tản rộng, tâm không trú trước nội trần, không chấp thủ, không bị khủng bố, sẽ không có sự sanh khởi, sự tập khởi của khổ về sanh gìa, chết, trong tương lai.

Tỷ-kheo đã đoạn tận,
Cả bảy loại trói buộc,
Ðã chấm dứt sợi dây,
Vòng sanh tử luân chuyển,
Ðã đoạn tận chặn đứng,
Vị ấy không tái sanh.

(XCV) (Tik. V, 6) (It. 94)

Này các Tỷ-kheo, có ba sanh khởi của dục. Thế nào là ba? Dục đối với sự vật hiện tại, sự thích thú đối với sự vật mình tạo ra, sự chấp nhận sự vật do người khác tạo ra. Này các Tỷ-kheo, có ba sanh khởi này của dục.

Những ai có lòng dục,
Ðối sự vật hiện tại,
Và các loại chư Thiên,
Chi phối các sự vật
Do người khác tạo ra,
Chư thiên ưa thích thú,
Ðối sự vật mình tạo,
Cùng các chúng sanh khác,
Thọ dụng các loại dục.
Thái độ người Hiền trí,
Ðối thọ dụng các dục,
Trong đời này đời khác,
Từ bỏ tất cả dục,
Dầu thuộc về chư Thiên
Và dục thuộc loài Người.
Những ai được chặt đứt
Dòng nước khó vượt qua,
Sự say đắm sự vật,
Thân ái và tốt đẹp,
Họ làm cho lắng dịu,
Không có vật dư thừa,
Họ vượt qua đau khổ,
Không còn chút dư tàn,
Những bậc Thánh đã thấy.
Bậc trí tuệ hiểu biết,
Là những bậc Hiền trí,
Thấy được nhờ chánh trí.
Do họ thắng tri được
Sự diệt tận của sanh,
Nên họ không đi đến,
Sanh đi rồi sanh lại.

(XCVI) (Tik. V, 7) (It. 95)

Này các Tỷ-kheo, những ai bị trói buộc bởi trói buộc của dục, những ai bị trói buộc bởi trói buộc của hữu là những bậc đến lại, đi đến lại có mặt ở đây. Những ai chế ngự được sự trói buộc của dục, này các Tỷ-kheo, nhưng còn bị trói buộc bởi trói buộc của hữu, những vị ấy là hạng Bất lai, không trở lui lại có mặt ở đây. Những ai chế ngự được sự trói buộc của dục, chế ngự được sự trói buộc của hữu, những vị ấy là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc.

Những ai bị nhiếp phục,
Bởi trói buộc của dục,
Bởi trói buộc của hữu,
Bởi trói buộc cả hai,
Chúng sanh ấy đi đến,
Luân chuyển trong luân hồi,
Họ đi đến sanh tử.
Những ai đoạn tận dục,
Nhưng chưa đạt thành được,
Sự diệt tận lậu hoặc,
Họ còn bị nhiếp phục,
Bởi trói buộc của hữu,
Họ được gọi Bất lai.
Những ai chặt đứt được,
Mọi nghi hoặc phân vân,
Ðoạn tận được kiêu mạn,
Ðoạn tận được tái sanh,
Chắc chắn trong đời này,
Họ đi đến bờ kia,
Vì họ đã đạt tới,
Sự đoạn diệt lậu hoặc.

(XCVII) (Tik. V,8) (It. 96)

Này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo, có giới tốt lành, có pháp tốt lành, có tuệ tốt lành được gọi trong Pháp và Luật này là vị toàn hảo.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Giới tốt lành? Ở đây này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo giữ giới, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vị Tỷ-kheo có giới tốt lành.

Và thế nào là có Pháp tốt lành? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo sống chuyên tâm chuyên chú tu tập Bảy pháp giác chi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vị có pháp tốt lành. Như vậy là giới tốt lành và pháp tốt lành.

Và thế nào là Tuệ tốt lành? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo do diệt trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vị Tỷ-kheo có tuệ tốt lành.

Như vậy, một người có giới tốt lành, có pháp tốt lành, có tuệ tốt lành được gọi trong Pháp và Luật là vị toàn hảo.

Ai với thân, với lời,
Với ý, không làm ác,
Vị ấy giới tốt lành,
Ðược gọi là Tỷ-kheo
Có được lòng xấu hổ,
Ai, pháp khéo tu tập,
Những pháp giúp đạt đến,
Chứng được quả Bồ-đề,
Vị ấy pháp tốt lành,
Ðược gọi là Tỷ-kheo
Không có dục trào ra.
Ai quán tri đau khổ,
Ở đây, diệt trừ khổ,
Vị ấy tuệ tốt lành,
Ðược gọi là Tỷ-kheo
Không có các lậu hoặc,
Ðầy đủ những pháp ấy,
Thoát khỏi sự phiền muộn
Chặt đứt mọi nghi ngờ,
Không luyến ái tham đắm
Mọi sự vật ở đời,
Vị ấy được xưng gọi
Vị đoạn tận tất cả.

(XCVIII) (Tik. V, 9) (It. 98)

Này các Tỷ-kheo, có hai loại bố thí: Bố thí tài vật và bố thí Pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí tối thượng trong hai loại bố thí này, tức là bố thí Pháp. Này các Tỷ-kheo, có hai sự phân phát này: Phân phát tài vật và phân phát Pháp. Ðây là phân phát tối thượng trong hai loại phân phát này, tức là phân phát Pháp. Này các Tỷ-kheo, có hai loại nhiêu ích này, nhiêu ích tài vật và nhiêu ích Pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là nhiêu ích tối thượng trong hai loại nhiêu ích này, tức là nhiêu ích Pháp.

Ðiều được gọi bố thí,
Thù thắng và vô thượng,
Và sự phân phát nào,
Ðược Thế Tôn tán thán,
Với tâm tư tín thành,
Trong ruộng phước tối thượng,
Bậc trí rõ biết vậy,
Ai lại không cúng dường,
Ai làm được cả hai,
Nói lên và lắng nghe,
Với tâm tư tịnh tín,
Trong lời dạy Thiện Thệ,
Lợi ích ấy của họ,
Là tối thắng thanh tịnh,
Những ai không phóng dật,
Trong lời dạy Thiện Thệ
.

(XCIX) (Tik. V,10) (It. 98)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng: “Một Bà-la-môn có được ba minh, một cách đúng pháp, không phải người nào khác được gọi vậy chỉ vì người này bập bẹ nói lên”. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Ta tuyên bố rằng một Bà-la-môn có được ba minh một cách đúng pháp, không phải người nào khác được gọi vậy chỉ vì người này bập bẹ nói lên?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nhớ đến người đời quá khứ, ví như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều thành kiếp, nhiều hoại kiếp, nhiều thành hoại kiếp. Vị ấy nhớ rằng: “Tại chỗ kia ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây”. Như vậy, Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Ðây là minh thứ nhất, vị ấy chứng đạt; vô minh diệt, minh sanh; tối tăm diệt, ánh sáng sanh, do vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo với Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng. Các vị chúng sanh này làm những ác hạnh về thân, về lời, về ý, phỉ báng các bậc Thánh theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đoạ xứ, địa ngục. Còn những vị chúng sanh này làm những thiện hạnh về thân, về lời, về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Như vậy với Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng. Ðây là minh thứ hai vị ấy chứng đạt; vô minh diệt, minh sanh; tối tăm diệt, ánh sáng sanh, do vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do diệt tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ðây là minh thứ ba, vị ấy chứng đạt, vô minh diệt, minh sanh; tối tăm diệt, ánh sáng sanh, do vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng một Bà-la-môn có được ba minh một cách đúng pháp, không phải người nào khác được gọi vậy chỉ vì người này bập bẹ nói lên.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Ai biết được đời trước,
Với Thiên giới đọa xứ,
Người ấy, Ta tuyên bố,
Là vị Bà-la-môn,
Chớ không phải ai khác,
Chỉ mở miệng bập bẹ.
Ai biết được đời trước,
Thấy Thiên giới, đọa xứ,
Vị ấy đạt sanh diệt,
Thật là bậc ẩn sĩ,
Ðã thành tựu thắng trí.
Ba minh này thành tựu,
Là Phạm chí ba minh,
Ta gọi vị như vậy,
Chính là bậc Ba minh,
Chớ không phải ai khác,
Do nói lời bập bẹ
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

Chương Bốn – Bốn Pháp

Phẩm I

(C) (Cat. I) (It. 101)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, Ta là Bà-la-môn, người được đến yêu cầu, tay luôn luôn thanh tịnh, mang thân cuối cùng, vô thượng y sĩ chữa trị, y sĩ giải phẫu. Các Thầy thật là con của Ta từ miệng sanh, từ Pháp sanh, từ Pháp tạo thành, thừa tự Pháp, không thừa tự tài vật.

Này các Tỷ-kheo, có hai loại bố thí. Bố thí tài vật và bố thí Pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là tối thượng trong hai bố thí này, tức là bố thí Pháp. Này các Tỷ-kheo, có hai loại phân phát này, phân phát tài vật và phân phát Pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là tối thượng trong hai phân phát này, tức là phân phát Pháp.

Này các Tỷ-kheo, có hai nhiêu ích này, nhiêu ích tài vật và nhiêu ích Pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là tối thượng trong hai nhiêu ích này, tức là nhiêu ích Pháp. Này các Tỷ-kheo, có hai loại tế tự này. Tế tự tài vật và tế tự Pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là tối thượng trong hai tế tự này, tức là tế tự Pháp.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Ai tế tự Chánh pháp,
Tế tự, không xan tham,
Như Lai có lòng từ,
Ðối tất cả sinh vật,
Bậc tối thắng như vậy,
Giữa chư Thiên loài Người,
Chúng sanh kính đảnh lễ,
Vị đã vượt qua được,
Vượt qua dòng sanh hữu,
Ðến được bờ bên kia.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

(CI) (Cat. 2) (It. 102)

Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp này ít oi, dễ được và không có phạm lỗi. Thế nào là bốn? Trong các loại y, này các Tỷ-kheo, y phấn tảo lượm từ đống rác là ít oi, dễ được và không phạm lỗi. Trong các loại, để ăn, này các Tỷ-kheo, đi khất thực từng miếng là ít oi, dễ được và không có phạm lỗi. Trong các sàng tọa, này các Tỷ-kheo, gốc cây là ít oi, dễ được và không có phạm lỗi. Trong các loại dược phẩm, này các Tỷ-kheo, nước tiểu hôi là ít oi, dễ được, không có phạm lỗi. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại ít oi, dễ được, không có phạm lỗi nào. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo biết đủ, với các loại ít oi, dễ được này, Ta tuyên bố rằng đây là một chi phần Sa-môn hạnh của vị ấy.

Biết đủ với sự vật,
Ít oi, dễ tìm được,
Lại không có phạm tội,
Tâm không bị phiền nhiễu,
Về vấn đề sàng tọa,
Y áo và ăn uống;
Tâm không bị lo lắng,
Về phương hướng phải đi,
Các pháp được tuyên bố,
Thuận lợi Sa-môn hạnh,
Họ được có đầy đủ,
Với Tỷ-kheo biết đủ,
Với vị không phóng dật.

(CII) (Cat. 3) (It. 103)

Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy, không phải cho người không biết, cho người không thấy. Và này các Tỷ-kheo, cho người biết gì, cho người thấy gì là sự diệt tận các lậu hoặc?

Này các Tỷ-kheo, cho người biết, cho người thấy rằng: “Ðây là Khổ “, là sự diệt tận các lậu hoặc. Này các Tỷ-kheo, cho người biết, cho người thấy rằng: “Ðây là Khổ tập “, là sự diệt tận các lậu hoặc. Này các Tỷ-kheo, cho người biết, cho người thấy rằng: “Ðây là khổ diệt ” Là sự diệt tận các lậu hoặc. Như vậy, này các Tỷ-kheo, cho người biết, cho người thấy, “Ðây là Con đường đưa đến khổ diệt “. là sự diệt tận các lậu hoặc. Như vậy này các Tỷ Kheo cho người biết cho người thấy là sự diệt tận các lậu hoặc.

Vị hữu học học tập,
Hành trì đường chánh trực,
Trong diệt tận ác pháp,
Là trí bậc thứ nhất,
Tiếp đến là chánh trí,
Chánh trí này vô thượng,
Tiếp theo chánh trí ấy,
Chính là sự giải thoát,
Giải thoát trí vô thượng,
Trong diệt tận, trí khôn,
Với các loại, kiết sử,
Ðược đoạn tận ở đây,
Không phải kẻ biếng nhác,
Kẻ ngu, không biết gì,
Có thể chứng ngộ được
Niết-bàn vô thượng này,
Sự giải thoát hoàn toàn,
Tất cả mọi trói buộc
.

(CIII) (Cat. 4) (It. 104)

Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không như thật quán tri: “Ðây là Khổ”, không như thật quán tri: “Ðây là Khổ tập”, không như thật quán tri: “Ðây là Khổ diệt”, không như thật quán tri: “Ðây là Con đường đưa đến khổ diệt”. Những Sa-môn, Bà-la-môn ấy, này các Tỷ-kheo, không được Ta chấp nhận là Sa-môn trong các hàng Sa-môn, hay là Bà-la-môn trong các Bà-la-môn. Và các vị Tôn giả ấy, ngay trong hiện tại cũng không tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú mục đích Sa-môn hạnh hay mục đích Bà-la-môn hạnh.

Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỷ-kheo, như thật quán tri: “Ðây là Khổ”, như thật quán tri: “Ðây là Khổ tập”, như thật quán tri: “Ðây là Khổ diệt”, như thật quán tri: “Ðây là Con đường đưa đến khổ diệt”, thời này các Tỷ-kheo, các Sa-môn hay Bà-la-môn ấy được Ta chấp nhận là Sa-môn trong các hàng Sa-môn, hay Bà-la-môn trong các hàng Bà-la-môn. Và các vị Tôn giả ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú mục đích Sa-môn hạnh hay mục đích Bà-la-môn hạnh.

Những ai không quán tri,
Khổ và khổ hiện hữu,
Ở đấy, khổ hoàn toàn,
Ðược đoạn tận, không dư,
Và không biết đường ấy,
Ðưa đến chỉ tịnh khổ,
Những vị ấy không có
Tâm và tuệ giải thoát,
Họ không thể chấm dứt,
Phải đi đến sanh già.

Những vị nào quán tri,
Khổ và khổ tập khởi,
Ở đấy, khổ hoàn toàn,
Ðược đoạn tận, không dư;
Rõ biết con đường ấy,
Ðưa đến chỉ tịnh khổ,
Tâm giải thoát thành tựu,
Và cả tuệ giải thoát,
Họ có thể chấm dứt,
Không đi đến sanh già
.

(CIV) (Cat. 5) (It. 106)

Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo nào đầy đủ giới, đầy đủ định, đầy đủ tuệ, đầy đủ giải thoát, đầy đủ giải thoát tri kiến, những vị giáo giới, những vị giảng dạy, những vị tuyên bố, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, những bậc xứng đáng thuyết minh diệu pháp, này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng chỉ thấy các vị như vậy là lợi ích nhiều cho các Tỷ-kheo ấy; này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng chỉ nghe các vị như vậy là lợi ích nhiều cho các Tỷ-kheo ấy; này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng chỉ đi đến yết kiến các vị như vậy là lợi ích nhiều cho các Tỷ-kheo ấy; này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng chỉ thân cận các vị như vậy là lợi ích nhiều cho các Tỷ-kheo ấy; này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng chỉ nhớ nghĩ đến các vị như vậy là lợi ích nhiều cho các Tỷ-kheo ấy. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng chỉ tùy theo các vị như vậy xuất gia là lợi ích nhiều cho các Tỷ-kheo ấy. Vì cớ sao?

Này các Tỷ-kheo, khi phục vụ, chia sẻ, thân cận những Tỷ-kheo như vậy, thời giới uẩn chưa được đầy đủ đi đến được tu tập đầy đủ, định uẩn chưa được đầy đủ đi đến được tu tập đầy đủ, tuệ uẩn chưa được đầy đủ đi đến tu tập đầy đủ, giải thoát uẩn chưa được đầy đủ, đi đến được tu tập đầy đủ, giải thoát tri kiến uẩn chưa được đầy đủ đi đến được tu tập đầy đủ. Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo như vậy được gọi là những bậc Ðạo sư, được gọi là những người cầm đầu đoàn lữ hành, được gọi là những vị đã từ bỏ những nguyên nhân tác hại, được gọi là những vị quét sạch tối tăm, được gọi là những vị tác thành minh, được gọi là những vị tác thành quang; được gọi là những vị tác thành ánh sáng, được gọi là những vị cầm bó đuốc, được gọi là những vị phóng quang, được gọi là những bậc Thánh, được gọi là những người có mắt.

Ðây là căn cứ địa
Những vị phóng hào quang,
Chính nhờ hiểu biết vậy,
Tức là, đối tự ngã,
Những vị có tu tập,
Là những bậc Hiền Thánh,
Sống đúng theo Chánh pháp,
Họ chói sáng diệu pháp,
Họ nói lên diệu pháp,
Họ phóng được hào quang
Là những bậc có trí,
Tác thành ra ánh sáng,
Họ là người có mắt,
Họ từ bỏ nguyên nhân
Tạo ra điều tác hại,
Bậc trí với chánh trí,
Nghe lời dạy vị ấy,
Do thắng tri sanh diệt,
Không đi đến tái sanh.

(CV) (Cat. 6) (It. 109)

Này các Tỷ-kheo, có bốn sự sanh khởi này của ái, ở đây ái sanh khởi lên cho Tỷ-kheo. Thế nào là bốn? Do nhân y áo, này các Tỷ-kheo, ái sanh khởi cho Tỷ-kheo. Do nhân đồ ăn khất thực, này các Tỷ-kheo, ái khởi sanh cho Tỷ-kheo. Do nhân sàng tọa, này các Tỷ-kheo, ái khởi sanh cho Tỷ-kheo. Do nhân sanh hữu, không sanh hữu, này các Tỷ-kheo, ái sanh khởi cho Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, có bốn sự sanh khởi này của ái. Ở đây, ái sanh khởi lên cho Tỷ-kheo.

Người có ái làm bạn,
Bị luân hồi dài dài,
Nó không vượt luân hồi,
Ðời này qua đời khác.
Do biết nguy hại vậy,
Ái tác thành ra khổ,
Không còn có khát ái,
Không còn có chấp trước,
Vị Tỷ-kheo chánh niệm
Du hành khắp đó đây
.

(CVI) (Cat. 7) (It. 109)

Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo, trong ấy các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận ngang bằng với Phạm thiên. Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo, trong ấy các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận như các đạo sư thời xưa. Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo, trong ấy con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận là đáng được cúng dường.

Phạm thiên, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. Các đạo sư thời xưa, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. Ðáng được cúng dường, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. Vì cớ sao? Giúp đỡ rất nhiều, này các Tỷ-kheo, là mẹ cha đối với con cái, nuôi chúng lớn, dưỡng dục chúng, giới thiệu chúng vào đời.

Mẹ cha gọi Phạm thiên,
Bậc Ðạo Sư thời trước,
Xứng đáng để con cháu,
Nuôi dưỡng và cúng dường.
Do vậy, bậc hiền triết,
Ðảnh lễ và tôn trọng,
Dâng đồ ăn đồ uống,
Vải mặc và giường nằm,
Thoa bóp cả thân mình,
Tắm rửa cả chân tay,
Với sở hành như vậy,
Ðối với mẹ và cha,
Ðời này người hiền khen,
Dời sau hưởng Thiên lạc
.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.

(CVII) (Cat. 8) (It. 111)

Này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn gia chủ rất có lợi ích cho các Thầy, chính họ đã sắp đặt y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh cho các Thầy. Này các Tỷ-kheo, các Thầy cũng rất có lợi ích cho các người Bà-la-môn gia chủ, vì các Thầy thuyết pháp cho họ, pháp ấy sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa có văn, nói lên Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Phạm hạnh này được sống, do tương duyên với nhau, với mục đích vượt qua dòng nước mạnh, đoạn tận khổ đau.

Có nhà và không nhà,
Cả hai nương tựa nhau,
Chứng đạt được diệu pháp,
Ách an ổn, vô thượng,
Từ các vị có nhà,
Vị không nhà nhận được
Y áo, các vật dụng,
Giường nằm và chỗ ngồi,
Nhờ vậy tránh khỏi được,
Các nguy hiểm nhọc nhằn.
Các vị trú gia đình,
Ước mong mến gia đình,
Nương tựa bậc Thiện Thệ,
Lòng tin bậc Ứng Cúng,
Lòng tin Thánh trí tuệ,
Họ tu tập thiền định,
Ở đây, hành trì pháp,
Con đường đến cõi lành,
Hân hoan trong thiên giới,
Họ sống được hoan hỷ,
Như điều họ mong muốn
.

(CVIII) (Cat. 9) It. 112)

Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo nào lừa đảo ngoan cố, lắm mồm, lắm miệng, buông thả hỗn hào vô lễ không định tỉnh, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy không phải đệ tử của Ta; này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy rơi khỏi Pháp và Luật này; và này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy không đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, tăng rộng trong Pháp và Luật này. Và này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo nào không lừa đảo, không lắm mồm, lắm miệng, nghiêm trang, không ngoan cố, khéo định tĩnh; này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy là đệ tử của Ta; này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy không rơi khỏi Pháp và  Luật này; và này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, tăng rộng trong Pháp và Luật này.

Lừa đảo và ngoan cố,
Lắm mồm và buông thả,
Hỗn hào không định tĩnh,
Những hạng người như vậy,
Không lớn mạnh trong Pháp,
Ðược bậc Chánh giác giảng.
Không lừa đảo lắm mồm,
Nghiêm trang và bình tĩnh
Không ngoan cố, khéo định,
Họ lớn mạnh trong Pháp,
Ðược bậc Chánh giác giảng.

(CIX) (Cat. 10) (It. 113)

Này các Tỷ-kheo, ví như có người bị dòng sông cuốn trôi, dòng sông đẹp đẽ, dễ thương. Có người có mắt, đứng trên bờ thấy người ấy, nói rằng: “Này người kia, tuy người bị cuốn trôi bởi dòng sông đẹp đẽ dễ thương nhưng ở dưới kia có một cái hồ, đầy sóng và nước xoáy, đầy cá sấu và quỷ Dạ-xoa; nếu Ông đến chỗ ấy, Ông sẽ bị chết, hay đau khổ gần như chết. Rồi người ấy, sau khi nghe tiếng của người kia, liền với tay và với chân, bơi ngược dòng”.

Này các Tỷ-kheo, Ta ví dụ này là để giải thích ý nghĩa. Ở đây, ý nghĩa là như sau: “Dòng sông, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với ái. Sắc khả ái dễ thương, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với sáu nội xứ. Cái hồ ở dưới, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với năm hạ phần kiết sử. Sóng, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với phẫn nộ, ưu não. Nước xoáy, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với năm dục tăng trưởng. Cá sấu, với quỷ Dạ-xoa, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với đàn bà; ngược dòng, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa xuất ly. Tinh tấn với tay với chân là đồng nghĩa với tinh cần tinh tấn. Người có mắt đứng trên bờ, này các Tỷ-kheo, là Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác”.

Cùng với sự đau khổ,
Hãy từ bỏ các dục,
Mong cầu trong tương lai,
An ổn khỏi khổ ách,
Chơn chánh hiểu biết rõ,
Tâm khéo được giải thoát,
Tại đấy, ở tại đấy,
Cảm xúc được giải thoát,
Vị ấy đạt hiểu biết,
Phạm hạnh được thành tựu,
Ðến tận cùng thế giới,
Ðến được bờ bên kia.
Vị ấy được gọi vậy.

(CX) (Cat. 11) (It. 115)

Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo khi đang đi khởi lên dục tầm, sân tầm hay hại tầm, nếu Tỷ-kheo chấp nhận không có từ bỏ, không có tẩy sạch, không có chấm dứt, không đi đến, không hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo đang đi có sở hành như vậy, vị ấy được gọi là người không có nhiệt tình, không có sợ hãi, liên tục thường hằng biếng nhác, tinh tấn hạ liệt.

Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo khi đang đứng…. khi đang ngồi… khi đang nằm thức khởi lên dục tầm, hay sân tầm, hay hại tầm. Nếu Tỷ-kheo chấp nhận, không có từ bỏ, không có tẩy sạch, không có chấm dứt, không đi đến, không hiện hữu, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo khi đang nằm thức có sở hành như vậy, vị ấy được gọi là vị không có nhiệt tình, không có sợ hãi, liên tục thường hằng biếng nhác, tinh tấn hạ liệt.

Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo khi đang đi khởi lên dục tầm, sân tầm hay hại tầm; nếu Tỷ-kheo không chấp nhận, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không hiện hữu; thì này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo khi đang đi có sở hành như vậy, vị ấy là có nhiệt tình, có sợ hãi, liên tục thường hằng tinh cần tinh tấn, siêng năng. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo khi đang ngồi. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo khi đang nằm thức khởi lên dục tầm, sân tầm hay hại tầm, nếu Tỷ-kheo không chấp nhận, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không hiện hữu… thì này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo khi đang nằm thức có sở hành như vậy, vị ấy được gọi là vị có nhiệt tình, có sợ hãi, liên tục thường hằng tinh cần tinh tấn, siêng năng.

Khi đi hoặc khi đứng,
Khi ngồi hay khi nằm,
Khởi lên ác tâm tư,
Liên hệ đến gia đình,
Thực hành theo ác đạo,
Mờ ám bởi si mê,
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Không chứng Vô thượng giác.
Ai khi đi, khi đứng,
Khi ngồi hay khi nằm,
Tập trung được tâm tư,
Ưa thích tầm chỉ tịnh,
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Chứng được Vô thượng giác.

(CXI) (Cat. 12) (5 It. 118)

Này các Tỷ-kheo, hãy sống đầy đủ giới, đầy đủ giới bổn Pàtimokkha, được chế ngự với chế ngự giới bổn Pàtimokkha. Hãy sống đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp. Ðã sống đầy đủ giới, này các Tỷ-kheo, đầy đủ giới bổn Pàtimokkha, được chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, sống đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp, còn có gì cần phải làm thêm nữa?

Nếu Tỷ-kheo trong khi đi, tham, sân được từ bỏ, hôn trầm thụy miên được từ bỏ, trạo hối được từ bỏ, nghi được đoạn tận, tinh cần tinh tấn, không có thụ động, niệm được an trú không có thất niệm, thân được khinh an không có cuồng nhiệt, tâm được định tĩnh nhất tâm. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo trong khi đi có sở hành như vậy, vị ấy được gọi là người có nhiệt tâm, có sợ hãi liên tục thường hằng tinh tấn, siêng năng.

Nếu Tỷ-kheo trong khi đứng… nếu Tỷ-kheo trong khi ngồi… nếu Tỷ-kheo trong khi nằm, thức, tham được trừ bỏ, sân được từ bỏ, hôn trầm thụy miên được từ bỏ, trạo hối được từ bỏ, nghi được đoạn tận, tinh cần tinh tấn, không có thụ động, niệm được an trú, không có thất niệm, thân được khinh an, không có cuồng nhiệt, tâm được định tĩnh, nhất tâm. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo trong khi đang nằm thức có sở hành như vậy, vị ấy được gọi là người nhiệt tâm, có sợ hãi, liên tục thường hằng, tinh tấn, siêng năng.

Ði đứng biết tự chế,
Ngồi nằm biết tự chế,
Tỷ-kheo biết tự chế,
Khi co tay, duỗi tay.
Phía trên, ngang, cùng khắp,
Xa cho đến cùng tột,
Bất cứ sanh thú nào,
Ở tại thế giới này,
Khéo quán sát sanh diệt,
Của tất cả pháp uẩn,
Sống như vậy nhiệt tâm,
Tâm chỉ tịnh, đúng pháp,
Tâm an tịnh, không động,
Thường xuyên chuyên học tập,
Liên tục, thường siêng năng,
Tỷ-kheo được gọi vậy.

(CXII) (Cat. 13) (It. 121)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, thế giới được Như Lai Chánh đẳng giác. Như Lai không hệ lụy đối với đời. Này các Tỷ-kheo, thế giới tập khởi được Như Lai Chánh đẳng giác; thế giới tập khởi được Như Lai đoạn tận. Này các Tỷ-kheo, thế giới đoạn diệt được Như Lai chánh đẳng giác; thế giới đoạn diệt được Như Lai giác ngộ. Này các Tỷ-kheo, con đường đưa đến thế giới đoạn diệt được Như Lai chánh đẳng giác; con đường đưa đến thế giới đoạn diệt Như Lai đã tu tập.

Cái gì này các Tỷ-kheo, trong toàn thế giới với Thiên giới, Mạ giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, được thấy, được nghe, được thọ tưởng, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu, được ý tư sát, tất cả đều được Như Lai chánh đẳng giác. Do vậy được gọi là Như Lai. Này các Tỷ-kheo, từ đêm Như Lai chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng giác đến đêm Ngài nhập Niết-bàn không có dư y trong thời gian ấy, điều gì Ngài nói, tuyên bố, nêu rõ lên tất cả là như vậy, không có khác được. Do vậy Ngài được gọi là Như Lai.

Này các Tỷ-kheo, Như Lai nói gì làm vậy, làm gì nói vậy. Vì rằng nói gì làm vậy, làm gì nói vậy, nên Ngài được gọi Như Lai.

Này các Tỷ-kheo, trong toàn thể thế giới, Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Như Lai là bậc chiến thắng, không bị ai chiến bại, toàn tri, toàn kiến, đại tự tại, do vậy Ngài được gọi là Như Lai.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây điều này được nói đến:

Thắng tri mọi thế giới,
Mọi thế giới như thật,
Ly hệ mọi thế giới,
Không giống mọi thế giới.
Thắng tất cả bậc trí,
Giải thoát mọi buộc ràng.
Cảm thọ tối thắng tịnh,
Niết-bàn, không sợ hãi,
Vị này đoạn lậu hoặc,
Bậc giác ngộ trí giả,
Không dao động nhiễu loạn,
Nghi ngờ được chặt đứt,
Ðạt diệt tận mọi nghiệp
Giải thoát diệt sanh y,
Là Thế Tôn, là Phật
Bậc Sư tử vô thượng,
Trong thế giới thiên giới
Chuyển bánh xe Phạm luân.
Như vậy loài Trời, Người,
Ðến quy y đức Phật,
Gặp nhau, đảnh lễ Ngài,
Vĩ đại không sanh hữu,
Ðiều phục, bậc Tối thượng,
Trong người được điều phục
An tịnh, bậc ẩn sĩ,
Những người được an tịnh.
Giải thoát bậc tối thượng,
Những người được giải thoát
Vượt qua bậc tối thắng,
Những người được vượt qua.
Như vậy họ lễ Ngài
Vĩ đại, không sanh hữu,
Thiên giới, thế giới này,
Không ai được bằng Ngài.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.

Kinh Tiểu Bộ – Khuddhaka Nikaya

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tập 3 – Kinh Phật Tự Thuyết

(Udàna)

-ooOoo-

Mục Lục

Chương 1: Phẩm Bồ Ðề Chương 5: Phẩm Trưởng Lão Sona
Chương 2: Phẩm Muccalinda Chương 6: Phẩm Sanh Ra Ðã Mù
Chương 3: Phẩm Nanda Chương 7: Phẩm Nhỏ
Chương 4: Phẩm Meghiya Chương 8: Phẩm Pataligamiya

***

Giới thiệu Kinh Phật Tự Thuyết (Udàna)

Hoà thượng Thích Minh Châu

Kinh Udàna, được dịch là Phật tự thuyết kinh, nghĩa là những kinh này đức Phật tự nói, do cảm xúc mạnh đột khởi, không ai thỉnh Phật thuyết. Cũng có khi dịch là “Vô vấn tự thuyết”, nghĩa là không có người hỏi đức Phật tự nói. Có khi được dịch là “Những lời cảm hứng”, nghĩa là lời nói đột khởi, do cảm xúc mạnh thúc đẩy, khi đức Phật tự mình chứng kiến những sự việc xảy ra xung quanh. Theo tập Upanishads, chữ Udàna có nghĩa là các hơi thở sinh mệnh (pràna, apàna, sumàna, vyàna, udàna), ở trung tâm cổ họng được phát ra.

Tập này gồm tám chương. Mỗi chương có 10 kinh. Như vậy có tám mươi kinh tất cả. Ðể tiện tìm kiếm, khi viết “I, 2” thời hiểu là chương I, kinh số 2; khi ghi “IV, 7”, thời hiểu là chương IV kinh 7 v.v… Mỗi kinh gồm hai phần, phần đầu văn xuôi, ghi nhận một câu chuyện do đức Phật chứng kiến hay do các tỷ kheo kể lại, và phần thứ hai là lời cảm hứng của đức Phật, phần lớn là bằng những bài kệ (gàthà), chỉ có 1, 2 bài kinh Udàna được chép bằng văn xuôi.

Trước hết là một số kinh do liên hệ đến đời sống của đức Phật, như ba kinh đầu, Phẩm Bồ Ðề diễn tả đức Phật khi mới thành đạo, ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ Ðề, suy tưởng đến lý 12 nhân duyên, thuận chiều và nghịch chiều rồi nói lên cảm hứng. (xem I. 1, 2, 3). Kinh II, 1 nói đến tích đức Phật ngồi nhập định gặp mưa to gió lớn, có con rắn Mucalinda quấn thân mình chung quanh đức Phật để che chở cho Ngài. Kinh IV, 5 đề cập đến tích đức Phật bị các vị xuất gia, tại gia, vua chúa đến làm phiền nhiễu nên Ngài bỏ đi vào núi một mình và sống với một con voi, con voi này cũng bị đàn voi quấy rầy nên đến sống một mình với đức Phật. Sự tích khi đức Phật từ bỏ thọ hành và tuyên bố sau ba tháng sẽ nhập Niết bàn được kinh VI, 1 diễn tả. Và cũng được diễn tả là bữa cơm cuối cùng do thợ rèn Cunda cúng dường đức Phật. Sau bữa cơm ấy, đức Phật nhuốm bệnh và không bao lâu đức Phật nhập Niết bàn. Những sự tích trên giúp chúng ta có thêm một số tài liệu về lịch sử đức Phật.

Song song với các sự tích về đời sống đức Phật, tập Udàna nói đến khá nhiều về các đệ tử của đức Phật, như Sàriputta, Moggallàna, Kaccàna, Subbùti, Mahakassapa, Nanda… Mahakassapa bị bệnh tu định luôn 7 ngày để trị bệnh (Kinh III, 7); Nanda ban đầu mê các tiên nữ nên tu hành, sau bị các đồng Phạm hạnh chỉ trích nên tinh tấn tu hành chứng được quả A la hán (III, 2); Sàriputta ngồi nhập định bị quỷ Dạ xoa đánh trên đầu (IV. 4, 7); 500 tỷ kheo do Yasoja cầm đầu làm ồn bị đức Phật đuổi đi, sau tinh tấn tu hành, chứng được quả A la hán (III, 3). Ðức Phật khen tôn giả Lakunlaka Bhaddiya trong dung sắc xấu xí nhưng đã chứng quả giải thoát (VII, 5)  Tôn giả Dabba Mallaputta nhập định hỏa giới tự thiêu trước chúng Tăng, không để lại tro tàn gì (VIII, 9, 10).

Tiếp đến là các đệ tử tại gia, như nữ cư sĩ Visàkhà hai lần đến yết kiến đức Phật, một lần vì có sự việc cần phải giải quyết với Vua Pasenadi (II, 9), một lần có đứa cháu trai chết nên đến báo cáo đức Phật (VIII, 8). Sự tích 500 cung nữ của Vua Udena, trong ấy có Sàmavati bị chết thiêu cũng được đề cập. Vua Pasenadi nước Kosala được nói đến nhiều lần và một lần vua hỏi đức Phật có thể biết được các người tu hành có chứng quả hay không, thời đức Phật trả lời với những người như Vua Pasenadi sống trong dục lạc, khó lòng biết được quả chứng của các nhà tu hành (VI, 2).

Bao giờ cũng vậy, giữa đức Phật và các ngoại đạo cũng có những va chạm, những xung khắc, và các tích này được nghe nhận khá nhiều trong tập Udàna. Trước hết là sự kiện khi Như Lai chưa xuất hiện thời các ngoại đạo được quần chúng cung kính cúng dường, nhưng khi Như Lai xuất hiện, thời sự cung kính cúng dường bị chấm dứt (Vi, 9; II, 9). Cũng vì vậy, ngoại đạo thù hằn đức Phật và chúng Tăng, giết kỹ nữ tên Sundarì đem chôn ở Jetavana để vu oan cho chúng Tăng (IV, 8). Và dân chúng ở Thùma do ngoại đạo xúi dục đổ cỏ và rác xuống giếng để ngăn đức Phật không được uống nước (VII, 9).

Thường thường đức Phật dùng một vài hình ảnh châm biếm để nói đến các ngoại đạo. Chúng ta nhớ câu chuyện các người mù rờ voi, diễn tả các ngoại đạo mỗi người chấp chặt chủ thuyết của mình (VI, 4). Cũng mỉa mai là câu chuyện một du sĩ ngoại đạo, tìm dầu cho vợ mình sắp sinh đẻ, vào kho vua uống quá nhiều dầu để đem về cho vợ, nhưng vì uống quá nhiều dầu nên bị đau đớn, lăn lộn, khốn khổ (II, 6). Ngoài ra nhiều vấn đề xã hội, rất bình thường cũng được nói đến. Như đức Phật thấy đứa con nít hành hạ con rắn (II, 3), các dân chúng Vương xá tranh nhau người kỹ nữ (VI, 8), dân Sàvatthi quá đắm say về dục (VII, 3, 4) cũng được đức Phật đề cập và nói lên lời cảm hứng.

Trong 80 kinh của tập Udàna, 80 trường hợp được ghi nhận là đức Phật thốt lên những lời cảm hứng, sau khi cảm thấy xúc động trước một số sự kiện, và chính những lời cảm hứng mới thật là quan trọng trong tập Udàna này. Vì đây là dịp đức Phật nói lên quan điểm của mình đối với những sự việc đã xảy ra ở xung quanh; và chính những quan điểm ấy đã trở thành những giáo lý chính đức Phật đã giảng dạy và trình bày. Chúng ta đã tìm được những pháp và tùy pháp đức Phật đã thuyết giảng ngay qua các lời cảm hứng ấy.

Trước hết là lý 12 nhân duyên hay lý duyên khởi được trình bày ba lần, trong ba kinh đầu I. 1, 2, 3, thuận chiều, nghịch chiều, thuận chiều và nghịch chiều, từ vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc cho đến duyên sanh, lão tử, sầu bi khổ ưu não. Quá trình sanh tử của con người, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến tương lai được khéo cô động trong thuyết duyên khởi. Bao giờ cũng vậy, đức Phật nhắm trong dây chuyền sanh tử, hai pháp “dục” và “ái” rất là quan trọng. Và do vậy nhiều lời cảm hứng đề cập đến dục và ái. Trong kinh VII, 4, dân chúng Sàvatthi quá đắm say về dục nên đức Phật đã than :

“Bị mù bởi các dục,
Bị lưới dục bao phủ,
Bị ái dục bao trùm,
Lại còn bị trói buộc,
Bởi trói buộc phóng dật,
Như cá mắc miệng lưới,
Chúng đi đến già chết,
Như con bê bú sữa,
Ði đến với mẹ nó.”

Với ái, có thân yêu là có đau khổ. Khi Visakhà đến than với đức Phật có đứa cháu trai mới chết, đức Phật đã nói : “Những ai có 100 quả thân yêu là có 100 đau khổ; 90 người thân yêu là 90 người đau khổ… cho đến 1 người thân yêu là 1 người đau khổ.” (VIII, 8)

“Sầu than và đau khổ,
Sai biệt có ở đời,
Duyên thân ái chúng có,
Không thân ái chúng không.
Do vậy, người an lạc,
Người không có sầu muộn
Là những ai ở đời,
Không có người thân ái,
Do vậy ai tha thiết,
Ðược không sầu, không tham,
Chớ làm thân, làm ái,
Với một ai ở đời”.

Dục và ái đã có mặt, thời có sanh y, có sự tiếp nối một đời sống, nên có sanh y là có đau khổ :

“Giữa làng, tại núi rừng,
Cảm thọ khổ và lạc,
Chớ quy về tự mình,
Chớ quy về người khác.
Các xúc được cảm thọ,
Là do duyên sanh y.
Với vị không sanh y,
Do đâu, xúc cảm thọ?!” (II, 4)

Khi đức Phật từ bỏ thọ hành (VI, 1) Ngài muốn cắt đứt mọi hành động sanh hữu :

“Bậc ẩn sĩ từ bỏ,
Các hành động sanh hữu,
Sanh hữu có cân lượng,
Sanh hữu không có cân lượng.
Ưa thích hướng nội tâm,
Thật định tỉnh an tịnh,
Phá đổ ngã sanh hữu,
Như cởi thoát áo giáp.”

Trong những kinh, đức Phật tán thán các đệ tử tu thiền định vì đó là con đường đưa đến giải thoát. Trong kinh III, 5, Ngài Mục Kiền Liên ngồi thiền định tu thân hành niệm được đức Phật nói lên cảm hứng :

“Thân hành niệm an lập,
Sáu xúc xứ chế ngự,
Tỷ kheo thường thiền định,
Tự chứng tri Niết bàn.”

Trong kinh III, 4, Ngài Xá Lợi Phật ngồi thiền định, để niệm trước mặt, không xa Thế Tôn bao nhiêu và Thế Tôn nói lên lời cảm hứng :

“Như ngọn núi bằng đá,
Không động khéo an trú,
Cũng vậy vị tỷ kheo,
Ðoạn diệt được ngu si,
Như ngọn núi bằng đá,
Không có bị giao động.”

Ngài Tu Bồ Ðề (Sudhùti), tu định không tầm (avitakkam samàdhim) và được Thế Tôn tán thán và nói lời cảm hứng :

“Với ai tâm quét sạch,
Nội tâm khéo cắt đứt,
Không còn chút dư tàn,
Vượt qua ái nhiễm ấy.
Ðạt được tưởng vô sắc,
Vượt khỏi bốn ách nạn,
Không đi đến thọ sanh”. (Kinh VI, 7)

Nhưng đức Phật ấy nhận thấy đối với chúng sanh, khó thấy là vô ngã, khó thấy là sự thật. Nên đức Phật thường dạy cho các đệ tử một cái nhìn “vô ngã”:

“Trên dưới, khắp tất cả
Ðược giải thoát hoàn toàn,
Không còn có tùy quán
“Cái này chính là tôi”.
Giải thoát vậy vượt giòng,
Trước chưa từng vượt qua,
Không còn có rơi rớt.
Vào sanh tử thọ sanh”.

Mục đích cuối cùng của sự tu hành là giải thoát Niết bàn và trong tập Udàna có nhiều kinh và lời cảm hứng đề cập đến trạng thái Niết bàn, một trạng thái khó lấy danh từ để diễn tả.

Bàhiya Darucìriya tu tập, tưởng mình đã chứng quả A la hán nhờ đức Phật dạy cho:

“Vậy này Bàhiya, ngươi cần phải học tập như sau: “Trong cái thấy sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri… Như vậy, này Bàhiya, nhà ngươi cần phải học tập. Vì rằng, này Bàhiya, như với ngươi, trong thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe, trong cái thọ tưởng sẽ chỉ là cái thọ tưởng, trong cái thức tri sẽ chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiya, ngươi không là chỗ ấy. Vì rằng, này Bàhiya ngươi không là chỗ ấy. Do vậy, này Bàhiya, ngươi không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau” (Kinh I, 10).

Ðoạn sau đây cũng là đoạn diễn tả Niết bàn trong lời cảm hứng bằng văn xuôi (VIII, 1).

“Này các tỷ kheo, có xứ này (Ayatana), tại đấy không có đất, không có nước, không có lửa, không có gió; không có hư không vô biên xứ; không có thức vô biên xứ; không có vô sở hữu xứ; không có phi tưởng phi phi tưởng xứ, không có đời này; không có đời sau, không có cả hai mặt trăng mặt trời. Do vậy, này các tỷ kheo, Ta tuyên bố không có đến, không có đi, không có trú, không có diệt, không có sanh, không có an trú, không có chuyển vận, không có sở duyên. Ðây là sự đoạn tận khổ đau.”

Ðoạn tiếp cũng diễn tả trạng thái Niết bàn:

“Này các tỷ kheo, có sự không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi. Này các tỷ kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thời ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu bị làm, hữu vi. Vì rằng, này các tỷ kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, nên có trình bày sự xuất ly khỏi sự sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi”. (VIII, 3)

Ðây cũng là lời cảm hứng của Phật về trạng thái Niết bàn giải thoát:

“Cái gì có nương tựa, cái ấy có giao động, cái gì không nương tựa, cái ấy không giao động. Không có giao động thời có khinh an. Có khinh an thời không có thiên về. Không có thiên về, thời không có đến và đi. Không có đến và đi, thời không có diệt và sanh. Không có diệt và sanh, thời không có đời này, không có đời sau, không có đời ở giữa. Ðây là sự đoạn diệt khổ đau”. (VIII, 4)

Như vậy trong tập Udàna này, ngang qua các câu cảm hứng do đức Phật thuyết lên một số giáo lý căn bản được đề cập một số pháp môn tu hành được đề cao và mục đích tối hậu trong sứ mệnh hoằng pháp của đức Phật cũng được diễn tả đến.

Hòa thượng Thích Minh Châu
Thiền viện Vạn Hạnh
Sài Gòn, 1982 (PL. 2526)

Chương Một – Phẩm Bồ Ðề

(I) (Ud 1)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn ở Uruvelà, trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Bồ đề, khi mới chứng Chánh Ðẳng Giác. Lúc bấy giờ, Thế Tôn trong bảy ngày ngồi trong một thế ngồi kiết-già, thọ hưởng lạc giải thoát. Rồi Thế Tôn sau bảy ngày ấy, ra khỏi định ấy, trong đêm canh thứ nhứt, khéo thuận chiều tác ý lý Duyên khởi: “Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu. Do cái này sanh, cái kia sanh. Tức là duyên vô minh, có các hành; duyên các hành, có thức; duyên thức, có danh sắc; duyên danh sắc, có sáu xứ; duyên sáu xứ, có xúc; duyên xúc, có thọ; duyên thọ, có ái; duyên ái, có thủ; duyên thủ, có hữu; duyên hữu, có sanh; duyên sanh, có già, chết, sầu bi khổ ưu não. Như vậy là sự tập khởi của khổ uẩn này”.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Thật sự, khi các pháp,
    Có mặt, hiện khởi lên,
    Ðối vị Bà-la-môn,
    Nhiệt tâm hành thiền định,
    Khi ấy, với vị ấy,
    Các nghi hoặc tiêu trừ,
    Vì quản tri hoàn toàn,
    Pháp cùng với các nhân.

(II) (Ud 2)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn ở tại Uruvelà, trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Bồ-đề, khi mới chứng Chánh Ðẳng Giác. Lúc bấy giờ Thế Tôn trong bảy ngày, ngồi trong một thế ngồi kiết-già thọ hưởng lạc giải thoát. Rồi Thế Tôn sau bảy ngày ấy, ra khỏi định ấy, trong đêm canh giữa, khéo nghịch chiều tác ý lý Duyên khởi: “Do cái này không có mặt, cái kia không hiện hữu. Do cái này diệt, cái kia diệt. Tức là, do vô minh diệt nên hành diệt; do hành diệt, nên thức diêt; do thức diệt, nên danh sắc diệt; do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt; do sáu xứ diệt nên xúc diệt, do xúc diệt nên thọ diệt, do thọ diệt, nên ái diệt; do ái diệt, nên thủ diệt; do thủ diệt, nên hữu diệt; do hữu diệt, nên sanh diệt; do sanh diệt, nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não diệt. Như vậy là đoạn diệt của khổ uẩn này”.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này.

  1. Thật sự khi các pháp,
    Có mặt, hiện khởi lên,
    Ðối với vị Bà-la-môn,
    Nhiệt tâm, hành thiền định,
    Khi ấy, với vị ấy,
    Các nghi hoặc tiêu trừ,
    Vì đã biết hoàn toàn,
    Sự tiêu diệt các duyên.

(III) (Ud 2)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn ở Uruvelà, trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Bồ-đề, khi mới chứng Chánh Ðẳng Giác. Lúc bấy giờ Thế Tôn trong bảy ngày, ngồi trong một thế ngồi Kiết-già, thọ hưởng lạc giải thoát. Rồi Thế Tôn, sau bảy ngày, ra khỏi định ấy, trong đêm canh cuối cùng, khéo thuận chiều và nghịch chiều tác ý lý duyên khởi: “Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu. Do cái này sanh, cái kia sanh. Do cái này không có mặt, cái kia không hiện hữu. Do cái này diệt, cái kia diệt”. Tức là duyên vô minh có các hành. Duyên các hành có thức… Duyên sanh, có già chết, sầu bi khổ ưu não. Như vậy là tập khởi của khổ uẩn này. Do đoạn diệt, ly tham, vô minh không có dư tàn, nên các hành diệt. Do các hành diệt, nên thức diệt… Như vậy là đoạn diệt của khổ uẩn này”.

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Thật sự khi các pháp
    Có mặt, hiện khởi lên,
    Ðối với vị Bà-la-môn,
    Nhiệt tâm hành thiền định,
    Quét sạch các ma quân,
    Vị ấy đứng, an trú,
    Như ánh sáng mặt trời,
    Chói sáng khắp hư không.

(IV) (Ud 3)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Uruvelà, trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây bàng ajapala, khi mới chứng Chánh Ðẳng Giác. Lúc bấy giờ, Thế Tôn trong bảy ngày ngồi trong một thế ngồi kiết-già, thọ hưởng lạc giải thoát. Rồi Thế Tôn sau bảy ngày ấy ra khỏi định. Có một Bà-la-môn thuộc dòng họ Huhunka, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên lời chào hỏi, sau khi nói lời chào hỏi thân hữu, rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Bà-la-môn ấy nói với Thế Tôn:

– Tôn giả Gotama, cho đến như thế nào là Bà-la-môn, và những pháp nào tác thành Bà-la-môn?

Thế Tôn sau khi biết được ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Vị Bà-la-môn nào,
    Loại trừ các ác pháp,
    Không kiêu, không uế nhiễm,
    Tự ngã khéo chế ngự,
    Vệ-đà được thông đạt,
    Phạm hạnh được viên thành,
    Vị Bà-la-môn ấy,
    Có thể nói lên được,
    Lời Phạm ngữ đúng pháp,
    Vị ấy ở đời này,
    Không hề có mạn tâm
    Bất cứ ở nơi nào.

(V) (Ud 3)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà-lâm), khu vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ, Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất), Tôn giả Mahàmoggallàna (Ðại Mục-kiền-liên) Tôn giả Mahàkassapa (Ðại Ca-diếp), Tôn giả Mahàkaccayàna (Ðại Ca-chiên-diên), Tôn giả Mahàkotthita (Ðại Câu-thi-la), Tôn giả Mahàkappina (Ðại kiếp-tân-na), Tôn giả Mahàcunda (Ðại-Thuần-đà), Tôn giả Anuruddha (A-na-luật-đà), Tôn giả Revata (Ly-bà-đà), Tôn giả Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa), Tôn giả Ananda (A-nan) đi đến Thế Tôn. Thế Tôn thấy các Tôn giả ấy từ xa đi đến, thấy vậy liền nói với các Tỳ-kheo:

– Này các Tỳ-kheo, các Bà-la-môn này đang đi đến. Này các Tỳ-kheo, các Bà-la-môn này đang đi đến.

Khi được nói vậy, một Tỳ-kheo, thọ sanh là Bà-la-môn, bạch Thế Tôn:

– Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là Bà-la-môn, và có bao nhiêu pháp, tác thành Bà-la-môn?

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Sau khi loại ác pháp,
    Ai thường hành chánh niệm,
    Kiết sử đoạn, giác ngộ,
    Những vị ấy ở đời,
    Thật là Bà-la-môn.

(VI) (Ud 4)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Vương Xá, tại Trúc lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ Tôn giả Mahakassapa trú ở hang Pipphali, đang bị bệnh rất khổ đau, bệnh trầm trọng. Rồi Tôn giả Mahàkassapa sau một thời gian, thoát khỏi bệnh ấy. Rồi Tôn giả Mahàkassapa thoát khỏi bệnh ấy, suy nghĩ như sau: “Ta hãy đi vào Vương Xá để khất thực “. Lúc bấy giờ, khoảng năm trăm Thiên nhân, đang cố gắng sửa soạn để Tôn giả Mahàkassapa nhận đựoc đồ ăn khất thực. Nhưng Tôn giả Mahàkassapa gạt bỏ năm trăm Thiên nhân ấy, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào Vương Xá để khất thực, đi ngang những con đường những con người nghèo, con đường những người ăn xin, con đường những người thợ dệt.

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Ai sống không nhờ người,
    Không được người biết đến,
    Sống tự mình chế ngự,
    An trú trên lõi cây,
    Các lậu hoặc đã đoạn,
    Sân hận được trừ diệt,
    Vị ấy được Ta gọi,
    Là vị Bà-la-môn.

(VII) (Ud 4)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Pàtali tại Ajakalàpaka, chỗ ở của Dạ-xoa Ajakalàpa. Lúc bấy giờ Thế Tôn đang ngồi ngoài trời, trong đêm tối đen, và trời mưa từng hột xuống. Rồi Dạ-xoa Ajakalàpaka muốn làm cho Thế Tôn sợ hãi, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, ba lần nói lên gần Thế Tôn tiếng gào thét của mình là Akkulopakkulo: “Này Sa môn, có con quỷ cho Ông “. Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng này:

  1. Khi nào Bà-la-môn
    Ðối với pháp của mình,
    Ðã đạt được bờ kia,
    Vị ấy vượt qua được,
    Ác quỷ yêu ma này.

(VIII) (Ud 5)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ Tôn giả Sangamàji đã đi đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn. Người vợ trước kia của Tôn giả Sangamàji nghe được tin Tôn giả Sangamàji đã đến Sàvattthi. Nàng liền dắt người con đi đến Jetavana. Lúc bấy giờ Tôn giả Sangamàji đang ngồi dưới gốc cây đề nghỉ ban ngày. Rồi người vợ trước đây của Tôn giả Sangamàji, đi đến Tông Giả Sangamàji, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sangamàji:

– Này Sa môn, hãy nuôi dưỡng tôi và đứa con nhỏ!

Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sangamàji, giữ im lặng. Lần thứ hai, người vợ trước kia của Tôn giả Sangamàji nói với Tôn giả Sangamàji:

– Này Sa-môn, hãy nuôi dưỡng tôi và đứa con nhỏ!

Lần thứ hai, Tôn giả Sangamàji giữ im lặng. Lần thứ ba người vợ trước kia của Tôn giả Sangamàji nói với Tôn giả Sangamàji:

– Này Sa-môn, hãy nuôi dưỡng tôi và đứa con nhỏ!

Lần thứ ba, Tôn giả Sangamàji vẫn giữ im lặng. Rồi người vợ trước kia của Tôn giả Sangamàji đặt đứa nhỏ trước mặt Tôn giả Sangamàji rồi bỏ đi, nói rằng:

– Này Sa-môn, đây là đứa con trai của Sa-môn. Hãy nuôi dưỡng nó!

Tôn giả Sangamàji không có ngó đến đứa nhỏ ấy, cũng không nói gì. Rồi người vợ trước kia của Tôn giả Sangamàji sau khi đi không xa, ngó lui lại thấy Tôn giả Sangamàji không ngó đứa con nhỏ ấy, cũng không nói; thấy vậy liền suy nghĩ: “Sa môn này không muốn ngó đến người con “. Nàng liền trở lui lại, bồng lấy đứa con rồi ra đi. Thế Tôn với Thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, thấy cử chỉ thô bạo như vậy của người vợ trước kia của Tôn giả Sangamàji.

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết được ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Không hoan hỷ, nàng đến,
    Không sầu muộn, nàng đi,
    Giải thoát khỏi ái phược,
    Là Sangamàji
    Ta gọi người như vậy,
    Là vị Bà-la-môn.

(IX) (Ud 6)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Gayà, tại Gayasisa. Lúc bấy giờ, nhiều kẻ bện tóc, trong những đêm gió lạnh mùa đông, giữa những ngày mồng tám, trong thời tuyết rơi, đang lặn xuống và nổi lên trong nước, làm việc lặn xuống nổi lên, tưới nước và tế lửa, nghĩ rằng: “Với hành động này, được thanh tịnh “.

Thế Tôn thấy nhiều kẻ bện tóc ấy, trong những đêm gió lạnh mùa đông, giữa những ngày mồng tám, trong thời tuyết rơi, đang lặng xuống và nổi lên trong nước, làm việc lặn xuống nổi lên, tưới nước và tế lửa, nghĩ rằng: “Với hành động này, được thanh tịnh “.

Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Thanh tịnh không có nước,
    Ở đây nhiều người tắm,
    Trong ai có chân thật,
    Lại thêm có Chánh pháp,
    Người ấy là Thanh tịnh,
    Người ấy là Phạm chí.

(X) (Ud 6)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Bàhiya Daruciriya trú ở Suppàraka, trên bờ biển, được cung kính, tôn trọng đảnh lễ, cúng dường và nhận được y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Rồi Bàhiya Dàcuciriya khởi lên tư tưởng như sau: “Với ai là bậc A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán, ta là một trong những vị ấy “. Rồi một Thiên nhân, trước là bà con huyết thống với Bàhiya Dàruciriya, vì lòng từ mẫn, vì muốn lợi ích, với tâm của mình biết tâm tư của Bàhiya Dàruciriya, đi đến Bàhiya Dàruciriya và nói như sau:

– Này Bàhiya. Ông không phải là A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán. Ông không có đạo lộ ấy, với đạo lộ này Ông có thể trở thành A-la-hán hay đang đi trên con đường đưa đến A-la-hán.

– Nhưng ai là những vị, trong thế giới này, với thế giới chư Thiên là những vị A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán?

– Này Bàhiya, có thành phố tên là Sàvatthi trên những quốc lộ phương Bắc. Tại đấy có Thế Tôn hiện đang trú, bậc A-la-hán. Chánh Ðẳng Giác. Vị ấy là bậc A-la-hán và thuyết pháp đưa đến quả A-la-hán.

Rồi Bàhiya Dàruciriya, được Thiên nhân ấy thúc dục, đi ra khỏi Sappàraka, trong suốt đường trường, chỉ nghỉ một đêm, đi đến chỗ Thế Tôn đang trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn Anàthapindika. Lúc bấy giờ nhiều Tỷ-kheo đang đi kinh hành giữa trời. Bàhiya Dàruciritya đi đến các Tỳ-kheo ấy, sau khi đến nói như sau:

– Thưa các Tôn giả, nay Thế Tôn, bậc A-la-hán Chánh Ðẳng Giác ở đâu? Chúng tôi muốn được yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.

– Này Bàhiya, Thế Tôn đã đi vào giữa các nhà để khất thực.

Rồi Bàhiya Dàraciriva mau chóng ra khỏi Jetavana, đi vào Sàvatthi, và thấy Thế Tôn đang đi khất thực, khả ái, khởi lên tịnh tin, các căn an tịnh, tâm ý an tịnh, đạt được an chỉ, chế ngự tối thượng, giống như một con voi được điều phục, phòng hộ với các căn an tịnh. Thấy vậy, Bàhiya Dàruciriya liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến, cúi đầu xuống chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con, Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài.

Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với Bàhiya Dàruciriya:

– Không phải thời, này Bàhiya, Ta đang khất thực.

Lần thứ hai Bàhiya Dàruciriya Bạch Thế Tôn:

– Thật khó biết, bạch Thế Tôn, là chướng ngại cho mạng sống của Thế Tôn, hay chướng ngại cho mạng sống của con. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con. Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài.

Lần thứ hai, Thế Tôn nói với Màhiya Dàruciriya:

– Không phải thời, này Bàhiya, Ta đang khất thực.

Lần thứ ba, Bàhiya Dàruciriya bạch Thế Tôn:

– Thật khó biết… hạnh phúc lâu dài.

– Vậy này Bàhiya, Ông cần phải học tập như sau: “Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri, sẽ chỉ là các thức tri “. Như vậy, này Bàhiya, Ông cần phải học tập. Vì rằng, này Bàhiya, nếu với Ông, trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiva, ông không là chỗ ấy. Vì rằng, này Bàhiya, Ông không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau.

Nhờ lời thuyết pháp tóm tắt này của Thế Tôn, tâm của Bàhiya Dàruciriya được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ. Thế Tôn sau khi thuyết cho Bàhiya Dàruciriya lời giáo giới tóm tắt này, liền ra đi. Thế Tôn ra đi không bao lâu, một con bò con húc chết Bàhiya Dàruciriya. Thế Tôn sau khi khất thực ở Sàvatthi xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi ra khỏi thành với nhiều Tỷ-kheo, thấy Bàhiya Dàruciriya bị chết, thấy vậy liền nói với các Tỳ-kheo:

– Này các Tỳ-kheo, hãy lấy thân xác Bàhiya Dàruciriya, đặt lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêu, rồi xây tháp lên trên. Này các Tỷ-kheo, một vị đồng Phạm hạnh với các Thầy đã qua đời!

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, sau khi đặt xác thân của Bàhiya Dàruciriya lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêu, xây dựng cái tháp cho vị ấy, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, thân xác của Bàhiya Dàruciriya đã được hỏa thiêu, tháp đã được xây dựng xong cho vị ấy. Sanh thứ cho vị ấy là gì? Ðời sau vị ấy là gì?

– Này các Tỷ-kheo, Hiền trí là Bàhiya Dàruciriya đã hành trì tùy pháp, đúng pháp và không có phiền nhiễu Ta với những tranh luận về pháp. Này các Tỷ-kheo, Bàhiya Dàruciriya đã nhập Niết Bàn.

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Chỗ nào nước và đất,
    Lửa, gió không chấp trước,
    Tại đây sao không chói,
    Mặt trời không chiếu sáng,
    Tại đây trăng không chiếu,
    Tại đây u ám không,
    Khi ẩn sĩ Phạm chí,
    Tự mình với trí tuệ,
    Thể nhập vào Chánh pháp,
    Vị ấy được giải thoát
    Khỏi sắc và vô sắc,
    Khỏi an lạc, đau khổ.

Lời cảm hứng này được Thế Tôn thuyết giảng và tôi được nghe như vậy.

Chương Hai – Phẩm Mucalinda

(I) (Ud 10)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn ở Uruvela, trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Mucalinda, khi Ngài mới chứng Chánh Ðẳng Giác. Lúc bấy giờ Thế Tôn, trong bảy ngày ngồi một thế ngồi kiết-già, thọ hưởng lạc giải thoát. Lúc bấy giờ, một cơn giông tố lớn trái mùa khởi lên và trong bảy ngày, trời mưa gió lạnh, bầu trời u ám. Rồi thần rắn Mucalinda ra khỏi chỗ ở của mình, với thân cuốn vòng quanh bảy vòng thân của Thế Tôn, và đứng thẳng, vươn cao các mang lớn trên đầu (Thế Tôn) với ý nghĩ: “Mong Thế Tôn khỏi lạnh! Mong Thế Tôn khỏi nóng! Mong Thế Tôn khỏi xúc chạm với ruồi, muỗi, gió, sức nóng, các loài bò sát “.

Rồi Thế Tôn sau bảy ngày ấy, ra khỏi định ấy. Rồi Mucalinda, vua các loài rắn, sau khi biết trời đã sáng tỏ, mây đã được thoát đi, cởi mở thân mình khỏi thân Thế Tôn, biến dạng thân sắc của mình, hóa hiện thân sắc một thanh niên đứng trước mặt Thế Tôn, chắp tay đảnh lễ Thế Tôn.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Viễn ly là an lạc,
    Với người biết tri túc,
    Với người có nghe pháp,
    Với người có chánh kiến
    Không sân là an lạc,
    Những ai ở trên đời,
    Ðối hữu tình chúng sanh
    Biết tự chế, ngăn ngừa.
    Ly tham là an lạc,
    Vượt các dục ở đời,
    Ai nhiếp phục ngã mạn,
    Ðây an lạc tối thượng.

(II) (Ud 10)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, nhiều vị Tỳ-kheo, sau bữa ăn, đi khất thực trở về, ngồi họp tại hội trườong, và câu chuyện này được khởi lên:

“Này chư Hiền, giữa hai vị vua này, vua Seniya Bimlisàra ở Magdha, và vua Pasenadi ở xứ Kosala, ai giàu có hơn, ai tài sản lớn hơn, ai kho tàng lớn hơn, ai quốc độ lớn hơn, ai xe cộ lớn hơn, ai sức mạnh lớn hơn, ai thần lực lớn hơn, ai uy lực lớn hơn? “. Rồi câu chuyện này giữa các Tỳ-kheo ấy chưa được chấm dứt.

Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến hội trường, sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, ở đây, nay các Thầy ngồi hội họp với câu chuyện gì? Và câu chuyện gì giữa chừng chưa chấm dứt giữa các Thầy?

– Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con sau bữa ăn, đi khất thực trở về… câu chuyện này được khơi lên… ai uy lực lớn hơn ” Câu chuyện này giữa chúng con, bạch Thế Tôn, chưa được chấm dứt thời Thế Tôn đã đến.

– Này các Tỷ-kheo, thật không thích đáng cho các Thầy, những thiện nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, lại nói câu chuyện như vậy. Này các Tỳ-kheo, khi các Thầy hội họp với nhau, có hai việc cần phải làm: Ðàm luận về Chánh pháp hay giữ sự im lặng của bậc Thánh.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Dục lạc gì ở đời,
    Kể cả thiên lạc này,
    Không bằng phần mười sáu,
    Lạc do ái đoạn diệt.

(III) (Ud 11)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi tại Jetavana khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ một số đông đứa trẻ đang hành hạ con rắn với cây gậy, giữa Sàvatthi và Jetavana. Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Sàvatthi để khất thực. Thế Tôn thấy giữa Sàvatthi và Jetavana nhiều đứa trẻ đang hành hạ con rắn với cây gậy.

Thế Tôn sau khi hiểu hết ý nghĩa này, ngay lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Ai làm hại với trượng,
    Kẻ tìm lạc cho mình,
    Người ấy sau khi chết,
    Không tìm được an lạc.
    Ai không hại với trượng,
    Kẻ tìm lạc cho mình,
    Ðời sau tìm được lạc.

(IV) (Ud 13)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Thế Tôn được cung kính, tôn trọng đảnh lễ, cúng dường, tôn kính, nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Chúng Tăng cũng được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ cúng dường, tôn kính, nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Nhưng các du sĩ ngoại đạo không được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính, không nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Các du sĩ ấy không kham nhẫn được việc ấy Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo được kính trọng. Khi nào gặp các Tỷ-kheo ở làng và ở trong rừng, họ dùng những lời nói không tốt lành, thô ác, mắng nhiếc, phỉ báng, công kích não hại các Tỷ-kheo. Rồi một số đông Tỷ-kheo, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỳ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn được cung kính, tôn trọng… dược phẩm trị bệnh. Chúng Tỷ-kheo cũng được cung kính tôn trọng… dược phẩm trị bệnh nhưng các du sĩ ngoại đạo không được tôn kính, tôn trọng… dược phẩm trị bệnh. Rồi bạch Thế Tôn, các ngoại đạo du sĩ ấy không kham nhẫn được sự việc Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo được kính trọng… não hại chúng.

Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này.

  1. Giữa làng, tại núi rừng,
    Cảm thọ khổ và lạc,
    Chớ quy về tự mình,
    Chớ quy về người khác,
    Các xúc được cảm thọ,
    Là do duyên sanh y,
    Với vị không sanh y,
    Do đâu, xúc cảm thọ.

(V) (Ud 13)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, một nam cư sĩ tên là Icchànanga-laka đi đến Sàvatthi vì một vài công việc phải làm. Nam cư sĩ ấy, sau khi làm công việc xong ở Sàvatthi, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với nam cư sĩ ấy đang ngồi một bên:

– Ðã lâu rồi, này Nam cư sĩ, ông tạo nên cơ hội này, tức là đến đây!

– Bạch Thế Tôn, đã lâu rồi, con muốn yết kiến Thế Tôn. Nhưng con bị bận bịu lợi bởi những công việc phải làm này nên con không thể đi đến yết kiến Thế Tôn được.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Ai lão luyện Chánh pháp,
    Ðược nghe nhiều Chánh pháp,
    Không xem bất cứ gì
    Là an lạc của mình.
    Hãy xem, não hại thay,
    Những ai có sở hữu,
    Khiến cho con người này,
    Bị trói buộc người khác.

(VI) (Ud 13)

Như vậy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, thanh nữ trẻ Bà-la-môn, vợ của một du sĩ có thai sắp sinh. Vợ của du sĩ ấy nói với du sĩ:

– Này Bà-la-môn, hãy đi và đem dầu về. Tôi cần dùng khi sanh con!

Khi được nói vậy, du sĩ ngoại đạo nói với nữ du sĩ:

– Ở đâu, ta có thể đem dầu về cho nàng?

Lần thứ hai, nữ du sĩ nói với du sĩ:

– Này Bà-la-môn, hãy đi và đem dầu về. Tôi cần dùng khi sanh con!

Lần thứ hai du sĩ nói với nữ du sĩ:

– Ở đâu, ta có thể đem dầu về cho nàng?

Lần thứ ba, nữ du sĩ nói với du sĩ:

– Này Bà-la-môn, hãy đi và đem dầu về. Tôi cần dùng khi sanh con!

Lúc bấy giờ, tại một kho của vua Pasenadi nước Kosala, một Sa-môn hay Bà-la-môn có thể uống bơ hay dầu cho đến thỏa thích, nhưng không được mang đi. Người du sĩ ấy suy nghĩ: “Tại một kho của vua Pasenadi nước Kosala… không được mang đi. Vậy ta hãy đi đến nhà kho của vua Pasnadi nước Kosala, uống dầu cho đến thỏa thích, sau khi về đến nhà, mửa dầu ấy ra và ta cho nữ du sĩ dùng khi sanh con “. Rồi du sĩ ấy đi đến nhà kho của vua Pasenadi nước Kosala, uống dầu cho đến thỏa thích, sau khi về nhà không có thể mửa lên hay mửa xuống; có cảm thọ khổ đau, nhói đau, đau khốc liệt thống khổ, lăn lộn qua lại.

Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực. Thế Tôn thấy người du sĩ ấy cảm thọ khổ đau, nhói đau khốc liệt, thống khổ, lăn lộn qua lại. Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng này:

  1. An lạc thay là người
    Không có gì sở hữu,
    Người chánh tri hiểu biết,
    Không có gì sở hữu.
    Hãy xem não hại thay,
    Những ai có sở hữu,
    Khiến cho con người này,
    Bị trói buộc người khác.

(VIII) (Ud 14)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthaphindika. Lúc bấy giờ, con trai độc nhất của một nam cư sĩ, khả ái, đáng yêu bị mệnh chung. Rồi nhiều nam cư sĩ, với áo đẫm ướt, với tóc đẫm ướt, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với các cư sĩ ấy đang ngồi một bên.

– Này các Cư sĩ, sao các Ông, với áo đẫm ướt, với tóc đẫm ướt, lại đến đây, trong lúc quá sớm như vậy?

Khi được nói vậy, người cư sĩ ấy thưa với Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, người con trai độc nhất của con khả ái, khả ý đã mệnh chung. Do vậy chúng con với áo ướt đẫm, với tóc ướt đẫm đã đến đây trong lúc quá sớm!

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng này:

  1. Bị khả ái, dễ thương
    Trói buộc và chi phối,
    Rất nhiều chư Thiên chúng,
    Và nhiều hạng con người
    Ðau khổ và héo mòn,
    Bị thần chết nhiếp phục.
    Ngày đêm không phóng dật,
    Từ bỏ dung sắc đẹp,
    Vị ấy đào gốc khổ,
    Mồi nhử của ác ma,
    Thật khó vượt qua được.

(VIII) (Ud 15)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Kundiyàya, trong rừng Kunditthàna. Lúc bấy giờ, Suppavàsà, con gái của vua xứ Koliya có thai đến bảy năm và nay bị đau đẻ đến ngày thứ bảy. Dầu nàng cảm giác những cảm thọ khổ đau, nhức nhối, khốc liệt, thống khổ, nàng vẫn duy trì ba niệm: “Thế Tôn thật là bậc Chánh Ðẳng Giác, Ngài thuyết pháp để đoạn tận đau khổ này. Chúng đệ tử của bậc Thế Tôn ấy là khéo hành trì. Chúng hành trì để đoạn tận đau khổ này. Thật sự an lạc là Niết-bàn, tại đây khổ đau này không có mặt “. Rồi Suppavàsà, con vua Koliya gọi ngưòi chồng của mình:

– Này Phu quân, hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến nhân danh tôi, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có ít bệnh ít não, khinh an khỏe mạnh, lạc trú và thưa: “-Bạch Thế Tôn, Suppavàsà con gái vua Koliya cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có ít bệnh ít não, khinh an khỏe mạnh, lạc trú “. Rồi hãy nói như sau: “Bạch Thế Tôn, Suppavàsà, con gái vua Koliya, có thai đến bảy năm và nay bị đau đẻ đến ngày thứ bảy. Dầu nàng cảm giác những cảm thọ…. tại đấy khổ đau này không có mặt! “

– Thật là tốt lành.

Koliyaputta đáp lại Suppavàsà, con gái vua Koliya, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Koliyaputta bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Suppavàsà, con vua Koliya, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn,…. lạc trú…. tại đấy khổ đau này không có mặt.

– Mong rằng Suppavàsà, con gái vua Koliya được an lạc, không bệnh, sanh đứa con không có bệnh hoạn. Với lời nói này của Thế Tôn, Suppavàsà, con gái Koliya, được an lạc không bệnh, đẻ đứa con trai không bệnh.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Koliyaputta hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi trở về nhà của mình. Koliyaputta thấy Suppavàsà, con gái vua Koliya, được an lạc, không bệnh, sanh đứa con trai không bệnh, thấy vậy liền suy nghĩ như sau: “Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay, thần lực và đại uy lực của Thế Tôn, khiến cho Suppavàsà con gái vua Koliya này, với lời nói của Thế Tôn được an lạc, không bệnh, sanh con trai không bệnh!”. Nghĩ vậy, Koliyaputta hoan hỷ, thích thú, tâm sanh hỷ lạc. Rồi Suppavàsà, con gái vua Koliya, bảo người chồng mình:

– Hãy đi, này Phu quân, hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đếnc nhân danh tôi, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: ” – Bạch Thế Tôn, Suppavàsà, con vua Koliya, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, có thai đến bảy năm và nay bị đau đẻ đến ngày thú bảy. Nàng được an lạc, không bệnh và sanh đứa con trai không bệnh. Nay nàng muốn mời chúng Tỳ-kheo dùng cơm trong bảy ngày. Mong Thế Tôn hãy nhận lời thọ bảy bữa cơm của Suppavàsà với chúng Tỷ-kheo”.

– Thật là tốt lành.

Koliyaputta đáp lại Suppavàsà, con gái vua Koliya, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Koliyaputta bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Suppavàsà, con gái vua Koliya, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và nói như sau: Suppavàsà, có thai đến bảy năm… đau đẻ đến ngày thứ bảy. Nay nàng được an lạc, không bệnh và sanh đứa con trai không bệnh. Nay nàng muốn mời chúng Tỳ-kheo… với chúng Tỷ-kheo!

Lúc bấy giờ một nam cư sĩ khác đã mời chúng Tỷ-kheo với Thế Tôn là vị cầm đầu, ngày mai dùng cơm người cư sĩ ấy là người hộ trì cho Tôn giả Moggallàna. Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Mahà Mogallàna:

– Này Moggallàna, hãy đến người cư sĩ, sau khi đến, nói với người cư sĩ ấy như sau: “Này Hiền giả, Suppavàsà con của vua Koliya.. có thai đến bảy năm… đến ngày thứ bảy. Nay nàng được an lạc.. Nay nàng muốn mời chúng Tỷ-kheo… với chúng Tỷ-kheo. Hãy để cho Suppavàsà tổ chức bảy ngày cơm trước. Sau sẽ đến lượt người hộ trì cho người”.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn!.

Tôn giả Mahà Moggallàna vâng đáp Thế Tôn rồi đi đến người cư sĩ ấy, sau khi đến nói với người cư sĩ:

– Này Hiền giả Suppavàsà… Hãy để cho Suppavàsà con của Koliya tổ chức bảy ngày cơm trước, sau sẽ đến phiên Ông.

– Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả bảo đảm cho con ba pháp về tài sản, về thọ mạng, về lòng tin, hãy để cho Suppavàsà, con gái của vua Koliya, tổ chức trước, rồi sau đến phiên con.

– Này Hiền giả, về hai pháp ta sẽ bảo đảm cho ông, về tài sản và về thọ mạng. Còn về lòng tin, thời ông phải tự bảo đảm!.

– Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả bảo đảm cho con hai pháp, về tài sản và về thọ mạng, hãy để cho Suppavàsà, con gái vua Koliya, tổ chức bảy ngày con trước. Rồi sẽ đến phiên con.

Rồi Tôn giả Mahà Moggallàna, sau khi thuyết phục được người cư sĩ ấy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, cư sĩ ấy đã được con thuyết phục. Hãy để cho Suppavàsà, con gái vua Koliya, tổ chức bảy ngày cơm trước, sau sẽ đến phiên người cư sĩ ấy.

Rồi Suppavàsà, con gái vua Koliya, trong bảy ngày mời chúng Tỷ-kheo với Thế Tôn là bậc dẫn đầu, tự tay mời và làm cho thỏa mãn với những món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm và khiến cho đứa trẻ đảnh lễ Thế Tôn và toàn thể chúng Tỷ-kheo. Rồi Tôn giả Sàriputta nói với đứa trẻ:

– Này Con, Con có kham nhẫn được không? Con có nuôi sống được không? Con có đau khổ gì không?

– Thưa Tôn giả, từ đâu con có thể kham nhẫn? Từ đâu con có thể nuôi sống? Từ đâu con không có đau khổ? Con đã sống bảy năm trong các ghè đầy máu!

Rồi Suppavàsà, con gái vua Koliya, nghĩ rằng: “Con ta đang nói chuyện với vị tướng quân về Pháp, hoan hỷ, tín thọ, với tâm hỷ lạc.”

Rồi Thế Tôn nói với Suppavàsà, con gái vua Koliya:

– Này Suppavàsà. Con có muốn một người con trai khác như vậy không?

– Bạch Thế Tôn, con muốn có bảy người con trai như vậy!

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này,ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Không vui, giả dạng vui,
    Không ái, giả dạng ái,
    Khổ đau, giả dạng lạc,
    Nhiếp phục kẻ phóng dật.

(IX) (Ud 18)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Ðông Viên, ngôi lầu của mẹ Migàra.

Mẹ Migàra có công việc liên hệ đến vua Pasenadi nước Kosala và vua Pasenadi nước Kosala chưa có quyết định về việc ấy. Rồi Visàkhà, mẹ của Migàra, vào buổi sáng sớm đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn nói với Visàkhà, mẹ của Migàra, đang ngồi một bên:

– Này Visàkhà, Bà từ đâu đi đến sớm như vậy?

– Bạch Thế Tôn con có công việc liên hệ đến vua Pasenadi nước Kosala… về việc ấy.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Mọi tùng thuộc là khổ,
    Mọi chủ quyền là lạc,
    Chung dùng làm não hại,
    Trói buộc khó vượt qua.

(X) (Ud 18)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Anupiya tại rừng xoài. Lúc bấy giờ, Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha, đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến ngôi nhà trống, và thường hay nói lên lời cảm hứng: “Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! ” Một số đông Tỳ-kheo nghe Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, thường nói lên lời cảm hứng: “Ôi, an lạc thay! Ôi an lạc thay! “. Nghe vậy, các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: “Không gì nghi ngờ chư Hiền, Tôn giả Bhaddiya con của Kàlighodha sống Phạm hạnh không có hoan hỷ, vì trước khi còn ở gia đình được hưởng an lạc nhà vua, vì Tôn giả nhớ đến an lạc ấy, nên khi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây… thường nói lên lời cảm hứng: “Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! ” Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Tôn giả Bhaddiya con của Kàligodha khi đi đến rừng… nói lên lời cảm hứng: “Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! “… không có nghi ngờ gì nữa.. sống Phạm hạnh không có hoan hỷ… “Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! “.

Rồi Thế Tôn bảo một Tỳ-kheo:

– Này Tỳ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta nói với Bhaddiya, con của Kàligodha: “Thưa hiền giả, bậc Ðạo sư gọi Hiền giả! “.

– Thưa vâng bạch Thế Tôn.

Vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha:

– Thưa Hiền giả, bậc Ðạo sư gọi Hiền giả.

– Thưa vâng, Hiền giả.

Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha, vâng đáp Tỷ-kheo ấy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha, đang ngồi một bên:

– Có thật chăng, này Bhaddiya, Thầy đi đến khu rừng “… Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! “?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

– Do thấy mục đích gì đi đến khu rừng “… an lạc? “.

– Bạch Thế Tôn, thuở trước khi còn ở trong gia đình, được hưởng an lạc nhà vua, trong nội cung có đặt người khéo bảo vệ, ngoại nội cung có đặt người khéo bảo vệ; trong thành nội có đặt người khéo bảo vệ, ngoài thành có đặt người khéo bảo vệ. Trong nước cũng có đặt người khéo bảo vệ, ngoài nước cũng có đặt người khéo bảo vệ. Bạch Thế Tôn, con được bảo vệ phòng giữ như vậy, nhưng con vẫn sống sợ hãi, hồi hộp, run sợ, hoảng sợ. Nhưng nay con đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến ngôi nhà trống, con sống một mình, con sống không sợ hãi, không hồi hộp, không run sợ, không hoảng sợ, không rộn ràng, không hốt hoảng, lắng dịu, nhẹ nhàng, tâm như con thú rừng. Bạch Thế Tôn, do thấy mục đích như vậy, nên con khi đi đến khu rừng… con nói lên lời cảm hứng “… an lạc thay! “.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng này:

  1. Với ai, trong nội tâm,
    Không có lòng phẫn nộ,
    Vượt qua hữu, phi hữu,
    Vị ấy thoát sợ hãi,
    An lạc, không sầu muộn,
    Chư Thiên không thấy được.

Chương Ba – Phẩm Nanda

(I) (Ud 21)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana trong khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, một Tỷ-kheo ngồi không xa Thế Tôn, ngồi kiết già, lưng thẳng, chịu đựng sự đau đớn, kết quả của nghiệp về trước, nhói đau, cực khổ, thống khổ, chánh niệm, tỉnh giác, không có sầu não.

Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Tỷ-kheo bỏ mọi nghiệp,
    Tẩy sạch bụi làm trước,
    An trú, không ngã sở,
    Không cần nói với người.

(II) (Ud 21)

Như vầy tôi nghe:

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàhapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Nanda, em của Thế Tôn, con của người dì, nói như sau với nhiều Tỷ-kheo: “Này các Hiền giả, tôi sống Phạm hạnh không có hoan hỷ, tôi không chịu nổi đời sống Phạm hạnh; sau khi bỏ học tập, tôi sẽ hoàn tục!” Một Tỷ-kheo khác đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Tôn giả Nanda, em của Thế Tôn, con của người dì, nói như sau: “… Tôi sẽ hoàn tục “. Rồi Thế Tôn bảo một Tỷ-kheo:

– Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta bảo Tỷ-kheo Nanda: “Hiền giả Nanda, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả “.

– Thưa vâng, Bạch Thế Tôn.

Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến Tôn giả Nanda, sau khi đến nói với Tôn giả Nanda:

– Hiền giả Nanda, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả!

– Thưa vâng, Hiền giả.

Tôn giả Nanda vâng đáp vị Tỷ-kheo ấy, đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Nanda đang ngồi một bên:

– Có thật chăng này Nanda, Thầy nói như sau với nhiều Tỷ-kheo: “Này các Hiền giả tôi sống Phạm hạnh không có hoan hỷ… tôi sẽ hoàn tục!”.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

– Nhưng này, không hoan hỷ cái gì, Thầy sống Phạm hạnh, khiến Thầy không chịu nổi sống Phạm hạnh, từ bỏ học tập, Thầy sẽ hoàn tục?

– Bạch Thế Tôn, khi con từ bỏ gia đình, một Thích ca nữ cô gái đẹp trong nước, với tóc chải mới nửa phần, ngó nhìn con và nói: “Quý tử hãy về gấp!” Bạch Thế Tôn, vì con không thể quên nàng, nên con sống Phạm hạnh không có hoan hỷ, con không có thể chịu nổi đời sống Phạm hạnh, sau khi từ bỏ học tập, con sẽ hoàn tục”.

Rồi Thế Tôn cầm tay Tôn giả Nanda như người lực sĩ duỗi bàn tay dang co lại, hay co lại bàn tay đang duỗi ra, biến mất ở Jetavana, và hiện ra tại cõi trời Ba mươi ba. Lúc bấy giờ, khoảng năm trăm Thiên nữ đi đến để hầu hạ Thiên chủ Sakka, và họ được gọi là “có chân như chim bồ câu”. Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo Tôn giả Nanda:

– Này Nanda, Thầy có thấy năm trăm Thiên nữ này, có chân như chim bồ câu không?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

– Này Nanda, Thầy nghĩ thế nào? Ai đẹp đẽ hơn, hay ai đáng ưa nhìn hơn, hay ai khả ái hơn, Thích ca nữ cô gái đẹp trong nước hay năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu này? “.

– Bạch Thế Tôn, ví như một con khỉ cái bị thương, tai mũi bị chặt đứt; cũng vậy là Thích ca nữ cô gái đẹp trong nước, nếu đem so sánh với năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu này, không thể ước lường so sánh, không bằng một phần nhỏ, không thể so sánh với chúng. Năm trăm Thiên nữ này đẹp hơn, dáng ưa nhìn hơn, khả ái hơn.

– Hãy hoan hỷ, này Nanda! Hãy hoan hỷ, này Nanda! Ta đền cho Thầy năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu ấy!

– Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đền cho con năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu, thời bạch Thế Tôn, con sẽ sống hoan hỷ trong đời sống Phạm hạnh.

Rồi Thế Tôn cầm cánh tay của Tôn giả Nanda, như người lực sĩ… đang duỗi ra, như vậy biến mất ở chư Thiên cõi trời Ba mươi ba, hiện ra ở Jetavana.

Các Tỷ-kheo được nghe: “Tôn giả Nanda, em Thế Tôn, con của bà dì sống Phạm hạnh vì mục đích Thiên nữ. Họ nói Thế Tôn có hứa đền cho năm trăm Thiên nữ với chân như chân chim bồ câu”. Rồi các Tỷ-kheo bạn của Tôn giả Nanda, gọi Tôn giả Nanda là người làm thuê, là người buôn bán: “Tôn giả Nanda là người làm thuê, Tôn giả Nanda là người buôn bán. Vì mục đích Thiên nữ, Tôn giả Nanda sống Phạm hạnh. Thế Tôn có hứa đền cho năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu!” Rồi Tôn giả Nanda, bị bực phiền, tủi nhục, chán ngấy, bởi bị gọi là người làm thuê, là người buôn bán, sống một mình, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, tự tin, không bao lâu, do mục đích mà thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình… vô thượng cứu cánh Phạm hạnh ấy, ngay trong hiện tại vị ấy tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy rõ biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không trở lui trạng thái này nữa”. Tôn giả Nanda đã trở thành một vị A-la-hán.

Rồi một thiên nhân, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Tôn giả Nanda con trai của bà dì, do đoạn trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng tri chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát.

Trí khởi lên nơi Thế Tôn: “Nanda, do đoạn trừ các lậu hoặc… vô lậu tâm giải thoát”. Rồi Tôn giả Nanda, sau khi đêm ấy đã mãn, đi đến Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Thế Tôn rồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên Tôn giả Nanda bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có hứa đền cho con năm trăm Thiên nữ với chân như chim bồ câu. Bạch Thế Tôn, con xin giải tỏa cho Thế Tôn lời hứa đền ấy.

– Này Nanda, với tâm cuả Ta, Ta rõ biết tâm của Thầy: “Do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại… tuệ giải thoát”. Lại nữa một Thiên nhân có báo cho Ta tin ấy: “Bạch Thế Tôn, Tôn giả Nanda… tuệ giải thoát”. Vì rằng, này Nanda, tâm của Thầy được giải thoát khỏi các lậu hoặc không còn chấp thủ, nên Ta được giải thoát khỏi lời hứa này.

Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, chính trong lúc ấy, nó lên lời cảm hứng này:

  1. Ai vượt khỏi bùn này,
    Ðè bẹp gai của dục,
    Ðạt được si đoạn diệt,
    Vị Tỷ-kheo như vậy,
    Không cảm thọ khổ lạc!

(III) (Ud 24)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, khoảng năm trăm Tỷ-kheo do Yasoja dẫn đầu, đã đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn. Các Tỷ-kheo mới đến ấy, trong khi chào thăm các Tỷ-kheo sở tại, sắp đặt sàng tọa, sửa soạn y bát, gây tiếng ồn ào to lớn. Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, tiếng ồn ào to lớn này là gì, như các người đánh cá cướp giật cá?

– Bạch Thế Tôn, có năm trăm Tỷ-kheo này, dẫn đầu là Yasoja, đã đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn. Các Tỷ-kheo mới đến ấy… gây nên tiếng ồn ào to lớn.

– Này Ananda, hãy nhân danh Ta nói với các Tỷ-kheo ấy: “Bậc Ðạo Sư gọi các Tôn giả “.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn, đi đến các Tỷ-kheo ấy, sau khi đến nói với các Tỷ-kheo ấy:

– Bậc Ðạo Sư gọi các Tôn giả!

– Thưa vâng, Hiền giả.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Ananda, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo ấy đang ngồi một bên:

– Này các Tỷ-kheo, tiếng ồn ào to lớn này là gì, như các người đánh cá cướp giựt cá?

Tôn giả Yasoja bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, có năm trăm Tỷ-kheo này đã đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn. Các Tỳ-kheo mới đến này… gây nên tiếng ồn ào to lớn.

– Này các Tỷ-kheo, hãy đi đi! Ta đuổi các Thầy, các Thầy không xứng đáng được sống gần Ta!

– Thưa vâng! Bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân hữu hướng về Ngài, dọn dẹp, sàng tọa, cầm lấy y bát, đi đến dân chúng Vajjì, tiếp tục bộ hành giữa dân chúng Vajjì rồi đi đến con sông Vaggamudà; sau khi đến, dựng lên chòi lá trên sông Vaggamudà, an cư mùa mưa tại chỗ ấy. Rồi Tôn giả Yasoja, sửa soạn an cư bảo các Tỳ-kheo:

– Thưa các Hiền giả, Thế Tôn đuổi chúng ta, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chúng ta, vì khởi lên lòng từ mẫn đối với chúng ta. Này chư Hiền, chúng ta hãy sống cho thật đúng pháp, chúng ta sống như thế nào để Thế Tôn có thể hoan hỷ!

– Thưa vâng, Hiền giả.

Các Tỷ-kheo vâng đáp Tôn giả Yasoja. Rồi các Tỷ-kheo ấy sống viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, và trong thời gian an cư, tất cả đều giác ngộ ba minh.

Rồi Thế Tôn, sau khi ở tại Sàvatthi cho đến khi vừa ý, liền bộ hành đi đến Vesàli, tiếp tục bộ hành đến Vesàli. Tại đấy, Thế Tôn trú ở Ðại Lâm, tại ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Thế Tôn với tâm cuả mình tác ý đến tâm các Tỷ-kheo ở trên bờ sông Vaggumudà, gọi Tôn giả Ananda: “Như có hào quang, này Ananda, là phương này, như có ánh sáng, này Ananda, là phương này. Tại phương ấy, các Tỷ-kheo đang sống trên bờ sông Vagumudà. Thật là không nhàm chán cho Ta nếu được đi và tác ý đến phương ấy. Này Ananda, hãy gửi một sứ giả đến các Tỷ-kheo ở trên bờ sông Vaggumudà và nói: “Bậc Ðạo sư cho gọi các Tôn giả! Bậc Ðạo sư muốn gặp các Tôn giả!”.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn, đi đến một Tỷ-kheo, sau khi đến, nói với Tỷ-kheo ấy:

– Hãy đi, này Hiền giả, hãy đi đến các Tỷ-kheo ở trên bờ sông Vaggumudà; sau khi đến, nói với các Tỷ-kheo ấy như sau: “Bậc Ðạo sư cho gọi các Tôn giả!”.

– Thưa vâng, Hiền giả.

Vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Ananda, như một người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại hay co lại cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy vị ấy biến mất ở ngôi nhà có nóc nhọn tại Ðại Lâm, và hiện ra trước mắt các Tỷ-kheo ở trên bờ sông Vaggumudà. Rồi Tỷ-kheo ấy nói với các Tỷ-kheo ở trên bờ sông Vaggumudà:

– Bậc Ðạo Sư gọi các Tôn giả! Bậc Ðạo sư muốn gặp các Tôn giả.

– Thưa vâng, Hiền giả.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp vị Tỷ-kheo ấy, sau khi dọn dẹp sàng tọa, cầm y bát, ví như một nhà lực sĩ… co lại bàn tay đang duỗi ra, cũng vậy các Tỳ-kheo ấy biến mất ở trên bờ sông Vaggumudà, và hiện ra ở Ðại Lâm, tại nhà có nóc nhọn, trước mặt Thế Tôn. Lúc bấy giờ Thế Tôn đang ngồi trong thiền định bất động. Các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: “Nay Thế Tôn đang an trú trong loại an trú nào?”. Rồi các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: “Thế Tôn nay đang an trú trong loại an trú bất động”.

Và tất cả các Tỷ-kheo ấy ngồi xuống trong định bất động.

Tôn giả Ananda khi đêm đã gần mãn, canh một đã gần qua, từ chỗ ngôi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, chấp tay hướng đến Thế Tôn, và bạch Thế Tôn:

– Ðêm đã gần tàn, canh một đã gần qua. Các Tỷ-kheo mới đến ngồi đã lâu. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy chào đón các Tỷ-kheo mới đến.

Ðược nghe nói vậy, Thế Tôn giữ im lặng. Lần thứ hai, Tôn giả Ananda, sau khi đêm đã gần mãn, canh giữa đã gần qua, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, chấp tay hướng đến Thế Tôn và Bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, đêm đã gần mãn. Canh giữa đã gần qua. Các Tỷ-kheo mới đến ngồi đã lâu. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy chào đón các Tỷ-kheo mới đến.

Lần thứ hai, Thế Tôn giữ im lặng. Lần thứ ba, Tôn giả Ananda, khi đêm đã gần mãn, canh cuối đã gần qua, rạng đông đã ló dạng, đêm đã có bộ mặt hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên, chắp tay hướng về Thế Tôn, và bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, đêm đã gần mãn, canh cuối đã gần qua, rạng đông đã ló dạng, đêm đã có bộ mặt hoan hỷ, các Tỷ-kheo mới đến ngồi đã lâu… Thế Tôn hãy chào đón các Tỷ-kheo mới đến!

Rồi Thế Tôn xuất khỏi định ấy bảo Tôn giả Ananda:

– Nếu Thầy có hiểu biết, này Ananda, Thầy sẽ không nói như vậy. Này Ananda, Ta và năm trăm Tỷ-kheo này tất cả đang nhập định bất động.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Ai đã thắng gai dục,
    Nắng, gia hại, trói buộc,
    Vị ấy đứng bất động,
    Như núi vững an trú,
    Vị Tỷ-kheo như vầy,
    Lạc khổ không dao động.

(IV) (Ud 27)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ Tôn giả Sàriputta ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, đặt niệm trước mặt. Thế Tôn thấy Tôn giả Sàriputta ngồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, đặt niệm trước mặt, rồi sau khi biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:

  1. Như ngọn núi bằng đá,
    Không động, khéo an trú,
    Cũng vậy vị Tỳ-kheo,
    Ðoạn diệt được ngu si,
    Như ngọn núi bằng đá,
    Không có bị dao động.

(V) (Ud 27)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Maha Moggallàna ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, nội tâm khéo an trú thân hành niệm. Thế Tôn thấy Tôn giả Maha Moggallàna ngồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết-già lưng thẳng nội tâm khéo an trú thân hành niệm.

Rồi Thế Tôn, sau khi biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Thân hành niệm an lập,
    Sáu xúc xứ chế ngự,
    Tỷ-kheo thường thiền định,
    Tự chứng tri Niết Bàn.

(VI) (Ud 28)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Veluvana, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, Tôn giả Pilindavaccha, thường hay gọi Tỳ-kheo với danh từ bần tiện. Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Tôn giả Pilindavaccha thường hay gọi các Tỷ-kheo với danh từ bần tiện.

Rồi Thế Tôn bảo một Tỷ-kheo:

– Hãy đi, này Tỷ-kheo, và nhân danh Ta, bảo Tỷ-kheo Pilindavaccha: “Này Hiền giả, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả! “.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn đi đến Tôn giả Pilindavaccha, sau khi đến nói với Pilindavaccha:

– Bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả!

– Thưa vâng, Hiền giả.

Tôn giả Pilindavaccha vâng đáp Tỷ-kheo ấy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Pilindavaccha đang ngồi một bên:

– Có thật chăng, này Vaccha. Thầy thường gọi các Tỷ-kheo với danh từ bần tiện?

– Thưa có, bạch Thế Tôn.

Rồi Thế Tôn sau khi tác ý đến đời sống trước của Pilindavaccha, liền bảo các Tỷ-kheo:

– Này, các Tỷ-kheo, chớ có bực phiền với Tỷ-kheo Pilindavaccha. Này các Tỷ-kheo, không phải vì trong lòng có sân hận mà Vaccha thường gọi các Tỷ-kheo với danh từ bần tiện. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Vaccha trong năm trăm năm nối tiếp nhau đã sanh trong gia đình Bà-la-môn. Danh từ bần tiện đã lâu ngay được chứa chấp trong vị ấy. Do vậy, Vaccha thường gọi Tỷ-kheo với danh từ bần tiện.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng này:

  1. Trong ai không man trá,
    Không mạn, tham đoạn tận,
    Không ngã sở, không dục,
    Phẫn nộ được trừ diệt,
    Tự ngã thành mát lạnh
    Vị ấy là Phạm chí,
    Là Sa môn Tỷ-kheo.

(VII) (Ud 29)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Veluvana, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ Tôn giả Mahakassapa, trú ở hang Pipphali, ngồi một thế ngồi kiết-già trong bảy ngày, sau khi nhập vào một loại thiền định. Rồi Tôn giả Mahakassapa, sau bảy ngày, xuất khỏi định ấy, Tôn giả Mahakassapa, sau khi xuất khỏi định ấy, suy nghĩ như sau: “Ta hãy đi vào Ràjagaha để khất thực! “. Lúc bấy giờ năm trăm chư Thiên đang cố gắng lo cho Tôn giả Mahakassapa được đồ ăn khất thực. Rồi Tôn giả Mahakassapa sau khi khước từ năm trăm Thiên nhân ấy, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào Ràjagaha để khất thực.

Lúc bấy giờ, Thiên chủ Sakka muốn cúng dường đồ ăn khất thực cho Tôn giả Mahakassapa, hóa thân làm người thợ dệt đang dệt chỉ Sujàta, thiếu nữ Asura đang làm cho đầy cái thoi. Rồi Tôn giả Mahakassapa, sau khi đi từng nhà khất thực ở Ràjagaha, đi đến trú xứ của Thiên chủ Sakka. Thiên chủ Sakka thấy Tôn giả Mahakassapa từ xa đi đến, sau khi thấy, liền ra khỏi nhà, tiếp đón, lấy bát từ nơi tay cầm đem vào nhà, bới cơm từ nơi nồi, đựng đầy bát và đưa lại cho Tôn giả Mahakassapa. Ðồ ăn khất thực ấy gồm có nhiều loại canh, nhiều loại món ăn, nhiều loại gia vị, món ăn trộn lẫn với nhau.

Rồi Tôn giả Mahakassapa suy nghĩ: “Ai là chúng sanh này, lại có thần lực uy lực như vậy? “. Rồi Tôn giả Mahakassapa suy nghĩ: “Chính là Thiên chủ Sakka”, sau khi biết vậy, nói với Thiên chủ Sakka:

– “Này Kosiya, chính Ông đã làm sự việc này. Chớ làm như vậy nữa!”.

– Thưa Tôn giả Kassapa, mục đích của chúng tôi là được phước. Ðiều chúng tôi cần làm là được phước.

Rồi Thiên chủ Sakka, sau khi đảnh lễ Tôn giả Mahakassaspa, thân phía hữu hướng về Ngài, bay lên trên hư không, và ở giữa hư không nói lên ba lần cảm hứng: “Ôi, bố thí tối thượng là bố thí khéo an trú vào Kassapa! Ôi, bố thí tối thượng là bố thí khéo an trú vào Kasapa! “.

Thế Tôn với Thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân nghe giữa hư không Thiên chủ Sakka nói lên ba lần lời cảm hứng: “Ôi, bố thí tối thượng là bố thí khéo an trú vào Kassapa! Ôi, bố thí tối thượng là bố thí khéo an trú vào Kassapa!.

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Vị Tỷ-kheo khất thực,
    Tự sống không nhờ người,
    Chư Thiên thương vị ấy,
    Thường an tịnh chánh niệm.

(VIII) (Ud 30)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, nhiều Tỷ-kheo sau buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về, ngồi hội họp tại rạp tròn có cây kareri và câu chuyện sau đây được khởi lên: “Tỷ-kheo đi khất thực, thưa các Hiền giả, thỉnh thoảng mắt được thấy sắc khả ái, thỉnh thoảng tai được nghe tiếng khả ái, thỉnh thoảng mũi được ngửi hương khả ái, thỉnh thoảng lưỡi được nếm khả ái, thỉnh thoảng thân được cảm giác xúc khả ái.

Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo khất thực được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính khi đi khất thực. Vậy này chư Hiền, chúng ta hãy là ngưòi đi khất thực, thỉnh thoảng, mắt chúng ta được thấy sắc khả ái, thỉnh thoảng tai chúng ta được nghe tiếng khả ái, thỉnh thoảng mũi chúng ta được ngửi hương khả ái, thỉnh thoảng lưỡi chúng ta được nếm vị khả ái, thỉnh thoảng thân chúng ta được cảm giác xúc khả ái. Chúng ta cũng được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính khi chúng ta sẽ đi khất thực”.

Câu chuyện này giữa các Tỷ-kheo ấy chưa được nói xong, thì Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiền định đứng dậy, đi đến rạp tròn có cây kareri, sau khi đến ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, này các Thày ngồi ở đây nói câu chuyện gì? Và câu chuyện gì giữa các Thầy chưa được nói xong?

– Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con sau bữa ăn, sau khi đi khất thực trở về, chúng con ngồi hội họp tại rạp tròn có cây kareri, và câu chuyện sau đây được khởi lên giữa chúng con: “Tỷ-kheo đi khất thực, thưa các Hiền giả, thỉnh thoảng mắt được thấy sắc khả ái… chúng ta cũng được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính, khi chúng ta sẽ đi khất thực “. Bạch Thế Tôn đây là câu chuyện giữa chúng con chưa được nói xong thì Thế Tôn đến.

– Này các Tỳ-kheo, chuyện này thật không xứng đáng cho các Thầy, là những thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, khi các Thầy nói lên câu chuyện như vậy. Khi các Thầy ngồi hội họp với nhau, này các Tỷ-kheo, có hai công việc cần phải làm: Nói pháp hay giữ im lặng của bậc Thánh!.

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Vị Tỷ-kheo khất thực,
    Tự sống không nhờ người,
    Chư Thiên thương vị ấy,
    Nhưng nếu Tỷ-kheo ấy,
    Y tựa vào danh vọng,
    Chư Thiên không có thương.

(IX) (Ud 31)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ nhiều Tỷ-kheo… (như kinh trên)… câu chuyện này khởi lên: “Này chư Hiền, ai biết nghề gì? Ai học tập nghề gì? Nghề gì là tối thượng? “

Ở đây, một số người nói như sau: “Huấn luyện voi là nghề tối thượng”. Một số người nói như sau: “Huấn luyện ngựa là nghề tối thượng”. Một số người nói như sau: “Làm xe là nghề tối thượng.” Một số người nói như sau: “Nghề bắn cung là nghề tối thượng”. Một số người nói như sau: “Nghề đao kiếm là nghề tối thượng”. Một số người nói như sau: “Nghề ấn hiệu là nghề tối thượng”. Một số người nói như sau: “Nghề tính toán là nghề tối thượng”. Một số người nói như sau: “Nghề ước lượng là nghề tối thượng”. Một số người nói như sau: “Nghề viết bài là nghề tối thượng”. Một số người nói như sau: “Nghề làm thơ là nghề tối thượng”. Một số người nói như sau: “Nghề phỏng đoán các nguyên nhân tự nhiên là nghề tối thượng”. Một số người nói như sau: “Nghề điều khiển bộ máy quốc gia là nghề tối thượng”. Ðây là câu chuyện xảy ra giữa chúng con chưa được nói xong.

Rồi Thế Tôn vào buổi chiều… (Xem III,8…) chưa được nói xong… “Ở đây, bạch Thế Tôn… khởi lên: “Này hiền giả ai biết nghề gì… nghề điều khiển bộ máy quốc gia là nghề tối thượng “. Bạch Thế Tôn đây là câu chuyện xảy ra giữa chúng con chưa được nói xong, thì Thế Tôn đã đến”.

– Này các Tỷ-kheo, chuyện này thật không xứng đáng cho các Thầy… khi các Thầy ngồi hội họp với nhau, có hai công việc cần phải làm: Nói pháp hay giữ im lặng của bậc Thánh.

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Ai sống không nghề nghiệp,
    Nhẹ nhàng, muốn lợi ích,
    Các căn được chế ngự,
    Toàn diện được giải thoát,
    Không nhà, không ngã sở,
    Không dục, giết ác ma,
    Vị Tỷ-kheo như vậy,
    Sống cô độc một mình.

(X) (Ud 32)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Uruvelà, trên bờ sông Neranjara, dưới gốc cây Bồ-đề, khi mới thành Chánh giác. Lúc bấy giờ Thế Tôn trong bảy ngày ngồi một thế ngồi kiết già, hưởng thọ giải thoát lạc. Rồi Thế Tôn, sau bảy ngày ấy, từ định ấy xuất khởi, nhìn đời với Phật nhãn, thấy các chúng sanh bị thiêu đốt với nhiều loại thiêu đốt, bị nhiệt não bởi nhiều loại nhiệt não, bởi tham, bởi sân, bởi si.

Rồi Thế Tôn, sau khi biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Ðời này bị thiêu đốt,
    Chi phần bởi cảm xúc,
    Tự mình nói rõ lên,
    Chứng bệnh của chính mình,
    Bởi vì nó nghĩ đến,
    Do đó bị đổi khác,
    Bị đổi khác vi hữu,
    Bị lệ thuộc vì hữu,
    Ðời này hữu chi phối,
    Lại hoan hỷ với hữu,
    Khi nào có hoan hỷ,
    Ở đấy có sợ hãi,
    Với ai có sợ hãi,
    Ðấy tức là đau khổ,
    Chính do đoạn diệt hữu,
    Phạm hạnh này được sống.

Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào đã tuyên bố rằng sự giải thoát khỏi hữu là do hữu. Ta nói rằng tất cả những vị ấy không giải thoát khỏi hữu.

Những Sa môn hay những Bà-la-môn nào đã tuyên bố rằng sự xuất ly khỏi hữu là do phi hữu, tất cả những vị ấy, Ta tuyên bố rằng chúng không nương tựa nơi hữu.

Do duyên sanh y, khổ này được sanh khởi. Chính do đoạn diệt tất cả sanh y, khổ không có hiện hữu.

  1. Hãy xem đời rộng này,
    Bị vô minh chi phối,
    Các sanh loại được sanh,
    Ưa thích được sanh khởi,
    Không thoát được sanh hữu.
    Với ai đốt sanh hữu,
    Tất cả mọi thời, xứ,
    Tất cả sanh hữu này,
    Vô thường khổ biến hoại,
    Như vậy, thấy như thật,
    Với chơn chánh trí tuệ,
    Hữu ái được đoạn tận,
    Phi hữu ái hoan hỷ
    Ðoạn diệt ái hoàn toàn,
    Ly tham, diệt, hoàn toàn,
    Như vậy là Niết Bàn,
    Tỷ-kheo ấy mát lạnh,
    Không chấp thủ tái sanh,
    Nhiếp phục được ma vương,
    Trận chiến đã chiến thắng,
    Vị Tỷ-kheo như vậy,
    Vượt qua mọi sanh hữu.

Chương Bốn – Phẩm Meghiya

(I) (Ud 34)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Càlikà, tại núi Càlikà Lúc bấy giờ Tôn giả Meghiya là người thị giả Thế Tôn. Rồi Tôn giả Meghiya đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, con muốn vào làng Jantu để khất thực.

– Này Meghiya, hãy làm những gì Thầy nghĩ là hợp thời.

Rồi Tôn giả Meghiya, vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào làng Jantu để khất thực. Khất thực ở làng Jantu xong, sau buổi ăn, khi khất thực trở về, đi đến bờ sông Kimikàkà, sau khi đến, bộ hành qua lại trên bờ sông Kimikàlà, thấy rừng xoài tươi đẹp, khả ái, thấy vậy Tôn giả Meghiya suy nghĩ: “Thật tươi đẹp thay, khả ái thay rừng xoài này. Rừng xoài này thật là vừa đủ để một thiện nam tử tinh cần, hành trì hạnh tinh cần. Nếu Thế Tôn cho phép ta, ta sẽ đến rừng xoài này để tinh cần hành trì”. Rồi Tôn giả Meghiya đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, ngồi xuống một bên, Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn:

– Ở đây, bạch Thế Tôn, con vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào làng Jantu để khất thực. Khất thực ở Jantu xong, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, con đi đến bờ sông Kimikàlà, sau khi đến, con bộ hành qua lại trên bờ sông Kimikàlà, con thấy rừng xoài tươi đẹp, khả ái, thấy vậy, con suy nghĩ: “Thật tươi đẹp thay, khả ái thay là rừng xoài này. Rừng xoài này thật là vừa đủ để một thiện nam tử tinh cần, hành trì hạnh tinh cần”. Nếu Thế Tôn cho phép con, con sẽ đi đến rừng xoài ấy để tinh cần hành trì.

Ðược nói vậy, Thế Tôn nói với Tôn giả Meghiya:

– Hãy chờ đợi, này Meghiya. Chúng ta nay chỉ có một mình, chờ cho đến khi một Tỳ-kheo khác đến!.

Lần thứ hai, Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, đối với Thế Tôn, không có gì cần phải làm thêm nữa, không có gì cộng thêm vào việc đã làm. Nhưng đối với con, bạch Thế Tôn, có việc cần phải làm thêm nữa, có việc cộng thêm vào việc đã làm. Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn cho phép con, con sẽ đi đến rừng xoài này để tinh cần tu hành.

Lần thứ hai, Thế Tôn nói với Tôn giả Meghiya:

– Hãy chờ đợi này Meghiya! Chúng ta nay chỉ có một mình, chờ cho đến khi một Tỷ-kheo khác đến.

Lần thưa ba, Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, đối với Thế Tôn không có gì cần phải làm thêm nữa, không có gì cộng thêm vào việc đã làm… con sẽ đi đế rừng xoài này để tinh cần tu hành.

– Này Meghiya, khi Thầy nói tinh cần, thời Ta có thể nói gì được! Này Meghiya, nay Thầy hãy làm những gì Thầy nghĩ là hợp thời!.

Rồi Tôn giả Meghiya từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài đi đến rừng xoài ấy, sau khi đến, đi sâu vào rừng xoài và ngồi trú ban ngày dưới một gốc cây. Trong khi Tôn giả Meghiya trú trong rừng xoài ấy, phần lớn ba tâm ác, không thiện hiện hành, tức là dục tầm, sân tầm, hại tầm.

Rồi Tôn giả Meghiya suy nghĩ như sau: “Thật vi diệu thay, thật hi hữu thay! Ta vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, lại bị ba tâm ác, không thiện này xâm nhập, tức là dục tầm, sân tầm, hại tầm”. Rồi Tôn giả Meghiya vào buổi chiều từ thiền tịnh đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn:

– Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi con sống trong rừng xoài ấy, phần lớn ba tầm ác, không thiện hiện hành, tức là dục tầm, sân tầm, hại tầm. Bạch Thế Tôn, rồi con suy nghĩ như sau: “Thật vi diệu thay… hại tầm”.

– Này Meghiya, khi tâm giải thoát chưa được thuần thục, năm pháp đưa đến sự thuần thục. Thế nào là năm? Ở đây thiện bạn hữu, thiện thân hữu là pháp thứ nhất, này Meghiya, khiến tâm giải thoát chưa thuần thục đi đến thuần thực. Lại nữa, này Meghiya, Tỷ-kheo giữ giới, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokha, đầy đủ uy nghĩ chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp. Ðây là pháp thứ hai, này Meghiya, khiến tâm giải thoát chưa thuần thục, đi đến thuần thục. Lại nữa, này Meghiya, phàm có những câu chuyện nào nghiêm túc, thích ứng khai mở tâm, đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, như câu chuyện về ít dục, câu chuyện về biết đủ, câu chuyện về viễn ly, câu chuyện về hòa hợp, câu chuyện về tinh cần, tinh tấn, câu chuyện về giới luật, câu chuyện về thiền định, câu chuyện về trí tuệ, câu chuyện về giải thoát, câu chuyện về giải thoát tri kiến. Những câu chuyện như vậy có thể được không có khó khăn, có thể được không có mệt nhọc, có thể được không có phí sức. Ðây là giải pháp thứ ba, này Meghiya, khiến cho tâm giải thoát chưa thuần thục đi đến thuần thục. Lại nữa, này Meghiya, vị Tỷ-kheo sống tinh cần, tinh tấn, để đoạn tận các pháp không thiện, để làm sanh khởi các pháp thiện, kiên trì, cương quyết, không từ bỏ gánh nặng đối với pháp thiện. Ðây là pháp thứ tư, này Meghiya, khiến cho tâm giải thoát chưa thuần thục, đi đến thuần thục. Lại nữa, này Meghiya, vị Tỷ-kheo có trí tuệ, đầy đủ trí tuệ, đi đến thẩm sát sanh diệt, với Thánh thể nhập đưa đến đoạn tận khổ đau. Ðây là pháp thứ năm. Này Meghiya, khiến tâm thoát chưa thuần thục đi đến thuần thục. Này Meghiya, đây là năm pháp khiến tâm giải thoát chưa thuần thục đi đến thuần thục.

Này Meghiya, với vị Tỷ-kheo thiện thân hữu, thiện bạn hữu, thiện bằng hữu, được chờ đợi là vị ấy sẽ giữ giới, sẽ sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và tu tập trong các học pháp. Với vị Tỷ-kheo thiện thân hữu, thiện bạn hữu, thiện bằng hữu, sẽ giữ giới, sẽ sống chế ngự… tu tập trong các học pháp, được chờ đợi là phàm có những câu chuyện nào nghiêm túc, thích ứng, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Như câu chuyện về ít dục, câu chuyện về viễn ly, câu chuyện về hòa hợp, câu chuyện về tinh cần tinh tấn, câu chuyện về giới luật, câu chuyện về thiền định, câu chuyện về trí tuệ, câu chuyện về giải thoát, câu chuyện về giải thoát tri kiến; những câu chuyện như vậy có thể có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức. Với vị Tỷ-kheo thiện thân hữu, thiện bạn hữu, thiện bằng hữu, được chờ đợi là vị ấy sống tinh cần, tinh tấn để đoạn tận các pháp không thiện, để làm sanh khởi các pháp thiện, kiên trì, cương quyết, không từ bỏ gánh nặng đối với pháp thiện. Với vị Tỷ-kheo thiện thân bằng hữu, thiện bạn hữu, thiện bằng hữu, được chờ đợi là vị Tỷ-kheo sẽ có trí tuệ, đầy đủ trí đi đến thẩm sát sanh diệt với thánh thể nhập đưa đến đoạn tận khổ đau.

Lại nữa, này Meghiya, với vị Tỷ-kheo khéo an trú trong năm pháp này, bốn pháp cần phải tu tập thêm: Bất tịnh cần phải tu tập để đoạn tận tham; Từ cần phải tu tập để đoạn tận sân; Niệm hơi thở vô hơi thở ra cần phải tu tập để trừ khử tầm tư; Vô thường tưởng cần phải tu tập để nhổ lên kiêu mạn, tôi là. Này Meghiya, với ai có tưởng vô thường, tưởng vô ngã được an trú. Với ai có tưởng vô ngã, vị ấy đạt được sự nhổ lên kiêu mạn: tôi là, Niết-bàn ngay trong hiện tại.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Các tầm nhỏ tế nhị,
    Hiện hành ý hoan hỷ,
    Do không biết đến chúng,
    Tâm động chạy nhiều đời,
    Nếu biết chúng tầm tư,
    Nhiệt tâm và chánh niệm,
    Chế ngự được tư tưởng,
    Khi ý không hoan hỷ,
    Bậc Chánh giác bỏ chúng,
    Không còn chút dư tàn.

(II) (Ud 37)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Kusinàra, tại Upavatama, trong ngôi rừng Pàla của dân chúng Mallà. Lúc bấy giờ nhiều Tỷ-kheo, đang sống trong những cốc ở trong rừng không xa Thế Tôn bao nhiêu, tháo động, kiêu căng, dao động, lắm mồm, lắm miệng, lắm lời, thất niệm, không tỉnh giấc, không định tĩnh, tâm tán loạn, các căn thả lỏng. Thế Tôn thấy số đông các Tỷ-kheo ấy, đang sống trong những cốc ở trong rừng, tháo động, kiêu căng, dao động, lắm mồm, lắm miệng, lắm lời, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, các căn thả lỏng.

Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Với thân không hộ trì,
    Với tà kiến chi phối,
    Bị hôn trầm thụy miên,
    Nhiếp phục và chế ngự,
    Kẻ ấy bị rơi vào
    Uy lực của Ma vương
    Do vậy hộ trì tâm,
    Sở hành chánh tư duy,
    Ðặt chánh kiến hàng đầu,
    Rõ biết tánh sanh diệt,
    Nhiếp phục và chế ngự,
    Hôn trầm và thụy miên
    Vị Tỷ-kheo như vậy,
    Từ bỏ mọi ác thú.

(III) (Ud 38)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn đang bộ hành giữa dân chúng Kosala với đại chúng Tỷ-kheo. Rồi Thế Tôn từ con đường bước xuống, đi đến một gốc cây, sau khi đến ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Hỏi một kẻ chăn bò đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn với pháp thoại trình bày, khích lệ, làm cho phấn chấn, làm cho hoan hỷ người chăn bò đang ngồi một bên ấy. Rồi người chăn bò ấy, sau khi được Thế Tôn, với pháp thoại trình bày, khích lệ, làm cho phấn chấn, làm cho phấn khởi, bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận lời, ngày mai đến dùng cơm với chúng Tỷ-kheo”. Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi người chăn bò ấy, sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.

Rồi người chăn bò ấy, sau khi đêm ấy đã mãn, sau khi dự trữ sẵn sàng một số lớn cơm sữa đặc và bơ tươi và báo thời giờ cho Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời, cơm đã sẵn sàng.

Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi đến trú xứ của người chăn bò ấy, với chúng Tỷ-kheo, sau khi đến ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Người chăn bò ấy, tự tay mời, làm cho thỏa mãn chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị cầm đầu, với cơm sữa đặc và bơ tươi. Rồi người chăn bò, khi đức Phật đã dùng xong, tay đã rời khỏi bát, liền lấy một ghế ngồi thấp, ngồi xuống một bên, Thế Tôn với pháp thoại, trình bày, khích lê, làm cho phấn chấn, làm cho hoan hỷ, người chăn bò đang ngồi một bên, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi ra đi. Thế Tôn ra đi không bao lâu, có ngưòi đoạt mạng sống người chăn bò ấy tại biên giới của làng. Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, hôm nay chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị dẫn đầu đã được người chăn bò ấy tự tay mời ăn và làm cho thỏa mãn với cơm sữa đặc và bơ tươi. Người chăn bò ấy, bạch Thế Tôn, đã bị một người đoạt mạng sống tại biên giói của làng.

Thế Tôn sau khi biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:

  1. Nếu có độc ác gì,
    Kẻ thù hại người thù,
    Tâm định hướng tà vạy,
    Còn làm ác hơn nữa.

(VI) (Ud 39)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha, tại Veluvana chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Mahà Moggallàna trú ở động chim bồ câu. Lúc bấy giờ Tôn giả Sàriputta, trong đêm có sáng trăng, ngồi giữa trời với tóc mới được cạo xong, đang nhập định. Có hai Dạ-xoa là bạn với nhau đang đi từ phương Nam lên phương Bắc vì một vài công việc. Các Dạ-xoa ấy thấy Tôn giả Sàriputta trong đêm có sáng trăng, ngồi giữa trời với tóc mới cạo xong.

Thấy vậy, một Dạ-xoa nói với Dạ-xoa thứ hai: “Này bạn, ta có ý muốn đánh trên đầu vị Sa-môn này”. Ðược nghe nói vậy, vị Dạ-xoa này nói với Dạ-xoa ấy: “Chớ có làm, này bạn, không làm gì được với vị Sa-môn! Này bạn, Sa-môn ấy vĩ đại, có đại thần lực, có đại uy lực ” Lần thứ hai, vị Dạ-xoa ấy nói vị Dạ-xoa này: “Này bạn, ta có ý muốn đánh trên đầu vị Sa-môn này”. Lần thứ hai, vị Dạ-xoa này nói với vị Dạ-xoa ấy: “Chớ có làm, này bạn, không làm gì được với vị Sa-môn!. Này bạn, Sa-môn ấy vĩ đại, có đại thần lực, có đại uy lực”. Lần thứ ba, vị Dạ-xoa ấy, nói với vị Dạ-xoa này: “Này bạn, ta có ý muốn đánh trên đầu của vị Sa-môn này”. Lần thứ ba, vị Dạ-xoa này nói với vị Dạ-xoa ấy: “Chớ có làm này bạn, không làm gì được với vị Sa-môn. Này bạn, Sa-môn ấy vĩ đại, có đại thần lực, có đại uy lực”.

Rồi Dạ-xoa ấy không nghe theo, Dạ-xoa này liền đánh trên đầu Tôn giả Sàriputta. Với cái đánh này, có thể làm ngã con voi bảy đến tám khuỷu tay cao hay làm bề tan ngọn núi lớn. Ngay lúc ấy, Dạ-xoa ấy hét lớn: “Tôi bị cháy! Tôi bị cháy! ” và rơi vào đại địa ngục.

Tôn giả Mahà Moggallàna với Thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, thấy Tôn giả Sàriputta bị đánh trên đầu, thấy vậy liền đến Tôn giả Sàriputta, sau khi đến, nói với Tôn giả Sàriputta:

– Mong rằng Hiền giả có thể kham nhẫn! Mong rằng Hiền giả có thể chịu đựng. Mong rằng Hiền giả không có đau đớn!

– Này Hiền giả Moggallàna, tôi có thể kham nhẫn! Hiền giả Moggallàna, tôi có thể chịu đựng! Hiền giả Moggallàna, nhưng đầu tôi có đau.

– Thật vi diệu thay, Hiền giả Sàriputta!. Hiền giả Sàriputta thật có thần lực lớn, thật có uy lực lớn! Ở đây, thưa Hiền giả Sàriputta, có con Dạ-xoa đánh trên đầu Hiền giả, đánh thật mạnh. Với cái đánh ấy, có thể làm ngã con voi bảy đến tám khuỷu tay cao, hay làm bể tan ngọn núi lớn và Tôn giả Sàriputta đã nói như sau: “Này Hiền giả Moggallàna, tôi có thể kham nhẫn! Này Hiền giả Moggallàna, tôi có thể chịu đựng! Nhưng tôi có hơi đau đầu!” Thật vi diệu thay, Hiền giả Moggallàna! Thật hy hữu thay Hiền giả Moggallàna! Có đại thần lực là tôn giả Mahà Moggallàna, có đại uy lực, vì rằng Hiền giả có thể thấy được Dạ-xoa, nhưng tôi này không thấy được một con quỷ đói.

Thế Tôn với Thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, nghe được câu chuyện như vậy giữa hai vị long tượng ấy.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Tâm ai như tảng đá,
    An trú không dao động,
    Không tham vật khả ái,
    Ðáng phẫn nộ, không sân,
    Tâm ai tu như vậy,
    Từ đâu khổ đến được?

(V) (Ud 41)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Kosambi, tại khu vuờn Ghosita. Lúc bấy giờ Thế Tôn sống bị các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, các vua, các đại thần của vua, các ngoại đạo, các đệ tử ngoại đạo quấy rầy, bị quấy rầy nên khổ, không có thoải mái an ổn. Rồi Thế Tôn suy nghĩ như sau: “Nay Ta sống bị các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni… quấy rầy, vì bị quấy rầy nên khổ, không có thoải mái an ổn. Vậy Ta hãy sống một mình, xa rời đại chúng”.

Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào Kosambi để khất thực. Khất thực ở Kosambi xong, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, liền dọn dẹp sàng tọa của mình, cầm y bát, không nói cho thị giả biết, không báo cho chúng Tỷ-kheo biết, một mình không có người thứ hai ra đi, bộ hành hướng đến Pàlileyyaka, tiếp tục bộ hành và đi đến Pàlileyyaka. Tại đây, Thế Tôn sống ở Pàlileyyaka, khóm rừng Rakkhita, dưới gốc cây Sàla Bhadda.

Rồi một con voi, bị các con voi, các con voi cái, các con voi con, các con voi còn bú quấy rầy, ăn cỏ với đầu ngọn bị cắt đứt, ăn các cành cây bị gẫy, uống nước bị vẩn đục, khi hụp lặn xong lên khỏi nước nó bị các con voi cái cọ xát thân hình, vì bị quấy rầy nên khổ, không có thoải mái an ổn. Rồi con voi ấy suy nghĩ: “Ta bị các con voi, các con voi cái… Ta vì bị phiền quấy rầy nên khổ, không có thoải mái, an ổn. Vậy Ta hãy sống một mình, xa rời khỏi đàn voi”.

Rồi con voi ấy, rời khỏi đàn voi, đi đến Pàlileyyaka, tại khóm rừng Rakkita, ở gốc cây sàla Bhadda. Tại đấy, con voi ấy tại chỗ nào Thế Tôn ở, tại chỗ ấy nó dọn sạch cỏ với cái vòi của mình, đem nước uống, đồ ăn để Thế Tôn dùng.

Rồi Thế Tôn trong khi sống độc cư thiền định, tư tưởng như sau được khởi lên: “Ta trước đây bị các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni… quấy rầy không có thoải mái an ổn. Nay Ta sống không có bị các Tỷ-kheo… không có bị các ngoại đạo, đệ tử các ngoại đạo quấy rầy, vì không bị quấy rầy, Ta sống an lạc thoải mái”.

Còn con voi ấy cũng khởi lên suy nghĩ như sau: “Trước đây ta sống bị các con voi.. quấy rầy, vì bị quấy rầy nên khổ, không có thoải mái an ổn. Nay ta sống không bị các con voi… quầy rầy. Ta ăn cỏ với đầu ngọn không bị cắt đứt, ăn các cành cây không bị bẽ gãy, uống nước không bị vẫn đục, khi hụp lặn xong lên khỏi nước, ta không bị các con voi cái cọ xát thân hình, ta không bị quấy rầy nên sống an lạc, thoải mái an ổn”.

Rồi Thế Tôn, sau khi biết hạnh viễn ly của mình, với tâm của mình biết được tâm của con voi ấy, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Ðây là voi với voi,
    Với voi có ngà lớn
    Với tâm điều phục tâm,
    Một mình vui thích rừng.

(VI) (Ud 42)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ Tôn giả Pindolabhàradvàja ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết-già lưng thẳng, sống ở rừng, đi khất thực, mặc y lượm từ đống rác, chỉ mang ba y, ít dục, biết đủ, viễn ly, không ưa thích hội họp, tinh cần tinh tấn, nói hạnh đầu đà, chú tâm vào tăng thượng tâm. Thế Tôn thấy Tôn giả Pindolabhàradvàja ngồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng… chú tâm vào tăng thượng tâm.

Rồi Thế Tôn sau khi rõ biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Không mắng, không gia hại,
    Chế ngự trong giới bổn,
    Tiết độ trong ăn uống,
    Nằm ngồi chỉ một mình,
    Chú tâm vào tăng thượng,
    Chính lời chư Phật dạy.

(VII) (Ud 43)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ Tôn giả Sàriputta ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, kiết-già lưng thẳng, ít dục, biết đủ, viễn ly, không ưa hội họp, tinh cần tinh tấn, chú tâm vào tăng thượng tâm. Thế Tôn thấy Tôn giả Sàriputta ngồi không xa bao nhiêu, kiết già lưng thẳng, ít dục, biết đủ, viễn ly, không ưa hội họp, tinh cần tinh tấn, chú tâm vào tăng thượng tâm.

Rồi Thế Tôn sau khi biết ý nghĩa này, ngay lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Tâm tăng thượng ẩn sĩ,
    Không phóng dật, tu tập,
    Trên con đường chánh trí,
    Vị ấy không cầu muộn,
    Luôn luôn được an tịnh,
    Thường nắm giữ chánh niệm.

(VIII) (Ud 44)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ Thế Tôn được cung kính, tôn trọng, đảnh lể, cúng dường, tôn kính nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Chúng Tỷ-kheo cũng được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường tôn kính, cũng nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Nhưng các du sĩ ngoại đạo không được cung kính… Cũng không nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Các du sĩ ngoại đạo ấy, không có thể chịu nổi sự cung kính đối với Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo, đi đến nữ du sĩ Sundari, sau khi đến, nói với nữ du sĩ Sundari:

– Này chị, chị có thể làm lợi ích cho các bà con?

– Thưa các Tôn giả, con có thể làm gì? Việc gì con có thể làm được? Ðời sống của con là một vật hy sinh cho các bà con.

– Vậy Chị hãy thường đi đến Jetavana.

– Thưa vâng, các Tôn giả.

Nữ du sĩ Sundari, sau khi vâng đáp các du sĩ ngoại đạo ấy thường xuyên đi đến Jetavana. Khi các du sĩ ngoại đạo ấy được biết rằng nữ du sĩ Sundari được nhiều người thấy thường xuyên đi đến Jetavana, họ đoạt mạng sống của nữ du sĩ Sundari, tại đấy, chôn nàng vào cái hố trong các mương của Jetavana, rồi đi đến Vua Pasenadi nước Kosala, sau khi đến thưa với vua Pasenadi nước Kosala:

– Thưa Ðại vương, nữ du sĩ Sundari không được thấy nữa.

– Nhưng các Người nghĩ ở tại đâu?

– Ở tại Jetavana, thưa Ðại vương.

– Vậy hãy đi tìm ở Jetavana.

Các du sĩ ngoại đạo ấy đi tìm ở Jetavana, đào mương tại chỗ đã quăng nàng xuống, đặt nàng trên giường, đi vào Sàvatthi từ đường này đến đường khác, từ ngã ba đường này đến ngã ba đường khác, họ làm cho dân chúng tức giận nói rằng: “Các Ông hãy xem công việc làm của các Thích tử! Vô liêm sỉ là các Sa-môn Thích tử này, theo ác giới, theo ác pháp, nói láo, không Phạm hạnh họ tự cho là sống đúng pháp, sống thăng bằng, sống Phạm hạnh, nói lời chân thật, giữ giới, theo thiện pháp. Không có Sa-môn hạnh trong những vị này. Không có Bà-la-môn hạnh trong những vị này. Từ đâu họ có Sa-môn hạnh? Từ đâu họ có Bà-la-môn hạnh? Sa-môn hạnh của họ đã đi mất. Sau khi làm xong phận sự của đàn ông, họ đoạt mạng sống của nữ nhân này”.

Lúc bấy giờ, các người ở Sàvatthi, khi thấy các Tỷ-kheo, với những lời không tốt, ác độc, mắng nhiếc, mạ lỵ, phỉ báng, bức não nói rằng: “Vô liêm sỉ là các Sa-môn Thích tử này, theo ác giới, theo ác pháp… họ đoạt mạng sống của nữ nhân này”.

Rồi một số đông Tỷ-kheo vào buổi sáng đáp y cầm bát, vào Sàvatthi để khất thực, khất thực ở Sàvatthi xong, sau buổi ăn, đi khất thực trở về đi đến Thế Tôn, sau khi đi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, ngồi một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Nay các người ở Sàvatthi khi thấy các Tỷ-kheo… họ đoạt mạng sống của nữ nhân này.

– Này các Tỷ-kheo, tiếng đồn này sẽ không còn tồn tại lâu dài, chỉ có một tuần thôi, sau một tuần sẽ biến mất.

Này các Tỷ-kheo, những ai thấy Tỷ-kheo… bức não, các Thầy hãy chỉ trích lại với bài kệ này:

  1. Ai nói lời không thật,
    Phải đi đến địa ngục,
    Ai có làm lại nói
    Việc ấy tôi không làm,
    Cả hai sau khi chết,
    Sẽ đồng đẳng như nhau.
    Họ là những hạng người,
    Làm các hạnh hạ liệt,
    Trong một đời sống khác.

Rồi các Tỷ-kheo ấy sau khi học thuộc lòng bài kệ này từ nơi Thế Tôn, nếu có những người thấy các Tỷ-kheo với những lời không tốt, ác độc, mắng nhiếc, mạ lỵ, phỉ báng, bức não, các vị liền chỉ trích lại với bài kệ này: “Ai nói lời không thật… Trong một đời sống khác “, những người suy nghĩ như sau: “Các Thích tử Sa-môn không có phạm tội. Sự việc ấy không phải do họ làm. Các Sa-môn Thích tử này đã thề như vậy.” Và lời nói ấy không có lâu dài, lời nói ấy chỉ có tồn tại có một tuần, sau một tuần được biến mất. Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi một bên, ngồi một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, thật là khéo nói, lời này của Thế Tôn: “Này các Tỷ-kheo, tiếng đồ này sẽ không tồn tại lâu dài, chỉ có một tuần thôi, sau một tuần sẽ biến mất”. Bạch Thế Tôn, tiếng đồn ấy đã biến mất.

Rồi Thế Tôn sau khi rõ biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Người không biết chế ngự,
    Với lời đâm người khác,
    Giống như voi bị đâm,
    Khi tham gia chiến trận.
    Nghe những lời thô ác,
    Tỷ-kheo hãy chịu đựng,
    Giữ gìn không nói lên,
    Tâm không có hiềm hận.

(IX) (Ud 45)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ Tôn giả Upasena Vangantaputta trong khi độc cư thiền định, ý nghĩa như sau được khởi lên: “Thật lợi ích thay cho ta, thật khéo lợi ích thay cho ta, bậc Ðạo sư của ta, bậc Thế Tôn của ta là bậc A-la-hán, Chánh-Ðẳng-Giác. Chúng ta được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, trong Pháp Luật khéo nói. Các vị đồng Phạm hạnh với ta là những người có giới, theo thiện pháp. Chúng ta là những người làm đầy đủ trong giới luật. Chúng ta có thiền định. Chúng ta có nhất tâm, là bậc A-la-hán, đoạn tận các lậu hoặc, chúng ta có đại thần lực, đại uy lực. Hiền thiện là mạng sống của ta. Hiền thiện là sự chết của ta.”

Rồi Thế Tôn với tâm của mình, biết được tâm của Tôn giả Upasena Vangantaputta, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng:

  1. Ai sống không nhiệt não
    Khi chết không sầu muộn,
    Bậc trí nếu thấy đường
    Giữa sầu, không sầu muộn,
    Tỷ-kheo đoạn hữu ái,
    Tâm tư được an tịnh,
    Luân hồi sanh tử tận,
    Vị ấy không tái sanh.

(X) (Ud 46)

Như vậy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Sàriputta ngồi xa Thế Tôn không bao nhiêu, ngồi kiết-già, lưng thẳng, quán sát sự an tịnh của mình. Thế Tôn thấy Tôn giả Sàriuptta, ngồi xa Thế Tôn không bao nhiêu, ngồi kiết-già, lưng thẳng, quán sát sự an tịnh của mình.

Rồi Thế Tôn sau khi biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:

  1. Tỷ-kheo tâm an tịnh,
    Chặt đứt dây sanh tử,
    Luân hồi sanh tử tận,
    Thoát khỏi ma trói buộc.

Chương Năm – Phẩm Trưởng Lão Sona

(I) (Ud 47)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Veluvana, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, vua Pasenadi nước Kosala có mặt với hoàng hậu Mallikà trên lầu thượng của hoàng cung, rồi vua Pasenadi nước Kosala nói với hoàng hậu Mallikà:

– Này Mallikà có ai khác thân ái với hoàng hậu hơn là tự ngã của Hoàng hậu?

– Thưa Ðại vương, không có khác thân ái với thiếp hơn là tự ngã của thiếp. Nhưng thưa Ðại vương, có ai khác thân ái với Ðại vương hơn là tự ngã của Ðại vương?

– Này Mallikà, không có ai khác thân ái với ta hơn là tự ngã của ta.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala bước xuống lầu và đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bê. Ngồi xuống một bên, vua Pesenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:

– Ở đây, bạch Thế Tôn, con đi lên lầu thượng của hoàng cung với Hoàng hậu Mallikà và con nói với Hoàng hậu Mallikà: “Này Mallikà, có ai khác thân ái với Hoàng hậu hơn là tự ngã của Hoàng hậu?”.

Khi được nói như vậy, bạch Thế Tôn, Hoàng hậu Mallikà trả lời với con: “Thưa Ðại vương, không có ai khác thân ai với Thiếp hơn là tự ngã của Thiếp. Nhưng thưa Ðại vương, có ai khác thân ái với Ðại vương hơn là tự ngã của Ðại vương? ” Ðược nói vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời cho Hoàng hậu Mallikà: Này Mallikà, không có ai khác thân ái với ta hơn là tự ngã của ta”.

Rồi Thế Tôn, sau khi biết rõ ý nghĩa này trong lúc ấy liền nói lên bài kệ này:

  1. Tâm ta đi cùng khắp,
    Tất cả mọi phương trời,
    Cũng không tìm thấy được,
    Ai thân hơn tự ngã,
    Tự ngã đối mọi người,
    Quá thân ái như vậy,
    Vậy ai yêu tự ngã,
    Chớ hại tự ngã người.

(II) (Ud 48)

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, chỗ khu vườn ông Anàthapindika. Rồi Tôn giả Ananda, vào buổi chiều, từ thiền định đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi một bên. Ngồi một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:

– Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn. Thật hi hữu thay, bạch Thế Tôn. Thọ mạng ít thay, bạch Thế Tôn, là mẹ của Thế Tôn! Sau khi sanh Thế Tôn bảy ngày, mẹ Thế Tôn mệnh chung, được sanh ở cõi trời Ðâu-suất”.

– Chính là như vậy, này Ananda! Thọ mạng ít thay là mẹ vị Bồ Tát. Sau khi sanh Thế Tôn bảy ngày, mẹ Thế Tôn mệnh chung, được sanh ở cõi trời Ðâu suất! Thọ mạng ít thay là các bà mẹ của các Bồ Tát. Sau khi sanh bảy ngày, các bà mẹ của Bồ-tát mệnh chung, và được sanh lên cõi trời Ðâu suất.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu rõ ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời kệ:

  1. Tất cả hữu tình nào,
    Sẽ có mặt ở đời,
    Tất cả chúng sẽ đi,
    Sau khi bỏ sắc thân,
    Hiểu tất cả là vậy,
    Bậc thiện sanh nhiệt tâm,
    Sống đời sống Phạm hạnh.

(III) (Ud 49)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagha, Veluvana, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, một người bị bệnh hủi tên là Suppabuddha, nghèo đói, ăn xin, khốn cùng. Lúc bấy giờ, Thế Tôn với đại chúng đoanh vây, đang ngồi thuyết pháp. Người hủi Suppabuddha thấy từ đàng xa đại chúng đang tụ hội, thấy vậy liền suy nghĩ: “Không nghi ngờ gì nữa, ở đấy, có thể có chia phần cái gì ăn được, loại cứng hay loại mềm. Vậy ta hãy đi đến đại chúng ấy, mong rằng ta sẽ được chút gì ăn được, loại cứng hay loại mềm”. Rồi người hủi Suppabuddha đi đến đại chúng ấy.

Người hủi Suppabuddha thấy Thế Tôn đang thuyết pháp cho đại chúng đang đoanh vây xung quanh, thấy vậy liền suy nghĩ: “Ở đây không có cái gì ăn được, loại cứng hay loại mềm để chia phần. Sa-môn Gotama này đang thuyết pháp cho hội chúng. Vậy ta hãy nghe pháp”. Tại đấy, người hủi ngồi xuống và nghĩ: “Ta sẽ nghe pháp”.

Rồi Thế Tôn, với tâm của mình duyên với tâm của toàn thể hội chúng tác ý rằng: “Ở đây, ai có thể hiểu được pháp”. Thế Tôn thấy người hủi Suppabuddha đang ngồi trong hội chúng, thấy vậy liền suy nghĩ: “Ở đây, ngưòi này có thể hiểu pháp”.

Vì người hủi Suppabuddha, Thế Tôn tuần tự thuyết pháp, tức là thuyết bố thí, thuyết về trì giới, thuyết về thiên giới, thuyết về sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự ô nhiễm cuả các dục, sự lợi ích của xuất ly. Khi Thế Tôn biết tâm của người hủi Suppabuddha đã sẵn sàng, đã nhu thuận không còn chướng ngại, được phấn khởi, được tín thành, liền thuyết pháp mà chư Phật đã chứng ngộ, tức là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo.

Cũng như tấm vải thuần bạch, được gội rửa các vết đen, sẽ rất dễ thấm màu nhuộm, cũng vậy chính tại chỗ ngồi này, pháp nhãn xa trần ly cấu khởi lên trong tâm người hủi Suppabuddha: “Phàm cái gì được khởi lên, tất cả đều bị đoạn diệt”. Khi ấy người hủi Suppabuddha thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự diệt tận, chứng được tự tín, không y cứ nơi người khác đối với lời dạy của đức Bổn Sư, từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, người hủi Supabuddha bạch Thế Tôn:

– Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mặt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích, Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỳ-kheo, mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

Rồi người hủi Suppabuddha được Thế Tôn với bài pháp thoại thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn chấn, làm cho hoan hỷ, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.

Rồi một con bò húc vào người hủi Suppabuddha và đoạt mạng sống. Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, người hủi tên Suppabuddha được Thế Tôn với bài pháp thoại thuyết giảng,, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ đã mạng chung. Sanh thú của vị ấy là gì? Tương lai của vị ấy thế nào?

– Này các Tỷ-kheo, Hiền trí là người hủi Suppabuddha, đã thực hành tuỳ pháp đúng pháp, không có làm phiền nhiễu Ta với những tranh luận về pháp. Người hủi Suppabuddha sau khi đoạn tận ba kiết sử, đã chứng được quả Dự lưu, không còn bị thối đọa, chắc chắn đạt được Chánh giác.

Khi nghe nói vậy một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn do nhân gì, do duyên gì, người hủi Suppabuddha lại là người nghèo đói, là người ăn xin, là người khốn cùng?

– Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, người hủi Suppabuddha là con một nhà triệu phú ở Ràjagaha khi đi ngang qua một khu vườn, vị ấy thấy đức Phật Ðộc giác Tagarasikhi đang đi vào thành khất thực. Thấy vậy, vị ấy suy nghĩ: “Ai là người hủi này lại đi dạo chơi ” và vị ấy nhổ nước miếng và xây lưng phía trái rồi bỏ đi. Do hành động này của vị ấy được thuần thục, nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, vị ấy bị nấu trong địa ngục. Do sự thanh thục thêm nữa của nghiệp ấy, chính tại Ràjagala này, vị ấy là một người nghèo đói, là người ăn xin, là người khốn cùng! Nay vị ấy do y cứ vào pháp luật được Như Lai thuyết giảng, vị ấy được lòng tin, vị ấy được giới, vị ấy được nghe pháp, vị ấy được từ bỏ, vị ấy được trí tuệ, sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh thiện thú, thiên giới, đời này, được cộng trú với chư Thiên ở cõi Ba mươi ba. Tại đấy, vị ấy chói sáng hơn các chư Thiên khác về dung sắc và danh xưng.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Như người có mắt nhìn,
    Cố gắng tránh lồi lõm,
    Cũng vậy kẻ trí tránh,
    Ðiều ác giữa đời này.

(IV) (Ud 50)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, nhiều thiếu niên giữa Sàvatthi và Jetavana, đang hành hạ các con cá. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào Sàvatthi để khất thực. Thế Tôn thấy nhiều thiếu niên giữa Sàvatthi và Jetavana đang hành hạ các con cá, thấy vậy đi đến các thiếu niên ấy, sau khi đến nói với chúng:

– Này các Thiếu niên, các Em có sợ đau khổ không? Các Em không ưa thích khổ phải không?”.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn, chúng con sợ đau khổ. Chúng con không ưa thích khổ.

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Nếu con không ưa khổ,
    Dầu bất cứ chỗ nào,
    Chớ làm các nghiệp ác,
    Trước mặt hay sau lưng
    Nếu Con làm, sẽ làm,
    Các nghiệp ác, bất thiện,
    Con không giải thoát khổ,
    Dầu nhảy vọt và chạy.

(V) (Ud 51)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Dubbarà, trong lầu mẹ của Migàra. Lúc bấy giờ Thế Tôn, vào ngày trai giới đang ngồi có chúng Tỷ-kheo đoanh vây. Rồi Tôn giả Ananda, sau khi đêm đã gần mãn, canh một sắp qua, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, chắp tay hướng dẫn đến Thế Tôn, và Bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, đêm đã gần mãn, canh một đã sắp qua, chúng Tỷ-kheo ngồi đã lâu. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết giới bổn Pàtimokkha cho chúng Tỷ-kheo.

Khi được nói vậy, Thế Tôn giữ im lặng. Lần thứ hai, Tôn giả Ananda, khi đêm đã gần mãn, canh giữa đã sắp qua. Chúng Tỳ-kheo ngồi đã lâu. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết giới bổn Pàtimokkha cho chúng Tỷ-kheo.

Lần thứ hai, Thế Tôn giữ im lặng. Lần thứ ba, Tôn giả Ananda, khi đêm đã gần mãn, canh cuối đã sắp qua, rạng đông đã ló dạng đêm đã nở nụ cười, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, chắp tay hướng dẫn đến rồi bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, đêm đã gần mãn, canh cuối đã sắp qua, rạng đông đã ló dạng, đêm đã nở nụ cười, chúng Tỷ-kheo ngồi đã lâu. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết giới Pàtimokkha cho chúng Tỷ-kheo.

– Này Ananda, hội chứng không thanh tịnh. Rồi Tôn giả Mahà Moggallàna suy nghĩ: “Vì người nào mà Thế Tôn nói: ‘Này Ananda, hội chúng này không thanh tịnh’?” Rồi Tôn giả Mahà Moggallàna với tâm của mình tác ý đến tâm toàn thể chúng Tỷ-kheo. Tôn giả Mahà Moggallàna thấy một người ác giới, theo ác pháp, không thanh tịnh, sở hành đáng nghi ngờ, hành động được che đậy, không phải Sa-môn tự xưng là Sa-môn, không theo Phạm hạnh tự xưng là Phạm hạnh, nội tâm hủ hóa, đầy ứ dục vọng, một đống rác ô uế đang ngồi giữa chúng Tỷ-kheo, thấy vậy từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến người ấy, sau khi đến nói với người ấy:

– Hiền giả hãy đứng dậy, Thế Tôn đã thấy Hiền giả. Hiền giả không được cộng trú với chúng Tỷ-kheo.

Người ấy giữ im lặng. Lần thứ hai, Tôn giả Moggallàna nói với người ấy:

– Hiền giã hãy đứng dậy. Thế Tôn đã thấy Hiền giả. Hiền giả không được cộng trú với chúng Tỷ-kheo.

Lần thứ hai, người ấy im lặng. Lần thứ ba, Tôn giả Mahà Moggallàna. Lần thứ ba, Hiền giả ấy im lặng. Rồi Tôn giả Mahà Moggallàna nắm tay người ấy, dắt tay khỏi ngoài cửa, gài then cửa lại, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Hiền giả ấy đã bị con đuổi ra rồi. Hội chúng nay thanh tịnh Bạch Thế Tôn. Thế Tôn hãy thuyết giảng giới bổn Pàtimokkha cho chúng Tỷ-kheo.

– Thật vi diệu thay, Moggallàna! Thật hy hữu thay, Moggallàna! Cho đến khi bị cầm tay, người ngu si mới đi ra.

Rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, bắt đầu từ nay Ta sẽ không làm Uposastha nữa, Ta sẽ không tụng đọc giới bổn Pàtimokkha nữa. Bắt đầu từ nay, các Thầy hãy làm Uposastha, các Thầy hãy tụng đọc giới bổn. Sự kiện không có được. Này các Tỷ-kheo, cơ hội không có được là Như Lai có thể làm Uposastha với hội chúng không thanh tịnh, có thể đọc giới bổn. Này các Tỷ-kheo, biển lớn có tám pháp vi diệu hy hữu này, do thấy chúng như vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn. Thế nào là tám?

Này các Tỷ-kheo, biển lớn tuần tự xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như một vực thẳm. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, biển lớn tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như một vực thẩm. Này các Tỷ-kheo, đây là sự vi diệu chưa từng có thứ nhất. Do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, biển lớn đứng một chỗ, không có vượt qua bờ. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, biển lớn đứng một chỗ, không có vượt qua bờ. Này các Tỷ-kheo, đây là sự vi diệu chưa từng có thứ hai. Do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, biển lớn không có chứa chấp xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức bị quăng trên bờ hay vất lên đất liền. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, biển lớn không có chứa chấp xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức bị quăng lên bờ hay vất lên đất liền. Này các Tỷ-kheo, đây là vi diệu chưa từng có thứ ba. Do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunà, sông Aciravati, sông Mahi, các con sông ấy khi chảy đến biển liền bỏ tên họ cũ, trở thành biển lớn. Vì rằng phàm có con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunà, sông Aciravati, sông Mahi, các con sông ấy khi chảy đến biển liền bỏ tên họ cũ, trở thành biển lớn. Này các Tỷ-kheo, đây là vi diệu chưa từng có thứ tư. Do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo phàm có những dòng nước gì ở đời chảy vào biển lớn, phàm có những nước mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy biển lớn được thấy có giảm tăng. Này các Tỷ-kheo vì rằng, phàm có dòng nước gì ở đời chảy vào biển lớn, phàm có những nước mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy mà biển lớn được thấy có giảm tăng. Này các Tỷ-kheo, đây là vi diệu chưa từng có thứ năm. Do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, biển lớn chỉ có một vị là vị mặn. Này các Tỷ-kheo, đây là vi diệu, chưa từng có thứ sáu. Do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, biển lớn có nhiều châu báu, nhiều loại châu báu, ở đấy có những châu báu này như trân châu, ma ni châu, lưu ly, xa-cừ, ngọc bích, san-hô, bạc, vàng, ngọc đỏ, mã não. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, biển lớn có nhiều châu báu, nhiều loại châu báu, ở đấy có những loại châu báu này như trân châu, ma-ni châu, lưu-ly, xa-cừ, ngọc bích, san hô, bạc, vàng, ngọc đỏ, mã não. Này các Tỷ-kheo, đây là vi diệu chưa từng có thứ bảy. Do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, biển lớn là trú xứ các loài sinh vật lớn. Tại đây có những sinh vật này như các con timi, timingalà, timiramingalà. Những loại A-tu-la, các loại Nàgà, các loại Gandhabhà. Trong biển lớn có các loại hữu tình dài một trăm do-tuần, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm do-tuần. Vì rằng, này các Tỳ-kheo, biển lớn là trú xứ các sanh vật lớn. Tại đây có những sinh vật này như các con timi, timingalà, timiramingalà. Những loại A-tu-la, các loại Nàgà, các loại Gandhabhà. Trong biển lớn có các loại hữu tình dài một trăm do-tuần, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm do-tuần. Này các Tỷ-kheo, đây là vi diệu chưa từng có thứ tám. Do thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có tám pháp, vi diệu chưa từng có trong Pháp và Luật này, do thấy chúng, thấy chúng, các Tỳ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này. Thế nào là tám?

Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như một vực thẳm. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này, các học pháp và tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể nhập chánh trí, thình lình. Này Paharada, vì rằng trong Pháp và Luật này, các học pháp là tuần tự, các quả dị thực là tuần tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể nhập chánh trí thình lình. Này các Tỷ-kheo, đây là vi diệu chưa từng có thứ nhứt. Do thấy vậy, thấy vậy, Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.

Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn đứng một chỗ không có vượt qua bờ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi các học pháp được Ta sửa soạn cho các đệ tử, các đệ tử của Ta, dầu cho vì nhân sinh mạng, cũng không vượt qua. Này các Tỷ-kheo, vì rằng các học pháp được Ta sửa soạn cho các đệ tử, các đệ tử của Ta, dầu cho vì nhân sinh mạng, cũng không vượt qua. Này các Tỷ kheo trong Pháp và Luật này, đây là Pháp vi diệu chưa từng có thứ hai. Do thấy vậy, thấy vậy, Tỷ-kheo thích thú, trong Pháp và Luật này.

Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn không có chứa chấp xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức bị quăng trên bờ hay vất lên đất liền. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, người nào là ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh đáng nghi ngờ, có những hành vi che đậy, không phải là Sa-môn nhưng tự nhận là Sa-môn, không sống Phạm hạnh nhưng tự nhận là có Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy tham dục, tánh tình bất định. Chúng Tăng không sống chung với người ấy, lập tức hội họp lại và đuổi người ấy ra khỏi. Dầu cho người ấy có ngồi giữa chúng Tỷ-kheo tăng, nhưng người ấy sống xa chúng Tăng và chúng Tăng sống xa người ấy. Vì rằng này các Tỷ-kheo, người ấy là ác giới, theo ác pháp… tánh tình bất định… và chúng Tăng sống xa vị ấy. Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ ba. Do thấy vậy, thấy vậy, Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.

Ví như, này các Tỷ-kheo, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunà, sông Aciracati, sông Sarabhù, sông Mahi, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên họ trước, trở thành biển lớn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn giai cấp này: Sát-đế-lị, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà, sau khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia trong Pháp và Luật được Như Lai tuyên bố sau này, chúng từ bỏ tên và họ của chúng từ trước, và chúng trở thành những Sa môn Thích tử. Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ tư. Do thấy vậy, thấy vậy, Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và luật này.

Ví` như, này các Tỷ kheo, phàm có những dòng nước gì ở đời chảy vào biển lớn, phàm có những nước mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy mà biển lớn có giảm tăng. Cũng vậy này các Tỷ Kheo, nếu có những vị Tỷ kheo nhập vào Niết Bàn giới, không có dư y, Niết bàn giới cũng không vì vậy được thấy có giảm tăng. Này các Tỳ Kheo, nếu có nhiều vị Tỷ kheo nhập vào Niết Bàn giới không có dư y, Niết bàn giới cũng không vì vậy, được thấy có giảm tăng. Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này, đây là vi diệu thứ năm. Do thấy vậy, thấy vậy, Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và luật này.

Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn chỉ có một vị là vị mặn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, pháp này cũng chỉ có một vị là vị giải thoát. Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này, đây là vi diệu chưa từng có thứ sáu. Do thấy vậy, thấy vậy, Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.

Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn có nhiều châu báu, ở đấy có những châu báu này, như trân châu, ma-ni châu, lưu-ly, xà-cừ, ngọc bích, san-hô, bạc, vàng, ngọc đỏ, mã-não. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, Pháp và Luật này có nhiều châu báu, nhiều loại châu báu, ở đấy có những loại châu báu này, như Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy giác chi, Thánh đạo tám ngành. Này các Tỷ-kheo, vì rằng Pháp và Luật này có nhiều châu báu này như Bốn niệm xứ… Thánh đạo tám ngành. Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này, đây là vi diệu chưa từng có thứ bảy. Do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.

Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn là trú xứ các loại sinh vật lớn, tại đấy có những sinh vật như các con timi, timigalà, timiramingalà, những loại Asurà, các loài Nàgà, các loài Gandhabbà. Trong biển lớn có các loài hữu tình dài một trăm, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm do-tuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Pháp và Luật này là trú xứ của các loại sinh vật lớn. Ở đấy có những sinh vật này. Bậc Dự lưu, bậc đang hướng đến chứng ngộ Dự lưu quả; bậc Nhất lai, bậc đang hướng đến chứng Nhất lai quả; bậc Bất lai, bậc đang hướng đến chứng Bất lai quả;bậc A-la-hán, bậc đang hướng đến chứng ngộ quả A-la-hán. Này các Tỷ-kheo, vì rằng Pháp và Luật này là trú xứ của các sinh vật lớn. Ở đấy có những sinh vật này… quả A-la-hán.

Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ tám. Do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.

Này các Tỷ-kheo, đây là tám pháp vi diệu, chưa từng có trong Pháp và Luật này, do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong khi ấy, nói lên lời cảm hứng:

  1. Che kín, trời có mưa,
    Mở rộng, trời không mưa,
    Do vậy, hãy mở rộng
    Cái gì bị che kín,
    Như vậy sẽ không mưa.

(VI) (Ud 57)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahàkaccàna trú ở giữa dân chúng Avanti, gần Kuraraghara, trên ngọn núi tên Pavatta. Lúc bấy giờ nam cư sĩ Sona Kotikanna là thị giả của Tôn giả Mahàkaccàna. Rồi nam cư sĩ Sona Kotikanna trong khi độc cư thiền định, tư tưởng như sau được khởi lên: “Như Tôn giả Mahàkaccàna thuyết pháp, thật không dễ dàng cho một người sống trong gia đình có thể thực hành một cách viên mãn Phạm hạnh thuần tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình”. Nam cư sĩ Sona Kotikanna đi đến Tôn giả Mahàkaccàna, sau khi đến đảnh lễ Tôn giả rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Sona Kotikanna thưa Tôn giả Mahàakaccàna.

– Thưa Tôn giả, ở đây trong khi con độc cư thiền tịnh… sống không gia đình. Thưa Tôn giả, Tôn giả hãy cho con xuất gia.

Nghe nói vậy, Tôn giả Mahàkaccàna nói với nam cư sĩ Sona Kotikanna:

– Này Sona, thật khó thay đời sống Phạm hạnh, ăn một bữa ăn, nằm một mình cho đến trọn đời. Này Sona, tại đây hãy sống trong gia đình, chú tâm vào lời dạy của chư Phật, tạm thời hiện tại sống Phạm hạnh, ăn một ngày một bữa, nằm ngủ một mình. Như vậy lòng ham muốn xuất gia của nam cư sĩ Sona Kotikanna được giảm nhẹ bớt.

Lần thứ hai, trong khi độc cư thiền định… sống không gia đình. Lần thứ hai nam cư sĩ Sona Kotikanna đi đến Tôn giả Mahàkaccàna…”… Hãy cho con xuất gia”. Lần thứ hai, Tôn giả Mahàkaccàna nói với nam cư sĩ Sona Kotipanna:

– Này Sona, thật khó thay… được giảm nhẹ bớt. Lần thứ ba, nam cư sĩ Sona Kotikanna trong khi độc cư thiền định… sống không gia đình.

Lần thứ ba, nam cư sĩ Sona Kotikanna đi đến Tôn giả Mahàkaccàna và thưa “… Hãy cho con xuất gia”. Rồi Tôn giả Mahàkaccàna cho nam cư sĩ Sona Kotikanna xuất gia. Lúc bấy giờ, tại Avantisudakhhinàpatha, có ít Tỷ-kheo. Rồi Tôn giả Mahàkaccàna, sau ba kỳ an cư mùa mưa, một cách khó khăn, một cách mệt nhọc tụ tập được một nhóm mười Tỷ-kheo và trao Ðại giới cho Tôn giả Sona.

Tôn giả Sona sau khi an cư mùa mưa cô độc thiền tịnh, tư tưởng sau đây được khởi lên: “Ta chưa được thấy tận mắt Thế Tôn, tuy rằng ta có nghe Thế Tôn là vị như vậy, như vậy. Nếu vị Giáo thọ sư của ta cho phép ta sẽ đi đến yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác”. Rồi Tôn giả Sona vào buổi chiều từ độc cư thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahàkaccàna, sau khi đảnh lễ Tôn giả Mahàkacàna rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên Tôn giả Sona thưa với Tôn giả Mahàkaccàna:

– Thưa Tôn giả, trong khi con độc cư thiền tịnh, tư tưởng sau đây được khởi lên: “Ta chưa được thấy tận mặt Thế Tôn… Chánh Ðẳng Giác”.

– Lành thay, lành thay Sona! Hãy đi này Sona, để yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh-Ðẳng-Giác. Này Sona, người sẽ thấy Thế Tôn khả ái, khởi dậy lòng tin, các căn an tịnh, tâm ý thanh tịnh, đã đạt được an chỉ chế ngự tối thượng, bậc long tượng được điều phục, hộ trì, các căn nhiếp phục. Sau khi thấy, hãy nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có ít bệnh, ít não nhẹ nhàng, khoẻ mạnh, an ổn không!.

– Thưa vâng, Tôn giả.

Tôn giả Sona hoan hỷ tín thọ lời dạy của Tôn giả Mahàkaccàna, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Tôn giả Mahàkaccàna, thân bên hữu hướng về Tôn giả dọn dẹp sàng tọa, cầm y bát bộ hành hướng về Tôn giả dọn dẹp sàng tọa, cầm y bát bộ hành hướng đến Sàvatthi, tiếp tục bộ hành đi đến Sàvatthi,Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika, đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sona bạch Thế Tôn:

– Bậc giáo thọ sư của con, bạch Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ, hỏi thăm… có an ổn không?

– Này Tỷ-kheo, Thầy có kham nhẫn được không? Thầy có sống dễ dàng không? Ði đường đến đây có mệt mỏi không? Khất thực có mệt mỏi không?

– Bạch Thế Tôn, con có thể kham nhẫn! Bạch Thế Tôn, con có thể sống dễ dàng. Bạch Thế Tôn, con đi đường không có mệt nhọc! Khất thực không có mệt nhọc.

Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, hãy sửa soạn sàng tọa cho Tỷ-kheo mới đến này.

Tôn giả Ananda suy nghĩ: “Thế Tôn bảo ta: “Này Ananda, hãy sửa soạn sàng tọa cho Tỷ-kheo mới đến này”. Như vậy Thế Tôn muốn ở chung một chỗ với Tỷ-kheo ấy. Như vậy Thế Tôn muốn ở chung với Tôn giả Sona ấy”. Nên chỗ nào Thế Tôn ở, tại chỗ ấy Tôn giả Ananda sửa soạn sàng tọa cho Tôn giả Sona. Rồi Thế Tôn, sau khi ngồi ở ngoài trời đã quá khuya, rửa chân và đi vào tịnh xá. Tôn giả Sona, sau khi ngồi ngoài trời đã quá khuya, rửa chân và đi vào Tịnh xá. Rồi Thế Tôn, khi đêm đã gần sáng, thức dậy, Thế Tôn nói với Tôn giả Sona:

– Hãy nói pháp cho các Tỷ-kheo.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Sona vâng đáp Thế Tôn, đọc thuộc lòng mười sáu phần của phẩm tám một cách đầy đủ. Rồi Thế Tôn, sau khi Tôn giả Sona chấm dứt tụng đọc của mình, Thế Tôn cám ơn và nói:

– Lành thay, lành thay Tỷ-kheo! Tỷ-kheo đã khéo nắm giữ, khéo tác ý, khéo thọ trì toàn bộ mười sáu phần trong phẩm thứ tám. Người được đầy đủ thiện ngôn, minh bạch, phát ngôn rõ ràng, ý nghĩa minh xác. Này Tỷ-kheo, Thầy có bao nhiêu tuổi an cư mùa mưa?

– Bạch Thế Tôn, con có một tuổi an cư mùa mưa.

– Này Tỷ-kheo, vì sao Thầy lại để chậm như thế?

– Bạch Thế Tôn, đã lâu con thấy sự nguy hại trong các dục, sự bó buộc của đời sống gia đình, nhiều phận sự, nhiều công việc phải làm.

Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:

  1. Thấy nguy hại ở đời,
    Biết pháp không sanh y,
    Bậc Thánh không ưa ác,
    Bậc tịnh không ưa ác!

(VII) (Ud 58)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Kankharevata ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết-già, lưng thẳng, tự mình quán sát sự thanh tịnh do vượt qua được nghi ngờ. Thế Tôn thấy Tôn giả Kankharevata ngồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết-già, lưng thẳng tự mình quán sát sự thanh tịnh do vượt qua được nghi ngờ.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:

  1. Phàm những nghi hoặc gì,
    Ðời này hay đời sau,
    Tự mình chưa cảm thọ,
    Hay người khác cảm thọ,
    Người hành thiền từ bỏ,
    Hoàn toàn tất cả chúng,
    Nhiệt tâm hành Phạm hạnh.

(VIII) (Ud 59)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Veluvana chỗ nuôi các con sóc. Lúc bấy giờ, Tôn giả Ananda trong ngày trai giới, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào Ràjagaha để khất thực. Devadatta thấy Tôn giả Ananda đi khất thực ở Ràjagaha, sau khi thấy, đi đến Tôn giả Ananda và nói với Tôn giả Ananda.

– Bắt đầu từ hôm nay, Hiền giả Ananda, ta sẽ làm lễ trai giới và sẽ tác thành các tăng sự, khác với Thế Tôn, khác với chúng Tỷ-kheo.

Tôn giả Ananda, sau khi đi khất thực ở Ràjagaha, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Theá Tôn:

– Ở đây, bạch Thế Tôn, con vào buổi sáng đắp y, cầm bát, vào Ràjagaha để khất thực. Bạch Thế Tôn, Devadatta thấy con đi khất thực ở Ràjagaha, thấy vậy liền đi đến con và nói: “Bắt đầu từ hôm nay, Hiền giả Ananda.. khác với chúng Tỷ-kheo!”. Hôm nay, bạch Thế Tôn, Devadatta sẽ phá hòa hợp Tăng, làm lễ trai giới và hành các tăng sự.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:

  1. Dễ làm là việc lành,
    Ðối với kẻ làm lành;
    Khó làm là việc ác,
    Ðối với kẻ làm lành;
    Dễ làm là việc ác,
    Ðối với kẻ làm ác;
    Khó làm là việc ác,
    Ðối với các bậc Thánh.

(IX) (Ud 60)

Như vậy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn bộ hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Lúc bấy giờ, nhiều thanh niên Bà-la-môn, không xa Thế Tôn bao nhiêu, dùng những lời nhiếc mắng vượt đà quá xa. Thế Tôn thấy nhiều thanh niên, không xa bao nhiêu, dùng những lời nhiếc mắng, vượt đà quá xa.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:

  1. Lời nói của kẻ trí,
    Khi bối rối luống cuống,
    Rơi vào nhiều đề tài,
    Nhiều lãnh vực sai khác,
    Họ muốn miệng mở rộng,
    Cái gì dắt dẫn họ,
    Họ đâu có biết rõ.

(X) (Ud 61)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Cùlapanthaka ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già, lưng thẳng để niệm trước mặt. Thế Tôn thấy Tôn giả Cùlapanthaka ngồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết già, lưng thẳng để niệm trước mặt.

Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:

  1. Với thân, tâm an trú,
    Ðứng, ngồi hay nằm xuống,
    Tỷ-kheo an trú niệm,
    Trước sau được thù thắng,
    Trước sau được thù thắng,
    Vượt tầm mắt ác ma.

Chương Sáu – Phẩm Sanh Ra Ðã Mù

(I) (Ud 62)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Vesàli tại Ðại Lâm chỗ ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, đắp y, cầm bát, đi vào Vesàli để khất thực. Khất thực ở Vesàli xong, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, Thế Tôn gọi Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, hãy cầm tọa cụ, Ta sẽ đi đến điện Càpàla để nghỉ ban ngày.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn, cầm tọa cụ và đi sau lưng Thế Tôn. Thế Tôn đi đến đền Càpàla, khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn, Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, khả ái thay Vesàli! Khả ái thay Vesàli! Khả ái thay đền Udena! Khả ái thay đền Gotamaka! Khả ái thay đền Sattambaka! Khả ái thay đền Bahuputta! Khả ái thay đền Sàrandada! Khả ái thay đền Càpàla!

Này Ananda, những ai đã tụ tập Bốn như ý túc, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, được an trú, tích lũy, khéo thực hành, nếu muốn, người ấy có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai đã tu tập Bốn như ý túc, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, được an trú, tích lũy, khéo thực hành. Này Ananda, nếu muốn Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần còn lại!

Nhưng Tôn giả Ananda không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn, không thỉnh cầu Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp! Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người”. Vì tâm Tôn giả bị Ma vương ám ảnh. Lần thứ hai… Lần thứ ba Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda: “Này Ananda, khả ái thay Vesàli! Khả ái thay đền Udena! Khả ái thay đền Gotamaka! Khả ái thay đền Sattambaka! Khả ái thay đền Bahyputta! Khả ái thay đền Sàrandada! Khả ái thay đền Càpàla!… ” Nhưng Tôn giả Ananda không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn, không thỉnh cầu Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp! Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người!”. Vì tâm Tôn giả bị Ma vương ám ảnh. Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, hãy đi và làm những gì Thầy nghĩ là hợp thời!.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ngồi xuống một gốc cây không xa bao nhiêu.

Tôn giả Ananda ra đi không bao lâu, Ác ma đi đến Thế Tôn, sau khi đến liền đứng một bên. Ðứng một bên, Ác ma nói với Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ! Thiện thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ. Bạch Thế Tôn, đấy là lời Thế Tôn đã nói:

– Này Ác ma, Ta sẽ chưa diệt độ, khi nào những Tỷ-kheo của Ta chưa trở thành những đệ tử có tài năng được huấn luyện, đạt được tự tín, an ổn khỏi các khổ ách, nghe nhiều, trì pháp, thực hành Chánh pháp và tuỳ pháp, sống chánh hạnh, sống tùy pháp, sau khi học hỏi giáo lý từ Thầy của mình; khi nào họ chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai mở, phân tích rõ ràng Chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, họ chưa có thể, sau khi chất vấn, khéo hàng phục một cách đúng pháp, chưa có thể thuyết pháp thần diệu.

– Bạch Thế Tôn, nay có những Tỷ-kheo, đệ tử của Thế Tôn có tài năng, được huấn luyện, đạt được tự tín, an ổn khỏi các khổ ách, nghe nhiều, trì pháp, thực hành Chánh pháp và tùy pháp, sống chánh hạnh, sống tùy pháp; sau khi học hỏi giáo lý từ Thầy của mình, họ tuyên bố diễn giảng trình bày, xác định, khai mở, phân tích và giải thích rõ ràng Chánh pháp. Khi có tà đạo khởi lên, sau khi chất vấn, họ khéo hàng phục một cách đúng pháp, thuyết pháp thần diệu. Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ; Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói.

– Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo ni của Ta… Những nam cư sĩ của Ta… Những nữ cư sĩ của Ta chưa trở thành những đệ tử có tài năng… chưa có thể thuyết pháp thần diệu.

– Bạch Thế Tôn, nay có những Tỷ-kheo ni… Những nam cư sĩ… Những nữ cư sĩ đệ tử của Thế Tôn có tài năng, được huấn luyện, đạt được tự tín… có thể thuyết pháp thần diệu. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ! Bạch Thế Tôn,nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ! Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói.

– Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào Phạm hạnh Ta giảng dạy chưa được thành tựu, thành đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn, nghĩa là được khéo giảng dạy, cho chư Thiên và loài Người.

– Bạch Thế Tôn, nay Phạm hạnh Thế Tôn giảng dạy đã được thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn, nghĩa được khéo giảng dạy cho chư Thiên và loài Người. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ; Thiện Thệ hãy diệt độ! Bạch Thế Tôn! Nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ! Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với Ác ma:

– Này Ác ma, hãy yên tâm, không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ.

Và tại đền Càpàla, Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, từ bỏ thọ hành, không duy trì mạng sống lâu hơn nữa. Khi Thế Tôn từ bỏ thọ hành, thời đại địa chấn động, ghê rợn, lông tóc dựng ngược, sấm trời vang dậy.

Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:

  1. Bậc ẩn sĩ từ bỏ,
    Các hành động sanh hữu,
    Sanh hữu có cân lượng,
    Sanh hữu không cân lượng,
    Ưa thích hướng nội tâm,
    Thật định tỉnh an tịnh,
    Phá đổ ngã sanh hữu,
    Như cởi thoát áo giáp.

(II) (Ud 64)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Ðông Viên, lâu đài mẹ của Migàra. Lúc bấy giờ Thế Tôn vào buổi chiều, từ độc cư thiền tịnh đứng dậy và đến ngồi tại một ngôi nhà nhỏ phía cửa ngoài.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Lúc bấy giờ bảy vị bện tóc, bảy vị Ni-kiền Tử, bảy vị lõa thể, bảy vị mặc một y và bảy vị du sĩ, với nách đầy lông, với móng tay dài, mang các dụng cụ khất sĩ, đã đi ngang qua Thế Tôn không xa bao nhiêu.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y một bên vai, quỳ xuống trên đầu gối tay mặt, chấp tay hướng về bảy vị bện tóc, bảy vị Ni-kiền Tử, bảy vị lõa thể, bảy vị mặc một y và bảy vị du sĩ ấy, nói lên ba lần tên của mình: “Thưa chư Tôn giả, con là vua Pasenadi nước Kosala!”.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala, khi bảy vị bện tóc, bảy vị Ni-kiền Tử, bảy vị Ni-kiền Tử, bảy vị lõa thể, bảy vị mặc một y, và bảy vị du sĩ ấy đã đi ngang qua không bao lâu, liền đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, có phải những Tôn giả ấy là những vị A-la-hán trên đời này, hay là những vị đang đi trên con đường hướng đến đạo quả A-la-hán?

– Thưa Ðại vương, khi Ðại vương còn là cư sĩ trong khi còn sống với gia đình, thọ hưởng dục lạc, bị vợ con trói buộc, quen dùng các loại chiên đàn ở xứ Kàsi, trang sức với vòng hoa, hương thơm, dầu sáp, thọ hưởng vàng và bạc thời Ðại vương thật khó biết được các vị ấy là bậc A-la-hán hay là bậc đang đi con đường hướng đến A-la-hán quả. Thưa Ðại vương, chính phải cộng trú mới biết được giới đức của một người và như vậy phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được, phải có tác ý không phải không có tác ý; phải có trí tuệ không phải với ác tuệ. Thưa Ðại vương, chính phải có liên hệ mới biết được sự thanh liêm của một người, phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được, phải có tác ý, không phải không có tác ý, phải có trí tuệ không phải với ác tuệ. Thưa Ðại vương, chính trong thời gian bất hạnh biết được sự trung kiên của một người, phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được; phải có tác ý, không phải không tác ý; phải có trí tuệ, không phải với ác tuệ. Thưa Ðại vương, chính phải đàm luận biết được trí tuệ của một người, và như vậy phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được; phải có tác ý, không phải không tác ý, phải có trí tuệ, không phải với ác tuệ.

– Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn, khi Thế Tôn đã khéo nói như sau: “Thưa Ðại vương, khi Ðại vương còn là cư sĩ… không phải với ác tuệ”. Bạch Thế Tôn, có những trinh thám này của con những người trinh sát sau khi đi trinh sát mặt nước, chúng đến con. Trước hết họ báo cáo rồi con mới đúc kết. Bạch Thế Tôn, ở đây những người ấy sau khi tẩy sạch bụi và nhớp, sau khi tắm rửa và xoa dầu, sau khi chải sạch râu tóc, mặc áo vải trắng, chúng được hầu hạ săn sóc và cho thọ hưởng năm dục công đức.

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên bài kệ này:

  1. Phải siêng năng cố gắng,
    Tại bất cứ chỗ nào,
    Chớ trở thành là người
    Thuộc vào con người khác,
    Chớ có sống ỷ lại,
    Nương tựa vào ngưòi khác,
    Chớ sống nghề buôn bán,
    Ðem pháp để kiếm lời.

(III) (Ud 65)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ Thế Tôn ngồi quán sát của pháp bất thiện của mình được trừ diệt, và các pháp thiện của mình được tu tập, làm cho tăng trưởng. Rồi Thế Tôn sau khi biết các pháp bất thiện của mình đã được trừ diệt và các pháp thiện của mình được tu tập, được làm cho sung mãn, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Trước có nay không có,
    Trước không có nay có,
    Ðã không và sẽ không,
    Và nay hiện không có.

(IV) (Ud 66)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ một số đông các ngoại đạo sai khác. Các Sa-môn, Bà-la-môn, các du sĩ ngoại đạo đều vào Sàvatthi để khất thực. Họ có quan điểm khác nhau, có kham nhẫn khác nhau, có sở thích khác nhau, y cứ nương tựa vào quan điểm khác nhau. Một số Sa-môn, Bà-la-môn, luận thuyết như sau: “Thế giới là thường còn, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng”. Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: “Thế giới là vô thường, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng”. Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: “Thế giới là có biên tế, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng”. Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, có quan điểm như sau: “Thế giới là vô biên, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng”. Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: “Sanh mạng và thân thể là một, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng”. Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: “Sanh mạng và thân thể là khác, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng”. Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: “Như Lai có tồn tại sau khi chết, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng”. Một số Bà-la-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: “Như Lai không có tồn tại sau khi chết, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng”. Một số Bà-la-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: “Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng”. Một số Bà-la-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: “Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng”. Họ sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi: “Như thế này là pháp. Như thế này là pháp. Như thế này không phải pháp. Như thế này không phải pháp”.

Rồi nhiều Tỷ-kheo vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào Sàvatthi, để khất thực, Khất thực ở Sàvatthi xong sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Ở đây, bạch Thế Tôn, một số đông ngoại đạo sai khác, các Sa-môn, Bà-la-môn, các du sĩ ngoại đạo đều vào Sàvatthi để khất thực…”… như thế này không phải pháp, như thế này là pháp”.

– Này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại đạo là những người mù, không có mắt, không biết mục đích, không biết phải mục đích, không biết pháp, không biết phi pháp. Do họ không biết mục đích, do họ không biết không phải mục đích, do không biết pháp, do không biết phi pháp, họ sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh… như thế này là pháp. Này các Tỷ-kheo, thưở xưa tại thành Sàvatthi này, có một ông vua. Này các Tỷ-kheo, ông vua ấy bảo một người: “Này người kia, phàm có bao nhiêu những người sanh ra đã mù ở Sàvatthi hãy nhóm lại một chỗ tất cả ” – “Thưa vâng, Ðại vương”. Này các Tỷ-kheo, người ấy vâng đáp ông vua ấy, phàm có bao nhiêu những người sanh ra đã mù ở Sàvatthi, người ấy giữ lại tất cả, rồi đi đến ông vua ấy, sau khi đến thưa với vị vua: “Thưa Ðại vương, phàm có bao nhiêu những người sanh ra đã mù ở Sàvatthi đã được tụ tập lại”.

– Này khanh, hãy đưa ra một con voi cho những người mù.

Thưa vâng, Ðại vương. Này các Tỷ-kheo, người ấy vâng đáp ông vua ấy, đưa ra một con voi cho những người mù: “Này các người mù, đây là con voi”. Với một số người mù, ông ta đưa cái đầu và nói: “Này các người mù, đây là con voi”. Ðối với một số người mù, ông ta đưa cái lỗ tai con voi và nói: “Này các người mù, đây là con voi”. Ðối với một số người mù, ông ta đưa các ngà con voi và nói: “Này các người mù, đây là con voi”. Ðối với một số người mù, ông ta đưa cái vòi con voi và nói: “Này các người mù, đây là con voi”. Ðối với một số người mù, ông ta đưa cái thân con voi và nói: “Này các người mù, đây là con voi”. Ðối với một số người mù, ông ta đưa cái chân… Ðối với một số người mù, ông ta đưa cái lưng… Ðối với một số người mù, ông ta đưa cái đuôi… Ðối với một số người mù, ông ta đưa cái lông đuôi và nói: “Này các người mù, đây là con voi”. Này các Tỷ-kheo, rồi người ấy sau khi đưa con voi cho các người mù, đi đến ông vua ấy, sau khi đến tâu với vua: “Thưa Ðại vương, con voi đã được các người mù thấy, nay Ðại vương hãy làm những gì Ðại vương nghĩ là hợp thời! ” Rồi này các Tỷ-kheo, ông vua đi đến các người mù ấy, sau khi đến nói với họ: “Này các người mù, các ông đã thấy con voi chưa? ” – “Thưa Ðại vương, chúng tôi đã thấy con voi”. – Này các người mù, hãy nói con voi là như thế nào? ” Này các Tỷ-kheo, những ai thấy đầu con voi, họ nói như sau: “Thưa Ðại vương, con voi là như thế này, như cái ghè! ” Này các Tỷ-kheo, những ai được thấy cái tai con voi, họ nói như sau: “Thưa Ðại vương, con voi là như thế này, như cái rổ sàng gạo. ” Này các Tỷ-kheo, những ai được thấy cái ngà con voi, họ nói như sau: “Thưa Ðại vương, con voi là như thế này, như cái lưỡi cày. ” Những ai… được thấy cái vòi…”… như cái cày”. Những ai… được thấy cái thân…”… như cái kho chứa. ” Những ai… được thấy cái chân…”… như cái cột. ” Những ai… được thấy cái lưng…”… như cái cối. ” Những ai… được thấy cái đuôi, họ nói như sau: “Thưa Ðại vương, con voi là như thế này, như cái chày”. Những ai được thấy cái nhóm lông đuôi, chúng nói như sau: “Thưa Ðại vương, con voi là như thế này, như cái chổi ” – “Con voi các ông nói như vậy không phải là con voi. Con voi không phải như vậy. Con voi không phải vậy. Như thế này là con voi”. Cho đến khi họ đánh lộn nhau bằng tay. Rồi này các Tỷ-kheo, ông vua ấy hoan hỷ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại đạo là những người mù, không có mắt… như vậy là pháp.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:

  1. Có một số Sa-môn,
    Cùng với Bà-la-môn,
    Họ chấp trước, giành giật,
    Trong các luận thuyết này,
    Họ tranh luận tranh chấp,
    Họ nhìn chỉ một phía.

(V) (Ud 69)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, nhiều ngoại đạo sai khác, các Sa-môn, Bà-la-môn, các di sĩ trú ở Sàvatthi. Họ có quan điểm khác nhau. Họ có kham nhẫn khác nhau. Họ có sở thích khác nhau. Họ y cứ nương tựa vào quan điểm khác nhau. Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: “Tự ngã và thế giới là thường còn, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng”. Một số Sa-môn, Bà-la-môn… “Tự ngã và thế giới là vô thường”… “Tự ngã và thế giới là thường còn và vô thường”… “Tự ngã và thế giới là không thường còn và không vô thường… ” “Tự ngã và thế giới do tự mình tạo ra”… “Tự ngã và thế giới do người khác tạo ra”… “Tự ngã và thế giới do tự mình và người khác tạo ra”… “Tự ngã và thế giới do không tự mình tạo ra, không do người khác tạo ra, do vô nhân sanh, tự nhiên”… “Lạc khổ, tự ngã và thế giới là thường còn”… “Lạc khổ, tự ngã và thế giới là vô thường”… “Lạc khổ, tự ngã và thế giới là thường còn và vô thường”… “Lạc khổ, tự ngã và thế giới là không thường còn và không vô thường”… Có một số Sa-môn, Bà-la-môn có luận thuyết như sau, quan điểm như sau: “Lạc khổ, tự ngã và thế giới là không tự mình tạo ra, không người khác tạo ra do vô nhân sanh”. Họ sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau, bằng binh khí miệng lưỡi: “Như thế này là pháp. Như thế này không phải là pháp. Như thế này không phải pháp, như thế này là pháp”.

Rồi nhiều Tỷ-kheo vào buổi sáng đắp y, cầm y bát vào Vương Xá để khất thực. Khất thực ở Vương Xá xong, sau buổi ăn, đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Ở đây, bạch Thế Tôn, có nhiều ngoại đạo sai khác, các Sa-môn, Bà-la-môn, các du sĩ, trú ở Sàvatthi… họ sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi: “Như thế này là pháp. Như thế này không phải pháp. Như thế này không phải pháp, như thế này là pháp”.

– Này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại đạo là những người mù, không có mắt, không biết mục đích, không biết không phải mục đích, không biết pháp, không biết phi pháp. Do họ không biết mục đích, do họ không biết không phải mục đích, do không biết pháp, do không biết phi pháp, họ sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đã thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi: “Như thế này là pháp. Như thế này không phải pháp. Như thế này không phải pháp. Như thế này là pháp”.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:

  1. Có một số Sa-môn,
    Cùng với Bà-la-môn,
    Họ chấp trước giành giật,
    Trong các luận thuyết này,
    Họ bị chìm đắm xuống,
    Khi đang còn giữa dòng,
    Họ không đạt đến được,
    Ðất cứng trên bờ kia.

(VI) (Ud 70)

(Giống như kinh VI, 5, tức là kinh trước, với đoạn kết luận khác nhau như sau:)

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Có người ở đời này,
    Chấp người làm là ta,
    Trói buộc với tư tưởng,
    Người làm là người khác,
    Họ không biết sự này,
    Họ thấy là mũi tên,
    Ai nhìn mũi tên này,
    Với thận trọng cần thiết,
    Người ấy không còn chấp,
    “Người làm chính là ta”,
    Người ấy cũng không chấp,
    “Người làm là người khác”,
    Loài người ở đời này,
    Bị kiêu nạn khiếp phục,
    Bị cột bởi kiêu mạn,
    Bị trói bởi kiêu mạn,
    Trong các loài chủ thuyết,
    Họ cạnh tranh, luận tranh,
    Họ không thể vượt qua,
    Luân chuyển trong sanh tử.

(VII) (Ud 71)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn Giả Subhùti ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết-già lưng thẳng, nhập định không tầm. Thế Tôn thấy Tôn giả Subhùti ngồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết-già lưng thẳng, nhập định không tầm. Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nỗi lên lời cảm hứng:

  1. Với ai, tầm quét sạch,
    Nội tâm khéo cắt đứt,
    Không còn chút dư tàn
    Vượt qua ái nhiễm ấy,
    Ðạt được tưởng vô sắc,
    Vượt khỏi bốn ách nạn,
    Không đi đến thọ sanh.

(VIII) (Ud 71)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Vương Xá, tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, ở Vương xá, có hai nhóm say đắm một ngưòi kỹ nữ, tâm bị ám ảnh, họ cạnh tranh, đấu tranh nhau. Họ đi đến đánh nhau bằng nắm tay, đánh nhau bằng cục đất, đánh nhau bằng gậy gộc, đánh nhau bằng kiếm. Họ đi đến chết, đi đến đau khổ gần như chết. Rồi nhiều Tỷ-kheo, vào buổi sáng đắp y, cầm bát, đi vào Vương Xá để khất thực. Khất thực ở Vương Xá xong, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, các Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, ở Vương Xá có hai nhóm say đắm một người kỷ nữ… họ đi đến chết, đi đến đâu khổ gần như chết.

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:

  1. Phàm cái gì đạt được,
    Cái gì cần phải đạt,
    Cả hai vướng bụi trần,
    Với kẻ bị bệnh hoạn,
    Học tập chưa thuần thục,
    Kẻ tinh chuyên học tập,
    Sống giữ gìn giới cấm,
    Tinh chuyên chú Phạm hạnh,
    Ðây là một cực đoan,
    Ðây là một chủ thuyết,
    Trong dục không lỗi lầm,
    Là cực đoan thứ hai,
    Cả hai cực đoan này,
    Làm mộ phần tăng trưởng,
    Chính do các tà kiến,
    Làm tăng trưởng mộ phần.
    Những ai không thắng tri,
    Cả hai cực đoan này,
    Có kẻ bị chìm đắm,
    Có kẻ chạy quá mau,
    Những ai thắng tri chúng,
    Không có suy tư vậy,
    Không có tự quá mạn,
    Họ không có luân chuyển,
    Ðể được tuyên bố lên.

(IX) (Ud 72)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàathapindika. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang ngồi giữa trời, trong đêm tối mù mịt, với những cây đèn dầu đang chói sáng. Lúc bấy giờ, nhiều loại côn trùng có cánh tiếp tục rơi vào trong những đèn dầu ấy và gặp phải tai nạn, gặp phải hoại diệt, gặp phải tai nạn hoại diệt. Thế Tôn thấy nhiều loại côn trùng có cánh tiếp tục rơi vào…

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng:

  1. Họ chạy gấp vượt qua,
    Nhưng bỏ mất lối cây,
    Họ làm cho tăng trưởng,
    Các trói buộc mới mẻ,
    Như các loại côn trùng,
    Rơi vào trong ánh sáng,
    Có người sống dựa vào
    Ðiều được thấy được nghe.

(X) (Ud 73)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavena, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi Tôn giả Ananda, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, cho đến khi nào, các Như Lai không hiện hữu ở đời, bậc A-la-hán, Chánh-Ðẳng-Giác, cho đến khi ấy các du sĩ ngoại đạo được cung kính, được tôn trọng, được đảnh lễ, được cúng dường, được tôn kính, nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Nhưng đến khi các Như Lai hiện hữu ở đời, bậc A-la-hán, Chánh-Ðẳng-Giác, cho đến khi ấy, các du sĩ ngoại đạo, không được cung kính, không được tôn trọng, không được đảnh lễ, không được cúng dường, không nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn trọng, nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh; chúng Tỷ-kheo cũng như vậy.

– Ðúng như vậy, này Ananda. Cho đến khi nào, các Như Lai không xuất hiện ở đời… dược phẩm trị bệnh. Nhưng đến khi các Như Lai xuất hiện ở đời… dược phẩm trị bệnh. Này Ananda nay Thế Tôn được cung kính… chúng Tỷ-kheo cũng vậy.

Sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, Thế Tôn nói lên lời cảm hứng:

  1. Con đôm đốm chiếu sáng,
    Khi mặt trời chưa mọc,
    Khi mặt trời mọc lên,
    Ánh sáng đôm đốm diệt,
    Cũng vậy là ánh sáng,
    Của các nhà ngoại đạo,
    Khi bậc Chánh Ðẳng Giác
    Chưa xuất hiện ở đời,
    Các nhà ưa biện luận.
    Không có được ánh sáng,
    Cũng vậy đệ tử chúng,
    Còn các nhà tà kiến,
    Họ không được giải thoát,
    Khỏi các sự đau khổ.

Chương Bảy – Phẩm Nhỏ

(I) (Ud 74)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi tại Jetavana, khu vườn cuả ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ Sàriputta, với pháp thoại gồm nhiều pháp môn đang trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ Tôn giả Lakumthakabbaddiya. Do Tôn giả Sàriputta, với pháp thoại gồm nhiều pháp môn trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ nên tâm của Tôn giả Lakumthakabhaddiya được giải thoát các lậu hoặc không có chấp thủ. Thế Tôn thấy Tôn giả Lakumthakabbaddiya, do Tôn giả Sàriputta với pháp thoại gồm nhiều pháp môn trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ nên tâm được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Trên dưới khắp tất cả,
    Ðược giải thoát hoàn toàn,
    Không còn có tùy quán
    “Cái này chính là tôi”.
    Giải thoát vậy vượt dòng,
    Trước chưa từng vượt qua,
    Không còn có rơi rớt
    Vào sanh hữu thọ sanh.

(II) (Ud 74)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ Tôn giả Sàriputta, với pháp thoại gồm nhiều pháp môn, đang thuyết trình, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, Tôn giả Bhaddiya người lùn; lại càng nhiệt tình hơn lên khi Tôn giả Sàriputta nghĩ rằng: “Tôn giả Bhaddiya người lùn là một vị hữu học”. Thế Tôn thấy Tôn giả Sàriputta với pháp thoại gồm nhiều pháp môn, là một vị hữu học. Sau khi hiểu biết ý nghĩa này, Thế Tôn ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Cắt đứt được luân chuyển,
    Ðạt được sự không dục,
    Hoàn toàn được khô cạn,
    Nước sông không chảy nữa,
    Cắt đứt, lưu chuyển đứng,
    Là giải thoát đau khổ.

(III) (Ud 75)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, nhiều người ở Sàvatthi, phần lớn đắm say quá độ về các dục, sống say đắm, tham đắm, tham muốn, tham mê, bị trói buộc, bị mê say trong các dục. Rồi một số đông Tỷ-kheo vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào Sàvatthi để khất thực. Khất thực ở Sàvatthi xong, sau buổi ăn, khi đã khất thực trở về, họ đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, họ bạch Thế Tôn:

Ở đây, bạch Thế Tôn, những người ở Sàvatthi,… bị mê say trong các dục.

Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Chúng sanh bị tham đắm,
    Trong các loại ái dục,
    Họ không thấy lỗi lầm,
    Trong phiền não kiết sử,
    Chắc chắn các chúng sanh,
    Tham đắm trong ái dục,
    Họ không vượt qua được,
    Thác nước rộng và lớn.

(IV) (Ud 75)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, nhiều người ở Sàvatthi phần lớn đắm say quá độ về các dục (như trên III)… trong các dục. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào Sàvatthi để khất thực. Rồi Thế Tôn thấy các người ấy ở Sàvatthi… trong các dục.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Bị mù bởi các dục,
    Bị bao phủ bởi lưới,
    Bị ái dục bao trùm,
    Lại còn bị trói buộc,
    Bởi trói buộc phóng dật,
    Như cá mắc miệng lưới,
    Họ đi đến già chết,
    Như con bê bú sữa.

(V) (Ud 76)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvtthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Lakumthakabhaddiya đi theo sau lưng nhiều Tỷ-kheo, đi đến Thế Tôn, Thế Tôn thấy Tôn giả Lakumthakabhaddiya đi theo sau lưng nhiều Tỷ-kheo, xấu xí, khó nhìn, khòm lưng, phần lớn bị các Tỷ-kheo khinh bỉ; thấy vậy, nói với các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy chăng Thầy Tỷ-kheo này từ đàng xa… bị các Tỷ-kheo khinh bỉ?

– Thưa có, bạch Thế Tôn. Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, có đại thần lực, có đại uy lực, thiền chứng không dễ gì chứng được, thiền chứng ấy trước đây Tỷ-kheo ấy không thực hành tốt đẹp. Và vì mục đích gì các thiện nam tử chơn chánh xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, tức là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, vị ấy ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí chứng ngộ chứng đạt và an trú.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Bộ phận không khuyết thiếu,
    Có tán trắng che trên,
    Chỉ có một bánh xe,
    Chiếc xe được di chuyển.
    Hãy thấy vị ấy đến,
    Không phiền muộn khó khăn,
    Dòng nước đã cắt đứt,
    Vị ấy không trói buộc.

(VI) (Ud 77)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Annatakondanna ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già, lưng thẳng, suy tư đến sự giải thoát do ái được diệt. Thế Tôn thấy Tôn giả Annatakondanna ngồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, suy tư đến sự giải thoát do ái được diệt.

Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Rễ không có bén đất,
    Không lá, đâu dây leo,
    Bậc trí thoát trói buộc,
    Ai xứng đáng được khen,
    Chư Thiên khen người ấy,
    Phạm Thiên cũng ngợi khen.

(VII) (Ud 77)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang ngồi quán sát sự từ bỏ, đoạn diệt các hý luận tưởng. Rồi Thế Tôn sau khi biết sự từ bỏ, đoạn diệt các tưởng hý luận của mình, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Với ai các hý luận,
    Không còn có an trú,
    Thoát ly được liên hệ,
    Thoát ly được ảo tưởng,
    Chư Thiên và thế giới,
    Không thể nào rõ biết,
    Sở hành vị ẩn sĩ,
    Ðã vượt khỏi tham ái.

(VIII) (Ud 77)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahàkaccàna ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết-già, lưng thẳng, với thân hành niệm khéo an trú trước mặt và trong nội tâm. Thế Tôn thấy Tôn giả Mahàkaccàna ngồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết già, lưng thẳng, với thân hành niệm khéo an trú trước mặt trong nội tâm.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Với ai thường thường niệm,
    Liên tục trú thân hành,
    “Trước không thể có được,
    Với tôi, nay không có,
    Sẽ không thể có được,
    Với tôi, nay sẽ không”.
    Tiếp tục trú như vậy,
    Ðúng thời vượt dục ái.

(IX) (Ud 78)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn đang bộ hành giữa dân chúng Mallà cùng với đại chúng Tỷ-kheo, đi đến làng Bà-la-môn của dân chúng Malà tên là Thùna. Các Bà-la-môn gia chủ ở Thùna được nghe: “Sa-môn Gotama từ dòng họ Thích Ca xuất gia, đang bộ hành giữa dân chúng Mallà cùng với đại chúng Tỷ-kheo, nay đã đến Thùna”. Họ đổ đầy miệng giếng với cỏ và trấu với ý nghĩ: “Mong rằng các Sa-môn trọc đầu ấy không có nước uống”.

Rồi Thế Tôn từ trên đường bước xuống, đi đến dưới một gốc cây, sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, hãy đem nước uống từ nơi giếng này cho Ta.

Khi được nói vậy, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, nay các giếng ấy bị các gia chủ Bà-la-môn ở Thùna lắp đầy miệng với cỏ và trấu với ý nghĩ: “Mong rằng các Sa-môn trọc đầu ấy không có nước uống”.

Lần thứ hai, Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, hãy đem nước uống từ nơi giếng này cho Ta!.

Lần thứ hai, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:

– Nay các giếng ấy… không có nước uống.

Lần thứ ba, Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, hãy đem nước uống từ nơi giếng này cho Ta.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn, lấy bình bát, đi đến cái giếng ấy. Tại cái giếng ấy, khi Tôn giả Ananda đi đến, phun ra tất cả cỏ và trấu khỏi miệng giếng, và nước trong sáng không cấu uế, trong lặng, tràn đầy miệng, cho đến như là tràn ra ngoài. Rồi Tôn giả Ananda suy nghĩ: “Thật vi diệu thay!. Thật hy hữu thay là đại thần lực, đại uy lực của Như Lai. Cái giếng này khi ta đến, phun ra tất cả cỏ và trấu khỏi miệng giếng… như là tràn ra ngoài”. Rồi Tôn giả Ananda cầm lấy bát nước, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, bạch Thế Tôn:

– Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay là đại thần lực… như là tràn ra ngoài! Bạch Thế Tôn hãy uống nước. Bạch Thiện Thệ, hãy uống nước!.

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Cần làm gì với giếng,
    Khi nước có cùng khắp,
    Chắt đứt ái từ gốc,
    Cần hành tầm cầu gì?

(X) (Ud 79)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Kosambi tại khu vườn Ghosita. Lúc bấy giờ, vua Udena đang đi ngoài vườn, thì nội cung bị cháy và năm trăm nữ nhân bị chết, đứng đầu là Sàmavati. Rồi nhiều Tỷ-kheo vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào Kosambi để khất thực. Các Tỷ-kheo ấy khất thực ở Kosambi xong, sau buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi vua Udena đi ra ngoài vườn, nội cung bị cháy, năm trăm nữ nhân bị chết, đứng đầu là Sàmàvati. Các nữ cư sĩ ấy, sanh thú họ là gì? Tương lai họ thế nào?

– Này các Tỷ-kheo, có nữ cư sĩ là bậc Dự lưu, có nhất bậc Nhất lai, có bậc Bất Lai. Này các Tỷ-kheo, tất cả các nữ cư sĩ ấy mạng chung không phải không có kết quả.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

  1. Ðời bị si trói buộc,
    Ðược thấy bị tái sanh,
    Bị trói bởi sanh y,
    Kẻ ngu bị mù vây,
    Tự thấy mình thường còn,
    Nhưng với ai thấy được,
    Sẽ không có vật gì.

Chương Tám – Phẩm Pàtaligàmiya

(I) (Ud 80)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang thuyết giảng pháp thoại liên tưởng đến Niết-bàn cho các Tỷ-kheo, khích lệ làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Các Tỷ-kheo ấy chú tâm, tác ý, dồn tất cả tâm tư lắng nghe pháp.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:

– Này các Tỷ-kheo, có xứ này, tại đây không có đất, không có nước, không có lửa, không có gió; không có Hư không vô biên, không có Thức vô biên xứ, không có Vô sở hữu xứ, không có Phi tưởng phi phi tưởng xứ; không có đời này, không có đời sau, không có cả hai mặt trăng mặt trời. Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố không có đến, không có đi, không có trú, không có diệt, không có sanh; không có an trú, không có chuyện vận, không có sở duyên, đây là sự đoạn tận khổ đau.

(II) (Ud 81)

(Như kinh trên (I), chỉ khác lời cảm hứng)

  1. Khó thấy là vô ngã,
    Không dễ thấy, sự thật,
    Với bậc có hiểu biết,
    Khéo xâm nhập được ái,
    Với vị ấy thấy rõ,
    Ðâu còn có vật gì.

(III) (Ud 82)

(Như kinh trên, chỉ khác lời cảm hứng)

– Này các Tỷ-kheo, có sự không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thì ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, nên có trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi.

(IV) (Ud 83)

(Như các kinh trước, chỉ khác lời cảm hứng).

– Cái gì có nương tựa, cái ấy có dao động. Cái gì không nương tựa, cái ấy không dao động. Không có dao động thì có khinh an. Có khinh an thì không có thiên về. Không có thiên về thì không có đến và đi; không có đến và đi thì không có diệt và sanh; không có diệt và sanh thì không có đời này, không có đời sau, không có đời ở giữa. Ðây là sự đoạn tận khổ đau.

(V) (Ud 84)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn đang bộ hành đi giữa dân chúng Mallà, cùng với đại chúng Tỷ-kheo, và đã đến Pàvà. Rồi Thế Tôn trú ở Pàvà, tại rừng xoài của thợ rèn Cunda. Thợ rèn Cunda được nghe: “Thế Tôn đang bộ hành giữa dân chúng Mallà, đã đến Pàvà cùng với đại chúng Tỷ-kheo, và trú ở Pàvà, trong rừng xoài của ta”. Thợ rèn Cunda đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn thuyết pháp thoại cho thợ rèn Cunda đang ngồi một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Thợ rèn Cunda sau khi được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, liền bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận lời mời của con ngày mai đến dùng cơm với chúng Tỷ-kheo.

Thế Tôn im lặng nhận lời. Thợ rèn Cunda, sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi.

Thợ rèn Cunda, sau khi đêm đã mãn, liền cho sửa soạn tại nhà của mình các món ăn thượng vị, loại cứng, loại mềm và nhiều thứ mộc nhĩ và báo tin cho Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, giờ đã đến, cơm đã sẵn sàng.

Thế Tôn buổi sáng đắp y, mang theo y bát, cùng với chúng Tỷ-kheo đến nhà thợ rèn Cunda, khi đến liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với thợ rèn Cunda:

– Này Cunda, loại mộc nhĩ đã soạn sẵn, hãy dọn cho Ta. Còn các món ăn khác đã soạn sẵn, loại cứng và loại mềm, hãy dọn cho chúng Tỷ-kheo.

– Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Thợ rèn Cunda vâng lời Thế Tôn, dọn cho Thế Tôn các món mộc nhĩ đã soạn sẵn, và dọn cho chúng Tỷ-kheo các món ăn khác, loại cứng và loại mềm. Rồi Thế Tôn nói với thợ rèn Cunda:

– Này Cunda, món ăn mộc nhĩ còn lại, hãy đem chôn. Này Cunda, Ta không thấy một ai, ở cõi trời, cõi Người, ở Ma giới, ở Phạm thiên giới, không một người nào trong chúng Sa-môn và chúng Bà-la-môn, giữa những Thiên nhân, ăn món mộc nhĩ này mà có thể tiêu hóa được, trừ Như Lai.

– Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Thợ rèn Cunda vâng đáp Thế Tôn, đem chôn món ăn mộc nhĩ còn lại vào một lỗ, đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn thuyết pháp cho thợ rèn Cunda đang ngồi xuống một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ rồi từ chỗ đứng dậy và ra đi.

Sau khi dùng cơm của thợ rèn Cunda. Thế Tôn bị nhiễm bịnh nặng, bệnh ly huyết, đau đớn gần như đến chết, và Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, nhẫn nại chịu đựng cơn bệnh.

Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Kusinàra. Xin vâng, bạch Thế Tôn, Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn:

  1. Dùng cơm Cunda xong,
    Như vậy tôi được nghe,
    Bậc trí cảm bệnh nặng,
    Bạo bệnh, gần như chết,
    Khi ăn loại mộc nhĩ
    Ðạo Sư bị bệnh nặng,
    Khi bệnh được lắng dịu,
    Thế Tôn nói như sau:
    “Ta nay sẽ đi đến,
    Ðến Kusinàra”.

Rồi Thế Tôn bước xuống đường, đến một góc cây và nói với Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, hãy xếp tư áo Sanghàti. Ta cảm thấy mệt mỏi và muốn ngồi nghỉ, này Ananda.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn và xếp áo Sanghàti lại. Thế Tôn ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, và nói với Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, hãy đem nước cho Ta. Này Ananda. Ta nay đang khát và muốn uống nước.

Khi được nói vậy, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn vừa mới có khoảng năm trăm cỗ xe chạy qua. Do bánh xe khấy lên nước trở thành nông cạn, khuấy động và vẫn đục. Bạch Thế Tôn, sông Kakutthà không xa ở đây, nước thuần tịnh, dễ chịu, mát mẻ, trong sáng, dễ đến và khả ái. Tại đó, Thế Tôn có thể uống nước và làm mát dịu chân tay.

Lần thứ hai, Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, hãy đem nước uống cho Ta. Này Ananda, Ta nay đang khát và muốn uống nước.

Lần thứ hai, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, vừa mới có khoảng năm trăm cỗ xe chạy qua. Do bánh xe khuấy lên, nước trở thành nông cạn, khuấy động và vẫn đục. Bạch Thế Tôn, sông Kakutthà không xa ở đây, nước thuần tịnh, dễ chịu, mát mẻ, trong sáng, dễ đến và khả ái. Tại đó, Thế Tôn có thể uống nước và làm mát dịu chân tay.

Lần thứ ba, Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, hãy đem nước uống cho Ta. Này Ananda, Ta nay đang khát và muốn uống nước.

– Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn, lấy bát và đi đến con sông nhỏ. Con sông đang chảy nông cạn, khuấy động và vẫn đục, khi Tôn giả Ananda đến, liền chảy trong trẻo, sáng lặng và không vẩn đục.

Tôn giả Ananda tự nghĩ: “Thật kỳ diệu thay! Thật hi hữu thay! Thần lực và uy lực của Như Lai. Con sông nhỏ đang chảy nông cạn, khuấy động và vẫn đục này, khi ta đến, liền trở thành trong trẻo, sáng lặng và không vẩn đục”. Sau khi dùng bát lấy nước,Ananda đến chỗ Thế Tôn và bạch với Ngài:

– Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu! Bạch Thế Tôn, thật là hy hữu! Bạch Thế Tôn, con sông nhỏ đang chảy nông cạn, khuấy động và vẫn đục này, khi con đến, liền trở thành trong trẻo, sáng lặng và không vẩn đục. Xin thỉnh Thế Tôn dùng nước, xin thỉnh Thiện Thệ dùng nước và Thế Tôn uống nước.

Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến con sông Kakutthà, xuống sông tắm và uống nước, rồi lội qua bờ bên kia, đi đến rừng xoài và tại đây, nói với Tôn giả Cundaka:

– Này Cundaka, hãy xếp áo Sanghati làm bốn cho Ta, này Cundaka, Ta nay mệt mỏi, muốn nằm nghỉ.

– Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Cundaka vâng lời Thế Tôn và xếp áo Sanghati làm bốn. Rồi Thế Tôn nằm xuống phía hông bên mặt như dáng điệu con sư tử, hai chân để trên nhau, chánh niệm, tỉnh giác, tác ý đến tưởng ngồi dậy, Tôn giả Cundaka ngồi phía trước Thế Tôn.

  1. Ðức Phật tự đi đến,
    Con sông Kakutthà,
    Con sông chảy trong sáng,
    Mát lạnh và thanh tịnh,
    Vị Ðạo Sư mỏi mệt,
    Ði dần xuống mé sông,
    Như Lai đấng vô thượng
    Ngự trị ở trên đời.
    Tắm xong uống nước xong,
    Lội qua bên kia sông,
    Bậc Ðạo sư đi trước,
    Giữa Tăng chúng Tỷ-kheo,
    Vừa đi vừa diễn giảng,
    Chánh pháp thật vi diệu,
    Rồi bậc Ðại Sĩ đến,
    Tại khu vực rừng xoài,
    Cho gọi vị Tỷ-kheo,
    Tên họ Cundaka;
    “Hãy gấp tư áo lại,
    Trải áo cho Ta nằm”
    Nghe dạy, Cundaka,
    Lập tức vâng lời dạy,
    Gấp tư và trải áo,
    Một cách thật mau lẹ,
    Bậc Ðạo Sư nằm xuống,
    Thân mình thật mệt mỏi.
    Tại đây Cundaka,
    Ngồi ngay ngắn trước mặt.

Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, rất có thể có người làm cho thợ rèn Cunda hối hận: “Này Hiền giả Cunda, thật không lợi ích gì cho Ông, thật là tai hại cho Ông, vì Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ Ông cúng dường, và nhập diệt”. Này Ananda, cần phải làm tiêu tan sự hối hận ấy của thợ rèn Cunda: “Này Hiền giả, thật lợi ích cho bạn, thật là công đức cho bạn, vì được Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ bạn cúng dường, và nhập diệt. Nay Hiền giả Cunda, tôi tự thân nghe, tôi tự thân lãnh thọ lời nói này của Thế Tôn: “Có hai sự cúng dường ăn uống đồng một quả báo, đồng một di thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác. Thế nào là hai? Một là, bữa ăn trước khi Như Lai chứng Vô thượng Chánh Ðẳng Giác; hai là, bữa ăn trước khi Như Lai diệt độ Niết-bàn giới, không còn di hưởng sanh tử”. Hai bữa ăn này đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác. Nhờ hành động này, Tôn giả Cunda sẽ được hưỏng tuổi thọ; nhờ hành động này, Tôn giả Cunda sẽ được hưởng sắc đẹp; nhờ hành động này, Tôn giả Cunda sẽ được hưởng an lạc; nhờ hành động này, Tôn giả Cunda sẽ được hưởng danh tiếng; nhờ hành động này, Tôn giả Cunda sẽ được hưởng cõi Trời; nhờ hành động này, Tôn giả Cunda sẽ được hưởng uy quyền”.

Này Ananda, cần phải làm cho thợ rèn tiêu tan hối hận.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu ý nghĩa này, liền thốt lời cảm khái như sau:

  1. Công đức người bố thí,
    Luôn luôn được tăng trưởng,
    Trừ được tâm hận thù,
    Không chất chứa chế ngự,
    Kẻ chí thiện từ bỏ,
    Mọi ác hạnh bất thiện,
    Diệt trừ tham, sân, si.
    Tâm giải thoát thanh tịnh.

(VI) (Ud 85)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn đang đi bộ hành giữa dân chúng Magadha cùng với đại chúng Tỷ-kheo, và đã đến làng Magadha cùng với đại chúng Tỷ-kheo, và đã đến làng Pàtali. Các nam cư sĩ ở làng Pàtali được nghe: “Thế Tôn đang đi bộ hành giữa dân chúng Magadha với đại chúng Tỷ-kheo, và đã đến làng Pàtali”. Rồi các nam cư sĩ ở làng Pàtali đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các nam cư sĩ làng Pàtali bạch Thế Tôn:

– Mong Thế Tôn trú ở giảng đường chúng con.

Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi các nam cư sĩ ở làng Pàtali, sau khi được biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi đi đến giảng đường, sau khi đến chúng cho trải thảm toàn bộ giảng đường, sửa soạn các chỗ ngồi, đặt một ghè nước, cho treo đèn dầu, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, các nam cư sĩ ở làng Pàtali, bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, giảng đường đã được trải thảm, các chỗ ngồi đã sửa soạn, ghè nước đã đặt xong, đèn dầu đã được treo, Thế Tôn hãy làm những gì Thế Tôn nghĩ là hợp thời.

Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm bát, cùng với chúng Tỷ-kheo, đi đến giảng đường, sau khi đến rửa chân, bước vào giảng đường, dựa nơi cây cột ở giữa, ngồi hướng mặt về phía đông. Chúng Tỷ-kheo, sau khi rửa chân, bước vào giảng đường, ngồi xuống dựa vào tường giữa, mặt hướng về phía đông có đức Phật trước mặt. Các nam cư sĩ ở làng Pàtalli, sau khi rửa chân, bước vào giảng đường, dựa vào tường phía đông, mặt hướng về phía Tây, và ngồi xuống, với đức Phật ở trước mặt.

Rồi Thế Tôn bảo các nam cư sĩ ở làng Pàtali:

– Này các Gia Chủ, có năm điều nguy hiểm này cho người ác giới, người phạm giới. Thế nào là năm? Ở đây, này các Gia chủ, người ác giới, phạm giới, do nhân duyên phóng dật, nên hao mất tài sản lớn. Ðây là nguy hiểm thứ nhất cho người ác giới, người phạm giới. Lại nữa, này các Gia chủ, người ác giới, phạm giới, tiếng xấu đồn xa. Ðây là nguy hiểm thứ hai cho người ác giới, cho người phạm giới. Lại nữa, này các Gia chủ, người ác giới, người phạm giới khi đến hội chúng nào, hoặc là hội chúng Sát-đế-lỵ, hoặc là hội chúng Bà-la-môn, hoặc là hội chúng gia chủ, hoặc là hội chúng Sa-môn, vị ấy đến với sự sợ hãi, với sự ngỡ ngàng. Ðây là nguy hiểm thứ ba cho người ác giới, cho người phạm giới. Lại nữa, này các Gia chủ, người ác giới, phạm giới, khi chết bị si ám. Ðây là nguy hiểm thứ tư cho người ác giới, cho người phạm giới. Lại nữa, này các Gia chủ, người ác giới, người phạm giới, khi thân hoại mạng chung bị sanh vào ác xứ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Ðây là nguy hiểm thứ năm của người ác giới, của người phạm giới. Này các Gia chủ, có năm điều nguy hiểm này cho người ác giới, cho người phạm giới.

Này các Gia chủ, có năm điều lợi ích này cho người giữ giới, cho người đầy đủ giới. Thế nào là năm? Ở đây, này các Gia chủ người giữ giới, người đầy đủ giới, do nhân duyên không phóng dật được tài sản lớn. Ðây là lợi ích thứ nhất cho người giữ giới, cho người đầy đủ giới. Lại nữa, này các Gia chủ, với người giữ giới, người đầy đủ giới, tiếng tốt lành được đồn xa. Ðây là lợi ích thứ hai cho người giữ giới, cho người đầy đủ giới. Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới, người đầy đủ giới khi đi đến hội chúng nào, hoặc là Sát-đế-lỵ hoặc là Bà-la-môn, hoặc là gia-chủ, hoặc là Sa-môn, người ấy đi đến không có sợ hãi, không có ngỡ ngàng. Ðây là lợi ích thứ ba cho người giữ giới cho người có đầy đủ giới. Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới, người đầy đủ giới, khi chết không có si ám. Ðây là lợi ích thứ tư cho người giữ giới, cho ngưòi có đầy đủ giới. Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới, người đầy đủ giới khi thân hoại mạng chung được sanh thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Ðây là lợi ích thứ năm cho người giữ giới, cho người đầy đủ giới. Này các Gia chủ, có năm lợi ích này cho người giữ giới, cho ngưòi đầy đủ giới.

Rồi Thế Tôn, sau khi thuyết giảng pháp thoại cho đến đêm khuya cho các cư sĩ ở làng Pàtali, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, liền giải tán chúng, nói rằng:

– Ðêm đã khuya, này các Gia chủ, hãy làm những gì các vị nghĩ là hợp thời!.

Rồi các Gia chủ ở làng Pàtali hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.

Rồi Thế Tôn, sau khi các nam cư sĩ ở làng Pàtali ra đi không bao lâu, đi vào căn nhà trống. Lúc bấy giờ, Sunìdha và Vassakàra đại thần ở Magadha đang cho xây dựng một thành phố ở Pàtaligàma để ngăn chận các người Vajjì. Lúc bấy giờ, rất nhiều chư Thiên có đến con số ngàn, đang trú ở các trú xứ ở làng Pàtali. Tại chỗ nào các chư Thiên có đại uy lực trú ở tại chỗ ấy chúng làm cho tâm các vua, các đại thần có đại uy lực thiên về, hướng về xây dựng các trú xứ. Tại chỗ nào các chư Thiên có uy lực trung bình trú ở, tại chỗ ấy chúng làm cho tâm các vua, các vị đại thần có uy lực trung bình thiên về, hướng về xây dựng các trú xứ. Tại chỗ nào các chư Thiên thấp kém trú ở, tại chỗ ấy, chúng làm cho tâm các vua, các đại thần có uy lực thấp kém thiên về, hướng về xây dựng các trú xứ.

Thế Tôn với Thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân thấy hàng ngàn chư Thiên ở làng Pàtali đang trú ở các trú xứ ở làng Pàtali. Tại chỗ nào các chư Thiên có đại uy lục trú ở… Họ làm cho tâm các vua, các đại thần uy lực thấp kém thiên về, hướng về xây dựng các trú xứ.

Rồi Thế Tôn, vào lúc tảng sáng đêm ấy, thức dậy và bảo Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, ai cho xây dựng thành phố ở làng Pàtali?

– Bạch Thế Tôn, các đại thần Sunìdha và Vassa-kàra cho xây dựng thành phố ở làng Pàtali để ngăn chận các người Vajjì.

– Này Ananda, ví như họ làm như vậy sau khi đã hỏi chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba. Cũng vậy, Sunìdha và Vasakàra đại thần ở Magadha, đang cho xây dựng thành phố ở làng Pàtali để ngăn chận các người Vajjì.

Ở đây, này Ananda, với Thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy hàng ngàn chư Thiên ở làng Pàtali… hướng về xây dựng các trú xứ. Này Ananda, xa cho đến thánh xứ, xa cho đến con người buôn bán đây sẽ trở thành một thành phố tối thượng, một chỗ mà các kiện hàng được mở ra. Này Ananda, ba tai nạn sẽ đến với Pàtaliuputta, nạn lửa, nạn lụt và nạn phản bội.

Rồi Sunìdha và Vassakàra đại thần ở Magadha đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón thăm hỏi, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi đứng một bên. Ðứng một bên, các Sunìdha và Vassakàra, đại thần xứ Magadha, bạch Thế Tôn:

– Mong Tôn giả Gotama hôm nay nhận lời mời dùng cơm của chúng con với chúng Tỷ-kheo!

Thế Tôn im lặng nhận lời.;

Rồi Sunìdha và Vassakara đại thần Magadha, sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời, đi đến chỗ của mình, sau khi đến sửa soạn các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm và báo thời giờ cho Thế Tôn:

– Thưa Tôn giả Gotama, nay đã đến thời. Cơm đã sẵn sàng.

Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm bát cùng với chúng Tỷ-kheo đi đến trú xứ của Sunìdha và Vassakara, đại thần xứ Magadha, sau khi đến ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi Sunìdha và Vassakara, đại thần xứ Magadha tự tay thân mời chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị Thượng thủ và làm cho thỏa mãn với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm. Rồi Sunìdha và Vassakara, đại thần xứ Magadha, sau khi Thế Tôn ăn đã xong, tay đã rời khỏi bát, lấy một ghế ngồi thấp khác. Thế Tôn với những bài kệ này, nói lên lời tuỳ hỷ công đức với Sunìdha và Vassakara, đại thần xứ Magadha:

  1. Tại chỗ nào bậc trí,
    Làm thành chỗ an trú,
    Hãy cúng các món ăn,
    Cho những người giữ giới,
    Cho người biết chế ngự,
    Sống đời sống Phạm hạnh,
    Ở đấy chư Thiên trú,
    Hãy cúng dường chư Thiên
    Ðược cúng dường, chư Thiên,
    Cúng dường lại vị ấy,
    Ðược cung kính, chư Thiên,
    Cung kính lại vị ấy,
    Họ từ mẫn vị ấy
    Như mẹ thương con mình,
    Người được chư Thiên thương,
    Luôn luôn thấy hiền thiện.

Rồi Thế Tôn sau khi nói lời tuỳ hỷ công đức với những bài kệ này cho Sunìdha và Vasakara, đại thần xứ Magadha, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Lúc bấy giờ Sunìdha và Vassakara, đại thần xứ Magadha đi theo sau lưng Thế Tôn và nghĩ rằng: “Hôm nay, Sa-môn Gotama đi ra cửa nào, cửa ấy sẽ đặt tên là cửa thành Gotama. Tại bến nước nào Sa-môn Gotama sẽ đi qua sông Hằng, bến nước ấy sẽ đặt tên là bến nước Gotama”. Và cửa nào Thế Tôn đã đi ra khỏi, các vị ấy đặt tên là cửa thành Gotama. Và Thế Tôn đi đến sông Hằng, nước sông tràn đầy đến bờ, con quạ có thể uống được, một số người đi tìm thuyền, một số người đi tìm bè, một số người cột chiếc bè để đi qua sông. Rồi như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại bàn tay đang duỗi ra, cũng vậy Thế Tôn biến mất từ bờ bên này sông Hằng và đứng qua bờ bên kia với chúng Tỷ-kheo. Thế Tôn thấy các người ấy, một số người đi tìm thuyền, một số người đi tìm bè, một số người cột lại chiếc bè để qua sông, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, Thế Tôn ngay trong lúc ấy, nói lên bài kệ:

  1. Sau khi làm cái cầu,
    Họ vượt qua thác nước,
    Họ vượt qua hồ nước,
    Họ vượt qua đầm lầy,
    Có người cột chiếc bè,
    Bậc trí đã qua sông.

(VII) (Ud 90)

Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn đang đi giữa đường cùng với Tôn giả Nàgasamàla là Sa-môn tuỳ tùng. Tôn giả Nàgasamàla giữa đường thấy một con đường rẽ, thấy vậy bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, đây là con đường, chúng ta đi con đường này.

Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với Tôn giả Nàgasamàla:

– Này Nàgasasmàla, đây là con đường. Chúng ta sẽ đi con đường này.

Lần thứ ba, Tôn giả Nàgasamàla bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, đây là con đường, chúng ta hãy đi con đường này.

Lần thứ ba, Thế Tôn nói:

– Này Nàgasamàla, đây là con đường. Chúng ta đi con đường này.

Rồi Tôn giả Nàgasamàla đặt xuống đất y và bát của Thế Tôn, bỏ đi và nói:

– Bạch Thế Tôn, đây là y bát của Thế Tôn.

Rồi Tôn giả Nàgassamàla đi theo con đường ấy, giữa đường bị các tên cướp xuất hiện đánh bằng tay hay chân, đập vỡ bình bát và xé rách thượng y của Tôn giả. Rồi Tôn giả Nàgasamàla với bình bát bị vỡ, với thương y bị xé rách đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Nàgasamàla bạch Thế Tôn:

– Ở đây, bạch Thế Tôn, con đi con đường ấy các tên cướp xuất hiện, đánh con bằng tay hay bằng chân, đập vỡ bình bát và xé rách thượng y.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:

  1. Cùng đi với kẻ ngu,
    Kẻ trí phải chen vai,
    Khi biết nó là ác,
    Lập tức từ bỏ nó,
    Như con bò bỏ nước,
    Ðược nuôi ăn với sữa.

(VIII) (Ud 91)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Ðông Viên, Lộc Mẫu giảng đường. Lúc bấy giờ, người cháu trai của Visàkhà mẹ của Migàra khả ái và dễ thương bị mệnh chung. Và Visàkhà mẹ của Migàra, với áo đẫm ướt, với tóc đẫm ướt, thật sáng sớm đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Visàkhà, mẹ của Migàra, đang ngồi một bên:

– Này Visàkhà, Bà từ đâu đến, với áo ướt đẫm, với tóc đẫm ướt, đi đến đây quá sớm như vậy?

– Bạch Thế Tôn, đứa cháu khả ái dễ thương của con đã mệnh chung. Cho nên con, với áo đẫm ướt, với tóc đẫm ướt, con đến đây sáng sớm như vậy.

– Này Visàkhà, Bà có muốn tất cả người ở Sàvatthi là con và là cháu của Bà không?

– Bạch Thế Tôn, con muốn tất cả người ở Sàvatthi là con và cháu của con.

– Nhưng này Visàkhà, có bao nhiêu người ở Sàvatthi mạng chung hàng ngày?

– Bạch Thế Tôn, có mười người ở Sàvatthi mạng chung hàng ngày, chín… tám… bảy.. sáu… năm… bốn… ba.. hai. Bạch Thế Tôn có một người ở Sàvatthi mạng chung hàng ngày. Bạch Thế Tôn, Sàvatthi không có thoát được số người bị chết!

– Bà nghĩ thế nào, này Visàkhà? Như vậy Bà có khi nào được khỏi vải bị ướt, hay tóc khỏi bị ướt không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn! Thật là vừa đủ cho con, bạch Thế Tôn, số nhiều như vậy về con và về cháu!

– Này Visàkhà, những ai có một trăm người thân yêu, những người ấy có trăm sự đau khổ! Những ai có chín mươi người thân yêu, những người ấy có chín mươi sự đau khổ! Những ai có tám mươi người thân yêu, những người ấy có tám mươi sự đau khổ! Những ai có bảy mươi.. có sáu mươi… có năm mươi… có bốn mươi… có ba mươi.. có hai mươi… có mười.. có chín… có tám… có bảy..có sáu.. có năm… có bốn… có ba… có hai… có một người thân yêu, những người ấy có một sự đau khổ. Những ai không có người thân yêu, những người ấy không có sự đau khổ. Ta nói rằng họ là người không có sầu, không có tham đắm, không có ưu não.

  1. Sầu, than và đau khổ,
    Sai biệt có ở đời,
    Duyên thân ái, chúng có,
    Không thân ái, chúng không,
    Do vậy, người an lạc,
    Người không có sầu muộn,
    Là những ai ở đời,
    Không có người thân ái,
    Do vậy ai tha thiết,
    Ðược không sầu, không tham,
    Chớ làm thân làm ái,
    Với một ai ở đời.

(IX) (Ud 92)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Vương Xá, tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Rồi Tôn giả Dabha Mallputta đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Dabha Mallaputta bạch Thế Tôn:

– Nay đã đến thời, con nhập Niết Bàn, bạch Thiện Thệ.

– Này Dabba, Thầy hãy làm những gì Thầy nghĩ là hợp thời!.

Rồi Tôn giả Dabha Mallaputta từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, bay lên hư không, ngồi kiết-già giữa hư không, nhập định hỏa giới, xuất khỏi định và nhập Niết-bàn. Khi Tôn giả Dabha Mallaputta bay lên hư không, ngồi kiết-già giữa hư không, nhập định hỏa giới, xuất khỏi định và nhập Niết Bàn, thân của Tôn giả được cháy sạch, đốt sạch, không còn có than hay có tro có thể thấy được. Ví như bơ hay dầu được cháy, được đốt, không còn có than hay có tro có thể thấy được. Cũng vậy, khi Tôn giả Dabha Mallaputta bay lên hư không, ngồi kiết già giữa hư không, nhập định hỏa giới, xuất khỏi định và nhập Niết-bàn, thân của Tôn giả được cháy sạch, đốt sạch, không còn có than hay có tro có thể thấy được.

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:

  1. Thân bị hoại, tưởng diệt,
    Mọi thọ được nguội lạnh,
    Các hành được lắng dịu,
    Thức đạt được mục đích.

(X) (Ud 93)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Tại đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Thế Tôn nói như sau:

– Này các Tỷ-kheo, Dabbha Mallaputta bay lên hư không, ngồi kiết-già giữa hư không, nhập định hỏa giới, xuất khỏi định và nhập Niết Bàn… hay có tro có thể thấy được. Ví như bơ hay dầu… hay có tro có thể thấy được… không còn có tro có thể thấy được.

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:

  1. Như tia lửa cháy sáng,
    Phát từ búa sắt đập,
    Dần dần được nguội lạnh,
    Sanh thú không biết được,
    Cũng vậy là những bậc
    Ðã chân chánh giải thoát,
    Ðã vượt qua thác nước,
    Trói buộc bởi các dục,
    Họ đạt được an lạc,
    Không có bị dao động,
    Họ không có sanh thú,
    Ðể có thể chỉ bày.

Tổng biên tập: Thích Nữ Giới Hương

Thiết kế mỹ thuật: HỒ THANH SƠN

Image result for hình ảnh hoa sen trong phật giáo

  1. Lời thưa của Ban biên tập
  2. Thư mời viết bài
  3. Tiểu sử của Ni sư TN Giới Hương

Bia 40 nam tu hoc cua TN Gioi Huong

 “Nữ Tiến sĩ người Mỹ gốc Việt viết và dịch nhiều ấn phẩm Phật giáo nhất” của Tổ chức Kỷ lục Người Việt toàn cầu.

Image result for hình ảnh đẹp tây ban nha

 

 Ni Sư Giới Hương là một vị Ni rất thích hoạt động trong vấn đề văn chương, giáo dục, văn hóa, từ thiện giúp đỡ người cơ nhỡ v.v…

Image result for hình ảnh đẹp thiền tự nhiên

Thầy rất vui khi thấy Ni sư và chư Ni Hương Sen nỗ lực hoằng pháp tại hải ngoại này.

Image result for hình ảnh đẹp việt nam

 Xin quí vị hãy đọc từng tờ - lật từng trang sách mới thấy được cách làm việc và công lao - công sức của Ni sư làm việc như thế nào

Image result for hinh anh thuong de va phat giao

Chúc con tàu Phật pháp của Chùa Hương Sen luôn chuyển về phía trước

Image result for hình ảnh âu châu

Tương lai Hương Sen sẽ là một ngôi già lam Ni viện hùng vĩ, Hương Sen mô phạm, để cho đàn hậu học tiếp nối.

Image result for hình ảnh dep hàn quốc

 Sư cô còn tích cực tham gia giảng dạy tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh nữa

Image result for hình ảnh dep sicabo

Từ những năm 2010 đến nay, tôi có duyên đi cùng đoàn với Ni sư Giới Hương qua dự lễ Về Nguồn lần thứ VI

Image result for hình ảnh đẹp ơ nươc pháp

Thế giới Phật giáo mang ơn một vị Ni sư đã hết lòng đóng góp cho đạo pháp và thành tựu.

Image result for hình ảnh đẹp nước úc

Sứ giả Như Lai trong suốt cuộc đời này

Bình bát ba y đong đầy tâm khao khát

Image result for hình ảnh đẹp nước úc

Ni giới Việt Nam và Ni giới từ các nước trên thế giới có dịp sinh hoạt thành một đoàn thể trong một tuần lễ. Ni Sư Giới Hương và một số Ni Sinh đang du học tại Ấn Độ đã đóng góp một số bài tham luận về Phật Giáo Việt Nam trong đại hội.

Long bong suốt vạn cuộc đời,

Tìm đâu, chẳng thấy một thời sát na.

Image result for hình ảnh đẹp hương sen

MỤC LỤC

[01] Chương V – Phẩm Năm Bài Kệ
351. Chuyện Vòng Tai Bằng Ngọc (Tiền Thân Manikundala)
352. Chuyện Chàng Sujàta (Tiền Thân Sujàta)
353. Chuyện Cành Cây Thanh Tịnh (Tiền Thân Dhonasàkha)
354. Chuyện Con Rắn (Tiền Thân Uraga)
355. Chuyện Vương Tử Ghata (Tiền Thân Ghata)
356. Chuyệnn Nam Tử Kàrandiya (Tiền Thân Kàrandiya)
357. Chuyện Chim Cút (Tiền Thân Latukikà)
358. Chuyện Tiểu Vương Tử Hộ Pháp (Tiền Thân Culladhammapàla)
359. Chuyện Con Nai Vàng (Tiền Thân Suvannamiga)
360. Chuyện Hoàng Hậu Sussondi (Tiền Thân Sussondi)
361. Chuyện Sắc Đẹp (Tiền Thân Vannàroha)
362. Chuyện Thử Nghiệm Đức Hạnh (Tiền Thân Sìlavimamsa)
363. Chuyện Hổ Thẹn (Tiền Thân Hiri)
364. Chuyện Con Đom Đóm (Tiền Thân Khajjopanaka)
365. Chuyện Người Luyện Rắn (Tiền Thân Ahigundika)
366. Chuyện Con Quỷ Gumbiya (Tiền Thân Gumbiya)
367. Chuyện Vị Y Sĩ Già (Tiền Thân Sàliya)
368. Chuyện Dây Trói Buộc (Tiền Thân Tacasàra)
369. Chuyện Chàng Trai Mittavinda (Tiền Thân Mittavinda)
370. Chuyện Cây Hồng Phượng Vĩ (Tiền Thân Palàsa)
371. Chuyện Hoàng Tử Kosala (Tiền Thân Dighiti Kosala)
[02] Chương VI – Phẩm Sáu Bài Kệ
372. Chuyện Hai Chú Nai Con (Tiền Thân Migapotaka)
373. Chuyện Con Chuột (Tiền Thân Mùsika)
374. Chuyện Chàng Tiểu Xạ Thủ (Tiền Thân Culladhanuggaha)
375. Chuyện Chim Bồ Câu (Tiền Thân Kapota)
376. Chuyện Người Lái Đò (Tiền Thân Avàriya)
377. Chuyện Bà-La-Môn Setakeku (Tiền Thân Setakeku)
378. Chuyện Bà-La-Môn Darìmukha (Tiền Thân Darìmukha)
379. Chuyện Núi Neru (Tiền Thân Neru)
380. Chuyện Thiên Nữ Ásankà (Tiền Thân Asankà)
381. Chuyện Chim Thứu Migàlopa (Tiền Thân Migàlopa)
382. Chuyện Hai Thiên Nữ Siri Và Kàlakanni (Tiền Thân Siri Và Kàlakanni)
383. Chuyện Kê Vương (Tiền Thân Kukkuta)
384. Chuyện Pháp Ấn (Tiền Thân Dhammaddhaja)
385. Chuyện Lộc Vương Hoan Hỷ (Tiền Thân Nandiyamiga)
386. Chuyện Con Lừa (Tiền Thân Kharaputta)
387. Chuyện Cây Kim (Tiền Thân Suci)
388. Chuyện Con Heo Mõm Dài (Tiền Thân Tundila)
389. Chuyện Con Cua Vàng (Tiền Thân Suvannakakkata)
390. Chuyện Chim Mayhaka (Tiền Thân Mayhaka)
391. Chuyện Vị Tà Thuật Sư (Tiền Thân Dhajavihettha)
392. Chuyện Củ Hoa Sen (Tiền Thân Bhisapupha)
393. Chuyện Món Tàn Thực (Tiền Thân Vighàsa)
394. Chuyện Chim Cút (Tiền Thân Vattaka)
395. Chuyện Con Quạ (Tiền Thân Kàka)
[03] Chương VII – Phẩm Bảy Bài Kệ
396. Chuyện Ác Hạnh (Tiền Thân Kukku)
397. Chuyện Sư Tử Mannoja (Tiền Thân Manoja)
398. Chuyện Hiếu Tử Sutana (Tiền Thân Sutana)
399. Chuyện Chim Thứu (Tiền Thân Gijiha)
400. Chuyện Hoa Cỏ Kusa (Tiền Thân Dabbhapuppha)
401. Chuyện Người Nuốt Lưỡi Kiếm (Tiền Thân Dasannaka)
402. Chuyện Túi Da Đựng Bánh (Tiền Thân Sattnubhasta)
403. Chuyện Trí Giả Atthisena (Tiền Thân Atthisena)
404. Chuyện Hầu Vương (Tiền Thân Kapi)
405. Chuyện Phạm Thiên Baka (Tiền Thân Bakabrahma)
406. Chuyện Quốc Vương Gandhàra (Tiền Thân Gandhàra)
407. Chuyện Đại Hầu Vương (Tiền Thân Mahàkapi)
408. Chuyện Người Thợ Gốm (Tiền Thân Kumbhakàra)
409. Chuyện Vua Dalhadhamma (Tiền Thân Dalhadhamma)
410. Chuyện Con Voi Somadatta (Tiền Thân Somadatta)
411. Chuyện Vua Susìma (Tiền Thân Susìma)
412. Chuyện Thần Cây Bông Vải (Tiền Thân Kotisimbalì)
413. Chuyện Người Chăn Dê Dhùmakàri (Tiền Thân Dhùmakàri)
414. Chuyện Người Tỉnh Thức (Tiền Thân Jàgara)
415. Chuyện Phần Cháo Cúng Dường (Tiền Thân Kummàsapinda)
416. Chuyện Cận Thần Parantapa (Tiền Thân Parantapa)
[04] Chương VIII – Phẩm Tám Bài Kệ
417. Chuyện Hiền Mẫu Kaccàni (Tiền Thân Kaccàni)
418. Chuyện Tám Tiếng Kêu (Tiền Thân Attasadda)
419. Chuyện Kiều Nữ Sulasà (Tiền Thân Sulasà)
420. Chuyện Người Giữ Ngự Viên Sumangala (Tiền Thân Sumangala)
421. Chuyện Người Hớt Tóc Gangamàla (Tiền Thân Gangamàla)
422. Chuyện Quốc Vương Ceti (Tiền Thân Cetiya)
423. Chuyện Uy Lực Dục Tham (Tiền Thân Indriya)
424. Chuyện Ngọn Lửa Đốt Cháy (Tiền Thân Àditta)
425. Chuyện Những Sự Kiện Không Thể Xảy Ra (Tiền Thân Atthàna)
426. Chuyện Con Báo (Tiền Thân Dìpi)
[05] Chương IX – Phẩm Chín Bài Kệ
427. Chuyện Chim Thứu (Tiền Thân Gijiha)
428. Chuyện Giáo Hội Ở Kosambi (Tiền Thân Kosambì)
429. Chuyện Ðại Anh Vũ (Tiền Thân Mahàsuka)
430. Chuyện Tiểu Anh Vũ (Tiền Thân Cullasuka)
431. Chuyện Nam Tử Hàrita (Tiền Thân Hàrita)
432. Chuyện Cậu Bé Có Tài Nhận Dấu Chân (Tiền Thân Padakusalamànava)
433. Chuyện Vị Khổ Hạnh Ca-Diếp Nhiều Lông Tóc (Tiền Thân Lomasa Kassapa)
434. Chuyện Chim Hồng Nga (Tiền Thân Cakkavàka)
435 Chuyện Ước Mơ Chóng Phai Tàn (Tiền Thân Haliddiràga)
436. Chuyện Cái Hộp (Tiền Thân Samugga)
437. Chuyện Chó Rừng Pùtinumsa (Tiền Thân Pùtimamsa)
438. Chuyện Con Gà Gô (Tiền Thân Tittita)
[06] Chương X – Phầm Mười Bài Kệ
439. Chuyện Bốn Cổng Thành (Tiền Thân Catu-Dvàra)
440. Chuyện Hắc Hiền Giả (Tiền Thân Kanha)
441. Chuyện Bốn Vị Giữ Trai Giới (Tiền Thân Catu-Posathika)
442. Chuyện Bà-La-Môn Sankha (Tiền Thân Sankha)
443. Chuyện Trí Giả Tiểu Bồ Đề (Tiền Thân Culla-Bodhi)
444. Chuyện Hắc Nhân Dìpàyana (Tiền Thân Kanhadìpàyana)
445. Chuyện Vua Ða (Tiền Thân Nigrodha)
446. Chuyện Cây Hành (Tiền Thân Takkala)
447. Chuyện Đại Nhân Hộ Pháp (Tiền Thân Mahà Dhamma-Pàla)
448. Chuyện Kê Vương (Tiền Thân Kukuta)
449. Chuyện Nam Tử Đeo Vòng Tai (Tiền Thân Matta-Kundali)
450. Chuyện Phú Ông Keo Kiệt (Tiền Thân Bilàri-Kosiya)
451. Chuyện Hồng Nga (Tiền Thân Cakka-Vàka)
452. Chuyện Vấn Đề Trí Tuệ (Tiền Thân Bhùri-Panha)
453. Chuyện Điềm Lành Lớn (Tiền Thân Mahà-Mangala)
454. Chuyện Trí Giả Ghata (Tiền Thân Ghata)
[07] Chương XI – Phẩm Mười Một Bài Kệ
455. Chuyện Voi Hiếu Dưỡng Mẹ (Tiền Thân Màti-Posaka)
456. Chuyện Vương Tử Nguyệt Quang (Tiền Thân Junha)
457. Chuyện Thiên Tử Chánh Pháp (Tiền Thân Dhamma)
458. Chuyện Vua Thiện Lai (Tiền Thân Udaya)
459. Chuyện Ngụm Nước Uống (Tiền Thân Pàniya)
460. Chuyện Thái Tử Yuvanjana (Tiền Thân Yuvanjana)
461. Chuyện Ðại Vương Dasaratha (Tiền Thân Dasaratha)
462. Chuyện Vương Tử Samvara (Tiền Thân Samvara)
463. Chuyện Trí Giả Suppàraka (Tiền Thân Suppàraka)
[08] Chương XII – Phẩm Mười Hai Bài Kệ
464. Chuyện Tiểu Vương Điểu Kùnala (Tiền Thân Culla-Kunàla)
465. Chuyện Sàla, Cổ Thụ Cát Tường (Tiền Thân Bhadda-Sàla)
466. Chuyện Thương Nhân Trên Biển Cả (Tiền Thân Samudda-Vànijà)
467. Chuyện Dục Tham (Tiền Thân Kàma)
468. Chuyện Ðại Vương Janasandha (Tiền Thân Janasandha)
469. Chuyện Ðại Hắc Thiên Cẩu (Tiền Thân Mahà-Kanha)
470. Chuyện Phú Ông Keo Kiệt (Tiền Thân Kosiya)
471. Chuyện Con Dê (Tiền Thân Mendaka)
472. Chuyện Vương Tử Liên Hoa (Tiền Thân Mahà-Paduma)
473. Chuyện Bạn-Thù (Tiền Thân Mittàmitta)

Chương V

Phẩm Năm Bài Kệ

  1. Chuyện Vòng Tay Bằng Ngọc (Tiền thân Manikundala)

Bị cướp hết niềm vui cuộc sống…,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi ngài trú tại Kỳ Viên về một ông quan phạm tội thông gian trong hậu cung của vua xứ Kosala.

Trường hợp xảy ra câu chuyện đã được kể đầy đủ trước đây ở số 282 và 303.

*

Ở đây cũng thế, Bồ-tát là vua ở Ba-la-nại. Ông quan xấu xa kia đến với vua Kasala và khuyên vua đánh chiếm vương quốc Kàsi rồi bắt Bồ-tát bỏ vào ngục. Ðức vua Ba-la-nại phát triển thiền định và ngồi bắt chéo chân ở trên không. Ông vua cướp nước kia bị nóng sốt toàn thân, liền đến gần vua Ba-la-nại và đọc bài kệ đầu:

Bị cướp hết niềm vui cuộc sống,
Hết hoa tai lộng ngọc, ngựa, xe,
Vợ yêu, con dấu mất đi,
Xem ra ngài chẳng tỏ chi phiền hà!

Nghe thế Bồ-tát liền đọc các bài kệ sau:

Thú vui sẽ vội rời ta,
Thú vui rồi sẽ bay xa mấy hồi.
Vua kia tự hóa buồn thôi,
Như vần trăng hiện trên trời, trăng non,
Ðầy dần cho đến lúc tròn,
Khuyết đi rồi lại chẳng còn trăng đâu!

Sưởi cho vạn vật tươi màu,
Mặt trời vội lặn bên bầu trời xa,
Luật đời là đổi thay mà,
Khổ đau không thể làm ta bận lòng.

Thế rồi bậc Ðại Sĩ giảng bài Chân lý cho ông vua cướp nước kia nghe và đem đức hạnh của mình ra thử thách, ngài đọc các kệ sau:

Ghét thường nhân tham dục
Vẫn theo thói biếng lười.
Kẻ tu hành giả mặt:
Phường xảo quyệt đấy thôi!

Hôn quân thường xử án
Mà chẳng chịu lắng nghe;
Không thể nào biện bạch
Bậc trí nổi sân si

Chiếu vương phán một lời
Cân nhắc thật hẳn hoi,
Chính chuyên lời phán ấy
Vang danh mãi trên đời.

Vua xứ Kosala được Bồ-tát tha thứ, và sau khi trao trả lại vương quốc cho Bồ-tát, ông quay về xứ của mình.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Ànanda là vua xứ Kasala, còn Ta chính là vua Ba-la-nại.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chàng Sujàta (Tiền thân Sujàta)

Sao con lại vội mang…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một người chủ đất có cha chết.

Khi cha ông mất, ông buồn bã đi khắp nơi, chẳng thể nào vơi được cơn sầu. Bậc Ðạo Sư nhận thấy người đàn ông này có khả năng đạt quả giải thoát cho nên khi Ngài vào thành Xá-vệ để khất thực, Ngài cùng với một thị giả đến nhà ông ta. Ngồi vào chỗ đã soạn sẵn cho Ngài, Ngài cúi xuống nói với gia chủ cũng đang ngồi đấy:

– Nay cư sĩ, phải chăng ông đang sầu khổ?

Người ấy đáp:

– Vâng, bạch Thế Tôn, đúng như thế.

Ngài dạy:

– Này bằng hữu, các bậc hiền trí ngày xưa đã nghe lời trí tuệ của người chính trực và khi họ mất cha, họ không sầu khổ.

Rồi do yêu cầu của gia chủ, Ngài kể một chuyện tiền kiếp.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát sinh vào nhà một gia chủ nọ. Ngài được gọi là Nam tử Sujàta. Khi ngài lớn lên thì nội tổ của ngài mất. Từ ngày lão gia mất, thân phụ ngài rất sầu khổ. Ông lấy hài cốt của cha từ nơi hỏa táng rồi xây một nấm mồ trong vườn thưởng ngoạn của ông và đặt di cốt vào đấy. Mỗi khi đến thăm chỗ ấy, ông trang hoàng hoa lên mồ rồi mải miết than khóc. Ông chẳng tắm rửa chẳng xức dầu thơm, cũng chẳng để ý đến việc kinh tài. Quan sát việc này, Bồ-tát tự nghĩ: “Từ khi ông nội ta mất, cha ta đi đâu cũng cứ đắm chìm trong sầu muộn. Ta chắc rằng chẳng ai ngoài ta ra có khả năng khuyên nhủ được người. Ta sẽ tìm cách giải thoát cho người khỏi cơn sầu khổ”.

Thế rồi khi trông thấy con bò đực nằm chết ở bên ngoài thành phố, ngài mang cỏ và nước tới đặt trước con bò ấy và nói:

– Ăn đi, uống đi! Ăn đi, uống đi.

Mọi người đi qua thấy thế đều bảo:

– Này Sujàta, bạn điên đấy ư? Bạn đưa cỏ và nước cho một con bò chết ư?

Nhưng ngài không đáp một tiếng nào.

Vì thế, họ đến bảo với thân phụ ngài:

– Con trai của ông bị điên rồi, anh ta lấy cỏ và nước đem cho một con bò chết đấy.

Nghe thế, người chủ đất ngưng sầu than cha mình mà lại bắt đầu sầu than đứa con trai. Ông vội chạy đến và kêu lên:

– Này Sujàta, con không được bình thường đấy ư? Sao con lại đưa cỏ cho cái xác bò chết?

Rồi ông đọc hai bài kệ sau:

Sao con lại vội mang
Cỏ mới cắt ngọt ngon
Cho con vật đã chết,
Lại kêu “Dậy mà ăn”?

Không có thức ăn gì
Hồi sinh một bò chết,
Lời con vớ vẩn thật,
Và do bởi mê si.

Bấy giờ Bồ-tát đọc hai bài kệ:

Con vật này hẳn rồi
Vẫn còn đường sống lại,
Vì đủ cả đầu đuôi
Và bốn chân còn đấy.

Còn ông nội, rõ ràng
Ðầu, tay, chân đã mất,
Kẻ khùng nào khóc than?
Chỉ có cha độc nhất!

Nghe thế, thân phụ của Bồ-tát tự nghĩ: “Con ta thật thông tuệ. Nó biết điều gì đúng cần làm cho đời này và cho cả đời sau. Nó đã làm thế để khuyên nhủ ta”. Rồi ông bảo:

– Này Sujàta, con trai yêu dấu và khôn ngoan của ta, ta đã hiểu được rằng mọi sự vật đang hiện hữu đều là vô thường. Từ nay ta sẽ không sầu khổ. Một đứa con như thế này hẳn là kẻ làm cho cha mình hết sầu khổ.

Ðể ca ngợi con trai, ông nói:

Như lửa dầu đang trong cơn cháy mạnh,
Nước đổ vào liền bị tắt ngay đi,
Cõi lòng ta đang nhức nhối sầu bi,
Con ta đã chữa lành đời ta sáng

Gai đã nhổ, tươi vui và tĩnh lặng,
Ta hết sầu, nghe lời của con ta.
Bậc thiện hiền khiến đời dứt phiền hà
Cứu thân phụ như Su-jà thông tuệ.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc Tứ Đế, người chủ đất đắc quả Dự Lưu.

Và bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ ta là Sujàta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cành Cây Thanh Tịnh (Tiền thân Dhonasàkha)

Nay dù bạn bình an hạnh phúc…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi ngài trú tại rừng Bhesakalà, gần Sumsumàragiri (Núi Cá sấu) trong xứ của bộ tộc Bhaggas. Chuyện kể về vương tử Bodhi (Bồ-đề).

Vương tử này là con vua Udena, bấy giờ đang sống tại Sumsumàragiri. Ông cho mời một người thợ thật giỏi, bảo xây cho mình một cung điện gọi là Kokànada và làm cho nó khác cung điện của bất cứ ông vua nào. Về sau, ông tự nghĩ: “Tên thợ này có thể xây một cung điện như thế cho một ông vua khác”. Và do lòng đố kỵ, ông móc đôi mắt của người thợ ấy đi.

Các Tỷ-kheo biết được chuyện ấy. Họ bàn thảo trong Pháp đường:

– Này các hiền giả, vương tử Bodhi đã móc mắt của người thợ như thế, như thế. Chắc chắn ông ta là một người tàn nhẫn, dữ dằn, hung bạo.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi các Tỷ-kheo đang bàn chuyện gì. Khi nghe thuật lại, Ngài dạy:

Không chỉ bây giờ mà xưa kia tánh ông ta cũng như vậy. Ngày xưa cũng bằng cách như thế, ông ta đã móc mắt của một ngàn chiến sĩ và sau khi giết chết họ, ông đã đem thịt của họ ra tế lễ.

Rồi Ngài kể cho các Tỷ-kheo một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một giáo sư lừng danh tại Takkasilà, các thanh thiếu niên thuộc giai cấp quý tộc, võ tướng và Bà-la-môn từ khắp nước Ấn Ðộ đến với ngài để được ngài dạy các học nghệ. Con vua Ba-la-nại là hoàng tử Brahmadatta cũng thế, được ngài dạy ba tập Vệ-dà. Ông ta là một kẻ tàn nhẫn, dữ dằn, hung bạo. Do tài tiên đoán, Bồ-tát biết được tính ấy của hoàng tử nên bảo:

– Này bạn, bạn tàn nhẫn, dữ dằn, hung bạo và thực ra, quyền lực mà kẻ hung bạo đạt được không lâu dài. Khi quyền lực mất đi, người ấy giống như một chiếc tàu gặp nạn ngoài khơi, ông ta sẽ không đến bến bờ nào an ổn cả. Do đó, bạn chớ giữ tính tình như vậy.

Rồi ngài đọc hai bài kệ sau đây để khuyến dụ:

Nay dù bạn bình an hạnh phúc,
Hạnh phúc kia mấy chốc chẳng còn.
Của mất đi chớ khổ buồn,
Như người đi biển bão dồn ném xa.

Theo hành vi, chúng ta xuôi hướng
Mùa gặt theo như hạt giống gieo,
Hai đằng ta phải nhận vào:
Cỏ hoang độc hại, cây cao tốt lành.

Thế rồi hoàng tử từ biệt thầy và trở về Ba-la-nại. Sau khi trổ tài nghệ cho vua xem, ông được giao chức phó vương và khi vua cha chết, ông nối ngôi trị vì vương quốc. Vị giáo sĩ của nhà vua là một người tàn nhẫn, dữ dằn. Vì tham danh vọng, ông tự nghĩ: “Nếu ta gây sự cho tất cả các nhà lãnh đạo của toàn Ấn Ðộ bị ông vua này bắt hết và nếu bấy giờ ông ta là hoàng đế độc nhất thì ta sẽ là giáo sĩ độc nhất”.

Thế là ông làm cho vua nghe theo lời ông.

Vua đem đại quân tiến ra, bao vây kinh đô của một vua kia rồi bắt giữ vua ấy. Bằng những cách thức tương tự, ông chiếm hết toàn lãnh thổ Ấn Ðộ và cùng với một ngàn ông vua trong đoàn của ông, ông tiến đánh vương quốc Takkasilà. Bồ-tát sửa sang các thành lũy để ngăn quân thù xâm nhập. Vua Ba-la-nại đặt bộ tham mưu của ông ở dưới gốc cây đa to lớn. Ông truyền dựng mái đình che phía trên, chung quanh có vây màn và có chỗ nằm trải sẵn cho ông. Khi chiến đấu trên các đồng bằng Ấn Ðộ, ông đã bắt được một ngàn vua, nhưng ông lại không thể tấn công vào Takkasilà được. Ông bèn hỏi giáo sĩ:

– Chúng ta đã đến đây cùng với đạo quân gồm các vua bị bắt và chúng ta vẫn không thể chiếm được Takkasilà. Bây giờ phải làm sao?

– Tâu Ðại vương – Giáo sĩ trả lời- Hãy móc mắt một ngàn vua kia, mổ bụng họ ra và lấy thịt họ cùng với năm món thơm ngon làm lễ cúng dâng vị thần cây đa này. Hãy đào một cái rãnh quanh cây và đổ máu cho ngập tới khoảng một tấc. Và như thế chẳng bao lâu chiến thắng sẽ về ta.

Vua sẵn sàng chấp thuận. Vua giấu kín các võ sĩ khỏe mạnh đằng sau bức màn rồi cho họ gọi riêng từng ông vua kia. Các võ sĩ dùng hai cánh tay siết từng người cho đến khi họ ngất đi rồi vua sai móc mắt họ. Sau khi họ chết, vua cho mang xác ra ném ngoài sông Hằng. Thế rồi vua tổ chức tế lễ như đã nói trên, sau đó, sai đánh trống và mang quân ra trận.

Bỗng một tên quỷ Dạ-xoa từ tháp canh xông tới móc con mắt phải của vua ra. Vua quá đau đớn đến điên cuồng liền đi nằm sóng sượt trên giường dành riêng cho ông dưới gốc cây đa.

Lúc bấy giờ một con kên kên cắp một cái xương nhọn rồi đậu trên đọt cây ấy. Khi đang ăn thịt nó để rớt cái xương và đầu nhọn rơi xuống như dùi sắt trúng con mắt trái của vua, hủy luôn con mắt ấy. Lúc bấy giờ, vua nhớ lại lời dạy của Bồ-tát, ông tự nhủ: “Thầy ta đã từng nói: Người đời phải thọ kết quả tùy theo các việc làm của mình, cũng như trái cây hình thành tùy theo hạt giống vậy”, hẳn là người đã thấy tất cả sự việc này bằng con mắt trí tuệ nên nói như thế”.

Trong khi đang sầu đau, ông nói với giáo sĩ Pingiya qua hai bài kệ sau:

Nay mới hiểu lẽ chân thầy dạy
Từ lúc ta trẻ tuổi dại ngây:
Chớ gây tội ác, có ngày
Ngươi làm việc xấu bị đày đọa thôi.

Nằm ở dưới tàn cây bóng mát,
Tẩm dầu thơm ngào ngạt chiên-đàn,
Ðịch vương, ta giết cả ngàn,
Nỗi đau họ chịu, ta đang chịu cùng.

Khi khóc than như thế, vua nhớ đến hoàng hậu của ông và đọc bài kệ này:

Ub-ba-rì mặn mà,
Ôi hoàng hậu của ta,
Dáng người trông yểu điệu,
Như cành Mo-rin-ga.
Tay chân nàng thơm ngát,
Ướp dầu hương chiên-đàn,
Làm sao ta sống nổi,
Khi chẳng thấy được nàng?
Ôi chết không tàn khốc
Bằng nỗi này đau thương!

Trong khi còn đang lầm thầm các lời trên, vua chết đi và tái sanh vào địa ngục. Vị giáo sĩ tham quyền ấy không thể cứu được ông, ngay cả ông, với quyền lực của mình, vẫn không tự cứu được. Và ngay khi ông chết đi, quân đội của ông tan vỡ và tháo chạy.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giảng và nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ vương tử Bồ-dề là ông vua cướp nước ấy, Ðề-bà-đạt-đa là Pingiya, còn Ta chính là vị thầy lừng danh nọ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Rắn (Tiền thân Uraga)

Người đời bỏ xác ra…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một chủ đất có con trai chết.

Câu chuyện dẫn đầu cũng giống như chuyện của người đàn ông mất cả vợ và cha. Ở đây cũng vậy, bằng cách ấy, bậc Ðạo Sư đến nhà ông và sau khi chào ông, Ngài ngồi xuống và bảo:

– Này, thí chủ, ông đang sầu khổ đấy ư?

Và ông đáp:

– Bạch Ngài, vâng, từ khi con trai của con chết, con rất đau khổ.

Ngài dạy:

– Này thí chủ, quả thật, cái gì phải tan rã thì tan rã, và cái gì bị hủy diệt thì hủy diệt; điều ấy không chỉ xảy ra cho một người, không chỉ xảy ra ở trong một làng mà ở trong vô số cảnh vật, và trong ba cách hữu sinh tam giới, không có sinh vật nào không chết, không có sự vật hiện hữu nào có thể ở mãi trong cùng một hoàn cảnh được. Mọi chúng sinh đều phải chết, mọi kết hợp đều phải tan rã. Khi bị mất một đứa con, các bậc hiền trí ngày xưa bảo. Cái gì phải hủy diệt thì bị hủy diệt, và họ không sầu khổ.

Rồi do lời yêu cầu của người ấy. Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở một ngôi làng phía ngoài cổng thành Ba-la-nại và ngài nuôi sống gia đình bằng nghề cày ruộng. Ngài có hai con: một trai và một gái. Khi con trai lớn lên, ngài cưới vợ cho anh ta từ một gia đình cùng đẳng cấp với ngài. Như thế cùng với một nữ tỳ, họ hợp thành một gia đình sáu người: Bồ-tát và vợ ngài, con trai và con gái, con dâu và nữ tỳ. Họ sống với nhau đầy tình thương và hạnh phúc. Bồ-tát khuyên dạy năm người kia:

– Tùy theo những thứ mà các người nhận vào, phải bố thí, hành trì các ngày trai giới, giữ gìn đức hạnh, sống với ý nghĩ về cái chết, chú ý đến tình trạng phải chết của con người. Trong hoàn cảnh của chúng sinh như chúng ta đây, cái chết là chắc chắn, cuộc sống không chắc chắn, tất cả sự vật hiện hữu đều là tạm bợ và phải chịu suy tàn. Do đó ngày đêm phải chú ý đến lối sống của các người.

Mọi người đều nhận lãnh lời dạy của Bồ-tát và nghiêm túc sống với ý nghĩ về cái chết.

Một hôm, Bồ-tát cùng con trai đi cày ruộng. Người con nhặt cỏ rác rồi đốt. Cách đó không xa, có một con rắn sống trong một cái đụn kiến. Bị khói làm xốn mắt, con rắn giận dữ bò ra khỏi hang và nghĩ: “Tất cả chuyện này là do tên ấy” và nó phóng tới cắn vào anh ta bằng bốn cái răng cửa của nó. Người thanh niên ngã xuống chết.

Khi thấy anh ngã xuống, Bồ-tát rời mấy con bò chạy tới, và thấy rằng anh ta đã chết, ngài ẵm lên và đặt anh nằm dưới gốc cây nọ. Ngài lấy áo choàng phủ lên anh, không hề khóc lóc sầu đau. Ngài bảo:

– Cái gì phải tan rã thì tan rã, cái gì phải chết thì chết. Tất cả những hiện hữu kết hợp đều tạm bợ và phải chết.

Biết được tính chất tạm bợ của sự vật, ngài tiếp tục việc cày bừa. Trông thấy một người hàng xóm đi qua gần đám ruộng, ngài hỏi:

– Này bạn, có phải bạn đang về nhà đấy không?

Người ấy trả lời:

– Vâng.

Ngài bảo:

– Nhờ bạn đến nhà chúng tôi và nói với bà chủ, hôm nay không phải đem đồ ăn cho hai người như trước, mà chỉ đem cho một người thôi. Và mọi khi chỉ một mình nữ tỳ mang thức ăn đến, thì hôm nay cả bốn người trong nhà phải mặc quần áo sạch sẽ và mang hương hoa đến đây.

– Ðược rồi.

Người ấy đáp và đi nói đúng các lời trên với vợ của vị Bà-la-môn ấy.

Bà hỏi:

– Này bác, ai nhắn tin này thế?

Người ấy đáp:

– Thưa bà, ông Bà-la-môn đấy.

Thế là bà hiểu rằng con trai bà đã chết. Nhưng bà không run sợ, bà sai soạn thức ăn rồi cùng với những người khác trong gia đình ra đồng. Nhưng không ai, kể cả bà, nhỏ một giọt nước mắt hay than van. Khi Bồ-tát dùng bữa xong, mọi người chất củi và nâng xác để lên giàn hỏa táng, họ dâng hương, hoa rồi châm lửa thiêu. Chẳng ai nhỏ một giọt nước mắt. Tất cả đều an trú vào ý nghĩ về cái chết.

Hiệu lực đức hạnh của họ làm cho ngai của Thiên chủ Ðế Thích nóng lên. Ðế Thích tự bảo:

– Ủa, kẻ nào muốn hạ ta xuống khỏi ngai thế này?

Thiên chủ suy tưởng và phát hiện rằng hơi nóng này là do mãnh lực đức hạnh hiện hữu trong những người ấy. Rất sung sướng, Thiên chủ nói:

– Ta phải đến nơi họ và vui mừng la lớn như tiếng rống của sư tử rồi ngay sau đó sẽ lấy thất bảo đổ đầy chỗ của họ.

Thiên chủ vội vàng đến đó và đứng bên giàn hỏa táng nói:

– Các ngươi đang làm gì thế?

– Thưa ngài, chúng tôi đang thiêu xác của một người.

Thiên chủ nói:

– Không phải các ngươi đang thiêu một người, có lẽ các người đang quay thịt một con vật nào đó mà các người đã giết.

Họ đáp:

– Không phải thế đâu, thưa ngài, đúng là chúng tôi đang thiêu xác của một người.

Thế rồi Thiên chủ nói:

– Vậy chắc hẳn là một kẻ thù nào đấy.

Bồ-tát đáp:

– Ðấy chính là con trai ruột của chúng tôi, chứ không phải kẻ thù nào cả.

– Thế thì hẳn anh ta không được ông yêu mến.

– Tôi rất yêu mến nó, thưa ngài.

– Thế tại sao ông không khóc?

Rồi để giải thích lý do tại sao ngài không khóc, Bồ-tát đọc bài kệ đầu:

Ðời người bỏ xác ra,
Khi niềm vui sống qua,
Như rắn kia vẫn thế,
Thường lột vỏ thay da.

Không lời nào thương tiếc
Chạm đến tro người chết.
Sao tôi phải buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.

Nghe xong những lời của Bồ-tát, Ðế Thích hỏi bà vợ của ngài:

– Thưa bà, người chết liên hệ thế nào với bà?

– Tôi mang nó mười tháng trong bào thai, cho nó bú sữa của tôi, dạy cho nó cử động tay chân, đi đứng và thưa ngài nó là đứa con trưởng thành của tôi đấy.

– Thưa bà, do bản tính đàn ông, một người cha không khóc là phải, nhưng trái tim một người mẹ chắc chắn là mềm yếu. Thế sao bà lại không khóc?

Bà đọc hai bài kệ để giải thích vì sau bà không khóc:

Không gọi nó đến đây,
Chẳng sai nó đi ngay,
Nó đi như nó đến,
Sao lại phải sầu cay?

Không lời nào thương tiếc,
Chạm đến tro người chết,
Sao tôi phải buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.

Nghe xong những lời của vợ Bồ-tát, Ðế Thích hỏi cô em gái:

– Thưa cô, người chết là gì của cô?

– Thưa ngài, anh ấy là anh tôi.

– Thưa cô, chị em gái chắc chắn thương yêu anh em trai. Tại sao cô lại không khóc?

Ðể giải thích lý do tại sao mình không khóc, cô ta đọc hai bài kệ:

Dù nhịn đói, khóc than,
Ích gì được cho con,
Ôi, bà con thân thuộc,
Sẽ nhiều đau khổ hơn.

Không lời nào thương tiếc,
Chạm đến tro người chết.
Sao còn phải buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.

Nghe xong những lời của cô em gái, Ðế Thích hỏi cô vợ:

– Thưa cô, anh ta là gì của cô?

– Thưa ngài, anh ấy là chồng của tôi.

– Khi chồng chết, các bà là những góa phụ bơ vơ. Tại sao cô không khóc?

Ðể giải thích lý do tại sao mình không khóc, cô ta đọc hai bài kệ:

Như con trẻ kêu gào,
Ðòi vô vọng trăng cao,
Khóc than người yêu mất,
Người đời ngớ ngẩn sao!

Không lời nào thương tiếc,
Chạm đến tro người chết.
Sao tôi lại buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.

Nghe xong những lời của cô vợ, Thần Ðế Thích hỏi người nữ tỳ:

– Này bà, anh ấy là gì của bà?

– Thưa ngài, ông ấy là chủ của tôi.

– Chắc chắn rằng bà phải bị anh ta la mắng, đánh đập, áp bức, do đó bà nghĩ rằng may quá anh ta đã chết nên bà không khóc.

– Thưa ngài, chớ nói như thế. Cậu ấy không phải thế đâu. Cậu chủ tôi rất chịu đựng, yêu mến và thương xót tôi, cậu ấy cũng như con nuôi của tôi vậy.

– Thế thì tại sao bà không khóc?

Và để giải thích tại sao mình không khóc, người nữ tỳ đọc hai bài kệ:

Một bình đất đã vỡ,
Ai ráp lại được vào,
Khóc than cho người chết,
Chỉ chuốc thất bại vào.

Không lời nào thương tiếc,
Chạm đến tro người chết,
Sao tôi phải buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.

Sau khi nghe tất cả mọi người nói, Ðế Thích rất thích thú liền nói:

– Các ngươi đã thận trọng sống với ý nghĩ cái chết. Từ nay các ngươi khỏi phải tự tay cày bừa nữa. Ta là Ðế Thích, vua cõi trời. Ta sẽ tạo ra vô số thất bảo trong nhà các ngươi. Hãy bố thí, giữ đạo đức, hành trì ngày trai giới, quan tâm đến cách sống.

Sau khi khuyến dụ họ, Thiên chủ tạo ra vô số của cải trong nhà họ rồi ra đi.

*

Sau khi thuyết pháp, bậc Ðạo Sư tuyên dạy Tứ Ðế. Ở phần kết thúc Tứ Ðế, người chủ đất đắc quả Dự Lưu.

Và bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Khujjutarà là người nô tỳ, Uppalavannà là người con gái, Ràhula còn con trai, Khemà là người mẹ, còn Ta là người Bà-la-môn ấy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vương Tử Ghata (Tiền thân Ghata)

Khi kẻ khác khóc than sầu khổ…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ viên về một ông quan của vua Kosalà.

Câu chuyện khởi đầu giống chuyện đã kể. Nhưng ở đây, sau khi ban vinh dự lớn lao cho một ông quan, vua lại nghe lời sàm tấu và truyền bắt ông ta bỏ vào ngục. Khi nằm trong ngục, ông quan ấy nhập Dự Lưu. Sau đó vua biết được công đức của ông và thả ra. Ông mang một tràng hoa thơm và đến tham bái bậc Ðạo Sư, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống. Bậc Ðạo Sư hỏi xem có việc xấu nào đã xảy đến với ông không. Ông đáp:

– Bạch Thế Tôn có. Nhưng qua việc xấu ấy, việc tốt lại đến với con. Con đã nhập Dự Lưu.

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Ðúng thế, không phải chỉ bấy giờ, các bậc hiền trí ngày xưa cũng được điều tốt từ điều xấu.

Rồi do yêu cầu của ông quan, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là con của chánh hoàng hậu. Người ta gọi ngài là thái tử Ghata. Sau đó ngài đạt kiến thức về các học nghệ ở Takkasilà và trị vì vương quốc của ngài rất công chính.

Bấy giờ một ông quan nọ tỏ ra phẩm hạnh xấu trong nội cung. Sau khi tận mắt chứng kiến việc phạm gian, vua liền đuổi ông ra khỏi vương quốc. Lúc ấy, một vị vua tên là Vanka trị vì ở Xá-vệ. Ông quan đến phục vụ cho vua ấy đúng như câu chuyện trước đây số 303, được vua nghe lời và xúi vua chiếm vương quốc Ba-la-nại.

Sau khi chiếm đoạt vương quốc này, vua ấy bắt trói Bồ-tát bằng dây xích và bỏ ngài vào ngục. Bồ-tát nhập định và ngồi tréo chân trên không. Vanka bị nóng hừng hực trong thân thể, liền chạy đến Bồ-tát, trông thấy dung mạo của ngài sáng ngời, đẹp như một hoa sen nở, giống như một tấm kính bằng vàng. Qua hình thức một lời hỏi, ông đọc bài kệ đầu:

Khi kẻ khác khóc than sầu khổ,
Má người kia lệ nhỏ đầm đìa,
Mặt ngài vẫn nụ cười kia,
Ga-ta há chẳng bao giờ kêu than?

Ðể giải thích tại sao ngài không sầu khổ, Bồ-tát đọc các bài kệ sau đây:

Chuyện đã qua, buồn nào thay đổi được,
Buồn nào gây hạnh phúc ở tương lai?
Cớ sao ta than vãn khổ đau này?
Sầu muộn chẳng đáng cho ta làm bạn.

Kẻ mang bệnh khổ sầu thì suy tận,
Các thức ăn thành vô vị nhạt màu,
Như trúng tên mồi thịt của sầu đau
Làm trò tếu cho kẻ thù tiêu khiển.

Nhà ta ở, dù trên đất, ngoài biển.
Dù trong làng hay heo hút rừng già,
Không bao giờ sầu não đền gần ta,
Hồn đã thiện, chẳng có gì để sợ.

Còn kẻ nào chưa kiện toàn đến độ,
Bị nấu nung vì tham dục lắm đàng,
Cả cõi đời cùng của cải tệ tàn
Cũng không hề đủ thỏa lòng tham muốn.

Sau khi nghe xong bốn bài kệ ấy, Vanka xin Bồ-tát tha thứ và giao trả lại vương quốc cho ngài rồi đi theo đường mình. Nhưng Bồ-tát trao vương quốc cho các đại thần, ngài lui vào dãy Tuyết Sơn và trở thành một nhà tu khổ hạnh. Không hề ngưng thiền định, ngài được sinh vào cõi Phạm thiên.

*

Sau khi chấm dứt bài thuyết giảng, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ Ànanda là vua Vanka, còn Ta là Ghata.

-ooOoo-

  1. Chuyện Nam Tử Kàrandiya (Tiền thân Kàrandiya)

Sao một mình trong rừng…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi ngài trú tại Kỳ Viên về Tướng quân Chánh pháp Sàriputta.

Trong truyền khi có bọn người ác như thợ săn, chài lưới v.v… đến với ngài, Trưởng lão đều giảng đạo đức cho họ, và ngài cũng giảng cho bất cứ ai mà ngài có dịp gặp. Ngài bảo:

– Hãy nhận Giáo Pháp.

Do lòng tôn kính Trưởng Lão, họ không thể cưỡng lời ngài. Và khi nhận Giáo pháp xong, họ không thể hành trì mà ai nấy cứ tiếp tục theo lối làm ăn riêng của mình. Trưởng lão đến thổ lộ với chúng Tỷ-Kheo để hỏi ý kiến:

– Này các Hiền giả, những người ấy được tôi truyền Pháp, nhưng không giữ đạo.

Các Tỷ-Kheo trả lời:

– Thưa Tôn giả, ngài giảng Pháp cho họ trái với mong ước của họ và vì họ không dám cưỡng lại lời ngài nên họ chấp nhận đấy thôi. Từ nay ngài chớ giảng Pháp cho những người như thế.

Trưởng lão không thuận ý.

Nghe được chuyện ấy, các Tỷ-Kheo bắt đầu bàn tán trong Pháp đường cách Trưởng lão Sàriputta đã thuyết Pháp cho bất cứ ai mà ngài gặp. Bậc Ðạo Sư đến hỏi các Tỷ-Kheo đang họp bàn chuyện gì. Khi nghe kể lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-Kheo, không phải chỉ bây giờ mà xưa kia cũng thế, ông ấy giảng pháp cho bất cứ ai mà ông gặp dù họ chẳng yêu cầu.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trì vị ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra và lớn lên trong gia đình rồi trở thành đệ tử trưởng của một giáo sư lừng danh tại Takkasilà. Bấy giờ vị giáo sư giảng đạo pháp cho bất cứ người nào mà ông có thể gặp như những người đánh cá v.v… Dù họ không muốn, ông luôn bảo họ nhận pháp. Nhưng dù họ đã nhận pháp, họ cũng không giữ đạo. Giáo sư nói điều ấy cho các môn đệ nghe. Các môn đệ thưa:

– Thưa thầy, thầy thuyết giảng cho họ ngược lại với những mong cầu của họ và do đó, họ phá bỏ pháp. Từ nay, thầy hãy thuyết giảng cho những kẻ nào muốn nghe thầy thôi chứ đừng thuyết giảng cho những ai không muốn.

Vị giáo sư rất ân hận nhưng ông cứ giảng pháp cho bất cứ ai mà ông được gặp.

Một hôm, một số người từ một ngôi làng kia đến mời giáo sư tham dự cuộc dâng bánh cho các Bà-la-môn. Ông cho gọi vị môn đệ tên là Kàrandiya và bảo:

– Này con, ta không đi, con hãy đến đó với năm trăm môn đệ này rồi nhận bánh và mang về phần bánh chia cho ta.

Ông sai vị môn đệ ấy như thế. Vị môn đệ ấy ra đi. Trên đường về, chàng trông thấy một cái hang và chợt có ý nghĩ: “Thầy ta giảng pháp cho bất cứ ai ngài gặp mà không cần họ yêu cầu. Từ nay ta chỉ khiến ngài giảng cho những ai muốn nghe ngài thôi”.

Thế rồi trong khi các môn đệ khác đang ngồi nghỉ thoải mái, chàng đứng lên đi khuân những tảng đá lớn ném vào trong hang, chàng cứ khuân đá ném mãi. Những người kia đứng dậy và nói:

– Này đại huynh, anh đang làm gì thế?

Kàrandiya không nói một lời nào. Họ vội trở về kể chuyện cho thầy họ nghe. Vị thầy đến nói chuyện với Kàrandiya bằng bài kệ đầu:

Sao một mình trong rừng
Từng tảng đá con khuân,
Ném đá như có ý
Lấp bằng hang núi chăng?

Nghe thế Kàrandiya muốn thức tỉnh thầy mình liền đọc bài kệ:

Con muốn làm đảo này
Phẳng như lòng bàn tay,
San bằng gò đồi nọ,
Chỗ trũng, đá lấp đầy.

Thầy Bà-la-môn nghe thế liền đọc bài kệ thứ ba:

Ðời nào một phàm nhân
Có sức lấp đất bằng?
Kà-ran khó hy vọng
Ðọ sức với hang cùng.

Người môn đệ nghe xong liền đọc bài kệ thứ tư:

Nếu một kẻ phàm nhân,
Không thể san đất bằng,
Ngoại nhân há chịu nhận
Quan điểm thầy hay chăng?

Nghe thế, vị giáo sư trả lời thích đáng, bấy giờ ông hiểu rằng những người khác có thể không giống như ông. Ông tự nhủ: “Ta sẽ không làm như thế nữa”, và đọc bài kệ thứ năm:

Này Kà-ran-di-ya,
Bạn khuyên tốt cho ta,
Ðất không san phẳng được,
Ý người chẳng đồng hòa.

Giáo sư ca ngợi môn đệ của mình. Và vị môn đệ sau khi khuyến dụ thầy mình như vậy liền dẫn thầy về nhà.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giảng và nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Xá-lợi-phất là người Bà-la-môn, còn Ta chính là môn sinh Kàrandiya.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chim Cút (Tiền thân Latukikà)

Hỡi voi tuổi sáu mươi….,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Trúc Lâm về Ðề-bà-đạt-đa.

Một hôm các Tỷ-Kheo bàn thảo trong Pháp đường:

– Này các Hiền giả, Ðề-bà-đạt-đa thật hung ác, dữ dằn và tàn bạo. Ông ta chẳng chút lòng thương xót nào đối với chúng sinh.

Khi bậc Ðạo Sư đến, Ngài hỏi các Tỷ-Kheo đang họp bàn chuyện gì và sau khi nghe kể lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-Kheo, không phải chỉ bây giờ, mà ngày xưa cũng thế, ông ấy cũng chẳng có chút thương xót nào.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh làm một con Voi. Khi lớn lên ngài là một con vật chững chạc đàng hoàng. Ngài trở thành chúa của một đàn mười tám ngàn con và sống trong dãy Tuyết Sơn.

Bấy giờ có một con chim Cút đẻ trứng trong vùng đất sinh sống của đàn voi. Khi trứng nở, bầy chim con phá vỏ trứng ra ngoài. Trước khi bầy chim mạnh cánh và đang lúc chưa thể bay được, bậc Ðại Sĩ cùng với đàn tám chục ngàn con voi đi đây đó kiếm ăn, đã đến chỗ ấy. Khi trông thấy đàn voi, chim Cút tự nghĩ: “Vị vương tượng này sẽ dẫm chết các con thơ của ta. Ờ! ta sẽ cầu xin ông ta che chở và bảo vệ cho tổ của ta”. Thế rồi nó nhấc đôi cánh lên, đứng trước ngài và đọc bài kệ đầu:

Hỡi Voi tuổi sáu mươi,
Chúa rừng của đồng loài,
Ta chỉ là chim nhỏ,
Còn ngài lãnh đạo bầy,
Cánh nâng, tôi kính cẩn
Xin tha lũ con này.

Bậc Ðại Sĩ bảo:

– Này Cút, chớ lo sợ. Ta sẽ che chở cho các con thơ của ngươi.

Ngài đứng che lên trên bọn chim nhỏ trong khi tám mươi ngàn voi kia đi qua, rồi ngài dặn Cút:

– Ðằng sau bọn ta có một con voi lẻ bầy rất gian ác. Nó không chịu làm theo lời bọn ta. Khi nó đến, ngươi cũng phải van xin nó để bảo đảm an toàn cho lũ con ngươi.

Nói xong ngài bỏ đi, con Cút đi đến gặp con voi kia và nâng cánh lên kính cẩn chào rồi đọc bài kệ thứ hai:

Khắp thung lũng, núi đồi
Ngài riêng một đường thôi,
Vua rừng, tôi năn nỉ
Nâng cánh cúi can ngài,
Tôi chỉ là Cút mọn
Xin tha lũ con tôi.

Nghe Cút nói xong, Voi đọc bài kệ thứ ba:

Cút ơi, ta sẽ giết con mi
Hèn mọn như mi giúp được chi?
Chân trái ta đây đè bẹp hết
Mấy ngàn chim nhỏ vẫn thường khi.

Nói thế xong nó giơ chân dẫm nát bọn chim nhỏ, rồi tiểu tiện lên chúng làm cho chúng trôi theo dòng nước, sau đó rống lên và bỏ đi. Con cút đậu trên một cành cây nói:

– Mi hãy cút đi và rống lên đi. Rồi đây mi sẽ thấy ta làm gì. Mi chẳng biết sức mạnh của thân thể và sức mạnh của trí óc khác nhau như thế nào. Ðược rồi! Ta sẽ dạy cho mi một bài học.

Hăm dọa Voi như thế, Cút đọc bài kệ thứ tư:

Bạo lực không là được lợi luôn,
Mạnh thường là họa của si cuồng,
Thú kia đã giết con ta chết,
Ác ấy ta đây sẽ tính đường.

Nói xong, ít lâu sau Cút đến thăm một con Quạ, bấy giờ Quạ đang cao hứng hỏi Cút:

– Ta giúp gì được cho bạn đây?

Cút bảo:

– Chẳng có gì đâu bác ạ, tôi chỉ mong bác lấy mỏ móc hai con mắt con Voi gian ác kia.

Quạ sẵn sàng nhận lời. Cút đến giúp việc một con Ruồi xanh. Khi Ruồi xanh hỏi:

– Ta làm gì được cho bạn đây?

Cút đáp:

– Khi con Voi gian ác kia bị Quạ móc mắt xong, tôi muốn bạn đẻ trứng vào mắt nó.

Ruồi xanh nhận lời xong Cút đến giúp một con Ếch và khi Ếch bảo cần gì thì Cút bảo:

– Khi con Voi gian ác kia bị mù, nó sẽ tìm nước để uống, bấy giờ bạn hãy đứng trên đỉnh núi và kêu lên. Khi Voi trèo lên đỉnh núi thì bạn hãy xuống đáy dốc mà kêu lên. Ðấy là điều tôi rất mong bạn giúp.

Sau khi nghe Cút nói, Ếch sẵn sàng nhận lời. Thế rồi một hôm, Quạ dùng mỏ móc cả hai mắt con voi ấy, Ruồi đẻ trứng vào mắt nó. Bị bọn dòi rút rỉa, voi cuồng lên vì đau đớn. Rồi bị cơn khát chế ngự, Voi đi khắp nơi để tìm nước uống. Lúc ấy, Ếch đứng trên đỉnh núi kêu lên. Voi tự nghĩ: “Nơi ấy hẳn phải có nước”. Rồi nó trèo lên núi. Ếch liền xuống dưới chân núi mà kêu lên nữa. Voi tự nghĩ: “Sẽ có nước nơi ấy”, rồi lần mò tiến tới dốc núi và bị lăn cù, rơi xuống đáy núi mà chết. Khi biết rằng Voi đã chết, Cút nói:

– Ta đã toàn thắng kẻ thù.

Và khi toàn thân ngập trong hạnh phúc cao độ, Cút chết và đi theo nghiệp của mình.

*

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Này các Tỷ-Kheo, Ta không nên chuốc lấy thù hận với bất cứ ai. Bốn con vật ấy hợp lại với nhau đã diệt được con Voi mạnh mẽ như thế kia.

Cút cùng Quạ, Ruồi xanh, Ếch hợp lại,
Từng chứng minh kết quả của thù hằn,
Vương tượng kia vì chúng chết oan thân,
Vậy hãy tránh hết mọi điều tranh cãi.

Sau khi đọc bài kệ phát xuất từ Trí Tuệ toàn hảo, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Ðề-bà-đạt-đa là con Voi gian ác kia, còn Ta là con Voi đầu đàn.

-ooOoo-

  1. Chuyện Tiểu Vương Hộ Pháp (Tiền thân Culladhammapàla)

Hoàng hậu hèn của Ðại Pa-tà-pa…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Trúc lâm về cách Ðề-bà-đạt-đa mưu toan giết Bồ-tát.

Trong tất cả các Tiền thân khác, Ðề-bà-đạt-đa không làm sao gây cho Bồ-tát một tý nào kinh hãi. Nhưng trong Tiền thân Culladhammapàla, khi Bồ-tát mới lên bảy tháng, ngài bị Ðề-bà-đạt-đa chặt tay chân, chặt đầu và khắp thân thể ngài bị gươm đâm như có đeo vào một tràng hoa vậy. Trong Tiền thân Daddara, Ðề-bà-đạt-đa giết Bồ-tát bằng cách vặn cổ ngài, quay thịt ngài trong lò rồi ăn thịt ấy. Trong Tiền thân Khantivàda (số 313), Ðề-bà-đạt-đa đánh Bồ-tát hai ngàn roi và ra lệnh chặt tay, chân, tai, mũi ngài, nắm tóc ngài kéo đi và khi ngài nằm ngã sóng soài ra thì ông ta đánh vào bụng ngài rồi bỏ đi; Bồ-tát chết ngay ngày hôm đó. Nhưng trong cả hai Tiền thân Cullanandaka và Vevatiyakapi (chưa được xác định), ông ta chỉ ra lệnh giết ngài mà thôi. Trong một thời gian dài, Ðề-bà-đạt-đa cứ lo toan tìm cách giết Bồ-tát và vẫn còn tiếp tục làm như thế ngay cả khi Ngài đã trở thành một đức Phật.

Một hôm, các Tỷ-Kheo bàn tán trong Pháp đường:

– Này các Hiền giả, Ðề-bà-đạt-đa vẫn tiếp tục lập âm mưu giết hại đức Phật. Cố ý giết đức Thế Tôn, ông ta sai bọn cung thủ bắn Ngài, ông ta lăn đá vào Ngài và thả con voi Nàlàgiri đến hại Ngài.

Khi bậc Ðạo Sư đến, Ngài hỏi các Tỷ-Kheo đang họp bàn vấn đề gì, khi nghe thuật lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-Kheo, không phải chỉ bây giờ mà xưa kia cũng thế, ông ta cứ tìm cách giết Ta, nhưng giờ đây ông ta không thể làm Ta mảy may sợ hãi, dù xưa kia Ta là hoàng tử Dhammapàla, dù Ta là con ruột của ông, ông cũng gây ra cái chết cho Ta bằng cách chặt, đâm gươm vào khắp cả thân Ta như thể nó mang một tràng hoa vậy.

Nói xong, Ngài kể chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Mahàpatàpa đang trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là con trai của chánh hoàng hậu Candà và người ta đặt tên ngài là Dhammapàla (Hộ Pháp).

Khi ngài lên bảy tháng, mẹ ngài tắm ngài trong nước thơm, mặc quần áo sang trọng cho ngài và ngồi chơi với ngài. Vua đến cung thất của hoàng hậu. Vì bà đang chơi với con trai, ngập tràn tình mẹ đối với con nên đã quên đứng dậy chào đón vua. Vua tự nghĩ: “Giờ đây người đàn bà này đầy tự hào về đứa con trai, coi ta không bằng một cọng rơm; đến khi đứa bé lớn lên, bà ta sẽ nghĩ: Ta chỉ có một người là con trai ta, và chẳng để ý gì đến ta. Ta sẽ bảo giết nó ngay”.

Vì thế, ông quay trở về, ngồi trên ngai và gọi viên quan hành hình đến trình diện cùng với mọi dụng cụ hành sự. Người ấy mặc áo vàng mang tràng hoa đỏ sẫm, vai vác rìu, tay cầm một cái thớt và một cái chậu đến đứng trước vua, chào vua và nói:

– Tâu Ðại vương, ngài cần gì ạ?

Vua phán:

– Ðến vương phòng của hoàng hậu và mang Dhammapàla lại đây.

Hoàng hậu biết rằng vua đã giận dữ bỏ đi nên bà đã đặt Bồ-tát vào lòng và ngồi khóc. Viên quan hành hình đến và tống một đấm vào lưng bà, giật Bồ-tát ra khỏi tay bà rồi mang đến cho vua và thưa:

– Tâu Ðại vương, ngài cần gì nữa?

Vua sai mang một tấm ván đến đặt trước mặt ông và nói:

– Ðặt nó vào đó.

Người ấy làm theo lời vua. Nhưng hoàng hậu đã đến đứng ngay sau con mình và khóc. Viên quan hành hình lại nói:

– Tâu Ðại vương, ngài cần gì nữa ạ?

Vua bảo:

– Hãy chặt hai bàn tay của Dhammapàla.

Hoàng hậu thưa:

– Ðại vương, con trai tôi chỉ là một đứa bé lên bảy tháng. Nó có biết gì đâu! Lỗi không phải là của nó. Nếu có lỗi nào thì đấy là lỗi của tôi. Do đó ngài hãy sai chặt tay tôi đi!

Rồi để cho rõ nghĩa, bà đọc bài kệ đầu:

Hoàng hậu hèn của Ðại Pa-tà-pa
Chính là tôi, tội này riêng phải gánh.
Ðại vương, hãy thả Dham-ma-pà-la,
Và hãy chặt tay tôi, người bất hạnh.

Vua nhìn viên quan hành hình, y hỏi:

– Tâu đại vương, ngài cần gì?

Vua phán:

– Chớ chần chờ, chặt tay đứa bé đi!

Lúc ấy viên quan hành hình lấy cái rìu sắt chặt đứt hai bàn tay như những búp măng của Bồ-tát. Khi đôi tay bị chặt đứt, hài nhi vẫn không khóc, không than mà chỉ chịu đựng với lòng kham nhẫn, nhân từ. Nhưng hoàng hậu Candà lượm các đầu ngón tay của con đặt vào lòng, máu vấy khắp, bà than khóc thảm thiết. Viên quan hành hình lại hỏi:

– Tâu Ðại vương, ngài cần gì?

Vua đáp:

– Chặt hai bàn chân nó.

Nghe thế, Candà đọc đoạn thơ thứ hai:

Hoàng hậu hèn của Ðại Pa-tà-pa
Chính là tôi, tội này riêng phải gánh.
Ðại vương, hãy thả Dham-ma-pa-la,
Và hãy chặt chân tôi, người bất hạnh.

Nhưng vua ra hiệu cho viên quan hành hình và ông chặt cả hai chân Bồ-tát. Hoàng hậu Candà lượm hai bàn chân con đặt vào lòng máu me vấy khắp, bà than khóc và nói:

– Tâu Ðại vương Mahàpatàpa, mẹ phải chăm nuôi con. Tôi sẽ làm việc để kiếm tiền chăm nuôi nó. Xin ngài giao nó cho tôi.

Viên quan hành hình nói:

– Tâu Ðại vương, ngài đã thỏa ý chưa? Công việc của tôi thế là xong chưa?

Vua bảo:

– Chưa đâu!

– Tâu Ðại vương, thế ngài cần gì nữa?

– Chặt đầu nó đi. Vua bảo.

Candà lại đọc bài kệ thứ ba:

Hoàng hậu hèn của Ðại Pa-tà-pa,
Chính là tôi, tội này riêng phải gánh.
Ðại vương, hãy thả Dham-ma-pà-la,
Và hãy chặt đầu tôi, người bất hạnh.

Nói xong, hoàng hậu đưa đầu mình ra. Viên quan hành hình lại bảo:

– Tâu Ðại vương, ngài cần gì?

– Chặt đầu đứa bé đi! Vua phán.

Thế rồi người ấy chặt đầu Bồ-tát và hỏi:

– Tâu Ðại vương, ngài đã thỏa ý chưa?

– Chưa. Vua bảo.

– Thưa Ðại vương, còn phải làm gì nữa?

Vua nói:

– Hãy lấy gươm đâm nó, lấy gươm mà cắt quanh thân nó, làm như nó có đeo tràng hoa vậy.

Người ấy tung thân Bồ-tát lên không lấy mũi gươm đâm vào, rồi cắt quanh thân ngài làm như thân có đeo một tràng hoa và rải các miếng thịt trên bệ. Candà đặt thịt của Bồ-tát vào lòng, ngồi xuống than khóc và đọc các bài kệ sau đây:

Cận thần chẳng ai can
Một lời với chúa công:
Chớ giết kẻ thừa kế
Từ ruột ngài nên thân!

Thân quyến chẳng một người
Nhẹ khuyên vua một lời:
Chớ giết đi hoàng tử
Ngài đã ban cuộc đời!

Ðọc hai bài kệ ấy xong, hoàng hậu Candà đè hai bàn tay lên ngực đọc bài kệ thứ sáu:

Hỡi Dham-ma-pà-la,
Dòng chính thống sinh ra;
Ðể trị vì trọn cõi
Tay con từng tắm dội,

Với dầu thơm chiên-đàn,
Nay nằm đấy, máu tràn.
Hỡi ôi, ta nghẹn thở,
Nghẹn cả lời kêu than.

Trong khi bà than vãn như thế, trái tim bà vỡ ra như một cây tre nổ giữa khu rừng đang cháy và bà ngã xuống chết ngay tại đó. Vua cũng không thể ngồi trên ngai vàng mà ngã xuống bệ. Ngay đó, đất nứt ra làm hai và vua rơi vào chỗ nứt ấy. Ðất rắn chắc dù dày gấp hàng ngàn lần hơn hai trăm ngàn dặm vẫn không thể chịu nổi sự hung ác của ông ta, đã nứt ra làm đôi và mở rộng khe ra. Lửa từ ngục Avìci (A-tỳ) vọt ra ập vào bọc lấy vua như một vương bào bằng len, rồi dìm ông vào ngục A-tỳ.

Các đại thần làm lễ tống táng hoàng hậu Candà và Bồ-tát.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ Ðề-bà-đạt-đa là vua, Mahàpajàpati là Candà, còn ta là hoàng tử Dhammapàla.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Nai Vàng (Tiền thân Suvannamiga)

Hỡi chân vàng hãy dồn hết sức…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một thiếu nữ thuộc gia đình quí phái ở Xá-vệ.

Cô ta là con gái của một người hầu cận hai vị Trưởng Tỷ-Kheo ở Xá-vệ và là một tín đồ thuần thành, liên hệ thân thiết với Phật, Pháp, Tăng, thường xuyên làm việc thiện, thông tuệ đối với đạo giải thoát, chuyên tâm bố thí và những hành vi đạo đức như thế.

Một gia đình khác ở Xá-vệ, cùng một đẳng cấp nhưng theo ngoại đạo hỏi cưới cô ta. Cha mẹ cô bảo:

– Con gái của chúng tôi là một tín đồ thuần thành, qui y Tam bảo, bố thí và làm các việc thiện, nhưng ông bà lại có quan điểm ngoại đạo. Và vì ông bà sẽ không cho phép nó bố thí, hoặc nghe Pháp, hoặc đến thăm tinh xá, giữ giới luật đạo đức, tuân hành các ngày trai giới như nó vẫn muốn nên chúng tôi sẽ không gả nó về nhà quí vị được. Hãy chọn một thiếu nữ thuộc một gia đình ngoại đạo giống như quí vị vậy.

Khi lời cầu hôn của gia đình kia bị từ chối, họ bảo:

– Xin cứ cho con gái của quí vị đến nhà chúng tôi và làm mọi việc như thế đúng theo ý muốn của cô. Chúng tôi sẽ không ngăn cản cô ta đâu. Xin hãy chấp thuận yêu cầu ấy.

Gia đình cô gái bảo:

– Thế thì quí vị hãy đem nó về đi.

Lễ cưới được cử hành vào một ngày tốt lành và cô gái được đưa về nhà chồng. Cô tỏ ra rất chuyên chính trong việc hoàn tất các bổn phận, là một người vợ tận tụy, một nàng dâu đảm đang đối với cha mẹ chồng.

Một hôm cô nói với chồng:

– Chàng ơi, em muốn cúng dường các Tỷ-Kheo của gia đình ta.

– Ðược lắm, em ạ. Em cứ cúng dường đúng như em thích.

Thế là một hôm cô mời các Tỷ-Kheo ấy và tổ chức một cuộc khoản đãi lớn. Cô cúng dường các thức ăn hảo hạng và cung kính ngồi cách xa các vị ấy và bảo:

– Bạch chư Tôn giả, gia đình này ngoại đạo và không có lòng tin. Họ không biết giá trị của Tam bảo. Dù thế, xin chư vị cứ tiếp tục nhận thực phẩm nơi đây cho đến khi họ hiểu được giá trị của Tam Bảo.

Các Tỷ-Kheo nhận lời và tiếp tục thọ thực tại đó. Cô lại bảo với chồng:

– Chàng ơi, quí Tỷ-Kheo vẫn thường xuyên đến đây luôn, sao chàng không ra gặp các ngài?

Nghe thế, chàng đáp:

– Tốt lắm, ta sẽ ra gặp các ngài.

Ngày hôm sau, khi các Tỷ-Kheo thọ thực xong, cô ta lại nhắc chồng. Chàng đến ngồi xuống một bên và từ tốn thưa chuyện cùng các vị ấy. Thế rồi Tướng quân Chánh Pháp Sàriputta thuyết Pháp cho chàng. Chàng rất thích thú nghe giảng và nhìn thấy thái độ nhu hòa ân cần của các Tỷ-Kheo, nên từ hôm đó trở đi chàng luôn luôn soạn sẵn thảm cho các Trưởng Lão ngồi và lọc nước cho các vị ấy dùng và trong khi các vị ấy thọ thực, chàng chăm chú nghe giảng Pháp. Chẳng bao lâu, chàng không còn theo các quan điểm ngoại đạo nữa.

Thề rồi một hôm, Trưởng Lão giảng Pháp, tuyên thuyết Tứ Ðế cho hai vợ chồng ấy và khi bài thuyết giảng chấm dứt, cả hai vợ chồng đều đắc quả Dự Lưu. Từ đó, tất cả mọi người trong gia đình ấy, từ các bậc cha mẹ cho đến người giúp việc đều bỏ hết các tà kiến ngoại đạo và hết lòng vì Phật, Pháp, Tăng.

Một hôm, cô gái bảo với chồng:

– Chàng ơi, em có gì liên quan với đời sống gia đình nữa đâu? Em mong được sống đời tu hành.

Chàng đáp:

– Tốt lắm em ạ, ta cũng muốn trở thành một nhà tu khổ hạnh.

Thế là chàng vui vẻ dẫn cô đến một Ni chúng và cô được nhận làm một Sa-di-ni, còn chàng cũng đến với bậc Ðạo Sư để xin vào Tăng Ðoàn. Lúc đầu bậc Ðạo Sư nhận chàng làm Sa-di, sau đó cho chàng thọ giới Tỷ-Kheo. Cả hai đều đạt tuệ nhãn và chẳng bao lâu đắc Thánh quả.

Một hôm, các Tỷ-Kheo bàn tán trong pháp đường:

– Này các Hiền giả, người phụ nữ nọ nhờ lòng tin của chính mình và của chồng mà trở thành một Sa-di-ni. Rồi cả hai người sống cuộc đời Phạm hạnh, đạt tuệ nhãn và đắc Thánh quả.

Bậc Ðạo Sư đến hỏi các Tỷ-Kheo đang ngồi bàn chuyện gì và sau khi nghe thuật lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-Kheo, không phải chỉ bây giờ cô ấy mới giải thoát cho chồng khỏi những ràng buộc của khổ đau. Xưa kia cũng thế, cô cũng đã giải thoát các bậc hiền trí khỏi những ràng buộc của cái chết.

Ngài dạy đến đó rồi im lặng, nhưng vì các Tỷ-Kheo thúc nài, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một con Nai vàng và lớn thành một con vật đẹp đẽ duyên dáng với màu sắc vàng ròng. Ðôi chân trước và sau của ngài như được phủ bằng một thứ sơn bóng. Sừng như bằng bạc, mắt như những viên ngọc, miệng như một cuộn len đỏ. Con Nai cái, vợ Ngài, cũng là một con vật rất xinh đẹp. Cả hai sống hòa hợp, hạnh phúc với nhau. Tám vạn nai đốm đi theo hầu Bồ-tát.

Trong khi bầy nai sống nơi ấy, một người thợ săn đặt bẫy vào chỗ nai lui tới. Một hôm, đang dẫn dắt bầy nai, Bồ-tát bị mắc chân vào bẫy. Ðể làm đứt dây thòng lọng, ngài giựt mạnh đến đứt cả da chân. Ngài lại giựt nữa và bị đứt tới thịt. Lần thứ ba, ngài lại giựt và bị phạm tới gân. Rồi cái dây thắt vào tận xương. Không thể phá bẫy được, Nai rúng động vì sợ chết đến độ kêu la từng hồi. Nghe thế bầy nai kinh hoàng chạy trốn. Nhưng con Nai cái, trong lúc chạy trốn, không thấy Bồ-tát trong bầy liền nghĩ: “Hẳn là nỗi kinh hoàng có liên hệ đến chồng ta rồi”. Rồi Nai cái vội phóng đến bên chồng tuôn trào nước mắt và than:

– Chàng ơi, chàng mạnh mẽ đến thế, sao lại không thắng được cái bẫy chứ? Hãy cố sức mà tàn phá bẫy đi!

Ðể khích lệ Bồ-tát, vợ ngài đọc bài kệ đầu:

Hỡi chân vàng, hãy dồn hết sức,
Ðể thoát ra cho dứt bẫy này,
Mất chàng, há thiếp vui say
Thảnh thơi dong ruổi đó đây trong rừng?

Nghe thế, Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Ta đây đã quá chừng cố gắng,
Tự do nào đạt đặng đâu mà!
Càng vùng để thoát thân ra,
Mối dây càng thắt thịt da thế này.

Thế rồi Nai cái bảo:

– Chàng ơi, đừng sợ. Em sẽ hết sức van xin người thợ săn và sẽ hy sinh mạng sống của em và để xin đổi mạng cho chàng.

Vừa an ủi bậc Ðại sĩ, vợ ngài vẫn tiếp tục ôm lấy Bồ-tát mình đang rớm máu. Nhưng người thợ săn tay cầm gươm và lao đã đến gần, giống như một ngọn lửa hủy diệt vào lúc mở đầu một chu kỳ. Khi thấy người ấy, Nai cái bảo:

– Chàng ơi, người thợ săn đã đến. Em sẽ đem hết khả năng để cứu chàng. Chàng chớ sợ.

An ủi chồng xong, nai cái đến gặp người thợ săn, đứng cách một khoảng để tỏ vẻ kính trọng, nai chào người ấy và nói:

– Thưa ngài, chồng tôi là một con Nai có màu vàng ròng, đầy đủ mọi đức hạnh và là vua của tám vạn con nai.

Ca ngợi Bồ-tát xong, Nai xin hy sinh mạng sống của mình để vua bầy nai khỏi bị hại. Rồi Nai đọc bài kệ thứ ba:

Nơi đây, hãy trải lá dày
Chúng tôi sẽ ngã xuống ngay đây mà,
Thợ săn, hãy rút gươm ra
Giết tôi, rồi giết tiếp là chồng tôi!

Nghe thế, người thợ săn rất kinh ngạc, liền nghĩ: “Ngay cả người ta cũng không hy sinh đời mình cho vua nữa huống chi là loài vật. Thế này nghĩa là gì chớ? Con vật nói với một giọng êm dịu như tiếng người. Hôm nay, ta sẽ tha mạng cho nó và cho chồng nó”. Rất thích thú nai cái, người thợ săn đọc bài kệ thứ tư:

Con vật nói tiếng người
Ta chưa thấy trên đời
Nai hiền, an tâm nhé!
Chân vàng, dứt sợ thôi!

Thấy Bồ-tát được tha ra, Nai cái vô cùng sung sướng liền quay lại cám ơn người thợ săn và đọc bài kệ thứ năm:

Hôm nay tôi thích thú đầy tràn,
Nai vĩ đại này được thoát thân,
Vậy thợ săn, người vừa gỡ bẫy,
Hãy vui vầy với mọi thân nhân.

Bấy giờ Bồ-tát tự nghĩ: “Người thợ săn này đã tha mạng ta và vợ ta và cả tám vạn nai kia. Ông đã là nơi nương nhờ của ta, vậy ta cũng phải là nơi nương nhờ của ông ta”. Và với tính chất của một bậc đức hạnh tối cao, ngài nghĩ: “Ta phải đền cho ân nhân của ta”. Rồi ngài trao cho người thợ săn một viên ngọc kỳ diệu mà ngài đã tìm được ở nơi ngài thường đi kiếm ăn và nói:

– Này bằng hữu, từ nay, chớ giết hại sinh vật nào nữa, với viên ngọc này, hãy xây dựng gia đình, vợ con, hãy bố thí và làm các việc thiện khác.

Khuyến dụ xong Nai biến vào trong rừng.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài dạy ở đây và nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Channa (Xa-mặc) là người thợ săn, Sa-di-ni ấy là con Nai cái, còn ta là Nai chúa kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hoàng Hậu Sussondi (Tiền thân Sussondi)

Tôi ngửi thấy mùi hương rừng rậm…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-Kheo thối thất.

Bậc Ðạo Sư hỏi có thật ông ta thèm muốn đời thế tục và ông ta thấy điều gì khiến ông ta ân hận đã thọ giới. Vị Tỷ-Kheo trả lời:

– Tất cả là do nét yêu kiều của một phụ nữ.

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Thật thế, này Tỷ-Kheo, không thể nào canh phòng được phụ nữ. Các bậc hiền trí ngày xưa, dù họ thận trọng ở tại trú xứ của loài Garudas (Kim sí điểu: chim thần cánh vàng), họ cũng không thể canh giữ phụ nữ.

Rồi do Tỷ-Kheo ấy thỉnh cầu, Ngài kể một chuyện thời xưa.

*

Ngày xưa, vua Tamba trị vì Ba-la-nại, chánh hoàng hậu tên là Sussondi là một phụ nữ đẹp tuyệt vời.

Bấy giờ, Bồ-tát sinh ra là một Garuda (chim thần cánh vàng) trẻ. Bấy giờ đảo Nàga (Long thần)được gọi là đảo Seruna. Ngài đến Ba-la-nại giả nam trang và chơi súc sắc với vua Tamba. Nhận thấy sắc đẹp của ngài, người ta bảo Sussondi:

– Một trang thanh niên như thế… như thế… thường chơi súc sắc với đức vua.

Nàng ao ước được thấy ngài.

Rồi một hôm, nàng trang điểm thật đẹp và đi đến phòng đánh súc sắc. Ðứng nơi ấy, trong đám hầu cận, nàng nhìn đăm đăm vào chàng thanh niên. Chàng cũng nhìn đăm đăm vào hoàng hậu và cả hai đâm ra yêu nhau. Vua chim thần Garuda dùng thần lực, khởi lên một cơn bão ập vào thành phố. Mọi người vì sợ nhà sập, đã phóng chạy ra khỏi cung điện. Với quyền năng, vua Garuda khiến cho cung điện tối đen rồi mang hoàng hậu theo mình bay lên không, về chỗ trú ngụ của riêng mình ở đảo Nàga. Nhưng chẳng ai biết việc đi hay đến của Sussondi.

Vua Garuda vui thú với nàng và vẫn đến chơi súc sắc với vua Tamba. Bấy giờ vua Tamba có một nhạc công tên là Sagga. Không biết hoàng hậu đã đi đâu, vua gọi nhạc công ấy lại và nói:

– Bây giờ ngươi hãy khám phá xem điều gì đã xảy ra cho hoàng hậu.

Nói thế xong vua truyền lệnh cho Sagga ra đi.

Sagga mang theo các thứ cần thiết cho cuộc hành trình và khởi sự tìm kiếm từ cổng thành, cuối cùng chàng đến Bhàrukaccha. Lúc ấy các thương gia ở Bhàrukaccha đang giương buồm đi đến vùng Kim Ðịa. Chàng đến gần họ và nói:

– Tôi là một nhạc công. Nếu các ông miễn tiền tàu cho tôi thì tôi sẽ làm như một nhạc công của các ông. Hãy mang tôi theo với!

Họ chấp thuận như thế, cho chàng lên tàu và nhổ neo. Khi thuyền đi được khá xa, họ gọi chàng và bảo chàng trổi nhạc cho họ nghe. Chàng nói:

– Tôi muốn trổi nhạc, nhưng nếu làm thế, cá sẽ bị kích động quá đến nỗi thuyền của các ông sẽ chìm đấy.

Các thương gia nói:

– Nếu chỉ là một con người tầm thường trổi âm nhạc thì chẳng có gì kích động đến phía cá. Cứ chơi nhạc đi cho chúng tôi nghe.

– Thế thì đừng tức giận tôi nhé.

Nói xong, chàng lên dây đàn giữ cho lời ca hài hòa toàn hảo với tiếng dây đàn đệm theo rồi trổi nhạc cho họ nghe. Bọn cá điên cuồng khi nghe âm thanh ấy và quẫy tung cả lên. Một con hải quái nhảy vọt lên, rơi vào thuyền và làm thuyền vỡ đôi.

Sagga nằm trên một tấm ván được gió đẩy đi cho đến khi chàng giạt vào một cây đa ở đảo Nàga, nơi vua chim Garuda ở. Bấy giờ hoàng hậu Sussondi, như mỗi lần vua chim thần Garuda đi chơi súc sắc, vẫn từ nhà đi xuống và đi lang thang dọc bãi biển, nàng trông thấy và nhận ra nhạc công Sagga, nàng bèn hỏi chàng đến đây bằng cách nào. Chàng kể lại toàn bộ câu chuyện cho nàng nghe. Nàng an ủi chàng và nói:

– Ðừng sợ.

Rồi ôm chàng trong đôi cánh tay, nàng đem chàng về chỗ nàng ở, và đặt chàng nằm trên một chiếc trường kỷ. Khi chàng phục hồi đầy đủ sức lực, nàng cho chàng ăn những thức ăn của thần tiên, tắm chàng trong nước hoa thần tiên, mặc cho chàng những y phục thần tiên và trang sức cho chàng bằng những bông hoa có mùi thơm thần tiên và để chàng nằm trên một sàng tọa thần tiên. Nàng săn sóc chàng như thế, và mỗi khi vua chim thần Garuda trở về, nàng đem giấu người yêu, và ngay khi vua ra đi do ảnh hưởng của đam mê, nàng hưởng lạc thú với chàng.

Một tháng rưởi sau, một số thương gia cư ngụ ở Ba-la-nại ghé lên dưới góc cây đa trong đảo nàyđể lấy củi và nước. Chàng nhạc công lên thuyền với họ và về tới Ba-la-nại đúng vào lúc chàng thấy vua đang chơi súc sắc, chàng liền cầm đàn, tấu nhạc và đọc bài kệ đầu:

Tôi ngửi thấy mùi hương rừng rậm,
Tôi nghe ra biển thẳm rền la,
Vì tình tôi khổ, Tam-ba,
Sus-son-di đẹp cách xa tôi rồi!

Nghe thế, vua Garuda đọc bài kệ thứ hai:

Biển bão tố, sao người qua được

Se-ru-ma mà vẫn an hòa?
Cách nào, hãy nói, Sag-ga,
Sus-son-di đẹp, người đà đến ngay?

Bấy giờ Sagga đọc ba bài kệ tiếp theo:

Từ Bhà-ru-kac-cha,
Cùng với đoàn thương gia,
Thuyền tôi đi bị đắm
Vì hải quái gây ra,
Tôi nhờ vào tấm ván
Mà ghé được vào bờ.

Một hoàng hậu thơm tho
Với bàn tay dịu hiền
Nhẹ nhàng nâng tôi lên
Ðặt tôi vào đầu gối.
Hẳn như tôi lúc ấy
Là con thực của nàng.

Nàng cho mặc, cho ăn,
Và khi tôi nằm đấy,
Nàng nhìn chỗ tôi nằm,
Bằng đôi mắt đắm đuối,
Suốt cả ngày như vậy,
Chúa Tam-ba, nên biết,
Ðây lời thực tôi trình.

Khi chàng nhạc công nói như thế, vua chim thần Garuda vô cùng ân hận và nói:

– Dù ta ở tại trú xứ của chim thần Garuda, ta cũng không thể giữ nàng an toàn được. Người đàn bà xấu xa này đối với ta còn ra gì nữa?

Do đó vua Garuda mang nàng về trả lại cho vua Tam-ba rồi bỏ đi và từ đó không quay lại nữa.

*

Sau khi chấm dứt bài giảng, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế. Khi Ngài kết thúc Tứ Ðế, vị Tỷ-Kheo có tâm trần tục kia đắc quả Dự Lưu. Sau đó Ngài nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Ànanda là vua ở Ba-la-nại, còn Ta là vua chim thần Garuda.

-ooOoo-

  1. Chuyện Sắc Đẹp (Tiền thân Vannàroha)

Có phải chăng Su-dà-tha nói…,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về hai vị Ðại đệ tử.

Một lần nọ, hai vị Chánh Trưởng lão quyết định suốt trong mùa mưa sẽ chuyên tâm độc cư. Vì vậy họ từ biệt bậc Ðạo Sư rời Tăng chúng, đi khỏi Kỳ Viên, tự tay mang theo y, bát và đến sống trong một khu rừng gần một làng ở biên địa.

Một người đàn ông nọ phục vụ hai vị Trưởng lão và sống bằng các thức ăn thừa của họ, cũng ở riêng một nơi trong khu ấy. Khi thấy hai vị Trưởng lão sống với nhau một cách hạnh phúc như thế, anh ta nghĩ:

– Chẳng biết ta có làm cho họ bất hòa không nhỉ!

Thế là anh ta đến gần Trưởng lão Sàriputta (Xá-lợi-phất) và bảo:

– Thưa Tôn giả, có thể có sự cãi cọ nào giữa ngài và Ðại Trưởng lão Moggallàna (Mục-kiền-liên) không?

– Vì sao ông bảo thế? Trưởng lão hỏi.

– Thưa Thánh giả, vị ấy chê bai ngài và bảo: “Khi ta vắng, Xá-lợi-phất có gì xứng đáng để so sánh với ta về đẳng cấp, dòng dõi, gia đình và xứ sở hoặc về năng lực chứng đạt các Thánh điển!

Vị Trưởng lão mỉm cười và đáp:

– Ði đi, ông bạn.

Một hôm khác người ấy lại đến gần Ðại Trưởng lão Mục-kiền-liên và cũng bảo như thế. Vị này cũng mỉm cười và nói:

– Ði đi, ông bạn!

Mục-kiền-liên đến gặp Xá-lợi-phất và hỏi:

– Ông bạn sống bằng các thứ dư thừa của chúng ta ấy có nói gì với Hiền giả không?

– Vâng, có đấy, Hiền giả ạ.

– Và ông ta cũng nói đúng như thế với tôi. Chúng ta phải đuổi ông ta đi.

– Tốt lắm Hiền giả, hãy đuổi ông ta đi.

Trưởng lão bảo:

– Ông không được đến đây.

Và búng tay tỏ ra khinh miệt anh ta, ngài đuổi anh ta đi. Hai vị Trưởng lão sống hạnh phúc với nhau, và khi quay về với bậc Ðạo Sư, họ đảnh lễ Ngài và ngồi xuống. Bậc Ðạo Sư ân cần nói chuyện với họ và hỏi họ có sống thời biệt cư của họ một cách hỷ lạc không. Họ bạch:

– Có một anh hành khất kia muốn làm cho chúng con bất hòa nhưng mưu toan thất bại, anh ta đã chạy xa rồi.

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Thực thế, này Xá-lợi-phất, không phải chỉ bây giờ, mà xưa kia cũng thế, anh ta đã nghĩ cách làm cho các ông bất hòa nhưng mưu toan thất bại, anh ta đã chạy xa.

Rồi do yêu cầu các Trưởng lão, Ngài kể một chuyện thời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một vị Thần cây trong một khu rừng. Bấy giờ có một con Sư tử và một con Hổ sống trong một cái động núi ở khu rừng ấy. Một con Chó rừng hầu hạ chúng và nhờ sống bằng thịt ăn thừa của chúng, nó bắt đầu mập ra.

Thế rồi một hôm, nó chợt nghĩ: “Ta chưa bao giờ ăn thịt một con sư tử hay một con hổ. Ta phải làm cho hai con này bất hòa với nhau, và kết quả của việc tranh cãi nhau là chúng phải chết, bấy giờ ta sẽ ăn thịt chúng”.

Thế là nó đến gần Sư tử và nói:

– Thưa ngài, có sự tranh cãi nào giữa ngài và Hổ không?

– Sao anh bảo thế?

– Thưa Tôn giả, Chó rừng hỏi – Hổ chê bai ngài và bảo: Khi ta đi vắng, tên Sư tử này sẽ chẳng bao giờ được bằng một phần mười sáu sắc đẹp của ta, vóc dáng và vòng ngực ta, sức mạnh và quyền năng tự nhiên của ta.

Bấy giờ Sư tử nói với nó:

– Xéo đi, Hổ sẽ chẳng bao giờ nói ta như thế.

Thế rồi Chó rừng cũng đến gần Hổ và nói theo cách ấy. Khi nghe nó nói, Hổ chạy đến Sư tử và hỏi:

– Này bạn, có thật rằng bạn đã nói về tôi như thế, như thế?

Rồi Hổ đọc bài kệ đầu:

Có phải chăng Su-dà-tha nói:
Ðẹp sang về dòng dõi, hình dung.
Oai hùng, quyền lực trong vùng
Su-bà-hu cũng phải nhường thua tôi!

Nghe thế, Su-dà-tha (Răng mạnh, tức Sư tử) đọc bốn bài kệ còn lại:

Có phải chăng Su-bà-hu nói:
Ðẹp sang về dòng dõi, hình dung
Oai hùng, quyền lực trong vùng
Su-dà-ha cũng phải nhường thua tôi!

Nếu lời bạn chê bai như vậy,
Thì bạn đâu còn phải bạn tôi!
Chuyện tầm phào, lắng nghe rồi
Sẽ gây tranh cãi với người bạn ta,

Và trong thù hận cay chua
Mối tình thân hữu sẽ là đứt ngang.
Ðã là bè bạn thương thân,
Ai đâu nghi ngại chẳng nhân cớ nào!
Ai đâu tìm vạch gắt gao
Những điều lầm lỗi của nhau làm gì!

Niềm tin bạn, ta thì vẫn giữ
Như trẻ thơ tin vú mẹ thân.
Chẳng gì kẻ lạ nói năng
Mà đành có lúc tách phân bạn lòng.

Khi bốn bài kệ ấy đã nêu lên phẩm cách của một bạn thân, Hổ nói:

– Tôi có lỗi.

Và nó xin lỗi Sư tử. Sau đó chúng cùng nhau sống hạnh phúc tại nơi ấy. Còn Chó rừng ra đi và tìm đến nơi khác.

*

Sau khi chấm dứt bài dạy, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, con Chó rừng kia là người hành khất sống bằng thức ăn thừa, con Sư tử là Xá-lợi-phất, con Hổ là Mục-kiền-liên, còn vị Thần sống trong rừng ấy và chứng kiến tận mắt toàn thể chuyện này là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thử Nghiệm Đức Hạnh (Tiền thân Sìlavimamsa)

Ðức hạnh và kiến thức…,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Bà-la-môn muốn thử thách năng lực của đức hạnh.

Người ta kể rằng, do ông nổi danh về đức hạnh, vua đã đặc biệt tôn trọng ông hơn hẳn các Bà-la-môn khác. “Ðức vua đặc biệt tôn trọng ta, có phải vì ta có đức hạnh hay vì ta đạt kiến thức cao? Ta sẽ thử nghiệm xem đức hạnh và kiến thức bên nào quan trọng hơn”.

Thế là một hôm, ông rút lấy một đồng trong kho tiền của vua. Người thủ kho vì kính ông đã không nói một lời nào. Việc ấy lại xảy ra lần thứ hai, người thủ kho cũng chẳng nói gì. Nhưng đến lần thứ ba, người thủ kho bắt ông ta như bắt một kẻ sinh sống bằng nghề trộm cắp và mang ông tađến trước nhà vua. Vua hỏi người thủ kho ông ta bị tội gì, người ấy buộc tội ông đã ăn trộm tài sản của vua.

– Này Bà-la-môn có thật thế không? Vua hỏi.

– Tâu Ðại vương, tôi không có thói ăn trộm của ngài – Ông ta bảo,- Nhưng tôi nghi ngờ không biết đức hạnh và kiến thức bên nào quan trọng hơn, và khi thử nghiệm xem trong hai thứ đó, thứ nào là quan trọng hơn, tôi đã ba lần rút lấy một đồng tiền và thế rồi tôi bị bắt và mang đến trước ngài. Giờ đây tôi biết được rằng đức hạnh có hiệu năng lớn hơn là kiến thức. Tôi không còn muốn sống đời cư sĩ nữa, tôi sẽ trở thành một ẩn sĩ.

Khi được vua cho phép, chẳng cần phải nhìn tới cả nhà cửa, ông đi thẳng đến Kỳ Viên và xin quy y bậc Ðạo Sư. Bậc Ðạo Sư truyền cho ông giới Sa-di và cả giới Tỷ-kheo. Ðược vào Giáo đoàn không bao lâu, ông đạt tuệ giác và đắc quả vị cao nhất. Sự việc này được bàn luận trong Phápđường rằng Bà-la-môn nọ sau khi chứng nghiệm được năng lực của đức hạnh, đã thọ giới xuất gia và đạt tuệ giác đắc Thánh quả như thế nào.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi các Tỷ-Kheo đang ngồi bàn luận vấn đề. Khi nghe kể lại, Ngài dạy:

– Không phải chỉ bây giờ người này làm thế, các bậc hiền trí ngày xưa cũng đã đem đức hạnh ra thử nghiệm và trở thành các ẩn sĩ đem lại sự giải thoát cho mình.

Rồi Ngài kể một câu chuyện ngày xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên, ngài học được mọi ngành văn học nghệ thuật ở Takkasilà và khi trở về Ba-la-nại, ngài đến yết kiến vua. Vua giao cho ngài chức giáo sĩ hoàng gia, và vì ngài giữ năm giới, vua đối đãi kính trọng, xem ngài là người một đức hạnh. Ngài nghĩ: “Phải chăng vua kính trọng đối xử với ta như một người đức hạnh hay như một người chuyên tâm đạt kiến thức?” Và toàn bộ câu chuyện cũng đúng như sự việc ngày nay, nhưng ở đây, vị Bà-la-môn bảo:

– Bây giờ tôi đã biết đức hạnh là quan trọng hơn kiến thức.

Rồi ngài đọc năm bài kệ sau đây:

Ðức hạnh và kiến thức
Tôi đã thể nghiệm rồi.
Nay không còn ngờ vực,
Ðức hạnh tốt nhất đời.

Ðức hạnh vượt thiên phú
Ðẹp, sang suông đâu bí.
Khi ở xa đức hạnh
Kiến thức chẳng đáng chi!

Nông dân hay hoàng tử
Hễ đã vướng tội vào,
Ở cõi nào đâu chứ,
Thoát khỏi niềm khổ đau?

Dù thuộc hàng thấp kém
Hay ở lớp quý cao,
Nếu đời này đức hạnh,
Ở Thiên giới ngang nhau.

Dòng dõi và trí thức,
Thân tình, chẳng đáng đâu!
Chỉ riêng thuần đức hạnh
Ðem phước lạc mai sau.

Bậc Ðại Sĩ ca ngợi đức hạnh như thế, và sau khi được vua ưng thuận, ngay ngày hôm ấy, ngài đi vào vùng Tuyết-Sơn và sống đời Phạm hạnh của một nhà ẩn tu. Ngài phát triển các Thắng trí và các Thiền chứng rồi được sinh vào cõi Phạm Thiên.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài dạy và nhận diện tiền thân:

– Bấy giờ chính Ta đã đem đức hạnh ra thử nghiệm và nhận lấy cuộc đời Phạm hạnh của một nhà ẩn tu.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hổ Thẹn (Tiền thân Hiri)

Kẻ nào dù được kính vì…,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi ngài trú tại Kỳ Viên về một vị phú thương bạn của ông Cấp Cô Ðộc, sống tại một tỉnh ở biên địa.

Cả câu chuyện khởi đầu và câu chuyện ngày xưa đều được kể đầy đủ trong số 90. Tiền thân cuối Phẩm thứ chín, Chương Một, nhưng ở đây khi vị thương gia ở Ba-la-nại nghe rằng những người hầu của vị thương gia xa lạ bị đoạt hết tất cả tài sản, và sau khi mất hết mọi thứ đã có, họ phải bỏ trốn, ông nói:

– Vì họ không làm điều mà họ phải làm cho những người xa lạ đã đến với họ, nên họ chẳng tìm thấy ai sẵn sàng đền đáp cho họ.

Nói thế xong, ông đọc các bài kệ sau:

Kẻ nào dù được kính vì,
Khi làm phận tớ, lòng thì ghét ta.
Chẳng làm việc tốt đâu mà,
Còn riêng lời nói rườm rà nhiêu khê,
Ta nên phải quyết một bề:
Người nào như thế, chớ hề kết giao.

Một khi đã trót hứa vào
Thực hành lời hứa làm sao cho tròn.
Việc nào chẳng thể làm xong,
Thì ta từ chối, quyết không hứa gì.

Người khôn quay mặt ngoảnh đi
Những khoa trương rỗng đáng chi để lòng.
Một khi bạn đã nhau cùng,
Thì không tranh chấp khi không cớ nào.

Chẳng hề tìm vạch gắt gao
Những điều lầm lỗi của nhau bao giờ.
Vững tin bạn, tựa trẻ thơ
Tin vào vú mẹ chẳng ngờ chút chi.

Dù người lạ nói, làm gì,
Cũng không hề muốn chia ly bạn lòng.
Tình bằng ai khéo chịu tròn
Hẳn đời tăng ích, cao khôn phước phần.

Nhưng người hưởng thú tịnh an,
Uống vào những ngụm lẽ Chân ngọt ngào.
Riêng người ấy biết làm sao
Thoát dây buộc tội, thoát bao khổ phiền.

Như vậy bậc Ðại Sĩ chán ngán tiếp giao với bạn bè xấu, do sức mạnh của độc cư, ngài đã đưa giáo lý của Ngài lên đến tột đỉnh và dẫn con người đến Niết – bàn vĩnh cửu.

*

Khi giảng xong Pháp thoại, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Ta là vị thương gia ở Ba-la-nại.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Đom Đóm (Tiền thân Khajjopanaka)

Chuyện con Ðom Ðóm sẽ được kể đầy đủ trong số 546, Tiền thân Mahà-Ummagga.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Luyện Rắn (Tiền thân Ahigundika)

Này ta nằm đây, Khỉ xinh đẹp hỡi….,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi ngài trú tại Kỳ Viên về một Trưởng lão.

Chuyện này đã được kể đầy đủ trong số 249. Tiền thân Sàlaka.

Ở đây cũng thế, vị Trưởng lão sau khi truyền giới cho một chàng trai trong làng lại la mắng, đánh đập anh ta. Chành trai ấy chạy trốn và hoàn tục. Trưởng lão một lần nữa truyền giới cho anh và lại la mắng, đánh đập như trước. Chàng trai trẻ sau khi hoàn tục ba lần, lại được khuyến dụ quay trở lại, đã chẳng còn muốn nhìn mặt Trưởng lão ấy nữa.

Chuyện ấy được bàn tán trong Pháp đường về một Trưởng lão đã không thể sống với chú tiểu của ông mà cũng không thể sống thiếu chú ấy, trong khi chàng trai trẻ đã thấy lỗi lầm của Trưởng lão vì thiếu điềm tĩnh, anh ta lại là một chàng trẻ nhạy cảm nên đã không muốn nhìn ông nữa.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi các Tỷ-kheo đang bàn đề mục gì. Khi nghe trình việc ấy, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ, mà xưa kia cũng thế, chính chàng trẻ này đã làm một chú tiểu nhạy cảm sau khi quan sát thấy lỗi lầm của Trưởng lão ấy, đã chẳng muốn nhìn ông ta nữa!

Dạy thế xong, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, vào triều đại Brahmadatta, vua ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình làm lúa mì và khi lớn lên, ngài sinh sống bằng nghề bán lúa mì.

Bấy giờ, một người dụ rắn nọ bắt được một con Khỉ rồi huấn luyện nó đóng trò với một con rắn. Thế rồi khi một cuộc hội hè được mở ở Ba-la-nại, ông ta gởi con Khỉ cho người bán lúa mì và đi rong khắp trong bảy ngày làm trò với con Rắn. Trong thời gian ấy, vị thương gia nuôi con Khỉ bằng thức ăn loại cứng, loại mềm.

Vào ngày thứ bảy khi đã say sưa ở chỗ vui chơi hội hè ấy, người dụ rắn trở về và ba lần đánh đập con Khỉ bằng một thanh tre rồi đem nó theo vào trong một khu vườn, cột nó lại và nằm ngủ. Con Khỉ tháo được dây ra rồi trèo lên cây xoài, ngồi đó ăn trái. Khi thức dậy người dụ rắn thấy con Khỉ ngồi trên cây, liền nghĩ: “Ta phải bắt nó bằng cách tán tỉnh nó”. Rồi khi nói chuyện với nó, ông đọc bài kệ đầu:

Này ta nằm đây, Khỉ xinh đẹp hỡi,
Như người chơi bị súc sắc phá tàn,
Hãy ném xoài đây; Ta biết rõ ràng
Ta sống được nhờ bạn nhiều mưu kế.

Khi nghe thế, con Khỉ đọc các bài kệ còn lại:

Lời bạn khen, âm thanh vô nghĩa thế,
Khỉ đẹp xinh: Bao giờ kiếm cho ra!
Xin hỏi ai trong hàng quán say sưa,
Nay bỏ đói và đánh ta đau vậy?

Anh dụ rắn hỡi, ta đây nhớ lại
Giường khổ đau nơi ta phải nằm vào.
Nếu có ngày ta lên nắm ngôi cao,
Chớ xin ta rỉ chút nào ân huệ.

Vì ta nhớ bạn từng hung ác thế,
Nhưng nếu ai vui vẻ sống trong nhà
Hạng thanh cao, chịu đem của trao ra,
Thì sẽ được người khôn giao kết chặt.

Nói những lời này xong, con Khỉ biến mất trong bầy khỉ bạn.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài dạy ở đây và nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Trưởng lão này là người dụ rắn nọ, chú tiểu là con Khỉ, còn Ta là người bán lúa mì.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Quỷ Gumbiya (Tiền thân Gumbiya)

Thuốc độc giống như mật ngọt ngào….,

Cây chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo hối tiếc vì đã thọ giới.

Bậc Ðạo Sư hỏi có thật ông đã hối tiếc như thế không.

– Bạch ngài, đúng thế. Ông ta đáp.

Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Ông đã thấy điều gì khiến ông cảm thấy như thế?

Khi vị Tỷ-kheo đáp:

– Ðấy là do những vẻ duyên dáng hấp dẫn của một phụ nữ.

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Năm thứ ham muốn giống như mật có rảy thuốc độc giết người do quỷ Gumbiya để giữa đường.

Rồi do yêu cầu của Tỷ-kheo ấy, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, dưới triều Brahmadatta, vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là một thương gia mang theo năm trăm chiếc xe chở hàng hóa đi bán. Ðến đường cái, trước khi vào một khu rừng, ngài gọi các thành viên trong đoàn lại và nói:

– Này, trên con đường này có lá, hoa, trái vân vân, tất cả đều có thuốc độc đấy. Khi ăn, chớ ăn các thứ lạ mà không hỏi ta: Vì bọn quỷ đã để trên đường những rổ cơm mới và nhiều thứ quả hoang ngon ngọt và rưới thuốc độc lên. Hãy dứt khoát đừng ăn thức ăn ấy nếu không được ta chấp thuận.

Sau khi dặn dò như thế, ngài tiếp tục cuộc hành trình.

Bấy giờ một quỷ Yakkha nọ, tên Gumbiya, rải lá trên một khoảng đất giữa rừng và thả vài miếng mật, trên đó có thuốc độc giết người; còn nó đi đây đó trên đường, giả vờ vỗ vào cây cối, làm như đang tìm mật. Những người không biết gì cứ nghĩ: “Mật này được để đây, hẳn phải là một nghĩa cử”. Thế là họ phải chết vì ăn mật ấy. Và bọn quỷ đến ăn thịt họ.

Trong thương đoàn của Bồ-tát cũng có một số người vốn tham ăn, khi thấy những thứ ngon này, không kìm lòng được liền ăn vào. Nhưng những người khác khôn ngoan bảo:

– Ta sẽ hỏi Bồ-tát trước khi ăn.

Và họ cầm các thức ăn ấy và đứng đó. Khi Bồ-tát thấy các thứ họ đang cầm trong tay, ngài bảo họ ném đi. Những người đã ăn trọn phần đều chết. Nhưng đối với mỗi người chỉ mới ăn phân nửa, ngài khiến họ nôn ra, và sau khi họ đã nôn hết, ngài cho họ bốn thứ thơm ngọt và do thần lực của ngài, họ được lành.

Bồ-tát đến nơi mà ngài muốn đến một cách bình an, và sau khi giao hàng, ngài trở về nhà.

Thuốc độc giống như mật ngọt ngào
Khi ta ngửi, nếm hoặc nhìn vào,
Gum-bi-ya đã bày ra đó,
Mục đích hại người thật hiểm sao!
Hễ kẻ nào ham ăn hưởng mật,
Ăn vào, phải chết giữa rừng sâu.
Những ai khôn tránh xa mồi nhử,
Giữ được an lành, khỏi khổ đau.

Tham dục cũng như mồi dục vậy,
Ðược bày ra để hại con người,
Tấm lòng tham ái thường khi vẫn
Phản bội, đưa người đến chết thôi.

Những hễ kẻ nào dù yếu đuối,
Tránh xa ác dục cuốn lôi người,
Chính là kẻ thoát dây ràng buộc
Của nỗi thương đau, thoát khổ rồi.

*

Sau khi đọc các bài kệ trên được cảm tác do trí tuệ toàn hảo, bậc Ðạo Sư khai thị Tứ Ðế. Ở phần kết thúc Tứ Ðế, vị Tỷ-kheo thối thất ấy đắc quả Dự Lưu.

Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Ta là vị thương gia ấy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vị Y Sĩ Già (Tiền thân Saliya)

Kẻ nào khiến bè bạn….,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Trúc Lâm, về một lời nói rằng Ðề-bà-đạt-đa đến cả kêu cứu cũng không thể được.

*

Khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia chủ ở làng. Khi còn trẻ ngài chơi đùa với các cậu trai khác dưới một gốc cây ở cổng làng. Bấy giờ có một y sĩ già nghèo khổ, không có việc làm, lang thang ra khỏi làng, và đến nơi ấy, trông thấy một con rắn nằm ngủ giữa nhánh chĩa của một cây nọ, đầu rúc vào trong. Ông ta nghĩ: “Ta chẳng được gì ở trong làng cả. Ta sẽ tán dụ tụi bé con này, khiến cho con rắn cắn chúng và thế là ta sẽ được thứ gì đó vì đã chữa chúng”. Vì thế, ông ta bảo Bồ-tát:

– Nếu cháu tình cờ trông thấy con nhím, cháu có bắt nó không?

– Vâng, cháu bắt chứ. Bồ-tát đáp.

Lão già bảo:

– Xem kìa, một con nhím đang nằm giữa nhánh chĩa của cây này đấy.

Không biết rằng đó là một con rắn, Bồ-tát trèo lên cây và chộp lấy cổ nó, nhưng khi thấy rằng đấy là một con rắn thì ngài không để cho nó quay lại phía ngài, mà kềm chế lấy nó và ném vung nó ra. Con rắn rơi vào cổ của ông y sĩ già, cuốn quanh ông, cắn ông thật nặng đến nỗi răng nó cắm sâu vào thịt ông, lão già ngã xuống chết ngay tại chỗ, còn con rắn thoát đi. Mọi người xúm quanh bậcÐạo Sĩ và khi giảng Pháp cho đám đông ấy, ngài đọc các bài kệ sau:

Kẻ nào khiến bè bạn
Bắt một con rắn độc tàn,
Bảo là nhím, chẳng hạn,
Chính kẻ ấy lãnh phần

Phải chết vì rắn cắn,
Như kẻ mong láng giềng
Gặp phải điều bất hạnh.
Ai muốn đánh một kẻ

Chẳng bao giờ đánh trả,
Sẽ bị đánh, ngã xoài
Như cú đấm chết người
Khiến kẻ ác thống khổ.

Như cát tung ngược gió
Bị thổi lại người tung.
Kẻ nào trao tai họa
Cho một bậc thiện nhân

Khổ ải quay trở lại
Cho chính kẻ điên khùng
Như cát bay trở lại,
Khi tung ngược cuồng phong.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giảng ở đây và nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, ông y sĩ già nghèo khổ là Ðề-bà-đạt-đa, và cậu thiếu niên khôn ngoan là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Dây Trói Buộc (Tiền thân Tacasàra)

Bị rơi vào giữa tay thù…..,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi ngài trú tại Kỳ Viên về Trí tuệ Toàn hảo.

Bấy giờ bậc Ðạo Sư dạy:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ, mà xưa kia cũng vậy, Như Lai cũng đã chứng tỏ mình thông tuệ và nhiều phương tiện thiện xảo.

– Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, dưới triều Brahmadatta, vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình của một sở hữu chủ trong làng. Toàn bộ câu chuyện diễn tiến đúng như Tiền thân trước đây. Nhưng ở chuyện này, khi lão y sĩ chết, những người láng giềng của ông ta ở trong làng nói:

– Những thiếu niên này đã gây nên cái chết cho người ấy. Chúng ta sẽ mang chúng đến trình vua.

Rồi họ trói các chàng trẻ ấy lại và dẫn đến Ba-la-nại. Dọc đường, Bồ-tát an ủi và bảo các chàng trẻ kia:

– Ðừng sợ! Ngay cả khi các bạn bị đưa ra trước mặt vua, hãy tỏ ra không sợ hãi và lòng đầy hoan hỷ. Trước hết vua sẽ nói chuyện với chúng ta và sau đó, tôi sẽ liệu xem sẽ phải làm gì.

Cả bọn đều chấp nhận ngay lời khuyên bảo ấy và làm đúng theo như vậy. Khi vua thấy họ đều bình tĩnh và hoan hỷ, vua bảo:

– Những kẻ khốn khổ này bị xích trói và mang đến đây như những kẻ sát nhân, và dù phải khổ sở đến như vậy họ vẫn không sợ hãi mà còn hoan hỷ nữa. Ta sẽ hỏi họ lý do tại sao họ không buồn phiền.

Và vua đọc bài kệ đầu:

Bị rơi vào giữa tay thù
Bị dây tre trói buộc như thế này,
Vẫn trông tươi tỉnh mặt mày,
Làm sao người dấu được ngay khổ sầu?

Nghe thế, Bồ-tát đọc tiếp các bài kệ sau:

– Người kia than trách buồn đau
Có đâu thu được lợi nào mảy may!
Ðối phương thích thú lắm thay
Khi trông thấy nỗi khổ giày vò ta.

Thù nhân sẽ lắm ưu tư
Khi ta ngẩng mặt tiến ra số phần,
Chẳng lùi như một trí nhân
Khéo bề phán đoán tách phân mọi điều.

Dù nhờ bùa chú cao siêu
Thì thầm nho nhỏ, dù nhiều tài cao,
Người thân quyền thế giúp vào,
Mà ta thoát nạn cách nào cũng hay.
Ta nên nỗ lực cho tày
Chiếm phần ưu thắng về ngay phía mình.

Nhưng khi kết quả không thành
Nhờ người giúp hoặc riêng mình chẳng xong,
Thì ta nên vẫn một lòng
Sẵn sàng chấp nhận mà không đau buồn.
Số phần dù quá gian truân,
Ta đành nỗ lực gắng công tới cùng.

Nghe Bồ-tát giảng Pháp, vua điều tra sự việc và thấy các thiếu niên kia đều vô tội, liền sai cởi trói cho họ, ban thưởng Bồ-tát nhiều vinh dự và phong ngài làm cố vấn về thế sự và thánh sự kiêm chức đại thần cao quý. Vua cũng ban vinh dự cho các thiếu niên kia và chỉ định họ vào nhiều chức vụ khác nhau.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giảng, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Ànanda là vua xứ Ba-la-nại, hàng phó giáo sĩ là các thiếu niên kia, còn Ta là chàng trai trẻ thông tuệ ấy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chàng Trai Mittavinda (Tiền thân Mittavinda)

Việc xấu nào tôi đã trót gây….,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phóng dật.

Sự việc đưa đến câu chuyện sẽ giống như ở Tiền thân Mahàmittavinda (các số 41, 82, 104 và 439).

*

Bấy giờ, khi Mittavindaka bị thả xuống dưới biển, đã tỏ ra tham ái vô độ và ngày càng thái quá như vậy nên anh ta đến một nơi hành tội của các chúng sinh bị đọa vào địa ngục. Anh ta đi vàođịa ngục Ussada, nhầm tưởng đấy là một đô thị và ở đó anh ta phải mang trên đầu một bánh xe bén như lưỡi dao cạo. Lúc ấy Bồ-tát mang hình hài một vị Thiên tử đi thi hành một sứ mạng đến ngục Ussada. Khi trông thấy ngài, Mittavindaka đọc bài kệ đầu theo hình thức một câu hỏi:

Việc xấu nào tôi đã trót gây
Khiến trời nguyền rủa phận tôi đây?
Ôi, đầu tôi hẳn là nứt vỡ
Vì bánh xe quay hành tội này.

Nghe thế, Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Từ bỏ cửa nhà đầy phước lạc,
Ðây thì dát ngọc, đấy pha lê,
Các phòng đều chói ngời vàng bạc,
Thảm cảnh do đâu đấy bạn về?

Thế rồi Mittavindaka đọc bài kệ thứ ba:

“Lạc thú nơi kia sẽ ngập tràn,
Chốn này kém cỏi chẳng so bằng”.
Ðấy là ý nghĩ gây tai ách
Và đấy tôi vào cảnh thảm thương.

Bồ-tát đọc những bài kệ sau cùng:

Từ bốn lên thành tám,
Lên mười sáu, băm hai,
Lòng tham không biết thỏa
Cứ tăng trưởng lên hoài.

Và cứ thế đưa bạn
Sinh linh tham dục đầy
Ðến khi chịu đày đọa
Ðầu mang bánh xe nầy.

Vậy tất cả thế nhân
Cứ đeo đòi tham ái,
Mãi vẫn chưa thỏa lòng,
Vẫn đòi thêm, thêm mãi.

Ðường tham lam rộng lớn,
Họ vẫn bước chân vào
Rồi phải mang như bạn
Bánh xe này trên đầu.

Nhưng trong khi Mittavindaka đang còn nói thì bánh xe rơi xuống chà nát anh ta, khiến anh ta không nói thêm được nữa. Còn vị Thiên tử quay thẳng về trú xứ của mình ở trên trời.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giảng và nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Tỷ-kheo phóng dật là Mittavindaka, còn Ta là vị Thiên tử.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cây Hồng Phượng Vĩ (Tiền thân Palàsa)

Ngỗng này nói với cội Ju-das…,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về sự khiển trách tội lỗi.

Sự việc dẫn đến câu chuyện sẽ được kể trong Tiền thân Pannà.

Nhưng ở đây bậc đạo Sư bảo chúng Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, phải dè chừng tội lỗi. Dù tội lỗ nhỏ bằng một chồi cây đa, nó cũng có thể tỏ ra rất tàn khốc. Các hiền trí ngày xưa cũng dè chừng điều gì tỏ vẻ đáng nghi ngại.

Dạy thế xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, dưới triều Brahnadatta, vua ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một con Ngỗng vàng và khi lớn lên, ngài sống trong một cái hang vàng trong núi Cittakùta thuộc vùng Tuyết Sơn và thườngđến ăn lúa hoang mọc ở trên một cái hồ thiên nhiên. Trên con đường ngài vẫn thường qua lại có cây Judas (Hồng Phượng vĩ) lớn. Cứ mỗi bận đi và về, ngài đều dừng nghỉ tại đó. Vì thế, một mối tình bạn nảy sinh giữa ngài và vị Thần sống trong cây ấy.

Thế rồi có một con chim nọ, sau khi ăn trái chín của cây đa, đến đậu trên cây Judas và rớt phân vào nhánh chĩa của cây ấy. Sau đó, một cây đa con mọc lên nơi ấy, cao tới một tấc và rực rỡ với những chồi đỏ, lá xanh. Ngỗng chúa thấy thế liền bảo với Thần giữ cây:

– Này Hiền hữu, hễ cây nào bị chồi đa mọc đều bị hủy diệt vì chồi ấy lớn lên. Chớ để cho nó lớn lên, nếu không nó sẽ phá hủy chỗ ở của bạn đấy. Hãy trở về ngay, nhổ nó lên và ném nó đi. Ta phải dè chừng thứ gì tỏ ra đáng nghi ngại.

Nói với Thần cây như thế xong, Ngỗng đọc bài kệ đầu:

Ngỗng này nói với cội Ju-das:
Chồi của cây đa bám bạn kia,
Vật bạn vẫn nuôi trong bụng ấy
E rồi sẽ xé bạn tơi ra.

Nghe như vậy, vị thần cây không chú ý đến những lời ấy, đọc bài kệ thứ hai:

Ðể nó lớn lên tôi sẽ là
Nơi nương tựa của một cây đa.
Tôi săn sóc nó, tình cha mẹ,
Phước lạc cho tôi, nó tỏ ra.

