Home Page by K2 Home Page by JSN PageBuilder

Kinh Tiểu Bộ – Khuddaka Nikàya

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tập 8 – Trưởng Lão Tăng Kệ

-ooOoo-

Mục Lục

Chương 1 – Phẩm Một Kệ Chương 12 – Phẩm Mười Hai Kệ
Chương 2 – Phẩm Hai Kệ  Chương 13 – Phẩm Mười Ba Kệ
Chương 3 – Phẩm Ba Kệ Chương 14 – Phẩm Mười Bốn Kệ
Chương 4 – Phẩm Bốn Kệ Chương 15 – Phẩm Mười Lăm Kệ
Chương 5 – Phẩm Năm Kệ Chương 16 – Phẩm Hai Mươi Kệ
Chương 6 – Phẩm Sáu Kệ Chương 17 – Phẩm Ba Mươi Kệ
Chương 7 – Phẩm Bảy Kệ Chương 18 – Phẩm Bốn Mươi Kệ
Chương 8 – Phẩm Tám Kệ Chương 19 – Phẩm Năm Mươi Kệ
Chương 9 – Phẩm Chín Kệ Chương 20 – Phẩm Sáu Mươi Kệ
Chương 10 – Phẩm Mười Kệ Chương 21 – Phẩm Bẩy Mươi Kệ
Chương 11 – Phẩm Mười Một Kệ  

***

Giới thiệu Trưởng Lão Tăng Kệ & Trưởng Lão Ni Kệ

Trưởng Lão Tăng Kệ là quyển thứ tám của Tiểu Bộ Kinh, một tập hợp 264 tích truyện trong dạng các câu kệ do các vị tỳ kheo đệ tử của Ðức Phật thuật lại về cuộc đời, công phu tu tập và tinh tấn  hành trì của quý Ngài trên đường đưa đến đạo quả A-la-hán. Trong khi đó, Trưởng Lão Ni Kệ là quyển thứ chín, gồm 73 tích truyện về cuộc đời các vị tỳ kheo ni đệ tử A-la-hán của Ðức Phật.

Qua hai quyển kinh nầy, chúng ta biết được các nỗ lực tu tập, đấu tranh nội tâm, thanh lọc tâm ý để đưa đến giác ngộ giải thoát. Cuộc đời tu hành của quý vị Tăng Ni như đã ghi lại trong hai quyển kinh là những tấm gương sáng ngời để chúng ta cùng suy gẫm và noi theo trên con đường hành đạo của mỗi người con Phật chúng ta.

Ngoài ra, các câu chuyện và vần kệ trong quyển Trưởng Lão Ni Kệ cũng là một chứng minh hùng hồn, cho thấy con đường của chư Phật mở rộng cho mọi người, không phân biệt nam hay nữ. Tấm gương dũng cảm quyết tâm tu tập để đắc đạo quả cao thượng của các vị tỳ kheo ni tiền phong trong Ni Ðoàn của Ðức Phật là một nguồn cảm hứng cho tất cả mọi người con Phật trong hơn hai ngàn năm trăm năm qua – nam cũng như nữ, già lẫn trẻ, người tại gia cũng như xuất gia. Ðạo quả A-la-hán, đạo quả giác ngộ toàn bích, mở rộng cho tất cả những ai tận lực tu học, giữ gìn giới hạnh, thanh lọc tâm ý, khai phát tuệ minh, như các vị đại đệ tử tỳ kheo và tỳ kheo ni đó.

Tỳ kheo Ariyasilo
(Bình Anson lược dịch, tháng 01-2001)

Chương I – Một Kệ

-ooOoo-

Phẩm Một

Ðảnh Lễ Ðức Thế Tôn Bậc A-La-Hán Chánh Ðẳng Giác

(I) Subhùti (Thera. 1)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong gia đình vị Cố vấn Sumana, em trai Ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc), được đặt tên là Subhùti. Trong ngày ông Cấp Cô Ðộc dâng cúng vườn Kỳ Viên cho đức Phật, ngài có chứng kiến. Sau khi nghe pháp, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Thọ Ðại giới xong, ngài thâm hiểu hai loại giới luật. Ðược Thế Tôn cho một đề tài để thiền quán, ngài đi vào rừng để hành thiền. Sau khi triển khai thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Rồi ngài bắt đầu thuyết pháp, không phân biệt giới hạn, được trở thành vị Tỷ-kheo đệ nhất về hạnh Từ vô lượng. Khi Ngài đi khất thực, ngài vẫn hành thiền, và khi xuất thiền, ngài mới nhận đồ ăn, và như vậy đem lại công đức lớn cho thí chủ và ngài trở thành vị xứng đáng được bố thí đệ nhất. Do vậy, Thế Tôn có nói: ‘Này các Tỷ-kheo, Subhùti được xem là vị Tỷ-kheo đệ nhất về hạnh từ bi vô lượng, xứng đáng được cúng dường’.

Bậc Ðại đệ tử này, trong khi đi khất thực đi đến Vương Xá, vua Bimbisàra (Bình-sa) nghe ngài đến, liền đến kính chào và xin dựng một chỗ ở cho ngài, nhưng rồi vua quên, ngài không nhận được chỗ ở, nên hành thiền ngoài trời. Vì thái độ nghiêm túc của ngài, trời không mưa và do vậy nạn hạn hán đe dọa dân chúng, quần chúng tụ họp than phiền ồn ào trước hoàng cung. Vua tìm hiểu nguyên nhân vì sao trời không mưa và nghĩ rằng có lẽ vì ngài Subhùti hành thiền ngoài trời. Vua cho làm các am thất bằng lá cho ngài, và khi ngài vào ngồi thiền trong am thất ấy, trời bắt đầu mưa từng hột một chớ không mưa ào ào. Ngài muốn quần chúng khỏi sợ hạn hán, tuyên bố rằng, không có sự sợ hãi gì đe dọa ngài, từ phía ngoài hay từ phía trong, với những bài kệ như sau:

  1. Am thất ta khéo lợp,
    An lạc, ngăn chận gió,
    Thần mưa, hãy mưa đi,
    Mưa như ý Ngươi muốn!
    Tâm ta khéo định tĩnh,
    Giải thoát, sống tinh cần,
    Thần mưa, hãy mưa đi!
    Thần mưa, hãy mưa đi!

(II) Mahàkotthita (Thera. 1)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn rất giàu có và được đặt tên là Kotthita (Câu-hy-la). Khi đến tuổi trưởng thành, ngài học ba tập Veda và thành tựu các đức tánh của vị Bà-la-môn, ngài nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, khởi lòng tin và xuất gia. Thực hiện thiền quán từ khi mới xuất gia, ngài chứng quả A-la-hán, với hiểu biết về nghĩa và về pháp, ngài thường hỏi bậc Ðạo Sư và các vị Ðại Trưởng lão về hai vấn đề ấy và trở thành rất lão luyện thuần thục. Rồi bậc Ðạo Sư, sau khi xác nhận các quả chứng ngài đã được trong kinh Vedalla, xác nhận ngài là bậc thiền quán đệ nhất.

Sau một thời gian, ý thức được sự an lạc giải thoát, ngài nói lên bài kệ này:

  1. Tịch tịnh và chỉ tức,
    Tụng đọc lời trí tuệ,
    Tâm tư không tháo động,
    Ác pháp được vứt bỏ,
    Giống như những lá cây,
    Bị gió thổi phiêu bạt.

(III) Kankha-revata (Thera. 2)

Trong thời đức Phật hiện tại ngài sanh vào trong một gia đình giàu có ở Sàvatthi. Khi ngài đứng vào vòng ngoài của những người đứng nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Ngài chứng quả A-la-hán nhờ hành thiền, ngài trở thành lão luyện trong thiền định và bậc Ðạo Sư tuyên bố ngài là hành thiền đệ nhất.

Sự nghiệp đã thành tựu, ngài nghĩ đến sự nghi ngờ lấn chiếm tâm tư, và nay nghi ngờ đã được đoạn tận, ngài tán thán sức mạnh và trí tuệ của bậc Ðạo Sư, nhờ vậy nay tâm tư ngài được định tĩnh và kiên trì. Ngài nói:

  1. Hãy thấy trí tuệ này
    Của những bậc Như Lai,
    Như lửa cháy nửa đêm,
    Cho ánh sáng, cho mắt,
    Họ nhiếp phục nghi ngờ
    Cho những ai đi đến.

(IV) Punna Mamtàniputta (Thera. 2)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh vào một gia tộc Bà-la-môn, trong làng Bà-la-môn Donavatthu, không xa Kapilavatthi (Ca-tỳ-la-vệ). Ngài là con trai của người chị của Trưởng lão Kondanna và được đặt tên là Punna. Sau khi làm tròn bổn phận của một người Sa-di, ngài tinh tấn nỗ lực cho đến khi chứng được quả cao nhất. Rồi ngài đi với người cậu ngài đến sống gần bậc Ðạo Sư, từ bỏ miền phụ cận Kapilavatthu, chuyên tâm tu hành, không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán.

Ngài Punna có đến năm trăm đồ chúng cùng ở trong gia tộc ngài, và tất cả đều xuất gia. Vì ngài giỏi về mười căn bản của thuyết giảng, ngài dạy cho các đệ tử của ngài lão luyện về mười căn bản này cho đến khi các vị này chứng quả A-la-hán. Các đệ tử ngài yêu cầu ngài đưa họ đến yết kiến bậc Ðạo Sư, nhưng ngài nghĩ không nên đi với số đồ chúng như vậy, liền bảo họ đi trước còn ngài đi sau. Các vị ấy là đồng hương với đức Phật, đã đi bộ sáu mươi do tuần đến Vương Xá, đến tại ngôi tịnh xá Trúc Lâm và đảnh lễ bậc Ðạo Sư. Ðức Phật hỏi ai đồng hương với Ngài có thể giảng được về đời sống giản dị, và các vị này giới thiệu ngài Punna. Khi bậc Ðạo Sư đi từ Vương Xá đến Sàvatthi, ngài Punna cũng đi đến Sàvatthi, tại đây ngài được dạy về Chánh pháp. Rồi ngài đi vào rừng Andha để suy tư về Chánh pháp. Tôn giả Sariputta cũng đi theo vào rừng và đàm đạo Chánh pháp với Punna. Bậc Ðạo Sư tuyên bố Punna là bậc thuyết pháp đệ nhất.

Một hôm, suy tư trên sự giải thoát chứng đạt, ngài suy tư như sau: ‘Ðối với ta và nhiều vị khác đã thoát khỏi đau khổ, thật là giúp đỡ lớn nếu thân cận với bạn lành’. Với sự hoan hỷ phấn khởi, ngài nói lên bài kệ này:

  1. Hãy thân cận người hiền,
    Bậc hiền minh thấy nghĩa,
    Nghĩa lớn và thâm sâu,
    Khó thấy, tế, tế nhị,
    Bậc trí chứng đạt được,
    Không phóng dật, chủ tâm.

(V) Dabba (Thera. 2)

Ngài sanh ra trong gia đình của dân tộc Mallà ở Anupiyà. Khi mới bảy tuổi, ngài được thấy bậc Ðạo Sư khi Thế Tôn viếng thăm xứ sở và nhà của ngài.

Ngài bị ảnh hưởng đến nỗi ngài xin phép bà nội cho được xuất gia với bậc Ðạo Sư, mẹ ngài đã mất khi sanh ngài. Bà nội ngài đưa ngài đến yết kiến đức Phật và đức Phật giao cho một Tỷ-kheo làm lễ xuất gia cho ngài. Ngài với nghiệp nhân quá khứ với ước vọng tương lai đang chín muồi, nên chứng được bốn quả liên tiếp chính trong khi ngài được cạo tóc.

Khi bậc Ðạo Sư từ giã xứ Mallà để đi về Vương Xá, Dabba thiền quán một mình, và muốn dùng thân để phục vụ giáo hội và nhận công việc phân phối chỗ ngủ, tổ chức các buổi ăn. Bậc Ðạo Sư chấp nhận công việc làm này, xác nhận sự thành công của ngài, khả năng thần thông của ngài, với ngón tay chói sáng của mình soi sáng cho các đồng Phạm hạnh về chỗ ngủ. Các sự việc này được nói đến trong Luật tạng.

Khi bị các Tỷ-kheo theo phe với Mettiya và Bhummajika vu khống, làm hại và ngài được giáo hội che chở và biện minh, Tôn giả Dabba ý thức được lòng từ của mình đối với các vị khác, liền nói lên bài kệ như sau:

  1. Ai thật khó nhiếp phục,
    Nay đã được nhiếp phục,
    Dabba tự biết đủ,
    Nghi ngờ được vượt qua,
    Thắng trận, không sợ hãi,
    Dabba trú tịch tịnh.

(VI) Sìla- Vaniya (Thera. 2)

Ðây là bài kệ của Trưởng lão Sambhùta, ngài được sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con trai một Bà-la-môn có danh tiếng, tên là Sambhùta. Với ba người bạn Bhùmija, Jeyyasena và Abhiràdana. Ngài nghe Thế Tôn thuyết pháp và ngài xuất gia. Khi đang tu tập thiền quán thân bất tịnh, ngài ở luôn luôn tại Sitavana (rừng mát) và được gọi là Sitavaniya (vị ở rừng mát).

Khi thấy các Tỷ-kheo đang đi đến yết kiến đức Phât, ngài nói: ‘Thưa các Hiền giả, các Hiền giả hãy đảnh lễ bậc Ðạo Sư thay mặt tôi và thưa với bậc Ðạo Sư như sau:

  1. Có Tỷ-kheo đi đến
    Rừng Sitavana,
    Sống một mình, độc cư,
    Biết đủ, tâm nhập định,
    Thắng trận, không kinh hoàng,
    Kiên trì hộ thân niệm’.

(VII) Bhalliya (Thera. 2)

Với người anh là Tapussa, trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở thành Pokkharavatì, con một người đánh xe cho đoàn lữ hành. Khi đoàn lữ hành đi ngang một khu rừng có bóng mát một đoạn đường bùn lầy ngăn đoàn lữ hành lại. Một vị thần cây, là người bà con hiện ra và nói: ‘Thế Tôn vừa mới thành đạo và đang ngồi thiền bảy ngày dưới gốc cây. Hãy cúng dường đồ ăn. Như vậy, các người được hạnh phúc và lợi ích’. Cả lữ đoàn hoan hỷ, không chờ nấu cơm, đem bánh gạo và mật đến cúng dường Thế Tôn.

Khi Thế Tôn chuyển pháp luân ở Benares, Thế Tôn đi đến Vương Xá. Ở đây, Tapussa và Bhalliya hầu hạ Ngài và nghe pháp, Tapussa trở thành một cư sĩ, còn Bhalliya thời xuất gia và thành tựu được sáu thắng trí.

Một ngày kia, Ác ma hiện ra dưới hình thức cực kỳ kinh hoàng, nhưng Bhalliya đã vượt qua mọi sợ hãi, nên nói lên bài kệ như sau, khiến Ác ma phải thất vọng:

  1. Ai đuổi đi thần chết,
    Với đạo binh của nó,
    Những dòng nước lớn mạnh,
    Trói cây lau yếu ớt,
    Thắng trận, không sợ hãi,
    Nhiếp phục, trú tịch tịnh.

(VIII) Vìra (Thera. 2)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ) trong gia đình vị bộ trưởng vua Pasenadi (Ba-tư-nặc), và được gọi là Vìra. Ngài rất giỏi về thể thao và võ nghệ, và trở thành một chiến sĩ. Sau khi lập gia đình với sự bằng lòng của mẹ cha, ngài có một đứa con trai. Thấy sự khổ lụy, tiếp tục tái sanh, ngài xuất gia và nhiệt tâm tinh cần, ngài chứng được sáu thắng trí. Khi đã thành vị A-la-hán và sống thọ hưởng an lạc giải thoát, vợ của ngài muốn cám dỗ ngài trở về với gia đình bằng nhiều hình thức. Nhưng Tôn giả nói rằng: ‘Người đàn bà này muốn cám dỗ ta, không khác gì người muốn xô ngã núi Sineru với cánh một con ruồi’. Và ngài thuyết lên bài kệ này để nói rằng sự cám dỗ của vợ cũ của ngài thật là vô ích:

  1. Ai thật khó nhiếp phục
    Nay đã được nhiếp phục,
    Vìra tự thỏa mãn,
    Nghi ngờ được vượt qua,
    Thắng trận, không kinh hoàng,
    Vìra trú tịch tịnh.

Người đàn bà nghe ngài nói rất lấy làm xúc động và nghĩ rằng: ‘Chồng ta đã thành đạt thù thắng như vậy. Vậy đời sống gia đình có gì là tốt đẹp cho ta’. Rồi đi đến tịnh xá các Tỷ-kheo-ni xin được xuất gia và chứng được ba minh.

  1. Pilinda-Vaccha (Thera. 2)

Ngài sanh ở Sàvatthi, là con một Bà-la-môn, trước khi Thế Tôn thành đạo và được đặt tên là Pilinda. Vaccha là tên của dòng họ. Ngài trở thành một ẩn sĩ và được một bùa phép tên là Tiểu Gandhàra (có thể đi trên hư không và tha tâm thông) và nhờ vậy được nổi danh. Khi đức Phật thành đạo, bùa phép này không còn hiệu lực. Khi ngài nghe được bùa phép Ðại Gandhàra làm bùa phép tiểu Gandhàra mất hiệu lực, ngài kết luận Sa-môn Gotama biết được bùa phép Ðại Gandhàra và ngài đến hầu hạ đức Phật để học cho được bùa phép ấy, đức Phật dạy: ‘Phải xuất gia’, ngài tưởng rằng xuất gia là điều kiện để chứng được bùa phép nên vâng lời theo. Ðức Phật dạy ngài Chánh pháp và phương pháp thiền quán, chẳng bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Nhờ sự hướng dẫn của Pilinda trong một đời trước, được sanh làm chư Thiên, vị này hầu hạ ngài sớm chiều để tỏ lòng biết ơn. Do vậy, ngài được xem là vị Tỷ-kheo được chư Thiên ái kính, và được đức Phật xác nhận cho địa vị ấy.

Một hôm, Tôn giả Pilinda ngồi giữa hội chúng Tỷ-kheo, suy tư đến sự thành tựu của mình, tuyên bố cho chúng biết bùa phép ấy đã đưa ngài đến gặp Thế Tôn và nói lên bài kệ này:

  1. Lời khuyên đến, tốt lành!
    Lời không tốt, không đến!
    Lời khuyên đến với ta,
    Không thuộc về tà ác!
    Giữa các pháp phân biệt,
    Ta đến pháp tối thượng.

(X) Punnamàsa (Thera. 3)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh làm con của Samiddhi, một Bà-la-môn ở Sàvatthi, ngài xuất gia được khi sanh được đứa con trai, thọ giới dưới sự hướng dẫn của đức Phật, và lấy bốn sự thật làm đề tài để thiền quán và ngài chứng được quả A-la-hán. Vợ cũ của ngài tìm cách cám dỗ ngài, trang điểm rất đẹp mắt đến thăm ngài, và đem theo đứa con trai. Nhưng ngài hoàn toàn giải thoát, không còn vướng bận gì và nói lên bài kệ này:

  1. Ta sống không mong chờ,
    Ðời này hay đời sau,
    Vị đã đạt trí tuệ,
    An tịnh, tự chế ngự,
    Không dính nhiễm các pháp,
    Biết sanh diệt của đời.