Thế rồi Ngỗng đọc bài kệ thứ ba:

Sợ rằng đấy là mầm tai ách
Sâu tận trong lòng, bạn vẫn nuôi.
Từ biệt bạn thôi, tôi bay vút,
Hỡi ơi, nó lớn, bực lòng tôi!

Nói xong những lời kia, Ngỗng chúa dang rộng cánh và bay thẳng về núi Cittakùta. Từ đó, Ngỗng không quay lại nữa. Thế rồi cây đa lớn lên. Cây này cũng có vị Thần cây đổ xuống cùng với một cành. Bấy giờ nghĩ lại những lời của Ngỗng chúa, vị Thần cây tự bảo: “Vua của loài ngỗng đã thấy được mối nguy hại sắp tới và báo cho ta biết nhưng ta chẳng nghe lời vị ấy”. Sầu than như thế, Thần đọc bài kệ thứ tư:

Quỷ hung cao tợ núi Tu-di
Ðã đẩy ta vào cảnh khốn nguy;
Lời bạn Ngỗng kia ta miệt thị,
Giờ đây ta ngập nỗi sầu bi.

Như vậy cây đa khi lớn lên làm đổ nguyên cả cây Ju-das xuống, làm cho nó chỉ còn trơ một gốc và chỗ ở của vị Thần cây bị tiêu mất hẳn.

Người khôn sinh sợ loài tầm gửi
Chèn nghẹt vật chi nó bám mình,
Bậc trí dè chừng nguy cỏ dại,
Diệt ngay rễ trước lúc mầm sinh.

Ðây là bài kệ được cảm tác do Trí tuệ Toàn hảo.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giảng ở đây tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc Tứ Ðế, năm trăm vị Tỷ-kheo đắc Thánh quả và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Ta là Ngỗng vàng nọ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hoàng Tử Kosala (Tiền thân Dìghitikosala)

Người đang thuộc quyền ta sinh sát….,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một nhóm người tranh cãi nhau từ Kosambi.

Khi họ đến Kỳ Viên, giữa lúc họ hòa hợp lại với nhau, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, các ông là Pháp tử của Ta trong đạo, được sinh ra do những lời nói từ miệng Ta. Con cái không được dẫm lên lời khuyên của cha, thế mà các ông lại không theo lời khuyên dạy của Ta. Các trí giả ngày xưa, khi những người đã giết cha mẹ họ, đã chiếm vương quốc họ, rồi phải rơi vào tay họ ở trong rừng, họ vẫn không giết những người ấy, dù những người ấy bị kết tội phiến loạn, mà họ bảo: Ta sẽ không dẫm lên lời khuyên của cha mẹ ta đã ban cho ta.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ. Trong Tiền thân này, cả sự việc đưa đến câu chuyện và chính câu chuyện sẽ được kể đầy đủ trong Tiền thân Sanghabehedaka.

*

Bấy giờ hoàng tử Dìghàvu khi thấy vua xứ Ba-la-nại nằm bên cạnh mình ở trong rừng liền túm lấy chỏm đầu vua và nói:

– Bây giờ ta sẽ chặt tên cướp nước đã giết cha mẹ ta ra làm mười bốn miếng.

Và ngay khi chàng vung gươm, chàng nhớ lại lời cha mẹ đã khuyên dạy và tự nghĩ: “Dù ta phải hy sinh đời ta, ta cũng sẽ không dẫm lên lời khuyên của cha mẹ. Cứ dọa nó là thỏa bụng ta rồi”. Và chàng đọc bài kệ đầu:

Ngươi đang thuộc quyền ta sinh sát,
Khi nằm đây úp mặt, vua kia,
Mưu nào ngươi tính nghĩ ra
Cứu ngươi ra khỏi tay ta hãi hùng?

Và ông vua kia đọc bài kệ thứ hai:

Nay ta chẳng còn phương cứu nữa,
Trên đất nằm lọt giữa tay người.
Cách nào cũng chẳng biết noi
Ðể mong thoát được ra ngoài khốn nguy.

Thế rồi Bồ-tát đọc các bài kệ còn lại:

Hỡi nhà vua, chẳng phải là của cải,
Mà chính là các lời nói, hành vi
Vốn thiện hiền mà ta đã thực thi,
Ðến giờ chết mới cho ta thư thái,

Nếu cứ bảo: “Ta đây từng khổ ải,
Kẻ này la, và kẻ nọ đánh ta.
Và kẻ kia cướp của đến thứ ba”,
Những kẻ nào nuôi các tình cảm ấy

Chẳng bao giờ giận hờn nguôi lắng lại.
“Nó xưa kia từng đánh, mắng vào ta,
Nó đã gây lắm áp bức phiền hà”,
Ý nghĩ ấy những ai không ham muốn

Giận sẽ nguôi và hài hòa chung sống.
Xóa căm hờn đâu phải bởi căm hờn,
Xóa căm hờn chính là bởi yêu thương,
Ðấy là luật niên trường cho an lạc.

Sau những lời ấy, Bồ-tát bảo:

– Thưa Ðại vương, tôi sẽ chẳng làm hại ngài đâu. Ngài cứ giết tôi đi.

Rồi ngài đặt cây gươm của mình vào trong tay vua ấy. Vua cũng bảo:

– Ta cũng sẽ chẳng làm hại người.

Vua tuyên thệ và đi đến thành phố cùng với Bồ-tát, đưa ngài đến gặp cận thần và nói:

– Này các khanh, đây là hoàng tử Dìghàvu, con trai của vua xứ Kosala. Người đã tha mạng cho ta. Ta quyết chẳng làm điều chi hại đến người.

Nói thế xong, vua gả con gái cho Bồ-tát và đưa ngài lên ngôi trong vương quốc trước đây thuộc về cha ngài. Từ đấy hai vua cùng trị vì một cách an lạc và rất hài hòa với nhau.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giảng và nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, người cha và người mẹ là những thành phần hiện nay trong hoàng gia; còn hoàng tử Dìghàvu chính là Ta.

-ooOoo-

Chương VI

Phẩm Sáu Bài Kệ

  1. Chuyện Chú Nai Con (Tiền thân Migapotaka)

Sầu thương vật đã chết rồi…..,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về một Trưởng lão nọ.

Chuyện kể rằng ông nhận một cậu thanh niên xuất gia vào Hội chúng, và Sa-di này sau một thời gian phục vụ thầy rất nhiệt tình, dần dần lâm bệnh và từ trần. Vị Trưởng lão tràn ngập ưu phiền vì cái chết của nam tử kia nên cứ đi quanh quẩn than khóc kêu gào. Tăng chúng không thể nào an ủi ông cho khuây khỏa được, liền đưa vấn đề ra thảo luận tại Chánh pháp Ðường:

– Vị Trưởng lão kia có một Sa-di từ trần, cứ quanh quẩn than khóc mãi. Do triền miên suy tư mãi về cái chết, chắc chắn vị ấy sẽ trở thành kẻ bơ vơ lạc lỏng.

Khi bậc Ðạo Sư bước vào, Ngài hỏi Tăng chúng hội họp để bàn luận đề tài gì, và khi biết được câu chuyện, Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa, Trưởng lão ấy cũng đi quanh quẩn than khóc khi thanh niên này từ trần.

Nói xong Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta (Phạm Thọ) trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm Sakka Thiên chủ (Ðế Thích). Thời ấy có một người sống trong quốc độ Kàsi, đi đến miền Himàlaya (Tuyết Sơn) và sống đời khổ hạnh với các loại quả rừng.

Một hôm vị ấy thấy một chú nai con mất mẹ. Vị ấy đem nó về thảo am, cho nó ăn và yêu quý nâng niu nó. Chú nai con lớn dần thành một con vật xinh đẹp thanh tao, và ẩn sĩ chăm sóc nó, đối đãi với nó như con đẻ mình vậy.

Một ngày kia, con nai chết thình lình vi bội thực, không tiêu hóa hết số cỏ quá nhiều. Vị khổ hạnh cứ lang thang gào khóc:

– Con ta chết rồi!

Lúc ấy Sakka Thiên chủ xem xét trần gian, nhìn thấy vị ấy, ngài nghĩ cách khuyến giáo ông, liền hiện xuống đứng giữa không trung và ngâm vần kệ đầu:

Sầu thương vật đã chết rồi,
Hỡi người khổ hạnh sống đời độc cư.
Thoát dây tục lụy xuất gia,
Giờ đây phát bệnh tâm tư buồn phiền!

Vị khổ hạnh vừa nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ hai:

Nếu người bầu bạn thú hiền,
Tâu ngài Ðế Thích ở trên cõi trời,
Buồn phiền vì mất bạn chơi,
Tuôn dòng nước mắt sẽ vơi nỗi sầu.

Thiên chủ Sakka lại ngâm hai vần kệ nữa:

Người đời lắm kẻ ước ao
Mỗi khi vật mất, kêu gào tiếc thương.
Thôi đừng khóc nữa, trí nhân,
Thánh hiền vẫn bảo hoài công thôi mà.

Nếu nhờ nước mắt tuôn ra
Chúng ta có thể vượt qua tử thần,
Thì ta quyết phải hợp quần
Ðể mà cứu mọi vật thân nhất trần.

Trong lúc Thiên chủ Sakka nói vậy, vị khổ hạnh nhận ra rằng khóc than cũng chẳng ích gì, liền ca ngợi tán thán Thiên chủ và ngâm ba vần kệ nữa:

Ví như ngọn lửa nóng hừng
Ðổ thêm bơ sữa cháy bừng thật cao,
Ðược vòi nước lạnh tưới vào,
Ngài vừa dập tắt nỗi sầu của ta.

Lòng ta nhức nhối xót xa
Vì tên sầu não xuyên qua kinh hoàng.
Ngài đã chữa trị vết thương,
Và ngài hồi phục đời thường cho ta.

Mũi tên vừa được nhổ ra,
Lòng ta tràn ngập an hòa vui tươi,
Lắng nghe Ðế Thích nhủ lời,
Ta không còn phải chơi vơi khổ sầu.

Sau khi đã khuyến giáo vị khổ hạnh như thế, Sakka Thiên chủ trở về cõi của ngài.

*

Ðến đây bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, vị Trưởng lão là nhà khổ hạnh, Sa-di là con nai, và Ta chính là Sakka Thiên chủ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Chuột (Tiền thân Mùsika)

Bọn chúng hỏi to: “Nó ở đâu?”….,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm về vua Ajàtasattu (A-xà-thế).

Sự kiện đưa đến chuyện này đã được kể đầy đủ trong Tiền thân Thusa, số 338.

Ở đây bậc Ðạo Sư cũng quan sát nhà vua lúc ấy vừa chơi đùa với vương tử, vừa nghe Pháp. Như Ngài đã biết hiểm họa sẽ xảy đến cho vua vì vương tử này, Ngài nói:

– Thưa Ðại vương, vua chúa thời xưa đã nghi ngờ những gì đáng nghi ngờ, nên đã giam giữ các vương tử lại một nơi và bảo: “Hãy để cho các hoàng nhi cai trị sau khi thân xác chúng ta đã được hỏa táng”.

Cùng với lời trên, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vị ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn và trở thành một giáo sư danh tiếng thế giới. Con vua Ba-la-nại tên là vương tử Yava (Lúa mạch). Sau khi đã chuyên tâm học tập đủ mọi ngành học thuật với ngài, chàng liền nóng lòng ra đi, vàđến từ giã ngài. Vị giáo sư nhờ tài tiên tri biết trước rằng hiểm họa sẽ xảy ra cho vương tử do chính con trai vị ấy gây ra, liền suy xét cách thức làm thế nào diệt trừ mối hiểm họa này cho vương tử, và bắt đầu nhìn quanh để tìm một ví dụ chứng minh cho thích hợp.

Lúc bấy giờ ngài có một con ngựa, trên chân ngựa xuất hiện một vết thương đau nhức. Con ngựa được giữ trong chuồng để ngài chăm sóc vết thương cẩn thận. Gần đó có một cái giếng. Thời ấy, một con chuột vẫn thường bạo gan bò ra khỏi lỗ để gặm chỗ vết thương ở chân ngựa. Con ngựa không thể cản nó được và một hôm, không chịu nổi đau đớn, khi con chuột đến cắn nó, nó liền lấy móng chân đập chết con chuột và hất xác xuống giếng. Bọn chăn ngựa không thấy con chuột liền nói:

– Mọi ngày con chuột vẫn đến cắn vết thương, nhưng bây giờ không còn thấy nó nữa. Nó có chuyện gì vậy?

Bồ-tát đã chứng kiến mọi việc và tự nhủ: “Người khác không biết nên hỏi: Con chuột đâu rồi? Nhưng chỉ riêng mình ta biết con chuột đã bị ngựa giết và hất xuống giếng”, và lấy ngay sự việc này làm ví dụ chứng minh. Ngài sáng tác vần kệ đầu rồi nói cho vương tử biết.

Trong khi nhìn quanh để tìm một ví dụ chứng minh khác, ngài lại thấy cũng con ngựa ấy, khi vết thương đã lành, liền chạy ra thẳng đến đồng lúa mạch để ăn lúa, rồi thọc đầu vào một lỗ trên hàng rào. Ngài lấy v dụ này làm vần kệ thứ hai và đưa cho vương tử.

Sang vần kệ thứ ba, ngài sáng tác theo trí thông minh của riêng mình và cũng đưa cho vương tử. Rồi ngài bảo:

– Này Hiền hữu, khi bạn đã an vị trong vương quốc rồi, buổi tối bạn đi đến bồn tắm, vừa ra phía trước cầu thang vừa ngâm vần kệ đầu. Rồi khi bạn bước vào cung thất mình cư ngự, hãy đi đến chân cầu thang và ngâm vần kệ thứ hai. Rồi sau đó, bạn đi lên đầu cầu thang và ngâm vần kệ thứ ba.

Cùng với các lời này, ngài bảo chàng ra đi.

Vương tử trẻ tuổi ấy về kinh đô làm phó vương, và khi vua cha băng hà, vị phó vương lên kế ngôi. Tân vương này chỉ có một con trai hoàng nam duy nhất, đến năm mười sáu tuổi chàng đã nôn nóng muốn lên làm vua. Khi đã có ý định giết cha, vương tử báo với đám hầu cận:

– Phụ vương ta vẫn còn trẻ. Ðến khi ta nhìn thấy giàn hỏa táng của ngài thì ta đã là già cả kiệt lực rồi. Lúc ấy mới lên ngôi thì có ích lợi gì cho ta nữa chứ.

Bọn chúng thưa:

– Tâu Ðiện hạ, ngài không thể nào tính chuyện ra biên địa làm một loạn thần được. Vậy ngài phải tìm cách này hay cách khác sát hại phụ vương và chiếm lấy quốc độ.

Vương tử chấp thuận ngay, vào buổi tối cầm kiếm đứng trong cung thất vua cha gần bồn tắm, sẵn sàng giết cha mình.

Tối hôm ấy, vua sai một nữ tỳ tên là Mùsika (chuột) đến và bảo:

– Ngươi hãy đi chùi bồn tắm, trẫm sắp đến tắm đấy.

Nữ tỳ đến đó và trong lúc chùi bồn tắm, nàng bắt gặp vương tử. Sợ âm mưu có thể bại lộ, vương tử lấy kiếm chặt nàng làm đôi và ném vào bồn tắm. Vua vừa đến nơi, mọi người bảo nhau:

– Hôm nay nữ tỳ Mùsika không trở về. Nó đã đi đâu rồi nhỉ?

Vua bước đến cạnh bồn tắm và ngâm vần kệ đầu:

Bọn chúng hỏi to: Nó ở đâu?
Chuột ơi, mày đã trốn nơi nào?
Việc này chỉ một mình ta biết
Nó đã chết nằm trong giếng sâu.

Vương tử nghĩ thầm: “Vua cha đã phát giác những việc ta làm”, và vì quá kinh hãi, chàng chạy trốn về kể mọi việc cho đám hầu cận. Sau khoảng bảy tám ngày, bọn chúng lại thưa với chàng:

– Tâu Ðiện hạ, nếu Ðại vương biết thì ngài đã không giữ yên lặng. Những điều ngài nói chỉ có thể là lời phỏng đoán mà thôi. Xin cứ hành thích ngài đi.

Vì thế một hôm vương tử lại đứng cầm kiếm trong tay ở cầu thang. Khi vua đến, chàng cố tìm cơ hội đâm ngài. Ngài vưa bước vừa ngâm vần kệ thứ hai:

Giống như con vật đẩy xe đi,
Ngươi cứ xoay qua lại trở về,
Ngươi đã giết xong con Chuột ấy,
Nay thèm ăn Lúa mạch, ta nghi.

Vương tử nghĩ thầm: “Phụ vương đã thấy ta” và kinh hoảng chạy trốn.

Nhưng sau nửa tháng, chàng lại nghĩ: “Ta quyết giết phụ vương bằng một nhát xẻng”. Thế là chàng lấy một dụng cụ giống như cái muỗng có cán dài và cầm nó sẵn sàng, đứng đợi. Rồi vua lên đến đầu cầu thang và ngâm vần kệ thứ ba:

Ngươi là thằng nhãi quá ngu ngơ
Như món đồ chơi với trẻ thơ,
Cầm vật cán dài hình chiếc muỗng,
Thằng kia, ta quyết giết bây giờ.

Hôm ấy, không thể nào trốn thoát được nữa, vương tử bò lết đến dưới chân phụ vương và thưa:

– Xin phụ vương tha mạng cho con.

Sau khi xem xét vương tử, vua truyền trói chàng lại bằng dây xích và thả vào ngục tối. Rồi trong lúc ngự trên vương tòa nguy nga lộng lẫy có che lọng trắng, ngài phán:

– Bậc thầy Bà-la-môn lừng danh của ta đã tiên đoán mối hiểm họa này xảy ra cho ta nên đã ban tặng ta ba vần kệ này.

Lòng tràn đầy hân hoan, trong lúc cảm hứng khởi lên cao độ, ngài ngâm nga luôn các vần kệ còn lại:

Ta chưa giải thoát tự do
Bằng đường lạc thú an cư cõi trời.
Hoặc nhờ hiếu hạnh sáng ngời;
Ðến khi con trẻ toan đòi mạng ta,
Cứu nguy nhờ mấy vần thơ,
Vậy cần học hỏi suy tư mọi điều,

Xét xem ý nghĩa cao siêu,
Dẫu chưa dùng, cũng lợi nhiều ngày sau
Những lời nghe được đã lâu.

Về sau, khi vua băng hà, vương tử được đưa lên ngôi báu.

*

Ðến đây, bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nhận diện Tiền thân:

– Thời bấy giờ, vị giáo sư lừng danh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chàng Tiểu Xạ Thủ (Tiền thân Culladhanuggaha)

Bờ kia chàng đã bước lên….,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về sự cám dỗ một vị Tỷ-kheo do người vợ cũ của thời chưa xuất gia tu tập.

Khi vị Tỷ-kheo thú nhận chính vì người vợ này mà vị ấy đã từ bỏ Hội chúng và hối tiếc việc xuất gia, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ nữ nhân này mới làm hại ông. Ngày xưa cũng vậy, chính vì người này mà ông đã bị chặt đầu.

Rồi theo lời thỉnh cầu của chư Tăng, Ngài kể chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahamadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm Sakka Thiên chủ. Thuở ấy, một thanh niên Bà-la-môn ở Ba-la-nại đã học xong mọi môn học thuật ở Ðại học Takkasilà, và sau khi thiện xảo môn bắn cung, chàng nổi danh là Tiểu xạ thủ thông minh. Lúc ấy vị giáo sư nghĩ thầm: “Thanh niên này đã đạt kỹ năng bằng ta”, rồi đem gả con gái cho chàng. Chàng cưới vợ xong, lại muốn trở về Ba-la-nại, liền khởi hành.

Nửa đường có con voi tàn phá một vùng nọ, nên không ai dám đi lên chỗ ấy. Chàng Tiểu xạ thủ thông minh kia cứ đem vợ cùng trèo lên đường vào rừng, mặc dù mọi người cố cản ngăn. Khi chàng đến giữa rừng, con voi xuất hiện tấn công chàng. Xạ thủ bắn một mũi tên vào trán voi xuyên thủng ra phía sau đầu nó, con voi ngã xuống chết ngay tại chỗ.

Sau khi làm cho nơi ấy bình an, chàng lại lên đường qua cánh rừng khác. Tại đó năm mươi tên cướp đang phá hoại xa lộ. Cũng trên nơi này, mặc dù nhiều người cố ngăn cản, chàng cứ trèo lên cho đến khi tìm thấy một nơi bằng phẳng, bọn cướp đã giết nai đem nướng và ăn thịt sát bên xa lộ. Bọn cướp thấy chàng đi đến với cô vợ phục sức sang trọng rực rỡ, liền cố hết sức bắt lấy chàng.

Tên tướng cướp có tài đoán được tính tình người khác, chỉ vừa liếc nhìn chàng, đã nhận ra chàng là một anh hùng lỗi lạc, nên không chịu để cho bọn chúng nổi dậy chống lại chàng, dù chàng chỉ đơn thân độc kiếm. Còn chàng Xạ thủ thông minh bảo vợ đi đến bọn cướp và dặn:

– Nàng hãy đến bảo với bọn chúng cho ta một miếng thịt và đem về cho ta.

Thế là nàng đi đến và bảo:

– Cho tôi một miếng thịt.

Tướng cướp nói:

– Ông ấy là người quý tộc đấy.

Và y bảo bọn cướp cho nàng một miếng thịt. Bọn kia đáp:

– Sao? Nó lại đòi ăn thịt nướng của ta ư?

Rồi bọn chúng cho nàng một miếng thịt sống.

Chàng Xạ thủ vốn tự cao về mình, liền nổi giận vì bọn cướp cho chàng thịt sống. Bọn chúng bảo:

– Sao nữa? Chỉ mình nó là nam nhi, còn chúng ta là nữ nhi ư?

Thế là vừa hăm dọa chàng, chúng vừa vùng lên chống phá chàng. Chàng Xạ thủ bắn trọng thương ngã xuống đất bốn mươi chín tên cướp, trừ một tên, vì chàng không còn mũi tên nào để bắn tướng cướp kia. Trước đó trong bao tên của chàng chỉ có năm mươi mũi tên. Chàng đã dùng một mũi tên bắn chết con voi, nay chỉ còn số tên đủ để bắn cả bọn trừ một người.

Vì thế chàng đá tướng cướp xuống đất ngồi trên ngực y và bảo vợ mang kiếm đến để chặt đầu y. Ngay lúc ấy, nàng bỗng đem lòng say mê tướng cướp, liền đặt chuôi kiếm vào tay y và vỏ kiếm vào tay chồng nàng. Tướng cướp chụp chuôi kiếm, đưa kiếm ra và chặt đầu chàng Xạ thủ.

Sau khi giết chồng nàng xong, tướng cướp chiếm lấy người vợ và trong khi cả hai cùng lên đường, tướng cướp hỏi nguồn gốc, nàng bảo:

– Em là con gái của một giáo sư danh tiếng lẫy lừng thế gian ở Ðại học Takkasilà.

– Bằng cách nào hắn lấy nàng làm vợ được? Y hỏi.

– Cha em rất hài lòng vì hắn đã học được mọi nghệ thuật như bậc thầy nên đem em gả cho hắn. Và vì em yêu chàng nên em để chàng giết chồng hợp pháp của mình. Nàng đáp lại.

Tướng cướp suy nghĩ: “Nữ nhân này giờ đây đã giết chồng hợp pháp của nó. Vậy khi thấy mộtđàn ông khác, nó cũng sẽ đối xử với ta như vậy. Ta phải từ bỏ nó mới được”.

Khi lên đường, tướng cướp thấy con đường bị chận ngang bởi con suối nhỏ thường ngày, nay lại ngập nước, y bảo:

– Này ái nương, có con cá sấu hung dữ trong suối này. Ta phải làm sao bây giờ?

– Tướng quân ôi – nàng đáp – xin lấy hết nữ trang em đang đeo buộc thành một bó trong áo chàng,đem sang bên kia bờ suối rồi trở lại đây đưa em qua.

– Tốt lắm. Y đáp lại.

Rồi cầm hết nữ trang của nàng, lội xuống dòng suối như thể một kẻ hết sức vội vàng, y đã lên bờ bên kia, bỏ rơi nàng và chạy trốn.

Thấy vậy nàng kêu to:

– Lang quân ơi, chàng đi như thể chàng sắp bỏ em vậy. Sao chàng lại làm thế? Hãy trở lại đem em cùng đi.

Và nàng ngâm vần kệ đầu bảo:

Bờ kia chàng đã bước lên
Với bao tài sản của em góp thành.
Mau mau quay trở lại nhanh
Mang em qua với bạn tình, chàng ơi!

Tướng cướp nghe nàng nói trong lúc y đứng ở bờ bên kia, liền ngâm vần kệ thứ hai:

Ý nàng dời đổi nhất thời
Từ lòng chung thủy luyện tôi bao lần
Ðến màn tình ái lông bông,
Chóng chầy nàng cũng thay lòng phản ta,
Nếu ta không kịp chạy xa
Từ đây nàng hỡi, đôi ta chia lìa.

Nhưng khi tướng cướp bảo:

– Ta quyết đi đây, nàng cứ ở lại nơi này.

Thì nàng kêu gào than khóc, còn y chạy trốn với tài sản tư trang của nàng. Ðó là số phận dành cho kẻ dại khờ tội nghiệp vì quá si mê tình ái.

Bỗng nhiên lâm cảnh bơ vơ khốn đốn như thế, nàng đành đến gần một bụi cây quế và ngồi khóc. Lúc ấy, Sakka Thiên chủ nhìn xuống trần gian, thấy nàng đắm say dục vọng giờ đây than khóc vì mất cả phu quân lẫn tình lang. Nghĩ rằng ngài sẽ đi khiển trách nàng và khiến cho nàng biết hổ thẹn, ngài đem Màtali, thần lái thiên xa, và Pancasikha, một nhạc thần, cùng đến bên bờ suối và bảo:

– Này, Màtali, thần sẽ biến thành con cá, Pancasikha sẽ biến thành con chim và ta sẽ biến thành chó rừng (Sigala). Rồi ngậm một miếng thịt, ta sẽ đi đến trước nữ nhân kia và khi thần Màtali thấy ta ở đó thì phải nhảy ra khỏi nước, rớt ngay trước mặt ta, ta sẽ nhả miếng thịt đã ngậm trong miệng và nhảy lên chụp con cá. Vừa lúc ấy, thần Pancasikha phải nhào đến chụp miếng thịt và bay lên không, còn thần Màtali lặn ngay xuống nước.

Thiên chủ Sakka dạy bảo các vị thần như thế, vị đáp:

– Tốt lành thay, tâu Thiên chủ.

Màtali liền biến thành con cá, Pancasikha biến thành con chim và Sakka biến thành chó rừng. Vừa ngậm miếng thịt trong mồm, ngài đi đến ngay trước nữ nhân. Con cá nhảy lên khỏi nước rơi mình xuống trước chó rừng. Chó thả miếng thịt đang ngậm trong mồm, vùng lên bắt cá. Con cá nhảy nữa và rơi xuống nước, còn con chim chụp lấy miếng thịt bay vụt lên không. Như vậy, chó rừng mất cả thịt lẫn cá và ngồi ủ rủ nhìn về phía bụi quế. Nữ nhân thấy thế liền bảo:

– Vì quá tham lam nên chó mất cả thịt lẫn cá.

Và như thể nàng đã thấy rõ ý nghĩa trò đời trớ trêu này, nàng bật cười dòn dã.

Chó rừng nghe thế, liền ngâm vần kệ thứ ba:

Ai làm bụi quế ngân nga
Tiếng cười, dù chẳng múa ca tiệc tùng,
Vỗ tay thích thú? Hồng nhan,
Ðừng cười, khi phải khóc than buồn phiền.

Nghe vậy, nàng ngâm vần kệ thứ tư:

Chó ngu, mày phải ước nguyền
Giá đừng mất cá, thịt liền một khi.
Ðồ ngu, phải biết sầu bi
Những gì xảy đến, ngu si do mày!

Chó rừng liền đáp vần kệ thứ năm:

Lỗi người dễ thấy lắm thay,
Chắc là khó thấy: “Lỗi này của tôi”.
Nàng nên tính giá thiệt thòi
Khi nàng mất hết cả đôi bạn đời.

Nghe thế, nàng lại đáp vần kệ này:

Cẩu vương, quá đúng như lời,
Nên ta quyết chí vội dời chân nhanh
Ðể tìm thêm bạn chung tình,
Cố làm người vợ trung thành khó chi!

Khi ấy Sakka Thiên chủ nghe những lời nói của nữ nhân bạc ác vô hạnh kia, liền ngâm vần kệ cuối cùng:

Kẻ nào ăm trộm cái ghè
Sẽ còn ăn trộm mai kia nồi đồng,
Người gây tai họa cho chồng
Vẫn tàn tệ vậy, hoặc còn tệ hơn!

Lời Sakka Thiên chủ làm cho nàng phải hổ thẹn và hốn hận ăn năn, rồi sau đó ngài trở về cõi của ngài.

*

Ðến đây bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, rồi tuyên thuyết các Sự Thật. Vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất đã đắc Sơ quá Dự Lưu.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Tỷ-kheo thối thất này là chàng xạ thủ, người vợ mà vị ấy đã rời bỏ là nữ nhân kia, và Ta chính là Sakka Thiên chủ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chim Bồ Câu (Tiền thân Kapota)

Ta đây mạnh khỏe, dạ an vui….,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo tham lam.

Chuyện vị Tỷ-kheo tham lam này đã được kể đầy đủ theo nhiều cách. Ở đây bậc Ðạo Sư hỏi có thật ông tham lam chăng, và khi ông thú nhận quá đúng thế, Ngài bảo:

– Này Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngày xưa nữa, ông cũng tham lam và đã chết vì lòng tham ấy.

Nói xong Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm Bồ câu con và sống trong lồng kết bằng liễu gai ở nhà bếp của một phú thương thành Ba-la-nại.

Bấy giờ một con Quạ thèm ăn cá thịt lại làm bạn với Bồ câu này, và sống cùng chỗ ấy. Một hôm nó chợt thấy nhiều cá thịt liền nghĩ: “Ta sẽ ăn đám cá thịt này”. Rồi nằm xuống rên rỉ trong lồng. Khi Bồ cầu đến bảo:

– Này bạn, ta cùng bay nhanh ra tìm mồi.

Quạ từ chối đáp:

– Tôi đang bị ốm liệt vì cơn đau bụng do bội thực, bạn đi đi.

Khi Bồ câu khuất dạng, Quạ tự nhủ: “Kẻ thù hay quấy phá ta đã đi rồi. Bây giờ ta muốn ăn thịt cá tùy thích”. Nghĩ vậy, Quạ ngâm vần kệ đầu:

Ta đây khỏe mạnh, dạ an vui,
Vì chú Bồ câu đã biến rồi,
Ta muốn làm cơn thèm dịu xuống
Rau thơm cùng thịt khỏe thêm người!

Vì thế khi người đầu bếp chiên cá thịt xong, vừa bước ra khỏi bếp, vừa chùi mồ hồi chảy dòng dòng, con Quạ nhảy ra khỏi tổ và dấu mình trong chậu gia vị. Chậu ấy phát ra tiếng “cạch” khiến người đầu bếp vội quay lại, tóm lấy con Quạ vặt hết lông. Rồi xay một ít gừng tươi và hạt cải trắng, chú giả chung với chà là thối, bôi lên khắp mình con Quạ, vừa xát mạnh thân nó với một mảnh sành làm cho nó bị thương nặng. Sau đó chú lấy sợi dây treo mảnh sành lên cổ nó rồi lại ném vào thúng và bỏ đi.

Khi Bồ câu trở về thấy Quạ, liền bảo:

– Ông Hạc nào đây lại nằm trong thúng của bạn thân ta đó kìa? Bạn ta tính tình nóng nảy sẽ về giết chim lạ mặt này ngay.

Nói đùa thế xong, bồ câu ngâm vần kệ thứ hai:

Con Mây này với chiếc mào cao,
Ngài chiếm chỗ chim bạn tớ sao?
Ông Hạc, đến đây, thân hữu Quạ
Tính tình nóng nảy, biết không nào?

Quạ nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ ba:

Bạn cứ cười to trước cảnh này,
Ta lâm hoạn nạn đáng thương thay!
Hỏa đầu quân vặt lông trần trụi,
Gia vị, chà là thối tẩm đầy.

Bồ câu vẫn còn muốn đùa, liền ngâm vần kệ thứ tư:

Tắm sạch, dầu thơm xát ngạt ngào,
No say ăn uống thỏa dường bao!
Cổ ông sáng chói đồ trang sức,
Ông đến Ba-la-nại đó sao?

Quạ ngâm tiếp vần kệ thứ năm:

Bạn thiết hay cừu địch của ta
Chớ đi Ba-la-nại bây giờ!
Mình trần chúng vặt, còn trêu ghẹo
Buộc mảnh sành trên ngực ấy mà!

Bồ câu nghe vậy, ngâm vần kệ cuối cùng:

Bỏ các thói hư tật xấu kia
Tính tình như Quạ khó làm ghê!
Chim nên thận trọng bay xa lánh
Thực phẩm loài người ăn thỏa thuê.

Sau khi khiển trách Quạ xong, Bồ câu không ở lại đó nữa mà giương đôi cánh bay đi nơi khác. Nhưng Quạ chết ngay tại chỗ.

*

Ðến đây bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và tuyên thuyết các Sự Thật. Vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo tham lam đã đắc Nhị quả (Nhất Lai).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thuở ấy, con Quạ là Tỷ-kheo tham lam này và Bồ câu chính là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Lái Đò (Tiền thân Avàriya)

Ðừng bao giờ giận, hỡi Minh quân….,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một người lái đò.

Người ta bảo kẻ này là phàm phu vô trí: y không biết được các đức tính của Tam Bảo và các bậc hiền nhân. Y nóng vội, thô lỗ và hung bạo. Một Tỷ-kheo ở vùng quê nọ muốn đi yết kiến đức Phật, vào buổi chiều đến bến đò trên sông Aciravatì và bảo người lái đò:

– Này chú, tôi muốn qua sông, chú cho tôi lên đò đi.

– Thưa Tôn giả, trời tối rồi, hãy ở lại đây.

– Này chú, ta không thể ở lại đây, cho ta qua sông.

Người lái đò bực tức nói:

– Vậy thì ngài Sa-môn hãy mau lên đi.

Rồi đưa vị Tỷ-kheo lên đò, nhưng y lái đò thật vụng về khiến nước văng vào mạn đò làm ướt y của vị Tỷ-kheo, và đến khi trời tối mới đưa được ông qua bờ kia.

Khi vị Tỷ-kheo đến tinh xá, ông không thể kịp yết kiến đức Phật ngay hôm ấy.

Hôm sau, ông đi đảnh lễ bậc Ðạo Sư và ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư đáp lễ và hỏi ông đến khi nào:

– Thưa hôm qua.

– Thế sao mãi hôm nay ông mới đến thăm ta?

Khi nghe rõ lý do, bậc Ðạo Sư bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa, kẻ ấy cũng thô lỗ, y làm phiền các trí nhân ngày xưa giống như đã làm phiền ông.

Rồi theo lời thỉnh cầu, Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sanh vào một gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên, ngài học tập đủ mọi môn nghệ thuật tại Takkasilà, rồi trở thành một vị khổ hạnh. Sau một thời gian dài sống toàn củ, quả rừng ở vùng Tuyết Sơn, ngài đi đến Ba-la-nại để tìm muối và dấm. Ngài ở trong vườn ngự uyển và hôm sau vào kinh thành khất thực. Từ sân thượng hoàng cung, vua thấy ngài và hài lòng trước tướng mạo oai nghi của ngài nên cho người triệu ngài vào cung và cúng dường thực phẩm. Vua hứa mời ngài an trú trong ngự uyển và hàng ngày vua đến tham kiến ngài.

Bồ-tát bảo:

– Thưa Ðại vương, một vị vua phải trị nước công bình, tránh xa Bốn ác đạo, đầy nhiệt tâm tinh cần, kham nhẫn, từ ái, lân mẫn toàn dân.

Với lời khuyến giáo thông thường như thế, ngài ngâm hai vần kệ đầu:

Ðừng bao giờ giận, hỡi Minh quân,
Chúa tể trần gian, chớ hận sân,
Ðừng lấy lòng sân bù mối hận
Quân vương như vậy đáng suy tôn.

Dù ở rừng xanh hoặc ở làng,
Ở trên bờ biển, giữa trùng dương,
Chớ bao giờ giận, ta khuyên nhủ
Mãi mãi từ nay, hỡi Ðại vương.

Như vậy, Bồ-tát ngâm đôi vần kệ ấy hàng ngày cho vua nghe. Vua hoan hỷ ban tặng ngài một ngôi làng có số lợi tức là một trăm ngàn đồng vàng, song ngài từ chối. Bồ-tát sống theo cách này suốt mười hai năm liền. Sau đó ngài nghĩ: “Ta đã ở đây quá lâu, nay ta muốn du hành qua quốc độ rồi trở về”.

Thế là không báo với vua, ngài chỉ nói riêng với người giữ vườn:

– Này Hiền hữu, ta thấy chán, ta muốn du hành trong nước rồi trở về, nhờ bạn trình với đức vua.

Ngài đi ngay ra bến đò ở sông Hằng. Ở đó có gã chèo đò ngu ngốc tên là Avàriyapità, y không hiểu đạo hạnh của bậc hiền nhân, cũng chẳng biết luôn cả việc ích lợi hay thiệt hại của riêng mình. Khi dân chúng muốn qua sông Hằng, trước tiên y đưa họ qua rồi sau đó đòi tiền đò. Có khi họ không trả tiền, y liền gây sự với họ, rồi chỉ nhận được lời mạ lỵ và đấm đá chứ rất ít tiền bạc, y thật ngu dại mù quáng đến thế.

Về gã này, bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ thứ ba phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của Ngài:

Chú A-và-ri-ya,
Thuyền lướt sóng Hằng Hà,
Trước tiên đưa du khách,
Rồi mới hỏi tiền phà,
Do vậy ăn đòn mãi,
Thật xui xẻo, dại khờ!

Bồ-tát đến gặp gã lái đò này và bảo:

– Hiền hữu, hãy đưa ta qua bờ kia.

– Này Sa-môn, ngài sẽ trả tiền cho tôi chứ? Y đáp.

– Này Hiền hữu, ta sẽ chỉ cho chú biết cách làm tăng trưởng tài lợi, an lạc và đức hạnh.

Gã lái đò nghĩ thầm: “Chắc chắn vị này sẽ cho ta một cái gì đó”.

Rồi y đưa ngài sang sông và nói:

– Xin cho tôi tiền đò.

Bồ-tát bảo:

– Ðược rồi, này Hiền hữu.

Và thế là muốn dạy cho y biết trước tiên phải làm cách nào để tăng thêm của cải, ngài ngâm vần kệ này:

Hỏi tiền trước lúc chở qua sông,
Chớ đến bờ kia hỏi nhọc công,
Chú chở bá nhơn nên bá tánh,
Tánh tình thay đổi trước sau luôn.

Gã lái đò nghĩ thầm: “Ðây chỉ là lời vị ấy khuyên ta, nay phải cho ta thêm cái gì chứ”. Song Bồ-tát bảo:

– Này Hiền hữu, chú đã có cách làm ra tiền rồi đấy, nay hãy nghe cách làm tăng an lạc cùng đức hạnh.

Rồi ngài lại ngâm vần kệ khuyến giáo:

Dù ở rừng xanh hoặc ở làng,
Ở trên bờ biển, giữa trùng dương,
Chớ bao giờ giận, ta khuyên chú
Mãi mãi từ nay, hỡi thiện nhân.

Như thế, sau khi đã dạy cách làm tăng trưởng an lạc và đức hạnh, ngài bảo:

– Vậy là chú có cách làm tăng an lạc và đức hạnh.

Nhưng gã ngu si kia không xem lời khuyến giáo của ngài ra gì cả, lại đáp:

– Này Sa-môn, đây là các thứ ngài cho tôi thế tiền phà đấy à?

– Ðúng vậy, Hiền hữu.

– Tôi không cần thứ ấy, cho tôi thứ khác kia.

– Này Hiền hữu, ngoài thứ ấy ta không có gì khác.

– Thế tại sao ngài lại đi trên thuyền tôi?

Y đáp, và ném vị khổ hạnh lên bờ, ngồi lên ngực ngài và đấm vào mồm ngài.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Các vị thấy khi nhà khổ hạnh khuyến giáo vua, thì nhận được ân tứ một ngôi làng, còn khi khuyến giáo như vậy với một gã lái đò ngu ngốc thì được vài cái đấm vào mồm. Cho nên khi khuyến giáo phải lựa người thích hợp, chớ nói với người không thích hợp.

Rồi Ngài ngâm vần kệ xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng trí của Ngài:

Vua nghe lời khuyến thiện, đã ban
Lợi tức phần ta cả một làng,
Chú lái đò nghe lời khyyến thiện
Lại đánh người cho ngã xuống đàng.

Trong khi gã kia đánh vị Sa-môn, vợ y đem cơm lại cho y, thấy vậy liền bảo:

– Này chàng, đây là vị khổ hạnh trong triều vua, đừng đánh ngài.

Y nổi giận đáp:

– Cô lại cấm ta đánh kẻ tu hành giả mạo này ư?

Rồi y nhảy lên đánh vợ ngã xuống đất. Ðĩa cơm đổ hết vỡ tan, còn vợ y phải trụy thai.

Quần chúng vây y lại và la lớn:

– Quân khốn nạn giết người.

Họ trói y lại đưa đến nhà vua. Ngài xử phạt y theo pháp luật.

Với Trí tuệ Tối thắng, bậc Ðạo Sư giải thích vấn đề qua vần kệ cuối cùng:

Cơm đổ, vợ y đánh tả tơi,
Thai nhi chết trước lúc ra đời,
Lời khuyên cho kẻ này vô dụng
Như vàng ròng tặng thú hoang thôi.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Khi kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu):

– Vào thời ấy, gã lái đò là chú lái ngày nay, vua là Ànanda và vị khổ hạnh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Bà La Môn Setakeku (Tiền thân Setaketu)

Hiền hữu, hận sân chẳng lợi gì….,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo lừa dối.

Hoàn cảnh câu chuyện sẽ xuất hiện trong Tiền thân Uddàla, số 487.

-ooOoo-

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một giáo sư danh tiếng lừng lẫy và dạy thánh kinh cho năm trăm đồ đệ. Vị huynh trưởng trong bọn là Setakeku, xuất thân từ một gia đình Bà-la-môn miền Bắc, vốn rất tự cao về giai cấp mình.

Một hôm chàng ra khỏi thành phố cùng bè bạn, lúc trở về, chàng thấy một kẻ Chiên-đà-la (Candàla):

– Anh là ai? Chàng hỏi.

– Tôi là một Chiên-đà-la.

Vị ấy sợ ngọn gió sau khi chạm vào người kẻ Chiên-đà-la sẽ đụng vào thân mình, nên thốt lên:

– Ðồ khốn kiếp, này tên Chiên-đà-la xui xẻo kia, hãy tránh gió mau.

Rồi chành chạy nhanh về phía gió. Song kẻ Chiên-đà-la cũng nhanh chân bắt kịp chàng và đứng trước gió cản. Chàng lại càng phỉ báng mạ lỵ kẻ kia nhiều hơn nữa. Kẻ Chiên-đà-la hỏi:

– Ông là ai?

– Ta là một thư sinh Bà-la-môn.

– Tốt lắm, nếu vậy thì ông có thể đáp câu hỏi của tôi.

– Ðúng vậy.

– Còn nếu ông không đáp được, tôi sẽ kẹp ông lại giữa hai chân tôi đấy.

Vị Bà-la-môn đầy tự tin, bảo:

– Cứ làm ngay đi.

Kẻ Chiên-đà-la muốn làm cả hội chúng hiểu chuyện này, liền hỏi:

– Này thanh niên Bà-la-môn, các phương hướng là gì?

– Ðó là bốn phương: Ðông, Tây, Nam, Bắc.

Kẻ Chiên-đà-la bảo:

– Tôi không hỏi loại phương hướng đó, còn ông không biết ngay đến chuyện này, mà lại ghê tởm luôn cả ngọn gió đụng vào người tôi!

Thế là kẻ ấy chụp lấy vai chàng đè xuống kẹp vào giữa hai chân mình.

Các học trò kia đem chuyện ấy kể với thầy. Vị thầy bảo:

– Này cậu Setakeku, cậu đã bị kẹp giữa hai chân một kẻ Chiên-đà-la ấy à?

– Thưa thầy, vâng, thằng oắt con của một tên nô lệ đã kẹp đệ tử giữa hai chân nó và bảo: “Ông này không biết ngay các phương hướng”. Nhưng nay đệ tử đã biết phải làm gì với nó rồi.

Và như vậy, chàng lại phỉ báng kẻ Chiên-đà-la một cách giận dữ. Vị thầy khuyên nhủ:

– Này cậu Setakeku, đừng giận nó, nó có trí tuệ cao đấy. Nó đã hỏi cậu về một loại phương hướng khác, chứ không phải loại này. Thứ mà cậu không thấy, không nghe, không hiểu, còn cao xa hơn thứ mà cậu đã thấy và nghe nữa.

Rồi ngài ngâm hai câu kệ để khuyến giáo:

Hiền hữu, hận sân chẳng lợi gì,
Trí cao vượt quá chuyện mình nghe:
“Một phương” phải hiểu là cha mẹ,
“Thầy giáo” được dùng chí hướng kia.

“Gia chủ” cho y phục, uống ăn,
Cửa thường rộng mở, chính là “phương”,
Còn “phương” trong nghĩa cao siêu nhất:
“Trạng thái vô ưu, lạc Niết-bàn”.

Như vậy, Bồ-tát giảng giải bốn phương cho thanh niên Bà-la-môn này, song chàng nghĩ: “Ta đã bị kẹp giữa hai chân một kẻ Chiên-la-đà”, liền rời nơi ấy và đến Takksilà học đủ mọi môn nghệ thuật với một giáo sư danh tiếng lẫy lừng. Sau đó, được thầy cho phép, chàng rời Takkasilà, vừa du hành đây đó, vừa học tập mọi nghề thực tiễn.

Khi đến một làng biên địa, chàng gặp năm trăm nhà khổ hạnh sống gần đó và được thọ giới tu hành. Chàng học hỏi được mọi nghệ thuật, Kinh điển và các phương pháp thực hành, rồi tất cả cùng vị ấy đi đến Ba-la-nại

Hôm sau chàng đi vào cung đình khất thực. Vua hoan hỷ trước phong cách các vị khổ hạnh, liền cúng dường thực phẩm ngay tại cung vua, và mời các vị ở lại ngự viên. Một hôm vua bảo trong lúc cúng dường thực phẩm:

– Chiều tối nay trẫm sẽ đến đảnh lễ các Tôn giả ngay tại ngự viên.

Setakeku liền đến ngự viên, triệu tập các vị khổ hạnh và bảo:

– Các Tôn giả, hôm nay đức vua sẽ đến. Chỉ cần một lần hòa hợp với vua chúa, người ta có thể sống sung sướng suốt cả đời. Vậy bây giờ một số vị làm kiểu khổ hình bằng cách lắc mạnh người, một số vị nằm trên giường gai, một số vị chịu đựng năm ngọn lửa, một số thực hành khổ hạnh bằng cách ngồi xổm, một số nhào lộn, một số đọc kinh.

Sau khi ra lệnh xong, chính vị ấy ngồi tại cửa am thất với gối dựa, đặt quyển sách bao bìa sáng loáng trên một giá gỗ có sơn và giảng kinh cho đám học trò thông minh chừng bốn năm người. Vừa lúc ấy nhà vua đến, thấy họ đang diễn trò khổ hạnh giả dối này lại rất hài lòng. Vua đến gần Setakeku, kính vái chàng, rồi ngồi xuống một bên, sau đó ngâm vần kệ thứ ba nói chuyện với vị tế sư của hoàng gia:

Hàm răng bẩn, áo da dê, tóc bện,
Miệng thì thầm kinh thánh, dáng bình an,
Chẳng từ nan mọi phương tiện hiền nhân,
Chắc đã đạt Chân như và Giải thoát.

Vị tế sư nghe vậy, liền đáp vần kệ thứ tư:

Một trí nhân có thể làm ác hạnh,
Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn
Khi việc hỏng, hoặc cứu người lâm nạn.

Khi vua nghe lời này, liền lấy lại mọi ân sủng dành cho đám khổ hạnh kia. Setakeku nghĩ thầm: “Nhà vua ham thích đám khổ hạnh, song tế sư này đã phá hoại như thể lấy rìu chặt ngang sở thích của vua. Ta phải nói chuyện với tế sư mới được”. Do thế, chàng ngâm vần kệ thứ năm nói chuyện với tế sư:

Một trí nhân có thể làm ác hạnh,
Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
Ngài bảo Vệ-đà là vật không cần,
Chỉ tu tập điều thân là thiết yếu.

Vị tế sư nghe vậy, liền đáp vần kệ thứ sáu:

Không, Vệ-đà không hoàn toàn vô dụng,
Dù điều thân tu tập: đạo chánh chân,
Học Vệ-đà vẫn mang lại vinh quang,
Song ta đạt Tối an nhờ chánh hạnh.

Như vậy, vị tế sư bài bác giáo lý của Setakeku. Ngài khuyên cả đám khổ hạnh hoàn tục, cho họ gươm, giáo, mộc để làm quan thị vệ cao cấp hầu cận vua. Từ đó người ta bảo dòng dõi quan thị vệ cao cấp xuất hiện.

*

Khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Setakeku là Tỷ-kheo lừa dối này, kẻ Chiên-đà-la là Sàriputta và tế sư của nhà vua chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Bà La Môn Darìmukha (Tiền thân Darìmukha)

Dục lạc chỉ là đám bùn dơ bẩn..,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Ðại sự Xuất thế.

Sự tình dẫn đến chuyện này đã được kể trước kia.

*

Một thuở nọ, vua Magadha trị vì tại thành Rajagaha (Vương Xá). Bồ-tát được sinh làm con của chánh hậu, được đặt tên vương tử Brahmadatta. Vào ngày ngài ra đời, vị tế sư của hoàng gia cũng sinh một nam tử, diện mạo tuấn tú, vì thế được đặt tên là Darìmukha (Miệng hang lớn). Cả hai cùng lớn lên trong cung đình và trở thành bạn thân. Năm mười sáu tuổi, hai vị đến Takkasilà học đủ mọi môn nghệ thuật. Sau đó muốn tạo được các kiến thức có công dụng thực tiễn và tìm hiểu phong tục trong nước, hai vị du hành qua nhiều thành phố, thôn làng khắp mọi miền.

Vì vậy, hai vị đến Ba-la-nại trú ở trong một ngôi đền và hôm sau vào kinh thành khất thực. Có một nhà trong kinh thành đã nấu xong cháo gạo và chuẩn bị chỗ ngồi để cúng dường phần thức ăn cho các Bà-la-môn. Khi họ thấy hai nam tử này khất thực, họ nghĩ: “Các Bà-la-môn đã đến”, liền mời vào và trải một tấm khăn trắng trên ghế của Bồ-tát và một thảm đỏ dưới chân Darìmukkha.

Chàng quan sát điềm này và hiểu ngay thân hữu chàng sẽ làm vua ở Ba-la-nại và chính chàng sẽ làm đại tướng. Hai vị thọ thực xong phần mình rồi nói lời tùy hỷ công đức và ra đi về ngự viên. Bồ-tát nằm trên sàng tọa bằng đá của vua, còn Darìmukha ngồi xoa chân ngài.

Thời ấy, vua Ba-la-nại đã băng hà đã bảy ngày. Vị tế sư hoàng gia làm lễ hỏa táng xong liền đưa vương xa ra khỏi thành suốt bảy ngày vì chưa có ai kế vị ngai vàng. Lễ rước vương xa này sẽ được giải thích trong Tiền thân Mahàjanaka, số 539. Vương xa rời kinh thành và đến cổng ngự viên, được bốn đạo quân xa pháo mã tượng hộ tống và âm nhạc của hàng trăm nhạc khí trổi dậy vang lừng.

Darìmukha nghe tiếng nhạc, nghĩ thầm: “Vương xa đến rước thân hữu ta đó, ngài sẽ lên ngôi vua hôm nay, và phong ta chức đại tướng, song ta có nên làm người thế tục chăng? Ta muốn đi ngay làm ẩn sĩ khổ hạnh”. Vì thế không nói gì với Bồ-tát, chàng chạy sang một bên đứng ẩn mình.

Vị tế sư ngừng xe trước cổng ngự viên, vừa bước vào thấy Bồ-tát đang nằm trên bảo tọa của hoàng gia. Vừa quan sát các tướng tốt trên chân ngài, ông nghĩ: “Ngài có đủ đức độ và xứng đáng làm vua cả bốn đại châu cùng với hai ngàn hải đảo vây quanh. Song lòng can đảm của ngài ra saođây?”.

Vì thế ông ra lệnh mọi nhạc khí đồng trổi dậy hết sức inh ỏi. Bồ-tát thức dậy, giở tấm khăn ra khỏi mặt và thấy đám đông. Rồi che mặt lại, ngài nằm xuống thêm chút nữa, xong trở dậy ngồi xếp bằng trên sàng tọa trong lúc xe vừa dừng lại.

Vị tế sư quỳ xuống, thưa:

– Tâu Chúa thượng, quốc độ được nhường cho Chúa thượng.

– Sao? Không ai kế vị à?

– Tâu Chúa thượng, không.

– Thế thì tốt lắm.

Vậy là ngài nhận lời thỉnh cầu và hội chúng làm lễ quán đảnh rảy nước thánh lên đầu ngài tại ngự viên. Trong giờ phút đại vinh quang ấy, ngài quên bẵng Darìmukha, ngài ngự lên vương xa đi giữa đám quần thần uy nghi diễu vòng quanh kinh thành. Sau đó dừng lại trước cung môn, ngài chỉ định vị trí của các triều thần, xong bước lên lầu thượng.

Cùng lúc ấy, Darìmukha thấy ngự viên đã vắng người liền bước ra ngồi trên bảo tọa trong vườn. Một ngọn lá khô rơi xuống trước mặt ngài. Thấy rõ các quy luật lão tử, ngài bừng ngộ Tam pháp ấn (Khổ, vô thường, vô ngã) và chứng đắc quả vị Ðộc Giác Phật (Paccekabodhi), liền reo mừng hoan hỷ làm vang dậy cả cõi trần. Ngay lập tức các đặc tính của một phàm nhân biến mất khỏi thân Ngài, một bình bát và một tấm y kỳ diệu từ cõi thiên rơi xuống khoác vào người và Ngài cóđủ tám món cần thiết cùng tứ oai nghi hoàn thiện của một Sa-môn cả trăm tuổi, rồi nhờ thần lực, Ngài bay qua không gian đến tận động Nandamùla, nơi an trú của các vị Ðộc Giác Phật tại miền Tuyết Sơn.

Phần Bồ-tát trị nước rất chân chánh. Song cảnh đại vinh quang đã làm ngài say đắm suốt bốn mươi năm ròng. Ngài quên hẳn Darìmukha. Ðến năm thứ bốn mươi ấy ngài nhớ lại bạn và tự bảo: “Trẫm có thân hữu tên là Darìmukha, nay vị ấy ở đâu?”. Ngài mong ước gặp lại bạn. Từ đó về sau, ngay trong hậu cung hay giữa quần thần, ngài thường bảo:

– Thân hữu Darìmukha nay ở đâu? Trẫm sẽ ban vinh hoa phú quý cho ai báo tin với trẫm về nơi bạn hiền cư trú”.

Lại mười năm nữa trôi qua từ khi ngài thỉnh thoảng nhớ đến bạn. Còn Tôn giả Darìmukha đã trở thành Ðộc Giác Phật, sau năm mươi năm, suy xét lại và biết bạn cũng đang nhớ đến Ngài, liền nghĩ: “Nay bạn ta đã già và tăng thêm đàn con cháu, ta muốn đi thuyết Pháp và truyền giáo cho bạn”.

Nhờ thần lực, Ngài bay qua không gian và hạ mình xuống vườn ngự uyển, ngồi xuống bảo tọa như một bức tượng vàng ròng. Người giữ vườn thấy Ngài, đi đến hỏi:

– Thưa Ngài, Ngài từ đâu đến?

– Từ động Nandamùlaka.

– Thế Ngài là ai?

– Hiền giả, ta là Phật Ðộc Giác Darìmukha.

– Thưa Ngài, thế Ngài biết đức vua của chúng tôi chăng?

– Ta biết. Ngài là thân hữu từ thời ta còn ở thế tục.

– Thưa Ngài, đức vua ước ao hội kiến Ngài, tôi xin đi trình báo đức vua rằng Ngài đã đến.

– Hiền hữu cứ đi làm như vậy.

Người làm vườn liền đi trình vua rằng Tôn giả Darìmukha đã đến và hiện đang ngồi trên thạch tọa. Vua phán:

– Thế là Hiền hữu của trẫm đã đến, trẫm sẽ đi hội kiến ngay.

Vì vậy ngài ngự lên vương xa cùng đám tùy tùng hộ tống đông đảo đến ngự viên, cung kính đảnh lễ vị Ðộc Giác Phật và ngồi xuống một bên. Vị Ðộc Giác Phật bảo:

– Này Brahmadatta, Ðại vương nên trị nước chân chánh, đừng bao giờ theo ác đạo hay đàn áp dân chúng vì tiền bạc. Hãy làm mọi thiện sự với lòng nhân từ.

Và sau đó khi ân cần đáp lễ, Ngài bảo thêm:

– Này Brahmadatta, nay Ðại vương đã già đã đến lúc Ðại vương nên từ giã dục lạc và xuất gia.

Như thế, Ngài thuyết Pháp và ngâm vần kệ đầu:

Dục lạc chỉ là đám bùn dơ bẩn
“Nỗi kinh hoàng ba gốc” được gọi là,
Ta bảo rằng khói bụi với sương sa,
Hãy bỏ chúng, xuất gia lìa thế tục.

Nghe vầy, vua ngâm vần kệ giải thích ngài vẫn đang bị tham dục ràng buộc:

Trẫm say đắm, lún sâu bùn tham dục,
Bà-la-môn, dục lạc đáng kinh thay,
Song yêu đời, trẫm không thể bỏ ngay,
Trẫm xin nguyện suốt đời làm thiện sự.

Sau đó, mặc dù Bồ-tát bảo: “Ta không muốn thọ giới xuất gia”, Tôn giả Darìmukha cũng không bài bác vua và khích lệ lần nữa:

Ai bác bỏ lời bạn hiền khuyên nhủ,
Thương xót và mong bạn tránh đọa đày,
Cứ tưởng rằng: “Cõi thế tốt lành thay”,
Sẽ không dứt tái sinh đầu thai mãi.

Nơi đày đọa đáng kinh: phần kẻ ấy
Ðầy vật dơ, bị người thiện chê bai,
Kẻ tham kia dục vọng chẳng hề rời,
Thân xác chứa ngập đầy mầm nhục dục.

Như vậy, Ðộc Giác Phật Darìmukha nêu rõ sự khổ đau do nhập thai và vội vàng bày tỏ nỗi khổ đau vì sinh sản qua một vần kệ nữa:

Ðầu máu mủ, vật hôi tanh thế tục,
Mọi hữu tình đều phải chịu tái sinh,
Những vật gì xúc chạm suốt đời mình,
Chỉ cốt để đem khổ đau trần giới.
Ta nói lên những điều ta trông thấy,
Chứ không lo người khác nói ta nghe,
Ta nhớ rành các đời kiếp xưa kia.

Lúc bấy giờ với Trí tuệ Tối thắng, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như thế vị Ðộc Giác Phật đã dùng thiện ngôn cứu giúp nhà vua.

Và Ngài ngâm nửa vần kệ kết thúc:

Da-ri-muk đã rót vào tai bạn
Su-me-dha lắm vần kệ ngọt ngào,
Hiển bày ra cả trí tuệ tối cao.

Vị Ðộc Giác Phật bày tỏ mọi khổ đau của tham dục và làm vua hiểu lời Ngài dạy xong, liền nói:

– Thưa Ðại vương, dù Ðại vương có thọ giới xuất gia hay không, ta cũng đã nói hết nỗi khốn cùng của tham dục và hạnh phúc của đời xuất gia, xin Ðại vương hãy tinh cần.

Rồi giống như một con kim nga vương, Ngài bay bổng lên không, lướt mây về đến động Nandamulaka. Còn bậc Ðại Sĩ đảnh lễ với mười ngón tay chắp vào nhau, và cúi đầu đứng yên cho tới khi Tôn giả Darìmukha khuất bóng. Sau đó vua từ bỏ dục lạc, trong lúc quần chúng đông đảo than khóc kêu gào, ngài đi đến vùng Tuyết Sơn dựng một lều lá và thọ giới làm ẩn sĩ. Chẳng bao lâu ngài thành đạt các Thắng trí và các Thiền chứng, rồi lúc mạng chung, Ngài được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật, sau đó nhiều Tỷ-kheo đắc sơ quả cùng các quả vị kia, và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy nhà vua chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Núi Neru (Tiền thân Neru)

Hai chúng ta là loài chim ưu tú..

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một vị Tỷ-kheo.

Chuyện kể rằng vị ấy học được các phương thức hành thiền của bậc Ðạo Sư xong, liền ra một làng ở biên địa. Tại đó dân chúng hài lòng với phong cách của ông, nên cúng dường thực phẩm, dựng một thảo am ở trong rừng và yêu cầu ông ở lại đó rồi bày tỏ lòng tôn kính trọng vọng ông. Nhưng sau đó họ lại rời bỏ ông, để đi theo các đạo sư thuộc phái Thường kiến, rồi lại bỏ các vị này để theo giáo phái Ðoạn kiến, xong lại bỏ phái này để theo phái khổ hạnh lõa thể, vì đạo sư các phái này cứ lần lượt xuất hiện. Do thế vị Tỷ-kheo này rất phiền lòng khi sống chung với những người không phân biệt thiện ác kia.

Sau thời an cư mùa mưa và lễ Tự tứ (Pavàranà), vị ấy trở về hầu bậc Ðạo Sư và khi Ngài hỏi, ông kể lại những nơi ông đã cư trú trong mùa mưa vừa qua và ông đã phải phiền lòng ra sao vì những người không biết thiện ác. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Các bậc trí ngày xưa, ngay khi còn là loài vật, cũng không sống chung một ngày với những kẻ không biết thiện ác, tại sao ông lại làm như vậy?

Và Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm một chim Thiên nga màu vàng óng. Ngài sống cùng em trai trên đỉnh núi Cittakuta và ăn lúa dại trên vùng Tuyết Sơn. Một hôm bay về Cittakuta, đôi chim thấy ngọn núi Neru màu vàng rực rỡ liền đến ở trên đỉnh. Chung quanh núi có nhiều loài chim và dã thú cùng sống để kiếm ăn trên bãi. Từ lúc bọn chúng đến đây, tất cả đều nhuộm màu vàng do ánh sáng từ núi chiếu ra. Chim em của Bồ-tát thấy vậy, song không hiểu lý do liền hỏi:

– Vì cớ sao ở đây lại như vậy?

Và chim cất tiếng ngâm hai vần kệ đầu nói chuyện cùng anh:

Hai chúng ta là loài chim ưu tú
Trên núi này bên đám quạ, diều hâu,
Cả mọi loài cùng chỉ có một màu:

Chó hạ liệt đua tranh cùng loài hổ,
Và với chúa sơn lâm: đàn sư tử
Vậy núi này có tên gọi là sao?

Bồ-tát ngâm vần kệ thứ ba đáp lại:

Ne-ru là tên gọi Núi tối cao,
Ở nơi đây muôn loài đều vàng óng.

Chim em nghe lời này liền ngâm ba vần kệ tiếp còn lại:

Hễ nơi nào thiện nhân không được trọng,
Hoặc ít hơn người khác, hãy đi liền,

Dẫu hiền ngu, can đảm hoặc ươn hèn,
Ðều nhất loạt được tôn sùng bình đẳng,
Thiện nhân chẳng thể cùng ngươi chung sống,
Hỡi Núi cao không phán đoán phân minh!
Dầu tối ưu, hạ liệt, hoặc trung bình,
Ne-ru cũng chẳng thể nào suy xét,
Vậy, hỡi ôi! Chúng ta đành từ biệt
Núi Ne-ru không biết lẽ biệt phân.

Cùng với lời này cả đôi chim bay về núi Cittakùta.

*

Khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo kia đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).  Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Thiên nga em là Ànanda, và Thiên nga anh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thiên Nữ Àsankà (Tiền thân Àsankà)

À-sà-ti mọc trên vườn thiên giới..

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự cám dỗ một Tỷ-kheo do người vợ cũ gây ra.

Hoàn cảnh này sẽ xuất hiện trong Tiền thân Indriya, số 423.

Bậc Ðạo Sư nhận thấy vị Tỷ-kheo này thối thất do mơ tưởng đến người vợ cũ, vì thế Ngài bảo:

– Này Tỷ-kheo, nữ nhân này đang làm hại ông, ngày xưa cũng vì kẻ ấy mà ông đã hy sinh cả bốn đạo quân và sống ba năm liền ở vùng Tuyết Sơn trong cảnh đầy gian khổ.

Nói xong Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn tại một làng trong xứ. Khi ngài lớn lên, ngài học các nghệ thuật ở Ðại học Takkasilà, sau đó trở thành một vị khổ hạnh đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng, sống bằng củ quả ở rừng Tuyết Sơn. Vào thời ấy có một thiếu nữ đức hạnh vẹn toàn từ cõi trời Ba mươi ba giáng trần, đầu thai làm một thiếu nữ trong đóa hoa sen trên hồ nước. Trong khi các hoa khác già cỗi héo tàn, rơi rụng thì hoa ấy lớn dần và đứng thẳng trên cành.

Vị khổ hạnh đến tắm trong hồ nhận thấy thế, nghĩ thầm: “Các hoa khác rơi rụng, song hoa này cứ lớn dần ra và thẳng đứng, sao lạ thế này?” Ngài liền mặc áo tắm và lội đến đó, mở đóa sen ra, ngài trông thấy cô bé gái. Ngài cảm thấy thương yêu nàng như con mình, liền đem cô bé về thảo am, chăm sóc nuôi nấng. Nàng lớn dần đến năm mười sáu tuổi trở thành rất xinh đẹp, dung sắc nàng vượt hẳn dung sắc loài người, nhưng chưa đạt đến dung sắc chư Thiên.

Một hôm Thiên chủ Sakka hiện xuống hội kiến Bồ-tát. Thiên chủ thấy thiếu nữ này liền hỏi chuyện và được biết nàng ở đâu ra. Ngài hỏi:

– Nàng cần những thứ gì, thưa Tôn giả?

– Một chỗ cư trú, y phục nữ trang và thực phẩm, này Thiên chủ.

Ngài liền hóa hiện một cung bằng pha lê cho nàng ở, cùng với bảo tọa, y phục, nữ trang, thực phẩm thần và tiên tửu. Thiên cung này bay xuống trần gian và dừng lại ở nơi nàng đang sống. Khi nàng bước vào trong cung, nó lại bay lên đến giữa không trung. Nàng chuẩn bị đủ mọi thứ phụng dưỡng Bồ-tát trong khi nàng sống trong cung này.

Một người kiểm lâm thấy nàng liền hỏi ngài:

– Thưa Tôn giả, nàng ấy là gì của ngài?

– Con gái ta đấy.

Người ấy liền đi về Ba-la-nại trình vua:

– Tâu Ðại vương, tiểu thần vừa thấy trong vùng Tuyết Sơn cô con gái của một vị khổ hạnh có dung sắc tuyệt thế.

Vua bị cám dỗ khi nghe chuyện này vội bảo người kiểm lâm làm hướng đạo cùng đi với vua và bốn đạo binh về hướng ấy. Cắm lều trại xong, vua đem người kiểm lâm và đám cận thần đến thảo am. Vua kính chào Bồ-tát và bảo:

– Thưa Tôn giả, nữ nhân là thứ bất tịnh đối với đời tu hành, vậy để trẫm chăm sóc tiểu thư.

Bấy giờ Bồ-tát đã đặt cho cô gái tên Àsankà vì nàng được ngài đem về nuôi nhờ ngài lội qua hồ nước do lòng nghi hoặc (Àsankà): “Cái gì ở trong hoa sen này?”. Ngài không nói thẳng với vua: “Hãy đem nàng đi”, mà lại bảo:

– Thưa Ðại vương, nếu ngài biết tên con gái ta thì hãy đem nàng đi.

– Thưa Tôn sư, nếu ngài nói ra thì trẫm sẽ biết..

– Ta sẽ không nói đâu, khi nào ngài biết tên ấy thì cứ đem nàng đi.

Vua chấp thuận, từ đó cứ suy xét cùng với đám cận thần: “Tên nàng là gì nhỉ?” và đưa ra đủ thứ tên khó đoán với Bồ-tát: “Những tên nọ tên kia là tên nàng”. Song Bồ-tát bảo không phải và từ chối lời thỉnh cầu. Vì vậy một năm trôi qua trong khi vua xem xét tên nàng.

Sư tử và nhiều dã thú đến vồ lấy mọi người và binh sĩ của vua, lại thêm nhiều hiểm họa vì rắn rết, ruồi muỗi. Nhiều người khác chết vì lạnh. Vua bảo Bồ-tát:

– Trẫm cần gì nàng ấy nữa?

Và vua bỏ đi.

Thiếu nữ Àsankà hiện ra trên cửa sổ pha lê mở rộng. Vua thấy nàng liền bảo:

– Chúng ta không tìm ra tên nàng nên chúng ta sẽ ra đi, nàng cứ ở lại Tuyết Sơn này.

– Tâu Ðại vương, nếu ngài ra đi, ngài sẽ chẳng bao giờ tìm được một vương phi như thiếp nữa. Trên cõi trời Ba mươi ba, tại vườn Cittalatà, có một loài cây leo tên Àsàvatì. Trái của nó chứa một thứ tiên tửu, những ai uống rượu ấy một lần là phải say suốt bốn tháng nằm yên trên thiên tọa. Nó chỉ sinh trái một lần trong một ngàn năm, cho nên các Thiên tử, dù ham mê rượu nồng, vẫn chịu nhịn khát để đón chờ tiên tửu ấy. Họ bảo nhau: “Ta sẽ hái quả cây này”, rồi cứ liên tục đến canh chừng cây ấy suốt cả ngàn năm và bảo nhau: “Cây mọc có tốt chăng?”

Còn Ðại vương, chỉ trong vòng một năm đã sinh lòng bất mãn, hễ ai hái được kết quả của niềm hy vọng là đạt hạnh phúc. Thiếp xin ngài khoan bất mãn vội.

Do vậy, nàng ngâm ba vần kệ đầu:

À-sà-ti mọc trên vườn Thiên giới
Một ngàn năm chỉ sinh trái một lần,
Chư Thiên hằng kham nhẫn mãi chờ trông.

Quá hy vọng, Ðại vương, đầy ngon ngọt,
Chim hy vọng không bao giờ tổn thất,
Nó đạt tròn mong ước dẫu xa vời.

Tâu Ðại vương, quá hy vọng ngọt bùi!
Cứ hy vọng, Ðại vương, hy vọng mãi.

Vua lại mê say vì lời nàng, rồi triệu tập quần thần một lần nữa và cố đoán tên nàng, cứ mỗi lầnđoán mười tên mãi đến khi một năm nữa trôi qua. Song tên nàng vẫn không ở trong số mười lời phỏng đoán kia, nên Bồ-tát từ chối lời vua thỉnh cầu. Nàng lại hiện ra trên khung cửa sổ và vua bảo:

– Thôi nàng ở lại đây, trẫm sắp ra đi.

– Tại sao ra đi, tâu Ðại vương?

– Vì trẫm không thể nào đoán ra tên nàng.

– Tâu Ðại vương, tại sao ngài không thể đoán ra? Niềm hy vọng không phải là không có thành công. Một con hạc đậu trên đỉnh đồi cũng đạt được mong ước, tại sao ngài không thể đạt được chứ? Tâu Ðại vương, hãy kham nhẫn. Một chim hạc đã tìm nơi ăn trong một hồ sen, song nó bay lên tận đỉnh đồi. Nó ở lại đó hôm ấy và hôm sau tự nhủ: “Ta sống thật an lạc tại đỉnh đồi này. Nếu không cần xuống đồi, ta cứ ở đây tìm thức ăn nước uống và đậu tại đây hôm nay thật thích thú biết bao”.

Chính ngay hôm ấy, Sakka Thiên chủ đã dẹp tan các thần Asura (A-tu-la) và làm chúa tể cõi trời Ba mươi ba, tự nhủ: “Mọi mong ước của ta đã đạt được đỉnh cao thành tựu. Hôn nay có ai trong rừng chưa đạt niềm mong ước chăng?” Suy xét như vậy ngài thấy con hạc và nghĩ: “Ta sẽ làm cho niềm mong ước của con hạc được thành tựu”. Không xa con hạc đậu có một dòng suối, Thiên chủ đưa con suối đầy thức ăn lên đỉnh đồi, như thế chim hạc không cần đi đâu vẫn có cá ăn nước uống thỏa thích suốt ngày ở nơi ấy. Sau đó dòng suối đổ xuống và trôi đi xa. Tâu Ðại vương, con hạc đã đạt kết quả niềm hy vọng của nó như vậy, tại sao Ðại vương sẽ không đạt được kia chứ? Xin Ðại vương cứ hy vọng nữa, hy vọng mãi.

Nàng nói và ngâm vần kệ còn lại.

Vua nghe chuyện nàng kể, lại say mê sắc đẹp nàng, bị lời nàng lôi cuốn, nên ở thêm một năm nữa để phỏng đoán cả trăm tên nàng. Sau ba năm, vua tìm đến Bồ-tát và hỏi:

– Thưa Tôn giả, tên nàng có nằm trong trăm tên này chăng?

– Thưa Ðại vương, ngài không biết tên ấy đâu.

Vua vái chào Bồ-tát và bảo:

– Chúng tôi xin từ giã lên đường.

Và vua ra đi.

Thiếu nữ Àsankà lại đứng bên cửa sổ pha lê. Vua trông thấy nàng liền bảo:

– Thôi nàng ở lại, chúng ta sắp lên đường.

– Tại sao thế, tâu Ðại vương?

– Nàng làm ta đẹp lòng vì lời nói chứ không phải vì tình yêu của nàng. Ta say mê lời nói dịu ngọt của nàng, nên đã ở đây ba năm ròng, nay ta quyết ra đi.

Rồi vua ngâm các vần kệ sau:

Lời nói nàng nghe quả thật dịu êm,
Song hành động không thỏa lòng mong đợi.
Hoa hữu sắc vô hương là cỏ dại,

Lời hứa kia dẫu đẹp chẳng thi hành
Với bạn thân, ta phải ném cho nhanh,
Chẳng đem tặng, cứ để dành mãi mãi,
Tình bạn kia tất nhiên là suy thoái.

Ta chỉ nên hứa trước việc mình làm,
Ðừng hứa suông những việc chẳng đảm đang.
Nếu ta nói mà không làm phận sự,
Các trí nhân xét xem liền thấy rõ.

Ðạo quân ta hao tổn, cạn kho lương,
Ta hoài nghi đời sống đã suy tàn,
Ðã đến lúc ra đi, đành từ biệt.

Khi nàng Àsankà nghe lời vua liền đáp:

– Tâu Ðại vương, ngài biết tên thiếp rồi, ngài vừa nói ra tên ấy. Xin hãy nói cho phụ thân biết tên thiếp và đem thiếp cùng ra đi.

Nói vậy xong, nàng liền ngâm vần kệ:

Tâu Ðại vương, vừa nói ra tên thiếp,
Hãy đến ngay, cha thiếp nhận cầu hôn.

Vua đến gặp Bồ-tát và nói:

– Thưa Tôn giả, tiểu thư tên là Àsankà.

– Thưa Ðại vương, ngài đã biết tên nàng, vậy hãy đem nàng ra đi.

Vua kính lễ Bồ-tát và đến cung pha lê bảo nàng:

– Này, quý cô nương, phụ thân nàng đã gả nàng cho ta, vậy hãy đến đây ngay.

– Tâu Ðại vương, thiếp sẽ đi xin phép phụ thân. Nàng bảo.

Rồi từ cung pha lê, nàng bước xuống đảnh lễ Bồ-tát, được ngài ưng thuận và cho phép ra đi cùng nhà vua. Vua đem nàng về Ba-la-nại, cùng nàng sống hạnh phúc, sinh được thêm nhiều hoàng tử và công chúa. Còn Bồ-tát tiếp tục hành Thiền định và tái sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Vào lúc các Sự Thật kết thúc, vị Tỷ-kheo được an trú vào Sơ quả (Dự lưu). Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Àsankà là người vợ cũ kia, vua là vị Tỷ-kheo bất mãn này và vị khổ hạnh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chim Thứu Migàlopa (Tiền thân Migàlopa)

Ðường con bay bổng, hỡi con thân…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo bất tuân Giới luật.

Bậc Ðạo Sư hỏi Tỷ-kheo:

– Có thật ông bất tuân Giới luật chăng?

Vị ấy đáp:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Bậc đạo sư bảo:

– Không phải ông bất tuân Giới luật lần đầu, mà xưa kia vì tính ngỗ nghịch không nghe lời khuyên của bậc trí, ông phải mạng vong và gặp cuồng phong Verambla.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm chim Thứu (kên kên) tên Aparanna, sống cùng đoàn chim thứu tùy tùng ở núi Gijjhapabbata (Thứu Sơn). Con ngài tên Migàlopa cường tráng dũng mãnh phi thường. Nó bay cao vượt mức độ các chim thứu khác. Chúng liền kể cho thứu vương nghe con ngài bay quá cao. Ngài gọi Migàlopa đến bảo:

– Này con, chúng bảo con bay quá cao. Nếu quả vậy, con tự gây tử vong cho mình đấy.

Ngài lại ngâm ba vần kệ:

Ðường con bay bổng, hỡi con thân,
Cha thấy chúng sao thật bất an,
Con vụt lên cao xa quá mức,
Vượt vùng ta sống thật an toàn.

Khi đất chỉ là một bãi vuông
Hiện ra phía trước mắt con trông,
Thì nên quay lại thôi con nhé,
Ðừng táo bạo bay vút giữa không.

Chim sải cánh bay tận cõi không,
Chúng thường gặp bão tố cuồng phong,
Khi đang nỗ lực lên cao mãi,
Vì chúng kiêu căng phải mạng vong.

Khinh lời khuyên nhủ thật khôn ngoan
Của đấng lão thân, gặp Hắc Phong,
Tên gọi Ve-ram-bha Bão tố,
Vợ con, gia sản phải tan hoang.

Do vậy những ai chẳng chú tâm
Nghe lời huynh trưởng vẫn khuyên răng,
Như chim kiêu mạn bay đi lạc,
Bất phục lệnh trên, gặp tử thần.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Migàlopa là Tỷ-kheo bất tuân Giới luật và Thứu vương Aparanna chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hai Thiên Nữ Siri Và Kàlakanni (Tiền thân Siri-Kàlakanni)

Ai đây xanh thẩm hóa đen huyền…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).

Từ thời ông được an trú vào quá Dự Lưu, ông hành trì Ngũ giới trọn vẹn. Tất cả vợ con gia nhân của ông đều làm như vậy.

Một hôm tại Chánh pháp đường, Tăng chúng bắt đầu thảo luận xem ông Cấp Cô Ðộc và gia quyến ông có giữ Thánh đạo thanh tịnh chăng. Bậc Ðạo Sư bước vào và được Hội chúng trình bày đề tài ấy, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, các bậc trí thời xưa cũng đã giữ cho toàn gia quyến được thanh tịnh.

Và Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát làm một thương nhân, bố thí, trì giới và toàn thể con cháu, gia nhân trong nhà cũng làm như vậy. Cho nên ngài được gọi là thương nhân Suciparivàra (Toàn gia Thanh tịnh). Ngài suy nghĩ: “Nếu có vị nào giữ đức giới thanh tịnh hơn ta đến đây, và ta mời vị ấy ngồi trên ghế của ta hay nằm trên giường của ta thì không thích hợp, mà ta phải mời ngồi trên bảo tọa thanh tịnh chưa ai dùng”. Như thế ngài dặn gia nhân chuẩn bị một bảo tọa và một bảo sàng mới nguyên đặt vào một bên khách sảnh đặc biệt của ngài.

Vào thời ấy trên cõi trời Thiên vương có hai nàng tiên: Kàlakanni (Bất Hạnh), ái nữ của Virùpakkha (Quảng Mục Thiên vương) và Siri (Hạnh Phúc), ái nữ của Dhatarattha (Trì Quốc Thiên vương) cùng đem nhiều vòng hoa và hương liệu đi đến hồ Anotatta để vui chơi tại đó.

Bấy giờ tại hồ đó có nhiều chỗ tắm. Chư Phật có chỗ tắm riêng, các Ðộc Giác Phật có chỗ riêng, các Tỷ-kheo có chỗ riêng, các Thiên tử sáu tầng Dục giới (trong đó có Tứ Thiên vương an trú ở tầng thứ nhất) có chỗ riêng và các Thiên nữ có chỗ riêng.

Hai Thiên nữ này đến đấy và bắt đầu tranh cãi xem ai được tắm trước. Kàlakanni nói:

– Ta ngự trì cõi trần, ta tắm trước mới hợp lý.

– Ta cai quản con đường giới hạnh đem lại địa vị tối cao của nhân loại. Ta tắm trước mới hợp lý. Siri đáp.

Sau đó cả hai đều nói:

– Tứ Thiên vương sẽ biết giữa hai ta ai sẽ phải tắm trước.

Thế là hai nàng đi hỏi các Thiên vương rằng ai giữa hai nàng xứng đáng tắm trước tại hồ Anotatta. Hai Thiên vương Dhatarattha và Virupakkha đáp:

– Chúng ta không thể quyết định được.

Và hai vị giao phận sự ấy cho Virùlha (Tăng Trưởng Thiên vương) và Vesavana (Tỳ-sa-môn Thiên vương). Hai vị này cũng bảo:

– Chúng ta không quyết định được, chúng ta muốn đưa chuyện đến bệ kiến Thiên chủ.

Rồi hai vị đưa chuyện đến Sakka Thiên chủ (Ðế Thích). Thiên chủ nghe chuyện, thầm nghĩ: “Hai này này là ái nữ của Thiên vương chư hầu của ta, ta không thể quyết định được chuyện ấy”, và bảo hai nàng:

– Tại thành Ba-la-nại có một thương nhân tên gọi Suciparivàra, trong nhà vị ấy có đặt sẵn một bảo tọa và một bảo sàng mới nguyên, nàng nào có thể nằm ngồi ở chỗ ấy trước thì xứng đáng là ngườiđược tắm trước.

Kàlakanni nghe vậy lập tức khoác y phục màu xanh, tẩm dầu thơm màu xanh và tô điểm nữ trang màu xanh (Màu xanh tượng trưng điềm xấu). Rồi từ Thiên giới, nàng giáng trần trên một thạch bàn do chiếc cung thần bắn ra. Sau canh giữa đêm, nàng trụ trên không, tỏa ra một làn ánh sáng xanh, không xa vị thương nhân đang nằm trên một bảo tọa trong khách sảnh đặc biệt của lâu đài. Vị thương nhân nhìn lên thấy nàng, song đối với ngài, nàng không có vẻ nhân từ, khả ái. Ngài liền ngâm vần kệ đầu nói chuyện với nàng:

Ai đây xanh thẩm hóa đen huyền,
Không khả ái đâu trước mắt nhìn,
Con gái nhà ai, nàng ấy nhỉ,
Làm sao ta biết, hỡi cô tiên?

Nghe lời này, Kàlakanni ngâm vần kệ thứ hai:

Quảng Mục Thiên vương chính phụ thân,
Kà-li là Bất Hạnh, tai ương,
Xin ngài cho một phòng lưu trú
Kề cận ngài như dạ ước mong.

Sau đó Bồ-tát đáp vần kệ thứ ba:

Nàng vẫn sống theo giới hạnh gì?
Ðường nào nhân thế bước chân đi?
Ðây là câu hỏi xin nàng đáp,
Ta muốn chú tâm để lắng nghe.

Nàng lại ngâm vần kệ thứ tư, giải thích các đặc tính của nàng:

Giả dối, buông lung, cáu kỉnh luôn,
Vong ân, tật đố, dạ xan tham,
Ác nhân, ta giúp thành công để
Thắng lợi làm cho chúng diệt vong.

Nàng còn ngâm thêm vần kệ thứ năm, thứ sáu và thứ bảy:

Sâu hận lại còn thân thiết hơn,
Giao tranh, phỉ báng, lẫn hung tàn,
Kẻ ngu không biết người lương thiện,
Oán ghét lời khuyên, lẫn thiện nhân.

Người nào hành động trí ngu si,
Bằng hữu thảy đều phải chán chê,
Kẻ ấy với ta là bạn đó,
Ta tìm lạc thú ở người kia.

Lúc ấy, bậc Ðại Sĩ ngâm vần kệ thứ tám khiển trách nàng:

Kà-li, nàng hãy bước đi ngay,
Chẳng có gì vui thú ở đây,
Hãy đến các kinh thành xứ khác,
Biến nhanh ra khỏi chốn này.

Kàlakanni nghe vậy, buồn rầu ngâm vần kệ đáp lời:

Ta vẫn biết ngài rõ lắm thay,
Không gì vui thú ở nơi đây,
Những người ác tạo nhiều mưu kế,
Huynh đệ ta làm biến mất ngay.

Khi nàng đã đi rồi, Thiên nữ Siri xuất hiện, với y phục, dầu thơm, nữ trang toàn màu rực rỡ ngay trước cửa phòng khách, vừa tỏa ra một làn ánh sáng toàn màu vàng, nàng đứng trên đất bằng hai chân vững chắc và dáng điệu kính cẩn. Bồ-tát thấy nàng liền ngâm hai vần kệ đầu:

Ai đây màu sáng chói Thiên thần
Trên đất bình yên, dáng thật chân,
Con gái nhà ai, nàng ấy nhỉ,
Làm sao ta biết, hỡi tiên nương?

Siri nghe vậy liền đáp vần kệ thứ hai:

Trì Quốc Thiên vương chính phụ thân,

Ta là Hạnh Phúc, trí am tường,
Thế nhân tán tụng, xin an trú
Ðại sảnh cùng ngài dạ ước mong.

Sau đó ngài hỏi:

Nàng vẫn sống theo giới hạnh gì?
Ðường nào nhân thế bước chân đi?
Ðây là câu hỏi xin nàng đáp,
Ta muốn chú tâm để lắng nghe.

Siri đáp lại:

Người nào dù nóng, lạnh, phong ba,
Ðói khát, ruồi gây bệnh, độc xà,
Phận sự ngày đêm làm tròn vẹn,
Ta luôn quý mến sống cùng nhà.

Nhã nhặn, thiết thân, hạnh chánh chân,
Khoan dung, thẳng thắn, dạ bình an,
Tín thành, thiện cảm, đầy kham nhẫn,
Ta điểm tô thêm mọi phước phần,
Như sóng lan dần trên biển cả,
Một màu sáng chói ngập trùng dương.

Với bạn thân hay chẳng bạn thân,
Với người hơn, kém, hoặc ngang hàng,
Ác nhân hay cả cừu nhân nữa,
Dù tối trời hay giữa ánh quang,
Những kẻ nhân từ không ác ngữ
Tử sinh ta mãi kết thân bằng.

Song nếu kẻ ngu được mến thương
Lại sinh ngạo mạn với kiêu căng,
Con đường bất thiện đầy ngoan cố,
Ta tránh xa như một vũng bùn.

Họa, phúc nghiệp riêng mỗi bản thân,
Chẳng ai tạo nghiệp của tha nhân,
Một người không thể gây tai họa,
Hạnh phúc cho ai ở cõi trần.

Ðó là lời giải đáp của Siri khi được vị thương nhân hỏi. Bồ-tát hoan hỷ trước lời nàng, liền bảo:

– Ðây là sàng tọa thanh tịnh, xứng đáng dành cho nàng. Hãy nằm ngồi lên đó.

Nàng ở lại đến sáng hôm sau giã từ về cõi trời Tứ Thiên vương và tắm trước tiên tại hồ Anotatta. Sàng tọa được Siri dùng tên là Sirisaya. Ðó là nguồn gốc của từ Sirisayana (Bảo tọa, vương sàng) và vì lý do đó, nó được gọi như vậy cho đến ngày nay.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Thiên nữ Siri là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) và thương nhân Suciparivàra chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Kê Vương (Tiền thân Kukkuta)

Chim có cánh hồng sáng rực sao…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo mơ tưởng đời thế tục,

Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Tại sao ông mơ tưởng đời thế tục?

– Bạch Thế Tôn, chính vì tham dục, con đã trông thấy một nữ nhân trang sức diễm lệ.

– Này Tỷ-kheo, nữ nhân cũng như mèo cái, thường dối lừa và tán tỉnh để làm hại kẻ nào đã rơi vào uy lực của họ.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm Gà trống sống trong rừng với đoàn tùy tùng hàng trăm gà trống khác. Không xa đó có một con mèo cái. Nó đã dùng nhiều mưu kế dụ dỗ nhiều gà trống để ăn thịt ngoại trừ Bồ-tát, song Bồ-tát vẫn không rơi vào mãnh lực của nó. Mèo cái nghĩ thầm: “Con Gà trống này thật tinh khôn, song nó biết đâu là ta cũng tinh khôn và đầy phương tiện tinh xảo. Nếu ta dụ dỗ nịnh hót nó và bảo: “Thiếp muốn làm vợ chàng”, rồi sẽ ăn thịt nó khi nó rơi vào tay ta thì tốt biết bao”.

Mèo cái liền đến dưới gốc cây nơi Gà trống đậu và khẩn cầu Gà bằng giọng lưỡi tán tụng vẻ đẹp của Gà trống, vừa ngâm vần kệ đầu:

Chim có cánh hồng sáng rực sao,
Mồng cao rũ xuống đẹp dường bao,
Thiếp nay ước muốn nên chồng vợ,
Bỏ cây xuống với thiếp đây nào!

Bồ-tát nghe vậy suy nghĩ: “Nó đã ăn thịt tất cả họ hàng nhà ta, nay nó lại muốn phỉnh nịnh ta để ăn ta luôn. Ta quyết tìm cách tống nó đi”. Vì thế ngài ngâm vần kệ thứ hai:

Cô nàng quyến rủ, đẹp xinh ôi!
Nàng có bốn chân, tôi chỉ hai,
Chim, thú không bao giờ kết hợp,
Hãy tìm chàng khác thật cân đôi.

Mèo cái liền nghĩ: “Gà trống này tinh khôn khác thường, ta phải quyết dùng mưu này kế nọ dụ nó và ăn thịt nó mới được”. Vì thế nó ngâm vần kệ thứ ba:

Thiếp dâng chàng sắc đẹp thanh xuân,
Lời nói dịu êm nhã nhặn luôn,
Làm vợ quý yêu hay thị nữ,
Tùy nghi đối xử hợp phu quân.

Sau đó Bồ-tát lại nghĩ: “Tốt nhất là phải mạ lỵ nó và tống cổ nó đi nơi khác”, ngài liền ngâm vần kệ thứ tư:

Con Mèo hút máu họ nhà Gà,
Cướp giết bạo tàn thật xấu xa,
Vợ quý ư? Không hề quý trọng
Trong lòng Mèo lúc tán dương ta.

Mèo cái bị tống đi, từ đó không còn dám nhìn mặt Gà được nữa.

*

Vậy khi chúng thấy một anh hùng,
Cả bầy nhi nữ thật tinh khôn
Cố tìm cách để hòng lôi cuốn.
(Cứ xem Mèo cái với Kê vương).

Ai không đối phó trước nguy nan
Đành phải ngã dài ở dưới chân
Cúi mặt phục tùng ngay địch thủ,
Trong niềm uất hận lẫn đau buồn.

Người kịp thời xem xét sự tình
Gian nguy xảy đến số phần mình,
Như Gà trống lánh xa Mèo cái,
Cừu địch kia, cần tránh thật nhánh.

Ðây là các vần kệ phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật và nhận diện Tiền thân. Vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu). Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thuở ấy, Ta chính là Gà trống ấy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Pháp Ấn (Tiền thân Dhammaddhaja)

Hành trì đức hạnh, hỡi chư huynh…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo lừa dối.

Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, kẻ này không chỉ lừa dối lần đầu tiên.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm một con chim. Khi lớn lên ngài sống giữa bầy chim tùy tùng của ngài trên một đảo giữa biển cả.

Một hôm có đoàn thương nhân đem theo một con Quạ và khởi hành ra khơi, đến giữa biển, tàu bị chìm. Con Quạ bay đến đảo này, nghĩ thầm: “Ðây có cả đàn chim lớn, nếu ta dùng kế lừa gạt chúng rồi ăn thịt cả trứng lẫn chim non thì hay biết bao”. Thế rồi nó bay xuống giữa bầy chim, vừa há mỏ vừa đứng một chân trên mặt đất. Bầy chim hỏi:

– Thưa Tôn giả, ngài là ai?

– Ta là một Thánh giả.

– Tại sao ngài chỉ đứng một chân?

– Nếu ta đặt chân kia xuống, quả đất không thể chịu đựng nổi ta.

– Thế tại sao ngài vừa đứng vừa há mỏ?

– Ta không ăn thực phẩm gì cả, chỉ hút gió.

Cùng với lời này, Quạ gọi bầy chim lại bảo:

– Ta sẽ thuyết giáo cho các anh, hãy lắng nghe.

Rồi Quạ ngâm vần kệ đầu để giảng giáo lý:

Hành trì đức hạnh, hỡi chư huynh,
Cầu chúc chư huynh đệ phước lành!
Ta nói lại: hành trì đức hạnh
Ðời này, đời kế đạt an bình.

Ðàn chim không biết Quạ nói thế với âm mưu lừa dối chúng để ăn trứng chim, liền ca ngợi Quạ và ngâm vần kệ thứ hai:

Chim này chánh hạnh, phước ân tràn,
Thuyết giảng chỉ cần đứng một chân.

Bầy chim đầy tin tưởng con Quạ gian ác này, liền bảo:

– Thưa Tôn giả, ngài không cần thực phẩm gì cả, chỉ cần hút gió mà sống, vậy xin ngài canh chừng lứa trứng này và bầy chim non của chúng tôi.

Như thế, chúng bay đi đến nơi ăn thường lệ. Khi chúng đã đi xa, con Quạ độc hại này ăn đầy một bụng cả trứng lẫn chim non. Rồi khi bầy chim trở lại, nó liền đứng yên lặng trên một chân và há mỏ ra.

Ðàn chim không thấy lũ chim non khi bay về tổ liền kêu thét lên:

– Ai có thể ăn chúng rồi chứ?.

Song chúng lại bảo nhau:

– Ông Quạ này là một bậc Thánh mà!

Chúng không nghi ngờ gì con Quạ cả.

Sau đó, một hôm, Bồ-tát nghĩ thầm: “Trước đây không có gì nguy hiểm xảy ra, chỉ từ khi có con Quạ này đến mới bắt đầu có tai họa, vậy tốt hơn phải thử nó”.

Vì thế ngài làm như thể sáp bay đi ăn cùng bầy chim kia, rồi ngài quay lại đậu một chỗ kín đáo. Con Quạ tin tưởng bầy chim đã bay hết liền đứng lên, đến ăn cả trứng lẫn chim non, xong lại đứng trên một chân, há mỏ ra như cũ. Khi bầy chim bay về, Chim chúa tụ tập chúng lại và bảo:

– Hôm nay ta đã quan sát mối hiểm họa đến với đàn con của chúng ta và ta thấy con Quạ gian ác này đã ăn thịt chúng, vậy ta quyết bắt nó.

Như thế ngài họp bầy chim vây quanh con Quạ và bảo:

– Nếu nó bay đi trốn, ta phải bắt lấy nó.

Rồi ngài ngâm các vần kệ tiếp theo:

Các con không biết tính chim này
Khi tán các con, ngu dại thay!
“Ðức hạnh” nó rao, “đức hạnh” mãi,
Rồi ăn cả trứng lẫn con bầy!

Những điều nó giảng, giọng thanh thanh,
Song bọn chúng không thể thực hành,
“Ðức hạnh” nó ồn ào trống rỗng,
Chánh chân của nó chẳng chân thành.

Giả dối trong tâm, lưỡi phỉnh phờ,
Nó là rắn hổ lén bò vô:
Nó nhờ áo khoác ngoài lừa gạt
Dân chúng, vì chúng quá dại khờ.

Lấy mỏ, cánh lôi nó đánh ngay,
Xé tan nó với móng chim này!
Ðời tàn cho đáng, tên hèn hạ
Phản bội niềm tin chính nghĩa đây.

Cùng với những lời này, chính Chim chúa vụt bay lên lấy mỏ đánh vào đầu Quạ và cả đàn chim cũng lấy mỏ và chân đánh Quạ cho đến chết.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy con Quạ là Tỷ-kheo lừa dối này, và Chim chúa chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Lộc Vương Hoan Hỷ (Tiền thân Nandiyamiga)

Bà-la-môn, ngài có vào ngự uyển…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình.

Ngài hỏi vị Tỷ-kheo:

– Có thật là ông phụng dưỡng người thế tục?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn

– Họ là ai?

– Bạch Thế Tôn, đó là cha mẹ con.

– Tốt lành thay, tốt lành thay, này Tỷ-kheo, ông duy trì Giới luật của các trí nhân ngày xưa, vì các vị ấy ngay khi sinh làm súc vật cũng hy sinh tính mạng vì cha mẹ.

Và Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, lúc vua nước Kosala ngự trị dân chúng tại Saketa (tức là Oudh), Bồ-tát được sinh làm con nai. Khi lớn lên, ngài có tên là Nandiyamiga (Hỷ Lộc) với tính tình và đức hạnh ưu thắng, ngài phụng dưỡng song thân mình.

Vua Kosala có ý thích săn bắn, hằng ngày đi vào rừng cùng một đoàn tùy tùng đông đảo, vì thế dân chúng không thể làm nghề canh tác và nghề thương mãi của họ được. Họ tụ tập nhau bàn luận:

– Này các ông, đức vua của chúng ta đang hủy hoại nghề nghiệp của chúng ta, đời sống gia đình tađang tàn tạ, nên chăng là chúng ta phải rào lâm viên Anjanavana lại, làm một cổng lớn, đào một hồ nước và gieo cỏ mọc lên, rồi vào rừng cầm gậy trong tay, đập vào các bụi rậm, như thế đuổi được bầy nai ra và đưa chúng đi vào lâm viên ở như bầy bò trong chuồng? Sau đó chúng ta đóng cổng lại, trình đức vua việc ấy và đi làm công việc của chúng ta?

– Ðó là cách ta phải làm. Họ bảo nhau.

Và họ đồng ý chuẩn bị lâm viên sẵn sàng, rồi vào rừng rào một khoảng rộng, mỗi bề một dặm. Lúc ấy Nandiya đã đem cha mẹ vào một bụi cây nhỏ và nằm xuống đất. Dân chúng cầm khiêng mộc, vũ khí bao vây bụi rậm kề sát nhau, một vài người bước vào tìm. Nai Nandiya thấy họ liền nghĩ: “Thật tốt là ta sẽ hy sinh tính mạng mình hôm nay để cứu cha mẹ”. Như thế, nai đứng dậy chào cha mẹ và nói:

– Thưa cha mẹ, đám người này sẽ trông thấy cả ba chúng ta nếu họ vào trong bụi, cha mẹ chỉ có thể sống sót được bằng một cách duy nhất, và mạng sống cha mẹ là tối thượng: con sẽ hy sinh tính mạng của con vì cha mẹ, bằng cách đứng bên bờ bụi cây và chạy ra ngay khi họ đập vào bụi, sau đó họ sẽ nghĩ rằng chỉ có một con nai nhỏ trong bụi nhỏ này thôi, và sẽ không bước vào trong. Vậy cha mẹ hãy cố hết sức thận trọng.

Thế là nai xin được phép đứng lên sẵn sàng chạy ra.

Ngay khi bụi cây bị đám người đứng bên ngoài bờ đập mạnh và la hét, nai vụt chạy ra nên họ nghĩ rằng chỉ có một con nai trong ấy và không bước vào trong. Nandiya cùng đi với đám nai kia, được đám người ấy xua vào trong lâm viên, rồi họ đóng cổng lại và trình lên đức vua xong xuôi, họ trở về nhà.

Từ đấy, bao giờ vua cũng tự mình đi bắn nai, rồi hoặc vua mang nai về, hoặc truyền người đi tìm nó mang về.

Bầy nai chuẩn bị chờ đến phiên mình, con nào đến phiên phải đứng sang một bên, rồi họ mang nóđi khi nó đã bị bắn chết. Nandiya cứ uống nước trong hồ và ăn cỏ, nhưng chưa đến phiên mình. Nhiều ngày sau cha mẹ ngài mong muốn gặp con. Liền nghĩ: “Con ta Nandiya là Lộc vương, mạnh khỏe như voi và hoàn toàn tráng kiện. Nếu còn sống chắc chắn nó sẽ nhảy rào về thăm chúng ta rồi”. Vì thế hai vị đứng bên vệ đường, vừa thấy một Bà-la-môn, liền hỏi bằng giọng người:

– Thưa Tôn giả, ngài đi đâu thế?

– Ði Sàketa. Vị ấy đáp.

Nghe vậy, hai vị muốn nhắn đôi lời cho con bèn ngâm vần kệ đầu:

Bà-la-môn, ngài có vào ngự uyển,
Khi ngài đi qua xứ Oudh, kinh đô,
Xin tìm Nan-di yêu dấu của ta
Và nhắn gửi một đôi lời chân thật:
Qua tháng năm cha mẹ già kiệt lực,
Lòng khát khao mong mỏi đợi con về.

Vị Bà-la-môn bảo:

– Ðược lắm.

Và ông nhận lời.

Ngày hôm sau ông đi đến Sàketa, vào vườn ngự uyển và hỏi lớn:

– Nai nào là Nandiya?

Nai chúa đến gần ông và bảo:

– Ta đây.

Vị Bà-la-môn nói lại lời nhắn kia, Nandiya nghe vậy đáp.:

– Này Bà-la-môn, ta có thể ra đi. Chắc chắn ta có thể nhảy rào trốn đi. Song ta đã thọ hưởng thức ăn nước uống đầy đủ của đức vua và việc ấy đối với ta như một món nợ. Ngoài ra, ta đã sống lâu nay với bầy nai này, thật không hợp lý nếu ta ra đi mà không làm ích lợi cho đức vua và bầy nai nữa, hoặc không chứng tỏ sức mạnh của ta. Vậy khi nào đến phiên ta, ta sẽ làm lợi ích cho cả người lẫn vật rồi an vui trở về.

Ðể giải thích điều này, ngài ngâm hai vần kệ:

Ta đội ơn vua, ăn uống tràn trề,
Chưa đi được, chờ khi làm ích lợi.

Trước cung vua, ta sẽ giơ sườn đợi,
Rồi về thăm cha mẹ để thanh minh.

Vị Bà-la-môn nghe lời này liền bỏ đi.

Sau đó, vào ngày đến lượt nai chúa, vua cùng đoàn tùy tùng đông đảo vào vườn ngự uyển. Bồ-tátđứng sang một bên. Vua bảo:

– Ta sẽ bắn nai này.

Và vua lắp một mũi tên nhọn vào dây cung. Bồ-tát chẳng bỏ chạy như các con nai khác khi sợ chết, mà lòng đầy can đảm và lấy từ ái làm kim chỉ nam. Ngài đứng yên phô bày bộ xương sườn thật cường tráng.

Do động lực của từ tâm ấy, vua không thể thả mũi tên ra. Bồ-tát bảo:

– Tâu Ðại vương, tại sao Ðại vương không bắn? Xin hãy bắn đi.

– Này Lộc vương, trẫm không thể bắn được.

– Tâu Ðại vương, thế thì xin hãy xem các công đức của người giữ giới hạnh.

Sau đó vua hoan hỷ với lời của Bồ-tát, liền thả cung xuống và bảo:

– Khúc gỗ vô tri giác này không biết đức độ của Nai chúa, chứ trẫm là người có tri giác lẽ nào không hiểu? Hãy tha thứ cho trẫm, nay trẫm cho Nai chúa được bình an.

– Tâu Ðại vương, ngài cho ta được bình an, song còn cả đàn nai trong ngự viên này thì sao?

– Trẫm cũug sẽ cho chúng bình an nữa.

Như vậy sau khi tạo được bình an cho tất cả bầy nai trong lâm viên, chim muông trên trời và bầy cá dưới nước, theo cách được miêu tả trong Tiền thân Nigrodhamiga (số 12), Bồ-tát làm vua an trú vào Ngũ giới và bảo:

– Tâu Ðại vương, tốt lành thay cho một đức vua cai trị quốc độ bằng cách từ bỏ mọi ác đạo, không xâm phạm Thập vương pháp (Mười đức tính của vị vua) và hành động chân chánh:

Bố thí, nhân từ, đức hạnh, công bình,
Thân ái, nhu mì, ôn hòa, nhẫn nhục,
Ăn năn, bi mẫn, là mười giới đức

Ta thấy luôn vững chắc ở trong tâm.
Từ đó khởi sinh cả một từ ân
Thật hoàn thiện và nội thân an lạc.

Cùng với những lời này, ngài nêu rõ mọi đức tính của một vị vua hiền qua hình thức một lời kệ.

Sau vài ngày ở lại cùng nhà vua, ngài ra lệnh truyền một chiếc trống bằng vàng đi khắp kinh thành, công bố lời hứa bình an cho mọi loài. Sau đó ngài bảo:

– Xin Ðại vương hãy cẩn trọng hộ phòng.

Rồi ngài ra về thăm cha mẹ.

*

Xưa ta chính Lộc vương trong xứ Oudh,
Tánh và danh là Hoan hỷ, Nan-di

Muốn giết ta trong ngự uyển, ngày kia
Ðức vua đến, tên nằm trên dây sẵn.

Ta phơi sườn trước tên vua đòi bắn,
Rồi về thăm cha mẹ để thanh minh.

Ðây là những vần kệ phát sinh từ Trí tuệ Tối thắng (của đức Phật).

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Vào lúc các Sự Thật kết thúc, vị Tỷ-kheo được an trú vào Sơ quả (Dự lưu). Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, song thân là phụ vương và mẫu hậu trong hoàng gia, vị Bà-la-môn là Sàriputta, vua là Ànanda và ta chính là Lộc vương.

-ooOoo-

386.Chuyện Con Lừa (Tiền thân Kharaputta)

Bậc trí bảo Dê quả thật ngu…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này tại Kỳ Viên về sự cám dỗ của người vợ cũ đối với một Tỷ-kheo.

Khi Tỷ-kheo ấy thú nhận rằng mình đang mơ tưởng đời thế tục, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, nữ nhân này đang làm hại ông, ngày xưa ông cũng đã nhảy vào lửa vì kẻ ấy, và đãđược các trí nhân cứu mạng.

Rồi Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vị vua mệnh danh Senaka trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát là Sakka Thiên chủ, vua Sekana kết thân với một vua loài Nàga (Rắn thần).

Tương truyền vị vua rắn Nàga này thường rời thế giới Nàga đi quanh quẩn trên cõi đất kiếm mồi. Bọn trai làng thấy vậy bảo nhau:

– Ðây là con rắn.

Rồi chúng lấy đất đá đập rắn. Nhân lúc vua đang du ngoạn trong ngự viên thấy chúng và nghe chúng đang đánh một con rắn, liền bảo:

– Ðừng cho chúng đánh rắn, đuổi chúng đi.

Và lệnh này được thi hành ngay.

Do đó vua Nàga được cứu mạng, khi trở về thế giới Nàga, vị ấy lấy nhiều châu báu, rồi nửa đêmđi đến cung thất vua dâng các tặng vật và thưa:

– Tiểu thần được ngài cứu mạng.

Từ đó vị ấy kết giao với vua nên cứ lui tới yết kiến ngài.

Vua rắn Nàga truyền lệnh cho một cung nữ Nàga, vốn tham đắm dục lạc vô độ, đến hầu cận vua và bảo vệ ngài. Vua rắn còn cho ngài một câu chú thần và bảo:

– Hễ khi nào ngài không thấy nàng ấy, xin cứ đọc chú thần này.

Một hôm vua vào ngự viên cùng với cung nữ Nàga và vui đùa trên hồ sen.

Cung nữ Nàga nhìn thấy một con rắn nước, liền bỏ lốt người và tình tự với rắn nước. Vua không thấy cô gái, liền hỏi:

– Nàng đi đâu rồi?

Và vua đọc thần chú. Ngay lúc đó vua thấy tà hạnh của nàng nên lấy gậy tre đánh nàng. Nàng tức giận bỏ về thế giới Nàga và khi được hỏi:

– Tại sao nàng trở về?

– Thân hữu của ngài đánh thiếp trên lưng vì thiếp không tuân lệnh.

Nàng đáp và chỉ vết thương.

Vua Nàga không biết sự thật, liền gọi bốn thanh niên Nàga ra lệnh cho họ vào vương thất vua Senaka và dùng hơi độc thoát ra từ lỗ mũi để giết vua tan như trấu. Họ vào cung thất đúng giờ đi ngủ. Khi họ vừa đến, vua nói với hoàng hậu:

– Này ái hậu, nàng có thấy cô gái Nàga đâu không?

– Tâu Ðại vương, thiếp không thấy.

– Hôm nay lúc chúng ta đang tắm trong hồ, nàng Nàga ấy bỏ lốt người và ân ái với một con rắn nước. Ta bảo đừng làm vậy, rồi đánh cho nó một gậy tre để trừng trị nó, nay ta sợ nó đã có thể trở về cõi rắn Nàga và nói dối trá với thân hữu ta, tiêu hủy luôn thiện chí của vị ấy đối với ta.

Các thanh niên Nàga nghe vậy liền quay về cõi rắn Nàga lập tức và tâu trình vua rắn. Vị ấy xúc động liền đến ngay vương thất kể lại mọi chuyện và được vua tha thứ. Sau đó vị ấy nói:

– Xin cho tôi chuộc lỗi và đền bù bằng cách này.

Rồi trao cho vua một thần chú biết được mọi thứ âm thanh:

– Tâu Ðại vương, đây là một thần chú vô giá, nếu ngài cho ai thần chú này, lập tức ngài sẽ nhảy vào lửa mà chết.

– Quý báu thay. Vua đáp và nhận thần chú.

Từ đó vua hiểu được mọi tiếng nói, thậm chí cả tiếng loài kiến. Một hôm ngài ngự trên bảo tọa ăn các thứ bánh cứng với mật ong và mật mía. Rồi một giọt mật ong, một giọt mật mía và một miếng bánh rơi xuống đất. Một con kiến thấy vậy liền kêu lên:

– Bình mật ong của vua bị vỡ trên bảo tọa rồi, xe mật mía và xe bánh đổ rồi. Mau mau đến ăn mật ong, mật mía và bánh ngọt, các cậu ơi.

Vua nghe tiếng kêu ấy bật cười lớn. Hoàng hậu ngồi gần nghĩ thầm “Chúa thượng thấy gì khiến ngài cười to vậy?”

Khi vua đã ăn phần thực phẩm cứng ấy, đã tắm mát xong, lại ngồi xếp bằng, một con ruồi bảo vợ nó:

– Này nàng ơi, chúng ta hãy ân ái cùng nhau.

– Này phu quân, xin hãy thứ lỗi cho thiếp, một lát nữa, nô tỳ đang đem hương liệu đến dâng đức vua, trong khi ngài xoa thân thể, một vài bụi phấn sẽ rơi xuống chân, thiếp sẽ đậu ở đó cho thơm tho rồi chúng ta sẽ ân ái cùng nhau trên lưng ngài. Vợ nó đáp.

Vua nghe tiếng ruồi liền bật cười lần nữa. Hoàng hậu lại nghĩ: “Ngài đã trông thấy gì khiến ngài cười lớn vậy?”.

Lần khác, khi vua đang dùng bữa tối, một cục cơm rớt xuống đất, bầy kiến kêu to:

– Một xe cơm đã đổ trong cung vua, thế mà chẳng có ai ăn hết.

Vua nghe vậy lại cười lớn, hoàng hậu cầm chiếc muỗng vàng dâng thức ăn cho vua, suy nghĩ: “Có phải vì thấy ta mà Chúa thượng cười ta chăng?”. Bà về hậu cung với nhà vua và đến giờ ngủ, bà hỏi:

– Tâu Ðại vương, tại sao Ðại vương cười lớn ban nãy?

– Nàng có liên hệ gì đến việc ta cười ư?

Song cứ nghe hỏi đi hỏi lại mãi, vua đành kể chuyện cho bà. Sau đó bà bảo:

– Cho thiếp thần chú hiểu biết âm thanh đó đi.

– Không thể được. Ngài đáp.

Song dù bị từ chối nhiều lần, bà vẫn thúc giục vua. Vua đáp:

– Nếu ta cho nàng thần chú này, ta sẽ chết mất.

– Dù Ðại vương có từ trần đi nữa, cũng cứ cho thiếp thần chú ấy đi mà.

Vua bị mãnh lực nữ nhân thôi thúc, đành chấp nhận bảo:

– Thôi được.

Rồi vua ngự lên vương xa, đi vào ngự viên và nói:

– Ta sẽ nhảy vào lửa sau khi cho thần chú này.

Ngay lúc ấy, Sakka Thiên chủ nhìn xuống cõi đất và thấy việc này, ngài bảo:

– Hôn quân si ám này biết mình sắp nhảy vào lửa do áp lực nữ nhân, hiện đang ra đi, vậy ta hãy cứu mạng vua ấy.

Vì thế ngài đem theo Sujà, ái nữ của vua loài Asura (A-tu-la) cùng xuống thành Ba-la-nại. Ngài biến thành Dê đực, còn Sujà biến thành Dê cái, rồi quyết định tránh cho dân chúng khỏi thấy hai vị, ngài đứng ngay trước vương xa. Vua và các con Lừa Sindh trông thấy ngài, ngoài ra không ai thấy được. Ðể khởi đầu câu chuyện, ngài làm như thể ngài đang tình tự với con Dê cái. Một con Lừa Sindh kéo xe bảo:

– Này bạn Dê, trước kia chúng ta từng nghe chứ chưa từng thấy, rằng loài dê thật ngu xuẩn và vô liêm sỉ. Còn nay bạn đang làm việc ấy ngay trước mắt chúng ta nhìn, cái việc phải làm nơi kín đáo, riêng tư và không phải xấu hổ vì nó. Những gì chúng ta đã nghe trước kia thật phù hợp vớiđiều chúng ta đang thấy.

Và vì thế, Lừa liền ngâm vần kệ đầu:

Bậc trí bảo dê quả thật ngu,
Những lời chân thật tự bao giờ,
Dê này không biết mình phô diễn
Những việc phải làm kín đáo ư?

Dê nghe vậy, đáp lại hai vần kệ:

Này ông Lừa hỡi, nghĩ xem nào,
Rồi thấy là ông ngốc biết bao,
Ông bị buộc dây thừng trói chặt,
Hàm ông tréo, mắt chẳng nhìn cao.

Khi được thả ra chẳng chạy ngay,
Vì ông quen thói thật ngu thay,
Vua Se-nak ấy ông chuyên chở
Còn thật ngu hơn cả chú mày!

Vua nghe hiểu câu chuyện giữa hai con vật, liền bảo xe chạy thật nhanh. Con Lừa nghe Dê nói chuyện liền ngâm vần kệ thứ tư:

Vậy này Dê chúa, dám thưa ngài,
Tôi đại ngu, ngài hiểu quá rồi,
Còn chuyện vua Se-nak xuẩn ngốc,
Làm ơn giải thích rõ cho tôi.

Dê ngâm vần kệ thứ năm giải thích việc này:

Vua có một kho báu hiển linh,
Lại vì hoàng hậu ném cho nhanh,
Không khuyên hoàng hậu trung thành được,
Ðành phải hy sinh tính mạng mình.

Vua nghe lời ấy, liền bảo:

– Này Dê chúa, chắc chắn ngài sẽ làm ích lợi cho ta, vậy hãy cho ta biết phải làm gì bây giờ?

Dê đáp:

– Tâu Ðại vương, đối với mọi loài hữu tình, không ai thân thiết hơn bản thân mình. Hủy hoại mình và hy sinh danh dự mình đã tạo được vì một vật thân thiết nào đó điều không ích lợi gì cả.

Rồi Dê lại ngâm vần kệ thứ sáu:

Như ngài ở địa vị vương quân
Có thể mang nhiều nỗi ước mong,
Song phải bỏ ngay niềm ước vọng,
Nếu thân ngài phải chịu thương vong.

Ðời người quả thật là quan trọng
Còn kiếm gì cao hơn bản thân?
Nếu tính mạng duy trì trọn vẹn,
Thì không cần ước vọng cầu mong!

Bồ-tát khuyến giáo vua như vậy. Vua hoan hỷ, hỏi:

– Này Dê chúa, ngài từ đâu đến đây?

– Thưa Ðại vương, ta là Sakka Thiên chủ, đến cứu ngài khỏi chết vì thương tưởng ngài đó.

– Tâu Thiên chủ, trẫm đã hứa cho hoàng hậu thần chú. Vậy nay trẫm phải làm gì?

– Không cần phải làm gì tổn hại đến hai vị. Chỉ cần ngài bảo: “Ðây là cách được thần chú”, rồi sai người đánh bà ấy vài roi, nhờ cách này, bà ấy sẽ không đòi nó nữa.

– Tốt lắm! Vua bảo và đồng ý ngay.

Sau khi khuyến cáo vua xong, Bồ-tát trở về cõi trời. Còn vua vào ngự viên, triệu hoàng hậu đến chầu và bảo:

– Này Hoàng hậu, nàng muốn có thần chú chăng?

– Tâu Chúa thượng, vâng.

– Vậy thì hãy theo thông lệ này.

– Thông lệ nào thế?

– Một trăm roi trên lưng nhưng không được kêu la.

Bà hoàng đồng ý vì quá ham mê thần chú. Vua bảo các nữ tỳ lấy roi đánh hai bên hông bà. Bà chỉ chịu được hai ba roi rồi kêu lớn:

– Thiếp không muốn thần chú nữa!

– Nàng đã có thể giết ta chỉ vì muốn có thần chú ấy. Vua bảo.

Rồi vua tự tay đánh trầy da lưng hoàng hậu và đuổi đi. Từ đó về sau bà chẳng dám nói đến chuyện ấy nữa.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Vào lúc các Sự Thật kết thúc, vị Tỷ-kheo được an trú vào Sơ quả (Dự lưu). Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vua là vị Tỷ-kheo bất mãn, hoàng hậu là vợ cũ vị ấy, con lừa là Sàriputta và Sakka Thiên chủ chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cây Kim (Tiền thân Sùci)

Xâu nhanh, trơn láng, thẳng ngay…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự thành tựu Tối thắng Trí.

Hoàn cảnh câu chuyện sẽ đọc kể trong Tiền thân Mahaummagga, số 546. Bậc Ðạo Sư bảo chúng Tăng:

Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên Như Lai có trí tuệ và nhiều phương tiện thiện xảo.

Rồi ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh ở quốc độ Kàsi trong nhà một thợ rèn và khi lớn lên, ngài rất tinh thông nghề này. Cha mẹ ngài rất nghèo. Không xa làng này có một làng khác gồm một ngàn nhà. Người trưởng nghiệp đoàn của cả ngàn thợ rèn này là người được vua ân sủng, giàu tiền của và thế lực. Con gái vị này cực kỳ diễm lệ, chẳng khác nào một Thiên nữ, đầy đủ mọi hảo tướng cát tường của một mệnh phụ phu nhân. Nhiều người từ các làng chung quanh đến nhờ rèn dao kiếm, rìu búa, lưỡi cày, gậy nhọn… đều trông thấy nàng.

Khi họ trở về làng, họ ca tụng sắc đẹp của nàng ở những nơi có đàn ông tụ tập và nhiều nơi khác. Chỉ mới nghe nói về nàng thôi, Bồ-tát đã cảm thấy say mê và nghĩ thầm: “Ta sẽ lấy nàng làm vợ”. Vì thế ngài lựa thứ sắt tốt nhất, làm một cây kim thật cứng và mạnh có thể đâm thủng con súc sắc và nổi trên nước. Rồi ngài làm một cái bao bọc ngoài nó cùng thứ sắt ấy và cũng đâm thủng con súc sắc với bao kim kia.

Theo cách ấy, ngài làm bảy cái bao kim, phương pháp Ngài làm chúng ra sao không được tiết lộ, vì việc ấy thành tựu nhờ trí tuệ hiểu biết vĩ đại của ngài. Sau đó ngài đặt kim vào ống và để ống vào một cái hộp, ngài đi vào làng kia, hỏi đường đến nhà trưởng phường thợ rèn. Rồi đứng tại cửa nhà ấy, ngài hỏi:

– Ai muốn mua cây kim loại đặc biệt này của tôi đổi lấy tiền chăng?

Và vừa đứng cạnh nhà ông trưởng phường thợ rèn, ngài ngâm vần kệ miêu tả cây kim:

Xâu nhanh, trơn láng, thẳng ngay,
Ðược bôi bóng nhoáng bột mài xanh xanh,
Ðầu kim sắc nhọn, thanh thanh,
Kim đây, ai muốn mua mình trao tay?

Sau đó ngài lại ca tụng cây kim lần nữa qua vần kệ thứ hai:

Xâu nhanh, vững mạnh, thẳng ngay,
Thân kim khèo luyện tròn đầy đẹp sao!
Sắt kia cũng sẽ xuyên vào,
Kim đây ai muốn mua nào ai ơi!

Lúc ấy cô gái đang quạt cho cha bằng chiếc quạt lá thốt nốt trong lúc ông nằm trên chõng tre để được thoải mái sau buổi điểm tâm. Khi nghe giọng ngọt ngào của Bồ-tát, nàng đã cảm thấy buồn nôn như thể nuốt một miếng thịt sống, và phải làm cho sự khó chịu ấy tan biến bằng cả ngàn ấm nước, nàng bảo:

– Người nào đây lại có thể rao bán kim với giọng ngọt ngào như thế trong một làng thợ rèn? Nguời ấy đến đây vì việc gì? Ta phải tìm xem sự việc ra sao.

Vì thế nàng đặt cây quạt xuống và bước ra bên ngoài, đứng ở hành lang. Mục đích của chư Bồ-tát luôn đạt thành tựu: chính vì nàng mà ngài đã đến ngôi làng này. Nàng bảo ngài:

– Này cậu, dân chúng trong nước đều đến làng này mua kim và các vật dụng tương tự. Còn cậu lại muốn bán kim trong làng thợ rèn thật là điên rồ! Dù cậu có ca tụng kim của cậu suốt ngày, cũng không ai mua hàng của cậu đâu. Nếu cậu muốn được giá thì qua làng khác.

Thế rồi nàng ngâm hai vần kệ:

Móc câu ta đã bán rồi,
Làng trên xóm dưới ai người chẳng hay?
Thợ rèn ta ở thành này,
Còn ai bán được kim may nữa à?

Nghề rèn nổi tiếng chúng ta,
Việc làm khí cụ ai mà sánh ngang?
Thợ rèn ta ở trong làng,
Ai còn đem bán kim mang tới mình?

Bồ-tát nghe lời nàng, vội đáp:

– Thưa cô nương, cô nói vậy là do không hiểu biết gì cả đó.

Rồi ngài ngâm hai vần kệ:

Thợ rèn ta ở trong thành,
Nhưng người tài bán kim mình mới hay!
Tổ sư nghề sẵn trong tay,
Món hàng đệ nhất mua ngay kẻo hoài!

Một khi nghiêm phụ biết rồi
Cây kim này đã do tôi tự làm,
Tôn ông chắc chắn sẽ ban
Gia tài sản nghiệp cùng nàng cho tôi!

Người trưởng phường rèn nghe toàn thể câu chuyện, liền gọi con gái vào hỏi:

– Con đang nói chuyện với ai đó?

– Thưa cha, một cậu trai bán kim.

– Thế cho gọi cậu ấy vào đây.

Nàng ra gọi ngài vào. Bồ-tát kính chào vị trưởng phường rèn xong, đứng sang một bên. Ông hỏi:

– Cậu ở làng nào?

– Thưa Tôn ông, tôi ở làng nọ, là con trai gia đình thợ rèn kia.

– Tại sao cậu đến đây?

– Thưa, để bán kim.

– Nào, đưa ta thử xem kim của cậu.

Bồ-tát mong muốn công bố mọi đặc tính của ngài giữa nhiều người, liền nói:

– Một vật được nhiều người xem lại chẳng tốt hơn chỉ được một người xem hay sao?

– Này bạn, đúng lắm.

Vì thế vị phường trưởng tập hợp tất cả thợ rèn lại và đứng giữa đám đông, ông bảo:

– Nào bạn, hãy lấy kim ra đây.

– Thưa Tôn ông, xin hãy bảo lấy một cái đe và một cái dĩa bằng đồng đựng đầy nước ra đây.

Việc ấy được thực hiện ngay. Bồ-tát lấy cây kim ra khỏi hộp đưa cho đám kia xem. Ông trưởng phường rèn cầm lấy và hỏi:

– Ðây là cái kim chăng?

– Không, đó không phải là cái kim, mà là cái bao.

Ông phường trưởng quan sát kỹ cũng không thấy đầu đuôi gì cả. Bồ-tát lấy lại, dùng móng tay rút cái bao ra và chỉ cho mọi người:

– Ðây là cây kim, đây là cái bao.

Ngài đặt cây kim trong tay ông phường trưởng và cái bao dưới chân. Ông phường trưởng lại bảo:

– Ta chắc đây là cây kim rồi.

Ngài đáp:

– Ðây cũng chỉ là cái bao kim.

Rồi ngài lấy móc tay đánh bật nó ra và cứ thế ngài đặt sáu cái bao liên tiếp dưới chân vị phường trưởng và nói:

– Ðây là cây kim, và đặt kim vào tay vị kia.

Cà ngàn người thợ rèn búng ngón tay một cách thích thú và bắt đầu vẫy khăn tung hô. Sau đó vị trưởng phường hỏi:

– Này bạn, thế cây kim này có sức mạnh thế nào?

– Thưa Tôn ông, hãy bảo một người lực lưỡng nâng nghiêng cái đe này lên và đặt chậu nước dưới cái đe. Sau đó đâm thẳng cây kim vào cái đe.

Ông bảo làm đúng như vậy và đâm đầu nhọn của kim vào cái đe. Cây kim xuyên thủng cái đe và nằm ngang mặt nước không nhếch lên hay lệch xuống tý nào dù chỉ bằng một sợi tóc.

Mọi người thợ rèn đồng thanh bảo:

– Chúng ta chưa từng bao giờ nghe thậm chí qua lời đồn đại hiện có những người thợ rèn tài giỏi như thế này.

Như thế họ lại búng ngón tay và tung vẫy cả ngàn chiếc khăn. Ông phường trưởng gọi cô con gái vào, và đứng giữa đám đông ông bảo:

– Ðây là cô gái xứng đôi với cậu.

Ông liền rót nước giao kết trên tay hai vị và trao nàng cho ngài đem đi. Về sau khi vị trưởng phường qua đời, Bồ-tát trở thành trưởng phường rèn trong làng ấy.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, con gái người trưởng phường rèn là mẫu thân của Ràhula (La-hầu-la), và chàng thợ rèn thông minh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Heo Mõm Dài (Tiền thân Tundila)

Em lo chuyện lạ hôm nay…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo sợ chết.

Vị ấy là một thiện gia nam tử ở thành Sàvatthi (Xá vệ) và được thọ giới trong Ðạo pháp, song ông sợ chết và thậm chí nghe một bụi cây hơi lay động, tiếng cành khô rơi hay tiếng chim, tiếng thú, ông cũng hoảng kinh vì sợ chết rồi bỏ chạy, run rẩy toàn thân như con thỏ bị thương ở bụng. Tăng chúng trong Chánh pháp đường bắt đầu bàn luận, bảo nhau:

– Này, các Hiền giả, vị Tỷ-kheo kia sợ chết, cứ run rẩy bỏ chạy khi nghe chỉ một tiếng động nhỏ. Giờ đây đối với mọi loài trên thế giới, chết là việc tất nhiên, đời sống không có gì vững bền cả,điều này lại chẳng nên sáng suốt ghi nhớ trong tâm trí hay sao?

Bậc Ðạo Sư bước vào thấy đây là đề tài của chư vị, và vị Tỷ-kheo kia công nhận mình hay sợ chết, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu vị ấy sợ chết đâu.

Và ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát nhập thai một heo rừng. Khi đến kỳ, heo mẹ sinh hai con heo đực. Một hôm heo mẹ đem hai con vào nằm trong cái hố. Một bà già ở trong làng tại cổng thành Ba-la-nại đi về nhà với một thúng đầy bông vải hái ngoài đồng và gõ cây gậy xuống đất kêu lóc cóc.

Heo cái nghe tiếng động, sợ chết liền bỏ hai con chạy trốn. Bà già thấy hai heo con cảm thấy thương yêu như thể con đẻ mình, liền bỏ chúng vào thúng và mang về nhà. Sau đó bà đặt tên heo lớn là Mahàtundila (Heo lớn mõm dài) và heo nhỏ là Cullatundila (Heo bé mõm dài), rồi nuôi nấng chúng như con đẻ.

Theo thời gian, chúng lớn dần và mập mạp. Khi bà già được ai hỏi bán heo để lấy tiền, bà đáp:

– Chúng là con tôi đấy.

Và bà không muốn bán.

Vào một ngày hội có đám đàn ông thô tục đang uống rượu nồng, và khi thịt đã hết, họ tìm xem nơi nào có thể mua thịt. Khi thấy có heo trong nhà bà già, họ đem tiền tới nói:

– Mẹ ơi, lấy tiền này rồi cho chúng con một con heo đi.

– Thôi vừa rồi các chú, có ai lại muốn bán con mình cho người ăn thịt chăng? Bà đáp rồi từ chối bọn họ.

– Mẹ ơi, heo làm sao thành con của người được? Xin mẹ cho chúng con đi nào.

Họ nói thế nhưng cũng không mua heo được, dù cứ hỏi đi hỏi lại mãi.

Sau đó họ cho bà già uống rượu mạnh, đến khi bà đã say, họ nói:

– Này mẹ, mẹ định làm gì với đám heo này? Lấy tiền đi mà tiêu xài chứ.

Họ dúi số tiền vào tay bà già. Bà nhận tiền và bảo:

– Ta không thể cho các cậu con heo Lớn, hãy bắt Heo nhỏ đi.

– Nó đâu rồi?

– Nó nằm trong bụi cây kia.

– Gọi nó đi.

– Ta không có thức ăn để gọi nó.

Họ liền bảo đi mua một chảo cơm đem tới ngay. Bà già cầm chảo cơm, đổ đầy vào máng cạnh cửa lớn và đứng đợi gần đó. Ba mươi người đứng gần đó với thòng lọng trong tay. Bà già gọi:

– Này đến đây, Heo bé mõm dài, đến đây.

Heo lớn nghe thế, thầm nghĩ: “Lâu nay mẹ chưa hề gọi Heo bé như thế, bao giờ mẹ cũng gọi ta trước. Chắc chắn có gì nguy hiểm xảy ra cho chúng ta hôm nay”. Heo lớn bảo em:

– Này em, mẹ đang gọi em, hãy ra tìm xem.

Heo bé đi ra, thấy đám người đang đứng cạnh máng ăn, liền nghĩ: “Hôm nay chắc ta chết mất”. Thế rồi vì sợ chết, nó run rẩy quay lại với anh, và khi đã trở về chỗ cũ, nó cũng không kiềm chế được mình nên cứ quay cuồng run rẩy mãi. Heo lớn thấy vậy bảo:

– Này em, hôm nay em run rẩy quay cuồng nhìn chằm chằm về phía cổng. Tại sao em làm vậy?

Heo bé ngâm vần kệ đầu giải thích sự việc nó đã thấy:

Em lo chuyện lạ hôm nay,
Mẹ mình đứng cạnh máng đầy thức ăn,
Người cầm thòng lọng đứng gần,
Ðến ăn chắc hẳn hại thân mình rồi.

Bồ-tát nghe thế bảo:

– Này em Heo bé, mục đích mẹ ta nuôi heo bấy lâu nay đến giờ đã thành tựu, thôi đừng buồn khổ nữa.

Rồi với giọng ngọt ngào và vẻ bình thản của một vị Phật, ngài thuyết Pháp qua đôi vần kệ:

Hãi kinh, cầu cứu, run hoài,
Không ai cứu giúp em đòi trốn đâu?
Ăn đi, Heo bé chớ sầu,
Mẹ nuôi ta béo vì cầu thịt heo!

Nhào vô ao nước trong veo,
Mồ hôi cấu uế thật nhiều, rửa đi!
Rồi em sẽ thấy diệu kỳ,
Dầu thơm mát dịu không hề biến suy.

Trong khi ngài xem xét Thập hạnh viên mãn (Ba-la-mật), ngài đặt Từ hạnh viên mãn ra trước mặt làm kim chỉ nam và ngâm hai vần kệ đầu, giọng ngài lan xa tận Ba-la-nại khắp cả mười hai dặm. Ngay lúc nghe giọng ấy, toàn dân Ba-la-nại từ quốc vương, phó quốc vương trở xuống đều đi đến đây, cùng những ai không đến đều đứng nghe trong nhà họ.

Quân sĩ nhà vua chặt hết bụi cây, san bằng mặt đất và rải cát lên. Ðám người thô tục đã tỉnh cơn say rượu, liền quăng bỏ thòng lọng và đứng nghe Pháp, bà già nọ cũng tỉnh rượu luôn. Bồ-tát bắt đầu thuyết Pháp cho Heo bé giữa đám quần chúng.

Heo bé nghe ngài, nghĩ thầm: “Anh ta bảo như vậy với ta, nhưng chúng ta chưa bao giờ có thói quen nhảy vào ao nước, rồi nhờ cách tắm rửa mồ hôi cho sạch thân thể và sau khi tẩy cấu uế cũ, liền tẩm dầu thơm mới vào: tại sao anh ta lại bảo vậy với ta?”. Do đó Heo bé ngâm vần kệ thứ tư:

Gì là ao nước pha lê,
Mồ hôi cấu uế nói về điều chi?
Dầu xoa kỳ diệu là gì?
Mùi hương ngào ngạt chẳng khi nào tàn?

Bồ-tát nghe vậy liền bảo:

– Hãy lắng tai nghe đây.

Và ngài ngâm các vần kệ thuyết Pháp với dáng an tịnh của một vị Phật:

Pháp là ao nước trong ngần,
Mồ hôi cấu uế lỗi lầm mê si,
Dầu thơm đức hạnh tẩm đi,
Mùi hương mãi mãi chẳng hề tàn phai.

Người không sinh mạng là vui,
Người còn sinh mạng bời bời lo toan.
Con người phải chết, chớ buồn,
Hãy vui như hội trăng tròn quanh năm.

Như vậy bậc Ðại Sĩ thuyết Pháp bằng giọng ngọt ngào với vẻ kỳ diệu của một vị Phật. Ðám đông hàng ngàn người búng ngón tay, vẫy khăn tung hô và bầu không khí vang dậy tiếng reo:

– Tốt lành thay, tốt lành thay!

Vua Ba-la-nại tôn kính mời Bồ-tát lên vương tọa, và làm cho bà già vinh hiển bằng cách truyền tắm hai chú Heo với nước tẩm hương, mặc lễ phục, trang điểm vàng ngọc trên cổ và ban cho địa vị các vương tử trong kinh thành. Vì thế vua bảo vệ hai chú Heo với một đoàn quân hộ tống đông đảo.

Bồ-tát dạy Ngũ giới cho vua và tất cả dân chúng ở Ba-la-nại cùng Kàsi đều giữ Ngũ giới. Bồ-tát thuyết Pháp cho dân chúng vào các ngày trai giới (mồng tám và rằm) và ngồi xử án. Trong thời gian còn tại thế, không có người nào chịu bản án bất công cả. Sau đó vua băng hà, Bồ-tát cử hành tang lễ của vua, rồi ngài truyền viết một sách ghi đủ các phán quyết và bảo:

– Các vị phải theo sách này để xử án.

Sau khi thuyết Pháp cho quần chúng với nhiệt tâm, Ngài cùng chú Heo bé đi vào rừng trong lúc quần chúng than khóc kêu gào. Lời thuyết giảng của Bồ-tát lưu truyền suốt sáu mươi ngàn năm sau.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo sợ chết đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu). Rồi  Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vua là Ànanda, Cullatundila là Tỷ-kheo sợ chết, quần chúng là Giáo hội và Ta chính là Mahàtundila.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Cua Vàng (Tiền thân Suvannakakkata)

Một chú càng vàng với mắt lồi…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này lúc trú tại Trúc Lâm về việc Tỷ-kheo Ànanda hy sinh tính mạng vì Ngài.

Hoàn cảnh này đã được kể trong Tiền thân Khandahàla về việc thuê đám xạ thủ và trong Tiền thân Cullahamsa, số 533 về tiếng rống của con voi Dhanapàla (Tài Hộ). Khi Tăng chúng bắt đầu thảo luận trong Chánh Pháp Ðường:

– Này các Tôn giả, có phải Trưởng lão Ànanda, vị Thủ kho Chánh Pháp đã đắc trí tuệ của một vị hữu học, đành hy sinh tính mạng vì đức Phật tối thắng khi con voi Dhanapàla xông đến?

Bậc Ðạo Sư bước vào và được kể lại đề tài thảo luận, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa Ànanda cũng đã từng hy sinh tính mạng vì ta.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, có một làng Bà-la-môn tên là Sàlindiya ở phía đông thành Ràjagaha (Vương Xá). Bồ-tát được sinh ở ngôi làng ấy trong một gia đình Bà-la-môn làm ruộng. Khi lớn lên ngài lập nghiệp và canh tác trang trại khoảng một ngàn harisa (khoảng 8000 mẫu) trong một huyện ở nước Magadha (Ma-kiệt-đà) về phía Ðông Bắc làng ấy.

Ngày kia ngài cùng gia nhân ra đồng bảo họ cày cấy xong, ngài đi đến một ao lớn cuối cánh đồng để rửa mặt. Trong ao ấy có một con Cua màu vàng óng ả, xinh đẹp, khả ái.

Bồ-tát bước xuống ao sau khi xỉa răng. Khi ngài rửa miệng, con Cua đến gần, ngài liền nhấc con Cua lên và đặt nó nằm trong áo khoác ngoài. Sau khi làm việc đồng áng xong, ngài đặt con Cua xuống ao như cũ và đi về nhà. Từ đó hễ mỗi lần ra đồng, ngài thường đến ao ấy trước tiên, đặt Cua lên áo ngoài rồi ra đi làm việc. Vì thế một tình cảm tin cậy thắm thiết nảy sinh giữa người và vật. Ngày ngày Bồ-tát vẫn đi làm ruộng đều đặn.

Bấy giờ trong mắt ngài có năm vẻ đẹp và ba vòng tròn trong vắt. Một con Quạ cái trên cây thốt nốt ở góc cánh đồng trông thấy mắt ngài, muốn ăn chúng, bèn bảo Quạ Ðực:

– Này chàng, em có một điều ước.

– Nàng ước chuyện gì?

– Em ước được ăn đôi mắt của một vị Bà-la-môn.

– Ðiều ước của nàng thật chẳng hay ho tí nào. Ai có thể lấy đôi mắt ấy cho nàng chứ?

– Em biết chàng không thể lấy được, song ở tổ kiến gần cây này có một con Rắn hổ đen, chàng hãy đến hầu hạ nó, rồi nó sẽ cắn vị Bà-la-môn để giết ông, sau đó chàng mổ mắt ông ra và mang về cho em.

Quạ đực đồng ý, sau đó nó đến hầu hạ con Rắn hổ. Con Cua cũng to lớn dần vào thời hạt giống do Bồ-tát gieo đã nẩy mầm.

Một hôm con Rắn bảo Quạ:

– Này bạn, bạn luôn phục vụ tôi, vậy tôi có thể làm gì cho bạn?

– Thưa Tôn ông, nữ tỳ của ngài đã mang niềm ao ước có được đôi mắt của vị chủ đám ruộng này. Tôi đến hầu hạ ngài chỉ cốt hy vọng nhờ ngài ban ân lấy cho được đôi mắt ấy.

Rắn bảo:

– Ðược lắm, việc ấy không khó, bạn phải được đôi mắt kia.

Con Rắn còn khích lệ con Quạ như thế.

Hôm sau, con Rắn nằm đợi vị Bà-la-môn đến, nó ẩn mình dưới đám cỏ, cạnh bờ ruộng ngài sắp bước tới. Bồ-tát xuống ao rửa miệng, cảm thấy mối thân ái với con Cua, nên ôm lấy nó đặt vào áo ngoài ra đồng.

Con rắn thấy ngài đến liền lao tới cắn vào bắp vế ngài khiến ngài ngã xuống ngay tại chỗ, rồi nó trốn trong tổ kiến. Sự kiện Bồ-tát ngã xuống đó, con cua vàng nhảy ra khỏi áo và con Quạ sà xuống đậu trên ngực Bồ-tát diễn ra liên tiếp nhau.

Con Quạ vừa đậu xong, liền lấy mỏ chụp đôi mắt Bồ-tát. Con Cua suy nghĩ: “Chính vì con Quạ này mà hiểm họa đã xảy đến với vị thân hữu của ta. Nếu ta kẹp lấy nó thì con Rắn sẽ bò tới”. Vì vậy con Cua kẹp ngay cổ Quạ với chiếc càng xiết chặt như thể gọng kềm, khiến nó mệt phải nới lỏng ra đôi chút. Con Quạ cầu cứu con Rắn:

– Này bạn, tại sao bỏ rơi tôi mà chạy trốn? Con Cua này phá hại tôi. Hãy đến ngay trước khi tôi chết mất.

Rồi Quạ ngâm vần kệ đầu:

Một chú càng vàng với mắt lồi,
Ở hồ, trần trụi, bọc xương mai,
Chụp tôi, nghe tiếng tôi kêu thét
Sao bỏ bạn thân quý mến ngài?

Con Rắn nghe tiếng, giương mào rộng bò đến an ủi con Quạ.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ nhì phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của ngài, giải thích sự việc này:

Con Rắn bỗng nhào lên chú Cua,
Nó không muốn bỏ bạn bây giờ:
Rắn giương mào rộng vừa lao đến,
Cua tấn công ngay chú Rắn bò.

*

Con Cua mệt mỏi nới lỏng quạ ra đôi chút, con rắn suy nghĩ: “Loài cua chẳng hề ăn thịt quạ hay Rắn, vậy vì lý do gì con Cua này chụp chúng ta?” Rồi nó ngâm vần kệ hỏi Cua:

Chẳng phải vì lo kiếm miếng mồi
Mà Cua bắt Rắn, Quạ trên trời,
Mắt lồi hãy nói cho tôi biết
Sao chú lại kềm kẹp chúng tôi?

Nghe vậy, Cua ngâm hai vần kệ giải thích lý do:

Ngài đem ta tự dưới ao kia,
Bày tỏ ân cần, quý mến ta,
Nếu chết, thời ta đây khổ não,
Ngài và ta, chỉ một thôi mà.

Thấy ta nay đã lớn lên dần,
Ai nấy đều mong giết hưởng phần:
Cua mập ngọt ngon đầy mỹ vị,
Nhìn ta, Quạ muốn xé tan thân.

Nghe vậy Rắn suy nghĩ: “Ta phải dùng mưu kế lừa nó, rồi ta và Quạ thoát thân”. Vì thế nó ngâm vần kệ thứ sáu để lừa Cua:

Nếu Cua kẹp Rắn, Quạ vì ngài,
Ta sẽ rút chất độc ấy thôi,
Ngài tỉnh dậy, mau tha Rắn, Quạ,
Thấm sâu chất độc, ắt tàn đời.

Nghe vậy, Cua suy nghĩ: “Con Rắn này muốn làm cho ta thả cả hai ra bằng mưu kế lừa bịp rồi bỏ chạy, nó không biết tài năng khôn khéo của ta. Nay ta muốn nới càng đôi chút để con Rắn có thể nhúc nhích, nhưng ta không thả con Quạ đây”. Rồi nó ngâm vần kệ thứ bảy:

Ta thả Rắn, không thả Quạ đây,
Con tin là Quạ buộc nơi này,
Ta không thả nó đi nơi khác,
Cho đến khi an ổn với ngài.

Nói xong Cua nới lỏng càng để cho Rắn bò đi tự do. Con Rắn thu hồi nọc độc và thân thể Bồ-tát thoát khỏi nọc Rắn. Ngài đứng dậy vững vàng trong sắc thái tự nhiên.

Con Cua suy nghĩ: “Nếu hai con vật này bình an, chắc chắn bạn thân của ta không được thịnh vượng. Ta muốn giết cả bọn chúng”, rồi lấy càng chà nát đầu chúng cho chết đi.

Con Quạ mái liền bay đi trốn mất khỏi chỗ ấy. Bồ-tát lấy gậy đâm qua mình Rắn ném vào bụi, để Cua vàng bò xuống ao nước rồi tắm rửa và trở về Sàlindiya. Từ đấy tình thân hữu càng thấm thiết hơn giữa ngài và con Cua ấy.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật và nhận diện Tiền thân qua những vần kệ cuối cùng:

Con Rắn hổ là chính Ác ma,
Đề-bà-đạt, ấy Quạ đen kia,
A-nan thiện hạnh là Cua nọ,
Ðiền chủ La-môn ấy chính Ta.

Khi các Sự Thật kết thúc, nhiều vị đắc Sơ quả (Dự Lưu) và các đạo quả khác. Con Quạ cái chính là Cìncamànavikà, mặc dù điều này không được nhắc đến trong vần kệ cuối cùng.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chim Mayhaka (Tiền thân Mayhaka)

Nếu hoan hỷ khi mong cầu bố thí…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên, về một thương nhân lạ thường.

Tại thành Xá-vệ, có một thương nhân lạ thường, giàu tiền của và đầy thế lực. Song ông không thọ hưởng giàu sang cũng không cho ai cả. Nếu các món cao lương mỹ vị được dọn lên, ông cũng không muốn dùng mà chỉ ăn cháo cám với tương chua. Nếu y phục lụa tơ tẩm hương chiên-đànđược mang đến, ông bảo đem cất đi và chỉ mặc loại áo quần vải thô bằng lông để lọc đường. Nếu xe ngựa được trang hoàng ngọc vàng do giống ngựa thuần chủng kéo đến mời, ông bảo đem cất đi và chỉ đi chiếc xe cũ kỹ ọp ẹp với chiếc dù lá cây che đầu. Suốt đời ông không làm bố thí hay công đức gì cả nên khi chết bị tái sinh vào ngục Roruva. Gia sản của ông không người thừa kế, quan quân nhà vua liền chở vào cung suốt bảy ngày đêm. Khi của cải ấy được chở vào, vua đi đến Kỳ Viên sau buổi điểm tâm và kính bái bậc Ðạo Sư. Khi được hỏi tại sao không đến yết kiến đức Phật đều đặn, vua đáp:

– Bạch Thế Tôn, một thương nhân thật lạ thường vừa qua đời ở Xá-vệ. Suốt bảy ngày liền tài sản vị ấy được chở vào hoàng cung vì không người thừa kế. Tuy tài sản nhiều như vậy, trước kia ông không hề hưởng thụ phú quý cũng không đem cho ai cả. Tài sản ấy như thể một hồ sen được ác quỷ canh giữ. Một hôm ông lăn đùng ra chết sau khi đã từ chối hưởng thụ cao lương mỹ vị suốt đời. Tại sao một người ích kỷ và đáng chê trách như vậy lại tạo được nhiều tài sản thế kia và duyên cớ gì ông không hề nghĩ đến việc thụ hưởng phú quý?

Ðấy là câu hỏi mà vua nêu lên với bậc Ðạo Sư.

– Thưa Ðại vương, lý do tại sao vị ấy tạo được tài sản, tuy thế lại không hưởng thụ nó, chính là đây.

Rồi theo lời thỉnh cầu của vua, bậc Ðạo Sư kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vị vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, có một thương nhân ích kỷ, không mộ đạo ở kinh thành. Ông không hề bố thí hay cung cấp vật gì cho ai. Một hôm đang đi chầu vua, ông thấy một vị Ðộc Giác Phật (Pacceka Buddha) tên là Tagarasikhi đang khất thực, liền đảnh lễ và hỏi:

– Thưa Tôn giả, ngài đã khất thực chưa?

– Này thương nhân, ta chưa khất thực. Vị Ðộc Giác Phật đáp.

Vị thương nhân ra lệnh cho người nhà:

– Này, đưa ngài về nhà ta, mời lên sàng tọa của ta và dâng một chén cơm đầy thức ăn dành cho ta.

Kẻ gia nhân đem ngài về nhà, mời ngồi xong, trình báo bà vợ thương nhân. Bà ấy dâng ngài một chén cơm đầy cao lương mỹ vị. Ngài cầm thức ăn rời khỏi nhà kia và ra đi.

Vị thương nhân từ triều đình trở về nhà, gặp ngài lại vái chào và hỏi thăm ngài đã nhận được thực phẩm chưa.

– Này thương nhân, ta đã nhận rồi.

Vị thương nhân nhìn vào bát và không thể nào đồng ý việc ấy, lại suy nghĩ: “Giá như gia nô của ta ăn bát cơm này, chúng sẽ làm cho ta biết bao nhiêu việc nặng nhọc, ôi! Ðấy thật là thiệt thòi cho ta!” và ông không thể nào làm cho tư tưởng sau khi bố thí được hoan hỷ trọn vẹn. Vậy bố thí cúng dường chỉ sinh kết quả phong phú với kẻ nào biết làm cho tư tưởng sau khi bố thí được hoan hỷ trọn vẹn.

Nếu hoan hỷ khi mong cầu bố thí
Thì hãy đem bố thí, dạ an vui,
Ðừng tiếc chi khi ta sống ở đời,
Ðàn con cháu chẳng bao giờ vong mạng.
Trước khi cho, niềm vui đầy tâm trạng,
Từ đó về sau tư tưởng hân hoan,
Bố thí kia đem phước đức vẹn toàn.

Như vậy thương nhân kỳ dị này được nhiều tài sản do đã cúng dường Ðộc Giác Phật Tagarasikhi, song lại không thể hưởng thọ phú quý vì đã không làm cho tư tưởng được thanh tịnh sau khi bố thí.

– Bạch Thế Tôn, tại sao vị ấy không có con cái?

Bậc Ðạo Sư đáp:

– Thưa Ðại vương, đây là duyên cớ vị ấy không có con.

Và theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình thương nhân giàu có đến tám trăm triệu đồng tiền. Khi trưởng thành, cha mẹ qua đời, ngài cung cấp tài sản cho em ngài và điều hành việc nhà. Ngài lập một bố thí đường tại cổng nhà và làm gia chủ chuyên tâm bố thí. Khi con ngài biết đi chập chững, ngài nhận thấy nỗi khổ của tham dục và phước đức của đời xuất gia, liền giao hết tài sản cùng vợ con cho người em trai, khuyến khích em tiếp tục bố thí tinh cần. Rồi ngài trở thành vị khổ hạnh, đạt được các Thắng trí và các thiền chứng và sống ở vùng Tuyết Sơn.

Em trai ngài nhận nuôi đứa cháu duy nhất ấy, song thấy nó lớn khôn, ông nghĩ: “Nếu con của anh ta sống, tài sản sẽ bị chia hai, ta muốn giết con anh ta”. Vì thế một hôm, ông dìm cháu xuống sông cho chết. Sau khi tắm xong về nhà, chị dâu hỏi:

– Con trai tôi đâu?

– Nó chơi đùa dưới sông. Tôi tìm mãi nhưng không thể thấy nó đâu cả.

Bà chị chỉ khóc nhưng không nói gì cả. Bồ-tát biết việc này liền suy nghĩ: “Ta sẽ công bố chuyện này”. Rồi du hành qua không gian, hạ xuống thành Ba-la-nại trong thượng y và hạ y chỉnh tề, ngàiđứng ngay tại cửa, không thấy bố thí đường, ngài suy nghĩ: “Kẻ độc ác kia đã phá hủy bố thí đường”.

Người em nghe tin ngài về, bước ra đảnh lễ Bồ-tát và mời ngài lên thượng lầu đãi tiệc thịnh soạn. Khi cơm nước xong, ngồi nói chuyện thân mật, ngài hỏi:

– Con trai ta không đến, nó đâu rồi?

– Thưa Tôn giả, nó chết rồi.

– Bằng cách nào?

– Tại một bến tắm, nhưng tiểu đệ không biết rõ cách nào.

– Không biết à? Này kẻ độc ác kia, hành động của chú đã dược ta biết rõ: chú đã không giết nó bằng cách ấy hay sao? Thế chú có đủ sức gìn giữ gia sản khi bị vua chúa, đạo tặc hay nhiều người khác đến phá hại chăng? Thế có gì khác nhau giữa chú và con chim Mayha đâu?

Như vậy Bồ-tát ngâm vần kệ này thuyết Pháp với vẻ an tịnh của một vị Phật:

Có con chim được gọi May-ha,
Nó sống trong hang dưới núi xa,
Trái chín trên cây sung cổ thụ,
“Của ta, ta nữa”, nó kêu la.

Bầy chim kia lúc nó kêu vang,
Tụ tập chung quanh cả một đàn,
Ăn trái thỏa lòng tuy thấy thế,
May-ha vẫn cất tiếng kêu than.

Cũng vậy, người kia lắm bạc vàng,
Nhưng không chia sẻ giữa thân bằng,
Cũng không thọ hưởng lần nào cả
Y phục và luôn các thức ăn,

Hương liệu cùng vòng hoa rực rỡ,
Cũng không ân huệ với thân nhân.
“Của ta, ta mãi”, kêu rền rĩ,
Nó giữ kho tàng thỏa dạ tham.

Vua chúa cường gian, các đứa con
Chỉ mong sao nó sớm từ trần,
Cướp tài sản nó, trong khi ấy
Kẻ bủn xỉn kêu khóc tiếc than.

Người có trí khôn được bạc vàng
Thường đem giúp đỡ các thân bằng,
Do vầy danh vọng trên trần thế,
Thiên giới đời sau được phước phần.

Như thế bậc Ðại Sĩ thuyết Pháp khiến cho người em tiếp tục thực hành việc bố thí, rồi ngài trở về Tuyết Sơn tu tập Thiền định không ngừng và đời sau sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy, thưa Ðại vương, thương nhân kỳ dị kia không có con trai con gái gì cả vì người ấy đã giết con của anh mình.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Người em là thương nhân kỳ dị và người anh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vị Tà Thuật Sư (Tiền thân Dhajavihetha)

Dung mạo thanh cao, lại cúi đầu …,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc Ngài xuất gia vì lợi lạc của quần sinh.

Hoàn cảnh của câu chuyện sẽ xuất hiện trong Tiền thân Mahàkanha, số 469. Lúc ấy, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu Như Lai xuất gia vì ích lợi cho cả cõi đời.

Và Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm Sakka Thiên chủ. Thời ấy có một tà thuật sư dùng thần lực nửa đêm xâm phạm tiết hạnh của chánh cung hoàng hậu ở Ba-la-nại. Các cung nữ của bà đều biết chuyện này. Chính hoàng hậu đến yết kiến vua và trình:

– Tâu Chúa thượng, có kẻ lạ mặt đột nhập cung thất và xúc phạm thần thiếp.

– Thế hoàng hậu có thể làm một dấu hiệu nào đó lên kẻ ấy chăng?

– Tâu vâng, thiếp có thể.

Do đó bà bảo lấy chén son đỏ thắm, khi kẻ ấy đến nửa đêm và ra đi sau cuộc truy hoan, bà hoàng liền in năm dấu ngón tay bà vào lưng y và sáng hôm sau trình vua. Ngài ra lệnh đám vệ sĩ đi tìm khắp nơi mang về kẻ nào có dấu son đỏ trên lưng.

Bấy giờ, sau khi phạm tà hạnh ban đêm, tà thuật sư đứng giữa ban ngày ở nghĩa địa thờ phụng mặt trời, quân nhà vua thấy được, bao vây y, song y tưởng rằng hành động của y đã bị mọi người phát giác, liền dùng tà thuật bay lên không. Vua hỏi đám vệ sĩ sau khi chứng kiến việc ấy trở về:

– Các ngươi thấy y chăng?

– Tâu Chúa thượng, chúng thần có thấy.

– Y là ai?

– Tâu Chúa thượng, một đạo sĩ.

Sau khi phạm tà hạnh ban đêm, y giả dạng làm đạo sĩ ban ngày. Vua nghĩ thầm: “Những kẻ này ban ngày đi quanh quẩn trong chiếc y khổ hạnh, còn ban đêm lại phạm tà dục”.

Do đó vua đâm ra phẫn nộ với các đạo sĩ và chấp thủ tà kiến liền truyền công bố khắp kinh thành bằng trống lệnh rằng mọi đạo sĩ đều phải rời vương quốc, và sẽ bị quân sĩ trừng phạt nếu bị bắt gặp bất kỳ ở đâu.

Mọi đạo sĩ khổ hạnh đều chạy trốn khỏi vương quốc Kàsi rộng ba trăm dặm và đến trú ở các kinh thành khác. Do đó không có Sa-môn hay Bà-la-môn chân chánh nào thuyết Pháp cho dân chúng Kàsi, và vì không nghe được Chánh Pháp, họ trở nên tàn bạo, ghét bỏ bố thí và trì giới, phần lớn phải tái sinh vào đọa xứ lúc mạng chung và không được sinh thiên.

Sakka Thiên chủ không thấy một vị Thiên tử mới nào xuất hiện, liền xem xét lý do gì và thấy chính vì việc tống xuất các Sa-môn, Bà-la-môn ra khỏi vương quốc do vua Ba-la-nại chấp thủ tà kiến trong lúc phẫn nộ vị tà sư. Sau đó ngài suy nghĩ: “Trừ ta không ai có thể phá hủy tà kiến này của vua. Ta muốn cứu giúp vua và thần dân của nước này”.

Vì vậy ngài đến gặp các Ðộc Giác Phật tại động Nandamùla và bảo:

– Này các Tôn giả, hãy cho ta một vị Ðộc Giác Phật Trưởng lão, ta muốn đi cảm hóa quốc độ Kàsi vào đạo.

Ngài mời một vị Trưởng lão trong các vị ấy ra đi. Khi ngài đã cầm y bát của vị ấy, Thiên chủ Sakka mời vị ấy đi trước, ngài theo sau với dáng điệu cung kính đảnh lễ vị Ðộc Giáo Phật, ngài biến mình thành một Sa-môn trẻ tuổi, tươi đẹp đi ba vòng quanh thành phố từ đầu đến cuối, rồi đến trước cổng hoàng cung, ngài đứng trên không. Quân canh đến trình với vua:

– Tâu Hoàng thượng, có một Sa-môn trẻ đầy hảo tướng cùng với một Sa-môn đang đứng trên không trung tại hoàng môn.

Vua từ bảo tọa đi ra và đứng ở lầu thượng hỏi:

– Này đạo sĩ trẻ, tại sao ông tuấn tú như vậy lại cung kính cầm y bát cho một Sa-môn dị tướng thế kia?

Rồi vua ngâm vần kệ đầu nói chuyện với ngài:

Dung mạo thanh cao, lại cúi đầu,
Sau người dị tướng, bước theo hầu,
Người này hơn, kém, hay bình đẳng,
Xin nói tánh danh, trẫm thỉnh cầu.

Thiên chủ đáp:

– Tâu Ðại vương, các Sa-môn ở địa vị của bậc Ðạo Sư, vậy nếu ta nêu danh tánh ngài thì thất lễ, nhưng ta sẽ nói cho Ðại vương biết tên ta.

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ hai:

Chư Thiên không nói họ cùng tên
Của thiện nhân toàn hảo, Thánh hiền,
Riêng chỉ phần ta nêu tước hiệu
Sak-ka Thiên chủ của chư Thiên.

Vua nghe vậy, liền ngâm vần kệ thứ ba hỏi phước đức gì trong sự tôn sùng Ðạo Sư:

Người kính yêu hiền Thánh vẹn toàn
Sau ngài, tiến bước dáng nghiêm trang,
Phần gì thừa hưởng, này Thiên chủ,
Phước đức đời sau sẽ phát ban?

Thiên chủ đáp lại vần kệ thứ tư:

Người kính yêu hiền Thánh vẹn toàn,
Sau ngài, cất bước dáng nghiêm trang,
Tiếng khen trần thế nay thừa hưởng,
Thiên giới đời sau lúc mạng chung.

Vua nghe lòi Thiên chủ liền dứt bỏ mọi tà kiến và hoan hỷ ngâm vần kệ thứ năm:

Mặt trời số phận chiếu hôm nay,
Mắt trẫm nhìn Thiên chủ hiển bày
Bậc Thánh xuất trần, này Ðế Thích,
Trẫm làm thiện sự kể từ rày.

Sakka Thiên chủ nghe vua tán thán vị Ðạo sĩ của ngài, liền ngâm vần kệ thứ sáu:

Chân chánh thay sùng bái Thánh nhân,
Tâm tư hướng đến trí cao thâm,
Giờ đây long nhãn đã chiêm ngưỡng
Thiên chủ Sak-ka với Thánh nhân,
Mong ước từ nay nhiều phước nghiệp
Sẽ là phận sự của minh quân.

Nghe vầy, vua ngâm vần kệ cuối cùng:

Tư tưởng mang đầy đủ phước ân,
Từ nay lòng dạ trẫm ly sân,
Lắng tai nghe ngoại nhân cầu thỉnh,
Trẫm nhận lời khuyên nhủ chánh chân,
Trẫm sẽ diệt tan lòng ngã mạn,
Phụng thờ Thiên chủ, dạ tôn sùng.

Sau khi nói xong, vua từ thượng lầu bước xuống, đảnh lễ vị Ðộc Giáo Phật và đứng một bên. Vị Ðộc Giáo Phật ngồi bắt chéo chân trên không và nói:

– Thưa Ðại vương, tà thuật sư không phải là đạo sĩ. Từ rày phải nhận thức người đời không phải toàn giả dối, còn có các Sa-môn Bà-la-môn chân thiện, do vậy hãy bố thí, tuân thủ Giới luật và thành trì các ngày trai giới (Bố-tát).

Ngài thuyết Pháp cho vua như vậy, còn Sakka Thiên chủ cũng dùng thần lực đứng trên không thuyết Pháp cho quần chúng:

– Từ nay về sau, hãy nhiệt tâm tinh cần.

Ngài truyền ban hồi trống ra lệnh khắp kinh thành cho các Sa-môn, và Bà-la-môn đã đi trốn phải hồi hương. Sau đó cả hai vị trở về cõi của mình. Còn vua tuân thủ lời khuyến giáo và thực hành các phước nghiệp.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vị Ðộc Giáo Phật đắc Niết-bàn, vua là Ànanda và Ta chính là Sakka Thiên chủ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Củ và Hoa Sen (Tiền thân Bhisapuppha)

Ngài không được phép ngửi hương hoa…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo.

Chuyện kể rằng vị Tỷ-kheo ấy đã rời Kỳ Viên và trú tại quốc độ Kosala gần một khu rừng. Một hôm ông xuống hồ sen, khi thấy một hoa sen, ông đứng tránh gió và ngửi mùi hương sen. Vị nữ Thần ở trong khu rừng ấy đe dọa ông:

– Này Tôn giả, ngài ngửi trộm hương, đây là một hình thức trộm cắp.

Ông hoảng sợ trở về Kỳ Viên, đến vái chào bậc Ðạo Sư và ngồi xuống một bên.

– Này Tỷ-kheo, lâu nay ông ở đâu?

– Bạch Thế Tôn, ở trong rừng nọ, và vị nữ Thần đe dọa con như vậy.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Ông không phải là người đầu tiên bị nữ Thần đe dọa khi ngửi hương hoa. Các bậc trí ngày xưa cũng đã từng bị đe dọa như vậy.

Và theo lời thỉnh cầu của vị Tỷ-kheo, ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở Kàsi. Khi lớn lên, ngài học các nghệ thuật ở Ðại học Takkasilà và sau đó trở thành nhà khổ hạnh sống gần một ao sen. Một hôm ngài bước xuống ao và đứng ngửi một đóa hoa đang nở, một nữ Thần ở trong hốc cây gần đó ngâm vần kệ đầu đe dọa ngài:

Ngài không được phép ngửi hương hoa,
Dù chỉ một hoa mới nở ra,
Ðó thật là hình thức đạo tặc,
Sa-môn, ngài trộm ngửi hương hoa.

Bồ-tát liền ngâm vần kệ thứ hai:

Ta chẳng hái, không bẻ gãy hoa,
Mùi hương ta ngửi tự đằng xa,
Ta không thể bảo nào duyên cớ
Nàng nói ta đang ngửi trộm hoa.

Cùng lúc ấy, có một người đang đào bới ngó sen và củ sen, làm gãy nát thân cây sen. Bồ-tát thấy thế, liền nói:

– Nàng gọi một người ngửi mùi hương từ đàng xa là ăn trộm. Sao nàng không nói vậy với người kia?

Thế là ngài ngâm vần kệ thứ ba để nói chuyện này:

Kẻ nọ đang đào bới củ sen,
Phá thân cây gãy, đó nhìn xem,
Sao nàng không bảo cách hành động
Kẻ ấy là bừa bãi, thấp hèn?

Nữ Thần liền ngâm vần kệ thứ năm và thứ sáu giải thích tại sao nàng không nói với kẻ kia:

Những người phóng túng sống buông lơi,
Như áo vú em, đáng chán rồi,
Ta chẳng nói năng gì kẻ ấy,
Song ta chiếu cố nói ngài thôi.

Khi bỏ dục tham của thế nhân,
Và đi tìm cách tịnh thân tâm,
Tội dù chỉ nhỏ như đầu tóc
Chẳng khác trên trời đám hắc vân!

Nghe nữ Thần cảnh báo như vậy, Bồ-tát xúc động ngâm vần kệ thứ sáu:

Hiển nhiên Thần nữ hiểu tinh tường,
Nên với ta, nàng đã đoái thương,
Nếu thấy ta rày còn tái phạm,
Xin nàng nói nữa, khẩn cầu nàng.

Sau đó, nữ Thần ngâm vần kệ thứ bảy:

Ta chẳng sống đây phụng sự ngài,
Chúng ta không ở mướn cho ai,
Xin ngài tự kiếm đường đi tới
Hạnh phúc tối cao giữa cõi đời.

Khích lệ ngài như thế xong, nữ Thần trở về nơi cư trú của nàng. Còn Bồ-tát nhiệt tâm nhập đại định về sau tái sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheođã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu). Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, nữ Thần là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) và vị khổ hạnh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Món Tàn Thực (Tiền thân Vighàsa)

Hạnh phúc là ai sống giữa đời…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Ðông Viên liên hệ đến một số Tỷ-kheo thích lạc thú.

Trưởng lão Mahamoggallàna (Ðại Mục-kiền-liên) đã làm rung chuyển cả trú xứ của họ và cảnh báo họ. Tăng chúng bắt đầu bàn luận về lỗi lầm này tại Chánh pháp đường. Bậc Ðạo Sư được kể sự việc trên, liền bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên họ thích lạc thú.

Và Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát là Sakka Thiên chủ. Có bảy anh em trong một làng ở Kàsi nhận thấy tai hại của lòng tham dục, liền rời bỏ thế tục và trở thành ẩn sĩ. Họ sống tại Mejjhàrannã, nhưng vẫn ham thích các lạc thú, không chuyên tâm tu tập và chỉ làm theo thói quen của vật chất.

Sakka Thiên chủ bảo:

– Ta muốn đi cảnh báo bọn này.

Do đó ngài biến mình thành chim Anh vũ (két) đến trú xứ của họ, vừa đậu trên cây vừa ngâm vần kệ đầu cảnh báo họ:

Hạnh phúc là ai sống giữa đời
Bằng tàn dư bố thí mà thôi,
Ðược người tán thán trên trần thế,
Số phận đời sau: lạc cõi trời.

Khi ấy, một người trong bọn họ nghe tiếng chim Anh vũ, liền gọi đám kia lại và ngâm vần kệ thứ hai:

Bậc trí phải chăng nên lắng tai
Khi Anh vũ nói giọng như người,
Hãy nghe, các bạn, chim ca tụng
Bọn chúng ta đây, rõ tuyệt vời!

Anh vũ liền ngâm vần kệ thứ ba phủ nhận điều này:

Chẳng phải ta ca tụng các thầy,
Bọn ăn xác chết, hãy nghe đây:
Các thầy ăn món đồ thừa thải,
Chẳng phải tàn dư bố thí này.

Khi nghe chim nói, họ đồng thanh ngâm vần kệ:

Xuất thế bảy năm, cạo tóc đen,
Nơi đây ta sống tháng ngày liền,
Ăn đồ tàn thực, sao chim trách,
Vậy thế ai người thật đáng khen?

Bậc Ðại Sĩ ngâm vần kệ thứ năm khiển trách để họ phải ăn năn hối cải:

Món thừa sư, hổ, thú săn mồi,
Là thứ cần dùng của các người,
Quả thật chúng là đồ phế thải
Dù người gọi “chỉ tàn dư thôi”.

Nghe vậy, các vị ẩn sĩ lại hỏi:

– Nếu chúng ta không phải là người sống bằng tàn thực, thì xin cho biết họ là những ai?

Ngài liền ngâm vần kệ thứ bảy nêu rõ ý nghĩa đích thực của việc này:

Người nào bố thí các Sa-môn,
Ðể đáp ứng ngay mọi thứ cần,
Rồi thọ những gì còn để lại,
Sống nhờ của bố thí dư tàn.

Như vậy Bồ-tát làm cho họ ăn năn hối lỗi rồi trở về cõi của ngài.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, bảy ẩn sĩ kia là các Tỷ-kheo thích lạc thú này và Sakka Thiên chủ chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chim Cút (Tiền thân Vattaka)

Bơ, dầu đủ món cao lương…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo tham lam.

Khi thấy vị ấy tham lam, bậc Ðạo Sư bảo:

– Ðây không phải lần đầu ông tham lam, ngày xưa có lần do tham lam, ông không thỏa mãn với các xác voi, bò ngựa và hy vọng kiếm được nhiều thức ăn ngon hơn, ông đã vào rừng sâu.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm con chim Cút sống ở rừng sâu bằng cỏ khô và hạt cây. Thời ấy tại Ba-la-nại có một con Quạ tham ăn, không hài lòng với các xác chết của voi, ngựa và nhiều súc vật khác, liền vào rừng kia với hy vọng tìm nhiều của ngon vật lạ hơn. Trong lúc ăn trái rừng, nó chợt thấy Bồ-tát liền nghĩ thầm: “Con chim Cút này rất mập, ta đoán nó ăn nhiều thức ngon ngọt, ta muốn hỏi nó về món kia và ăn để ta cũng mập hơn”.

Quạ đậu trên bụi cây cao hơn Bồ-tát, dù nó không hỏi, Bồ-tát vẫn chào nó và ngâm vần kệ đầu:

Bơ, dầu đủ món cao lương,
Chú ơi, thực phẩm chú toàn thơm ngon,
Cho tôi biết rõ nguồn cơn
Tại sao chú phải gầy mòn thế ư?

Nghe lời nầy, Quạ ngâm ba vần kệ đáp lại:

Ta đang sống giữa kẻ thù,
Lòng ta cứ phải ưu tư rã rời,
Hãi kinh đi kiếm miếng mồi,
Muốn thành béo mập, Cút ơi, cách nào?

Suốt đời Quạ sống lo âu,
Trí luôn cảnh giác, đương đầu nguy nan,
Miếng mồi kiếm chẳng đủ ăn,
Cút ơi, vì thế gầy mòn thân ta.

Cỏ khô, hạt thóc quả là
Thức ăn của Cút chẳng no béo gì,
Vì sao Cút mập thế kia,
Lại ăn ít ỏi, nói đi, bạn vàng!

Bồ-tát nghe vậy, ngâm các vần kệ giải thích lý do béo mập của mình:

Ta mong vừa đủ an nhàn,
Thong dong bay lượn quãng đường ngắn kia,
Kiếm ăn bất cứ vật gì,
Nên ta béo mập khó bì, Quạ ơi!