Vợ của ngài nghĩ rằng: ‘Vị Trưởng lão này không để ý gì đến ta và con ta nữa, ta không thể cám dỗ ngài’ nên nàng bỏ đi.

Phẩm Hai

(XI) Cùlagavaccha (Thera. 3)

Ngài sanh là vị Bà-la-môn ở Kosambi, nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài xuất gia. Lúc bấy giờ các Tỷ-kheo ở Kosambi tranh cãi nhau, Cùlagavachha không theo phe phái nào, trung thành với lời dạy của bậc Ðạo Sư, phát triển trí tuệ và chứng quả A-la-hán. Thấy sự tranh cãi các Tỷ-kheo là nguyên nhân của sự thối thất, ngài hoan hỷ với thái độ không phe phái của mình và nói lên bài kệ:

  1. Tỷ-kheo nhiều hân hoan,
    Trong pháp Phật tuyên bố,
    Ðạt được đạo tịch tịnh,
    Hành dừng lại an lạc.

(XII) Mahàgavaccha (Thera. 3)

Ngài sinh ra trong thời đức Phật tại thế, làm con của Sammiddhi, một Bà-la-môn ở làng Nàlaka, Magadha. Ngài xuất gia vì Sàriputta đã xuất gia, và ngài biết Sàriputta rất sáng suốt. Sau khi chứng quả A-la-hán, và thọ hưởng lạc giải thoát, ngài nói lên bài kệ để khích lệ các đồng Phạm hạnh tinh cần tu tập:

  1. Trí tuệ lực, giới hạnh,
    Ðịnh, thiền lạc, chánh niệm,
    Chỉ ăn những món ăn
    Ðem lại quả tốt đẹp,
    Ở đây, tham viễn ly,
    Chờ đợi giờ mạng chung.

(XIII) Vanvaccha (Thera. 3)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu. Ngài sanh ra trong rừng, khi mẹ ngài đi vào rừng viếng cảnh, và sanh tại đấy. Ngài trở thành một trong những đứa trẻ chơi cát với đức Phật trong tương lai. Vì ngài thích rừng núi, ngài được biết với tên là Vanavaccha. Về sau, khi ngài xuất gia, ngài sống trong rừng tinh tấn tu hành và chứng quả A-la-hán. Ðể tán thán hạnh ở rừng, ngài nói lên bài kệ này, đáp lời vị đồng Phạm hạnh đã hỏi ngài: ‘Ngài thích thú gì ở rừng núi?’ Ngài đáp: ‘Thích thú thay, các ngôi rừng các ngọn núi!

  1. Ðẹp sắc, mây xanh biếc,
    Nước mát lạnh, chảy trong,
    Kẻ chăn bò Inda,
    Che kín cả ngôi rừng,
    Những ngôi núi đá ấy,
    Làm hân hoan tâm ta’.

(XIV) Sìvaka (Thera. 3) (Một Sa-di phục vụ cho Vanavaccha).

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con người chị của Vanavaccha. Khi mẹ ngài được tin Vanavaccha xuất gia, thọ Ðại giới, đã sống trong rừng. Mẹ ngài nói với ngài: ‘Này Sìvaka, con hãy xuất gia dưới sự chỉ dẫn của Vanavaccha và phục vụ cho ngài, vì nay ngài đã già!’. Ngài nghe theo lời mẹ xuất gia sống ở trong rừng phục vụ săn sóc Vanavaccha. Một hôm, khi đi đến gần làng, ngài bị đau nặng; khi thuốc không chữa được, ngài không về và Trưởng lão Vanavaccha đi tìm và thấy ngài bị đau. Sau khi cho ngài uống thuốc và săn sóc ngài, khi bình minh mới bắt đầu, vị Trưởng lão nói với ngài: ‘Này Sìvaka, từ khi ta xuất gia, ta không sống ở trong làng. Vậy chúng ta hãy đi vào rừng’. Sìvaka trả lời: ‘Dầu thân con ở trong làng, nhưng tâm con bao giờ cũng hướng về rừng núi. Vậy nay con tuy nằm ở đây, con sẵn sàng đi vào rừng’. Vị Trưởng lão cầm tay ngài, dắt ngài đi vào rừng, khích lệ ngài. Ngài nhờ sự khích lệ này, tự mình sách tấn và chứng quả A-la-hán.

Rồi ngài nói lên bài kệ của mình hợp chung lời vị Trưởng lão và lời mình, nói lên sự ưa thích sống viễn ly và quả chứng của mình, sự vâng lời thầy của mình và chứng đắc chánh trí:

  1. Thầy ta nói với ta,
    ‘Hãy đi, Sìvaka!’
    Thân ta sống ở làng,
    Nhưng tâm hướng về rừng,
    Dầu còn nằm ta đi,
    Người biết, không trói buộc.

(XV) Kunda Dhàna (Thera. 3)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con một Bà-la-môn và được gọi là Dhàna. Thuộc lòng ba tập Vệ-đà, sau khi đã lớn tuổi, ngài nghe đức Phật thuyết pháp và xuất gia. Khi vua Pasenadi nước Kosala để ý đến ngài, cúng dường ngài các đồ dùng cần thiết nên ngài khỏi phải đi khất thực. Khi nàng Subhaddà mời bậc Ðạo Sư và chúng Tỷ-kheo dùng cơm, lúc ấy Kunda Dhàna mới chứng tỏ quả chứng và sức mạnh của mình như đã được ghi chép trong tập sớ Anguttara Nikàya. Ngài nói lên các bài kệ này cho các vị Tỷ-kheo:

  1. Năm pháp Thầy cắt đứt,
    Năm pháp Thầy từ bỏ,
    Và năm pháp thượng nhân,
    Thầy cố gắng tu tập,
    Tỷ-kheo vượt năm ái,
    Ðược gọi là ‘vượt bộc lưu’.

(XVI) Belatthasìsa (Thera. 3)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn. Trước khi đức Phật thành đạo, ngài đã xuất gia theo giáo đoàn của Kassapa ở Uruvelà và thờ lửa. Khi Kassapa được đức Phật giáo hóa, ngài là một trong ngàn người đệ tử của Kassapa chứng được quả A-la-hán, khi nghe đức Phật giảng kinh Adittápariyàyàsutta (Kinh Lửa Cháy).

Sau ngài trở thành vị giáo thọ của Tôn giả Ananda. Một hôm, nghĩ đến sự an lạc thuần tịnh của quả chứng, và sự tu hành ban sơ của mình, ngài nói lên bài kệ diễn tả sự hân hoan của ngài:

  1. Như vật hiền giống tốt
    Với sừng, kéo cái cày,
    Ði đứng không mệt nhọc,
    Cũng vậy, ta ngày đêm,
    Ði đứng không mệt nhọc,
    Ðược lạc không thế vật.

(XVII) Dàsaka (Thera. 4)

Do nghiệp của mình, ngài sanh vào thời dức Phật hiện tại, con của một người nô lệ của Anàthapindika, và được giao việc gác cửa vào tịnh xá Jetavana. Ðược nghe đức tánh và nguyện vọng của ngài, ông Anàthapindika giải thoát cho ngài khỏi vòng nô lệ và ngài nói ngài sẽ sung sướng nếu được xuất gia. Do vậy, ngài được xuất gia ngay. Nhưng khi được xuất gia, ngài trở thành biếng nhác, thụ động, tiêu cực, không chịu cố gắng để thoát khỏi sanh tử, và ngủ quá nhiều sau các bữa ăn. Khi đến thời thuyết pháp, ngài lựa một chỗ ngoài vòng Tăng chúng, tìm một góc và ngồi ngáy. Thế Tôn nghĩ đến việc làm trước của ngài, nên nói lên bài kệ này để khích lệ ngài:

  1. Ai hôn trầm, ăn nhiều,
    Nằm ngủ, lăn qua lại,
    Như heo lớn, ăn no,
    Kẻ ngu tiếp thai sanh.

Khi nghe vậy, Dasaka trở thành dao động hốt hoảng và phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Rồi ngài suy nghĩ: ‘Bài kệ của Thế Tôn đã khích lệ ta nhiều’ và ngài nói lại bài kệ này. Như vậy, dầu cho bài kệ chống đối ăn nhiều, bài kệ trở thành lời tuyên bố về chánh trí của ngài.

(XVIII) Singàlar-Pitar (Thera. 5)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong gia đình giàu có ở Sàvatthi, lập gia đình và đặt tên con là Singàlaka và tự mình được gọi là Singàla-pitar (cha của Singàla). Về sau ngài từ bỏ gia đình và xuất gia. Thế Tôn biết được căn cơ xu hướng của ngài, dạy ngài đề tài thiền quán là bộ xương người. Dùng đề tài này để thiền quán, ngài sống giữa các dòng họ Thích-ca ở Sumsumàragira, tại khu rừng Bhesaskalà. Trong rừng ấy, một thần rừng biết được ngài sẽ chứng được Thánh quả nên nói lên bài kệ này:

  1. Hãy nhìn trong khu rừng,
    Rừng Bhesakala!
    Một Tỷ-kheo đang sống,
    Thừa tự lời Phật dạy,
    Ngang thân địa đại này,
    Tỏa khắp tưởng bộ xương.
    Ta nghĩ Tỷ-kheo ấy,
    Mau đoạn tận dục tham.

Nghe bài kệ này, vị Trưởng lão nghĩ rằng: ‘Vị thần rừng này muốn ta cố gắng tu tập’, nên ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Về sau, ngài nhớ lại bài kệ của thần rừng này và nói lên lại bài kệ ấy như là lời tuyên bố về chánh trí của ngài.

(XIX) Kula (Thera. 4)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn, xuất gia và vì tâm tư chưa được thăng bằng, ngài không chú tâm được trên một đề tài nhất định. Một ngày kia đi khất thực, ngài thấy người dẫn nước bằng cách đào cách kinh dẫn nước. Trong thành phố, ngài thấy người làm cung tên uốn nắn cung tên bằng nheo một con mắt như thế nào, và khi trở về với bình bát đầy đồ ăn, ngài thấy những người làm xe sửa soạn trục xe, bánh xe và vành xe như thế nào. Bước vào tịnh xá, dùng cơm xong, khi đang nghỉ trưa, ngài nghĩ đến ba phương pháp nhiếp phục này, và lấy chúng làm khích lệ và dùng chúng để tự mình tu tập, không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Liên hệ những bài học này với sự tu tập tâm của mình, ngài nói lên lời chánh trí với bài kệ như sau:

  1. Người trị thủy dẫn nước,
    Kẻ làm nên nắn tên,
    Người thợ mộc uốn gỗ,
    Bậc tự điều, điều thân.

(XX) Ajita (Thera. 4)

Khi bậc Ðạo Sư còn sống, ngài được sanh ở Sàvatthi con của một Bà-la-môn làm nghề đánh giá hàng hóa cho vua Kosala. Ngài trở thành một ẩn sĩ tu theo Bàvari, một vị Bà-la-môn có học thức ở vườn Kapittha trên bờ sông Godhàvarì. Bàvarì bảo ngài cùng với Tissa và Metteya đi đến bậc Ðạo Sư. Ajita được đức Phật cảm hóa, và xuất gia. Lựa một đề tài để thiền quán, ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Ngài nói lên sự thắng trận của ngài với bài kệ này:

  1. Ta không có sợ chết,
    Không ưa thích sanh mạng,
    Ta sẽ bỏ thân này,
    Tỉnh giác và chánh niệm.

Phẩm Ba

(XXI) Nigrodha (Thera. 4)

Trong lời đức Phật tại thế, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn có danh tiếng ở Sàvatthi. Khi tinh xá Jetavana được dâng cúng đức Phật, trông thấy tướng tốt uy nghiêm của đức Phật, ngài được cảm hóa và xuất gia. Khi phát triển thiền quán, ngài có thể đạt được sáu thắng trí, suy tư đến sự an lạc quả chứng, sự lợi ích của giáo pháp giúp thoát khỏi tái sanh, ngài nói lên bài kệ này để tuyên bố chánh trí của ngài:

  1. Ðối với ta, sợ hãi
    Không làm ta sợ hãi,
    Thâm hiểu đạo bất tử,
    Bậc Ðạo Sư chúng ta
    Không tìm được chân đứng,
    Ở đâu, sự sợ hãi,
    Chỗ ấy vị Tỷ-kheo
    Dẫn bước trên đường ấy.

(XXII) Cittaka (Thera. 4)

Ngài sanh ở Ràjagaha, con một gia đình Bà-la-môn giàu có. Khi bậc Ðạo Sư ở vườn Trúc Lâm, Cittaka đến nghe đức Phật thuyết pháp, khởi lòng tin và xuất gia. Lựa giới luật làm đề tài tu tập, ngài vào một khu rừng và tu tập thiền định, với thiền quán khai triển, ngài chứng quả A-la-hán. Rồi ngài đi đến đảnh lễ đức Phật, được các vị đồng Phạm hạnh hỏi ngài có tinh tấn tu hành khi ở trong rừng không, ngài trả lời có và với bài kệ này, ngài nói lên chánh trí của ngài.

  1. Chim công, màu xanh biếc,
    Cổ đẹp, có màu tươi,
    Ðang gọi nhau trong rừng,
    Rừng Kà-ram-vi-yà,
    Với gió mát tiếng trong,
    Chúng gọi và thức dậy,
    Vị hành thiền đang ngủ.

(XXIII) Gosàla (Thera. 5)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Magadha giàu có, ngài có quen với Sonakutikanna. Khi được biết Sonakutikanna xuất gia, ngài bị dao động và suy nghĩ: ‘Vị ấy có tài sản lớn mà còn xuất gia, sao ta lại không làm theo?’. Rồi ngài xuất gia, dùng giới luật làm đề tài thiền quán và tìm một chỗ thích hợp, ngài lựa một cao nguyên không xa làng sanh quán. Mẹ ngài ngày nào cũng bố thí cúng dường. Một hôm cúng cho ngài cháo, cơm nấu với mật và đường, ngài nhận đồ cúng dường, ngồi ăn dưới bóng một ngọn đồi có tre mọc dày. Với tay và bát rửa sạch, được ăn một bữa ăn thích hợp, ngài phát tâm thiền quán và chú tâm vào vấn đề sanh diệt các pháp, đạt được thiền định cao nhất, chứng quả A-la-hán, với hiểu biết về nghĩa, về pháp. Ngài muốn đi lên ngọn đồi để hưởng an lạc thiền vị, ngài nói lên kinh nghiệm của ngài với bài kệ:

  1. Ta ăn tại khóm trúc,
    Với cháo cơm và mật,
    Ta chấp nhận toàn diện,
    Lời dạy bậc đáng kính,
    Tánh sanh diệt các uẩn,
    Ta sẽ lên ngọn núi,
    Tăng trưởng hạnh viễn ly.

(XXIV) Sugandha (Thera. 5)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình giàu có ở Sàvatthi. Vì lời phát nguyện trong quá khứ, khi ngài sanh ra, hương thơm tỏa khắp nhà, do vậy được đặt tên là Sugandha (hương thơm). Khi đến tuổi trưởng thành, ngài được khuyến khích xuất gia, khi nghe Trưởng lão Mahà Sela thuyết pháp; sau bảy ngày, ngài chứng quả A-la-hán. Nói lên chánh trí của mình, ngài thuyết bài kệ này:

  1. Xuất gia, mùa mưa qua,
    Thấy pháp tánh các pháp,
    Ba minh chứng đạt được,
    Làm xong lời Phật dạy.

(XXV) Nandiya (Thera. 5)

Ngài được sanh ở Kapilavatthu, trong nhà một vương tộc Thích-ca, và cha mẹ ngài nói: ‘Con ta sanh đem lại hoan hỷ trong nhà’ và đặt tên ngài là Nandiya. Lớn lên, ngài xuất gia, khi Anuruddha và các bạn đều xuất gia. Nhờ chú tâm học tập và lời phát nguyện quá khứ, ngài chứng quả A-la-hán. Rồi ngài sống với Trưởng lão Anuruddha và các bạn tại rừng Trúc phía Ðông. Tại đấy, Ác-ma muốn làm ngài sợ hãi, hiện ra trong hình thù rất dễ sợ, nhưng ngài đuổi Ác–ma đi với những lời như sau: ‘Này Ác-ma, Ngươi làm gì với những người đã vượt qua cảnh giới của ngươi. Do vậy, Ngươi chỉ gặp thất bại và bất hạnh’.

  1. Với ai, tâm thường hằng,
    Hướng mạnh về Chánh pháp,
    Pháp phát sanh hào quang,
    Pháp đạt đến Thánh quả,
    Vị Tỷ-kheo như vậy,
    Nếu Nhà ngươi muốn chống,
    Hỡi này kẻ Quỷ đen!
    Ngươi đi đến đau khổ.

(XXVI) Abhaya (Thera. 5)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh là con vua Bimbisàra (Bình-sa). Giáo chủ Nàtaputta dạy ngài một mưu chước để đánh bại Sa-môn Gotama trong cuộc tranh luận, nhưng trong câu trả lời của Sa-môn Gotama, ngài thấy sự thất bại của giáo chủ phái Ni-kiền Tử và sự sáng suốt của Sa-môn Gotama. Do vậy, sau khi vua từ trần, Abhaya xuất gia. Nhờ giảng kinh Ví dụ cái lỗ trong cây gỏ, ngài chứng quả Dự lưu. Rồi với sự cố gắng tinh cần, ngài chứng quả A-la-hán. Do vậy, phấn khởi trước thành quả đạt được, ngài nói lên chánh trí của ngài:

  1. Nghe được lời khéo giảng,
    Bậc bà con mặt trời,
    Ta đâm thủng tinh vi,
    Như tên chẻ ngọn tóc.

(XXVII) Lomasakangìya (Thera. 5)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu, trong một gia đình họ Thích-ca. Ngài rất yếu đuối và thân ngài có lông mịn nên được gọi là Lomasakangiya.

Khi Anuruddha và một số hoàng tử trẻ Sakya xuất gia, ngài không theo. Rồi Candana, một người bạn cũ thời trước, hỏi về ‘Nhứt dạ hiền giả – Bhaddekaratta’, ngài trả lời không được và đến hỏi đức Phật. Ðức Phật khuyên ngài xuất gia và về xin phép cha mẹ. Khi mẹ ngài sợ ngài yếu đuối, ngài trả lời với bài kệ như sau:

  1. Cỏ dabba, kusa,
    Các loài cỏ đâm ngực,
    Loài cỏ tên munja,
    Cỏ tên pabbaja.
    Từ nơi ngực của ta,
    Ta sẽ đẩy chúng lui,
    Ta sẽ làm tăng trưởng,
    Hạnh cô độc viễn ly.