Tràn đầy hạnh phúc, an vui,
Trong lòng biết đủ, thảnh thơi tháng ngày,
Mục tiêu dễ đạt lắm thay,
Ðây phần ưu thắng đời này ta theo.

*

Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheođã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu). Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, con Quạ là Tỷ-kheo tham lam này và chim Cút chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Quạ (Tiền thân Kàka)

Ông bạn cũ ơi, hãy ngắm xem…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo tham lam. Hoàn cảnh này cũng giống như trên.

*

Ngày xưa, khi vua Brahamadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát là chim Bồ câu sống trong cái thúng ở trong nhà bếp của một thương nhân Ba-la-nại. Một chú Quạ đến kết thân với Bồ câu và cùng sống ở đó. Ðến đây câu chuyện cần được trình bày đầy đủ chi tiết hơn. Người đầu bếp nhặt hết lông Quạ, rắc bột lên rồi chọc thủng một vỏ ốc bóng loáng đeo trên cổ Quạ và ném nó vào thúng.

Bồ-tát bay từ rừng về, thấy vậy, và ngâm vần kệ đầu để trêu ghẹo Quạ:

Ông bạn cũ ơi, hãy ngắm xem,
Nữ trang sáng rực rỡ đeo lên,
Bộ râu tỉa gọn oai ra phết,
Trông bạn thật tươi trước mắt nhìn!

Quạ nghe lời nầy, liền đáp vần kệ thứ hai:

Các lông, móng cứ mọc nhanh ghê,
Làm vương víu ta khắp mọi bề,
Thợ hớt tóc sau cùng bước tới,
Nên ta thoát lớp vỏ xù xì!

Sau đó Bồ-tát ngâm vần kệ thứ ba:

Dĩ nhiên Quạ được vặt lông đen,
Chú thợ cạo kia thật khéo khen!
Quanh cổ thì sao, xin nói rõ,
Cái gì lúng lẳng tựa chuông reng?

Tiếp theo Quạ ngâm hai vần kệ nữa:

Những người thanh lịch vẫn đeo hoài
Quanh cổ ngọc châu, thói ở đời,
Muốn bắt chước người, ta cũng vậy,
Bạn đừng tưởng đó chuyện đùa chơi!

Còn nếu bạn ganh tỵ bộ ria
Ðược khéo điểm tô chải chuốt kia,
Ta sẽ nhờ người này cạo giúp,
Rồi đeo ngọc, bạn cũng như ta.

Bồ-tát nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ sáu:

Không, chính ông phù hợp nhất đời
Với râu và ngọc khéo ra oai,
Thấy ông hiện diện gây phiền toái,
Ta giã biệt ông, cất bước thôi!

Cùng với các lời này, Bồ câu bay đi nơi khác, còn Quạ chết ngay tại chỗ ấy.

*

Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheođã được an trú vào Tam quá (Bất Lai). Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, con Quạ là vị Tỷ-kheo tham lam này, còn Bồ câu chính là Ta.

-ooOoo-

Chương VII
Phẩm bảy bài kệ

  1. Chuyện Ác Hạnh (Tiền thân Kukku)

Cái nóc nhà này cao thước rưỡi…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc giáo hóa một quốc vương. Hoàn cảnh này sẽ xuất hiện trong tiền thân Tesakuna, số 521.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát là quốc sư về thế sự cũng như thánh sự. Vua ấy đi theo tà đạo, cai trị bất chánh và thâu góp tài sản bằng cách đàn áp dân chúng. Bồ-tát muốn khuyến giáo vua, liền đi quanh quẩn tìm một ví dụ.

Bấy giờ, nội thất trong cung làm chưa xong, nên mái nhà trên ấy chưa hoàn chỉnh. Các cây rui chống đỡ nóc nhọn chỉ vừa mới được đặt vào đúng vị trí. Vua đã du ngoạn trong ngự viên, khi trở về cung, vua nhìn lên và thấy nóc nhà hình tròn, sợ nó sẽ rớt xuống, vua bước ra đứng bên ngoài, rồi lại nhìn lên và suy nghĩ: “Làm thế nào nóc nhà này đứng yên như vậy. Các rui này ra sao? Và vua liền ngâm vần kệ đầu hỏi Bồ-tát:

  1. Cái nóc nhà này cao thước rưỡi,
    Tám cây kèo lớn đỡ quây quần
    Gỗ sim-sa với sà-ra thẳng,
    Bởi vậy nóc nhà đứng vững chăng?

Nghe vậy, Bồ-tát suy nghĩ: “Ta đã có được một ví dụ để khuyến giáo nhà vua”. Ngài liền ngâm các vần kệ sau:

  1. Ba mươi rui nhỏ gỗ sa-ra
    Ðược xếp đều quanh dưới mái nhà,
    Áp sát vào nhau nâng thật vững,
    Cho nên nóc đứng thẳng ngay mà.
  2. Vậy người có trí được quây quần
    Với quốc sư hiền, bạn tận trung,
    Sẽ chẳng sa cơ lúc mạt vận,
    Như rui đỡ nóc mái thăng bằng.

Trong lúc Bồ-tát đang nói, vua xem xét kỹ hành vi xử thế của mình: “Nếu không có nóc nhà thì các cây rui không đứng vững; nóc nhà cũng không đứng vững nếu không được các cây rui nâng đỡ. Nếu các cây rui gãy thì nóc nhà sụp đổ. Cũng vậy, một vị vua ác hạnh không tập hợp các thân bằng, đại thần, quân đội, Bà-la-môn và gia chủ lại với nhau, và nếu đám quần thần tan rã vua không được nâng đỡ sẽ mất hết quyền lực, vì thế vua phải sống công chính”.

Ngay lúc ấy, đám thị nữ đem dâng vua một quả bưởi. Vua bảo Bồ-tát:

– Này Hiền hữu, hãy ăn bưởi này.

Bồ-tát cầm bưởi và thưa:

– Tâu Ðại vương, người nào không biết cách ăn bưởi sẽ làm cho nó đắng hoặc cay. Song người có trí biết cách lấy chất đắng ra, và không bỏ chất chua, hoặc làm hỏng hương vị của bưởi khi ăn bưởi.

Rồi dùng thí dụ này, ngài trình bày cho vua biết cách tạo tài sản chân chánh qua hai vần kệ:

  1. Ăn bưởi luôn phần vỏ đắng cay,
    Nếu không gọt vỏ với dao này,
    Chỉ ăn phần ruột là thơm ngọt,
    Nếu thêm vỏ thì hết ngọt ngay.
  2. Vậy người có trí chẳng hung tàn
    Thâu góp thuế trong các xóm làng,
    Tăng sản nghiệp nhưng không phạm tội.
    Bước đường chân chánh tạo danh vang.

Vua vừa tham vấn Bồ-tát vừa đi đến hồ sen, khi nhìn một hoa sen đang nở có màu sáng đẹp như mặt trời mới mọc, không bị nước làm ô nhiễm, nhà vua bảo:

– Này Hiền hữu, hoa sen kia mọc thẳng lên không bị nước làm ô nhiễm sắc hương.

Bồ-tát liền đáp lại:

– Tâu Ðại vương, một vị vua cũng phải như vậy.

Rồi Ngài ngâm các vần kệ này để khuyến giáo:

  1. Như hoa sen nở ở trong hồ
    Rễ trắng, nước trong bảo dưỡng cho,
    Dưới ánh mặt trời hoa nở đẹp
    Không hề bụi bặm chẳng bùn nhơ.
  2. Vậy người có đức hạnh đưa đường,
    Khéo luyện ôn nhu, đủ thiện lương,
    Như đóa sen trong hồ nước ấy,
    Bùn nhơ chẳng cấu uế tâm can.

Vua nghe lời Bồ-tát khuyên giáo từ đó về sau trị nước chân chính và thực hành các thiện sự, bố thí cùng nhiều phước nghiệp khác, nên được sinh lên thiên giới.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vua là Ànanda và vị quốc sư có trí chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Sư Tử Manoja (Tiền thân Manoja)

Cung nọ đã giương cong vút lên…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Trúc Lâm về một Tỷ-kheo thân cận bạn ác.

Hoàn cảnh đã được nêu đầy đủ chi tiết trong tiền thân Mahilàmukhata, số 26. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải lần đầu kẻ này thân cận bạn ác.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát là Sư tử sống với Sư tử cái và hai con, một trai một gái. Sư tử con tên là Manoja. Khi lớn lên, nó lấy một sư tử cái làm vợ. Như thế cả bầy có năm sư tử.

Manoja thường giết trâu rừng và nhiều dã thú khác, nhờ đó nó đem thịt sống về nuôi cha mẹ, em và vợ. Một hôm trong chỗ săn mồi, nó thấy một chó rừng tên Giriya không chạy được và đang nằm sấp. Nó hỏi:

– Này bạn, sao thế?

– Tâu Chúa công, tôi muốn phục vụ ngài.

– Thế thì tốt.

Sau đó, nó đem chó rừng về hang, Bồ-tát thấy vậy bảo:

– Này con Manoja, chó rừng là loại độc ác tham tàn, hay xúi giục điều xấu, đừng đưa thứ chó này về ở gần con.

Song ngài không ngăn cản được nó.

Thế rồi một hôm, chó rừng muốn ăn thịt ngựa, liền nói với Manoja:

– Tâu Chúa công, trừ thịt ngựa ra, chúng ta không có gì ăn cả. Vậy chúng ta hãy đi bắt ngựa.

– Song nơi đâu có ngựa thế, bạn?

– Tại Ba-la-nại, cạnh bờ sông.

Manoja nghe lời khuyên này và cùng đi với chó đến nơi có bầy ngựa tắm dưới sông. Nó bắt một con ngựa, mang trên lưng chạy nhanh về miệng hang. Sư tử cha ăn thịt ngựa và bảo:

– Này con, bầy ngựa là tài sản của vua, mà vua chúa thường có nhiều mưu kế, lại nhiều người thiện xạ bắn cung. Sư tử ăn thịt ngựa không sống lâu được đâu. Từ rày con đừng bắt ngựa nữa.

Sư tử con không theo lời cha khuyên nhủ, cứ tiếp tục bắt ngựa. Vua nghe có con sư tử đến bắt ngựa, liền bảo làm một hồ nước cho ngựa ở trong kinh thành. Song sư tử vẫn đến bắt ngựa. Vua truyền làm chuồng ngựa với máng thức ăn, nước uống đem đến tận nơi cho chúng. Sư tử nhảy vượt bức tường và bắt ngựa từ chuồng ra. Vua liền truyền gọi một xạ thủ có tài bắn nhanh như chớp, hỏi anh ta có thể bắn sư tử chăng. Anh ta tâu có thể, rồi làm một tháp canh gần bức tường, nơi sư tử thường đến và đợi tại đấy.

Sư tử đến, để chó rừng ở một nghĩa địa bên ngoài, còn nó nhảy vào thành bắt ngựa. Người xạ thủ suy nghĩ: “Tốc lực của sư tử này quá nhanh khi nó đến”. Cho nên anh ta chưa bắn nó, song khi nó trở về mang theo con ngựa, bị vướng víu vì gánh nặng kia, người xạ thủ liền bắn một mũi tên nhọn vào phía đùi sau của sư tử. Mũi tên đâm xuyên suốt ra phía đùi trước và bay vút lên không. Sư tử thét lên:

– Ta bị thương rồi!

Sau khi bắn sư tử xong, vị thiện xạ búng dây cung vang lên như sấm. Chó rừng nghe tiếng sư tử gầm và tiếng cung vang rền, liền suy nghĩ: “Bạn ta đã bị bắn, chắc hẳn phải chết, thôi chẳng còn tình bạn gì với vật đã chết, ta muốn đi về hang cũ trong rừng kia”. Rồi nó ngâm hai vần kệ:

  1. Cung nọ đã giương cao vút lên,
    Dây cung phát tiếng sấm vang rền,
    Ma-no-ja, chúa sơn lâm ấy,
    Thân hữu của ta, bị giết liền.
  2. Than ôi, ta phải kiếm khu rừng,
    Cố sức hết lòng, thật gắng công,
    Ta phải tìm về nơi trú ẩn,
    Bỗng dưng tình bạn hóa thành không.

Sư tử con chạy vụt về ném xác ngựa trước miệng hang, rồi ngã chết liền. Thân quyến vội bước ra, thấy mình nó nhuộm đầy máu từ vết thương chảy xiết, vừa nằm chết vì đã đi theo bạn ác. Cha, mẹ, em và vợ sư tử lần lượt ngâm bốn vần kệ:

Cha:

  1. Số phận con ta chẳng thịnh hưng,
    Say mê, kết hợp ác thân bằng,
    Nhìn Ma-no ấy đang nằm đó
    Do bởi lời khuyên của chó rừng.

Mẹ:

  1. Lòng mẹ chẳng vui khi thấy con
    Kết giao với bọn ác thân bằng
    Nhìn Ma-no ấy đang nằm đó
    Máu chảy nhuộm đầy cả tấm thân.

Em:

  1. Cũng vậy bước đi kẻ thấp hèn
    Trong đời tăm tối phải nằm yên,
    Không hề nghe được lời khuyên nhủ
    Của bạn thật chân, bậc trí hiền.

Vợ:

  1. Phần số tệ tàn hơn biết bao
    Khi người ở địa vị trên cao
    Lại tin tưởng bọn người hèn kém,
    Nhìn chúa sơn lâm đã ngã nhào!

*

Và cuối cùng là vần kệ phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật:

  1. Ai theo bọn hạ tầng
    Chính nó bị bỏ ruồng;
    Ai thân người đồng đẳng
    Chẳng hề bị phụ phàng;
    Ai phục người tối thượng
    Sẽ mau chóng thịnh hưng.
    Vậy tìm người ưu việt
    Ðể có chốn nương thân.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thân cận bạn ác đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, chó rừng là Ðề-bà-đạt-đa, Manoja là vị Tỷ-kheo thân cận bạn ác, em gái là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), vợ của sư tử là Tỷ-kheo-ni Khemà (Thái Hòa), Sư tử mẹ là mẫu thân Ràhula và Sư tử cha chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hiếu Tử Sutana (Tiền thân Sutana)

Vua đã gửi ngươi một bát cơm…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phụng dưỡng cha mẹ mình. Hoàn cảnh sẽ xuất hiện trong Tiền thân Sàma, số 540.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình nghèo, cha mẹ đặt tên ngài là Sutana. Khi lớn khôn, ngài làm việc kiếm tiền nuôi cha mẹ, đến thời cha ngài qua đời, ngài phụng dưỡng mẹ mình.

Thời ấy, vua Ba-la-nại thích săn bắn. Một hôm vua cùng quần thần đông đảo đi vào một khu rừng rộng khoảng một hai đặm, và truyền lệnh cho tất cả mọi người:

– Nếu có con nai nào chạy thoát ở điểm canh giữ của người nào thì người ấy bị phạt số tiền bằng giá con nai.

Sau khi dựng một túp lều được dấu kín bên vệ đường, quần thần dâng nó cho vua dùng. Bầy nai bị chấn động vì tiếng la hét của đám người bao vây nơi trú ẩn của chúng, rồi một con nai chạy về địa điểm vua canh giữ. Vua nghĩ thầm “Ta muốn bắn nó” rồi giương cung lên. Con vật biết mưu kế đánh lừa, thấy mũi tên sắp đến gần sườn liền ngã lăn tròn như thể trúng mũi tên. Vua nghĩ: “Ta đã bắn trúng nó và chạy lại bắt nai.”

Nhưng con nai vùng lên lao vụt nhanh như gió. Quần thần và mọi người kia đều cười nhạo vua. Ông liền đuổi theo con nai cho đến khi nó mệt nhoài thì rút kiếm chặt nó làm đôi. Rồi kéo con nai lên một khúc gỗ, ông khiêng nó lên như cái đòn gánh, vừa đi vừa nói: “Ta muốn nghỉ ngơi một lát”, ông đến gần cây đa bên vệ đường và nằm xuống ngủ say.

Một quỷ Dạ-xoa (Yakkha) tên là Makhadeva tái sinh ở cây đa này, được Thiên vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) cho phép bắt mọi sinh vật nào đến gần nó để ăn thịt. Khi vua này thức dậy, Dạ-xoa bảo:

– Cứ ở lại đây, ngươi là món mồi của ta.

Rồi nó cầm lấy tay vua.

– Ngài là ai? Vua hỏi.

– Ta là Quỷ Dạ-xoa, sinh ra tại đây. Ta bắt mọi người đến nơi đây để ăn thịt.

Vua lấy hết can đảm hỏi:

– Thế ngài chỉ ăn thịt hôm nay hay ăn mãi?

– Ta sẽ còn ăn mãi mọi vật ta bắt được.

– Thế thì hãy ăn con nai này hôm nay và để ta đi về. Từ ngày mai ta sẽ gửi cho ngài một người cùng với một đĩa cơm mỗi ngày.

– Vậy hãy cẩn thận đấy. Hễ ngày nào không gởi ai đến thì ta sẽ ăn thịt ngươi.

– Ta là quốc vương ở Ba-la-nại, chẳng có việc gì ta không làm được cả.

Quỷ Dạ-xoa nhận lời hứa rồi để vua ra về. Khi vua đến kinh thành, ông đem chuyện ấy kể cho vị cận thần nghe và hỏi những gì cần phải làm.

– Tâu Ðại vương, có hạn kỳ nhất định nào không?

– Không.

– Thế thì Ðại vương đã tính việc sai rồi đấy. Nhưng không sao cả. Có rất nhiều tù nhân trong ngục.

– Vậy khanh cố sắp đặt việc này để cứu mạng ta.

Vị cận thần đồng ý, mỗi ngày bắt một tù nhân từ trong ngục gửi ra cho quỷ Dạ-xoa cùng với một dĩa cơm mà không nói gì với kẻ ấy cả. Quỷ Dạ-xoa ăn hết cả cơm lẫn người. Sau một thời gian các ngục thất đều trống vắng. Vua tìm không ra người đi đưa cơm, lòng run rẩy sợ chết. Vị cận thần an ủi ông và bảo:

– Tâu Ðại vương, lòng tham tài sản còn mạnh hơn lòng tham sống. Ta hãy gói một ngàn đồng tiền đặt trên lưng voi, rồi lấy trống truyền lệnh: “Ai muốn đem cơm cho quỷ Dạ-xoa và lãnh số tiền bạc này?”.

Vua nghe lời làm theo như vậy. Bồ-tát suy nghĩ: “Ta chỉ làm công được một xu rưởi mỗi ngày khó lòng phụng dưỡng mẹ. Nay ta muốn lấy số tiền kia trao cho mẹ rồi đi gặp quỷ Dạ-xoa. Nếu ta thắng nó thì tốt, còn nếu không thì mẹ ta cũng sống an nhàn sung túc”. Vì thế ngài nói chuyện với mẹ, song bà bảo:

– Mẹ vừa đủ rồi, mẹ không cần tiền bạc.

Rồi bà ngăn cản ngài hai lần, nhưng lần thứ ba, ngài không xin phép mẹ nữa, mà đến gặp quan quân nói:

– Thưa các quan, hãy đưa ngàn đồng tiền, tôi nhận mang cơm đi.

Rồi đưa cho mẹ ngàn đồng tiền, ngài bảo:

– Mẹ thân yêu, đừng lo buồn, con sẽ thắng quỷ Dạ-xoa và đem hạnh phúc cho mọi người. Con sẽ trở về nhà khiến cho mẹ đang khóc than phải cười to lên đấy.

Rồi chào mẹ xong, ngài cùng quan quân đi yết kiến vua, rồi kính lễ vua và đứng tại đó. Vua hỏi:

– Này, thiện nam tử, cậu muốn đem cơm à?

– Tâu Ðại vương, phải.

– Thế cậu cần mang theo vật gì bên mình?

– Tâu Ðại vương, đôi hài bằng vàng của ngài.

– Tại sao thế?

– Tâu Ðại vương, quỷ Dạ-xoa kia chỉ ăn thịt kẻ nào đứng trên mặt đất dưới gốc cây của nó, còn tiểu tử sẽ đứng trên đôi hài, chứ không phải trên mặt đất.

– Thế còn vật gì nữa?

– Tâu Ðại vương, chiếc lọng của ngài.

– Tại sao thế?

– Tâu Ðại vương, quỷ Dạ-xoa kia chỉ ăn thịt kẻ nào đứng dưới bóng cây của nó, còn tiểu tử đứng dưới bóng chiếc lọng, chứ không phải bóng cây.

– Thế còn vật gì nữa?

– Tâu Ðại vương, thanh kiếm của ngài.

– Ðể làm gì?

– Tâu Ðại vương, ngay loài quỷ cũng sợ những người mang khí giới trong tay.

– Thế còn gì nữa chăng?

– Tâu Ðại vương, cái bát vàng của ngài, đựng đầy ngự thiện dâng lên ngài.

– Này thiện nam tử, tại sao vậy?

– Một người có trí khôn như tiểu tử mà phải ăn cơm gạo thô trong dĩa đất thì không thích hợp chút nào.

Vua chấp thuận và sai các quan đem đủ mọi thứ ngài đã yêu cầu. Bồ-tát thưa:

– Tâu Ðại vương, đừng sợ gì cả, tiểu tử nguyện sẽ trở về hôm nay sau khi chiến thắng quỷ Dạ-xoa và đem lại an lạc cho ngài.

Thế rồi ngài cầm mọi thứ cần dùng và đi đến nới ấy, ngài sắp đặt mọi người đứng không xa nơi ấy rồi mang đôi hài vàng vào chân, đeo thanh kiếm vào đai, che chiếc lọng trên đầu và cầm bát cơm bằng vàng đến gặp Dạ-xoa.

Quỷ Dạ-xoa nhìn ra đường thấy ngài liền suy nghĩ: “Người này đến đây không giống bọn người đã đến trước kia, vì duyên cớ gì vậy?”.

Bồ-tát đứng gần cây, lấy mũi kiếm đẩy dĩa cơm vào dưới bóng cây rồi đứng gần bóng cây, ngâm vần kệ đầu:

  1. Vua đã gửi ngài một bát cơm,
    Lại thêm thịt nấu thật ngon thơm,
    Ma-kha có ở nhà không đấy,
    Xin hãy bước ra nhận để ăn!

Nghe vậy, quỷ Dạ-xoa suy nghĩ: “Ta muốn đánh lừa nó, rồi sẽ ăn thịt nó khi nó bước vào bóng cây”. Con quỷ liền ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Hãy bước vào trong, hỡi cậu trai,
    Với cao lương mỹ vị trên tay,
    Cả cơm cùng với thân người nữa,
    Này cậu, ta xơi tuyệt lắm thay!

Tiếp theo, Bồ-tát đáp hai vần kệ:

  1. Dạ-xoa sẽ mất vật to hơn
    Ðổi lấy vật này bé con con.
    Tất cả mọi người đều sợ chết,
    Chẳng còn ai đến biếu cao lương!
  2. Vậy ngài sẽ được cấp lương cao
    Tinh sạch nêm gia vị ngọt ngon.
    Song nếu ăn ta, thì khó kiếm
    Một người nào khác đến đem cơm.

Quỷ Dạ-xoa suy nghĩ: “Cậu trai này nói có lý”, rồi đầy thiện ý, nó ngâm hai vần kệ:

  1. Su-ta-na, quả thật đúng thay
    Mối lợi ta như cậu tỏ bày,
    Hãy trở lại thăm hiền mẫu nhé,
    Ta cho phép cậu bước đi ngay.
  2. Lấy gươm, lọng, bát, cậu thanh niên,
    Hãy nhắm đường đi, cất bước liền,
    Thăm mẹ hiền trong niềm phấn khởi,
    Cho bà sống hạnh phúc bình yên.

Nghe lời Dạ-xoa, Bồ-tát hoan hỷ, ngài nghĩ thầm: “Bổn phận ta đã hoàn thành, quỷ Dạ-xoa đã được chinh phục, ta được hưởng tài sản và lời hứa của vua đã được thực hiện”. Ngài liền ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Dạ-xoa cùng với mọi thân nhân,
    Mong ước toàn gia được phước ân,
    Lệnh vua đã thực hành viên mãn,
    Tài sản ta nay được hưởng phần.

Ngài khuyến giáo quỷ Dạ-xoa và bảo:

– Này bạn, xưa kia bạn đã tạo ác nghiệp, bạn tham tàn độc ác, ăn thịt nhiều người nên tái sinh làm quỷ Dạ-xoa. Từ rày về sau đừng giết hại sinh mạng như vậy nữa.

Thế là ngài nêu rõ mọi công đức nhờ giữ giới hạnh và các nỗi khổ đau vì tạo ác nghiệp. Rồi an trú quỷ Dạ-xoa vào Ngũ giới, ngài bảo:

– Này, tại sao bạn ở trong rừng? Mau lên, ta sẽ để bạn cư ngụ cạnh cổng thành và bảo đem cao lương mỹ vị đến cho bạn.

Sau đó ngài ra đi cùng quỷ Dạ-xoa, bảo nó cầm kiếm cùng nhiều vật khác và đến thành Ba-la-nại. Quân sĩ báo tin Sutana đã trở về cùng quỷ Dạ-xoa. Vua cùng triều thần đi ra đón Bồ-tát và làm chỗ cư trú cho quỷ Dạ-xoa tại cổng thành, rồi sai người đem cao lương mỹ vị cho nó. Xong vua vào thành, lấy trống truyền lệnh hội họp toàn dân trong thành để tuyên dương công trạng của Bồ-tát và phong ngài chức vụ thống lãnh quân đội. Còn chính vua được an trú vào lời dạy của Bồ-tát, thực hành nhiều thiện sự, bố thí và các công đức khác nên về sau tái sinh cõi thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ đã đạt Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, quỷ Dạ-xoa là Angulimàla (Người đeo vòng ngón tay), vua là Ànanda và hiếu tử kia chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chim Thứu (Tiền thân Gijjha)

Làm sao thân lão biết tìm mồi…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm chim Thứu (kên kên). Khi lớn lên, ngài đưa cha mẹ đã già và mù mắt vào ở trong hang thứu và đem thịt quạ cùng nhiều loại khác về nuôi hai vị. Thời ấy có một thợ săn đặt bẫy bắt chim thứu quanh nghĩa địa Ba-la-nại.

Một hôm Bồ-tát đi kiếm thịt đến gần nghĩa địa và sa chân vào bẫy. Ngài không nghĩ đến mình, mà chỉ nhớ đến cha mẹ già: “Giờ đây làm sao cha mẹ sống được? Ta chắc hai vị sẽ chết vì không biết ta mắc bẫy, sẽ bơ vơ khốn khổ và héo mòn dần trong hang núi ấy”. Do vậy ngài ngâm vần kệ đầu than khóc:

  1. Làm sao thân lão biết tìm mồi
    Trong chốn hang sâu của núi đồi?
    Ta bị buộc chân vào chiếc bẫy,
    Làm nô lệ của Ni-la thôi.

Con trai người thợ săn, nghe ngài than khóc, liền ngâm vần kệ thứ hai, chim Thứu ngâm vần kệ thứ ba và cứ liên tiếp xen kẽ như vậy:

Con của thợ săn:

  1. Chim Thứu, sao chim khóc ỉ ôi,
    Tiếng chim đưa đến tận bên tai,
    Ta chưa từng thấy hay nghe được
    Chim biết thốt ra tiếng giống người.

Chim Thứu:

  1. Ta nuôi phụ mẫu đã già rồi
    Ở trong hang nọ dưới chân đồi,
    Làm sao thân lão tìm mồi được
    Khi thứu trở thành nô lệ người?

Con của thợ săn:

  1. Kên kên nhìn xác chết đằng xa
    Hơn cả một trăm dặm vượt qua,
    Vì cớ sao chim không thấy rõ
    Lưới kia bẫy nọ thật gần mà?

Chim Thứu:

  1. Khi đời sắp đến vận suy tàn,
    Thần chết đang đòi hỏi số phần,
    Dù có đứng gần bên chiếc bẫy,
    Cũng không thấy bẫy đặt dây giăng!

Con của thợ săn:

  1. Thôi hãy về đi với lão thân
    Ở trong hang núi, hãy chăm nom,
    Về thăm cha mẹ trong an lạc,
    Chim được ta cho thỏa ước mong.

Chim Thứu:

  1. Hỡi thợ săn cùng cả họ hàng,
    Cầu mong hạnh phúc đến nhà chàng!
    Ta về với mẹ cha già yếu,
    Chăm sóc hai thân ở dưới hang.

Sau đó Bồ-tát được giải thoát khỏi nỗi sợ chết, vui mừng tạ ơn vừa ngâm vần kệ cuối cùng, vừa ngậm đầy thịt trong mỏ và bay về đưa mồi cho cha mẹ.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, người thợ săn là Channa (Xa-nặc), cha mẹ ta là thân quyến trong hoàng gia và Thứu vương là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hoa Cỏ Kusa (Biệt hiệu của Chó rừng – Tiền thân Dabbhapuppha)

Này bạn A-nu, chạy tới ngay…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về Upananda, một người của bộ tộc Thích-ca (sakya).

Vị ấy xuất gia theo Giáo-pháp, nhưng lại từ bỏ các hạnh tri túc và những đức hạnh khác nên trở thành tham lam. Ðầu mùa mưa, ông đến ở thử hai ba tinh xá, để lại một cái dù hay chiếc hài ở một tinh xá, và một chiếc gậy hay bình nước ở một tinh xá khác, rồi chính ông đến an cư ở một tinh xá khác nữa. Ông bắt đầu trú mưa tại một tinh xá ở thôn quê và bảo:

– Chư Tỷ-kheo phải sống tri túc.

Rồi cố ra vẻ như đang làm cho mặt trăng xuất hiện trên trời, ông giải thích pháp môn đưa đến hạnh tri túc, tán thán đời sống tri túc với các nhu cầu tối thiểu. Nghe lời ông, Tăng chúng ném bỏ mọi y bát tốt đẹp, mang bát đất phấn tảo y (y bằng giẻ rách), ông liền đem các thứ kia về tư thất của mình. Khi mùa mưa và lễ Tự tứ (Pavàranà) đã xong, ông chất đầy một xe chở đến Kỳ Viên.

Trên đường đi, dừng lại phía sau một tinh xá trong rừng, ông lấy dây leo quấn hai chân và nói:

– Chắc chắn có thể kiếm được vài thứ ở đây.

Rồi ông đi vào tinh xá. Có hai Tỷ-kheo già đã an cư mùa mưa ở đó, họ kiếm được hai tấm y vải thô và một chiếc mền lông mịn, rồi chẳng biết phải chia chúng ra sao, họ hoan hỷ khi thấy ông đến, nghĩ thầm: “Trưởng lão này sẽ chia các vật dụng cho hai ta”, liền nói:

– Này Hiền giả, chúng tôi không thể chia các y phục dùng cho mùa mưa này được, chúng tôi có bàn cãi về việc này, xin Hiền giả chia dùm chúng tôi.

Vị ấy bằng lòng, chia hai tấm y vải thô cho họ, còn ông lấy cái mền, và bảo họ:

– Vật này dành cho tôi là người biết Giới luật.

Rồi ông bỏ đi. Hai Trưởng lão này thích chiếc mền, liền cùng đi với ông đến Kỳ Viên và kể câu chuyện với chư Tăng hiểu biết luật, rồi hỏi:

– Có đúng là những vị biết Giới luật lại cướp bóc tài sản như vậy chăng?

Tăng chúng thấy đống y bát do Tỷ-kheo Upananda đem đến, liền hỏi:

– Này Hiền giả, Hiền giả thật có đại phước đức, Hiền giả đã tạo được nhiều thực phẩm và y phục thế kia!

Ông đáp:

– Này các Hiền giả, tôi có phước đức gì đâu? Tôi chỉ lấy được các thứ này theo cách như vầy như vầy.

Rồi ông đem mọi chuyện kể ra hết cho mọi người nghe.

Tại Chánh pháp đường, Tăng chúng nêu vấn đề thảo luận, bảo nhau:

– Này các Hiền giả, Tỷ-kheo Upananda thuộc bộ tộc Thích-ca, rất tham lam tài vật.

Bậc Ðạo Sư thấy đề tài của các vị, liền bảo:

– Này các Tỷ-kheo, hành vi của Upannanda không phù hợp để tinh tấn. Khi một Tỷ-kheo giảng giải hạnh tinh tấn cho người khác thì trước tiên thì tự mình phải cho phù hợp rồi mới giáo giới người khác.

Giữ mình đúng mực trước tiên,
Rồi sau thuyết giảng, bậc hiền vị tha.

Bằng cách ngâm vần kệ Pháp cú này, Ngài giải bày Giáo pháp và nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải Upananda chỉ tham lam lần đầu, mà xưa kia kẻ ấy cũng đã cướp bóc tài vật của loài khác nữa.

Rồi ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa. khi vua Brahamdatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát làm một Thần cây bên bờ sông. Một con chó rừng tên Màyàvì, đã có vợ và sống một nơi gần bờ sông. Một ngày kia, vợ nó bảo chồng:

– Này chàng, thiếp có một niềm ao ước, thiếp muốn ăn cá hồng rohita tươi.

Chó rừng đáp:

– Cứ yên lòng, ta sẽ đem cá tươi về cho nàng.

Rồi nó ra phía con sông, quấn chân bằng dây leo đi dọc theo bờ. Lúc ấy có hai con rái cá tên Gambhìracàri và Anutìracàri đang đứng trên bờ rình bắt cá. Gambhìracàri chợt thấy một con cá hồng rohita lớn, liền nhảy xuống nước chụp lấy đuôi cá. Con cá quá mạnh vùng ra được lôi theo rái cá. Nó liền gọi bạn:

– Con cá này to lắm, vừa đủ cho hai ta.

Rồi nó ngâm vần kệ đầu:

  1. Này bạn A-nu, chạy tới ngay,
    Ta cầu khẩn bạn giúp ta đây,
    Ta vừa bắt cá này to lớn,
    Song nó kéo ta mạnh thế này!

Nghe vầy, con kia ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Gam-bhi, bạn tốt số dường nào!
    Móng vuốt bạn cầm vững mạnh sao!
    Chẳng khác đại bàng câu rắn nước,
    Ta câu cá nọ nhấc lên cao!

Sau đó cả hai rái cá kéo con cá hồng rohita đặt xuống đất và cắn nó chết xong, lại bảo nhau:

– Bạn chia cá ra nào.

Rồi chúng cãi nhau nhưng không chia cá được phải ngồi xuống, và để cá nằm đó. Lúc ấy chó rừng vừa bước tới chỗ ấy. Thấy chó, cả hai đều chào rất lễ phép và nói:

– Thưa Tôn ông có lông màu cỏ xám, con cá này do hai chúng tôi bắt được, rồi sinh chuyện cãi nhau vì chúng tôi không biết cách chia cá. Xin Tôn ông chia cá đều hai phần dùm cho.

Rồi chúng ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Một cuộc tranh giành giữa chúng tôi
    Tôn ông mang áo xám kia ôi!
    Xin ông ổn định dùm tranh chấp
    Cho thật công bằng giữa cả đôi.

Chó rừng nghe vậy, liền tự xưng anh hùng qua vần kệ:

  1. Ta đã giải phân lắm cạnh tranh
    Làm xong sứ mạng thật hòa bình,
    Chư Tôn hãy để điều tranh chấp
    Tại hạ công bình ổn định nhanh.

Ngâm vần kệ xong, chó chia cá và ngâm thêm vần kệ này:

  1. A-nu, hãy lãnh phần đuôi,
    Còn chú Gam-bhì, thủ cấp rồi,
    Phần giữa dành cho ta xử kiện,
    Trả công xứng đáng thế này thôi!

Như vậy, sau khi chia cá xong, chó rừng bảo:

– Các ông ăn đầu đuôi cá chứ đừng cãi nhau nữa.

Rồi ngậm khúc giữa vào mồm, nó chạy bay trước mắt cặp rái cá. Chúng ngồi ủ rũ, như thể vừa mất cả ngàn đồng tiền, rồi ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Nếu không tranh cãi chuyện vừa rồi,
    Chắc chắn là vừa đủ cá thôi,
    Nay bị chó rừng mang hết thịt,
    Chỉ còn để lại khúc đầu đuôi!

Chó rừng rất hài lòng, nghĩ thầm: “Nay ta đem cá hồng rohita về cho vợ ta”, rồi nó đi tìm vợ. Chó cái thấy nó đến, liền đon đả chào mừng và ngâm vần kệ:

  1. Như vua mãn nguyện được cầm quyền
    Thâu gọn giang sơn trị nước yên,
    Mãn nguyện ta nhìn chàng trở lại,
    Ngậm đầy trong mỏ cá tươi nguyên!

Rồi nó hỏi chó rừng cách nào kiếm được mồi ngon qua vần kệ:

  1. Chàng vốn sinh ra ở đất bằng,
    Làm sao bắt cá giữa dòng sông?
    Phu quân, chàng lập kỳ công ấy,
    Cho biết vì sao, thiếp ước mong.

Chó rừng ngâm vần kệ giải thích phương cách ấy cho vợ nghe:

  1. Vì cạnh tranh nên chúng yếu dần,
    Cạnh tranh làm chúng phải suy tàn,
    Cạnh tranh, rái cá mất phần hưởng,
    Vì vậy Mà-yà được miếng ngon.

*

Và một vần kệ khác nữa xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật:

  1. Cũng vậy, tranh giành giữa thế nhân,
    Tìm người xử kiện: nó chia phần,
    Gia tài của chúng suy tàn hết,
    Công khố nhà vua được thịnh hưng.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các sự thật và nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, chó rừng là Upananda, hai con rái cá là hai người kia, và Thần cây chứng kiến câu chuyện chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Nuốt Lưỡi Kiếm (Tiền thân Dasanaka)

Bảo kiếm Da-san thích máu hồng…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về âm mưu quyến rủ một Tỷ-kheo do người vợ cũ gây ra.

Tỷ-kheo ấy thú nhận đã thối thất vì lý do này. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Nữ nhân ấy đã làm hại ông. Thời xưa ông cũng đã suýt chết vì tương tư kẻ ấy. Về sau nhờ các bậc trí ông được cứu sống lại.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi Ðại vương Maddava trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm con một gia đình Bà-la-môn. Cha mẹ đặt tên ngài là nam tử Senaka. Khi lớn lên, ngài đi học mọi nghệ thuật tại Takkasilà, và khi về Ba-la-nại Ngài trở thành quốc sư của vua Maddava về thế sự cũng như thánh sự. Ngài được danh hiệu bậc Hiền trí Senaka và được cả kinh thành sùng kính như mặt trăng, mặt trời.

Thời ấy con trai của vị tế sư hoàng gia đến yết kiến vua, thấy bà chánh hậu trang điểm ngọc vàng cực kỳ diễm lệ, đâm ra si tình, khi về nhà chẳng chịu ăn uống gì cả, cứ nằm dài ra. Bạn hữu liền hỏi thăm và chàng trai kể hết mọi chuyện. Vua hỏi:

– Con trai của vị tế sư hoàng gia không đến, việc này là thế nào?

Khi nghe duyên cớ, vua cho gọi chàng trai vào và bảo:

– Trẫm trao hoàng hậu cho cậu trong bảy ngày, cứ ở nhà cậu bảy ngày ấy xong, qua ngày thứ tám, cậu trả lại nàng cho ta.

– Thế thì tốt lắm, tâu Ðại vương.

Chàng trai đáp rồi đem hoàng hậu về nhà thọ hưởng lạc thú với nàng. Hai người đâm ra say mê nhau, và bí mật trốn khỏi nhà chạy sang một xứ khác, không ai biết họ đi đâu và đường đi của họ chẳng khác nào đường của con tàu trên biển cả.

Vua truyền đánh trống thông báo khắp kinh thành, nhưng dù đã tìm mọi nơi, họ vẫn không thấy nàng đã đến đâu cả. Sau đó nỗi đau buồn khủng khiếp vì thiếu nàng xâm chiếm trọn tâm can vua. Tim ông bừng nóng rực và trào máu ra ngoài! Tiếp theo đó, máu từ ruột gan chảy ra khiến bệnh trầm trọng thêm. Các ngự y tài danh đều không thể chữa trị được đành bó tay.

Bồ-tát suy nghĩ: “Bệnh này không phải do nội thân vua, mà do vua mắc tương tư vì không thấy hoàng hậu. Ta thử dùng vài phương cách chữa trị xem sao. “Ngài liền gọi hai quốc sư hiền trí của vua là Àyura và Pukkusa vào bảo:

– Ðức vua không có bệnh gì, ngoại trừ tâm bệnh chỉ vì ngài không thấy hoàng hậu đó thôi. Giờ đây ngài là bậc cứu hộ cao cả đối với thần dân. Ta quyết tìm mọi cách trị bệnh ngài. Ta muốn triệu tập một đám quần chúng vào sân chầu và bảo một người biết xảo thuật nuốt lưỡi kiếm sắc biểu diễn việc này. Ta sẽ đưa Hoàng thượng ra cửa sổ nhìn xuống đám đông. Ngài sẽ nhìn người nuốt lưỡi kiếm và hỏi: “Có việc gì khó hơn thế chăng?”. Lúc ấy, này Tôn giả Àyura, xin hãy đáp: “Nói: Ta sẽ từ bỏ vật này vật kia, còn khó hơn nữa”. Sau đó ngài sẽ hỏi Tôn giả Pukkusa, và Tôn giả cần phải trả lời: Tâu Ðại vương, nếu một người nói: “Ta từ bỏ vật này vật kia”, rồi lại không bỏ nó được, thì lời nói đó sẽ vô ích thôi. Không ai sống hay uống ăn bằng những lời như vậy, nhưng người nào hành động theo lời nói và đem cho một vật đúng theo lời hứa thì chính họ làm được một việc khó hơn việc kia nữa đấy”. Sau đó ta sẽ tìm cách tiến hành mọi sự tiếp theo.

Thế là ngài bảo tập họp một đám đông. Rồi ba bậc trí nhân ấy vào trình vua:

– Tâu Ðại vương, có đám đông trong sân chầu. Nếu ai nhìn xuống đó đổi sầu làm vui. Vậy xin Ðại vương hãy cùng chúng thần đến đó xem sao.

Ba vị rước vua đến hé mở cửa sổ cho vua nhìn thấy đám đông. Nhiều người lần lượt biểu diễn các xảo thuật mà mình biết. Sau cùng có một người nuốt lưỡi kiếm sắc cạnh dài ba mươi ba phân (33 phân Anh: khoảng 80 cm).

Vua thấy vậy suy nghĩ: “Người này đang nuốt lưỡi kiếm, ta muốn hỏi các bậc trí nhân này xem có việc gì khó hơn không?”

Rồi vua ngâm vần kệ đầu hỏi Àyura:

  1. Bảo kiếm Da-san thích máu hồng,
    Cạnh đều sắc nhọn thật hoàn toàn,
    Giữa đông người, nó ăn thanh kiếm,
    Chẳng có việc nào khó nữa chăng?
    Ta hỏi có gì đem sánh được
    Nhờ khanh giải đáp, hởi hiền nhân.
    Àyura ngâm vần kệ thứ hai đáp lời:
  2. Lòng tham dụ kẻ nuốt thanh gươm,
    Cho dẫu lưỡi gươm bén thập toàn,
    Song nói: “Ta cho, lòng tự nguyện”
    Là điều khó thực hiện vô cùng,
    Mọi điều gì khác đều không khó,
    Ðại đế Kiệt-đà, tôi giải phân.

Khi vua nghe lời Àyura, ông liền suy nghĩ: “Thế thì bảo: “Ta cho vật này” còn khó hơn nuốt thanh kiếm. Vậy ta đã nói: “Ta ban hoàng hậu cho con trai tế sư”, tức là ta đã làm một việc rất khó”. Nhờ thế nỗi đau buồn trong tâm vua lắng dịu được một chút. Rồi suy nghĩ: “Có gì khó hơn nói: “Ta cho người khác vật này” chăng?”, ông lại ngâm vần kệ thứ ba nói chuyện với Trí giả Pukkusa:

  1. Ày-ra đã giải đáp lời ta,
    Trí tuệ cao siêu quả thật là,
    Ta hỏi giờ đây câu nữa nhé:
    Còn gì khó nữa hỡi, Pusk-sa,
    Nếu đem so sánh điều trên ấy,
    Hiền giả, xin mời giải đáp ta.

Trí giả Pukkusa ngâm vần kệ thứ tư đáp lại:

  1. Người ta không sống được bằng lời,
    Lời nói thốt ra uổng phí thôi,
    Song nếu đem cho không tiếc nuối,
    Việc này còn khó bội hơn rồi.
    Mọi điều gì khác đều không khó,
    Ðại đế, đây lời đáp của tôi.

Vua nghe vầy, suy nghĩ: “Trước tiên ta nói: “Ta sẽ đem hoàng hậu ban cho con trai tế sư”, rồi ta đã làm theo lời hứa và đem cho nàng. Hiển nhiên ta đã làm một việc rất khó”. Do vậy, nỗi sầu của vua giảm bớt phần nào. Rồi ông chợt nghĩ: “Không có ai thông thái hơn Trí giả Senaka. Ta muốn hỏi vị ấy câu này”.

Ông liền ngâm vần kệ thứ năm hỏi ngài:

  1. Puk-sa đã giải đáp lời ta,
    Trí tuệ cao siêu quả thật là.
    Ta hỏi giờ đây câu nữa nhé:
    Còn gì khó nữa, hỡi Sen-ka,
    Nếu đem so sánh điều trên ấy,
    Hiền giả xin mời giải đáp ta.

Senaka ngâm vần kệ thứ sáu đáp lời vua:

  1. Nếu người có của đã đem cho
    Bất luận là gì, dẫu nhỏ to,
    Ðừng tiếc nuối sau khi bố thí,
    Việc này quả thật khó hơn mà,
    Mọi điều gì khác đều không khó,
    Xin đáp Ðại vương Ma-kiệt-đà.

Vua nghe lời Bồ-tát, lại suy nghĩ: “Ta đã đem hoàng hậu ban cho con trai tế sư do ta tự nguyện, nay ta lại không kiềm nỗi ưu tư, ta sinh phiền não, héo mòn: thật không xứng đáng với ta. Nếu nàng thương yêu ta thì nàng đã không bỏ vương quốc mà chạy trốn như vậy. Ta còn phải liên hệ gì với nàng đã không yêu thương ta và bỏ trốn đi?”.

Trong lúc vua suy nghĩ như vậy, mọi sầu não đều rơi rụng hết như giọt nước đổ trên lá sen, lập tức tâm vua được bình an. Ông hồi phục sức khỏe và an lạc ngâm vần kệ cuối cùng tán thán Bồ-tát:

  1. Ày-ra giải đáp lời ta,
    Thế rồi Hiền giả Puk-sa cũng vầy,
    Lời Sen-ka quả thật hay,
    Trong ba lời giải lời này tối ưu.

Sau khi tán thán, vua hoan hỷ ban thưởng ngài nhiều vàng bạc châu báu.

*

Khi pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các sự thật. Khi các sự thật kết thúc, vị Tỷ-kheo thối thất đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, hoàng hậu là người vợ cũ, vua là là Tỷ-kheo thối thất, Àyura là Moggallàna, Pukkusa là Sàriputta và Hiền giả Senaka chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Túi Da Đựng Bánh (Tiền thân Sattubhasta)

Tâm tư lão rối loạn, ưu phiền…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự Viên mãn của Trí tuệ Tối thắng. Hoàn cảnh chuyện này sẽ xuất hiện trong tiền thân Mahà-Ummagga, số 546.

*

Ngày xưa có vị vua tên là Janaka trị vì ở Ba-la-nại. Thời ấy Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn, cha mẹ đặt tên ngài là nam tử Senaka. Khi lớn lên, ngài theo học các nghệ thuật tại Takkasilà rồi trở về Ba-la-nại yết kiến vua. Vua phong cho ngài chức vụ đại thần và ban cho ngài đại vinh hiển.

Ngài dạy vua về thế sự lẫn thánh sự. Là người thuyết Pháp khả ái, ngài an trú vua vào Ngũ giới, bố thí và hành trì trai giới và Thập thiện đạo, như vậy tức là an trú vua vào chánh hạnh. Toàn quốc độ được ở cảnh như thời có chư Phật xuất hiện. Vào các ngày trai giới nửa tháng một lần, nhà vua, các phó vương, cận thần đều tụ tập và trang hoàng phòng họp.

Bồ-tát thuyết Pháp trong một giảng đường tôn nghiêm trên bảo tọa bọc da nai, với uy lực của một vị Phật, lời ngài dạy chẳng khác gì lời dạy của chư Phật.

Thời ấy có một Bà-la-môn già nua, xin tiền bố thí được một ngàn đồng, để dành trong một giađình Bà-la-môn, rồi lại làm hành khất thêm nữa. Khi ông ra đi, gia đình nọ tiêu hết cả tiền. Sau đó ông trở lại đòi số tiền. Vì gia chủ không có tiền trả, nên gả con gái cho ông làm vợ. Vị Bà-la-môn già đem nàng về cư ngụ trong một làng Bà-la-môn không xa Ba-la-nại. Vì cô vợ còn trẻ nên không thỏa mãn- tham dục và phạm tà hạnh với một Bà-la-môn trẻ.

Ở đời có mười sáu việc không thể nào thỏa mãn. Ðó là mười sáu việc gì? – Biển không thỏa mãn với các dòng sông, lửa không thỏa mãn với nhiên liệu, vua không thỏa mãn với quốc độ, kẻ ngu không thỏa mãn với ác nghiệp, nữ nhân không thỏa mãn với ba việc ân ái, nữ trang và sinh con, Bà-la-môn không thỏa mãn với thánh kinh, bậc trí không thỏa mãn với Thiền định, bậc hữu học không thỏa mãn với danh vọng, người ly tham không thỏa mãn với khổ hạnh, người tinh tấn không thỏa mãn với nỗ lực, người hay nói không thỏa mãn với chuyện trò, nhà chính trị không thỏa mãn với hội nghị, người mộ đạo không thỏa mãn với việc phục vụ Giáo hội, người thích bố thí không thỏa mãn với việc bố thí, người đa văn không thỏa mãn với việc nghe Pháp, tứ chúng không thỏa mãn với việc yết kiến đức Phật.

Vì thế nữ nhân Bà-la-môn này không thỏa mãn việc ân ái, muốn đẩy chồng đi xa và phạm tà dục một cách táo bạo. Một ngày kia, cô ả nằm dài theo gian kế đã dự trù. Khi ông chồng hỏi:

– Nàng ơi, nàng làm sao thế?

Cô ả đáp:

– Chàng Bà-la-môn ơi, thiếp không thể làm việc nhà chàng được nữa, phải kiếm một nữ tỳ.

– Nàng ơi, ta không có tiền, vậy ta sẽ lấy gì để mua nữ tỳ chứ?

– Chàng hãy làm hành khất kiếm tiền mà thuê nữ tỳ.

– Thế nàng hãy sắp đặt vài vật để ta lên đường.

Cô ả đặt vào túi da đủ các thứ bột bánh đã nướng và chưa nướng xong trao cho lão. Lão Bà-la-môn đi qua mọi thôn làng thành thị, kiếm được bảy trăm đồng, nghĩ thầm: “Số tiền này đủ để mua gia nô nữ tỳ rồi”, lão liền trở về làng.

Ðến một địa điểm thuận tiện, để uống nước, lão mở túi xách ăn một ít bánh nướng, rồi đi uống nước mà không buộc miệng túi. Lúc ấy một con rắn hổ trong thân cây rỗng, ngửi mùi bánh bò vào túi nằm cuộn tròn ăn bánh. Lão trở lại, không nhìn vào túi, cứ buộc túi lại và vác lên vai ra đi.

Lúc ấy một vị Thần cây ngồi trên bộng thân cây ấy đến bảo cho lão biết trên đường đi:

– Này Bà-la-môn, nếu lão dừng lại trên đường, lão sẽ chết; còn nếu lão về nhà thì vợ lão sẽ chếtđấy.

Xong vị thần biến mất. Lão nhìn quanh, không thấy vị thần nên lòng kinh hoảng vì sợ chết, vừa đi đến cổng thành Ba-la-nại vừa khóc than.

Hôm ấy vào ngày rằm trai giới, ngày Bồ-tát thuyết Pháp, đang ngồi trên bảo tọa trang nghiêm và một đám đông đem hương hoa đủ loại đến từng đoàn nghe thuyết Pháp. Lão Bà-la-môn hỏi:

– Các người đi đâu thế?

Họ đáp:

– Này lão Bà-la-môn, hôm nay bậc Trí giả Senaka thuyết Pháp với giọng êm dịu và oai lực của một vị Phật. Lão không biết ư?

Lão suy nghĩ: “Họ bảo ngài là một bậc thuyết Pháp hiền trí, còn ta đang lo âu sợ chết, các bậc trí có khả năng diệt trừ các đại phiền não, vậy ta nên đến đó nghe Pháp”.

Vì thế lão cùng đi với họ; khi quần chúng và vua đã ngồi chung quanh Bồ-tát, lão đứng bên ngoài, không xa pháp tọa, với túi thức ăn trên vai và lòng sợ chết. Bồ-tát thuyết giảng chẳng khác nào ngài đang đưa cả dải thiên hà xuống trần giới hay đổ trận mưa đầy thực phẩm thiên giới cho đời.

Quần chúng vô cùng hoan hỷ tán thưởng, lắng tai nghe Pháp. Các bậc trí thường nhìn xa thấy rộng. Vào lúc ấy Bồ-tát mở đôi mắt có đủ năm vẻ đẹp nhìn khắp Hội chúng, thấy vị Bà-la-môn, liền nghĩ: “Cả Hội chúng đông đảo này tràn ngập hân hoan nghe Pháp và tán thưởng, chỉ trừ một Bà-la-môn ủ rũ khóc lóc. Chắc hẳn phải có nỗi sầu tư nào trong lòng khiến lão tuôn lệ. Cũng giống như tẩy rỉ sét với chất chua, hay làm một giọt nước rơi khỏi lá sen, ta sẽ thuyết Pháp cho lão giải sầu và an vui tâm trí”. Vì thế ngài gọi lão:

– Này lão Bà-la-môn, ta là trí giả Senaka, nay ta muốn giải mối sầu cho lão, hãy bạo dạn nói ra đi.

Ngài ngâm vần kệ đầu hỏi lão:

  1. Tâm tư lão rối loạn, ưu phiền,
    Nước mắt chảy là cớ hiển nhiên,
    Lão mất gì, vào đây muốn kiếm
    Thứ gì? Hãy nói rõ ngay liền.

Sau đó, Bà-la-môn ngâm vần kệ bày tỏ duyên cớ nỗi sầu:

  1. Vợ chết, nếu tôi trở lại nhà,
    Còn không, tôi sẽ hóa ra ma,
    Ðiều này làm trái tim đau nhói,
    Xin giải vấn đề, hỡi Sen-ka.

Nghe vị Bà-la-môn nói, Bồ-tát bủa giăng tấm lưới tri kiến như ném lưới vào biển cả, và suy nghĩ: “Có nhiều nguyên nhân gây tử vong ở đời này: một số chết chìm ngoài biển, hoặc bị loài cá dữ ăn thịt, một số rơi xuống sông Hằng, hay bị cá sấu vồ, một số khác rơi từ cây xuống hay bị gai nhọn đâm, một số bị khí giới loại đánh vào người, một số khác ăn nhằm chất độc, bị treo cổ hay rớt xuống vực sâu, chết cóng vì giá buốt, hay các loại bệnh tấn công. Nay giữa mọi duyên cớ ấy, lão Bà-la-môn này phải chết vì cớ nào nếu lão ở nán lại trên đường đi hôm nay, hoặc vợ lão phải chết nếu lão về nhà?”.

Trong lúc suy xét, ngài thấy cái túi trên vai lão và nghĩ: “Chắc hẳn có con rắn chui vào túi, có lẽ vì nó đã nghe mùi bánh khi lão ăn sáng và đi uống nước mà quên buộc miệng túi xách. Sau khi uống nước xong, lão Bà-la-môn trở lại và có lẽ đã tiếp tục lên đường sau khi buộc túi và cầm túi lên mà không thấy con rắn bò vào. Nếu lão ở nán lại trên đường, đến tối lão sẽ tự nhủ lúc dừng chân: “Ta muốn ăn bánh”. Rồi mở túi ra, lão sẽ đặt tay vào, con rắn sẽ cắn tay lão gây tử vong. Ðây chính là nguyên nhân lão sẽ chết nếu ở lại trên đường. Nhưng nếu lão về nhà, túi ấy sẽ đến tay vợ lão, bà ta sẽ nói: “Ta muốn xem đồ đạc bên trong”, rồi bà ta mở túi ra và đặt tay vào, con rắn sẽ cắn bà ta bỏ mạng. Ðây chính là nguyên nhân vợ lão chết nếu lão về nhà hôm nay”. Ngài biết được điều này do trí của ngài tinh xảo về mọi phương tiện.

Lúc ấy ngài lại suy nghĩ: “Ðây chắc hẳn là con rắn hổ đen, táo bạo, không hề biết sợ, nên khi cái túi da đập vào sườn lão Bà-la-môn, nó chẳng nhúc nhích hay run rẩy gì cả. Nó cũng không tỏ dấu hiệu là nó đang có mặt tại Hội chúng đông đảo này, do đó nó phải là con rắn hổ đen bạo dạn, không biết sợ”.

Từ tri kiến tinh xảo các phương tiện, ngài biết điều này như thể ngài chứng kiến với thiên nhãn. Như vậy Ngài chẳng khác nào một người đứng gần đó nhìn con rắn bò vào túi, rồi quyết định sự việc bằng trí kiến tinh xảo của ngài. Bồ-tát ngâm vần kệ thứ ba đáp câu hỏi của vị Bà-la-môn ngay giữa hội chúng triều đình:

  1. Suy xét mọi nghi hoặc trước tiên,
    Nay ta tuyên bố sự đương nhiên:
    La-môn, trong túi đồ ăn ấy
    Ðã lẻn chui vào rắn hổ đen!

Nói vậy xong, Ngài hỏi:

– Này lão Bà-la-môn, có thứ bánh nào trong túi xách của lão chăng?

– Thưa Trí giả, có.

– Thế lão có ăn bánh lúc điểm tâm sáng nay chăng?

– Thưa Trí giả, có.

– Thế lão đã ngồi đâu?

– Ở trong rừng, dưới một gốc cây.

– Thế khi lão ăn bánh xong và đi uống nước, lão có buộc miệng túi lại hay không?

– Thưa Trí giả, tôi không buộc.

– Khi lão đã uống nước và trở về, lão có buộc miệng túi sau khi nhìn vào trong không?

– Thưa Trí giả, tôi buộc miệng túi mà không nhìn vào trong.

– Này lão Bà-la-môn, khi lão đi uống nước, ta chắc là con rắn đã lẻn vào túi do ngửi mùi bánh mà lão không biết: đấy là trường hợp này. Vậy lão mau đặt túi xuống, để ngay giữa Hội chúng và mở miệng túi ra. Lấy gậy đập vào túi, rồi lão sẽ thấy con rắn hổ đen bò ra với chiếc mào giương rộng và rít lên. Lão sẽ hết hồ nghi. Ngài lại ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Cầm gậy đập lên chiếc túi dày,
    Im hơi, hai lưỡi chính con này,
    Trí ông hết rối vì nghi hoặc,
    Mở túi, rồi ông thấy rắn ngay!

Vị Bà-la-môn làm theo lời Bồ-tát bảo, mặc dù lão hết sức kinh hoàng chấn động. Con rắn bò ra khỏi túi khi đầu nó bị chiếc gậy đánh trúng, và nó dừng lại nhìn mọi người.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ thứ năm giải thích vấn đề:

  1. Kinh hãi, lão ra giữa đám đông,
    Mở dây chiếc túi đựng đồ ăn,
    Một con rắn hổ bò hung dữ,
    Kiêu hãnh giương cao cả chiếc mồng!

Khi con rắn bò ra với chiếc mồng giương cao, đó là điềm báo hiệu Bồ-tát sẽ là vị Phật Chánh Ðẳng Giác. Ðám đông bắt đầu vẫy khăn và búng tay hàng ngàn người, bảy báu vật được ném tung ra như thể mưa rào, hàng ngàn tiếng hô: “Tốt lành thay!” vang dậy, ồn ào như đất lỡ.

Lời giải đáp một câu hỏi như vậy do uy lực của một bậc Giác Ngộ chứ không phải nhờ nguồn gốc sinh trưởng, cũng không phải uy lực của người giàu sang danh vọng. Vậy đó là uy lực gì?- Chính là uy lực của tri kiến. Người có tri kiến làm trí tuệ tăng trưởng, mở rộng cánh cửa đi vào các Thánh đạo, chứng đắc Niết-bàn bất tử tối thượng và thành tựu viên mãn các quả vị Thanh văn,Ðộc giác và Chánh Ðẳng Giác: Tri kiến là điều tối thắng giữa các đức tính đưa đến Niết-bàn bất tử tối thượng. Mọi thành phần khác đều là phụ thuộc.

Do vậy có câu tục ngữ:

  1. Người thiện bảo tri kiến tối ưu
    Như trăng đi giữa các vì sao,
    Tiền tài, đức hạnh, lòng công chánh,
    Là các nô tỳ bậc trí cao.

*

Khi câu hỏi đã được Bồ-tát giải đáp xong, một người nhử rắn làm một chiếc khăn bịt miệng rắn rồi đến chụp lấy nó và đem thả vào rừng.

Vị Bà-la-môn đi đến yết kiến vua, kính chào xong, lại ngâm nửa vần kệ tán tụng vua:

  1. Chúa thượng Jan-ka, lợi lạc thay,
    Ðại vương có bậc trí nhân này.

Sau khi ca tụng vua, lão cầm bảy trăm đồng tiền trong túi ra, vừa tán thán Bồ-tát, vừa ngâm một vần kệ rưởi bày tỏ ước muốn bố thí trong niềm hoan hỷ:

Trí ngài đáng sợ, hồ nghi biến,
Trước mắt ngài nhìn thấu suốt ngay.

  1. Này đây có cả bảy trăm đồng,
    Xin nhận lấy ngay vật hiến dâng,
    Vì chính nhờ ngài, tôi được sống
    Cùng nguồn an lạc của thân nhân.

Nghe vầy, Bồ-tát ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Bậc trí không dùng vật cúng dâng
    Chỉ vì các khúc kệ ca ngâm,
    Tốt hơn, ta tặng luôn tiền ấy
    Trước lúc lão về lại cố hương.

Nói vậy xong, Bồ-tát đưa trọn số tiền trả lại vị Bà-la-môn và hỏi:

– Ai bảo lão đi kiếm số tiền này?

– Thưa Trí giả, chính tiện nội.

– Thế hiền nội già hay trẻ?

– Thưa Trí giả, tiện nội còn trẻ.

– Thế thì cô ả đang phạm tà hạnh với kẻ khác, nên đã bảo lão đi xa vì nghĩ cần phải hành động như thế cho an toàn. Nếu lão đem số tiền này về nhà, cô ả sẽ đem cho tình nhân số tiền do lão khổ công kiếm được. Vậy lão không nên về nhà ngay, mà phải để số tiền ngoài thành phố, dưới gốc cây đâu đó.

Nói xong ngài bảo lão ra đi.

Khi lão đến gần làng, lão chôn tiền vào một gốc cây, và về đến nhà lúc chiều tối. Lúc ấy vợ lão đang ngồi với tình nhân. Vị Bà-la-môn đứng ở cửa gọi to:

– Nàng ôi!.

Cô ả nhận ra tiếng lão, vội tắt đèn và ra mở cửa. Khi lão đã vào trong, cô ả dẫn kẻ kia ra cửa, rồi trở vào nhà, chẳng thấy món gì trong túi, liền hỏi:

– Này chàng Bà-la-môn, chàng kiếm được của bố thí gì trên đường đi thế?

– Một ngàn đồng tiền.

– Thế tiền đâu rồi?

– Nó được chôn ở chốn nọ, nhưng đừng lo, ngày mai ta sẽ đi lấy nó.

Cô ả liền đi báo cho tình nhân biết. Hắn đến đó lấy tiền ngay như thể tài sản của hắn vậy. Hôm sau, vị Bà-la-môn đến nhưng không thấy tiền đâu, liền đi tìm Bồ-tát, ngài hỏi:

– Này lão Bà-la-môn, có việc gì thế?

– Thưa Trí giả, tôi không thấy tiền đâu cả.

– Thế lão có nói cho vợ biết chăng?

– Thưa Trí giả, có.

Biết là cô vợ đã báo cho tình nhân rõ, Bồ-tát bảo:

– Này lão Bà-la-môn, thế có vị Bà-la-môn nào là bạn của vợ lão không?

– Thưa Trí giả, có.

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ truyền người đem đến một số tiền đủ chi phí trong bảy ngày để cho lão và dặn:

– Hãy ra về, và hai vợ chồng lão hãy đãi tiệc mời mười bốn vị Bà-la-môn đầu tiên, gồm bảy người bạn lão và bảy người bạn của vợ lão. Rồi từ đó về sau cứ mỗi ngày bớt một vị khách cho đến ngày thứ bảy, lão chỉ mời một Bà-la-môn và vợ lão mời một. Khi ấy nếu lão thấy vị Bà-la-môn được vợ lão mời vào ngày thứ bảy ấy đã đến các lần trước, thì hãy báo cho ta.

Lão Bà-la-môn làm theo lời ngài, rồi đến trình Bồ-tát:

– Thưa Trí giả, tôi đã nhận thấy vị Bà-la-môn luôn luôn đến làm thực khách của nhà tôi.

Bồ-tát sai người đi theo lão, đem vị Bà-la-môn ấy đến và hỏi:

– Có phải anh lấy một ngàn đồng tiền của lão này dấu ở dưới gốc cây nọ chăng?

– Thưa Trí giả, tôi không lấy.

– Thế anh biết ta là Trí giả Senaka ư? Ta muốn bảo anh đem số tiền ấy về đây.

Hắn sợ hãi thú nhận:

– Tôi đã lấy số tiền ấy.

– Thế anh đã làm gì?

– Thưa Trí giả, tôi cất ở chỗ nọ.

Bồ-tát lại hỏi vị Bà-la-môn già kia:

– Này lão Bà-la-môn, lão muốn giữ vợ lại hay lấy vợ khác?

– Thưa Trí giả, cho lão được phép giữ vợ lại.

Bồ-tát sai người đi lấy số tiền và đem cô vợ lão đến, trao số tiền từ tay kẻ trộm ấy lại cho lão Bà-la-môn, rồi ngài trừng phạt kẻ trộm, đuổi hắn ra khỏi tỉnh và trừng phạt luôn cô vợ. Về sau ngài ban lão Bà-la-môn đại vinh dự bằng cách cho phép lão sống ở gần ngài.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, nhiều Tỷ-kheo đạt Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy vị Bà-la-môn là Ànanda, vị Thần cây là Sàriputta, hội chúng là Tăng chúng của đức Phật và Trí giả Senaka chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Trí Giả Atthisena (Tiền thân Atthisena)

At-thi, lắm kẻ đến mong cầu…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại đền Aggàlava gần Àlavi, về các điều lệ xây tịnh thất.

Hoàn cảnh đã được nêu trong tiền thân Manikantha số 253. Bậc Ðạo Sư bảo Tăng chúng:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa trước khi đức Phật ra đời, các ẩn sĩ ngoại đạo dù được vua ban đặc ân, cũng không bao giờ cầu xin điều gì cả, vì thấy rằng cầu xin kẻ khác không đem lại an lạc thư thái.

Nói vậy xong Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn và được đặt tên là Nam tử Atthisena. Khi lớn lên, ngài học các nghệ thuật ở Takkasilà, và về sau, nhận thấy nỗi đau khổ của tham dục, ngài xuất gia tu tập và thành đạt các Thắng trí cùng các Thiền chứng, ngài sống ở vùng Tuyết Sơn. Sau đó xuống vùng dân cư tìm muối và dấm, ngài đến Ba-la-nại. Sau khi ở trong một lâm viên, hôm sau ngài đi khất thực tại cung đình.

Vua hài lòng trước phong cách oai nghi của ngài, liền cho người mời ngài vào, đặt ngài ngồi lên sàng tọa trên sân thượng và cúng dường thực phẩm. Khi ngài nói lời tùy hỷ công đức, vua rất hân hoan, và nhận được lời ngài hứa hẹn cư ngụ trong ngự viên, vua đến tham kiến Bồ-tát mỗi ngày hai ba lần. Một hôm vua hoan hỷ nghe ngài thuyết Pháp xong, liền ban cho ngài một điều ước:

– Xin ngài hãy nói cho trẫm biết bất cứ điều gì ngài ước nguyện, từ quốc độ của trẫm trở xuống.

Bồ-tát không đáp: “Hãy cho ta vật này vật nọ”, nhiều kẻ khác đòi hỏi những vật nào họ mong ước, thường bảo: “Cho tôi vật này”, và vua ban vật đó, nếu không ham thích nó nữa.

Một hôm vua suy nghĩ: “Nhiều người mong cầu đặc ân hoặc các khất sĩ thường xin ta vật này vật nọ, nhưng Hiền giả Atthisena cao quý này, từ khi ta ban điều ước, vẫn không xin gì cả. Ngài thật là bậc có trí tuệ và thiện xảo các phương tiện. Ta muốn hỏi ngài”.

Thế rồi, một hôm sau buổi điểm tâm, nhà vua ngồi một bên, hỏi ngài lý do vì sao nhiều người khác cầu xin ân huệ còn ngài thì không, và vua ngâm vần kệ đầu:

  1. At-thi, lắm kẻ đến mong cầu,
    Cho dẫu họ xa lạ biết bao,
    Lũ lượt xin ta ban thỉnh nguyện,
    Còn ngài, không ước vọng, vì sao?

Nghe vầy, Bồ-tát ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Hai kẻ cầu ân, hoặc chối từ,
    Thảy đều không đẹp ý bao giờ,
    Ðấy là duyên cớ, xin đừng giận,
    Khiến tiểu thần không thỉnh nguyện vua.

Nghe lời ngài, vua ngâm tiếp ba vần kệ nữa:

  1. Người nào kiếm sống khẩn cầu hoài,
    Chẳng đến cầu ân lúc hợp thời,
    Làm kẻ khác suy tàn đức độ,
    Chính mình chẳng có kế sinh nhai.
  2. Người nào kiếm sống, khẩn cầu hoài,
    Thường đến cầu ân lúc hợp thời,
    Làm kẻ khác tăng dần đức độ,
    Chính mình cũng được kế sinh nhai.
  3. Bậc có trí không thấy hận sân,
    Khi người lũ lượt đến cầu ân,
    Nói đi, Thánh giả là thân hữu,
    Ðiều ước ngài không thể lỗi lầm.

Như vậy, dù được ban tặng cả vương quốc, Bồ-tát cũng không cầu mong gì. Khi nguyện vọng của nhà vua đã được phát biểu như vậy, Bồ-tát liền bày tỏ đường lối của ẩn sĩ:

– Thưa Ðại vương, người thế tục và gia chủ thường thích thỉnh nguyện, chứ không phải người xuất thế, vì từ khi phát nguyện xuất gia, ẩn sĩ phải sống đời thanh tịnh khác với gia chủ. Rồi ngài ngâm vần kệ thứ sáu bày tỏ nếp sống ẩn sĩ:

  1. Bậc trí không hề thỉnh nguyện đâu,
    Thế nhân phải biết rõ như sau:
    Trí nhân thỉnh nguyện ngồi im lặng,
    Như thế là người trí thỉnh cầu.

Vua nghe lời Bồ-tát liền nói:

– Bạch Tôn giả, nếu một người phục vụ có trí tự nguyện cống hiến thân hữu mình những gì cần được cống hiến, thì trẫm xin tặng Tôn giả những vật như vầy:

  1. Ngàn bò trẫm tặng Bà-la-môn,
    Bó đỏ, thêm người hướng dẫn đường,
    Nghe các nghiệp ngài đầy thánh thiện,
    Trẫm nay phát khởi nghiệp hiền lương.

Khi vua nói vậy, Bồ-tát từ chối, bảo:

– Thưa Ðại vương, ta đã sống đời tu tập xa lìa cấu uế, ta không cần đàn bò.

Vua tuân thủ lời khuyến giáo của ngài, chuyên tâm bố thí và làm nhiều thiện sự khác nên được sinh lên thiên giới.

Còn Bồ-tát không hề gián đoạn Thiền định, nên tái sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, nhiều Tỷ-kheo được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, vua là Ánanda và Atthisena chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hầu Vương (Tiền thân Kapi)

Người trí không nên ở chốn nào…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) bị quả đất nuốt sống.

Thấy Tăng chúng đang bàn luận việc này tại Chánh pháp đường. Ngài bảo:

– Ðây không phải lần đầu Devadatta và hội chúng của kẻ ấy bị tiêu diệt, mà xưa kia cũng vậy.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát nhập thai vào loài khỉ sống trong ngự viên cùng cả đàn tùy tùng năm trăm con khỉ. Devadatta cũng được sinh làm khỉ, cùng sống tại đó với một bầy năm trăm khỉ khác.

Một hôm vị tế sư của nhà vua đi ra vườn tắm rửa, trang hoàng thân thể xong, một con khỉ tinh nghịch leo lên ngồi trên cổng vòng cung của ngự viên, thả cục phân rơi trên đầu vị ấy lúc ông đi qua cổng. Khi tế sư nhìn lên, nó lại thả thêm một cục phân vào miệng ông. Vị tế sư quay lại, hăm dọa bầy khỉ:

– Ðược lắm, ta sẽ biết cách trừng trị bây.

Rồi ông lại tắm rửa và ra về.

Bầy khỉ trình lại với Bồ-tát rằng vị tế sư giận và hăm dọa chúng như vậy.

Ngài thông báo cho cả bầy ngàn con khỉ:

– Ở gần nơi cư trú của kẻ sân hận là không an toàn, vậy cả đàn khỉ nên chạy trốn đi nơi khác.

Một con khỉ không vâng lệnh, giữ bầy khỉ của nó lại, không chạy trốn và bảo:

– Ta sẽ xét lại việc ấy sau.

Bồ-tát đem bầy khỉ đi vào rừng.

Một hôm, có một nữ tỳ giã gạo và phơi nắng một ít gạo, một con dê đến ăn gạo đã bị một câyđuốc đập vào mình, nó chạy trốn, mình cháy đỏ rực, vội chà mình vào vách lều cỏ gần chuồng voi. Ngọn lửa bắt vào lều cỏ lan qua chuồng voi, làm các lưng voi bị phỏng, các thú y được mời đến chăm sóc bầy voi.

Vị tế sư hoàng gia vẫn luôn tìm cơ hội bắt bầy khỉ. Lúc vị tế sư đang ngồi chầu nhà vua, nhà vua bảo:

– Này tế sư, nhiều con voi của ta bị thương và các thú y chuyên về voi lại không biết cách chữa trị, vậy khanh có biết chữa không?

– Tâu Ðại vương, thần biết.

– Cách gì thế?

– Tâu Ðại vương, mỡ khỉ.

– Làm sao có được thứ ấy?

– Có rất nhiều khỉ trong ngự viên.

Vua phán:

– Giết bầy khỉ để lấy mỡ.

Các xạ thủ đem cung tên đi giết cả năm trăm con khỉ. Một con khỉ già trốn thoát được dù nó bị thương do mũi tên, và chưa ngã ngay tại chỗ, nó chỉ ngã xuống khi đến nơi ở của Bồ-tát. Bầy khỉ bảo nhau:

– Nó đã chết khi vừa đến chỗ ở của ta.

Và chúng kể lại với Bồ-tát rằng con khỉ kia chết do vết thương ấy. Ngài bước ra ngồi giữa bầy khỉ, ngâm các vần kệ này để khuyến giáo chúng với lời khuyên của bậc trí, đó là: “Người nào ở gần kẻ thù đều phải chết như vậy”.

  1. Người trí không nên ở chốn nào
    Cừu nhân cư trú, dẫu dài lâu,
    Hay chỉ một, hai đêm cũng vậy,
    Ðến gần sẽ gặp nỗi sầu đau.
  2. Kẻ ngu là địch thủ cho ai
    Vẫn trót tin lời nó nói sai:
    Con khỉ ngu si đem đại họa
    Cho bầy của nó thế mà thôi.
  3. Một kẻ ngu si đứng trưởng đoàn,
    Vì kiêu căng muốn tỏ khôn ngoan,
    Sẽ không khác khỉ này gây họa,
    Mãi mãi đưa đường đến bại vong.
  4. Kẻ mạnh ngu si chẳng tốt lành,
    Lãnh phần bảo vệ cả đàn mình,
    Nó là tai họa cho đồng loại,
    Chẳng khác chim mồi đáng hãi kinh.
  5. Trưởng đoàn hùng dũng trí khôn ngoan
    Làm tốt để canh giữ cả đoàn,
    Chẳng khác Ind-ra bên Hội chúng,
    Là phần thưởng của các thân bằng.
  6. Người nào đủ giới hạnh hoàn toàn,
    Trí tuệ tinh thông, học tập luôn,
    Hành động người này đem phước lạc
    Cho mình cùng với các tha nhân.
  7. Vậy thì giới hạnh lẫn đa văn,
    Tri kiến học hành, luyện bản thân,
    Như thể vị hiền nhân độc trú,
    Hoặc lo bảo vệ đám thân bằng.

Như vậy Bồ-tát trở thành Hầu vương, và giảng giải đường lối học tập Giới luật.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Thời ấy con khỉ không tuân lệnh là Devadatta, bầy khỉ của nó là Hội chúng của Devadatta, và Hầu vương có trí là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Phạm Thiên Baka (Tiền thân Bakabrahma)

Chúng tôi tất cả bảy mươi hai…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này khi trú tại Kỳ Viên về Phạm thiên Baka.

Một tà kiến sinh khởi trong tâm vị Phạm thiên này, đó là: “Cõi sinh hữu này là trường tồn, thường hằng, vĩnh cửu, bất biến; ngoài nơi này ra không có sự cứu độ hay giải thoát gì nữa…”.

Trong một đời trước, vị Phạm thiên này đã thực hành Thiền định, vì thế được tái sinh vào cõi trời Quảng Quả (Vehapphala). Sau khi đã trải qua đời sống ở đó trong năm trăm kiếp (Kappa), vị ấy tái sinh vào cõi trời Biến Tịnh (Subhakinna). Sau khi đã trải qua sáu mươi bốn kiếp tại đó, vị ấy mạng chung và tái sinh vào cõi trời Quang Âm (Àbhassara), nơi đời sống kéo dài trong tám kiếp. Và chính tại đó, tà kiến này khởi lên trong tâm vị ấy.

Vị Phạm thiên này quên rằng mình đã từng sống ở các cõi Phạm thiên giới cao hơn và đã tái sinh vào cảnh giới này. Do nhận thức các điều trên, vị ấy chấp thủ tà kiến. Bậc Ðạo Sư thấu hiểu các tư tưởng của vị ấy và thật dễ dàng như một lực sĩ duỗi cánh tay cho thẳng ra hay cong cánh tay trở lại, Ngài biến mất ở Kỳ Viên và xuất hiện ở Phạm thiên giới ấy. Vị Phạm thiên thấy ngài liền thưa:

– Thiện lai Thế Tôn, xin Thế Tôn đến đây. Bạch Thế Tôn, thế giới này là trường tồn, thường hằng, vĩnh cửu, tuyệt đối, bất biến; thế giới này không sinh, không già, không chết, không biến hoại, không tái sinh. Ngoài thế giới này, không có sự cứu độ nào cao hơn nữa.

Khi lời này được vị Phạm thiên Baka nói ra, Thế Tôn bảo:

– Phạm thiên Baka đã si mê, đã lầm lạc khi nói rằng một vật không thường hằng là thường hằng, một vật không vĩnh cửu là vĩnh cửu, cùng những điều tương tự, như ngoài thế giới này không có sự cứu độ nào cao hơn nữa trong khi vẫn có sự cứu độ khác.

Nghe lời này, vị Phạm thiên suy nghĩ: “Thế Tôn đang khuyến giáo ta khi nhận ra chính xác những lời ta nói”.

Rồi như một kẻ trộm rụt rè sau khi bị đấm vài cái, vị ấy đáp:

– Ðệ tử đâu phải là tên trộm duy nhất? Còn nhiều vị này vị nọ cũng đều là các tên trộm khác nữa.

Rồi vị ấy nêu tên các vị Thiên cùng một hội chúng; như vậy vị Phạm thiên lo sợ đức Phật chất vấn, nên đã ngâm vần kệ đầu tiên nói lên các vị Thiên cùng hội chúng của mình:

  1. Chúng tôi tất cả bảy mươi hai,
    Chân chánh và cao cả tuyệt vời,
    Sanh, lão chúng tôi đà giải thoát,
    Cõi này là trí tuệ nhà trời,
    Không Thiên giới khác cao hơn nữa,
    Nhiều kẻ tán đồng quan điểm tôi.

Nghe lời này, Bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Ðời ngài ngắn ngủi ở thiên đàng,
    Tưởng đời trường thọ quả sai lầm,
    Một trăm ngàn kiếp trôi qua mất,
    Ta biết đời ngài quá rõ ràng.

Nghe vầy, Baka ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Thế Tôn, trí tuệ tử vô cùng,
    Sanh, lão, sầu nằm ở dưới chân:
    Xưa đã tạo nên bao thiện nghiệp,
    Thế Tôn cho đệ tử hay chăng?

Sau đó đức Thế Tôn ngâm bốn vần kệ kể cho vị ấy nghe những chuyện quá khứ:

  1. Xưa lấy nước ban phát những người
    Lúc đang cơn khát sắp tàn hơi,
    Dưới trời hạn hán như thiêu đốt,
    Thiện nghiệp ngài qua đã mấy đời,
    Ta biết là ta đều nhớ rõ,
    Như vừa tỉnh giấc mộng mà thôi.
  2. Sông E-ni, thuở nọ bên bờ,
    Ngài thả nhiều người được tự do,
    Trong lúc bị giam cầm chặt chẽ,
    Việc lành ngài tạo dẫu xa xưa,
    Song ta biết rõ ta còn nhớ
    Như thể mới vừa tỉnh giấc mơ.
  3. Ngày xưa trên bến nước sông Hằng,
    Ngài cứu thuyền người nọ thoát thân,
    Khi bị ác xà kia chụp lấy
    Vì thèm thịt sống, khỏi tai ương,
    Việc lành ngài tạo dầu xa lắc,
    Ta nhớ rõ như tỉnh giấc nồng.
  4. Ta chính Kap-pa, đệ tử ngài,
    Trí đức ngài, ta biết rõ mười,
    Thiện nghiệp ngài làm, ta nhớ kỹ.
    Như là mới tỉnh giấc mơ thôi.

Khi nghe các nghiệp quá khứ của mình do Bậc Ðạo Sư thuyết giảng, Baka cảm tạ và ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Thế Tôn biết mọi kiếp xưa xa,
    Tuệ giác toàn tri quả Phật-đà,
    Uy lực hào quang vinh hiển thực,
    Sáng ngời khắp cõi Phạm thiên ta.

*

Như vậy Bậc Ðạo Sư vừa tỏ bày uy lực của một đức Phật, vừa thuyết Pháp khai thị các Sự thật. Lúc kết thúc Pháp thoại, tâm của mười ngàn vị Phạm thiên được giải thoát khỏi các ô nhiễm cấu uế. Do đó, đức Thế Tôn trở thành nơi an trú của các vị Phạm thiên, rồi trở về Kỳ Viên từ cõi Phạm thiên, Ngài thuyết Pháp như trên và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy Phạm thiên Baka là nhà khổ hạnh Kesava và đệ tử Kappa chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Quốc Vương Gandhàra (Tiền thân Gandhàra)

Làng phố, vũ công mười sáu ngàn…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên, liên hệ giới điều về việc “tích trữ dược liệu”. Tuy nhiên, hoàn cảnh chuyện này đã xảy ra ở Vương Xá.

Khi Tỷ-kheo Pilindiyavaccha đến cung vua để giải thoát gia đình người giữ ngự viên, ông dùng thần thông lực biến cung vua thành tòa nhà bằng vàng, quần chúng hoan hỷ đến tặng ông năm thứ dược liệu. Ông đem phân phát khắp Tăng chúng. Do đó Tăng chúng có nhiều dược liệu và khi nhận được các dược liệu, họ chứa đầy các chai, hủ, bình, túi… và cất để dành. Dân chúng thấy vậy thì thầm bảo nhau: “Các Tỷ-kheo tham lam kia đang tích trữ đồ đạc trong tinh xá”.

Bậc Ðạo Sư nghe vậy liền công bố giới điều:

– Bất cứ dược liệu trị bệnh nào khi nhận được, phải được dùng trong vòng bảy ngày.

Và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, các bậc trí nhân thuở xưa, trước khi đức Phật ra đời, dẫu xuất gia theo ngoại đạo và chỉ giữ Ngũ giới, cũng đã khiển trách những ai tích trữ muối và đường cho ngày hôm sau; còn các ông ngày nay dẫu đã được xuất gia theo Giáo pháp giải thoát, lại tích trữ đồ đạc đến hai ba ngày ư?

Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa Bồ-tát là vương tử của xứ Gandhàra. Khi vua cha băng hà, ngài lên ngôi vua trị nước chân chánh. Ðồng thời ở vùng Trung thổ, tại vương quốc Videha, có vị vua mệnh danh Videha cai trị. Hai quốc vương này chưa hề gặp nhau, nhưng lại là thân hữu và tin cậy lẫn nhau.

Thời ấy, loài người trường thọ: đời sống dài ba mươi ngàn năm. Một hôm, vào ngày trai giới trăng tròn, vua Gandhàra đã phát nguyện giữ giới và ngự trên bảo tọa giữa ngai vàng dành cho ngài, nhìn ra một cửa sổ rộng mở ở góc hướng Ðông, ngài ngồi thuyết giảng cho quần thần về bản chất giáo lý. Lúc ấy, thần Ràhu (La-hầu: Vua các Thần A-tu-la) đã che hết mặt trăng tròn đầy đang tỏa sáng cả bầu trời. Ánh trăng biến mất. Triều thần không thấy ánh trăng, liền tâu vua rằng thần Ràhu đã chụp lấy mặt trăng.

Vua quan sát mặt trăng, nghĩ thầm “Mặt trăng đã mất ánh sáng vì bị một biến động bên ngoài làm hỏng. Nay triều thần chính là mối phiền lụy của ta. Ta không nên để mất ánh sáng như mặt trăng bị thần Ràhu chụp lấy. Ta muốn rời quốc độ như mặt trăng chiếu trên bầu trời trong sáng và trở thành ẩn sĩ. Tại sao ta lại giáo giới người khác? Ta muốn ra đi, từ giã thân quyến, thần dân và giáo giới bản thân ta mà thôi: điều ấy mới thích hợp với ta”. Vì vậy ngài phán:

– Các khanh cứ làm gì tùy ý.

Rồi ngài trao quốc độ cho triều thần. Khi ngài đã từ bỏ vương quốc ở hai xứ Kashmir và Gandhàra, ngài sống đời tu hành. Khi chứng đắc các Thắng trí, ngài an cư mùa mưa ở vùng Tuyết Sơn, chuyên tâm vào sự an lạc của Thiền định.

Khi hỏi thăm các thương nhân, vua Videha bảo:

– Hiền hữu của ta có được khang an chăng?

Và được tin ngài đã ra đi đời sống tu hành, vua suy nghĩ: “Hiền hữu ta đã xuất gia tu tập, ta còn phải làm gì với quốc độ này?”

Vì thế ngài thoái vị ở kinh thành Mithilà dài bảy dặm, và vương quốc Videha rộng ba trăm dặm gồm mười sáu ngàn làng với các cửa hiệu đầy hàng hóa, mười sáu ngàn nữ vũ công, rồi cũng không nghĩ đến các hoàng tử và công chúa, vua lên vùng Tuyết Sơn sống đời tu hành. Tại đó ngài chỉ sống bằng quả rừng trong đời độc cư thanh tịnh. Cả hai vị vua an tịnh độc cư như vậy, sau đó gặp nhau; tuy thế hai vị vẫn sống cùng nhau trong cảnh đời an tịnh với tình thân hữu.

Ẩn sĩ xứ Videha phục vụ ẩn sĩ xứ Gandhàra. Vào một đêm đầy trăng, trong lúc hai vị ngồi dưới gốc cây đàm luận đạo lý, thần Ràhu che khuất mặt trăng đang sáng tỏa khắp bầu trời.

Ẩn sĩ xứ Videha nhìn lên, hỏi:

– Tại sao ánh trăng bị mất?

Và khi thấy trăng bị thần Ràhu chụp, vị ấy hỏi:

– Bạch Tôn sư, tại sao nó che khuất mặt trăng làm cho tối tăm vậy?

– Này đồ đệ, đó là do duyên quấy nhiễu mặt trăng tên gọi là Ràhu, nó ngăn cản mặt trăng chiếu sáng. Chính ta khi thấy mặt trăng bị thần Ràhu che khuất, đã suy nghĩ: “Mặt trăng sáng trở nên tối vì bị quấy nhiễu từ bên ngoài. Nay quốc độ là mối phiến nhiễu đối với ta, ta muốn theo đời tu hành để quốc độ không làm ta đen tối như thần Ràhu làm tối mặt trăng kia. Như vậy, lấy chuyện mặt trăng bị thần Ràhu che khuất làm chủ đề của ta, ta từ giã vương quốc và sống đời tu hành”.

– Bạch Tôn sư, thế ngài là cựu vương nước Gandhàra ư?

– Chính phải.

– Bạch Tôn sư chính đệ tử là cựu vương Videha, trong quốc độ Videha và kinh thành Mithila, dù chúng ta chưa từng thấy nhau, chúng ta chẳng phải đã làm bạn với nhau đó sao?

– Thế chủ đề của Hiền hữu là gì?

– Ðệ tử nghe Tôn sư đã xuất gia tu tập nên suy nghĩ: “Chắc chắn ngài đã tìm thấy lợi ích của nếp sống ấy, đệ tử xem ngài là chủ đề của mình, nên từ giã quốc độ và xuất gia”.

Từ đấy trở đi, hai vị trở nên hết sức thân thiết, quý mến nhau và chỉ sống bằng quả rừng. Sau một thời gian an trú tại đó, hai vị từ Tuyết Sơn đi xuống tìm muối và dấm, dần dần đến một làng ở biên địa.

Dân chúng hoan hỷ vì phong cách hai vị, đã cúng dường và khi nhận được lời hứa, họ dựng thảo am để hai vị trú ban đêm và ở cả trong rừng nữa, rồi mời hai vị ở lại đó; bên vệ đường họ còn dựng một phòng ăn ở một nơi đẹp có nước chảy.

Sau khi đi khất thực từ làng biên địa, hai vị ngồi dùng món ăn trong thảo am kia rồi trở về chỗ cư trú của mình. Dân chúng cúng dường thực phẩm có hôm để muối lên một lá rồi đem đến cho hai vị, hôm khác lại đem thức ăn không có muối.

Một hôm họ cúng dường hai vị rất nhiều muối trong một cái rỗ bằng lá. Ẩn sĩ xứ Videha lấy muối đem vừa đủ phần Bồ-tát lúc dùng thức ăn, và cũng lấy phần vừa đủ cho mình, sau đó cất phần còn lại trong rổ lá đặt vào một cuộn cỏ, tự nhủ: “Cái này sẽ có ích cho ngày không có muối”.

Rồi một hôm nhận được thức ăn không có muối, ẩn sĩ xứ Videha đem món khất thực đến ẩn sĩ Gandhàra, lấy muối trong cuộn cỏ ấy ra và bảo:

– Bạch Tôn sư, hãy lấy muối.

– Dân chúng hôm nay không cho ta muối, vậy đồ đệ lấy đâu ra muối?

– Bạch Tôn sư, hôm kia dân chúng cho nhiều muối, nên đệ tử cất phần dư và bảo: “Cái này sẽ có ích cho ngày không muối”.

Bồ-tát liền quở trách vị này, bảo:

– Này kẻ ngu si kia, ông đã từ bỏ vương quốc Videha rộng ba trăm dặm, đã xuất gia tu hành và chứng đạt tâm ly dục, nay ông lại khởi lòng ham thích muối và đường!

Khuyến giáo như vậy xong, ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Phố xá, thôn trang mười sáu ngàn,
    Ông từ bỏ hết mọi giàu sang,
    Kho tàng của cải nhiều vô tận,
    Nay tích trữ gì đấy phải chăng?

Ẩn sĩ Videha bị khiển trách như vậy, không kham nhẫn lời khiển trách mà trở nên lạnh lùng bảo:

– Bạch Tôn sư, ngài không thấy lỗi của ngài, mặc dù ngài thấy lỗi của tôi. Ngài đã chẳng rời bỏ vương quốc và xuất gia, tự bảo: “Tại sao ta phải khuyến giáo kẻ khác? Ta muốn khuyến giáo bản thân ta mà thôi” ư? Thế sao nay ngài lại đang khuyến giáo tôi đấy?

Rồi vị ấy ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Ngài bỏ Gan-dha, mọi phố phường,
    Biết bao châu báu ở kho tàng,
    Không còn ban lệnh cho ai nữa,
    Nay lại truyền tôi lệnh ấy chăng?

Nghe vậy Bồ-tát ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Chính vì chân chánh, ta khuyên răn,
    Vì ghét những gì chẳng chánh chân,
    Khi nói cho ông điều chánh hạnh,
    Lỗi lầm ta chẳng phạm vào thân.

Ẩn sĩ xứ Videha nghe Bồ-tát nói, đáp lại:

– Bạch Tôn sư, thuyết giảng cho người khác sau khi đã làm kẻ ấy đau buồn giận dỗi là điều không thích hợp, dầu có thuyết giảng đúng vấn đề đi nữa. Tôn sư đang nặng lời gay gắt với tôi như thể cạo đầu tôi với con dao cùn!

Rồi vị ấy ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Bất cứ lời nào, nếu nói ra,
    Sẽ gây thương tổn đến người ta,
    Trí nhân không nói ra lời ấy,
    Cho dẫu tạo nên quá lớn mà!

Bồ-tát liền đáp vần kệ thứ năm:

  1. Người nghe ta rắc trấu hay không,
    Hay dẫu người kia bị tổn thương,
    Khi nói ra điều gì chánh hạnh,
    Lỗi lầm ta chẳng phạm vào thân.

Nói vậy xong, ngài tiếp tục bảo:

– Này Ànanda, ta không cư xử với ông như người thợ gốm cư xử với đám nồi đất chưa nung đâu. Ta sẽ còn khiển trách nhiều lần nữa, vì “Cái gì là cốt lõi, cái ấy sẽ tồn tại”.

Do vậy, ngài cương quyết giữ cách xử sự phù hợp với lời giáo huấn của đức Thế Tôn. Ví như người thợ gốm giữa đám đồ gốm, sau một thời gian thường xuyên đập gõ lên chúng, chỉ chọn cái nồi đã nung kỹ, chứ không chọn cái nồi đất chưa nung, ngài cũng chọn người tốt như chiếc nồi được nung kỹ kia bằng cách khuyến giáo và khiển trách nhiều lần như thế. Rồi muốn thuyết giảng để nêu rõ cho vị ấy hiểu điều này, ngài ngâm vần kệ:

  1. Nếu trí đức không được luyện rèn
    Trong đời sống để mãi tăng thêm,
    Nhiều người phiêu bạt chân buông thả,
    Như thể trâu mù cứ bước lên.
  2. Song các trí nhân khéo luyện rèn
    Ðể cho thiện hạnh mãi tăng thêm,
    Chính nhờ đạo hạnh này thuần thục
    Nên các tha nhân bước tiếp liền.

Nghe lời này, ẩn sĩ xứ Videha nói:

– Bạch Tôn sư, từ nay về sau xin cứ giáo huấn đệ tử . Ðệ tử trót lỡ nói lời bất nhã với ngài, xin tha thứ cho đệ tử.

Rồi cúi đầu đảnh lễ cung kính, vị ấy được Bồ-tát thứ lỗi.

Như vậy hai vị đã sống hòa hợp với nhau và trở về Tuyết Sơn. Sau đó Bồ-tát dạy ẩn sĩ xứ Videha cách chứng đắc Thiền định. Vị ấy tuân thủ và thành tựu các Thắng trí cùng các Thiền chứng. Hai vị không bao giờ gián đoạn Thiền định nên về sau tái sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy ẩn sĩ xứ Videha là Ànanda và quốc vương Gandhàra chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Đại Hầu Vương (Tiền thân Mahàkapi)

Chính thân ngài đã bắt ngang cầu khỉ…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về các thiện nghiệp đối với thân quyến. Hoàn cảnh chuyện này sẽ xuất hiện trong tiền thân Bhaddasàla, số 444.

Tăng chúng bắt đầu bàn luận trong Chánh pháp đường, bảo nhau:

– Ðức Phật Toàn Giác đã làm nhiều thiện sự đối với thân quyến.

Khi Bậc Ðạo Sư hỏi Tăng chúng và được trình bày đề tài trên, Ngài đáp:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu Như Lai làm thiện nghiệp đối với thân quyến.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát nhập mẫu thai loài khỉ. Khi lớn lên, ngài có vóc dáng oai nghi lực lưỡng và cường tráng, cùng sống với một đàn tám mươi ngàn con khỉ ở Tuyết Sơn.

Gần bờ sông Hằng có một cây xoài (nhiều người khác bảo là cây đa) với nhánh chồi tỏa bóng mát và lá rậm rạp như một đỉnh núi. Trái xoài ngọt có mùi hương và vị tuyệt diệu, to bằng các bình nước. Trái từ một cành rơi xuống đất, từ một nhánh khác rơi xuống sông Hồng, từ hai nhánh khác rơi vào gốc cây.

Trong lúc ăn xoài cùng với loài khỉ, Bồ-tát nghĩ thầm: “Một ngày kia tai họa sẽ xảy đến cho ta do trái xoài rơi xuống nước”.

Vì thế không để lại trái xoài nào trên cành cây mọc trên bờ sông, ngài bảo bọn chúng ăn hết hoặc ném bỏ hoa đúng mùa ngay từ khi nụ hoa mới nhú bằng hột đậu.

Tuy thế, một xoài chín nằm kín trong một tổ kiến, nên cả tám mươi ngàn con khỉ không trông thấy, rớt xuống dòng sông và mắc vào cái lưới ở phía trên vua Ba-la-nại lúc ấy đang tắm sông vui đùa với một tấm lưới ở trên và một tấm ở dưới.

Khi vua đã vui đùa suốt ngày và sắp ra về lúc chiều tối, bọn người đánh cá đang kéo lưới lên, trông thấy trái cây, nhưng không biết loại gì, liền đem dâng vua, vua hỏi:

– Trái gì thế?

– Tâu Ðại vương, chúng thần không biết.

– Thế ai biết?

– Tâu Ðại vương, các người kiểm lâm.

Vua truyền gọi bọn người kiểm lâm và khi nghe họ bảo đó là trái xoài, vua lấy dao cắt nó ra, rồi trước hết bảo bọn kiểm lâm ăn xoài, sau đó chính nhà vua cũng ăn xoài. Hương vị xoài chín thấm nhuần khắp toàn thân vua. Do lòng ham muốn hương vị câu thúc, vua hỏi bọn kiểm lâm cây ấy ở đâu, và khi nghe rằng cây ấy ở trên bờ sông về hướng Tuyết Sơn, vua truyền ráp các chiếc bè lại và chèo ngược lên thượng nguồn của sông theo lộ trình được đám kiểm lâm hướng dẫn. Số ngày đi đường chính xác là bao nhiêu không được nêu ra.

Theo thời gian, họ đến nơi ấy, và bọn kiểm lâm trình vua:

– Tâu Ðại vương đó là cây xoài.

Vua dừng bè lại và cùng đám quần thần đông đảo đi bộ đến nơi, rồi truyền trải sàng tọa ngay dưới gốc cây, vua nằm ngủ sau khi đã ăn xoài và hưởng đủ mọi thứ hương vị tuyệt hảo. Khắp mọi phía quân lính canh gác cẩn thận và nhóm lửa lên. Khi mọi người đã ngủ yên, Bồ-tát cùng bầy khỉ đến đó lúc nửa đêm.

Tám mươi ngàn con khỉ chuyền từ cành nọ sang cành kia ăn xoài. Vua tỉnh giấc thấy bầy khỉ, liền đánh thức quân hầu và gọi đám xạ thủ đến bảo:

– Hãy bao vây loài khỉ đang ăn xoài để chúng không thoát được, rồi bắn cả đi. Ngày mai ta muốn ăn xoài với thịt khỉ.

Ðám xạ thủ tuân lệnh, đồng đáp:

– Muôn tâu, được lắm.

Rồi họ bao vây cả cây với cung tên sẵn sàng.

Bầy khỉ thấy họ, sợ chết vì chúng không thể trốn được, liền nhảy đến Bồ-tát và thưa:

– Tâu Ðại vương, các xạ thủ đang vây quanh cây và bảo: “Ta sẽ bắn chết loài khỉ lang thang trộm cắp này”. Chúng con phải làm gì bây giờ?

Chúng vừa đứng vừa run rẩy.

Bồ-tát bảo:

– Ðừng sợ, ta sẽ cứu mạng các con.

Vừa an ủi bầy khỉ như vậy xong, ngài leo lên một cành mọc thẳng đứng, rồi đi qua một cành khác dài về phía sông Hằng, xong lại nhảy vọt về cuối cành ấy, vượt qua một trăm tầm cung và hạ xuống một bụi cây trên bờ.

Khi xuống đến nơi, ngài đánh dấu khoảng cách và nói: “Ðó là khoảng cách ta đã vượt qua”. Rồi cắt một đọt tre sát gốc, lột vỏ và nói:

– Phần này sẽ được buộc vào cây ấy, và phần kia sẽ ở trên không.

Khi tính hai chiều dài như vậy, ngài quên phần buộc vào thắt lưng mình. Ngài cầm đọt tre buộc một đầu vào thân cây trên bờ sông Hằng và phần kia vào thắt lưng, sau đó nhảy vọt qua khoảng cách một trăm tầm cung ấy với tốc độ của mây bay theo gió cuốn.

Do không tính phần tre buộc vào thân mình, ngài không tới tận cây ấy. Vì vậy ngài lấy hai tay nắm chặt cành cây và ra hiệu cho cả đàn khỉ:

– Cầu chúc các con may mắn, qua nhanh lên, bước trên lưng ta mà đi dọc theo cây tre.

Cả tám mươi ngàn con khỉ trốn thoát được theo cách ấy, sau khi cung kính đảnh lễ Bồ-tát, xin phép ngài ra đi.

Thời ấy Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là một con khỉ trong đàn kia tự nhủ: “Ðây là cơ hội để ta thanh toán kẻ thù”.

Vì thế vừa trèo lên cây, nó nhảy vọt và ngã trên lưng Bồ-tát. Tim Bồ-tát như muốn vỡ nát, vô cùng đau đớn. Sau khi gây ra nỗi đau khổ thống thiết cho ngài như vậy, nó liền bỏ đi, chỉ còn Bồ-tát một mình.

Lúc ấy vua tỉnh giấc thấy rõ mọi việc bầy khỉ đã làm cùng Bồ-tát, vua lại nằm xuống suy nghĩ: “Con vật này không kể đến tính mạng mình, đã cứu thoát cho cả đàn bình an”.

Khi trời sáng, vua hoan hỷ về Bồ-tát, lại suy nghĩ: “Giết hại chúa khỉ này thật không phải đạo, ta muốn đem nó xuống và săn sóc nó”. Vì vậy vua quay bè xuống sông Hằng và dựng một cầu cao ở đó để Bồ-tát nhảy xuống nhẹ nhàng, truyền đem tấm y vàng phủ trên lưng ngài và tắm rửa ngài trên sông, cho ngài uống nước đường, lau thân thể ngài thật sạch và tẩm dầu thơm đã lọc kỹ cả ngàn lần, sau đó trải một tấm da đã được thoa dầu lên sàng tọa và đặt ngài nằm ở đó, còn vua ngồi ở một chỗ thấp hơn.

Và vua ngâm vần kệ đầu:

  1. Chính thân ngài đã bắt ngang cầu khỉ
    Cho cả đàn trốn thoát được bình an,
    Này khỉ kia, ngài với chúng họ hàng,
    Hay bọn chúng là gì ngài đó vậy?

Nghe lời này, Bồ-tát ngâm các vần kệ khuyến giáo vua:

  1. Tâu Ðại vương, tôi trông nom bọn ấy,
    Là Hầu vương, tôi làm chủ cả đàn,
    Khi bọn kia đầy rẫy nỗi kinh hoàng
    Vì các vị, lòng lo buồn đau đớn.
  2. Tôi nhảy qua một trăm tầm cung lớn
    Ðược trải dài trên vị trí nằm ngang,
    Rồi khi tôi đã buộc khúc tre non
    Thật vững chắc ở quanh sườn tôi đó,
  3. Muốn đến cây như vầng mây bão tố
    Ðược cuồng phong thổi bạt cực kỳ nhanh,
    Song mất đà, tôi chỉ đến đầu cành,
    Cầm lấy nó, bàn tay tôi thật vững.
  4. Khi tôi nằm trên cây treo lơ lửng
    Buộc chặt vào cành với khúc tre non,
    Bầy khỉ kia đã bước cả lưng còm,
    Giờ đây chúng được an toàn thoát nạn.
  5. Tôi không sợ nỗi đau vì thiệt mạng,
    Dẫu giam cầm tôi cũng chẳng đau buồn.
    Khi bình an hạnh phúc với cả đàn,
    Xưa bọn chúng, tôi đã từng cai trị.
  6. Một ví dụ dành cho ngài, Ðại đế,
    Nếu ngài mong học Ðạo lý Chánh chân:
    Niềm an vui hạnh phúc của toàn dân,
    Cùng quân đội, và kinh thành, chiến mã,
    Ðối với ngài đều thiết thân tất cả,
    Nếu ngài mong trị nước thật an bình.

Bồ-tát giáo huấn vua như thế xong liền từ trần. Vua gọi các đại thần đến truyền lệnh cho Hầu vương được thọ hưởng tang lễ như một quốc vương. Rồi vua truyền bảo đám phi tần:

– Các nàng hãy đưa Hầu vương ra tận nghĩa địa với tư cách là đoàn tùy tùng của Hầu vương, mặc y đỏ, xõa tóc xuống và cầm đuốc trong tay.

Các đại thần làm dàn hỏa táng với một trăm xe củi.

Sau khi đã chuẩn bị tang lễ của Bồ-tát theo nghi thức vua chúa, họ đem xương sọ của ngài đến trình vua. Vua truyền xây một đền thờ ở tại địa điểm hỏa táng Bồ-tát, làm lễ đốt đuốc và dâng hương hoa cúng dường. Vua lại truyền khảm vàng vào xương sọ, nâng nó lên cao trên đầu ngọn giáo và đặt tại cổng thành rồi cúng dường hương hoa khi vua đến Ba-la-nại. Sau đó truyền lệnh cho cả kinh thành trang hoàng thật trang nghiêm, nhà vua làm lễ suy tôn-xá lợi suốt bảy ngày.

Khi đã nhận phần xá-lợi và dựng đền thờ trong thành, vua đến đó cúng dường hương hoa suốt đời. Ðược an trú vào lời dạy của Bồ-tát, vua chuyên tâm bố thí cùng làm nhiều thiện sự khác và cai trị chân chánh nên về sau tái sinh thiên giới.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự thật và nhận diện tiền thân:

– Thời ấy vua là Ànanda, đàn khỉ là Hội chúng này và Hầu vương chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Thợ Gốm (Tiền thân Kumbhakàra)

Cây xoài ta thấy ở rừng xanh…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc khiển trách lỗi lầm. Hoàn cảnh câu chuyện xuất hiện trong tiền thân Pàniya, số 459.

Thời ấy tại Xá-vệ có năm trăm người bạn cùng xuất gia tụ tập, an trú tại Tinh xá trên con Ðường Lát Vàng (tức Kỳ Viên), lại khởi lên dục tưởng lúc nửa đêm. Bậc Ðạo Sư quan sát các đệ tử ba lần ban đêm và ba lần ban ngày, tức sáu lần suốt ngày đêm, như chim dẻ cùi ấp trứng, như bò yak gìn giữ cái đuôi, như bà mẹ chăm sóc đứa con yêu quý, như người chột canh chừng con mắt còn lại. Vì vậy Ngài khiển trách ngay khi lỗi lầm vừa sinh khởi. Nửa đêm hôm ấy Ngài quan sát Kỳ Viên và biết tâm tư của chúng Tăng, Ngài suy nghĩ: “Nếu lỗi lầm này tăng trưởng giữa Tăng chúng, nó sẽ hủy hoại đời Phạm hạnh đưa đến Thánh quả. Ta muốn khiển trách lỗi lầm này ngay bây giờ và nêu rõ đời Phạm hạnh”.

Thế rồi Ngài rời Hương Phòng và gọi Tôn giả Àanda, truyền Tôn giả triệu tập chư Tăng tại đó đến họp lại và Ngài ngồi xuống sàng tọa đã soạn sẵn cho đức Phật. Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, sống dưới sức chi phối của các dục tưởng là không chân chánh; nếu tham dục tăng trưởng sẽ gây họa lớn như một địch thủ. Mỗi Tỷ-kheo phải khiển trách một lỗi lầm dù nhỏ nhặt. Các trí nhân ngày xưa thấy rõ ngay cả mọi duyên cớ thật nhỏ, nên đã khiển trách mọi dục tưởng khi vừa mới khởi sinh, do vậy đã đắc quả Ðộc Giác Phật.

Nói xong, ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình thợ gốm ở ngoại ô Ba-la-nại. Khi lớn lên, ngài thành gia chủ có một con trai, một con gái và nuôi dưỡng vợ con với nghề gốm của ngài.

Thời ấy tại vương quốc Kalinga, trong kinh thành Dantapura, quốc vương mệnh danh Karandu đang dạo chơi với quần thần đông đảo trong ngự viên, chợt thấy ở cổng vườn một cây xoài nặng trĩu quả ngọt.

Từ trên lưng voi, vua đưa tay ra hái một chùm xoài, sau đó vào ngự viên ngồi trên bảo tọa ăn xoài và ban vài trái cho những kẻ được ân sủng. Từ khi vua hái xoài, đám triều thần, Bà-la-môn, gia chủ nghĩ rằng người khác cũng nên làm như thế, họ hái xoài xuống và ăn trái cây ấy. Sau đó họ đến nhiều lần trèo cây lấy gậy đập vào làm gãy cành lá tả tơi, họ ăn xoài và cũng không chừa lại những trái chưa chín.

Vua vui chơi trong ngự viên suốt ngày mãi tận chiều, đi ngang qua trên vương tượng, ngài bước xuống khi thấy cây xoài và đến gốc cây nhìn lên, suy nghĩ: “Sáng này cây tươi đẹp với cành nặng trĩu quả, nhưng đám người ngắm cảnh không thỏa mãn; nay, nó đứng kia không còn tươi đẹp nữa vì trái cây đã bị phá nát và rớt xuống hết rồi”.

Vua lại nhìn sang một cây kia không có trái và suy nghĩ: “Cây xoài này tươi tốt vì không sinh trái khác nào núi trọc chứa đầy châu báu. Cây kia vì sinh trái nên đã gặp tai họa: Ðời sống tại gia cũng giống như cây có trái, đời xuất gia giống như cây không trái, người giàu tiền hay sợ hãi, người nghèo khó chẳng sợ gì. Ta cũng chỉ muốn như cây không trái kia”.

Như vậy lấy cây sinh trái làm chủ đề, ngài đứng dưới gốc cây, quan sát Ba đặc tính: Vô thường, Khổ, Vô ngã và đạt Tuệ giác; ngài đắc quả Ðộc Giác Phật, liền suy nghĩ: “Từ nay thai tạng đã xa rời ta, tái sinh trong Ba cõi đã đoạn tận, các cấu uế của vòng luân hồi sinh tử đã được thanh tịnh, biển nước mắt đã khô cạn, thành xương khô đã sụp đổ, ta không còn tái sinh nữa”. Ngài đứng uy nghi như thể được trang điểm mọi thứ ngọc vàng.

Sau đó các đại thần bảo:

– Tâu Ðại vương, ngài đứng đã quá lâu.

– Ta không phải Ðại vương, ta là Ðộc Giác Phật.

– Tâu Ðại vương, các Ðộc Giác Phật không giống ngài.

– Thế thì các vị ấy ra sao?

– Râu tóc các ngài được cạo sạch, các Ngài khoác y vàng, không còn lưu luyến gia đình bộ tộc, các ngài như mây trôi theo gió cuốn hay mặt trăng thoát khỏi thần Ràhu, và các Ngài an trú trên Tuyết Sơn, ở động Nandamùla. Tâu Ðại vương, các Ngài Ðộc Giác Phật là như vậy.

Ngay lúc ấy vua đưa tay lên sờ đầu lập tức các dấu hiệu của một gia chủ biến mất, và các dấu hiệu của một Sa-môn xuất hiện:

Bộ ba y, bình bát, với kim may,
Lưỡi dao cạo, đồ lọc nước, dây đai
Là tám món một Sa-môn cần có.

Tám món cần thiết của một Sa-môn như chúng vẫn thường được gọi, đã dính chặt vào thân Ngài. Ðương trên không, Ngài thuyết Pháp cho quần thần rồi bay qua bầu trời đến sơn động Nandamùla trên miền thượng Tuyết Sơn.

Trong quốc độ Candahar ở kinh thành Takkasilà, vị vua mệnh danh Naggaji ngự trên thượng lầu, giữa vương sàng, thấy một nữ nhân đeo vòng ngọc trên một tay, đang xay hương liệu gần đó, vua suy nghĩ: “Các vòng ngọc này không cọ xát hoặc kêu leng keng khi rời nhau”, và cứ ngắm nghía nàng ấy mãi. Sau đó, nàng ấy đặt chiếc vòng từ tay phải sang tay trái và dùng tay phải thu góp hương liệu rồi bắt đầu xay tiếp. Chiếc vòng trên tay trái chạm vào chiếc vòng kia gây tiếng động.

Vua quan sát hai chiếc vòng cọ xát vào nhau, gây âm thanh, liền suy nghĩ: “Vòng ấy khi để riêng không chạm vào vật gì cả, nay đụng vào vòng thứ hai gây tiếng động, khi hai ba chiếc vòng chạm nhau tạo thành tiếng ồn lớn. Nay ta trị thần dân ở hai quốc độ Cashmere và Candahar, ta cũng cần phải ở riêng như chiếc vòng độc nhất để tự trị chứ không trị kẻ khác nữa”. Như vậy lấy việc cọ xát hai chiếc vòng làm chủ đề, trong lúc ngồi đó, vua nhận thức Ba đặc tính trên và đạt Tuệ giác, đắc quả Ðộc Giác Phật. Phần cuối câu chuyện cũng như trên.

Trong quốc độ Videha, tại thành Mithilà, quốc vương mệnh danh Nimi, sau buổi điểm tâm, được các triều thần chầu quanh mình, đứng nhìn xuống đường phố qua cửa sổ hoàng cung mở rộng. Một con diều hâu sau khi chụp được miếng thịt từ chợ, đang bay vụt trên không. Một vài con kên kên và các thứ chim khác, vây lấy diều hâu mọi phía, liên tiếp lấy mỏ mổ vào, lấy cánh đập và lấy chân đạp con kia để dành miếng thịt. Không chịu để cho chúng giết, diều hâu đành thả miếng thịt, một chim khác chụp ngay lấy, và bọn chúng lại mổ con kia như trước. Vua thấy bầy chim, suy nghĩ: “Ai lấy miếng thịt, khổ đau đến với kẻ ấy; ai bỏ miếng thịt, hạnh phúc đến với kẻ ấy. Ai hưởng năm dục lạc, khổ đau đến với kẻ ấy; ai bỏ năm dục lạc, hạnh phúc đến với kẻ ấy. Nay ta có mười sáu ngàn cung nữ, ta cần phải sống trong hạnh phúc sau khi từ bỏ năm dục lạc như diều hâu bỏ miếng thịt”.

Quan sát việc này với trí tuệ, ngay khi đứng tại đó, vua nhận thức ba đặc tính trên, chứng đắc Tuệ giác và thành đạt viên trí của quả Ðộc Giác Phật. Phần cuối cũng như trên.

Trong vương quốc Uttarapãncàla, tại kinh thành Kampilla, vị vua mệnh danh Dummukha, sau buổi điểm tâm, được trang điểm các món châu báu và quần thần vây quanh, đứng nhìn xuống sân chầu qua cửa sổ. Vào lúc ấy, có người mở cửa chuồng bò. Các bò đực từ trong chuồng đang chạy theo một con bò cái, một con bò đực lớn với cái sừng nhọn chợt thấy một con đực khác chạy đến, liền ghen tức lấy sừng nhọn đâm vào hông con kia. Do bị húc quá mạnh, nó đổ ruột ra ngoài chết ngay tại chỗ. Vua thấy cảnh này, suy nghĩ: “Mọi loài từ súc vật trở lên đều chịu khổ đau vì lòng dục, con bò này vì lòng dục phải chịu chết. Mọi loài khác đều bị tham dục gây phiền lụy. Ta cần bỏ hết mọi tham dục làm phiền lụy mọi loài”.

Như vậy trong lúc đang đứng, vua nhận thức Ba đặc tính trên, chứng đắc Tuệ giác và thành đạt Viên trí của quả Ðộc Giác Phật. Phần cuối cũng như trên.

Sau đó, một hôm, bốn vị Ðộc Giác Phật, xét thấy đến thời đi khất thực liền rời động Nandamùla, sau khi chùi sạch răng bằng cách nhai cau tại hồ Anotatta, và sau khi đã hoàn tất mọi nhu cầu vệ sinh xong, các vị mang y bát dùng thần thông bay lên không, lướt qua các đám mây ngũ sắc, rồi hạ xuống không xa một ngoại ô của Ba-la-nại.

Tại một địa điểm tiện lợi, các vị khoác y, cầm bình bát đi vào vùng ngoại ô khất thực cho đến khi dừng lại trước cửa nhà Bồ-tát. Bồ-tát thấy các vị lòng hoan hỷ mời vào nhà ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, ngài rót nước cung nghênh và đãi các món thượng vị đủ loại cứng và mềm. Sau đó ngồi một bên, ngài kính chào vị trưởng thượng và nói:

– Thưa Tôn giả, đời tu hành của ngài quả thật tốt đẹp, các căn của Ngài thật an tịnh, làn da của Ngài thật trong sáng. Chủ đề suy tư gì đã khiến Ngài khởi đầu đời sống tu hành và xuất gia?

Cả bốn vị liền đáp:

– Tôi trước kia có tên như vậy, làm vua ở tại kinh thành nọ trong quốc độ kia…

Ðại khái như thế và theo cách này mỗi vị lần lượt ngâm vần kệ nêu nguyên nhân giã từ thế tục của mình:

  1. Cây xoài ta thấy ở rừng xanh,
    Ðen rậm, cao to, trái trĩu cành,
    Vì trái, con người đà phá gãy,
    Lòng ta chính thế muốn cầm bình.
  2. Vòng sáng nhờ tay thợ nổi danh,
    Người đeo một chiếc chẳng âm thanh,
    Chiếc kia va chạm gây huyên náo,
    Vì thế lòng ta muốn chiếc bình.
  3. Ðàn chim xâu xé vật cô thân,
    Ðơn độc mang theo miếng thịt ăn,
    Chim bị đánh đau vì miếng thịt,
    Lòng ta chính thế muốn ly trần.
  4. Bò đực kiêu căng giữa đám bò
    Vươn lưng, khỏe đẹp, bước chân ra,
    Chết vì lòng dục: sườn đâm mạnh,
    Do vậy lòng ta muốn xuất gia.

Bồ-tát nghe mỗi vần kệ đều nói:

– Tốt lành thay, thưa Tôn giả, chủ đề của Ngài thật thích hợp.

Và như vậy ngài tán thán mỗi vị Ðộc Giác Phật. Sau khi nghe các vị thuyết Pháp, ngài trở nên chán ngán đời sống tại gia.

Khi các vị ra đi, sau buổi điểm tâm, ngài ngồi thư thái, gọi vợ lại bảo:

– Này hiền thê, bốn vị Ðộc Giác Phật rời bỏ vương quốc trở thành Sa-môn nay sống không lỗi lầm, không chướng ngại, hưởng niềm cực lạc của đời tu hành. Trong lúc ấy ta phải tìm kế sinh nhai qua ngày. Ta còn phải làm gì với đời gia chủ nữa? Xin nàng nuôi các con và ở lại nhà.

Rồi ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Vua Ka-ran-du xứ Ka-lin-ga,
    Vua Nag-gà-ji xứ Gan-dhà-ra,
    Vua Dum-mu-kha xứ Pan-cà-la,
    Ðại đế Ni-mi xứ Vi-de-ha,
    Tất cả các ngài rời bảo tọa,
    Sống không lầm lỗi, giã từ nhà.
  2. Các ngài trông dáng tựa Thiên thần,
    Chẳng khác nào vầng lửa sáng bừng,
    Ta cũng muốn ra đi tiến bước
    Xa lìa mọi vật thế nhân mong.

Nghe lời ngài, bà vợ đáp:

– Này phu quân, từ khi thiếp nghe Giáo pháp của các vị Ðộc Giác Phật, thiếp cũng không muốn ở trong nhà nữa.

Và bà ngâm kệ:

  1. Thời cơ thiếp biết chính là đây,
    Chẳng có Ðạo Sư hơn các ngài,
    Chàng hỡi, thiếp mong xuất thế nữa,
    Như con chim được thoát bàn tay.

Bồ-tát nghe lời bà nói liền yên lặng, Bà vợ nôn nóng xuất gia tu hành trước ngài, và đang muốn đánh lừa ngài, liền giả vờ nói:

– Này phu quân, thiếp sắp ra hồ nước, chàng hãy chăm nom các con.

Rồi bà cầm chiếc bình như thể đi đến đó và bà đi thẳng đến các vị ẩn sĩ ngoại thành xin truyền giới xuất gia. Bồ-tát không thấy bà trở về, đành phải tự tay chăm sóc các con.

Về sau chúng lớn khôn hơn một chút và tự chúng có thể hiểu biết đôi chút, ngài muốn dạy chúng nấu cơm, nên ngài thường nấu một ngày cơm hơi cứng và sống, một ngày cơm hơi sống, một ngày cơm chín, một ngày cơm nhão, một ngày không có muối, một ngày quá nhiều muối. Bầy trẻ nói:

– Cha ơi, hôm nay cơm chưa chín, hôm nay cơm nhão, hôm nay không có muối, hôm nay quá nhiều muối.

Bồ-tát đáp:

– Ðúng vậy, các con thân yêu.

Rồi Ngài suy nghĩ: “Các con nay đã biết cơm nào sống, cơm nào chín, cơm nào có muối, cơm nào không: thế là chúng có thể sống riêng đời chúng rồi. Ta cần phải xuất gia”. Sau đó, ngài đưa chúng đến gặp đám thân quyến xong, ngài liền xuất gia tu hành, cư trú ở ngoại thành. Một hôm vị nữ tu khổ hạnh đi khất thực ở Ba-la-nại thấy ngài, liền kính chào và nói:

– Thưa Tôn giả, tôi chắc tôn giả đã giết bầy trẻ rồi.

Bồ-tát đáp:

– Ta không giết bầy trẻ, khi chúng có thể tự mình biết việc, ta mới xuất gia. Còn bà đã không quan tâm đến chúng và vui lòng với việc xuất gia trước ta.

Rồi ngài ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Thấy con biết mặn, nhạt khi ăn,
    Cơm sống, chín, ta đã bước chân,
    Nay để yên ta, người một nẻo,
    Ta cùng theo Giáo pháp chân nhân.

Khuyến giáo vị nữ tu khổ hạnh như vậy xong, ngài từ giã bà. Bà nhận lời khuyến giáo ấy, kính bái Bồ-tát và đi đến một nơi vừa ý.

Sau ngày ấy, hai vị không bao giờ gặp lại nhau. Bồ-tát chứng đắc Thắng trí được tái sinh lên Phạm thiên giới.

*

Sau Pháp thoại, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự thật. Khi các Sự thật kết thúc, năm trăm Tỷ-kheo đắc Thánh quả (A-la-hán.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy con gái là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), con trai là Ràhula (La-hầu-la), nữ tu sĩ là mẫu thân Rahula và nhà khổ hạnh ấy chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vua Dalhadhamma (Tiền thân Dalhadhamma)

Chính con khuân vác tự ngày xanh…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại rừng Ghosita (Cù-sư-la) gần Kosambi (Kiều-thưởng-di) về Bhaddavatika, con voi cái của vua Udena.

Bấy giờ cách con voi này được trang điểm vàng ngọc và dòng họ vua Udena sẽ xuất hiện trong tiền thân Màtanga, số 497. Một hôm con voi này ra ngoại thành sáng sớm gặp đức Phật được Thánh chúng vây quanh, trong vẻ oai nghi tối thượng của một bậc Giác Ngộ, đang vào thành khất thực, nó quỳ xuống chân đức Như Lai, than khóc và cầu khẩn Ngài:

– Bạch Thế Tôn, bậc toàn tri kiến, vị cứu khổ toàn thế giới, khi con còn trẻ và có khả năng làm việc, vua Udena, một vị minh quân đã thương yêu con và bảo: “Ðời sống của ta cùng vương quốc và Hoàng hậu đều nhờ nó tất cả”. Rồi ngài ban cho con đại vinh hiển bằng cách trang điểm mọi thứ vàng ngọc, ngài truyền trát chuồng voi với đất trộn hương liệu, treo các đồ vật có màu sắc rực rỡ chung quanh, thắp đèn với dầu thơm, đặt dĩa trầm xông tại đó, ngài lại truyền đặt một chậu bằng vàng tại chỗ con đại tiện, cho con đứng trên thảm màu và cho con ăn toàn cao lương thượng vị của vua. Nay con đã già và không làm việc được nữa, nên ngài tước bỏ mọi đặc ân ấy, con sống bơ vơ khốn khổ không ai bảo vệ chăm sóc, chỉ ăn toàn quả ketaka trong rừng, con chẳng có nơi nương tựa nào nữa. Xin Thế Tôn nói cho vua Udena nghĩ lại các công đức của con và phục hồi mọi vinh quang cũ cho con”.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Con hãy đi về, rồi ta sẽ nói với vua phục hồi mọi vinh quang cũ cho con.

Sau đó ngài đi đến cửa hoàng cung.

Vua mời đức Phật vào, thiết đãi trọng thể tất cả hội chúng theo hầu đức Phật.

Khi buổi thọ thực đã xong, Bậc Ðạo Sư nói lời tùy hỷ công đức và hỏi:

– Thưa Ðại vương, con voi Bhaddavatikà đâu rồi?

– Bạch Thế Tôn, trẫm không biết.

– Thưa Ðại vương, sau khi ban vinh hiển cho đám nô tỳ, ngài tước bỏ mọi ân huệ lúc chúng già là không phải đạo, vậy cần tỏ lòng biết ân chúng. Bhaddavatikà nay đã già, mòn mỏi vì tuổi tác và không được ai bảo vệ, chỉ sống bằng trái cây ketaka trong rừng. Ðại vương để cho nó bơ vơ như vậy lúc già yếu là không hợp lý.

Rồi kể các công đức của con voi Bhaddavatikà, Ngài bảo:

– Ðại vương hãy phục hồi mọi vinh quang cũ của nó.

Xong Ngài ra đi. Vua làm theo lời Ngài. Cả kinh thành truyền tin rằng vinh quang cũ của con voi đã được phục hồi nhờ đức Phật kể lại mọi công đức của nó.

Việc này được Tăng chúng biết và chư vị bàn luận trong lúc hội họp. Bậc Ðạo Sư bước vào và khi nghe đây là đề tài của các vị, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu Như Lai làm cho nó được phục hồi mọi vinh quang cũ bằng cách kể các công đức của nó.

Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa có một vị vua mệnh danh Dalhadhamma cai trị tại Ba-la-nại. Thời ấy Bồ-tát thọ sanh vào gia đình một đại thần, khi lớn lên, ngài phục vụ nhà vua.

Ngài được vua ban nhiều vinh hiển và đứng địa vị một đại thần quan trọng nhất trong triều. Vua có một con voi cái rất dũng mãnh lực lưỡng. Nó đi một trăm dặm một ngày, làm mọi phận sự sứ thần của vua, khi ra trận nó chiến đấu oanh liệt, dẫm nát quân thù. Vua bảo:

– Con voi này thật hữu ích đối với ta.

Rồi vua ban cho nó mọi thứ trang điểm và vinh quang giống như vua Udena ban cho Bhaddavatikà ngày nay. Sau đó khi nó già yếu, vua tước hết mọi đặc ân trên.

Từ đó nó không được ai bảo vệ và chỉ sống bằng các thứ cỏ lá trong rừng. Một hôm các loại đồ gốm sứ trong cung vua không đủ dùng, vua truyền thợ gốm lại và phán:

– Ðồ gốm không đủ dùng.

– Tâu Ðại vương, tiểu thần không có bò kéo xe để mang phân bò về nung đất sét.

Vua nghe chuyện, liền phán:

– Con voi cái của ta đâu rồi?

– Tâu Ðại vương, nó đang phiêu bạt tùy ý.

Vua bảo đem nó cho người thợ gốm:

– Từ nay ngươi buộc nó vào xe rồi đưa đi chở phân.

Người thợ gốm đáp:

– Tâu Ðại vương, tốt quá.

Rồi gã làm theo lời dặn. Một hôm ra ngoại thành, voi cái chợt thấy Bồ-tát đi đến, liền quỳ xuống chân ngài vừa than khóc vừa nói:

– Thưa Tể tướng, thời con còn trẻ, đức vua xem con rất hữu dụng và ban con đại vinh hiển, nay con già yếu, ngài tước bỏ mọi đặc ân và không còn nghĩ đến con nữa, con không được ai bảo vệ và chỉ sống bằng cỏ lá trong rừng, gặp cảnh khốn cùng thế này ngài lại đem con cho người thợ gốm buộc vào xe chở phân; trừ Tể tướng ra, con không còn nơi nương tựa nào cả, chính Tể tướng đã biết mọi công lao con phục vụ đức vua, xin ngài cho con được phục hồi mọi vinh hiển đã mất.

Rồi voi cái ngâm ba vần kệ:

  1. Chính con khuân vác tự ngày xanh,
    Như vậy đức vua đã thỏa tình?
    Vũ khí con mang đầy trước ngực
    Xông pha chiến trận, bước hùng anh.
  2. Con đã lập nên lắm chiến công,
    Ðức vua giờ hẳn có quên chăng
    Bao lần phục vụ nhiều công trạng
    Như đã định cho các sứ thần?
  3. Nay con cô độc, quá bơ vơ,
    Chắc chắn mạng chung đã đến giờ,
    Phục vụ cho nhà người thợ gốm,
    Con đành làm vật kéo phân dơ!

Bồ-tát nghe chuyện, liền an ủi nó và bảo:

– Thôi đừng buồn khổ nữa, ta sẽ đi trình đức vua và phục hồi vinh dự cho con.

Vì thế khi vào thành, ngài đi đến chầu vua sau buổi điểm tâm và bắt đầu câu chuyện, ngài bảo:

– Tâu Ðại vương, có phải con voi cái mang tên kia đã ra trận chiến tại những nơi nọ với các vũ khí buộc đầy ngực; rồi ngày khác nó lại mang quốc thư ở cổ đi cả trăm dặm làm sứ giả cho Ðại vương, và Ðại vương ban cho nó nhiều vinh hiển chăng, nay nó đâu rồi?

– Trẫm đã giao nó cho người thợ gốm chở phân bò.

Bồ-tát liền đáp:

– Có hợp đạo lý chăng, tâu Ðại vương, khi giao nó cho người thợ gốm buộc vào xe chở phân?

Rồi để khuyến giáo, ngài ngâm bốn vần kệ:

  1. Do ích kỷ tham vọng cá nhân,
    Người ta ban phát mọi vinh quang,
    Như ngài đối với con voi nọ,
    Ném bỏ như nô lệ yếu tàn.
  2. Khi người quên hết các huân công.
    Thiện sự ngày xưa hưởng trọn phần,
    Mọi việc mà lòng đang dự tính
    Ngày sau chắc hẳn phải suy vong.
  3. Khi người ghi nhớ các công ơn
    Thiện sự ngày xưa hưởng trọn phần,
    Mọi việc mà lòng đang dự tính
    Ngày sau chắc hẳn sẽ thành công.
  4. Ta nói điều chân lý trọn lành,
    Cho thần dân tụ tập chung quanh:
    Phải luôn ghi nhớ công ơn cũ,
    Thiên giới dành phần sống hiển vinh.

Với lời khởi đầu này, Bồ-tát giáo hóa toàn thể dân chúng đang tụ tập ở đó. Nghe vậy vua ban cho con voi già mọi hiển vinh cũ, và về sau được an trú vào lời dạy của Bồ-tát, vua bố thí cùng thực hành nhiều thiện sự khác nên được sinh lên cõi thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, voi cái là Bhaddavatikà, vua là Ànanda, vị đại thần chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Voi Con Somadatta (Tiền thân Somadatta)

Bước sâu vào tận trong rừng…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên, về một Trưởng lão già cả.

Chuyện kể rằng vị Trưởng lão này truyền giới cho một Sa-di làm đệ tử, phụng sự vị ấy nhưng chẳng bao lâu lâm bệnh nặng qua đời. Trưởng lão đi quanh quẩn khóc than kêu gào vì cái chết của đệ tử.

Thấy vậy Tăng chúng bắt đầu bàn tán trong Chánh pháp đường:

– Này các Hiền giả, vị Trưởng lão già cả này cứ lang thang kêu khóc vì một Sa-di chết, chắc hẳn vị ấy đã quên pháp môn quán tưởng về mạng chung.

Bậc Ðạo Sư bước vào và khi nghe đề tài câu chuyện, Ngài bảo:

– Náy các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu người này khóc người kia chết.

Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vị ở Ba-la-nại, Bồ-tát là Sakka Thiên chủ. Một Bà-la-môn giàu tiền của, trước sống ở Ba-la-nại, sau giã từ thế tục và trở thành ẩn sĩ khổ hạnh ở vùng Tuyết Sơn, nhặt củ quả rừng để ăn.

Một hôm đi tìm quả rừng, ông thấy một chú voi con, liền đem về thảo am. Ông xem nó như thể con mình gọi tên nó là Somadatta, nuôi nấng chăm sóc nó và cho nó ăn cỏ lá. Con voi lớn dần trở thành to lớn, song một hôm nó ăn quá nhiều nên phát bệnh vì bội thực. Vị khổ hạnh đem nó vào thảo am và đi tìm quả rừng. Song trước khi ông trở về, con voi đã chết. Khi đem về mớ quả, vị khổ hạnh suy nghĩ: “Các ngày khác con ta vẫn đón ta, sao không thấy hôm nay? Con ta bị việc gì chăng?”. Thế là ông than khóc và ngâm vần kệ đầu:

  1. Bước sâu vào tận trong rừng,
    Nó thường vẫn đến đón mừng ta ngay,
    Nhưng sao chẳng thấy hôm nay,
    Voi con đi lạc chẳng hay lối về?

Cùng với lời than khóc này, ông thấy con voi nằm cuối lối đi có mái che, liền ôm ngang cổ nó và ngâm vần kệ thứ hai tiếc thương nó:

  1. Chính voi vừa chết nằm kia
    Như búp măng bị cắt lìa nát thân,
    Voi nằm dưới đất ngã lăn,
    Con voi ta đã lìa trần, than ôi!

Ngay lúc ấy Sakka Thiên chủ quan sát cõi trần, suy nghĩ: “Vị khổ hạnh này từ giã vợ con để tu hành, nay lại than khóc con voi mà ông gọi là con, ta muốn đến thức tỉnh ông và làm cho ông suy nghĩ lại”.

Vì thế ngài xuất hiện trước thảo am, đứng trên không và ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Sầu thương vật đã chết rồi,
    Hỡi người khổ hạnh sống đời độc cư,
    Thoát dây tục lụy, xuất gia,
    Giờ đây phát bệnh tâm tư buồn phiền!

Nghe lời này, vị khổ hạnh ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Nếu người bầu bạn thú hiền,
    Thưa ngài Ðế Thích ở trên cõi trời,
    Buồn phiền vì mất bạn chơi,
    Tuôn dòng nước mắt sẽ vơi nỗi sầu!

Thiên chủ Sakka liền ngâm vần kệ khuyến giáo ông.

  1. Người đời lắm kẻ ước ao
    Mỗi khi vật mất, kêu gào tiếc thương,
    Thôi đừng khóc nữa, trí nhân,
    Thánh hiền vẫn bảo hoài công thôi mà.
  2. Nếu nhờ nước mắt tuôn ra
    Chúng ta có thể vượt qua tử thần,
    Thì ta quyết phải hợp quần
    Ðể mà cứu mọi vật thân nhất đời!

Nghe lời Thiên chủ nói, vị khổ hạnh nghĩ lại và được an ủi, bèn lau nước mắt và ngâm các vần kệ cuối cùng tán thán Thiên chủ:

  1. Ví như ngọn lửa sáng ngời
    Ðổ thêm bỏ sữa cháy hoài thật cao,
    Ðược vòi nước lạnh tưới vào,
    Ngài vừa dập tắt nỗi sầu của ta.
  2. Lòng ta nhức nhối xót xa
    Vì tên sầu não xuyên qua kinh hoàng,
    Ngài đà chữa trị vết thương,
    Và ngài hồi phục đời thường cho ta.
  3. Mũi tên vừa được nhổ ra,
    Lòng ta tràn ngập an hòa vui tươi
    Lắng nghe Thiên chủ nhủ lời,
    Ta không còn phải chơi vơi khổ sầu.

Các vần kệ này đã được ngâm ở tiền thân Migapotaka, số 372.

Sau khi khuyến giáo vị khổ hạnh, Sakka trở lại cõi của ngài.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, voi con là Sa-di, vị khổ hạnh là Trưởng lão già cả này và Sakka Thiên chủ chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vua Susìma (Tiền thân Susìma)

Tóc ta đen nhánh từ ngày xưa…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về Ðại sự Xuất thế.

Tăng chúng lúc ấy đang ngồi trong Chánh pháp đường tán thán Ðại sự Xuất thế của đức Phật. Khi thấy đây là chủ đề của các vị, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không lạ gì ngày nay ta lại làm Ðại sự Xuất thế và giã từ thế tục, khi Ta đã thực hành các công hạnh viên mãn (Ba-la-mật) trong hàng trăm ngàn kiếp, mà ngày xưa Ta cũng từ bỏ ngai vàng tại quốc độ Kàsi rộng ba trăm dặm và làm Ðại sự Xuất thế.

Và vì vậy Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát nhập mẫu thai của bà vợ vị tế sư hoàng gia. Trong ngày sinh ra ngài, hoàng hậu cũng sinh một con trai.

Vào ngày lễ đặt tên, bậc Ðại Sĩ được gọi là Nam tử Susìma, và hoàng nam được đặt tên Vương tử Brahmadatta.

Vua thấy đôi trẻ cùng sinh ra một ngày nên truyền đưa Bồ-tát giao cho nhũ mẫu cùng nuôi chung với vương tử. Cả hai trẻ lớn lên tươi đẹp như các Thiên tử trên trời.

Cả hai đều học đủ mọi ngành nghệ thuật ở Takkasilà và trở về nhà. Vương tử trở thành phó vương, cùng ăn uống, sống chung với Bồ-tát. Lúc vua cha băng hà, hoàng tử lên làm vua, ban cho Bồ-tát mọi vinh hiển và phong chức tế sư hoàng gia.

Một hôm tân vương truyền trang hoàng cả kinh thành, rồi được tô điểm rực rỡ như Sakka Thiên chủ, vua tham dự đám rước quanh kinh thành, ngự trên vai vương tượng chẳng khác nào bảo tượng Eràvana của Thiên chủ, trong niềm tự hào cùng với Bồ-tát ngồi phía sau trên lưng voi. Mẫu hậu nhìn ra từ cửa sổ trông thấy hoàng nam và chợt thấy vị tế sư sau lưng vua khi ngài từ đám rước trở về. Bà đâm ra si tình ngài, liền đi vào hậu cung nghĩ thầm: “Nếu ta không chiếm được chàng, ta sẽ chết tại đây”. Vì thế bà bỏ ăn uống và cứ nằm tại đó.

Vua không thấy mẹ liền hỏi thăm, khi nghe bà bị bệnh, vua đến hỏi thăm và cung kính hỏi bà bị bệnh gì. Bà không nói vì hổ thẹn. Vua liền ngự lên ngai, truyền chánh cung hoàng hậu đi tìm hiểu xem thái hậu bị bệnh gì.

Hoàng hậu đến, vừa hỏi thăm, vừa vuốt ve lưng mẫu hậu. Nữ nhân thường không dấu nhau các chuyện bí mật, vì thế chuyện bí mật kia được tiết lộ. Hoàng hậu liền đi trình vua. Vua bảo:

– Ðược rồi, ái khanh đi an ủi mẫu hậu, ta sẽ tôn vị tế sư lên làm vua và mẫu hậu lên làm chánh hậu của ngài.

Hoàng hậu liền đến an ủi thái hậu. Vua truyền mời vị tế sư đến kể lại vấn đề:

– Này Hiền hữu, hãy cứu mạng mẹ ta, khanh sẽ làm vua và mẹ ta sẽ lên làm chánh hậu, còn ta sẽ làm phó vương.

Vị tế sư đáp:

– Không thể được.

Song cứ bị khẩn cầu mãi, ngài bằng lòng và vua tôn ngài lên làm vua, mẫu hậu làm chánh hậu và chính mình làm phó vương. Tất cả mọi người đều sống hòa hợp, song Bồ-tát khô héo dần giữa cuộc sống tại gia. Ngài từ bỏ mọi dục lạc và hướng về đời tu hành.

Chẳng còn màng các lạc thú trần gian, ngài đi đứng nằm ngồi như tù nhân bị giam lỏng hay con gà trống trong lòng son. Chánh hậu suy nghĩ: “Hoàng thượng tránh mặt ta, ngài đi đứng nằm ngồi một mình, giờ đây ngài vẫn tươi trẻ, còn ta đã già và có tóc bạc. Giả sử ta kể cho ngài nghe chuyện ngài đã có tóc bạc, khiến cho ngài tin chuyện ấy và đến bầu bạn với ta chăng?”

Một hôm, làm như thể lau đầu vua, bà nói:

– Hoàng thượng sắp già rồi đấy, có sợi tóc bạc trên đầu hoàng thượng!

– Hãy nhổ nó ra và đặt vào tay trẫm.

Hoàng hậu nhổ một sợi tóc, nhưng lại ném nó đi và đặt vào tay ngài một sợi tóc bạc của bà. Khi thấy nó, nỗi sợ chết khiến mồ hôi đổ ra chảy xuống trán ngài, dù vầng trán bóng láng như một phiến vàng, ngài tự nhủ mình: “Này Susìma, ngươi đã già cỗi ngay tuổi thanh xuân, suốt bấy lâu nay ngươi chìm sâu vào vũng bùn dục lạc như thể con heo vùng quê lặn lội trong đầm lầy dơ bẩn, ngươi không thể xa rời bùn nhơ được. Hãy rời bỏ tham dục, và sống đời khổ hạnh ở vùng Tuyết Sơn. Nay đã đến thời xuất gia rồi”. Cùng với ý tưởng này, ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Tóc ta đen nhánh tự ngày xưa
    Vẫn mọc quanh vần trán của ta,
    Bạc trắng giờ đây, lưu ý nhé:
    Ðến thời tu tập giã từ nhà.

Như thế Bồ-tát ca tụng đời tu hành, nhưng hoàng hậu thấy bà đã làm cho ngài rời bỏ bà chứ không phải yêu thương bà, nên lòng sợ hãi, bà muốn cản trở ngài sống đời xuất gia, bằng cách ngâm hai vần kệ ca tụng dung sắc ngài:

  1. Tóc bạc thiếp đây, chẳng phải chàng,
    Từ trên đầu thiếp mới đưa sang,
    Vì chàng, thiếp nói điều hư vọng,
    Xin lượng thứ cho lỗi thiếp làm.
  2. Trông chàng tươi đẹp, dáng thanh tân
    Như một cây non trẻ giữa xuân,
    Hãy trị nước nhà, cười với thiếp,
    Ðừng tìm việc của tuổi thu đông!

Nhưng Bồ-tát đáp:

– Này hoàng hậu, bà đang nói đến những việc phải xảy đến: Khi tuổi tác chín muồi, tóc đen này phải ngã màu bạc như vôi, ta thấy sự biến hoại của xác thân theo năm tháng lúc đến tuổi lão thành, từ công nương cho đến mọi người khác, dù có dịu mềm như tràng hoa sen xanh, sáng đẹp như vàng ròng, và say sưa với niềm kiêu hãnh về tuổi xuân rực rỡ của mình. Này hoàng hậu, đó là kết thúc đáng sợ của mọi loài hữu tình.

Hơn nữa, muốn trình bày chân lý với oai lực của một vị Phật, ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Ta thường trông thiếu nữ xuân thì,
    Uyển chuyển như cành lả lướt kia,
    Kiêu mạn vì hình dung diễm lệ,
    Mọi người say ngắm bước chân đi.
  2. Cũng chính nàng kia, ta ngắm trông
    (Trải qua đã tám, chín mươi năm)
    Run run chân bước, tay cầm gậy,
    Thân thể còng như ngọn liễu rung.

Trong vần kệ này bậc Ðại Sĩ nêu rõ nỗi khổ đau của dung sắc và giờ đây ngài tuyên bố nỗi bất mãn của ngài với đời tại gia:

  1. Những ý tưởng này ta xét luôn,
    Tư duy vẫn đến giữa đêm đơn,
    Ðời người thế tục ta không chuộng,
    Ðúng lúc tu hành phải bước chân.
  2. Dục lạc trong đời sống thế nhân
    Là nơi hèn yếu để nương thân,
    Trí nhân cắt đứt, theo đường khác,
    Bỏ dục lạc đầy đủ lực hùng.

Như vậy trong khi tuyên bố các lạc thú lẫn khổ đau của tham dục, ngài giảng bày chân lý với vẻ kỳ diệu của bậc Giác Ngộ, rồi ngài truyền đi mời thân hữu của ngài đến nhận lại vương quốc: ngài từ giã vinh quang và quyền lực giữa tiếng than khóc vang rền của thân bằng quyến thuộc, rồi trở thành bậc hiền nhân khổ hạnh ở vùng Tuyết Sơn, và về sau chứng đắc Thiên định, ngài được tái sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự thật và đem lại nguồn nước bất tử cho nhiều người, rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, chánh hậu là mẫu thân Ràhula, vua là Ánanda và vua Susìma chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thần Cây Bông Vải (Tiền thân Kotisimbalì)

Ta mang thân xác của xà vương…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc khiển trách lỗi lầm. Hoàn cảnh đưa đến chuyện này sẽ xuất hiện trong tiền thân Pannna (không tìm được).

Vào dịp này Bậc Ðạo Sư nhận thấy năm trăm Tỷ-kheo sống trong Tinh xá trên Con Ðường Lát Vàng (Kỳ Viên) đang bị dục tưởng chi phối, liền tập hợp Tăng chúng lại và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, cần phải hoài nghi nơi nào đáng hoài nghi, lỗi lầm vây phủ con người như rễ cây đa hay những cây tương tự mọc quanh các cây khác. Cũng vậy, ngày xưa một vị thần trú trênđỉnh cây bông vải thấy một con chim thả phân có các hột cây đa nằm giữa các cành cây bông vải, sinh lòng lo sợ rằng nơi trú ẩn của mình sẽ bị tàn phá vì chúng.

Và do vậy Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát là Thần cây trú trên ngọn cây bông vải. Một chúa chim thần cánh vàng, Kim sí điểu vương, biến hình dài một trăm năm mươi dặm, rồi rẽ nước đại dương bằng trận cuồng phong do đôi cánh đập mạnh, nó chụp lấy đuôi một vua rắn thần Nàga dài một ngàn trượng, khiến cho xà vương phải nhả hết mọi vật đã ngậm trong miệng, xong nó liền bay lên theo các ngọn cây về phía cây bông vải.

Xà vương suy nghĩ: “Ta sẽ làm cho nó thả ta ra để ta đi”. Vì vậy rắn thành dán sát đầu vào cây đa và quấn quanh cây thật chặt. Do sức mạnh của chú chim thần và thân xác khổng lồ của xà vương, cây đa bị bật gốc. Song xà vương vẫn không rời cây đa. Chúa chim thần mang cả xà vương lẫn cây đa đến cây bông vải kia, đặt rắn thần lên thân cây, mổ bụng ra ăn thịt mỡ. Sau đó nó ném xác rắn xuống biển.

Bấy giờ trên cây đa có con chim nhỏ bay lên khi cây đa bị ném bỏ, rồi đậu trên một cành cây cao gần cây bông vải. Thấy con chim, Thần cây liền run rẩy toàn thân vì sợ hãi, và suy nghĩ: “Con chim này sẽ thả phân nó rơi trên thân ta, rồi một cây đa hay cây sung sẽ mọc lên và lan tràn khắp thân cây, thế là nơi trú ẩn của ta sẽ bị phá hoại”. Lúc ấy cây bông vải rung chuyển tận gốc vì cơn kinh hãi của Thần cây. Kim sí điểu vương thấy cây rung chuyển như vầy, liền ngâm đôi vần kệ hỏi lý do:

  1. Ta mang thân xác của xà vương
    Cùng với thân ta lớn dị thường,
    Thân rắn kia dài ngàn trượng chẵn,
    Song cây không chuyển động kinh hoàng.
    2. Nay mang chim nhỏ bé ti ti
    So với ta đây chẳng sá chi,
    Cây lại run hoài vì sợ hãi,
    Hỡi cây bông vải, lý do gì?

Sau đó Thần cây ngâm bốn vần kệ giải thích lý do:

  1. Thịt mỡ ngài xơi, hỡi Ðiểu vương,
    Trái cây là thức của chim muông,
    Hạt đa, sung, với bồ-đề nữa,
    Nếu mọc, toàn thân ta chết luôn!
  2. Hạt ấy về sau sẽ mọc cây,
    Rồi che phủ cả hết thân này,
    Ta không còn có cây nào nữa
    Vì bị chúng che kín phủ đầy.
  3. Một khi cây đã lớn lên nhanh,
    Rễ mạnh quanh thân, rậm rạp cành,
    Chứng tỏ hạt do chim tích trữ
    Mang mầm hủy hoại đến cho mình.
  4. Loại cây mọc bám sẽ chôn thây
    Ngay cả cây rừng vĩ đại này,
    Vì vậy, Ðiểu vương, ta rúng động
    Khi ta lo sợ thấy như vầy.

Nghe lời thần cây, điểu vương ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Phải kinh hãi việc đáng kinh hoàng,
    Hiểm họa đến thân phải hộ phòng,
    Bậc trí lặng nhìn hai thế giới,
    Nếu gây kinh hãi, phải rời chân.

Nói vậy xong, điểu vương dùng sức mạnh đẩy con chim nhỏ ra khỏi cây ấy.

*

Sau Pháp thoại, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự thật bắt đầu bằng những lời: “Cần phải hoài nghi nơi nào đáng hoài nghi”. Khi các Sự thật kết thúc, năm trăm vị Tỷ-kheo được an trú vào Thánh quả (A-la-hán).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, Sàriputta là Ðiểu vương và Ta chính là Thần cây.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Chăn Dê Dhùmakàri (Tiền thân Dhùmakàri)

Một hôm minh đế Yu-dhi-la…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về đặc ân của Ðại vương Kosala đối với một người khách lạ.

Chuyện kể rằng có thời vua không dành đặc ân cho các võ tướng cũ vẫn đến chầu vua như thường lệ, mà lại ban vinh dự và tỏ lòng hiếu khách đối với những người mới yết kiến lần đầu. Thời ấy vua đi chinh chiến ở một tỉnh biên địa bị quấy phá. Nhưng các võ tướng cũ của vua không muốn giao chiến vì nghĩ rằng những võ tướng mới được hưởng đặc ân sẽ chiến đấu và đám người mới này cũng không muốn chiến đấu vì nghĩ rằng những vị tướng cũ sẽ làm việc ấy. Do vậy quân phiến loạn thắng trận.

Vua biết thất bại của mình là do sai lầm mình đã mắc phải khi ban ân huệ cho bọn người mới, liền trở về thành Xá-vệ. Vua quyết định hỏi đức Thế Tôn Ðại Trí xem mình có phải là ông vua duy nhất chịu thất bại vì lý do kia chăng. Bậc Ðạo Sư đáp:

– Thưa Ðại vương, Ðại vương không phải là trường hợp duy nhất, vua chúa ngày xưa cũng bị bại trận vì đã ban đặc ân cho đám người mới.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa tại thành Indapattana, ở quốc độ Kuru, có vị vua ngự trị mệnh danh là Dhananjaya, thuộc dòng họ Yudhithila. Bồ-tát được sinh vào gia đình vị tế sư của vua. Khi lớn lên, ngài học tập mọi nghệ thuật ở Takkasilà. Sau ngài trở về Indapattana và khi thân phụ từ trần, ngài trở thành vị tế sư hoàng gia kiêm cố vấn của vua về thế sự cũng như thánh sự. Danh hiệu của ngài là bậc Trí nhân Vidhùra.

Vua Dhananjaya coi thường các võ tướng cũ của mình và ban đặc ân cho các người mới. Sau đó vua đi chinh chiến ở một tỉnh biên thùy có loạn; nhưng cả đám võ tướng cũ lẫn võ tướng mới đều không muốn giao chiến, mỗi phe đều nghĩ rằng phe kia sẽ chăm lo việc ấy. Do đó vua bại trận.

Khi trở về Indàpattana, vua nhận xét rằng sự thất bại ấy là do đặc ân mà mình đã dành cho đám người mới. Một hôm vua suy nghĩ: “Có phải ta là vị vua duy nhất từng bại trận vì ban ân huệ cho đám người mới, hay cũng có nhiều kẻ khác cùng chung số phận này trước kia? Ta muốn hỏi bậc Trí nhân Vidhùra”. Vì thế vua đưa lời chất vấn Trí nhân Vidhùra khi ngài đến yết kiến vua tại triều đình.

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ nêu rõ lý do lới chất vấn của vua:

  1. Một hôm minh đế Yu-dhi-la,
    Hỏi bậc Trí nhân Vi-dhù-ra:
    “Hiền hữu Bà-la-môn có biết
    Tim ai sầu thống thiết hơn ta?”

*

Nghe vậy, Bồ-tát đáp:

– Tâu Ðại vương, nỗi sầu của ngài chỉ là điều nhỏ nhặt. Ngày xưa, một Bà-la-môn chăn dê tên gọi Dhùmakàri nuôi một đàn dê lớn, và làm chuồng cho chúng ở trong rừng. Vị ấy đốt lửa xông khói và sống bằng sữa dê tại đó để chăm sóc đàn dê.

Khi thấy một bầy nai da vàng óng ả chợt đến, ông lại sinh lòng thương mến chúng và xao lãng bầy dê, ông tỏ hết lòng quý trọng bầy nai. Vào mùa thu, bầy nai lại di chuyển về vùng Tuyết Sơn. Trong lúc bầy dê chết dần như thế, bầy nai cũng khuất dạng sau rặng núi. Do quá khổ não, ông mắc bệnh xanh xao võ vàng và từ trần. Ông đã bày tỏ đặc ân với đám nai mới và phải chết vì chịu buồn khổ thống thiết hơn Ðại vương cả trăm ngàn lần.

Ngài liền ngâm vần kệ nêu rõ trường hợp này:

  1. Bà-la-môn có một bầy dê,
    Dòng họ Va-si sang trọng kia,
    Ðốt lửa ngày đêm luôn bốc khói,
    Sống đời an lạc chốn sơn khê.
  2. Ngửi mùi khói bốc, một bầy nai
    Do bị nhặng đeo quấy rối hoài,
    Tìm chỗ trú khi mưa gió đến,
    Gần nhà mục tử Dhu-ma-kai.
  3. Bầy nai giờ được mọi yêu thương,
    Dê chẳng được ai thiết ngó ngàng,
    Ði lại tự do không bảo hộ,
    Cho nên chúng phải bị suy tàn.
  4. Song nay nhặng đã bỏ khu rừng,
    Thu đến, mùa mưa chấm dứt luôn,
    Nai phải đi tìm bao đỉnh núi,
    Cùng khe suối chảy ở trên nguồn.
  5. Mục tử thấy nai đã bỏ đi,
    Cả bầy dê cũng chết nằm kia,
    Bệnh sầu não đến làm mòn mỏi
    Da dẻ ngày thêm một tái tê.
  6. Vậy người nào bỏ mặc thân bằng,
    Lại gọi người xa lạ thân thiết
    Như lão Dhu-ma-kai mục tử,
    Một mình, dòng lệ đắng cay tuôn.

Ðấy là câu chuyện do bậc Ðại Sĩ kể lại để an ủi vua. Vua được an ủi, lòng rất hoan hỷ liền ban tặng ngài nhiều châu báu. Từ đó trở đi, vua bày tỏ ân sủng đối với toàn dân, làm nhiều thiện sự công đức nên được sinh lên cõi Thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, vua xứ Kuru là Ànanda, Bà-la-môn Dhùmakàri là vua Pasenadi (Ba-tư-nặc), nước Kosala, và bậc Trí nhân Vidhùra là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Tỉnh Thức (Tiền thân Jàgara)

Ai thức tỉnh khi nhiều người đang ngủ…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một cư sĩ. Ðó là một đệ tử đã đắc Nhập lưu Ðạo.

Một hôm ông khởi hành từ Xá-vệ cùng với một đoàn xe đi theo đường rừng. Ðến một nơi có cảnh đẹp và nước chảy, người trưởng đoàn buộc xe ngựa lại, sửa soạn thức ăn đủ loại cứng mềm và tạm ở lại đó. Mọi người nằm xuống ngủ rải rác khắp nơi. Còn vị cư sĩ cứ đi vòng quanh gốc thân cây cạnh người trưởng đoàn. Lúc ấy năm trăm tên cướp dự định cướp đoàn xe. Cầm đủ mọi khí giới trong tay, chúng bao vây đoàn xe và chờ đợi. Khi thấy người cư sĩ đang đi dạo, chúng đứng đợi để bắt đầu đánh phá lúc ông đi ngủ. Nhưng ông cứ đi lại suốt đêm. Ðến tảng sáng, bọn cướp ném vũ khí cùng gậy đá chúng đã lượm, rồi bỏ đi và bảo:

– Này ông trưởng đoàn lữ khách, ông làm chủ tài sản này vì ông đã được cứu mạng nhờ người kia tỉnh thức thật tinh chuyên: Ông cần phải suy tôn ông ấy.

Mọi lữ khách thức dậy đúng giờ, thấy đám khí giới gậy đá do bọn cướp ném bỏ, liền bày tỏ lòng cung kính, biết ơn vị cư sĩ vì hiểu rằng họ sống được là nhờ ông.

Vị cư sĩ ấy đến nơi đã định, làm công việc xong, trở về Xá-vệ và đến Kỳ Viên: tại đó ông đến yết kiến và đảnh lễ đức Như Lai cung kính và ngồi dưới chân Ngài, rồi do lời Ngài yêu cầu, ông kể mọi chuyện cũ. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này cư sĩ, không phải chỉ riêng ông tạo được công đức đặc biệt lớn nhờ tỉnh thức và hộ phòng, mà các bậc trí ngày xưa cũng đã làm như vậy.

Và theo lời thỉnh cầu của vị cư sĩ. Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn . Khi lớn lên ngài học tập đủ mọi nghệ thuật ở Takkasilà và trở về nhà sống đời gia chủ.

Sau một thời gian, ngài rời bỏ nhà và trở thành ẩn sĩ. Chẳng bao lâu ngài đắc các Thiền chứng và sống tại vùng Tuyết Sơn, ngài chuyên tâm đi và đứng, ngài chỉ kinh hành suốt đêm chứ không ngủ.

Một vị Thần cây ở cuối lối đi của ngài hoan hỷ nhìn thấy ngài như vậy và ngâm vần kệ đầu:

  1. Ai thức tỉnh khi nhiều người đang ngủ?
    Ai ngủ khi bao người khác dậy rồi?
    Ai là người hiểu câu đố của tôi?
    Ai có thể giải đáp tôi điều đó?

Bồ-tát nghe lời vị Thần cây, liền ngâm vần kệ này:

  1. Ta thức tỉnh khi nhiều người đang ngủ,
    Ta ngủ khi bao người khác dậy rồi,
    Ta là người hiểu câu đố của ngài,
    Ta có thể giải đáp ngài điều đó.

Vị Thần cây ngâm vần kệ hỏi lại câu này:

  1. Sao ngài thức khi nhiều người đang ngủ?
    Và ngủ khi bao kẻ khác dậy rồi?
    Làm sao ngài hiểu câu đố của tôi?
    Và giải đáp điều này ngay lập tức?

Bồ-tát giải thích vấn đề này:

  1. Có nhiều kẻ vẫn quên rằng giới đức
    Nằm ở trong sự tiết dục điều thân,
    Vậy bao người đang ngủ giấc mơ màng,
    Còn ta thức, hỡi Thần cây cổ thụ.
  2. Tham, sân, si của số người nào đó
    Ðã không còn hiện hữu ở trong lòng,
    Vậy các người kia đã tỉnh giấc nồng,
    Ta còn ngủ, hỡi Thần cây cổ thụ!
  3. Vậy ta thức khi nhiều người đang ngủ,
    Và ngủ khi bao kẻ khác tỉnh rồi,
    Vậy là ta hiểu câu đố của ngài,
    Và giải đáp lại lời ngài rồi đó.

Khi Bậc Ðại Sĩ đã giải đáp lời này, vị Thần rất hoan hỷ và ngâm vần kệ tán thán:

  1. Lành thay ngài tỉnh thức khi người ngủ,
    Và ngủ khi bao người khác tỉnh rồi!
    Lành thay ngài hiểu câu đố của tôi,
    Lời giải đáp của ngài bao tốt đẹp!

Như vậy sau khi tán thán Bồ-tát, vị Thần cây trở vào nơi an trú của mình trên cây.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, vị thần cây là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) và nhà khổ hạnh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Phần Cháo Cúng Dường (Tiền thân Kummasàpinda)

Cúng dường chư Phật quý cao thay…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về Hoàng hậu Mallikà (Mạt-lợi).

Nàng nguyên là con gái của vị trưởng nghiệp đoàn bán vòng hoa, cực kỳ diễm lệ và hiền thục. Khi nàng được mười sáu tuổi, trong lúc đi đến vườn hoa cùng các thiếu nữ khác, nàng mang theo ba phần cháo sữa chua trong giỏ hoa. Khi nàng rời thành phố, nàng trông thấy đức Thế Tôn vào thành, tỏa hào quang rực rỡ và được Tăng chúng vây quanh, nàng đem cúng dường Ngài ba phần cháo ấy.

Bậc Ðạo Sư đưa bát của ngài ra nhận cháo. Nàng đảnh lễ chân đức Như Lai và lấy niềm hoan hỷ ấy làm chủ đề Thiền quán, nàng đứng sang một bên. Bậc Ðạo Sư mỉm cười, nhìn nàng. Tôn giả Ànanda tự hỏi tại sao đức Như Lai mỉm cười và hỏi Ngài vấn đề này. Bậc Ðạo Sư nói lý do:

– Này Ànanda, cô gái này hôm nay sẽ trở thành chánh hậu của vua Kosala do phước báo ba phần cháo này.

Còn cô gái tiếp tục bước đến vườn hoa. Ngay chính hôm ấy vua Kosala giao chiến với vua Ajàtasattu (A-xà-thế) và thất bại phải đào tẩu. Trong khi đang đi ngựa, vua nghe tiếng nàng hát rất hấp dẫn liền thúc ngựa vào khu vườn. Công đức của cô gái đã đến thời chín muồi, vì thế khi thấy vua, nàng không chạy trốn mà đi đến cầm lấy dây cương nơi mũi ngựa. Vua ngồi trên lưng ngựa hỏi nàng đã có chồng chưa. Khi nghe nàng đáp chưa, ông xuống ngựa và đang mệt mỏi vì nắng gió, ông nằm nghĩ chốc lát trên đùi nàng. Sau đó ông đưa nàng lên ngựa, cùng đạo quân hùng hậu đi vào thành, đưa nàng đến tận nhà riêng.

Chiều hôm ấy vua phái một vương xa trong cảnh vô cùng vinh quang lộng lẫy đến rước nàng từ nhà nàng về đặt lên một bảo tọa đầy châu báu, làm lễ quán đảnh (rảy nước thánh lên đầu) cho nàng và phong nàng làm chánh hậu. Từ đó trở đi, nàng trở thành hoàng hậu thân thiết tận tụy được vua sủng ái, nàng có đầy đủ năm vẻ yêu kiều của nữ nhi, lại có đủ đám nô tỳ trung thành và nàng lại là một tín nữ được nhiều hồng ân của chư Phật. Cả kinh thành loan tin rằng nàng được mọi vinh hoa ấy là vì nàng cúng dường Bậc Ðạo Sư ba phần cháo.

Một hôm Tăng chúng bắt đầu thảo luận trong Chánh pháp đường:

– Này các Hiền giả, Hoàng hậu Mallikà cúng dường đức Phật ba phần cháo, và do phước báo này, ngay chính hôm ấy bà được làm lễ quán đảnh phong ngôi hoàng hậu: Công đức chư Phật thật vĩ đại dường nào.

Bậc Ðạo Sư bước vào, hỏi chuyện và khi được biết đề tài thảo luận của Tăng chúng, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không lạ gì nàng Mallikà trở thành chánh hậu của vua Kosala nhờ cúng dường đức Phật Chánh Ðẳng Giác ba phần cháo mà thôi, vì cớ sao? Ðó là nhờ đại hồng ân của chư Phật: Các trí nhân ngày xưa cúng dường các vị Ðộc Giác Phật cháo không có muối hay dầu nữa, song nhờ thế trong đời sau đạt được vinh quang của đế vương tại Kàsi rộng ba trăm dặm.

Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một nhà nghèo. Khi lớn lên ngài tìm kế sinh nhai bằng cách làm công cho một nhà giàu. Một hôm ngài mua bốn phần cháo ở cửa tiệm và suy nghĩ: “Cái này vừa đủ để ta ăn sáng”. Rồi ngài ra làm việc ngoài đồng. Khi thấy bốn vị Ðộc Giác Phật đang vào Ba-la-nại khất thực, ngài suy nghĩ: “Ta có bốn phần cháo này, giả sử ta đem cúng dường các vị đang đến Ba-la-nại khất thực?”. Vì thế ngài đi đến đảnh lễ các vị và nói:

– Thưa các tôn giả, con hiện đang cầm bốn phần cháo, con xin cúng dường các vị, mong các vị nhận lấy để cho con được phước đức đem lại an lạc lâu dài về sau.

Thấy các vị nhận lời, ngài liền rải cát và sắp đặt bốn chỗ ngồi, đặt các cành khô lên đó và mời chư vị Ðộc Giác Phật ngồi theo thứ tự. Ngài lấy rổ lá đem nước đến, rót nước cúng dường, và đặt bốn phần cháo vào bốn bình bát vừa đảnh lễ cung kính vừa thưa:

– Thưa các tôn giả, ước mong nhờ phước báo này con sẽ không sinh vào nhà nghèo nữa, ước mong đây sẽ làm nhân duyên cho con đắc quả vị Chánh Giác.

Các vị Ðộc Giác Phật dùng cháo xong, nói lời tùy hỷ công đức và trở về động Nandamùla. Khi kính chào các vị, Bồ-tát cảm thấy niềm hoan hỷ được tiếp xúc các Ðộc Giác Phật, và sau khi các vị đã khuất dạng, ngài đã đi làm công việc, ngài vẫn nhớ các vị mãi cho đến lúc mạng chung. Nhờ phước báo này, ngài tái sinh vào mẫu thai của chánh hậu thành Ba-la-nại. Ngài được đặt tên Vương tử Brahmadatta.

Từ lúc mới biết đi chập chững, nhờ năng lực nhớ lại những việc làm trong đời trước, ngài thấy rõ như thể soi bóng mình vào tấm gương sáng, rằng ngài tái sinh vào hoàn cảnh này do ngài đã cúng dường bốn phần cháo lên các vị Ðộc Giác Phật khi ngài là một tôi tớ đi làm thuê tại chính kinh thành này. Khi lớn lên, ngài học tập mọi môn nghệ thuật ở Takkasilà. Khi ngài trở về nhà, vua cha vô cùng hoan hỷ về các thành tựu của ngài nên phong ngài làm phó vương. Sau đó khi vua cha băng hà, ngài lên ngự trị quốc độ. Rồi kết hôn với công chúa tuyệt sắc của vua Kosala và phong nàng ngôi chánh hậu.

Vào ngày đại hội giương chiếc Lọng trắng che lên ngài, quần thần trang hoàng kinh thành như thể một kinh thành thiên giới. Ngài dự đám rước quanh thành phố rồi ngự lên thượng lầu được trang hoàng lộng lẫy, sau đó bước đến đài cao an tọa trên ngai vàng có lọng trắng giương phía trên.

Khi ngồi đó, ngài nhìn xuống nhìn thần dân đang đứng chầu, một phía là triều thần, phía kia là các Bà-la-môn và gia chủ sáng rực trong vẻ đẹp muôn màu sắc, một phía khác nữa là quần chúng cầm tặng vật đủ loại trong tay, kế đến là đoàn nữ nhạc vũ công gồm cả mười sáu ngàn nàng chẳng khác đoàn tiên tụ tập đông đủ trên Thiên đình.

Nhìn mọi vẻ huy hoàng làm say mê lòng người như thế, ngài nhớ lại đời trước của mình và suy nghĩ: “Chiếc lọng trắng kết tràng hoa bằng vàng và chân trụ bằng vàng khối này, bằng ngàn con voi và cỗ xe này, và cả lãnh thổ rộng lớn của ta đầy ngọc vàng châu báu, tài sản, mễ cốc đủ loại, các nữ nhân như tiên nữ trên trời, mọi cảnh vinh quang này đều thuộc riêng về phần ta thôi, đó là do công đức cúng dường bốn vị Ðộc Giác Phật bốn phần cháo: Ta hưởng được tất cả mọi sự này nhờ đó”.

Như vậy trong khi nhớ lại hồng ân của chư Ðộc Giác Phật, rõ ràng ngài đã tuyên dương công đức của ngài trong đời trước. Ý tưởng ấy làm toàn thân ngài tràn ngập hoan lạc. Niềm hoan lạc thấm tận tâm can khiến ngài ngâm vang hai vần kệ đầy cảm hứng ngay giữa quần thần:

  1. Cúng dường chư Phật quý cao thay,
    Người bảo đừng xem rẻ việc này,
    Ðem tặng cháo dù không có muối
    Cho ta phước báo lớn như vầy.
  2. Ngựa, voi cùng với đám trâu bò,
    Vàng, bạc, thóc ngô, cả nước nhà,
    Ðám mỹ nữ hình dung yểu điệu,
    Cúng dường đem quả đến tay ta.

Như vậy trong niềm hỷ lạc, Bồ-tát ngâm khúc hoan ca gồm hai vần kệ nhân ngày lễ giương chiếc Lọng trắng. Từ đó về sau, chúng được xem là khúc ca được quốc vương ái mộ và mọi người đều hát điệu ấy, từ các vũ nữ, vũ công, nhạc sĩ, cung nhân, thị vệ, cho đến dân chúng và ngay cả đám quần thần trong triều.

Sau một thời gian, chánh hậu mong muốn biết ý nghĩa bài hát, song bà không dám hỏi bậc Ðại Sĩ. Một hôm nhà vua đẹp ý vì một đức tính của bà, liền phán:

– Này ái hậu, ta muốn ban cho nàng một điều ước, hãy nhận đặc ân ấy.

– Tâu hoàng thượng, tốt lành thay thiếp xin nhận đặc ân ấy.

– Ái hậu muốn ta ban gì, voi ngựa hay thứ nào khác?

– Tâu hoàng thượng, nhờ ân sủng của hoàng thượng, thiếp không thiếu gì cả, thiếp không cần các thứ ấy. Song nếu hoàng thương ban cho thiếp một đặc ân, xin hãy nói cho thiếp biết ý nghĩa khúc ca của ngài.

– Này ái hậu, nàng cần gì đặc ân ấy? Hãy nhận thứ khác đi.

– Tâu hoàng thượng, thiếp không cần một thứ nào khác cả. Ðó là đặc ân thiếp muốn nhận.