Nghe xong, mẹ ngài bằng lòng để ngài xuất gia, và được phép bậc Ðạo Sư cho xuất gia. Sau thời gian học tập, ngài muốn đi vào rừng để thiền quán. Các Tỷ-kheo ngăn lại, nói ngài yếu đuối làm sao sống trong rừng núi được. Ngài lập lại bài kệ này và đi vào rừng tu thiền, chứng sáu thắng trí. Khi ngài chứng quả A-la-hán, ngài tuyên bố chánh trí của ngài với bài kệ nói trên.

(XXVIII) Con Trai Của Jambugàmika (Thera. 5)

Ngài sanh ở Campà, con một cư sĩ tên Jambugàmika, và được gọi với tên cha. Khi học tập hạnh Sa-di, ngài ở Sàketa, tại rừng Anjana, cha ngài sợ ngài không bền chí xuất gia, nên gửi ngài bài kệ để tìm hiểu ngài:

  1. Con có được thỏa mãn,
    Với y phục mang mặc?
    Con có được hoan hỷ,
    Với trang sức điểm tô?
    Và mùi hương thơm này,
    Do giới con tỏa ra,
    Chớ không do người khác
    Tạo mùi thơm như vậy!

Khi ngài đọc bài kệ này, ngài nghĩ rằng phụ thân ngài nghi ngờ ngài còn đang bị thế tục chi phối, và ngài cũng chưa thoát khỏi địa vị phàm phu. Do vậy, ngài cảm thấy xúc động, liền phát tâm tinh tấn tu hành và không bao lâu chứng được sáu thắng trí. Với bài kệ của người cha làm đề tài thiền quán, cuối cùng ngài chứng quả A-la-hán. Và vừa để nói lên chánh trí, vừa tán thán người cha, ngài nói lên bài kệ.

(XXIX) Hàrita (Thera. 5)

Sanh ra trong thời đức Phật hiện tại ở Sàvatthi, con một Bà-la-môn giàu có. Cha mẹ cưới cho ngài một người vợ trẻ đẹp hoàn toàn xứng đôi vừa lứa, và ngài sống sung sướng bên người vợ của ngài. Một hôm, ngài đang ngắm nhìn sắc đẹp của vợ mình, do nghiệp nhân đời trước, ngài được nhắc lại là sắc đẹp ấy cũng vô thường. Vài ngày sau, vợ ngài bị con rắn đen cắn và bị chết. Bị đau khổ bởi cái chết này, ngài đi yết kiến đức Phật, được nghe pháp và xuất gia. Nhưng khi ngài tu về giới, ngài không giữ được tâm cho chánh trực. Khi đi khất thực, ngài thấy một người làm tên, dùng dụng cụ làm cho cây tên được ngay thẳng, ngài suy nghĩ: ‘Những người này còn làm cho một cây tên ngay thẳng’. Ngài quay về, ngồi nghỉ trưa, phát triển thiền quán. Và ngài thấy đức Phật hiện ra trước mặt ngài, ngồi trên hư không, và dạy ngài với bài kệ này:

  1. Thầy hay làm tự ngã,
    Ðược thấm nhuần hướng thượng,
    Như người thợ cung tên
    Làm cây tên ngay thẳng,
    Hãy làm tâm ngay thẳng,
    Hỡi này Ha-ri-ta!
    Hãy chặt đứt vô minh.

Nghe Thế Tôn dạy, ngài phát triển thiền quán, và không bao lâu trở thành vị A-la-hán. Ngài liền nói lên bài kệ này như lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(XXX) Ittiya (Thera. 5)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi con trai một Bà-la-môn, và xuất gia để tìm đời sống bất tử, trở thành một du sĩ ngoại đạo. Một ngày kia, trong khi bộ hành ngài gặp Thế Tôn đang thuyết pháp và ngài xin xuất gia. Vì giới hạnh ngài không thanh tịnh, nên ngài không đạt được Thánh quả. Thấy các Tỷ-kheo khác nói lên chánh trí của mình, ngài xin Thế Tôn một bài học tóm tắt. Ðức Phật trả lời ngài phải làm cho thanh tịnh nếp sống căn bản và đức Phật dạy ngài về nếp sống căn bản một cách tóm tắt, Ittiya học tập bài học này, phát triển thiền quán, nhưng rồi bị bệnh. Trong sự cố gắng tối hậu, ngài chứng được quả A-la-hán. Vì ngài chứng được Thánh quả trước những trở ngại lớn như vậy, ngài nói lên chánh trí của ngài liên hệ đến cơn bệnh của ngài:

  1. Trong khi ta lâm bệnh,
    Niệm khởi lên nơi ta,
    Trong khi ta lâm bệnh,
    Không phải thời phóng dật.

Phẩm Bốn

(XXXI) Gahvaratìrya (Thera. 6)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn và được gọi là Aggidatta. Khi lớn lên ngài thấy đức Phật hiện hóa thần thông song hành, khởi lòng tin và xuất gia. Lấy một đề tài để hành trì, ngài đi vào rừng Ratìra và được biết với tên là Gahvaratìriya, phát triển thiền quán, không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Rồi ngài đi đến đảnh lễ đức Phật ở Sàvatthi, các bà con ngài nghe tin ngài đến, liền cúng dường ngài rất nhiều. Khi ngài muốn trở lui lại khu rừng, các bà con ngăn lại, nói rằng núi nhiều muỗi và ruồi lằng rất khó sống. Ngài trả lời đời sống rừng núi thích hợp với ngài và ngài nói lên chánh trí của ngài với bài kệ:

  1. Trong núi rừng rộng lớn,
    Bị muỗi lằng đốt cắn,
    Như voi đầu chiến trận,
    Tại đấy sống chánh niệm.

(XXXII) Suppiya (Thera. 6)

Trong thời đức Phật tại thế, do nghiệp quá khứ, ngài được sanh trong gia đình người giữ nghĩa địa ở Sàvatthi. Ðược bạn Sopàka thuyết pháp cảm hóa, ngài xuất gia và chứng được quả vị cao nhất, và trong bài kệ, ngài nói lên chánh trí của ngài khi đang phấn đấu để chứng quả A-la-hán.

  1. Bị già, được không già,
    Bị nung nấu, được tịnh,
    Mong rằng ta sẽ được
    Tịch tịnh thật tối thượng,
    An ổn thật vô thượng,
    Thoát khỏi các khổ ách.

(XXXIII) Soopaka, Một Tỷ-Kheo Trẻ Con (Thera. 6)

Ngài sanh trong thời đức Phật hiện tại ở Sàvatthi, từ một người đàn bà rất nghèo khổ. Khi bà mẹ đau đẻ, bà bất tỉnh và người ta tưởng bà đã chết nên đem thân bà đi thiêu. Một phi nhân không cho lửa đốt cháy, làm mưa làm gió và những người thiêu thân bỏ đi. Ðứa con trẻ được sanh mạnh khỏe, còn người mẹ bị chết. Vị phi nhân hóa làm người, bế đứa con và bỏ trong nhà người giữ nghĩa địa, nuôi đứa con trong một thời gian với đồ ăn thích hợp. Sau đó, người giữ nghĩa địa nhận làm con nuôi, và Sopàka lớn lên với Suppiya, con trai nhỏ của người giữ cửa. Vì ngài sanh ở nghĩa địa, nên đặt tên là Sopàka. Khi ngài bảy tuổi, Thế Tôn với thiên nhãn thanh tịnh, vào buổi sáng, nhìn xem những ai có thiện căn tốt lành, thấy Sopàka và đi đến nghĩa địa. Sopàka được nghiệp duyên đời trước, đi đến Thế Tôn với tâm tư hoan hỷ và đảnh lễ Thế Tôn, Thế Tôn thuyết pháp và Sopàka xin xuất gia. Sau khi được phép người cha nuôi, Sopàka xuất gia và được dạy tình thương huynh đệ làm đề tài tu hành. Sopàka lấy đề tài này và sống ở nghĩa địa và chứng được cảnh giới thiền tương đương. Lấy cảnh giới thiền làm đề tài căn bản, ngài triển khai thiền quán và chứng được quả A-la-hán. Sau khi chứng quả, ngài làm bài kệ, trong ấy ngài nêu cho các Tỷ-kheo rõ đề tài tình thương anh em, không có phân biệt người thân kẻ sơ. Với tất cả, tình thương phải là một, bao trùm mọi cảnh giới, mọi chúng sanh mọi thời gian:

  1. Như người mẹ tốt lành
    Thương người con độc nhất,
    Cũng vậy đối chúng sanh,
    Ðủ mọi loài, mọi chỗ,
    Hãy có lòng tốt đẹp,
    Thương mến và từ ái.

(XXXIV) Posiya (Thera. 6)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một triệu phú ở Sàvatthi, là em trai của Trưởng lão Sangàmaji. Khi lớn lên, ngài lập gia đình. Khi sanh được đứa con trai, do nghiệp duyên đời trước, ngài cảm thấy lo lắng trước vấn đề sống chết, nên ngài xuất gia, sống một mình trong rừng và tu tập đề tài bốn sự thật. Sau một thời gian, ngài chứng quả A-la-hán.

Rồi ngài đi đến Sàvatthi để đảnh lễ Thế Tôn và về thăm lại nhà cũ, người vợ cũ cúng dường ngài và muốn cám dỗ ngài sống lại đời sống cũ, ngài biết được dụng ý của vợ ngài nên cáo lui và về lại trong rừng, các bạn đồng tu hỏi vì sao ngài về sớm như vậy, ngài kể lại câu chuyện đã xảy ra và nói lên bài kệ:

  1. Không gần là tốt đẹp,
    Kẻ trí thường biết vậy,
    Từ làng đi đến rừng,
    Từ rừng, ta vào nhà,
    Từ đấy, đứng dậy đi,
    Không đoái hoài Bô-syà.

(XXXV) Sàmannakàni (Thera. 6)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một du sĩ và xuất gia theo đức Phật. Khi thấy đức Phật hóa hiện thần thông song hành; và nhờ thiền, ngài chứng quả A-la-hán.

Lúc bấy giờ, một du sĩ tên Kàtiyàna, ngài quen khi còn là cư sĩ, du sĩ này mất hết sự ủng hộ của giới cư sĩ từ khi đức Phật được mọi người qui ngưỡng, và trở thành khốn cùng. Kàtiyàna đến ngài và yêu cầu ngài ủng hộ để được hạnh phúc đời này đời sau, ngài đáp: ‘Hạnh phúc không liên hệ đến đời và chỉ những người hiểu biết quá trình tu chứng mới hưởng sự an lạc thuần nhất này’. Và ngài nói lên bài kệ để chứng minh sự thành đạt của ngài:

  1. Kẻ tìm lạc, được lạc,
    Nếu sở hành đúng đắn,
    Lại thêm được kính trọng,
    Danh vọng được tăng trưởng.
    Ai tu tập chánh trực,
    Con đường Thánh tám ngành,
    Ðây là đường lộ trình,
    Ðạt đến cảnh bất tử.

(XXXVI) Con Của Kunmà (Thera. 6)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở xứ Anvanti thành Velukanda, và được đặt tên là Nanda. Nhưng vì mẹ tên Kumà nên ngài được gọi là con của Kumà. Khi nghe Tôn giả Sàriputta thuyết pháp, ngài xuất gia và tu tập trên sườn đồi. Nhưng chỉ sau khi nghe đức Phật thuyết pháp và sửa lại phương pháp tu tập, ngài mới chứng quả A-la-hán. Khi đã trở thành A-la-hán, ngài thấy các Tỷ-kheo khác quá lo cho thân thể, nên ngài dùng bài kệ để hướng dẫn họ theo Chánh pháp:

  1. Lành thay, điều được nghe!
    Lành thay, hạnh phúc sống!
    Lành thay, thường an trú!
    Ðời sống kẻ không nhà.
    Tìm hỏi nghĩa Chánh pháp,
    Làm các hạnh cung kính,
    Ðấy là hạnh Sa-môn,
    Của bậc Vô sở hữu.

(XXXVII) Bạn Của Con Kumà (Thera. 6)

Ngài được sanh trong thời đức Phật hiện tại, tại thành Velukanda, trong một gia đình giàu có tên Sudanta. Có người nói ngài tên là Vasulokì. Ngài trở thành bạn thân với con của Kumà. Khi con của Kumà xuất gia, ngài nghĩ đạo của con Kumà không thể là đạo tầm thường nên đến nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp. Nghe xong, ngài cảm thấy nhiều xúc động và xuất gia. Ngài cùng an trú với con của Kumà trên sườn đồi để tu hành.

Trong lúc ấy, nhiều Tỷ-kheo bộ hành nhiều địa phương, đều an trú tại chỗ hai vị này và tạo nên cảnh ồn ào. Sudanta, tâm thiền định bị chi phối, lấy sự kiện này làm đề tài để tinh tấn tu hành và nói lên bài kệ này:

  1. Bộ hành nhiều xứ sở,
    Với hạnh không suy tưởng,
    Thiêu đốt phần thiền định,
    Ði khắp xứ làm gì?
    Do vậy, ngăn vọng động,
    Không vọng hướng, hãy thiền.

(XXXVIII) Gavampati (Thera. 6)

Ngài được sanh trong thời đức Phật hiện tại, ngài là một trong bốn người bạn của Yasa (Da-xá). Khi họ nghe Yasa xuất gia, tất cả đều xuất gia và chứng quả A-la-hán. Rồi ngài sống ở rừng Anjana tại Sàkela, và hưởng lạc giải thoát. Khi bấy giờ, Thế Tôn đến với một số đông Tỷ-kheo tại Anjana. Chỗ ngủ không đầy đủ và một số Tỷ-kheo ngủ xung quanh tinh xá, trên bãi cát sông Sarabhà. Nửa đêm, nước sông dâng lên và các Tỷ-kheo trẻ la lớn. Thế Tôn nghe vậy, bảo Gavampati can thiệp, ngăn sông không cho dâng cao, khiến các Tỷ-kheo yên tâm. Vị Trưởng lão với thần túc thông của mình, làm theo lời Phật dạy, dừng dòng sông lại từ xa, khiến dòng sông dựng đứng lại như ngọn núi, do vậy ngài được mọi người biết là có thần thông. Một ngày kia, Thế Tôn đang thuyết pháp giữa một số đông người, thấy Gavampati vì lòng từ bi nghĩ đến đời, đức Phật tán thán các hạnh của Gavampati với bài kệ:

  1. Ai với thần túc thông,
    Dựng đứng Sarabhu,
    Chính Gavampati,
    Không ỷ lại, không động,
    Vượt qua mọi trói buộc,
    Chư Thiên đều đảnh lễ,
    Bậc Ðại sĩ Mâu-ni
    Ðã vượt qua sanh hữu.

(XXXIX) Tissa (Thera. 6)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Kapilavatthu, con người dì của đức Phật và được đặt tên là Tissa. Ngài xuất gia theo đức Phật, sống tại một lâm trại và tự phụ với địa vị của mình, tánh hay nóng nảy bất thường, vì vậy ngài không làm bổn phận của mình được hăng hái.

Rồi bậc Ðạo Sư, với thiên nhãn thấy ngài đang ngủ há miệng liền hiện đến trước ngài, thức ngài dậy với bài kệ:

  1. Như bị kiếm chém xuống,
    Như bị lửa cháy đầu,
    Vị Tỷ-kheo xuất gia,
    Chánh niệm, đoạn tham dục.

(XL) Vaddhamàna (Thera. 7)

Ngài sanh ở Vesàli, trong gia đình một vị vua Licchavì, ngài trở thành một thiếu niên có tín tâm và phục vụ Tăng chúng. Về sau, khi đã xuất gia, ngài trở thành biếng nhác và được Như Lai khích lệ với bài kệ:

  1. Như bị kiếm chém xuống,
    Như bị lửa cháy đầu,
    Vị Tỷ-kheo xuất gia,
    Chánh niệm, đoạn tham hữu.

Phẩm Năm

(XLI) Sirivaddka (Thera. 7)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), trong nhà một Bà-la-môn giàu có. Khi vua Bimbisàra gặp bậc Ðạo Sư, do nghiệp duyên đời trước, ngài xuất gia, đi đến một ngọn núi gần Vebhàra và Pandava, và trú tại chỗ ấy, chuyên hành tu tập.

Một hôm, một cơn giông tố lớn nổi lên và sét đánh vào hang, nhưng nhờ gió lớn của các đám mây, làm nhẹ bớt sức nóng đang đè nặng trên ngài, nhờ vậy với một nhiệt độ thích hợp, ngài có thể thiền định, thiền quán và cuối cùng chứng quả A-la-hán. Với bài kệ nói lên chánh trí của mình, ngài thốt lên những lời như sau:

  1. Giữa đồi Vebhara,
    Giữa đồi Pandava,
    Sét đánh vào cửa hang,
    Ðứa con bậc Vô tỷ,
    Như vậy, vẫn ngồi thiền.

(XLII) Khadira – Vaniya (Thera. 7)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở nước Magadha (Ma-kiệt-đà) tại làng Nàlaka, con của nữ Bà-la-môn Rùpasàrì. Khi ngài lớn lên, mẹ ngài muốn ngài lập gia đình, nhưng khi nghe Sàriputta xuất gia, ngài bắt chước Sàriputta, đến các Tỷ-kheo xin được thọ giới, tự xưng là em trai của Sàriputta. Khi ngài chứng quả A-la-hán tại rừng cây xương rồng, ngài đi đến Sàvatthi (Xá-vệ) để đảnh lễ Thế Tôn, và ở lại một vài ngày tại tịnh xá Jetavana (Kỳ Viên).

Rồi Thế Tôn, ngồi giữa đại chúng Tỷ-kheo, xác nhận ngài là Tỷ-kheo ở rừng đệ nhất.

Một thời khác, ngài đi đến làng sanh quán, đem ba người cháu trai là con trai của ba người chị Càlà, Upacàlà, Sisùpacàlà, cũng tên là Càlà, Upacàlà và Sisùpacàlà cho chúng xuất gia. Một hôm ngài bị ốm và Sàriputta đi đến thăm, Revata muốn dạy cho ba người cháu chớ có phóng dật, nên khi thấy Sàriputta từ xa đến, bèn nói lên bài kệ:

  1. Hỡi này cháu Càlà,
    Này Upacàlà,
    Sisùpacàlà,
    Hãy sống, trú chánh niệm,
    Vị đang đến các con,
    Như vị bắn chẻ tóc.