– Ðược rồi, này ái hậu, ta sẽ nói điều ấy, nhưng không phải đó là điều bí mật nói riêng với nàng, mà ta muốn gióng tiếng trống khắp kinh thành Ba-la-nại rộng mười hai dặm này, ta muốn dựng ngôi đình bằng ngọc ngay tại cung môn và đặt một chiếc ngai bằng ngọc tại đó, rồi ta sẽ ngồi đó giữa quần thần, Bà-la-môn, cùng mọi người khác gồm cả mười sáu ngàn nữ nhân, và kể chuyện ấy.

Bà tuân lệnh. Vua truyền làm mọi việc như trên, rồi ngự lên ngai giữa đại chúng như Sakka Thiên chủ giữa chư Thiên. Hoàng hậu phục sức đủ mọi thứ nữ trang ngọc vàng, đặt một kim đôn, ngồi bên cạnh ở một vị trí thích hợp, rồi đưa mắt nhìn vua, bà thưa:

– Tâu hoàng thượng, xin hãy giảng giải cho thiếp biết ý nghĩa khúc hoan ca mà ngài thường hát trong niềm hỷ lạc, như thể làm cho mặt trăng xuất hiện trên bầu trời.

Rồi bà ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Hoàng thượng đầy vinh hiển, chánh chân,
    Khúc ca ngài hát đã bao lần,
    Trong niềm hoan lạc đầy tâm trí,
    Cho thiếp đặc ân biết ngọn nguồn.

Bậc Ðại Sĩ ngâm bốn vần kệ nêu rõ ý nghĩa khúc ca:

  1. Chính tại thành này, kiếp trước đây,
    Ở trong hoàn cảnh khác ngày nay,
    Ta là tôi tớ cho người khác,
    Làm mướn, song đức hạnh thẳng ngay.
  2. Một hôm rời tỉnh để làm công,
    Bốn Ðạo Sư kia, ta chợt trông
    Dáng điệu ly tham và tĩnh lặng,
    Thiện toàn trong Giới luật tu thân.
  3. Tư tưởng ta quy ngưỡng Phật-đà,
    Khi chư vị nghỉ dưới cây già,
    Chấp tay đảnh lễ, ta đem đến
    Thành kính cúng dường món cháo hoa.
  4. Thiện nghiệp tạo nên phước đức dày,
    Quả thành ta gặt được giờ đây:
    Vinh hoa phú quý đời vương giả,
    Quốc độ do ta cai trị này.

Khi hoàng hậu nghe bậc Ðại Sĩ giảng giải đầy đủ thành quả của thiện nghiệp ngài, bà hân hoanđáp:

– Tâu Ðại vương, nếu ngài nhận thấy rõ các thành quả của bố thí như vậy, từ nay về sau xin ngài nhận một phần cơm và đừng ăn cho đến khi nào chính ngài đã cúng dường thực phẩm lên các vị Sa-môn Bà-la-môn chân chánh.

Rồi hoàng hậu ngâm vần kệ tán thán Bồ-tát:

  1. Hãy ăn, khi nhớ cúng dường rồi,
    Chuyển bánh xe chân chánh khắp nơi:
    Hoàng thượng tránh xa điều bất chánh,
    Cầm quyền chân chánh nước non ngài.

Bậc Ðạo Sĩ ngâm vần kệ chấp nhận lời hoàng hậu:

  1. Ta vẫn tạo riêng một lối đường,
    Bước theo đạo lộ chánh chân luôn,
    Nơi người hiền thiện thường đi đến,
    Ðẹp mắt ta nhìn các Thánh nhân.

Sau khi nói xong, ngài nhìn dung sắc Hoàng hậu và bảo:

– Này mỹ hậu, ta đã kẻ đủ mọi thiện nghiệp ta làm đời trước, song giữa đám nữ nhân này không ai sánh kịp nàng về dung sắc và vẻ kiều diễm khả ái.

Rồi ngài ngâm vần kệ:

  1. Ái hậu như tiên nữ cõi trời,
    Trông nàng rực rỡ vượt bao người,
    Vậy nhờ thiện nghiệp nào đưa đến
    Phước báo dung quang quá tuyệt vời?

Sau đó hoàng hậu ngâm vần kệ nêu phước nghiệp đã tạo trong kiếp quá khứ:

  1. Thiếp vốn nô tỳ một quý nương
    Ở hoàng cung của Am-ba-vương,
    Thiếp chuyên tâm thực hành khiêm tốn,
    Ðức hạnh và tu tập thiện ngôn.
  2. Rồi một ngày kia thiếp cúng dường
    Phần cơm vào bát một Sa-môn,
    Tâm tư thiếp ngập tràn từ ái,
    Nghiệp ấy quả này, tâu Ðại vương!

Theo đây, hoàng hậu cũng biết chính xác và kể lại đời trước của mình.

Như vậy cả hai vị đã công bố các nghiệp quá khứ xong, từ ngày ấy hai vị truyền lệnh xây sáu bố thí đường tại bốn cổng thành, giữa kinh thành và tại cung môn, rồi để khích lệ toàn cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ), hai vị thực hành đại bố thí, giữ các giáo đức và các ngày trai giới, nên lúc mạng chung được tái sinh cõi thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, hoàng hậu là mẫu thân Ràhula và vua chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cận Thần Parantapa (Tiền thân Parantapa)

Lo sợ kinh hoàng trong trí ta…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Trúc Lâm về âm mưu của Tỷ-kheo Devadatta định giết Ngài.

Tăng chúng bàn luận tại Chánh pháp đường:

– Này các Hiền giả, Tỷ-kheo Devadatta dự định giết đức Như Lai, vị ấy đã thuê bọn xạ thủ, némđá trên núi xuống, thả voi say Nàgàgiri và dùng nhiều phương tiện diệt đức Như Lai.

Bậc Ðạo Sư bước vào hỏi đề tài thảo luận của các vị lúc ngồi đây. Khi các vị trình bày xong, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu các kẻ ấy dự định mưu sát ta. Song kẻ ấy không đủ khả năng thậm chí làm ta lo sợ, mà chỉ tạo khổ đau cho bản thân mình thôi.

Và do vậy Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm vương tử của chánh hậu. Khi lớn lên, ngài học tập đủ mọi nghệ thuật ở Takkasilà và biết được thần chú hiểu tiếng kêu của súa vật. Sau khi lời thầy dạy đầy đủ, ngài trở về Ba-la-nại. Phụ vương phong ngài chức phó vương, nhưng dù vua đã làm như vậy, vua lại mong mỏi giết hại ngài và thậm chí không muốn nhìn thấy ngài nữa.

Thời ấy, một chó rừng cái đem hai chó con vào kinh thành theo một đường cống ban đêm, lúc mọi người đều nghỉ ngơi. Trong cung của Bồ Tát cạnh tư thất ngài, có căn phòng dành cho một người khách, kẻ ấy đã cởi giầy ra và đặt trên sàn nhà bên chân mình rồi nằm trên tấm ván, nhưng chưa ngủ.

Bầy chó con đói và kêu khóc. Mẹ chúng bảo theo giọng chó rừng:

– Này các con đừng làm ồn, có một người trong phòng kia, có một người trong phòng kia đã cởi giầy ra và đặt trên sàn nhà. Ông ta đang nằm trên tấm ván nhưng chưa ngủ. Khi ông ta ngủ rồi, mẹ sẽ đến lấy đôi giầy cho các con ăn.

Nhờ thần chú, Bồ-tát hiểu tiếng chó rừng và rời phòng mình, mở cửa sổ gọi:

– Ai ở trên đó?

– Tâu Ðiện hạ, thần là một lữ khách.

– Thế giày của ông đâu?

– Tâu, ở trên sàn.

– Hãy lấy giày treo lên.

Nghe lời này, chó mẹ nổi giận với Bồ-tát. Một hôm nó lại vào thành theo cách trên. Hôm ấy có kẻ say rượu bước xuống nước trong một hồ sen, rồi té vào đó chết chìm. Kẻ ấy có hai chiếc áo đang mặc trên người, một ngàn đồng tiền để ở áo trong và một chiếc nhẫn trên ngón tay.

Bầy chó con lại kêu khóc đòi ăn. Mẹ chúng bảo:

– Im đi các con, có một người chết trong hồ sen này, ông ta có nhiều của cải như vậy mà đang nằm trong hồ sen, mẹ sẽ cho các con ăn thịt ông ta.

Bồ-tát nghe tiếng chó, mở cửa sổ ra hỏi:

– Ai trong phòng kia?

Một người thức dậy thưa:

– Chính tiểu thần.

– Hãy đi lấy bộ áo, ngàn đồng tiền và chiếc nhẫn trên người đang nằm chết ở hồ sen đằng kia và làm cho xác chìm xuống để nó khỏi nổi lên mặt nước.

Người kia tuân lệnh làm theo. Chó rừng liền tức giận ngài:

– Hôm trước ngài cản trở các con tôi ăn đôi giày, hôm nay ngài lại cản chúng tôi ăn xác chết. Ðược lắm, vào ngày thứ ba kể từ đây, một địch vương sẽ đến bao vây kinh thành, phụ vương ngài sẽ truyền ngài ra trận, họ sẽ chặt đầu ngài. Tôi sẽ uống máu từ cổ ngài cho hả giận: ngài tự biến mình thành kẻ thù của tôi, vậy tôi quyết chí trả thù.

Như vậy chó cái vừa sủa vừa nhục mạ Bồ-tát. Rồi nó đem các con đi.

Vào ngày thứ ba, vị địch vương đến bao vây kinh thành. Vua bảo Bồ-tát:

– Này con thân yêu, hãy ra trận.

– Tâu phụ vương, con đã thấy trước một điềm báo hiệu. Con không thể đi vì sợ rằng con sẽ mất mạng.

– Ngươi sống chết có nghĩa gì đối với ta? Ði ngay!

Bậc Ðại Sĩ tuân lệnh. Cùng đem đám gia nhân theo, ngài tránh cổng thành nơi địch vương đang đón quân và đi ra bằng một cổng khác ngài đã mở sẵn. Khi ngài ra đi, cả kinh thành như thể bị bỏ trống vì mọi người cùng theo ngài. Ngài đóng quân ở một khoảng đất rộng và chờ đợi.

Vua suy nghĩ: “Phó vương của ta đã bỏ trống kinh thành và chạy trốn với tất cả quân sĩ của ta, còn kẻ thù đang nằm quanh kinh thành. Ta chỉ là kẻ chết rồi”.

Nghe vua cha đã đào tẩu, Bồ-tát vào thành, đánh bại địch vương và chiếm lại quốc độ. Vua cha lúc ấy dựng lều lá bên bờ sông, sống bằng củ quả rừng. Vua và tế sư thường đi tìm trái cây. Còn cận thần Parantapa ở lại với hoàng hậu trong lều. Hoàng hậu lúc ấy đang có thai với vua, nhưng vì thường sống chung với Parantapa nên bà phạm tà hạnh với y.

Một hôm bà bảo với y:

– Nếu đức vua biết, chàng và thiếp đều không sống được đâu. Vậy hãy giết ngài đi.

– Bằng cách nào chứ?

– Ngài thường bảo chàng mang kiếm và áo tắm lúc ngài đi tắm, vậy hãy đem ngài đi xa người hộ vệ tại nơi tắm, rồi chặt đầu ngài và lấy kiếm chặt thân ngài thành nhiều khúc xong chôn xuống đất.

Y đồng ý. Một hôm vị tế sư đã đi ra tìm quả rừng, ông đã trèo lên một cây to gần nơi vua tắm và đang hái trái. Còn vua muốn tắm nên ra bờ suối cùng Parantapa mang thanh kiếm và áo tắm của vua.

Lúc vua sắp tắm, Parantapa muốn giết vua nhân dịp vua không có người hộ vệ, liền nắm cổ vua và nhấc kiếm lên. Vua sợ chết thét lớn. Vị tế sư nghe tiếng kêu và từ trên cây ông thấy rõ Parantapa đang ám sát vua, nhưng ông cũng quá kinh hoàng vội từ cành cây trụt xuống ẩn mình vào bụi rậm.

Parantapa nghe tiếng sột soạt lúc ông trụt xuống, nên sau khi giết vua và chôn xác xong, y suy nghĩ: “Có tiếng gì sột soạt từ cành cây trụt xuống gần đây, kẻ nào vậy?”. Nhưng không thấy ai, y tắm rửa và ra về.

Sau đó vị tế sư bước ra khỏi chỗ ẩn. Nay biết vua đã bị chặt khúc và chôn trong cái hố, ông tắm rửa và vì lo cho sinh mạng của mình, ông giả mù khi trở về lều.

Parantapa thấy ông, liền hỏi việc gì đã xảy ra cho ông. Ông giả vờ không nhận biết y và nói:

– Tâu Ðại vương, tiểu thần trở về với đôi mắt đã mù. Tiểu nhân đã đứng cạnh một tổ kiến trong rừng đầy rắn và hơi thở của một con rắn độc nào đó đã xông vào người tiểu thần.

Parantapa nghĩ vị tế sư đang nói chuyện với y như thể nói với vua vì ông không biết gì nữa, nên yên tâm bảo:

– Này vị Bà-la-môn, đừng lo, ta sẽ chăm sóc ngài.

Rồi y vừa an ủi ông vừa cho ông nhiều quả rừng.

Từ đó chính Parantapa đi kiếm trái cây. Về sau hoàng hậu sinh được một hoàng tử. Khi hoàng tử lớn lên, một hôm bà nói chuyện với Parantapa vào lúc tảng sáng nhân dịp ngồi nhàn nhã:

– Có ai thấy chàng lúc giết vua chăng?

– Không ai thấy ta cả, nhưng ta nghe tiếng động của vật gì trụt xuống từ bụi cây nọ, ta không biếtđó là người hay vật. Tuy thế, bất cứ lúc nào trong lòng ta nổi lên mối lo sợ cũng đều do duyên cớ bụi cây sột soạt kia.

Rồi y ngâm vần kệ đầu nói chuyện với bà:

  1. Lo sợ, kinh hoàng trong trí ta
    Phát sinh ngay cả chính bây giờ
    Ðều do thuở ấy người hay vật
    Lay động bụi cây ở chốn kia.

Hai người ấy tưởng vị tế sư đã ngủ, nhưng ông đang thức và nghe họ nói chuyện.

Một hôm, khi Parantapa đã đi vào rừng hái trái, vị tế sư nhớ đến bà vợ Bà-la-môn của mình, lại ngâm vần kệ thứ hai để than thân:

  1. Nhà vợ thân yêu ở cạnh đây,
    Nhớ thương làm dạ tái tê thay,
    Như Pa-ran hiện đang gầy ốm
    Vì sợ lá cành rung động cây.

Hoàng hậu hỏi ông đang nói gì thế. Ông đáp:

– Thần chỉ suy nghĩ trong dạ mà thôi.

Nhưng một ngày khác, ông lại ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Nhà vợ ở Ba-la-nại thành,
    Thiếu nàng, ta héo hắt thân mình,
    Như Pa-ran hiện đang xanh tái
    Vì sợ bụi cây rúng rẩy cành.

Một ngày khác nữa ông lại ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Mắt nàng đen nhánh sáng long lanh,
    Giọng nói, nụ cười mỉm tuyệt xinh,
    Hồi tưởng làm ta tê tái dạ
    Như Pa-ran sợ động cây cành
    .

Theo thời gian, hoàng tử ấu thơ lớn dần đến mười sáu tuổi. Lúc ấy vị Bà-la-môn làm một cây gậy, cùng đi với cậu đến chỗ tắm và mở mắt ra nhìn. Hoàng tử hỏi:

– Này vị Bà-la-môn, ông không mù à?

– Ta không mù, nhưng nhờ cách này ta đã cứu mạng mình. Thế cậu có biết ai là thân phụ cậu không?

– Ta biết chứ.

– Người kia không phải là cha cậu đâu. Cha cậu là vua ở Ba-la-nại, người kia chỉ là kẻ hầu cận của hoàng gia, y đã thông gian với mẹ cậu và giết cha cậu tại chỗ này, rồi chôn xác đây.

Nói vậy xong, ông kéo bộ xương lên chỉ cho hoàng tử thấy. Hoàng tử tức giận hỏi:

– Thế ta phải làm gì bây giờ?

– Cứ đối xử với kẻ kia như cách y đối xử với cha cậu.

Rồi ông trình bày mọi việc cho hoàng tử và trong vài ngày, dạy cho hoàng tử cách dùng kiếm. Sau đó, một hôm hoàng tử cầm kiếm và áo tắm, rồi bảo:

– Cha ơi, chúng ta đi tắm nhé.

Parantapa đồng ý ra đi với cậu. Khi y bước xuống nước, hoàng tử cầm chỏm tóc y bằng tay trái và kiếm trong tay phải, bảo:

– Ngay tại đây, ngươi đã nắm chỏm tóc cha ta và giết ngài trong lúc ngài thét lên. Vậy ta cũng sẽ làm thế với ngươi.

Parantapa sợ chết, gào thét lên và ngâm hai vần kệ:

  1. Chắc tiếng động kia đến với ngươi
    Kể cho ngươi những chuyện xưa rồi:
    Chắc người thuở nọ rung cành lá
    Ðã đến kể ngươi chuyện thiếu thời.
  2. Ý tưởng điên rồ đến với ta
    Ðã cho ngươi biết chuyện bây giờ:
    Ngày xưa làm chứng, người hay vật,
    Ở đó và rung cổ thụ mà.
    Kế tiếp, hoàng tử ngâm vần kệ cuối cùng:
  3. Chính ngươi đã giết phụ vương thân
    Cùng với lời lừa phản dối gian,
    Ngươi dấu thây ngài trong bụi ấy,
    Giờ đây ngươi phải chịu kinh hoàng.

Nói vậy xong, cậu đâm y chết tại chỗ, vùi thây vào đó và lấy cành cây phủ lên. Sau đó rửa sạch kiếm và tắm xong, cậu trở lại lều lá. Cậu kể cho vị tế sư nghe cách cậu đã giết Parantapa và khiển trách mẹ cậu xong, cậu lại hỏi khi cả ba trở về Ba-la-nại:

– Chúng ta sẽ phải làm gì bây giờ?

Bồ-tát phong hoàng đệ làm phó vương, rồi thực hành bố thí và nhiều thiện sự khác, về sau mạng chung ngài tái sinh lên Thiên giới.

*

Khi pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Devadatta là vua cha và Ta chính là vua con.

-ooOoo-

Chương VIII

Phẩm Tám Bài Kệ

  1. Chuyện Hiền Mẫu Kaccàni (Tiền thân Kaccàni)

Mặc áo trắng và tóc xõa vai…,

Bậc Ðạo sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một người phụng dưỡng mẹ mình.

Chuyện kể rằng đó là một thiện gia nam tử ở Savatthì (Xá-vệ). Khi cha mất, chàng chuyên tâm săn sóc mẹ, hầu hạ mẹ các công việc súc miệng đánh răng, tắm rửa v.v… và đem cháo cơm thức ăn cho mẹ. Bà mẹ bảo: “Này con, có nhiều phận sự khác trong đời gia chủ, con phải cưới một cô gái nhà đàng hoàng, cô ấy sẽ săn sóc mẹ, để rồi con đi làm công việc khác thích hợp hơn”. – “Mẹ ơi, chính vì lợi ích và niềm vui của con mà con hầu hạ mẹ, chứ ai khác có thể hầu để tăng gia sản của ta chứ”. – “Con không màng đến đời sống gia đình. Con muốn phụng sự mẹ, sau khi mẹ qua đời, con sẽ làm ẩn sĩ khổ hạnh.”

Bà mẹ cố nài ép con mãi, và cuối cùng không cần thuyết phục con hay được con chấp thuận, bà cứ đưa về một cô gái con nhà tử tế. Chàng cưới vợ và sống với nàng vì chàng không muốn trái ý mẹ, nên muốn bắt chước, nàng cũng chăm nom mẹ chồng chu đáo. Nhận thấy lòng tận tụy của vợ, chàng đem về cho nàng mọi thức ăn ngon lành mà vị ấy có thể kiếm được.

Theo thời gian, nàng dâu suy nghĩ ngu xuẩn theo kiểu kiêu hãnh của nàng: “Chàng cho ta mọi thức ăn ngon lành chàng kiếm được, chắc hẳn chàng mong muốn tống mẹ đi cho rảnh, vậy ta sẽ tìm cách làm việc đó”. Một hôm nàng bảo:

– Chàng ơi, mẹ mắng tôi lúc chàng đi vắng.

Người chồng không nói gì. Nàng suy nghĩ: “Ta sẽ chọc tức bà già và làm cho con trai bà ấy không chịu nổi mẹ nữa”.

Từ đó nàng đem cháo cho bà hoặc quá nóng hoặc quá lạnh, hoặc quá mặn hoặc quá nhạt. Khi bà lão than phiền cháo quá nóng hay quá mặn, nàng đổ thêm nước lạnh đầy dĩa, rồi khi nghe cháo quá lạnh hoặc quá nhạt, nàng thường kêu to:

– Mới đây mẹ bảo quá nóng và quá mặn, ai chiều chuộng bà cho được.

Lúc tắm rửa, nàng thường dội nước quá nóng lên lưng bà già, nghe bà bảo:

– Con ơi, lưng mẹ bỏng rồi đấy!

Nàng liền dội nước thật lạnh lên bà mẹ, rồi khi nghe bà than phiền, nàng bịa chuyện với hàng xóm:

– Bà già này khi thì bảo nước quá nóng, khi thì bảo nước quá lạnh, ai còn chịu đựng được sự trơ tráo của bà ấy nữa?

Nếu bà già than phiền giường bà đầy rệp, nàng sẽ đem giường ấy ra, và giũ mạnh vạt giường của nàng lên đó rồi mang nó về chỗ cũ, bảo bà:

– Tôi đã giũ nó rồi.

Bà già hiền lành lại bị rận rệp cắn nhiều gấp đôi trước kia, nên phải ngồi suốt đêm và than phiền bị rệp cắn suốt đêm, nàng đáp lại:

– Giường mẹ mới được giũ hôm qua và hôm kia nữa, ai có thể chiều chuộng mọi yêu sách của bà già này chứ?

Muốn làm cho con trai bà phản đối mẹ, nàng lại rải đờm dãi, tóc bạc khắp nơi, rồi khi chàng hỏi ai làm cho nhà cửa bừa bãi dơ bẩn như vậy, nàng thường bảo:

– Mẹ chàng làm đấy, nhưng nếu tôi bảo mẹ đừng làm vậy, thì mẹ lại la lối lên. Tôi không thể ở chung nhà với một bà chằn như vậy, chàng phải quyết định hoặc mẹ hoặc tôi ở lại đây thôi.

Chàng nghe nàng nói vậy liền bảo vợ:

– Nàng ơi, nàng còn trẻ và có thể ở nơi nào tùy ý, muốn đi đâu thì đi nhưng mẹ tôi già yếu, tôi là chỗ tựa của bà. Vậy nàng hãy đi về với người thân thuộc.

Khi nghe vậy nàng sợ hãi nghĩ thầm: “Chàng không thể xa cách người mẹ rất thân yêu đối với chàng. Còn nếu ta về nhà cũ, ta sẽ sống cuộc đời cô đơn khổ sở. Vậy ta muốn hòa giải với chồng và chăm sóc bà như xưa”. Từ đó nàng làm đúng như thời trước.

Một hôm vị cư sĩ này đến Kỳ Viên nghe Pháp, đảnh lễ bậc Ðạo Sư xong, chàng đứng một bên. Bậc Ðạo Sư hỏi xem có phải chàng vẫn không xao nhãng bổn phận cũ, và vẫn tận tụy chăm sóc mẹ già chăng.

Chàng đáp:

– Thưa vâng, Bạch Thế Tôn. Mẹ con đem về cho con một cô gái để làm vợ trái ý con, nàng ấy đã làm nhiều việc không xứng đáng như vậy.

Rồi chàng kể hết mọi việc cho Ngài nghe:

– Song nàng ấy không thể ly gián mẹ con với con được, nên bây giờ nàng ấy lại chăm sóc bà hết sức cung kính.

Bậc Ðạo Sư nghe chuyện và bảo:

– Ngày nay ông không nghe theo lời vợ, nhưng ngày xưa ông đã bỏ mẹ vì nghe lời vợ xúi giục và nhờ ta đưa bà ấy về lại cho ông chăm nom.

Rồi theo lời thỉnh cầu của chàng, Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, có một thanh niên trong gia đình nọ hết lòng chăm sóc mẹ già khi cha cậu từ trần, giống như phần duyên khởi chuyện này, các chi tiết cũng được nêu ra đầy đủ như trên. Nhưng trong trường hợp này, khi người vợ bảo nàng không thể sống với bà chằn kia và chàng phải quyết định một trong hai người phải ra đi, thì chàng theo lời vợ cho rằng mẹ mình có lỗi và bảo:

– Mẹ ơi, mẹ luôn gây chiến trong nhà này, từ nay mẹ đi sống nơi khác tùy ý mẹ.

Bà mẹ nghe vậy, vừa khóc vừa đi đến nhà bạn đâu đó, làm thuê chật vật để sống qua ngày. Sau khi bà ra đi, con dâu bà mang thai sinh con trai, nên thường rêu rao với chồng và hàng xóm rằng việc sinh con ấy chưa hề xảy ra trước kia, khi còn có bà chằn ở trong nhà.

Sau khi sinh con, nàng bảo chồng:

– Tôi chưa bao giờ sinh con lúc mẹ chàng còn ở trong nhà, nay tôi đã có con: như thế chàng có thể thấy rõ bà ấy đúng là bà già chằn thuở trước rồi đó.

Bà già nghe chuyện sinh con trai được dâu bà xem là do bà ra khỏi nhà, liền suy nghĩ: “Chắc chắn thần Công chánh đã chết trên đời này, vì nếu không phải như vậy, những kẻ này đã không sinh con trai và sống sung sướng sau khi đánh đuổi mẹ mình: Ta muốn làm lễ cúng tế thần Công chánh đã chết”.

Vì vậy một ngày kia, bà đem mè xay, gạo cùng một cái nồi và muỗng nhỏ, bà ra nghĩa địa đốt lửa trong cái lò làm bằng ba sọ người, rồi bà xuống suối tắm rửa đầu mình, giặt áo quần xong trở lại nơi lò lửa, xõa tóc ra và bắt đầu vo gạo.

Thuở ấy Bồ-tát là Thiên chủ Sakka, và các Bồ-tát luôn chú tâm cảnh giác. Ngay lúc ấy ngài nhìn xuống trần gian và thấy bà già khốn khổ kia đang làm lễ tống táng thần Công chánh như thể thần Công chánh đã chết. Muốn chứng tỏ uy lực của ngài trong sự cứu giúp bà, ngài giáng trần giả dạng một Bà-la-môn du hành trên đường, khi nhìn thấy bà, ngài rời đường cái đến đứng bên bà, bắt đầu câu chuyện bằng cách hỏi:

– Mẹ ơi, người ta thường không nấu cơm trong nghĩa địa. Mẹ định làm gì với cơm và mè này khi nấu xong?

Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Mặc áo trắng và tóc xõa vai,
    Kac-cà-ni lại nấu nồi sôi,
    Gạo mè bà rửa đằng kia đó,
    Bà có dùng không lúc chín rồi?

Bà ngâm vần kệ thứ hai nói cho ngài biết:

  1. Ðạo sĩ ơi, tôi chẳng muốn ăn
    Mè xay và cả món cơm hầm:
    Giờ đây đã chết thần Công chánh,
    Tôi muốn cúng dâng lễ tế thần.

Thiên chủ, hiện thân của thần Công chánh, đáp vần kệ thứ ba:

  1. Khi quyết định, bà phải nghĩ suy:
    Bà nghe ai nói vọng ngôn kia?
    Ngài ngàn mắt ấy đầy uy lực,
    Công chánh Thần không thể chết đi.

Nghe ngài nói, bà già ngâm đôi vần kệ tiếp theo:

  1. La-môn, tôi chứng kiến rành rành,
    “Công lý chết rồi.” Tôi phải tin:
    Tất cả kẻ nào theo ác hạnh
    Hiện giờ hưởng đại phồn vinh.
  2. Dâu của tôi ngày trước hiếm hoi,
    Ðánh tôi, rồi lại đẻ con trai,
    Nó thành bà chủ trong nhà ấy,
    Tôi bị lãng quên, bị bỏ rơi.
    Thiên chủ Sakka liền ngâm vần kệ thứ sáu:
  3. Không phải đâu, ta sống mãi mà,
    Nay ta giáng thế, chính vì bà,
    Dâu bà đánh mẹ, song dâu cháu,
    Sẽ hóa tro trong lửa của ta.

Nghe thể bà lão kêu to:

– Than ôi, ngài vừa nói gì thế? Tôi sẽ cố sức giúp cháu tôi khỏi chết.

Rồi bà ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Thiên chủ, mong sao hợp ý ngài,
    Vì tôi, ngài đến tự trên trời,
    Ước mong đôi trẻ và thằng cháu
    Ðược sống đời hòa thuận với tôi.

Sau đó Thiên chủ Sakka ngâm vần kệ thứ tám:

  1. Ka-ti sẽ mãn nguyện, vì bà
    Bị đánh, song bà tin tưởng ta
    Công chánh, vậy cùng con, cháu nội
    Sống đời hòa thuận ở trong nhà.

Bấy giờ sau khi nói xong, Sakka Thiên chủ hiện ra đủ mọi vẻ uy nghi của ngài, dùng thần lực đứng trên không và nói:

– Kaccàni, bà đừng sợ, thần lực của ta, con và dâu bà sẽ đến đây đem bà về nhà, hãy sống hòa thuận với chúng.

Rồi ngài trở về cõi của ngài.

Nhờ uy lực của Thiên chủ, con và dâu bà nghĩ đến mọi tính tốt của bà trước kia và đi tìm khắp thôn làng, họ thấy bà đã đi về phía nghĩa địa. Họ theo con đường ấy và gọi bà, khi gặp lại bà, họ quỳ xuống chân bà xin lỗi và được bà tha thứ lỗi lầm cũ.

Bà vui mừng chào đón cháu nội. Vì vậy cả bọn họ cũng hoan hỷ trở về nhà và từ đó sống chung với nhau.

  1. Với con dâu thảo lại vui mừng
    Bà lão Ka-ti đã sống chung,
    Thiên chủ giải hòa xung đột cũ,
    Cháu con săn sóc thật ân cần.

Vần kệ này được cảm tác do Trí tuệ Tối thắng của đức Phật.

*

Sau pháp thoại, bậc Đạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Khi kết thúc các Sự Thật, vị cư sĩ được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, người cư sĩ phụng dưỡng mẹ mình là người đang phụng dưỡng mẹ ngày nay, người vợ thời ấy là người vợ thời nay và Sakka Thiên chủ chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Tám Tiếng Kêu (Tiền thân Atthasadda)

Ngày xưa thường gọi chốn này…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một tiếng động kinh hoàng không phân biệt được mà vua xứ Kosala đã nghe lúc nửa đêm. Hoàn cảnh này đã được tả trong Tiền Thân Lohakumbhi, số 314.

Tuy nhiên lần này, khi vua hỏi:

– Bạch Thế Tôn, việc trẫm nghe tám tiếng kêu ấy có mang lại điều gì chăng?

Bậc Ðạo Sư đáp:

– Thưa Ðại vương đừng sợ hãi: không có mối nguy gì xảy ra cho Ðại vương do các tiếng kêu ấy. Những âm thanh kinh hoàng khó phân biệt như thế không chỉ một mình Ðại vương nghe được, mà các đế vương ngày xưa cũng đã từng nghe những âm thanh tương tự và dự định theo lời khuyên của các Bà-la-môn dâng tế lễ bốn loại sinh vật, nhưng sau khi nghe các bậc hiền trí khuyên nhủ, các vua ấy đã thả tự do cho bầy súc vật được thâu góp để tế đàn và truyền đánh trống ra lệnh cấm mọi việc sát sinh.

Rồi theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể câu chuyện đời xưa

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn có gia sản đến tám trăm triệu đồng tiền.

Khi lớn lên, ngài học mọi ngành nghệ thuật tại Takkasilà. Sau khi cha mẹ qua đời, ngài xem xét tất cả các kho tàng, rồi từ bỏ mọi của cải bằng cách bố thí, đoạn trừ tham dục và đến vùng Tuyết Sơn trở thành một vị khổ hạnh chuyên tâm nhập định.

Sau một thời gian, ngài trở về chốn cư trú của quần chúng để tìm muối và dấm, đến tận Ba-la-nại, nghĩ ngơi trong ngự viên. Thời ấy vua Ba-la-nại nghe tám tiếng kêu lớn trong lúc đang ngủ trên vương sàng khoảng nửa đêm: đầu tiên, một con Hạc kêu trong vườn gần hoàng cung ; thứ hai, ngay sau khi Hạc kêu, một con quạ cái kêu từ cổng chuồng voi ; thứ ba, một con mọt kêu ở nóc hoàng cung ; thứ tư, chim Sơn ca thuần dưỡng kêu trong hoàng cung ; thứ năm, một con Nai thuần dưỡng cũng kêu tại chỗ ấy; thứ sáu, một con Khỉ thuần dưỡng cũng kêu tại đó ; thứ bảy, một vị tiểu Thần sống trong hoàng cung cất tiếng kêu than ; và thứ tám, ngay sau khi tiếng kêu cuối cùng ấy, một vị Ðộc Giác Phật thốt ra một âm thanh đầy hoan lạc khi bay qua mái hoàng cung tiến về phía ngự viên.

Vua rất kinh hãi khi nghe tám tiếng kêu trên, hôm sau liền tham vấn các Bà-la-môn. Họ đồng đáp:

– Tâu Ðại vương, tai họa sắp xảy ra với Ðại vương, hãy cho phép chúng thần dâng lễ tế đàng ngoài hoàng cung.

Rồi khi được vua cho phép họ làm điều sở thích, họ hoan hỷ đến và bắt đầu chuẩn bị tế đàn. Bầy giờ, một đệ tử trẻ tuổi của vị tế sư Bà-la-môn trưởng thượng rất thông thái đa văn, chàng thưa với thầy:

– Bạch Tôn sư, không nên gây nhiều việc sát hại sinh vật độc ác và thô bạo như vậy.

– Này đệ tử, con biết gì về việc này chứ? Cho dẫu chẳng có gì khác xảy ra, chúng ta cũng được ăn một mẻ cá thịt no nê thỏa thích!

– Bạch Tôn sư, đừng vì cái bụng mà tạo ác nghiệp đưa đến tái sinh trong địa ngục.

Nghe vậy, các Bà-la-môn kia tức giận vị đệ tử muốn làm hỏng các mối lợi của họ.

Vị đệ tử sợ hãi đáp:

– Thôi được, xin cứ tìm cách lấy thật nhiều cá thịt để ăn.

Rồi chàng rời kinh thành đi tìm một vị khổ hạnh thuần thành có khả năng ngăn cản vua việc tế đàn kia. Chàng vào ngự viên và thấy Bồ-tát, liền kính chào ngài và hỏi:

– Tôn giả không có lòng bi mẫn các sinh vật sao? Vua đã ra lệnh làm tế đàn gây chết chóc cho nhiều sinh vật, Tôn giả không muốn giải thoát cho cả đám sinh linh ấy sao?

Này thanh niên Bà-la-môn, ta không biết vua nước này, vua cũng không biết ta.

– Bạch Tôn giả, Tôn giả có biết hậu quả của các âm thanh mà nhà vua đã nghe sẽ ra sao chăng?

– Ta biết chứ.

– Nếu Tôn giả biết, tại sao Tôn giả không bảo cho vua?

– Này thanh niên Bà-la-môn, làm sao ta có thể kiêu hãnh đến bảo vua: “Ta biết!” đã chứ? Nếu vuađến hỏi ta, ta sẽ báo cho ngài.

Vị Bà-la-môn trẻ tuổi vội vàng đến cung đình, và khi được hỏi có việc gì, chàng bảo:

– Tâu Ðại vương, có một vị khổ hạnh biết nguyên nhân các âm thanh mà Ðại vương đã nghe. Vị ấy đang ngồi trên vương tọa trong ngự viên và bảo vị ấy sẽ trình bày với Ðại vương nếu Ðại vương hỏi. Xin Ðại vương hãy làm như vậy.

Vua vội vàng đến kính lễ vị khổ hạnh và sau khi ân cần chào nhau, vua ngồi xuống và hỏi:

– Có thật Tôn giả biết nguyên nhân tám tiếng kêu mà trẫm đã nghe chăng?

– Tâu Ðại vương, phải.

– Vậy xin Tôn giả nói cho trẫm.

– Tâu Ðại vương, không có gì nguy hiểm liên hệ đến các âm thanh kia. Trước hết, có một con Hạc trong ngự viên cũ của Ðại vương thiếu thức ăn nên đói lả gần chết và thốt tiếng kêu ấy.

Như thế, do tri kiến của ngài, ngài vừa nêu rõ ý nghĩa tiếng kêu của con Hạc, vừa ngâm vần kệ đầu:

Tiếng Hạc:

  1. Ngày xưa thường gọi chốn này
    Ao sâu, tôm cá lội đầy tung tăng,
    Là nơi cư trú Hạc vương,
    Tổ tiên ta cũng sống thường trước kia.
    Dẫu ăn ếch nhái bây giờ,
    Chúng ta không thể xa bờ ao xưa.

– Tâu Ðại vương, đó là tiếng kêu của con Hạc trong cơn đói lả, nếu Ðại vương muốn nó khỏi đói, xin hãy ra lệnh dọn vườn sạch sẽ và đổ nước đầy ao.

Vua liền bảo một vị triều thần sai người làm việc này.

Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ hai:

Tiếng Quạ:

  1. Anh chàng một mắt Ban-ra
    Là ai mà cứ phá nhà của tôi?
    Bầy chim mới nở, than ôi!
    Ai người thân thiện cứu tôi khốn cùng?

Rồi ngài hỏi vua về tên của người trưởng đám quản tượng ở chuồng voi.

– Thưa Tôn giả, tên y là Bandhura.

– Tâu Ðại vương, y chỉ có một mắt ư?

– Thưa Tôn giả, phải.

– Tâu Ðại vương, có một con Quạ làm tổ trên cổng chuồng voi, nó đẻ trứng tại đó và đúng kỳ hạn trứng đã nở thành chim non. Mỗi khi người quản tượng ra vào chuồng voi để chăm sóc voi, y hay lấy cái móc đập vào con Quạ và tổ chim non để phá tổ. Con Quạ trong lúc nguy khốn chỉ muốn mổ mắt y nên thốt ra tiếng kêu ấy. Nếu Ðại vương có thiện ý với nó, xin hãy truyền Bandhura vào chầu và cấm y phá tổ quạ.

Vua truyền gọi Bandhura vào, khiển trách y và giao chuồng voi cho kẻ khác.

– Tâu Ðại vương, trên nóc hoàng cung có một con Mọt gỗ, nó đã ăn hết gỗ sung tại đó và không thể ăn thứ gỗ cứng hơn. Vì thiếu thức ăn và không thể bò ra ngoài, nên nó thốt tiếng kêu thứ ba để than vãn. Ðại vương không cần sợ nó.

Rồi nhờ tri kiến của ngài, ngài vừa nêu rõ ý nghĩa tiếng Mọt gỗ kêu vừa ngâm vần kệ thứ ba:

– Tiếng Mọt gỗ:

  1. Ta vừa ăn hết gỗ sung,
    Mọi nơi ta đã đi vòng quanh co,
    Gỗ nào cứng, mọt khó ưa,
    Còn thức ăn khác ở xa dưới mình!

Vua bảo một cung nhân tìm cách giải thoát con mọt.

– Tâu Ðại vương, trong cung thất có con chim Sơn ca thuần dưỡng nào chăng?

– Thưa Tôn giả, có chứ.

Tâu Ðại vương, con Sơn ca ấy héo mòn vì mong mỏi về rừng mỗi khi nó nhớ lại quãng đời cũ:

“Làm sao rời khỏi lồng này,
Làm sao trở lại rừng ấy thân tình?”

Vì thế nó thốt lên tiếng kêu thứ tư, xin Ðại vương chớ lo sợ việc ấy.

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ tư:

Tiếng Sơn ca:

  1. Ước gì rời chốn cung đình!
    Ước gì giải thoát thân mình tự do!
    Hân hoan bay lượn rừng già,
    Rồi ta xây tổ của ta trên cành.

Ngâm kệ xong, ngài thêm:

– Tâu Ðại vương, chim Sơn ca ấy đang mòn mỏi đợi chờ, xin Ðại vương thả nó ra.

Vua nghe theo lời ngài.

– Tâu Ðại vương, trong cung thất có con Nai thuần dưỡng nào chăng?

– Thưa Tôn giả, có chứ.

– Tâu Ðại vương, con Nai ấy là trưởng đoàn, nó nhớ nai cái và mòn mỏi vì nặng tình thương nai cái nên nó thốt tiếng kêu thứ năm. Ðại vương không nên sợ hãi chuyện ấy.

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ năm:

Tiếng Nai:

  1. Ước gì rời chốn cung đình!
    Ước gì giải thoát thân mình vui sao!
    Uống dòng nước suối trong veo,
    Dẫn đàn nai vẫn bước theo sau mình!

Bậc Ðại Sĩ làm cho con Nai được giải thoát và nói tiếp:

– Tâu Ðại vương, có con Khỉ thuần dưỡng nào ở trong cung chăng?

– Thưa Tôn giả, có chứ.

Con Khỉ ấy là chúa đàn khi ở vùng Tuyết Sơn, nó thích thú bầu bạn với đám khỉ cái. Trước kia nó được một thợ săn tên Bharata đem về đây. Nay nó đang mòn mỏi mong ước trở về chốn cư ngụ xưa nên nó thốt tiếng kêu ấy. Xin Ðại vương đừng sợ chuyện này.

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ sáu:

Tiếng Khỉ:

  1. Lòng ta nặng trĩu dục tình,
    Với bao ước vọng thân mình nhiễm ô,
    Bha-ta, lạp hộ bắt ta,
    Ước mong phước phận lão gia tràn trề!

Bậc Ðại Sĩ bảo thả con Khỉ ra và tiếp tục nói:

– Tâu Ðại vương, có vị tiểu Thần nào giữ kho báu ở trong cung chăng?

– Thưa Tôn giả, có chứ.

– Tâu Ðại vương, vị ấy nhớ lại đời sống cũ với một nữ thần, vợ vị ấy, nên trong lúc đau khổ vì dục vọng đã thốt lên tiếng kêu thứ bảy. Một hôm vị ấy cùng vợ trèo lên đỉnh non cao. Hai vị lượm hoa và tô điểm cho nhau nhiều loại hoa đủ màu sắc hương vị đặc biệt, nên không hề lưu ý rằng mặt trời đang lặn và bóng đêm bao trùm trong khi họ leo xuống. Nữ thần bảo: “Này chàng, trời tối rồi, chàng hãy xuống cẩn thận kẻo ngã”. Và vừa nắm tay chồng, nàng vừa đưa chồng xuống. Chính vì nhớ lại các lời nói của vợ mà vị Thần này thốt tiếng kêu, Ðại vương không cần phải sợ chuyện ấy.

Do tri kiến của ngài, ngài vừa giải thích trường hợp này một cách chính xác vừa ngâm vần kệ thứ bảy:

Tiếng vị Thần:

  1. Bóng đêm dày đặc kéo về
    Trên non cao nọ tứ bề cô đơn,
    “Xin chàng đừng ngã trượt chơn”,
    Nàng khe khẽ nhắc bên sườn đá xưa.

Như vậy Bậc Ðại Sĩ giải thích tại sao vị Thần thốt tiếng kêu và ngài bảo thả vị ấy ra, rồi nói tiếp:

– Tâu Ðại vương, còn âm thanh thứ tám là tiếng reo cực lạc. Một vị Ðộc Giác Phật ở động Nandamùla biết rằng các hành (các điều kiện tái sinh) sắp đoạn tận đốc với vị ấy, liền đến nơi cư trú của quần chúng, và suy nghĩ: “Ta muốn chứng đắc Niết-bàn vô dư y trong ngự viên của Ba-la-nại. Quân hầu của vua sẽ chôn cất ta, làm lễ cúng dường và cung kính xá lợi của ta, nhờ vậy sẽ sinh lên cõi thiên”.

Vị ấy dùng thần lực bay đến đây và ngay khi chạm mái hoàng cung, vị ấy liền buông xả gánh nặng sinh tử và ca khúc hoan lạc làm chói sáng lối vào cảnh giới Niết-bàn.

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ tám do vị Ðộc Giác Phật cảm tác:

Tiếng vị Ðộc Giác:

  1. Tái sinh đã tận với ta,
    Không vào thai mẹ từ giờ về sau,
    Ðây đời cuối ở địa cầu
    Sắp tàn cùng mọi khổ đau phàm trần.

Cùng với những lời cực lạc này, vị ấy đến ngự viên và đắc Niết-bàn vô dư y dưới gốc cây Sàla đang nở rộ hoa.

Rồi Bậc Ðại Sĩ đưa vua đến nơi vị Ðộc Giác Phật đắc Niết-bàn và chỉ cho vua phần nhục thân của Ngài. Thấy vậy, vua cùng đoàn quân đông đảo đem hương hoa đến cung kính làm lễ cúng dường.

Theo lời khuyên của Bồ-tát, vua đình chỉ việc tế đàn, cho mọi sinh vật được sống, truyền rao trống lệnh khắp kinh thành cấm sát sinh, cử hành đại lễ suốt bảy ngày, rồi làm lễ hỏa táng thân vị Ðộc Giác Phật rất trọng thể trên hỏa đài chất đầy hương liệu và xây tháp ở ngã tư đường.

Bồ-tát thuyết giảng Chánh pháp cho vua và khuyên nhủ vua tinh cần. Sau đó ngài trở về Tuyết Sơn, thực hành Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả) và không hề gián đoạn Thiền định nên được sinh vào cõi Phạm thiên.

*

Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư bảo:

– Thưa Ðại vương, không có gì nguy hiểm cho Ðại vương do các tiếng kêu ấy, vậy hãy đình chỉ tếđàn và ban sự sống cho các sinh vật này.

Rồi vua bảo truyền trống lệnh đi khắp kinh thành tha mạng các súc vật.

Xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy nhà vua là Ànanda, vị đệ tử Bà-la-môn là Sàriputta và nhà khổ hạnh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Kiều Nữ Sulasà (Tiền thân Sulasà)

Này đây là chiếc vòng vàng…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một nữ tỳ của ông Cấp Cô Ðộc.

Chuyện kể rằng vào một ngày lễ hội, khi nàng sắp đi cùng đám gia nhân đến một lạc viên, nàng xin nữ chủ nhân Punnalakkhanadevì (Phước Tướng) cho nàng một món nữ trang để đeo. Bà chủ cho nàng một món tư trang của bà trị giá một trăm ngàn đồng tiền. Nàng đeo vào cổ và cùng đám gia nhân đi đến chỗ vui chơi. Một tên trộm thèm món nữ trang kia, với dự định giết nàng để đoạt của, hắn lân la đến nói chuyện với nàng và tại khu vườn kia, hắn cho nàng ăn cá thịt và uống rượu mạnh. Nàng suy nghĩ: “Ta chắc chàng làm vậy vì chàng thích ta”. Vào buổi chiều tối khi mọi người nằm xuống nghỉ ngơi sau các cuộc chơi, nàng đứng dậy đi tìm hắn. Hắn bảo:

– Này cô nương, chỗ này không kín đáo, ta hãy đi xa hơn một chút.

Nàng suy nghĩ: “Bất cứ việc gì thầm kín đều có thể xảy ra tại nơi này. Chắc chắn anh chàng muốn giết ta và đoạt món nữ trang ta đang đeo. Vậy ta sẽ dạy anh chàng một bài học”. Vì thế nàng bảo:

– Thưa Tôn ông, em đang khát nước khô cổ họng vì uống rượu mạnh. Xin hãy kiếm cho em một ít nước.

Rồi đưa hắn đến giếng, nàng vừa bảo hắn kéo nước vừa chỉ cho hắn sợi dây thừng và chiếc gàu. Tên trộm thả gàu xuống. Rồi ngay khi hắn cúi mình để kéo nước lên, cô nữ tỳ, vốn rất lực lưỡng, liền đẩy mạnh hắn với đôi bàn tay và hất hắn xuống giếng. Nàng bảo:

– Mi chẳng chết vì cách này đâu.

Rồi ném một cục gạch lớn trên đầu hắn. Hắn chết liền tại chỗ. Khi nàng trở về thành và trả lại bà chủ món nữ trang, nàng bảo:

– Con suýt bị giết hôm nay vì món nữ trang ấy,

Rồi nàng kể toàn thể câu chuyện. Bà chủ kể chuyện với ông Cấp Cô Ðộc và ông trình với đức Như Lai. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này gia chủ, đây không phải là lần đầu người nữ tỳ có trí thông minh phát xuất kịp thời, mà ngày xưa cũng vậy. Ðây không phải lần đầu giết kẻ ấy, mà trước kia cũng có lần giết nó.

Và theo lời của ông Cấp Cô Ðộc, ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, có một kiều nữ của kinh thành tên gọi là Sulasà, làm chủ một đoàn năm trăm kỹ nữ sang trọng, giá mỗi đêm hưởng lạc với nàng là một ngàn đồng tiền.

Cũng trong kinh thành này có một tướng cướp tên Sattuka, khỏe mạnh như voi, vẫn thường đột nhập các nhà giàu vào ban đêm để cướp của thỏa thích. Dân trong thành tụ tập lại lập cáo trạng tâu với vua.

Vua ra lệnh quân lính canh đóng rải rác khắp nơi để bắt tướng cướp và xử trảm. Họ trói tay hắn rađằng sau và vừa dẫn hắn ra pháp trường, vừa đánh roi khắp mình mẩy. Lúc ấy nàng Sulasà đứng bên cửa sổ nhìn xuống đường, thấy tướng cướp bỗng nhiên đâm ra si tình hắn và suy nghĩ: “Nếu ta có thể giải nguy cho chàng chiến sĩ lực lưỡng này, ta sẽ từ bỏ cuộc đời xấu xa hiện nay của ta và sống chân chánh với chàng”.

Theo cách được tả trong Tiền thân Kanavera, số 318, nàng lấy lại tự do cho hắn bằng cách gởi một ngàn đồng tiền vàng và đến tặng viên thị trưởng rồi sau đó sống hạnh phúc hòa hợp với hắn. Sau chừng ba bốn tháng, tướng cướp suy nghĩ: “Ta sẽ chẳng bao giờ có thể ở một nơi như vầy, nhưng ta không thể ra đi tay không. Nữ trang của Sulasà trị giá một trăm ngàn đồng tiền. Ta muốn giết nàng và lấy của”.

Vì vậy một hôm hắn bảo nàng:

– Ái nương ơi, khi ta đang bị quân lính nhà vua kéo đi, ta hứa cúng lễ vật cho một vị thần cây trên đỉnh núi, nay vị ấy đang đe dọa ta vì ta không trả lễ. Vậy chúng ta hãy đi dâng lễ thần.

– Thưa lang quân, tốt lắm, chúng ta hãy chuẩn bị lễ vật gửi đi cúng thần.

– Này ái nương, gửi lễ vật cúng thần không công hiệu gì đâu. Chúng ta hãy cùng đi dâng lễ mang theo một món tư trang và đám hầu cận.

– Thưa lang quân, được rồi, chúng ta cùng làm vậy.

Hắn bảo nàng chuẩn bị lễ vật và khi họ đến chân núi, hắn bảo:

– Này ái nương, vị thần này thấy đông người sẽ không nhận lễ vật, vậy hai ta cùng đi lên núi dâng lễ.

Nàng thỏa thuận và hắn bảo nàng mang chiếc bình. Phần hắn đã chuẩn bị hết sức chu đáo. Khi cả hai đến đỉnh núi, hắn đặt lễ vật xuống gốc cây mọc cạnh bờ vực cao gấp trăm lần một người thuờng, và bảo:

– Này ái nương, ta không đến đây để dâng lễ vật, mà ta đến với ý định giết nàng rồi trốn đi với mọi tư trang của nàng, vậy hãy cởi ra hết và góp thành một bó trong áo khoác của nàng kia.

– Này lang quân tại sao chàng muốn giết thiếp?

– Vì tiền của nàng đấy.

– Lang quân ơi, hãy nhớ lại mọi việc tốt lành mà thiếp đã làm cho chàng. Khi chàng bị xiềng tay chân và kéo đi xử trảm, thiếp đã bỏ một anh chàng nhà giàu chỉ vì chàng và trả một số tiền lớn để cứu chuộc chàng. Dù thiếp có kiếm được một ngàn đồng tiền mỗi ngày, thiếp cũng không nhìn đến một nam nhân nào khác. Thiếp đã làm ân nhân của chàng như vậy. Xin chàng đừng giết thiếp. Thiếp nguyện trao cho chàng thật nhiều tiền và làm nô tỳ cho chàng.

Cùng với lời khẩn cầu này, nàng ngâm vần kệ đầu:

  1. Này đây là chiếc vòng vàng,
    Này đây ngọc bích cùng tràng hạt trai,
    Lấy đi tất cả chàng ôi,
    Xin chàng cho thiếp làm tôi tớ chàng!

Khi ấy Sattuka ngâm vần kệ thứ hai phù hợp với mục đích của hắn, đó là:

  1. Ðể vàng ngọc xuống, kiều nương,
    Và nàng đừng có khóc thương buồn phiền,
    Ta nay muốn giết nàng liền
    Vì ta không chắc hưởng tiền hồi môn
    !

Trí khôn của Sulasà xuất hiện kịp thời, nàng suy nghĩ: “Tên cướp này không muốn cho ta sống, vậy ta sẽ đoạt mạng hắn trước bằng cách ném hắn xuống vực sâu”, và nàng ngâm hai vần kệ tiếp:

  1. Suốt bao năm tháng lớn khôn,
    Với bao hồi tưởng trong hồn thật chân,
    Thiếp thề giữa cõi phàm trần
    Không người nào đã thiết thân hơn chàng.
  2. Ðến đây lần nữa cuối cùng,
    Thiếp xin kính lễ trong vòng bàn tay,
    Chẳng bao giờ ở đời này
    Ðôi ta gặp mặt từ đây hỡi chàng!

Sattuka không thể hiểu được mục đích của nàng, liền nói:

– Tốt lắm, này ái nương, hãy đến ôm ta trong tay nàng.

Salasà đi vòng quanh hắn cung kính cuối chào ba lần, vừa hôn hắn vừa bảo:

– Này lang quân, bây giờ thiếp sắp đảnh lễ chàng tứ phía.

Nàng đặt đầu nàng lên chân hắn, vái chào hai bên, xong đi vòng ra phía sau hắn như thể sắp vái chào hắn tại đó, rồi với sức mạnh như voi, nàng nắm hai cẳng hắn ném hắn lộn ngược đầu xuống dưới vực thẳm của tử thần cao gấp trăm ngàn lần một người thường. Hắn tan thân và chết tại chỗ.

Thấy việc này, vị thần trên đỉnh núi ngâm các vền kệ sau:

  1. Trí tuệ khôn ngoan cũng lắm khi
    Không dành riêng với bọn nam nhi,
    Nữ nhi có thể nhiều minh trí
    Xuất hiện trong tình thế hiểm nguy.
  2. Trí tuệ khôn ngoan cũng lắm khi
    Không dành riêng với bọn nam nhi,
    Nữ nhi nhanh trí nhiều mưu kế
    Dự định làm công việc kịp thì.
  3. Cô nàng bày tỏ trí khôn ngoan
    Hiểu biết tinh thông mọi lối đường,
    Ðã giết anh chàng này chẳng khác
    Giết con nai với chiếc cung giương.
  4. Người nào khi gặp cảnh cùng đường,
    Không thể vươn lên để thoát thân
    Sẽ ngã nhào như tên trộm ngốc
    Ngã vào trong vực thẳm tan xương.
  5. Còn kẻ tinh nhanh ấy sự tình
    Hiểm nguy đến với số phần mình,
    Như nàng được thoát thân ra khỏi
    Cừu địch bên mình đáng hãi kinh.

Như vậy Sulasà đã giết tên cướp nọ. Khi nàng xuống núi và đứng giữa đám hầu cận, họ hỏi chồng nàng đâu. Nàng bảo:

– Ðừng hỏi ta nữa!

Rồi leo lên xe, nàng đi thẳng về kinh thành.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy hai kẻ ấy chính là hai người bây giờ, và vị Thần núi ấy chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Giữ Ngự Viên Sumangala (Tiền thân Sumangala)

Ý thức giận hờn, nét mặt cau…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc khuyến giáo một vị vua. Trong dịp này, theo lời yêu cầu của vua, Bậc Ðạo Sư kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bố-tát được sinh làm hoàng tử của một chánh hậu. Khi lớn lên, vua cha băng hà, ngài lên làm vua và thực hành đại bố thí. Ngài có một người giữ ngự viên tên là Sumangala.

Thuở ấy một vị Ðộc Giáo Phật rời động Nandamùla để du hành khất thực, và khi đến Ba-la-nại, Ngài ở lại trong ngự viên. Hôm sau Ngài vào thành Khất thực. Vua đón Ngài với vẻ ân cần đặc biệt, mời Ngài vào cung ngồi trên bảo tọa, thiết đãi đủ món ăn thượng vị, loại cứng loại mềm, và nhận lời tùy hỷ công đức của Ngài xong, liền khẩn cầu Ngài hứa một lời rồi truyền đưa Ngài trở lại ngự viên.

Sau bữa điểm tâm, vua thân hành đền sắp đặt nơi cư trú để Ngài ở suốt ngày đêm và cho người giữ ngự viên Sumangala đến hầu cận Ngài xong, mới thở về thành. Sau đó vị Ðộc Giác Phật thường ăn uống tại cung vua và ở lại ngự viên một thời gian dài, còn Sumangala vẫn cung kính hầu hạ Ngài.

Một hôm Ngài ra đi, bảo Sumangala:

– Ta sắp đi đến làng kia vài ngày, song ta sẽ trở lại đây. Hãy trình với đức vua.

Sumangala liền trình lên vua việc này. Sau vài ngày ở tại làng kia,vị Ðộc Giác Phật trở lại ngự viên vào buổi chiều tối.

Sumangala không biết Ngài trở lại, nên cũng đã đi về nhà. Vị Ðộc Giác Phật cất y bát, và sau khi dạo chơi giây lát, Ngài ngồi xuống một phiến đá.

Hôm ấy có vài người khách lạ đến nhà người giữ ngự viên. Muốn nấu món súp và cà-ri đãi khách, y cầm cung đi giết một con nai nuôi trong ngự viên. Y đang tìm nai thì chợt thấy vị Ðộc Giác Phật, tưởng đó là một con nai lớn, y nhắm một mũi tên và bắn Ngài. Vị Ðộc Giác Phật mở khăn trùm đầu ra và gọi:

– Sumangala!

Vô cùng xúc động, Sumangala đáp:

– Thưa Tôn giả, con không biết Tôn giả đã về nên bắn Tôn giả vì tưởng là nai. Xin Tôn giả tha thứ cho con.

– Ðược lắm, nhưng ông sẽ làm gì bây giờ? Này, hãy rút mũi tên ra mau!

Y đảnh lễ rồi rút mũi tên ra. Vị Ðộc Giác Phật cảm thấy vô cùng đau đớn và đắc Niết-bàn vô dư y ngay tại đó. Người giữ vườn nghĩ rằng vua sẽ không tha thứ nếu biết chuyện này, y liền đem vợ con trốn đi.

Nhờ thần lực, cả kinh thành đều biết tin vị Ðộc Giác Phật đã đắc Niết-bàn và mọi người vô cùng xúc động. Hôm sau một số người vào ngự viên, thấy di hài của Ngài liền tâu trình vua rằng người giữ ngự viên đã chạy trốn sau khi giết vị Ðộc Giác Phật.

Vua cùng đông đảo tùy tùng đến lễ bái di hài ấy suốt bảy ngày, rồi hỏa táng trọng thể xong, lấy xá-lợi và xây tháp thờ. Sau đó vua vẫn thường cúng dường tháp xá-lợi và cai trị đúng Pháp.

Năm sau, Sumangala quyết đi tìm hiểu xem vua nghĩ về việc này ra sao, y đến yết kiến và hỏi một vị triều thần để xem vua nghĩ gì về y. Vị triều thần ca ngợi Sumangala trước mặt vua, nhưng vua làm như thể không nghe gì cả. Ông không nói thêm nữa, nhưng sau báo cho Sumangala biết vua không hài lòng về y.

Một năm sau nữa, y lại đến và năm thứ ba, y đem vợ con đến. Vị triều thần biết vua đã nguôi giận nên bảo Sumangala ở cung môn và tâu vua rằng Sumangala đã đến chầu. Vua truyền y vào, sau nghi thức chào mừng, vua hỏi:

– Này Sumangala, tại sao ngươi giết vị Ðộc Giác Phật là người mà ta đang cúng dường để tạo công đức?

– Tâu Ðại vương, tiểu thần không cố ý giết Ngài, nhưng chỉ vì duyên cớ này mà tiểu thần phạm tội.

Rồi y kể lại chuyện cũ. Vua bảo y đừng sợ, và vừa trấn an y vừa cho y giữ chức ngự viên như cũ.

Sau đó triều thần hỏi:

– Tâu Ðại vương, tại sao Ðại vương không trả lời khi nghe những lời ca ngợi Sumangala hai lần trước và lần thứ ba nghe chuyện, Ðại vương lại truyền y vào chầu và tha thứ cho y?

Vua phán:

– Này Hiền khanh, một vị vua hành động vội vã lúc nóng giận là điều sai lầm, vì vậy trẫm im lặng lần đầu, và lần thứ ba khi trẫm hiểu mình đã nguôi giận, mới truyền gọi Sumangala.

Về việc này ngài ngâm các vần kệ nêu rõ phận quân vương:

  1. Ý thức giận hờn, nét mặt cau,
    Quân vương đừng giáng trận đòn đau,
    Những điều bất xứng ngôi Thiên tử
    Sẽ tiếp theo sau cái gật đầu.
  2. Ý thức tính tình bớt khắt khe,
    Quân vương ban pháp lệnh ra uy,
    Khi nào vụ án đà thông hiểu,
    Hãy xác định các hình phạt thích nghi.
  3. Không giận mình và chẳng giận ai,
    Biết phân biệt rõ đúng và sai,
    Dù vua ngự trị trên quần chúng,
    Ðức hạnh khiến vua vĩ đại hoài.
  4. Vua chúa buông lung các việc công,
    Thực hành roi trượng chẳng bao dung,
    Ô danh dưới thế phần vua hưởng,
    Ðịa ngục đợi chờ lúc mạng chung.
  5. Người nào yêu đạo đức hiền nhân,
    Trong sạch vẹn toàn khẩu, ý, thân,
    Ðầy đủ từ tâm, an tịnh quý,
    Vượt qua hai thế giới phàm trần.
  6. Trẫm là vua chúa của thần dân,
    Sân hận không ngăn cản ý tâm,
    Khi trẫm cầm gương đi trị tội,
    Từ tâm thúc đẩy phạt công bằng.

Như vậy vua đã nêu rõ mọi đức tính của mình qua sáu vần kệ, tất cả triều thần đều hoan hỷ và tán thán các công hạnh vua qua lời tung hô:

– Các pháp thực hành đức hạnh ưu thắng như vậy thật xứng với Ðại vương!

Sau khi cả triều đình tán thán xong, Sumangala cung kính đảnh lễ vua và sau đó ngâm ba vần kệ ca ngợi ngài:

  1. Uy lực vinh quang của Ðại vương,
    Ðừng bao giờ bỏ đạo luân thường,
    Thoát ly sân hận và kinh hãi,
    Trị nước trăm năm mãi lạc an.
  2. Vương tử có đầy đức tính trên
    Nhân từ, song đạo hạnh trung kiên,
    Trị toàn dân với lòng công chánh,
    Khi bỏ cõi đời, đến cõi thiên.
  3. Lời nói thật chân với thiện hành,
    Dùng phương tiện tốt đạt công thành,
    Trấn an quần chúng còn dao động,
    Như đám mây mưa thật mát lành.

*

Sau bài Pháp thoại liên hệ việc giáo hóa vua Kosala, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy vị Ðộc Giác Phật đắc Niết-bàn vô dư y, Sumangala là Ànanda và vua chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Hớt Tóc Gangamàla (Tiền thân Gangamàla)

Ðịa cầu nòng rực như than..,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc thực hành các ngày trai giới.

Một hôm bậc Ðạo Sư dạy các cư sĩ đang giữ ngày trai giới và bảo:

Này các cư sĩ, giới hạnh của các ông thật tốt lành, khi giữ ngày trai giới, các vị phải bố thí, trì giới không sân hận, khởi tâm từ và thực hành mọi phận sự trong ngày ấy. Các bậc trí nhân ngày xưa đạt đại vinh hiển dầu chỉ nhờ giữ được một phần các ngày trai giới.

Và theo lời thỉnh cầu của họ, Ngài kể câu chuyện đời xưa

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, có một phú thương trong kinh thành tên là Suciparivàra, gia sản lên tới tám trăm triệu đồng, chuyên tâm bố thí và làm các thiện sự khác. Vợ con, toàn thể gia nhân của ông cho đến bọn chăn trâu bò đều giữ sáu ngày trai giới mỗi tháng.

Thời ấy Bồ-tát được sinh vào một nhà nghèo kiếm kế sinh nhai chật vật bằng cách làm thuê. Vì mong có việc làm, ngài đến nhà phú thương Suciparivàra, khi chào chủ xong, ngồi xuống một bên, và được hỏi đến đây có việc gì, ngài đáp:

– Tôi đến để xin việc làm công trong nhà ông.

Thời ấy, khi những người làm công đến, vị phú thương thường bảo họ:

– Trong nhà này mọi công nhân đều giữ ngày trai giới, nếu chú có thể giữ giới thì chú mới có thể làm việc cho ta.

Song đối với Bồ-tát, vị ấy không tỏ vẻ muốn nói đến chuyện giữ giới mà chỉ bảo:

– Tốt lắm, này thiện nam, chú có thể làm việc cho ta và trù liệu tiền lương của chú.

Từ đó Bồ-tát làm mọi công việc của phú thương một cách nhẫn nại nhiệt tình, không hề nghĩ đến nỗi mệt nhọc riêng mình, ngài đi làm từ sáng sớm đến chiều tối trở về.

Một hôm dân chúng làm lễ hội ở kinh thành, vị phú thương bảo người tỳ nữ:

– Hôm nay là ngày hội, cô phải nấu cơm cho công nhân thật sớm. Họ sẽ ăn sớm và giữ giới kiêngăn từ đó đến hết ngày.

Bồ-tát dậy sớm và đi làm việc. Trước đó không ai bảo ngài phải giữ giới kiêng ăn hôm ấy. Các công nhân kia ăn từ sớm và kiêng ăn. Vị phú thương cùng vợ con, gia nhân đều giữ giới kiêng ăn, mọi người đều trở về nhà riêng ngồi suy tư về các giới điều. Bồ-tát làm việc suốt ngày xong trở về nhà lúc trời tối. Người nữ tỳ đầu bếp đưa cho ngài nước rửa tay và một dĩa cơm lấy từ trong nồi. Bồ-tát bảo:

– Vào giờ này ngày thường rất ồn ào, thế mọi người đi đâu cả hôm nay?

– Họ đang giữ giới kiêng ăn và mỗi người đều về nhà riêng rồi.

Ngài suy nghĩ: “Ta không muốn làm người duy nhất phạm giới giữa nhiều người giữ giới như vậy”. Vì thế ngài đi hỏi vị phú thương xem có thể giữ giới kiêng ăn bằng cách thi hành mọi phận sự vào giờ đó không. Ông bảo ngài không thể thực hành mọi phận sự, bởi vì việc đó đã không được làm từ sáng sớm nhưng một nửa phận sự thì có thể làm được. Ngài đáp:

– Mong được như vậy.

Và thực hành phận sự ngay trước mặt chủ nhân, ngài bắt đầu giữ giới kiêng ăn, rồi về nhà nằm suy nghĩ về các giới điều. Vì ngài không ăn gì suốt ngày, nên vào canh cuối ngài cảm thấy đau nhói như dao đâm.

Vị phú thương mang cho ngài một số thuốc giảm đói và bảo ngài dùng chúng, nhưng ngài bảo:

– Tôi sẽ quyết không phá giới kiêng ăn, tôi đã nguyện trì giới dù phải thiệt mạng.

Cơn đau đớn trở nên mãnh liệt và đến tảng sáng ngài bất tỉnh. Họ bảo ngài sắp chết nên đem ngài ra ngoài, đặt vào một nơi an nghỉ. Ngay lúc lấy, vua Ba-la-nại trên chiếc vương xa cùng đoàn hộ tống đông đảo đến nơi ấy trong lúc diễu quanh kinh thành. Bồ-tát thấy vẻ huy hoàng của vua, sinh lòng ao ước làm vua và cầu nguyện điều ấy. Khi mạng chung, do kết quả việc giữ nửa ngày trai giới trên, ngài được nhập mẫu thai vị chánh hậu.

Bà trải qua đủ mọi nghi lễ của thời kỳ thụ thai rồi sinh một hoàng nam sau mười tháng. Hài nhiđược đặt tên là Udaya. Khi lớn lên, vương tử trở nên hoàn hảo trong mọi ngành học thuật, nhờ trí hồi tưởng các đời trước, ngài nhớ lại các công hạnh thuở xưa và nghĩ rằng chính nhờ một thiện nghiệp nhỏ tạo nên một phước báo lớn, ngài thường hát khúc ca hoan lạc nhiều lần. Khi vua cha băng hà, ngài được trao cả vương quốc và nhận thấy cảnh đại vinh quang của mình, ngài lại hát khúc ca hoan lạc cũ.

Một hôm dân chúng chuẩn bị lễ hội trong kinh thành. Một đám đông định tụ tập nhau định bày trò vui chơi giải trí. Một người gánh nước sống gần cổng Bắc thành Ba-la-nại đã dấu nửa đồng xu trong viên gạch ở bức tường bao quanh thành. Y sống chung với một người đàn bà nghèo khổ cũng làm nghề gánh nước. Vợ y bảo:

– Chàng ơi, hôm nay có lễ hội trong thành phố, nếu chàng có tiền, ta hãy đi vui chơi nhé.

– Nàng ơi, ta có tiền đấy.

– Bao nhiêu?

– Nửa xu.

– Ở đâu?

– Trong viên gạch bên cổng Bắc, cách đây mười hai do-tuần (dặm), ta chôn tiền tại đó. Song nàng có gì trong tay chăng?

– Thiếp có đấy.

– Bao nhiêu?

– Nửa xu.

– Vậy nửa xu của nàng và của ta hợp thành một xu. Ta sẽ đi mua một tràng hoa với một phần ba số tiền ấy, hương liệu với một phần ba và rượu nồng với một phần ba. Nàng hãy đi tìm nửa xu ở nơi cất tiền đem đến đây.

Y thích thú với ý tưởng do lời vợ gợi lên, liền bảo:

– Nàng ơi, đừng lo gì, ta sẽ đi tìm nửa xu về đây.

Rồi y ra đi. Y mạnh như voi, vừa đi khoảng hơn sáu dặm, và mặc dù trời giữa trưa, y vẫn rảo bước trên cát nóng như thể được rải than vừa tắt lửa vì y rất thích thú với nỗi ham muốn được bạc. Trong bộ y phục cũ màu vàng điểm thêm lá thốt nốt giắt bên tai, y vừa đi ngang sân chầu để theo đuổi mục đích của mình vừa ca hát.

Vua Udaya đứng bên cửa sổ mở, thấy y đi đến, không biết y là ai mà lại coi thường nắng gió như vầy, vừa đi vừa hát, liền bảo nô tỳ đi gọi y vào.

Y được lệnh:

– Hoàng thượng truyền gọi chú vào.

Nhưng y đáp:

– Hoàng thượng có nghĩa gì với ta chứ? Ta không biết hoàng thượng!

Y liền bị lôi vào và đứng chầu một bên.

Sau đó, vua ngâm hai vần kệ hỏi y:

  1. Ðịa cầu nóng rực như than,
    Ðất đai như đống tro than nóng bừng,
    Song ngươi ca hát vang lừng,
    Khí trời gay gắt chẳng nung ngươi nào!
  2. Mặt trời kia ở trên cao,
    Dưới này cát nóng khác nào lò than,
    Song ngươi ca hát lừng vang,
    Khí trời nắng gắt chẳng làm cháy ngươi.

Nghe lời vua, y liền ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Chính vì tham dục đốt tôi,
    Chứ không phải ánh mặt trời nấu nung,
    Chính vì phận sự trong lòng
    Thúc tôi vội vã làm xong mọi phần.

Vua hỏi y có việc gì. Y đáp:

– Tâu Ðại vương, hạ thần sống gần cổng Nam với một người vợ nghèo. Vợ thần tỏ ý muốn chúng thần cùng vui chơi lễ hội nên hỏi thử thần có gì trong tay không. Thần bảo thần có tiền của chôn dấu trong bức tường cạnh cổng Bắc. Vợ thần bảo thần đi lầy tiền về để vui chơi . Những lời nói của vợ thần không rời tâm hồn thần và trong khi thần suy nghĩ mãi về chúng, tham dục cứ đốt cháy lòng thần. Công việc của thần là thế đấy.

– Vậy điều gì khiến ngươi thích thú nhiều đến độ ngươi xem thường nắng gió và vừa đi vừa hát?

– Tâu Ðại vương, thần hát vì nghĩ rằng khi tìm được của chôn dấu, thần sẽ vui chơi thích thú với vợ.

– Này thiện nam, thế của ngươi chôn dấu bên cổng Bắc được một trăm ngàn đồng tiền chăng?

– Tâu Ðại vương, không phải.

Sau đó vua hỏi liên tiếp có phải năm mươi ngàn, bốn mươi, ba mươi, hai mươi, mười, năm, bốn ba, hai, một đồng tiền, nửa đồng tiền, bốn xu, ba xu, hai xu, một xu. Chàng trai đều đáp: “Không” trước các câu hỏi trên và nói:

– Chỉ nửa xu. Quả thực, tâu Ðại vương, đó là tất cả gia sản của thần. Nhưng thần đang hy vọng tìm ra nó rồi đi vui chơi với vợ, và trong niềm ước vọng thích thú kia, nắng gió không làm thần khó chịu.

Vua bảo:

– Này thiện nam, thôi đừng đi đến đó dưới nắng gắt này nữa. Ta sẽ cho ngươi nửa xu.

– Tâu Ðại vương, thần sẽ nhận lời hứa của Ðại vương và lấy tiền, nhưng thần sẽ không bỏ nửa xu kia đâu. Thần không bỏ việc đi đến đó đem nó về đâu.

– Này thiện nam, hãy ở lại đây. Trẫm sẽ cho ngươi một xu, hai xu.

Rồi cứ đề nghị thêm nữa, vua tiếp tục nói mười triệu, một ngàn triệu, vô số vàng bạc, nếu chàng trai chịu ở lại. Nhưng y vẫn đáp:

– Tâu Ðại vương, thần sẽ nhận tiền của, nhưng thần vẫn đi kiếm nửa xu kia!

Sau đó y được chiêu dụ bằng những lời vua hứa ban chức thủ kho, và nhiều chức vụ khác nữa, và cả chức vị phó vương. Cuối cùng y được đề nghị chia nửa vương quốc nếu y chịu ở lại. Khi ấy y mới chấp thuận! Vua bảo các Ðại thần:

– Này các khanh, hãy đưa hiền hữu của trẫm đi cạo râu, tắm rửa và trang điểm rồi đem người trở lại đây.

Họ tuân lệnh. Vua chia đôi giang sơn và tặng chàng trai một nửa. Song chuyện kể rằng y chọn phần nửa ở phía Bắc do lòng yêu thích nửa đồng xu cũ! Y được gọi là vua Nửa Xu. Hai vị vua đồng cai trị đất nước trong tình thân hữu hòa hợp.

Một hôm, hai vị cùng đi đến ngự viên. Sau khi vui chơi, vua Udaya nằm xuống kề đầu vào lòng vua Nửa Xu. Ngài ngủ thiếp, trong lúc đám hầu cận đi quanh quẩn vui chơi. Vua Nửa Xu suy nghĩ: “Tại sao ta chỉ được nửa vương quốc mãi thôi? Ta muốn giết vua này và làm vị vua độc nhất.”

Vì thế Vua Nửa Xu rút kiếm ra, nhưng khi nghĩ đến việc đâm vua này, vua Nửa Xu nhớ lại ngài đã đưa bạn mình từ chỗ nghèo hèn thành người đồng trị nước với ngài và ban cho bạn đại quyền lực. Nhận thức tư tưởng vừa khởi lên trong trí dự định giết một ân nhân như thế là vô cùng độc ác, vua Nửa Xu liền tra kiếm vào bao.

Lần thứ hai, rồi lần thứ ba, ý tưởng lại khởi lên. Cảm thấy tư tưởng này khởi lên mãi sẽ đưa mìnhđến cái ác nghiệp, vua Nửa Xu vứt kiếm xuống đất và thức vua kia dậy, vừa nói vừa quỳ xuống chân ngài:

– Tâu Ðại vương, xin hãy tha tội cho tôi.

– Này Hiền hữu, bạn có làm gì sai trái với ta đâu.

– Tâu Ðại vương, tôi đã làm một việc như vậy.

– Này Hiền hữu, thế thì ta tha thứ cho bạn. Nếu như bạn muốn thì cứ làm vua một mình và ta sẽ làm phó vương phụng sự bạn.

Vua Nửa Xu đáp:

– Tâu Ðại vương, tôi không cần vương quốc, tham vọng ấy sẽ khiến tôi tái sinh vào cõi dữ. Quốc độ này của Ðại vương, xin nhận lấy nó, tôi muốn trở thành người khổ hạnh. Tôi đã lấy gốc rễ của dục tham, nó phát xuất từ ước vọng của con người. Vậy từ nay tôi không còn ước vọng như thế nữa.

Rồi ông ngâm vần kệ thứ tư trong niềm hoan lạc:

  1. Nhận ra tham dục, nguồn căn
    Ở trong ước vọng tiềm tàng khắp nơi,
    Ta không muốn nữa vì ngươi,
    Vậy ngươi, Tham dục, phải rời xa đi!

Nói vậy xong, ông ngâm vần kệ thứ năm thuyết Pháp cho quần chúng đang đắm say tham dục:

  1. Dục tham ít ỏi chẳng vừa,
    Dục tham nhiều chỉ mang ta khổ buồn.
    Này, luôn thiếu, ngu nhân,
    Nếu ngươi muốn đắc trí thông, bạn hiền!

Thuyết Pháp như vậy với quần chúng xong, ông giao quốc độ cho vua Udaya. Rời bỏ quần chúng đang khóc than với nước mắt đầm đìa, ông đến vùng Tuyết Sơn, trở thành ẩn sĩ khổ hạnh và đạt Thắng trí. Trong thời gian vị ấy làm nhà khổ hạnh, vua Udaya ngâm vần kệ thứ sáu bày tỏ nỗi hoan lạc trọn vẹn:

  1. Thiểu dục đem ta mọi quả thành,
    U-da-ya đạt đại quang vinh,
    Người tinh cần được nhiều an lạc,
    Làm ẩn sĩ, buông bỏ dục tình.

Không ai biết ý nghĩa vần kệ này. Một hôm, chánh hậu hỏi ngài ý nghĩa trên. Vua không muốn nói. Thời ấy có người thợ hớt tóc trong triều tên là Gangamàla mỗi khi vào chầu vua thường dùng dao cạo trước, rồi sau kẹp tóc vua bằng cái nhíp. Vua thích việc trước, nhưng việc thứ hai làm vuađau. Về việc đầu, vua muốn thưởng cho y một đặc ân. Còn việc thứ hai, vua chỉ muốn chém đầu y thôi!

Một hôm vua nói chuyện với hoàng hậu, ngài bảo rằng người thợ hớt tóc trong triều là một tên ngu xuẩn. Khi hoàng hậu hỏi y phải làm gì trước, ngài bảo:

– Hãy dùng nhíp trước, rồi dùng dao cạo sau.

Hoàng hậu truyền gọi thợ hớt tóc vào và bảo:

– Này thiện nam, khi người tỉa râu đức vua, ngươi nên dùng cái nhíp kẹp râu tóc ngài trước, rồi dùng dao cạo sau. Nếu đức vua ban cho ngươi một điều ước, ngươi phải tâu rằng ngươi không cần gì cả, mà ngươi chỉ muốn biết ý nghĩa khúc ca của ngài thôi. Nếu ngươi làm vậy, ta sẽ cho ngươi nhiều tiền.

Y đồng ý ngay.

Hôm sau, khi y tỉa râu vua, y cầm cái nhíp trước. Vua hỏi:

– Gangamàla, đây là kiểu mới của ngươi ư?

– Tâu Ðại vương, phải – y đáp – thợ hớt tóc thường có kiểu mới.

Rồi y kẹp tóc vua với cái nhíp trước và dùng dao cạo sau. Vua liền ban cho y một điều ước.

– Tâu Ðại vương, thần không muốn gì cả. Xin Ðại vương cho thần biết ý nghĩ khúc ca ấy.

Vua hổ thẹn khi phải nói đến nghề nghiệp của mình trong thuở hàn vi đời trước, liền bảo:

– Này thiện nam, điều ước kia có ích lợi gì cho ngươi đâu? Hãy chọn điều khác.

Nhưng người hớt tóc cứ van xin điều ấy. Vua sợ thất hứa nên đồng ý. Như đã tả trong Tiền thân Kummàsapinda, số 415, vua truyền chuẩn bị mọi sự rất trọng thể rồi ngồi trên bảo tọa bằng ngọc, kể tất cả chuyện công đức trong đời vừa qua tại kinh thành này. Rồi ngài bảo:

– Ðiều ấy giải thích nửa vần kệ, còn nửa vần kia kể chuyện hiền hữu ta trở thành nhà khổ hạnh trong lúc ta làm vị vua độc nhất trong niềm tự hào, điều ấy giải thích phần thứ hai của ca khúc hoan lạc ấy.

Nghe vậy, người hớt tóc suy nghĩ: “Như vậy, đức vua được hưởng cả vinh quang này vì đã giữ nửa ngày trai gới. Ðức hạnh quả thật là chánh đạo. Giả sử ta cũng trở thành nhà khổ hạnh và tìm đường giải thoát cho ta được chăng?”

Người hớt tóc liền từ giã đám thân thuộc, tài vật thế gian, rồi xin phép vua trở thành nhà tu hànhđi về vùng Tuyết Sơn làm vị khổ hạnh. Khi nhận thức được ba đặc tính của các pháp hữu hình (vô thường, khổ, vô ngã), vị ấy đạt Thắng trí và trở thành vị Ðộc Giác Phật. Vị ấy có đủ các y bát nhờ thần lực.

Sau độ năm sáu năm ở trên núi Gandhamàdana (Hương Sơn), vị ấy muốn về thăm vua Ba-la-nại, liền bay qua không trung đến ngự viên, rồi ngồi trên vương tọa. Người giữ vườn trình nhà vua rằng Gangamàla nay là vị Ðộc Giác Phật, đã phi hành trên không và đang ngồi trong ngự viên.

Vua lập tức đến chào vị Ðộc Giác Phật và hoàng thái hậu cũng ra đi với con. Vua vào ngự viên, kính chào vị ấy và ngồi xuống một bên cùng đoàn tùy tùng. Vị Ðộc Giác Phật thân mật đàm đạo với vua và gọi ngài bằng tộc tánh:

– Này Brahmadatta, Hiền hữu có chuyên tâm tinh cầu, cai trị nước nhà đúng Pháp, thực hành bố thí cùng các thiện sự khác chăng?

Hoàng thái hậu liền nổi giận:

– Ðứa con nhà hớt tóc hạ tiện này không biết phận mình. Nó dám gọi hoàng nhi quý tộc của ta là “Brahmadatta”.

Rồi bà ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Khổ hạnh xả ly hết lỗi lầm,
    Thợ ghè, hớt tóc, mọi phàm nhân,
    Gan-ga nhờ đó thành vinh hiển,
    Liền gọi “Brah-ma” đấng quốc vương!

Vua vội ngăn cản mẫu hậu và tuyên bố mọi đặc tính của vị Ðộc Giác Phật, ngài ngâm vần kệ thứ tám:

  1. Nhìn xem! Vào lúc phải vong thân,
    Khổ hạnh cho ta hưởng phước phần,
    Người lễ bái ta trong kiếp trước,
    Giờ đây vua chúa phải chào mừng.

Mặc dù vua đã ngăn cản thái hậu, cả đám quần thần đều đứng lên bảo:

Một người hạ tiện thế này dám xưng hô với Hoàng thượng bằng tên tộc như vậy là không đúng phép tắc.

Vua lại quở trách quần thần và ngâm vần kệ cuối tuyên bố các đức tính cuả vị Ðộc Giác Phật:

  1. Chớ trách Gan-ga nói thế này
    Bước đường đạo hạnh thiện toàn thay!
    Ngài đà vượt đại dương phiền não,
    Giải thoát khổ sầu chính tại đây.

Nói vậy xong, vua vái chào vị Ðộc Giác Phật và xin ngài tha lỗi cho thái hậu. Vị Ðộc Giác Phật đồng ý và đám quần thần của vua cũng được tha thứ luôn. Vua ước mong Ngài hứa về sau sẽ ở lại trong vùng lân cận, nhưng Ngài từ chối, rồi đứng trên không trước mắt đám triều thần, Ngài khuyến giáo vua xong trở về Hương Sơn.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các cư sĩ, các vị ấy giữ trai giới là việc cần phải làm.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vị Ðộc Giác Phật đắc Niết-bàn vô dư y, vua Nửa Xu là Ànanda, chánh hậu là mẫu thân Ràhula và vua Udaya chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Quốc Vương Ceti (Tiền thân Cetiya)

Công lý tổn thương gây hiểm họa…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc Tỷ-keo Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) bị quả đất nuốt sống.

Một ngày kia, Tăng chúng bàn luận trong Chánh Pháp đường về cách Devadatta nói dối như thế nào rồi bị chìm sâu vào lòng đất và đọa vào ngục Avìci (Vô gián). Bậc Ðạo Sư bước vào và khi nghe đề tài thảo luận ấy, Ngài bảo:

– Ðây không phải lần đầu kẻ ấy chìm sâu vào lòng đất.

Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi trong thời tối sơ khai, có vị vua mệnh danh Mahàsamata với thọ mạng kéo dài một a-tăng-kỳ (asnkheyya) kiếp. Vị vương tử tên Roja, vị này lại sinh con trai là Vararoja và kế tiếp đó là Kalyàna, Varakalyàna, Uposatha, Mandhàtà, Varamandhàtà, Cara, Upacara, còn được gọi là Apacara.

Vua này trị vì quốc độ Ceti, ở kinh đô Sotthivati, có đấy đủ tứ thần thông: vua có thể đi trên trời, hoặc bay qua không gain, có bốn Thiên thần ở bốn phương bảo vệ vua với kiếm tuốt trần, thân hình vua tỏa mùi hương chiên-đàn, và miệng vua tỏa mùi hương sen.

Thời ấy vị tế sư hoàng gia tên là Kapila. Em trai của vị Bà-la-môn này là Korakalamba, được học chung thầy với vua. Thời Apacara còn là vương tử, đã hứa sẽ phong Korakalamba làm tế sư hoàng gia khi nào mình lên ngôi.

Khi vua cha băng hà, vương tử lên ngôi song không thể đưa Kapila ra khỏi chức vụ tế sư hoàng gia được, và khi tế sư Kapila đến chầu vua, vua vẫn bày tỏ nhiều đặc ân đối với vị ấy. Vị Bà-la-môn ấy quan sát điều này và nhận xét rằng một vị vua thường trị nước hoàn hảo nhất cùng với các quần thần đồng tuổi tác, còn chính ông có thể xin cáo quan về làm ẩn sĩ, nên đã trình:

– Tâu Ðại vương, nay lão thần đã già cả, lão thần có một con trai ở nhà, xin Ðại vương phong cho nó làm tế sư hoàng gia và lão thần sẽ trở thành ẩn sĩ.

Ông được vua chấp thuận phong con trai mình làm tế sư hoàng gia, sau đó ông đến ngự viên sống đời ẩn sĩ, đạt được các Thắng trí và ở gần con trai.

Còn Koralambaka cảm thấy căm hận anh mình vì ông đã không trao cho mình chức vị tế sư khi trở thành ẩn sĩ. Một hôm, vua nói chuyện thân mật với Koralambaka:

– Này Koralambaka, Hiền hữu không làm tế sư hoàng gia ư?

– Tâu Ðại vương không, huynh trưởng của thần xếp đặt việc ấy.

– Thế lệnh huynh chẳng trở thành ẩn sĩ rồi sao?

– Tâu vâng, song gia huynh đã để chức vụ ấy cho con mình.

– Thế thì hiền hữu hãy lo sắp xếp việc ấy.

– Tâu Ðại vương, thần không thể đặt gia huynh qua một bên rồi nhận lấy chức vụ do cha truyền con nối ấy.

– Nếu vậy, ta sẽ làm hiền hữu thành vị trưởng tế sư và vị kia làm phụ tá cho hiền hữu.

– Tâu Ðại vương, bằng cách nào?

– Bằng cách nói dối.

– Tâu Ðại vương, thế Ðại vương không biết gia huynh là pháp thuật sư cao cường có đại thần lực ư? Gia huynh sẽ dùng huyễn thuật đánh lừa Ðại vương, làm cho bốn vị Thiên thần biến mất, rồi làm cho một mùi hôi thối xông ra từ thân thể và miệng Ðại vương, lại làm cho Ðại vương rơi từ trời xuống đất và Ðại vương sẽ bị quả đất nuốt sống, vì thế Ðại vương không thể hành động theo lời nói dối kia được đâu.

– Ðừng lo gì, ta sẽ sắp xếp việc này.

– Tâu Ðại vương, khi nào Ðại vương thực hiện điều này?

– Vào thứ bảy kể từ đây.

Chuyện này lan truyền khắp kinh thành:

– Hoàng thượng sắp nói dối để làm vị trưởng thành phó và sẽ giao chức vụ cho vị phó. Lời nói dối là vật gì nhỉ, nó màu xanh, vàng hay màu khác nữa?

Quần chúng suy nghĩ rất nhiều về việc này. Tương truyền đó là thời mọi người thế gian đều nói thật, người ta không biết từ “nói dối” nghĩa là gì cả.

Con trai vị tế sư nghe chuyện này liền nói với cha:

– Thưa cha, dân chúng bảo đức vua sắp nói dối để làm cha thành con thứ rồi giao chức vụ của cha cho chú con.

– Này con, đức vua sẽ không thể nói dối để tước đoạt địa vị này của ta đâu. Ðức vua sắp thực hiện điều này vào ngày nào?

Họ bảo ngày thứ bảy kể từ đây.
Hãy báo cho cha biết khi đến thời điểm ấy.

Vào ngày thứ bảy, một đám đông tụ tập trong sân chầu ngồi theo hàng hàng lớp lớp hy vọng thấy lời nói dối. Vị tế sư trẻ đi báo tin cho cha. Vua chuẩn bị lễ phục đầy đủ xong, xuất hiện ở khoảng không trên sân chầu giữa đám đông.

Vị ẫn sĩ bay qua không gian, trải tọa cụ bằng da trước mặt vua, ngồi trên đó giữa không gian và hỏi:

– Tâu Ðại vương, có thật là Ðại vương muốn nói dối làm người em thứ thành anh trưởng và giao chức vụ cho người ấy?

– Thưa Tôn sư, trẫm đã làm như vậy.

Sau đó, vị ẩn sĩ khuyến giáo vua:

– Tâu Ðại vương, lời nói dối là một cách phá hoại tàn khốc các đức tính tốt đẹp, nó tạo tái sinh vào bốn ác đạo, một vị vua nói dối sẽ tiêu diệt công lý, và vì phá hủy công lý, chính vua ấy cũng bị tiêu diệt.

Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Công lý tổn thương gây hiểm họa,
    Sẽ đền bù với giá tai ương,
    Vậy đừng làm tổn thương công lý,
    Sợ hiểm nguy ào đến Ðại vương.

Ngài lại khuyến giáo vua nhiều hơn nữa:

– Tâu Ðại vương, nếu Ðại vương nói dối, bốn pháp thần thông sẽ biến mất.

Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Thần lực xa lìa kẻ vọng ngôn,
    Miệng mồm hôi thối đáng kinh hồn,
    Bước chân không vững trong trời đất,
    Bất cứ kẻ nào đáp dối gian.

Nghe vầy, vua lo sợ nhìn Korakalambaka. Vị ấy bảo:

– Tâu Ðại vương đừng sợ, thần đã chẳng tâu Ðại vương như vậy từ đầu sao?

Và tiếp theo những lời lẽ tương tự như vây. Mặc dù đã nghe Kapila nói như vậy, vua vẫn tuyên bố câu xác định:

– Thưa Tôn sư, ngài là em thứ, còn Korakalambaka là anh trưởng.

Ngay lúc vua vừa thốt ra lời nói dối này, bốn Thiên thần bảo các vị không muốn hộ trì một người dối trá như vậy nữa, liền ném kiếm dưới chân vua và biến mất.

Miệng vua bốc mùi thối như trứng hư vỡ tung tóe và thân thể vua như ống cống mở nắp. Rồi từ trên không rớt xuống, vua đứng trên đất, như thế cả bốn thần lực đều biến mất. Vị tế sư bảo:

– Tâu Ðại vương, đừng sợ, nếu Ðại vương nói thật, thần sẽ phục hồi mọi sự cho Ðại vương.

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Lời thật cùng bao pháp thuật thần,
    Ðại vương hồi phục được toàn phần,
    Còn lời nói dối giam ngài mãi
    Tại đất Ce-ti, đến tận cùng.

Ngài lại nói:

– Tâu Ðại vương, hãy xem: Bốn thần lực của Ðại vương biến mất vì nói dối lần đầu, xin Ðại vương suy xét lại, vì bây giờ vẫn còn có thể phục hồi chúng.

Nhưng vua đáp:

– Ðại sư muốn đánh lừa trẫm về việc này.

Vừa nói dối lần thứ hai như vậy, vua liền bị lún ngay xuống đất đến mắt cá chân.

Vị Bà-la-môn một lần nữa lại nói:

– Xin Ðại vương hãy suy nghĩ kỹ.

Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Hạn hán vào thời phải đổ mưa,
    Và mưa trút xuống lúc mùa khô,
    Khi người nào cố tình gian dối,
    Ðối đáp vọng ngôn để hại ta.

Rồi ngài lài nói thêm một lần nữa:

– Do Ðại vương nói dối, Ðại vương bị lún vào mặt đất đến tận mắt cá chân, vậy xin đại vương suy xét kỹ.

Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Lời thật cùng bao Pháp thuật thần,
    Ðại vương hồi phục được toàn phần,
    Còn lời nói dối chôn ngài xuống
    Tại đất Ce-ti mãi tới cùng.

Nhưng lần thứ ba, vua nói:

– Tôn giả là em thứ và Korakalambaka là anh trưởng.

Vừa nói lời dối trá này, vua lại bị lún dần vào mặt đất đến tận đầu gối. Một lần nữa, vị Bà-la-môn nói:

– Xin Ðại vương suy xét lại.

Rồi Ngài ngâm vần kệ:

  1. Người lưỡng thiệt này, hỡi Ðại vương,
    Cũng như con rắn lắm mưu gian,
    Người nào vẫn cố tình lừa dối
    Ðối đáp những lời chẳng thật chân.
  2. Lời thật cũng bao pháp thuật thần,
    Ðại vương hồi phục đươc toàn phần,
    Còn lời nói dối chôn ngài xuống
    Tại đất Ce-ti mãi chẳng ngừng.

Rồi Ngài còn nói thêm:

Ngay bây giờ mọi sự vẫn có thể được phục hồi.

Vua chẳng quan tâm đến lời ngài, vẫn lặp lại lời nói dối lần thứ tư:

– Thưa Tôn giả, ngài là em thứ, và Korakalambaka là anh trưởng.

Vừa thốt lời này, vua bị chìm ngập đến tận hông. Vị Bà-la-môn lại bảo:

– Xin Ðại vương hãy suy nghĩ kỹ.

Rồi Ngài ngâm vần kệ:

  1. Kẻ ấy như con cá, Ðại vương,
    Sẽ không có lưỡi ở trong mồm,
    Người nào vẫn cố tình gian dối,
    Ðối đáp những lời lẽ vọng ngôn.
  2. Lời thật cùng bao pháp thuật thần,
    Ðại vương hồi phục được toàn phần,
    Còn lời nói dối chôn ngài xuống
    Tại đất Ce-ti mãi chẳng ngừng.

Lần thứ năm vua lặp lại lời nói dối, và ngay đó bị chìm sâu xuống tận rốn. Vị Bà-la-môn một lần nữa kêu gọi vua xét kỹ và ngâm hai vần kệ:

  1. Kẻ ấy chỉ sinh được gái thôi,
    Sẽ không sinh được một con trai,
    Kẻ nào vẫn cố tình gian dối
    Ðối đáp vọng ngôn ở giữa đời.
  2. Lời thật cùng bao pháp thuật thần,
    Ðại vương hồi phục được toàn phần,
    Còn lời nói dối chôn ngài xuống
    Tại đất Ce-ti mãi chẳng ngừng.

Vua cũng không quan tâm, cứ lặp lại lời nói dối lần thứ sáu và chìm xuống tận ngực. Vị Bà-la-môn kêu gọi khẩn thiết một lần nữa và ngâm hai vần kệ:

  1. Bầy con không ở với người kia,
    Ở khắp mọi nơi chúng chạy xa,
    Người vẫn cố tình ưa nói dối,
    Ðáp lời hỏi với dạ gian tà.
  2. Lời thật cùng bao pháp thuật thần,
    Ðại vương hồi phục được toàn phần,
    Còn lời nói dối chôn ngài xuống
    Tại đất Ce-ti mãi chẳng ngừng.

Do thận cận ác bằng hữu, vua xem thường các lời trên và nói dối lần thứ bảy. Sau đó mặt đất há miệng ra và lửa địa ngục Avìci bùng lên kéo vua xuống.

  1. Chuyện kể bị truyền bởi trí nhân,
    Vị vua từng bước giữa không trung,
    Chìm thân, bị nuốt vào lòng đất
    Ngay đúng ngày quy định số phần.
  2. Vậy trí nhân không thể tán đồng
    Dục tham xuất hiện ở trong lòng,
    Người nào ly dục, tâm thanh tịnh,
    Lời nói sẽ luôn giữ vững vàng.

Ðây là hai vần kệ phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật.

Quần chúng kinh hãi bảo nhau:

– Quốc vương Ceti phỉ báng bậc hiền nhân và nói dối nên đã bị đọa vào ngục Avìci.

Năm vị vương tử của vua đến gặp vị Bà-la-môn và nói:

– Xin Tôn sư giúp chúng đệ tử.

Vị Bà-la-môn đáp:

– Phụ vương của các vị đã hủy diệt Chân lý, nói dối và phỉ báng hiền nhân: do vậy ngài đã vào hỏa ngục Avìci. Nếu công lý bị hủy diệt, nó sẽ hủy diệt lại ta. Các vị không được cư trú tại đây nữa.

Ngài lại bảo vị thái tử:

– Này Ðiện hạ thân yêu, Hãy rời kinh thành bằng cổng Ðông và tiếp tục đi thẳng, chàng sẽ thấy một vương tượng toàn trắng nằm phủ phục, thân chạm vào mặt đất ở bảy chỗ: hai ngà, vòi, và bốn chân. Ðó là dấu hiệu để chàng dựng kinh và cư trú tại nơi ấy. Tên kinh đô ấy sẽ là Hatthipura (Tượng Thành)

Ngài bảo vương tử thứ hai:

– Ðiện hạ rời đây bằng cổng Nam và đi thẳng đến khi thấy một vương mã thuần bạch, đó là dấu hiệu để chàng dựng kinh đô và cư trú tại nơi ấy. Kinh đô ấy sẽ được gọi là Assapura (Mã Thành).

Ngài bảo vương tử thứ ba:

– Ðiện hạ rời đây bằng cổng Tây và đi thẳng tới khi thấy một sư tử có bờm, đó là dấu hiệu để chàng dựng kinh đô và cư trú tại nơi ấy. Kinh đô ấy sẽ được gọi là Sìhapura (Sư Thành).

Ngài bảo vị vương tử thứ tư:

– Ðiện hạ rời đây bằng cổng Bắc và đi thẳng cho đến khi thấy một bánh xe làm toàn bằng ngọc, đó là dấu hiệu để chàng dựng kinh đô và cư trú tại nơi ấy. Kinh thành ấy sẽ được gọi là Uttarapancàla (Thượng Luân Thành).

Ngài bảo vị vương tử thứ năm:

– Ðiện hạ không thể ở đây. Vậy hãy xây một đền thờ lớn trong kinh thành này, rồi đi về phía Tây bắc, và đi thẳng cho đến khi thấy hai ngọn núi đập vào nhau gây tiếng động “daddara”, đó sẽ là dấu hiệu để chàng dựng kinh đô và cư trú nơi ấy. Thành ấy sẽ được gọi là Daddarapura (Thành Daddara).

Cả năm vương tử đều ra đi, theo các dấu hiệu kia dựng kinh đô và an trú ở đó.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu Devadatta nói dối và bị chìm vào lòng đất.

Rồi ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy vua Ceti là Devadatta và Bà-la-môn Kapila là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Uy Lực Dục Tham (Tiền thân Indriya)

Người nào tuân lệnh dục tham…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự quyến rủ của người vợ cũ đối với một Tỷ-kheo.

Chuyện kể rằng một thiện gia nam tử ở Sàvatthi (Xá-vệ) nghe giáo pháp của bậc Ðạo Sư và nghĩ rằng thật khó cho một người tại gia có thể sống đời Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ và thanh tịnh, nên ông quyết định xuất gia tu hành theo giáo lý cứu độ để diệt tận khổ ưu. Vì thế ông để lại tài sản, nhà cửa cho vợ con, và thỉnh cầu bậc Ðại Sư truyền giới xuất gia cho mình. Bậc Ðạo Sư chấp thuận. Vì ông chỉ là Sa-di trẻ tuổi lúc khất thực cùng các vị giáo thọ, sư trưởng và Tăng chúng lại đông, nên ông không có được ghế ngồi trong nhà cư sĩ hoặc trong trai đường, mà chỉ có một ghế thấp nhỏ hoặc ngồi ở dãy ghế dài cuối chỗ các Sa-di.

Thức ăn chỉ được múc vội vã cho ông bằng cái muỗng lớn: ông nhận món cháo tấm, các món cứng thì hôi hám hoặc hư nát, hoặc các cọng rau đã khô héo, cháy sém và phần ăn này không đủ nuôi sống ông.

Ông liền đem các món ăn nhận được về cho người vợ cũ mà ông đã rời bỏ. Nàng cầm lấy bình bát, kính chào ông, đổ hết các thứ ấy ra và thay vào món cháo nấu thật ngon và cơm trộn sốt cà-ri. Vị Tỷ kheo bị lòng ham thích các huơng vị ấy lôi cuốn nên không thể rời vợ.

Nàng suy nghĩ rằng nàng sẽ thử thách tình cảm của ông. Một hôm, nàng bảo một trai làng chải chuốt sạch sẽ và đến nhà nàng ngồi cùng một đám người nhà của y mà nàng đã mời, và nàng cho cả bọn ăn uống vài thứ . Cả bọn ngồi ăn chơi thỏa thích. Nàng lại bảo buộc đôi bò vào xe và chiếc xe đợi sẵn sàng ở cửa nhà. Còn chính nàng ngồi ở nhà sau nấu nướng bánh mứt.

Chồng nàng đi đến đứng ở cửa. Thấy vậy, một lão bộc trình bà chủ rằng có một Tỷ-kheo ở cửa. Nàng bảo:

– Hãy ra chào vị ấy và bảo vị ấy qua nhà khác.

Nhưng dù y đã làm vậy nhiều lần, y thấy vị Tỷ-kheo vẫn đứng yên nên y lại trình bà chủ. Nàng bước ra, vén tấm rèm lên nhìn và kêu lớn:

– Ðây là cha bầy trẻ con tôi.

Nàng bước ra chào ông, vừa cầm lấy bình bát vừa mời ông bước vào, nàng đem thực phẩm cúng dường. Khi ông đã ăn xong, nàng lại kính lễ và nói:

– Thưa Tôn giả, nay Tôn giả là một bậc Thánh, trước kia chúng ta đã luôn chung sống cùng nhau trong ngôi nhà này. Song giờ đây, cuộc sống tại gia lại không thể thiếu người chủ nhà, vì vậy chúng ta sắp dời qua nhà khác và đi xa về vùng quê. Xin Tôn giả hãy nhiệt tâm làm thiện sự và tha thứ cho thiếp nếu thiếp làm điều sai trái.

Trong một lúc, chồng cũ của nàng cảm thấy như thể trái tim tan vỡ! Rồi ông đáp:

– Ta không thể rời nàng, xin nàng đừng đi. Ta sẽ trở lại đời thế tục. Hãy đưa cho ta y phục của người cư sĩ tại chỗ nọ, ta sẽ bỏ y bát và trở về với nàng.

Nàng đồng ý ngay. Khi vị Tỷ-kheo về tinh xá, trả bộ y bát lại cho vị giám hộ và giáo thọ, và khiđược hỏi lý do, ông giải thích là ông không thể rời vợ và sắp trở lại đời thế tục. Dù ông không muốn, các vị ấy vẫn dẫn ông đến bậc Ðạo Sư và kể cho ngài nghe rằng ông thối thất và muốn trở về đời thế tục. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Chuyện này có thật chăng?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

– Ai làm cho ông thối thất?

– Vợ cũ của con.

Này Tỷ-kheo, nữ nhân ấy là nguyên nhân gây tác nghiệp của ông. Chính vì kẻ ấy mà ngày xưa ông đã sa đọa khỏi bốn cảnh giới Thiền định, và rất khốn khổ. Sau nhờ ta, ông được giải thoát cảnh khổ và tái tạo công năng Thiền định mà ông đã mất.

Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm con trai vị tế sư hoàng gia và bà vợ vị ấy cũng là nữ nhân Bà-la-môn. Vào ngày ngài ra đời, có làn ánh sáng của binh khí lóe sáng khắp kinh thành vì thế ngài được đặt tên Jotipàla (người hộ trì ánh sáng hay Hộ Minh).

Khi lớn lên, ngài học đủ mọi ngành nghề nghệ thuật tại Takkasilà và chứng tỏ tài năng trước vua. Nhưng ngài lại từ giã địa vị của ngài không báo cho ai biết, ngài ra đi bằng cổng sau, vào rừng trở thành vị khổ hạnh ở thảo am Kavitthaka, được gọi là Sakkadatiya. Ngài chứng đắc Thiền định viên mãn.

Trong khi trú tại đó, hàng trăm vị trí giả đến tham kiến hầu cận ngài. Ngài được một hội chúng đông đảo theo học và bảy đệ tử. Trong số ấy, trí giả Sàlissara rời thảo am Kavitthaka để đến xứ Surrattha và trú bên bờ sông Sàtodikà cùng hội chúng vài ngàn trí giả khác.

Mendissara cùng vài ngàn trí giả sống gần thị trấn Lambacùlaka trong quốc độ của vua Pajaka.

Pabbata cùng vài ngàn trí giả sống trong một xứ ở miền rừng núi.

Kàladevala cùng vài ngàn trí giả sống trong núi rừng ở Avanti và Decan.

Kisavaccha sống độc cư ở gần kinh thành Kumbhavati, trong ngự viên của vua Dandaki.

Anusissa là thị giả của Bồ-tát ở chung với ngài.

Nàrada, em của Kàladevala độc cư trong thạch thất giữa quốc độ Aranjara có nhiều núi non ở vùng Trung thổ.

Bấy giờ không xa nước Aranjara có một thị trấn rất trù phú. Thị trấn này có con sông cả, nơi nhiều đàn ông đến tắm. Dọc theo bờ, các kỹ nữ xinh đẹp thường ngồi quyến rủ đám mày râu.

Vị khổ hạnh Nàrada thấy một nàng kỹ nữ, đâm ra si tình, mất hết Thiền lực và héo mòn vì khôngăn uống gì cả, cứ nằm dài trong lưới tình trói buộc suốt bảy ngày liền. Vị huynh trưởng Kàladevata nhờ quan sát biết nguyên nhân việc kia, liền phi hành qua không gian, vào biến động. Nàrada thấy vị ấy liền hỏi tại sao đến đây. Vị ấy đáp:

– Ta biết Hiền đệ bị bệnh nên đến chăm sóc đệ đây.

Nàrada giả dối bảo vị ấy đi về:

– Ðại huynh chỉ nói chuyện không đâu, toàn là hư vọng, hão huyền.

Nhưng vị kia từ chối ra đi và còn đem theo ba vị Sàlissara, Mendissara và Pabbatissara đến đó nữa. Nàrada lại bảo tất cả ra về theo cách trên.

Kàladevala liền bay đi tìm Ðạo Sư Sarabhanga và dẫn thầy đến đó. Khi bậc Ðạo sư đến, ngài thấy Nàrada đã rơi vào lưới kềm tỏa của tham dục và hỏi có đúng vậy không. Nàrada đứng lên nghe lời ngài, kính lễ thầy và thú nhận sự việc. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này Nàrada, ai rơi vào lưới tham dục sẽ suy tàn trong khổ đau ở đời này và đời kế bị tái sinh vàođịa ngục.

Rồi Ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Người nào tuân lệnh dục tham,
    Mất hai thế giới, đời tàn về sau.

Nghe vậy, Nàrada đáp:

– Bạch Tôn sư, mưu cầu tham dục là hạnh phúc. Tại sao Tôn sư lại gọi hạnh phúc ấy là khổ đau?

Ðạo Sư Sarabhanya đáp:

– Vậy hãy nghe đây.

Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Hân hoan cùng với khổ đau
    Vẫn thường dẫm bước lên nhau chẳng ngừng,
    Con từng thấy chúng chuyển luân,
    Hãy tìm hạnh phúc thật chân nhiệm mầu.

Nàrada đáp:

– Bạch Tôn sư, khổ đau này thật khó chịu đựng. Con không thể kham nhẫn nó được.

Bậc Ðại sĩ bảo:

– Này Nàrada, khi khổ đau đến cần phải chịu đựng.

Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Người nào kham nhẫn đối đầu
    Gian lao nhiếp phục khổ sầu bao phen,
    Là người vững mạnh tiến lên
    Niết-bàn, cực lạc, dứt phiền não xưa.

Song Nàrada vẫn đáp:

– Bạch Tôn sư, hạnh phúc của dục tình là hạnh phúc tối cao, con không thể nào rời bỏ nó được.

Bậc Ðạo Sĩ bảo:

– Không thể vì bất cứ lý do gì mà ta từ bỏ Giới hạnh.

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Con đừng phá hủy tiêu ma
    Quãng đời Thanh hạnh, sa đà công năng,
    Chỉ vì dục vọng tham sân
    Cầu mong lợi dưỡng, đau buồn nhỏ, to.

Sau khi Ðạo Sư Sarabhanga đã tuyên thuyết Chánh pháp qua bốn vần kệ, trí giả Làladevala muốn khuyến giáo tiểu đệ liền ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Biết đời phiền lụy lo âu,
    Thức ăn uống phải phát cho nhiều người.
    Chẳng ham tích trữ tiền tài,
    Chẳng sầu khi chúng hết thời tiêu tan.

Vần kệ thứ sáu do bậc Ðạo Sư ngâm phát xuất từ Trí tuệ Tối Thắng của Ngài liên hệ đến lời khuyến giáo của Devala đối với Nàrada:

  1. De-va Trí giả Hắc nhan
    Giờ đây khuyên nhủ khôn ngoan nhất đời:
    Ta không hề thấy có người
    Kém hơn kẻ chịu vâng lời dục tham.

Sau đó Thánh giả Sarabhanga cảnh báo:

Này Nàrada hãy nghe đấy: kẻ nào trước tiên không muốn làm những gì đáng làm, về sau sẽ kêu khóc than van như chàng trai đi vào rừng thuở xưa.

Rồi Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

Ngày xưa trong một thị trấn ở thành Kàsi có một thanh niên Bà-la-môn, đẹp trai, mạnh khỏe, lực lưỡng như voi. Chàng suy nghĩ: “Tại sao ta phải nuôi cha mẹ bằng cách làm ruộng, hoặc phải lấy vợ sinh con, hoặc làm các thiện sự nọ kia? Ta chẳng muốn nuôi ai hoặc làm thiện sự gì cả, mà ta chỉ muốn vào rừng nuôi bản thân bằng cách săn nai”.

Thề rồi với năm thứ vũ khí, chàng vào Tuyết Sơn giết nai ăn thịt rất nhiều. Ở vùng Tuyết Sơn chàng thấy một thung lũng rộng lớn tứ bề có núi bao bọc, bên cạnh bờ sông Vidhavà, chàng liền sống ở đó với thịt thú săn được và nấu trên than hồng. Chàng lại suy nghĩ: “Ta sẽ không được khỏe mạnh mãi đâu, khi ta già yếu, ta sẽ không phiêu bạc trong rừng. Nay ta muốn bắt nhiều loại thú hoang vào trong thung lũng này, làm cổng rào lại và chẳng cần phải lang thang trong rừng nữa, ta cũng sẽ giết chúng và ăn thỏa thích”. Và chàng đã làm như vậy.

Thời gian trôi qua, chính điều ấy phải xảy ra, mọi thực tế của cuộc đời xuất hiện, chàng không còn sức điều khiển nổi tay chân, chàng không thể đi lại tự do đây đó, chàng không thể tìm được thức ăn uống, thân thể gầy gò khô héo như một bóng ma, lộ rõ mọi nếp nhăn nheo khắp mình như mặt đất mùa nắng. Chàng trở nên dị tướng, nhăn nheo, rã rời và vô cùng khổ sở.

Cũng như chàng kia, theo thời gian, vua nước Sìvi, mệnh danh là Sìvi, ước mong hưởng món thịt rừng nướng trên than hồng trong rừng già, liền giao phó quốc độ cho các đại thần, đem theo năm món vũ khí, đi vào rừng săn thịt nai để ăn. Vừa lúc vua đến chỗ ấy liền thấy người kia. Dù sợ hãi, vua cũng cố thu hết can đảm hỏi người kia là ai. Chàng đáp:

– Tâu Chúa công, tôi là một bóng ma đang hưởng nghiệp quả do tôi đã tạo. Thế Chúa công là ai?

– Ta là vua nước Sìvi.

– Tại sao Chúa công đến đây?

– Ðể ăn thịt nai.

– Tâu Ðại vương, tôi đã trở thành con ma trên đất vì tôi đã đến đây với mục đích ấy.

Rồi chàng kể đầy đủ chi tiết câu chuyện của chàng và để giải thích nỗi bất hạnh của mình, chàng ngâm các vần kệ cuối cùng:

  1. Chính tôi đây, hỡi Quân vương,
    Khác nào giữa chốn đấu trường địch quân,
    Công lao, nghề nghiệp, tài năng,
    Vợ con, nhà ở bình an một thời,
    Ðã tiêu tan hết cả rồi,
    Tôi mang nghiệp quả ngay đời thế gian.
  2. Giờ tôi tồi tệ muôn vàn
    Không người quyến thuuộc, lang thang không nhà.
    Từ đời chân chánh lạc xa,
    Tôi như một cái bóng ma đọa đày.
  3. Nay tôi phải sống cảnh này
    Vì tôi tạo khổ não thay vui mừng.
    Quanh tôi như đám lửa bừng,
    Tôi không cảm thấy trong lòng hân hoan.

Cùng với các vần kệ ấy, chàng nói thêm:

– Tâu Ðại vương, do ham muốn dục lạc tôi đã tạo khổ đau cho nhiều loài khác và trở thành bóng ma ngay tại đời này. Xin Ðại vương đừng gây ác nghiệp, xin hãy trở về kinh đô của Ðại vương và thực hành thiện sự, bố thí cùng các phước nghiệp khác.

Nhà vua làm theo lời ấy và hoàn thành con đường lên Thiên giới.

Vị khổ hạnh xúc động vì lời tường thuật của Ðạo Sư Sarabhanga về câu chuyện trên. Vị ấy được cảm hóa, rồi sau khi kính lễ Tôn sư và được ngài tha thứ, nhờ các pháp môn chân chánh, vị ấy tái tạo năng lực Thiền định đã mất. Ðạo sư Sarabhanga không cho phép đệ tử ở lại đó nữa và đưa vị ấy cùng ngài về thảo am xưa.

*

Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy Nàrada là Tỷ-kheo thối thất này, Sàlissara là Sàriputta (Xá-lợi-phất), Mendissara là Kassapa (Ca-diếp), Kaccàna (Ca-chiên-diên), Anusissa là Ànanda (A-nan), Kisavaccha là Moggallàna (Mục-kiền-liên) và Đạo Sư Sarabhanga chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ngọn Lửa Đốt Cháy (Tiền thân Àditta)

Thứ gì ta cứu thoát ra…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên, về lễ vật cúng dường vô thượng. Lễ vật cúng dường tối thắng này được miêu tả đầy đủ trong tập Sớ giải Kinh Mahàgovindasutta (số 19, Trường bộ II)

Ngày hôm sau lễ cúng dường ấy, Tăng chúng bàn luận trong Chánh Pháp Ðường:

– Này các Hiền giả, vua Kosala sau khi xem xét kỹ, đã tìm được phước điền chính đáng và cúng dường lễ vật cao trọng lên Hội chúng do đức Phât đứng đầu.

Bậc Ðạo Sư đến và được kể lại đề tài câu chuyện trong lúc các vị ngồi đây, Ngài bảo:

– Này Tỷ-kheo, không lạ gì việc nhà vua, sau khi quan sát kỹ, đã cúng dường đại lễ vật vào phướcđiền vô thượng ở đời, các trí nhân ngày xưa cũng đã cúng dâng lễ vật như thế sau khi quan sát kỹ.

Rồi Ngài kể một câu chuyện ngày xưa.

*

Ngày xưa vua Bharata trị vì tại Roruva trong quốc độ Sovìra. Vua thực hành Thập phương pháp, thu phục nhân tâm bằng Tứ nhiếp pháp, đối xử với quần chúng như cha mẹ đối với con, ban phát rộng rãi cho người nghèo, lữ hành, khất thực và những người đến cầu xin. Chánh hậu của ngài là Samuddavijayà đầy trí tuệ thông thái.

Một hôm ngài nhìn quanh các bố thí đường và suy nghĩ: “Tặng vật của ta đều bị đám tham lam vô dụng ngốn ngấu cả. Ta không thích như vậy. Ta muốn cúng dường những vị Ðộc Giác Phật đức hạnh xứng đáng lễ vật tối thượng. Các vị hiện sống ở vùng Tuyết Sơn. Ai sẽ đem các vị ấy về đây theo lời thỉnh cầu của ta và ta sẽ nhờ ai lãnh sứ mạng này?”

Ngài nói chuyện với hoàng hậu, bà đáp:

– Tâu Chúa thượng, không nên quan tâm lo lắng. Cứ gửi hoa đi, nhờ uy lực lễ vật cúng dường xứng đáng của ta, nhờ đức độ và lòng thành tín của ta, ta sẽ thỉnh cầu vị Ðộc Giác Phật, và khi các vị đến, chính ta sẽ cúng dường lễ vật cùng các món cần thiết.

Vua đồng ý. Ngài ra lệnh đánh trống khắp kinh thành rằng tất cả dân chúng trong thành phải giữ giới, còn chính ngài và toàn thể hoàng gia đều giữ mọi phận sự của ngày trai giới, thực hành đại bố thí.

Ngài truyền đem đến một chiếc hộp bằng vàng đựng đầy hoa lài, từ hoàng cung bước xuống và đứng giữa triều đình. Tại đó ngài phủ phục với năm phần chạm xuống đất, đảnh lễ về phương Ðông và tung vãi nắm hoa cùng những lời nguyện:

– Ðệ tử đảnh lễ các Thánh giả ở phương Ðông, Nếu đệ tử có chút công đức nào, xin các vị tỏ lòng từ bi thâu nhận các lễ vật này.

Vì không có các vị Ðộc Giác ở phương Ðông, nên hôm sau không vị nào đến.

Ngày thứ hai, ngài lại đảnh lễ phương Tây, nhưng cũng không ai đến.

Ngày thứ ba, ngài lại đảnh lễ phương Bắc, và sau khi đảnh lễ, ngài tung bảy nắm hoa cùng lời nguyện:

– Ước mong các vị Ðộc Giác ở vùng Tuyết Sơn thâu nhận các lễ vật cúng dường này.

Các hoa ấy bay đi xa rơi trên mình năm vị Ðộc Giác Phật ở động Nandamùla. Sau khi quan sát, các vị hiểu rằng quốc vương đã thỉnh cầu các vị, vì thế các vị gọi bảy vị trong số đó lại bảo:

– Này các Tôn giả, vua thỉnh cầu các vị, xin hãy bày tỏ đặc ân cho ngài.

Các vị Ðộc Giác Phật này du hành qua không gian và hạ xuống hoàng môn. Khi thấy các vị, vua hân hoan đảnh lễ, mời các vị thượng lầu, tỏ lòng tôn kính trọng thể và cúng dường các lễ vật.

Sau buổi thọ thực, ngài lại mời các vị hôm sau và cứ thế đến ngày thứ năm, vua thiết đãi suốt sáu ngày. Vào ngày thứ bảy, ngài chuẩn bị cúng dường mọi vật dụng cần thiết, sắp đặt bảo tọa và cẩm đôn chạm vàng rồi đặt trước bảy vị Ðộc Giác các bộ ba y cùng các món ăn cần thiết của đời Thánh nhân.

Quốc vương cùng hoàng hậu trân trọng cúng dường các thứ này sau buổi thọ thực và đứng cung kính đảnh lễ. Ðể phát biểu lời tùy hỷ công đức, vị Trưởng lão của hội chúng ngâm hai vần kệ:

  1. Thứ gì ta cứu thoát ra
    Lửa đang đốt cháy nhà ta rụi dần,
    Những gì sót lại sau cùng
    Sẽ còn đó mãi riêng phần ta thôi.
  2. Thế gian bừng cháy khắp nơi
    Sanh, già, bệnh, chết làm mồi lửa nhanh,
    Cứu mình bằng các thiện hành,
    Cúng dường bố thí để dành thật chân.

Như vậy, bằng cách bày tỏ niềm hoan hỷ, vị Trưởng lão khuyến giáo vua tinh cần giữ đức hạnh. Sau đó vị ấy bay lên không gian, xuyên thủng qua góc nhọn của cung điện và hạ xuống động Nandamùla. Các vật dụng cần thiết đã được cúng dường đều bay lên theo vị ấy và hạ xuống động. Còn toàn thân quốc vương và hoàng hậu tràn đầy niềm hoan hỷ.

Sau khi vị ấy ra đi, sáu vị kia lần lượt nói lời tùy hỷ công đức qua mỗi vần kệ:

  1. Người nào bố thí chánh nhân
    Kiên cường dõng lực, tinh cần tịnh tâm,
    Vượt dòng nước lũ Ma vương,
    Ðạt nơi an trú kim đường cõi thiên.

Vị thứ ba:

  1. Thiện hành nào khác trận tiền
    Trước vài địch thủ, chạy liền ba quân.
    Cúng dường với cả tín tâm
    Ðời sau hưởng lạc là phần ngài thôi.

Vị thứ tư:

  1. Người cho làm đẹp ý trời,
    Khôn ngoan xứng đáng làm vơi nhọc nhằn
    Cúng dường mang quả hưng long,
    Cũng như hạt giống gieo vùng phì nhiêu.

Vị thứ năm:

  1. Ai không hề nói lắm điều,
    Tránh làm ác nghiệp hại nhiều chúng sinh,
    Người đời gọi yếu, chê khinh,
    Chính vì sợ hãi giữ mình thanh lương.

Vị thứ sáu:

  1. Tạo nên phước nghiệp thông thường
    Tái sinh nhân thế, quân vương oai quyền.
    Phước nhiều đạt đến cõi thiên,
    Công năng tối thượng đắc miền Tịnh Cư.

Vị thứ bảy:

  1. Phước là bố thí đem cho,
    Tuy nhiên Giáo pháp lợi to muôn phần,
    Xưa nay chứng tỏ bao lần,
    Nhờ đây bậc trí đạt toàn Lạc an.

Sau đó các vị ra đi cùng với các vật dụng cần thiết đã được cúng dường .

Còn vị Ðộc Giác Phật thứ bảy, trong lời tùy hỷ công đức ấy, tán thán Niết-bàn bất diệt với vua và giáo hóa ngài một cách cẩn trọng xong, liền trở về cảnh cũ như đã nói trên. Quốc vương và hoàng hậu thực hành bố thí suốt đời nên đã hoàn thành con đường lên thiên giới.

*

Khi pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Như vậy các bậc trí thời xưa bố thí cúng dường có phân biệt.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy các vị Ðộc Giác Phật đắc Niết-bàn, Samuddavijayà là mẫu thân Ràhula (La-hầu-la) và vua Bharata chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Những Sự Kiện Không Thể Xảy Ra (Tiền thân Atthàna)

Làm sao lặng sóng Hằng Hà…,

Bậc Ðạo sư kể lại chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo thối thất.

Bậc Ðạo sư hỏi vị ấy:

– Này Tỷ-kheo, có thật là ông đang thối thất?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

– Vì duyên cớ gì?

– Vì uy lực của dục tham.

– Này Tỷ-kheo, nữ nhân thật vô ơn, phản bội, không đáng tin cậy. Ngày xưa, các bậc trí không làm thỏa mãn một nữ nhân thậm chí đã cho kẻ ấy một ngàn đồng tiền mỗi ngày. Một hôm không nhận được ngàn đồng tiền, kẻ ấy đã sai người lôi cổ họ quẳng ra ngoài. Nữ nhân là loài bạc nghĩa thế đấy. Ông đừng rơi mình vào uy lực của dục tham vì duyên cớ ấy nữa.

Rồi Ngài kể một câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, vương tử Brahmadatta và công tử Mahàdhana, con của một phú thương ở Ba-la-nại, là bạn thân thiết cùng chơi với nhau và được giáo dục trong nhà một vị thầy. Vương tử lên ngôi khi vua cha băng hà và con vị phú thương vẫn ở gần vua mới.

Tại Ba-la-nại có một kỹ nữ sang trọng kiều diễm đang thời hưng thịnh. Con trai vị phú tặng nàng một ngàn đồng tiền mỗi ngày, và thường xuyên hưởng lạc với nàng. Khi cha mất, chàng thừa kế tài sản và địa vị của cha, nhưng cũng không rời bỏ nàng mà vẫn tiếp tục cho nàng một ngàn đồng tiền mỗi ngày.

Một hôm chàng đi chầu vua vào buổi chiều. Trong lúc chàng đàm đạo với vua, mặt trời lặn và tối dần. Khi rời cung, chàng nghĩ: “Không còn thời giờ để về nhà rồi trở lại nữa, ta cứ đi thẳng đến nhà kỹ nữ ấy”. Vì thế chàng bảo đám hầu cận ra về và đi thẳng vào nhà một mình.

Khi thấy chàng đến, nàng hỏi xem chàng có đem ngàn đồng tiền không.

– Này ái nương, hôm nay ta ra trễ quá nên ta chỉ bảo đám hầu cận đi hết, chứ ta không về nhà, ta chỉ đến đây một mình, nhưng ngày mai ta sẽ trao tặng nàng hai ngàn đồng tiền.

Nàng suy nghĩ: “Nếu ta tiếp đón chàng hôm nay, chàng sẽ đến tay không các ngày khác nữa và thế là ta mất dần của cải. Vậy ta không muốn tiếp chàng hôm nay nữa.”

Vì thế nàng bảo:

– Thưa công tử, thiếp chỉ là một kỹ nữ, thiếp không ban đặc ân cho ai mà không có một ngànđồng, vậy công tử hãy đem tiền lại đây.

– Ái nương ơi, ta sẽ tặng nàng gấp đôi số tiền ấy ngày mai đây.

Và chàng cứ van xin nàng như vậy mãi.

Nàng kỹ nữ ra lệnh cho các nữ tỳ:

– Ðừng để người ấy đứng đó mà nhìn ta. Hãy lôi cổ y kéo ra ngoài và đóng cửa lại.

Họ làm theo lời nàng. Chàng suy nghĩ: “Ta đã cho nàng tám trăm triệu đồng tiền, tuy thế chỉ một ngày ta đến tay không, nàng đã bảo chúng nắm cổ ta tống ra ngoài. Ôi nữ nhân thật là độc ác, vô sĩ, vong ân, phản bội!”

Do vậy chàng quan sát mãi về ác hạnh của nữ nhân cho đến khi chàng thấy chán ngán, ly tham và bất mãn với cuộc đời thế tục. Chàng suy nghĩ: “Tại sao ta phải sống đời thế tục? Ta muốn xuất gia hôm nay và thành người khổ hạnh”.

Do vậy chàng không trở về nhà nữa cũng không yết kiến vua nữa, chàng rời kinh thành đi vào rừng. Chàng dựng thảo am bên bờ sông Hằng, cư trú tại đó như một ẩn sĩ khổ hạnh, đắc Thiền định viên mãn và sống bằng củ quả rừng.

Vua nhớ bạn vắng mặt lâu ngày và đòi bạn vào chầu. Khắp kinh thành ai cũng biết rõ cách nàng kỹ nữ đối xử với chàng nên họ tâu vua vấn đề ấy và thêm:

– Tâu Ðại vương, người ta bảo thân hữu của Ðại vương vì tủi nhục đã không trở về nhà, mà đã trở thành vị khổ hạnh sống trong rừng.

Vua truyền đưa nàng kỹ nữ vào, và hỏi nàng xem chuyện nàng đối xử với thân hữu ngài có thật như vậy chăng. Nàng thú nhận.

– Này nữ nhân bạc ác kia, hãy mau đến nơi Hiền hữu ta ở và đưa chàng về đây. Nếu không làmđược việc ấy, ngươi phải bị mất mạng đấy.

Nghe lệnh vua, nàng sợ hãi, vội lên xe ra khỏi kinh thành cùng đoàn tùy tùng đông đảo. Nàng đi tìm nơi an trú và nghe lời đồn, nàng đến đó kính lễ và cầu xin:

– Bạch Tôn giả, xin hãy tha thứ lỗi lầm thiếp đã phạm trong lúc mù quáng ngu si. Thiếp quyết không tái phạm nữa.

– Ðược lắm, ta tha thứ cho nàng, ta không giận nàng đâu.

– Nếu Tôn giả tha thứ cho thiếp, xin hãy lên xe cùng thiếp. Chúng ta cùng trở về kinh thành và ngay khi vào thành, thiếp xin dâng ngài mọi tiền tài trong nhà thiếp.

Khi nghe vậy, ngài đáp:

– Này cô nương, ta không thể đi với cô nương bây giờ đâu, nhưng khi nào những chuyện chưa từng xảy ra trên đời này sẽ xảy ra thì có lẽ ta sẽ đi.

Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Làm sao lặng sóng Hằng hà
    Như hồ sen nọ, sơn ca trắng ngần,
    Cây đào sinh trái cau vân,
    Thì điều như thế họa chăng có là!

Nhưng nàng lại nói:

– Mau lên, thiếp sắp đi rồi.

Ngài đáp:

– Ta sẽ đi.

– Khi nào?

– Vào thời như vầy như vầy.

Ngài đáp và ngâm các vần kệ còn lại:

  1. Bao giờ có đủ lông rùa
    Kết thành ba tấm áo đưa ta dùng
    Vào thời đông giá lạnh lùng,
    Thì điều như thế họa chăng có là!
  2. Bao giờ răng muỗi nhô ra
    Nàng xây cái tháp thật là khéo thay,
    Tháp kia không thể chuyển lay,
    Ðiều này chắc có cơ may, họa là!
  3. Bao giờ sừng thỏ mọc ra,
    Nàng làm thang đứng thật là khéo thay,
    Bậc thang trèo đến tận mây,
    Thì điều này có cơ may, hỡi nàng!
  4. Bao giờ chuột nhắt leo thang
    Cùng nhau ăn hết mặt trăng sáng ngời.
    Ðem La-hầu xuống mặt trời,
    Thì điều này hẳn có thời xảy ra!
  5. Khi đàn ruồi uống từng vò
    Rượu nồng đầy đủ, tự do reo mừng
    Ẩn mình trong đám than bừng,
    Thì điều như thế họa hoằn xảy ra!
  6. Khi bầy lừa khéo điểm tô
    Môi hồng, mặt trắng làm trò khéo thay
    Trổ tài múa hát thật hay,
    Ðiều này hẳn có cơ may, hỡi nàng!
  7. Bao giờ quạ, cú từng đàn
    Cùng nhau tụ họp luận bàn riêng tư,
    Tỏ tình âu yếm chuyện trò,
    Ðiều này có thể xảy ra, hỡi nàng!
  8. Bao giờ nhặt lá trên ngàn
    Từng cây rừng xuống kết làm dù che
    Chống mưa ồ ạt tứ bề,
    Có cơ xảy đến điều kia, hỡi nàng!
  9. Khi đàn chim sẻ cố mang
    Tuyết Sơn đủ vẻ huy hoàng hùng anh,
    Ngậm trong chiếc mỏ xinh xinh,
    Họa may có thể sự tình xảy ra!
  10. Khi chàng trai nhẹ đẩy đưa
    Chiếc thuyền buồm vượt biển xa ngàn trùng
    Với lòng can đảm anh hùng,
    Ðiều này chắc hẳn mới mong, hỡi nàng!

Như thế bậc Ðại Sĩ ngâm mười một vần kệ nêu rõ những sự kiện không thể xảy ra. Nàng kỹ nữ nghe xong, xin được ngài tha thứ và trở về Ba-la-nại. Nàng trình bày mọi việc với vua và xin tha mạng, vua liền ân xá cho nàng.

*

Sau pháp thoại, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, nữ nhân thật là vô ơn, phản bội như thế.

Rồi ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Khi kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy vua là Ànanda và vị khổ hạnh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Báo (Tiền thân Dìpi)

Bác ơi, bác có được khang an…,

Bậc Ðạo sư kể lại chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một con dê cái.

Một thời Trưởng lão Moggallàna ở trong một am thất có một cửa, trong một vùng đất được rào và núi đồi bao bọc. Lối đi có mái che của nhà gần cửa ấy. Một vài mục tử nghĩ rằng hàng rào ấy là chỗ tốt cho đàn dê, nên họ lùa dê vào đó và sống thoải mái.

Một hôm họ đến vào buổi chiều đem cả bầy dê đi. Nhưng có một con dê cái đã lang thang quá xa không thấy bầy dê ra đi, và bị bỏ lại một mình. Sau đó khi nó ra đi, một con báo thấy nó, muốn ăn thịt bèn đứng bên cửa của hàng rào. Dê cái nhìn quanh và thấy con báo. “Báo đứng đó vì muốn giết ta và ăn thịt”, Dê suy nghĩ: “Nếu ta quay đầu bỏ chạy, ta sẽ mất mạng. Vậy ta phải can đảm lên”. Rồi dê giương đôi sừng, vùng chạy thẳng trước mặt báo với tất cả dũng lực. Dê thoát được móng vuốt báo, dù con báo rung mình vì nó tưởng sẽ chụp được dê. Rồi chạy hết tốc lực, con dê bắt kịp cả đàn.

Vị Trưởng lão quan sát cách các súc vật ấy đối xử với nhau. Hôm sau vị ấy đi trình đức Như Lai:

– Bạch Thế Tôn, con dê cái đã đạt được một kỳ công nhờ có sẵn mưu lược và thoát được con báo.

Bậc Ðạo sư đáp:

– Này Moggallàna, lần này con báo không bắt được dê, nhưng ngày xưa báo đã giết dê dù dê kêu lớn, rồi ăn thịt nó.

Và theo lời thỉnh cầu của Tôn giả Moggallàna, Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa có thời Bồ-tát được sinh vào một làng ở quốc độ Magadha (Ma-kiệt-đà), trong một gia đình giàu. Khi lớn lên, Ngài từ bỏ tham dục và sống đời tu hành, đạt được Thiền định viên mãn. Sau khi sống rất lâu ở Tuyết Sơn, ngài đến Rajagàha (Vương Xá) để tìm muối và dấm, rồi về cư trú trong thảo am ngài đã dựng trong một thung lũng có rào chắn.

Giống như phần duyên khởi, các mục tử lùa bầy dê ra đi và cũng như trên, một hôm, khi một dê cái đi ra chậm hơn bầy kia, một con báo đợi sẵn ở cửa, nghĩ cách ăn thịt nó. Khi con Dê thấy con Báo, nó suy nghĩ: “Ðời ta tàn rồi, bằng một mưu kế nào đó ta phải dụ nó vào cuộc chuyện trò vui vẻ ân cần để làm dịu lòng nó và cứu mạng ta”. Vừa đứng từ xa bắt đầu nói chuyện thân thiện với con báo, Dê ngâm vần kệ đầu:

  1. Bác ơi, bác có được khang an,
    Và bác lâu nay mạnh khỏe chăng?
    Mẹ cháu nhắn đưa lời kính hỏi,
    Cháu mong cùng bác kết thân bằng!

Nghe vầy, Báo suy nghĩ: “Con bé này muốn đánh lừa ta bằng cách gọi ta là ‘bác’, nó không biết ta hung dữ ra sao cả”. Vì thế Báo ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Cô dẫm đuôi ta đấy, bé Dê,
    Và làm ta phải bị đau ghê,
    Tưởng rằng nhờ gọi ta là “bác”
    Cô được tự do để trở về!

Khi nói vậy, Dê đáp:

– Thưa bác, xin đừng nói như vậy.

Và nó ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Tôi đi phía trước mặt, thưa ngài,
    Ngài vẫn ngồi kia đối diện tôi,
    Ðuôi của ngài nằm sau phía ấy,
    Làm sao tôi lại dẫm lên đuôi?

Báo đáp:

– Này Dê cái, cô nói gì vậy? Có nơi nào lại không có đuôi của ta trải ra chứ?

Và nó ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Suốt cả trong toàn bốn đại châu,
    Với sông hồ biển núi non cao,
    Ðuôi ta trải rộng ra cùng khắp,
    Sao cẳng Dê không dẫm nó nào?

Khi nghe vầy, Dê cài nghĩ: “Con ác thú này không bị lời ngon ngọt quyến rủ. Vậy ta sẽ đáp lại nó như một kẻ thù”. Rồi Dê ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Ta biết đuôi ông ác thật dài,
    Vì ta đã được báo tin rồi,
    Anh em cha mẹ đều khuyên bảo
    Lúc trước ta bay bổng giữa trời!

Báo lại nói ;

– Ta biết cô đã bay giữa trời. Nhưng khi cô đến, cô đã làm hỏng miếng mồi của ta bằng cách đáp xuống ấy!

Rồi Báo ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Bóng dáng cô Dê ở giữa trời
    Bay qua không khí ấy mà thôi,
    Ðã làm kinh sợ đàn nai nọ,
    Vì thế mồi ta bị hỏng rồi!

Nghe vầy, Dê sợ chết không còn có thể tìm cớ nào khác nữa, liền kêu lớn:

– Bác ơi, xin đừng phạm một việc ác độc như thế, xin tha mạng cháu đi.

Nhưng dù Dê kêu lớn, Báo vẫn chụp vai nó, giết chết và ăn thịt Dê.

  1. Chính Dê kêu lớn để cầu ân,
    Song máu thịt kia mới thoả lòng,
    Dã thú chụp Dê vào cổ họng;
    Ác nhân không tỏ chút ân cần.
  2. Kẻ ác không sao biết tỏ ra
    Ân cần, chánh hạnh, tránh đường tà,
    Nó thù ghét những người lương thiện,
    Thượng sách là nên xáp lá cà!

Ðây là hai vần kệ phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật.

Một vị Thánh nhân khổ hạnh chứng kiến tất cả câu chuyện của hai con thú này.

*

Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, con Dê cái và con Báo là con Dê cái và con báo bây giờ, và vị Thánh nhân khổ hạnh chính là Ta.

-ooOoo-

Chương IX

Phẩm Chín Bài Kệ

  1. Chuyện Chim Thứu (Tiền thân Gijjha)

Ðược làm bằng đám gỗ chênh vênh…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo bất tuân Giới luật.

Chuyện kể rằng vị ấy là thiện gia nam tử, và được truyền giới vào Giáo pháp đưa đến giải thoát được các vị Pháp sư, giáo sư đầy thiện chí cùng các đồng Phạm hạnh giáo giới như vầy:

– Hiền giả phải đi tới hay đi lui như vầy, phải nhìn thẳng hay nhìn nghiêng như vầy, cánh tay phải duỗi ra hay co lại như vầy, các y trong và y ngoài phải được mang như vầy, bình bát phải được cầm như vầy. Khi Hiền giả nhận đủ các thứ ăn để nuôi thân, sau khi tự quán sát, Hiền giả phải thọ dụng nó như vầy, hộ phòng các căn như vầy.

Hiền giả phải tiết độ trong ăn uống và tỉnh giác. Hiền giả phải nhận thấy các bổn phận như vầyđối với chư Tăng đến và đi khỏi tinh xá. Ðầy là mười bốn qui tắc về phận sự của Tỷ-kheo và tám mươi trọng giới phải hoàn thành đúng đắn, và đây là mười ba pháp thực hành Dhuta về nếp sống cẩn trọng. Tất cả các giới điều này phải được hoàn thành một cách nghiêm túc.

Tuy thế, vị ấy bất tuân Giới luật và thiếu kham nhẫn, không chịu thọ giáo một cách kính cẩn, và không tuân lời thầy, lại bảo:

– Tôi không chỉ trích các vị. Tại sao các vị nói với tôi như vậy? Tôi biết điều gì ích lợi cho tôi vàđiều gì không có lợi.

Tăng chúng nghe được sự bất tuân Giới luật của ông liền kể lại các lỗi lầm của ông trong lúc các vị ngồi tại Chánh pháp đường.

Bậc Ðạo Sư bước vào, hỏi các vị đang bàn luận đề tài gì và truyền gọi Tỷ-kheo ấy đến hỏi:

– Này Tỷ-kheo, tại sao khi đã được truyền giới vào Giáo pháp đưa đến giải thoát, ông lại không nghe lời dạy của các vị giáo thọ có thiện ý kia? Ngày xưa ông cũng đã bất tuân lời dạy của các trí giả và gặp cuồng phong Verambha thổi thành tro bụi.

Sau đó Ngài kể lại chuyện đời xưa.

*

Một thuở nọ Bồ-tát được sinh làm chim Thứu (kên kên) trên núi Linh thứu. Bấy giờ con của ngài là Supatta, vua kên kên, cường tráng, đầy dũng lực và có đám tuỳ tùng nhiều ngàn kên kên. Thứu vương phụng dưỡng song thân. Do có sức mạnh, Thứu vương thường bay rất xa. Chim thứu cha vẫn thường khuyên nhủ:

– Này con thân, con đừng bay xa quá những điểm này.

Thứu vương đáp:

– Ðược lắm, thưa cha.

Nhưng một hôm trời mưa, Thứu vương bay cùng các kên kên khác, rồi rời đàn phía sau, một mình vượt giới hạn đã được khuyên bảo, nên thứu vương bay vào cuồng phong Veramba và bị thổi tan thành tro bụi.

Với Tối Thắng Trí, Đức Phật ngâm các vần kệ này minh hoạ các sự kiện trên:

  1. Ðược làm bằng đám gỗ chênh vênh,
    Một lối đi xưa cũ dẫn lên
    Những đỉnh núi non cao chót vót,
    Thứu con nuôi dưỡng các thân sinh.
  2. Ðôi cánh hùng cường đầy dũng lực,
    Thứu đem mỡ rắn tặng song thân,
    Khi cha nhìn Thứu bay cao quá,
    Liều lĩnh du hành, vẫy dạy răn:
  3. “Khi con quan sát, hỡi con thân,
    Quả địa cầu tròn với đại dương
    Bao bọc chung quanh, đừng tiến nữa,
    Trở về ngay nhé, khẩn cầu con!”

4 – 5. Thứu vương thường cất cánh lên mau,
Bay lượn vòng quanh cõi địa cầu
Với nhãn quan tinh tường thấu suốt,
Thứu con thấy rõ các rừng sâu,
Núi non phía dưới cao vời vợi,
Quả đất giống cha tả biết bao:

6- 7. Một quả cầu tròn giữa đại dương,
Nhưng khi vượt quá giới hạn thông thường,
Dẫu là chim thứu đầy oai lực,
Một trận đại phong thật nộ cuồng
Ðã thổi Thứu tan tành bỏ mạng,
Bất tài không địch nổi cuồng phong.

8 -9. Như vậy Thứu con bởi bất tuân
Tử vong bỏ mặc cả song thân.
Kẻ nào khinh bỉ kẻ già cả
Chế nhạo lời khuyên của trí nhân,
Cũng chết như chim khinh bậc trí,
Xem thường giới hạn bởi kiêu căng.

– Vì vậy, này Tỷ-kheo, đừng giống như chim Thứu này, mà phải tuân theo lời dạy của những người đầy thiện ý.

Khi được bậc Ðạo Sư giáo huấn như trên, từ đó về sau vị ấy biết vâng lời thầy.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Chim kên kên bất tuân lệnh ngày xưa là vị Tỷ-kheo không vâng lời ngày nay. Và chim cha chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Giáo Hội Ở Kosambi (Tiền thân Kosambi)

Khi giáo hội bị chia hai, ly tán…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Lâm Viên Ghosita (Cù-sư-la) gần Kosambi (Kiều-thưởng-di) về một đám người tranh chấp nhau ở Kosambi.

Sự kiện dẫn đến chuyện này có thể tìm được trong phần Luật tạng liên hệ đến Kosambi. Sau đây là tóm tắt câu chuyện. Tương truyền thời ấy có hai Tỳ- kheo sống cùng một tịnh xá, một vị thông hiểu Giới luật và vị kia thông hiểu Kinh điển. Một hôm, vị thứ hai có dịp đến chỗ rửa mặt xong, đi ra và bỏ sót một ít nước thừa để súc miệng trong cái ghè. Sau đó vị thông Giới luật đi vào và thấy nước, liền đi ra hỏi bạn xem có phải vị ấy đã để nước lại đó chăng. Ông đáp:

– Thưa Hiền giả, vâng.

– Sao, thế Hiền giả không biết đó là lỗi lầm ư?

– Không, tôi không biết.

– Này hiền giả, đó là lỗi lầm.

– Thế thì tôi sẽ sám hối việc ấy.

– Song nếu Hiền giả không có ý làm việc ấy thì đó không phải lỗi lầm.

Như vậy vị ấy là người không thấy lỗi lầm trong một việc có lỗi lầm. Vị tinh thông Giới luật bảo các đệ tử mình:

– Vị tinh thông Kinh điển này, dù đã phạm lỗi lầm, lại không biết việc ấy.

Khi gặp các đệ tử của vị Tỷ-kheo kia, họ bảo:

– Thầy của các vị dù phạm lỗi lầm, lại không nhận ra lỗi lầm.

Ðám này đi về thưa lại với thầy. Vị ấy bảo:

– Vị thông Giới luật này trước kia bảo đó không phải lỗi lầm, nay lại bảo đó là lỗi lầm. Vị này là kẻ nói dối.

Ðám đệ tử này đi nói với đám kia:

– Thầy của các vị là kẻ nói dối.

Do đó hai nhóm gây sự tranh cãi lẫn nhau. Về sau vị thông hiểu Giới luật, tìm được cơ hội đưa ra một hình thức tẩn xuất vị Tỷ-kheo đã không chịu nhận thấy sự vi phạm Giới luật của mình.

Từ đó về sau, các cư sĩ cung cấp bốn vật dụng cần thiết cho Tăng chúng cũng chia ra hai phe. Các Tỷ-kheo -ni nhận sự giáo huấn của các Tỷ-kheo, các vị Thần hộ pháp, cùng các thân hữu quyến thuộc của họ, cùng chư Thiên lên đến tận cõi Phạm thiên, thậm chí cả đám người ngoại đạo, cũng họp thành hai phái và tiếng huyên náo vang lên đến toàn cõi Phạm thiên.

Sau đó một Tỷ-kheo đến gần đức Như Lai, và thông báo quan điểm của phe tấn xuất là: “người kia bị tẩn xuất theo đúng Chánh pháp”. Và quan điểm của những kẻ theo phe người bị tẩn xuất là; “người ấy bị tẩn xuất một cách phi pháp”, cùng sự kiện một số người, dù bị phe tẩn xuất cấmđoán, vẫn tụ họp lại để ủng hộ vị ấy.

Ðức Thế Tổn bảo:

– Có sự chia rẽ, quả thật, có sự chia rẽ trong giáo hội.

Ngài đến gặp hai phe, nêu rõ sự tai hại trong vấn đề tẩn xuất đối với những người tẩn xuất, cùng sự nguy hại theo sau sự che dấu lỗi lầm đối với phe kia, rồi Ngài ra đi.

Lần khác, khi Hội chúng thực hành lễ Bồ-tát cùng các Tăng sự khác trong cùng một nơi, trong một khu vực, và lại tranh cãi ở trai đường cùng nhiều nơi khác, Ngài liền đưa ra điều luật rằng họ phải ngồi lại với nhau thảo luận lần lượt từng người một từ mỗi phe.

Khi nghe họ vẫn tranh cãi trong tinh xá, Ngài đến bảo:

– Thôi đủ rồi, này các Tỷ-kheo, chúng ta không được tranh cãi.

Một vị trong phe phi chính thống không muốn phiền nhiễu đức Thế Tôn, liền thưa:

– Xin đức Thế Tôn hãy tinh xá. Mong đức Thế Tôn được an tịnh độc cư, thọ hưởng cực lạc đã chứng đắc ngay tại đời này. Chúng con sẽ tự làm cho chính bản thân ô danh vì cuộc khẩu tranh, luận tranh, đấu tranh, giao tranh này.

Nhưng bậc Ðạo Sư bảo họ:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa, vua Brahmadatta, quốc vương ở Kàsi, trị vì tại Ba-la-nại, đã chiếmđoạt vương quốc của vua Dighati ở Kosala, và giết vua ấy, trong lúc sống ẩn tích mai danh. Ðến khi vương tử Dighavu tha mạng vua Brahmadatta, hai vị trở thành thân hữu trở về sau. Và như vậy chắc hẳn có nhiều khổ đau và thân ái giữa hai vị vua mang kiếm trượng ấy; quả thật, này các Tỷ-kheo, các ông cần hiểu rõ rằng các ông đang sống đời tu tập theo Pháp và luật được khéo giảng, thì các ông có thể tha thứ và tỏ từ tâm đối với nhau.

Giáo huấn Tăng chúng đến lần thứ ba, Ngài bảo:

– Thôi đủ rồi, này các Tỷ-kheo, không được tranh chấp nữa.

Và khi Ngài không thấy họ không ngừng lại trước lệnh của Ngài, Ngài ra đi và bảo:

– Quả thật đám người ngu si này giống như bị quỷ ám, chúng không dễ được thuyết phục.

Hôm sau đi khất thực về, Ngài nghỉ trong Hương Phòng và sắp đặt phòng cho thứ tự, rồi cầm y bát, Ngài đứng trên không và ngâm các vần kệ này giữa Hội chúng:

  1. Khi Giáo hội bị phân chia hai nhóm,
    Dân chúng thường mở miệng kêu vang:
    “Mỗi người đều tự tin tưởng khôn ngoan,
    Và nhìn kẻ láng giềng đầy khinh bỉ”.
  2. Tâm mê muội, chứa đầy niềm tự thị,
    Chúng mở mồm phạm thượng thật si cuồng,
    Vậy là do khẩu nghiệp, chúng sai đường,
    Chúng không biết ai dẫn đầu ra lệnh.
  3. “Người này nhục mạ tôi, người kia đánh
    Người thứ ba chiến thắng, cướp bóc tôi!”
    Những ai mang tư tưởng ấy trong người
    Không hề muốn giảm dần niềm sân hận.
  4. “Xưa nó nhục mạ tôi và đánh đấm,
    Nó thắng tôi và đàn áp tôi hoài!”
    Ai chẳng mang ý tưởng đó trong người,
    Sẽ xoa dịu hận thù, đem hoà hợp.
  5. Không hận thù, chỉ tình thương đơn độc
    Làm hận thù tiêu diệt, luật ngàn năm,
    Một số người khinh bỉ pháp điều thân.
    Song kẻ biết giải hoà là trí thiện.
  6. Nếu những kẻ bị thương trong tử chiến
    Cùng những người cướp của, đoạt mạng dân,
    Và những ai tàn phá nước lân bang,
    Nay có thể cùng cựu thù thân thiết,
  7. Thế tại sao chúng Tăng không hoà hiệp,
    Các ông nên tìm đồng bạn trí hiền,
    Kẻ đồng tâm để chung sống bình yên,
    Hiểm hoạ hết, bên người đồng tâm tính,
    Ông suốt ngày hân hoan trong Thiền định!
  8. Song nếu ông không gặp bạn thân tình,
    Thượng sách là ông phải sống một mình,
    Như hoàng tử bỏ ngai vàng điện ngọc,
    Hay voi già bước lang thang cô độc.
  9. Vậy ưu tiên chấp nhận sống độc thân,
    Bầu bạn ngu chỉ dẫn đến tranh phân,
    Hay đeo đuổi đường đời trong phóng dật,
    Như voi nọ trong rừng hoang đi lạc.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã nói như vậy xong, và Ngài vẫn không giải hoà được hội chúng này, Ngài liền đi đến làng Bàlaka, nơi làm muối, và thảo luận với Tôn giả Bhagu về sự an lạc của độc cư. Sau đó Ngài lại đến nơi cư trú của ba thiện gia nam tử và nói chuyện với họ về hạnh phúc hoà hợp.

Rồi Ngài du hành đến rừng Pàrileyyaka, cư trú tại đó ba tháng, và đi về thẳng Sàvatthi, chứ không trở lại Kosambi.

Quần chúng cư sĩ ở Kosambi thảo luận với nhau và bảo nhau:

– Hiển nhiên các Tôn Gỉa Tỷ-kheo ở Kosambi đã làm hại chúng ta rất nhiều, bậc Ðạo Sư bị các vị ấy quấy nhiễu nên ra đi. Chúng ta quyết không trân trọng kính chào các vị ấy, cũng không cúng dường vật và thực khi họ đến nhà, để rồi họ sẽ ra đi, hoặc hoàn tục, hoặc cầu hoà với bậc Ðạo Sư.

Và họ làm đúng như vậy.

Các Tỷ-kheo ấy bị túng quẩn vì hình thức xử phạt này, liền đến Sàvatthi thỉnh cầu đức Thế Tôn tha thứ.

*

Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Thời ấy vua cha là Ðại vương Suddhodana (Tịnh Phạn), mẫu hậu là Mahàmàya (Mai-gia) và vương tử Dighàvu chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ðại Anh Vũ (Tiền thân Mahàsuka)

Bất cứ khi nào cây trái sinh…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo.

Chuyện kể rằng vị ấy sống trong rừng gần một làng biên địa ở Kosabbi và nhận được lời giáo huấn từ bậc Ðạo Sư theo các đề tài Thiền quán. Dân chúng làm cho ông một an thất trong một nơi họ thường lui tới, cung cấp nơi cư trú cả ngày lẫn đêm và phụng sự ông rất tận tâm chu đáo. Ngay tháng đầu tiên ông an cư mùa mưa, làng ấy bị đốt sạch và dân chúng không còn một hạt thóc nên không thể cúng dường thực phẩm thơm ngon vào bình bát ông, cho nên mặc dù ông ở trong một nơi thoải mái, ông lại buồn khổ vì thiếu thực phẩm đến độ không thể nhập vào Thánh đạo hay Thánh quả được.

Vì vậy khi hết ba tháng mưa, ông đến yết kiến bậc Ðạo Sư, sau những lời ân cần chào hỏi, bậc Ðạo Sư bày tỏ huy vọng là mặc dù khó khăn về thực phẩm cúng dường, ông cũng có được một nơi an trú dễ chịu. Vị Tỳ- kheo trình Ngài về tình hình đã diễn tiến ra sao. Khi nghe ông có được một trú xứ an lạc, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, nếu sự tình là như vậy, một vị tu khổ hạnh nên dẹp bỏ các thói tham đắm, và tri túc với những thức ăn gì mình nhận được để hoàn thành phận sự của người xuất gia. Các bậc trí ngày xưa khi được sinh vào loài súc vật, dù chỉ sống bằng bụi bặm trong cây hư mục mà mình cư trú, cũng đã bỏ mọi tham dục, tự biết sống đủ để ở lại nơi kia và hoàn thành đạo lý về ân tình. Thế thì tại sao ông lại bỏ một nơi cư trú đầy an lạc chỉ vì thức ăn nhận được quá ít ỏi thô sơ?

Và theo lời thỉnh cầu của vị này, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa có vô số chim anh vũ (két) sống ở vùng Tuyết Sơn trên bờ sông Hằng trong một rừng sung. Vua Anh vũ ấy gặp lúc trái cây nơi mình cư trú đã hết màu, phải ăn bất cứ cái gì còn sót lại, dù là mầm, lá, vỏ cây hoặc giác cây và uống nước sông Hằng, vẫn thấy an lạc và tri túc nơi mình sống.

Do tâm trạng an lạc tri túc này, chiếc ngai của Thiên chủ Sakka rung động. Sakka tìm hiểu nguyên nhân và thấy Anh vũ này, rồi muốn thử thách công hạnh của chim, ngài dùng thần lực làm cho cây héo tàn, trở thành khúc thân cây mục đầy lỗ hỏng đứng trơ vơ bị mưa gió vùi dập, và bụi bặm bay từ các lỗ ấy!

Anh vũ vương vẫn ăn bụi cây và uống nước sông Hằng, không đi đâu khác và vẫn đậu trên ngọn cây, chẳng quan tâm gì đến nắng gió.

Thiên chủ Sakka nhận thấy Anh vũ sống rất tri túc, liền tự bảo: “Sau khi nghe chim nói về đức tính của tình bằng hữu, ta sẽ đến ban cho chim một đặc ân và làm phép cho cây sung sinh bất tử”.

Vì thế ngài giả dạng một Thiên nga cùng với hoàng hậu của ngài là Sujà đi trước biến hình thành một nữ thần A-tu-la, ngài đến rừng sung kia, đậu trên một khóm cây gần đó và ngâm kệ bắt đầu đàm thoại với Anh vũ:

  1. Bất cứ khi nào cây trái sinh,
    Bầy chim đói lại đến đầy cành,
    Song khi cây đã thành khô héo,
    Lập tức bầy chim bỏ chạy nhanh.

Sau lời này, ngài lại ngâm vần kệ thúc giục chim đi chỗ khác:

  1. Này ông mỏ đỏ, hãy đi mau,
    Ông vẫn ngồi mơ mộng, cớ sao?
    Hãy nói ta nghe, xuân điểu hỡi,
    Sao ông bám khúc gỗ khô nào?

Chim Anh vũ đáp:

– Này Thiên nga, do ân nghĩa, ta không rời bỏ cây này.

Rồi chim ngâm hai vần kệ:

  1. Ngay khi Anh vũ chúa cầu mong,
    Biết rõ mọi điều kiện, chánh chân
    Dầu sống, chết hay khi khổ lạc,
    Ðều không hề bỏ mặc thân bằng
  2. Ta muốn ân cần, giữ thiện tâm
    Với cây kết bạn đã lâu năm,
    Ta mong sống, dẫu lòng không nỡ
    Rời bỏ cây khô đã chết dần.

Sakka nghe chim nói, rất hoan hỷ, vừa ca ngợi chim vừa muốn ban cho chim một điều ước, liền ngâm hai vần kệ:

  1. Ta biết chim giao hữu thật tình
    Trí nhân chắc chắn phải hoan nghênh,
    Ta ban chim thứ gì chim mong muốn,
    Anh vũ, ước cho thoả ý mình

Nghe vầy, Anh vũ ngâm vần kệ thứ bảy nói lên điều mình ước:

  1. Thiên nga, nếu bạn muốn ban ân
    Mong ước cho cây sống lại dần
    Lần nữa vươn lên sức mạnh cũ,
    Quả ngon tươi mát mọc đầy thân.

Rồi Thiên chủ Sakka ngâm vần kệ thứ tam ban đặc ân này:

  1. Bạn nhìn! Cây quý quả sai đầy,
    Thích hợp cho chim ở chốn này,
    Lần nữa vươn lên sức mạnh cũ,
    Quả ngon ngọt mát tươi thay!

Cùng với các lời này, Sakka bỏ lốt ngỗng, thị hiện phép thần thông cùng Hoàng hậu Sujà, lấy tay múc nước sông Hằng rảy vào thân cây sung. Lập tức cây mọc lên cành lá sum suê, đầy trái ngọt như mật, tạo thành một cảnh tượng kỳ diệu như đỉnh núi Ngọc Bích lồ lộ.

Anh vũ thấy vậy, vô cùng hoan hỷ, ngâm vần kệ thứ chín tán thán Thiên chủ Sakka:

  1. Ước mong Thiên chủ, mọi Thiên thân,
    Ðều hưởng thọ tràn ngập phước ân,
    Hạnh phúc như chim đang thọ hưởng
    Khi nhìn cảnh tượng đẹp huy hoàng.

Sau khi ban điều ước cho Anh vũ, và làm phép để cây sung mọc trái bất tử, ngài cùng Hoàng hậu Sujà trở về cõi của ngài.

Ðể minh hoạ chuyện này, các vần kệ xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng được thêm vào đoạn cuối:

  1. Ngay khi Anh vũ chúa cầu mong,
    Lần nữa cây kia trổ trái dần,
    Ðế Thích cùng bà hoàng biến mất
    Về vườn Thiên lạc cõi Thiên thần.

*

Khi pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy, này Tỷ-kheo, các bậc trí này xưa dù sinh làm súc vật cũng dứt bỏ tham ái. Thế tại sao nay ông đã được thọ giới trong Giáo pháp tối thượng này, lại còn theo các thói xan tham? Hãy về ở lại chỗ ấy.

Rồi Ngài trao cho vị này một đề tài Thiền quán, và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy Sakka là Anurudda (À-na-luật-đà) và Anh vũ chính là Ta.

Vị Tỷ-kheo trở về và nhờ Thiền quán đã đắc Thánh quả (A-la-hán).

-ooOoo-

  1. Chuyện Tiểu Anh Vũ (Tiền thân Cullasuka)

Nhìn cây vô số ở quanh đây…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên liên hệ phẩm Verãnjà của Luật Tạng.

Sau thời an cư mùa mưa tại Verãnjà, khi bậc Ðạo Sư lên đường dẫn đến Sàvatthi, Tăng chúng ngồi tại Chánh pháp đường thảo luận và bảo nhau:

– Này các Hiến giả, đức Như Lai vốn là một vị quý tộc Sát-đế-lỵ được bảo dưỡng tế nhị, dầu đã thành Phật có đủ thần thông lực, vẫn theo lời thỉnh câu của một Bà-la-môn ở Verãnjà an cư ba tháng với vị ấy. Rồi do áp lực của Ác Ma, Ngài không nhận được thực phẩm cúng dường từ tay vị Bà-la-môn ấy, thậm chí một ngày thôi, Ngài liền từ bỏ mọi tham dục và cứ ở lại nơi ấy suốt ba tháng sống bằng nước lã và một ít cám xay. Kỳ diệu thay là hạnh tri túc của các đức Như Lai!

Khi bậc Ðạo Sư đến hỏi đề tài thảo luận của các vị, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không lạ gì ngày nay Như Lai đã bỏ hết mọi tham dục, vì ngày xưa khi được sinh làm súc vật, Ngài cũng xả ly tham dục.

Và sau đó, Ngài kể một chuyện quá khứ. Bấy giờ toàn thể câu chuyện cũng được kể lại với đầy đủ chi tiết giống hệt như chuyện trước.

*

Sakka:

  1. Nhìn cây vô số ở quanh đây
    Toàn thể xanh tươi, trái mọc đầy,
    Cớ sao Anh vũ còn đeo đẳng
    Cây đã héo khô tội nghiệp này?

Anh vũ:

  1. Chúng ta hưởng thọ đã lâu năm
    Trái ngọt ngon mà cây đã mang
    Vậy dẫu trái nay không còn nữa,
    Cây cần phải được sự quan tâm.

Sakka:

  1. Cây chẳng còn sinh trái, lá nào
    Than ôi! Cây đã chết, vì sao?
    Nay chim còn trách bầy chim bạn
    Rằng chúng ta bay đi hết đã lâu?

Anh vũ:

  1. Chúng yêu cây bởi trái cây thôi,
    Nay trái cây không còn nữa rồi,
    Bọn ích kỷ ngu si tội nghiệp,
    Thân tình ân nghĩa tếch mù khơi!

Sakka:

  1. Ta đây công nhận mối ân tình,
    Chim có lòng chung thuỷ tốt lành,
    Ðức hạnh như là Anh vũ chúa,
    Trí nhân mãi mãi sẽ hoan nghênh.
  2. Ta muốn giờ đây ta tặng chim
    Ðiều gì chim ước nguyện trong tim,
    Ta cầu chim nói cho ta biết,
    Ðiều ước làm tâm được phỉ nguyền?

Anh vũ:

  1. Mong cây này lại có cơ may
    Sinh sản lá tươi, trái trĩu đầy,
    Ta sẽ vô cùng hoan hỷ thấy
    Bầy chim tìm được bảo toàn này!
  2. Thế rồi cây ấy được Sak-ka
    Rảy nước hồi sinh để mọc ra
    Cành lá sum suê đầy bóng mát,
    Xinh tươi khả ái vẫn như xưa.
  3. Ước mong Thiên chủ, các Thiên thần
    Ðều hưởng thọ tràn ngập phước ân,
    Hạnh phúc như chim đang thọ hưởng
    Khi nhìn cảnh tượng đáng hân hoan!
  4. Như vậy cây trái được sinh
    Nhờ lời Anh vũ nguyện ân tình,
    Sak-ka trở lại cùng hoàng hậu
    An hưởng vườn Thiên lạc hiển vinh

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy Sakka là Anuruddha và Anh vũ vương chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Nam Tử Hàrita (Tiền thân Hàrita)

Hà-ri Hiền hữu, trẫm nghe rằng…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo bất mãn.

Bấy giờ Tỷ-kheo này trở nên bất mãn sau khi nhìn thấy một nữ nhân phục sức lộng lẫy nên cứ để cho lông tóc, móng tay chân dài ra, và muốn hoàn tục. Khi ông miễn cưỡng bị các vị giáo thọ và giám hộ đưa đi yết kiến bậc Ðạo Sư, và được Ngài hỏi xem có đúng là ông thối thất chăng, và tại sao như vậy, ông đáp:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn, chính vì uy lực của dục tham, sau khi nhìn thấy một nữ nhân xinh đẹp.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, tham dục huỷ hoại công đức, hơn nữa, rất đáng nhàm chán, nó làm cho con người tái sinh vào địa ngục; thế thì sao tham dục này lại không đưa đến sự suy tàn của ông? Bởi vì trận cuồng phong vùi dập đỉnh núi Sineru (Tu-di) vẫn không ngần ngại cuốn đi một ngọn lá khô héo. Chính vì tham dục này, những người thực hành theo trí thức và trí tuệ, đã đắc năm Thắng trí và tám Thiền chứng, dẫu là Thánh nhân vĩ đại, vẫn không đủ khả năng ổn định tâm tư nên sa đoạ đánh mất Thiền lực vi diệu.

Rồi ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh ở một làng trong một gia đình Bà-la-môn có tài sản đến tám triệu đồng, và do màu vàng ánh của ngài, cha mẹ đặt tên ngài là Harittacakumàra (Nam tử Kim sắc). Khi lớn khôn, và đã được giáo dục tại Takkasilà, ngài trở thành người gia chủ. Vừa khi cha mẹ từ trần, ngài đi thanh tra đủ các kho báu của mình và suy nghĩ: “Tài sản kho báu tiếp tục tồn tại, còn những người tạo ra nó lại mất cả rồi. Ta cũng tan thành tro bụi khi chết”.

Như vậy do nỗi sợ chết báo động, ngài thực hành đại bố thí, rồi vào vùng Tuyết Sơn sống đời tu hành, đến ngày thứ bảy ngài thành tựu các Thắng trí và các Thiền chứng. Ngài sống ở đó một thời gian bằng củ quả rừng, rồi xuống núi tìm muối và dấm, dần dần ngài đến tận Ba-la-nại.

Ngài sống trong ngự viên và ngày hôm sau, khi khất thực ngài đến cửa cung vua. Vua rất hoan hỷ khi thấy ngài nên đã truyền mời ngài vào ngồi trên vương toạ dưới bóng mát của chiếc Lọng trắng và cúng dường ngài đủ thứ cao lương mỹ vị.

Khi lời nói lời tuỳ hỷ công đức, vua vô cùng đẹp ý hỏi:

– Bạch Tôn giả, ngài sắp đi đâu?

– Tâu Ðại vương, chúng tôi tìm một nơi an cư mùa mưa.

– Thế thì tốt lắm, bạch tôn giả. Vua bảo.

Rồi sau buổi điểm tâm, vua cùng đi với ngài đến ngự viên, truyền dựng am thất ban ngày lẫn banđêm cho ngài ở, chỉ định người giữ ngự viên làm hầu cận của ngài, rồi vua kính chào ngài ra về. Từ đó bậc Ðại Sĩ thường xuyên ăn uống ở cung vua và sống tại nơi ấy suốt mười hai năm liền.

Một hôm, vua đi dẹp loạn ở biên giới, nên đã giao phó hoàng hậu chăm sóc Bồ-tát, và bảo bà:

– Ðừng xao lãng việc phụng sự “Phước điền” của chúng ta.

Từ đó trở về sau, hoàng hậu tự tay phục vụ bậc Ðại Sĩ rất chu đáo.

Một hôm, hoàng hậu đã chuẩn bị thực phẩm của ngài xong, và vì ngài đến muộn, nên bà đi tắm nước hương thơm ngát, choàng chiếc y bằng lụa mỏng manh mềm mại, rồi mở cửa thượng lầu nằm xuống một vương sàng nhỏ để cho gió lùa trên thân thể bà.

Sau đó, Bồ-tát đắp hạ y và thượng y, cầm bình bát, du hành qua không gian đi vào cửa sổ ấy. Khi hoàng hậu vội vàng đứng dậy vì nghe tiếng sột soạt của các tấm y bằng vỏ cây trên thân ngài, chiếc y bằng lụa mỏng rơi khỏi người bà. Một đối tượng lạ thường đập vào mắt bậc Ðại Sĩ. Rồi một dục tưởng đã ẩn trong tâm ngài từ vô lượng kiếp, chợt bừng dậy như một con rắn nằm trong hộp, xua tan thiền lực của ngài.

Rồi không đủ khả năng ổn định tư tưởng, ngài đến chụp lấy hoàng hậu bằng đôi tay và hai vị lập tức kéo màn che phủ quanh người. Sau khi đã phạm tà dục với bà, ngài thọ thực và trở về ngự viên. Từ đó về sau, ngày nào ngài cũng đến làm như vậy.

Tà hạnh của ngài vang dậy khắp kinh thành. Các cận thần của vua dâng sớ tâu trình vua: “Nhà khổ hạnh Hàrita đang hành động như vậy như vậy”.

Vua suy nghĩ: “Họ nói như vậy để ly gián chúng ta” và vua không tin chuyện ấy.

Khi vua đã bình định vùng biên địa xong, liền trở về Ba-la-nại và sau buổi diễn binh oai nghi khắp kinh thành, vua đến gặp hoàng hậu và hỏi:

– Có thật Thánh nhân khổ hạnh Hàrita đã phạm tà dục với ái hậu chăng?

– Tâu Chúa thượng, quả đúng vậy.

Vua vẫn không tin lời bà và suy nghĩ. “Ta sẽ hỏi chính vị ấy”. Rồi đi đến ngự viên, vua vái chào ngài, ngồi kính cẩn một bên và ngâm vần kệ đầu để hỏi chuyện:

  1. Hà-ri Hiền hữu, trẫm nghe rằng
    Tôn giả nay đang sống lỗi lầm,
    Trẫm chẳng tin lời đồn đại ấy,
    Ngài không phạm tội ý, thân chăng?