(XLIII) Sumangala (Thera. 7)

Ngài sanh ở tại một làng nhỏ, gần Sàvatthi, trong một gia đình nghèo khó. Lớn lên, ngài tự nuôi sống giữa đồng ruộng, với cái liềm, cái cuốc và cái cày. Một hôm vua Pasenadi cúng dường đức Phật với chư Tăng và ngài đi đến. đem theo sữa và bơ cùng với các người làm công khác. Khi thấy các Tăng, Ni được cung kính cúng dường, ngài nghĩ các Tăng, Ni này sống trong các nhà cửa được che kín và mặc các y phục tốt đẹp và ngài xin xuất gia để hưởng những tiện nghi này. Một Trưởng lão Tăng vì lòng từ chấp nhận ngài được xuất gia, cho ngài một đề tài tu hành và bảo ngài đi vào rừng để tu tập. Nhưng trong hạnh độc cư, ngài cảm thấy buồn bã chán nản và đi về lại làng của mình. Khi về, ngài thấy các dân quê cày bừa với áo quần nhớp nhúa, đầy bụi bặm và bị nóng bức. Thấy vậy, ngài trở lại tu tập, đi đến dưới gốc cây, tu tập thiền định, sống cô độc, phát triển thiền quán. Cuối cùng, ngài chứng được quả A-la-hán. Ðể nói lên sự giải thoát khỏi nỗi khổ cuộc đời, ngài thốt lên bài kệ này:

  1. Khéo thoát! Ôi khéo thoát!
    Thật sự ta khéo thoát,
    Thoát ba sự cong queo,
    Ta thoát cong với liềm,
    Ta thoát cột với cày,
    Ta thoát cực với cuốc,
    Nếu có đây, có đây,
    Thật đủ chán, đủ chán,
    Hỡi Sumangala!
    Hỡi Sumangala!
    Hãy thiền, hãy thiền định!
    Hỡi Sumangala!
    Hãy sống không phóng dật.

(XLIV) Sànu (Thera. 7)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ) trong gia đình một cư sĩ, sau khi người cha đã từ bỏ gia đình. Bà mẹ, đặt tên ngài là Sànu, khi ngài lên bảy tuổi, được đưa đến ở với các Tỷ-kheo, nghĩ rằng như vậy con mình được sống hạnh phúc. Rồi Sànu trở thành một vị học hành giỏi, một vị pháp sư, thiền sư với lòng từ bi, được chư Thiên và loài Người ái kính. Trong đời trước, mẹ ngài là một nữ Dạ-xoa. Sau một thời gian, ngài mất sự sáng suốt, sống sầu khổ và muốn đi lang thang đây đó. Bà mẹ Dạ-xoa của ngài thấy vậy liền báo động với bà mẹ hiện tại và bảo bà khích lệ con bà phải tinh tấn, và đọc lại lời nói của các Yakkhà (Dạ-xoa):

Chớ có làm điều ác,
Công khai hay bí mật,
Nếu người làm điều ác,
Sẽ làm hay đang làm,
Người không thoát khổ đau,
Dầu có đứng lên chạy.

Nói như vậy xong, người mẹ Dạ-xoa biến mất, nhưng người mẹ hiện tại, nghe vậy rất lấy làm sầu khổ. Rồi Sa-di Sànu cầm y và bát đến thăm bà mẹ rất sớm. Thấy mẹ sầu muộn, ngài hỏi và được bà mẹ trả lời lý do, ngài nói bài kệ:

  1. Thưa mẹ, người ta khóc,
    Khóc vì người đã chết,
    Hay có khóc người sống,
    Khi sống, không được thấy,
    Thưa mẹ, con đang sống,
    Và mẹ đang thấy con,
    Vậy vì sao, thưa mẹ,
    Mẹ lại khóc cho con?

Bà mẹ trả lời, từ những lời trong kinh: ‘Ðây là sự chết, này các Tỷ-kheo trong giới luật của bậc Thánh, tức là sự từ bỏ học giới và hoàn tục’, và nói bài kệ như sau:

Người ta khóc cho con,
Là khóc cho con chết,
Hay khóc cho con sống,
Nhưng không được thấy mặt.
Ai đã bỏ dục vọng,
Lại trở lui đời này,
Này con, người ta khóc,
Là khóc cho người ấy,
Vì người ấy được xem,
Còn sống cũng như chết,
Này con, được kéo ra,
Khỏi than hầm lửa rực,
Con còn muốn rơi vào,
Ðống than hồng ấy chăng?

Khi ngài nghe vậy, Sa-di Sànu lấy làm xấu hổ sầu muộn, và tinh tấn phát triển thiền quán, không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Suy nghĩ rằng ngài chiến thắng là nhờ những bài kệ này, nên lấy những bài kệ ấy thành những bài kệ của ngài.

(XLV) Ramnìyavihàrim (Thera. 7)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con một công dân có tên tuổi và sống đời sống tuổi trẻ trác táng. Một hôm, ngài thấy các quân lính nhà vua bắt một người thông dâm, ngài sanh tâm dao động, nghe lời Phật dạy và xuất gia. Là Tỷ-kheo, ngài vẫn còn những ái dục về thân, ngài sắp đặt phòng ngài thật đầy đủ bàn ghế, đầy đủ đồ ăn, đồ uống, đồ nằm và sống như vậy. Do vậy, ngài được tên là Ramanìyavihìrim (người sống trong lạc dục). Nhưng đời sống cũ của ngài làm ngài khó sống đời sống Tỷ-kheo, ngài cảm thấy không xứng đáng để nhận đồ cúng dường, ngài bỏ đi, bộ hành lang thang đó đây. Trên đường đi, khi ngồi nghỉ dưới gốc cây, ngài thấy các xe bò đi ngang qua, một con bò vì mệt mỏi nên vấp ngã, người đánh xe cởi dây cho con bò, cho nó rơm và nước, và làm cho nó đỡ mệt, xong lại cột con bò vào xe và bắt nó kéo xe đi. Ngài suy nghĩ: ‘Con bò này đã vấp ngã nhưng đã đứng dậy và kéo đi gánh nặng của mình. Vậy ta phải tinh tấn, sau khi rơi vào rừng nhục dục, cần phải đứng dậy và làm tròn bổn phận của người tu hành’. Rồi ngài trở về, kể lại câu chuyện cho Trưởng lão Upàli và được Upàli chấp nhận cho sám hối các lỗi lầm, và giúp ngài trở lại nếp sống chơn chánh. Không bao lâu, ngài chứng quả A-la-hán.Về sau, hưởng thọ an lạc giải thoát, ngài nói lên sai lầm của ngài, và sự trở lui lại nếp sống chơn chánh trong bài kệ này:

  1. Như con thú hiền thiện,
    Giống tốt, huấn luyện khéo,
    Sau khi đã vấp ngã,
    Lại đứng lên, an trú,
    Ta đầy đủ chánh kiến,
    Ðệ tử bậc Chánh giác.

(XLVI) Samiddhi (Thera. 7)

Ngài sanh ra trong đời đức Phật hiện tại, ở Rajagaha (Vương Xá) con một gia đình quí tộc. Từ khi sanh ngài, tài sản của gia đình được tăng trưởng, ngài lại đẹp trai, có giới hạnh và được đặt tên là Samiddhi (thịnh vượng), ngài chứng kiến sức mạnh của bậc Ðạo Sư khi gặp vua Bình Sa (Bimbisàra), khởi lên lòng tin, xuất gia, tinh tấn tu thiền. Khi đức Phật sống ở vườn Tapoda, Samiddhi đang cảm thấy an lạc được sống hạnh Tỷ-kheo, thời Ác-ma hiện ra quấy phá, phát ra tiếng động như quả đất nổ tung. Ngài thưa với đức Phật và đức Phật khuyên nên bình tĩnh, vẫn kiên trì tu tập và đừng nghĩ đến vấn đề ấy nữa. Ngài vâng theo và không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Ác-ma không biết sự kiện ấy, Ác-ma lại tạo nên một tiếng động kinh khủng, nhưng ngài không có sợ hãi, ngài nói lên chánh trí của ngài với bài kệ như sau:

  1. Ta với lòng tín ngưỡng,
    Bỏ gia đình, xuất gia,
    Niệm tuệ ta tăng trưởng,
    Tâm tư ta thiền định,
    Dầu ngươi tạo sắc gì,
    Không làm ta sợ hãi.

(XLVII) Ujiaya (Thera. 8)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Rajagaha (Vương Xá), con một Bà-la-môn theo truyền thống. Lớn lên và giỏi về ba tập Vệ-đà, ngài thấy không có cốt tủy, với nghiệp lành chín muồi, ngài đi đến rừng Trúc nghe Thế Tôn giảng và xuất gia, thiền tư về giới hạnh trong rừng, không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Rồi ngài đi đến Thế Tôn đảnh lễ ngài, ngồi xuống một bên, tán thán Thế Tôn, ngài nói lên bài kệ đề cập đến chánh trí của ngài:

  1. Ðảnh lễ Phật, anh hùng,
    Ngài giải thoát mọi chỗ,
    Trong nếp sống của ngài,
    Gồm cả phần giáo điển,
    Con sống không lậu hoặc,
    Không còn bị trói buộc.

(XLVIII) Sanjaya (Thera. 8)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con một Bà-la-môn giàu có. Khi lớn lên, ngài theo gương Brahmàya, Pokkhanrasàti và các vị Bà-la-môn danh tiếng khác, các vị này khởi lòng tin bậc Ðạo Sư và chứng được Sơ quả. Về sau, ngài xuất gia và chứng được sáu thắng trí. Nói lên chánh trí, ngài dùng bài kệ này:

  1. Từ khi ta xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Ta không có tư duy,
    Những tư tưởng phàm phu,
    Những tư niệm phi thành,
    Liên hệ đến sân hận.

(XLIX) Ràmaneyyaka (Thera. 8)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ) con một gia đình giàu có. Tâm ngài rất xúc động khi Jetavana (Kỳ Viên) được dâng cúng đức Phật và ngài xuất gia. Sống trong rừng, ngài thiền quán về giới hạnh, vì quả chứng và hạnh dễ thương của ngài, ngài được gọi là Ràmaneyyaka (hạnh khả ái, dễ thương).

Một hôm, Ác-ma muốn phá hoại ngài, đã phát ra một tiếng động rất lớn, ngài dùng bài kệ nói lên sự không xúc động của mình.

  1. Dầu tiếng người hò hét,
    Tiếng náo động chim muông,
    Tâm ta không dao động,
    Ta ưa thích độc cư.

Bài kệ này trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(L) Vimala (Thera. 8)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), từ một gia đình giàu có. Do hạnh nguyện đời trước, ngài có một thân thể thật trong sạch như giọt sương trên lá sen, bởi vậy, được tên là Vimala. Khi lớn lên ngài khởi tín tâm khi gặp được dức Phật ở Ràjagaha, rồi ngài xuất gia, tìm một đề tài học tập, đến ở trong một hang núi ở Kosala.

Một hôm trời chuyển giông, mưa rơi xuống, làm nhẹ bớt sức nóng, ngài có thể định tâm, chứng được quả A-la-hán. Sung sướng với quả chứng của mình, ngài thốt lên bài kệ này:

  1. Ðất, nước mưa ướt thấm,
    Gió thổi mát không gian,
    Trên trời, chớp vạch đường,
    Tư tưởng ta lắng dịu,
    Tâm ta thật định tĩnh.

Bài kệ này trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài.

Phẩm Sáu

(LI-LIV) Ghodhika, Subàhu, Valliya, Uttiya (Thera. 8)

Trong thời đức Phật tại thế, bốn vị này sanh ở Pava, con của bốn vua Malla, và giữa bốn người này, có một tình bạn chân thành. Bốn vị này có một sứ mệnh, cùng đi đến vua xứ Kapilavatthu. Lúc bấy giờ, Thế Tôn cũng đến đó và sống tại vườn cây bàng, tại đấy, Thế Tôn đã cảm hóa bốn vị này với thần thông song hành. Các vị này xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán, với sự hiểu biết về nghĩa và về pháp. Sau khi được vua chúa kính trọng cúng dường, bốn vị này sống ở trong rừng. Khi bốn vị này đến Vương Xá, vua Bimbisàra (Bình Sa), mời bốn vị an cư mùa mưa và bảo làm mỗi người một cái nhà, nhưng vô ý lại không lợp mái. Các vị này sống trong nhà ấy, nhưng không có chỗ che mưa, và dầu là mùa mưa, trời lại không mưa. Vua Bimbisàra nhận thấy hiện tượng này, nhớ lại sự sai trái sơ hở của mình, liền cho lợp mái lại tổ chức một ngày khánh thành, cúng dường cho Tăng chúng. Các vị Trưởng lão nhận lời, đi vào ngôi nhà và triển khai lòng từ. Từ phía Bắc và phía Ðông một cơn giông tố nổi lên, và các vị Trưởng lão xuất định, mưa to bắt đầu rơi xuống. Rồi Godhika do mưa to gió lớn, nói lên bài kệ:

  1. Trời mưa, như hát hay,
    Ta ở trong am thất,
    Ðược che kín khỏi gió,
    Ta sống thật an lạc,
    Tâm ta khéo định tĩnh.
    Hãy mưa, nếu trời muốn.

Subàhu nói lên bài kệ:

  1. Trời mưa, như hát hay,
    Ta ở trong am thất,
    Ðược che kín, khỏi gió,
    Ta sống thật an lạc,
    Tâm khéo định trên thân,
    Hãy mưa, nếu trời muốn.

Vàlliya nói lên bài kệ:

  1. Trời mưa, như hát hay,
    Ta ở trong am thất,
    Ðược che kín, khỏi gió,
    Ta sống thật an lạc.
    Không phóng dật, ta sống,
    Hãy mưa, nếu trời muốn.

Uttiya nói lên bài kệ:

  1. Trời mưa, như hát hay,
    Ta ở trong am thất
    Ðược che kín, khỏi gió,
    Ta sống thật an lạc,
    Trong ấy, sống một mình,
    Hãy mưa, nếu trời muốn.

(LV) Anjana -Vaniya (Thera. 9)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Vesàli, trong gia đình một vị vua trị vì nước Vajja. Khi ngài lớn lên, ba tai họa lớn đe dọa dân chúng Vajja: nạn hạn hán, nạn bệnh tật, và nạn phi nhân. Sự kiện này được ghi chép trong tập sớ kinh Ratanasutta. Khi Thế Tôn làm cho dân chúng Vesali bớt sợ hãi, một số đông đến nghe ngài giảng. Con của vua cũng được nghe, khởi tín tâm và xuất gia.

Khi làm xong các học tập sơ khởi, ngài sống trong rừng Anjana, ở Saketa. Khi trời mưa sắp đến, ngài tìm được một giường nằm người ta quăng bỏ, đặt nó trên bốn tảng đá, phía trên và phía chung quanh lợp cỏ. Ngài làm một cái cửa và như vậy làm được một chỗ ở cho mùa mưa. Sau một tháng tu tập, ngài chứng quả A-la-hán. Sung sướng với niềm giải thoát của mình, ngài phấn khởi nói lên bài kệ:

  1. Làm am thất giường nằm,
    Sâu trong rừng An-ja,
    Ba minh được chứng đạt,
    Làm xong lời Phật dạy.

(LVI) Kutivihàrim (Thera. 9)

Ðời sống của ngài giống như đời sống của Tôn giả Anjana Vaniya, với sự sai khác như sau: Trong khi phát triển thiền quán, ngài đang đi qua cánh đồng và trú mưa trong một chòi nhỏ không người, của người giữ đồng ruộng. Tại đấy, ngài chứng quả A-la-hán. Người giữ đồng ruộng đến và hỏi: ‘Ai ở trong chòi lá này?’ Ngài trả lời: ‘Một Tỷ-kheo ở trong chòi lá’ và nói lên bài kệ:

  1. Ai ở trong chòi lá?
    Một Tỷ-kheo ly tham,
    Tâm được khéo định tĩnh,
    Ðang ở trong chòi lá,
    Hiền giả, hãy biết vậy!
    Không phải là vô ích,
    Chòi lá ông dựng lên.

Rồi người giữ ruộng nói: ‘Thật may mắn cho tôi. Thật khéo may mắn cho tôi. Tôn giả đã đến chòi lá của tôi và ngồi tại đấy’.

Thế Tôn với thiên nhĩ thanh tịnh nghe câu chuyện biết được tâm hoan hỷ của người giữ ruộng, ngài nói lên bài kệ với người giữ ruộng:

Chính ở trong chòi lá,
Một Tỷ-kheo ly tham,
Tâm được khéo định tĩnh,
Ðang ở trong chòi lá,
Việc làm này hưởng quả,
Ông sẽ thành thiên chủ,
Sáu lần đến bảy lần,
Ông ngự trị thiên giới,
Rồi mọi ái nhiếp phục,
Ông sẽ thành Ðộc giác.

Bắt đầu từ đấy, vị Tỷ-kheo được gọi là Kutivihàrim.

(LVII) Kutivihàrim (Thera. 9)

Câu chuyện về ngài giống như câu chuyện vị Trưởng lão ở rừng Anjana với sự sai khác này. Khi ngài xuất gia với trường hợp tương tự, ngài học Chánh pháp trong một ngôi chòi nhỏ, ngài nghĩ: ‘Chòi cũ này cũng đã bị hư hại, ta phải làm một chòi khác’. Rồi ngài hướng tâm ngài về hành động mới. Một thiên nhân tâm cầu giải thoát, muốn làm ngài dao động, nói lên bài kệ này, với lời lẽ giản dị, nhưng ý nghĩa sâu rộng:

  1. Ðây ngôi chòi cũ kỹ,
    Ngài muốn ngôi chòi mới,
    Hãy bỏ muốn ngôi chòi,
    Chòi mới đem khổ mới,
    Này Tỷ-kheo nên biết!

Khi nghe vậy, vị Trưởng lão cảm thấy lo lắng, và với sự cố gắng phát triển thiền quán, ngài chứng được quả A-la-hán. Rồi ngài nói lại bài kệ, nhờ bài kệ này ngài đã được chứng quả, và ngài dùng bài kệ nói lên chánh trí của mình. Vì ngài chứng quả khi ở trong chòi lá, ngài được gọi là Kutivihàrim (vị ở chòi lá).

(LVIII) Ramaniyakutika (Thera. 9)

Câu chuyện của ngài giống như câu chuyện của Trưởng lão ở trong rừng Anjana với sự sai khác này: Ngài ở trong một chòi lá, gần một ngôi làng nhỏ, trong xứ Vajji. Thật sự là một am thất nhỏ, xinh đẹp với sàn nhà và vách tường khéo làm xung quanh có vườn, ao hồ và có rải cát đẹp, mịn. Với giới hạnh của vị trưởng lão làm tăng thêm sự hấp dẫn của ngôi nhà.

Ngài chứng quả A-la-hán và tiếp tục sống tại đấy. Khi nào có người đến viếng tinh xá, họ có thấy ngôi chòi xinh xắn. Một ngày kia, một vài người đàn bà béo mập đi ngang qua, thấy ngôi chòi xinh đẹp, liền nghĩ người ở chòi lá này có thể là một thanh niên mà họ có thể cám dỗ. Họ đến gần ngài và nói: ‘Cái chòi của ngài thật là xinh đẹp, chúng tôi cũng thật xinh đẹp trong tuổi trẻ của chúng tôi’. Và họ bắt đầu khoe khoang áo xiêm đẹp của mình. Nhưng vị Trưởng lão nói lên bài kệ, diễn tả tâm trạng thoát tục của ngài:

  1. Ngôi chòi ta xinh đẹp,
    Do đàn tín cúng dường,
    Với tâm ý hoan hỷ,
    Với lòng tin dâng cúng.
    Ta không cần thiếu nữ,
    Này các nữ nhân kia,
    Hãy đi đến những ai,
    Có cần đến các cô.

Với chữ: ‘Không cần’, ngài tuyên bố chánh trí của ngài, khi chứng quả A-la-hán.

(LIX) Kosalavihàrim (Thera. 9)

Câu chuyện của ngài giống như chuyện của Trưởng lão ở trong rừng Anjana với sự sai khác này: Sau khi làm Sa-di, ngài ở trong một ngôi rừng, gần một làng trong nước Kosala, gần chỗ ở của một cư sĩ. Người này, thấy ngài ở dưới một gốc cây nên làm một cái chòi và cúng dường cho ngài. Ở đây vị Trưởng lão chứng quả A-la-hán. Với tâm tư hoan hỷ sung sướng được giải thoát, ngài nói lên bài kệ này:

  1. Do lòng tin, xuất gia,
    Ta sống không gia đình,
    Trong rừng, một chòi lá,
    Ðược dựng lên cho ta,
    Ta sống không phóng dật,
    Nhiệt tâm, niệm tỉnh giác.

Ðây là lời tuyên bố chánh trí của ngài và vì ngài ở lâu ngày ở Kosala, ngài được biết với tên là Kosalavihàrim (vị ở Kosala).

(LX) Sivàli (Thera. 9)

Ngài sanh ra là con của Suppavàsà, công chúa con vua, trong thời đức Phật hiện tại. Khi mẹ ngài không sinh đẻ được và nằm chịu đau khổ trong bảy ngày, bà nói với người chồng: ‘Trước khi tôi chết tôi sẽ bố thí’, và nàng bảo chồng đi mời Thế Tôn đến, nói đến hiện trạng của nàng và dặn chồng ghi nhớ những lời Thế Tôn nói. Người chồng làm theo lời vợ dặn và bậc Ðạo Sư nói: ‘Mong rằng Suppavàsa, con của dòng họ Koliya được hạnh phúc! Mong nàng được hạnh phúc, sức khỏe và sanh được đứa con trai khỏe mạnh’. Trước khi người chồng về, Suppavàsa đã sanh được đứa con trai và khi nghe chồng kể lại câu chuyện, nàng dặn chồng cúng dường đức Phật và chúng Tăng trong bảy ngày. Vì người con được sanh, đem lại hoan hỷ cho tất cả mọi người, nên được đặt tên là Sìvali.

Sau khi sanh bảy ngày, ngài có thể làm được bất cứ việc gì. Tôn giả Sàriputta đến và khuyên ngài xuất gia, lấy đề tài sự đau khổ khi được sanh làm đề tài tu hành. Khi nắm tóc thứ nhất được cắt đứt, ngài chứng Sơ quả. Khi nắm tóc thứ hai được cắt đứt, ngài chứng Nhị quả. Như vậy cho đến nắm tóc thứ tư và ngài chứng quả A-la-hán. Có chỗ nói cùng ngày ngài đi đến ở một chòi lá, và suy tư đến sự đau khổ phải nhẫn chịu khi thọ sanh. Ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Rồi sung sướng được giải thoát, ngài nói lên bài kệ:

  1. Nay những mục đích ấy,
    Với ta, đã thành tựu,
    Vì những mục đích ấy,
    Ta bước vào ngôi chòi,
    Minh, giải thoát, ta đạt.
    Mạn tùy miên từ bỏ.

Phẩm Bảy

(LXI) Vappa (Thera. 9)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavàthu, con Bà-la-môn Vàsetha. Khi nghe Tu sĩ Asìta đoán tướng Thái tử Siddhatta sẽ thành đạo, Vappa cùng bốn người con Bà-la-môn với Kondannà (Kiều Trần Như) là người dẫn đầu, trở thành những người Tu sĩ. Khi Thái tử tu khổ hạnh trong sáu năm, Vappa với bốn người bạn cùng đồng tu khổ hạn. Về sau khi Thái tử thôi tu khổ hạnh, năm vị này chán nản đi về Isipatana. Sau khi đức Phật thành đạo và Chuyển pháp luân ở Isapatana, Vappa với bốn người bạn được cảm hóa và đến ngày thứ năm cả năm vị đều chứng quả A-la-hán. Suy tư trên sự hùng lực của bậc Ðạo Sư, sự mù quáng của thế giới, và như thế nào thánh quả đem lại chánh trí, ngài nói lên bài kệ:

  1. Vị đã thấy, thấy được,
    Người thấy, người không thấy,
    Vị không thấy, không thấy,
    Người không thấy, người thấy.

(LXII) Vajji-Putta (Thera. 10)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình vị nghị sĩ và được gọi là con của Vajji. Ngài thấy uy nghi đức độ của bậc Ðạo Sư khi bậc Ðạo Sư đến Vesàli. Ngài khởi lòng tin và xuất gia sau thời kỳ làm Sa-di, ngài ở trong một ngôi rừng gần Vesàli. Một ngày lễ được tổ chức ở Vesàli có hát, có nhạc, có múa và mọi người hoan hỷ tham gia ngày lễ, tiếng ồn làm vị Tỷ-kheo dao động. Ngài bỏ chỗ tịnh cư của ngài, dừng nghỉ tu tập thiền quán và nêu rõ sự yểm ly của mình trong câu kệ:

Một mình chúng tôi sống,
Trong rừng núi hoang vu,
Như khúc gỗ bị quăng,
Bỏ rơi trong rừng núi,
Như vậy ngày tháng qua,
Ngày này tiếp ngày khác,
Còn có ai bất hạnh,
Hơn bất hạnh chúng tôi.

Một Thiên nhân trong rừng nghe vậy, thương xót vị Tỷ-kheo, nên đến trách vị Tỷ-kheo: ‘Này Tỷ-kheo, dầu Ông có khinh thường đời sống trong rừng núi, nhưng những vị sáng suốt muốn sống thanh tịnh đều nói nhiều đến núi rừng’.

Thiên nhân ấy nói lên bài kệ tán thán đời sống ở rừng núi:

  1. Một mình chúng tôi sống,
    Trong rừng núi hoang vu,
    Như khúc gỗ bị quăng,
    Bỏ rơi trong rừng núi,
    Nhưng nhiều người thương mến,
    Ðời sống ấy của ta,
    Như kẻ đọa địa ngục,
    Ưa đón cảnh thiên giới.

Rồi vị Tỷ-kheo, như con ngựa hay được thúc đẩy, ngài triển khai thiền quán và chứng quả A-la-hán. Rồi ngài nghĩ: ‘Bài kệ của Thiên nhân đã thúc đẩy ta’. Và ngài đọc lại bài kệ ấy.

(LXIII) Pakkha (Thera. 10)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh thuộc dòng họ Thích-ca, thành Devadahi, trong gia đình vua chúa Thích-ca và được gọi là thanh niên Sangmoda. Nhưng khi còn nhỏ, ngài bị bệnh tê thấp, có khi bước đi như người bị què, vì vậy được tên là Pakkha (vị què quặt) và giữ lại tên ấy. Sau khi ngài lành bệnh, ngài có mặt khi đức Phật về thăm gia đình, ngài khởi lòng tin, xuất gia và sống ở trong rừng. Một hôm vào làng khất thực, ngài ngồi dưới một gốc cây, một con diều hâu ngoạm được miếng thịt, bay bổng trên trời cao, các con diều hâu khác bay theo dành cướp lấy miếng thịt, thấy vậy, vị Tỷ-kheo suy nghĩ: ‘Các dục ở đời cũng vậy, đầy những đau khổ’. Ngài triển khai thiền quán và chứng quả A-la-hán, ngài nói lên bài kệ tuyên bố chánh trí của ngài:

  1. Chúng rơi theo, sà xuống,
    Cái đang bị rơi xuống,
    Với lòng tham thúc đẩy,
    Chúng lại đến, đến nữa.
    Bổn phận ta làm xong,
    Ta vui thích sung sướng,
    Với an lạc, đón mừng,
    Ta đón mừng an lạc.

(LXIV) Vimala- Kondanna (Thera. 10)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh là con của Ambapàli và thân phụ ngài là vua Bimbisàra. Ambapàli đặt tên con là Vimala và sau ngài được biết với tên là Vimala-Kondanna. Ngài chịu ảnh hưởng bởi uy nghi đức độ của bậc Ðạo Sư, xuất gia và chứng quả A-la-hán, ngài tuyên bố chánh trí của ngài trong bài kệ này:

  1. Dưới cờ trắng ta sanh,
    Từ nàng tên một cây,
    Với cờ đánh đổ cờ,
    Lá cờ lớn hủy diệt.

(LXV) Ukkhepakàta vaccha (Thera. 10)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ) con một Bà-la-môn thuộc dòng họ Vaccha. Ngài nghe Thế Tôn thuyết pháp phát tâm xuất gia, sống tại một làng Kosala. Nhờ các Tỷ-kheo đến thăm, ngài thâm hiểu Chánh pháp, nhưng ngài không phân biệt được Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Tuy vậy ngài học hỏi được từ tôn giả Sàriputta, nên có các vị Tỷ-kheo giỏi về Luật tạng hay một bộ phận của ba Tạng, ngài học thuộc lòng cả ba Tạng, trước khi ba Tạng được kiết tập. Sau khi thuộc lòng cả ba Tạng, ngài chứng quả A-la-hán, trở thành vị giảng dạy giáo lý. Một hôm, ngài nói với chính mình như với một người khác trong bài kệ sau đây:

  1. Tài sản được chất chứa,
    Trải nhiều tháng nhiều năm,
    Do Vaccha tác thành,
    Nay Vaccha quăng bỏ,
    Ngài thuyết giảng như vậy,
    Cho các hàng cư sĩ,
    Khéo ngồi chỗ trịnh trọng,
    Tâm hân hoan rộng lớn.

(LXVI) Meghiya (Thera. 10)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu, trong gia đình một hoàng tộc Thích-ca, được đặt tên là Meghiya (như mây). Lớn lên, ngài xuất gia hầu hạ Thế Tôn, khi Thế Tôn ở Càlikà, trên bờ sông Kimikàlà. Khi thấy một rừng xoài xinh đẹp, ngài muốn sống tại đấy, nhưng hai lần Thế Tôn không chấp nhận, cuối cùng trước lời yêu cầu khẩn khoản, Thế Tôn cho phép. Nhưng ở đấy vì tâm tư bất thiện không chế ngự được, vì bị ruồi muỗi cắn, nên tâm ngài không được định tĩnh và ngài lại về hầu hạ Thế Tôn.

Thế Tôn dạy:

Này Meghiya, khi tâm chưa chín muồi để giải thoát, năm pháp đưa đến tâm trạng ấy và bậc Ðạo Sư giáo giới cho ngài. Nhờ đấy Meghiya chứng quả A-la-hán và nói lên chánh trí của mình trong bài kệ này:

  1. Bậc Ðại hùng giảng dạy,
    Vượt qua tất cả pháp,
    Ta nghe pháp Ngài dạy,
    Sống hoan hỷ cạnh Ngài,
    Ba minh đã chứng đạt,
    Lời Phật dạy làm xong.

(LXVII) Ekadhamma Savannìya (Thera. 10)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Sitavyà, trong gia đình một vị nghị sĩ. Khi Thế Tôn đến thăm Sitavyà, và ở tại rừng Singsapa, ngài đến nghe Thế Tôn giảng, đảnh lễ ngồi xuống một bên, Thế Tôn hiểu được tâm tư ngài, dạy pháp cho ngài với câu kệ:

‘Các hành là vô thường’.

Và ngài nhờ ảnh hưởng đời trước, thấy sự thật rõ ràng hơn, xuất gia tìm học nghĩa chữ đau khổ, nghĩa chữ vô ngã, triển khai thiền quán và chứng quả A-la-hán. Vì ngài chỉ nghe một pháp và chỉ nghe một mình mà chứng được thánh quả, nên ngài được tên Ekadhamma Savanìya (vị được nghe một pháp), ngài tuyên bố chánh trí trong bài kệ như sau:

  1. Phiền não ta đốt cháy,
    Mọi hữu được nhổ lên,
    Ðường luân hồi đoạn tận,
    Nay không còn tái sanh.

(LXVIII) Ekudàniya (Thera. 10)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một vị nghị sĩ giàu có. Khi lớn lên, ngài thấy được uy đức của đức Phật khi được dâng cúng rừng Jeta (Kỳ Viên), ngài xuất gia từ bỏ gia đình, làm bổn phận người Sa-di, sống trong rừng, ngài đến đức Phật để học hỏi. Khi ấy Thế Tôn thấy Sàriputta đang ngồi thiền định gần ngài nên nói lên câu kệ này:

‘Tâm tăng thượng ẩn sĩ’.

Ngài nghe câu kệ này, nên về rừng sâu chỉ lập đi lập lại câu kệ này, đến nỗi người ta đặt tên ngài là Ekuddàniyo (vị thuộc một câu kệ).

Một ngày kia, tâm tư ngài được định tĩnh với thiền quán triển khai, ngài chứng quả A-la-hán sống trong an lạc giải thoát, ngài được Tôn giả Sàriputta mời đến để trình bày sự thành đạt của mình, ngài nói lên bài kệ này:

  1. Tâm tăng thượng ẩn sĩ,
    Không phóng dật, tu tập,
    Trên con đường chánh trí,
    Vị ấy không sầu muộn,
    Luôn luôn được an tịnh,
    Thường nắm giữ chánh niệm.

Bài kệ này trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(LXIX) Channa (Thera. 10)

Khi Thế Tôn còn sống trong gia đình vua Suddhodana (Tịnh Phạn), ngài xuất thân từ con một người nô lệ và được đặt tên là Channa. Sống đồng thời với đức Phật, ngài khởi lòng tin đức Thế Tôn, khi bậc Ðạo Sư về thăm lại gia đình, rồi ngài xuất gia. Vì lòng thương mến Thế Tôn, vì tự phụ tự đắc đối với ‘đức Phật của chúng ta, giáo pháp của chúng ta’ ngài không thể chinh phục khuyết điểm này và không làm tròn bổn phận của một người Sa-di, khi Thế Tôn mệnh chung, theo lời dặn của Thế Tôn cần phải phạt nặng Channa, ngài xấu hổ, chế ngự được khuyết điểm này, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Sung sướng với quả chứng của mình, ngài nói lên sự sung sướng của mình trong bài kệ như sau:

  1. Sau khi nghe Chánh pháp,
    Vị ngọt lớn pháp lớn,
    Do nhất thiết thắng trí,
    Thuyết giảng và trình bày,
    Ta dấn thân trên đường,
    Ðường đưa đến bất tử,
    Ngài thật bậc thiện xảo,
    Con đường diệt khổ ách.

(LXX) Punna (Thera. 11)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở nước Sunàparanta, tại hải cảng Suppàraka, trong nhà một thị dân tên Punna (Phú-lâu-na). Ðến tuổi trưởng thành, ngài đi với một đoàn thương gia đến Sàvatthi, khi bậc Ðạo Sư cũng ở đấy. Ngài đi nghe Thế Tôn thuyết pháp tại ngôi tinh xá cùng với các cư sĩ địa phương, ngài khởi lòng tin rồi xuất gia. Và trong một thời gian, ngài rất được quý mến giữa các vị giáo thọ sư, bởi ngài tài giỏi về biện luận. Một ngày kia, ngài đến bậc Ðạo Sư, nhờ bậc Ðạo Sư giảng dạy để có thể đi Sunàparanta giảng dạy và an trú tại đấy. Ðức Phật rống tiếng rống con sư tử bảo ngài: ‘Này Punna, có những pháp do con mắt nhận thức….’ Rồi Punna ra đi, tu tập thiền định trí tuệ, chứng được Ba minh. Khi ngài chứng quả A-la-hán, ngài giáo hóa được nhiều người theo đạo, hơn năm trăm nam cư sĩ và nữ cư sĩ.

Khi ngài sắp mệnh chung. Ngài nói lên chánh trí của ngài với bài kệ như sau:

  1. Ở đây chỉ có giới,
    Là pháp thật tối thượng,
    Nhưng vị nào có tuệ,
    Vị ấy là vô thượng,
    Vị đủ giới và tuệ,
    Chiến thắng giới Nhân, Thiên.

Phẩm Tám

(LXXI) Vacchapàla (Thera. 11)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha, con một gia đình Bà-la-môn giàu có và được đặt tên và Vacchapàla, ngài chứng kiến cuộc gặp gỡ giữa vua Bimbisàra với đức Phật. Sự hàng phục của Uruvela Kassapa trước Thế Tôn, ngài khởi lòng tin và xin xuất gia, chỉ trong một tuần, ngài triển khai thiền quán và chứng sáu thắng trí.

Chứng quả A-la-hán, ngài vui vẻ tán thán quả chứng này và quả chứng Niết-bàn trong bài kệ như sau:

  1. Nếu thấy được sự thật,
    Thật vi diệu, vi tế,
    Với trí tuệ thiện xảo,
    Với tâm tư khiêm tốn,
    Sống rập theo giới luật,
    Do chính đức Phật dạy,
    Với người ấy Niết-bàn,
    Chứng được không khó khăn.

Bài kệ này là lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(LXXII) Atuma (Thera. 11)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con một vị nghị sĩ, được đặt tên là Atuma. Khi ngài lớn lên, mẹ ngài tìm cho ngài một người vợ và hỏi ý kiến bà con, nhưng ngài không chịu vì chán ngấy nếp sống gia đình. Mặc dầu ngài xuất gia và sống với các Tỷ-kheo, mẹ ngài vẫn tìm cách cám dỗ ngài hoàn tục. Ngài nói lên chí nguyện với bài kệ như sau:

  1. Như cây măng lớn mạnh,
    Khó vượt khỏi cây cành,
    Cũng vậy, đến với ta,
    Vấn đề đem vợ về,
    Hãy vui lòng chấp thuận,
    Nay ta đã xuất gia.

Khi ngài đang đứng nói chuyện với mẹ ngài, ngài triển khai thiền quán, từ bỏ các cấu uế, trở thành vị A-la-hán.

(LXXIII) Mànava (Thera. 11)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong nhà một Bà-la-môn có danh tiếng. Trong bảy năm, ngài được nuôi dưỡng trong nhà, không ra ngoài đường; khi được ra ngoài đường, ngài thấy một người già, một người bệnh, một người chết. Ðược nghe thấy những sự kiện này, ngài phát lòng sợ hãi, đi đến tinh xá, nghe thuyết pháp, được cha mẹ cho phép, ngài được xuất gia. Rồi ngài phát triển thiền quán, chứng quả A-la-hán.

Khi ngài đến ngôi tinh xá, các Tỷ-kheo hỏi vì sao ngài xin xuất gia sớm và trẻ như vậy, ngài tuyên bố chánh trí của ngài và nói lên bài kệ này:

  1. Ta thấy một người già,
    Một người khổ bệnh hoạn,
    Ta thấy một người chết,
    Với tuổi thọ kiệt quệ,
    Do vậy ta thoát ra,
    Sống đời sống xuất gia,
    Từ bỏ mọi dục vọng,
    Hấp dẫn và thích ý.