Ngài suy nghĩ: “Nếu ta nói ta không phạm tội lỗi, vị vua này sẽ tin ta, nhưng trên thế gian này, không có một căn cứ nào vững chắc bằng nói sự thật. Người nào từ bỏ sự thật, dù ngồi trong Bồ-đề đạo tràng linh thiêng cũng không để đạt quả Phật. Vậy ta cần nói sự thật”.

Trong vài trường hợp, một vị Bồ-tát có thể sát sinh, lấy của không cho, phạm tà dục và uống rượu nồng, nhưng vị ấy không được nói dối đi kèm với sự lừa phỉnh vi phạm chân lý của vạn vật. Vì thế ngài ngâm vần kệ thứ hai chỉ nói lên sự thật:

  1. Ta phạm ác hành, hỡi Ðại vương,
    Ðúng như Ngài đã được nghe rằng
    Mắc vào tà thuật trong trần thế,
    Ta đã đi sai lạc bước đường.

Nghe vậy, vua ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Trí tuệ uyên thâm của thế nhân
    Hoài công vô ích, chẳng xua tan
    Dục tham bùng dậy trong lòng dạ
    Của bậc trí nhân đã lạc đường.

Sau đó Hàrita nêu rõ cho vua thấy uy lực của dục tham qua vần kệ thứ tư:

  1. Bốn ác dục này ở thế gian
    Uy quyền lấn áp cứ lan tràn:
    Tham, sân, vô độ và si ám,
    Tri kiến không sao đứng vững vàng.

Vua nghe liền ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Thánh hạnh tràn đầy với trí minh
    Hà-ri Hiền giả đáng tôn vinh!

Hiền giả Hàrita ngâm tiếp vần kệ thứ sáu:

  1. Ác tâm, tham dục, do liên kết,
    Huỷ hoại trí nhân hướng Thánh hành.

Sau đó vua ngâm vần kệ thứ bảy khuyến nhủ vị ấy quẳng bỏ mọi tham dục:

  1. Vẻ đẹp trong tâm tịnh sáng ngời
    Bị hư vì ác dục sinh sôi,
    Quẳng ngay, hạnh phúc đang chờ đón,
    Quần chúng tuyên dương trí tuệ ngài.

Khi ấy Bồ -tát đã phục hồi năng lực Thiền định và quán sát sự đau khổ của tham dục, ngài ngâm vần kệ thứ tám:

  1. Vì tham dục trói buộc thân này,
    Sinh sản cho ta quả đắng cay,
    Ta quyết cắt sâu cho tận gốc
    Mọi mầm tham dục khởi lên đây.

Nói vậy xong, ngài xin phép vua, rồi sau khi được chấp nhận, ngài về tham am tập trung nhãn lực vào đề tài và nhận định, sau đó bước ra khỏi am, ngồi bắt chéo chân trên không và giảng Chánh pháp cho vua, ngài bảo:

– Tâu Ðại vương, ta đã tạo nên sự chỉ trích của quần chúng vì ta cư trú một nơi mà ta không nên cư trú. Nhưng giờ đây xin Ðại vương hãy tỉnh giác hộ phòng. Còn ta sẽ trở về núi rừng thoát ly mọi ô nhiễm của nữ sắc.

Rồi giữa những giọt nước mắt và tiếng than khóc của vua, ngài trở về Tuyết Sơn, rồi không gián đoạn Thiền định, ngài lên cõi Phạm thiên.

Bậc Ðạo Sư biết toàn thể câu chuyện và bảo:

  1. Như vậy, Hà-ri bậc trí nhân
    Ðấu tranh vì Chánh pháp kiên cường,
    Vừa khi rời bỏ niềm tham dục,
    Hướng đến Phạm thiên tiến thẳng đường.

*

Sau khi ngâm vần kệ do Trí tuệ tối thắng, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo có tâm thế tục ấy đã đắc Thánh quả.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời bấy giờ vua là Ànanda, và Hàrita chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cậu Bé Có Tài Nhận Dấu Chân (Tiền thân Padakusalamànava)

Pà- ta bị cuốn bởi sông Hằng…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi trú tại Kỳ Viên về một cậu bé.

Người ta đồn cậu bé ấy là con của một gia chủ tại Sàvatthi, chỉ có bảy tuổi đã có tài nhận ra dấu chân. Bấy giờ cha cậu bé có ý định thử tài con, liền đi đến nhà người bạn mà không cho cậu biết. Cậu bé chẳng cần hỏi cha đã đi đâu, cứ theo vết chân của cha cậu, đến đứng trước mặt cha. Vì thế một hôm cha cậu hỏi:

– Khi cha ra đi mà không nói với con, làm thế nào mà con biết cha đi đâu?

– Thưa cha, con nhận ra dấu chân của cha. Con có tài về chuyện này.

Sau đó, cha cậu lại muốn thử cậu, liền ra khỏi nhà sau khi ăn sáng, đi vào nhà kế cận, từ đó qua một nhà khác, từ nhà thứ ba ông lại quay về nhà mình, rồi sau đó đi ra cổng Bắc, xong đi một vòng quanh thành phố từ phải sang trái. Khi đến Kỳ Viên, ông đảnh lễ bậc Ðạo Sư, rồi ngồi xuống nghe Pháp. Cậu bé hỏi cha ở đâu, và người nhà bảo:

– Ta không biết.

Cậu lần theo dấu chân cha bắt đầu từ nhà bên cạnh đi theo đúng con đường cha cậu đã đi qua. Sau khi đánh lễ bậc Ðạo Sư, cậu đứng trước mặt cha. Và cha hỏi làm sao con đến đây được, cậu đáp:

– Con nhận ra dấu chân cha và lần theo dấu ấy đến đây.

Người cha nói:

– Bạch Thế Tôn, thằng bé này có tài nhận ra dấu chân. Muốn thử nó, con đã đến đây theo cách như vầy như vầy. Nó không thấy con ở nhà, cứ lần theo dấu chân đến đây.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Không lạ gì việc nhận ra dấu chân dưới đất. Các bậc trí nhân ngày xưa nhận ra dấu chân trên không gian.

Và theo lời thỉnh cầu, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Thời xưa dưới triều vua Brahmadatta ở Ba-la-nại, vị chánh hậu bị vua chất vấn sau khi phạm tội tà dục, liền tuyên thệ:

– Nếu thần thiếp phạm tội với Chúa thượng, thần thiếp sẽ trở thành một con quỷ cái Dạ-xoa có mặt ngựa.

Sau khi chết, bà trở thành con quỷ cái có mặt ngựa sống trong hang đá ở một khi rừng rậm dưới chân núi và thường bắt những người qua lại trên con đường từ biên giới Ðông sang Tây để ăn thịt. Chuyện kể rằng sau khi phục vụ Thiên vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) suốt ba năm, quỷ cái nàyđược phép ăn thịt người trong một khu vực dài ba mươi dặm, rộng năm dặm.

Một hôm, một vị Bà-la-môn giàu sang, đẹp trai được một đoàn tuỳ tùng đông đảo hộ tống đi lên con đường ấy. Dạ-xoa liền thấy chàng liền cười lớn chạy xuống chụp chàng, còn đám tùy tùng chạy trốn cả.

Với tốc lực nhanh như gió, quỷ cái bắt được chàng Bà-la-môn ném lên lưng nó và đưa vào hang. Do xúc chạm với chàng trai, quỷ cái bị lòng dục chi phối và cảm thấy yêu mến chàng, nên thay vì ăn thịt chàng, nó lại lấy chàng làm chồng và cả hai sống hoà hợp với nhau.

Từ đó mỗi khi quỷ cái bắt được đàn ông, nó lấy áo quần, lúa gạo, dầu mỡ cùng với mọi thứ khác phục vụ chàng đủ món cao lương mỹ vị, còn nó vẫn ăn thịt người.

Khi nào nó đi xa, nó sợ chàng trốn thoát, nên vẫn lấy hòn đá lớn đậy miệng hoang trước khi đi. Trong thời gian họ sống an vui như vậy, thì Bồ-tát vừa từ giã từ đời trước và nhập vào mẫu thai của quỹ cái với vị Bà-la-môn. Sau mười tháng, quỷ cái sinh một con trai, nó vô cùng thương yêu cả vị Bà-la-môn lẫn hài nhi, nên nuôi nấng họ chu đáo. Dần dần khi cậu bé lớn lên, quỷ cái đặt con vào trong hang với cha, rồi đóng cửa lại.

Một hôm Bồ-tát biết mẹ đã đi xa liền giở hòn đá lên và đưa cha ra ngoài. Khi quỷ cái trở về, hỏi aiđã giở hòn đá, cậu bé đáp:

– Thưa mẹ, chính con, vì cha và con không thể ngồi trong tối mãi.

Do thương con, quỷ cái không nói lời nào nữa. Một hôm Bồ-tát hỏi cha:

– Thưa cha, miệng cha khác với miệng mẹ, vì sao vậy?

– Con ơi, mẹ con là quỷ Dạ-xoa sống bằng thịt người, còn cha là con người.

– Nếu vậy, tại sao ta sống ở đây? Mau lên, chúng ta quyết trở về nơi chốn loài người.

– Con ơi, nếu ta cố chạy trốn, mẹ con sẽ giết chết cả hai ta đấy.

Bồ-tát an ủi cha và bảo:

– Cha đừng sợ, việc đem cha trở về chốn loài người là phận sự của con.

Hôm sau, khi mẹ cậu đã ra đi, cậu đem cha chạy trốn.

Khi quỷ cái trở về thấy thiếu họ, nó liền chạy như gió bắt họ lại và nói:

– Này chàng Bà-la-môn, tại sao chàng bỏ chạy, chàng có thiếu gì ở đây chăng?

– Nàng ơi, xin đừng giận ta. Con nàng đem ta đi theo nó đấy.

Quỷ cái không nói gì thêm, do lòng thương con, nó an ủi hai cha con và mang họ trở về hang sau vài ngày bay vùn vụt.

Bồ-tát suy nghĩ: “Mẹ ta chắn hẳn phải có một ranh giới hoạt động. Giả sử ta hỏi mẹ về ranh giới mà mẹ có quyền hạn, rồi ta sẽ đi trốn bằng cách vượt qua ranh giới đó”.

Vì vậy, hôm ngồi kính cẩn bên mẹ, ngài hỏi:

– Mẹ ơi, những gì thuộc về mẹ đều truyền cho con; vậy mẹ nói cho con biết ranh giới vùng đất của ta.

Quỷ cái liền cho biết mọi phạm vi đất đai núi rừng ở mọi hướng và chỉ rõ khu vực dài ba mươi dặm rộng năm dặm ấy, xong lại bảo:

– Hãy xem nó nhiều như vậy đấy con à.

Sau hai ba ngày, khi mẹ đã vào rừng, ngài cõng cha lên vai và chạy nhanh như gió theo dấu hiệu mẹ ngài đã cho biết, ngài đến bờ sông làm ranh giới. Quỷ cái trở về thấy thiếu họ liền đuổi theo.

Bồ-tát mang cha ra giữa sông, còn quỷ cái đứng bên bờ thấy họ đã vượt phạm vi của nó, đành phải đứng lại và kêu:

– Con yêu quý ơi, hãy đến đây cùng với cha con. Mẹ có lỗi lầm gì nào? Có việc già không vừa lòng con về phương diện nào? Xin chàng hãy trở về mau!

Quỷ cái van xin chồng con như vậy.

Vị Bà-la-môn đã qua bên kia sông. Quỷ cái lại khẩn cầu con:

– Con yêu quý ơi, đừng làm như vậy. Hãy trở lại mau!

– Mẹ ơi, cha và con là người, còn mẹ là quỷ Dạ-xoa. Cha và con không thể ở mãi với mẹ được.

– Thế con không muốn trở lại à?

– Không mẹ ơi!

– Vậy nếu con không muốn trở lại mà sống trên thế giới loài người khổ lắm con ạ, những người không biết nghề gì thì không thể sống được. Mẹ có phép thuật cao cường, nhờ thần lực đó, ta có theo dõi dấu chân của người đã đi qua sau mười hai năm. Ðiều này sẽ làm kế sinh nhai của con. Này con, hãy nhận lấy phép thuật cao giá này.

Mặc dù lòng nặng trĩu đau buồn, do lòng thương con, quỷ cái cũng trao thần chú cho con. Bồ-tátđứng giữa sông chắp hai tay lại kính cẩn nhận thần chú và vái chào mẹ ngài:

– Mẹ ơi, con xin từ giã mẹ.

Quỷ cái bảo:

– Con ơi, nếu con không trở lại, mẹ không thể sống được.

Nó liền đấm vào ngực và ngay lập tức do sầu não vì con, tim nó tan nát ra nên nó chết tại chỗ.

Bồ- tát biết mẹ đã chết, liền gọi cha và đi làm giàn hoả thiêu xác mẹ. Sau khi dập tắt lửa, ngài cúng nhiều loại hoa đủ màu sắc, vừa than khóc, vừa cùng cha trở về Ba-la-nại.

Quân hầu tâu trình vua:

– Một cậu thanh niên có tài nhận ra dấu chân đang đứng chờ ở cửa.

Khi vua ra lệnh ngài vào chầu, ngài bước vào cung kính vái chào vua. Vua hỏi:

– Này Hiền hữu, khanh biết nghề gì?

– Tâu Chúa thượng, tiểu thần biết theo dõi dấu chân của người đã trộm cắp tài vật cách mười hai năm trước và bắt lấy họ.

– Thế thì vào đây hầu hạ trẫm. Vua bảo.

– Tiểu thần muốn phục vụ Chúa thượng với tiền công mỗi ngày một ngàn đồng.

– Tốt lắm, này Hiền hữu, nhất định khanh sẽ phục vụ trẫm.

Rồi vua ban cho ngài một ngàn đồng tiền mỗi ngày.

Một hôm, vị tế sư hoàng gia trình vua:

– Tâu Chúa thượng, chàng thanh niên chưa sử dụng xảo thuật để làm gì cả nên ta không biết chàng có tài hay không, vậy bây giờ ta quyết thử tài chàng.

Vua sẵn sàng chấp nhận. Hai vị thông báo cho các vị thủ kho và lấy các châu báu có giá trị nhất từ lầu thượng xuống, rồi sau khi đi lẩn quẩn ba vòng quanh cung điện, họ đặt cái thang trên nóc tường và theo đó đi ra ngoài.

Sau đó họ vào Pháp đình, ngồi xuống rồi trở ra đặt cái thang trên tường và leo xuống và đi vào thành. Khi đến bờ hồ nước, họ đi vòng quanh ba vòng rào trang nghiêm rồi thả các báu vật vào hồ và trèo lên lầu thượng như cũ.

Hôm sau có tiếng huyên náo và nhiều người kêu:

– Các báu vật đã bị mất khỏi cung rồi.

Vua giả vờ không biết gì, triệu Bồ-tát đến bảo:

– Này Hiền hữu, nhiều báu vật vừa bị mất trộm khỏi cung, ta phải tìm ra dấu vết.

– Tâu Chúa thượng, đối với một người có khả năng theo dấu vết bọn trộm cắp và thu hồi bảo vật cách mười hai năm trước, thì chẳng có gì thần kỳ khi tìm được tài vật chỉ mất sau một ngày đêm. Tiểu thần quyết đem lại đủ, xin Chúa thượng yên tâm.

– Vậy Hiền hữu hãy thu hồi báu vật.

– Tâu Chúa thượng, được lắm.

Ngài nói xong đi đảnh lễ hương hồn mẹ, rồi vừa niệm thần chú vừa đứng yên trên thượng lầu, rồi trình vua:

– Tâu Chúa thượng, dấu chân của bọn trộm sẽ được tìm ra.

Sau đó theo dấu chân vua và vị tế sư, ngài vào cung thất, từ đó ra đi, ngài bước xuống khỏi thượng lầu và sau ba vòng đi quanh hoàng cung, ngài đến gần cái hồ. Ðứng bên hồ, ngài bảo:

– Tâu Chúa thượng, bắt đầu ở nơi này từ bức tường, tiểu thân thấy dấu chân trên không. Xin đem cho tiểu thần một cái thang.

Sau khi nhờ đặt cái thang sát tường, ngài leo xuống và tiếp tục theo dõi dấu vết, ngài đến Pháp đình. Rồi trở vào cung, ngài bảo đặt cái thang sát tường và từ đó ngài leo xuống đi đến hồ nước. Sau khi đi quanh hồ nước ba lần, ngài bảo:

– Tâu Chúa thượng, bọn trộm đã vào hồ này.

Và vừa lấy báu vật ra như thể chính ngài đặt chúng vào đó, ngài dâng vua và trình:

– Tâu Chúa thượng, hai đạo tặc này là người đặc biệt, chúng đã vào cung bằng cách này.

Quần thần búng ngón tay biểu lộ hân hoan cực độ và rất nhiều khăn quàng tung vẫy lên. Vua suy nghĩ:

“Có lẽ chàng trai này theo dõi dấu chân nên biết nơi bọn trộm cất báu vật, nhưng chàng không bắt được chúng”. Sau đó vua phán:

– Hiền hữu đã mang lại ngay báu vật được bọn trộm mang đi, nhưng khanh có thể bắt bọn trộm và đưa chúng cho trẫm chăng?

– Tâu Chúa thượng, bọn trộm ở đây, chúng không ở đâu xa.

– Chúng là ai thế?

– Tâu Ðại vương, bất cứ ai thích đều có thể làm kẻ trộm cả. Ðại Vương đã thu hồi báu vật rồi, sao Ðại Vương còn muốn bắt trộm làm gì nữa? Xin Ðại Vương hỏi chuyện ấy.

– Này Hiền hữu, trẫm ban cho khanh mỗi ngày một ngàn đồng tiền, vậy hãy đem bọn trộm đến cho trẫm.

– Tâu Chúa thượng, khi đã thu hồi báu vật, thì cần gì bắt bọn trộm nữa?

– Này Hiền hữu, đối với mọi người, bắt bọn trộm còn quan trọng hơn thu hồi báu vật.

– Thế thì, tâu Chúa thượng, tiểu thần sẽ không tâu với Chúa thượng: “Bọn trộm là những người này, người nọ”, nhưng tiểu thần sẽ kẻ một chuyện xảy ra đã lâu. Nếu Chúa thượng thông thái, Chúa thượng sẽ biết ý nghĩa của nó.

Rồi sau đó ngài kể một chuyện cổ.

* Chuyện vũ công Pàtala

– Tâu Ðại vương, ngày xưa có một vũ công tên là Pàtala sống không xa thành Ba-la-nại, trong một ngôi làng bên bờ sông. Một hôm y vào Ba-la-nại cùng với vợ, và sau khi kiếm tiền được nhờ múa hát, y ăn cơm uống rượu no say vào dịp lễ hội chấm dứt.

Trên đường về làng cũ, y đến bờ sông ngồi ngắm dòng nước chảy vừa uống rượu nồng. Trong lúc đang say không biết mình sức yếu, y bảo: “Ta sẽ buộc ống sáo lớn vào cổ và đi xuống sông”. Y dắt vợ trong tay bước dần xuống sông. Nước vào trong các lỗ ống sáo, rồi sức nặng của ống sáo làm y bắt đầu chìm xuống.

Nhưng khi vợ thấy y chìm dần, nàng bỏ mặc y, bước lên khỏi sông và đứng trên bờ.

Vũ công Pàtala lúc chìm lúc nổi và bụng trướng lên vì uống nước. Vì vậy vợ y suy nghĩ: “Chồng ta sắp chết, ta muốn xin chàng một bài hát và sẽ kiếm sống nhờ hát giữa đám đông”, và nói:

– Chàng ơi, chàng sắp chìm xuống nước, xin hãy cho thiếp một bài hát nhờ đó thiếp tìm ra cách nuôi thân.

Rồi nàng ngâm vần kệ:

  1. Pà-ta bị cuốn bởi sông Hằng,
    Ca vũ tài hoa tiếng lẫy lừng,
    Chàng hởi! Chàng trôi theo sóng nước,
    Xin chàng cho thiếp khúc ca ngâm.

Lúc ấy vũ công Pàtala nói:

– Nàng ơi, làm sao cho nàng một khúc ca bây giờ đây? Nước vốn là nguồn cứu khổ cho con người nay đang giết ta.

Và y ngâm một vần kệ:

  1. Những người đang bất tử mê man,
    Nhờ nước vào để cứu thương,
    Ta bị chết ngay trong sóng nước,
    Nơi nương tựa đã hoá tai ương!

Bồ -tát muốn giải thích vần kệ này, bảo:

– Tâu Ðại vương, giống như nước là nơi nương tựa của mỗi con người, cũng vậy là vua chúa đối với dân. Nếu hiểm hoạ phát sinh từ vua chúa, thì còn ai đề phòng được hiểm hoạ ấy nữa? Tâu Ðại vương, đây là một vấn đề bí mật. Tiểu thần vừa kể một câu chuyện mà người hiền trí có thể hiểu được. Xin Ðại vương có thể hiểu nó.

– Này Hiền hữu, trẫm không hiểu chuyện bí mật như thế này đâu. Hãy bắt bọn trộm đến cho trẫm.

Sau đó Bồ-tát nói:

– Tâu Ðại vương, thế thì xin hãy nghe chuyện này và sẽ hiểu.

Rồi ngài lại kể một chuyện khác.

* Chuyện người thợ gốm.

– Tâu Ðại vương, ngày xưa trong ngôi làng ngoài cổng thành Ba-la-nại, có một người thợ gốm thường tìm đất sét đem về làm đồ gốm, và bao giờ cũng lấy đất sét ở một nơi mà y đào thành một cái hố sâu vào một hang núi.

Bấy giờ, một hôm y đang đào đất sét, một cơn giông bão trái mùa bùng lên làm mưa rơi tầm tã, gây ngập lụt và làm sụp một bên hố khiến y bị vỡ đầu. Y liền ngâm vần kệ, khóc than rên rĩ:

  1. Cái vật nhờ hạt nẩy mầm
    Ðể nuôi sống tất cả người trần,
    Ðã làm ta vỡ đầu ra đấy,
    Chỗ dựa thành tai hoạ bản thân.

– Tâu Ðại vương, giống như đại địa cầu vốn là nơi nương tựa của loài người, lại làm vỡ đầu chú thợ gốm, cũng vậy, khi vua vốn như là nơi nương tựa của toàn dân, lại đứng lên đóng vai kẻ trộm, thì còn ai có thể đề phòng hiểm hoạ ấy? Tâu Ðại vương, thế Ðại vương có nhận ra tên trộm giả dạng trong câu chuyện này chăng?

– Này Hiền hữu, chúng ta không cần ý nghĩa ẩn kín trong đó. Hãy nói rõ: “Ðây là tên trộm” và bắt nó dẫn đến giao cho trẫm.

Vẫn bảo vệ nhà vua và không nói thành lời: “Chính Ðại vương là tên trộm”, ngài lại kể một chuyện khác.

* Chuyện ngọn lửa.

Tâu Ðại vương, ngay chính kinh thành này, có một nhà người kia bị cháy. Y ra lệnh một người khác vào nhà đem tài sản của y ra. Ðến khi chính chủ nhà này vào nhà và đem đồ vật ra thì cánh cửa chợt đóng lại. Y bị khói toả mù mịt không thể tìm đường thoát ra và bị ngọn lửa lên cao hành hạ đau đớn, y ở trong nhà khóc vừa than vừa ngâm vần kệ này:

  1. Cái vật làm tan vỡ giá băng
    Và thiêu đốt hạt giống khô cằn,
    Ðang thiêu huỷ tứ chi ta đó,
    Chỗ dựa thành tai hoạ khổ thân
    .

– Tâu Ðại vương, có một người cũng giống như ngọn lửa, vốn là nơi nương tựa của quần chúng, lại đi ăn trộm một số lớn châu báu. Xin Ðại vương đừng hỏi tiểu thần về tên trộm này nữa.

– Này Hiền hữu, cứ đưa tên trộm đến cho trẫm.

Vẫn không nói rõ cho vua chính vua là kẻ trộm, ngài lại kể một chuyện nữa.

* Chuyện bội thực.

– Tâu Ðại vương, ngày xưa chính tại kinh thành này có một người ăn thái quá nên không thể tiêu hoá thức ăn. Ðau đớn điên cuồng, y ngầm vần kệ than khóc:

  1. Thức ăn nuôi sống biết bao người
    Ðạo sĩ, La-môn giữa đời,
    Ðã giết chết ta đây trọn vẹn,
    Nơi nương tựa hoá khổ đau rồi.

– Tâu Ðại vương, có một người vốn như lúa gạo, là nơi nương tựa của toàn dân, lại ăn trộm tài vật. Khi tài vật đã được thu hồi, tại sao còn hỏi về tên trộm làm gì?

– Này Hiền hữu, nếu khanh có tài thì cố đem tên trộm đến cho trẫm.

Ngài kể một chuyện khác để làm cho vua hiểu.

* Chuyện gió thổi.

– Tâu Ðại vương, ngày xưa ngay chính kinh thành này có ngọn gió thổi lên làm gãy tay chân một người. Y ngâm vần kệ than khóc:

  1. Những bậc trí nhân vẫn nguyện cầu
    Gió lành tháng sáu thổi lên mau.
    Gió nay làm tứ chi ta gãy,
    Chỗ dựa thành tai hoạ khổ đau!

– Tâu Ðại vương, như vậy quả thật hiểm nguy phát xuất từ nơi nương tựa của thần. Xin hãy hiểu chuyện này.

– Hiền hữu, hãy đem tên trộm cho trẫm.

Ðể làm cho vua hiểu, ngài lại kể một chuyện khác.

* Chuyện cành cây.

– Tâu Ðại vương, ngày xưa trên triền núi Tuyết Sơn có một cây mọc lên chĩa ra nhiều nhánh làm nơi trú ẩn vô số chim muông. Một hôm hai cành cọ xát vào nhau. Khói bốc ra rừ đó và các đốm lửa rơi xuống. Thấy vậy, chim chúa ngâm vần kệ này:

  1. Lửa phát sinh ra ở ngọn cây
    Chúng ta an trú bấy lâu nay,
    Mau lên, giải tán bầy chim nhé,
    Chỗ dựa thành nơi hiểm hoạ đầy.

– Tâu Ðại vương, giống như cây kia là nơi nương tựa của chim muông, cũng vậy, vua là nơi nương tựa của thần dân. Nếu vua đóng vai kẻ trộm, thì ai còn đề phòng hiểm hoạ ấy nữa? Xin Ðại vương lưu ý điều này.

– Này Hiền hữu, cứ đem tên trộm đến cho trẫm.

Sau đó ngài lại kể một chuyện khác nữa:

* Chuyện giết mẹ già.

– Tâu Ðại vương, trong một làng ở Ba-la-nại, về phía tây một nhà quý tộc, có con sông đầy cá sấu hung dữ, gia đình ấy chỉ có một trai. Lúc cha mất, cậu con chăm sóc mẹ già chu đáo.

Dù con trai không muốn, bà mẹ vẫn đem một cô gái quý tộc về làm vợ chàng. Ban đầu, nàng tỏ ra yêu thương mẹ chồng, nhưng về sau dần dần nàng có đủ con trai con gái đông đúc, nàng muốn trừ khử bà đi.

Mẹ của nàng cũng ở nhà này. Trước mặt chồng, nàng tìm ra đủ mọi lỗi lầm của mẹ chồng để làm cho chồng có ác cảm với bà, và bảo:

– Thiếp không thể nuôi mẹ chàng được nữa. Chàng phải giết mẹ đi.

Khi chàng bảo:

– Sát nhân là chuyện hệ trọng, làm sao ta có thể giết mẹ được?

Nàng đáp:

– Khi nào mẹ chàng ngủ rồi, chúng ta sẽ đem bà đi, luôn cả giường chiếu đồ đạc, rồi ném bà vào sông cá sấu. Cá sấu sẽ kết liễu đời bà.

– Thế mẹ nàng ở đâu?

– Mẹ thiếp ngủ cùng phòng với mẹ chàng.

– Thế thì nàng đi đánh dấu vào chiếc giường mẹ ta nằm bằng cách buộc sợi dây thừng vào đó.

Nàng làm như vậy rồi bảo:

– Thiếp đã đánh dấu lên đó rồi.

Người chồng đáp:

– Hãy đợi ta một lát, để mọi người đi ngủ trước đã.

Rồi chàng nằm xuống giả vờ ngủ, sau đó, đi buộc sợi dây thừng vào giường mẹ vợ. Sau đó chàng đánh thức vợ dậy, cả hai cùng đi khiêng bà mẹ lẫn tất cả giường chiếu đồ đạc ném xuống sông. Bầy cá sấu giết chết bà ăn thịt ngay tại chỗ.

Hôm sau nàng khám phá mọi việc đã xảy ra cho chính mẹ mình, liền nói:

– Chàng ơi, mẹ thiếp đã chết rồi, nay ta hãy giết mẹ chàng.

Chàng bảo:

– Ðược lắm. Chúng ta làm một giàn hoả tại nghĩa địa, rồi thả bà vào đó để giết bà.

Thế là hai vợ chồng khiêng bà ra nghĩa địa trong lúc bà ngủ và đặt bà tại đó. Rồi người chồng hỏi vợ.

– Nàng có đem lửa theo không?

– Chàng ơi, thiếp đã quên rồi.

– Vậy đi tìm lửa đem về đây.

– Chàng ơi, thiếp không dám đi, còn nếu chàng đi, thiếp không dám ở lại đây. Vậy chúng ta cùng đi nhé.

Khi họ đi rồi, bà già tỉnh giấc vì gió lạnh, thấy đấy là nghĩa địa, bà suy nghĩ: “Chúng nó muốn giết ta, chúng đã đi tìm lửa. Chúng không biết ta mạnh dạn ra sao đâu”.

Bà liền lấy một tử thi đặt lên giường và lấy khăn phủ kín, rồi chạy đi trốn trong hang núi ở nơi ấy. Hai vợ chồng đem lửa về, tưởng tử thi ấy là bà già, họ đốt xác rồi ra về.

Có một kẻ trộm kia dấu một gói đồ vật trong hang núi ấy, lúc trở về thấy bà già, y suy nghĩ: “Ðây chắc là quỷ Dạ-xoa. Gói đồ đạt của ta bị quỷ ám”. Thế là y đi tìm thầy bùa trừ tà.

Thầy bùa đọc thần chú và đi vào hang. Bà già bảo:

– Ta không phải là quỷ Dạ-xoa, nào chúng ta cùng hưởng số báu vật này.

– Làm sao tin được chuyện này?

– Cứ đặt lưỡi ông trên lưỡi ta đây.

Thầy bùa làm theo, bà già cắn một khúc lưỡi của thầy và nhả xuống đất. Thầy bùa suy nghĩ: “Chắc chắn đây là quỷ Dạ-xoa”. Thầy bùa vừa chạy vừa la to, với cái lưỡi chảy máu ròng ròng. Hôm sau bà già mặc y phục sạch sẽ và đi lấy gói báu vật đem về. Nàng dâu thấy bà vội hỏi:

– Mẹ ơi mẹ tìm gói này ở đâu thế?

– Con yêu quí ơi, hễ ai bị đốt cháy trên giàn hoả trong nghĩa địa này đều tìm được một gói như vậy.

– Mẹ yêu quí ơi, thế con có thể tìm được gói này chăng?

– Nếu con cũng làm như ta thì con cũng có được.

Thế rồi nàng không nói gì với chồng, và trong lòng ước muốn có được số châu báu để đeo, nàngđi đến đó tự thiêu sống. Hôm sau, chồng nàng thấy vợ vắng, liền hỏi:

– Mẹ yêu quí ơi, giờ này sao con dâu mẹ chưa đến?

– Này đồ bất nhân kia, người chết làm sao trở về được?

Rồi bà già ngâm vần kệ:

  1. Một gái xuân xanh đẹp biết bao
    Với vòng hoa trắng đội trên đầu
    Dầu thơm sực nức chiên-đàn toả,
    Ðã được ta ngày trước đón dâu;
    Nương tử hân hoan mong ngự trị
    Trong nhà ta ở tự bao lâu;
    Con dâu đuổi mẹ đi nơi khác,
    Chỗ dựa thành tai hoạ thảm sâu!

– Tâu đại vương, giống như con dâu đối với mẹ chồng, cũng vậy, vua là nơi tựa của toàn dân. Nếu hiểm hoạ xuất phát từ đó, thì ta có thể làm gì được nữa? Xin đại vương hãy chú ý điều này.

– Này hiền hữu, trẫm không hiểu những việc khanh nói với trẫm. Cứ đem tên trộm lại đây cho trẫm.

Ngài suy nghĩ: “Ta muốn che chở vua”, rồi ngài lại kể một chuyện khác.

* Chuyện đuổi cha già

– Tâu Ðại vương, ngày xưa nay trong kinh thành này, một người kia sinh con trai đúng như lời nguyện cầu. Khi đứa con ra đời, người cha vui mừng hớn hở vì ý tưởng có được con trai, nên yêu quí nó lắm.

Khi đứa trẻ lớn lên, người cha cưới vợ cho con rồi dần dần ông già yếu không làm được việc nữa. Vì thế con ông bảo:

– Cha không làm việc được nữa, cha phải ra khỏi đây.

Rồi nó đuổi cha ra khỏi nhà.

Ông cha hết sức chật vật kiếm sống bằng nghề hành khất, vừa ngâm vần kệ vừa khóc than:

  1. Kẻ mà ta ước muốn sinh ra,
    Cũng chẳng hoài công mong đợi kia
    Lại đuổi ta đi: Nơi trú ẩn
    Hoá thành tai hoạ khổ thân ta.

– Tâu đại vương, giống như người cha già phải được đứa con khoẻ mạnh chăm sóc, cũng vậy, là toàn dân phải được vua bảo vệ, giờ đây mối hiểm hoạ lại xuất phát từ vua, người bảo vệ toàn dân. Tâu Ðại vương, xin hãy hiểu từ việc này rằng kẻ trộm là người như vậy như vậy.

– Trẫm không hiểu việc này, dù đó là sự thực hay không phải sự thực. Hoặc là ngươi phải mang kẻ trộm đến đây cho trẫm, hoặc chính ngươi là kẻ trộm ấy.

Vua cứ bảo chàng thanh niên như vậy mãi. Vì thế ngài hỏi vua:

– Tâu Ðại vương, Ðại vương thực sự muốn kẻ trộm bị bắt chăng?

-Ðúng vậy, Hiền hữu.

– Thế thì tiểu thần sẽ công bố giữa quần chúng rằng kẻ trộm là người như vầy như vầy.

– Hãy làm như vậy, này Hiền hữu.

Khi nghe vua nói, ngài suy nghĩ: “Vua này không cho phép ta che chở nữa. Ta sẽ bắt tên trộm bây giờ”.

Khi quần chúng đã tụ tập đầy đủ, ngài vần kệ với họ:

  1. Này dân thành thị đến nông làng
    Tề tựu lắng nghe tất cả rằng:
    Kìa! Nước lạnh nay đang đang bốc cháy
    Chốn bình an phát xuất kinh hoàng.
    Ðại vương, Ðạo sĩ cùng than vãn
    Quốc độ bị cường đạo phá tan.
    Vậy mọi người dân lo tự vệ,
    Nơi nương tựa bỗng hoá tai nàn.

Khi quần chúng nghe nói vậy, họ suy nghĩ: “Vị vua này, mặc dù phải bảo vệ thần dân, lại đổ lỗi cho người khác. Sau khi chính tay vua bỏ báu vật vào hồ, vua lại bảo đi tìm kẻ trộm! Ðể cho vua khỏi đóng vai kẻ trộm trong tương lai, chúng ta phải giết hôn quân vô đạo này”.

Vì thế họ đứng lên với trượng, chùy trong tay đánh vua và vị tế sư cho đến chết tại chỗ. Rồi họ làm lễ quán đảnh (rảy nước thánh phong vương) Bồ-tát và đưa ngài lên ngôi.

*

Sau khi kể chuyện này để làm sáng tỏ các Sự Thật, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này cư sĩ, không kỳ diệu gì khi nhận ra dấu chân trên mặt đất, vì các bậc trí ngày xưa còn nhận ra chúng trên không nữa.

Lúc kết thúc các Sự Thật, vị cư sĩ cùng con trai đắc Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, người cha là Kassapa (Ca-diếp) và chàng thanh niên có tài nhận dấu chân chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vị Khổ Hạnh Ca- Diếp Nhiều Lông Tóc (Tiền thân Lomasa Kassapa)

Ðại vương sẽ giống hệt Ind-ra…,

Bậc Ðại Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo có tâm thế tục.

Bậc Ðạo Sư hỏi vị ấy có thật ông đang mơ tưởng chuyện thế tục chăng, và khi ông công nhận làđúng như vậy, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, ngay cả người đạt danh vọng tối cao đôi khi cũng phạm vào một việc ô danh. Những tội lỗi như thế làm ô uế những vị thanh tịnh, huống nữa là một kẻ như ông.

Rồi Ngài một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa vương tử Brahmadatta, con vua Brahmadatta ở Ba-la-nại, và con trai vị tế sư hoàng gia tên là Kassapa là đôi bạn đồng học mọi nghệ thuật tại nhà một giáo sư. Dần dần khi vua cha băng hà, thái tử lên trị vì quốc độ. Kassapa nghĩ: “Hiền hữu ta đã lên làm vua và sẽ ban đại quyền lực cho ta. Song ta có cần gì quyền lực? Ta muốn giã từ đức vua cùng song thân và trở thành vị khổ hạnh”.

Vì vậy ngài vào vùng Tuyết Sơn sống đời tu hành, vào ngày thứ bảy ngài thành đạt các Thắng trí và các Thiền chứng và tự kiếm sống bằng những thứ nhặt được giữa đồng hoang. Quần chúng đặt cho ngài biệt danh nhà khổ hạnh Lomasa Kassapa (Ca-diếp có nhiều lông tóc).

Vì hành hạ thân xác, và trở thành vị khổ hạnh khắc nghiệt cao độ. Do công năng khổ hạnh này, cung của Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) rúng động. Sakka suy xét duyên cớ, quan sát ngài và suy nghĩ: “Vị khổ hạnh này nhờ công năng toả nhiệt độ mãnh liệt như thế, có thể khiến ta rớt khỏi ngai Ðế Thích. Ta sẽ phá huỷ khổ hạnh của vị ấy sau khi bí mật hội kiến với vua Ba-la-nại”.

Nhờ thần lực của một vị Thiên chủ, Ðế Thích vào cung của vua Ba-la-nại lúc nửa đêm và chiếu sáng toàn thể cung thất với hào quang trên thân, vừa đứng trên không trước mặt vua, Thiên chủ vừa thức vua dậy và nói:

– Thưa Ðại vương, dậy đi.

Vua hỏi:

– Ngài là ai? Vua hỏi.

– Ta là Sakka. Thiên chủ đáp

– Ngài đến đây vì duyên cớ gì?

– Thưa Ðại vương, Ðại vương có muốn quyền ngự trị duy nhất toàn cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) này chăng?

– Dĩ nhiên trẫm muốn.

Nghe thế thiên chủ bảo:

– Vậy hãy đưa Lomasa Kassapa về đây và ra lệnh cho vị ấy làm lễ tế đàn bằng cách giết thú vật, rồi Ðại vương sẽ trở thành vĩ đại như Thiên chủ Sakka (tức Indra), thoát khỏi già chết, và cầm quyền khắp cõi Diêm- phù-đề.

Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Ðại vương sẽ giống hệt Ind-ra,
    Sẽ chẳng chết đi, cũng chẳng già,
    Ví thử Kas-sa-pa nhận lệnh
    Tế đàn sinh vật tại cung vua.

Nghe lời ngài, vua sẵn sàng chấp thuận. Sakka bảo:

– Thế thì đừng chậm trễ.

Rồi ngài biến mất.

Hôm sau, vua triệu vị quốc sư tên Sayha đến bảo:

– Này Tôn giả, xin đến gặp thân hữu Lomasa Kasaspa của trẫm và nhân danh trẫm nói với người như vầy: “Nếu Ðại vương khuyến dụ được ngài làm lễ hiến tế sinh vật, đại vương sẽ trở thành vị chúa độc nhất ở toàn cõi Diêm-phù-đề và sau đó ban ngài nhiều vùng lãnh thổ như ý ngài muốn. Vậy xin ngài cùng đi với tôi về làm lễ tế đàn”.

Vị ấy đáp:

– Tâu Ðại vương, xin vâng.

Sau đó dùng trống lệnh truyền tìm chỗ vị khổ hạnh cư trú, và khi có người kiểm lâm bảo: “Tiểu thần biết”, Sayha liền đi theo sự hướng dẫn của y cùng một đoàn tuỳ tùng đông đảo, đến kính lễ vị hiền nhân và vừa cung kính ngồi một bên, vừa trình thông điệp của vua. Vị hiền nhân liền bảo:

– Này Sayha, Tôn giả nói gì vậy?

Rồi Ngài ngâm bốn vần kệ từ chối vị này:

  1. Không hải đảo nào giữa đại dương
    Ðược người canh giữ thật an toàn
    Hòng mong lôi cuốn ta, Tôn giả,
    Vào việc bạo tàn đại bất lương.
  2. Lòng tham lợi dưỡng với vinh danh,
    Tội ác từ đây vẫn phát sinh,
    Ðưa đến khổ ưu không gián đoạn
    Ác hành tai hại đáng chê khinh!
  3. Thà làm kẻ khốn khó ly gia,
    Khất thực kiếm ăn khắp mọi nhà
    Hơn phải tạo nên điều tội lỗi
    Sẽ mang ô nhục trút đầu ta.
  4. Thà cầm bình bát ở trong tay
    Ðể tránh thật xa tội lỗi này,
    Hơn chiếm được toàn quyền quốc độ
    Nhờ hành động ác độc như vầy.

Sau khi nghe ngài nói, vị quốc sư ra về trình vua. Vua suy nghĩ: “Nếu vị ấy không chịu đến đây thì ta làm gì được?”, rồi ngồi im lặng. Nhưng nửa đêm, Thiên chủ Sakka lại đến đứng trên không và bảo:

– Thưa Ðại vương, tại sao Ðại vương không truyền gọi ẩn sĩ Lomasa Kassapa về và ra lệnh vị ấy làm lễ hiến tế súc vật?

– Khi được lệnh truyền gọi, vị ấy đã từ chối về đây.

– Thưa Ðại vương, hãy trang điểm cho công chúa Candavatì (Nguyệt Nương), ái nữ của Ðại vương, và nhờ chính tay Sayha đưa nàng đi và bảo vị ấy: “Nếu Tôn giả muốn về dâng tế lễ, Chúa thượng sẽ ban thưởng công nương này làm vợ ngài”. Rõ ràng vị ấy sẽ sinh lòng say mê công chúa và về đây.

Vua sẵn sàng chấp thuận và hôm sau nhờ chính tay Sayha đưa công chúa đi. Sayha đem công chúa đến đó, và sau lời chào hỏi thông thường cùng ca ngợi vị hiền giả, vị quốc sư bảo đưa đến trình diện với ngài nàng công chúa diễm lệ khả ái như tiên nữ cung kính đứng xa xa.

Vị khổ hạnh mất ngay trí đức khi nhìn thấy nàng và chỉ nhìn thế thôi, ngài đã tiêu tan hết Thiền lực. Vị quốc sư thấy ngài đã đắm say luyến ái nàng, liền bảo:

– Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả muốn hiến tế, Chúa thượng sẽ ban công chúa này về làm vợ ngài.

Ngài rung động vì mãnh lực của tham dục liền hỏi:

– Chắc chắn Chúa thượng sẽ ban nàng cho ta chứ?

– Ðúng vậy, nếu ngài làm tế lễ, Chúa thượng sẽ ban nàng cho ngài.

– Tốt lắm. Nếu ta được nàng, ta sẽ làm lễ hiến tế.

Rồi đem nàng đi cùng ngài ngay lúc ấy với các chòm tóc bện của một vị khổ hạnh và mọi thứ khác, ngài leo lên chiếc vương xa lộng lẫy đi về Ba-la-nại. Còn vua, ngay khi nghe tin đang chắc chắn đến đó, liền chuẩn bị lễ đàn ở hố hiến tế sinh vật.

Khi thấy ngài đã đến, vua bảo:

– Nếu Hiền hữu dâng lễ hiến tế, trẫm sẽ sánh ngang với Thiên chủ Indra, và khi tế lễ hoàn tất, trẫm sẽ ban công chúa cho Hiền hữu.

Vị khổ hạnh Kasapa sẵn sàng chấp thuận.

Vì thế hôm sau vua cùng công chúa Candavatì đi đến hố hiến tế sinh vật. Tại đó có đủ loại súc vật bốn chân như voi, ngựa, bò đực và các loài khác đặt thành một dãy. Ẩn sĩ Kasapa lãnh việc hiến tế bằng cách giết chết tất cả bọn chúng.

Lúc ấy thần dân tụ tập quanh đó bảo:

– Hỡi Tôn giả Lomasa Kasapa, việc này không thích hợp cũng không xứng đáng với ngài, tại sao ngài làm như vậy?

Và vừa than vừa khóc, họ vừa ngâm hai vần kệ:

  1. Nhật, nguyệt đều mang đại lực thân,
    Thuỷ triều không nhượng lực phàm trần,
    La-môn, Ðạo sĩ đầy oai lực,
    Song vẫn kém xa lực nữ nhân.
  2. Nguyệt Nương cũng vậy, đã làm cho
    Ca-diếp Hiền nhân mắc tội to,
    Thúc giục ngài theo lời Chúa thượng
    Tế đàn sinh vật tại cung vua.

Vào lúc này để bắt đầu tế lễ, Kasapa nhấc bảo kiếm lên để đánh vào cổ vương tượng. Con voi thấy thanh kiếm, kinh hoàng sợ chết, liền rống thật lớn. Khi nghe tiếng voi rống, các súc vật kia, cả bầy voi ngựa, bò đực vì sợ chết, đồng rống lên thật lớn và quần chúng cũng kêu thét lên.

Kasapa nghe các tiếng rống kia, lòng xúc động và nghĩ lại các chòm tóc bện của mình. Lúc ấy ngài nhờ đến các chòm tóc, râu và lông phủ khắp ngực và toàn thân. Ðầy hối hận, ngài kêu lớn:

– Than ôi, ta đã phạm ác nghiệp không xứng đáng với tính cách của ta.

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ tám bày tỏ xúc động của mình:

  1. Ác nghiệp này ta đã muốn làm,
    Chính là kết quả của lòng tham,
    Cái mầm dục vọng đang tăng trưởng,
    Gốc rễ nó, ta quyết cắt ngang.

Sau đó vua phán:

– Này Hiền hữu, đừng sợ, hãy dâng tế lễ và ngay bây giờ trẫm sẽ ban cho Hiền hữu công chúa Candavatì, cùng với vương quốc của trẫm và cả một đống châu báu cao ngất nữa.

Nghe thế, ẩn sĩ Kassapa đáp:

-Tâu Ðại vương, ta không muốn tội ác này tràn ngập tâm ta.

Rồi ngâm vần kệ kết thúc:

  1. Ðáng ghét bao tham dục thế thường
    Thà theo khổ hạnh tốt lành hơn,
    Ta làm ẩn sĩ nguyền ly dục,
    Ngài giữ nước nhà với Nguyệt Nương.

Cùng với những lời này, ngài tập trung vào một đối tượng Thiền quán. Khi phục hồi được định lực đã mất, ngài ngồi bắt chéo chân trên không, thuyết Pháp cho vua, khuyên nhủ vua tinh cần làm thiện sự và bảo vua huỷ bỏ tế đàn cùng ban lệnh ân xá cho quần chúng. Rồi thể theo lời thỉnh cầu của vua, ngài bay lên không trở về nơi an trú của mình. Trong thời gian ngài còn sống, ngài tu tập các Phạm trú Viên mãn (Tứ Vô lượng tâm ) và được sinh lên Phạm thiên giới.

*

Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo có tâm thế tục đã đắc Thánh quả (A-la-hán).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thuở ấy vị đại quốc sư là Sàriputta và vị khổ hạnh Lomassa Kasapa chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chim Hồng Nga (Tiền thân Cakkavàka)

Ðôi chim lông óng ả, màu vàng…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo tham lam.

Người ta bảo vị ấy tham muốn các vật dụng cần thiết trong đời sống xuất gia và bỏ quên mọi phận sự của một sư trưởng và giáo thọ hướng dẫn đệ tử, thường vào thành Sàvatthi thật sớm. Sau khi ăn cháo gạo tuyệt hảo với nhiều loại thực phẩm loại cứng tại nhà nữ cư sĩ Visàkha, lại ăn thêm suốt ngày nhiều loại cao lương mỹ vị với cơm thịt, và vẫn chưa thoả mãn, ông đi từ đó đến nhà ông Tiểu Cấp Cô Ðộc, cung vua Kosala và nhiều nơi khác nữa. Vì thế một hôm có cuộc thảo luận tại Chánh pháp đường liên hệ đến tính tham lam của ông.

Khi bậc Ðạo Sư biết đề tài Tăng chúng đang thảo luận, Ngài truyền đưa vị Tỷ-kheo đến và hỏi có thật ông tham lam chăng. Và khi ông đáp:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn,

Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Tỷ-kheo, tại sao ông tham lam? Ngày xưa cũng vì tham ăn, không thỏa mãn với những xác voi chết, ông đã rời Ba-la-nại và lang thang quanh quẩn bờ sông Hằng, vào tận vùng Tuyết Sơn.

Và sau đó ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, một con Quạ tham lam đi quanh quẩn ăn xác voi chết, và không thoả mãn, nó nghĩ: “Ta muốn ăn mỡ cá trên bờ sông Hằng”. Rồi sau vài ngày ở tại đó ăn cá chết, nó vào vùng Tuyết Sơn sống bằng các loại quả rừng.

Khi đến một hồ sen rộng nhiều rùa cá, nó thấy hai con chim Thiên nga với bộ lông vàng óng ả sống bằng cây rong Sevàla, nó nghĩ: “Ðôi chim này thật mỹ lệ, đầy hảo tướng. Thức ăn của chúng chắc phải thích thú lắm. Ta muốn hỏi chúng đó là thức gì, rồi cũng ăn như thế và ta sẽ có màu lông óng ả kia”.

Vì vậy Quạ đến gần, sau lời chào hỏi ân cần theo thông lệ với đôi chim khi chúng đang đậu trên ngọn cây, quạ ngâm vần kệ ca ngợi chúng:

  1. Ðôi chim lông óng ả màu vàng
    Quanh quẩn đó đây, lạc thú tràn
    Chim loại gì người yêu mến nhất
    Là điều ta mong muốn biết cho tường.

Nghe vậy, Hồng nga ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Này Quạ, vượt lên mọi dã cầm,
    Hồng nga được hạnh phúc ban ân
    Mọi miền vang dậy tình thân ái
    Người lẫn chim đều vẫn tán dương
    Hãy biết Hồng nga là Ngỗng đỏ
    Bạo gan vùng vẫy nước sông Hằng

Nghe vầy, Quạ ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Trái gì sung mãn ở trên sông
    Tìm thấy “thịt” cho bạn Ngỗng hồng?
    Hãy nói món trời cho Ngỗng hưởng
    Ðể sinh sắc đẹp, lực tăng cường?

Hồng nga liền ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Chẳng trái gì ăn ở giữa sông,
    Và đâu có: “thịt” với chim Hồng
    Sè-và-la ấy đem chà vỏ
    Làm thức ăn không có lỗi lầm.

Sau đó Quạ ngâm hai vần kệ:

  1. Ta chẳng thích lời ấy, Ngỗng hồng,
    Trước kia ta thưởng thức cần dùng
    Ðể nuôi ta sống, cần phù hợp
    Với dáng bề ngoài ta ước mong.
  2. Nay ta nghi hoặc, bởi ta ăn
    Gạo, muối, dầu, bơ, thịt, quả ngon
    Như các anh hùng say yến tiệc
    Khi vừa trở lại khải hoàn môn
    Vậy ta thưởng thức đầy hương vị,
    Song dẫu ta đang sống thật là sang,
    Hình dáng bề ngoài ta vẫn thế
    Bên Hồng nga chẳng thể ngang bằng!

Sau đó Hồng nga bảo cho Quạ biết lý do tại sao Quạ không đạt được dung sắc mỹ lệ trong khi chính Hồng Nga đã đạt được qua các vần kệ còn lại:

  1. Không thoả vì hoa quả rớt rơi
    Trong vùng nghĩa địa hoả thiêu người,
    Tham lam, Qua vẫn bay lơ lững
    Săn đuổi mồi ngon cám dỗ hoài.
  2. Song những ai mong phạm ác hành,
    Chỉ vì dục lạc, giết sinh linh,
    Lương tâm giày xéo thân mòn mỏi,
    Vẻ đẹp, tráng cường huỷ hoại nhanh.
  3. Vậy cái thiện nhân chẳng hại ai,
    Hình dung cường tráng, vẻ xinh tươi,
    Bởi vì mỹ sắc, ta cần biết,
    Chẳng phải thuộc vào thực phẩm thôi.

Như vậy Hồng nga dùng nhiều phương tiện chỉ trích Quạ. Sau khi Quạ bị khiển trách như vậy, nó bảo:

– Ta chẳng muốn có sắc đẹp cuả Thiên nga nữa.

Và nó bay đi xa với tiếng kêu quác quác.

*

Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo tham lam đã đắc Nhị quả (Nhất Lai).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, con Quạ là Tỷ-kheo tham lam này, Hồng nga mái là mẫu thân Ràhula và Hồng nga trống chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ước Mơ Chóng Phai Tàn (Tiền thân Halidaràga)

Trong chốn rừng hoang vắng một mình…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một chàng thanh niên bị một thiếu nữ thô tục cám dỗ. Phần duyên khởi chuyện này sẽ xuất hiện trong Chương Mười ba, Tiền thân Cullàrada, số 477, tập IV.

*

Bấy giờ theo cổ tích này, cô thiếu nữ biết rằng nếu chàng thanh niên khổ hạnh phá huỷ giới đức, chàng sẽ rơi vào uy lực của nàng. Rồi nghĩ cách dụ dỗ chàng và đưa chàng trở lại cõi trần tục, nàng bảo:

– Giới đức được hộ phòng cẩn mật ở rừng sâu, nơi các đặc tính của dục lạc như sắc đẹp, tiếng hay và các thứ tương tự như thế không có mặt, nên giới đức ấy không mang lại nhiều kết quả; song nó sẽ mang kết quả sung mãn trong cõi đời thế tục khi đối diện trực tiếp với sắc đẹp, cùng các thứ kia. Vậy chàng hãy đi cùng thiếp về hộ phòng giới đức tại đó.

Và nàng ngâm vần kệ đầu:

  1. Trong chốn rừng hoang vắng một mình
    Con người có thể giữ tâm lành,
    Dễ dàng chịu đựng trò lôi cuốn,
    Song ở thôn quê hoặc thị thành
    Ðầy rẫy biết bao mùi cám dỗ
    Người vươn đến hạnh phúc tối cao minh.

Khi nghe vậy, chàng khổ hạnh trẻ tuổi đáp:

– Cha ta đã vào rừng. Khi người trở lại, ta sẽ xin phép người và đi theo nàng.

Nàng suy nghĩ: “Có lẽ chàng còn thân phụ. Nếu vị ấy thấy ta ở đây, vị ấy sẽ lấy đầu mũi đòn gánhđánh chết ta. Ta phải chạy trốn trước”. Vì thế nàng bảo chàng trai:

– Thiếp sẽ ra đi lên đường về trước chàng và để lại dấu chân sau đó, chàng cần phải đi theo thiếp.

Khi nàng đã đi rồi, chàng không đem củi về, cũng không lấy nước uống, mà chỉ ngồi thừ người suy nghĩ miên man, đến khi cha về, chàng cũng không ra đón.

Vì thế cha chàng hiểu con ngài đã rơi vào uy lực của nữ nhân, liền bảo:

– Này con, sao con chẳng tìm củi hay mang nước về uống, cũng chẳng có gì ăn, sao con chẳng làm gì cả mà chỉ ngồi người ra suy nghĩ?

Chàng trai khổ hạnh đáp:

– Thưa cha, người ta nói rằng giới đức được hộ phòng trong rừng hoang không đem lại kết quả mấy, nhưng nó sẽ phát sinh nhiều kết quả giữa của đời. Con muốn đi hộ phòng giới đức tại đó. Bạn đồng hành của con đã đi trước và bảo con theo sau. Vậy con muốn đi cùng bạn con. Nhưng khi sống tại đó, con phải cư xử theo cách nào?

Vừa hỏi câu này, chàng vừa ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Thưa cha, xin giải toả nghi nan:
    Ví lỡ con đi lạc bước đường,
    Từ chốn rừng này vào xóm nọ,
    Người nào giữ đức độ hiền lương,
    Hay là môn phái nào tu tập
    Con phải noi theo thật chánh chơn?

Sau đó thân phụ chàng ngâm các vần kệ còn lại:

3-4. Một kẻ nào con tín nhiệm luôn,
Và con tạo được mối yêu thương,
Người này tin cậy lời con nói,
Tỏ với con kiên nhẫn nhịn nhường,
Người ấy chẳng bao giờ phạm lỗi
Về lời nói, ý tưởng hay thân,
Hãy đem người ấy vào lòng dạ
Theo sát người kia tựa bạn vàng

5-6. Với hạng người thay đổi lạ lùng
Như lời loài khỉ vượn nhảy lung tung,
Tính tình bất định, thì con nhớ
Ðừng hướng tâm giao kết bạn cùng,
Dù số phần con quanh quẩn mãi
Một mình trơ trọi ở trong rừng.

  1. Hãy tránh xa đường hướng ác hành,
    Như con tránh rắn dữ cho nhanh,
    Hay như người lái xe xa lánh
    Một lối đi gai gốc gập ghềnh.

8-9. Các nỗi khổ đau vẫn ngập tràn
Khi người hầu cận hạng si cuồng,
Ðừng giao kết bọn người ngu xuẩn,
Lời nói của cha phải phục tuân,
Làm bạn với phường vô trí ấy
Chỉ làm mồi khổ não đau buồn.

Khi được cha khuyến giáo như vậy, chàng trai đáp:

– Nếu con đi đến chỗ người đời, con không thể tìm được các bậc hiền trí như cha. Con sợ đến đó lắm rồi. Con muốn ở lại đây hầu cận bên cha.

Sau đó phụ thân chàng lại khuyến giáo nhiều hơn nữa và dạy chàng các nghi thức tu tập đưa đến Thiền định vi diệu. Rồi chẳng bao lâu, chàng trai phát triển các Thắng Trí và các Thiền chứng và về sau chàng cùng cha đều được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo mơ tưởng thế tục đã đắc Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy vị khổ hạnh trẻ tuổi là Tỷ-kheo có tâm hướng về thế tục này, cô gái thuở ấy là cô gái ngày nay và cha chàng chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cái Hộp (Tiền thân Samuggu)

Kìa đến từ đâu, các bạn ta?…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo có tâm hướng đến thế tục.

Chuyện kể rằng bậc Ðạo Sư hỏi có thật vị ấy đang tham đắm thế tục chăng, và khi ông thú nhậnđúng như vậy. Ngài bảo:

– Này Tỷ-kheo, tại sao ông ham muốn nữ nhân? Nữ nhân thật là độc ác, vô ơn. Ngày xưa các ác quỷ Asura (A-tu-la) nuốt nữ nhân vào bụng và dù canh giữ nữ nhân trong bụng, chúng cũng không thể làm cho nữ nhân trung thành với một nam nhân được. Vậy thì bằng cách nào ông sẽ có khả năng làm chuyện ấy.

Rồi sau đó Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát từ bỏ tham dục lạc thế gian, vào vùng Tuyết Sơn theo đời tu tập, ngài ở đó sống bằng quả rừng và phát triển các Thắng trí cùng các Thiền chứng.

Không xa thảo am của ngài, có một ác quỷ Asura (A-tu-la). Thỉnh thoảng nó đến gần bậc Ðại Sĩ và nghe Pháp, nhưng vẫn đứng trong rừng trên xa lộ, nơi có nhiều người tu tập, nó bắt họ và ăn thịt.

Thời ấy có một nữ nhân quý tộc ở quốc độ Kàsi, cực kỳ diễm lệ, sống ở một làng biên địa. Một hôm nàng đi thăm cha mẹ và khi trở về, ác quỷ này thấy bọn người theo hộ tống nàng liền hoá hình khủng khiếp nhảy vào họ. Bọn người này đánh rơi khí giới cầm trong tay và chạy trốn. Ác quỷ thấy giai nhân ngồi trên xe ngựa, đâm ra say mê nàng, liền đem nàng về làm vợ.

Từ đó ác quỷ đem cho nàng bơ sữa, gạo, cá, thịt và các món ăn khác, cùng trái cây để ăn và điểm trang nàng với đủ thứ y phục châu báu. Ðể canh giữ nàng cho an toàn, nó đặt nàng vào một cái hộp, rồi nuốt vào bụng và giữ nàng trong bụng.

Một hôm nó muốn tắm, liền đến hồ nước kéo hộp ra và đem nàng ra ngoài, nó tắm rửa, xoa dầu thơm cho nàng và khi đã mặc xiêm y cho nàng xong, nó bảo:

– Nàng hãy vui chơi giây lát ngoài trời.

Rồi không nghi ngờ có sự nghi hại nào, ác quỷ đi hơi xa để tắm.

Vừa lúc ấy chàng con trai của Vàyu, một tà thuật sư, đeo kiếm bên lưng, đang du hành trên không. Khi nàng thấy y, nàng đưa tay theo kiểu làm dấu hiệu cho y đến gần.

Tà thuật sư liền đáp xuống đất. Sau đó nàng đặt y vào hộp rồi ngồi lên đó, đợi ác quỷ Asura đến, trước khi nó bước lại gần chiếc hộp, nàng mở hộp ra và bước vào, nằm trên vị tà thuật sư, lấy xiêm áo của nàng phủ lên người y. Ác quỷ Asura đến nơi, không quan sát kỹ chiếc hộp cứ tưởng chỉ có cô nàng, nên lại nuốt hộp vào bụng và trở về hang.

Trong khi đi đường, nó suy nghĩ: “Ðã lâu lắm từ khi ta thăm vị ẩn sĩ khổ hạnh. Hôm nay ta muốn đi đảnh lễ ngài”. Còn ngài đã thấy nó từ đằng xa, biết rằng có hai người trong bụng ác quỷ, nên ngài ngâm vần kệ đầu bảo nó:

  1. Kìa đến từ đâu, các bạn ta?
    Chào mừng ba vị đến thăm nhà,
    Vui lòng ở với ta giây lát,
    Ta chắc các ngươi sống thuận hoà,
    Hạnh phúc, vì lâu ngày chẳng thấy
    Vị nào qua lại chốn đường xa.

Khi nghe vầy, ác quỷ Asura suy nghĩ: “Ta đã đến đây một mình để thăm vị khổ hạnh này, và ngài lại nói có ba người; ý ngài muốn ám chỉ gì vậy? Ngài nói vì biết rõ hiện trạng mọi việc, hay ngài hoá điên và nói nhảm nhí?” Sau đó nó đến gần ngài kính cẩn ngồi một bên và ngâm vần kệ thứ hai đàm đạo với ngài:

  1. Tôi đến thăm ngài chỉ một thân
    Chứ không người, vật khác đi cùng,
    Cớ sao ngài nói, thưa Tôn giả,
    “Kìa đến từ đâu, các bạn vàng,
    Tất cả ba người cùng đủ mặt
    Hôm nay quả thật đáng chào mừng!”

Vị khổ hạnh này đáp:

– Ngươi có thật sự muốn nghe lý do chăng?

– Thưa vâng, bạch Thánh giả.

– Vậy hãy nghe đây.

Ngài đáp và ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Hãy biết rằng ngươi với vợ ngươi,
    Nằm yên trong hộp ấy là hai
    Ðược canh phòng kỹ trong lòng kín,
    Chơi với Và-yu Tứ thật vui!

Khi nghe vầy, ác quỷ Asura suy nghĩ: “Các tà thuật sư chắc chắn phải đầy các trò xảo quyệt, giả sử hắn cầm kiếm trong tay và rạch bụng ta ra để trốn thoát thì sao?”

Và vô cùng hốt hoảng, ác quỷ nhả chiếc hộp ra, đặt trước mặt nó.

Bậc Ðạo Sư muốn làm sáng tỏ vấn đề với Trí tuệ tối thắng của ngài, liền ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Ác quỷ vì gươm, thấy hãi kinh,
    Nhả ra chiếc hộp tự trong mình,
    Ðặt ngay xuống đất nhìn cô vợ
    Trang điểm vòng hoa thật đẹp xinh
    Như thế cô dâu cùng chú rể
    Và- yu Tử nọ hưởng men tình!

Chiếc hộp vừa được mở ra thì vị tà thuật sư niệm thần chú, vừa chụp thanh kiếm vừa vụt lên không. Khi thấy vậy, ác quỷ Asura hài lòng vì bậc Ðại Sĩ đến độ nó ngâm các vần kệ được gợi cảm hứng cốt để ca tụng ngài:

  1. Thánh giả nhãn quang thấy rõ ràng
    Ðắm chìm hạ liệt bọn nam nhân,
    Làm thân nô lệ cho nhi nữ,
    Tôi giữ nó vào trong bụng luôn
    Như chính đời tôi song khốn nạn,
    Nó chơi trò mất nết hư thân.
  2. Ngày đêm săn sóc nó, canh chừng
    Như ẩn sĩ chăm chút lửa rừng,
    Song nó vẫn sa vào tội lỗi
    Vượt ngoài vòng đạo lý công bằng.
    Dính vào nữ giới tất nhiên phải
    Gánh chịu bao ô nhục cuối cùng.
  3. Tưởng dấu trong mình, chẳng thấy ai,
    Nó là sở hữu của riêng tôi,
    Song tên nó chính là “dâm phụ”,
    Nó phạm tội kia trái đạo trời.
    Liên luỵ nữ nhân ắt phải chịu
    Nhận bao ô nhục đến tàn đời.
  4. Bọn nam nhi thật chỉ hoài công
    Ðịch với ngàn mưu chước nữ nhân.
    Tin tưởng hộ phòng là chắc chắn
    Cứ như vực thẳm cứ xuôi dần
    Xuống miền địa ngục bao chàng ngốc
    Nó đã lôi vào chỗ liệt vong.
  5. Người tránh lối đường của nữ nhi
    Sống đầy hạnh phúc thoát sầu bi,
    Thấy niềm cực lạc trong cô tịch,
    Xa lánh hồng nhan phản bội kia!

Cùng với những lời này, ác quỷ quì xuống chân bậc Ðại Sĩ, vừa tán thán ngài, vừa nói:

– Bạch Thánh giả, con đã được ngài cứu mạng. Vì nữ nhân độc ác kia, con suýt bị tà thuật sư giết chết.

Sau đó Bồ Tát thuyết Pháp cho nó và bảo:

– Ðừng làm hại nàng ấy. Hãy giữ giới hạnh.

Rồi ngài an trú nó vào Ngũ giới.

Ác quỷ nói:

– Dù con đã giữ nó trong bụng, con vẫn không thể giữ nó an toàn được. Vậy còn ai giữ được nó nữa?

Vì thế nó thả cho nàng đi, rồi trở về hang cũ trong rừng.

*

Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỳ kheo có tâm thế tục đã đắc Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy vị khổ hạnh có thần thông chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chó Rừng Pùtimunsa (Tiền thân Pùtimunsa)

Sao Pù -ti lại ngó trừng trừng…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc ngụ tại Kỳ Viên về việc chế ngự dục tham.

Có một thời nhiều tỳ kheo không hộ phòng các căn môn. Bậc đạo sư báo trưởng lão Ànanda:

– Ta phải giáo huấn các tỳ kheo này.

Và do tăng chúng thiếu sự điều phục thân tâm, Ngài triệu tập các tỳ kheo lại rồi ngồi trên bảo toạđược trang hoàng lộng lẫy, Ngài bảo các vị:

– Này các tỳ kheo, thật không chính đáng khi một tỳ kheo chịu sự chi phối của sắc đẹp cá nhân (tịnh tướng) khiến vị ấy sinh lòng luyến ái các đặc điểm thể chất hoặc tinh thần của con người, vì giả sử vị ấy chết ngay lúc ấy, vị ấy sẽ bị tái sinh vào địa ngục, ác thú, đoạ sứ; vậy các ông đừng sinh tâm luyến ái các đặc điểm thể chất cùng các thứ tương tự như thế. Một tỳ kheo nên để tâm đến các đặc điểm tinh thần hay thể chất. Những ai làm như vậy ngay trong cảnh đời hiện tại nàyđều bị hoàn toàn huỷ hoại. Vì thế, này các tỳ kheo, con mắt tham dục cần phải được tiếp xúc với cái đinh sắt nóng đỏ mới có ích lợi.

Ðến đây Ngài nói thêm chi tiết:

– Có lúc các ông cần quán sát tịnh tướng, và có lúc các ông đừng quan tâm đến nó. Vào lúc quán sát tịnh tướng, đừng quán sát nó dưới ảnh hưởng của vật khả ái, nhưng hãy quán sát nó dưới ảnh hưởng của vật bất khả ái. Như vậy các ông sẽ không bị đoạ lạc khỏi trú xứ chân chánh của mình. Và trú xứ này của các ông là gì? Ðó chính là Bốn Thiền quán chân chánh, Thánh đạo Tám ngành và Chín trú xứ siêu việt. Nếu các ông đi đúng trong lĩnh vực chân chánh này của mình, Ác Ma sẽ không tìm được lối vào; song nếu các ông bị tham dục chi phối và quán sát sự vật dưới ảnh hưởng của tịnh tướng cá nhân như con chó rừng Pùtimansa, thì các ông sẽ bị đoạ lác khỏi trú xứ chân chánh của mình.

Và cùng với các lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa dưới triều đại Brahmadatta, quốc vương ở Ba-la-nại, hàng trăm dê rừng trú trong một hang núi tại vùng rừng rậm trên sườn dãy Tuyết Sơn.

Không xa chỗ ở của chúng, có con chó rừng tên là Pùtimansa sống trong hang với vợ nó là Venì.

Một hôm nó quanh quẩn cùng vợ, rình rập bầy dê và suy nghĩ: “Ta phải tìm cách ăn thịt mấy con dê này”. Rồi nhờ mưu mẹo nó giết được một con dê. Cả hai vợ chồng nó nhờ ăn thịt dê trở thành lực lưỡng đẫy đà. Dần dần số dê giảm xuống.

Trong số đó có con dê cái khôn ngoan tên là Melamàtà. Dù nhiều mưu kế tài giỏi, chó rừng cũng không thể giết dê được, nên lúc bàn luận với vợ, nó bảo:

– Nàng ơi tất cả bầy dê đã chết hết. Chúng ta phải bày mưu ăn thịt dê cái này, giờ đây là kế hoạch của ta. Nàng phải đi một mình, làm thân với dê cái, rồi khi niềm tin tưởng đã phát sinh giữa nàng và nó, ta sẽ nằm xuống giả vờ chết. Sau đó, nàng đến gần dê cái, bảo: “Bạn ơi, chồng tôi đã chết, tôi đang khốn khổ, trừ bạn tôi không có ai cả. Vậy hãy đến đây cùng tôi than khóc và chôn xác chồng tôi”. Và cùng với những lời này, nàng hãy đến đưa dê lại đây với nàng. Sau đó ta sẽ nhảy lên cắn cổ nó giết đi.

Chó cái sẵn sàng đồng ý. Sau cuộc kết giao bằng hữu với dê cái, khi lòng tin tưởng đã vững chắc, nó nói với dê cái những lời do chồng nó đưa ra. Dê cái đáp:

– Bạn ơi, cả họ hàng nhà tôi bị chồng nàng ăn thịt. Tôi sợ lắm. Tôi không dám đi.

– Ðừng sợ gì cả, chó chết rồi làm sao hại bạn được nữa?

– Chồng chị có ác ý lắm nên tôi sợ.

Nhưng sau khi bị nài nỉ van xin mãi, dê cái suy nghĩ: “Chắc có lẽ nó chết thật rồi”, nên đồng ý đi với chó cái. Nhưng trên đường đi nó suy nghĩ: “Ai biết chuyện gì sẽ xảy ra?”, nên sinh lòng nghi ngờ, nó bảo chó cái đi trước và đề phòng chó đực rất tinh tế.

Chó đực nghe tiếng chân của chúng liền suy nghĩ: “Con dê đến rồi”, nên ngẩng đầu lên và đảo mắt nhìn quanh. Dê cái thấy nó làm vậy liền nói: “Con chó khốn nạn độc ác này muốn dụ ta vàođể giết ta, nó nằm kia giả vờ chết”. Dê cái quay đi và chạy trốn.

Khi chó cái hỏi tại sao nó chạy trốn, dê cái ngâm vần kệ đầu nêu lý do:

  1. Sao Pù-ti lại ngó trừng trừng
    Vẻ chó nhìn dê thật ghét căm,
    Với bạn thế, ta cần thận trọng,
    Và nên chạy trốn thật nhanh chân.

Cùng với các lời này, dê quay đi và chạy thẳng về chỗ ở của nó. Chó cái không thể ngăn dê được, rất tức giận con dê và trở về bên chồng, ngồi than khóc. Lúc ấy chó rừng trách mắng vợ qua vần kệ thứ hai:

  1. Ve-ni, vợ dại, kém thông minh
    Lại khoe đã kết bạn thân tình,
    Bơ vơ trong bụi, ngồi than khóc,
    Vì bị Mê-la phỉnh gạt mình.

Nghe vậy, chó cái ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Chàng cũng chẳng khôn khéo tý nào!
    Ngu si, chàng đã ngẩng đầu cao,
    Trừng trừng, chàng mở to hai mắt,
    Dù giả vờ nằm chết đó sao?
  2. Người nào khôn khéo đúng thời cơ
    Biết nhắm mắt và mở mắt to,
    Ai mở mắt nhìn không đúng lúc
    Như Pù-ti nọ, phải buồn lo!

Ðây là vần kệ xuất phát từ Trí Tuệ Tối thắng của đức Phật.

Nhưng chó cái lại an ủi Pùtimansa và bảo:

– Chàng ơi, đừng bực mình nữa, thiếp sẽ tìm cách mang dê lại đây, và khi nó đến chàng hãy canh chừng và chụp lấy nó.

Sau đó nó đi tìm dê cái và bảo:

– Bạn ơi, bạn đến thăm thật ích lợi cho chúng tôi, vì ngay khi bạn vừa xuất hiện, chồng tôi đã hồi tỉnh và nay đã sống lại rồi, xin hãy đến nơi nói chuyện thân tình với chàng.

Nói xong nó ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Tình bạn, trước đây hãy phục hồi,
    Xin đem bát cháo đến nhà tôi,
    Chồng tôi tưởng chết nay hồi tỉnh,
    Hãy viếng chàng, thăm hỏi thật vui.

Dê suy nghĩ: “Con chó cái khốn nạn độc ác này lại muốn dụ dỗ ta. Ta không nên hành động như một kẻ thù lộ diện mà ta sẽ tìm cách đánh lừa nó”. Dê liền ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Tình bạn cũ, nay muốn phục hồi
    Ta đem bát cháo, dạ mừng vui
    Với đoàn hộ tống ta đi đến
    Ăn tiệc tưng bừng, nhanh bước thôi.

Sau đó chó cái hỏi thăm đoàn hộ tống của dê và ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Những ai hộ tống bạn bên mình
    Ðể đãi bạn, tôi phải nhiệt tình,
    Danh tánh những ai thăm hỏi đó,
    Xin cho tôi biết thật chân thành.

Dê ngâm kệ thứ tám đáp lời:

  1. Chó săn nâu xám, bốn mắt lồi,
    Hình quỷ Jam-buk, hộ tống tôi,
    Thôi hãy về nhà, mau sửa soạn
    Dồi dào yến tiệc để chào mời.

Nó còn nói thêm:

– Mỗi chó hình quỷ này được năm trăm chó khác hộ tống, do vậy ta sẽ có một đoàn tuỳ tùng cả hai ngàn con chó canh giữ. Nếu chúng không thấy thức ăn, chúng sẽ giết luôn bạn và chồng bạn để ăn thịt đấy.

Nghe vậy chó cái kinh sợ đến độ suy nghĩ: “Ta đã chán ngán việc nó đến thăm nhà ta rồi. Ta sẽ tìm cách ngăn nó đến”. Rồi chó cái ngâm kệ:

  1. Ðừng rời nhà bạn, kẻo ta e
    Ðồ đạc sẽ nhanh chóng mất đi.
    Ta sẽ đem lời dê nhắn gửi,
    Ðứng yên! Ðừng nói nữa, ta về!

Cùng với những lời này, chó cái ra sức chạy vội vàng để tự cứu mạng và đem luôn cả chồng nó chạy theo. Rồi từ đó chúng không bao giờ dám trở lại chỗ ấy nữa.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy Ta là vị Thần sống tại rừng ấy trên một cây cổ thụ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Gà Gô (Tiền thân Tittira)

Nó đã ăn tươi bọn trẻ thơ …,

Bậc đạo sư kể chuyện này trong lúc trú ngụ tại núi Linh Thứu, về dự định của Devadatta mưu sát Ngài.

Chính vào thời ấy Tăng chúng bắt đầu thảo luận tại Chánh pháp đường:

– Này các Hiền giả, than ôi! Devadatta thật là hạ liệt và vô liêm sỉ biết bao! Vị ấy kết hợp với Thái tử Ajàtasattu lập mưu sát hại đức Phật Chánh Ðẳng Giác bằng cách mua chuộc bọn xạ thủ, lăn đá xuống đồi, và thả lỏng con voi Nalàgiri.

Bậc Ðạo sư bước vào hỏi Tăng chúng đang bàn luận việc gì lúc hội họp, và khi nghe kể đề tài câu chuyện, Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà xưa kia nữa, Devadatta cũng mưu giết ta, song cũng không thể làm gì cho ta kinh hãi được.

Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, một giáo sư danh tiếng lừng lẫy thế giới tại Ba-la-nại dạy các học thuật cho năm thanh niên Bà-la-môn.

Một hôm vị ấy suy nghĩ: “Bao lâu ta còn ở đây, ta sẽ gặp trở ngại cho đời tu hành và các đồ đệ ta cũng không hoàn thành việc học của họ. Ta muốn về ẩn dật trong thảo am trên sườn núi Tuyết Sơn và dạy học ở đó.”

Vị ấy báo tin cho các đồ đệ, bảo họ đem mè, gạo xay, dầu, y phục đại loại như thế, rồi đi vào rừng dựng thảo am ở cạnh xa lộ. Mỗi vị đệ tử đến tự xây một thảo am cho mình. Thân quyến họ gửi gạo và các thứ kia, còn dân làng bảo nhau: “Người ta đồn một vị danh sư đang sống nơi kia trong rừng và thuyết giảng kiến thức học thuật”, liền đem quà lúa gạo đến tặng, các người kiểm lâm cũng tặng quà, lại có một người tặng bò cái và bê con để chư vị lấy sữa.

Bấy giờ, có một con tắc kè cùng hai con nó đến ở trong lều vị giáo sĩ, và một con Sư tử cùng một con cọp hầu hạ vị ấy. Một con gà gô cũng thường xuyên ở tại đó và do nghe giáo sư dạy thánh kinh cho đệ tử, con Gà dần dần hiểu ba tập Vệ-đà. Các Bà-la-môn trở nên thân thiện với Gà gô. Về sau, trước khi các thanh niên này đạt tinh thông các học thuật, thì vị giáo sư mất. Các đệ tử đem thi hài thầy hỏa thiêu, dựng một mô cát lên chỗ để tro, vừa than khóc vừa trang hoàng nơi ấy đầy đủ các loại hoa. Thấy vậy Gà gô hỏi tại sao họ khóc. Họ đáp:

– Thầy chúng ta đã mất trong khi việc học của chúng ta chưa hoàn mãn.

– Nếu chuyện là thế thì các vị đừng lo buồn nữa. Tôi sẽ dạy các vị kiến thức ấy.

– Làm sao Gà biết được?

– Tôi thường nghe giáo sư của các vị trong lúc giảng dạy các vị, nên đã học thuộc lòng ba tập Vệ-đà rồi.

– Thế Gà hãy truyền cho chúng tôi những gì Gà đã học thuộc lòng nhé.

Gà đáp:

– Nào lắng nghe đây.

Rồi Gà thuyết giảng mọi điểm khúc mắc cho họ, dễ dàng như người đưa nước suối từ núi cao xuống. Các thanh niên Bà-la-môn vô cùng hân hoan và thu thập kiến thức từ con Gà gô thông thái này. Con Gà gô đậu trên chỗ giáo sư danh tiếng ấy thường ngồi, và thuyết giảng về tri kiến Vệ-đà. Các thanh niên làm cho Gà đủ mật ong, hạt ngũ cốc rang trong chiếc đĩa vàng, lại còn tặng đủ thứ hoa có màu sắc rực rỡ và tỏ vẻ vô cùng tôn kính Gà gô.

Tiếng đồn vang dậy khắp Diêm-phù-dề (Ấn Ðộ) rằng một con Gà gô rừng đang dạy Thánh kinh cho năm trăm thanh niên Bà-la-môn. Vào lúc ấy, dân chúng mở lễ hội lớn, tụ tập cùng nhau trên đỉnh núi. Cha mẹ các thanh niên này gửi lời nhắn các con đến xem lễ hội. Họ liền kể chuyện con Gà gô, rồi ủy thác Gà gô cùng thảo am của họ cho Tắc kè chăm nom, và họ ra đi đến nhiều kinh thành.

Lúc ấy một vị khổ hạnh lõa thể độc ác du hành đây đó bước tới chốn này. Khi thấy vị ấy, con Tắc kè đến nói chuyện thân thiện và bảo:

– Ở chỗ này chỗ kia, ngài sẽ thấy gạo, dầu và các món khác. Hãy nấu cơm và ăn uống no nê!

Nói xong nó ra đi kiếm mồi.

Sáng sớm kẻ ác kia nấu cơm và giết luôn hai tắc kè con ăn thịt làm một món ngon lành. Ðến trưa, y giết và ăn thịt luôn con gà gô thông thái, và con bê, đến chiều tối, y vừa thấy con bò về nhà liền giết nó luôn để ăn thịt. Rồi y nằm ngủ ngáy vang dưới gốc cây. Xế chiều tắc kè trở về thấy vắng hai con liền đi quanh tìm chúng. Một vị thần cây quan sát Tắc kè đang run rẩy toàn thân vì không tìm được các con thơ, liền dùng thần lực đứng trong bộng cây và nói:

– Này Tắc kè, đừng run nữa, các con nhỏ ấy cùng Gà gô, bê con và bò cái đều bị kẻ độc ác này ăn thịt rồi. Hãy cắn vào cổ cho nó chết đi.

Vị thần vừa nói chuyện như vậy với Tắc kè, vừa ngâm vần kệ đầu:

  1. Nó đã ăn tươi bọn trẻ thơ
    Dù con cho nó thật nhiều quà
    Răng con hãy cắn sâu vào cổ
    Ðứng để ác nhân trốn thoát ra

Sau đó Tắc kè ngâm hai vần kệ:

  1. Thâm tâm của nó tạo bùn nhơ
    Chẳng khác áo người giữ trẻ thơ
    Tôi e toàn thể thân mình nó
    Chống đỡ răng tôi mạnh lắm mà!
  2. Lỗi lầm kẻ hạ liệt vong ân
    Ðều thấy khắp nơi rõ ràng,
    Tâm nó chẳng bao giờ thỏa mãn
    Với bao tặng vật của trần gian

Tắc kè nói xong, suy nghĩ: “Kẻ này sẽ thức dậy và ăn thịt ta”. Nó liền trốn đi để cứu mạng mình.

Bấy giờ Sư tử và Cọp rất thân thiết với Gà gô, và đôi khi Gà gô cũng bay đi thuyết Pháp cho nó. Hôm ấy, Sư tử bảo Cọp:

– Chúng ta đi thăm Gà gô đã lâu rồi, chắc cũng đã bảy tám ngày. Vậy bạn hãy đi đen tin tức của Gà về đây.

Con Cọp thỏa thuận và đi đến nơi đúng lúc con Tắc kè đã chạy trốn, nó thấy kẻ gian ác ấy đang ngủ. Trên các bện tóc của y thấy có vài cái lông gà, và gần đó lại có đống xương bò cái và bê con. Cọp chúa trông thấy cảnh ấy, lại thiếu Gà gô trong lồng vàng, liền suy nghĩ: “Các con vật này chắc đã bị kẻ ác nhân này giết hết rồi”. Nó đá mạnh thức y dậy. Khi thấy Cọp, y vô cùng sợ hãi. Rồi con Cọp hỏi:

– Có phải ngươi giết và ăn thịt các con vật này chăng?

– Tôi chẳng giết cũng chẳng ăn thịt chúng.

– Kẻ khốn nạn ác độc kia, nếu anh không giết chúng thì hãy nói cho ta biết ai khác giết? Nếu anh không nói, anh phải chết đấy.

Sợ nguy đến tính mạng, y đáp:

– Vâng thưa ngài, tôi đã giết và ăn thịt các con tắc kè con, bò cái và bê con, song tôi không giết con Gà gô.

Mặc dù y cứ phản đối mãi. Cọp cũng không tin y và bảo:

– Anh từ đâu đến đây?

– Tâu ngài, trước đây tôi bán hàng rong để kiếm sống ở xứ Kàlinga và sau khi thử bán vài món xong thì tôi đến đây.

Nhưng sau khi người ấy đã kể hết mọi việc y làm, con Cọp bảo:

– Này ác nhân kia, nếu anh không giết Gà gô, thì còn ai khác làm việc đó? Này, ta sẽ mang anhđến trước Sư tử, chúa sơn lâm đấy.

Thế là Cọp ra đi dẫn theo kẻ ấy trước mặt. Khi Sử tử thấy Cọp mang y đến, nó liền ngâm vần kệ thứ tư để đặt câu hỏi:

  1. Ði đâu vội vã thế Su-bà,
    Sao kéo chàng trai trẻ thế ư?
    Có việc gì cần, đây muốn biết,
    Nói mau thành thật chớ chần chừ?

Nghe vậy Cọp ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Bạn quý Gà gô của chúng ta
    Hôm nay, tôi đoán, hóa thành ma
    Chuyện xưa kẻ ấy làm tôi sợ
    Nghe được hung tin của bạn Gà.

Sau đó Sư tử ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Chuyện xưa của kẻ ấy ra sao,
    Tội lỗi gì y thú nhận mau
    Ðã khiến Cọp nghi ngờ đại họa
    Xảy ra cho bạn quý ta nào?

Ðể trả lời Sư tử, Cọp chúa ngâm các vần kệ còn lại

  1. Trong nước Kà-ling nó bán rong
    Ði đường lởm chởm, gậy tay cầm,
    Ở cùng bọn đánh đu nhào lộn,
    Ðánh bẫy bao súc vật buộc chùm,
    Nó cũng thường chơi trò súc sắc,
    Lưới giăng bắt sống lũ chim muông,
    Ðánh nhau từng đám dùng đao trượng,
    Nó kiếm lời nhờ việc đếm đong.
  2. Phản bội lời thề, đánh nữa khuya,
    Bị thương, nó chảy máu dầm dề;
    Bàn tay nó cháy vì gan góc,
    Chụp lấy thức ăn nóng vụng về
    Nghe nó sống đời tồi tệ vậy,
    Ðó là tội ác chất đầu kia.
  3. Vì ta đều biết con bò chết,
    Giữa tóc người kia mấy sợi lông
    Xuất hiện, nên tôi đầy khủng khiếp
    Lo Gà gô bạn ắt vong thân.

Sư tử chúa hỏi người kia:

– Thế anh đã giết Gà gô thông thái rồi ư?

– Tâu chúa công, vâng, tôi đã giết.

Chúa Sư tử nghe y nói thật, nên muốn thả cho y ra đi, nhưng Cọp chúa bảo:

– Tên gian ác này đáng chết.

Và ngay tại chỗ, Cọp dùng răng xé y tan xác. Rồi Cọp đào hố quẳng thây vào đó.

Khi các thanh niên Bà-la-môn trở về, không thấy Gà gô, họ than khóc và bỏ nơi ấy ra đi.

*

Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, ngày xưa Devadatta cũng đã lập mưu giết Ta.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy vị khổ hạnh là Devadatta, con Tắc kè là Kisàgotamì, con Cọp là Moggallàna, Sư tử là Sàriputta, vị giáo sư lừng danh thế giới là Kassapa và Gà gô thông thái chính là Ta.

-ooOoo-

Chương X

Phẩm Mười Bài Kệ

  1. Chuyện Bốn Cổng Thành (Tiền thân Catu-Dvàra)

Thành sắt này xây bốn cổng cao…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phóng dật.

Các chi tiết câu chuyện đã được nêu ra trong số 427, chuyện Tiền thân đầu tiên của Chương IX. Ở đây, một lần nữa bậc Ðạo Sư hỏi Tỷ-kheo này:

Có đúng như Tăng chúng nói rằng ông bất tuân giới luật?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Ngài bảo:

– Ngày xưa, cũng vì bất tuân lời dạy bảo của các bậc trí nhân, mà ông phải nhận lấy một bánh xe sắc như dao cạo.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa vào thời đức Phật Kassapa (Ca-diếp), tại thành Ba-la-Nại có một thương gia làm chủ tài sản đến tám trăm triệu đồng, nhưng chỉ sinh được một trai tên là Mittavindaka. Cha mẹ cậu nàyđã đi vào hướng Dự Lưu, song cậu vẫn là một kẻ theo ác hạnh, không có lòng tin vào Ðạo.

Về sau, khi cha cậu mất, mẹ cậu thay thế điều hành sản nghiệp ấy, bà bảo con như vầy:

– Này con, thân người khó được, vậy con hãy bố thí, tu tập công đức, giữ ngày trai giới và lắng tai nghe Pháp.

Cậu đáp lại:

– Này mẹ, không có chuyện bố thí, tu tập gì cả với con đâu, đừng bao giờ nhắc chúng với con nữa, con sống thế nào thì ngày sau con theo nghiệp đó.

Vào một ngày rằm trăng tròn, khi cậu cũng nói như trên, mẹ cậu đáp:

– Con ơi, hôm nay được dành làm ngày trai giới thanh tịnh. Vậy ngày nay con hãy phát nguyện giữ giới, đi viếng tinh xá và lắng nghe Pháp suốt đêm, rồi khi con trở về, mẹ sẽ cho con một ngàn đồng tiền nhé.

Vì tham số tiền ấy, cậu bằng lòng ngay. Ngay khi ăn sáng xong, cậu đi đến tinh xá, ở lại đó suốt ngày; song từ đầu hôm cho đến lúc canh tàn, chẳng một lời Giáo pháp này lọt vào tai cậu cả. Cậuđi nằm một nơi và ngủ thẳng giấc. Ngày hôm sau, từ tảng sáng, cậu rửa mặt và đi về nhà, ngồi phịch xuống.

Bấy giờ, mẹ cậu nghĩ thầm: “Hôm nay, sau khi nghe Pháp, con ta sẽ về từ sáng sớm, dẫn theo vị Trưởng lão đã giảng Pháp”. Vì thế, bà nấu cháo sẵn, với thức ăn đủ loại cứng và mềm, sửa soạn chỗ ngồi xong, đợi con về. Khi bà thấy con đi về một mình, bà hỏi:

– Này con, sao con không đưa về vị Pháp sư?

– Mẹ ạ, chẳng có Pháp sư nào giảng cho con cả. Cậu đáp.

Bà mẹ bảo:

– Thế thì con húp cháo này đi.

Cậu nói:

– Mẹ đã hứa cho con một ngàn đồng tiền, mẹ ạ. trước tiên mẹ hãy trao tiền cho con, rồi sau đó con mới húp cháo.

– Húp cháo trước đi con, rồi con sẽ được tiền kia mà.

Cậu bảo:

– Không được, con không muốn húp cháo cho đến khi con được tiền kia.

Thế là bà mẹ đặt túi tiền một ngàn đồng trước mặt cậu. Cậu liền húp cháo, xong cậu lấy túi tiền một ngàn đồng đi làm công chuyện của cậu; và cứ thế về sau, chẳng bao lâu cậu kiếm được hai triệu đồng tiền.

Lúc ấy, cậu chợt nghĩ ra rằng cậu muốn tậu lấy một con tàu rồi đi làm ăn trên đó. Thế là cậu sắm tàu, rồi bảo mẹ:

– Mẹ à con có ý định đi làm ăn trên tàu này.

Bà mẹ đáp:

– Con là con độc nhất của mẹ, mà trong nhà mình hiện có nhiều tài sản lắm rồi; còn biển cả lạiđầy nguy hiểm, con đừng đi.

Song cậu bảo:

– Con quyết ra đi, mẹ không thể cản con được đâu.

Bà tiếp:

– Này, mẹ cứ muốn cản con đấy.

Rồi bà cầm lấy tay cậu, xong cậu hất tay bà ra khiến bà ngã xuống, và trong chốc lát, cậu đã biến dạng, vội lên đường.

Vào ngày tháng bảy, nhân vì có mặt Mittavindaka, con tàu cứ đứng bất động trên biển sâu. Người ta rút thăm và cả ba lần đều trúng tay Mittavindaka. Thế là họ cho cậu một chiếc bè và nói:

– Ðừng để nhiều người phải chết chỉ vì một người này.

Rồi họ thả cậu trôi dạt trên đại dương, chỉ thoáng chốc sau, con tàu ấy đã lao nhanh vùn vụt trên biển.

Còn cậu trai trên chiếc bè trôi đến một đảo kia. Tại đó, trong một cung điện bằng thủy tinh, cậu chợt thấy bốn ma nữ. Trước kia, ma chúng thường phải chịu bảy ngày đau khổ và hưởng bảy ngày hạnh phúc. Ðược kết bạn với chúng, cậu thọ hưởng khoái lạc thần tiên. Rồi khi đến thời chúng phải chịu khổ hình, chúng bảo cậu:

– Thưa công tử, chúng em sắp xa chàng bảy ngày, trong lúc chúng em đi vắng, xin chàng ở lại đây và đứng lo buồn gì cả.

Nói xong, chúng giã từ.

Song cậu trai, lòng đầy khát vọng, lại ra khơi trên chiếc bè kia, và vượt đại dương, đến một đảo khác, tại đây trong một cung điện bằng bạc, cậu thấy tám ma nữ khác. Cứ như thế, cậu thấy trên một đảo nữa mười sáu ma nữ trong một cung bằng ngọc, rồi trên một đảo khác nữa, ba mươi hai ma nữ trong một cung bằng vàng. Cũng như trước kia, với các ma nữ này, cậu hưởng thọ lạc thú thần tiên, rồi khi chúng đi xa để chịu cực hình, cậu lại ra khơi lần nữa, lênh đênh trên đại dương, mãi cho đến cuối cùng cậu thấy một kinh thành có bốn cổng lớn và hào lũy bao bọc. Người ta bảo đó là ngục Ussada (Ngục bằng sắt hay Thiết vi Ðịa ngục), nơi mà nhiều chúng sinh bị đọa đầy, phải thọ lãnh các nghiệp báo của mình, song đối với Mittavindaka, nó lại có vẻ như một kinh thành tuyệt mỹ. Cậu suy nghĩ: “Ta muốn vào thăm kinh thành kia và làm vua tại đó.

Thế là cậu bước vào, vừa thấy một sinh linh đang chịu khổ hình phải mang một cái bánh xe sắc như lưỡi dao cạo, song đối với Mittavindaka dường như bánh xe dao trên đầu kẻ kia lại giống như đóa hoa sen nở, năm vòng xiềng xích trên ngực gã nào khác chiếc áo choàng rực rỡ sang trọng, dòng máu nhỏ giọt trên đầu gã như thể phấn bột gỗ chiên-đàn đỏ thắm ngát hương, còn tiếng gã rên la tựa tiếng ca êm dịu nhất trên đời. Vì vậy cậu đến gần và bảo:

– Này người kia, anh đã mang cái hoa sen ấy lâu rồi, nay hãy đưa cho ta.

Người ấy đáp:

– Thưa ngài, nó không phải là hoa sen đâu, mà nó là bánh xe sắc như dao cạo.

Cậu trai bảo:

– À, anh nói vậy vì anh không muốn đưa nó cho ta đấy thôi.

Gã tội nhân khốn khổ kia liền suy nghĩ: “Ắt hẳn các nghiệp quá khứ của ta đã tiêu trừ hết. Rõ ràng người này cũng như ta đi đến đây vì đã đánh mẹ nó. Ðược rồi ta sẽ cho nó đưa bánh xe dao này”. Gã liền bảo:

– Này đây, hãy cầm lấy hoa sen.

Cùng với lời nói trên, gã thả bánh xe dao trên đầu cậu, nó rơi xuống đỉnh đầu và nghiến sâu vào đó, lập tức, Mittavindaka biết ngay đó là bánh xe dao, cậu liền nói:

– Lấy bánh xe của anh lại!

Và cậu gào thét dữ dội trong cơn đau đớn, song kẻ kia đã khuất dạng mất rồi.

Vừa lúc ấy, Bồ-tát cùng đoàn tùy tùng đông đảo đang đi kinh lý qua ngục Ussada, và đến tận nơi ấy, Mittavindaka trông thấy ngài, vội kêu lên:

– Tâu thiên chủ, Thượng đế của chư Thiên, bánh xe này đang đâm thủng và xé nát đầu con như thể cái chầy nghiền nát mớ hột cải, vậy con đã phạm tội ác gì?

Cậu vừa hỏi, vừa ngâm hai vần kệ này:

  1. Thành sắt này xây bốn cổng cao,
    Con nay mắc bẫy bước chân vào,
    Chung quanh con, lũy hào bao bọc,
    Con đã gây nên các nghiệp nào.
  2. Giờ đây đóng chặt các thành môn
    Và bánh xe này hủy diệt con
    Nào khác chim lồng, con bị bắt.
    Tại vì sao vậy, tấu Thiên vương?

Lúc ấy Thiên chủ ngâm các vần kệ này để giải thích vấn đề cho cậu rõ:

  1. Ngài có ngày xưa chục vạn đồng,
    Hai mươi lần nữa đấy, tôn ông,
    Tuy nhiên ngài vẫn không hề muốn
    Tai lắng nghe bằng hữu nói năng.
  2. Ngài đã vội vàng vượt đại dương
    Chất đầy nguy hiểm dọc đường trường,
    Nữ ma, bốn tám, ngài thăm viếng,
    Mười sáu nàng, theo kế tám nàng.
  3. Tiếp theo mười sáu, đến ba hai
    Tận hưởng dục tham cứ miệt mài,
    Nay hãy nhìn đây đầy phần tặng thưởng
    Bánh xe dục lạc ở đầu ngài.
  4. Ai đi đại lộ dục tham đầy,
    Con lộ thênh thang rộng lớn thay,
    Vô độ, chúng không hề thỏa mãn
    Thì phần chúng đội bánh xe này.
  5. Ai chẳng mong phân phát bạc vàng,
    Chẳng cầu tìm Chánh đạo bình an
    Cũng không biết phải làm như vậy,
    Phần bánh xe này chúng sẽ mang.
  6. Hãy suy kết quả việc ngài làm
    Gia sản ngài xem thật ngập tràn,
    Ðừng ước làm tài chủ bất chính,
    Thực hành điều bạn tốt khuyên răn,
    Về sau chẳng có bao giờ nữa
    Vòng bánh xe này đụng đến thân.

Nghe vậy, Mittavindaka tự nhủ: “Vị Thiên chủ này vừa giải thích thật chính xác những việc ta làm. Chắc chắn ngài cũng biết được mức độ trừng phạt ta”. Rồi cậu ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Vậy tấu Thiên vương, đến lúc nào
    Bánh xe này dính ở trên đầu?
    Mấy ngàn năm nữa? XIn ngài dạy,
    Ðừng để con hoài sức khẩn cầu.

Lúc ấy bậc Ðại sĩ tuyên bố vấn đề qua vần kệ thứ mười:

  1. Bánh xe này tiếp tục xoay vần,
    Mà chẳng hiện ra vị cứu nhân
    Nó dính đầu ngài cho đến chết,
    Này Mít-ta hỡi có nghe chăng?

Nói vậy xong Thiên chủ trở về cõi của Ngài, còn kẻ kia chìm vào cơn đau đớn cùng cực.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Tỷ-kheo phóng dật này là Mittavindaka, và Ta chính là Thiên chủ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hắc Hiền Giả (Tiền thân Kanha)

Ðằng kia nhìn kẻ sắc đen tuyền..,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kapilavathu (Ca-tỳ-la-vệ) trong Bồ-đề Lâm (Rừng cây Ða), về một nụ cười.

Vào thời ấy, chuyện kể rằng bậc Ðạo Sư đang du hành cùng Tăng chúng trong Bồ-đề Lâm, lúc chiều xuống, tại một chốn kia, Ngài mỉm một nụ cười. Trưởng lão Ànanda nói:

– Nguyên do gì, lý do gì khiến đức Thế Tôn mỉm cười? Ðức Như lai mỉm cười không phải là không có duyên cớ. Vậy ta muốn hỏi Ngài.

Thế là Tôn giả cúi đầu đảnh lễ cung kính hỏi về nụ cười kia, bậc Ðạo Sư bảo:

– Ngày xưa, này Ànanda, có một bậc Hiền trí tên là Kanha đã sống ở nơi đây, chuyên tâm thiền tịnh, và lạc thú trong thiền định, nên nhờ uy lực công đức của ngài mà cung của Sakka (Ðế Thích), Thiên phủ phải rúng động.

Song vì câu giải thích nụ cười kia chưa được rõ ràng lắm, nên theo lời thỉnh cầu của vị Trưởng lão, đức Phật kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, có một vị Bà-la-môn không con cái, nhưng của cải lên đến tám mười triệu đồng, vị này phát nguyện giữ giới đức và cầu tự. Trong lòng bà vợ vị Bà-la-môn này đang mang thai Bồ-tát, sau đó do màu da đen của ngài, vào ngày lễ đặt tên, cha mẹ chọn tên ngài là Kanha – Kumàra tức Hắc nam tử

Ðến năm mười sáu tuổi, đầy vẻ uy nghi như một bức tượng bằng ngọc quý, ngài được phụ thân đưa đến học ở Takkasilà, nơi đây ngài được dạy đầy đủ các môn văn học nghệ thuật, xong trở về nhà. Sau đó cha ngài lại cưới cho ngài một cô vợ xứng đôi vừa lứa. Dần dần theo thời gian, ngài hưởng trọn gia sản của song thân.

Bấy giờ một ngày kia, sau khi kiểm tra các kho báu, đang lúc ngồi trên một bảo tọa lộng lẫy, ngài cầm trong tay một cái đĩa bằng vàng, đọc được trên đĩa những hàng chữ do các bậc tiền nhân ngài ghi lại: “Rất nhiều tài sản do vị này kiếm được, rất nhiều tiền bạc do vị kia làm ra v.v…” Ngài nghĩ thầm: “Những vị tạo ra vàng bạc này bây giờ không còn nữa, song vàng bạc vẫn còn đó; không ai có thể mang chúng theo khi ra đi khỏi cuộc sống; ta không thể buộc vàng bạc thành một bó, rồi mang theo mình qua thế giới khác.

Thấy rằng của cải liên hệ đến Năm Ác dục, còn phân phát bố thí của cải này là việc tốt đẹp hơn; thấy rằng thân xác phù du này liên hệ với nhiều bệnh tật, còn tỏ lòng cung kính và nhân từ với những vị đức hạnh đem nhiều lợi lạc hơn; thấy rằng cuộc đời tạm bợ phù phiếm này chỉ thoáng qua chốc lát, còn tinh tấn hành trì thiền định là phần cao cả hơn. Vậy thì những vàng bạc phù phiếm này ta sẽ đem bố thí hết, vì làm như thế ta sẽ thọ hưởng phước đức hơn nhiều.”

Thế là ngài từ chỗ ngồi đứng dậy, sau khi xin đức vua thỏa thuận, ngài bố thí rất hào phóng.

Ðến ngày thứ bảy, thấy vàng bạc vẫn không suy giảm, ngài suy nghĩ: “Vàng bạc này có nghĩa gì đối với ta? Trong khi ta chưa bị tuổi già chế ngự, ta muốn ngay bây giờ phát nguyện xuất gia tu hành; ta quyết tu tập các Thắng trí và các Thiền chứng, ta quyết tái sinh lên cõi Phạm Thiên”. Thế là ngài ra lệnh mở các cửa lớn trong nhà ra, rồi bảo gia nhân lấy của cải đem, bố thí rộng rãi, vứt bỏ nó như một vật bất tịnh, ngài đoạn trừ các tham dục của nhãn quan, và những tiếng khóc than cùng nước mắt đông đảo của họ hàng quyến thuộc, ngài ra đi từ kinh thành, đến tận vùng Tuyết sơn.

Tại đó ngài sống theo lối độc cư, và khi đi tìm một chốn an lạc để trú thân, ngài thấy nơi này, rồi quyết định ở lại; chọn cây bầu làm nơi ăn chốn ở, ngài sống tại đó, ngủ ngay dưới gốc cây bầu ấy. Không bao giờ cư trú trong làng, ngài trở thành một người sống trong rừng, không bao giờ ngài dựng chòi lá, mà chỉ ở dưới gốc cây này, ở ngoài trời, thường an tọa, hoặc nếu ngài muốn nằm thì chỉ nằm trên mặt đất.

Ngài không dùng cái chày, mà chỉ dùng hàm răng nghiền nát thức ăn, ngài chỉ ăn những thức ăn không nấu bằng củi lửa, không bao giờ một thứ hạt còn vỏ lọt vào miệng ngài, ngài chỉ ăn ngày một lần và chỉ ngồi ăn một lần. Trên mặt đất, dường như ngài đã hòa cùng với tứ đại làm một, ngài sống hành trì giới đức của bậc xuất gia khổ hạnh. Trong Tiền thân ấy, như ta được biết, Bồ-tát rất thiểu dục.

Vì vậy chẳng bao lâu, ngài đạt các Thắng trí và các Thiền chứng (năm thần thông: Abhinnà; và tám cấp thiền: Jhànà) và ngài sống nơi ấy trong hỷ lạc của thiền định. Về trái cây rừng, ngài không đi đâu xa, khi trái cây mọc trên cây, ngài ăn trái; vào mùa hoa nở, ngài ăn hoa; khi lá mọc, ngài ăn lá; khi không còn lá nào ngài ăn vỏ cây. Vào buổi sáng ngài thường hái quả cây ấy, không bao giờ vì tham lam mà ngài đứng dậy đi hái quả cây nào khác. Ở nơi ngài ngồi, ngài dang tay ra lượm các trái cây trong tầm tay, ngài ăn các thứ trái cây đến tay ngài, không phân biệt ngon dở .

Trong khi ngài tiếp tục tìm lạc thú như vậy, nhờ thần lực công đức của ngài, chiếc ngai hoàng thạch của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nóng rực lên (tương truyền chiếc ngai vàng này nóng lên khi Ðế Thích Thiên chủ sắp mạng chung, hoặc lúc phước đức của ngài đã tận diệt và kết thúc, hay khi có một vị Ðại sĩ cầu nguyện, hay do công năng đức độ của các Sa-môn, Bà-la-môn đầy uy lực.)

Lúc ấy Ðế Thích Thiên chủ suy nghĩ: “Kẻ nào muốn làm ta phải rời khỏi ngai đây?” vừa nhìn quanh, ngài thấy trong rừng sâu, ở một nơi kia bậc Hiền nhân Kanha đang sống nhờ nhặt trái rừng, ngài biết rằng đó là một trí nhân hành trì khổ hạnh cao độ, tất cả các căn đều được điều phục, ngài suy nghĩ: “Ta muốn đi đến gặp vị ấy. Ta muốn bảo người thuyết Pháp thật cao giọng, và sau khi nghe lời giảng Pháp đem lại an lạc này, ta sẽ làm người hoan hỷ một điều ước, và sẽ làm cho cây của người sinh quả không ngừng, rồi ta mới trở về đây. “

Sau đó nhờ thần thông lực, Thiên chủ vụt xuống trần, đứng ngay sau lưng bậc Hiền nhân, ngài ngâm vần kệ đầu tiên để thử xem bậc Hiền trí kia có bực tức khi nghe nhắc đến vẻ xấu xí của mình chăng:

  1. Ðằng kia, ngắm kẻ sắc đen tuyền,
    Sống ở nơi này cũng đất đen,
    Miếng thịt đang ăn đen xám xịt,
    Tâm ta chẳng thích đáng người hiền

Hiền nhân Kanha nghe ngài nói vậy:

– Ai nói với ta đấy?

Và nhờ thần thông lực, ngài nhận ra đó là Ðế Thích Thiên chủ, nên vẫn không cần quay đầu lại, ngài đáp vần kệ thứ hai:

  1. Dù toàn sắc đen, hỡi Ngọc hoàng,
    Tâm ta chân chính Bà-la-môn,
    Màu da chẳng lỗi, nhưng làm ác
    Khiến kẻ phàm nhân đen tối luôn.

Và rồi sau đó, khi đã giải thích nhiều loại lỗi lầm và chê trách những lỗi lầm đã biến con người thành những kẻ đen tối, cùng ca ngợi công đức, ngài thuyết giáo cho Ðế Thích Thiên chủ, chẳng khác nào ngài làm mặt trăng mọc lên giữa bầu trời.

Ðế Thích Thiên chủ nghe bài thuyết Pháp, lòng vô cùng hoan hỷ, liền ban tặng bậc Ðại Sĩ một điều ước và ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Nói năng khôn khéo, bậc La-môn,
    Diễn đạt cao siêu, tối thắng luôn
    Hãy chọn điều gì ngài ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Nghe vậy bậc Ðại Sĩ nghĩ thầm: “Ta biết thế nào rồi. Vị này muốn thử ta, xem ta có giận dữ khi nói đến vẻ xấu xí của ta không; nên ngài chê bai màu da của ta, thức ăn chốn ở của ta. Khi thấy rằng ta không giận, thì ngài vui vẻ, ban cho ta một điều ước, chắc chắn ngài tưởng ta hành trì cuộc sống này vì ước mong có thần lực của Sakka Thiên chủ hay Phạm Thiên, vậy nay để làm ngài tin tưởng, ta sẽ chọn bốn điều ước: ta ước được an tịnh, không sân hận đối với kẻ xung quanh ta, không tham cảnh vinh quang của các vị xung quanh ta, hay thèm muốn dục tình đối với các vị xung quanh ta”.

Suy nghĩ như vậy xong, để giải quyết mối nghi hoặc của Thiên chủ, bậc Hiền trí ngâm vần kệ thứ tư đòi bốn điều ước này:

  1. Thiên chủ Sak-ka của thế gian
    Chọn điều hạnh phúc, lệnh ngài ban,
    Ta mong thoát khỏi lòng sân hận,
    Ác độc, tiêu trừ mọi dục tham,
    Tất cả bốn điều này hạnh phúc,
    Ta thường mơ ước tận tâm can.

Lúc ấy, Ðế Thích Thiên chủ suy nghĩ: “Hiền giả Kanha, khi chọn điều ước đã chọn bốn điềm an lạc không lỗi lầm. Bây giờ ta phải hỏi ngài về thiện ác liên hệ bốn điều này”. Rồi ngài hỏi bằng cách ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Ở trong ác dục với tham sân,
    Này hãy nói đi, hỡi Ðạo nhân,
    Ngài thấy điều gì là bất thiện,
    Trả lời ta nhé, hãy làm ơn.

– Vậy hãy nghe đây:

Bậc Ðại sĩ đáp lại và cảm khái ngâm bốn vần kệ này:

  1. Ác ý được nuôi bởi hận sân,
    Phát sinh từ nhỏ lớn lên dần,
    Nên lòng tràn ngập niềm đau xót,
    Vì thế ta không muốn giận hờn.
  2. Cứ vậy thông thường với ác nhân,
    Trước tiên lời nói, chạm vào thân,
    Kế đến đấm đá, rồi cây gậy,
    Sau hết lòe ra mũi kiếm trần,
    Khi có ác tâm, thường phẫn nộ,
    Nên lòng ta chẳng muốn hờn căm.
  3. Khi người, thúc dục bởi gian tham,
    Lừa đảo tăng dần với dối gian,
    Vội đuổi theo tiền tài cướp bóc,
    Vậy nên ta chẳng muốn tâm tham.
  4. Trói chặt xiềng gông bởi dục tình,
    Vẫn thường phát triển nảy sinh nhanh
    Trong tim, làm xót xa đau nhức,
    Ái dục, ta không muốn phận mình.

Khi các câu hỏi đã được giải thích xong, Ðế Thích Thiên chủ bảo:

– Thưa Trí giả Kanha, nhờ ngài, các câu hỏi của ta đã được giải đáp êm đẹp với trí tuệ của một bậc Giác Ngộ, ta rất hoan hỷ vì ngài; bây giờ xin ngài chọn một điều ước khác nữa.

Rồi Thiên chủ ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Nói năng chân chính, bậc La-môn,
    Diễn đạt cao siêu, tối thắng ngôn,
    Hãy chọn điều gì ngài ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Lập tức Bồ-tát ngâm kệ:

  1. Sak-ka, Thiên chủ của trần gian,
    Ngài bảo cho ta một đặc ân,
    Mong chốn núi rừng ta ẩn náu,
    Nơi nào ta trú ngụ đơn thân,
    Bệnh không làm hại niềm an tịnh,
    Hoặc phá niềm thiền lạc vỡ tan.

Nghe vậy, Ðế Thích Thiên chủ suy nghĩ: “Khi chọn điều ước, Hiền giả Kanha không chọn điều gì liên hệ đến thức ăn, mà những gì ngài chọn đều liên quan đến đời sống tu hành.” Tâm càng hoan hỷ hơn, Thiên chủ lại cho thêm một điều ước khác và ngâm kệ:

  1. Nói năng thật khéo, bậc La-môn,
    Diễn đạt cao siêu, tối thắng ngôn,
    Hãy chọn điều gì ngài ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Và Bồ-tát, khi nói lên điều ước của ngài, đã thuyết Pháp trong vần kệ cuối:

  1. Sak-ka, Thiên chủ của trần gian,
    Ngài bảo cho ta một đặc ân,
    Xin chẳng sinh linh nào bị hại,
    Vì ta, dù khẩu, ý hay thân.
    Nơi nào cũng vậy, này Thiên chủ,
    Lời nguyện này ta vẫn ước mong.

Như vậy trong sáu trường hợp, bậc Ðại sĩ lựa điều ước, ngài đều chỉ chọn những gì liên quan đến đời sống viễn ly. Ngài hiểu rõ thân người phải có bệnh và Ðế Thích chủ không thể trừ diệt căn bệnh của thân nghiệp; Ðế Thích Thiên chủ cũng không thể rửa sạch cho nhân thế trong ba cửa Thân, Khẩu, Ý. Mặc dù vậy, ngài vẫn chọn điều ước ấy với mục đích thuyết Pháp cho vị Thiên chủ.

Sau đó Ðế Thích Thiên chủ làm cho cây ấy sinh quả quanh năm, vừa chắp tay lên trán đảnh lễ ngài vừa bảo:

– Xin Hiền giả an trú ở đây không bệnh tật.

Rồi ngài đi về cõi của ngài. Còn Bồ-tát không bao giờ gián đoạn thiền định, nên về sau được sinh lên Phạm thiên giới.

*

Sau khi chấp dứt Pháp thoại này, bậc Ðại Sư bảo:

– Này Ànanda, đây là nơi Ta đã an trú ngày xưa.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy Anuruddha (A-na-luật-đà) là Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ và Hiền giả Kanha chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Bốn Vị Giữ Trai Giới (Tiền thân Catu-Posathika)

(Chuyện tiền thân này sẽ được kể trong Tiền thân Punnaka) (chưa được tìm thấy)

-ooOoo-

  1. Chuyện Bà La Môn Sankha (Tiền thân Sankha)

La-môn Tôn-giả, bậc uyên thâm …,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể ở Kỳ Viên về tứ sự cúng dường.

Chuyện kể rằng ở thành Xá-vệ, có một nam cư sĩ, sau khi nghe đức Như Lai thuyết Pháp, tâm rất hoan hỷ nên đã mời chư tăng vào ngày hôm sau. Tại cửa nhà, ông dựng lên một cái rạp trang hoàng lộng lẫy, rồi đi thưa trình rằng đã đến giờ. Bậc Ðạo Sư đến nơi với năm trăm vị Tỷ-kheo theo hầu, và ngồi trên bảo tọa lộng lẫy dành cho ngài. Vị cư sĩ, sau khi đã dâng cúng các lễ vật sang trọng lên hội chúng Tỷ-kheo với đức Phật là thượng thủ, lại mời tăng chúng ngày mai; và cứ thế, trong bảy ngày liền, vị này mời Tăng chúng đến cúng dường, và vào ngày thứ bảy lại cúng dường những vật dụng cần thiết. Trong buổi cúng dường này, ông tặng các đôi hài làm lễ vật đặc biệt. Ðôi hài dâng lên đức Phật trị giá một ngàn đồng vàng. Hai đôi hài cúng hai vị Ðại đệ tử (Xá-lợi phất và Mục -kiền-liên) trị giá năm trăm, còn những đôi trị giá hơn một trăm đồng dành cho các vị Tỷ-kheo khác.

Sau khi dâng cúng lễ vật đủ các thứ cần thiết cho chư Tăng, ông ngồi xuống trước đức Thế Tôn cùng với hội chúng của Ngài. Sau đó bậc Ðạo Sư đáp lời tùy hỷ công đức bằng một giọng vô cùng êm dịu:

– Này gia chủ, thí vật của ông thật hào phóng biết bao, ông hãy hoan hỷ. Ngày xưa, trước khi đức Phật ra đời, đã có những người nhờ cúng dường một đôi hài lên một vị Ðộc Giác Phật mà kết quả việc bố thí đó là tìm được chỗ an trú trên biển cả không có nơi an trú; và nay ông vừa cúng dường cho toàn thể hội chúng của đức Phật mọi vật dụng cần thiết cho mỗi Tỷ-kheo, thì công đức biết bao, nếu không phải là lễ dâng hài này sẽ làm nơi an trú cho ông về sau?

Và theo lời thỉnh cầu của ông. Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, thành Ba-la-nại có tên là Molinì. Trong khi vua Brahamadatta trị vì ở Molinì, một người Bà-la-môn tên là Sankha giàu có lớn, đã xây bố thí trường ở sáu chỗ, một ở mỗi cổng thành, một ở giữa thành và một ở cửa nhà ông. Hằng ngày ông bố thí sáu trăm ngàn đồng tiền và cho các kẻ lữ hành cùng kẻ ăn xin rất rộng rãi.

Một ngày kia ông suy nghĩ: “Một khi kho của cải hết, ta không còn gì để bố thí nữa. Vậy trong lúc kho chưa cạn, ta muốn lấy con tàu đi đến xứ Vàng và sẽ mang của cải về”. Thế là ông bảo đóng tàu, chất đầy hàng hóa và khi từ biệt vợ con, ông bảo:

– Bà và con hãy lo bố thí không ngừng cho đến khi ta trở về.

Nói xong, ông cầm lấy dù, mang giày cùng gia nhân hướng mặt về hải cảng, rồi đúng ngọ ông khởi hành.

Vào lúc ấy một vị Ðộc Giác Phật trên đỉnh núi Gandhamàdana (Hương Sơn), đang nhập định, thấy vị kia lên đường tìm kiếm vàng liền suy nghĩ: “Một bậc Ðại sĩ đang vượt biển để tìm vàng. Có gặp gì trên biển cả gây trở ngại cho vị này chăng? Rồi sẽ có. Nếu ông thấy ta, sẽ dâng ta đôi giày và chiếc dù. và kết quả việc đi cúng dường này là ông sẽ tìm được nơi an trú khi tàu đắm trên biển. ta muốn giúp đỡ ông.”

Vì thế bay qua không gian, Ngài hạ xuống, không xa chỗ kẻ lữ hành kia, rồi tiến đến gặp ông, dẫm chân trên cát nóng, nóng như thể một đống tro đang cháy bỏng trong luồng gió dữ dội và ánh mặt trời gay gắt. Vị Bà-la-môn nghĩ thầm: “Ðây là cơ hội để tạo công đức, ta phải gieo một hạt giống ngày hôm nay tại chốn này”. Lòng vô cùng hoan hỷ, ông vội vã đi đến đảnh lễ Ngài:

– Thưa Tôn-giả, – ông nói – xin Tôn giả vui lòng ra khỏi con đường này trong chốc lát, đến dưới gốc cây kia.

Sau đó, khi đến chỗ ngồi gốc cây, ông lau phủi hết cát cho Ngài, rồi trải thương y ra mời Ngài ngồi xuống, với nước sạch thơm ngát, ông rửa chân Ngài, xoa dầu thơm ngào ngạt, và từ chân của chính mình, ông rút ra đôi hài lau sạch, xoa dầu thơm xong, mang vào cho Ngài, cúng dường Ngài đôi hài cùng với chiếc dù, xin Ngài mang hài và che dù trên đầu Ngài khi ngài lên đường. Vị Ðộc Giác Phật muốn làm ông vui lòng nên nhận lễ vật, và trong khi vị Bà-la-môn chiêm ngưỡng Ngài để tăng trưởng tín tâm, Ngài bay lên về lại núi Gandhmàdana.

Còn Bồ-tát với tâm đầy hoan hỷ, tiến ra hải cảng và lên thuyền.

Khi ra đến đại dương vào ngày thứ bảy, con thuyền nứt ra và họ không thể tát hết nước được. Tất cả mọi người lo sợ cho mạng sống mình, đồng thanh kêu gào, mỗi người kêu cầu một vị thần linh riêng của mình. Bậc Ðại Sĩ, chọn một người hầu, xoa dầu khắp mình mẩy, ăn một đống đường mịn hòa với bơ tươi cho thỏa thích, cho kẻ kia cùng ăn, rồi ngài leo lên cột buồm. Ngài bảo:

– Về hướng kia là kinh thành của ta.

Vừa chỉ tay về hướng ấy, vừa gạt bỏ nỗi sợ hãi về các loài rùa, cá, ngài lặn mất cùng với gã gia nhân một khoảng xa chừng một trăm năm mươi cubit (1 cubit = 45cm). Ðám người kia chết đuối cả, còn bậc Ðại Sĩ cùng gã gia nhân bắt đầu tiến lên trên biển cả. Trong bảy ngày liền, ngài tiếp tục bơi. Ngay cả giờ phút ấy, ngài vẫn giữ trọn ngày trai giới, súc miệng với nước mặn.

Lúc bấy giờ một nữ thần tên là Mani-Mekkhalà, nghĩa là Ngọc Ðới, đã được lệnh của Tứ Thiên vương: “Nếu gặp tàu chìm, và tai họa xảy đến cho người đã quy y Tam Bảo, hoặc đầy đủ giới đức, hoặc phụng thờ cha mẹ, thì nàng phải lo cứu độ”. Và để bảo vệ cho các người như vậy, nữ thần an trụ trên mặt biển. Nhờ thần lực của bà, bà không cần canh phòng trong suốt bảy ngày ấy, song đến ngày thứ bảy, nhìn lướt trên mặt biển, bà thấy vị Bà-la-môn Sankha đức độ kia, nên suy nghĩ: “Kẻđằng kia đã bị rớt xuống biển, đến nay là ngày thứ bảy rồi, nếu ông chết đi thì ta mắc phải tội nặng lắm.”

Vì thế sinh lòng lo lắng, bà vội đổ vào chiếc đĩa bằng vàng đầy đủ mọi thức ăn thiên giới, phi nhanh như gió đến phía ngài, rồi dừng lại trước mặt ngài trên không và bảo:

– Này Bà-la-môn, ngài không ăn gì đã bảy ngày rồi, vậy ăn thức này đi.

Vị Bà-la-môn nhìn bà đáp:

– Cất thức ăn của nàng đi, ta đang giữ giới kiêng ăn.

Kẻ gia nhân của ngài không thấy nữ thần, mà chỉ nghe âm thanh nên nghĩ thầm: “Vị Bà-la-môn này nói lảm nhảm, ta chắc vì cơ thể ngài yếu đuối lại nhịn đói đã bảy ngày nên đang đau đớn và sợ chết, ta muốn an ủi ngài.” Và gã liền ngâm vần kệ đầu:

  1. La-môn Tôn giả, bậc uyên thâm,
    Tôn giả vốn đầy đủ thánh tâm,
    Ðồ đệ Thánh sư, sao lại phải
    Hoài tâm vô cớ nói lầm bầm,
    Trong khi chẳng có ai đây cả
    Ðối đáp ngoài tôi, lúc luận đàm?

Vị Ba-la-môn nghe gã, biết rằng gã không thấy vị thần kia, nên bảo:

– Này hiền hữu, không phải ta sợ chết đâu, song đang có một vị khác ở đây để đàm đạo với ta đó.

Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Xuất hiện Thiên thần rực ánh quang,
    Tặng ta tiên phạn để ta ăn,
    Cao sang trên đĩa vàng bày sẵn
    Ta đáp nàng “không” dạ lạc hoan.

Sau đó gã ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Nếu như người thấy một Thiên thần,
    Người hãy yêu cầu một đặc ân
    Xin đứng chấp tay van vị ấy,
    Cho hay Thiên nữ hoặc phàm nhân?

– Bạn nói phải lắm – vị Bà-la-môn bảo.

Rồi ngài hỏi bằng cách ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Nương tử nhìn ta vẻ thiết thân,
    Bảo ta: “Cần lấy thức này ăn”,
    Hỏi nàng cao cả đầy uy lực,
    Là nữ nhi hay một nữ thần?

Vị nữ thần lấp tức ngâm hai vần kệ:

  1. Ta, nữ thần uy lực đại cường,
    Nơi này vội đến giữa trùng dương,
    Tràn đầy từ mẫn, tâm hoan hỷ,
    Vì cứu ngài trong bước cuối đường.
  2. Nhìn đây thực phẩm, chốn an lành,
    Nhiều loại cỗ xe, đủ dáng hình,
    Cho ngài làm chủ quyền tất cả,
    Những gì ao ước tự tìm mình.

Khi vừa nghe vậy, bậc Ðại sĩ suy nghĩ đắn đo: “Ðây là nữ thần giữa đại dương – ngài tự nhủ – bà tặng ta vật này vật nọ. Cớ gì bà lại muốn đem tặng chúng cho ta? Có phải vì một công đức nào đó của ta hay do quyền lực riêng của bà mà bà làm như thế? Ðược, ta sẽ hỏi.” Và ngài chất vấn điều này qua vần kệ thứ bảy:

  1. Thưa, vậy tiên nương chính nữ hoàng,
    Nắm quyền bao lễ vật nàng ban,
    Mỹ nương yểu điệu, mày thanh tú,
    Nghiệp quả nào ta tạo đấy chăng?

Vị nữ thần nghe ngài hỏi, nghĩ thầm: “Vị Bà-la-môn này đã hỏi thế, chắc vì ngài tưởng ta không biết ngài đã làm việc lành nào. Ta muốn nói ngay cho ngài rõ”. Vì vậy bà đáp ngài qua vần kệ thứ tám:

  1. Trên đường nóng bỏng kẻ đơn thân,
    Khát nước, mệt nhừ, lại nhức chân,
    Ngài đã dừng, mang tài vật cúng,
    Ngày nay lễ ấy được hồng ân.

Lúc bậc Ðại Sĩ nghe thế, ngài nghĩ thầm: “Ô kìa giữa đại dương khó vượt qua này, việc cúng dường đôi hài trở thành một đại phước báo cho ta. Ôi việc dâng lễ vật lên một vị Ðộc Giác Phật thật tốt lành thay!” Rồi trong niềm đại hân hoan, ngài ngâm kệ thứ chín:

  1. Xin chiếc thuyền bằng ván khéo xây,
    Thuận buồm xuôi gió, chạy như bay,
    Mà không thấm nước trên đường biển
    Không thể dùng xe cộ chốn đây,
    Xin chở ta về Mo-lí gấp,
    Làm sao vừa kịp đúng hôm nay.

Nữ thần rất đẹp ý khi nghe những lời này, liền làm phép cho chiếc thuyền hiện ra, được làm bằng bảy báu vật, chiều dài tám trăm cubit (1 cubit = 45cm), chiều rộng sáu trăm cubit, chiều sâu hai mươi sải (sải= 1,82m). Có ba cột buồm bằng ngọc bích, dây buộc bằng vàng, cánh buồm bằng bạc, các mái chèo và bánh lái đều bằng vàng ròng cả. Trong thuyền, vị nữ thần chất đầy bảy báu vật, rồi ôm lấy vị Bà-la-môn đưa lên chiếc thuyền huy hoàng kia. Bà không chú ý đến gã hầu cận, song vị Bà-la-môn vẫn chia phần cho gã hưởng phước lành. Gã sung sướng quá và nữ thần kia cũng ôm gã đặt lên thuyền nữa. Liền đó bà đưa thuyền đến kinh thành Molinì và sau khi đã chất đầy châu báu vào kho nhà vị Bà-la-môn, bà trở về nơi an trú mình.

*

Bậc Ðạo Sư với Trí tuệ Tối thắng, đã ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Thần nữ hân hoan, hạnh phúc tràn,
    Làm cho xuất hiện, chiếc thuyền thần,
    Ðem San-kha với người hầu cận
    Về đến kinh đô đẹp tuyệt trần.

Còn vị Ba-la-môn suốt đời ở nhà bố thí thật rộng rãi không ngừng và giữ giới hạnh, nên khi mạng chung ngài cùng các gia nhân đi lên cộng trú với chư Thiên.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy giờ vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị cư sĩ ấy chứng đắc Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Uppalavannà (Liên Hoa sắc) là nữ thần, Ànanda là người hầu, và Bà-la-môn Sankha chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Trí Giả Tiểu Bồ Ðề (Tiền thân Culla-Bodhi)

Ví thử người ta bắt quý nương…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một người tính hay nóng giận.

Người này, sau khi đã xuất gia, tu tập, hành trì Giáo pháp đưa đến giải thoát, an lạc trọn vẹn, lại không thể chế ngự cơn giận của mình. Ông lòng đầy bực tức, hiềm hận; song lại ít nói nên khi phẫn nộ, bị lôi cuốn vào cơn nóng giận, ông trở nên gay gắt chua cay và khó dạy bảo. Khi nghe nói đến tính hay nóng giận của ông, bậc Ðạo Sư cho gọi ông vào và hỏi có thật là ông hay nổi giận như lời đồn chăng. Vị này đáp:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn,

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, tính nóng giận phải được chế ngự, vì một kẻ hành ác hạnh như vậy không thể nào có nơi an trú được dù trong đời này hoặc đời sau. Tại sao sau khi tu tập pháp môn giải thoát của đức Phật tối thượng không có lòng sân giận, cớ gì ông lại tự mình tỏ ra hay phẫn nộ? Các bậc trí nhân ngày xưa, ngay cả những vị hành trì giáo pháp khác với chúng ta cũng đã kềm chế được lòng phẫn nộ.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta lên ngôi ở Ba-la-nại, trong một thị trấn ở xứ Kàsi có một vị Bà-la-môn rất giàu vàng bạc, gia sản đồ sộ song lại không có con, nên bà vợ cầu mong con trai. Vào thời ấy Bồ-tát từ cõi Phạm thiên đi xuống trần, nhập mẫu thai của bà, rồi vào ngày lễ đặt tên, cha mẹ chọn cho ngài cái tên Bodhi-Kumàra hay là Nam tử Trí Tuệ. Khi ngài đến tuổi khôn lớn, ngàiđi đến Takkasilà, nghiên cứu đủ các môn học thuật, và sau khi về nhà, dù ngài không muốn, cha mẹ ngài vẫn đi cưới một thiếu nữ về làm vợ ngài, từ một gia đình cùng chung giai cấp với ngài. Nàng ấy cũng xuống cõi trần từ Phạm thiên giới, có nhan sắc tuyệt thế, chẳng khác nào một vị tiên nữ. Cả hai vị trở thành vợ chồng, song cả hai chẳng ai mong muốn chuyện đó cả. Chẳng bao giờ có ai phạm vào dâm dục, cũng chẳng kẻ nào liếc mắt nhìn kẻ kia một cách say đắm, ngay cả trong giấc ngủ, hai vị cũng không hề bao giờ có hành động tương tự, cả hai vị đều sống thanh tịnh như thế.

Sau một thời gian, khi song thân đều mất cả, ngài lo việc tang lễ cho thi hài cha mẹ chu đáo. Bậc Ðại Sĩ gọi vợ đến, bảo nàng:

– Này quý nương, nàng hãy giữ lấy gia sản tám trăm triệu đồng này và sống đời hạnh phúc.

– Không phải vậy đâu, mà đó là phần của phu quân.

Ngài bảo:

– Ta không cần vàng bạc, ta sẽ lên vùng Tuyết Sơn, trở thành một ẩn sĩ và tìm nơi cư trú ở đó.

– Vậy thưa phu quân tôn quý, chỉ nam giới mới được xuất gia tu hành thôi chăng?

Ngài đáp:

– Không phải vậy, nữ giới cũng được.

– Vậy thì thiếp, cũng không muốn nhận lấy thứ chàng đã phun khỏi miệng, vì thiếp cũng không ham thích vàng bạc gì hơn chàng, thiếp cũng muốn thành ẩn sĩ như chàng.

– Này quý nương, tốt lành thay!

Rồi hai vị đem phân phát bố thí phần lớn tài sản và xuất gia. Ðến một vùng đất an lạc dựng am thất ẩn sĩ, các ngài sống bằng trái cây rừng mà các ngài kiếm được, và cứ sống như vậy mười năm tròn, song vẫn chưa chứng đắc Thiền định của bậc Thánh.

Thế là sau một thời gian sống tại đó, hưởng hạnh phúc của cuộc đời ẩn dật suốt mười năm liền, các ngài ra đi ngang qua vùng quê để tìm muối và đồ gia vị, và thuận đường đến Ba-la-nại liền vào trú chân trong vườn ngự uyển.

Bấy giờ, một ngày kia vua thấy người giữ ngự viên đến dâng một món quà trong tay, ngài phán:

– Trẫm muốn liên hoan trong ngự viên, vậy hãy sắp xếp cho chỉnh tề.

Và khi hoa viên đã được dọn dẹp sạch sẽ sẵn sàng, vua ngự vào đó cùng đám cận thần hộ tống đông đảo.

Lúc đó cả hai vị ở trên một chỗ trong ngự viên, an hưởng lạc thú của cuộc sống tu hành. Còn vua khi đi ngang qua ngự viên, thấy hai vị ngồi đó; và khi mắt ngài chợt bắt gặp vị nữ nhân diễm lệ khả ái kia, ngài say mê ngay. Lòng ngài rúng động vì khát vọng dục tình, ngài quyết định hỏi nàng có liên hệ gì đối với ẩn sĩ kia; nên khi đi đến gần Bồ-tát, vua hỏi ngay câu ấy. Bồ-tát đáp:

– Tâu đại vương, nay nàng ấy chẳng có liên hệ gì đối với ta cả; nàng chỉ cùng chung đời sống tu hành với ta thôi, song trước kia ta còn sống ở chốn trần tục, thì nàng ấy đã là vợ ta.

Nghe vậy, vua thầm nghĩ: “Như vậy, vị này bảo nữ nhân kia chẳng là gì đối với ông cả, song khi còn sống đời thế tục, nàng ấy đã là vợ ông. Ðược rồi, nếu ta dùng vương quyền bắt lấy nàng thì ông làm gì được? Cho nên ta muốn chiếm nàng”. Và vua vừa đến gần vừa ngâm vần kệ:

  1. Ví thử người ta bắt quý nương,
    Mắt tròn, và cướp khỏi Tôn ông,
    Người yêu ngồi đó đang cười nụ,
    Ngài sẽ làm gì, hỡi Ðạo nhân?

Bậc Ðại Sĩ ngâm vần kệ thứ hai để đáp câu hỏi này:

  1. Khi đã khởi lên, nó chẳng rời
    Chẳng bao giờ nữa, suốt đời tôi,
    Như cơn mưa lắng dần tro bụi,
    Dập tắt nó thời mới nhú thôi.

Bậc Ðại Sĩ trả lời như vậy, lớn tiếng như sư tử hống. Song nhà vua dù đã nghe thế, vẫn không thể nào chế ngự được con tim say đắm của mình, do nỗi si mê mù quáng, liền ra lệnh cho vị cận thần phải bắt nàng kia vào cung.

Vị cần thần tuân lệnh dẫn nàng đi, dù nàng đã thở than khóc lóc rằng làm ác nghiệp phi pháp là thói thường của thế gian, còn Bồ-tát nghe tiếng nàng kêu khóc, ngài chỉ nhìn một lần thôi, không nhìn nữa. Vì thế nàng bị đưa vào cung trong lúc đang kêu gào thê thảm.

Vua xứ Ba-la-nại không còn chần chờ ở ngự viên nữa, mà nhanh chóng trở về cung, triệu nàng đến chầu và ban cho nàng nhiều vinh dự cao sang. Song nàng bảo những vinh quang đó chẳng có giá trị cả, và chỉ đời sống độc cư là cao thượng thôi. Vua thấy không thể dùng cách gì để chinh phục được tim nàng, nên truyền giữ nàng trong một phòng biệt lập và bắt đầu suy nghĩ: “Ðây là một người đàn bà khổ hạnh không màng mọi thứ vinh quang này, và vị ẩn sĩ cũng không hề tỏ ra giận dữ khi người hầu bắt đi một nữ nhân tuyệt mỹ như vậy. Song những ẩn sĩ thường có mưu sâu lắm; chắc chắn ông đang lập mưu để hại ta. Ðược rồi, ta muốn trở lại gặp ông và tìm hiểu tại sao ông vẫn ngồi đó.” Và thế là không thể ngồi yên được, vua đi vào ngự viên.

Lúc ấy Bồ-tát đang ngồi vá chiếc y. Vua chỉ đi một mình nên đến tận nơi, bước nhẹ nhàng không gây tiếng động. Bồ-tát vẫn tiếp tục vá áo, chẳng nhìn đến vua. Vua nghĩ: “Người này chẳng muốn nói gì với ta vì đang tức giận đấy. Kẻ khổ hạnh này đúng là gã bịp bợm, trước tiên thét lớn: “ta không muốn để lòng căm hận khởi lên chút nào, song nếu nó khởi lên, ta quyết dập tắt nó ngay lúc còn nhỏ nhoi”, rồi sau đó lòng căm phẫn cứ đeo đẳng dằng dai nên gã không muốn nói chuyện với ta đó!”. Với ý nghĩ này, vua ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Ngài lớn tiếng khoe hay,
    Chừng một lát trước đây,
    Nay lặng thinh vì giận
    Ngài ngồi đó vá may.

Khi bậc Ðại Sĩ nghe thế, ngài hiểu vua tưởng ngài im lặng vì tức giận, nên muốn tỏ ra là ngài không hề bị lòng phẫn nộ chi phối, ngài ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Hễ lúc nào sinh khởi nó rồi,
    Chẳng bao giờ nó chịu rời tôi,
    Như cơn mưa lắng dần tro bụi,
    Tôi dập nó thời mới nhỏ nhoi.

Khi nghe những lời này, vua suy nghĩ: “Có phải người này nói đến lòng sân hận hay điều gì khác nữa? Ta muốn hỏi ông cho rõ”. Rồi vua ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Gì đó mà không thể bỏ ngài,
    Chẳng bao giờ hết, suốt trong đời?
    Như cơn mưa lắng dần tro bụi,
    Ngài dập tắt gì lúc nhỏ nhoi?

Vị kia đáp:

– Thưa Ðại vương, như thế nỗi sân hận thường đem lại nhiều đau khổ, nhiều tai hại, tàn khốc; nó chỉ vừa khởi lên trong ta, song nhờ nuôi dưỡng lòng từ mẫn, ta đã dập tắt được nó.

Rồi ngài ngâm các vần kệ sau để thuyết giảng về nỗi khổ đau vì hiềm hận:

  1. Con người không nó, thấy minh quang,
    Có nó, mù đui trước nẻo đàng,
    Nó khởi trong ta không thoát được,
    Hận sân, nuôi dưỡng bởi si cuồng.
  2. Ðiều gì làm thích thú cừu nhân,
    Kẻ muốn tâm ta phải khổ buồn,
    Phát khởi trong ta không thoát được,
    Hận sân, nuôi dưỡng bởi si cuồng.
  3. Cái điều, nếu nổi dậy trong mình.
    Che khuất người ta trước hạnh lành,
    Ðã phát trong ta không thoát được,
    Căm hờn, nuôi dưỡng bởi vô minh.
  4. Ðiều làm tổn phước đức vô song,
    Khiến kẻ bị lừa bỏ lập công,
    Mãnh liệt, phá tan, đầy khủng khiếp,
    Không rời ta nữa, ấy là sân.
  5. Ngọn lửa lên cao, sẽ lớn hơn,
    Nếu mỗi nhiên liệu được khơi tròn,
    Bởi vì ngọn lửa lên cao mãi,
    Nhiên liệu tự mình phải cháy luôn.
  6. Cũng vậy trong tâm trí kẻ đần,
    Người không có thể nhận chân ra rằng
    Phát sinh phẫn nộ từ tranh cãi
    Bởi vậy thanh danh phải bại tàn.
  7. Phẫn nộ nào tăng tựa lửa hừng
    Với mồi than củi cháy bừng bừng,
    Như trăng nửa tháng đêm trời tối,
    Ðức hạnh tiêu hao, hủy hoại dần.
  8. Người nào chế ngự được lòng sân,
    Như lửa mà không có củi than,
    Như trăng nửa tháng trời dần sáng,
    Công đức người kia cứ mãi tăng.

Khi vua đã nghe bậc Ðại Sĩ thuyết Pháp xong, lòng rất hoan hỷ, nên ra lệnh cho một cận thần đi dẫn người đàn bà đến, và mời vị ẩn sĩ vô sân kia cùng ở lại với nàng trong ngự viên để an hưởng lạc thú của cuộc sống độc cư và vua hứa sẽ chăm sóc bảo vệ cho hai vị như bổn phận của mình. Sau đó nhà vua xin hai vị tha thứ lỗi lầm và kính cẩn từ tạ ra về. Thế là hai vị ấy ở lại đó.

Dần dần về sau, người đàn bà ấy từ trần và sau khi nàng qua đời, vị ẩn sĩ trở về vùng Tuyết Sơn, tu tập các Thắng trí và các Thiền chứng, làm cho Tứ Vô lượng tâm (bốn Phạm trú: Từ, Bi, Hỉ, Xả) sinh khởi trong lòng, nên ngài được sinh vào cõi Phạm thiên.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Vào đoạn kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo hay sân hận kia đã được an trú vào Tam quả (Bất Lai).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, mẫu thân của Ràhula (La-hầu-la) là nữ ẩn sĩ ấy. Ànanda là vua kia và vị ẩn sĩ chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Câu Chuyện Hắc Nhân Dìpàyana (Tiền thân Kanhadìpàyana)

Bảy ngày tâm trí được thong dong…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo thối thất.

Hoàn cảnh này sẽ được giải thích trong Tiền thân Kusa (số 531). Khi bậc Ðạo Sư hỏi lời đồn ấy có đúng không và vị Tỷ-kheo ấy đáp là đúng, thì ngài bảo:

– Này Tỷ-kheo, thuở xưa trước khi đức Phật xuất hiện ở đời, các bậc trí nhân, ngay cả những vị hành trì một nếp tu tập không theo Chánh pháp, trong suốt hơn năm mươi năm bước đi trong Thánh hạnh mà không thích thú nhiệt tâm, song vì bản tính thận trọng khôn ngoan, nên không bao giờ nói cho ai hay biết là các ông đã thối thất. Còn nay tại sao ông đã hành trì Giáo pháp của Ta đưa đến giải thoát, và ông đang đứng trước mặt một đức Phật Thế Tôn như Ta, sao ông dám bộc lộ sự thối thất của ông trước bốn hàng đệ tử? Tại sao ông không giữ được tính thận trọng e dè?

Nói xong, Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, trong quốc độ Vamsa, một vị vua trị vì tại Kosambi mệnh danh là Kosambika. Thời ấy có hai vị Bà-la-môn ở một thị trấn kia, mỗi vị đều có tài sản tám trăm triệu đồng và là bạn thân thiết của nhau, cả hai ông, sau khi đã nhận thức sự tai hại của tham dục, và đã phân chia của cải ra để bố thí, liền từ bỏ thế tục ngay giữa tiếng than khóc của nhiều người thân, khởi hành về phía Tuyết Sơn, dựng am ẩn sĩ ở đó cho mình. Tại chốn ấy trong năm mươi năm liền, hai vị sống đời ẩn sĩ, nuôi thân bằng trái cây, củ rừng mà hai vị tình cờ kiếm được; song các vị không thể nào chứng đắc Thiền định.

Sau năm mươi năm ấy đã trôi qua, các vị đi du hành qua vùng quê xin muối và đồ gia vị, lại đến vương quốc Kàsi. Trong một thị trấn của quốc độ này có một gia chủ tên là Mandavya, đã từng là một thân hữu tại gia ngày trước của ẩn sĩ Dìpàyana. Hai vị liền đi đến thăm ông Mandavya này; vừa trông thấy hai vị, ông chủ nhà vô cùng thích thú, liền xây cho hai vị một am tranh, cung cấp đầy đủ mọi loại vật dụng cần thiết của cuộc sống ẩn sĩ. Hai vị ở đó ba bốn mùa, rồi từ giã ông, tiến về Ba-la-nại, tại đây hai vị vào ở trong nghĩa địa trồng toàn cây Atimuttaka. Khi Dipàyana đã ở đó một thời gian như ý muốn, ngài trở về nơi người bạn xưa lần nữa; còn Tôn-giả Mandavya, ẩn sĩ kia, vẫn ở chỗ cũ.

Lúc bấy giờ, một ngày kia có tên đạo tặc gây cướp bóc trong thị trấn, và trở về từ nơi ấy cùng một số của cải cướp được. Các gia chủ, lính canh, chạy ra cùng la to “kẻ trộm” và kẻ trộm bị các người này đuổi gấp, đã thoát thân qua một ống cống và trong lúc đang chạy quanh gần nghĩa địa, gã làm rơi gói đồ ở cửa nhà lá của vị ẩn sĩ ấy. Khi các chủ nhà thấy gói này, đồng kêu to:

– À đồ khốn kiếp! Anh là quân trộm cướp ban đêm, còn ban ngày anh đi quanh quẩn giả dạng tu hành.

Rồi vừa phỉ báng, vừa đấm đá, họ đem vị này vào yết kiến vua.

Vua không bảo điều tra gì cả mà chỉ nói:

– Dẫn nó đi ra và đóng cọc vào nó.

Họ đem ông đến nghĩa địa, đặt ông vào cái cọc bằng gỗ cây keo. Song cây cọc không chịu đâm qua thân của vị ẩn sĩ, kế đó họ mang vào cái cọc khác, song cái này cũng không đâm thủng ông, kế đó là cái cọc sắt, cũng không thể đâm thủng thân ông được. Ông tự hỏi hành động nào trong quá khứ của mình đã gây nên sự việc này, liền quan sát quá khứ, trong tâm ông khởi lên tri kiến về các đời trước, nhờ vậy nhìn lại quá khứ, ông thấy những việc đã làm từ lâu, đó chính là việcđâm thủng một con ruồi trên một mảnh gỗ mun.

Chuyện kể rằng trong một đời trước, ông là con trai một người thợ mộc. Một bữa nọ, cậu đi đến chỗ người cha thường đốn cây và cậu đã dùng một mảnh gỗ mun đâm thủng một con ruồi như thể đóng cọc vào nó. Chính ông phát giác ra tội ác kia vào giờ phút nguy kịch này. Ông nhận thức rằng không thể nào thoát khỏi ác nghiệp cũ được, nên bảo đám quân hầu của vua:

– Nếu các ông muốn đóng cọc ta, hãy lấy cái cọc bằng gỗ mun.

Họ làm theo, và đóng cọc vào vị ấy xong, họ để lại một tên quân canh giữ vị ấy và ra đi.

Bọn lính canh từ một nơi ẩn nấp quan sát mọi việc xảy ra cho vị ấy. Lúc bấy giờ, Dìpàyana suy nghĩ: “Ta đã gặp đạo hữu của ta cách đây lâu rồi”, liền muốn đi tìm bạn. Khi nghe tin bạn đã bịđóng cọc treo lên suốt ngày bên vệ đường, ông liền đi đến đứng bên bạn và hỏi bạn đã làm gì.

– Chẳng làm gì cả. Vị ấy đáp.

Vị kia lại hỏi:

– Thế hiền hữu, ta chẳng thấy sân hận gì những kẻ đã bắt ta, cũng chẳng hiềm hận vua; chẳng có nỗi oán hờn nào trong tâm ta cả.

– Nếu quả vậy, thì bóng mát của một vị đức độ như thế này cũng đủ đem lại an lạc cho đời ta rồi.

Cùng với những lời này, ông ngồi xuống cạnh cây cọc. Từ thân của Mandavya rơi xuống vài giọt máu trên thân người bạn. Vì chúng rơi xuống làn da vàng óng và khô đi như thể các chấm đen trên đó, khiến cho ông có tên Kanha hắc nhân Dìpàyana từ đó về sau. Và ông cứ ngồi yên tại chỗ suốt đêm.

Ngày hôm sau, bọn quân canh đến kể mọi chuyện với vua, ngài bảo:

– Ta đã hành động quá hấp tấp.

Rồi vua vội vã đến nơi, hỏi Dìpàyana chuyện gì đã khiến ông ngồi bên cây cọc. Ông đáp:

– Tâu Ðại vương, thần ngồi đây để canh bạn. Nhưng xin cho biết người này đã làm gì, hay bỏ dở việc gì chưa làm, mà Ðại vương đối xử như vậy?

Vua giải thích là vấn đề chưa được điều tra. Vị kia đáp:

– Tâu Ðại vương, một vị vua phải hành động cẩn trọng; một người thế tục phóng túng, ham mê dục lạc là điều không hay v.v…

Và ông còn khuyến cáo nhà vua thêm những việc tương tự như thế nữa.

Khi vua thấy Mandavya vô tội, ngài ra lệnh nhổ cọc lên. Nhưng dù bọn chúng gắng hết sức, cũng không nhổ lên được. Mandavya bảo:

– Tâu Ðại vương, thần phải chịu mang sự ô nhục này là do một lỗi lầm đã phạm thời xa xưa, nên không thể nào nhổ cọc ra khỏi thân này được. Song nếu Ðại vương muốn cứu mạng thần, xin bảo đem đến cái cưa, xẻ cái cọc ngang sát lớp da.

Vua bảo làm như thế; nên phần cây cọc nằm trong thân ông vẫn còn đó. Vì chuyện kể rằng trước kia có lần ông cầm một viên kim cương nhỏ đâm thủng ống mật của một con ruồi nọ để nó khỏi chết, cho đến lúc nó tận số. Nhờ vậy ông cũng không chết luôn. Chuyện kể như thế.

Còn nhà vua đảnh lễ hai vị ẩn sĩ, xin thứ lỗi, rồi đem hai vị vào trú ngụ trong ngự viên, và chăm sóc hai vị tại chỗ ấy. Cũng từ đó, Mandavya được gọi là “Mandavya mang-cái-cọc”, cứ sống ở nơi này gần gũi nhà vua. Phần Dìpàyana, sau khi chữa lành vết thương cho bạn xong, lại trở về với bạn xưa là gia chủ Mandavya. Khi gia nhân nhận thấy vị này đi vào am thất cũ, liền đi báo với gia chủ. Ông chủ nghe tin lòng rất hoan hỷ, cùng với vợ con đem nhiều hương liệu, tràng hoa, dầu,đường đi đến am thất, đảnh lễ Dìpàyana, rửa chân và xoa dầu thơm cho vị này xong, đem mời nước uống và ngồi lắng nghe câu chuyện ẩn sĩ Mandavya mang-cây-cọc.

Bấy giờ con trai của gia chủ là nam tử Yannadatta, đang chơi đùa với quả cầu ở cuối mái hiên. tại đó, có một con rắn trong một ổ kiến. Trái cầu của cậu trai bị ném xuống đất, chạỵ tọt vào lỗ kiến kia và rơi nhằm con rắn. Vì không biết sự này, cậu thò tay vào lỗ. Con rắn tức giận cắn tay cậu, khiến cậu ngã xuống bất tĩnh vì nọc độc của rắn quá mạnh. Sau đó cha mẹ cậu thấy con bi rắn cắn, liền nâng con dậy đem đến vị ẩn sĩ kia, đặt cậu nằm dưới chân vị này và nói:

– Thưa Tôn giả, các bậc tu hành thường biết các cây thảo dược và bùa chú, xin Tôn giả chữa trị cho con chúng tôi.

– Ta đâu biết gì về thảo dược, ta chẳng làm nghề y sĩ bao giờ.

– Thưa Tôn giả, ngài là bậc tu hành xin thương xót thằng bé này và thực hiện một lời Nguyện cầu Chân thật.

– Ðược lắm – vị ẩn sĩ đáp – ta sẽ thực hiện một lời Nguyện cầu Chân thật.

Rồi vừa đặt đặt lên đầu Yannadatta, ông vừa ngâm vần kệ đầu:

  1. Bảy ngày tâm trí thật thong dong,
    Thanh tịnh sống đời ước lập công,
    Từ đó năm mươi năm ẩn dật,
    Chú tâm ta bộc bạch lời chân;
    Nơi đây ta sống dù không muốn,
    Lời thật này mong tạo phước ân,
    Khiến nọc độc không còn hiệu lực,
    Cậu trai này sẽ tỉnh lên dần.

Chẳng bao lâu khi lời Nguyện cầu Chân thật này được thực hiện, thì chất độc phóng ra từ ngực của Yannadatta và chui xuống đất. Cậu bé mở mắt nhìn cha mẹ và kêu:

– Mẹ ơi!

Rồi cậu quay người nằm im. Lúc ấy Hắc nhân Dìpàyana bảo người cha:

– Này, ta đã dùng hết khả năng của ta, nay đến thời bạn dùng khả năng của mình đi.

Người cha đáp:

– Vậy tôi sẽ thực hiện lời Nguyện cầu Chân thật.

Rồi vừa đặt tay lên ngực con trai, ông vừa ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Chẳng chút quan tâm vật cúng dường
    Ta đem đãi mọi khách qua đường,
    Song người hiền trí chưa hề biết
    Ta đã tự kiềm chế bản thân;
    Dù bố thí, ta lòng miễn cưỡng,
    Cầu mong lời thật tạo hồng ân,
    Làm cho nọc độc thành vô hiệu,
    Thằng bé này đây được tỉnh dần.

Sau khi ông thực hiện lời Nguyện cầu Chân thật này, từ lưng cậu bé nọc độc xuất ra và chui xuống đất. Cậu ngồi dậy, nhưng chưa thể đứng lên được. Lúc ấy người cha bảo người mẹ:

– Này phu nhân, ta đã dùng hết khả năng của ta, bây giờ chính bà dùng năng lực của mình phát nguyện Lời Chân thật để làm cho con bà đứng lên và đi được.

Bà vợ đáp:

– Tôi cũng có một sự thật muốn nói ra, nhưng trước mặt quí vị tôi không thể nói được.

Ông bảo:

– Này phu nhân, hãy dùng hết mọi phương cách làm cho con ta bình phục.

Bà đáp:

– Thế thì tốt lắm.

Và lời Nguyện cầu Chân thật của bà được đưa ra trong vần kệ thứ ba:

  1. Rắn nọ cắn con mới nãy giờ,
    Nằm trong lỗ ấy hỡi con thơ,
    Và cha con đó, này ta bảo,
    Là một, trong tim mẹ hững hờ,
    Mong sự thật này mang phươc đức,
    Nọc tan, con trẻ tỉnh hồn mơ!

Chẳng bao lâu lời Nguyện Cầu Chân thật này được thực hiện thì tất cả nọc độc đều tuôn ra và chui xuống đất. Yannadatta đứng dậy, toàn thân cậu đã được tẩy sạch hết chất độc, nên cậu bắtđầu chơi đùa. Khi cậu bé đã hồi tỉnh như thế xong, gia chủ Mandavya hỏi về tâm tư của Dìpàyana qua vần kệ thứ tư:

  1. Người ta xuất thế, trí quang minh,
    Thuần thục, tâm không chút bất bình,
    Trừ bạn Kan-ha, sao thối chất,
    Chẳng mong tiến bước đạo tu hành?

Ðể đáp lại lời này, vị kia ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Xuất thế rồi quay lại cõi trần,
    Chắc người ta nghĩ: “Kẻ ngu đần!”,
    Chính điều này khiến ta lùi bước,
    Ta vẫn hành trì đạo Thánh nhân
    Tuy vậy ta không còn phát nguyện,
    Ta theo Thánh đạo bởi nguyên nhân:
    Ðược lời khen ngợi từ người trí,
    Là cách người hiền thiện trú thân.

Sau khi đã giải thích lối suy nghĩ của mình như vậy xong, vị này hỏi Mandavya lần nữa qua vần kệ thứ sáu:

  1. Nhà bạn đây như thể quán ăn,
    Chứa đồ ẩm thực để cung dâng
    La-môn, trí giả cùng du khách,
    Thỏa mãn cơn khao khát, đói lòng,
    Xong sợ điều gì gây tiếng xấu,
    Nên lòng miễn cưỡng lại cho không.

Ðến lượt Mandavya giải thích ý tưởng mình qua vần kệ thứ bảy:

  1. Giữ gìn Thánh hạnh các cha ông,
    Là thí chủ ban phát rộng lòng,
    Theo gót xưa, ta đầy cẩn trọng,
    Sinh thời đường lối của gia tông,
    Sợ mình sẽ biến thành suy thoái,
    Nên miễn cưỡng lòng vẫn biếu không.

Sau khi nói xong, Mandavya hỏi vợ qua vần kệ thứ tám:

  1. Khi còn thiếu nữ trí ngây thơ,
    Ta cưới bà về tự nhạc gia,
    Bà chẳng bảo lòng ta lãnh đạm
    Làm sao bà sống cả đời bà,
    Không tình gắn bó, không thương mến,
    Bà đã vì đâu ở lại nhà,
    Hỡi quí phu nhân đầy yểu điệu,
    Sống đời lạnh lẽo thế cùng ta.

Bà vợ đáp qua vần kệ thứ chín:

  1. Chẳng phải là nề nếp cổ phong,
    Cho người làm vợ lại thay chồng,
    Chẳng bao giờ thế, nên tôi vẫn,
    Giữ thói lề kia, kẻo ngại rằng
    Tôi bị người xem là thoái hóa,
    Chính niềm lo sợ tiếng đồn hung,
    Khiến tôi ở lại và chung sống
    Chẳng có tình yêu, vẫn lạnh lùng.

Sau khi vừa nói điều này ra xong, một ý nghĩ chợt đến với bà: “Nay ta đã nói điều bí mật kia với chồng ta rồi, cái điều bí mật chưa hề bao giờ được nói ra cả! Chắc chàng sẽ giận ta lắm; vậy ta muốn được xin lỗi chàng ngay trước mặt vị ẩn sĩ này vốn là bạn chân tình của nhà ta!” Với mục đích trên, bà ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Giờ đây thiếp lỡ nói rồi,
    Những điều chẳng đáng nên lời nói ra
    Vì con, mong ước thứ tha,
    Không gì hơn được mẹ cha nồng tình,
    Yan-na, con của chúng mình
    Trước đây đã chết, hồi sinh bây giờ!

– Thôi phu nhân hãy đứng dậy đi – Mandavya nói – tôi tha lỗi cho bà rồi. Từ nay bà đừng vô tình với tôi nữa; rồi tôi sẽ không bao giờ buồn phiền gì bà đâu.

Còn Bồ-tát bảo Mandavya:

– Trong khi thu thập được nhiều của cải bất chính, rồi bạn lại phân phát bố thí rộng rãi, song không có lòng tin rằng hành động ấy là hạt giống an lành mang lại dị thục quả, như thế là bạn sai lần đấy. Trong tương lai, bạn hãy tin tưởng vào công đức của lễ vật bố thí, và bạn hãy bố thí cúng dường.

Vị gia chủ hứa làm như vậy, và đến phiên mình nói với Bồ-tát:

– Thưa Tôn giả, chính Tôn giả cũng sai lầm khi nhận lễ vật của chúng tôi cúng dường trên bước đường Thánh hạnh mà lòng không phát nguyện tu hành. Giờ đây để cho hạnh nghiệp của Tôn giả mang lại nhiều phước quả dồi dào, xin từ nay về sau Tôn giả tiến lên trong Thánh đạo với lòng an tịnh thanh thản và tràn đầy thiên lạc.

Rồi hai ông bà giã từ bậc Ðại sĩ và ra về.

Từ đó về sau, bà vợ thương yêu chồng mình, gia chủ Mandavya giữ tâm thanh tịnh, đem của cải bố thí với đầy đủ lòng tin; còn Bồ-tát xua tan hết lòng thối thất, và tu tập các Thắng trí thiền định nên được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy giờ vào đoạn kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda là gia chủ Mandavya; Visàkhà (Tỳ-cá-khư) là bà vợ, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Mandavya mang-cái-cọc, và Hắc nhân Dìpàyana chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vua Ða (Tiền thân Nigrodha)

Người ấy là ai, ta chẳng hay …,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Trúc Lâm về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa).

Một bữa nọ, các Tỷ-kheo bảo vị này:

– Này hiền hữu Ðề-bà-đạt-đa, bậc Ðạo sư cứu độ hiền hữu rất nhiều! Từ bậc Ðạo Sư, hiền hữu đã thọ đủ Tiểu giới và Ðại giới; hiền hữu đã học Tam Tạng là tiếng nói của đức Phật; hiền hữu đã làm phát khởi Thiền định trong tâm hiền hữu; vinh quang là lợi lạc của đấng Thập Lực thuộc về hiền hữu.

Nghe vậy vị này liền đưa lên một cọng cỏ và nói:

– Ta không thấy một điều lợi lạc nào mà Sa-môn Gotama đã tạo cho ta cả, dù chỉ bằng cọng cỏ này.

Tăng chúng bàn tán việc ấy trong Chánh Pháp đường. Khi bậc Ðạo Sư bước vào, Ngài hỏi các vị ấy đang bàn luận điều gì trong lúc ngồi đó. Các vị trình lên Ngài, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu, mà từ lâu cũng như bây giờ, Ðề-bà-đạt-đa đã vô ơn và phản bội thân hữu.

Rồi Ngài kể cho Tăng chúng một chuyện đời xưa:

*

Ngày xưa một vị Ðại vương danh hiệu là Magadha (Ma-kiệt-đà) cai trị ở thành Ràjagaha (Vương xá) .

Một thương nhân trong thành ấy cưới về nhà cho con trai mình một cô vợ, đó là con gái của một thương nhân ở thôn quê. Song nàng ấy không sinh sản gì. Theo thời gian, vì nguyên cớ đó, lòng kính trọng đối với nàng giảm đi; cả nhà thường nói chuyện cho nàng có thể nghe được như vầy:

– Khi có một người vợ không sinh sản trong nhà, con trai ta làm sao nối dõi tông đường được?

Khi chuyện này cứ đến tai nàng mãi, nàng tự nhủ: “được rồi, ta sẽ giả vờ mang thai để đánh lừa họ”.

Thế là nàng hỏi vú già tốt bụng của nàng:

– Ðàn bà có thai phải làm gì?

Và khi được chỉ bảo những điều cần làm để giữ gìn thai nhi, nàng dấu kín thời kỳ hành kinh của nàng, lại tỏ ý thích ăn các vị chua mới lạ. Vào lúc tay chân bắt đầu to lên, nàng nhờ chúng bạn đập vào tay chân, và lưng cho đến khi chúng sưng phồng lên; dần dần nàng bó quanh người nàng bằng giẻ vụn và vải làm cho thân thể có vẽ lớn dần; lại bôi đen hai đầu vú nàng, và chỉ trừ bà nhũ mẫu ấy ra, chẳng ai được phép ở bên nàng lúc nàng tắm rửa. Chồng nàng cũng tỏ ra chăm sóc nàng chu đáo cho phù hợp với hoàn cảnh ấy.

Sau chín tháng trôi qua trong cảnh này, nàng tỏ ý muốn trở về nhà sinh con trong nhà cha mẹ mình. Vì vậy nàng từ giã cha mẹ chồng, lên xe cùng một số gia nhân từ bỏ thành Vương Xá lại đằng sau, thẳng tiến lên đường.

Lúc bấy giờ trước mặt nàng có một đoàn xe ngựa đang du hành, và lúc nào nàng cũng đến vào khoảng giờ ăn điểm tâm ở địa điểm mà đoàn xe kia vừa mới ra đi. Vào một đêm kia, một người đàn bà nghèo khổ trong đoàn xe đã hạ sinh một con trai dưới gốc cây đa; và nghĩ rằng nếu không có đoàn xe ấy bà không thể đi thêm được nữa, song nếu bà sống, bà có thể nhận được hài nhi ấy, nên bà quấn nó lại, để nó nằm dưới gốc cây đa. Vị thần cây này săn sóc hài nhi: đó không phải là một đứa bé bình thường, mà chính là Bồ-tát đã xuất hiện ở đời trong hình thức ấy.

Vào giờ ăn sáng, đoàn lữ hành kia đến nơi đó. Còn nàng ấy cùng nhũ mẫu của nàng đi riêng ra chỗ bóng mát của cây đa để rửa ráy, chợt thấy hài nhi có màu vàng chói nằm đó. Lát sau, nàng gọi bà nhũ mẫu bảo rằng mục tiêu của họ đã đạt được rồi; nàng liền mở các lớp vải quấn bụng ra, tuyên bố hài nhi ấy là con nàng và nàng vừa mới sinh ra nó.

Các kẻ hầu cận lập tức dựng lều để dành chỗ ở riêng cho nàng, và vô cùng hân hoan gởi một lá thư về thành Vương Xá. Cha mẹ chồng nàng đáp thư lại rằng vì hài nhi đã ra đời nên nàng không cần phải trở về nhà cha nàng nữa, mà hãy quay lui. Vì vậy nàng lập tức trở về Vương Xá. Và giađình chồng thừa nhận hài nhi ấy nên khi hài nhi được đặt tên, họ đặt tên nó theo chốn nó ra đời, là Nigrodha Kumàra hay Cậu bé Ða.

Cùng ngày hôm ấy cô con dâu của một thương nhân trên đường về nhà cha ruột để sinh con, đã cho ra đời một bé trai dưới cành cây nên họ đặt tên nó là Sakka Kumàra hay Cậu Nhành. Và cùng ngày hôm đó, vợ của người thợ may làm việc cho thương nhân này lại sinh một con trai giữa đống vải vụn của nàng, họ nên đặt tên nó là Pottika hay Chú bé Nhồi bông.

Nhà đại phú thương cho đi tìm hai hài nhi ấy về, vì chúng sinh cùng một ngày với công tử Ða, và cho nuôi chúng với nhau.

Các đứa trẻ lớn lên, về sau đi đến Takkasilà để hoàn thành việc học tập. Cả hai nam tử con các thương nhân nhận được hai ngàn đồng để trả học phí cho thầy giáo, công tử Ða bảo trợ việc học tập cho Pottika.

Khi việc học hành đã hoàn tất, các ông từ giã thầy giáo và ra đi với ý định tìm hiểu phong tục dân quê, nên cứ ngao du mãi, vừa lúc đến thành Ba-la-nại, liền nằm xuống nghỉ ngơi, trong một ngôi đền thờ.

Khi ấy vua Ba-la-nại đã băng hà được bảy ngày rồi. Có tiếng trống lệnh loan báo khắp kinh thành rằng ngày mai sẽ có xe hoa hành lễ. Ba người bạn ấy đang nằm ngủ dưới gốc cây, vào tảng sáng, Pottika thức dậy, vừa ngồi vừa xoa bóp chân cậu Ða. Có vài con gà trống đang gáy trên cây ấy, con gà trên đọt cây làm rơi một cục phân trên con gà ở gần gốc cây. Con này hỏi:

– Cái gì rớt trên ta thế này?

Con kia đáp:

– Xin tôn ông đừng giận, ta không cố ý làm như vậy.

– Thế chú tưởng thân ta là chỗ để chú thả phân ra hay sao? Chú không biết giá trị của ta, điều ấy đã rõ quá!

Nghe vậy con gà kia đáp lại:

– Ô kìa, ngài cứ thịnh nộ mãi, dù ta đã nói là ta không cố ý làm việc đó. Thế xin cho biết giá trị của ngài ra sao?

– Hễ bất kỳ ai giết ta ăn thịt sẽ được một ngàn đồng tiền sáng nay. Ðó không phải là điều đáng tự hào hay sao?

– Úi chà! Úi chà! Gà kia đáp lại. Tự hào gì cái việc vặt vãnh ấy! Này, nếu cứ giết ta và ăn mỡ của ta sẽ trở thành vua ngay sáng nay. Còn nếu ăn thịt ở bụng sẽ thành đại tướng; ai ăn thịt ở ức sẽ thành quan giữ ngân khố.

Pottika nghe lọt hết mọi chuyện này. Cậu suy nghĩ: “Một ngàn đồng tiền…! Cái gì đây? Ðược làm vua là tuyệt nhất!”

Thế là nhẹ nhàng trèo lên cây, cậu nắm lấy con gà trống gáy trên đọt cây, giết nó đi và nướng gà trên than hồng, đem mỡ gà cho cậu Ða, thịt bụng cho cậu Nhành còn chính mình ăn thịt quanh xương ức. Khi đã ăn xong, cậu bảo:

– Thưa công tử Ða, hôm nay ngài sẽ làm vua; thưa công tử Nhành, hôm nay ngài sẽ làm đại tướng; còn tôi sẽ làm quan giữ kho báu.

Hai cậu kia hỏi làm thế nào biết được chuyện ấy, cậu liền kể lại hết.

Vì vậy vào khoảng giờ ăn buổi cơm sáng trong ngày, ba cậu vào thành Ba-la-nại. tại nhà một vị Bà-la-môn, các cậu được ăn một bữa cháo gạo, với bơ tươi và đường, rồi từ kinh thành các cậu vào ngự viên.

Cậu Ða nằm xuống một phiến đá, hai cậu kia nằm bên cạnh. Vừa lúc ấy dân chúng cử hành lễ rước xe hoa cùng với năm biểu tượng của vương quyền (kiếm, lọng, miện, hài, quạt) trên đó. (Các chi tiết câu chuyện này sẽ được tả trong câu chuyện Tiền thân Mahàjanaka, số 539, tập VI). Vương xa tiến vào và dừng lại, đứng sẵn sàng để các vị bước lên. “Chắc có một bậc Ðại nhân tài đức ở đây”. Viên quan tế lễ tự nhủ. Ông bước vào ngự viên, nhìn thấy cậu thanh niên này, rồi giở lớp vải dưới bàn chân cậu để quan sát các dấu hiệu trên đó. Ông bảo:

– Ô kìa, người này có số được làm vua toàn cõi Diêm phù-đề (Ấn Ðộ), chứ nói gì chỉ một thành Ba-la-nại.

Và ông ra lệnh cho chuông trống, thanh la nổi lên.

Cậu Ða thức dậy ném tấm vải trùm mặt ra, liền thấy một đám đông vây quanh cậu! Cậu quay nhìn quanh quẩn nằm im một lát rồi trở dậy ngồi xếp bằng đôi chân…Vị tế sư quỳ xuống bảo:

– Tâu Thần nhân, vương quốc này thuộc về ngài.

– Ðược rồi, cứ như vậy. Cậu đáp.

Vị tế sư liền đặt cậu ngồi trên một đống báu vật rồi làm lễ quán đảnh (rảy nước thánh), phong vương cho cậu.

Khi được phong vương như vậy rồi, vua ban chức Ðại tướng cho bạn Nhành, rồi vào kinh thành trong cảnh uy nghi trọng thể, còn Potika cũng đi vào với hai ông.

Từ ngày ấy trở về sau, bậc Ðại Sĩ cai trị rất đúng pháp tại Ba-la-nại.

Một ngày kia chợt nhớ đến song thân, ngài bảo tướng Nhành:

– Này hiền hữu, ta không thể sống thiếu cha mẹ được. Vậy hãy đem một đoàn người về tìm song thân ta.

Song tướng Nhành từ chối:

– Ðó không phải là việc của hạ thần. Ông bảo.

Sau đó ngài bảo Pottika làm việc ấy. Pottika tuân lệnh lên đường tiến về nhà song thân của vua Ða, nói cho hai vị biết là con trai của họ đã lên làm vua, và mong họ đến ở với ngài. Song họ từ chối, bảo rằng họ đã có cả thế lực lẫn giàu sang rồi, đầy đủ như vậy, họ không muốn đi nữa. Chàng cũng đi mời song thân tướng Nhành đến triều, nhưng họ cũng chỉ thích ở lại đấy hơn; và đến khi chàng về mời chính song thân mình, họ bảo:

– Chúng ta sống bằng nghề may vá, thế đủ rồi, đủ rồi.

Và họ cũng từ chối như các người kia.

Vì chàng không đáp ứng nguyện vọng các vị lão thân, chàng đành trở về Ba-la-nại. Chàng nghĩ rằng sẽ về và nghỉ ngơi cho đỡ mệt nhọc vì cuộc hành trình tại nhà vị Ðại tướng trước khi yết kiến vua Ða, liền đến nhà kia. Chàng bảo người canh cổng:

– Xin báo cho Ðại tướng biết thân hữu Pottika đến đây.

Người ấy tuân lệnh. Song tướng Nhành vẫn mang mối hiềm hận đối với chàng, vì tướng ấy bảo chàng kia đã giao vương quyền cho thân hữu Ða thay vì chính mình cho nên khi nghe lời nhắn này, tướng quân nổi cơn thịnh nộ:

– Thân hữu như vậy ư? Ai là thân hữu của nó? Nó chỉ là thằng thô tục, hạ đẳng, ngu ngốc. Hãy tóm lấy nó ngay!

Thế là chúng đánh đá chàng, nện nhừ tử bằng chân cẳng, cùi chỏ một trận nên thân, rồi tóm cổ chàng quẳng ra đường.

Chàng suy nghĩ: “Nhành được chức vụ Ðại tướng nhờ ta, thế mà nay nó phản bội, độc ác, đã đánh đập ta rồi quẳng ta ra đường. Song còn bạn Ða là bậc hiền nhân, biết ân nghĩa và lương thiện, và ta sẽ đi gặp bạn ấy.”

Thế là chàng đến cửa cung, đưa tin vào nhà vua rằng thân hữu của ngài là Pottika đang chờ ở cửa.

Vua mời chàng vào, khi thấy chàng đến gần, ngài liền đứng dậy, tiến đến đón chàng, chào hỏi rất thân thiết; ngài ra lệnh cạo râu tóc và chăm sóc chàng chu đáo rồi trang điểm cho chàng bằng các loại ngọc vàng, đãi tiệc chàng đầy đủ thức cao lương mỹ vị. Xong xuôi nhà vua lại ân cần ngồi bên chàng hỏi thăm song thân mình, chàng tường trình cho ngài biết hai vị đó từ chối việc đến đây ở.

Lúc bấy giờ tướng Nhành thầm nghĩ:” Chắc Pottika sẽ phỉ báng ta vào tai đức vua, song nếu ta đến bên ngài, gã sẽ không thể nói được.” Vì thế chàng này cũng đến đó. Còn Pottika, dù có Nhành hiện diện, vẫn tâu với vua:

– Tâu chúa thượng, khi hạ thần mệt nhọc vì đường xa, đã đến nhà tướng Nhành, hy vọng nghỉ ngơi tại đó trước rồi đến yết kiến ngài sau. Song tướng Nhành bảo: “Ta chẳng biết gã đó!” Rồi đối xử tàn tệ với hạ thần, và tóm cổ hạ thần quẳng ra ngoài! Xin Chúa thượng tin lời hạ thần nói.

Cùng với các lời này, chàng ngâm ba vần kệ:

  1. Người đó là ai, ta chẳng hay,
    Ai là thân phụ của người đây,
    Nhành còn hỏi: Nó là ai đó?
    Ða hỡi, nghĩ sao trước việc này?
  2. Ðầy tớ Nhành kia cứ y lời
    Ðấm, thoi, tát, đánh khắp người tôi,
    Rồi còn chụp lấy tôi vào cổ,
    Từ đó lôi tôi quẳng phía ngoài.
  3. Phản bội như vầy đối với tôi,
    Chỉ người độc ác mới làm thôi,
    Vong ân bạc nghĩa là ô nhục,
    Gã cũng bạn ngài, Chúa thượng ôi!

Nghe những lời này, vua Ða liền ngâm bốn vần kệ

  1. Ta chẳng hề nghe, cũng chẳng hay
    Một ai từng nói chuyện như vầy,
    Xấu xa như bạn đang tường thuật,
    Nhành ấy vừa làm tại chốn đây.
  2. Bạn cùng ta, sống với Sàk-kha,
    Ðồng bọn chí tình thưở đã qua,
    Bạn đã giành phần cho mỗi một,
    Hướng quyền vương tước, tặng hai ta,
    Vinh quang ta được là nhờ bạn,
    Còn có gì nghi hoặc nữa mà.
  3. Khi hạt ném trong ngọn lửa hồng,
    Cháy rồi, hạt chẳng thể gieo trồng
    Ta làm việc thiện cho người ác,
    Cũng vậy, nó tàn lụi diệt vong.
  4. Chúng chẳng như nhiều kẻ biết ơn,
    Những người đức hạnh, bậc hiền lương,
    Ðất lành, hạt chẳng hề quăng bỏ,
    Như việc làm cho các thiện nhơn.

Trong khi vua Ða ngâm kệ trên, tướng Nhành đứng im tại chỗ. Sau đó vua hỏi:

– Nào bạn Nhành, bạn có nhận ra anh chàng Pottika này không?

Gã đành câm lặng. Vua liền truyền xử gã này qua những lời của vần kệ thứ tám:

  1. Tóm tên hèn hạ bội ân này,
    Tư tưởng nó đà xấu ác thay,
    Ðâm nó! Vì ta cho nó chết,
    Nghĩa gì đời nó với ta đây?

Sau khi Pottika nghe nói vậy, liền suy nghĩ trong lòng: “Chớ nên để kẻ ngu si này chết vì ta!” nên chàng ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Ðại vương, mong mở lượng từ bi,
    Thật khó tìm đời sống mất đi,
    Chúa thượng dung tha cho nó sống,
    Thần mong thằng khốn chẳng sầu chi.

Khi vua nghe vậy, ngài tha tội cho Nhành; và ngài muốn ban chức Ðại tướng cho Potika, song chàng không nhận. Rồi vua phong chàng chức Chưởng khố, và với chức vụ đó, chàng xét xử cácđám thương nhân. Trước kia chẳng có chức vụ đó, song chức vụ này tồn tại từ đây về sau. Dần dần với thời gian, quan Chưởng khố Pottika được phước đầy đủ con trai con gái, đã ngâm vần kệ cuối cùng để giáo hóa các con:

  1. Ta cần sống với Ni-gro-dha
    Chẳng tốt gì hầu hạ Sà-kha,
    Nếu phải sống cùng Nhành, đại tướng,
    Thà nên chịu chết với vua Ða.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy, này các Tỳ kheo, các ông thấy rằng trước kia Ðề bà đạt đa cũng đã vô ơn bạc nghĩa rồi.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời đó, Ðề-bà-đạt-đa là Sàkha, Ànanda là Pottika, và Nigrodha chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cây Hành (Tiền thân kkala)

Chẳng rau để luộc, cũng không hành…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một cư sĩ phụng dưỡng cha mình.

Chuyện kể rằng người này tái sinh vào một gia đình nghèo khó. Sau khi mẹ mất, chàng thường dậy sớm vào buổi sáng và soạn tăm xỉa răng cùng nước súc miệng, sau đó đi làm thuê hay cày ruộng ngoài đồng, chàng thường nấu cháo gạo nuôi cha theo phong cách phù hợp hoàn cảnh mình. Cha chàng bảo:

– Này con, con phải làm mọi việc từ trong nhà ra ngoài đường. Thôi để cha kiếm vợ cho con, nàng ấy sẽ làm việc nhà thay con.

Chàng đáp:

– Thưa cha, nếu có đàn bà đến nhà này, họ sẽ không làm cha con ta yên tâm được đâu. Xin cha đừng mơ tưởng chuyện đó nữa. Khi cha còn sống, con muốn phụng dưỡng cha, và khi cha từ trần, con sẽ biết việc gì cần làm.

Song người cha đi kiếm về một cô gái, dù con mình không muốn, và nàng ấy lo chăm sóc chồng và cha chồng; tuy vậy, nàng là người hèn hạ. Lúc bấy giờ chồng nàng hài lòng vì nàng đã săn sóc cha chàng, và bất cứ món gì chàng tìm được để làm nàng vui lòng, chàng đều đem về cho nàng và nàng đưa cho cha chồng. Rồi có lúc người đàn bà ấy suy nghĩ: “Bất cứ cái gì chồng ta kiếm được đều đem cho ta, chứ không cho cha chàng chút nào cả. Rõ ràng là chàng chẳng quan tâm gì đến cha. Ta phải tìm cách gây xích mích giữa ông già và chàng, rồi ta sẽ đuổi ông già ra khỏi nhà.”

Vì thế từ đó, nàng bắt đầu đem nước quá lạnh hoặc quá nóng cho ông lão, thức ăn thì nàng bỏ muối quá nhiều hoặc chẳng bỏ chút muối nào, cơm nàng nấu cứng ngắc hoặc mềm nhão; nàng cố làm đủ mọi thứ như vậy để khiêu khích ông lão. Rồi khi ông lão tức giận, nàng mắng lại:

– Ai hầu nổi một ông già như thế này?

Nàng vừa nói vừa gây chuyện ồn ào. Nàng khạc nhổ khắp mặt đất rồi thức chồng nàng dậy và bảo:

– Xem kìa, cha chàng làm thế đó! Thiếp mãi van xin cha đừng làm thế này thế nọ, mà cha chỉ nổi giận. Hoặc cha chàng, hoặc thiếp phải đi ra khỏi nhà này.

Lúc ấy người chồng bảo:

– Này nàng, nàng còn trẻ, nàng muốn ở đâu tùy ý, song cha ta đã già, nếu nàng không thích ông cụ, thì nàng cứ đi khỏi nhà.

Lời nói ấy khiến nàng khiếp sợ. Nàng quỳ xuống chân ông lão xin ông thứ lỗi và hứa từ nay sẽ không làm thế nữa, rồi lại bắt đầu săn sóc ông lão như trước kia.

Vị cư sĩ đáng trọng ấy trước tiên quá lo âu vì cách đối xử của nàng, nên bỏ việc đến yết kiến bậc Ðạo Sư để nghe thuyết Pháp, song khi nàng đã hồi tâm, chàng lại đến. Bậc Ðạo Sư hỏi tại sao chàng không đến nghe Ngài thuyết giảng bảy tám ngày nay. Chàng kể lại mọi việc xảy ra. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Lần này, ông không chịu nghe vợ, và không đuổi cha ra khỏi nhà, nhưng trong một đời quá khứ, ông làm theo lời vợ bảo, đã đem cha ra bỏ trong một nghĩa địa và đào cho ông lão một cái hố. Vào thời kỳ ông sắp giết cha, Ta được bảy tuổi và nhờ ta kể công đức cha mẹ và cản ông khỏi tội giết cha. Thời đó ông đã nghe lời Ta, và nhờ việc săn sóc cha trong lúc ông lão còn sống mà ông được sinh lên Thiên giới. Thời ấy Ta đã thuyết giảng và báo cho ông biết trước để đừng bỏ rơi cha khi sinh vào một đời khác; vì duyên cớ này nên ngày nay ông không chịu nghe theo lời người đàn bà kia bảo, và cha ông không bị giết hại.

Nói vậy xong, theo lời thỉnh cầu của người ấy, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahamadatta trị vì ở Ba-la-nại, trong một làng kia ở Kàsi, một gia đình nọ có một con trai duy nhất tên gọi Vasitthaka. Chàng này nuôi nấng cha mẹ, và sau khi mẹ mất, chàng phụng dưỡng cha như đã tả ở phần đầu. Nhưng có chỗ khác ở đây là: Khi người đàn bà bảo: “Nhìn kia kìa! Cha chàng làm thế đó, thiếp cứ mãi van xin cha chàng đừng làm thế này thế nọ, cha chỉ nổi giận”, nàng lại nói tiếp:

– Này phu quân, cha chàng hung dữ, độc ác lắm, vì cứ mãi gây sự cãi vã. Một lão già lụ khụ như vậy, lại bị bệnh hoạn giày vò, sắp chết đến nơi rồi, nên thiếp không thể ở cùng nhà với ông lão được. Trước sau gì ông lão cũng chết già thôi, vậy chàng hãy đem ông lão ra nghĩa địa, đào hố ném ông vào và lấy cái cuốc đập đầu ông đi; khi ông chết rồi hãy xúc đất lấp hố lại, và để mặc đó.

Cuối cùng, vì cứ nghe mãi những lời đinh tai nhức óc, chàng bảo:

– Này nàng ơi, giết người là việc hệ trọng, bằng cách nào ta có thể làm thế được?

Vợ đáp:

– Thiếp sẽ chỉ cho chàng một cách.

– Vậy cứ nói đi.

– Nào, phu quân, rạng ngày mai, hãy đến nơi cha chàng ngủ, nói thật lớn với ông lão để mọi người đều nghe được, rằng có một con nợ của cha ở một làng kia mà chàng đã đến gặp, nhưng gã không chịu trả tiền cho chàng. Nếu ông lão chết, thì gã ấy chẳng bao giờ trả nợ nữa. Vậy hãy nói rằng hai cha con sẽ cùng lái xe đến đó vào buổi sáng, rồi đến giờ đã định, chàng hãy cột đôi bò vào xe, đưa ông lão đến nghĩa địa. Khi chàng đến đó, hãy chôn ông vào cái hố và la to lên như thể chàng bị cướp giữa đường và bị thương, rồi gội đầu mà ra về.

Chàng bằng lòng làm theo lời bàn ấy và sắp sẵn chiếc xe bò lên đường. Lúc bấy giờ người ấy có một con trai lên bảy tuổi, nhưng rất khôn ngoan và thông minh. Cậu bé nghe lọt những chuyện mẹ nói, và nghĩ thầm: “Mẹ ta thật là một ác phụ, đang cố thuyết phục cha ta giết ông nội. Ta muốn ngăn cản cha ta khỏi tội giết người này.”

Cậu ta liền chạy nhanh đến nằm cạnh ông nội. Vào giờ phút người vợ dặn dò, Vasitthaka đã sắp sẵn chiếc xe bò. Chàng bảo:

– Cha ơi, dậy đi, ta đi đòi nợ.

Rồi chàng đặt cha ngồi vào xe. Song cậu bé ngồi vào xe trước tiên. Vasitthaka không thể cản conđược, nên cùng đem cậu đi ra nghĩa địa với họ. Sau đó, đem cha già và con trai ra để ngồi riêng một nơi với chiếc xe, còn chàng bước xuống lấy cuốc và cái giỏ đến một nơi, dấu mình cho họ khỏi thấy rồi bắt đầu đào một lỗ vuông lớn. Cậu bé đi xuống theo cha và làm như thể không biết việc gì đang xảy ra, cậu ngâm vần kệ đầu tiên để mở lời:

  1. Chẳng rau để luộc, cũng không hành,
    Chẳng bạc hà, cây để nấu canh,
    Nếu chẳng cần, sao cha bới đất
    Một mình, trong nghĩa địa rừng xanh?

Rồi cha cậu đáp lại bằng cách ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Ông nội già nua, quá yếu gầy,
    Do nhiều bệnh hoạn, khổ tràn đầy,
    Cha chôn ông nội trong mồ đó,
    Cha chẳng muốn ông sống thế này.

Nghe thế, cậu bé đáp lại qua nửa vần kệ:

Cha cầu việc ấy, tội đà gây,
Vì việc làm này độc ác thay!

Cùng với những lời trên, cậu bé chụp lấy cái cuốc từ tay cha cậu và bắt đầu đào một hố khác không xa đó mấy.

Cha cậu liền đến gần hỏi tại sao con đào hố đó, cậu đáp lại bằng cách ngâm hết vần kệ thứ ba:

  1. Con sẽ thờ cha lúc tuổi già
    Như cha đối xử với ông nhà,
    Theo phong tục ấy trong gia tộc,
    Con cũng chôn cha dưới hố mà.

Người cha đáp lại qua kệ thứ tư:

  1. Thằng bé nói lời ác nghiệt thay,
    Ông cha sao mắng mỏ như vầy!
    Nghĩ rằng con trẻ rầy la bố,
    Với bạn chí tình, tệ lắm đây!

Khi người cha nói vậy xong, cậu bé khôn ngoan ngâm ba vần kệ, một để đáp lời và hai để làm thành khúc thánh đạo ca:

  1. Con không tồi tệ hoặc hung tàn,
    Con đối với cha, dạ thiết thân,
    Nhưng việc này cha làm đại ác,
    Sức nào gỡ lại, nếu sai lầm?
  2. Người ác ý làm, hỡi Vat-tha,
    Hại người vô tội, mẹ cùng cha,
    Ðến khi người ấy thân vong hoại,
    Ðịa ngục phải vào, chắc chẳng xa.
  3. Người dùng cơm nước, hỡi Vat-tha,
    Ðem phụng dưỡng luôn mẹ với cha,
    Người ấy đến khi thân hủy hoại,
    Sẽ lên Thiên giới hiển nhiên mà.

Người cha sau khi con thuyết giáo, liền ngâm vần kệ thứ tám:

  1. Thấy con không tàn nhẫn, vong ơn,
    Ðối với cha đầy dạ mến thương,
    Chính bởi cha vâng lời của mẹ,
    Ðịnh làm việc ác thật kinh hồn.

Khi nghe vậy, cậu bé bảo:

– Thưa cha, đàn bà hễ khi làm việc ác mà không bị khiển trách, thì còn tái phạm mãi. Vậy cha phải uốn nắn mẹ con để cho mẹ sẽ chẳng bao giờ làm lại một việc như vậy.

Rồi cậu ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Vợ cha là ác phụ vô lương,
    Bà đã sinh con, chính mẹ con,
    Ta hãy đuổi bà ra khỏi cửa,
    Sợ bà gây việc khác cha buồn.

Nghe lời đứa con khôn ngoan, Vasittha rất hoan hỷ bảo:

– Nào ta đi con!

Chàng lại ngồi vào xe bò với cha và con mình.

Lúc bấy giờ người đàn bàn gây tội ác ấy cũng sung sướng lắm vì tưởng rằng đã tống được con người xui xẻo ra khỏi nhà rồi. Nàng trét đầy phân bò ướt trên sàn và nấu một mẻ cháo gạo. Song khi nàng ngồi trông ra con đường mà họ sẽ trở về, nàng thấy họ đang tiến đến: “Kìa chàng ta đã về, lại có lão già xui xẻo ấy nữa”. Nàng suy nghĩ, lòng đầy tức giận: “Hừ! Ðồ vô dụng”. Nàng la lớn:

– Sao, đem về cái của nợ chàng đã mang đi vứt ấy à?

Vasittha không nói một lời, và mở tháo dây chiếc xe bò ra. Rồi chàng bảo:

– Cô nói gì thế?

Chàng đánh cho nàng một trận nên thân, rồi chụp đầu nàng tống ra khỏi cửa, cấm nàng đừng bao giờ đến làm bẩn cửa nhà chàng nữa. Rồi chàng tắm cho cha và con, chính chàng cũng tắm luôn, và cả ba ngồi ăn cháo gạo. Còn người đàn bà độc ác liền đến ở nhà khác vài ngày.

Sau đó cậu bé bảo cha:

– Cha ơi, về việc này mẹ con chưa hiểu đâu. Bây giờ ta thử chọc tức bà ấy đi. Cha tung tin trong làng kia có cô cháu gái của cha, muốn săn sóc cha, ông và con, vì vậy cha định đem cô ấy về, rồi cha lấy hoa tươi và dầu thơm để lên xe, và cứ đi quanh vùng suốt ngày đến tối mới về nhà.

Chàng làm theo như vậy. Những bọn đàn bà trong xóm nhà chàng đến bảo nàng:

– Chị có nghe nói chồng chị đã đi kiếm một cô vợ khác ở một chỗ nào đó chăng?

Nàng kêu lên:

– Ôi thế là ta tàn đời rồi, chẳng còn chỗ nào dành cho ta cả!

Nhưng nàng muốn hỏi thăm con nàng, vì thế nàng vội vã đi tìm con, sụp xuống chân nó, kêu khóc lên:

– Trừ con ra, mẹ chẳng có nơi đâu nương tựa nữa! Từ nay về sau mẹ cố quyết chăm sóc cha con và ông nội như thể chăm sóc ngôi bảo tháp tuyệt đẹp vậy. Cho mẹ vào nhà lần nữa đi con!

– Vâng thưa mẹ – Cậu đáp – Nếu mẹ không làm gì như trước thì con sẽ để mẹ vào, thôi mẹ hãy vui lên nào.

Và khi cha cậu về, cậu ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Bà vợ cha kìa, bạc ác thay,
    Người sinh con trẻ, chính là đây,
    Như voi được luyện rất thuần thục,
    Cho trở lui, người tội lỗi này.

Cậu nói thế với cha xong, liền đi gọi mẹ cậu vào. Nàng làm lành với chồng và cha chồng xong, từđó tánh tình thuần thục tràn đầy đức độ chân chính, và săn sóc cả cha, chồng cùng con chu đáo. Cả hai vợ chồng cương quyết theo lời con khuyên nhủ, chuyên bố thí và làm các thiện sự, rồi được sinh lên cộng trú với Thiên chúng.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, người con hiếu thảo được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ hai cha con và nàng dâu ấy cũng là những người này, còn cậu bé khôn ngoan ấy chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Đại Nhân Hộ Pháp (Tiền thân Mahà Dhamma-Pàla)

Tục lệ nào hay Thánh đạo nào…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể sau khi Ngài đã thành bậc Chánh Ðẳng Giác, trong chuyến thăm viếng Kapilapura lần đầu tiên, Ngài trú ngụ tại Bồ-đề Lâm (Rừng cây Ða), và nói về việc phụ vương không chịu tin lời đồn.

Vào lúc ấy, chuyện kể rằng Ðại vương Suddhodana (Tịnh Phạn), sau khi cúng dường một buổi tại cung điện của ngài cho đức Phật dẫn đầu hai mươi ngàn vị Tỷ-kheo, suốt buổi trò chuyện với Ðức Phật rất vui vẻ, và nói:

– Bạch Thế Tôn, trong thời gian Thế Tôn hành trì khổ hạnh, có vài thần nhân đến gặp ta, đứng trên không và bảo: “Thái tử Siddhattha (Sĩ-đạt-ta), Vương tử của Ðại vương đã chết đói”.

Bậc Ðạo Sư liền hỏi:

– Tâu Ðại vương, thế Ðại vương có tin chuyện đó không?

– Bạch Thế Tôn, ta không tin. Ngay cả khi các thần nhân đến, bay lượn trên không và bảo ta như vậy, ta cũng không tin, mà còn bảo rằng Vương tử của ta không chết được cho đến khi chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác dưới gốc cây Bồ-đề.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Tâu Ðại vương, xưa kia, vào thời Mahà Dhammapàla, ngay khi một vị giáo sư lừng danh thiên hạ đến bảo: “Con ngài đã chết, đây là xương của chàng”, Ðại vương cũng không tin và bảo: “Trong gia tộc ta, bọn chúng không bao giờ chết trẻ”. Vậy thì làm sao bây giờ Ðại vương tin được?

Rồi theo lời thỉnh cầu của phụ vương, bậc Ðạo Sư kể một chuyện ngày xưa.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta làm vua tại Ba-la-nại, trong nước Kàsi có một ngôi làng tên là Dhammapàla, nó mang tên này vì có gia tộc một vị Dhammapàla, nghĩa là Hộ Pháp, cư ngụ tại đó. Do hành trì Mười Thiện đạo, vị Bà-la-môn ấy nổi tiếng ở vùng mình cư trú là một vị Hộ Pháp (Dhammapàla). Trong nhà vị ấy, ngay cả các tôi tớ cũng bố thí, tôn trọng đạo đức và giữ ngày trai giới.

Thời ấy, Bồ-tát tái sinh vào gia đình trên, vị gia chủ đặt tên ngài là Nam tử Hộ Pháp (Dhammapàla Kumàra). Vừa khi đến tuổi khôn lớn, cha chàng trao cho chàng một ngàn đồng vàng, và gửi chàng đến học ở Takkasilà. Chàng đến đó, học tập với một vị giáo sư lừng danh thế giới và trở thành đệ tử trưởng trong hội chúng gồm năm trăm nam tử.

Vào lúc ấy, trưởng nam của vị giáo sư từ trần, và vị giáo sư được đám đệ tử vây quanh, giữa các bà con quyến thuộc, vừa than khóc vừa cử hành tang lễ con trai trong nghĩa địa. Lúc ấy, vị giáo sư cùng thân bằng quyến thuộc và tất cả các đồ đệ đều than khóc kêu gào, chỉ riêng Dhammapàla không khóc cũng chẳng than. Sau khi năm trăm nam tử từ nghĩa địa về, họ ngồi xuống trước vị giáo sư và nói:

– Ôi, chàng trai thật tốt đẹp, non trẻ thế mà phải chia lìa cha mẹ trong tuổi thanh xuân!

Dhammapàla đáp:

– Non trẻ thay, đúng như các hiền hữu nói! Này, tại sao chàng chết ở tuổi thanh xuân? Trẻ con phải chết lúc còn niên thiếu thật là chẳng hợp lý chút nào.

Chúng bạn liền đáp lại:

– Này Tôn giả, thế Tôn giả không biết rằng những người dù trẻ như vậy cũng phải chịu chết sao?

– Ta biết điều ấy lắm, nhưng lúc còn non trẻ, chúng không chết; người ta chết lúc người ta già.

– Thế không phải mọi pháp hữu vi đều giả tạm nhất thời hay sao?

– Chúng thật là giả tạm, đúng vậy, nhưng lúc tuổi còn niên thiếu, con người không chết, chỉ khi già người ta mới chết thôi.

– Ồ, thế đó là tục lệ trong gia tộc ngài sao?

– Phải, đó là tục lệ của gia tộc ta.

Bọn thanh niên liền kể câu chuyện này cho vị giáo sư ấy nghe. Ông cho gọi Dhammapàla đến, hỏi chàng:

– Này Dhammapàla, có phải trong gia tộc con chẳng có người nào chết trẻ chăng?

– Thưa thầy, chính phải, đúng như vậy. Chàng đáp.

Nghe nói thế, vị giáo sư nghĩ thầm: “Chàng nói chuyện này thật hi hữu lắm thay! Ta muốn lên đường tới gặp cha chàng và hỏi chuyện ấy, nếu quả thực vậy, ta sống theo giới luật chân chánh kia.”

Thế là sau khi đã làm xong mọi việc cần làm cho cậu trưởng nam, khoảng bảy tám ngày sau đó, ông cho gọi Dhammapàla đến bảo:

– Này con, ta sắp đi xa nhà, vậy lúc ta đi vắng, con phải dạy bảo các đệ tử của ta.

Nói thế xong, ông đi tìm xương của một con dê rừng, rửa sạch và ướp hương, rồi đặt vào giỏ, sau đó mang theo mình một chú tiểu đồng, ông rời Takkasilà dần dần đi đến làng kia, tại đó ông hỏi đường đi đến nhà vị Ðại Hộ Pháp và dừng lại ở cửa.

Người đầy tớ đầu tiên của vị Bà-la-môn trông thấy vị này, dù đó là ai, cũng cất dù từ tay ông, cởi giày, cầm lấy túi xách trên tay tiểu đồng. Ông nhờ báo với thân phụ chàng rằng đây là giáo sư của nam tử Dhammapàla đang đứng ở cửa.

– Tốt lành thay!

Các gia nhân nói, rồi đi mời vị thân sinh ra gặp ông. Vị thân sinh vội vã đến thềm và nói:

– Xin mời vào.

Và ông dẫn đường vào nhà mình. Vừa mời khách ngồi xuống tọa sàng, và ông làm bổn phận của chủ nhân như rửa chân vị kia v.v…

Khi vị giáo sư đã dùng cơm xong, và hai vị ngồi đàm đạo thân thiết với nhau, vị giáo sư bảo:

– Này Tôn giả Bà-la-môn, nam tử Dhammapàla của ngài có trí tuệ sáng suốt, tinh thông ba tập Vệ-đà và mười tám công trình học thuật, nhân vì rủi ro đã mất mạng. Các pháp hữu vi đều giả tạm, xin ngài chớ đau buồn vì chàng.

Vị Bà-la-môn vỗ tay cười lớn.

– Tại sao ngài cười, thưa Tôn giả Bà-la-môn? Vị giáo sư hỏi.

Vị này đáp:

– Bởi vì không phải con tôi chết đâu; chắc là người khác.

Vị kia nói:

– Không đâu, thưa Tôn giả Bà-la-môn, chính con trai ngài chết chớ không phải người khác. Hãy nhìn kỹ xương chàng đây và tin tôi.

Nói thế xong, ông dở đống xương ra và nói:

– Ðây là xương con trai ngài.

Người cha đáp:

– Có lẽ xương dê rừng hay xương chó, chứ con trai tôi không chết được. Trong gia tộc ta bảy đời nay chưa hề xảy ra chuyện như là chết lúc tuổi còn non; vậy ngài đang nói sai sự thật.

Rồi cả nhà cùng vỗ tay và cười lớn.

Khi thấy việc kỳ diệu như thế, vị giáo sư rất hoan hỷ nói:

– Thưa Tôn giả Bà-la-môn, lề lối này trong gia tộc ngài không phải là không có nguyên nhân, đó là đám thanh niên không hề chết yểu. Tại sao các ngài không chết yểu?

Ông hỏi bằng cách ngâm vần kệ đầu:

  1. Tục lệ nào hay Thánh đạo nào
    Quả này do thiện nghiệp từ đâu?
    Bà-la-môn, nói ta duyên cớ
    Người trẻ trong dòng chẳng chết sao?

Lúc ấy vị Bà-la-môn giải thích những công đức gì đã đem lại kết quả là trong gia tộc mình không ai chết trẻ cả, ông ngâm các vần kệ sau:

  1. Ta không lời dối, sống hiền chân,
    Mọi ác nghiệp xa lánh, chẳng gần,
    Ðiều bất thiện ta đều tránh cả,
    Nên không ai chết giữa thanh xuân.
  2. Nghe việc người ngu lẫn trí nhân,
    Việc người ngu trí chẳng quan tâm,
    Ta theo bậc trí, ngu ta bỏ,
    Nên chẳng ai người chết giữa xuân.
  3. Trước khi bố thí, dạ hân hoan,
    Lòng thật vui mừng lúc phát phân,
    Khi bố thí xong, không hối tiếc,
    Nên không ai chết giữa thanh xuân.
  4. Ta mời đám lữ khách, La-môn,
    Khất sĩ, Sa-môn, mọi kẻ cần,
    Ta đãi uống, ăn, người đói khát,
    Nên không ai chết giữa thanh xuân.
  5. Cưới vợ, không khao khát vợ người,
    Giữ lời loan phụng đã thề bồi,
    Vợ hiền tiết hạnh tòng phu cả,
    Nên các con không sớm bỏ đời.
  6. Con được sinh từ vợ chính chuyên,
    Tài cao, học rộng, xứng danh hiền,
    Vệ-đà thông thạo, con toàn hảo,
    Nên chẳng lìa đời giữa thiếu niên.
  7. Gắng làm chân chánh đạt cao thiên,
    Sống vậy, từ cha đến mẹ hiền,
    Ðến mọi gái trai, anh chị nữa,
    Nên không ai chết giữa thanh niên.
  8. Mong cầu thiên giới, các gia nhân,
    Trai gái thảy đều sống thiện lương,
    Ngay bọn nô tỳ thấp kém nhất,
    Nên không ai chết giữa thanh xuân.

Và cuối cùng, qua hai vần kệ này, ngài tuyên thuyết thiện nghiệp của những người bước trên đường chân chánh:

  1. Chánh đạo cứu ai hướng chánh chân,
    Khéo hành Chánh đạo đạt hồng ân,
    Phúc này ban tặng người làm chánh,
    Người chánh không vào chốn khổ thân.
  2. Ðạo đức hộ phò bậc chánh nhân,
    Như cây che bóng giữa mưa tràn,
    Thằng con sống được nhờ hành thiện,
    Tâm thiện cho người Hộ Pháp-an;
    Còn đó là xương khô kẻ khác,
    Ðống xương Tôn giả mới vừa mang.

Khi nghe vậy, vị giáo sư đáp:

– Cuộc hành trình của ta thật an lạc lắm thay, nó mang lại nhiều kết quả, chứ không phải là không có kết quả!

Ðang lúc lòng đầy hoan hỷ, ông xin lỗi thân sinh Dhammapàla và nói thêm:

– Ta đến đây và mang theo mình một đống xương dê rừng, cố ý để thử ngài. Chứ con trai của ngài hiện đang bình yên mạnh khỏe. Xin ngài truyền cho ta những điều luật bảo tồn cuộc sống của gia tộc ngài.

Lúc ấy vị kia viết quy luật ấy vào một ngọn lá. Sau khi lưu lại chỗ đó vài ngày, vị thầy trở về Takkasilà và khi đã dạy cho Dhammapàla đủ mọi tài nghệ và học thuật xong, ông cho phép chàng ra về cùng với một đoàn tùy tùng đông đảo.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã thuyết Pháp thoại như vậy cho Ðại vương Suddhodana xong, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy giờ vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Ðại vương được an trú vào Tam quả (Bất Lai).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, người cha và người mẹ là hoàng tộc của Ðại vương ngày nay, vị giáo sư là Sàriputta (Xá-lợi-phất), đám tùy tùng là các đệ tử đức Phật, và Ta chính là nam tử Hộ Pháp.

-ooOoo-

  1. Chuyện Kê Vương (Tiền thân Kukuta)

Chớ đặt lòng tin bọn dối lừa…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Veluvana (Trúc Lâm) về vấn đề mưu toan sát hại.

Trong Chánh pháp đường, các Tỷ-kheo đang bàn luận bản chất độc ác của Ðề-bà-đạt-đa:

– Này các Hiền giả, lạ quá, Ðề-bà-đạt-đa đang mưu toan sát hại đấng Thập Lực bằng cách mua chuộc đám xạ thủ và nhiều người khác.

Bậc Ðạo Sư bước vào hỏi:

– Này, các Tỷ-kheo, các ông đang nói chuyện gì trong lúc ngồi với nhau tại đây?

Tăng chúng trình với Ngài. Ngài đáp:

– Ðây không phải là lần đầu người ấy toan hành thích Ta, mà đã có lần như vậy ngày xưa.

Rồi Ngài kể cho Tăng chúng một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, tại Kosambi (Kiều-thưởng-di: một kinh thành trên sông Hằng), có một vị vua cai trị mệnh danh là Kosambaka. Vào thời ấy, Bồ-tát đầu thai làm con của một gà mái sống trong một rừng tre, sau đó làm chúa cả đàn gà hàng trăm con trong rừng. Không xa đó, có một con Diều hâu tìm cơ hội bắt từng con gà trong đàn và ăn thịt, dần dần nó ăn hết mọi con gà, chỉ còn Bồ-tát một mình sống sót. Song ngài rất thận trọng trong lúc kiếm mồi, và sống trong một rừng tre rậm. Tại đây Diều hâu không thể nào đến gần được, vì thế nó bắt đầu suy tính lập mưu gì để dụ dỗ ngài mà bắt lấy.

Sau đó nó đậu trên một cành cây gần đó, và gọi:

– Này Kê hiền hữu, chuyện gì khiến ngài sợ ta? Ta mong muốn kết bạn với ngài. Giờ đây ở một nơi kia (nó nói tên nơi đó) có đầy thức ăn, chúng ta hãy cùng nhau đến đó ăn và sống bầu bạn với nhau.

– Không, thưa Tôn ông tốt bụng! Bồ-tát đáp. Giữa ngài và ta không thể có tình bằng hữu được, xin hãy đi đi.

– Thưa Tôn giả, vì các tội ác trước đây của ta, nên ngài không thể tin ta bây giờ, nhưng ta hứa với ngài rằng ta sẽ chẳng bao giờ làm như vậy nữa.

– Không, ta không muốn có bạn như vậy, hãy đi nơi khác, ta nói rồi đấy.

Ðến lần thứ ba, Bồ-tát từ chối:

– Với một người hay vật có những đặc tính như vậy – ngài bảo – chẳng bao giờ nên kết tình bằng hữu cả.

Rồi Ngài làm cho cả khu rừng rộng vang dội nên các vị thần hoan nghênh trong lúc ngài cảm hứng nói lên bài Pháp này:

  1. Ðừng đặt lòng tin bọn dối lừa,
    Những ai chỉ biết lời riêng tư,
    Hoặc người đã phạm nhiều điều ác,
    Những kẻ tỏ ra quá phụng thờ.
  2. Lắm kẻ bản tâm giống lũ bò,
    Tràn đầy khao khát với tham ô,
    Nói lời thành thật nâng niu bạn,
    Song chẳng hề hành động thế mà.
  3. Bọn chúng chìa tay lạnh trống trơn,
    Nói lời che dấu cả tâm hồn,
    Bọn người phù phiếm, ta nên tránh,
    Những kẻ không hề biết nhớ ơn.
  4. Nam nữ nào tâm chóng đổi thay,
    Ðừng tin tưởng các bọn người này,
    Cũng đừng tin kẻ theo chiều hướng
    Làm hiệp ước rồi lại phá ngay.
  5. Người bước theo đường ác vẫn đi
    Ðến làm mọi việc cực gian nguy,
    Liều thân, vô định, đừng tin nó,
    Kiếm sắc trong bao có khác gì?
  6. Nhiều kẻ nói năng thật dịu lành,
    Những lời không phải tự tâm thành,
    Lòng tin chớ đặt vào trong chúng,
    Cố lấy lòng nên giả thật tình.
  7. Khi kẻ ác tâm ấy ngắm xem
    Thức ăn hoặc lợi nhuận kề bên,
    Nó hành động ác và đi mất,
    Nhưng nó làm nguy bạn trước tiên.

Bảy vần kệ này được vị Kê vương ngâm lên. Rồi vần kệ tiếp theo được vị Pháp vương đọc, đây là những lời phát xuất từ Trí tuệ của bậc Chánh Ðẳng Giác:

  1. Lắm kẻ thù ra vẻ thiết thân,
    Ra tay giúp đỡ sẵn sàng luôn,
    Như Gà rời bỏ Diều hâu ấy,
    Tốt nhất nên lìa những ác nhân.
  2. Người nào không nhạy bén nhìn xa
    Ý nghĩa việc làm diễn biến ra,
    Phải chịu bao cừu nhân chế ngự,
    Ăn năn hối hận buổi sau mà.
  3. Nhanh trí, người nào nhận thấy ngay
    Việc làm mang ý nghĩa nào đây,
    Như Gà tránh bẫy Diều hâu ấy,
    Vậy tránh cừu nhân, phải chạy bay.
  4. Bẫy đó thông thường lại dối gian,
    Giết người, dấu kín giữa rừng hoang,
    Như Gà xa lánh Diều hâu ấy,
    Người có nhãn quan phải kiếm đàng.

*

Và một lần nữa, sau khi ngâm các vần kệ này, Gà gọi Diều hâu lại khiển trách nó và bảo:

– Nếu ngài tiếp tục ở chốn này, ta sẽ biết việc cần phải làm.

Do đó Diều hâu đành bay đến nơi khác.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa cũng như bây giờ, Ðề-bà-đạt-đa đã mưu toan sát hại Ta.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ðề-bà-đạt-đa là Diều hâu và Ta chính là Kê vương.

-ooOoo-

  1. Chuyện Nam Tử Đeo Vòng Tai (Tiền thân Matta-Kundali)

Sao giữa rừng này có cậu trai…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một địa chủ có con trai mới chết.

Tại Xá-vệ, ta được biết thần chết đã cướp mất cậu trai thân yêu của một người địa chủ thường đến cúng dường đức Phật. Quá sầu muộn vì con, người ấy chẳng rửa mặt mày ăn uống gì cả, cũng chẳng đi làm công việc của mình hay đi phụng sự đức Phật mà chỉ kêu khóc:

– Ôi! Con yêu quí! Con đã bỏ ta mà đi trước rồi!

Vào sáng sớm, khi bậc Ðạo Sư nhìn xuống trần gian, Ngài nhận thấy ngườI này đã chín muồi công hạnh để chứng đắc quả Dự Lưu. Vì vậy ngày hôm sau, khi đã dẫn các đệ tử đi suốt kinh thành Xá-vệ để khất thực, và thọ dụng bữa cơm xong, Ngài bảo các đệ tử đi nơi khác, còn Ngàiđược Tôn giả Ànanda theo hầu, đi đến nơi người này ở. Bọn gia nhân báo tin cho vị chủ đất biết bậc Ðạo Sư đã đến, sau đó họ sắp đặt sàng tọa và mời Bậc Ðạo Sư ngồi xuống, rồi dẫn chủ nhàđến yết kiến Bậc Ðạo Sư.

Sau khi người ấy đảnh lễ Ngài xong và ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư nói bằng giọng dịu dàngđầy từ mẫn:

– Này cư sĩ, có phải ông vẫn đang đau buồn vì đứa con trai duy nhất chăng?

Ông đáp:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này cư sĩ, đã lâu, lâu lắm rồi, các người có trí đi lang thang nặng trĩu đau buồn vì cái chết của đứa con trai, đã nghe được lời các bậc hiền nhân và hiểu rõ rằng không gì có thể đem lại người đã mất, nên không còn thấy buồn rầu nữa, dù chỉ một chút thôi.

Nói vậy xong, theo lời thỉnh cầu của người ấy, Bậc Ðạo Sư kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, cậu con trai của một vị Bà-la-môn rất giàu có, khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, lâm bệnh nặng và khi chết, được tái sinh vào cõi chư Thiên. Từ lúc con trai chết, người Bà-la-môn thường đi đến nghĩa địa và than khóc, rồi đi quanh đống tro tàn; bỏ các phận sự dở dang, ông cứ lang thang với tâm tư nặng trĩu u sầu.

Một vị Thiên tử, khi đi dạo thấy vậy, liền lập mưu để an ủi khổ đau của người kia. Chàng đến nghĩa địa lúc người này đang sầu bi, giả dạng làm chính con trai vị ấy và tô điểm đủ mọi thứ trang sức, chàng đứng một bên, vừa ôm đầu trong hai tay vừa than khóc kêu gào. Vị Bà-la-môn nghe tiếng động và nhìn lên, lòng tràn đầy yêu thương đối với con trai mình, liền dừng lại trước chàng và nói:

– Này con yêu quí, tại sao con đứng khóc giữa nghĩa địa này?

Ông đặt câu hỏi qua vần kệ sau:

  1. Sao giữa rừng này có cậu trai,
    Tràng hoa, vòng ngọc mỗi bên tai,
    Chiên-đàn sực nức, giơ tay nọ,
    Sầu khổ gì rơi lệ vắn dài?

Lúc ấy chàng trai kể chuyện mình bằng cách ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Vàng ròng đúc, chiếu rực hào quang,
    Xe ấy con thường vẫn ngã lưng,
    Ðôi bánh này con tìm chẳng thấy,
    Chắc con buồn khổ đến lìa trần!

Vị Bà-la-môn nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Bằng vàng, dát ngọc, loại gì nào,
    Bằng bạc, hay đồng, trí nghĩ sao,
    Cứ nói ra lời, xe được đóng,
    Ta tìm đôi bánh sẽ thêm vào!

Lúc bấy giờ chính Bậc Ðạo Sư với Trí tuệ Tối thắng của Ngài, sau khi nghe vần kệ do chàng trai ngâm xong, liền ngâm câu đầu của một vần kệ khác:

  1. Nghe nói xong, chàng trẻ đáp lời,
    Trong khi chàng ngâm tiếp theo phần còn lại:
    Ðằng kia, huynh đệ đó, trăng trời,
    Chính nhờ đôi bánh đằng xa ấy,
    Xe của con vàng chiếu sáng ngời!

Lập tức vị kia tiếp:

  1. Chàng thật ngu vì việc đã làm,
    Cầu xin chuyện chẳng có ai ham,
    Bởi vì ta chắc chàng nên chết
    Nhật, nguyệt, đòi sao được hỡi chàng?

Thế rồi:

  1. Trước mắt, trời, trăng, lặn, mọc dần,
    Sắc màu, đường hướng vẫn không ngừng;
    Còn ai thấy được hồn người chết,
    Vậy kẻ nào ngu lúc khóc than?

Chàng trai nói vậy xong, vị Bà-la-môn tỉnh ngộ, liền ngâm kệ:

  1. Giữa ta, hai kẻ khóc than thân,
    Chàng thật khôn, ta thật độn đần,
    Quả đúng, đòi hồn người đã chết,
    Khác nào con trẻ khóc đòi trăng?

Lúc ấy vị Bà-la-môn được an ủi nhờ lời lẽ của chàng trai kia, liền cám ơn chàng bằng cách ngâm các vần kệ cuối cùng:

  1. Lòng ta thiêu đốt nóng bừng,
    Như khi người đổ dầu trong lửa đào,
    Chàng đà đem nước lạnh vào,
    Và chàng dập tắt khát khao, tủi buồn.
  2. Vì con, bao nỗi sầu tuôn,
    Mũi tên độc cắm trong hồn của ta,
    Chàng đà an ủi khuây khỏa
    Nỗi niềm bi thiết, nhổ ra tên này.
  3. Tên vừa nhổ, khỏi đau ngay,
    Giữ tâm thanh thản, ta rày khinh an,
    Nghe lời chân thật, hỡi chàng,
    Ta không còn phải khóc than muộn phiền.

Lúc ấy chàng trai bảo:

– Này, ngài Bà-la-môn, ta chính là người con trai mà ngài đang thương khóc, ta đã được tái sinh vào cõi chư Thiên. Vậy từ đây xin đừng sầu muộn vì ta nữa, mà hãy bố thí, hành trì giới đức và giữ ngày trai giới.

Với lời khuyến giáo này, chàng trở về cõi của mình. Còn vị Bà-la-môn tuân theo lời khuyên của chàng, nên sau khi làm nhiều công đức bố thí và các thiện sự khác, ông mạng chung và tái sinh vào cõi chư Thiên.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự thật. Bấy giờ vào lúc kết thúc các Sự Thật, người địa chủ đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Ta chính là vị Thiên tử đã nói lời thuyết giáo này.

-ooOoo-

450.Chuyện phú ông keo kiệt Bilàri (Tiền thân Bilàri-Kosiya)

Khi món ăn không có giữa nồi…,

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo nhiệt tâm bố thí.

Chuyện kể rằng sau khi nghe thuyết Pháp, từ lúc hành trì giáo lý, vị này rất nhiệt tâm bố thí, khát khao bố thí. Chưa bao giờ ông ăn chén cơm đầy trừ khi đã chia phần cho kẻ khác, ngay cả nước cũng không uống nếu không đem cho kẻ khác. Ông chuyên tâm bố thí như vậy.

Thời ấy, chúng Tỳ Kheo bắt đầu nói về các đức tính của ông trong Chánh pháp đường. Bậc Ðạo Sư đi vào hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì khi ngồi tại đây. Các vị ấy trình ngài. Ngài cho gọi vị Tỷ Kheo ấy đến và hỏi:

– Này Tỷ kheo, có phải đúng như Ta đã nghe là ông nhiệt tâm bố thí, khát khao bố thí chăng?

Ông đáp:

– Thưa vâng, bạch Thái Tôn.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỳ Kheo, ngày xưa, kẻ này không có tín tâm nên không tin tưởng gì cả, đến như một giọt dầu trên đầu ngọn cỏ cũng không cho ai; sau đó, Ta điều phục y, giáo hoá, làm cho y thuần thục, và dạy cho y kết quả của bố thí, nên hỷ tâm bố thí này không rời y ngay cả khi đã sang một đời khác.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ Tát sinh vào một gia đình giàu có. Khi đến tuổi khôn lớn, ngài được hưởng tài sản và khi thân phụ mất đi, ngài tiếp nhận địa vị thương nhân của cha ngài.

Một ngày kia, khi xem xét lại sự giàu sang của mình, ngài suy nghĩ: “Tài sản của ta đây dĩ nhiênđầy đủ lắm, song những vị đã tích lũy tài sản ấy nay ở đâu rồi? Ta phải phân chia tài sản ra và bố thí.”

Vì thế, ngài xây một bố thí đường, trong lúc sinh thời, ngài bố thí rộng rãi; và khi sắp mạng chung liền giao phó cho con trai ngài không được làm gián đoạn việc hành trì bố thí, còn ngài tái sinh là Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ ở cõi Trời Ba mươi ba. Con trai của ngài cũng bố thí như thân phụ đã làm, rồi giao trọng trách ấy cho con trai mình, và tái sinh lên làm Canda, Thần mặt trăng, giữa Thiên chúng. Con trai vị này trở thành Suriya. Thần mặt trời, lại sinh ra một người con trở thành Màtali, Thần lái xe (của Thiên chủ Sakka hay Indra), con trai vị này tái sinh làm Pancasikha (Ngũ kế) một vị Gandhabba (Càn-thát-bà), nhạc thần của Thiên chủ.

Song người con trai thứ sáu trong dòng họ này lại không có tín tâm, tàn nhẫn, không thương người, keo kiệt; người này phá hủy bố thí đường, đốt cháy hết, đánh đập các hành khất, đuổi họ đi mơi khác làm ăn chẳng hề cho ai chút gì dù bằng một giọt dầu ở đầu ngọn cỏ.

Lúc ấy, Ðế Thích Thiên chủ nhìn lại các việc của ngài trong quá khứ, tự hỏi: “Truyền thống bố thí của ta có tiếp tục được chăng? Suy nghĩ thế, ngài nhận xét: “Con trai ta tiếp tục bố thí, tái sinh làm Canda, con trai nó là Suriya, cháu nó là Màtali, và chắt nó là Pancasikha, nhưng đứa con thứ sáu trong dòng họ đã phá bỏ truyền thống kia.”Lúc ấy, ngài chợt có ý nghĩ này, ngài muốn đi điều phục con người độc ác kia, và dạy cho gã kết quả của bố thí. Vì vậy ngài triệu tập Canda, Suriya, Màtali, Pancasikha đến gặp ngài và bảo:

Này các Hiền-giả, người con thứ sáu trong dòng họ ta đã phá bỏ truyền thống gia đình, nó đã đốt bố thí đường, đuổi đánh bọn hành khất đi chỗ khác, và không cho ai chút gì cả. Vậy ta phải điều phục nó.

Thế là ngài cùng các ông lên đường đi đến Ba-la-nại.

Vào lúc ấy, thương nhân kia phải đến chầu vua, và khi đã trở về, đang đi đi lại lại dưới tháp canh thứ bảy, nhìn theo con đường. Thiên chủ bảo các vị thần:

– Các Hiền giả, hãy đợi cho đến khi ta bước vào rồi hãy lần lượt theo sau.

Cùng với những lời này, ngài bước tới và đứng trước phú thương kia, bảo ông:

– Này Tôn ông hãy cho ta ăn với.

– Này Bà-la-môn, chẳng có gì ở đây cho ngài ăn cả, hãy đi nơi khác.

– Này Ðại nhân, khi các Bà-la-môn khất thực thì chẳng nên từ chối.

– Này Bà-la-môn, trong nhà ta chẳng có thức ăn nấu sẵn, cũng chẳng có thức ăn để nấu, hãy đi đi!

– Này đại nhân, ta muốn đọc một câu kệ cho ngài, hãy lắng nghe.

Ta chẳng muốn nghe kệ gì cả, đi đi, đừng đứng ở đây.

Nhưng Thiên chủ không để ý lời ông và ngâm hai vần kệ:

  1. Khi món ăn không có giữa nồi,
    Thiện nhân tìm, chẳng chối từ hoài,
    Còn ngài đang nấu, thì không tốt
    Nếu chẳng muốn chia xẻ với ai.
  2. Phóng dật, xan tham, kẻ chối từ
    Chẳng hề đem bố thí bao giờ,
    Còn người nào thích làm công hạnh,
    Là một trí nhân, phải biết cho.

Khi người này nghe nói vậy liền đáp:

– Thôi được, xin vào ngồi đó, ngài sẽ được ăn đôi chút.

Thiên chủ Ðế Thích vừa bước vào vừa ngâm các vần kệ ấy và ngồi xuống.

Kế đó là Canda bước lên xin thức ăn.

– Chẳng có thức ăn cho ngài đâu – người đó bảo – đi đi!

Vị kia đáp:

– Thưa Ðại nhân, có một vị Bà-la-môn ngồi trong đó, ta đoán chắc hẳn có một bữa cơm bố thí cho Bà-la-môn, nên ta cũng bước vào.

– Chẳng có một bữa cơm nào bố thí cho Bà-la-môn cả – người đó bảo – đi ngay đi!

Lúc ấy Canda nói:

– Thưa Ðại nhân, xin nghe một hai vần kệ.

Rồi Ngài ngâm hai vần kệ (hễ khi một kẻ keo kiệt lo sợ không muốn cho ai cả, thì chính nỗi sợ hãi đó khởi lên trong lòng vì y không bố thí):

  1. Sợ khi khát nước hoặc thèm cơm
    Khiến bọn xan tham phải hoảng hồn,
    Trong cõi đời này, đời kế nữa,
    Bọn ngu kia phải trả hoàn toàn.
  2. Vậy nên bố thí, tránh xan tham,
    Rửa sạch tâm nhơ ác dục tràn,
    Trong cõi đời sau, nhiều thiện nghiệp
    Sẽ là nơi trú tuyệt an toàn.

Sau khi nghe các lời như vậy xong, ông bảo:

– Thôi được, xin bước vào, và ngài sẽ được ăn một chút.

Vị kia bước vào ngồi xuống với Thiên chủ Ðế Thích.

Sau khi đợi một lát nữa, Suriya bước lên, và xin ăn bằng cách ngâm hai vần kệ:

  1. Thực khó làm như các thiện nhân,
    Phát ban như các vị đem ban,
    Khó mà kẻ ác làm theo được
    Cuộc sống hiền nhân vẫn trú an.
  2. Vậy thì khi phải giã từ trần,
    Kẻ ác, người hiền bỏ thế gian,
    Kẻ ác tái sinh vào địa ngục,
    Người hiền sinh ở cõi thiên đàng.

Vị phú gia chẳng thấy cách gì thoát được chuyện ấy, đành bảo:

– Thôi được, xin bước vào, và ngồi với các Bà-la-môn này, rồi ngài sẽ được ăn đôi chút.

Và Màtali, sau khi chờ đợi một lát nữa, cũng bước lên xin ăn, và khi vị ấy được bảo là không có thức ăn, vừa mới nghe các lời ấy được thốt lên, liền ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Có người ít của vẫn đem ban,
    Có kẻ không cho, dẫu của tràn,
    Người ít của cho không thể kém
    Kẻ kia ban phát cả trăm ngàn.

Ông bảo vị này:

– Thôi được, xin vào ngồi xuống.

Sau khi đợi thêm một lát, Pancasikha bước lên xin ăn. Kẻ kia đáp:

– Không có, đi đi!

Ông bảo:

– Ta đã đến thăm nhiều nhà rồi! Ở đây chắc phải có bữa cơm cúng dường các Bà-la-môn chứ, tađoán thế.

Rồi ông bắt đầu nói với ông, vừa ngâm vần kệ thứ tám:

  1. Dù sống chắt chiu, phải chánh chân,
    Con nhiều, của ít vẫn đem phân,
    Trăm ngàn đồng bạc người giàu cúng
    Chẳng sánh quà con của tiện dân.

Vị phú gia suy nghĩ lại khi nghe lời của Pancasikha. Rồi ông ngâm vần kệ thứ chín để yêu cầu vị ấy giải thích giá trị ít oi của các vật bố thí kia:

  1. Sao dồi dạt lễ vật cao sang
    Giá trị không bằng vật chánh chân,
    Sao cả ngàn đồng từ phú hộ
    Chẳng bằng quà mọn kẻ cùng bần?

Pancasikha ngâm vần kệ kết thúc để đáp lời:

  1. Nhiều người sống độc ác hung tàn,
    Ðàn áp, giết rồi lại phát ban:
    Thí vật chua cay, tàn nhẫn ấy
    Thua xa quà tặng với chân tâm,
    Nên ngàn đồng bạc người giàu cúng
    Chẳng sánh quà con của tiện dân.

Nghe lời thuyết giáo của Pancasikha xong, ông đáp:

– Thôi được, xin ngài vào nhà ngồi xuống, ngài sẽ được ăn đôi chút.

Rồi ông cũng vào ngồi với các vị kia.

Sau đó, phú ông keo kiệt Bilàri ra hiệu cho một tỳ nữ, bảo nàng:

– Hãy đem cho các Bà-la-môn đằng kia một đấu thóc còn vỏ.

Nàng ấy đem thóc đến gần các vị, bảo các vị rằng:

– Nhận thóc rồi đem nấu nơi khác mà ăn.

Các vị đáp:

– Ta chưa đụng đến thóc còn vỏ trấu.

– Thưa ông chủ, các vị ấy bảo chưa hề đụng đến thóc còn vỏ.

– Ðược, vậy thì cho các ông gạo đã xay.

Nàng ấy đem gạo đã xay, và bảo các vị nhận. Các vị bảo:

– Chúng ta không nhận thứ gì chưa nấu chín.

– Vậy thì nấu cho họ một ít thức ăn của bò trong cái nồi và đem ra mời khách.

Năm vị cầm lên mỗi người một miếng và đặt vào mồm, song để nó dính vào cổ họng rồi trợn mắt lên. Các vị bất tỉnh nằm đó như chết rồi. Cô nữ tỳ thấy thế nghĩ chắc các vị đã chết, nàng hoảng sợ chạy đi báo phú ông:

– Thưa ông chủ, các Bà-la-môn này không nuốt nổi thức ăn của bò, nên chết cả rồi!

Ông suy nghĩ: “Bây giờ dân chúng sẽ trách mắng ta, bảo gã độc ác này đem đống thức ăn trâu bò cho các Bà-la-môn yếu đuối và các ông không nuốt nổi nên đã chết.” Sau đó, ông bảo cô nữ tỳ:

– Mau đi chôn cất hết thức ăn trong bát của các ông, rồi nấu cho họ một ít món đủ thứ gạo ngon nhất.

Nàng tuân lời. Phú ông tìm một số khách qua lại trên con đường gần đó, khi đã tập hợp số người ấy lại với nhau, ông bảo:

– Ta đã cúng dường các Bà-la-môn này thức ăn giống như các thức ta vẫn ăn, nhưng các vị tham lam nuốt từng miếng lớn và vì ăn như vậy nên thức ăn mắc ở cổ họng và phải chết. Ta mời các ngài đến làm chứng cho ta vô tội.

Trước đám đông đang tụ tập như vậy, các vị Bà-la-môn đứng dậy, vừa bảo vừa nhìn vào đám đông:

– Các vị hãy xem sự dối trá của thương nhân này. Ông bảo cho chúng ta thức ăn của ông đấy! Một đống tạp nhạp thức ăn cho bò là những thứ ông đã đem cho chúng ta trước tiên, sau đó sau khi chúng ta nằm như chết, ông bảo người nhà nấu thức ăn này đây.

Rồi các vị ấy nhả ra từ miệng những thứ đã ăn rồi chỉ thứ đó. Ðám đông trách mắng vị thương gia, thét lớn:

– Ðồ ngu si, mù quáng! Ông đã phá bỏ phong tục gia đình ông. Ông đốt bỏ thí đường, ông đã nắm cổ các hành khất tống ra đường, giờ đây khi bố thí các Bà-la-môn yếu đuối này, ông lại cho mộtđống thức ăn trâu bò. Ðến lúc ông sang thế giới bên kia, chắc ông sẽ mang hết tài sản trong nhà buộc thật chặt quanh cổ đấy!

Vào lúc ấy, Ðế Thích Thiên chủ bảo đám đông:

– Các người có biết tài sản này là của ai chăng?

– Chúng tôi không biết.

Ngài bảo:

– Chắc các người có nghe một đại phú thương ở Ba-la-nại, ngày xưa sống ở thành này, đã xây một bố thí đường, và bố thí rất rộng rãi?

– Thưa có – họ đáp – Chúng tôi có nghe nói về ông.

Ngài bảo:

– Ta chính là vị thương gia đó, nhờ các vật tài thí ấy ta được là Ðế Thích Thiên chủ bây giờ đây, và con trai ta đã không phá vỡ truyền thống gia đình, trở thành thần Canda, con trai nó là Suriya và cháu trai của nó là Pancasikha; trong các vị này, đằng kia là Canda, đó là Syriya, và đây là Màtali, thần lái xe, còn đây nữa là Pancasikha, nhạc thần, ngày xưa là cha của kẻ độc ác đằng kia ấy. Bố thí tạo công đức lớn như vậy, cho nên người có trí phải làm công đức.

Nói vậy xong với ý định đánh tan các mối nghi hoặc của dân chúng đang tụ tập tại đó, các ngài bay lên không gian và đứng vững trên không, nhờ thần lực của các ngài hiện ra một đám tùy tùng đông đảo vây quanh, toàn thân các ngài sáng rực lên vì thế toàn thể kinh thành như ở trong đám lửa. Sau đó Ðế Thích Thiên chủ bảo đám đông:

– Chúng ta đã rời vinh quang thiên giới để đến đây và chúng ta đến chỉ vì kẻ độc ác Bilàri Kosiya này, người cuối cùng trong dòng họ, người tàn phá cả giống nòi mình. Với lòng lân mẫn mà chúng ta đến, vì chúng ta biết ác nhân này đã phá bỏ truyền thống gia đình, đốt bố thí đường, nắm cổ hành khất tống ra ngoài, vi phạm phong tục của nhà ta, và do từ bỏ bố thí, nó sẽ tái sinh vào địa ngục.

Ngài thuyết giáo cho đám đông như vậy, xong lại nói về công hạnh của bố thí. Bilàri Kosiya chấp hai tay thỉnh cầu và phát nguyện.

– Tâu Thiên chủ, từ nay trở đi, con xin nguyện sẽ không phá bỏ phong tục gia đình nữa, mà con sẽ bố thí, bắt đầu ngay hôm nay, con quyết chẳng bao giờ ăn mà không chia phần cho kẻ khác, các vật dụng của riêng con, ngay cả nước uống và cả tăm xỉa răng con dùng cũng vậy.

Ðế Thích thiên chủ đã điều phục ông như vậy, làm cho ông biết xả thân, và an trú ông trong Ngũ giới, rồi trở về cõi của ngài. Còn vị thương nhân cứ bố thí suốt cả đời nên được tái sinh vào cõi trời Ba mươi ba.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, Bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy, này các Tỳ kheo, Tỳ Kheo này ngày xưa không có tín tâm và không bao giờ cho ai chút gì cả, song Ta đã điều phục y và dạy cho y kết quả của bố thí, và tâm lành đó không rời y ngay cả khi y đã sinh vào một đời khác.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời bấy giờ, Tỳ kheo rộng lượng này là vị phú gia, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Canda, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Suriya, Kassapa (Ca diếp) là Màtali, Ànanda (A-nan) là Pancasikha và Ta là Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hồng Nga (Tiền Thân Cakka-Vàka)

Màu lông tươi đẹp, dáng thanh tao…,

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc đang trú tại Kỳ Viên về một Tỳ kheo tham lam.

Chuyện kể rằng người này bất mãn với bộ y khất sĩ cùng những thứ tương tự nên thường đi quanh quẩn hỏi:

– Nơi đâu có cơm cho Tăng chúng? Nơi đâu có người mời?

Và khi nghe nói có thịt, ông tỏ ra rất hoan hỷ. Lúc bấy giờ có một vị Tỳ kheo tốt bụng vì lòng thương tưởng bạn, nên đem chuyện ấy kể với Bậc Ðạo Sư. Ngài triệu người ấy đến hỏi:

– Này Tỳ kheo, có thật đúng như ta nghe rằng ông tham lam đó chăng?

– Bạch Thế Tôn, đúng thế.

– Này Tỳ kheo, tại sao ông còn ham muốn, sau khi hành trì Giáo pháp đưa đến giải thoát như Ðạo của Ta? Tham tâm này là ác pháp, ngày xưa, vì tham dục, ông bất mãn với các xác voi chết cùng nhiều vật thừa khác ở Ba-la-nại nên đã đi vào rừng rậm.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, một con Quạ tham ăn không hài lòng với các xác voi chết ở Ba-la-nại, cùng mọi thứ xác chết khác. Nó suy nghĩ: “Bây giờ đây ta không biết rừng rậm ra sao nhỉ? Thế là nó vào rừng xanh, song nó cũng không hài lòng với trái cây rừng mà nó tìm được, nên đi đến sông Hằng.

Khi nó tiến về phía sông Hằng, chợt thấy một đôi Hồng Nga, nó suy nghĩ: “Những con chim đàng xa kia tuyệt đẹp, ta chắc chúng tìm ra nhiều thịt để ăn trên bờ sông Hằng này. Ta muốn hỏi chúng và nếu ta cũng ăn thịt chúng nữa, chắc chắn ta sẽ được màu lông tươi sáng như chúng vậy.” Thế là khi đậu không xa đôi chim ấy, Quạ hỏi Hồng Nga bằng cách ngâm hai vần kệ đầu:

  1. Màu lông tươi đẹp, dáng thanh tao,
    Thân thể tròn xinh, ửng sắc đào,
    Này Ngỗng, đúng là bạn tuyệt mỹ,
    Năm căn và mặt sáng ngời sao!
  2. Trong khi đậu ở bến sông Hằng,
    Cá tráp, cá vền, Ngỗng vẫn ăn,
    Cá chép, cùng nhiều loài cá khác,
    Trên dòng sông nước lội tung tăng.

Hồng Nga liền cãi lại Quạ bằng cách ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Ta chẳng ăn bầy cá giữa dòng,
    Cũng không nằm nghỉ ở trong rừng,
    Mọi loài rong cỏ, ta nuôi sống,
    Này bạn, đó là món Ngỗng ăn.

Lúc ấy Quạ ngâm hai vần kệ:

  1. Ta chẳng tin theo Ngỗng giải bày,
    Xác minh thực phẩm nó ăn đầy,
    Của ngon trong xóm ngâm dầu muối,
    Là món ta ăn sống mỗi ngày.
  2. Món cơm tinh sạch, đẹp làm sao
    Có kẻ làm xong, lại đổ vào
    Món thịt ấy, nhưng này bạn Ngỗng,
    Sắc ta không giống bạn đâu nào.

Ngay sau đó Hồng Nga ngâm cho Quạ nghe các vần kệ còn lại, nêu rõ lý do tại sao Quạ có màu lông xấu xí và thuyết giảng đức tính chân chánh:

  1. Ngắm xem tội ác ở lòng người,
    Làm hại, phá tan cả cuộc đời,
    Lo sợ, kinh hoàng, ngươi ẩm thực,
    Nên ngươi có được sắc này thôi.
  2. Quạ ơi, lầm lạc khắp trên trần,
    Tội ác trong đời trước hóa thân,
    Bạn chẳng thích đồ ăn uống nữa,
    Chính màu này Quạ phải mang luôn.
  3. Này bạn ta chẳng hại ai,
    Cũng không lo lắng, dạ an hoài,
    Cũng không có việc gì sầu muộn,
    Sợ hãi gì do kẻ địch ngoài.
  4. Vậy bạn này, nên sống dũng cường,
    Giã từ đường lối sống vô lương,
    Trên đời tiến bước không làm hại,
    Tất cả cùng yêu mến tán dương.
  5. Người nào thân ái với muôn loài,
    Không hại và không bảo hại ai,
    Không quấy nhiễu, không ai quấy nhiễu,
    Không thấy gì sân hận vì người.

– Vậy bạn muốn được mọi người thương mến, hãy từ bỏ các ái dục.

Hồng Nga này thuyết giảng đạo đức chân chánh, đã nói như vậy. Quạ đáp:

– Ðừng nói tầm phào với ta về cách sống của bạn.

Xong nó vừa kêu lên “Quạ! Quạ!”, vừa bay mất qua không gian đến bãi phân ở thành Ba-la-nại.

*

Khi Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này xong. Ngài thuyết giảng các Sự thật. Bấy giờ lúc kết thúc các Sụ thật, vị Tỳ kheo tham lam đã được an trú vào Tam quả (Bất Lai).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, Tỳ kheo tham lam này là Quạ, mẹ của La-hầu-la là chim bạn của Hồng Nga và Ta chính là Hồng Nga.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vấn Đề Trí Tuệ (Tiền Thân Bhùri – Panha)

Chuyện này sẽ được kể trong Tiền thân Mahà-Ummagga, số 546, Tập VII.

-ooOoo-

  1. Chuyện Điềm Lành Lớn (Tiền thân Mahà-Mangala)

Hiển bày chân lý giải nghi nan…,

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Kinh Ðiềm lành Tối thượng hay Luận về Ðiềm lành.

Tại kinh thành Vương Xá vì một lý do này nọ, một đám đông tụ họp trong nhà nghỉ của vua, giữa bọn ấy có người đứng dậy, bước ra nói:

– Hôm nay là ngày có Ðiềm lành.

Một người khác nghe được, bảo rằng người kia bước ra và nói đến “Ðiềm triệu”, vậy y muốn nói gì qua chữ “Ðiềm”?

Một người thứ ba bảo:

– Dấu hiệu gì có vẻ may mắn thì đó là điềm lành, ví dụ một người thức dậy sớm, và thấy một con bò đực toàn trắng hay một người đàn bà có thai, hay con cá màu đỏ (Ciprinus Rohita) hay cái bình đầy đến tận miệng, hoặc bơ tươi mới tan từ sữa bò, hoặc y phục mới chưa giặt hoặc cháo gạo, thì chẳng có điềm nào tốt hơn nữa.

Vài kẻ bàng quan bình phẩm lời giải thích này:

– Nói hay đấy.

Song có kẻ khác chen vào:

-Ồ không, chẳng có điềm gì trong việc ấy cả, chỉ lời nói bạn nghe mới là điềm. Có người nghe người ta nói: “Ðầy đủ”, rồi lại nghe “Lớn đầy đủ” hoặc “Ðang lớn”, hoặc nghe chúng bảo: “Ăn đi” hay “Nhai đi” thì chẳng có điềm nào tốt hơn nữa.

Một số kẻ bàng quan bảo:

– Nói hay đấy.

Và họ bình phẩm lời giải thích này. Một người khác lại nói:

– Chẳng có điềm gì trong mọi chuyện ấy cả. Hễ vật gì bạn đụng chạm đến mới là điềm. Nếu một người thức dậy sớm đụng vào đất hay cỏ xanh, phân bò tươi, chiếc áo sạch, cá màu đỏ, vàng hay bạc, thức ăn… thì chẳng có điềm gì tốt hơn nữa.

Ở đây vài kẻ bàng quan lại tán đồng và bảo là khéo nói. Và sau đó, số người theo phái chủ trương các điềm do mắt thấy, điềm về âm thanh, điềm về xúc chạm, chia làm ba nhóm, không ai thuyết phục ai được cả. Từ chư Thần trên mặt đất đến Phạm thiên giới không ai có thể xác định điềm là như thế nào cả. Ðế Thích Thiên chủ nghĩ thầm: “Giữa chư thiên và loài người ai ngoàiđức Thế Tôn là có thể giải đáp đúng vấn đề điềm triệu. Ta muốn đi đến đức Thế Tôn, và đặt vấn đề với Ngài.”

Thế là ban đêm Thiên chủ đến thăm đức Thế Tôn, đảnh lễ ngài và chắp tay vào nhau để thỉnh cầu, Thiên chủ đặt câu hỏi bắt đầu bằng: “Có chư Thiên và loài người.” Sau đó Bậc Ðạo Sư dùng mười hai vần kệ nói cho biết ba mươi tám điềm lành lớn. Và trong khi ngài ngâm những lời kinh điềm lành ấy, lần lượt chư Thiên lên đến con số mười ngàn triệu vị đắc Thánh quả A-la-hán, còn các vị đắc ba Ðạo Quả kia thì không sao kể xiết. Thiên chủ nghe xong các điềm lành, liền trở về cõi của mình.

Khi Bậc Ðạo Sư nói các điềm lành xong, thế giới loài người và Thiên giới đồng tán thành và bảo:

– Thật là khéo nói.

Sau đó trong Chánh pháp đường, Tăng chúng bắt đầu bàn luận về công đức của đức Như Lai:

– Này các Hiền gỉa, vấn đề Ðiềm triệu vượt phạm vi hiểu biết của mọi người, nhưng Ngài đã tuệ tri tâm của loài người và chư Thiên, cùng giải tỏa các mối nghi của quần chúng như thể ngài khiến mặt trăng hiện lên trên bầu trời! Ôi đức Như Lai là một bậc Ðại trí, này các hiền hữu!

Bậc Ðạo Sư bước vào hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì trong lúc ngồi tại đó. Tăng chúng trình với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, chẳng vi diệu gì khi Ta giải đáp vần đề điềm lành, vì nay ta đã đạt Trí tuệ Tối thắng; mà ngay cả khi Ta còn là Bồ-tát trên trần gian, Ta đã giải đáp các mối nghi hoặc của chư Thiên và loài người bằng cách trả lời vấn đề Ðiềm lành.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, Bồ-tát tái sinh vào một thị trấn trong một gia đình Bà-la-môn giàu có, cha mẹ đặt tên ngài là Rakhita-Kumàra. Khi ngài khôn lớn và đã hoàn thành việc học tập tại Takkasilà, ngài cưới vợ. Sau khi song thân qua đời, ngài kiểm tra lại gia sản, suy nghĩ kỹ, ngài phân chia tài sản để bố thí, và điều phục các tham dục rồi, ngài trở thành ẩn sĩ trong vùng Tuyết Sơn. Ở tại đó, Ngài tu tập các Thắng trí, và an trú tại một nơi, tự nuôi sống bằng các thứ củ, quả rừng. Theo thời gian, đệ tử của ngài rất đông, gồm năm trăm vị cùng sống với ngài.

Một ngày kia, các ẩn sĩ này đến gần Bồ-tát nói như sau:

– Bạch Ðạo sư, khi mùa mưa đến, xin cho chúng con xuống vùng Tuyết Sơn đi qua đồng bằng để kiếm muối và các thứ gia vị; nhờ vậy thân thể chúng con sẽ được khỏe mạnh và chúng con sẽ thành tựu cuộc sống tu hành.

– Ðược rồi, các bạn cứ đi – ngài bảo. Còn ta sẽ ở lại nơi này.

Thế là các vị từ giã ngài, đi xuống từ vùng Tuyết Sơn, tiến hành trên lộ trình đến tận Ba-la-nại, tại đó các vị trú ngụ ở trong ngự viên. Dân chúng đón tiếp các vị rất trọng thể và nồng nhiệt.

Lúc bấy giờ, một ngày kia, có đám đông tụ tập trong nhà nghỉ của cung vua tại Ba-la-nại, và vấnđề Ðiềm triệu được đưa ra bàn cãi. Lúc ấy, cũng như trước kia, đám đông không thấy ai có đủ khả năng đánh tan mối hoài nghi của mọi người và giải đáp vấn đề Ðiềm triệu; vì thế họ đi đến ngự viên đặt vấn đề cùng hội chúng hiền nhân kia. Các hiền nhân ấy nói với vua:

– Tâu Ðại vương, chúng thần không thể giải đáp vấn đề này, song Bổn sư của chúng thần, ẩn sĩ Rakkhita, một bậc đại tuệ sống ở Tuyết Sơn, ngài sẽ giải đáp vấn đề ấy, vì ngài thông suốt tư tưởng của chư Thiên và loài người.

Vua đáp:

– Này các Hiền giả, Tuyết Sơn quá xa xôi và khó đi lắm đấy, chúng ta không thể nào đến đó được. Xin các Hiền giả đích thân đi về gặp đức Bổn sư và xin hỏi ngài vấn đề ấy. Sau khi các vị đã biết rồi, hãy trở lại đây nói cho chúng ta biết được chăng?

Các vị ấy hứa sẽ làm như vậy; và khi các vị đã trở về gặp đức Bổn sư, đảnh lễ ngài và sau khi ngài đã vấn an vua cùng các phong tục của dân chúng, các vị kể lại cho ngài toàn thể câu chuyện các Ðiềm triệu như trên, từ đầu tới cuối và giải thích việc các vị đến đây theo lời dặn dò của vua như thế nào, để nghe tận tai lời giải đáp vấn đề này. Các vị thưa:

– Bạch Tôn Sư, giờ đây xin Tôn Sư giải thích vấn đề Ðiềm triệu cho chúng con rõ và cho chúng con thấy chân lý. Lúc ấy vị đệ tử lớn tuổi nhất hỏi Bậc Ðạo Sư bằng cách ngâm vần kệ đầu:

  1. Hiển bày chân lý, giải nghi nan,
    Xin dạy kinh gì của Thánh nhân
    Ðược học hành theo giờ thuận lợi,
    Ðời này, đời kế tạo hồng ân?

Khi vị đệ tử lớn nhất đã đặt vấn đề Ðiềm lành qua các lời kệ này, bậc Ðại Sĩ muốn xóa tan mọi nỗi nghi ngờ của chư Thiên và loài người, liền đáp lại:

– Ðây và đây chính là điềm lành.

Và như vậy ngài diễn tả các điềm lành với tài thiện xảo của một vị Phật:

  1. Mỗi Phạm thiên, thần thánh hiển linh,
    Rắn rồng ta thấy giữa quần sinh,
    Trong lòng mãi mãi đầy từ mẫn,
    Vị ấy ban ơn mọi hữu tình.

Như vậy Bậc Ðại Sĩ đã thuyết giảng Ðiềm lành thứ nhất, rồi tiếp đến thuyết giảng Ðiềm lành thứ hai và các Ðiềm lành khác còn lại:

  1. Kẻ nào khiêm tốn với muôn người,
    Yêu mến nữ nam, mọi gái trai,
    Ðứng trước lời bình, không đáp lại,
    Sẽ mang hạnh phúc đến cho đời.
  2. Gặp hiểm nguy, người có trí nhanh
    Chẳng khinh đồng nghiệp, bạn đồng hành,
    Chẳng khoe dòng trí, giàu, giai cấp,
    Hạnh phúc cho đời ắt khởi sinh.
  3. Người nào kết bạn thiện, hiền nhân,
    Ðược trọng vì mồm chẳng ác thâm,
    Không hại bạn, chia đều của cải,
    Chính niềm hạnh phúc giữa thân bằng.
  4. Vợ hiền, đồng tuổi, có tình thân,
    Tận tụy, nhân từ, trẻ lại đông,
    Ðức hạnh, trung thành, dòng quý tộc,
    Ấy niềm hạnh phúc giữa hồng quần.
  5. Vua nào đại đế giữa thần dân,
    Biết sống thanh cao, đủ khả năng,
    Bảo: “Ðấy bạn ta”, không dối trá,
    Chính niềm hạnh phúc giữa vương quân.
  6. Thành tín, cùng cơm nước cúng dường,
    Vòng hoa tươi tốt, các mùi hương,
    Với tâm thanh tịnh, gieo an lạc,
    Ấy mang hạnh phúc mọi thiên đường.
  7. Các trí nhân thuần thiện, chánh chân,
    Tâm tư rửa sạch, gắng tinh cần,
    Theo đời thanh tịnh, người hiền trí,
    Phúc lạc thay người giữa Thánh nhân!

Cứ như vậy bậc Ðại Sĩ đã đưa bài thuyết Pháp lên đến đỉnh cao nhất của Thánh Quả, và sau khi đã giải thích các Ðiềm lành trong tám vần kệ, ngài ngâm vần kệ cuối cùng để tán thán các Ðiềm lành ấy:

  1. Công đức như vầy giữa thế gian,
    Ðược tôn sùng bởi mọi hiền nhân,
    Người khôn hãy bước đi theo chúng,
    Ðiềm triệu chẳng mang tính thật chân.

Các bậc hiền trí, sau khi nghe các Ðiềm lành này xong, còn ở lại bảy tám ngày nữa rồi từ giã ngài và lên đường đến chỗ cũ.

Vua đến thăm các ông và hỏi chuyện kia. Các vị giải thích vấn đề Ðiềm lành như cách đã được giải thích cho quý vị và trở lại Tuyết Sơn. Từ đó về sau, vấn đề Ðiềm lành đã được thông hiểu trên thế giới. Sau khi đã chuyên tâm học tập vấn đề Ðiềm lành, lúc mạng chung, các vị đều lên cộng trú với Thiên chúng rất đông đảo. Còn Bồ-tát tu tập Tứ Vô lượng tâm, và cùng với hội chúng của ngài được tái sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỳ kheo, không phải bây giờ mà cả ngày xưa nữa Ta cũng đã giải thích vần đề Ðiềm lành.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, hội chúng đệ tử của đức Phật là đám hiền nhân kia, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vị Trưởng đệ tử, người đã hỏi vấn đề Ðiềm lành, và Ta chính là Ðạo Sư.

-ooOoo-

  1. Chuyện Trí Giả Ghata (Tiền thân Ghata)

Hắc đế Kan-ha hãy đứng lên…,

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về cái chết của một nam tử. Hoàn cảnh cũng giống trong số 449. tt Matta Kundali.

Ở đây, Bậc Ðạo Sư hỏi vị nam cư sĩ:

– Này cư sĩ, có phải ông đang phiền muộn chăng?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Ðức Phật bảo:

– Này cư sĩ, ngày xưa các bậc trí nghe lời dạy của các hiền nhân nên không phiền muộn về cái chết của con mình nữa.

Và theo lời thỉnh cầu của ông, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa một vị vua có danh hiệu là Mahàkamsa, trị vì ở Uttaràpatha, trong địa hạt Kamsa ở kinh thành Asitanjanà. Ông có hai hoàng nam Kamsa và Upakamsa, và một công chúa Devagabbhà. Vào ngày sinh nàng, các Bà-la-môn tiên đoán tương lai của nàng, bảo:

– Một hoàng nam do công chúa này sinh ra sẽ phá hoại xứ sở và dòng họ Kamsa.

Vua quá yêu thương con gái nên không thể giết nàng được, mà để cho các hoàng huynh của nàng lo liệu việc đó, còn ngài chỉ sống hết đời thì từ trần. Khi ngài băng hà, Kamsa lên làm vua, và Upakamsa làm phó vương.

Hai vị nghĩ sẽ có sự phản đối của quần thần nếu như bắt công chúa phải chết, vì thế quyết định không gả nàng cho ai cả, mà cứ để nàng sống không có chồng và canh giữ thật kỹ. Các ngài lại xây một cái tháp tròn đơn độc để nàng ở đó. Bấy giờ nàng có một nữ tỳ tên là Nandagopà, và chồng nữ tỳ này là Andhakavenhu, gã gia nô canh giữ nàng.

Thời ấy vị vua danh hiệu Mahàsàgara đang trị vì ở phương Bắc Madhurà, có hai vương tử là Sàgara và Upàsàgara. Vào lúc vua cha băng hà, Sàgara lên ngôi vua và Upasàgara làm phó vương. Vương tử này là bạn của Upakamsa, cùng lớn lên và cùng học với một thầy. Song chàng đã có âm mưu dan díu trong khuê phòng của hoàng huynh và bị bại lộ nên phải chạy trốn đến Upakamsa, trong địa phận Kamsa. Upakamsa tiến cử chàng với vua Kamsa và vua đón tiếp chàng rất trọng thể.

Upasàgara, trong lúc vào chầu vua, thường quan sát cái tháp mà công chúa Devagabbhà trú ngụ, và khi hỏi ai ở đó, rồi nghe chuyện kia, chàng đem lòng yêu nàng. Còn Devagabbhà, một hôm, trông thấy chàng khi chàng cùng đi với Upakamsa vào chầu vua. Nàng hỏi ai đó, và khi dược Nandagopà nói đó là Upasàgara, con của Ðại vương Sàgara, thì nàng cũng yêu chàng ngay. Chàng Upasàgara trao một món quà cho Nandagopà, bảo:

– Này hiền tỷ, xin chị thu xếp cho tôi được gặp Devagabbhà.

– Dễ lắm.

Nandagopà vào và kể lại chuyện ấy với công chúa. Nàng đã thầm yêu chàng nên đồng ý ngay. Một đêm kia Nandagopà sắp đặt một cuộc hẹn hò và đem Upasàgara lên tháp và chàng ở lại đó với Devagabbhà. Vì đôi bên tiếp xúc thường xuyên như thế, nên Devagabbhà có thai. Dần dần ai cũng biết nàng có thai, nên hai vị hoàng huynh cật vấn Nandagopà. Nữ tỳ này xin hai vị tha tội cho nàng, rồi kể tình tiết của câu chuyện. Khi hai vị nghe chuyện, liền suy nghĩ: “Ta không thể bảo giết em gái ta được. Nếu em ta sinh con gái, chúng ta sẽ tha chết cho hài nhi ấy luôn, còn nếu con trai thì giết nó đi.”

Và hai vị vua gả Devagabbhà cho Upasàgara đem về làm vợ.

Ðến thời mãn nguyệt khai hoa, nàng sinh hạ một gái. Hai vị hoàng huynh nghe tin ấy rất hoan hỷ đặt cho hài nhi tên là công nương Anjanà. Hai vị lại cho các em một ngôi làng để làm tài sản, đặt tên là Govaddhamàna. Upasàgara đem Devagabbhà đến sống cùng nhau tại ngôi làng ấy.

Devagabbhà lại có thai nữa và đúng ngày đó Nandagopà cũng có thai. Khi đến kỳ, cả hai lại cùng sinh một ngày. Deva sinh con trai và Nanda sinh con gái. Song Deva sợ rằng con trai nàng có thể bị giết nên bí mật gởi con đến Nanda và nhận con gái của Nanda về nuôi. Chúng lại báo tin nàng sinh con ấy với hai vị hoàng huynh. Hai vị hỏi:

– Con trai hay gái?

Chúng đáp:

– Con gái.

– Vậy thì lo nuôi nấng nó đi – Các hoàng huynh bảo.

Cứ như vậy, Devagabbhà sinh mười con trai, và Nandagopà sinh mười con gái. Bọn con trai sống với Nanda và bọn con gái sống với Deva, chẳng một ai biết được bí mật kia.

Con trai trưởng của Devagabbhà được đặt tên là Vàsu-Deva, con trai thứ là Bala-Deva, thứ ba là Canda-Deva, thứ tư Suriya-Deva, thứ năm Aggi-Deva, thứ sáu Varuna-Deva, thứ bảy Ajjuna, thứ tám Pajjuna, thứ chín Ghata-Pandita, thứ mười Amkura. Chúng nổi tiếng là các con trai của gia nô Andhakavenhu hay Mười Anh Em Nô lệ.

Theo thời gian chúng lớn khôn, rất cường tráng lại hung dữ, bạo tàn, chúng đi khắp nơi cướp phá, chúng còn cả gan đến độ cướp lễ vật triều cống được dâng vua. Dân chúng đến tụ tập ở sân chầu vua, kêu than:

– Các con trai của Andhakavenhu, cả Mười Anh Em ấy đang cướp phá xứ sở.

Vì thế vua triệu Andhakavenhu đến, trách mắng y đã để các con mình đi cướp bóc. Cứ như vậy, các tiếng kêu than nổi dậy ba bốn lần, vua hăm dọa y. Vì lo sợ cho tính mạng mình nên y xin vua ban cho y đặc ân được an toàn tính mạng rồi kể chuyện bí mật kia, rằng chúng không phải là con trai của y như thế nào, mà là con trai của Upasàgara. Vua hoảng sợ.

– Làm thế nào bắt chúng nó được? Ngài hỏi quần thần.

Quần thần tâu:

– Tâu Ðại vương, chúng nó là bọn đánh vật, chúng ta hãy tổ chức thi đánh vật tại kinh thành, và khi chúng vào vòng đấu, chúng ta sẽ bắt chúng và giết đi.

Thế là quần thần tìm hai người đánh vật Cànura và Mutthika, và cho loan báo khắp kinh thành bằng trống lệnh rằng vào ngày thứ bảy sẽ có một cuộc thi đô vật.

Vùng đấu được chuẩn bị trước hoàng môn, có hàng rào quanh đấu trường . Vòng được trang hoàng rất vui mắt. Cờ chiến thắng được buộc sẵn sàng. Cả kinh thành quay cuồng như ở trong cơn lốc. Hàng hàng lớp lớp ghế ngồi chật ních. Cànura và Mutthika bước vào vòng đấu, đi nghênh ngang, nhảy nhót, la hét, vỗ tay. Mười Anh Em kia cũng thế. Trên đường đi chúng đã cướp phá phố thợ giặt nên phục sức các xiêm y rực rỡ vào, lại cướp nước hoa của các tiệm nước hoa, xoa dầu thơm khắp người, đeo vòng trên đầu, hoa tai trên tai chúng nghênh ngang bước vào đấu trường, nhảy nhót, la hét vỗ tay.

Vào lúc ấy, Cànura đang đi quanh và vỗ tay, Baladeva thấy gã liền suy nghĩ: “Ta không muốnđụng kẻ kia với bàn tay ta!” Nên chàng chụp lấy sợi dây lớn từ chuồng voi, vừa nhảy lên, hò hét, vừa ném dây quanh bụng Cànura, cột hai đầu dây lại thật chặt, rồi tung gã kia lên, quay cuồng gã quanh đầu mình, rồi đạp gã xuống đất cho lăn ra khỏi đấu trường. Khi Cànura đã chết, vua cho gọi Mutthika. Mutthika bước lên, hò hét, vỗ tay. Baladeva tát mạnh vào mặt gã và trong lúc gã la lớn:

– Ta không phải kẻ đấu vật. Ta không phải kẻ đấu vật!

Baladeva cột hai tay gã lại bảo:

– Ðấu vật hay không phải đấu vật đối với ta cũng thế thôi!

Rồi chàng xô mạnh gã xuống đất, giết gã, và ném gã ra ngoài đấu trường.

Mutthika trong cơn giãy chết, thốt ra lời nguyền: “Ước mong ta thành quỷ để xé xác nó ra”, và gã trở thành con quỷ ở trong rừng có tên gọi là Kàlamattiya. Vua bảo:

– Bắt Mười tên Nô lệ này ra ngay.

Vào lúc ấy Vàsudeva ném một cái bánh xe (một loại binh khí), chặt đứt đầu cả hai anh em nhà vua. Ðám đông kinh hoàng quỳ xuống chân chàng, và xin chàng cứu giúp che chở cho họ.

Thế là Mười Anh Em này, sau khi đã giết hai ông cậu xong, lên làm vua tại kinh thành Asitanjanà và đem cha mẹ về đó ở.

Lúc bấy giờ họ bắt đầu dự định chinh phục cả cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ). Chẳng mấy chốc, họ đi đến kinh thành Ayojjhà, nơi ngự trị của vua Kàlasena. Họ bao vây kinh thành. tiêu diệt đám rừng rậm quanh đó, phá vỡ trường thành và bắt vua làm tù binh, chiếm vương quốc vào tay họ.

Sau đó họ đến Dvàravati. Bấy giờ kinh thành này có một phía là biển, một phía là núi. Dân chúngđồn rằng nơi đó có quỷ hiện. Con quỷ giữ vị trí canh phòng, hễ thấy quân thù nó hóa thành con lừa, và hí như lừa vậy. Lập tức nhờ sức kỳ bí của quỷ, cả kinh thành bay lên không gian đặt chân trên một hòn đảo giữa biển, khi quân thù đi rồi, nó sẽ trở lại và ổn định trên vị trí cũ.

Lần này cũng như thường lệ, vừa khi con lừa thấy Mười Anh Em kia đến, thì nó hí lên như lừa. Cả kinh thành bay lên không gian và đặt mình trên hòn đảo kia. Họ không thấy kinh thành nữa nên quay lui. Sau đó kinh thành lại trở về chỗ cũ. Bọn họ trở lại, con lừa lại làm như trước, bọn họ không thể nào chiếm lấy thành Dvàravati được.

Vì thế họ đến yết kiến vị hiền giả Kanhadìpàyana và nói:

– Thưa Tôn giả, chúng tôi đã thất bại trong việc chiếm vương quốc Dvàravati, xin cho chúng tôi biết phải làm cách nào?

Ông bảo:

– Trong một cái hào ở nơi kia, có một con lừa đi quanh quẩn. Nó hí lên khi thấy quân thù, nên lập tức kinh thành bay lên không. Các ngài phải ôm lấy chân nó mà van xin, đó là cách để các ngài đạt mục đích.

Sau đó họ tạ từ ẩn sĩ và cả mười người đi đến con lừa, quỳ xuống chân nó bảo:

– Thưa Tôn ông, chúng ta không nhờ cậy ai được ngoài Tôn ông! Khi chúng ta đến chiếm thành, xin đừng hí lên.

Con lừa đáp:

– Ta không thể nào không hí được. Song nếu các ngài đến trước, và bốn người trong bọn các người đem các cây cày bằng sắt thật lớn, và đặt bốn cột trụ sắt lớn ở dưới đất tại bốn cổng thành. Khi kinh thành bắt đầu bay lên, nếu các ngài đóng vào trụ sắt một dây xích bằng sắt buộc vào cây cày thì kinh thành không thể nào bay lên nổi.

Họ cám ơn con lừa, và nó không kêu một tiếng khi họ đem đến các cây cày và đào hố chôn các cột trụ dưới đất ở bốn cổng thành rồi đứng đợi. Sau khi con lừa hí, cả kinh thành bắt đầu bay lên. Song những người đứng ở bốn cổng thành với bốn cây cày đã đóng vào các cột trụ các dây xích sắt buộc vào các cây cày, nên kinh thành không thể bay lên được nữa. Thế là Mười Anh Em vào thành giết vua và chiếm vương quốc.

Như vậy họ chiếm được toàn cõi Diêm-phù-đề, và trong sáu mươi ba ngàn kinh thành, họ đã dùng bánh xe kia giết sạch mọi vị vua các nước đó, rồi sống tại Dvàravati, chia vương quốc thành mười phần. Song họ đã quên mất cô chị đầu là công nương Anjanà, vì thế họ bảo:

– Hãy chia vương quốc ra mười một phần.

Song Amkura đáp:

– Thôi cho chị ấy phần của tiểu đệ, và đệ sẽ làm việc khác mà sống, các vương huynh chỉ giảm thuế cho đệ ở mỗi vương quốc của các vương huynh thôi.

Họ đồng ý và đưa phần chàng cho chị đầu; họ sống chung với nàng tại Dvàravati, cả chín ông vua, trong khi Amkura đóng tàu đi buôn.

Với thời gian các vua ấy sinh được nhiều con trai và con gái và lâu sau đó, các bậc cha mẹ họ từ trần. Vào thời ấy chuyện kể là con người sống đến hai mươi ngàn tuổi.

Sau đó vương tử yêu quí của Ðại vương Vàsudeva mất đi. Vua dở sống dở chết vì sầu muộn, nên xao lãng mọi việc, cứ nằm than khóc, bám chặt lấy sàng tọa. Lúc ấy Trí giả Ghata suy nghĩ: “Trừ ta ra không ai đủ khả năng xoa dịu nỗi buồn của hoàng huynh. Ta muốn tìm phương tiện để làm giảm nỗi ưu phiền cho ngài.” Vì thế chàng làm vẻ điên cuồng đi khắp kinh thành, nhìn lên bầu trời và kêu lớn:

– Cho ta một con thỏ! Cho ta một con thỏ!

Cả kinh thành chấn động lên:

– Trí giả Ghata nổi điên rồi. Họ bảo nhau.

Vừa lúc ấy một cận thần tên là Rohineyya, đi vào yết kiến vua Vàsudeva và mở đầu câu chuyện bằng cách ngâm vần kệ đầu tiên:

  1. Hắc đế Kan-ha, hãy đứng lên,
    Sao ngài nhắm mắt ngủ, nằm yên,
    Kìa bào đệ, gió to đang cuốn
    Tâm trí chàng bay mất, hãy nhìn:
    Mất trí, Gha-ta mồm lảm nhảm,
    Hỡi ngài Ðại đế tóc đen huyền!

*

Khi viên cận thần nói vậy xong, Bậc Ðạo Sư thấy vua ấy đứng dậy, rồi với Trí tuệ Tối thắng, Ngài cảm hứng ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Chốc lát vua dài tóc Ke-sa,
    Nghe Ro-hi lớn tiếng gào la,
    Ðứng lên, đại đế đầy phiền muộn
    Vì nỗi khổ buồn của Gha-ta.

*

Vua đứng lên, vội vàng bước xuống từ cung thất tiến về phía Trí giả Ghata, ngài chụp mạnh lấy chàng bằng cả hai tay và ngâm vần kệ thứ ba hỏi chàng:

  1. Sao dáng điên rồ, đệ bước qua
    Khắp miền non nước Dvà-ra-ka,
    Và kêu: “Thỏ, thỏ! này cho biết,
    Ai lấy thỏ con của đệ à?

Trước câu hỏi của vua, chàng chỉ đáp lại bằng cách ngâm mãi các lời kệ ấy. Còn vua ngâm thêm hai vần kệ nữa:

  1. Thỏ làm bằng ngọc hoặc vàng ròng,
    Như đệ ước ao, bạc hoặc đồng,
    Vỏ óc, san hô, hay đá cuội,
    Ta làm ngay thỏ, đệ an lòng.
  2. Còn có nhiều loài thỏ biết bao,
    Vẫn thường quanh quẩn chốn rừng sâu,
    Ðược mang về nữa ta đòi bắt,
    Hãy nói, em thích chọn thứ nào?

Nghe lời vua, bậc hiền nhân đáp lại bằng cách ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Em chẳng ước ao thỏ thế gian,
    Mà mơ con thỏ ở cung trăng,
    Này Ke-sa, thỏ kìa, đem xuống,
    Em chẳng đòi thêm một đặc ân.

“Chắc em ta đã nổi điên rồi”. Vua suy nghĩ khi nghe nói vậy. Lòng đầy sầu muộn, ngài ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Nói thật này em sẽ chết thôi,
    Nếu em cầu khấn chuyện kia hoài,
    Em đòi chuyện chẳng ai mong ước,
    Con thỏ cung trăng ở cõi trời!

Trí giả Ghata khi nghe vua đáp lại, liền đứng yên không nhúc nhích và nói:

– Này vương huynh, anh biết rằng con người đòi thỏ mặt trăng thì không thể nào có được và sẽ phải chết. Vậy tại sao anh phiền muộn vì đứa con trai đã mất?

  1. Nếu Kan-ha hiểu chuyện này mau,
    Và giải khuyên người khóc khổ đau,
    Anh vẫn cớ sao đang phiền muộn
    Ðứa con trai đã chết từ lâu?

Rồi chàng nói tiếp khi vẫn đứng trên đường.

– Này anh, em chỉ cầu xin cái có thật, còn anh lại phiền muộn vì cái không còn nữa.

Sau đó chàng giáo hóa vua bằng hai vần kệ sau:

  1. Con ta sinh, ước chẳng lìa trần,
    Không một người hay cả thánh thần
    Có thể đạt lời nguyền kia, vậy
    Sao điều không có, lại cầu mong?
  2. Không có bùa thiên, hoặc thuốc thần,
    Chẳng loài cỏ thuốc hoặc tiền vàng
    Ðủ công năng để làm cho sống
    Người chết, Kan-ha vẫn khóc than.

Vua nghe vậy, đáp:

– Này hiền đệ, em có mục đích tốt lành lắm. Em đã làm như vậy để xua tan phiền muộn của ta.

Sau đó ngài ngâm bốn vần kệ để tán thán Trí giả Ghata:

  1. Trẫm nghe nhiều bậc trí nhân,
    Nhiều người lỗi lạc khuyên toàn điều hay,
    Song Gha-ta đã khéo thay,
    Mở đôi mắt trẫm từ nay sáng bừng!
  2. Ta đang thiêu đốt trong lòng,
    Như khi người đổ dầu trong lửa đào,
    Em đà mang nước lạnh vào,
    Và em dập tắt khát khao tủi buồn.
  3. Vì con, bao nỗi sầu tuôn,
    Mũi tên độc cắm trong hồn của ta,
    Em vừa an ủi khuây khoa
    Nỗi niềm bi thiết, nhổ ra tên này.
  4. Tên vừa nhổ, hết đau ngay,
    Giữ tâm thanh thản, ta rày bình an,
    Nghe lời chân lý, hỡi chàng,
    Ta không còn phải khóc than đau buồn.

*

Và cuối cùng:

  1. Hãy làm như đấng từ tâm,
    Và như các bậc trí nhân đại hiền
    Giải tan các nỗi ưu phiền,
    Như Gha-ta đã giải khuyên anh mình.

Ðây là vần kệ phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng.

*

Bằng cách ấy, Vàsudeva Ðại vương đã được vương tử Ghata an ủi nỗi buồn.

Sau một thời gian dài, vua cai trị vương quốc, các vương tử của Mười Anh Em làm vua kia suy nghĩ:

– Dân chúng đồn rằng Kanhadìpàyana có thần thông lực. Ta thử xem sao.

Thế là cả bọn ấy kiếm một thanh niên cho gã phục sức đẹp vào rồi buộc một chiếc gối quanh bụng gã làm như thể gã có thai. Rồi họ đem gã vào yết kiến ngài và hỏi:

– Thưa Tôn giả, khi nào thì người đàn bà này sinh con?

Nhà ẩn sĩ nhận thấy (nhờ thần lực) rằng Mười Anh Em vương tử này đã đến hồi mạt vận; rồi khi xem kỹ hạn kỳ mạng sống của chính mình được chừng nào, ngài hiểu là ngài phải chết đúng ngày hôm ấy. Sau đó ngài hởi:

– Thưa các vị vương tử, người này là gì của các vị?

Họ khăng khăng đáp lại:

– Xin hãy trả lời cho chúng ta rõ.

Ngài đáp:

– Từ ngày thứ bảy kể từ nay, người này sẽ sinh ra một khúc gỗ keo. Với khúc gỗ ấy, nó sẽ phá tan dòng họ Vàsudeva, dù cho các vị có lấy thanh gỗ ấy và đốt đi rồi thả tro xuống sông.

– A, đạo sĩ này giả hiệu – họ đáp. Ðàn ông không thể nào đẻ con được!

Rồi họ làm một sợi dây thừng giết ngài lập tức.

Các vị vua triệu các vương tử vào hỏi tại sao đã giết đạo sĩ. Khi các vị nghe như vậy đều kinh hãi. Các vị cho người canh giữ chàng trai kia, và đến ngày thứ bảy, chàng ta lấy ra từ trong bụng một khúc gỗ keo, họ đem đốt đi và thả tro xuống sông. Tro ấy trôi theo dòng nước dính vào một bên bờ nhờ một cái ngõ vào phía sau, từ nơi ấy mọc lên một cây Eraka.

Một ngày kia, các vua đề nghị đi hu hí dưới sông . Vì thế các vị ấy đến ngõ sau này dựng một chiếc rạp lớn, và trong cái rạp rực rỡ ấy, các vị vua ăn uống vui đùa. Sau đó, các vị bắt đầu đấm đá nhau và chia thành hai phe gây gổ dữ dội. Cuối cùng một người trong đám đó thấy không có gì tốt hơn để làm cây gậy liền hái một ngọn lá Eraka, ngay sau khi hái, nó liền biến thành cái gậy gỗ keo trong tay, người ấy dùng gậy đánh nhiều người. Rồi các người khác cũng hái như vậy, và các lá cây mà họ hái đều biến thành gậy gộc, và bọn người ấy dùng gậy đánh nhau cho đến chết. Trong lúc cả bọn tàn sát lẫn nhau, chỉ có bốn người: Vàsudeva, Baladeva, công chúa Anjanà, vương tỷ, và vị quan tế sư nhảy lên xe chạy trốn. Còn cả đám kia chết hết không sót ai.

Bấy giờ bốn vị ấy dùng xe trốn đi đến khu rừng Kàlamattikà, nơi ấy gã đấu vật Mutthika tái sinh làm quỷ đúng như lời nguyện của y. Khi y nhận thấy Baladeva, y liền dựng lên một ngôi làng tại đó rồi giả dạng làm người nô bộc vừa đi vừa nhảy nhót la hét vừa búng tay một hồi:

– Ai muốn đấu đây?

Baladeva mới thấy y liền nói:

– Này anh, em sẽ cố đánh gã này.

Vàsudeva cố hết sức ngăn cản chàng, song chàng vẫn xuống xe, đi đến gã, búng tay, gã kia chụp ngay chàng trong lòng bàn tay và nhai chàng ngấu nghiến như một củ cải!

Vàsudeva thấy chàng đã chết, liền đi suốt đêm cùng chị và viên tế sư rạng ngày sau vừa đến một làng ở biên địa. Vua nằm xuống trong chổ ẩn sau một bụi rậm, nhờ chị và viên tế sư vào làng bảo nấu một ít thức ăn đem đến dâng ngài. Một người thợ săn (tên là Jarà hay Lão niên) thấy bụi rậm lay động:”Chắc có con lợn rồi!”, gã suy nghĩ và đâm một giáo xuyên suốt chân ngài.

– Ai đã bắn ta bị thương đó? Vàsudeva la lớn.

Người thợ săn thấy gã đã đâm nhằm một người nên kinh hoàng bỏ chạy trốn. Vua hồi tỉnh đứng lên gọi gã thợ săn:

– Này lão tiều phu, tới đây đừng sợ!

Khi gã đến, Vàsudeva hỏi:

– Người là ai?

– Tâu Chúa thượng, tiểu thần là Jàra.

– Than ôi! Vua nghĩ thầm: “Hễ ai bị Lão niên đâm bị thương đều phải chết, người xưa vẫn nói như vậy. Chắc chắn ta phải chết hôm nay rồi”. Sau đó vua bảo:

– Này lão tiều phu, xin đừng sợ, đến đây buộc vết thương lại cho ta.

Khi miệng vết thương buộc lại xong, vua để gã đi. Vết thương khiến ngài đau đớn ghê gớm, ngài không thể ăn thứ gì mà các người kia mang đến. Sau đó, ngài bảo các người kia:

– Hôm nay ta phải chết. Các người yếu đuối lắm, không bao giờ có thể có nghề gì khác để sinh sống, vậy hãy học chuyên khoa này của ta.

Nói xong ngài dạy cho hai người học một chuyên khoa, rồi để cho họ ra đi, và ngài chết ngay hômđó. Như vậy trừ công nương Anjanà, tất cả đều chết không ai sót. Câu chuyện kể như vậy.

*

Khi Bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này cư sĩ, như vậy ngày xưa, có người đã thoát khỏi khổ đau vì con chết bằng cách nghe theo lời dạy của các bậc trí nhân; thôi, ông đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa.

Sau đó Ngài tuyên thuyết các Sự thật, vị cư sĩ đã được an trú vào Sơ quả Dự lưu.

Rà Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda (A-nan) là Rohineyya, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Vàsudeva, các đệ tử của đức Phật là các người kia, và Ta chính là Trí giả Ghata.

-ooOoo-

Chương XI

Phẩm Mười Một Bài Kệ

  1. Chuyện Voi Hiếu Dưỡng Mẹ (Tiền thân Màti-Posaka)

Cho dù voi chúa phải đi xa…,

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỳ kheo còn mẹ phải cấp dưỡng.

Hoàn cảnh chuyện này cũng giống như chuyện Sàma (số 540 tập VI). Trong dịp này Bậc Ðạo Sư nói chuyện với chúng Tăng, Ngài bảo:

– Này các Tỷ kheo, chớ giận Tỳ kheo này. Ngày xưa, bậc hiền nhân, ngay cả lúc sinh ra từ bụng của loài vật, và cách xa mẹ mình cũng không chịu ăn uống gì trong bảy ngày, cứ gầy héo mỏi mòn. Dù được cung cấp đồ ăn vương giả, họ cũng chỉ đáp: “Không có mẹ ta thì ta không muốnăn”. Tuy thế, lúc gặp lại mẹ, họ mới chịu ăn như trước.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm Ðại tượng vương ở vùng Tuyết Sơn. Toàn thân Voi màu trắng rất hùng vĩ, là chúa đàn gồm tám mươi ngàn con voi vây quanh ngài, song mẹ ngài bị mù. Ngài thường đưa cho bầy voi những quả rừng thật ngon để đem về dâng mẹ, tuy thế, chúng chẳng đem gì về dâng voi mẹ, mà chúng ăn hết. Khi ngài hỏi thăm và biết được việc ấy, ngài bảo:

– Ta muốn rời đàn để nuôi mẹ ta.

Thế là một đêm thuận lợi, bầy voi không hay biết ngài đưa mẹ đi đến đỉnh núi Candorana (Chiên-đồ-gia), tại đó ngài để mẹ ở trong một hang dưới đồi, gần một hồ nước và nuôi nấng mẹ rất chu đáo.

Bấy giờ, một người thợ rừng ở Ba-la-nại đi lạc đường và không thể nào tìm lối ra được nên bắt đầu than khóc ầm ĩ. Nghe tiếng này Bồ-tát thầm nghĩ: “Ðó là một người đang cơn hoạn nạn, khi ta đang ở đây mà gã gặp tai họa thật chẳng phải lẽ”. Vì vậy ngài đến gần gã, nhưng gã bỏ chạy vì quá sợ hãi; thấy thế, chúa Voi bảo gã:

– Này người kia, anh không cần phải sợ ta, đừng chạy trốn, hãy nói tại sao anh vừa đi vừa khóc thế?

– Tâu chúa tể, kẻ hèn này bị lạc đường đã bảy ngày qua.

Chúa Voi đáp:

– Anh đừng sợ nữa, và ta sẽ đưa anh ra đường đi của dân chúng.

Sau đó ngài bảo người ấy leo lên ngồi trên lưng ngài và đưa gã ra khỏi rừng, xong ngài quay về.

Còn con người độc ác kia quyết vào thành phố báo tin cho vua biết. Vì thế gã đánh dấu các cây cối, các ngọn đồi, rồi tiến về Ba-la-nại. Lúc ấy vương tượng của hoàng đế vừa từ trần. Ngài cho truyền lệnh bằng một hồi trống:

– Nếu kẻ nào thấy ở đâu có con voi xứng đáng để hoàng thượng ngự du thì hãy báo ngay.

Sau đó gã kia đến triều kiến vua và tâu:

– Tâu Chúa thượng, tiểu thần đã thấy một con Voi tuyệt mỹ, toàn thân màu trắng, một vật tối thắng xứng đáng để Chúa thượng ngự lên. Tiểu thần xin chỉ đường. Nhưng xin đưa các người quản tượng đi theo để bắt Voi.

Vua chấp thuận, bảo một người thợ rừng cùng đi với gã ấy và một đoàn tùy tùng lên đường.

Người thợ cùng đi với gã và trông thấy Bồ-tát đang ăn uống trong một hồ nước. Khi Bồ tát thấy gã thợ rừng, ngài nghĩ: “Hiểm họa này chắc chắn không phát xuất từ ai khác, ngoài kẻ kia. Nhưng Ta rất mạnh, ta có thể đánh tan tành cả ngàn con voi trong lúc thịnh nộ, ta lại đủ sức tiêu diệt cảđàn voi ra trận của một vương quốc. Tuy nhiên nếu ta bị lòng phẫn nộ chi phối thì công đức của ta sẽ bị tổn hại. Vì vậy hôm nay ta sẽ không nổi giận, cho dù có bị gươm giáo đâm vào da thịt”. Với quyết đinh này, ngài cúi đầu đứng bất động.

Người thợ rừng bước xuống hồ sen, khi thấy vẻ tuyệt mỹ của các chóp ngà voi, gã bảo:

– Này con, hãy đến đây.

Rối nắm lấy cái vòi giống như sợi dây thừng bằng bạc, gã dẫn voi về thành Ba-la-nại trong vòng bảy ngày.

Khi mẹ Bồ Tát thấy con mình không trở về, bà đoán chắc hẳn ngài bị quan quân nhà vua bắt rồi, và bà than khóc:

– Giờ đây cây cối vẫn mọc, nhưng con ta đã đi xa rồi.

Và bà đã ngâm hai vần kệ sau:

  1. Dù cho Voi chúa phải đi xa,
    Dược thảo, nhũ hương vẫn mọc ra,
    Lúa cỏ, trúc đào, cùng súng trắng,
    Kén xanh chỗ khuất vẫn đơm hoa.
  2. Tượng vương hẳn đến tận phương nao
    Sung túc nhờ bao kẻ tước cao,
    Trang điểm ngọc vàng, vua chúa cỡi,
    Oai hùng thắng địch thủ mang bào.

Bây giờ người luyện voi kia, đang lúc còn đang đi đường đã gửi về triều một tờ sớ dâng vua. Nhà vua liền ra lệnh cả kinh thành trang hoàng thật lộng lẫy. Người luyện voi dẫn Bồ tát vào một cái chuồng được tô điểm bằng các dây tua, tràng hoa và vây quanh mỗi bức màn đủ màu rực rỡ, xongđến trình vua. Vua mang các món cao lương mỹ vị ra bảo đưa cho Bồ Tát, nhưng ngài không ăn chút gì cả:

– Nếu không có mẹ ta, ta không muốn ăn gì đâu.

Vua van nài ngài ăn, và ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Nào ăn đi một miếng, Voi này,
    Ðừng có buồn chi, chớ héo gầy,
    Ðể phụng sự vua, còn lắm việc
    Mà Voi sẽ đảm trách sau này.

Nghe vậy Bồ Tát ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Không, trên đỉnh núi Chiên-đồ-gia,
    Khốn khổ bà kia, mắt lại lòa,
    Dậm một chân vào gốc cổ thụ
    Vì không Voi chúa, ấy con bà.

Vua ngâm vần kệ thứ năm để hỏi ý nghĩa lời ngài:

  1. Ai ở trên đồi Chiên-đồ-gia,
    Nào ai khốn khổ, lại mù lòa?
    Dậm chân vào một gốc cây nọ,
    Vì chẳng chúa Voi, con của bà?

Voi đáp lời qua vần kệ thứ sáu:

  1. Mẹ ta ở trên núi Chiên-đồ gia,
    Khốn khổ mù lòa thật xót xa,
    Dậm một chân vào gốc cổ thụ,
    Bởi vì Voi chúa ấy là ta.

Khi nghe nói vậy, vua liền cho ngài được tự do, và ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Voi hùng phụng dưỡng mẫu thân mình,
    Nên thả tự do, cứ mặc tình,
    Thôi để Voi đi về với mẹ
    Và cùng sum họp với gia đình.

Vần kệ thứ tám và thứ chín xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật.

  1. Khỏi cảnh giam cầm được thoát thân,
    Hết dây ràng buộc, chúa Voi rừng,
    Vài lời khuyên nhủ cùng vua ấy,
    Voi lại trở về chốn núi ngàn.
  2. Rồi xuống hồ kia mát lạnh trong,
    Nơi này Voi vẫn tới bao lần,
    Dùng vòi hút nước từ hồ ấy
    Tung vẫy khắp mình của mẫu thân.

Nhưng mẹ của Bồ Tát tưởng là trời bắt đầu mưa, nên ngâm vần kệ thứ mười để trách cơn mưa:

  1. Ai đó đem mưa thật trái thời,
    Thần nào độc ác quá, trời ơi!
    Vì nay con trẻ đà đi vắng,
    Con trẻ xưa thường phụng dưỡng tôi
    .

Lúc ấy Bồ tát ngâm vần kệ thứ mười một để trấn an mẹ:

  1. Sao mãi nằm kia vậy, mẹ ơi!
    Này đây con mẹ đã về rồi,
    Ca-thi Ðại đế, ngài Thông tuệ,
    Cho trẻ bình an được tái hồi.

Bà mẹ liền đáp lời, cảm tạ vua qua vần kệ cuối cùng:

  1. Vạn tuế trường tồn, đấng Ðại vương!
    Cầu ngài đem lại nước hùng cường,
    Tự do ngài trả cho con đó,
    Với mẹ, con tròn vẹn kính thương!

Vua rất hoan hỷ vì đức độ của Bồ tát nên ra lệnh xây một thị trấn không xa hồ ấy và vua thườngđến phụng sự Bồ Tát cùng mẹ ngài. Sau đó, khi mẹ ngài từ trần, ngài đi thật xa đến một tinh xá tên là Karandaka. Tại đây có năm trăm bậc trí giả an trú và vua thường đến cúng dường các ngài. Vua lại truyền tạc một tượng bằng đá có hình Bồ tát và thường đến chiêm bái để tỏ lòng ngưỡng mộ ngài. Dần dần dân chúng khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) tụ tập lại đó cùng nhau cử hành ngày hội gọi là hội Voi.

*

Khi Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Sự thật. Bấy giờ lúc kết thúc các Sự thật, Tỳ kheo phụng dưỡng mẹ đã được an trú vào Sơ quả Dự lưu.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda là nhà vua, mẫu hậu Mahàmàyà là mẹ Voi và chính Ta là chúa Voi đã nuôi dưỡng mẹ mình.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vương Tử Nguyệt Quang (Tiền thân Junha)

Tâu Ðại vương nghe lão nói điều này…,

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ viên, về các đặc ân mà Tôn Giả Ànanda nhậnđược.

Suốt trong hai mươi năm đầu Ngài chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, các thị giả đức Thế Tôn không phải chỉ là một người: Khi thì Tôn giả Nàgasamàla, khi thì Tôn giả Nàgita, Upavàna, Sunakkhatta, Cunda, Sàgala, khi thì Meghiya hầu hạ đức Thế Tôn. Một ngày kia, đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo:

– Này các Tỳ kheo, nay Ta đã già, và khi Ta bảo chúng ta hãy đi đường này, vài người trong Tăng chúng lại đi đường khác, có người làm rơi bình bát và y của ta xuống đường. Vậy hãy chọn một Tỳ kheo luôn luôn hầu cận ta.

Sau đó, Tăng chúng đồng đứng lên, bắt đầu với Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất), và chấp hai tay lên đầu nói lớn:

– Bách Thế Tôn, con xin hầu hạ Thế Tôn, con muốn hầu hạ Thế Tôn.

Nhưng ngài từ chối trả lời:

– Lời thỉnh cầu của các ông đã được ta biết trước, thôi đủ rồi.

Sau đó Tăng chúng nói với Tôn giả Ànanda:

– Này Hiền giả, Hiền giả hãy xin giữ chức vụ thị giả.

Tôn giả đáp:

– Nếu đức Thế Tôn sẽ không ban cho ta chiếc y mà chính Ngài đã nhận, nếu Ngài sẽ không ban cho ta đồ ăn khất thực của Ngài, nếu Ngài sẽ không cho phép ta ở cùng trong Hương phòng, nếu Ngài sẽ không muốn cho ta cùng Ngài đi đến nơi Ngài được mời. Nhưng nếu đức Thế Tôn sẽ đi với ta đến nơi mà ta được mời, nếu ta sẽ được phép giới thiệu hội chúng vào lúc hội chúng từ các vùng xa xôi hay các nước ngoài đến yết kiến đức Thế Tôn, nếu ta sẽ được gặp đức Thế Tôn khi có nghi vấn khởi lên, hoặc nếu bất cứ khi nào đức Thế Tôn thuyết Pháp mà ta vắng mặt thì ngài sẽ thuyết Pháp lại cho ta ngay lúc trở về: Thế thì ta sẽ hầu hạ đức Thế Tôn.

Tôn giả cầu xin tám đặc ân này, bốn điều “không” và bốn điều “có” và đức Thế Tôn ban tất cả cho Tôn giả. Sau đó Tôn giả thường xuyên hầu hạ Bậc Ðạo Sư trong hai mươi lăm năm liền. Vì vậy sau khi đã đạt được năm đức tính xuất sắc và sau khi thành tựu bảy phúc lạc ” Phúc lạc về Ðạo pháp, phúc lạc về sự giáo hóa, phúc lạc về sự tuệ tri các nhân duyên, phúc lạc về sự quán sát công đức của mình, phúc lạc vì được ở trong một Thánh chúng, phúc lạc về nhiệt tâm tinh cần được khai sáng, phúc lạc về khả năng đạt giác ngộ. Vào hầu cận đức Phật, Tôn giả nhận được tám đặc ân và trở nên danh tiếng trong Giáo pháp của đức Phật, Tôn giả sáng chói chẳng khác nào mặt trăng trên bầu trời.

Một ngày kia Tăng chúng bắt đầu nói đến chuyện ấy trong Chánh pháp đường:

– Này hiền hữu, đức Như Lai đã làm thỏa nguyện Tôn giả Ànanda bằng cách ban các điều ước của Tôn giả.

Bậc Ðạo Sư đi vào và hỏi:

– Này các Tỳ kheo, các ông đang nói chuyện gì trong khi ngồi ở đây?

Tăng chúng thưa với Ngài. Sau đó Ngài bảo:

– Không phải đây là lần đầu tiên, này các Tỳ kheo, mà thuở xưa cũng như bây giờ Ta đã làm thỏa nguyện Ànanda với một đặc ân; ngày xưa cũng như bây giờ, bất cứ điều gì ông muốn xin, Ta đều ban cho cả.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, một vương tử của ngài là Junha hay Nguyệt Quang Vương tử đang theo học tại Takkasilà.

Một đêm kia, sau khi lắng nghe kỹ lưỡng lời dạy bảo của vị giáo sư, chàng từ giã nhà của thầy trong đêm tối và lên đường về nhà. Một Bà-la-môn đã đi khất thực, và đang trên đường về nhà, còn vương tử vì không thấy vị này, nên chạy đến đụng vào Bà-la-môn ngã xuống và kêu lên. Chàng động lòng thương liền quay lại, cầm lấy hai tay vị kia và đỡ dậy. Vị Bà-la-môn nói:

– Này con, con đã làm vỡ bình bát của ta, vậy hãy cho ta tiền mua một bữa ăn.

Vương tử đáp:

– Thưa Tôn giả Bà-la-môn, bây giờ tiểu sinh không thể cho ngài tiền bữa ăn được; nhưng tiểu sinh là vương tử Junha, con vua xứ Kàsi, khi tiểu sinh về vương quốc, ngài có thể gặp tiểu sinh và xin số tiền ấy.

Khi chàng trai hoàn tất việc học tập, chàng tạ từ thầy dạy và trở về Ba-la-nại, trình vua cha việc học tập của chàng.

– Trẫm đã thấy được con trước khi từ trần – vua phán – và muốn thấy con trẫm lên ngôi.

Sau đó ngài làm lễ quán đảnh cho con và phong chàng lên ngôi vua. Với danh hiệu Ðại vương Junha, vương tử cai trị rất chân chánh.

Khi vị Bà-la-môn hay tin ấy, ông nghĩ rằng giờ đây mình có thể lấy lại tiền bữa ăn rồi. Thế là ôngđến Ba-la-nại, thấy toàn thể kinh thành được trang hoàng rực rỡ và vua đang ngự du trong đám rước rất uy nghi hướng về phía hữu, diễu quanh kinh thành. Ðứng trên một chỗ cao, vị Bà-la-môn giơ tay kêu lớn:

– Ðại vương toàn thắng!

Vua đi qua mà không nhìn thấy ông. Khi vị Bà-la-môn thấy mình không được chú ý, liền ngâm một vần kệ để xin ngài giải thích:

  1. Tâu Ðại vương, nghe lão nói điều này
    Chẳng phải là vô cớ lão về đây,
    Ðời thường bảo: Mình không nên vượt quá
    Người du sĩ đứng ngay trên đường sá.

Khi nghe những lời này, vua thúc vương tượng quay lại với cái gậy nạm ngọc của ngài và ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Ta đứng nghe, này Ðạo sĩ nói ngay,
    Cớ sao ngài cất bước đến nơi đây?
    Ngài ao ước một đặc ân nào đó,
    Mà phải tìm, xin nói cho ta rõ.

Và câu chuyện của vua và vị Bà-la-môn hỏi đáp lẫn nhau được kể lại trong các vần kệ sau đây:

Bà-la-môn:

  1. Xin cho lão năm ngôi làng thượng hạng,
    Bảy trăm bò, tỳ nữ một trăm nàng,
    Hơn một ngàn đồ trang sức bằng vàng,
    Hai người vợ với ta cùng dòng dõi.

Quốc vương:

  1. Ðạo sĩ ơi, ngài có điều sám hối
    Thật hãi hùng khi phải thổ lộ ra,
    Ngài có nhiều thần chú hoặc đạo bùa,
    Hay ma quỷ sẵn sàng tuân mệnh lệnh?
    Hoặc thỉnh cầu vì hầu ta chân chính?

Bà-la-môn:

  1. Không ăn năn, chẳng thần chú, đạo bùa,
    Không quỷ ma nào tuân lệnh của ta,
    Không đòi thưởng vì công lao giúp đỡ,
    Song trước kia chúng ta đà gặp gỡ,
    Ðây chính là sự thật phải trình ra.

Quốc vương:

  1. Trẫm không sao nhớ nổi, thời gian qua,
    Rằng trẫm đã tương phùng ngài thuở nọ,
    Trẫm van ngài nói điều này cho rõ
    Khi gặp nhau, nơi chốn, thuở xưa xa?

Bà-la-môn:

  1. Trong thành đô mỹ lệ chúa Gan-dhà,
    Tâu Chúa thượng, Tak-ka là chốn ở,
    Ðêm tối đen như mực kia, tại đó
    Lão và ngài cùng vụt tới chạm vai,
  2. Khi chúng ta đang đứng đó, thưa ngài,
    Cuộc trò chuyện bắt đầu đầy thân thiện,
    Chỉ lần đó chúng ta cùng diện kiến,
    Trước chẳng hề và sau đó cũng không.

Quốc vương:

  1. Khi trí nhân đã gặp, hỡi La-môn,
    Thiện nhân giữa đời không nên để mặc
    Tình bạn xưa nay cố nhân đi khuất,
    Chẳng vì đâu, làm việc cũ chẳng quên!
  2. Chính kẻ ngu chối bỏ việc xưa liền.
    Và bỏ mặc tình người xưa chẳng nhớ
    Những người ấy chúng có lần gặp gỡ;
    Người ngu làm nhiều việc chẳng ra gì,
    Chúng vong ân và chúng cứ quên đi.
  3. Song chánh nhân chẳng hề quên quá khứ,
    Tình bằng hữu, người quen, luôn gắn bó,
    Việc nhỏ nhoi do bằng hữu làm nên
    Cũng chẳng hề bị từ chối, lãng quên,
    Chánh nhân tận cuối đời ghi ơn bạn.
  4. Trẫm ban cố nhân năm làng thượng hạng,
    Bảy trăm bò, nữ tỳ một trăm nàng,
    Hơn một ngàn đồ trang sức bằng vàng,
    Hai người vợ, với ngài cùng đẳng cấp.

Bà-la-môn:

  1. Ðại vương ôi, khi thiện nhân hòa hợp,
    Như trăng rằm ta thấy giữa sao trời,
    Như ta đây cũng vậy, Chúa công ôi,
    Vì ngài đã giữ lời xưa giao ước.

Bồ tát liền tỏ thêm niềm quý trọng đối với đạo sĩ kia.

*

Khi Bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại này. Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu Ta làm Ànanda thỏa nguyện với các đặc ân, mà Tađã làm như vậy ngày xưa nữa.

Cùng các lời này, Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda là vị Bà-la-môn, và Ta chính là vua.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thiên Tử Chánh Pháp (Tiền thân Dhamma)

Ta hành chánh hạnh giữa trần gian…,

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về việc Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) bị nuốt vào lòng đất như thế nào.

Tăng chúng tụ tập trong Chánh pháp đường đàm luận:

– Này Hiền hữu, Ðề-bà-đạt-đa sinh lòng thù nghịch với đức Như Lai và đã bị nuốt vào lòng đất.

Bậc Ðạo Sư đi vào hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì lúc ngồi ở đó. Tăng chúng trình với Ngài. Ngài đáp:

– Này các Tỳ kheo, nay kẻ ấy bị nuốt vào lòng đất vì đã giáng một đòn chống lại quyền lực vinh quang của Ta, song ngày xưa kẻ ấy đã chống lại uy quyền của lẽ phải, nên đã bị nuốt vào lòng đất và đọa vào địa ngục.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời nọ, khi vua Brahmadatta lên ngôi tại Ba-la-nại, Bồ tát được sinh vào cõi dục giới thiên làm một Thiên tử, có tên là Dhamma hay Chánh pháp, đồng thời Ðề-bà-đạt-đa lại có tên là Adhamma hay Tà pháp.

Vào ngày trai giới trăng tròn, về buổi chiều khi cơm nước xong xuôi, dân chúng ngồi vui vẻ trước sân nhà mình trong làng, ngoài phố hay kinh thành, Dhamma xuất hiện trước mặt quần chúng,đứng vững trên không gian, cỡi chiếc thiên xa của ngài và phục sức thiên y rực rỡ giữa hội chúng Thiên nữ, ngài dạy bảo như sau:

– Ðừng đoạt mạng sống của mọi loài hữu tình và tránh mười ác đạo, hãy làm tròn phận sự phụng dưỡng cha mẹ, cùng tam nghiệp chân chánh (Chánh thân nghiệp, chánh khẩu nghiệp, chánh ý nghiệp), nhờ thế các người sẽ được tái sinh lên thiên giới và hưởng mọi vinh quang tuyệt diệu.

Như vậy ngài khuyến cáo dân chúng hành trì Mười thiện đạo, và ngài diễu quanh cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) một vòng thật uy nghiêm hướng về phía hữu. Nhưng Adhamma lại dạy dân chúng:

– Hãy sát sinh các loài hữu tình.

Và như thế vị này đã xúi giục dân chúng theo Mười ác đức và diễu quanh cõi Diêm-phù-đề hướng về phía tả.

Lúc bấy giờ thiên xa của hai vị đối diện nhau trên không gian, và đám tùy tùng của hai vị hỏi nhau:

-Các ông là tùy tùng của ai? Và chúng đáp:

– Chúng ta là tùy tùng của Dhamma.

– Còn chúng ta là tùy tùng của Adhamma. Rồi chúng chiếm chỗ, làm cho lối đi được chia hai ra. Nhưng Dhamma bảo Adhamma:

-Này Hiền giả, ngài là Adhamma và ta là Dhamma, ta đi về hướng phải, vậy hãy quay xe qua một bên nhường lối cho ta.

Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Ta hành chánh hạnh ở trần gian,
    Danh tiếng người đời được tặng ban,
    Ðạo sĩ, hiền nhân, khen ngợi mãi,
    Phần ta, đường Chánh, được tôn sùng,
    Ðường ta là đó, ta chân chánh,
    Tà pháp, vậy ngài hãy tránh đường.

Ðây là các vần kệ tiếp theo:

Tà:

2-Trong chiếc hùng xa của pháp Tà,
Ngự trên ngôi báu ấy là ta,
Ðại hùng không kẻ làm kinh hãi,
Vì vậy ta không tự trước giờ
Nhường chỗ, sao nay đành nhượng bộ
Ðể cho Chánh pháp vượt xe qua?

Chánh:

  1. Chánh pháp đã bày tỏ trước tiên,
    Là Thần ưu thắng, bậc cao niên,
    Tà pháp trẻ hơn vì đẻ muộn,
    Hậu sinh nhường bước, lệnh bề trên!

Tà:

  1. Dù ngài đức độ hoặc cầu xin,
    Hoặc nếu công bình lẽ tự nhiên,
    Ta quyết cũng không hề nhượng bộ,
    Hôm nay ta dự đấu tranh liền,
    Bất kỳ ai hễ giành ưu thắng,
    Vị ấy được nhường chỗ trước tiên.

Chánh:

  1. Khắp cõi gần xa, ta nổi danh
    Anh hùng vô địch, đại quang vinh,
    Trong ta, hình thái này mang đủ
    Tất cả công năng kết hợp thành,
    Tà pháp này, ta là Chánh pháp,
    Làm sao ngài chiến thắng phần mình?

Tà:

  1. Nhờ sắt, mà vàng được đập ra,
    Lấy vàng đập sắt, thấy bao giờ?
    Nếu Tà đánh Chánh mà Tà thắng,
    Sắt đẹp như vàng chẳng kém thua.

Chánh:

  1. Nếu ngài chiến đấu thật hùng cường,
    Lời nói ngài dẫu chẳng thiện chơn,
    Ta sẽ thứ tha lời ác ấy,
    Và dù không muốn, phải nhường đường.

Hai vị ngâm sáu vần kệ trên để đối đáp lẫn nhau. Nhưng vừa lúc Bồ tát ngâm vần kệ này, Adhamma không thể nào đứng trên xe được nữa, mà nhào đầu xuống đất đang há miệng để nuốt vị ấy liền, và vị ấy tái sinh vào địa ngục.

*

Ðức Thế Tôn vừa nhận thấy việc này xảy ra, Ngài liền ngâm các vần kệ cuối cùng phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của Ngài:

  1. Lời ấy vừa nghe tự cõi cao,
    Pháp Tà kia đã ngã lăn nhào,
    Kinh hoàng số phận cho Tà pháp,
    Dù muốn, ta không đánh trận nào.
  2. Vậy pháp Tà khiêu chiến bạo hung,
    Bại vì Ðại sĩ lượng khoan dung,
    Chết vì bị nuốt vào lòng đất,
    Bậc Chánh chân an lạc, đại hùng,
    Bảo vệ cho mình bằng chánh lý,
    Ngự lên xa giá vội đằng vân.
  3. Ở nhà ai chẳng kính song thân,
    Giáo sĩ, hiền nhân, lúc mạng chung,
    Thân hoại, bật tung dây trói buộc,
    Từ đây kẻ ở chốn phàm trần
    Thẳng vào địa ngục ngay, nào khác
    Tà pháp kia nhào xuống ngã lăn.
  4. Ở nhà ai kính trọng song thân,
    Giáo sĩ, hiền nhân, lúc mạng chung,
    Thân hoại, bật tung dây trói buộc,
    Cõi Thiên thẳng tiến tự phàm trần,
    Như ngài Chánh pháp trên xa giá
    Ði đến cung trời của thiện nhân.

*

Khi Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa nữa, Ðề-bà-đạt-đa đã tấn công Ta và đã bị nuốt vào lòng đất.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, Ðề-bà-đạt-đa là Adhamma (Tà pháp), đám tùy tùng của Tà pháp này là tùy tùng của Ðề-bà-đạt-đa, còn ta là Dhamma (Chánh pháp) và các đệ tử của đức Phật là đám tùy tùng của Dhamma vậy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vua Thiện Lai (Tiền thân Udaya)

Dung sắc nàng trong sáng, vẹn toàn…,

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỳ kheo thối thất.

Trường hợp này sẽ được giải thích trong Tiền Thân Kusa (số 531 tập VI). Bậc Ðạo Sư hỏi người này:

– Này Tỳ kheo, có đúng là ông thối thất như Tăng chúng bảo chăng?

Người ấy đáp:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Ngài nói:

– Này Tỳ kheo, tại sao ông lại thối thất trong Giáo pháp như Giáo pháp của Ta đưa đến giải thoát, mà tất cả chỉ vì tham dục?

Các bậc trí nhân ngày xưa, từng làm vua tại Surundha, một kinh thành phồn thịnh rộng mười hai dặm mỗi bề, dù suốt cả bảy trăm năm sống cùng phòng với một nữ nhân diễm lệ như Thiên nữ, cũng không hề bị lôi cuốn vào dục vọng, thậm chí cũng chẳng bao giờ đưa mắt nhìn nàng với lòng ham muốn cả.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Kàsi đang trị vì quốc độ Kàsi, ỏ kinh thành Surundha, ngài không có con cái gì cả. Vì thế ngài ra lệnh cho các vương phi cầu tự. Bấy giờ Bồ tát từ cõi Phạm thiên xuống nhập vào mẫu thai của chánh hậu. Và do ngài sinh ra đời làm vui lòng đại chúng nên được đặt tên là Udayabhadda, tức Thiện Lai. Vào lúc vương nhi biết đi chập chững, thì một người khác xuất hiện ở đời này từ cõi Phạm thiên xuống nhập mẫu thai làm công chúa của một bà vương phi khác và nàng cũng được đặt cùng tên ấy Udayabhaddà.

Khi thái tử đến tuổi trưởng thành, chàng tinh thông mọi ngành học thuật, và hơn nữa, chàng trong sáng đến độ chàng không biết gì về các hành động xác thịt, ngay cả trong các giấc mơ, tâm chàng cũng không hướng đến ác dục. Vua cha ước mong chàng cũng không lên ngôi báu với lễ quánđảnh phong vương huy hoàng, và muốn diễn kịch để chàng giải trí, nên ngài ra lệnh ngay. Nhưng Bồ tát đáp:

– Con không thiết ngai vàng, lòng con không hướng về ác dục.

Chàng cứ bị nài ép mãi, nhưng chàng đáp lại bằng cách bảo tạc một tượng nữ nhân bằng vàng ròng, rồi trình lên song thân với lời tâu:

– Khi nào hoàng nhi tìm được một nữ nhân như vậy, hoàng nhi sẽ nhận ngôi báu.

Quần thần đem bức tượng vàng đi khắp cõi Diêm-phù-đề, nhưng họ không tìm ra nữ nhân nào giống như vậy cả, cuối cùng họ trang điểm cho nàng Udayabhadà thật lộng lẫy rồi đưa nàng ra so với bức tượng, dung sắc nàng còn vượt xa khi nàng đứng cạnh nó. Thế là quần thần đem gả nàng cho Bồ tát làm vương phi, dù cả hai vị đều không muốn, vì nàng chính là công chúa Udayabhaddà, em ruột cùng cha khác mẹ với ngài, rồi quần thần lại làm lễ quán đảnh phong vương cho ngài.

Cả hai vị cùng nhau sống một cuộc đời thanh tịnh, không vướng dục tình. Theo thời gian, khi song thân qua đời, Bồ-tát trị vì vương quốc. Hai vị ở chung phòng, nhưng từ bỏ dục vọng, đến độ không bao giờ nhìn nhau với vẻ ham muốn. Không những thế, hai vị còn ước nguyền rằng, nếu một trong hai vị từ trần trước, thì sẽ trở lại gặp vị kia từ cõi mới tái sinh, để báo tin: “Ta đã tái sinh ở nơi kia”.

Thời bấy giờ lúc làm lễ quán đảnh, Bồ-tát sống bảy trăm năm rồi từ trần. Vì không có vua nào nối ngôi, nên có lệnh của tiên đế Udayabhadda ban bố rằng triều đình phải lo trị nước. Bồ-tát đã trở thành Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ trên cõi Trời ba mươi ba, và do cảnh vinh quang này quá huy hoàng, nên ngài không nhớ đến đời trước trong vòng bảy ngày. Thế là sau bảy trăm năm theo ước tính của loài người, ngài nhớ lại và tự nhủ: “Ta muốn trở về gặp công chúa Udayabhaddà và sẽ thử lòng nàng bằng vàng bạc quý, rồi rống lên tiếng rống sư tử, ta sẽ thuyết giáo, như thế là ta thành tựu lời nguyện ước xưa”.

Vào thời ấy, chuyện kể rằng, đời sống con người kéo dài được mười ngàn năm. Bấy giờ, vào ban đêm cửa cung khóa chặt, quân canh đã được bố trí cẩn mật, và công chúa đang ngồi yên lặng một mình trong cung điện nguy nga ở lầu thượng, suy tư về công hạnh của nàng. Lúc ấy, Ðế Thích Thiên chủ cầm một chiếc dĩa vàng đựng đầy tiền vàng và xuất hiện trong khuê phòng trước mặt nàng, rồi đứng ra một bên. Ngài bắt đầu ngâm vần kệ thứ nhất với nàng:

  1. Dung sắc nàng trong sáng, vẹn toàn,
    Nàng ngồi lầu thượng, dáng cô đơn,
    Diễm kiều, trông tựa như Thiên nữ,
    Xin được đêm nay ở với nàng.

Công chúa đáp lời này qua hai vần kệ sau:

  1. Thành này tường bọc, lũy đào sâu,
    Việc đến gần đây khó biết bao,
    Trong lúc tháp cao và lũy rộng,
    Canh phòng đoàn kết với cung đao.
  2. Chẳng bầy niên thiếu, bậc anh hùng
    Có thế vào đây được dễ dàng,
    Hãy nói, việc gì là có sự
    Cùng ta gặp gỡ chốn thâm cung?

Sau đó Ðế Thích Thiên chủ ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Ðại quý là Ta, hỡi tố nga,
    Với nàng, ta xuất hiện bây giờ,
    Ban ta ân huệ nàng, nương tử,
    Ðây dĩa vàng, xin nhận của ta.

Nghe thế, công chúa liền ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Từ thuở Thiện Lai vĩnh biệt trần,
    Ta không đòi, dẫu quý hay thần,
    Hoặc người ở cạnh, này Thiên tử,
    Ðừng đến nữa đây, chớ ở gần.

Nghe giọng sư tử hống của nàng, Thiên chủ không còn đứng lại nữa, mà làm ra vẻ giã từ nàng rồi lập tức biến mất. Hôm sau cũng vào giờ ấy, ngài cầm cái chén bạc đựng đầy tiền vàng và đến nói với nàng qua vần kệ thứ sáu:

  1. Cực lạc cùng nhau biết rõ rành,
    Hoàn toàn trọn vẹn giữa đôi tình,
    Khiến người đời phạm bao điều ác,
    Ôi quý nương, nàng chớ vội khinh!
    Chén bạc, hãy nhìn, ta kính tặng,
    Hỡi nàng, cười mỉm giá khuynh thành.

Lúc ấy công chúa suy nghĩ: “Nếu ta cứ để vị kia nói mãi chuyện nhảm nhí, y sẽ đến hoài. Vậy ta không nói gì nữa với y”. Thế là nàng không nói thêm lời nào. Ðế Thích Thiên chủ thấy nàng không có gì để nói nữa, nên biến mất từ chỗ đứng.

Ngày kế tiếp cũng vào giờ ấy, ngài cầm chén sắt đựng đầy tiền vàng và bảo:

– Thưa công nương, nếu nàng ban cho ta tình yêu của nàng, ta sẽ tặng nàng chén sắt đầy vàng này.

Khi trông thấy ngài, công chúa ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Nam nhi mong tán tỉnh hồng quần,
    Ðem tặng vàng kia cứ mãi tăng,
    Cho đến khi nàng chìu thỏa ý,
    Nhưng ta xét cách của Thiên thần
    Nơi ngài khác hẳn: nay ngài đến,
    Tặng vật xem ra cứ giảm dần.

Khi nghe những lời này, bậc Ðại Sĩ đáp:

– Thưa công nương, ta là một kẻ đi buôn rất thận trọng. Ta không phung phí của cải vô ích đâu. Nếu nàng tăng dần vẻ xuân sắc, ta sẽ tăng số tặng vật cho nàng, nhưng sắc đẹp của nàng đang tàn tạ dần, vì thế ta giảm dần số tặng vật đó thôi.

Nói xong ngài ngâm ba vần kệ:

  1. Ôi mỹ nhân, xuân sắc tàn phai,
    Hỡi nàng thục nữ giữa trần ai,
    Hôm nay nàng phải già hơn trước,
    Nên số vàng ta tặng giảm hoài.
  2. Vậy thưa nàng nữ chúa huy hoàng,
    Trước mắt ta đang ngưỡng mộ nàng,
    Trong lúc ngày đêm qua thấm thoắt,
    Sắc nàng tươi đẹp sẽ phai tàn.
  3. Song hỡi công nương trí tuyệt trần,
    Nếu như nàng thuận ý bằng lòng,
    Giữ gìn Thánh đạo và thanh tịnh,
    Nàng sẽ luôn kiều diễm bội phần.

Ngay sau đó công chúa ngâm một vần kệ khác:

  1. Chư Thiên chẳng giống các người trần,
    Da chẳng già, không thấy nếp nhăn,
    Thiên chúng làm sao không thể xác?
    Ðiều này, Ðại quý nói cho cùng.

Lúc ấy, Thiên chủ giải thích vấn đề này qua một vần kệ nữa:

  1. Thiên chúng không như người thế gian,
    Chẳng già, da chẳng thấy đường nhăn,
    Mai đây và mãi về sau nữa,
    Thiên lạc vô ngần, mỹ sắc tăng.

Khi nàng nghe nói dung sắc trên thiên giới, nàng hỏi con đường lên đó qua một vần kệ khác:

  1. Ðiều gì làm khiếp sợ quần sinh,
    Xin hỏi ở đời, đấng hiển linh,
    Làm sáng tỏ con đường thiện ấy,
    Xin ngài giải thích thật phân minh
    Làm sao đi hướng về Thiên giới,
    Nơi ấy chẳng còn phải hãi kinh.

Kế đó Thiên chủ giải thích vấn đề trong một vần kệ nữa:

  1. Ai khéo hộ trì khẩu, ý, căn,
    Chăng ưa làm ác nghiệp về thân,
    Trong nhà ta thấy nhiều lương thực,
    Ban phát rộng lòng, tín chánh chân,
    Hào phóng, ngọt ngào, đầy thiện ý,
    Sẽ sinh thiên giới chẳng kinh hoàng.

Khi công chúa nghe lời ngài xong, nàng cảm tạ ngài qua một vần kệ khác:

  1. Giống như bà mẹ, giống như cha,
    Ðại lực thần đang giáo hóa ta,
    Hỡi Ðại thần oai hùng mỹ diệu,
    Ngài là ai đó, nói ngay ra.

Liền đó Bồ-tát ngâm kệ:

  1. Ta chính Thiện Lai, hỡi mỹ nhân,
    Vì lời ước hẹn, đến bên nàng,
    Giờ đây đã nói, ta từ giã,
    Lời hứa ngày xưa hết buộc ràng!

Công chúa thở dài bảo:

– Ôi Chúa thượng, ngài chính là Ðại vương Udayabhadda ư?

Rồi nàng nức nở khóc, nước mắt tuôn như suối chảy:

– Vắng bóng Chúa thượng, thần thiếp không thể nào sống được. Xin Chúa thượng dạy bảo thần thiếp cách nào thiếp có thể sống cùng Chúa thượng mãi mãi!

Nói xong nàng lại ngâm kệ khác:

  1. Nếu Ðại vương là chúa Thiện Lai,
    Ðến đây vì nguyện ước, không sai,
    Thì xin dạy thiếp, ôi Hoàng thượng,
    Ðể sống cùng nhau mãi mãi hoài.

Tiếp theo ngài ngâm bốn vần kệ để giáo hóa nàng:

  1. Thoáng chốc, xuân thì vụt quá nhanh,
    Ðời không bền vững, mọi loài sinh,
    Chết rồi, sống lại đời sau nữa,
    Thối nát, thân này thật mỏng manh.
    Vậy chớ buông lung cùng phóng dật,
    Tiến lên, vững bước, giữ tâm thành.
  2. Nếu cả trần gian, mọi bạc vàng
    Thuộc quyền cai trị một anh quân,
    Thánh nhân còn vượt xa vua ấy
    Trong cuộc thi đua giữa cõi trần,
    Vậy chớ buông lung cùng phóng dật,
    Tín tâm giữ vững, bước lên đàng.
  3. Song thân cùng quyến thuộc, anh em,
    Và vợ (có tiền lại kết duyên),
    Tất cả đều ra đi lũ lượt,
    Kẻ này xa kẻ khác luân phiên,
    Vậy đừng sống cuộc đời buông thả,
    Giữ tín tâm bền vững, bước lên.
  4. Thân kia, hãy nhớ, sẽ làm thành
    Thực phẩm cho nhiều loại chúng sinh,
    Hoan lạc cũng như niềm khổ não
    Chỉ là giờ khắc thoáng trôi nhanh,
    Ðời này nối tiếp đời sau mãi,
    Vậy chớ buông lung, giữ tín thành.

Bậc Ðại Sĩ đã thuyết Pháp như vậy. Công chúa rất hoan hỷ với cách giáo hóa trên, và nàng cảm tạ ngài với vần kệ cuối cùng:

  1. Thiên thần này nói ngọt ngào,
    Thế nhân thấy rõ ngắn sao cuộc đời,
    Ðời buồn, ngắn ngủi thế thôi,
    Ði theo đời sống, không rời sầu bi.
    Giã từ trần thế, ta đi,
    Từ kinh đô xứ Ca-thi lên đàng.

Sau khi thuyết giáo như vậy cho nàng xong, Bồ-tát trở lại cõi của ngài.

Ngày kế tiếp, công chúa liền giao việc trị nước cho các triều thần, còn nàng trở thành ẩn sĩ ngay trong kinh thành ấy, ở hoa viên đầy an lạc. Tại đó, nàng vẫn sống theo chánh hạnh cho đến khi mạng chung, nàng được tái sinh ở cõi Trời Ba mươi ba, làm thị nữ của Bồ-tát.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài thuyết giảng các Sự Thật. Bấy giờ, lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, thân mẫu La-hầu-la là công chúa kia và Ðế Thích Thiên chủ chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ngụm Nước Uống (Tiền thân Paniya)

Ngụm nước kia còn là của bạn mình..,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự điều phục các ác dục.

Ta biết rằng có một thời, năm trăm dân chúng thành Xá-vệ là gia chủ cùng thân hữu của đức Như Lai đã đi nghe Pháp và xuất gia thọ giới Tỷ-kheo. Trong khi sống ở Tinh xá trên con Ðường-lát-vàng kia, vào ban đêm các vị chìm đắm trong dục tưởng (các chi tiết cũng được biết như trong chuyện trước). Theo lệnh của đức Thế Tôn, Tôn giả Ànanda liền tập họp Tăng chúng lại. Bậc Ðạo Sư ngồi xuống ở chỗ đã được soạn sẵn và không cần hỏi Tăng chúng: “Có phải các ông chìm đắm trong dục tưởng chăng?”, mà Ngài dạy bảo Tăng chúng bằng những lời tổng quát:

– Này các Tỷ-kheo, không có việc gì được xem là lỗi lầm nhỏ nhặt cả. Một Tỷ-kheo phải chế ngự tất cả các dục mỗi khi chúng khởi lên. Các bậc trí nhân thuở xưa, trước khi đức Phật ra đời, đã biết điều phục ác dục và đạt đến trí tuệ của một vị Ðộc Giác Phật.

Cùng với lời dạy này, Ngài kể cho Tăng chúng nghe một chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì thành Ba-la-nại, có hai người bạn trong một làng kia ở quốc độ Kàsi. Hai người ấy, ra đồng mang theo hai bình nước uống, họ đặt khuất bên đường trong lúc cuốc đất, mỗi khi khát nước lại đến đó uống. Một trong hai người ấy, khi uống nước, đã để dành nước trong bình của mình và uống nước trong bình kẻ kia. Buổi chiều khi ra khỏi rừng tắm rửa xong, kẻ ấy đứng suy nghĩ: “Ta có phạm lỗi gì hôm nay, hoặc do thân căn, hoặc do căn nào khác chăng?” Lúc đó, ông nhớ lại đã uống ngụm nước trộm như thế nào, và buồn phiền kêu lên:

– Nếu sự thèm khát này khởi lên trong ta, nó sẽ khiến ta phải tái sinh vào cõi dữ. Vậy ta quyết nhiếp phục lỗi lầm.

Vì vậy do chuyện uống ngụm nước trộm này mà ông dần dần đạt được thiền định và chứng đắc Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật (Pacceka-Buddha) và ông đứng đấy suy nghĩ về Thắng trí của mình vừa đạt được.

Bấy giờ người kia sau khi tắm xong bảo:

– Này Hiền hữu, về nhà đi.

Ông đáp:

– Hiền hữu về nhà đi, nhà cửa chẳng có ý nghĩa gì đối với ta nữa! Ta là một vị Ðộc Giác Phật đây!

– Ô kìa, Ðộc Giác Phật giống như Hiền hữu ư?

– Thế thì các vị ấy ra sao?

– Các vị ấy có tóc dài cỡ hai ngón tay, đắp y vàng, sống ở động Nandamùla tận trên vùng Tuyết Sơn.

Người kia vỗ vào đầu; ngay lập tức các dấu vết của một người thế tục biến mất, một cặp y đỏ đắp quanh mình vị ấy, một dây đai màu vàng như lằn chớp cột quanh thắt lưng, tấm thượng y màu son đỏ vắt qua một bên vai, một y phấn tảo màu đen sẫm như đám mây trời bão nằm vắt qua một vai kia, một bình bát bằng đất màu vàng nâu treo lủng lẳng trên vai tả, ông đứng vững trên không, sau khi thuyết Pháp xong liền bay lên cao và không hề hạ xuống, cho đến khi bay tận hang núi Nandamùla.

Một người khác cũng sống trong một làng ở Kàsi, là một địa chủ, đang ngồi trong tiệm tạp hóa thì thấy một người nọ dẫn vợ đi tới. Vừa thấy nàng là một mỹ nhân dung sắc tuyệt thế, người kia lỡ phá giới đức và liếc nhìn nàng. Sau đó ông suy nghĩ: “Nếu tham dục này tăng trưởng, nó sẽ khiến ta đọa vào cõi ác thú”. Ông vừa tu tập tâm vừa làm phát khởi thiền định và đạt Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật, rồi đứng trên không và thuyết Pháp, về sau cũng bay đến động Nandamùla.

Lại có hai cha con là dân làng Kàsi, cùng du hành với nhau. Tại lối đi vào rừng có nhiều kẻ cướp trú ẩn. Những quân cướp này, nếu bắt được cả hai cha con, thì sẽ giữ người con lại và bắt người cha đi về, bảo:

– Hãy đem tiền đến chuộc con trai ông.

Hoặc nếu là hai anh em, chúng sẽ giữ người em lại và bắt người anh đi về, nếu là hai thầy trò, chúng giữ ông thầy lại và bắt học trò đi về, người học trò muốn học hành sẽ đem tiền đến và chúng sẽ thả ông thầy.

Lúc bấy giờ, khi hai cha con này thấy bọn cướp đang nằm chờ, người cha bảo:

– Con đừng gọi ta là cha, ta cũng không gọi con là con đấy.

Hai người đồng ý như vậy, nên khi quân cướp đi đến, chúng hỏi hai người là gì đối với nhau, hai người đáp:

– Chúng ta chẳng là gì đối với nhau cả.

Rồi họ nói dối một điều đã nghĩ sẵn từ trước. Khi hai người ra khỏi rừng và nghỉ ngơi sau khi đã tắm rửa buổi tối xong, người con xem xét lại đức hạnh của mình và nhớ lời nói dối kia, nghĩ thầm: “Lỗi lầm này nếu tăng trưởng sẽ nhận chìm ta vào cõi ác. Ta quyết khắc phục lỗi lầm”. Sauđó người ấy tu tập thiền định, và đạt Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật, rồi đứng trên không và thuyết Pháp cho cha, xong cũng đi về hang Nandamùla.

Trong một làng ở Kàsi cũng có một địa chủ ra lệnh cấm sát sinh. Bấy giờ đến lúc người ta thường dâng lễ tế thần, một đám đông tụ tập lại và nói:

– Thưa chủ nhân, đây là lúc tế lễ, xin cho chúng tôi giết dê, lợn và những súc vật khác để dâng lễ cúng thần linh.

Ông bảo:

– Cứ làm như các anh đã làm trước kia.

Dân làng liền làm một việc đại sát sinh. Khi người ấy thấy một số lớn cá thịt, liền suy nghĩ: “Người ta đã giết hết các sinh vật này, tất cả cũng chỉ vì lời nói của ta mà thôi!”. Ông ăn năn hối hận, và khi đứng bên cửa sổ, ông tu tập thiền định và đạt Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật, rồi đứng trên không thuyết pháp xong, cũng đi về hang Nandamùla.

Một người địa chủ khác sống ở quốc độ Kàsi, cấm bán rượu mạnh. Một đám đông đến kêu gào:

– Thưa chủ nhân, chúng tôi phải làm sao? Ðây là tửu hội được yêu chuộng lâu đời rồi mà!

Người ấy đáp:

– Cứ làm như các anh vẫn làm trước kia.

Dân chúng tổ chức đại hội, uống rượu mạnh và gây sự lẫn nhau, kẻ gãy tay chân, người vỡ đầu sứt tai và phải chịu nhiều hình phạt về chuyện này. Người địa chủ thấy vậy, nghĩ thầm: “Nếu ta không cho phép chuyện này, thì dân chúng đã không phải chịu khổ sở như vậy”. Ông cảm thấy ăn năn dù chỉ một việc nhỏ nhặt kia. Sau đó ông tu tập thiền định, và đạt Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật, đứng trên không thuyết Pháp, khuyên bảo dân chúng phải tỉnh giác, rồi ông cũng đi đến hang Nandamùla.

Một thời gian sau, năm vị Ðộc Giác Phật đều giáng lâm tại cổng thành Ba-la-nại, để tìm đồ ăn bố thí. Thượng y và hạ y của các Ngài đều được đắp gọn ghẽ, với phong thái ung dung thanh thoát, các Ngài đi khất thực đến tận cung môn của vua. Rất hoan hỷ khi ngắm các vị ấy, ngài rước các vị ấy vào cung, rửa chân các vị và xoa dầu thơm, dâng lên các vị đủ món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, rồi ngài ngồi xuống một bên, và nói với các vị như sau:

– Thưa các Tôn giả, các Ngài đang còn thanh xuân mà đã sống đời tu hành, thật vi diệu biết bao! Ở tuổi này các Ngài đã là ẩn sĩ, và các Ngài đã nhìn thấy nỗi khổ đau của ác dục. Nguyên nhân nào đã đưa đến hành động của các Ngài?

Các ngài đáp lại:

  1. Ngụm nước kia là của bạn mình,
    Ta đà uống trộm, dẫu thân tình,
    Chán chê lầm lỗi ta vừa phạm,
    Phát nguyện về sau sẽ trở thành
    Ẩn sĩ, giã từ đời thế tục,
    Vì e tái phạm tội phần mình.
  2. Vợ của người kia, lỡ liếc nhìn,
    Trong lòng ta dục vọng bừng lên,
    Chán chê lầm lỗi ta vừa phạm,
    Ta quyết về sau tự phát nguyền
    Từ giã thế gian làm ẩn sĩ,
    Vì e tái phạm lỗi lầm trên.
  3. Trộm cướp trong rừng bắt phụ thân,
    Ta đành nói với bọn kia rằng:
    “Người này chẳng phải là thân phụ”,
    Ta biết ngay là nói dối gian,
    Chán ghét lỗi lầm ta phạm phải,
    Về sau ta ước nguyện tu thân.. 
    (như trên)
  4. Người làm tửu hội sát sinh linh,
    Chẳng phải là không thuận ý mình,
    Chán ghét lỗi lầm ta đã phạm..
    Về sau ta đã phát tâm thành.. (như trên)
  5. Cả bọn người kia một thuở xưa,
    Cùng nhau chè chén thật say sưa,
    Ðánh nhau gây sự nhiều người khổ,
    Chẳng phải là không thuận ý ta.
    Chán ghét lỗi lầm ta đã phạm,
    Về sau ta ước nguyện ly gia,
    Giã từ thế tục, làm tu sĩ,
    Vị sợ ta còn phạm lỗi xưa.
    Các Ngài ngâm lần lượt các vần kệ trên.

Khi vua đã nghe xong lời giải thích của mỗi vị Phật, ngài nói lời tán thán:

– Thưa các Tôn giả, việc tu hành của các Ngài thật xứng đáng lắm thay.

Vua rất hoan hỷ về bài thuyết Pháp của các vị này. Ngài ban tặng các y trong, y ngoài cho các vị, cùng thuốc men xong xuôi, liền để các vị Ðộc Giác Phật ra đi. Các vị ấy cảm tạ ngài rồi trở về nơiđã xuất hành.

Sau đó vua sinh chán ghét các dục lạc, ngài ly tham, ngài vẫn dùng các món cao lương mỹ vị, song ngài không nói chuyện với bọn cung nhân, cũng không nhìn đến chúng. Nhàm chán khởi lên trong tâm, ngài lui về cung thất nguy nga của ngài ngồi đó nhìn thẳng vào bức tường trắng trước mặt cho đến khi ngài nhập thiền định, cảm nhận trong tâm ngài lạc thọ của thiền định. Mải mê trong nỗi hân hoan, ngài ngâm kệ chê bai tham dục:

  1. Ta quyết ly tham, diệt dục tham,
    Bốn bề vô vị, tựa gai đâm!
    Chẳng bao giờ nữa, dù từ trước
    Ta đã đi theo chuyện lỗi lầm,
    Lạc thú như vầy ta đã gặp,
    Ðây là lạc thú của tham tâm.

Lúc ấy bà chánh hậu của ngài suy nghĩ thầm: “Ðức vua đã nghe lời thuyết Pháp của các vị Ðộc Giác Phật, và nay ngài tự giam mình với nỗi chán chường trong cung điện thật nguy nga của ngài. Ta phải chăm sóc ngài mới được”. Vì thế bà đến cửa cung thất của vua, và đứng ở cửa, nghe rõ những lời cảm hứng đầy hoan lạc của ngài tỏ ý chê bai tham dục, bà bảo:

– Tâu Hoàng thượng, ngài vừa chê bai tham dục! Song chẳng có lạc thú nào bằng lạc thú của tham dục êm ái cả.

Sau đó, để tán thán tham dục, bà ngâm một vần kệ khác:

  1. Cựu lạc dịu êm thật khó lường,
    Thú nào hơn được thú yêu thương,
    Ai theo lạc thú này sau đạt
    Hạnh phúc trên cao cõi ngọc đường!

Nghe vậy vua đáp:

– Này ác nữ nhân! Thật quái lạ, bà nói gì thế? Dục lạc phát xuất từ đâu đấy? Có nhiều khổ đau tiếp theo sau để trả giá cho dục lạc.

Cùng với các lời này, ngài ngâm các vần kệ cuối để tỏ lòng chê bai tham dục:

  1. Tham dục hôi tanh, thật đáng nhờm,
    Chẳng còn khổ não khốc tàn hơn,
    Ai theo ác dục này sau phải
    Gặt lấy sầu bị địa ngục môn.
  2. Thèm muốn khát khao mãi chẳng nguôi,
    Còn hơn kiếm sắc khéo tay mài,
    Hơn dao đâm suốt vào lồng ngực,
    Tham dục càng nên phỉ nhổ hoài.
  3. Hố kia sâu đến cỡ thân người,
    Than củi kia đang cháy đỏ tươi,
    Cái lưỡi cày nung ngoài nắng gắt,
    Dục tham còn độc hại hơn thôi.
  4. Thuốc độc nào tàn hại tối đa,
    Dầu nào nguy hiểm với thân ta,
    Rỉ nào bám chặt đồng hư hoại,
    Tham dục còn hơn chúng nữa mà.

Bậc Ðại Sĩ đã thuyết Pháp cho bà chánh hậu như vậy. Sau đó ngài tập họp triều thần lại và phán:

– Này các khanh, các khanh hãy cai trị vương quốc. Ta sắp từ giã thế tục.

Và ngay giữa tiếng khóc lóc kêu gào của quần chúng, ngài vụt lên cao, vừa đứng vững trên không, vừa thuyết Pháp. Rồi theo hướng gió ngài bay đến vùng Tuyết Sơn cao xa nhất, ở một nơi đầy an lạc, ngài dựng một am thất, tại đấy ngài sống đời của một bậc hiền trí cho đến mạng chung, ngài được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nói thêm:

– Này các Tỷ-kheo, không có gì gọi là lỗi lầm nhỏ mọn cả, ngay đến những lỗi nhỏ nhất cũng phải được người trí điều phục.

Rồi Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy giờ vào lúc kết thúc bài giảng, năm trăm vị Tỷ-kheo đã được an trú vào Thánh quả (A-la-hán).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy các vị Ðộc Giác Phật đắc Niết-bàn, mẹ của Ràhulà (La-hầu-la) là bà chánh hậu và Ta là vị vua kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thái Tử Yuvanjana (Tiền thân Yuvanjana)

Con xin đảnh lễ đấng Quân vương..

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Ðại sự Xuất thế của Ngài.

Một ngày kia, các Tỷ-kheo tụ họp trong Chánh pháp đường:

– Này Hiền hữu, một vị Tỷ-kheo bảo vị kia, đấng Thập Lực trước kia hẳn có thể sống tại gia, có thể làm một vị Chuyển luân Thánh vương ở giữa Ðại thế giới đầy đủ báu vật, vinh quang với bốn Thần lực siêu phàm, được đám vương tử vây quanh hơn ngàn vị. Tuy thế, Ngài đã từ bỏ mọi cảnh vinh quang ấy khi Ngài nhận thấy mối nguy hiểm nằm trong tham dục. Nửa đêm, cùng với Channa (Xa-nặc), Ngài cỡi vương mã Kanthaka (Kiền-trắc) của Ngài và ra đi. Trên bờ sông Anomà, Dòng Sông Vẻ vang ấy, Ngài từ giã thế tục và suốt sáu năm liền, Ngài sống khổ hạnh ép xác, sau đó Ngài tự tu tập và chứng đắc Chánh Ðẳng Giác.

Tăng chúng nói với nhau như vậy về công hạnh của đức Phật. Bậc Ðạo Sư bước vào hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, trong lúc ngồi đây, các ông đang nói về vấn đề gì?

Tăng chúng thưa với Ngài. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên Như Lai làm đại sự xuất thế. Ngày xưa, Ngài đã từ bỏ ngai vàng ở vương quốc Ba-la-nại rộng đến mười hai dặm.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, có một vị vua mệnh danh là Sabbadatta cai trị thành Ramma. Kinh thành mà nay ta gọi là Ba-la-nại đã được gọi là Sarundhana trong tiền thân Udaya số 458, cũng là Sudassana trong tiền thân Cullasutasoma số 525, hay là Brahmavaddhana trong tiền thân Sonandana số 532, và là Pupphavati trong tiền thân Khandahàla số 542. Còn trong tiền thân Yuvanjana này, nó lại có tên là thành Ramma. Như vậy tên đó thay đổi theo nhiều hoàn cảnh.

Thời ấy vua Sabbadatta có một ngàn vương tử, và ngài phong chức phó vương cho Thái tử Yuvanjana.

Một sáng sớm kia, thái tử ngự lên vương xa lộng lẫy của chàng trong quang cảnh cực kỳ uy nghi, chàng nhàn du trong vườn thượng uyển. Khắp các đỉnh cây, ngọn cỏ, đầu cành, trên các mạng nhện giăng tơ qua các đầu ngọn lau, chàng thấy các giọt sương lủng lẳng như vô số xâu chuỗi ngọc trai. Chàng hỏi:

– Này hiền hữu quản xa, cái gì đây?

– Tâu điện hạ, đây là chất lỏng rơi xuống trong mùa lạnh, mà người ta gọi là sương mai.

Thái tử tiếp tục du ngoạn vui chơi trong ngự viên trọn ngày hôm đó. Về chiều, khi chàng quay lại lối cũ, chàng không còn thấy hạt sương nào nữa. Chàng hỏi:

– Này hiền hữu quản xa, những hạt sương đâu rồi? Nay ta không còn thấy chúng nữa.

Vị kia đáp:

– Tâu điện hạ, khi mặt trời lên cao, sương tan hết và chìm xuống đất.

Nghe vậy, thái tử thất vọng bảo:

– Ðời người ta cũng được tạo thành chẳng khác gì các giọt sương mai trên ngọn cỏ. Ta cần phải thoát khỏi gánh nặng bức bách của bệnh tật, tuổi già và chết chóc. Ta phải từ giã song thân và rời thế tục.

Như vậy là do nhân duyên các giọt sương mai, chàng nhận thức ba cõi sinh hữu (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) như thể đang ở trong ngọn lửa cháy bừng. Khi chàng về cung, chàng vào yết kiến phụ vương trong Ðại pháp đình nguy nga của ngài. Ðảnh lễ vua cha xong, chàng đứng sang một bên và ngâm vần kệ đầu để xin phép vua cha được rời thế tục:

  1. Con xin đảnh lễ đấng quân vương,
    Giữa ngự quan, bằng hữu, đại thần,
    Hoàng thượng, con mong rời thế tục,
    Xin hoàng thượng chẳng chối từ con.

Kế đó vua ngâm vần kệ thứ hai để khuyên can chàng:

  1. Con có mơ gì, hỡi Dũ-vân,
    Cha ban tròn vẹn mọi cầu mong,
    Nếu ai làm hại, cha che chở,
    Con chớ làm tu sĩ ẩn thân.

Nghe thế, thái tử ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Chẳng có ai làm hại đến con,
    Ước mơ con đạt được vuông tròn,
    Song con muốn kiếm nơi an trú,
    Mà tuổi già không phá mỏi mòn.

Bậc Ðạo Sư ngâm nửa vần kệ để giải thích vấn đề này:

  1. Thái tử tâu vầy với phụ vương,
    Vua cha liền phán bảo cùng con:
    Nửa vần kệ sau do đức vua ngâm:
    “Ðừng rời thế tục, này vương tử,
    Dân chúng kinh thành thảy khóc thương”.

Vương tử lại đáp vần kệ này:

  1. Ðại đế, đừng làm trẻ phải xa,
    Cuộc đời không tục lụy phù hoa,
    Con e say đắm nhiều tham dục
    Sẽ hóa mồi ngon của tuổi già.

Khi nghe nói điều này, vua cha phân vân do dự. Sau đó, mẫu hậu được tin:

– Tâu lệnh bà, thái tử đang xin pháp hoàng thượng để xuất gia.

Bà hỏi:

– Ngươi nói gì thế?

Tin ấy khiến bà ngạt thở, liền ngự vào chiếc kiệu bằng vàng, bà bảo đi nhanh đến đại pháp đường và ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Mẹ van con đó, hỡi con thân,
    Và mẹ mong con phải ở gần,
    Mẹ muốn gặp con hoài, thái tử,
    Con đừng rời bỏ chốn phàm trần
    .

Khi nghe vậy, thái tử ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Như đầu ngọn cỏ đọng hơi sương,
    Khi mặt trời lên rực ánh dương,
    Cũng vậy là đời người thế tục,
    Xin đừng cản bước, mẹ hiền thương.

Chàng nói vậy xong, bà vẫn van xin chàng mãi, với mục đích ngăn cản chàng. Sau đó, bậc Ðại sĩ tâu với vua cha vần kệ thứ tám:

  1. Bảo người khiêng kiệu, hãy cùng nâng!
    Ðừng để mẹ già cứ cản ngăn
    Con trẻ muốn đi vào Thánh đạo,
    Xa đời sinh diệt, tấu Minh quân!

Khi vua cha nghe con nói, ngài phán:

– Này ái hậu, hãy lên kiệu về cung thường lạc của ta mà an nghỉ.

Trước lệnh của vua, đôi chân vương hậu quỵ xuống, rồi bà được đám cung nữ vây quanh dìu bà về. Khi bước vào hậu cung, đứng nhìn về phía đại pháp đường, bà băn khoăn hỏi tin tức con mình. Sai khi mẫu hậu đi rồi, Bồ-tát lại xin phép vua cha lần nữa. Vua không thể từ chối chàng được, liền phán:

– Này thái tử thân yêu, cứ làm theo ý nguyện của con và từ bỏ thế tục.

Khi vừa nghe cha chấp thuận điều này, tiểu hoàng đệ của Bồ-tát là vương tử Yudhitthila, đến đảnh lễ vua cha, và cũng xin phép theo đời xuất gia như thế, vua liền bằng lòng ngay.

Cả hai vị vương tử từ biệt vua cha và giờ đây, sau khi từ bỏ mọi dục lạc thế gian, hai vị ra đi từ đại pháp đường giữa đại chúng. Chánh hậu nhìn theo bậc Ðại sĩ và than khóc:

– Thái tử đã từ giã thế tục, kinh thành Ramma này sẽ trống rỗng.

Rồi bà ngâm đôi vần kệ:

  1. Nhanh lên, cầu hạnh phúc, con ôi!
    Ta chắc Ram-ma trống vắng thôi,
    Ðại đế Sab-ba vừa chấp thuận,
    Dũ-vân thái tử xuất gia rồi.
  2. Thái tử, đại huynh giữa cả ngàn,
    Hoàng nhi trông dáng thật như vàng,
    Từ đây vương tử oai hùng đã
    Ðắp chiếc y vàng bỏ thế gian.

Bồ-tát không đi ngay lên đường tu hành. Không, trước tiên ngài đến từ biệt song thân, rồi cùng với tiểu đệ là vương tử Yudhitthila, ngài rời kinh thành và bảo đám đại chúng đang theo sau hai vị phải quay về, còn hai vị tiến lên vùng Tuyết Sơn. Tại đó, hai vị dựng lên một thảo am ở một chốn đầy an lạc và hành trì cuộc đời của bậc hiền nhân thanh tịnh tu tập thiền định hướng thượng. Hai vị sống suốt đời bằng các củ, quả rừng rồi được sinh lên cõi Phạm thiên.