(LXXIV) Suyàman (Thera. 11)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàli, con của một Bà-la-môn. Ngài lớn lên, thiện xảo ba tập Vệ-đà, không ưa thích đời sống gia đình, vui thích thiền định. Ngài gặp Thế Tôn ở Sàli, khởi lòng tin xuất gia, chứng quả A-la-hán, khi đầu được cạo tóc.

Rồi ngài nói lên sự từ bỏ các triền cái và chánh trí của mình, với bài kệ như sau:

  1. Với dục tham, sân hận,
    Với thụy miên hôn trầm,
    Với trạo hối, nghi ngờ,
    Vị Tỷ-kheo hoàn toàn,
    Không còn năm triền cái,
    Năm triền cái đoạn tận.

(LXXV) Susàrada (Thera. 11)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại sanh quán của Tôn giả Sàriputta và được gọi là Susàrada (vì ngài lớn lên chậm chạp). Ngài được Tôn giả Sàriputta giáo hóa và không bao lâu, trong địa vị Tỷ-kheo, ngài chứng quả A-la-hán và nói lên chánh trí của mình với bài kệ như sau:

  1. Lành thay là tri kiến,
    Của bậc có luyện tập,
    Nghi hoặc được cắt đứt,
    Trí giác được tăng trưởng.
    Cho đến kẻ ngu si,
    Ðược đổi thành người trí,
    Do vậy thật tốt đẹp,
    Sống giao thiệp người lành.

(LXXVI) Piyanjaha (Thera. 11)

Ngài được sanh ở Vesàli trong thời đức Phật hiện tại, trong một gia đình quý phái Licchavì. Khi lớn lên, ngài rất thích thú chiến tranh và trở thành một chiến sĩ không ai thắng nổi, sẵn sàng hy sinh những gì thân nhất của mình, đến nỗi ngài được đặt tên là Piyanjaha (vị từ bỏ những gì thân ái). Nhưng khi đức Phật đến Vesàli, ngài khởi lòng tin, xuất gia sống ở trong rừng, phát triển thiền quán, chứng quả A-la-hán. Khi đã chứng quả A-la-hán, ngài nghĩ thật là khác biệt giữa thành công ở đời và thành công bậc Thánh. Với thiền quán ấy, ngài nói lên chánh trí, và tuyên bố bài kệ này:

  1. Khi loài Người kiêu hãnh,
    Hãy hạ thấp ông xuống,
    Khi loài Người hạ thấp,
    Hãy nâng cao tâm ông,
    Hãy sống tại những chỗ,
    Loài Người không muốn sống,
    Tại chỗ ngồi ưa thích,
    Chớ có nên thích thú.

(LXXVII) Hatthàroha- Putta (Thera. 12)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình người nài voi, và lớn lên ngài giỏi trong nghề điều khiển voi. Một ngày kia, khi đang huấn luyện con voi, vì điều kiện chín muồi, ngài suy nghĩ: ‘Chế ngự voi để làm gì cho ta. Tốt hơn là chế ngự ta’. Rồi ngài đi đến Thế Tôn nghe pháp khởi lòng tin, xuất gia, và triển khai thiền quán trên căn bản thiền tư về giới luật. Như một người nài chế ngự thú tánh con voi bằng cái móc, ngài thiền định không cho tư tưởng chạy loạn khỏi đề tài thiền quán, ngài nói lên bài kệ:

  1. Trước tâm này lang thang,
    Chạy chỗ này chỗ khác,
    Chạy chỗ nó ưa thích,
    Chạy chỗ nó vui sướng,
    Nay ta chế ngự tâm,
    Với như lý tư duy,
    Như câu móc chế ngự,
    Nhiếp phục con voi rừng.

Nhờ làm vậy, thiền quán được triển khai, ngài chứng quả A-la-hán.

(LXXVIII) Mendasira (Thera. 12)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàketa, trong một gia đình một thị dân. Vì ngài giống con dê, ngài được tên là Mendasìra (đầu dê). Khi Thế Tôn ở Sàketa, tại rừng Anjana, Mendasìra khởi lên lòng tin, xuất gia tu chỉ và quán, chứng được sáu thắng trí, ngài có thể nhớ đến các kiếp trước:

  1. Ta luân hồi nhiều đời,
    Chạy dài tìm không được,
    Với ta trong khổ sanh,
    Khổ uẩn hay biến dạng.

Và bài kệ này nói lên chánh trí của ngài.

(LXXIX) Rakkhita (Thera. 12)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở thành Devadaha, trong gia đình một quý phái Thích-ca, tên là Rakkhita, ngài là một trong năm trăm các hoàng tử dòng họ Thích-ca được xuất gia để làm hộ chúng cho Thế Tôn, theo quyết định các vua chúa Thích-ca và Koliya. Ðức Phật đã cảm hóa các hoàng tử tuổi trẻ này với câu chuyện tiền thân Kunàla, một bài học về sự nguy hiểm của dục vọng. Liên hệ bài học này với đề tài thiền quán, ngài triển khai thiền quán và chứng quả A-la-hán. Sau đó suy nghĩ đến sự xuất ly của mình khỏi các phiền não, ngài nói lên chánh trí của mình với bài kệ như sau:

  1. Mọi tham ta đã đoạn,
    Mọi sân được nhổ lên,
    Mọi si được từ bỏ,
    Ta mát lạnh tịch tịnh.

(LXXX) Ugga (Thera. 12)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kosala, tại thành phố Ugga, con một gia đình nghị sĩ, được đặt tên là Ugga. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài đến nghe đức Thế Tôn thuyết pháp, khi đức Thế Tôn đến thành này, khởi lòng tin xuất gia, cuối cùng chứng quả A-la-hán. Rồi ngài tuyên bố chặt đứt sợi dây chuyền tái sanh và nói lên chánh trí của ngài với bài kệ như sau:

  1. Mọi nghiệp ta đã làm,
    Dầu ít hay là nhiều,
    Tất cả được đoạn trừ,
    Nay không còn tái sanh.

Phẩm Chín

(LXXXI) Samitigutta (Thera. 12)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, tên là Samitigutta (hộ trì nhờ hòa khí). Nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài xuất gia và chứng được giới thanh tịnh. Do kết quả nghiệp đời trước, ngài bị bệnh hủi, tay chân của ngài rơi xuống từng phần một, ngài sống trong một nhà bệnh.

Một hôm, Tôn giả Sàriputta đi thăm các người bệnh và hỏi thăm các bệnh nhân, thấy Samitigutta, Tôn giả cho một đề tài để thiền quán, nói rằng: ‘Này Hiền giả, nếu nói về vấn đề năm thủ uẩn, thời toàn bộ khổ uẩn là một vấn đề cảm thọ. Và khi không có năm uẩn, thời không có đau khổ’. Nói xong, Tôn giả Sàriputta tiếp tục đi. Nhưng bệnh nhân Samigutta được phấn khởi với bài dạy ấy, triển khai thiền quán và chứng được sáu thắng trí. Nhờ đó, ngài nhớ đến các hành ngài làm đời trước, khiến nay ngài phải mắc bệnh hủi. Và tán thán sự kiện này mọi việc đã được chấm dứt, ngài nói lên bài kệ:

  1. Việc ác ta đã làm,
    Trong các đời sống trước,
    Ở đây chỉ cảm thọ,
    Thọ lãnh từ nghiệp ấy,
    Căn bản các nghiệp khác,
    Thật sự không còn nữa.

(LXXXII) Kassapa (Thera. 12)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con một Bà-la-môn thuộc Tây Bắc (Udicca-hahmanacsa) và được đặt tên là Kassapa. Cha ngài mất khi ngài còn nhỏ, mẹ ngài nuôi ngài lớn lên. Một ngày kia, ngài nghe đức Phật giảng ở Jetavana, ngay lúc ấy nhờ nghiệp duyên thuần thục, ngài chứng được Sơ quả. Ngài đi đến gặp mẹ và xin xuất gia.

Khi đức Phật an cư, làm lễ tự tứ xong, bắt đầu bộ hành, Kassapa muốn được đi theo Thế Tôn. Trước hết ngài đến xin phép bà mẹ và được mẹ cho phép đi với lời khuyên dạy như sau:

  1. Hãy đi tại chỗ nào,
    Khất thực nhận dễ dàng,
    Những chỗ được an toàn,
    Những chỗ không sợ hãi,
    Tại những chỗ như vậy,
    Này con, con hãy đi,
    Chớ khiến cho đời con,
    Sầu muộn bị va chạm.

Ngài suy nghĩ ‘Mẹ ta muốn ta đến đến chỗ ta giải thoát khỏi phiền não, như vậy đây là dịp cho ta đạt được giải thoát hoàn toàn, không có sầu não buồn phiền’.

Rồi ngài cố gắng triển khai thiền quán, chứng quả A-la-hán. Vì rằng lời khuyên của mẹ giúp ngài tinh tấn hành trì chứng quả, nên ngài nói lại bài kệ ấy.

(LXXXIII) Sìha (Thera. 12)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở xứ Malla, trong gia đình hoàng tộc và được đặt tên là Sìha. Khi thấy đức Phật, ngài bị cảm hóa, đảnh lễ và ngồi xuống một bên, bậc Ðạo Sư biết được tâm tư của ngài, thuyết pháp cho ngài, ngài khởi lòng tin, xuất gia và lấy một đề tài vào trong rừng để thiền quán. Tâm tư của ngài bị nhiều đối tượng ám ảnh, ngài không thể thiền định, bậc Ðạo Sư thấy vậy, liền nói lên với ngài bài kệ như sau:

  1. Hỡi Sìha, hãy sống,
    Không buông lung, phóng dật,
    Ngày đêm không biếng nhác,
    Kiên trì trong tu tập,
    Hãy thực hành thiện pháp,
    Gấp bỏ thân tích tụ.

Nhờ vậy ngài có thể triển khai thiền quán và chứng quả A-la-hán. Lúc nói lên chánh trí của mình, ngài đọc lại bài kệ trên.

(LXXXIV) Nita (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Sàvatthi, con một Bà-la-môn và được đặt tên là Nita. Khi lớn lên, ngài nghĩ: ‘Các tu sĩ Thích-ca thật may mắn, được cúng dường đầy đủ các vật cần dùng. Thật là một đời sống thoải mái, đời sống của một Tu sĩ’. Rồi ngài xin xuất gia để được sống thoải mái, không chú ý đến tu tập, ăn no, nói chuyện nhảm nhí, và ban đêm ngủ dài. Bậc Ðạo Sư thấy được thiện duyên của ngài đời trước, nên nói lên bài kệ này để giáo giới ngài.

  1. Trọn đêm Thầy nằm ngủ,
    Ban ngày thích tụ hội,
    Kẻ ngu sống như vậy,
    Sẽ đoạn khổ được sao?

Bị dao động bởi lời dạy của bậc Ðạo Sư, ngài triển khai thiền quán, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi ngài nói lên chánh trí của ngài, bằng cách lập lại bài kệ trên.

(LXXXV) Sunàga (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở làng Nàlaka, con một Bà-la-môn và bạn của Sàriputta trước khi Sàriputta xuất gia. Nghe Tôn giả Sàriputta thuyết pháp, ngài xuất gia, an trú trên thiền quán và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Do vậy, khi ngài dạy cho các Tỷ-kheo, ngài nói lên chánh trí của ngài với bài kệ:

  1. Thiện xảo tướng của tâm,
    Biết vị ngọt viễn ly,
    Hành thiền, niệm, thận trọng,
    Chứng lạc không thế tục.

(LXXXVI) Nàgita (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ỏ Kapilavatthu, trong gia đình hoàng tộc Thích-ca, tên là Nàgita. Khi bậc Ðạo Sư đến tại chỗ của ngài, Thế Tôn thuyết kinh Mật Hoàn, ngài khởi lòng tin, xuất gia không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi hân hoan với sự thật trong lời dạy của đức Phật, và sự chỉ đạo có hiệu quả của Chánh pháp, ngài nói lên bài kệ này:

  1. Ngoài đây có ngoại đạo,
    Họ dạy những con đường,
    Không như con đường này,
    Ðưa đến quả Niết-bàn,
    Thật khác, đức Thế Tôn,
    Giáo giới hàng Tăng chúng,
    Ðạo Sư chỉ Niết-bàn,
    Như thấy trên bàn tay.

(LXXXVII) Pavittha (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sống ở quốc độ Magadha, trong một gia đình Bà-la-môn, tánh thiên về đời sống ẩn sĩ, ngài trở thành một du sĩ. Sau khi học tập, ngài đi chỗ này chỗ khác, nghe Upatissa và Kolita (Sàriputta và Moggallàna) xuất gia theo đức Phật, nghĩ rằng giáo hội này phải tốt đẹp mới có những vị như vậy chấp nhận. Ngài đến nghe đức Phật thuyết pháp, khởi lòng tin, xuất gia không bao lâu chứng quả A-la-hán, ngài nói lên chánh trí của ngài với bài kệ này:

  1. Thấy như thật các uẩn,
    Mọi sanh hữu phá hủy,
    Ðoạn sanh tử luân hồi,
    Nay không còn tái sanh.

(LXXXVIII) Ajjuna (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong gia đình một nghị sĩ, được đặt tên là Ajjuna. Khi lớn lên, ngài liên hệ với phái Ni-kiền-tử, xuất gia trong tôn phái này khi còn trẻ, nghĩ rằng sẽ tìm được đạo giải thoát. Nhưng ngài không tìm được gì trong giáo hội ấy, ngài gặp bậc Ðạo Sư, khởi lòng tin, xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Hân hoan trong quả chứng của mình, ngài nói lên bài kệ này:

  1. Ta có thể tự mình,
    Kéo nước từ đất liền,
    Như nước lớn cuốn trôi,
    Ta thể nhập sự thật.

(LXXXIX) Devasabha (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài là con của một hoàng tộc, lên ngôi vua khi còn trẻ. Nhưng khi tỉnh ngộ, ngài đi nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, từ bỏ ngôi vua, xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Ngài hân hoan khi nghĩ đến những uế nhiễm ngài đã từ bỏ, và nói lên bài kệ này:

  1. Vượt khỏi các bùn nhơ,
    Từ vực thẳm trở về,
    Thoát bọc lưu trói buộc,
    Mọi kiêu mạn tiêu trừ.

(XC) Sàmidatta (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con một Bà-la-môn, được đặt tên là Sàmidatta. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài nghe uy lực của đức Phật, và đi đến tinh xá với những cư sĩ để nghe bậc Thế Tôn thuyết pháp, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Nhưng vì thiếu kinh nghiệm trong một thời gian, ngài không có nhiệt tâm tu tập, cuối cùng, lại được nghe đức Phật thuyết pháp, ngài trở nên phấn khởi, nhiệt tâm và chứng thực quả A-la-hán.

Về sau, các Tỷ-kheo hỏi ngài: ‘Làm sao Hiền giả chứng được pháp Thượng nhân?’ Và ngài nói lên hiệu năng của giáo pháp, sự tu chứng pháp và tùy pháp. Ngài tuyên bố chánh trí của ngài trong bài kệ như sau:

  1. Năm uẩn được rõ biết,
    Tồn tại sẽ cắt đứt,
    Vòng sanh tử đoạn tận,
    Nay không còn tái sanh.

Phẩm Mười

(XCI) Paripunnaka (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu trong gia đình dòng họ Thích-ca. Vì khả năng và tài sản của ngài được viên mãn. Ngài được biết với tên là Paripumaka (viên mãn), ngài có đủ điều kiện để luôn luôn thưởng thức các vị ăn ngon. Nhưng khi ngài được nghe bậc Ðạo Sư dùng các đồ ăn khất thực, ngài nghĩ: ‘Thế Tôn được nuôi dưỡng rất được nuông chiều, nhưng nay Ngài lại dùng các đồ ăn như vậy để hưởng Niết-bàn an lạc. Vậy sao ta lại ham muốn đồ ăn ngon?’. Bị dao động, ngài từ bỏ gia đình, xuất gia, lấy đề tài tu tập về thân từ nơi bậc Ðạo Sư, cuối cùng ngài chứng quả A-la-hán. Rồi ngài nói lên bài kệ này:

  1. Dầu có hưởng món ăn,
    Như cam lồ trăm vị,
    Nhưng không thể sánh bằng,
    Món ta ăn hôm nay;
    Ðây là Pháp vi diệu,
    Ðược Phật Go-ta-ma,
    Bậc tri kiến vô lượng,
    Ðã thuyết giảng cho ta.

(XCII) Vijaya (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Vijaya. Khi được học giáo lý Bà-la-môn, ngài xuất gia, đời sống một vị ẩn sĩ, sống trong rừng, thực hành thiền định, ngài nghe đến sứ mệnh của đức Phật, hoan hỷ đến kính chào Thế Tôn và nghe pháp. Rồi ngài xuất gia trong giới luật của đức Phật, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Ngài nói lên chánh trí của ngài trong bài kệ sau đây:

  1. Với ai, lậu hoặc đoạn,
    Không y tựa đồ ăn,
    Hành xứ, không, vô tướng,
    Giải thoát cũng như vậy,
    Như chim trên hư không,
    Dấu chân thật khó tìm.

(XCIII) Eraka (Thera. 14)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con của một người có địa vị, được đặt tên là Eraka. Ngài khôi ngô, tuấn tú, làm mọi công việc đều thông suốt thành tựu.

Cha mẹ cưới cho ngài một người vợ trẻ đẹp có giới hạnh. Nhưng vì là đời sống cuối cùng nên ngài sanh dao động và tìm kiếm đến gặp bậc Ðạo Sư. Khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài xuất gia, bậc Ðạo Sư cho ngài đề tài để tu hành, nhưng trong một thời gian ngài bị các suy tư bất thiện ám ảnh, đức Thế Tôn biết được tâm tư của ngài nên nói lên bài kệ dạy ngài, ngài rất hối hận sở hành của mình khi nghe lời Phật dạy, ngài trở nên tinh tấn, phát triển thiền quán, không bao lâu chứng quả A-la-hán, Ngài nói lên chánh trí của ngài với bài kệ sau đây:

  1. Hỡi này Ê-ra-ka,
    Khổ thay là các dục!
    Hỡi này Ê-ra-ka,
    Không lạc là các dục!
    Ai tham dục các dục,
    Là tham dục đau khổ,
    Ai không tham các dục,
    Là không tham dục khổ.
    Hỡi này Ê-ra-ka!
    Hãy biết là như vậy.