Vấn đề này được giải thích qua vần kệ cuối cùng phát xuất từ trí tuệ tối thắng của đức Phật:

  1. Vương tử Dũ-thi với Dũ-vân,
    Sống đời thanh tịnh của hiền nhân,
    Giã từ vương phụ và vương mẫu,
    Chặt đứt làm đôi xích tử thần.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu Như Lai từ bỏ vương quốc để đi theo đời tu hành, mà ngày xưa cũng đã làm như thế.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thuở ấy, song thân trong hoàng tộc ngày nay là vương phụ và mẫu hậu, Ànanda là tiểu đệ Yudhitthila và thái tử Yuvanjana chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Đại Vương Dasaratha (Tiền thân Dasaratha)

Lak-kha hiền đệ lẫn Si-ta..,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một người địa chủ có cha chết.

Khi người cha từ trần, lòng người ấy tràn ngập đau buồn bỏ dở mọi công việc của mình, ông chìm đắm trong nỗi u sầu. Vào một buổi sáng, bậc Ðạo Sư nhìn xuống thế gian, nhận thấy người ấy đã đến thời kỳ thành thục để đắc quả Dự Lưu. Hôm ấy khi đã đi khất thực tại Xá-vệ, và thọ thực xong, Ngài bảo các Tỷ-kheo lui về, rồi Ngài đem theo một Tỷ-kheo trẻ, đi đến nhà người ấy. Ngài chào ông và nói với ông trong lúc Ngài ngồi đó bằng những lời ngọt ngào như mật:

– Này cư sĩ, ông đang sầu muộn phải chăng?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Con đang buồn vì cha con mất!

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này cư sĩ, các bậc trí nhân ngày xưa hiểu rõ Tám pháp của thế giới này (được và mất, vinh và nhục, khen và chê, lạc và khổ), nên khi cha mất, các ngài không thấy đau buồn, dù chỉ mảy may.

Rồi theo lời thỉnh cầu của ông, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, tại Ba-la-nại, một vị đại vương mệnh danh Dasaratha, từ bỏ các ác đạo và cai trị theo Chánh pháp. Trong số mười sáu ngàn cung phi, vị chánh hậu sinh hạ hai vương tử và một công chúa; thái tử được đặt tên là Ràma Pandita hay hiền giả Ràma. Vị thứ hai được đặt tên Lakkhana hay Cát Tường và tên công chúa là Sità hay Thanh Lương.

Theo thời gian chánh hậu qua đời. Lúc bà từ trần, vua bị nỗi đau buồn xâm chiếm trong một thời gian, nhưng khi được triều thần thúc giục, ngài cử hành tang lễ bà xong, lại phong cho một vi vương phi khác lên làm chánh hậu. Bà này được vua hết sức sủng ái. Sau đó bà thụ thai, được vua chăm sóc rất ân cần chu đáo và sinh hạ một hoàng nam, đặt tên là vương tử Bharata.

Vua rất yêu quý vương tử ấy và bảo chánh hậu:

– Này ái khanh, ta ban cho nàng một ân huệ, nàng hãy chọn đi.

Bà nhận đặc ân trên, nhưng xin vua cho bà hoãn lại sự lựa chọn ấy một thời gian. Khi vương nhi lên bảy tuổi, bà đến yết kiến vua và tâu:

– Tâu thánh thượng, ngài đã hứa ban một đặc ân cho vương tử, con của thần thiếp, giờ đây xin ngài ban cho thần thiếp được chăng?

– Ái khanh hãy chọn đi – Vua phán.

– Tâu thánh thượng – bà bảo – xin ban vương quốc này cho con thần thiếp.

Vua tỏ vẻ bất cần đối với bà:

– Lui ra ngay, này ác nữ nhân! Ngài phán một cách giận dữ. Hai vương nhi của ta sáng rực như hai ngọn lửa hồng, ngươi muốn giết chúng đi rồi đòi ngai vàng cho con của ngươi đấy chăng?

Bà hoảng sợ chạy về cung thất nguy nga của bà, rồi các ngày tiếp theo, lại cố xin vua đặc ân ấy mãi. Vua không chấp thuận ban cho bà ân huệ ấy. Ngài nghĩ thầm: “Nữ nhân thường vong ân và phản bội, ác phụ này có thể dùng chiếu chỉ giả mạo hay hối lộ gian trá để sai giết các con ta”. Vì vậy ngài cho triệu hai con đến và kể hết mọi việc cho con nghe, rồi phán:

– Này hai vương nhi, nếu các con ở đây, chắc tai họa có thể xảy ra cho các con. Vậy hãy qua vương quốc bên cạnh ta, hoặc vào rừng, rồi khi thân ta đã được hỏa táng, hãy trở về thừa kế vương vị thuộc về gia tộc của các con.

Sau đó ngài triệu các thầy tướng số đến hỏi về thọ mạng của ngài. Họ tâu rằng ngài có thể sống thêm mười hai năm nữa. Rồi ngài bảo:

– Này các con, sau mười hai năm các con phải trở về và giương cao chiếc lọng của hoàng gia.

Hai vương tử hứa lời xong và vừa đi khỏi cung điện vừa khóc lóc. Công nương Sità nói:

– Ta cũng sẽ đi cùng hai vương huynh.

Nàng vào từ biệt phụ vương, vừa ra đi vừa khóc lóc.

Cả ba anh em lên đường giữa đám đông dân chúng. Ba vị bảo dân chúng lui về, rồi tiến lên chođến khi đi tận vùng Tuyết Sơn. Tại đó, ở một nơi có nước chảy nhiều, và thuận tiện để hái quả rừng, hai vị dựng am tu và sống tại đó bằng quả cây.

Trí giả Lakkhana và Sità nói với trí giả Rama:

– Ðại hiền huynh ở địa vị thân phụ của chúng em, vậy xin ở lại trong am và chúng em sẽ đi hái quả về nuôi hiền huynh.

Chàng đồng ý. Từ đó hiền giả Rama ở tại nhà, còn hai em cùng đi mang quả rừng về nuôi chàng.

Ba vị sống tại đó như vậy và nuôi thân bằng quả rừng hoang dại, song vua Dasaratha héo mòn vì nhớ các con nên từ trần vào năm thứ chín. Trong lúc cử hành tang lễ vua, hoàng hậu ra lệnh giương chiếc lọng phong vương cho con trai bà là vương tử Bharata. Nhưng triều thần bảo:

– Các vị vương tử chúa tể của chiếc lọng này đang ở trong rừng.

Nên đại chúng không cho phép việc ấy. Vương tử Bharata lại bảo:

– Ta sẽ đi tìm đại vương huynh Ràma trong rừng về và giương chiếc lọng phong vương cho ngài.

Mang theo năm biểu tượng của vương quyền (bảo kiếm, lọng trắng, vương miện, đôi hài và cái quạt bằng lông đuôi trâu rừng), chàng lên đường cùng một đoàn hộ tống đầy đủ bốn đạo quân (voi, kỵ mã, xe, bộ binh), đến nơi ba vị đang trú ngụ. Không xa đó mấy, chàng ra lệnh cắm trại, rồi cùng vài triều thần đi đến viếng vùng ẩn am, vào lúc hiền giả Lakkhana cùng Sità đã đi vào rừng.

Hiền giả Ràma đang ngồi ở cửa am, vô tư và thanh thản như một pho tượng bằng vàng ròng vững chắc. Vị vương tử đến gần ngài đảnh lễ rồi đứng một bên, kể cho ngài nghe mọi việc xảy ra ở vương quốc, vừa quỳ xuống chân ngài cùng đám triều thần vừa òa lên khóc nức nở. Hiền giả Ràma không buồn cũng không khóc, tâm trí ngài không còn xúc động nữa.

Sau khi Bharata đã hết khóc và ngồi xuống, mãi đến chiều hai vị kia mới trở về với mớ quả rừng. Hiền giả Ràma suy nghĩ: “Hai em kia còn trẻ, chúng không có trí tuệ tỉnh giác như ta. Nếu thình lình chúng được nghe tin rằng phụ vương đã băng hà, nỗi đau khổ sẽ lớn quá mức chúng chịu đựng, ai biết được tim chúng chẳng tan nát ra? Vậy ta sẽ dụ chúng bước xuống nước rồi tìm phương tiện tỏ bày sự thật. “Rồi vừa chỉ cho hai em một nơi ở phía trước có nước, ngài bảo:

– Các em đi ra ngoài lâu quá, vậy đây là cách để các em hối lỗi. Hãy bước xuống vũng nước kia và đứng đó.

Rồi ngài ngâm nửa vần kệ:

  1. Lak-kha hiền đệ, lẫn Si-tà,
    Bước xuống ao kia cả đấy mà.

Chỉ một lời thế là đủ, hai vị bước xuống nước và đứng đó. Lát sau ngài báo tin cho hai em bằng cách ngâm nửa vần kệ tiếp:

Vương tử Bha-ra vừa nói rõ
Da-sa đại đế đã băng hà.

Khi hai vị nghe tin vương phụ đã băng hà, liền ngất xỉu. Ngài lập lại tin ấy, hai vị lại ngất xỉu, đến lần thứ ba, hai vị vẫn ngất đi. Các triều thần liền đỡ họ dậy và đem họ ra khỏi nước rồi đặt họ lên đất khô ráo. Khi hai vị đã được an ủi khuyên lơn, cả hai vẫn ngồi khóc lóc, kêu gào. Lúc ấy vương tử Bharata suy nghĩ: “Vương huynh Lakkhana và vương tỷ Sità không thể nào ngăn nỗi sầu bi khi nghe tin phụ vương từ trần, song hiền giả Ràma chẳng than khóc kêu gào gì cả. Ta không biết nguyên nhân gì khiến vương huynh chẳng sầu muộn. Ta sẽ hỏi xem”.

Rồi chàng ngâm vần kệ thứ hai hỏi:

  1. Cho biết, Rà-ma, bởi lực gì,
    Gặp buồn, huynh lại chẳng sầu bi?
    Lòng huynh sầu muộn không tràn ngập,
    Dù được tin vương phụ mất đi!

Sau đó, Ràma giải thích lý do ngài không cảm thấy sầu bi bằng cách đáp lời:

  1. Khi chẳng làm sao giữ vật nào,
    Dù cho người ấy có kêu gào,
    Vậy nên người trí đầy thông tuệ
    Phải tự hành mình bởi cớ sao?
  2. Các đám thanh niên, kẻ trưởng thành,
    Người ngu cùng với bậc thông minh,
    Giàu, nghèo, kết cuộc đều cầm chắc,
    Phải chết từng người giữa chúng sinh.
  3. Như ta đứng trước quả cây muồi,
    Hay phát sinh niềm sợ quả rơi,
    Cũng vậy phát sinh lòng sợ chết,
    Với phàm nhân ở khắp muôn người.
  4. Nhiều kẻ vừa trông thấy buổi mai,
    Có khi chiều tối đã lìa đời,
    Và người được thấy khi chiều xuống,
    Vừa mới sáng mai đã mất rồi.
  5. Nếu người ngu dại hoặc cuồng điên,
    Phúc lạc đổ dồn đến tự nhiên
    Khi nó tự hành bằng nước mắt,
    Bậc hiền làm giống kẻ kia liền.
  6. Cách này đây nó tự hành mình,
    Kẻ ấy gầy mòn lại tái xanh,
    Nước mắt chẳng làm gì ích lợi,
    Chẳng làm người chết được hồi sinh.
  7. Như nhà cháy rực lửa đang hồng,
    Ðược dập tắt liền với nước sông,
    Người mạnh, người hiền, người có trí,
    Những người hiểu giáo lý tinh thông,
    Nỗi buồn đem rắc như bông vải,
    Khi có cuồng phong thổi bão bùng.
  8. Một khi sinh vật phải lìa trần,
    Một kẻ khác liền được thọ thân,
    Kết hợp với nhiều dây trói buộc,
    Có cùng đặc tính một nguồn căn,
    Phước phần mỗi kẻ đều tùy thuộc
    Vào những dây liên hệ buộc ràng.
  9. Người mạnh, tinh thông lý nhiệm mầu,
    Quán sát đời này lẫn kiếp sau,
    Hiểu bản chất này chung của chúng,
    Cho nên chẳng bị nỗi buồn rầu,
    Khiến cho lòng trí mình dao động,
    Dù có khổ đau đến độ nào.
  10. Vậy ta nên cống hiến song thân,
    Phụng dưỡng các ngài phẩm vật dâng,
    Ta sẽ bảo tồn di tích cũ,
    Ấy là hành động của hiền nhân.

Trong các vần kệ này, ngài đã giải thích tính Vô thường của vạn vật.

Khi hội chúng nghe Pháp thoại này của hiền giả Ràma làm sáng tỏ quy luật Vô thường, họ đều tiêu tan mọi nỗi sầu muộn. Sau đó vương tử Bharata kính chào hiền giả Ràma và van xin ngài nhận lãnh vương quốc ở Ba-la-nại. Hiền giả Ràma bảo:

– Này vương đệ, hãy đem Lakkhana và Sità về với vương đệ, và chính các vương đệ hãy chăm lo cai trị đất nước.

– Tâu chúa thượng, không được, xin chúa thượng đảm nhận quốc độ.

– Này vương đệ, phụ vương đã ban lệnh cho ta nhận lãnh quốc độ sau mười hai năm. Nếu ta về bây giờ, ta sẽ không thi hành lệnh vua ban. Vậy ba năm nữa ta sẽ về.

– Thế ai sẽ trị nước trong thời gian này?

– Chính vương đệ.

– Tiểu đệ không muốn thế.

– Vậy thì cho đến khi ta về, đôi hài này sẽ làm việc đó.

Ràma bảo, rồi tháo đôi hài rơm ra, ngài trao chúng cho vương đệ. Thế là ba vị nhận lấy đôi hài, từ tạ vị hiền nhân và lên đường về Ba-la-nại cùng với đoàn người hộ tống đông đảo.

Trong ba năm liền, đôi hài ấy cai trị vương quốc. Triều thần đặt chúng lên ngai, khi hội chúng xét xử một việc gì. Nếu vụ kiện được xét xử sai, đôi hài sẽ đập vào nhau. Và khi thấy dấu hiệu ấy, sự việc kia được xét lại, đến khi việc phán xét đúng đắn thì đôi hài nằm yên.

Khi thời gian ba năm ấy đã qua, bậc trí nhân ra khỏi rừng, đi đến Ba-la-nại, và vào ngự viên. Các vương tử nghe tin ngài đến, liền cùng một đoàn hộ tống đông đảo đi đến hoa viên, và phong Sità lên làm chánh hậu, rồi làm lễ quán đảnh (rảy nước thánh) cho cả hai. Khi cử hành lễ quán đảnh như thế xong, bậc Ðại Sĩ đứng trên chiếc vương xa lộng lẫy với một đám đông vây quanh tiến vào kinh thành, đi diễu quanh một vòng theo hướng bên hữu, rồi ngự lên thượng lầu vĩ đại của cung điện nguy nga Sucandaka kia, ngài trị nước tại đó rất chân chánh trong mười sáu ngàn năm, và về sau đi lên cộng trú cùng hội chúng của chư Thiên.

Vần kệ này từ trí tuệ tối thắng giải thích phần kết thúc câu chuyện:

Trăm năm nhân với sáu mươi lần,
Một vạn năm thêm, chuyện kể rằng
Dũng sĩ Rà-ma lên ngự trị,
Cổ ngài ba ngấn, hạnh phúc tràn

*.

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy giờ, lúc kết thúc các Sự Thật, người địa chủ đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, vua Suddhodana là vua Dasaratha, hoàng hậu Mahàmayà là mẫu hậu, mẹ của Ràhula là Sità, Ànanda là Bharata và Ta chính là hiền giả Ràma.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vương Tử Samvara (Tiền thân Samvara)

Quả xưa thánh thượng đã tinh tường..,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể lại trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo không giữ tinh tấn.

Chúng ta biết đây là một thiện gia nam tử ở Xá-vệ, sau khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết Pháp, người này từ bỏ thế tục. Ðang khi hoàn thành mọi nhiệm vụ do các giáo sư và các vị giáo thọ đề ra, người ấy vừa học thuộc lòng các chi phần của Giới bổn Patimokka. Sau năm năm ông nói:

– Khi nào ta đã được chỉ dạy pháp môn nhập thiền định, ta sẽ vào an trú trong rừng.

Sau đó, ông từ giã các giáo sư, tiến vào một làng ở biên địa trong vương quốc Kosala. Dân chúng hài lòng với cách ăn ở của ông, nên ông dựng am lá ở đó được cung phụng đầy đủ. Vào mùa mưa, với nhiệt tâm tinh cần, nỗ lực phấn đấu, ông cố gắng đạt đến thiền định trong vòng ba tháng, song chẳng đạt được chút gì từ việc này cả. Sau đó ông suy nghĩ: “Quả thật ta là người đầy nhiệt tâm đối với các thế gian pháp nhất trong bốn hạng người được bậc Ðạo Sư thuyết giảng. Ta còn làm gì nữa với đời sống trong rừng?” Rồi ông lại nghĩ thầm: “Ta sẽ trở về Kỳ Viên, trong lúc chiêm ngưỡng hảo tướng của đức Như Lai và nghe giọng Ngài thuyết Pháp dịu ngọt như mật, ta sẽ sống cả đời tại đó”.

Thế là người ấy giảm sút lòng tinh tấn, và lên đường lần hồi đi đến Kỳ Viên. Các giáo sư và các vị giám hộ của ông, cùng bạn bè thân thuộc hỏi ông về nguyên nhân trở về đây. Ông bảo cho các vị kia biết, đại chúng đều chê trách ông về việc này và chất vấn ông tại sao lại làm như vậy. Sau đó đại chúng dẫn ông đến yết kiến bậc Ðại Sư.

– Này các Tỷ-kheo – bậc Ðạo sư hỏi – tại sao các ông dẫn một Tỷ-kheo đến đây mà kẻ ấy không muốn?

Tăng chúng đáp:

– Tỷ-kheo này đã đến đây vì ông đã giảm sút tinh tấn.

– Việc này có đúng như họ nói với Ta chăng? Bậc Ðạo sư hỏi.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Người ấy đáp.

Bậc Ðạo sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, tại sao ông không còn tinh tấn nữa? Ðối với một người yếu kém và lười biếng, không có quả vị cao cả nào dành cho y trong giáo pháp này, y cũng không thể đạt Thánh quả. Chỉ những kẻ nào nỗ lực tinh cần mới hoàn thành việc ấy được. Ngày xưa ông đầy đủ dũng lực, lại dễ dạy bảo và vì thế dù là nhỏ tuổi nhất trong đám cả trăm vương tử của vua Ba-la-nại, ông cũng đã chiếm được chiếc lọng trắng nhờ tuân theo đúng lời giáo huấn của các bậc hiền nhân.

Nói vậy xong, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, vị trẻ tuổi nhất trong số một trăm vương tử của ngài tên là vương tử Samvara. Vua giao mỗi con trai ngài cho một vị cận thần đảm trách cùng với lời chỉ dẫn để dạy mỗi người những môn học cần phải học tập. Vị cận thần dạy cho vương tử Samavara là Bồ-tát, ngài thật sáng suốt, học rộng, làm tròn nhiệm vụ như người cha đối với vương tử kia. Trong khi mỗi vị vương tử được giáo dục như thế, các cận thần thường đem họ đến để vua cha thăm viếng. Ngài ban cho mỗi vị một thị trấn và truyền lệnh ra đi nhận chức.

Khi vương tử Samvara hoàn thành mọi việc học tập, chàng hỏi Bồ-tát:

– Thưa dưỡng phụ, nếu phụ vương đưa con đến một thị trấn thì con phải làm gì?

Ngài đáp:

– Này con, khi con được ban cho một thị trấn, con phải từ chối và tâu: “Tâu phụ vương, con là con út trong nhà, nếu đi nữa thì sẽ không còn ai dưới chân phụ vương, nên con muốn ở lại nơi đang sống đây dưới chân phụ vương thôi”.

Rồi một ngày kia, khi vương tử Samvara đến đảnh lễ ngài và đang đứng một bên, vua hỏi chàng:

– Này vương nhi, con đã học tập xong chưa?

– Tâu phụ vương, đã xong.

– Vậy con hãy lựa một thị trấn.

– Tâu phụ vương, nếu vậy thì quanh mình phụ vương sẽ trống vắng, vương nhi xin ở lại dưới chân phụ vương, chứ không đi đâu khác.

Vua rất hoan hỷ và bằng lòng ngay.

Sau khi chàng ở lại bêm mình vua cha, chàng hỏi Bồ-tát:

– Thưa dưỡng phụ, con phải làm gì nữa?

Ngài bảo:

– Hãy xin vua cha một ngự viên cũ.

Vương tử đồng ý và xin một hoa viên với số hoa quả trồng tại đó, chàng kết bạn cùng những người thế lực trong kinh thành. Chàng lại hỏi phải làm gì nữa. Bồ-tát bảo:

– Hãy xin vua cha cho phép phân phát tiền của khắp kinh thành.

Chàng làm theo và không hề bỏ quên một người nào, chàng phân phát tiền của khắp kinh thành. Chàng lại hỏi ý kiến Bồ-tát và sau khi xin vua cha chấp thuận, chàng phân phát thực phẩm trong cung điện, bọn nô tỳ, bầy ngựa và quân lính, không sót nơi nào; đối với sứ giả các nước ngoàiđến, chàng sắp đặt nơi ăn chốn ở cho họ, chàng ấn định thuế má cho các thương nhân, mọi việc gì cần thu xếp, chàng đều làm một mình cả.

Như vậy theo lời khuyên của bậc Ðại sĩ, chàng kết bạn với mọi người, cả những người sống trong gia đình cho đến những người không gia đình, mọi người trong kinh thành, các triều thần của quốc độ này cho đến đám ngoại nhân, nhờ sức thu hút của chàng kết hợp bằng hữu lại với chàng như thể một sợi dây sắt: chàng được mọi người yêu mến thiết thân.

Ðến khi vua lâm trọng bệnh trên vương sàng, triều thần hỏi ngài:

– Tâu chúa thượng, khi chúa thượng băng hà, chúng thần sẽ trao chiếc lọng trắng cho ai?

Ngài đáp:

– Này các hiền khanh, các vương tử của ta đều có quyền được chiếc lọng trắng, song các khanh hãy trao nó cho người nào làm hài lòng các khanh.

Vì vậy sau khi ngài băng hà, và khi lễ tang đã được cử hành xong, vào ngày thứ bảy, quần thần tụ họp lại và bảo:

– Tiên vương ra lệnh cho chúng ta trao chiếc lọng trắng cho người nào làm vừa lòng chúng ta. Vậy người mà tâm chúng ta hằng ao ước chính là vương tử Samvara.

Cho nên đại chúng giương chiếc lọng trắng che lên đầu chàng cùng với các dây tua bằng vàng, và chàng được cả vương tộc hộ tống lên ngôi.

Ðại vương Samvara tuân thủ lời khuyên răn của Bồ-tát nên cai trị rất đúng Chánh pháp.

Còn chín mươi chín vị vương tử hay tin vua cha từ trần và chiếc lọng trắng đã giương lên cho vương tử Samvara. Các vị bảo:

– Nhưng nó là em út trong nhà, chiếc lọng không thuộc về nó được. Chúng ta hãy giương chiếc lọng lên cho vị huynh trưởng của chúng ta.

Họ đều tập họp mọi lực lượng lại, và gởi thư đến Samvara, buộc chàng hoàn trả chiếc lọng nếu không thì sẽ giao chiến, sau đó các vị bao vây kinh thành. Vua báo tin này với Bồ-tát và hỏi phải làm gì bây giờ. Ngài đáp:

– Này đại vương, ngài không nên gây chiến với các vương huynh. Hãy chia bạc vàng của vua cha thành một trăm phần, rồi chín mươi chín phần đến các vương huynh cùng thông điệp này: “Xin hãy nhận phần tài sản của phụ vương vì tiểu đệ không muốn gây chiến với các vương huynh”.

Vua liền làm như thế.

Sau đo vị huynh trưởng, thái tử Uposatha, triệu tập các vương tử kia lại bảo:

– Này các hiền đệ, không ai có khả năng chiến thắng vị vua này được, và đây lại là em út của ta. Mặc dù trước đây, đó là kẻ thù của ta, nay không phải như vậy nữa, mà em ta gởi vàng bạc đến chúng ta, không muốn gây chiến với chúng ta. Giờ đây chúng ta không thể nào cùng một lúc giương cao chiếc lọng lên cho mọi người được, chúng ta hãy giương lọng lên cho một người thôi, hãy để một mình em út ta làm vua, vậy khi chúng ta gặp em ta, chúng ta sẽ giao trả vàng bạc của vương tộc cho em ta, và trở về thị trấn của mình.

Sau đó tất cả các vị ấy ngưng việc vây hãm kinh thành và đi vào trong thành, không còn là thù địch nữa. Vua bảo triều thần ra nghênh tiếp các vị và đại chúng đi đón các vương tử ấy. Các vương tử cùng đoàn tùy tùng đông đảo đi bộ vào, bước lên các bậc thềm của cung điện, hết sức khúm núm trước đại vương Samvara và ngồi xuống một chỗ thấp. Còn vua Samvara ngự trên ngai vàng dưới chiếc lọng trắng trông ngài thật uy nghi cao cả và rực rỡ huy hoàng; bất cứ nơi nào ngài nhìn đến, đại chúng đều rúng động toàn thân.

Thái tử Uposatha chiêm ngưỡng cảnh nguy nga lộng lẫy của đại vương Samvara, nghĩ thầm: “Ta chắc phụ vương ta biết rõ là vương tử Samvara sẽ làm vua sau khi ngài băng hà, nên ngài đã ban cho chúng ta các thị trấn mà chẳng cho vương đệ ta vùng nào cả”. Sau đó chàng ngâm ba vần kệ nói với vua:

  1. Quả xưa thánh thượng đã tinh tường,
    Bản chất tính tình của đại vương,
    Ân đã ban nhiều vương tử khác,
    Ðại vương lại chẳng được ban phần.
  2. Chính là vương phụ lúc sinh thời,
    Hay lúc thành tiên, đến cõi trời,
    Vì thấy lợi nhiều cho quốc độ,
    Nên vương tộc đã thuận theo lời.
  3. Hãy nói lực gì, Sam-va-ra,
    Ðại vương vượt hẳn cả hoàng gia,
    Sao vương huynh lại không đoàn kết,
    Ðể chiếm ngôi cao của đệ à?

Nghe vậy vua Samvara ngâm sáu vần kệ giải thích đặc tính của ngài:

  1. Ta chẳng bao giờ miễn cưỡng dâng
    Những gì xứng với đại hiền nhân,
    Sẵn sàng ban tặng đầy trân trọng,
    Ðảnh lễ, ta quỳ xuống dưới chân.
  2. Ta chẳng tỵ hiềm, muốn học luôn
    Mọi điều đức hạnh hợp công bằng,
    Các hiền nhân dạy điều lương thiện
    Trong ấy các ngài thấy lạc hoan.
  3. Ta vẫn thường nghe sự bảo ban
    Của nhiều bậc trí, đại hiền nhân,
    Tâm hồn ta hướng về lương thiện,
    Ta chẳng coi thường lời dạy răn.
  4. Voi chiến cùng nhiều đạo mã xa,
    Bộ binh và vệ sĩ vương gia,
    Ta không hề bớt phần công nhật,
    Mà trả tiền lương đủ mọi nhà.
  5. Quý tộc danh gia vẫn đến hầu,
    Quân sư tài trí thật là cao,
    Họ thường khen ngợi rằng lương thực,
    Quả thật Ba-la-nại rất giàu.
  6. Thịnh vượng như vậy, các lái buôn,
    Từ nhiều quốc độ tới lui luôn,
    Ta che chở chúng – Này vương tử,
    Sự thật, hiền huynh đã tỏ tường.

Thái tử Uposatha nghe kể rõ đức tính của vua liền ngâm hai vần kệ:

  1. Ðạo đức vượt hơn gia tộc mình,
    Và em cai trị thật công bình,
    Sam-va tài trí càng cao trọng,
    Phục lạc ban đều các đại huynh.
  2. Vương huynh rày bảo vệ kho tàng,
    Vương đệ sau này sẽ vạn an,
    Tránh khỏi quân thù như Ðế Thích
    Mình vàng tránh các La-hầu-vương.

Vua Samvara tiếp đãi các vương huynh rất trọng thể. Các vị ở lại cùng vua một tháng rưỡi, rồi bảo vua:

– Tâu đại vương, chúng thần muốn đi xem có trộm cướp nào đặt chân lên lãnh thổ của chúng thần chăng. Cầu mong triều đại này được vạn vạn phúc!

Các vị ấy lại ra về lãnh thổ của mọi người. Còn vua theo lời dạy của Bồ-tát, nên khi mạng chung, ngài đi lên cộng trú với hội chúng ở Thiên giới.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài nói thêm:

– Này Tỷ-kheo, xưa kia ông đã theo lời dạy bảo, tại sao nay ông lại không tiếp tục nỗ lực tinh cần?

Rồi Ngài thuyết giảng các Sự Thật. Bấy giờ, lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, Tỷ-kheo này là vua Samvara, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là thái tử Uposatha, các vị trưởng lão và cao niên là các vương huynh kia, các đệ tử của đức Phật là đám tùy tùng của các vị ấy, và Ta chính là vị cận thần đã khuyến giáo vua.

-ooOoo-

  1. Chuyện Trí Giả Suppàraka (Tiền thân Suppàraka)

Những người kia mũi nhọn như dao..,

Chuyện này bậc Ðại Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về sự viên mãn của trí tuệ tối thắng.

Một ngày nọ, chúng ta nghe kể rằng về buổi tối, các Tỷ-kheo đang đợi đức Như Lai đến thuyết Pháp cho Tăng chúng, và trong lúc ngồi tại chánh pháp đường, các vị nói với nhau:

– Này Tỷ-kheo, quả thật bậc Ðạo Sư có trí tuệ vĩ đại! Trí tuệ quảng bác! Trí tuệ mẫn tiệp, Trí tuệ linh hoạt! Trí tuệ tinh xảo! Trí tuệ uyên thâm! Trí tuệ Ngài đáp ứng đúng nơi đúng lúc! Trí bao la như thế giới, như đại dương vô tận, như bầu trời trải rộng mênh mông: khắp cả xứ Diêm-phù-đề không một bậc trí nhân nào có thể sánh bằng đấng Thập Lực, như một đợt sóng nổi lên trên đại dương không thể chạm đến bờ được, hoặc nếu chạm vào bờ, sóng kia sẽ vỡ tan. Cũng vậy, không một người nào có thể đạt đến trí tuệ bằng đấng Thập Lựïc, hoặc nếu kẻ ấy đến chân bậc Ðạo Sư thì sẽ vỡ tan.

Bằng những lời ấy Tăng chúng tán thán Trí tuệ tối thắng của đấng Thập Lục. Bậc Ðạo Sư bước vào, và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang nói gì trong khi ngồi đây?

Tăng chúng thưa với Ngài. Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ Như Lai mới đầy đủ trí tuệ. Ngày xưa ngay khi trí tuệ chưa viên thành Chánh giác, Ngài cũng đã sáng suốt thông minh. Mặc dù mù lòa, Ngài cũng biết qua các dấu hiệu của đại dương là ở trong đại dương có chôn giấu các loại ngọc này nọ.

Sau đó Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ một vị vua mệnh danh Bharu trị vì trong quốc độ Bharu. Có một thị trấn bên hải cảng được đặt tên là Bharukacha hay là Ðầm Bharu. Vào thời ấy, Bồ-tát sinh ra trong gia đình một thuyền trưởng ở tại đó, ngài rất khả ái, với làn da màu vàng nâu. Cha mẹ đặt tên ngài là Suppàraka-Kumàra.

Ngài lớn lên, xuất sắc khác thường, và ngay khi chỉ mới được mười sáu tuổi, ngài đã hoàn toàn tinh thông nghệ thuật hàng hải. Sau đó khi thân phụ mất, ngài cầm đầu đám thủy thủ và miệt mài với nghề hàng hải, ngài thật thông minh sáng suốt, khi ngài lên tàu rồi thì không hề có chiếc tàu nào đến làm hại được.

Theo thời gian, ngài bị thương vì nước mặn nên đôi mắt ngài mất cả thị giác. Sau sự kiện ấy, dù ngài là thuyền trưởng của đám thủy thủ, ngài không còn đeo đuổi sự nghiệp thương mãi nữa, mà quyết định về phục vụ vua, ngài đến yết kiến vua với mục đích ấy, và vua phong cho ngài chức hội thẩm đánh giá các báu vật. Từ đó ngài định giá trị các voi báu, ngọc báu và châu báu.

Một hôm, một con voi được đem trình lên vua, da voi màu đá đen, nên có thể được làm vương tượng. Vua liếc nhìn voi rồi ra lệnh đem nó đi đến trình diện với bậc trí giả. Quân hầu liền dẫn con vật đến gặp ngài. Ngài sờ tay lên khắp mình voi và bảo:

– Con voi này không xứng đáng làm quốc tượng. Nó có đặc tính của một con vật bị dị tật ở phía sau. Khi voi mẹ sinh ra nó, đã không đủ sức mang nó lên vai, nên để nó ngồi xuống đất, vì vậy nó bị tật nguyền ở chân sau.

Họ chất vấn những người đem voi đến, và bọn ấy trả lời rằng bậc trí giả đã nói đúng sự thật. Khi vua nghe nói chuyện kia, lòng rất hoan hỷ và ra lệnh ban cho bậc trí giả tám đồng tiền vàng.

Một ngày khác, người ta đem một con ngựa dâng lên để làm vương mã. Con vật này cũng được dẫn đến bậc trí giả. Ngài lấy tay sờ khắp mình ngựa rồi nói:

– Con vật này không thích hợp để làm vương mã cho đức vua ngự. Vào ngày nó sinh ra, ngựa mẹ chết đi, nên do thiếu sữa mẹ, nó không lớn lên đầy đủ.

Lời nói này của ngài cũng đúng sự thật nữa. Khi nghe được chuyện ấy, vua rất đẹp ý, phán bảo đem tặng ngài tám đồng tiền nữa.

Vào một ngày khác, một chiếc xe được đem đến để làm vương xa. Vua cũng đưa xe này đến ngài. Ngài lấy tay rờ khắp xe và bảo:

– Chiếc xe này được làm bằng gỗ rỗng, nên không thích hợp với đức vua.

Lời nói này của ngài cũng đúng như các lời khác. Vua lại một phen hài lòng khi nghe chuyện này, nên ban thêm cho ngài tám đồng nữa. Một lần nữa có người đem dâng vua một tấm thảm quý có giá trị lớn, vua liền đưa nó đến ngài như lần trước. Ngài sờ khắp tấm thảm, rồi bảo:

– Ở đây có một chỗ mà con chuột đã cắn một lỗ.

Họ xem kỹ và thấy chỗ đó, liền tâu với vua. Vua đẹp ý lại bảo cho ngài tám đồng tiền nữa.

Lúc bấy giờ bậc trí giả mới suy nghĩ: “Chỉ được có tám đồng vàng để xem những việc kỳ diệu như thế đấy. Ðây là món tiền tặng cho thợ hớt tóc, chắc hẳn vua này là cậu bé thường hớt tóc! Tại sao ta phải phụng sự một vị vua như thế chứ? Ta sẽ trở về nhà riêng của mình”. Thế là ngài trở về hải cảng Bharukaccha và sống tại đó.

Lúc ấy có vài thương nhân chuẩn bị một chiếc thuyền và đang đi tìm một thuyền trưởng. Họ suy nghĩ: “Ngài Suppàraka thông minh kia là một bậc trí giả tài ba, có ngài trên tàu thì không con tàu nào đến hại nữa. Dù ngài mù lòa, bậc trí giả Suppàraka vẫn là người tuyệt hảo”. Vì thế họ đi đến ngài và mời ngài làm thuyền trưởng.

– Này các hiền hữu – ngài đáp – ta mù rồi, làm sao lái thuyền các bạn được?

– Thưa Tôn giả, quả ngài mù thật đấy – các thương nhân bảo – song ngài là người tài giỏi nhất.

Vị họ cứ năn nỉ ngài mãi không ngớt nên cuối cùng ngài chấp thuận.

– Như các bạn đã nói với ta – ngài bảo – thì ta sẽ làm thuyền trưởng của các bạn.

Sau đó, ngài bước lên chiếc thuyền của họ.

Họ lái thuyền ra giữa đại dương. Suốt bảy ngày liền, thuyền đi không gặp rủi ro nào, rồi một ngọn gió trái mùa nổi lên. Thuyền trôi dạt bốn tháng trên vùng đại dương hoang dã, cho đến lúc vào được một nơi gọi là Biển Khuramàla (Bãi Dao nhọn hoắc). Tại đây loài cá có thân như người với mõm nhọn hoắc như lưỡi dao, nhào lộn dưới nước. Các thương nhân quan sát loài cá này, vừa hỏi bậc Ðại Sĩ biển này tên gì, vừa ngâm vần kệ đầu:

  1. Ðám người kia mũi nhọn như dao,
    Vừa nhảy lên cao, lại lộn nhào,
    Hãy nói, Sup-pà, cho chúng bạn,
    Biển này được biết với tên nào?

Bậc Ðại sĩ nghe câu nói này, liền ôn lại trong trí các kiến thức thủy thủ của ngài, rồi đáp qua vần kệ thứ hai:

  1. Này các thương nhân cảng Bhar-ka,
    Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
    Ðây là biển cá Khu-ra đó,
    Thuyền của các người đã lạc qua.

Lúc bấy giờ đại dương này có nhiều kim cương. Bậc Ðại sĩ suy nghĩ rằng nếu ngài bảo chúng bạnđây là biển kim cương, họ sẽ làm chìm tàu do lòng tham hốt nhiều kim cương. Vì thế, ngài không nói gì cả, song sau khi đưa thuyền đến, ngài lấy một sợi dây thừng và thả lưới xuống như thể bắt cá. Với dây này, ngài đã hốt được một mớ kim cương và dấu trong thuyền, rồi ngài lựa những thứ ít giá trị quăng xuống biển.

Chiếc thuyền đi qua vùng biển này, đến một biển khác tên là Aggimàla (Vùng Lửa cháy). Biển này tỏa ra ánh sáng như thể một ngọn lửa đang bừng cháy, như mặt trời đúng ngọ. Các thương nhân hỏi han ngài qua vần kệ:

  1. Kìa đại dương như ngọn lửa hồng,
    Như vầng nhật chiếu, bạn cùng trông,
    Sup-pa, xin nói cho bè bạn,
    Tên gọi là gì chốn đại dương?

Bậc Ðại sĩ đáp lại họ qua vần kệ tiếp theo:

  1. Này các thương nhân ở Bhar-ka,
    Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
    Ðây là biển cả Ag-gi đó,
    Thuyền của các người đã lạc qua.

Bấy giờ biển này chứa đầy vàng, cũng như trước, ngài lấy lên một mớ vàng và cất lên thuyền. Qua khỏi biển này con thuyền đi đến một biển cả tên là Dadhimàla (Vũng Sữa đông), óng ánh như sữa tươi hay sữa đông. Các thương nhân lại hỏi tên của biển qua vần kệ:

  1. Kìa biển trắng phau giống sữa tươi,
    Trắng như nhìn vũng sữa đông rồi,
    Sup-pà, xin nói cùng bè bạn,
    Tên gọi là gì của biển khơi?

Bậc Ðại sĩ đáp lại chúng bằng câu kệ tiếp theo:

  1. Này các thương nhân ở Bhar-ka,
    Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
    Ðây là biển cả Da-dhi đó,
    Thuyền của các người đã lạc qua.

Trong biển này có rất nhiều bạc. Ngài lấy bạc theo cách như trước, rồi cất lên tàu. Chiếc thuyền đi qua biển này và đến một đại dương tên là Nilavannakusamàla (Thảm cỏ Kusa), có hình dáng một thảm cỏ kusa đen nhánh (cỏ cát tường) hay một cánh đồng lúa. Các thương nhân lại hỏi tên biển qua vần kệ:

  1. Kìa, biển xanh như cỏ cát tường,
    Tưởng như nhìn đám lúa nàng hương,
    Sup-pà, hãy nói cho bè bạn,
    Tên gọi là gì của đại dương?

Ngài đáp lời qua vần kệ tiếp theo:

  1. Này các thương nhân xứ Bhar-ka,
    Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
    Ðại dương đây chính Ku-sa đó,
    Thuyền của các người đã lạc qua
    .

Bấy giờ trong biển này có rất nhiều ngọc bích quý. Cũng như trước, ngài lấy một mớ ngọc và cất trên thuyền. Qua khỏi biển này, con thuyền đi đến một biển tên gọi là Nalamàla (Bãi Lau sậy), có hình dáng một bãi lau sậy hay một rừng tre. Các thương nhân hỏi tên biển qua vần kệ:

  1. Kìa đại dương như một khóm lau,
    Khác nào ta thấy rặng tre đâu,
    Sup-pà, hãy nói cho bè bạn,
    Biển cả này tên gọi thế nào?

Bậc Ðại sĩ đáp lại qua vần kệ sau:

  1. Này các thương nhân xứ Bhar-ka,
    Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
    Biển này tên gọi Na-la đó,
    Thuyền của các người đã lạc qua.

Bấy giờ biển này đầy san hô với màu khóm tre, ngài lại hốt một mớ đá quý này và cất lên tàu.

Sau khi đi qua biển Nalamàla, các thương nhân đến một biển có tên là Valabhàmukha (Lòng chảo). Ở đây nước rút đi và dâng lên một phía, và như vậy nước rút đi ở mọi phía và dâng lên trên các vách đá thẳng đứng để lại một vùng như thể cái hố sâu. Một đợt sóng dâng tràn lên một phía, khác nào một bức tường: tai lại nghe một tiếng gầm thét khủng khiếp, tưởng chừng làm thủng màng tai hoặc vỡ cả tim ra. Khi thấy cảnh này, các thương nhân kinh hoảng và hỏi tên biển qua vần kệ:

  1. Này nghe tiếng thét thật kinh hoàng,
    Từ biển cả kia thật dị thường!
    Hố thẳm, hãy nhìn nhiều đợt sóng
    Dâng lên dốc đứng tựa sườn non,
    Sup-pà, hãy nói cho bè bạn,
    Ðây gọi tên gì của đại dương?

Bồ-tát đáp lại qua vần kệ:

  1. Này các thương nhân xứ Bhar-ka,
    Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
    Va-la-bhà đại dương này đó,
    Thuyền của các người đã lạc qua.

Ngài nói tiếp:

– Này các hiền hữu, một khi thuyền vào trong biển Valabhàmukkhi này thì không thể nào trở về được. Nếu thuyền này vào đó, nó sẽ chìm và tan nát.

Bây giờ có cả bảy trăm mạng người trên thuyền này, họ đều sợ chết; nên họ đồng thanh thốt lên một tiếng kêu vô cùng thảm thiết, chẳng khác nào tiếng kêu la của những kẻ đang bị đốt cháy trong chốn địa ngục tận cùng (Vô gián Ðịa ngục). Bậc Ðại sĩ nghĩ thầm: “Trừ ta ra, không ai có thể cứu mạng họ được. Ta quyết cứu họ bằng một lời thề chân lý”. Rồi ngài nói lớn:

– Này các hiền hữu, hãy mau mau tắm cho ta bằng nước hương thơm, mặc y phục mới cho ta, dọn ra một chén nước đầy và đưa ta đứng trước con thuyền.

Cả bọn vội làm như vậy. Bậc Ðại sĩ cầm chén nước đầy bằng cả hai tay, và đứng trước mũi thuyền, thực hiện một lời nguyện cầu chân lý trong khi ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Từ khi ta nhớ rõ về thân,
    Trí tuệ đầu tiên phát khởi dần,
    Không một người nào ta sát hại,
    Là điều ta đã biết tinh tường,
    Nều lời cầu nguyện này chân chánh,
    Mong ước thuyền về chốn vạn an.

Bốn tháng qua con thuyền đã du hành trong những vùng biển xa xôi nay dường như được ban cho thần lực siêu phàm, nên chỉ trong một ngày nó trở lại hải cảng Bharukaccha, vào tận trên đất liền cho đến khi dừng lại trước cửa nhà của vị thuyền trưởng kia, sau khi nhảy vọt qua một khoảng chừng một ngàn một trăm cubit (1 cubit = 45cm). Bậc Ðại sĩ phân phát cho đám thương nhân tất cả vàng bạc trân châu, san hô, kim cương và bảo:

– Số châu báu này là đủ cho các bạn rồi, vậy đừng du hành đường biển nữa.

Sau đó ngài thuyết Pháp cho họ và đến khi đã làm xong các việc bố thí và các thiện sự suốt đời, ngài đi lên cộng trú với hội chúng ở Thiên giới.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa Như Lai cũng rất thông thái như bây giờ vậy.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời bấy giờ hội chúng của đức Phật là hội chúng thương nhân và Ta chính là Trí giả Suppàraka.

-ooOoo-

Chương XII

Phẩm MườI Hai Bài Kệ

  1. Chuyện Tiểu Vương Điểu Kùnala (Tiền thân Culla – Kanàla)

Chuyện này sẽ được kể trong Tiền thân Kunàla, số 536, tập VII.

-ooOoo-

  1. Chuyện Sàla, Cổ Thụ Cát Tường (Tiền thân Bhadda-Sàla)

Ngài là ai đứng giữa không gian..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc thực hành thiện sự đối với họ hàng quyến thuộc của mình.

Tại Xá-vệ, trong nhà ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) bao giờ cũng đầy đủ thực phẩm cho năm trăm vị Tỷ-kheo và tại nhà bà Visàkhà (Tỳ-xá-khư) hay cung vua Kosala cũng vậy. Nhưng trong cung vua, dù thực phẩm đầy đủ mỹ vị cao lương, vẫn không ai tỏ ra thân thiết với Tăng chúng. Do đó Tăng chúng không bao giờ ăn uống tại cung vua mà chỉ đem thực phẩm ra về dùng tại nhà ông Cấp Cô Ðộc hay bà Visàkhà hay một thân hữu nào đó.

Một ngày kia, vua bảo:

– Một tặng vật vừa được mang lại, hãy đem đến cho các Tỷ-kheo.

Rồi ngài bảo đưa nó đến trai đường, song họ tâu rằng không có Tăng chúng trong trai đường. Vua hỏi:

– Thế Tăng chúng đi đâu rồi?

Họ đáp:

– Tăng chúng đang ngồi ăn uống tại nhà các thân hữu.

Vì thế, sau khi dùng điểm tâm xong, vua liền đến yết kiến bậc Ðạo sư, và hỏi:

– Bạch Thế Tôn, loại thực phẩm nào là tối thắng?

Ngài đáp:

– Thưa Ðại vương, thực phẩm của bằng hữu là tối thắng, ngay cả món cháo thiu được thân hữu đem cho cũng trở thành ngon ngọt.

– Như vậy, bạch Thế Tôn, Tăng chúng tìm được tình bằng hữu ở những người nào?

– Thưa Ðại vương, với các thân tộc của họ hay các dòng họ Thích-ca (Sakya).

Sau đó vua suy nghĩ giá như ngài chọn một thiếu nữ dòng Thích – ca làm chánh hậu, rồi Tăng chúng sẽ là thân hữu của vua, cũng như đối với thân tộc của Tăng chúng vậy.

Vì thế ngài đứng dậy trở về cung và gửi thông điệp đến thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) với mục đích này: “Hãy dâng cho trẫm một cô gái của quý quốc để làm cung phi, vì trẫm mong ước được kết thân với dòng họ của quí quốc”.

Khi nhận được thông điệp này, cả dòng họ Thích-ca tập họp lại và thảo luận kỹ lưỡng:

– Chúng ta hiện sống trong một vùng thuộc quyền của vua Kosala, nếu ta từ chối việc gả con gái, ngài sẽ nổi giận, còn nếu ta đem dâng con, thì phong tục dòng họ của ta sẽ bị phá vỡ, vậy ta phải làm gì đây?

Lúc ấy vương tử Mahànàma bảo:

– Xin đừng bận tâm việc này. Ta có một đứa con gái tên là Vàsabhakhattiyà. Mẹ nó là một nô tỳ, tên là Nàgamundà, nay nó chừng mười sáu tuổi, dung sắc mỹ lệ khác thường và tướng mạo tốt lành, lại thuộc dòng dõi quý tộc (Sát-đế-ly) về bên phía họ cha. Chúng ta sẽ đem gả nàng như một cô gái chính thống quý tộc.

Dòng họ Thích-ca chấp thuận, và cho mời các sứ giả vào, bảo rằng dòng họ này sẵn sàng gả con gái trong gia tộc, nên các sứ giả có thể mang nàng về nước ngay. Song các sứ giả suy nghĩ: “Các vị Thích-tử này vô cùng kiêu mạn về vấn đề dòng họ. Giả sử như các ngài gả một cô gái không thuộc dòng họ của các ngài và cứ bảo là đúng thế thì sao? Chúng ta sẽ không nhận nàng nào trừ ra người cùng ngồi ăn chung với các ngài”. Vì thế các sứ thần đáp:

– Ðược rồi, chúng thần sẽ nhận nàng. Song chúng thần sẽ chỉ nhận một nàng cũng ngồi dùng bữa với các ngài thôi.

Dòng họ Thích – ca sắp đặt một chốn ở cho các sứ thần, rồi băn khoăn không biết phải làm gì. Mahànàmà bảo:

– Bây giờ đừng bận tâm gì chuyện ấy nữa. Ta sẽ tìm cách. Vào giờ ta dùng bữa ăn, hãy đem Vàsabhakhattiayà, được phục sức thật lộng lẫy đến đây, rồi ngay khi ta đã ăn một miếng hãy đem đến một lá thư và nói: “Tâu chúa công, có vị vua kia gởi thông điệp đến chúa công, xin chúa công nghe thông điệp ngay bây giờ”.

Hội chúng đồng ý và khi ông đang dùng bữa, họ phục sức và trang điểm cho cô gái kia. Mahànàmà bảo:

– Hãy đưa ái nữ ta vào và cho con ta cùng dùng bữa với ta.

– Xin chúa công đợi một lát – họ thưa – nàng đang được trang điểm thật tề chỉnh.

Và chẳng mấy chốc họ đưa nàng vào. Nàng mong đợi được dùng cơm với vua cha, nên đặt tay vào cùng một đĩa thức ăn với cha nàng. Mahànàmà đã lấy xong một miếng và đã đưa vào mồm; ông vừa đưa tay ra lấy miếng khác thì họ đem vào một bức thư và nói:

– Tâu chúa công, có vị vua kia gởi thông điệp đến cho chúa công, xin chúa công hạ cố nghe thông điệp ấy ngay bây giờ.

Mahànàmà bảo:

– Này con yêu quý, con cứ dùng cơm đi nhé.

Rồi tay phải ông vẫn để trong đĩa, tay trái vừa cầm lá thư vừa nhìn vào đó. Trong khi ông xem bức thông điệp kia, cô gái vẫn tiếp tục ăn cơm. Khi nàng đã ăn xong, ông rửa tay và súc miệng. Các sứ thần tin chắc chắn nàng là con gái vị vương tử này, vì họ không đoán ra điều bí ẩn.

Do vậy Mahànàmà tiễn đưa con gái ra đi vô cùng trọng thể. Các sứ thần đem ngay về Xá-vệ và bảo nàng này là con gái chính thức của vương tử Mahànàmà. Vua rất hoan hỷ, ra lệnh cả kinh thành trang hoàng thật đẹp rồi đặt nàng ngồi lên một đám châu báu và cử hành lễ quán đảnh phong làm chánh hậu. Nàng được vua rất mực sủng ái.

Chẳng bao lâu hoàng hậu có thai, nên vua ra lệnh chăm sóc nàng thật chu đáo, và sau mười tháng nàng hạ sinh một hoàng nam, có màu da hoàng đồng. Và ngày đặt tên hài nhi, vua gửi chiếu thư đến tổ mẫu của ngài hỏi:

– Vàsabhakhattiyà đã sinh ra một hoàng nam, nàng là công chúa dòng họ Thích – ca, vậy sẽ đặt tên hài nhi là gì?

Lúc bấy giờ viên cận thần mang chiếu thư ấy hơi lãng tai, song lão cũng đi trình lại với bà tổ mẫu của vua. Khi bà nghe chuyện ấy, bà bảo:

– Ngay như khi Vàsabha chưa từng sinh ra một hoàng nam, nàng cũng đã là một người tuyệt thế, và nay nàng sẽ là ái hậu của vua.

Lão điếc này không nghe rõ tiếng “ái hậu” (Vallabhà) cho đúng, mà cứ tưởng bà bảo là “Vidùdabha”, nên lão về yết kiến vua, tâu với ngài rằng phải đặt tên hoàng tử là Vidùdabha. Vua tưởng đây hẳn là tên của một gia tộc cổ sơ nào đó, nên đặt tên con là Vidùdabha.

Sau đó, hoàng tử ấy lớn lên được nuôi nấng đúng như cung cách của một hoàng tử. Khi hoàng tử lên bảy tuổi, thường quan sát các vương tử kia nhân được quà voi ngựa và nhiều đồ chơi khác ra sao từ các gia tộc bên họ mẹ, cậu bảo mẹ:

– Thưa mẹ, các trẻ kia đều được quà từ bên mẹ của chúng, song không ai gửi cho con quà gì cả. Vậy mẹ có phải là con côi không?

Lúc ấy nàng đáp:

– Này con, các tổ phụ của con là các vua dòng họ Thích-ca, song các ngài ở xa lắm, vì thế chẳng gởi gì cho con cả.

Một lần nữa, lúc được mười sáu tuổi, cậu hỏi:

– Thưa mẹ, con muốn đi thăm gia tộc của tổ phụ.

Nàng bảo:

– Thôi con đừng nói đến chuyện ấy nữa, con sẽ làm gì khi đến đó?

Song dù nàng thoái thác, cậu cứ năn nỉ xin nàng mãi, cuối cùng mẹ cậu bảo:

– Thôi được, con cứ đi.

Vì vậy cậu xin vua cha chấp thuận và lên đường cùng một đám tùy tùng. Vàsabha gởi thư về nhà trước khi cậu đến với ý định này:

– Con đang sống hạnh phúc ở đây, xin các Tôn giả đừng nói cho hoàng tử biết chuyện bí mật kia.

Song dòng họ Thích-ca khi hay tin Vidùdabha đến, liền cho các vương tử trẻ tuổi đi về vùng quê. Họ bảo nhau:

– Ta không thể đón tiếp thằng bé này trịnh trọng được.

Khi hoàng tử đến Ca-tỳ-la-vệ, dòng họ Thích-ca tập họp trong nhà nghỉ của vua. Vị hoàng tử đến gần nhà nghỉ ngồi đợi. Rồi bọn kia bảo cậu:

– Ðây là ngoại tổ của con, đây là quốc cửu – họ vừa chỉ rõ từng vị.

Cậu đi đảnh lễ từng người nọ đến người kia, song mặc dù cậu đã cúi đầu chào toàn gia tộc đến mỏi cả lưng, chẳng ai chịu hạ cố chào lại cậu cả, vì thế cậu hỏi:

– Sao lại chẳng có ai trong gia tộc chào lại con cả thế này?

Gia tộc Thích-ca đáp:

– Này con, các tiểu vương tử đi về quê cả rồi.

Sau đó cả gia tộc thết đãi cậu rất trọng thể.

Sau vài ngày ở lại, hoàng tử trở về nhà cùng cả đoàn tùy tùng. Vừa lúc ấy một nô tỳ chùi chiếc ghế mà cậu đã dùng trong nhà nghỉ ấy với nước sữa, vừa nói nhục mạ:

– Ðây là ghế ngồi của con trai nàng Vàsabhakhattiyà, nữ tỳ ấy mà.

Một người hầu bỏ quên cây giáo đang đi tìm, nghe thoáng lời lăng mạ hoàng tử Vidùdabha. Gã hỏi:

– Như thế nghĩa là gì?

Gã được kể cho biết là Vàsabha đã do một nữ tỳ sinh ra với vương tử Mahànàmà, dòng Thích-ca. Gã liền kể chuyện này cho quân lính nghe. Thế là tiếng huyên náo vang lên, cả đám đều la lớn:

– Vàsabha là con gái của một nô tỳ, chúng bảo thế đấy!

Vị vương tử này nghe chuyện ấy: “Ðược rồi” – cậu nghĩ thầm: “Mặc chúng cứ đổ sữa trên ghế ta ngồi để rửa nó đi. Khi ta lên ngôi, ta sẽ rửa chỗ ngồi bằng máu trong tim chúng”.

Khi cậu trở về Xá-vệ, quần thần kể mọi chuyện với vua. Vua nổi cơn thịnh nộ với dòng họ Thích-ca vì đã đưa con gái của một nô tỳ về làm hoàng hậu của ngài, ngài truất hết các khoản tiền đã cấp phát cho Vàsabha và con trai nàng, chỉ còn những thứ vừa đủ với hạng gia nô mà thôi.

Vài ngày sau, bậc Ðạo sư đến cung vua, và ngồi xuống tọa sàng. Vua đến gần Ngài đảnh lễ và nói:

– Bạch Thế Tôn, trẫm nghe rằng thân tộc của Ngài đưa con gái của một nô tỳ về cho trẫm làm hoàng hậu. Trẫm đã truất hết phần trợ cấp của chúng, và chỉ cho chúng những thứ dành cho nô tỳ mà thôi.

Bậc Ðạo sư đáp:

– Tâu đại vương, dòng họ Thích-ca đã làm việc trái đạo! Nếu họ dâng con gái, đáng lẽ ra họ phải dâng một công chúa thuộc dòng huyết thống của họ kia. Song, thưa đại vương, Ta nói điều này, Vàsabha là con gái của vị vương tử, và trong cung điện của một vị vua quý tộc Sát-đế-ly, nàng đã nhận lễ quán đảnh; còn Vidùdabha cũng là vương tử của một vị vua quý tộc Sát-đế-ly. Các bậc trí nhân ngày xưa đã bảo: Dòng họ mẹ nào có quan trọng, dòng họ cha mới là chuẩn mực. Với một người vợ nghèo khó, một người lượm củi, họ đã đưa lên địa vị chánh hậu, và vị vương tử do bà ấy sinh ra được nắm vương quyền tại Ba-la-nại, rộng mười hai dặm đã trở thành vua Kattha-Vàhana, hiệu là Tiều phu.

Do đó, Ngài kể cho vua nghe chuyện tiền thân Katthahàri (số 7 – Chuyện Nàng lượm củi).

Khi vua nghe bài thuyết giáo này, lòng rất hoan hỷ nhủ thầm: “Dòng họ cha là tiêu chuẩn đo lường một con người”. Rồi vua lại ban những gì phù hợp cho hai mẹ con nàng như trước.

Lúc bấy giờ viên đại tướng quân của vua, là một người có tên gọi Bandhula. Vợ ông ta là Mallikà không sinh sản gì, nên ông sai đưa nàng đến tận Kusinàra, bảo nàng trở về với gia đình nàng. Nàng nói:

– Ta sẽ đi khi nào ta đã kính bái bậc Ðạo sư.

Nàng đi đến Kỳ Viên vái chào đức Như Lai rồi đứng đợi một bên. Ngài hỏi:

– Bà đi đâu bây giờ?

Nàng đáp:

– Bạch Thế Tôn, chồng của con bảo đưa con về nhà.

Bậc Ðạo sư hỏi:

– Vì cớ gì?

– Bạch Thế Tôn, vì con không sinh sản, con không có con trai.

Ngài đáp:

– Nếu chỉ có vậy, thì chẳng có lý do gì bà phải đi cả. Hãy về lại.

Nàng rất hoan hỷ kính chào bậc Ðạo sư rồi trở về nhà. Chồng nàng hỏi tại sao nàng lại trở về, nàng đáp:

– Ðấng Thập Lực bảo đưa thiếp trở lại, thưa phu quân!

Vị đại tướng nói:

– Thế thì đấng Thập Lực ắt hẳn đã thấy rõ lý do tốt lành rồi.

Chẳng bao lâu đó nàng thụ thai. Khi nàng bắt đầu những cơn thèm ăn của người mang thai, nàng bảo cho ông biết. Ông hỏi:

– Thế nàng muốn gì?

Nàng đáp:

– Thưa phu quân, thiếp muốn đi tắm và uống nước hồ ở thành Vesàli (Tỳ-xá-ly), nơi mà các hoàng gia thường lấy nước để làm lễ quán đảnh phong vương.

Vị đại tướng hứa sẽ cố gắng chìu ý. Cầm lấy cây cung của ông mạnh bằng cả ngàn cây cung khác, ông đưa bà vợ lên xe rời thành Xá-vệ và lái xe đến Tỳ-xá-ly.

Lúc bấy giờ gần cổng thành có một người của bộ tộc Licchavi tên là Mahàli đã từng được học cùng một vị sư phụ với đại tướng Bandhula của vua Kosala. Người này mù, vẫn thường khuyên các người Licchavi về những thế sự cũng như thánh sự. Khi nghe tiếng xe chạy lóc cóc trên ngưỡng cửa, ông nói:

– Ðây là tiếng xe của đại tướng Bandhula! Ngày hôm nay các người Licchavi có mối lo sợ.

Bên hồ có một đội quân canh gác nghiêm ngặt, bên trong lẫn bên ngoài, ở trên lại có lưới sắt, không một con chim nào tìm chỗ lọt vào được. Song vị đại tướng, vừa xuống xe đã tung thanh kiếm ra khiến quân canh bỏ chạy và ông liền xông qua lưới sắt, vào trong hồ cho bà vợ tắm và uống nước, rồi sau khi chính ông cũng tắm xong, ông đưa Mallikà lên xe, rời thành và trở về bằng đường lối đã đến. Quân canh đi thưa chuyện với các người Licchavi. Lúc ấy các vương tử của bộ tộc Lichavi nổi giận, năm trăm vị leo lên năm trăm cổ xe, đi bắt tướng quân Bandhula. Họ báo tin ấy cho Mahàli, ông bảo:

– Ðừng đi, vì kẻ kia sẽ giết hết các ngài đấy.

Song họ bảo:

– Không, chúng ta muốn đi.

– Vậy khi nào các ngài đến một nơi mà bánh xe lún xuống tận trục thì phải trở về. Nếu các ngài không trở về lúc ấy các ngài hãy trở về nơi mà các ngài nghe tiếng sấm sét. Nếu các ngài không trở về lúc ấy thì các ngài hãy trở về nơi mà các ngài thấy một cái lỗ ở phía trước các xe. Ðừng đi xa nữa.

Song các người ấy không trở lại theo lời ông mà cứ đi tới mãi. Mallikà nhìn thấy họ và bảo:

– Thưa phu quân, có các cỗ xe xuất hiện kìa.

– Vậy hãy nói cho ta biết – ông bảo – khi nào tất cả bọn chúng trông giống như một cỗ xe mà thôi.

Khi tất cả bọn chúng đứng thành một hàng giống như một chiếc xe, nàng bảo:

– Thưa phu quân, thiếp thấy chúng giống như thể cái đầu của một cỗ xe mà thôi.

– Vậy hãy cầm lấy dây cương.

Vị tướng quân bảo và trao dây cương vào tay bà. Ông đứng dậy trên cỗ xe và giương chiếc cung ra. Bánh xe kia lún vào đất đến tận trục xe. Bộ tộc Licchavi đến tận nơi, thấy thế nhưng không trở lui về. Vị tướng quân kia tiến lên một đoạn nữa và bật dây cung lên liền phát ra một tiếng ầm như sấm dậy. Nhưng đám kia vẫn chưa trở lui về mà cứ đuổi theo nữa. Bandhula đứng trên xe và bắn tên ra, mũi tên làm vỡ đầu cả năm trăm cỗ xe và xuyên qua cả năm trăm vương tử ở nơi có buộc dây đai rồi chôn vùi xuống đất. Các vị này không biết họ đã bị thương nên cứ tiếp tục đuổi theo nữa và la lớn:

– Dừng lại! Này, dừng lại!

Bandhula dừng xe lại, bảo:

– Các người chết cả rồi! Ta không đánh với người chết đâu!

Họ bảo:

– Sao, chúng ta thế này mà chết à?

Bandhula bảo:

– Hãy mở dây đai của người đầu tiên ra.

Bọn kia mở dây đai người ấy, ngay lúc mở dây ra, người kia liền ngã xuống chết luôn. Lúc ấy vị tướng quân bảo cả bọn:

– Các người đều bị như vậy cả, hãy về nhà đi, sắp đặt mọi việc gì cần sắp đặt, dặn dò vợ con gia tộc, rồi hãy cởi giáp bào ra.

Họ làm theo như vậy, xong đâu đó, cả bọn đều trút hơi thở cuối cùng.

Về sau, tướng Bandhula đưa Millikà về Xá-vệ. Bà sinh ra những cặp song nam liên tiếp mười sáu lần, chúng đều lớn lên dũng mãnh anh hùng, thành đạt trọn vẹn trong mọi việc. Mỗi người lại có cả ngàn quân tùy tùng và khi chúng theo cha vào chầu vua, riêng phần chúng đã đứng chật cả sân chầu.

Một ngày kia, một số người thua kiện vì bị vu cáo, thấy Bandhula đi đến, liền lên tiếng kêu than vang dậy, và bảo cho ông biết các quan tòa đã hỗ trợ một chuyện vu cáo. Vì thế Bandhula vào triều, xử lại vụ án rồi cho phần mỗi người như cũ. Ðám đông hò reo tán thưởng. Vua hỏi việc gì và khi nghe vậy, ngài rất hoan hỷ. Ngài chuyển các quan tòa kia đi xa, giao cho Bandhula trọng trách xử án, từ đó ông xử rất công minh. Sau đó các quan tòa kia trở nên nghèo khó, ví họ không còn nhận hối lộ nữa, nên họ phỉ báng Bandhula đến tận tai vua, kết tội vị tướng quân này muốn nhắm chiếm ngai vàng; vua nghe lời họ, không sao tránh khỏi hoài nghi. Song vua suy nghĩ đắn đo: “Nếu lão ấy bị chết tại đây thì ta sẽ bị trách cứ”.

Ngài liền ra lệnh cho một số người cướp phá các vùng thị trấn ở biên địa, rồi mời Bandhula đến và bảo:

– Biên thùy đang gặp khói lửa, khanh hãy cùng các công tử đi bắt bọn cướp kia.

Vua cũng đưa đi một số chiến sĩ dũng cảm, tài ba, rồi căn dặn họ giết cả vị tướng quân cùng ba mươi hai công tử kia, cắt lấy đầu đem về.

Khi ông lên đường, bọn cướp đánh thuê ấy biết tin đại tướng đến, liền bỏ chạy. Vị tướng quân định cư lập nghiệp cho dân khu vực ấy rồi dẹp yên thành phố xong lên đường về. Sau đó khi ông đến gần kinh đô, các tùy tướng kia lại cắt đầu ông cùng các công tử.

Ngày hôm ấy Mallikà mời hai vị Ðại đệ tử cùng với năm trăm vị Tỷ-kheo. Từ sáng sớm đã có thư đưa vào cho bà báo tin chồng bà và các công tử đã mất đầu. Khi nghe vậy bà không nói với ai một lời, bà nhét thư vào áo, và lo dọn bữa cơm mời chúng Tỷ-kheo. Khi các gia nhân của bà đã cúng dường cho các Tỷ-kheo xong, lại mang vào một chén đựng bơ tươi, vô ý làm vỡ cái chén ấy ngay trước Tăng chúng. Lúc ấy vị tướng quân Chánh pháp (Sàriputta) bảo:

– Chén bát được làm ra để đánh vỡ, xin bà đừng buồn phiền việc ấy.

Vị phu nhân đưa lá thư từ trong nếp áo ra đáp:

– Ðây đệ tử được bức thư báo tin phu quân và ba mươi hai con trai của đệ tử đã bị cắt đầu. Nếu đệ tử không buồn phiền việc ấy, có lẽ nào lại buồn phiền khi cái chén bị đánh vỡ?

Vị Tướng quân Chánh pháp bấy giờ bắt đầu nói:

– Không được thấy, không được biết là đời người dưới đây…v.v…(Kinh tập, Kinh Mũi tên, kệ 574).

Rồi từ chỗ đứng dậy, ngài thuyết pháp và ra về.

Phu nhân liền triệu tập ba mươi hai nàng dâu lại bảo:

– Phu quân của các con mặc dù vô tội, đã thọ lãnh nghiệp quả đời trước. Các con đừng sầu bi, cũng đừng tạo ác nghiệp nặng hơn tội của vua.

Phu nhân khuyên nhủ như vậy. Bọn thám tử mật của vua nghe lời này, trình với vua rằng họ chẳng oán hận. Sau đó, vua ân hận đi đến nhà phu nhân cầu xin Mallikà và các con dâu của bà tha thứ và ban một điều ước. Bà đáp:

– Xin nhận.

Bà cử hành tang lễ xong, tắm rửa rồi đến yết kiến vua. Bà nói:

– Tâu Chúa thượng, Chúa thượng đã ban cho thần thiếp một ân huệ. Thần thiếp xin điều gì ngoài chuyện này: đó là xin Thánh thượng cho phép thần thiếp cùng ba mươi hai con dâu trở về nhà cha mẹ của mình.

Vua chấp thuận. Bà liền đưa mỗi nàng dâu về nhà cũ, xong chính bà cũng về nhà cha mẹ mình ở thành Kusinàra. Rồi vua phong chức đại tướng cho một vị Dìgha-Kàràyana, con trai của một bà chị đại tướng Bandhula. Song vị này đi đâu cũng vạch tội vua và bảo:

– Vua đã giết cậu ta.

Mãi lâu sau vụ giết hại vị tướng quân vô tội Bandhula ấy, vua cứ bị hối hận giày vò nên tâm hồn không còn thanh thản, ngài không cảm thấy hứng thú khi được làm vua nữa. Thời ấy, bậc Ðạo Sư ở gần một thị trấn của dòng họ Thích-ca tên là Ulumpa. Vua đến đó đóng trại không xa hoa viên ấy, và cùng vài cận thần đi đến tinh xá để đảnh lễ bậc Ðạo Sư. Vua đem trao năm biểu tượng của vương quyền cho Kàràyana, rồi một mình đi vào Hương phòng. Mọi việc tiếp theo được mô tả như trong Kinh Dhammacetiya (Pháp Trang nghiêm, Trung bộ, số 89).

Khi vua bước vào Hương phòng của đức Phật, Kàràyana cầm lấy năm biểu tượng của vương quyền ấy và tôn Vidùdabha lên làm vua, chỉ để lại đó cho vua cũ một con ngựa và một nữ tỳ, rồi đi đến Xá-vệ.

Sau buổi đàm thoại vui vẻ với bậc Ðạo Sư, vua trở về chẳng thấy binh sĩ đâu cả, ngài hỏi người nữ tỳ, và biết được mọi việc đã xảy ra. Rồi ngài đi đến kinh thành Vương Xá, quyết định đem theo người cháu trai cùng ngài đi bắt sống Vidùdabha. Khi vua đến kinh thành thì trời đã tối, cổng thành đã đóng, nên ngài nằm nghỉ trong một túp lều, bị đuối sức vì dãi dầu sương gió, ngài băng hà tại đó.

Khi đêm vừa sáng dần, cô nữ tỳ bắt đầu gào khóc:

– Trời ơi! Ðại vương Kosala đã vô phương cứu chữa rồi!

Có người nghe tiếng kêu than liền đưa tin đến vua xứ ấy (tức Ajàtasattu). Vua này liền cử hành tang lễ cho cậu mình rất trọng thể.

Sau khi vua Vidùdabha an vị trên ngai vàng, nhớ lại mối thù xưa của mình và quyết định đi sát hại tất cả dòng họ Thích-ca. Với mục đích trên, vua lên đường cùng với đám đông binh sĩ. Sáng tinh sương hôm ấy, bậc Ðạo Sư nhìn xuống cõi trần, thấy việc tàn sát kia đang hăm dọa thân tộc Ngài, Ngài nghĩ thầm: “Ta phải cứu độ thân tộc ta”.

Vào buổi sáng, Ngài ra đi khất thực, và sau khi dùng bữa xong trở về an nghỉ với dáng nằm như sư tử trong Hương phòng của Ngài. Vào buổi chiều, sau khi đã bay qua không gian đến một nơi gần Ca-tỳ-la-vệ, ngồi dưới một gốc cây đổ bóng thưa thớt; gần đó, một cây đa khổng lồ rợp bóng sừng sững trên biên thùy vương quốc của vua Vidùdabha. Khi thấy bậc Ðạo Sư, vua Vidùdabha đến gần đảnh lễ Ngài và nói:

– Bạch Thế Tôn, tại sao Thế Tôn lại ngồi dưới gốc cây thưa thớt như vậy trong bầu trời nóng nực này?

Ngài đáp:

– Thưa Ðại vương, cứ để mặc Ta. Bóng cây của thân tộc Ta khiến cho Ta mát mẻ.

Vua suy nghĩ: “Chắc hẳn bậc Ðạo Sư đến đây để che chở cho thân tộc Ngài”.

Vì thế vua đảnh lễ bậc Ðạo Sư rồi lại trở về Xá-vệ. Còn bậc Ðạo Sư đứng dậy đi đến Kỳ Viên. Lần thứ hai vua nhớ lại mối hận thù của mình đối với dòng họ Thích-ca, lần thứ hai vua lên đường, cũng thấy bậc Ðạo Sư ngồi đúng chỗ cũ, nên vua lại ra về.

Lần thứ tư vua ra đi, và bậc Ðạo Sư, khi xem xét kỹ những nghiệp quả quá khứ của dòng họ Thích-ca, nhận thấy rằng không thể nào tránh được hậu quả của ác nghiệp kia trong việc họ đã thả thuốc độc xuống dòng sông, nên Ngài không đi đến đó lần thứ tư nữa. Lúc ấy vua Vidùdabha giết hết dòng họ Thích-ca, bắt đầu bằng những hài nhi còn bú, lấy máu trong tim chúng và rửa cái ghế ngồi, rồi ra về.

Vào ngày mà bậc Ðạo Sư ra đi lần thứ ba đã trở về, sau khi du hành khất thực, và đã dùng bữa xong, Ngài đang nằm nghỉ trong Hương phòng, Tăng chúng từ mọi nơi tụ tập trong Chánh pháp đường. Khi ngồi lại với nhau, Tăng chúng bắt đầu nói đến công hạnh của bậc Ðạo Sư:

– Này các Hiền gỉa, bậc Ðạo Sư chỉ cần xuất hiện và khiến cho vua lui về, là giải quyết cho thân tộc Ngài khỏi nỗi sợ chết. bậc Ðạo Sư thật là một người bạn lành, hay cứu giúp gia tộc.

Bậc Ðạo Sư đi vào, hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì trong khi ngồi tại đó. Tăng chúng thưa lại với Ngài. Sau đó, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo. không phải chỉ bây giờ Như Lai mới hành động vì lợi ích của các người thân tộc, mà ngày xưa Như Lai cũng đã làm như thế.

Cùng với lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì Ba la nại, và thực hành Thập vương pháp (Mười đức tính của vua hiền), ngài nghĩ thầm: “Khắp cõi Diêm-phù-đề này, vua chúa đều sống trong các cung điện có nhiều cột trụ chống đỡ. Vậy một cung điện được nhiều cột trụ chống đỡ chẳng kỳ diệu gì, song nếu ta xây một cung điện chỉ có một trụ chống đỡ thì sao?…Lúc ấy ta sẽ thành vị đế vương bậc nhất giữa các vị vua!” Do vậy ngài triệu tập các nhà kiến trúc lại, bảo họ xây cất cho ngài một cung điện nguy nga chỉ dựng trên một cột trụ thôi. Họ thưa:

– Xin tuân lệnh.

Rồi họ đi sâu vào rừng. Tại đó, họ ngắm nghía nhiều cây thẳng tắp, cao lớn xứng đáng làm cây cột trụ duy nhất của một cung điện sang trọng như thế. Họ bảo nhau:

– Ðây có đủ các cây loại này, song đường sá gồ ghề, ta chẳng bao giờ chở chúng theo được, vậy ta phải thỉnh ý đức vua về chuyện đó.

Khi họ tâu như vậy, vua đáp:

– Hãy dùng cái móc hay neo mà kéo chúng về, thế càng nhanh nữa.

Song họ thưa:

– Chẳng cái móc nào làm được việc này cả.

Vua phán:

– Vậy thì hãy tìm một cây trong thượng uyển của trẫm.

Các nhà xây dựng đi vào vườn ngự, tại đó họ nhìn thấy một cây Sàla dáng vương giả cao quý, thẳng tắp, cành là sum suê, vẫn được dân làng, thị trấn tôn sùng, ngay cả hoàng tộc cũng thườngđến chiêm bái, và dâng lễ vật. Họ liền tâu lại với vua. Ngài phán:

– Trong vườn ngự của trẫm kia, các khanh đã tìm ra cho trẫm một cây đại thọ. Tốt lắm! Vậy hãy đi đẵn nó xuống ngay.

Họ đáp:

– Xin tuân lệnh.

Họ đến khu vườn ngự, đôi tay cầm đầy các tràng hoa thơm và các hương liệu khác, sau đó treo lên cây một tràng hoa năm chùm, cuộn quanh thân cây một sợi dây thừng, buộc vào đó một bó hoa thơm, rồi vừa thắp hương đèn, vừa chiêm bái vừa khấn rõ:

– Từ nay đến bảy ngày nữa, chúng tôi sẽ đẵn cây xuống theo lệnh vua truyền. Cầu xin các Thần cư ngụ trên cây này hãy đi nơi khác, và đó không phải lỗi chúng tôi.

Vị thần sống trên cây nghe nói vậy, nghĩ thầm:

“Những người xây dựng này quyết đốn cây xuống và phá hoại chỗ cư ngụ của ta. Nay đời ta chỉ kéo dài bao lâu còn nơi cư trú này, có các thân quyến thuộc của ta cư trú thật đông, cũng sẽ bị phá hủy. Sự hủy hoại thân ta không quan trọng bằng sự tiêu giết đám con cháu ta. Vậy ta phải bảo vệ sinh mạng chúng.”

Thế là vào lúc nửa đêm, với trang phục huy hoàng, uy nghi, vị Thần cây bước vào cung thất lộng lẫy của vua, chiếu ánh sáng rực rỡ khắp phòng và đứng khóc cạnh chiếc gối của vua. Ngài rất kinh hãi khi thấy vị thần, liền thốt lên vần kệ đầu:

  1. Ngài là ai, đứng giữa không gian,
    Mình khoác xiêm y tựa thánh thần,
    Sao nỗi kinh hoàng kia phát khởi,
    Mắt ngài sao đẫm lệ tuôn tràn?

Nghe vậy, vị chúa tể Thần cây ngâm hai vần kệ:

  1. Ở trong quốc độ, hỡi quân vương,
    Người biết danh cây: Ðại Cát Tường,
    Ðã sáu mươi ngàn năm vẫn đứng,
    Toàn dân đều cúng bái ta luôn.
  2. Dù chúng dựng xây lắm thị thành,
    Lâu đài vương xá, các cung đình,
    Tuy nhiên, chúng chẳng hề phiền nhiễu,
    Cũng chẳng gây tai hại thần linh,
    Vì chúng tôn sùng ta đến thế,
    Xin ngài, Chúa thượng cũng tôn vinh!

Tiếp theo, vua ngâm hai vần kệ khác:

  1. Song một thân cây vĩ đại này,
    Trẫm chưa hề thấy tự xưa nay,
    Chu vi đẹp cả chiều cao nữa,
    Hùng mạnh, một cây vững chắc thay.
  2. Trẫm muốn xây nên mỹ lệ cung,
    Chỉ cần độc nhất trụ làm chân,
    Trẫm muốn đặt ngài vào chỗ đó,
    Ðời ngài không ngắn ngủi đâu Thần.

Nghe vậy, vị Thần chúa ngâm hai vần kệ:

  1. Vì ngài mong muốn đẵn cây thần
    Xin hãy chặt ta nhỏ mỗi phần,
    Và xẻ thân này từng mảnh một,
    Hoặc đừng gì cả, tấu Anh quân.
  2. Hãy chặt trước tiên lấy đỉnh đầu,
    Kế là phần giữa, gốc về sau,
    Nếu ngài đốn được ta như thế,
    Cái chết chẳng còn tạo khổ sầu.

Sau đó, vua lại ngâm hai vần kệ:

  1. Trước hết chân tay, kế mũi tai,
    Khi người lâm nạn chửa tàn hơi,
    Cuối cùng thủ cấp này rơi xuống,
    Cái chết này đau đớn rụng rời.
  2. Cát Tường cổ thụ! Chúa sơn lâm!
    Lạc thú gì ngài cảm thấy chăng?
    Sao, lý do gì ngài ước muốn
    Thân cây được xẻ nhỏ từng phần?

Ðại thọ Cát tường liền đáp lời qua hai vần kệ:

  1. Vì lý do nào cao cả thay,
    Cớ sao ta muốn xẻ thân này,
    Phân ra từng mảnh, tâu Hoàng thượng,
    Xin lắng nghe lời ta nói đây.
  2. Quanh ta phồn thịnh đám thân bằng,
    Sinh trưởng nhờ nơi trú vẹn toàn,
    Nếu ta ngã mạnh, đè tan chúng,
    Nỗi đớn đau kia sẽ ngập tràn.

Vua nghe vậy xong, lòng đầy hoan hỷ: “Vị thần này thật cao cả thay, ngài không muốn quyến thuộc mình phải mất nơi trú ẩn do việc ngài mất chốn cư ngụ của riêng ngài. Thế là ngài hànhđộng vì lợi ích của thân tộc mình.”

Và vua ngâm kệ cuối cùng:

  1. Cát tường cổ thụ, Chúa rừng xanh!
    Tư tưởng ngài cao cả thật tình,
    Ngài muốn giúp thân bằng quyến thuộc,
    Vậy trẫm cho ngài thoát hãi kinh!

Vị Thần chúa, sau khi thuyết giáo vua xong, liền ra đi. Còn vua an trú vào lời khuyên nhủ của ngài, bố thí và làm nhiều thiện sự khác cho đến khi vua mạng chung, đi lên cộng trú với các hội chúng ở cõi Trời.

*

Sau khi chấm duat Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, như thế là Như Lai vẫn hành động vì lợi ích của thân bằng quyến thuộc mình.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda là vua kia, các đệ tử của đức Phật là các thần trú thân trong các cây con của cây Sàla, và Ta chính là Cổ thụ Cát tường, vị Thần chúa.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thương Nhân Trên Biển Cả (Tiền thân Samudda – Vànijà)

Người thì gieo hạt, kẻ đi cày…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) khi ông bị đọa xuống địa ngục, kéo theo năm trăm gia đình bị đọa luôn.

Bấy giờ, lúc hai Ðại đệ tử là Sàriputta (Xá-lợi-phất) và Moggallàna (Mục-kiền-liên) đưa các Tỷ-kheo đã theo vị ấy trở về cùng mình, Ðề-bà-đạt-đa không thể nào chịu đựng khổ đau, nên đã khạc ra máu và sắp từ giã cõi đời, ông tự nhủ: “Trong chín tháng ròng ta đã nghĩ xấu về đức Như Lai, song trong tâm của đức Như Lai không hề có một ác ý đối với ta, trong tám mươi vị trưởng lão cũng không ai làm gì hại ta, bởi chính vì những hành động của ta mà ta thành kẻ bơ vơ lạc lõng, ta đã bị bậc Ðạo Sư từ bỏ rồi, các Trưởng lão, Tôn giả La-hầu trưởng tộc, cùng tất cả hoàng tộc dòng họ Thích-Ca, nên ta muốn đến gặp bậc Ðạo Sư và hòa giải với Ngài. “Vì thế ra hiệu cho các đệ tử, ông bảo họ mang ông trên chiếc cáng, rồi du hành suốt ngày đêm đến kinh thành xứ Kosala.

Trưởng lão Ànanda thưa với bậc Ðạo Sư:

– Họ bảo rằng Ðề-bà-đạt-đa đang đi đến làm hòa với đức Thế Tôn.

– Này Ànanda, Ðề-bà-đạt-đa không được gặp ta đâu.

Khi ông đã đến thành Xá-vệ, Tôn giả lại thưa trình với bậc Ðạo Sư, và đức Thế Tôn cũng trả lời như trước. Khi ông đến cổng Kỳ Viên và tiến về hồ Kỳ Viên, tội ác đã đến tột đỉnh; một cơn sốt nổi lên trong người khiến ông muốn tắm và uống nước, vì thế ông ra lệnh cho họ đưa mình ra khỏi cái cáng để có thể uống nước. Khi ông vừa bước xuống và đứng trên mặt đất thì, trước khi ông có thể giải khát cho mình, quả đất rộng há miệng ra, một ngọn lửa phát xuất từ địa ngục tận cùng Avìci (A-tỳ hay Vô gián) bao phủ lấy ông. Trong lúc biết các ác nghiệp của mình đã lên đến cực điểm, cùng nhớ lại các công đức của Như Lai, ông ngâm vần kệ này:

Nắm xương này đem đến Tối thượng Nhân,
Bậc Toàn tri, đây trăm tướng tốt lành,
Bậc điều ngự tâm người, hơn Thiên chủ,
Tâm trí ta bay về Ngài Giác Ngộ.

Song chính ngay trong hành động tìm nơi an trú này mà ông bị đọa vào ngục A-tỳ và có năm trăm gia đình của các đồ đệ ông, những gia đình đã theo ông phỉ báng đấng Thập Lực (Dasabala) gièm pha ngài, nên cũng tái sinh vào ngục A-tỳ. Như thế ông xuống địa ngục A-tỳ, kéo theo mình cả năm trăm gia đình.

Vì vậy một ngày kia, Tăng chúng nói chuyện trong Chánh pháp đường:

– Này Hiền hữu Tỷ-kheo, Ðề-bà-đạt-đa ác độc vì tham lợi dưỡng đã vô cớ khởi lên lòng sân hận với bậc Chánh Ðẳng Giác và không biết đến nỗi kinh hoàng trong tương lai, nên cùng với năm trăm gia đình đọa xuống địa ngục. Bậc Ðạo Sư bước vào hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì. Hội chúng liền thưa lại Ngài. Ngài bảo:

– Này cácTỷ-kheo, Ðề-bà-đạt-đa vì ham lợi dưỡng và danh vọng nên không nhìn thấy những mối kinh hoàng trong tương lai, và ngày xưa cũng như bây giờ, vì không nhìn thấy những nỗi khủng khiếp trong tương lai mà kẻ ấy cùng các đệ tử tham muốn lạc thú hiện tại, nên phải chịu hoàn toàn hủy diệt.

Nói vậy xong, Ngài kể cho Tăng chúng nghe một chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba la nại, gần thành Ba la nại có một thị trấn lớn của các người thợ mộc, gồm một ngàn gia đình, những thợ mộc từ thị trấn này thường tự xưng là họ đóng giường, ghế, nhà cửa và thường sau khi nhận tiền trước của dân chúng, lại tỏ ra không có năng lực để làm gì được cả. Dân chúng thường trách mắng bất cứ người thợ mộc nào tình cờ họ gặp mặt và gây trở ngại cho bọn họ. Vì thế bọn người mắc nợ này gặp phiền nhiễu đến độ không thể nào sống yên ở đấy được nữa. Bọn họ bảo nhau:

– Chúng ta hãy đi ra xứ khác và kiếm một nơi nào đó ẩn thân.

Thế là họ vào rừng, đẵn cây, làm thuyền lớn phóng xuống sông đẩy thuyền ra khỏi thị trấn khoảng chừng ba phần tư dặm, thì kéo thuyền vào bờ. Sau đó vào nửa đêm, họ trở về thị trấn tìm gia đình mình đưa lên thuyền rồi xuôi dòng tiến ra biển cả. Họ gặp thuận buồm xuôi gió cho đến khi cập vào một hòn đảo nằm giữa đại dương.

Lúc bấy giờ trên đảo ấy đã mọc lên nhiều loại cây rừng có trái như lúa gạo, cây mía, chuối, xoài, mận, mít, dừa và đủ các loại khác nữa. Trước bọn ấy đã có một người bị đắm tàu và chiếm lấy đảo này. Sống tại đó, ăn lúa gạo và thưởng thức cây mía cùng các loại cây khác, nhờ thế gã trở thành lực lưỡng cường tráng, gã sống trần truồng, râu tóc dài ra. Bọn thợ mộc suy nghĩ: “Nếu đảo có loài quỷ ở thì bọn ta chắc phải chết hết; vì vậy ta muốn thám hiểm xem sao.”

Sau đó bảy thanh niên dạn dĩ lực lưỡng, trang bị năm thứ vũ khí, rời thuyền đi thám hiểm đảo này.

Ngay lúc ấy người sống sót trên đảo vừa ăn sáng xong, uống nước mía và trong lúc sảng khoái nằm dựa lưng trên một nơi xinh tươi, mát mẻ dưới bóng cây trên bãi cát lấp lánh như một cái đãi bạc, gã suy nghĩ: “Những người sống ở cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) không thể có được niềm hạnh phúc này, những người cày cấy kia, còn hòn đảo này đối với ta tuyệt hơn cả cõi Diêm-phù-đề nữa.” Gã liền vui mừng trong niềm cực lạc ấy.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ đầu để giải thích người sống trên hoang đảo này ca hát vì niềm hoan lạc như thế nào:

  1. Người thì gieo hạt, kẻ đi cày,
    Sống với mồ hôi ở cuối mày,
    Chúng chẳng hưởng vùng ta được sống,
    Hơn xa Ấn Ðộ chính nơi này!

*

Những người đi thám thính hòn đảo bắt gặp tiếng hát của gã, bảo nhau:

– Hình như ta nghe tiếng người, ta hãy đến làm quen với người đó.

Theo tiếng hát họ đi đến gặp người kia, nhưng vẻ bề ngoài của gã làm họ kinh hãi. Họ kêu lên:

– Có phải quỷ đó chăng?

Rồi họ tra mũi tên vào cây cung. Khi người kia thấy họ, gã sợ bắn bị thương nên la to:

– Ta không phải quỷ đâu, ta là người đấy, các ông ơi, xin tha mạng cho ta.

– Sao? – Họ bảo – Người ta lại trần truồng và không có gì bảo vệ như người ư?

Họ hỏi đi hỏi lại mãi, cũng chỉ nhận được câu trả lời ấy, rằng gã là con người. Cuối cùng họ đến gần gã và mọi người trò chuyện vui vẻ với nhau, những kẻ mới đến hỏi gã làm sao đến đó được. Gã kể cho họ nghe sự thật về việc này. Gã bảo:

– Do thiện nghiệp của các bạn mà các bạn đã đến đây, đảo này là phần thưởng của các bạn. Ðây là đảo tuyệt hảo. Ở đây các bạn không cần làm việc với đôi tay để sinh sống, gạo mía và các loại cây khác ở đây có vô tận, tất cả đều mọc hoang. Các bạn sống ở đây không còn lo ngại gì nữa.

Họ hỏi:

– Có gì khác cản trở cuộc sống của ta ở đây chăng?

– Không sợ gì cả trừ một điều: đảo này có loài quỷ dữ, lũ quỷ này sẽ nổi giận khi thấy phân thải ra từ cơ thể các bạn; vậy khi bạn muốn đại tiện, hãy đào lỗ trong cát chôn đi. Ðó là mối nguy hiểm duy nhất, ngoài ra không còn gì nữa, chỉ nhớ luôn luôn cẩn thận điều này.

Sau đó họ lên cư ngụ trên đảo này. Song giữa đám một ngàn gia đình này, có hai người cai thợ, mỗi người dẫn đầu năm trăm gia đình trong đó, một kẻ ngu si tham ăn món thượng hạng, người kia khôn ngoan và không thích chiếm phần ưu thắng trong mọi sự đời.

Theo thời gian họ tiếp tục sống tại đó, tất cả đều thành lực lưỡng cường tráng. Sau đó bọn họ suy nghĩ: “Lâu nay chúng ta không vui chơi gì cả, ta muốn làm một ít rượu mạnh với nước mía”. Vì thế họ làm rượu mạnh, và say sưa, ca hát, nhảy múa, vui đùa. Sau đó họ vô ý đi đại tiện bừa bãi khắp nơi mà không chôn dấu đi, nên họ đã làm cho hòn đảo hôi hám thật ghê tởm. Các thần linh tức giận vì bọn người này làm nơi giải trí vui chơi thành ô uế.

Các thần bàn tính kỹ lưỡng:

– Chúng ta sẽ dâng nước biển trên đảo để rửa sạch đảo này chăng? Nay là nửa tháng tối trời, cuộc hội họp của ta phải đình hoãn lại. Ðược rồi, vào ngày thứ mười lăm kể từ nay, vào ngày đầu tiên trăng tròn, vào giờ trăng mọc, chúng ta sẽ dâng nước biển lên và tận diệt chúng

Như vậy các thần đã định ngày. Lúc này một vị Thần công chính trong đám ấy suy nghĩ: “Ta không muốn các người này chết trước mắt ta.” Vì thế do lòng từ mẫn, vào lúc bọn người đang ngồi trước cửa trò chuyện vui vẻ, sau buổi cơm chiều, vị này làm cho toàn hòn đảo sáng lòa, với phục sức đầy vẻ huy hoàng, đứng trên không hướng về phía Bắc và nói với bọn họ như vầy:

– Này các thợ mộc, các thần linh nổi cơn thịnh nộ vì các ông. Ðừng sống ở đây nữa, vì trong nửa tháng kể từ nay các thần sẽ dâng nước biển lên giết hết các ông đó. Vậy phải trốn khỏi nơi này.

Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Trong hai tuần nữa thấy tròn trăng,
    Từ biển này dâng ngọn sóng thần
    Tràn ngập đảo to này: Hãy vội
    Di cư để khỏi hại người dân.

Cùng với lời khuyên này vị ấy trở về nơi ở của mình. Khi vị ấy đi rồi, một vị thần bạn là một hung Thần, suy nghĩ: “Có lẽ dân chúng sẽ theo lời vị ấy khuyên mà trốn hết, còn ta muốn cản trở việc chúng đi, để làm cho chúng phải tiêu diệt hoàn toàn.” Vì vậy vị Thần này trang điểm thật huy hoàng, tỏa ra một luồng ánh sáng lớn, bao trùm khắp hòn đảo ấy, và đến gần đại chúng, đứng trên không hướng về Nam, trong khi ông hỏi:

– Có một vị thần vừa đến đây chăng?

Họ đáp:

– Thưa có.

– Vị ấy nói gì với ông?

Họ đáp:

– Tâu Thần chúa biển cả, những việc như vầy như vầy.

Lúc ấy vị Thần bảo:

– Vị Thần này không muốn các ông sống ở đây, nên đã nói thế trong cơn thịnh nộ. Vậy đừng đi nơi khác, mà cứ ở lại đây.

Cùng với những lời này, vị Thần ngâm hai vần kệ:

  1. Theo nhiều dấu hiệu đã nêu rằng
    Dân chúng nghe tin đợt sóng thần
    Sẽ chẳng hề tràn lên đảo lớn,
    Vui lên đừng sợ, chớ đau buồn.
  2. Các ông gặp chốn rộng nơi đây,
    Các thức uống ăn lại đủ thay,
    Ta thấy chẳng gì nguy, cứ hưởng
    Ðến đời sau, lạc thú như vầy.

Sau khi nói vậy qua hai vần kệ để làm nhẹ nỗi lo âu của dân chúng, Thần này ra đi. Khi ông đi rồi, người thợ mộc ngu si cất cao giọng lên, và không để ý đến lời nói của vị Thần công chính, gã kêu lên:

– Xin quý ngài nghe theo ta.

Gã nói với mọi người thợ mộc bằng cách ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Từ hướng Nam, Thần ấy hét vang,
    Chúng ta nghe: “Vạn sự bình an”,
    Từ Thần này nói là thật,
    Sợ hãi, hay không phải hoảng hồn,
    Vị Bắc thần kia nào có biết,
    Vui lên đừng sợ, chớ lo buồn!

Khi nghe gã nói, năm trăm người thợ mộc tham hưởng lợi lạc muốn nghe theo lời khuyên của gã ngu si đó. Song lúc ấy người thợ mộc khôn ngoan không chịu nghe theo gã, và vẫn nói với đám thợ mộc, vừa ngâm bốn vần kệ:

  1. Khi nói ngược nhau, nhị hải Thần,
    Một kêu sợ hãi, một an toàn,
    Nghe lời ta dặn, e giây lát
    Tất cả người đây chết cả đoàn.
  2. Ta cùng xây một đại thương thuyền,
    Thuyền lớn, hành trang cất hết lên,
    Nếu vị Nam thần này nói thật,
    Thần kia nói nhảm nhí quàng xiêng;
  3. Khi cần, thuyền sẽ ích cho ta,
    Ta chẳng rời ngay đảo ấy mà,
    Song nếu Bắc thần kia nói đúng,
    Thần Nam chỉ nói chuyện điên rồ,
    Ta cùng lúc ấy lên thuyền cả,
    Nơi có bình an, sẽ vội qua,
  4. Ðừng xem ưu, liệt, chuyện vừa nghe,
    Ai để lọt tai cả mọi phe,
    Xét kỹ, rồi theo phần chính giữa,
    Bến bình an nhất, kéo neo về
    .

Sau đó người ấy lại nói:

– Này bây giờ, chúng ta hãy nghe theo lời cả hai vị Thần ấy. Ta hãy đóng thuyền, rồi nếu lời của vị thần thứ nhất là đúng sự thật, ta sẽ leo lên thuyền và ra đi; và nếu lời vị thần thứ hai đúng thì ta sẽ cất thuyền chỗ khác và ở lại đây.

Khi người ấy nói vậy xong, người thợ mộc ngu si bảo:

– Anh cứ đi mà xem con cá sấu nằm trong chén trà! Anh thật quá ư chậm trí! Vị Thần thứ nhất nói như vậy vì tức giận chúng ta, còn vị thứ hai nói vì thương yêu chúng ta. Nếu ta rời hòn đảo tuyệt hảo này, thì ta sẽ đi đâu nữa? Song nếu anh cần phải đi thì cứ đi mà đóng thuyền, bọn ta không cần thuyền, bọn ta ở đây!

Người thợ mộc khôn ngoan cùng những người theo phe mình, đóng một con thuyền, đặt mọi hành trang lên thuyền, rồi cả bọn đứng vào thuyền. Sau đó vào ngày trăng tròn, đúng lúc trăng mọc, từ đại dương dâng lên một ngọn sóng bao phủ khắp hòn đảo đến tận đầu gối, khi người khôn ngoan ấy thấy đợt sóng dâng lên thì vội thả thuyền ra. Bọn người theo phe người thợ ngu si gồm năm trăm gia đình, cứ ngồi bảo nhau:

– Một ngọn sóng đã dâng lên trên đảo. Nhưng nó sẽ không cao hơn đâu.

Sau đó sóng biển dâng cao lên thắt lưng, rồi cao bằng đầu người, cao tận ngọn cây dừa, rồi bảy cây dừa, rồi phủ lên khắp hòn đảo. Con người nhiều mưu trí ấy, biết đủ phương cách, không than lam các tài vật, nên đã ra đi an toàn; còn người thợ ngu si tham của cải, không thấy nỗi kinh hoàng trong tương lai nên đã bị tiêu hủy cùng năm trăm gia đình nọ.

*

Và ba vần kệ nữa đầy tính cách giáo hóa, để làm sáng tỏ vấn đề trên, là kệ phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng:

  1. Do nghiệp làm, như giữa đại dương,
    Nên người trí hiểu điều sâu kín,
    Chẳng phạm ngày sau lỗi cỏn con.
  2. Kẻ ngu, khờ dại nuốt tham lam,
    Chẳng hiểu tương lai hiểm họa tràn,
    Chìm ngập trước nhu cầu hiện tại,
    Như người tận số giữa trùng dương.
  3. Hãy làm xong việc trước khi cần,
    Ðừng để túng cùng phải khổ thân,
    Ai đúng thời làm điều thiết yếu,
    Chẳng hề lâm cảnh ngộ đau buồn.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên, mà cả ngày xưa nữa, Ðề-bà-đạt-đa đã bị mắc vào bẫy dục lạc hiện tại mà không nhìn thấy tương lai, nên đã gặp hủy diệt cùng đồng bọn của kẻ ấy.

Nói xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa là người thợ mộc ngu si, Kokàlika là vị ác Thần đứng ở phương Nam, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vị Thần đứng ở phương Bắc và ta chính là người thợ mộc có trí khôn ngoan kia

-ooOoo-

  1. Chuyện Dục Tham (Tiền thân Kàma)

Người nào mong ước việc trong lòng…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú ngụ tại Kỳ Viên về một Bà-la-môn trú ở Xá-vệ, lúc ấy đang đốn cây bên bờ sông Aciravatì để trồng trọt cày cấy. Bậc Ðạo Sư nhìn thấy rõ nghiệp duyên của vị này (về khả năng tu tập) khi Ngài đến Xá-vệ để khất thực, Ngài liền bước ra khỏi con đường đang đi để nói chuyện ân cần với ông. Ngài hỏi:

– Này Bà-la-môn, ông đang làm gì đó?

Người ấy đáp:

– Thưa Sa-môn Gotama, tôi đang đốn cây ở một khoảng trống để trồng trọt.

Ngài bảo:

-Tốt lành thay, này Bà-la-môn, ông tiếp tục công việc đi.

Cứ nhu vậy bậc Ðạo Sư đi đến nói chuyện với ông khi các thân cây đốn xong lại được mang đi nơi khác, và người kia dọn sạch mẫu đất của mình, và Ngài lại đến vào lúc cày cấy, hoặc lúc đào những hố vuông nhỏ để lấy nước. Bấy giờ vào ngày gieo hạt, vị Bà-la-môn hỏi:

– Thưa Tôn giả Gotama, hôm nay là ngày Lễ hạ điền (Lễ Cày bừa) của tôi. Khi bắp chín, tôi sẽ cúng dường nhiều cho Tăng chúng được đức Phật cầm dầu.

Bậc Ðạo Sư nhận lời cúng dường của ông và ra đi. Một ngày khác Ngài lại đến và thấy người Bà-la-môn đang ngắm đám bắp ấy. Ngài hỏi:

– Này Bà-la-môn, ông đang làm gì đó?

– Thưa Tôn giả Gotama, tôi đang ngắm đám bắp.

– Này Bà-la-môn, tốt lắm!

Bậc Ðạo Sư nói rồi đi thẳng.

Lúc ấy Bà-la-môn suy nghĩ: “Tôn Giả Gotama vẫn thường đi qua đường này lắm thay! Chắc chắn Ngài cần thực phẩm. Ðược ta sẽ cúng dường thức ăn cho Ngài.”

Vào ngày ý tưởng này xuất hiện trong trí ông, khi về nhà, ông cũng thấy bậc Ðạo Sư đến nữa. Từ đó trong lòng vị Bà-la-môn khởi lên một niềm tín thành kỳ diệu.

Dần dần, bắp đã chín, vị Bà-la-môn quyết định ngày mai sẽ gặt. Nhưng khi ông ngủ trên giường thì ở khoảng đất trên sông Aciravatì, mưa trút xuống như chĩnh đổ: lũ lụt kéo đến mang theo cả mùa màng ra biển, vì thế không còn sót một cây nào. Khi cơn lũ đã rút, vị Bà-la-môn thấy hoa màu bị tàn phá, nên không còn sức mà đứng nữa, tay ông cứ ôm ngực vì quá đau khổ, ông vừa khóc vừa về nhà, nằm xuống kêu than. Buổi sáng bậc Ðạo Sư đã thấy vị Bà-la-môn này tràn ngập khổ đau, Ngài suy nghĩ: “Ta sẽ là nơi nương tựa của người Bà-la-môn.”

Thế là hôm sau, khi đã đi khất thực quanh Xá-vệ rồi, Ngài trở về từ nơi thọ dụng thức ăn, bảo các Tỷ-kheo lui về tinh xá rồi chính Ngài cùng một tiểu thị giả đi với Ngài đến nhà ông. Khi vị Bà-la-môn nghe Ngài đến, thì lòng hoan hỷ, nghĩ thầm: “Chắc hẳn vị hiền hữu của ta đến để nói chuyện thân mật.” Ông mời Ngài ngồi; bậc Ðạo Sư bước vào ngồi trên một tọa sàng đã định sẵn và hỏi:

– Này Bà-la-môn, tại sao ông nản lòng? Việc gì xảy ra khiến ông bất mãn?

– Thưa Sa-môn Gotama, từ lúc tôi đến đây trên bờ sông Aciravati, Ngài cũng đã biết tôi làm gì rồi. Tôi đã đi đây đó, và hứa cúng dường Ngài khi hoa màu chín, nay cơn lụt đã cuốn trôi hết mọi hoa lợi ra biển, chẳng còn lại gì cả. Bắp ngô bị thiêu hủy cả đến trăm cỗ xe, vì thế tôi đang sầu khổ lắm đây.

– Này, của mất mát có thể trở lại nhờ than khóc không?

– Thua Sa-môn Gotama, nó không trở lại được.

– Nếu vậy tại sao sầu khổ? Sự giàu sang của người đời hay thóc lúa, khi còn đó thì chúng có mặt, và khi mất rồi thì thôi. Chẳng có vật hữu hình nào không chịu hoạt diện, thôi ông đừng sầu muộn vì nó nữa.

An ủi ông như thế xong, Ngài nhắc lại Kinh Tham dục (Kinh Tập IV, kệ 766) vì thích hợp với hoàn cảnh này. Khi Ngài kết thúc bài Kinh Tham dục ấy, vị Bà-la-môn buồn khổ đã được an trú vào Sơ quả Dự lưu. Sau khi làm tan biến nỗi buồn của ông, bậc Ðạo Sư đứng dậy từ chỗ ngồi và trở về tinh xá. Cả thị trấn đều nghe tin bậc Ðạo Sư đã đi tìm Bà-la-môn đang bị đau đớn hành hạ như thế nào rồi an ủi ông và an trú ông vào quả Dự Lưu ra sao. Tăng chúng nói đến việc ấy tại Chánh pháp đường:

– Này các Hiền giả, đấng Thập Lực đã kết bạn với một vị Bà-la-môn, ngày càng thân thiết, đã tạo cơ hội thuyết Pháp cho ông, đang lúc ông gặp cơn đau khổ xé nát cõi lòng. Ngài an ủi cho vơi niềm đau khổ rối an trú ông vào quả Dự Lưu.

Bậc Ðạo Sư bước vào, và hỏi:

– Náy các Tỷ-kheo, các ông đang nói chuyện gì khi ngồi lại đây?

Tăng chúng thưa lại với Ngài. Ngài đáp:

– Ðây không phải là lần đầu tiên, này các Tỷ-kheo, mà ta chữa lành nỗi đau buồn của kẻ ấy, song ngày xưa, đã lâu lắm, Ta cũng làm như vậy.

Và cùng với những lời này. Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời, vua Brahmadatta trị vì ở Ba la nại có hai vương tử. Ngài phong chức phó vương cho thái tử, còn vị thứ hai làm đại tướng quân. Sau đó khi vua Brahmadatta băng hà, triều thần phải phong vương cho thái tử bằng nghi lễ quán đảnh. Song chàng bảo:

– Ta chẳng màng giang sơn quốc độ, hãy để vương đệ ta trị nước.

Ðại chúng van xin cầu khẩn thái tử, song chàng chẳng muốn chuyện đó, nên vị vương đệ được quán đảnh phong vương. Thái tử cũng không màng ngôi vị phó vương hay chức tước gì cả, khi triều thần xin chàng ở lại, sinh sống trên mảnh đất trù phú này, chàng đáp:

– Không, ta không làm gì được trong kinh thành này cả.

Rồi chàng ra đi, rời khỏi Ba la nại, chàng đến vùng biên địa và sống với một gia đình thương gia giàu có, làm việc bằng đôi tay của mình. Những người này sau một thời gian biết được chàng là thái tử, nên không để cho chàng làm việc nữa, họ hầu hạ chàng như thể một vương tử phải được cung phụng vậy.

Bấy giờ, sau một thời gian, triều thần đến làng đó để vẽ họa đồ đồng ruộng. Lúc ấy người lái buôn nói với vương tử.

– Tâu Ðiện hạ, vì công lao chúng thần phụng dưỡng ngài, mong ngài gửi về vương đệ của ngài một bức thư để xin dùm cho chúng thần được miễn giảm thuế chăng?

Chàng đồng ý làm việc ấy và viết như sau: “Ta đang sống với một gia đình thương nhân nọ, ta xin vương đệ vì ta mà miễn thuế cho họ.”

Vua chấp thuận, và làm y theo như vậy. Từ đó dân làng và dân cả vùng ấy đến gặp chàng bảo:

– Hãy xin cho chúng thần được miễn thuế, rồi chúng thần sẽ đóng thuế cho ngài. Chàng làm thỉnh nguyện thư cho họ, và xin cho họ miễn thuế. Sau đó dân chúng trả thuế cho chàng. Lúc ấy, lợi tức và danh tiếng chàng rất lớn, cùng với lợi danh này, lòng tham của chàng cũng khởi lên, vì thế dần dần chàng đòi cả thị trấn, chàng đòi chức phó vương cũ và vương đệ chàng cứ ban cho chàng tất cả. Lúc ấy lòng tham của chàng cứ tăng trưởng, chàng không hài lòng với chức vị phó vương, và quyết định chiếm lại ngai vàng. Nhắm mục đích ấy, chàng lên đường cùng với một đám người, đóng tại ngoại ô kinh thành và gửi thư vào vương đệ chàng:

– Hãy trao quốc độ cho ta, không thì giao chiến!

Vị vương đệ suy nghĩ: “Ngày trước kẻ ngu si này đã từ chối ngai vàng, địa vị phó vương và tất cả; nay lại bảo: Muốn đánh chiếm lại. Nếu ta giết anh ta trong chiến trận thì đó là điều ô nhục cho ta, vậy ta cần gì làm vua nữa?” Vì thế chàng gửi chiếu chỉ:

-Tiểu đệ không muốn gây binh đao, xin vương huynh cứ lấy ngai vàng.

Vương huynh chấp thuận việc ấy và phong vương đệ làm phó vương.

Từ đó chàng cai trị vương quốc. Nhưng chàng tham lam như vậy, nên một vương quốc chưa làm chàng thỏa mãn mà chàng muốn hai vương quốc, rồi ba, tuy thế, vẫn thấy lòng tham vô tận.

Thời bấy giờ, Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nhìn ra ngoài. Ngài suy nghĩ: “Ai là người chăm lo phụng dưỡng cha mẹ đây? Ai là người bố thí và làm điều thiện đây? Ai là người bị tham dục chi phối.” Ngài suy nghĩ: “Kẻ ngu si này không hài lòng trị vì ở Ba la nại. Ðược, ta sẽ dạy cho y một bài học.”

Vì vậy ngài giả dạng một thanh niên Bà-la-môn, đứng ở cửa cung rồi đưa tin rằng có một thanh niên lanh lợi đang đứng ở cửa. Chàng được phép vào chầu, liền tung hô chúc tụng vạn tuế vua xong xuôi, vua hỏi:

– Tại sao công tử đến đây?

Chàng đáp:

– Tâu Ðại vương, tiểu sinh có chuyện cần tâu với Ðại vương, song tiểu sinh muốn được giữ cẩn mật.

Nhờ thần lực của Ðế Thích Thiên chủ, ngay lúc ấy mọi người rút lui cả. Sau đó chàng thanh niên nói:

– Tâu Ðại vương, tiểu sinh biết ba kinh thành trù phú, đông dân, quân đội, chiến mã đều hùng cường, tiểu sinh nhờ quyền lực của mình sẽ làm chủ ba kinh thành ấy, và sẽ dâng tặng Ðại vương. Song Ðại vương không được trì hoãn mà phải đi liền lập tức.

Vua đầy lòng tham nên đồng ý ngay.

Song vì thần lực của Ðế Thích ngăn cản, nên vua không hỏi: “Thế công tử là ai, từ đâu đến? Công tử sẽ nhận lại cái gì?” Ðế Thích Thiên chủ nói vậy xong, trở về cõi Trời Ba mươi ba.

Sau đó vua triệu quần thần lại, và bảo họ:

– Một thanh niên vừa đến đây, hứa sẽ lấy và dâng cho trẫm thống trị ba vương quốc! Các khanh hãy đi tìm kẻ ấy. Ra lệnh đánh trống khắp kinh thành, triệu tập quân sĩ, không được trì hoãn, vì trẫm sắp chiếm ba vương quốc kia đấy.

Quần thần đáp:

– Tâu Ðại vương, thế Ðại vương có tiếp đãi thanh niên ấy, hoặc hỏi xem chàng ở đâu chăng?

-Không, không, trẫm không tiếp đãi chàng, cũng không hỏi chàng ở đâu cả, vậy cứ đi tìm chàng!

Quần thần đi tìm, song không thể tìm ra chàng khắp kinh thành này. Nghe vậy, vua buồn bực:

– Quyền cai trị ba kinh thành đã mất rồi.

Vua lại suy nghĩ liên miên: “Ta bị tước mất vinh quang tột bậc, chắc chắn thanh niên ấy bỏ đi, bực tức ta lắm vì chẳng ban cho chàng tiền lộ phí, cũng chẳng cấp nơi cư trú.”

Sau đó trong cơ thể vua nóng như thiêu đốt, trong khi cơ thể nóng bừng như vậy thì ruột vua mắc bệnh kiết lỵ ra máu; thức ăn đưa vào lại chảy ra hết, các y sĩ không thể nào chữa trị được, nên vua kiệt sức. Bệnh trạng vua được đồn đãi khắp kinh thành.

Lúc ấy, Bồ-tát từ Takkasilà đã trở về nhà cha mẹ ở Ba la nại, sau khi đã tinh thông mọi ngành học thuật. Ngài được tin về vua, liền đi đến cung môn, với ý định chữa bệnh vua nên gửi vào một tờ sớ tâu rằng có một thanh niên đang sẵn sàng trị bệnh cho đức vua. Vua phán:

– Các đại danh y lừng lẫy khắp gần xa còn chưa chữa nổi căn bệnh của trẫm, chứ một thanh niên làm gì được? Thôi trả tiền lộ phí cho gã rồi bảo gã ra về.

Thanh niên ấy đáp:

– Ta không cần chi phí chữa bệnh, song ta sẽ chữa lành vua, ngài chỉ cần trả tiền cho ta món thuốc chữa bệnh mà thôi.

Khi vua nghe vậy, liền chấp thuận cho chàng vào. Chàng thanh niên kính lễ vua:

– Tâu Ðại vương, chớ sợ gì! Chàng bảo – thần sẽ trị lành bệnh Ðại vương, song xin Ðại vương nói cho thần nghe nguyên cớ căn bệnh của Ngài.

Vua nổi thịnh nộ đáp:

– Ngươi hỏi thế để làm gì chứ? Cứ làm món thuốc chữa trị đi.

Chàng bảo:

– Tâu Ðại vương, đây là phương cách của y sĩ, trước tiên phải biết vì sao sinh bệnh tật, sau đó mới làm thuốc chữa cho thích hợp.

Vua phán bảo:

– Thôi được rồi, chú bé.

Và vua bắt đầu kể nguồn gốc căn bệnh, từ lúc thanh niên hứa hẹn rằng chàng ta sẽ giành lấy và dâng lên vua quyền thống trị ba kinh thành.

– Như vậy, này bé con, căn bệnh sinh ra từ lòng tham, chú có giỏi thì chữa đi.

Chàng đáp:

– Sao, tâu Ðại vương, có chiếm được các kinh thành ấy nhờ buồn phiền chăng?

– Không đâu, bé con.

– Nếu vậy thì tại sao Ðại vương lại buồn phiền? Mọi vật dù vô tri hay có tri giác, đều phải hủy diệt, bỏ lại tất cả, ngay cả thân xác của mình. Dù cho Ðại vương có cai trị cả bốn kinh thành đi nữa. Ðại vương cũng không thể cùng một lúc ăn bốn mâm cơm, ngủ bốn tọa sàng, mặc bốn bộ y phục. Ðại vương không nên làm nô lệ cho tham dục, vì khi tham dục tăng trưởng thì ta không thể thoát được bốn cảnh khổ.

Sau khi đã khuyến giáo như vậy xong, bậc Ðại Sĩ thuyết pháp qua các vần kệ sau:

  1. Người nào mong muốn việc trong lòng,
    Khi ước nguyện kia được vẹn toàn,
    Chắc chắn tâm tràn đầy hỷ lạc,
    Vì nay đã đạt được cầu mong.
  2. Người nào ước vọng việc trong lòng,
    Khi ước vọng kia được vẹn tròn,
    Ước vọng tràn vào tâm trí mãi,
    Như đang cơn khát gặp oi nồng.
  3. Trong loại bò trâu có mọc sừng,
    Sừng kia càng lớn, cứ to dần,
    Cũng như tâm địa người vô trí
    Chẳng biết chút gì, chẳng biệt phân,
    Trong lúc người kia càng lớn tuổi,
    Thì niềm khát vọng cứ gia tăng.
  4. Ðem hết lúa ngô ở cõi đời,
    Bò trâu, nô lệ, ngựa, cho người,
    Vẫn chưa đầy đủ, này nên biết,
    Và giữ đường công chính mãi thôi.
  5. Một vua chinh phục cả phàm trần,
    Trần thế trải mình tận đại dương,
    Ở phía bên này chưa thỏa mãn,
    Vật ngoài khơi vẫn thấy thèm thuồng.
  6. Dục tham ấp ủ ở trong tim,
    Tri túc chẳng hề phát khởi lên,
    Người tránh dục tham tìm đúng thuốc,
    Người nào tri túc, trí như nguyền.
  7. Tối ưu là trí tuệ đầy tràn,
    Tham dục không hề đốt cháy tan,
    Chẳng có bao giờ người trí tuệ
    Lại làm nô lệ của lòng tham.
  8. Thiểu dục, phá tan mọi dục tham,
    Chẳng ham chiếm đoạt cả trăm phần,
    Người kia cũng giống như lòng biển,
    Chẳng bị đốt thiêu bởi dục tầm,
    Như thợ giày luôn bào guốc, dép,
    Hợp làn da bọc ở bàn chân.
  9. Cứ mỗi dục tham đuợc bỏ đi,
    Một niềm hạnh phúc đến liền khi,
    Người nào muốn hưởng tròn an lạc,
    Phải bỏ mọi tham dục tức thì.

Nhưng trong khi Bồ-tát ngâm các vần kệ này, tâm ngài chuyên chú vào chiếc lọng trắng của vua, nên khởi lên nỗi hỷ lạc của thiền định đạt được qua ánh sáng trắng (một pháp thiền Kasina). Riêng phần vua được bình phục khỏe khoắn, liền hoan hỷ đứng lên từ chỗ ngồi, và nói với ngài:

– Trong khi các y sĩ kia không thể chữa lành trẫm, thì một thanh niên hiền trí làm cho trẫm khỏe mạnh nhờ phương thuốc trí tuệ.

Rồi vua ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Tám khúc chàng ngâm đáng tám ngàn,
    Ngàn vàng mỗi khúc, Ðại La-môn,
    Xin chàng nhận số vàng, vì lẽ
    Lời nói chàng nay thật dịu dàng.

Nghe vậy bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ thứ mười một:

  1. Dù có ngàn, muôn, triệu, triệu lần
    Ngàn vàng, ta cũng chẳng mơ màng,
    Như lời kệ cuối vừa ngâm ấy,
    Tham dục tâm ta đã lụi tàn.

Vua càng hân hoan hơn nữa, liền ngâm vần kệ cuối cùng để tán thán bậc Ðại Sĩ:

  1. Quả thiếu sinh này thiện trí nhân,
    Am tường mọi kiến thức trần gian,
    Dục tham kia chính là sinh mẫu
    Của khổ đau, chàng mới vạch trần.

Bồ-tát lại bảo:

– Tâu Ðại vương, ngài phải biết tinh cần và bước vào chánh đạo.

Thuyết giáo cho vua xong, ngài bay qua không gian đến Tuyết Sơn, và sống suốt đời làm một ẩn sĩ tu hành. Ngài chuyên chú hành trì Tứ Vô lượng tâm và được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa cũng như bây giờ, Ta đã làm Bà-la-môn này lành bệnh.

Nói xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Bà-la-môn này là vị vua kia và Ta chính là chàng thanh niên hiền trí.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ðại vương Janasandha (Tiền thân Janasandha)

Chúa tể Ja-na nói thế này…,

Chuyên này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú ngụ tại Kỳ Viên về việc giáo hóa Quốc vương Kosala.

Có một thời, dân chúng bảo rằng vua mê đắm quyền lực buông mình vào các ác dục, không trị nước công minh, và ngày càng xao lãng việc đến yết kiến đức Phật. Một ngày kia, vua nhớ đến đấng Thập Lực liền suy nghĩ: “Ta phải đến viếng Ngài.” Vì vậy, sau khi điểm tâm, vua ngự lên chiếc vương xa lộng lẫy, tiến về tinh xá, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống. Ðức Phật hỏi:

– Thưa Ðại vương, thế nào? Ðã lâu Ðại vương không đến đây?

Vua đáp:

– Bạch Thế Tôn, trẫm quá bận việc nên không có dịp đến đây hầu cận Thế Tôn.

Ðức Phật bảo:

– Thưa Ðại vương, xao lãng việc đến gặp các bậc Chánh Ðẳng Giác như Ta thật là không đúng, Ta là một vị Phật ở ngay một tinh xá trước mặt, có thể khuyến giáo Ðại vương. Một vị vua phải cai trị sáng suốt, trong mọi phận sự quân vương, đối với thần dân như cha mẹ đối với con, từ bỏ mọi ác đạo, không bao giờ quên lãng Thập vương pháp (Mười Ðức hạnh của một vị vua). Khi một vị vua chân chính, đám triều thần vây quanh cũng chân chính noi gương. Thật thế, nếu theo lời giáo huấn của Ta mà Ðại vương đã phải cai trị chân chính thì cũng không lạ gì. Nhưng còn những bậc hiền tài ngày xưa, ngay cả thời chưa có một bậc Ðạo Sư để giáo hóa vua chúa, mà nhờ tri kiến riêng của chính mình, các vua đó đã được an trú vào việc thực hành ba thiện nghiệp, thuyết Pháp cho một đám đông dân chúng và cùng các đoàn tùy tùng lên cộng trú với các hội chúng ở cõi Trời.

Cùng với các lời này, theo sự thỉnh cầu của vua, bậc Ðạo Sư kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì Ba la nại, Bồ-tát sinh ra làm vị vương tử của chánh hậu. Cha mẹ ngài đặt tên ngài là vương tử Janasandha.

Bấy giờ đến tuổi trưởng thành và trở về từ Takkasilà, nơi ngài đã hoàn tất việc học tập, vua ra lệnh đại xá cho các tù nhân, và phong ngài chức Phó vương. Sau đó khi vua cha băng hà, ngài lên ngôi vua và ra lệnh xây sáu bố thí đường: tại bốn cổng thành, giữa thành và tại cung môn. Cứ mỗi ba ngày, ngài phân phát sáu trăm ngàn đồng tiền và làm chấn động toàn cõi Diêm-phù-đề vì việc đại bố thí của ngài: ngài mở cửa ngục ra thả hết, phá bỏ những pháp trường, ngài che chở cho mọi người bằng bốn thiện pháp (bố thí, thân ái, công bình, thiện trị); ngài giữ Ngũ giới, hành trì ngày trai giới và cai trị rất công chính. Thỉnh thoảng ngài hội họp quần thần lại và thuyết Pháp cho họ:

– Các khanh hãy bố thí, thực hành giới đức chân chánh, đi theo công việc và nghề nghiệp của mình, tự giáo hóa mình trong lúc còn tuổi thanh niên, lo làm cho giàu có, đừng cư xử như một tên lừa đảo trong làng hoặc như một con chó, đừng quá khắt khe hoặc thô ác, hãy làm bổn phận với cha mẹ, sống trong gia đình, hãy tôn trọng các bậc trưởng thượng.

Như vậy ngài khuyến khích quần chúng giữ chánh mạng.

Vào một ngày trai giới trăng tròn kia, sau khi đã hành trì ngày trai giới trọn vẹn, ngài tự nhủ: “Ta sẽ thuyết Pháp cho đại chúng để luôn luôn làm tăng trưởng lợi lạc cho họ và khiến họ tinh cần trong cuộc sống.” Sau đó ngài ra lệnh đánh trống lên, bắt đầu với đám cung phi, sau đó toàn thể dân chúng trong thành tụ tập lại. Tại sân chầu ngài ngự trên một sàng tọa lộng lẫy đặt riêng biệt, dưới một ngôi đình được tô điểm toàn châu báu, và thuyết Pháp bằng những lời này:

– Hỡi dân chúng trong kinh thành, trẫm sẽ tuyên thuyết cho các người nghe những việc gì làm cho các người đau khổ và những việc gì không làm cho các người đau khổ. Hãy tỉnh giác, chú tâm nghe và khéo tác ý.

*

Bậc Ðạo Sư mở miệng ra, đó chính là viên bảo châu giữa tất cả các chiếc miệng ở đời, chứa đầy Chân lý, và với giọng ngọt ngào như mật, ngài giải thích lời nói này với vua Kosala:

  1. Chúa tể Ja-na nói thế này,
    Có mười điều đúng thật như vầy,
    Nếu người quên việc thi hành chúng,
    Thì kẻ đó liền chịu khổ ngay!
  2. Không tạo, chẳng tích trữ đúng thời,
    Lòng kia giày xéo khổ đau hoài,
    Về sau hối tiếc vì suy nghĩ:
    “Không kiếm giàu sang thuở trước rồi!”
  3. Với người không học, sống gian lao!
    Suy nghĩ, ăn năn, nó khổ sầu:
    Kiến thức mà nay cần sử dụng,
    Nó không thèm học trước đi nào!
  4. Hai lưỡi ngày xưa, chẳng thật thà,
    Vọng ngôn, ý ngữ chẳng nhân từ:
    Xưa ta độc ác và cay nghiệt,
    Nay thấy nhân duyên khổ đó mà.
  5. Xưa ta sát hại thật hung tàn,
    Chẳng một người nào được phát ban,
    Vì việc đáng khinh này, (tự nhủ),
    Nay ta phải chịu lắm buồn than.
  6. Nó nghĩ, xưa ta lắm thiếp thê,
    Ta đành mắc nợ đám người kia,
    Vì ta bỏ chúng theo nàng khác,
    Việc ấy, nay ta hối tiếc ghê!
  7. Xưa đã chứa đầy thức uống ăn,
    Nay buồn, nó hối tiếc vô ngần,
    Nghĩ rằng nó chẳng bao giờ cả
    Thuở trước đem ban bố một lần.
  8. Nó khổ vì khi có thể làm,
    Nó không lo phụng dưỡng chăm nom
    Mẹ cha nay đã thành già yếu,
    Tuổi trẻ ngày nay đã lụi tàn.
  9. Vì đã khinh thường vị giáo sư,
    Những người khuyên bảo hoặc ông cha
    Cố làm nó đạt tròn tâm nguyện,
    Việc ấy gây đau khổ xót xa.
  10. Ðối với Sa-môn quá hững hờ,
    Nhiều nhà tu khổ hạnh ngày xưa
    Sống đời thánh thiện và thông thái,
    Khiến nó ăn năn tự bấy giờ.
  11. Khổ hạnh thực thi thật tốt lành,
    Thiện nhân thường vẫn được tôn vinh,
    Trước kia nó chẳng làm điều đó,
    Nay phải buồn khi kể chuyện mình.
  12. Mười điều nhờ trí tuệ khôn ngoan,
    Người thực hiện cho được vẹn toàn,
    Ðối với mọi người làm phận sự,
    Sẽ không hề phải chịu ăn năn.

*

Như vậy, cứ mỗi tháng hai lần, bậc Ðại Sĩ thuyết giáo theo đường lối ấy cho đại chúng. Và đại chúng được an trú vào Giáo pháp của ngài và hoàn thành Mười thiện pháp này, nên được sinh lên Thiên giới.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Thưa Ðại vương, như vậy các bậc trí nhân ngày xưa, dù chưa được dạy bảo mà chỉ do trí tuệ riêng của mình, đã thuyết Pháp và an trú đại chúng vào con đường đưa đến thiên giới.

Cùng với những lời này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, các đệ tử của đức Phật là dân chúng và Ta chính là vua Janasandha.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ðại Hắc Thiên Cẩu (Tiền thân Mahà Kanha)

Chó săn đen sẫm buộc năm dây…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú ngụ tại Kỳ Viên về sự sống vì lợi lạc cho cõi đời.

Chuyện kể rằng, một ngày kia, trong lúc các Tỷ-kheo ngồi tại Chánh pháp đường, họ nói chuyện với nhau. Một vị bảo:

– Này các Hiền giả, bậc Ðạo Sư bao giờ cũng thực hành từ tâm đối với đại chúng nên đã rời bỏ nơi an trú của Ngài và sống chỉ vì lợi lạc của người đời. Ngài đã đạt Tối thượng trí, song Ngài tự nguyện mang y bát di du hành cả mười tám dặm đường hoặc nhiều hơn nữa. Vì năm vị Trưởng lão ấy (các Tôn giả Kondannas), Ngài đã chuyển Bành xe Pháp; vào ngày mồng năm trong nửa tháng ấy Ngài thuyết Kinh Anattalakkana (Vô Ngã Tướng) và làm cho các vị kia đều đắc Thánh quả A-la-hán. Ngài lại đến Uruvela (Ưu-lâu-tần-loa), và trước các Ðạo Sĩ khổ hạnh bện tóc này (các Tôn giả Kassapa), Ngài thị hiện cho ba ngàn rưởi vị thấy các phép thần thông, cùng thuyết giáo cho các vị ấy gia nhập Tăng chúng; và tại Gayàsìsa (một ngọn núi gần Gayà, nay là Brahmàmayoni), Ngài đã thuyết Pháp về Lửa, khiến cho cả ngàn nhà tu khổ hạnh trong số này đắc Thánh quả A-la-hán. Với Mahà-Kassapa (Ðại Ca-diếp), sau khi Ngài đi cả ba dặm đường để gặp vị ấy và thuyết ba Pháp thoại, Ngài đã truyền Ðại giới cho vị ấy. Rồi một mình sau buổi thọ trai, Ngài ra đi đến bốn mươi lăm dặm đường để đưa một thiện gia nam tử là Pukkusa vào Tam quả Bất Lai. Ngài lại phải đi xa cả hai ngàn dặm để gặp Mahà-Kappina (Ðại Kiếp tân-na) và làm cho vị này đắc Thánh quả. Rồi một mình Ngài vào buổi chiều đi ba mươi dặm đường để đưa con người độc ác tàn bạo đó là Angulimàla (Tướng cướp đeo vòng ngón tay) vào Thánh quả. Ngài đi ba mươi dặm nữa, và đưa Álavaka (một con quỷ ăn thịt người) vào Sơ qủa Dự lưu cùng cứu hoàng tử thoát nạn (khỏi bị quỷ kia ăn thịt). Ngài an trú trên cõi Trời Ba mươi ba suốt ba tháng và giảng toàn bộ Giáo pháp cho tám trăm triệu Thiên tử. Ngài lên cõi Phạm thiên và phá tan tà thuyết của Phạm thiên Baka (số 405. TT Phạm thiên Baka), cùng làm cho mười ngàn vị Phạm thiên đắc Thánh quả. Mỗi năm Ngài du hóa trong ba khu vực, và đối với những ai có đủ căn cơ hiểu đạo, Ngài truyền dạy Tam quy, Ngũ giới và các quả vị khác nhau tùy mức độ khả năng. Ngài còn hành đạo vì lợi lạc của loài Rắn rồng (Nàga) hoặc Kim sí điểu (garula) hoặc nhiều loài khác nữa, theo nhiều phương tiện khác nhau.

Với những lời như trên, các Tỷ-kheo tán thán công đức trong đời sống của đấng Thập Lực vì lợi lạc của cõi trần gian này. Bậc Ðạo Sư bước vào và hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì trong lúc ngồi tại đây. Tăng chúng thưa với Ngài. Ngài bảo:

-Này các Tỷ-kheo, ngày nay ta đã đạt Thắng trí viên mãn và sống vì lợi ích của chúng sinh thì cũng chẳng lạ gì, ví ngay cả xưa kia, khi Ta còn tham dục, Ta cũng đã sống vì lợi lạc của chúng sinh.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, trong thời đức Phật Chánh Ðẳng Giác Kassapa (Ca-diếp) có một vị vua mệnh danh là Usìnara. Một thời gian rất lâu sau khi đức Phật Ca-diếp tuyên thuyết Tứ Ðế (Bốn Sự Thật) và giải thoát cho nhiều hội chúng khỏi khổ ách, cuối cùng đã nhập vào hội chúng chư Phật an trú trong Niết-bàn (Ðại diệt độ) thì Ðạo pháp đã suy tàn. Tăng chúng tìm kế sinh nhai bằng hai mươi mốt cách phi pháp, họ kết giao với các Tỷ-kheo ni và sinh ra nhiều con cái. Các Tỷ-kheo xao lãng phận sự của Tỷ-kheo. Tỷ-kheo ni cũng xao lãng phận sự của Tỷ-kheo ni, nam cư sĩ và nữ cư sĩ cũng vậy, các Bà-la-môn không còn giữ phận sự của Bà-la-môn, phần đông dân chúng theo Mười ác đạo, vì vậy khi mạng chung, họ đều phải vào các đọa xứ thật đông đảo.

Lúc ấy Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ, nhận thấy không có vị Thiên tử nào mới xuất hiện, ngài nhìn ra cõi trần gian, và thấy loài người bị đọa vào các cõi dữ như thế nào, còn Giáo pháp của đức phật đã suy tàn. Ngài tự hỏi: “Ta phải làm gì? – ta nghĩ ra rồi!” Ngài tự nhủ: “Ta sẽ đe dọa loài người làm cho đại chúng kinh hãi và khi đại chúng đã kinh hãi, ta sẽ trấn an đại chúng và thuyết Pháp, ta sẽ chấn hưng Ðạo pháp đã suy tàn, ta sẽ làm Ðạo pháp tồn tại một ngàn năm nữa!”

Cùng với quyết định này, ngài biến vị Thần lái xe của Ngài là Màtali thành một con Chó săn đen đủi khổng lồ, loài chó thuần chủng, có bốn nanh lớn như quả chuối, hình thù gớm ghiếc, với cái bụng bự như đàn bà sắp sinh con. Ngài cột con Chó bằng sợi xích năm vòng, cột tràng hoa đỏ lên mình nó và dẫn nó đi bằng một sợi dây. Chính ngài mặc y phục màu vàng, buộc tóc ra đằng sau, quấn tràng hoa đỏ rồi cầm một cây cung khổng lồ với dây cung màu san hô, lắc lư trong tay một cái lao có đầu mũi gắn hạt kim cương, ngài giả dạng một sơn nhân đi xuống, một địa điểm cách kinh thành một dặm.

– Trần gian đang bị tiêu diệt! Trần gian đang bị tiêu diệt!

Ngài thét lớn ba lần để đe dọa mọi người và khi vào đến kinh thành, ngài lại thét lên như vậy. Dân chúng thấy con Chó săn liền kinh hoảng bỏ chạy vào thành tâu trình với vua mọi việc. Vua vội vã truyền lệnh đóng các cổng kinh thành. Song Thiên chủ Ðế Thích nhảy qua bức thành cao mười tám cubit (1 cubit = 45cm) cùng con Chó săn, đứng bên trong kinh thành. Dân chúng hoảng hốt chạy vào nhà đóng cửa thật chặt. Con Chó đen khổng lồ rượt theo người nào nó gặp phải và dọa nạt họ, cuối cùng vào đến tận cung vua. Trong cơn khủng khiếp, dân chúng đi ẩn náu khắp sân chầu, vào tận cung điện và đóng cửa lại.

Còn vua cùng các vương phi đi lên thượng lầu. Hắc thiên cẩu đưa chân đặt vào của sổ và rống lên thật kinh hoàng! Tiếng rống vang dội từ địa ngục lên đến tận trời xanh cao ngất: cả vũ trụ vang rền tiếng rống đó. Có ba tiếng rống lớn từng vang dậy khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) là: Tiếng rống của vua Punnaka trong chuyện Tiền thân Punnaka, tiếng rống của Long vương Sudassana trong chuyện Tiền thân Bhùridatta và tiếng rống này trong Tiền thân Mahà-Kanha, hay chuyện Ðại Hắc thiên cẩu.

Vua thu hết can đảm đến gần cửa sổ, kêu lớn vào Thiên chủ:

– Này thợ săn kia, sao con Chó của ngươi rống lên thế?

– Vì nó đói.

Vua bảo:

– Ðược, trẫm sẽ ra lệnh đem thức ăn cho nó.

Thế là vua ra lệnh đem thức ngự thiện của ngài cùng thức ăn trong cả cung điện. Con Chó hình như chỉ ngoạm một miếng là hết tất cả, xong lại gào thét. Vua hỏi nữa.

– Con chó còn đói. Thiên chủ đáp.

Sau đó vua bảo đem thức ăn của voi, ngựa ra cho nó. Nó cũng ăn trọn lập tức; vua lại phải lấy hết thức ăn trong kinh thành ra cho nó; con Chó cứ nuốt trửng hết như trên rồi gào thét nữa. Vua bảo:

– Ðây không phải chó. Chắc chắn là con quỷ dữ. Ta muốn xem nó từ đâu đến.

Lòng kinh hãi, vua ngâm vần kệ đầu hỏi:

1.Chó săn đen sẫm buộc năm dây,
Nanh trắng nhe ra cả miệng này,
Oai vệ gây kinh hoàng dữ dội,
Nó làm gì được với người đây?

Nghe vậy Ðế Thích Thiên chủ ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Chó đen chẳng đến để săn mồi,
    Song nó làm công dụng trị người,
    Ðại đế U-si này, phải biết.
    Khi ta thả lỏng nó ra thôi.

Lúc ấy vua bảo:

– Sao, thợ săn, chó này sẽ xé xác hết mọi người hay chỉ xé những kẻ thù của ngươi thôi?

– Tâu Ðại vương, chỉ những kẻ thù của tiểu thần thôi.

– Vậy ai là kẻ thù của ngươi?

– Tâu Ðại vương, những kẻ nào thích gian tà và theo đường ác.

Vua bảo:

– Hãy tả bọn chúng ra cho ta nghe.

Vị Thiên chủ liền tả bọn chúng qua các vần kệ:

  1. Giả làm Tăng chúng, bát trong tay,
    Mình khoác chiếc y, cạo tóc này,
    Lại muốn theo nghề cày ruộng đất,
    Thì ta sẽ thả Chó đen ngay.
  2. Khi nào Ni chúng Giáo đoàn này,
    Ðắp một chiếc y, cạo tóc vầy,
    Lại thấy đua chen đời thế tục,
    Thì ta sẽ thả Chó đen đây.
  3. Khi nhà tu lại muốn cho vay
    Nặng lãi, môi trên chẫu thật dài,
    Cả miệng răng hôi, đầu tóc bẩn,
    Thì ta sẽ thả Chó đen này.
  4. Giáo sĩ không kinh thánh, lễ đàn,
    Lại dùng hết cả mọi tài năng
    Tế đàn vì chí ham tiền của,
    Lúc ấy ta liền thả Chó săn.
  5. Nay đã già nua, nhị lão thân
    Ðến thời tàn tạ hết ngày xuân,
    Nó không cấp dưỡng dù dư sức,
    Chống nó, ta liền thả Chó săn!
  6. Kẻ nào đối với mẹ cha già
    Nay đến lúc tàn, xuân đã qua,
    Kêu:”Các người kia, đồ ngốc dại!”
    Chống y, ta thả Chó săn ra.
  7. Khi đàn ông tán vợ người ta,
    Vợ của thầy hay của bạn nhà,
    Em của cha mình hay vợ cậu,
    Thì ta liền thả Chó đen ra.
  8. Khi mộc trên vai, kiếm dưới tay,
    Làm quân cường đạo, vũ trang đầy,
    Chiến trường giết hại, và ăn cướp,
    Ta sẽ thả ra Hắc cẩu này.
  9. Con trai bà góa dưỡng da ngà,
    Vô dụng không tài giỏi việc nhà,
    Lực lưỡng, chỉ gây trò đánh lộn,
    Thì ta sẽ thả Chó săn ra.
  10. Khi tâm người chứa rẫy ý tà,
    Những kẻ dối gian, chẳng thật thà,
    Quanh quẩn vào ra trong thế giới,
    Thì ta sẽ thả Chó đen mà.

– Những người này là kẻ thù của ta, tâu Ðại vương!

Ngài làm thể như sắp thả Chó xổ ra xé những kẻ nào làm các hành động của cừu nhân. Song trong lúc cả đám đông đang kinh hoàng, ngài cầm lấy dây xích chó, làm như thể buộc chặt nó vào chỗ đó, rồi ngài trút bỏ bộ dạng thợ săn, dùng thần lực bay lên đứng trên không, sáng rực rỡ, và bảo:

– Này Ðại vương, ta là Ðế Thích Thiên chủ, vì thấy trần gian sắp bị hủy diệt nên ta đến đây. Quả thật bây giờ người chết đọa vào các cõi khổ đầy rẫy, vì chúng làm toàn chuyện độc ác, còn thiên giới thì trống vắng. Từ nay ta sẽ biết cách trừng trị bọn gian ác, song các người phải cố gắng tinh cần.

Rồi sau khi thuyết Pháp trong bốn vần kệ đáng ghi nhớ và hướng dẫn dân chúng vào các công đức thiện sự như bố thí, ngài tăng cường uy lực của Giáo Pháp đang suy tàn để Giáo pháp được tồn tại thêm một ngàn năm nữa, rồi ngài cùng Thần Màtali trở lại cõi của ngài.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này. Ngài nói thêm:

-Này các Tỷ-kheo, như vậy ngày xưa cũng như nay, Ta đã sống vì lợi lạc của cõi đời.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời đó, Ánanda là Màtali và ta là Ðế Thích Thiên chủ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Phú Ông Keo Kiệt (Tiền thân Kosiya)

Chuyện phú ông keo kiệt sẽ được kể trong số 535. Tiền thân Thực phẩm Thiên giới (Sudhàbhojana), Tập VI.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Dê (Tiền thân Mendaka)

Chuyện con dê sẽ được kể trong số 546, Tiền thân Ðường Hầm Lớn (Mahà Ummagga). Tập VII.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vương Tử Liên Hoa (Tiền thân Mahà – Paduma)

Vua chẳng nên trừng phạt tội hình…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong khi trú tai Kỳ Viên về Ciddamànavikà (người đã vu cáo đức Phật về việc thông gian).

Khi đấng Thập Lực mới đạt Vô thượng Chánh Ðẳng Giác, sau đó chúng đệ tử này càng đông đảo, vô số chư Thiên và loài người đã được sinh lên Thiên giới, hạt duyên lành gieo rắc khắp nơi, nên Ngài được uy danh lừng lẫy và lễ vật cúng dường cao trọng. Bọn ngoại đạo tà giáo chẳng khác nào bầy đom đóm sau buổi bình minh, họ chẳng còn danh vọng, lợi dưỡng cúng dường nữa; họ liền ra giữa đường hét lớn vào đám dân chúng:

– Nay sao, Sa-môn Gotama là bậc Giác Ngộ à? Chúng ta cũng là những bậc Giác Ngộ. Chỉ có các lễ vật cúng dường cho vị ấy mới mang lại kết quả lớn sao? Những vật cúng dường cho chúng ta cũng mang lại kết quả lớn cho các ngươi. Vậy các ngươi hãy cúng dường cho chúng ta, phục vụ chúng ta nữa chứ?

Song dù họ kêu gào mãi, họ cũng chẳng hưởng được danh vọng lợi dưỡng nào cả. Sau đó họ bí mật họp nhau lại, và bàn bạc vấn kế:

– Làm thế nào ta có thể gây ô nhục cho sa môn Gotama trước mặt công chúng để chấm dứt danh vọng lợi dưỡng cúng dường của ông ấy đây?

Lúc bấy giờ tại Xá-vệ có một cô gái kia tên là Cincamànavikà, vẻ đẹp tuyệt trần, dáng kiều diễm mảnh mai, như một nữ thần, ánh sáng như tỏa ra từ thân thể nàng. Có người bày mưu kế ác độc như sau:

– Nhờ Cincamànavikà giúp sức, ta có thể gây ô nhục cho Sa-môn Gotama và chấm dứt danh vọng lợi dưỡng mà ông đang hưởng.

– Phải lắm, cả bọn đồng ý. Ta phải làm cách ấy đấy.

Khi nàng ấy đến chỗ tu hành của bọn ngoại đạo tà giáo, đảnh lễ họ rồi đứng yên, bọn tà đạo sư không nói gì với nàng cả. Nàng hỏi:

– Con có lỗi gì chăng? Con đã chào các Tôn giả ba lần rồi.

Nàng lại bảo:

– Thưa các Tôn giả, tại sao các vị không nói gì với con?

Họ đáp:

– Này chị, chị có biết Sa-môn Gotama đang du hành qua đây và làm hại chúng ta, làm mất hết mọi danh vọng và lợi dưỡng cúng dường mà chúng ta đã được hưởng trước kia chăng?

– Thưa các Tôn giả, con không biết việc đó, nhưng con có thể làm gì được?

– Này chị, nếu chị muốn chúng ta được tốt lành thì hãy tự mình gây ô nhục cho Sa-môn Gotama để chấm dứt danh vọng lợi dưỡng mà vị ấy đang hưởng.

Nàng đáp:

– Thưa các Tôn giả, được lắm, xin để việc ấy cho con đừng lo lắng gì nữa.

Nói vậy xong nàng từ giã ra đi.

Sau đó nàng dùng mọi xảo thuật của nữ nhân để đánh lừa người đời. Khi dân chúng ở Xá-vệ nghe Pháp xong và ra về từ Kỳ Viên, nàng lại thường đi về phía Kỳ Viên, khoác chiếc y nhuộm màu đỏ yên chi, tay cầm vòng hoa thơm ngát. Khi có ai hỏi nàng:

– Ði đâu vào giờ này?

Nàng thưởng trả lời:

– Các vị có liên quan gì đến việc tôi di, tôi về mà hỏi?

Nàng cứ ở lại ban đêm trong am thất của bọn tà đạo sư ấy, sát gần Kỳ Viên, rồi đến sáng sớm mai, khi các cư sĩ cận sự của Tăng chúng từ kinh thành đến đảnh lễ Tăng chúng buổi sáng, nàng thường hay gặp gỡ họ như thể nàng đã ở lại ban đêm tại Kỳ Viên rồi đi về kinh thành. Nếu có ai hỏi nàng đã ở lại nơi đâu, nàng liền trả lời:

– Tôi ở lại nơi đâu thì có việc gì đến các vị?

Song sau chừng sáu tuần lễ, nàng đáp:

– Tôi ở ban đêm tại Kỳ Viên với Sa-môn Gotama trong Hương phòng.

Các người ngoại đạo bắt đầu thắc mắc không biết việc ấy có đúng chăng. Sau chừng ba bốn tháng, nàng lại quấn nhiều lớp vải quanh bụng, làm vẻ như thể nàng đang có thai, và khoác áo choàng đỏ ra ngoài. Rồi nàng tuyên bố là nàng có thai với Sa-môn Gotama khiến cho đám người ngu si mù quáng tin theo lời. Sau chừng tám chín tháng nàng cột quanh người những miếng gỗ cuộn thành bó, khoác áo đỏ phủ lên, lấy xương hàm của bò đập vào tay chân thân thể cho sưng phồng to, và làm ra dáng mệt mỏi.

Một buổi chiều khi đức Như Lai đang ngồi trên bảo tọa thuyết Pháp, nàng bước vào giữa hội chúng, đứng trước mặt đức Như Lai và nói:

– Này Ðại sa-môn, quả thực Ngài đang thuyết Pháp cho nhiều hội chúng; giọng nói của Ngài thật êm ái, nhưng Ngài đã làm cho tiện thiếp có thai và ngày sanh đã gần kề, tuy thế Ngài không sắpđặt phòng bảo sanh cho thiếp, Ngài không cho thiếp bơ tươi hay dầu ăn gì cả. Những việc tự Ngài không muốn làm, Ngài cũng không nhờ một người cư sĩ nào làm thay thế, như vua Kosala, Ông Cấp Cô Ðộc hay nữ cận sự Visàkhà. Tại sao Ngài không bảo một người trong các vị ấy làm những việc cần cho thiếp? Ngài biết cách hưởng dục lạc, song lại không biết cách chăm sóc cái kết quả sẽ phát sinh từ đó!

Thế là nàng ta phỉ báng đức như Lai giữa đại chúng như một người cố ném bùn làm vấy bẩn mặt trăng. Ðức Như Lai ngưng thuyết giảng và thét lên như tiếng rống sư tử vang dội khắp nơi:

– Này chị, những điều chị vừa nói đúng hay sai, chỉ mình Ta và chị biết thôi.

Nàng đáp:

– Ðúng thế, quả thực vậy, việc này xảy ra như thế nào, chỉ mình Ngài và thiếp biết thôi.

Ngay lúc ấy chiếc ngai vàng của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nóng rực lên. Khi xem xét kỹ, ngài thấy rõ lý do: “Nàng Cincamànavikà đang vu cáo đức Như Lai về một việc không có thực.” Ngài quyết định làm sáng tỏ vấn đề này, liền cùng bốn Thiên thần đi đến đó. Các Thiên thần giả dạng bầy chuột đồng lập tức cắn sợi dây cột bó gỗ kia, rồi một cơn gió thổi tốc lên chiếc y đỏ nàng mặc, bó gỗ lộ ra và rơi xuống chân nàng, các ngón chân nàng đều bị đứt lìa cả. Ðại chúng la lớn:

– Một con mụ phù thủy đang vu cáo bậc Chánh Ðẳng Giác.

Ðại chúng liền khạc nhổ lên đầu nàng, lấy gậy gộc, đất đá xua đuổi nàng ra khỏi Tinh xá Kỳ Viên. Khi nàng đi khuất tầm mắt của đức Như Lai, đại địa liền há miệng ra thành một đường nứt khổng lồ, đám lửa từ dưới địa ngục thấp nhất bốc lên khiến nàng bị bao vây giữa đám lửa như thể trong chiếc hồng y hôn lễ mà đám bạn sẽ phủ lên nàng, rồi nàng rơi xuống tầng địa ngục thấp nhất, và tái sinh tại đó. Danh vọng và lợi dưỡng của đám tà sư vẫn tiêu tan, còn danh và lợi dưỡng của đấng Thập Lực lại tăng trưởng dồi dào hơn nữa.

Ngày hôm sau, Tăng chúng bàn luận trong Chánh pháp đường:

– Này hiền hữu Tỷ-kheo, cô ả Cincamànavikà đã vu cáo đức Phật Chánh Giác với công đức cao cả xứng đáng mọi lễ vật cúng dường, và cô ả đã bị đọa đày khủng khiếp!

Bậc Ðạo Sư đi vào và hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì khi ngồi tại đây. Ðại chúng trình với Ngài. Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ nữ nhân này mới vu cáo Ta rồi bị tiêu diệt thảm khốc, mà ngày xưa cũng vậy.

Nói xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta. trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát sinh làm vương tử của chánh hậu. Vì thấy dung mạo của Bồ-tát đầy đủ phước lành như đóa sen nở, vua đặt tên Ngài là Paduma-Kumara nghĩa là vương tử Liên Hoa. Khi lớn lên ngài được dạy đầy đủ mọi ngành học thuật. Lúc đó bà chánh hậu qua đời, vua lại sắc phong một vương hậu khác và phong cho ngài làm phó vương.

Sau đó vua sắp sửa lên đường đi dẹp loạn ở biên địa liền phán bảo vương hậu:

– Này ái khanh, hãy ở lại đây trong lúc trẫm đi dẹp loạn biên cương.

Song nàng đáp:

– Tâu Chúa thượng, không được đâu, thiếp không muốn ở lại mà thiếp xin đi theo hầu Chúa thượng.

Vua liền chỉ cho nàng thấy nỗi nguy hiểm ở chiến trường và nói thêm:

– Nàng hãy ở lại đây đừng lo buồn vì cho đến khi trẫm hồi cung, trẫm sẽ giao phó thái tử Paduma trọng trách chăm sóc mọi việc cần làm cho ái khanh rồi trẫm sẽ đi.

Nói vậy xong vua lên đường.

Khi ngài đã đánh tan kẻ thù, bình định đất nước, ngài trở về cắm trại ngoài kinh thành. Bồ-tát biết tin vua cha trở về liền trang hoàng kinh thành thật rực rỡ, rồi canh phòng cẩn mật cung điện, xong xuôi một mình ngài lên đường đón phụ vương. Vương hậu quan sát diện mạo khôi ngô của ngài, liền đem lòng say mê ngài. Khi giã từ vương hậu, ngài bảo:

– Tâu mẫu hậu, vương nhi có thể làm gì cho mẫu hậu được chăng?

Nàng bảo:

– Chàng gọi thiếp là mẫu hậu ư?

Rồi nàng đứng lên nắm hai tay ngài bảo:

– Chàng hãy nằm trên vương sàng của thiếp.

– Ðể làm gì? Ngài hỏi.

– Chúng ta hãy tận hưởng lạc thú ái ân cho đến khi đức vua trở về.

– Tâu mẫu hậu, mẫu hậu là mẹ của thần nhi, và mẫu hậu đang còn có phụ vương đây. Chưa bao giờ thần nhi nghe chuyện một nữ nhân, một kế mẫu, lại phá bỏ đạo lý đi theo dục lạc xác thịt như thế. Làm sao thần nhi có thể phạm tội lỗi ô uế như vậy với mẫu hậu được?

Nàng nài nỉ ngài hai ba lần, ngài vẫn từ chối, nàng liền bảo:

– Thế ngươi không chịu làm như ta bảo ư?

– Quả thật thần nhi không chịu!

– Vậy thì ta sẽ tâu trình vua cha ra lệnh chém đầu ngươi đi!

Bồ-tát bảo:

– Xin cứ làm như ý mẫu hậu.

Rồi Ngài bỏ đi, để nàng lại đó, lòng đầy hổ thẹn nhục nhã. Rồi trong lúc qua kinh hoàng, nàng suy nghĩ: “Nếu vương tử đi nói chuyện với vua cha trước ta thì ta sẽ không sống nổi đâu. Vậy chính ta phải lo nói trước với ngài.”

Thế là nàng không đụng tới các món ngự thiện, mà khoác vào chiếc hoàng y lấm lem, lại lấy móng tay cào sướt cả người, rồi ra lệnh cho cung nữ:

– Hễ giờ nào đức vua hỏi vương hậu ở đâu thì hãy tâu là lệnh bà bị bệnh.

Rồi nàng nằm xuống, giả vờ đau ốm.

Lúc bấy giờ vua uy nghi diễu quanh kinh thành theo hướng bên hữu rồi vào cung thất. Khi ngài không thấy nàng, ngài hỏi:

– Chánh hậu đâu rồi?

Chúng đáp:

– Muôn tâu, lệnh bà đang bị bệnh.

Ngài liền vào nội cung, hỏi nàng:

– Ái hậu có việc gì bất an chăng?

Nàng cứ làm như thể không nghe gì cả. Vua hỏi đến đôi ba lần nàng mới đáp:

– Tâu Ðại vương, ngài hỏi làm gì thế? Xin Ðại vương hãy im lặng: phụ nữ xuất giá đều phải chịu cảnh như thân thiếp cả.

– Ai đã làm phiền lòng ái hậu? Vua bảo: – Nói nhanh lên rồi trẫm sẽ hạ lệnh chém đầu nó.

– Thế Ðại vương đã để lại kẻ nào thay Ðại vương trong kinh thành này, khi Ðại vương ra đi?

– Vương tử Paduma.

Nàng nói tiếp:

– Và thế là vương tử vào phòng của thiếp, thiếp liền hỏi: “Này vương nhi đừng làm vậy, ta là mẫu hậu của vương nhi”.

Nhưng vương tử kêu lên: “Không ai là đức vua ở đây trừ ta. Vậy ta sẽ đưa nàng về cung thất của ta và hưởng ái ân với nàng”.

Rồi vương tử nắm lấy tóc thiếp cứ kéo nhổ ra mãi, và do thiếp không chiều theo ý vương tử nên vương tử đánh đập thiếp trọng thương rồi bỏ đi.

Vua không cần điều tra sự việc mà nổi cơn thịnh nộ lên như con mãnh xà, liền ra lệnh cho quân sĩ:

– Bây đãu đi trói vương tử Paduma rồi đem lại đây cho trẫm.

Họ liền đi đến cung thất của ngài, đông đảo lũ lượt kéo qua kinh thành, trói ngài lại, đánh đập, cột chặt hai tay ngài ra sau lưng, quấn quanh cổ ngài một vòng hoa đỏ của một tên tử tội, rồi dẫn ngài đến cung, vừa đi vừa đánh đập. Ngài biết rõ việc này là do vương hậu gây ra, nên trong khi ngài vừa đi, ngài vừa kêu lớn:

– Này các ngươi, ta không làm tội gì chống lại đức vua cả. Ta vô tội.

Cả kinh thành vang dội tin dữ: “Chúng bảo vua sắp hành hình thài tử theo lệnh một nữ nhân đấy!”

Dân chúng ùa tới quỳ dưới chân thái tử mà kêu khóc vang lừng:

– Chúa công ơi! Ngài không đáng bị trừng phạt như thế này!

Cuối cùng họ đem ngài đến trước vua. Vừa chợt thấy mặt ngài, vua không đè nén được những gìđang chất chứa trong lòng, liền kêu lớn:

– Kẻ này không phải là vua, song đã làm thế công việc của vua cha rất hoàn hảo, đó là vương nhi của ta, tuy vậy nó đã xúc phạm vương hậu. Bây hãy lôi cổ nó đi, đem thả xuống vực của bọn trộm cướp cho nó chết đi.

Nhưng vương tử tâu:

– Tâu phụ vương, con không hề phạm tội ấy. Xin đừng giết con vì lời của một nữ nhân.

Vua vẫn không nghe theo ngài, rồi toàn thể mười sáu ngàn cung phi ở chốn hậu cung đồng cất tiếng khóc than vang dội:

– Ôi vương tử Paduma thân yêu, vương tử Paduma hùng dũng, ngài không đáng bị đối xử như thế này.

Kế đó tất cả các tướng quân và các lãnh chúa, cùng các vị đại thần đều kêu lớn:

– Tâu Chúa thượng, vương tử là người hiền thiện và đức hạnh, vẫn giữ đúng truyền thống của dòng dõi ngài, là bậc kế vị trên ngai. Xin đừng giết ngài theo lời một nữ nhân mà không chịu nghe tâu trình gì cả. Phận sự một minh quân là phải hành động hết sức cẩn trọng.

Nói vậy xong, hội chúng liền ngâm bảo vần kệ:

  1. Vua chẳng nên trừng phạt tội hình
    Mà không nghe lý lẽ phân minh,
    Cũng không tự xét suy cho kỹ
    Mọi mặt, dù to, nhỏ thật tình.
  2. Tướng quân trừng phạt lỗi lầm sai
    Trước lúc đem ra xử hẳn hòi,
    Giống kẻ sinh ra mù cặp mắt,
    Ăn toàn xương xẩu lẫn đàn ruồi.
  3. Ai phạt kẻ không có tội gì,
    Ðể người có tội lọt qua đi,
    Khác gì hơn một người mù mắt
    Bụi trên đường cái quá gồ ghề.
  4. Người xét xem toàn thể sự tình
    Trong việc dù to, nhỏ thật rành,
    Cai trị nước nhà theo cách ấy
    Xứng ngôi chúa tể giữa quần sinh.
  5. Người nào ở địa vị cao sang
    Xử sự không nên quá dễ dàng,
    Cũng chẳng nên làm khe khắt quá,
    Song song thực hiện cả đôi đàng.
  6. Quá dễ dàng hay bị miệt khinh,
    Khắt khe thường nổi trận lôi đình,
    Giữa hai điều ấy cần thông hiểu
    Và giữ đường trung chính hợp tình.
  7. Người đang nổi giận, hỡi Quân vương,
    Cũng nói nhiều như kẻ bất lương,
    Và thế là đừng vì phụ nữ,
    Giết vương nhi nối dõi tông đường.

Song dù nói hết mọi cách, quần thần vẫn không thuyết phục được vua theo lời họ. Bồ-tát cũng vậy, đã dùng hết mọi lời lẽ van xin nhưng không làm vua cha nghe theo ngài; không, vua thật ngu si mù quáng phán bảo:

– Lôi cổ nó đi thả xuống vực sâu dành cho bọn trộm cướp.

Rồi vua ngâm vần kệ thứ tám:

  1. Cả nước này đang đứng một bên,
    Bên kia ái hậu một mình riêng,
    Với nàng, tuy vậy, ta khăng khít,
    Thả nó vào hang, hãy cút liền!

Nghe các lời lẽ ấy, không ai giữa đám mười sáu ngàn phi tần đứng yên được trong khi toàn thể thần dân đưa tay lên vò đầu bứt tóc và kêu than khóc lóc. Vua phán:

– Ðừng để bọn này cản trở việc quẳng tên kia xuống vực sâu.

Rồi giữa đám quần thần, và dân chúng vây quanh than khóc, vua cứ ra lệnh tóm lấy vương tử quẳng lộn nhào xuống vực sâu.

Lúc ấy vị thần trú ngụ ở trên đồi ấy dùng uy lực nhân từ an ủi vương tử, bảo:

– Hỡi Paduma, xin ngài đừng sợ hãi.

Vị thần đưa cả hai tay ra đón lấy ngài, ôm chặt ngài vào lòng mình, truyền qua thân thể ngài một niềm xúc động kỳ diệu, đem ngài vào nơi cư trú của bầy rắn gồm tám loại, dưới quyền của vị Xà vương. Vị rắn chúa đón Bồ-tát vào hang rắn, song lại chia cho ngài một nửa giang sơn vinh hiển, và ngài ở đó một năm tròn. Rồi sau đó ngài bảo:

– Ta muốn trở về cõi nhân gian.

Chúng hỏi:

– Ðến nơi đâu?

– Ðến Tuyết Sơn, nơi ta muốn sống đời tu hành.

Xà vương chấp thuận, mang ngài đi đến tận nơi có loài người đi qua lại, trao cho ngài đủ mọi vật dụng cần thiết của đời tu hành, rồi trở về chốn cũ.

Thế là ngài tiến lên vùng Tuyết Sơn, đi theo cuộc đời đạo hạnh, tu tập năng lực Thiền định đem đến an lạc, ngài ở đó nuôi sống mình bằng các thứ củ quả rừng.

Lúc bấy giớ có một người kiểm lâm ở Ba la nại, đi đến chốn ấy, và nhận ra bậc Ðại Sĩ. Gã bảo:

– Tâu Chúa công, có phải chăng ngài là thái tử Paduma vĩ đại?

Ngài đáp:

– Chính phải, thưa tôn ông.

Kẻ kia đảnh lễ ngài và ở lại chơi vài ngày. Sau đó y trở về Ba la nại, trình với vua:

– Tâu Chúa thương, thái tử đã theo cuộc đời tu hành ở vùng Tuyết Sơn, hiện đang sống trong am lá. Hạ thần đã đến tận đó ở với ngài và trở về đây.

Vua hỏi:

– Ngươi chính mắt trông thấy thái tử chăng?

– Tâu Chúa thượng, chính phải.

Vua liền cùng đám đông tùy tùng đến đó, đóng trại ở ven rừng rồi cùng vài cận thần đi đến đảnh lễ bậc Ðại Sĩ lúc ấy đang ngồi ở ngưỡng cửa am trong mọi vẻ uy nghi rực rỡ, còn vua ngồi xuống một bên; các cận thần cũng đảnh lễ ngài với lời lẽ rất thân ái, xong cùng ngồi một bên cả. Về phần bậc Ðại Sĩ, ngài mời vua dùng trái rừng và đàm đạo rất vui vẻ với vua. Sau đó vua hỏi:

– Này vương nhi, con bị ta thả xuống vực sâu, làm cách nào mà còn sống sót được?

Và vua ngâm vần kệ thứ chín để hỏi chuyện đó:

  1. Con bị thả vào miệng vực sâu,
    Bên sườn núi dựng, dốc đèo cao,
    Chẳng ai cứu giúp, rừng dừa rậm,
    Con vẫn bình an bởi cách nào?

Sau đây là những câu kệ còn lại gồm năm vần xen kẽ nhau: ba vần do Bồ-tát ngâm và hai vần do vua ngâm.

Vương tử:

  1. Một mãnh xà kia đủ lực hùng
    Sinh ra sống dưới đất trong rừng,
    Bắt con cuộn lấy trong mình rắn,
    Con được bình an, thoát tử thần.

Vua cha:

11.Cha sẽ đưa con, hỡi thiếu nhi,
Quay về cung điện của cha đi,
Con làm gì nữa trong rừng núi,
Hạnh phúc con nay sẽ trị vì.

Vương tử:

  1. Kẻ nào đã nuốt móc mồi câu,
    Khi kéo móc ra, máu đỏ trào,
    Kéo được móc rồi là hạnh phúc,
    Lòng con hỷ lạc tuyệt thanh cao.

Vua cha:

  1. Sao con nói đến móc mồi câu?
    Con nói vậy sao đến máu đào?
    Con lại nói sao về rút móc?
    Cha nay muốn biết việc kia nào?

Vương tử:

  1. Dục tham là chính móc mồi câu,
    Con nói ngựa voi, chính máu đào,
    Con rút ra nhờ lìa thế tục,
    Cha cần biết chuyện ấy, muôn tâu.

– Tâu Ðại vương, như vậy việc làm vua không có nghĩa gì đối vối con cả. Song Ðại vương phải chú tâm đừng vi phạm Thập vương pháp mà phải từ bỏ các ác nghiệp và trị dân thật chân chính.

Bậc Ðại Sĩ khuyến giáo vua cha qua những lời đó. Vua vừa than khóc vừa từ giã ra đi, và trên đường về kinh, vua hỏi các cận thần:

– Vì ai mà ta phải chia lìa với một người con đức độ như thế?

Hội chúng đáp:

– Chính vì vương hậu.

Vua liền ra lệnh băt vương hậu thả xuống vực sâu dành cho bọn trộm cướp, rồi vào thành cai trị theo đúng Chánh pháp.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, như vậy nữ nhân này đã vu cáo Ta thuở xưa, và phải chịu hủy diệt thương đau.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân bằng cách ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Kế mẫu ta là ả Cin-ca,
    Ðề-bà-đạt, ấy chính vua cha,
    Ta là thái tử Liên Hoa nọ,
    Còn vị thần non thuở ấy là
    Xá-lợi-phất giờ đây Trưởng lão,
    Thiện xà chúa nọ A-nan-đà,
    Và này Tăng chúng, Ta tuyên bố
    Kết thúc Tiền thân ấy của ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Bạn – Thù (Tiền thân Mitàmitta)

Làm sao người trí phải tinh cần…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về một vị triều thần chánh trực của vua Kosala.

Tương truyền rằng vị quan này rất có công với vua, và sau đó vua ban tặng ông vinh hiển tột bực. các vị quan khác không thể nào chịu đựng việc ấy được, nên vu cáo với vua đã làm những việc xúc phạm đến vua. Ngài cho điều tra về vị ấy và thấy ông không có lỗi gì cả, liền suy nghĩ: “Ta không thấy người này phạm lỗi gì cả, làm sao ta biết được đó là bạn hay thù?” Rồi vua lại nghĩ: “Không có ai ngoài đức Như Lai có đủ khả năng quyết đoán vấn đề này; vậy ta đi tham vấn ngài xem sao.”

Thế là sau khi điểm tâm xong, vua đến viếng bậc Ðạo Sư và thưa:

– Bạch Thế Tôn, làm sao ta có thể phân biệt một người nào là bạn hay thù của ta?

Lúc bấy giờ bậc Ðạo Sư đáp:

– Thưa Ðại vương, những người khôn ngoan ngày xưa đã suy nghĩ về vấn đề này và đã hỏi các bậc hiền trí, rồi theo lời khuyến giáo của các vị ấy mà tìm ra chân lý, lánh xa các cừu nhân và chú tâm đến các bạn lành.

Nói vậy xong, theo lời thỉnh cầu của vua, ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khu vua Brahmadatta trị vì ở Ba la nại, Bồ-tát là vị cận thần khuyến giáo vua về thế sự cũng như thánh sự.

Thời ấy, đám triều thần kia vu cáo một vị quan chính trực. Vua thấy vị ấy không có lỗi gì liền hỏi bậc Ðại Sĩ:

– Này, bằng cách nào ta có thể phân biệt bạn và thù?

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ nhất:

  1. Làm sao người trí phải tinh cần,
    Phân biệt làm sao được thực chân,
    Những việc làm nào tai mắt thấy
    Tỏ rằng kẻ ấy chính cừu nhân?

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ ngâm măn vần kệ này để giải thích các dấu hiệu của một kẻ thù:

  1. Khi ngài thăm, nó chẳng tươi cười,
    Nó chẳng tỏ ra muốn đón mời
    Nó chẳng quay nhìn theo cách ấy,
    Và trả lời không có với ngài.
  2. Kẻ thù ngài, nó lại tôn vinh,
    Bạn thiết của ngài, nó miệt khinh,
    Nó cản người khen ngài tốt đẹp,
    Những người phỉ báng, nó hoan nghênh.
  3. Nó chẳng hề tâm sự mảy may,
    Chuyện ngài tâm sự, nó phơi bày,
    Việc ngài làm, chẳng hề khen tốt,
    Cũng chẳng hề khen trí tuệ ngài.
  4. Khi ngài hạnh phúc nó không mừng,
    Ô nhục ngài mang, nó thỏa lòng,
    Nếu được món ngon, không nghĩ tới
    Tên ngài, trong dạ chẳng buồn thương,
    Cũng không kêu lớn: ô này bạn,
    Ta ước bạn ta cũng có phần!
  5. Mười sáu điều trên, cớ rõ ràng
    Cho ngài thấy được một cừu nhân,
    Nếu người có trí nào nghe thấy,
    Sẽ biết kẻ thù để nhận chân.
  6. Làm sao người trí phải tinh cần
    Phân biệt làm sao được thực chân,
    Các việc làm nào tai mắt thấy
    Tỏ ra người ấy chính thân bằng?

Khi được hỏi qua lời kệ trên, vị quan liền ngâm các vần kệ còn lại:

  1. Kẻ ấy nhớ người lúc vắng xa,
    Mừng vui khi bạn trở về nhà,
    Trong lòng hoan hỷ lên cao độ,
    Chàng cất tiếng liền đón rước ta.
  2. Chàng chẳng tôn vinh kẻ chống ngài,
    Chỉ ưa phụng sự bạn ngài thôi,
    Những ai phỉ báng, chàng ngăn cản,
    Ai tán tụng ngài, lại thấy vui.
  3. Chàng kể nhiều tâm sự với ngài,
    Chuyện ngài tâm sự, chẳng phơi bày,
    Ðề cao những việc ngài làm được.
    Khen ngợi tài năng bạn thật hay.
  4. Chàng khổ lòng khi bạn ố danh
    Chàng vui khi nghe bạn được an lành
    Nếu được gì cao lương mỹ vị,
    Chàng liền nghĩ đến bạn thân mình,
    Cảm thương ngài quá, chàng kêu lớn:
    Ta ước ao phần bạn được dành!
  5. Mười sáu điều trên ấy chứng minh,
    Rõ ràng xác định bạn thân tình,
    Nếu người có trí nào nghe thấy,
    Có thể nói ngay bạn chí thành.

Vua hoan hỷ nghe lời thuyết giảng của bậc Ðại Sĩ, nên ban tặng ngài vinh quang tột đỉnh.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Thưa Ðại vương, như vậy vấn đề này nảy sinh từ ngàn xưa và các bậc trí nhân dạy bảo: Nhờ ba mươi hai biểu hiện trên mà Ta có thể biết được bạn hay thù.

Cùng với các lời này Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda là vua và Ta chính là vị triều thần hiền trí.

Hương người đức hạnh sáng ngời nhân thiên

Sen nở tươi tốt tròn viên

Image result for hình ảnh đẹp hương sen

 Dẫu chỉ là lễ bạc lòng thành, nhưng ánh mắt Ni sư rạng ngời hạnh phúc

Image result for hình ảnh đẹp nhật bản

 Cũng nhờ khả năng sinh ngữ xứ người mà Ni sư đã giúp cho nhiều người bản xứ hiểu biết Phật pháp

Image result for hình ảnh dẹp thái lan

Tôi biết về Ni sư Thích Nữ Giới Hương như trong muôn trùng nhân duyên khác nhau

Image result for hình ảnh dẹp thái lan

Lịch sự kiện trong tháng

Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5 Thứ 6 thứ 7 Chủ nhật
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30

Tủ sách Bảo Anh Lạc

Thư viện

Pháp âm