(XCIV) Mettajì (Thera. 14)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở nước Magadha (Ma-kiệt-đà), con một vị Bà-la-môn và được đặt tên là Mettajì. Lớn lên, ngài thấy sự đau khổ của dục và sống ở trong rừng làm một vị ẩn sĩ. Khi nghe sứ mệnh đức Phật và do thiện duyên thúc đẩy, ngài đến gặp đức Phật và hỏi về sự tu hành tấn thối của Ngài, câu trả lời của đức Phật khiến ngài phát khởi lòng tin xuất gia, và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Với bài kệ này, ngài tán thán bậc Ðạo Sư:

  1. Ðảnh lễ đức Thế Tôn,
    Thích tử bậc điềm lành,
    Quả chứng này đạt được,
    Là quả vị thượng thủ,
    Pháp Ngài khéo thuyết giảng,
    Là Chánh pháp tối thượng.

(XCV) Cakkupàla (Thera. 14)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con của người điền chủ tên Mahàsuvanna, được đặt tên là Pàla, ngài cũng được gọi là Pàla anh, vì em ngài được gọi là Pàla em, cả hai anh em được cha mẹ giao phó cho những công việc ở gia đình. Khi bậc Ðạo Sư đến tinh xá Kỳ Viên, Pàla anh giao gia sản cho người em và xuất gia. Sau sáu năm làm Sa-di, ngài đi với sáu mươi Tỷ-kheo để học hỏi Chánh pháp. Các vị này lựa một ngôi rừng gần một ngôi làng biên địa, tại chỗ ấy, dân làng là các Phật tử cư sĩ, và ngài sống trong một chòi lá, sống hạnh viễn ly của một vị tu hành.

Ngài bị đau mắt và một vị thầy thuốc cho thuốc chữa, ngài không chịu nghe theo lời thầy thuốc, bệnh nặng thêm. Ngài nghĩ: ‘Thà làm cho chấm dứt các kiết sử của ta, còn tốt hơn là chấm dứt bệnh đau mắt’. Như vậy, ngài bỏ qua bệnh đau mắt, chỉ lo phát triển thiền quán, cho đến khi ngài chứng quả A-la-hán thời cũng mù mắt luôn. Ngài được gọi là vị A-la-hán khô.

Các cư sĩ hỏi các Tỷ-kheo về ngài và nghe nói ngài mù nên các cư sĩ hết lòng săn sóc cho ngài. Rồi các Tỷ-kheo khác cũng chứng quả A-la-hán và đề nghị đến Sàvatthi (Xá-vệ) để yết kiến bậc Ðạo Sư. Nhưng ngài nói: ‘Tôi yếu và mù, con đường đi không phải là không nguy hiểm. Tôi sẽ làm trở ngại cho các vị, các vị hãy đi trước, thay mặt tôi đảnh lễ bậc Ðạo Sư và các đại đệ tử khác, hãy nói với Pàla em tôi về tình trạng của tôi, và gửi cho tôi một người giúp đỡ”. Cuối cùng, các Tỷ-kheo nhận lời đi, sau khi từ biệt các vị hộ chủ và sắp đặt cho ngài một chỗ ở. Các Tỷ-kheo làm theo lời dặn của ngài và Pàla em bảo người cháu tên là Pàlika đi đến giúp đỡ ngài. Các Tỷ-kheo làm lễ xuất gia cho Pàlika, vì con đường đi không có an toàn cho một người cư sĩ. Pàlika đi đến ngài và cả hai người đều lên đường đi đến Sàvatthi. Giữa đường, Pàlika nghe một phụ nữ hát và đến tình tự với người ấy. Ngài biết được nên đuổi Pàlika đi, một mình đi đến Sàvatthi. Hạnh đức của ngài làm cho chỗ ngồi của Sakka (Ðế Thích) nóng và Sakka hiện hóa một người dẫn đường cho ngài đi đến tinh xá Kỳ Viên, ngay vào buổi chiều ấy. Trong khi ngài ở Kỳ Viên, Pàla em lo phụng dưỡng ngài, ngài nói lên bài kệ như sau, khi ngài đuổi Pàlika đi.

  1. Dầu ta có bị mù,
    Dầu mắt ta hư hoại,
    Dầu con đường ta đi,
    Dầu gai góc khó khăn,
    Ta sẽ tự mình đi,
    Dấn thân trên đường ấy,
    Nhưng ta không cùng đi,
    Kẻ ác hạnh như vậy.

(XCVI) Khandasumana (Thera. 14)

Trong thời đức Phật hiện tại, tái sanh trong một gia đình của vua Màlla, ngài được đặt tên là Khandasumana (Bông lài), vì khi ngài sanh, bông lài nở hoa, ngài nghe đức Phật thuyết pháp khi đức Phật trú ở tại rừng xoài của Cunda ở Ràvà, xuất gia và chứng được sáu thắng trí. Rồi ngài nhớ đến đời sống quá khứ khi ngài cúng một nhánh bông lài tại tháp của đức Phật Kassapa, trong khi tất cả bông hái được đều thuộc về của vua. Nhận thấy cử chỉ của ngài giúp ngài chứng được quả Niết-bàn, ngài nói lên bài kệ như sau:

  1. Do một bông từ bỏ,
    Ðược hưởng tám ức năm,
    Sống trong cảnh cõi trời,
    Còn số năm còn lại,
    Ta được sống tịch tịnh.

(XCVII) Tissa (Thera. 14)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại thành phố Roguva trong một gia đình vua chúa. Khi phụ vương mất, ngài tiếp nối sự nghiệp của vua cha. Như một đồng minh với vua Bimbisàra, ngài gửi vua các tặng vật châu báu, ngọc và y áo. Vua gửi ngài đời sống của đức Phật vẽ trên tấm tranh và lý duyên khởi được khắc trên một đĩa bằng vàng. Khi ngài thấy vật này, vì lời phát nguyện trước các đức Phật quá khứ, vì nhân duyên đời sống cuối cùng, ngài suy tư định lý ấy, quán sát qua lại nhiều lần, học thuộc lòng nhiều lần, cho đến khi ngài cảm thấy dao động và đi đến kết luận: ‘Nay ta đã được thấy hình dung của Thế Tôn cùng với quá trình giáo lý của Ngài. Các dục đầy những đau khổ, vậy ta sống đời sống gia đình làm gì?’ Rồi ngài thoái vị, xuất gia, cầm bát bằng đất và với một số quần chúng đi theo và khóc than, như Hoàng tử Pukkusàti, ngài từ bỏ hoàng cung, đi đến Rajagaha (Vương Xá). Tại đấy, ngài ở tại hang Sabhasondika và yết kiến Thế Tôn. Nhờ Thế Tôn thuyết pháp, ngài chứng quả A-la-hán. Nói đến kinh nghiệm bản thân, ngài nói lên bài kệ:

  1. Từ bỏ trăm bình bát,
    Bằng đồng, vàng quý giá,
    Ta cầm lấy bình bát,
    Làm bằng đất sét thường,
    Ðây là lần thứ hai,
    Ta làm lễ quán đảnh.

(XCVIII) Abhaya (2) (Thera. 14)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Abhaya. Sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, ngài xuất gia. Một hôm, ngài đi khất thực ở trong làng, thấy một nữ nhân ăn mặc rất đẹp đẽ, tâm tư ngài bị dao động, khi trở về tịnh xá, ngài suy nghĩ: ‘Thấy một sắc pháp, tâm ta sanh cấu uế, ta đã phạm lỗi lầm’. Từ bỏ tâm tư ấy, ngài phát triển thiền quán và chứng A-la-hán. Rồi ngài nói lên sự sai lầm và sự thức tỉnh của ngài ngang qua bài kệ:

  1. Thấy sắc, mất chánh niệm,
    Tác ý tưởng luyến ái,
    Tâm cảm thọ say mê,
    Ðắm trước tưởng an trú,
    Các lậu hoặc tăng trưởng,
    Ðưa đến gốc sanh hữu.

(XCIX) Uttiya (Thera. 14)

Ngài tái sanh ở Kapilavatthu, trong thời đức Phật hiện tại, trong một gia đình vương tộc Thích-ca, được đặt tên là Uttiya. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài chứng kiến sức mạnh của đức Phật, khi ngài đến thăm các gia đình bà con của ngài, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Trong thời kỳ tu học, ngài đi vào làng khất thực, nghe một nữ nhân ca hát, thiền định của ngài bị thối thất và lòng dục khởi lên. Chế ngự với sức mạnh suy tư, ngài bước vào tịnh xá rất dao động, ngài ngồi thiền định vào buổi trưa, phát triển thiền quán, chứng quả A-la-hán.

Rồi ngài nói lên sự giải thoát của ngài khỏi đau khổ sanh tử, nhờ nhàm chán các dục trong bài kệ sau đây:

  1. Nghe tiếng, mất chánh niệm,
    Tác ý tưởng luyến ái,
    Tâm cảm thọ say mê,
    Ðắm trước tưởng an trú,
    Các lậu hoặc tăng trưởng,
    Ðưa đến nhiễm luân hồi.

(C) Devasabha (II) (Thera. 14)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài tái sanh trong một gia đình hoàng tộc Thích-ca, và được đặt tên là Devasabha. Khi lớn lên ngài khởi lòng tin khi Thế Tôn giải quyết sự tranh chấp giữa dòng họ Thích-ca và dòng họ Koliya, ngài xin quy y ba ngôi báu. Khi đức Phật ở vườn cây bàng, ngài đi đến gặp Thế Tôn, lần này ngài xuất gia, ngài chứng quả A-la-hán , trú trên an lạc giải thoát, ngài nói lên sự phấn khởi của ngài với bài kệ như sau:

  1. Thành tựu chánh tính tấn,
    Sở hành trên niệm xứ,
    Tràn đầy hoa giải thoát,
    Sẽ nhập diệt, vô lậu.

Phẩm Mười Một

(CI) Belatthakàni (Thera. 15)

Tái sanh trong thời đức Phật hiện tại ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn, ngài được đặt tên là Belatthakàni. Sau khi nghe đức Phật thuyết giảng, ngài xuất gia, tu tập chỉ quán trong một khu rừng ở Kosala. Nhưng ngài rất biếng nhác và hay nói lời thô ngữ, do vậy tâm tư ngài không chơn chánh để tu tập, Thế Tôn biết được thiền quán chín muồi của ngài, khích lệ ngài với bài kệ như sau:

  1. Từ bỏ đời cư sĩ,
    Trách nhiệm chưa làm xong,
    Dùng miệng như cái cày,
    Bụng ăn no, biếng nhác,
    Như con heo to lớn,
    Ðồ ăn thật đầy đủ,
    Kẻ nhác lại liên tục,
    Ði đến chỗ thai tạng.

Như thấy đức Bổn Sư trước mặt, ngài cảm thấy xúc động mãnh liệt khi nghe bài kệ này và triển khai thiền quán, không bao lâu chứng quả A-la-hán, ngài dùng bài kệ này nói lên chánh trí của ngài.

(CII) Setuccha (Thera. 15)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một vị Của địa phương. Không thể giữ nước nhà độc lập, ngài bị mất ngôi vua. Lang thang trong nước với tâm tư sầu khổ, ngài thấy và nghe Thế Tôn thuyết pháp, xuất gia, chứng quả A-la-hán. Cân nhắc trong bài kệ, chống đối đời thế tục, ngài nói lên chánh trí của ngài:

  1. Bị kiêu mạn lừa đảo,
    Tâm uế nhiễm trong hành,
    Lợi bất lợi, dao động,
    Họ không chứng thiền định.

(CIII) Bandhura (Thera. 15)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở thành Silàvatì, con của một người nghị sĩ được đặt tên là Bandhara. Một hôm, đi đến Sàvatthi có công việc, ngài đi với một số cư sĩ đến ngôi tinh xá, nghe Thế Tôn thuyết giảng, khởi lòng tin, xuất gia và chứng quả A-la-hán. Ðể đền ơn vị vua của mình, đã giúp đỡ cho ngài thành công, ngài đi đến Sìlavatì để thuyết pháp, giảng cho vị vua về Bốn sự thật. Vị vua trở thành một Phật tử, xây dựng một ngôi tinh xá lớn đặt tên là Sudassana, cúng dường cho ngài. Ngài cúng dường tất cả cho giáo hội, đi khất thực như lúc trước và ngài muốn đi đến Sàvatthi. Các Tỷ-kheo nói với ngài: ‘Hãy ở lại đây với chúng tôi, nếu Hiền giả thiếu thốn điều gì, chúng tôi sẽ tìm kiếm cho Hiền giả!’. Ngài trả lời: ‘Tôi không có cần điều gì khác, tôi sống với những gì tôi có được. Tôi tự bằng lòng với vị của Chánh pháp’. Và ngài nói lên bài kệ:

  1. Ta không có cần thiết,
    Việc này hay vật này,
    Ta sống trong hạnh phúc,
    Thọ hưởng được pháp vị.
    Sau khi uống vị ngọt,
    Tối thượng và đệ nhất,
    Ta sẽ không thân thiết,
    Với thuốc độc nọc độc.

(CIV) Khitaka (Thera. 15)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ), trong gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên, nghe danh tiếng của ngài Mahà Moggallàna (Ðại Mục-kiền-liên) về thần thông lực, ngài nghĩ: ‘Ta rồi cũng sẽ như vậy’. Thúc đẩy bởi thiện duyên đời trước, ngài xuất gia tinh tấn tu tập chỉ và quán, không bao lâu chứng được sáu thắng trí. Rồi dùng sáu thắng trí ấy, ngài bắt đầu thi ơn cho chúng sanh với thần túc thông và tha tâm thông. Khi các Tỷ-kheo hỏi ngài: ‘Hiền giả Khitaka, có phải Hiền giả dùng thần thông?’, ngài trả lời với bài kệ:

  1. Thân ta thật nhẹ nhàng,
    Cảm xúc hỷ lạc lớn,
    Như bông thổi trước gió,
    Thân ta nhẹ trôi bay.

(CV) Malytavambha (Thera. 15)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn, ở thành phố Kurukaccha. Ngài được Trưởng lão Bacchabhu cảm hóa và xuất gia, tu tập thiền quán, ngài trú tại chỗ đồ ăn khất thực khó kiếm, chỗ nào ba đồ vật dụng cần thiết khó kiếm, còn đồ ăn khất thực dễ kiếm thời ngài bỏ đi. Tiếp tục như vậy, và nhờ thiện duyên đời trước, ngài trở thành bậc Ðại nhân, phát triển thiền quán và chứng được quả A-la-hán. Suy nghĩ trên quả chứng của mình, ngài nói lên bài kệ:

  1. Ta không muốn an trú,
    Khi ta không vừa ý,
    Chỗ nào có lạc thú,
    Ta liền rời bỏ đi,
    Tại chỗ nào mục đích,
    Không phải không liên hệ,
    Chỗ ấy, người có mắt,
    Có thể an trú được.

(CVI) Suhemanta (Thera. 15)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở nơi biên địa, con một Bà-la-môn giàu có, ngài đến nghe đức Phật thuyết pháp, tại vườn Lộc Uyển ở thành phố Sankassa, Ngài xuất gia và trở thành người tụng đọc ba Tạng, cuối cùng chứng được sáu thắng trí. Ngài suy nghĩ: ‘Ta đã được những gì một người đệ tử có thể chứng. Vậy ta hãy phục vụ cho giáo hội’. Rồi ngài thuyết giảng cho các Tỷ-kheo và giải quyết các vấn đề khó khăn của các vị ấy. Một hôm, ngài nói với đại chúng và các người có trí như sau:

  1. Tại chỗ nào mục đích,
    Trăm tánh, tướng ẩn chứa,
    Kẻ ngu thấy một phần,
    Kẻ trí thấy trăm phần.

Như vậy, vị Trưởng lão nói lên trước các Tỷ-kheo về trí tuệ, phân tích biệt tài của ngài.

(CVII) Dhammasava (Thera. 15)

Sanh tại xứ Magadha (Ma-kiệt-đà), trong một gia đình Bà-la-môn, bị thúc đẩy bởi điều kiện chín muồi, ngài chọn đời sống xuất gia, bỏ đời sống thế tục. Tìm gặp bậc Ðạo Sư ở núi Nam Sơn, ngài nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, xin xuất gia, sau một thời gian chứng quả A-la-hán. Hoan hỷ với quả chứng của mình, ngài nói lên bài kệ:

  1. Cân nhắc, suy tư xong,
    Ta xuất gia, không nhà,
    Ba minh ta đạt được,
    Lời Phật dạy, làm xong.

(CVIII) Phụ Thân Của Dhammasava (Thera. 15)

Ngài theo gương người con, nói rằng: ‘Con ta từ bỏ đời sống thế tục khi còn trẻ như vậy, sao ta không noi theo gương?’ Rồi ngài tìm gặp Thế Tôn xuất gia, không bao lâu chứng quả A-la-hán và nói lên bài kệ:

  1. Với tuổi trăm hai mươi,
    Ta xuất gia không nhà,
    Ba minh ta đạt được,
    Lời Phật dạy, làm xong.

(CIX) Langha Rakkhita (Thera. 16)

Trong thời đức Phật tại thế , sanh trong một gia đình giàu có ở Sàvatthi. Ngài tìm được lòng tin, xuất gia, lấy một đề tài để thiền quán, và cùng với một Tỷ-kheo sống trong rừng. Không xa chỗ ngài ở, có con nai mẹ nuôi con nai con trong một đám cây rậm rạp, vì thương con, con nai mẹ không đi xa được, nên phải đói khát, không đủ cỏ, nước gần đó. Thấy vậy, ngài nói: ‘Thật vậy, thế giới này bị ái triền trói buộc, sống trong đau khổ, không thể chặt đứt được!’. Với cảm thọ ấy để khích lệ, ngài phát triển thiền quán, chứng quả A-la-hán. Thấy bạn mình nuôi dưỡng nhiều tư tưởng sai lầm, ngài giáo giới bạn mình với bài kệ như sau:

  1. Dầu có sống cô độc,
    Với lòng thương từ mẫn,
    Của bậc đã lo nghĩ,
    Ðến hạnh phúc tối thượng,
    Vị này vẫn không nghĩ,
    Ðến lời dạy Bổn Sư.
    Như vậy vị ấy sống,
    Với căn còn mộc mạc,
    Chẳng khác con nai cái,
    Non yếu trong khu rừng.

Khi nghe những lời này, vị Tỷ-kheo kia bị dao động mạnh, phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán.

(CX) Usabha (Thera. 16)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình giàu có ở Kosala, ngài khởi lên lòng tin khi bậc Ðạo Sư nhận lãnh tinh xá Jetavana (Kỳ Viên). Sau khi hành trì hạnh Sa-di, ngài sống trong rừng dưới chân núi. Vào mùa mưa, các mây xả mưa xuống cây cỏ trong rừng, các bụi cây nhóm cây đều đầy những hoa lá. Rồi ngài từ hang đi ra, thấy cây cối xanh tươi đẹp nên nghĩ rằng: ‘Các cây và các cây lau này không có ý thức, tuy vậy với mùa mưa tiếp sức, chúng được lớn mạnh. Sao ta lại không làm lớn mạnh các đức tánh tốt đẹp khi ta đã đạt thời tiết thuận tiện?’ Rồi ngài nói lên bài kệ, tuyên bố chánh trí của ngài, và với tinh tấn nghị lực, ngài chứng quả A-la-hán.

  1. Những cây được vươn cao,
    Nhờ mây cao tưới mát,
    Với mưa mới thấm nhuần,
    Ðược xanh tươi lớn mạnh,
    Ðối với U-xa-bha,
    Ưa thích sống viễn ly,
    Ý thức được rừng núi,
    Vị ấy khiến sanh khởi,
    Rất nhiều điều tốt đẹp.

Phẩm Mười Hai

(CXI) Jenta (Thera. 16)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong nước Magadha (Ma-kiệt-đà), tại làng Jenta, con một vua địa phương. Khi đang còn trẻ, vì nghiệp duyên thúc đẩy, ngài muốn xuất gia, suy tư đến đời sống thoát tục. Ngài nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, rồi xuất gia. Tinh cần tu tập, hân hoan trong thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Suy tư đến quả chứng của mình, nhớ đến những phân vân phải gặp lúc trước, ngài phấn khởi nói lên bài kệ:

  1. Khó thay, đời xuất gia,
    Khó thay, đời cư sĩ,
    Sâu kín thay, Chánh pháp,
    Khó kiếm thay, tài sản,
    Lựa chọn thật khó khăn,
    Nếp sống này, sống khác,
    Khi tâm trí, luôn luôn,
    Nghĩ đến lẽ vô thường.

(CXII) Vacchagotta (Thera. 16)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con một Bà-la-môn giàu có. Vì có đến bốn vị Trưởng lão tên Vaccha, ngài được gọi là Vacchagotta. Khi đến tuổi trưởng thành, giỏi về Bà-la-môn giáo điển, ngài cảm thấy không thỏa mãn, vì không tìm thấy lõi cây trong sự học hỏi ấy, sau ngài trở thành một du sĩ. Nhờ vậy, ngài gặp bậc Ðạo Sĩ, bằng lòng với những câu trả lời, ngài xuất gia, và sau một thời gian, chứng được sáu thắng trí, hân hoan với quả chứng và nếp sống của mình, ngài nói lên bài kệ:

  1. Ta chứng được Ba minh,
    Ðạt được đại thiền định,
    Tâm chỉ được thiện xảo,
    Ta đạt được mục đích,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CXIII) Vanavaccha (Thera. 16)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một Bà-la-môn giàu có ở Ràjagaha (Vuơng Xá), được đặt tên là Vanavaccha. Ngài khởi lòng tin khi bậc Ðạo Sư hội kiến với vua Bimbisàra (Bình-sa). Sau ngài xuất gia, chứng quả A-la-hán. Khi đã chứng quả A-la-hán, ngài sống trong rừng, thiên tu hạnh viễn ly, do vậy được gọi là Vanavaccha. Một hôm, ngài muốn giúp ích cho bà con đi đến Ràjagaha, sống trong một chỗ ở nhỏ, và nói với họ nếp sống của mình. Các bà con yêu cầu ngài dùng bài kệ này nói lên ngài ưa thích sống ở rừng núi và hành trì hạnh viễn ly:

  1. Dưới tảng đá, băng đá
    Có nước suối, trong chảy,
    Có khỉ và có nai,
    Lai vãng sống gần bên,
    Cỏ cây bao trùm nước,
    Núi rừng ấy, ta ưa.

Bài kệ này trở thành lời nói chánh trí của ngài.

(XIV) Adhimutta (Thera. 16)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn giàu có ở Sàvatthi, tên là Adhimutta. Ngài cảm thấy bất mãn khi thấy giáo lý Bà-la-môn không có gì căn bản. Chứng kiến uy nghi đức độ của đức Phật khi tinh xá Kỳ Viên được dâng cúng, ngài xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán, ngài giáo giới các Tỷ-kheo sống với ngài, các vị này rất là lực lưỡng, với bài kệ sau đây:

  1. Trong nếp sống tâm tư,
    Hướng về hạnh từ bỏ,
    Với thân thể thô lỗ,
    Nặng nề như thế này,
    Nếu ham muốn thân thể,
    Ðược thọ hưởng các lạc,
    Từ đâu thành tựu được,
    Hạnh của bậc Sa-môn?

(CXV) Mahànàma (Thera. 16)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Sàvatthi trong gia đình một Bà-la-môn, được đặt tên là Mahànàma, ngài được nghe Thế Tôn thuyết pháp, khởi lòng tin và xuất gia. Lấy một đề tài làm thiền quán, ngài sống trên một ngọn đồi tên là Nesàdka. Không thể chận đứng được các dục tưởng khởi lên, ngài tuyên bố: ‘Ðời này của ta có ý nghĩa gì, với tâm tư uế nhiễm như vậy’. Tự nhàm chán với chính mình, ngài leo lên một đỉnh núi, và như muốn lao mình xuống, ngài nói với chính mình như nói với một người khác: ‘Ta sẽ giết nó!’ với bài kệ như sau:

  1. Hãy xem, sao đời nay,
    Lại chấm dứt ở đây,
    Với hòn núi nhiều ngọn,
    Và nhiều cây cối này?
    Núi Nesàdaka,
    Một ngọn núi có danh,
    Rập rạp với cỏ cây,
    Che kín trùm tất cả.

Tự mình trách móc như vậy, vị Trưởng lão phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Bài kệ trên trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(CXVI) Pàràpariya (Thera. 17)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Ràjagaha (Vương Xá) và trở thành rất giỏi trong ba tập Vệ-đà. Vì ngài thuộc dòng họ Pàràpara, ngài được gọi là Pàràpariya và dạy các bùa chú. Ngài thấy oai nghi đức độ của đức Bổn Sư ở Pàràjagaha, xin xuất gia và chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Nghĩ đến đời sống hành đạo của mình, ngài nói lên sự phấn khởi hân hoan của ngài, ngang qua bài kệ:

  1. Từ bỏ sáu xúc xứ,
    Căn môn khéo chế ngự,
    Gốc tà ác, nhổ sạch,
    Ta đạt lậu hoặc tận.

Bài kệ này trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(CXVII) Yasa (Thera. 17)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình nhân sĩ rất giàu có ở Benares (Ba-la-nại). Ngài được nuôi dưỡng rất tinh tế, và có ba lâu đài hợp với ba mùa. Một đêm, do nhân duyên quá khứ thúc đẩy ngài thấy cảnh bất tịnh của những người hầu cận ngài. Quá xúc động trước cảnh tượng ấy, ngài đi đôi dép vàng, từ bỏ thành, nhà và được chư Thiên mở cửa thành cho. Ngài đi đến Isipatana (Chư Thiên đọa xứ), vừa đi vừa than ‘Ôi sầu khổ thay! Ôi nguy hiểm thay!’. Lúc ấy, Thế Tôn đang đi ngoài trời ở Isipatana, thấy Yasa như vậy liền gọi: ‘Hãy đến đây, này Yasa! Ở đây, không có sâu khổ, không có nguy hiểm!’. Nghe vậy, ngài rất hoan hỷ, cởi dép để một bên, ngồi xuống bên cạnh Thế Tôn. Bậc Ðạo Sư thứ lớp thuyết giảng cho Yasa về Bốn sự thật, khi giảng xong. Ngài trở thành một Phật tử. Và khi đức Phật thuyết giảng cho phụ thân Yasa đến kiếm ngài, ngài chứng quả A-la-hán.

Rồi đức Phật đưa bàn tay mặt ra đón Yasa và nói: ‘Hãy đến, này Tỷ-kheo’, khi nói vậy, tóc của Yasa được cắt ngắn lại bằng hai ngón tay và có được đầy đủ tám vật cần dùng. Suy tư đến quả chứng và nếp sống của mình, ngài cảm thấy hân hoan khi nghe hai chữ: ‘Hãy đến đây, Tỷ-kheo’ và nói lên bài kệ:

  1. Khéo thoa xức, khéo mặc,
    Dùng mọi loại thời trang,
    Ta chứng được Ba minh
    Lời Phật dạy làm xong.

(CXVIII) Kimliba (Thera. 17)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), trong một gia đình một vị vua dòng họ Thích-ca, tên là Kimbila, ngài hưởng được tài sản rất nhiều. Bậc Ðạo Sư thấy được thiền quán của ngài chín muồi khi ngài ở Anupiya, để khích lệ ngài, Thế Tôn cho hiện lên một nữ nhân rất đẹp trong tuổi trẻ và làm cho ngài thấy nữ nhân ấy từ tuổi trẻ bước qua tuổi già. Kimbila thấy vậy rất xúc động và nói lên bài kệ:

  1. Như bị lời trù yếm,
    Tuổi già đến áp đảo,
    Dung sắc bị đổi khác,
    Nhưng cũng dung sắc trước;
    Vị ấy như thế nào,
    Không có gì thay đổi,
    Nhưng ta chớ tự ngã,
    Có gì đã đổi khác.

Nghĩ đến lẽ vô thường, ngài cảm thấy dao động mạnh, và đi đến bậc Ðạo Sư, nghe pháp, xuất gia và sau một thời gian, chứng quả A-la-hán. Ngài nhấn mạnh cái nhìn thường hằng trước của ngài đối với sự vật, và nói lại bài kệ, này như nói lên chánh trí của ngài.

(CXIX) Vajji-Putta (Thera. 17)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một vị vua Licchaivì ở Vesàli, và được gọi là con của Vajji, vì phụ thân thuộc về dòng họ này. Khi còn trẻ, thiên về huấn luyện voi, thúc đẩy bởi nhân duyên chín muồi để giải thoát, ngài đi đến tinh xá đúng lúc bậc Ðạo Sư thuyết giảng, sau khi nghe, ngài xuất gia, sau một thời gian chứng sáu thắng trí.

Sau một thời gian, sau khi bậc Ðạo Sư vừa nhập Niết-bàn, ngài cùng với các bậc Trưởng lão thỏa thuận cố gắng duy trì Chánh pháp không có suy suyển, và cùng với các vị Trưởng lão đi từ chỗ này đến chỗ kia. Một hôm ngài thấy Tôn giả Ananda đang thuyết pháp cho một số đông người, để khích lệ Tôn giả Ananda chứng quả cao hơn, ngài nói lên bài kệ này:

  1. Hãy đi đến khu rừng,
    Rậm rạp những rễ cây,
    Hãy để cho Niết-bàn,
    Chìm sâu vào tâm người,
    Hỡi này Go-ta-ma!
    Hãy tu tập thiền định,
    Việc làm lăng xăng này,
    Có nghĩa gì cho ông.

(CXX) Isidatta (Thera. 17)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh trong xứ Avanti, tại vườn Velugàma, làm con một người lữ hành trưởng, ngài trở thành bạn của Citta, một gia chủ ở Macchikasanda, bằng cách giao thiệp thư từ đầu cho hai người chưa gặp nhau. Citta viết cho ngài về sự tuyệt diệu của đức Phật, gửi cho ngài tư liệu về tổ chức giáo hội, ngài cảm thấy xúc động mạnh và xin xuất gia, với sự chỉ đạo của Mahà Kaccàna (Ðại Ca-chiên-diên). Cuối cùng ngài chứng được sáu thắng trí, ngài quyết định đi đến yết kiến đức Phật, từ biệt Trưởng lão, và đi đến xứ Trung biên (thung lũng sông Hằng) yết kiến đức Bổn sư. Bậc Ðạo Sư hỏi ngài về sự tiến bộ trên đường tu hành, ngài trả lời: ‘Từ khi con tu tập trong Pháp và Luật của Ngài, mọi sầu khổ đều chấm dứt, và con sống không có sợ hãi’. Rồi ngài nói lên chánh trí của mình với bài kệ như sau:

  1. Năm uẩn được rõ biết,
    Ðứng với rễ chặt đứt,
    Khổ diệt đã đạt được,
    Lậu hoặc diệt, ta chứng.

Chương II – Hai Kệ

-ooOoo-

Phẩm Một

(CXXI) Utara (Thera. 18)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con một Bà-la-môn có danh tiếng, được đặt tên là Uttara. Ngài thông suốt giáo điển Vệ-đà, và có danh tiếng về gia tộc, về dung sắc, về thông minh, về đức hạnh. Vassakàra, một vị bộ trưởng có danh ở Magadha (Ma-kiệt-đà), thấy những thành tích của ngài, muốn gả con gái cho ngài, nhưng ngài đã thiên về hạnh giải thoát nên đã từ chối và ngài đến nghe ngài Sàriputta (Xá-lợi-phất) thuyết giảng. Với lòng tin, ngài xuất gia, làm tròn bổn phận của người Sa-di, hầu hạ Tôn giả Sàriputta.

Một hôm, Tôn giả Sàriputta bị bệnh, Uttara đi tìm một y sĩ chữa bệnh, ngài đặt bình bát ngài trên bờ hồ để xuống hồ nước súc miệng. Một người ăn trộm, bị lính đuổi, chạy ra khỏi cửa thành, khi chạy ngang liền quăng bỏ các châu báu đánh cắp vào trong bình bát của người Sa-di và bỏ chạy. Khi các người lính đến, thấy đồ châu báu trong bình bát của ngài liền bắt ngài đưa đến Bà-la-môn Vassakàra để trừng phạt ngài.

Ðức Phật nhận thấy thiền quán của ngài đã chín muồi, nên đi đến ngài, đặt nhẹ tay trên đầu ngài và nói: ‘Ðây là kết quả nghiệp trước của Thầy, Thầy cần phải chấp nhận nhờ sức mạnh suy tư’. Rồi Thế Tôn thuyết pháp cho ngài, Uttara vì nhờ đức Phật đặt nhẹ tay trên đầu, tâm tư được phấn khởi, nhờ thiền quán chín muồi, nhờ uy nghi đức độ của bậc Ðạo Sư, ngài cảm thọ hỷ lạc, đoạn tận các uế nhiễm, chứng sáu thắng trí. Vươn mình lên khỏi cột trụ, ngài đứng trên hư không, hiển hiện thần thông vì lòng từ mẫn đối với kẻ khác. Trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, các vết thương của ngài được lành hẳn khi được các Tỷ-kheo khác hỏi: ‘Thưa Hiền giả, làm sao khi Hiền giả đau khổ như vậy, Hiền giả có thể phát triển thiền quán?’. Ngài trả lời ‘Khi tôi thấy rõ được sự đau khổ của mình tái sanh, và tánh nhân duyên sanh của sự vật, thời sự nguy hiểm của sự đau khổ ít hơn, hiện tại không ngăn tôi phát triển thiền quán và chứng được kết quả.

  1. Không có gì có mặt,
    Lại thường còn mãi mãi,
    Không có các hành gì,
    Lại thường hằng thường trú.
    Các uẩn được khởi lên,
    Ðến đời khác diệt vong.
  2. Biết được nguy hiểm này,
    Ta không muốn sanh hữu,
    Từ bỏ tất cả dục,
    Ta chứng lậu hoặc tận.

(CXXII) Pindola-Bhàradvàja (Thera. 18)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con của vị giáo sĩ của vua Udena xứ Kosambi, được đặt tên là Bhàradvàja. Sau khi học tập ba tập Vệ-đà, dạy các bài chú, bài tụng rất thành công cho các thanh niên Bà-la-môn, ngài chán ngấy với công việc đang làm. Từ giã họ, ngài đi đến Ràjagaha (Vương Xá), thấy chúng Tỷ-kheo được trọng vọng cúng dường, ngài xuất gia. Với phương pháp Phật dạy, ngài tiết độ trong ăn uống và chứng được sáu thắng trí.

Ngài tuyên bố trước mặt đức Bổn Sư rằng ngài sẵn sàng trả lời tất cả những câu hỏi của Tỷ-kheo nào nghi ngờ đến con đường và kết quả, như vậy, ngài rống tiếng rống con sư tử, đức Phật nói về ngài như sau: ‘Trong các đệ tử của Ta rống tiếng rống con sư tử, Pindola Bhàradvàja là đệ nhất’.

Rồi một người bạn cũ đến thăm ngài, một Bà-la-môn có tánh keo kiết. Vị Trưởng lão khuyên bạn nên cúng dường chúng Tăng. Vì bạn ngài tin rằng ngài cũng ích kỷ và nghĩ đến tư lợi, nên ngài dùng bài kệ để giáo giới bạn ngài:

  1. Nói về đời sống này,
    Không phải không có luật,
    Nhưng các món đồ ăn,
    Không có gì gần tâm
    Do có các món ăn,,
    Thân thể được tồn tại,
    Thấy vậy, ta bộ hành,
    Tìm kiếm các món ăn.
  2. Bậc trí kinh nghiệm rằng:
    Thật sự là đám bùn,
    Ðảnh lễ và cúng dường,
    Xuất phát tự gia đình,
    Như mũi tên tế nhị,
    Rất khó nhổ được ra,
    Cũng vậy với kẻ ngu,
    Cung kính khó từ bỏ.

(CXXIII) Valliya (Thera. 18)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ), con một Bà-la-môn tên tuổi, được đặt tên là Valliya. Khi đến tuổi trưởng thành, làm chủ được các căn, ngài làm bạn với người có giới đức. Rồi ngài đi đến Thế Tôn, khởi lòng tin, xuất gia, phát triển thiền quán, chứng quả A-la-hán. Nghĩ đến quá khứ với các sự vật thế tục, ham muốn, và như thế nào nhờ Thánh đạo, ngài thoát ly các chi phối ấy, ngài nói lên chánh trí của ngài:

  1. Trong chòi nhỏ, năm cửa,
    Có con khỉ đi vào,
    Loanh quanh từng cửa một,
    Nó va chạm từng giây!
  2. Này khỉ, hãy dừng lại!
    Chớ có chạy như vậy,
    Ngươi không còn như trước,
    Trí tuệ cầm giữ ngươi,
    Ngươi đâu còn có thể,
    Ði xa như trước được.

(CXXIV) Gangàtiriya (Thera. 18)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Sàvatthi làm con một thị dân, được đặt tên là Datta. Trong đời sống thế tục, vì ngu si ngài phạm lỗi lầm, biết được lỗi lầm của mình, ngài sanh sầu khổ và xuất gia. Hối hận vì hành vi của mình, ngài chọn đời sống khổ hạnh, ở trên bờ sông Hằng, làm một chòi lá để ở; do vậy, ngài được gọi là Gangàtiriya (người ở trên bờ sông Hằng). Ngài nguyện không nói với một ai, như vậy cả năm, ngài không thốt ra một lời nào. Trong năm thứ hai, một nữ nhân trong làng thường cúng dường ngài, muốn biết ngài có câm hay không khi dâng sữa cúng dường, làm đổ sữa ra ngoài. Ngài mới nói: ‘Thôi vừa rồi, bà chị’. Nhưng đến năm thứ ba, ngài chứng quả A-la-hán, ngài nói lên chánh trí của ngài ngang qua lời bài kệ, tán thán hạnh cũ của ngài:

  1. Trên bờ sông Hằng Hà,
    Dùng ba lá thốt nốt,
    Ta dựng lên cho ta
    Một chòi lá nho nhỏ,
    Bát ta là cái ghè,
    Dùng cúng sữa người chết,
    Còn y áo của ta
    Lượm chắp từ đống rác.
  2. Suốt hai năm sống vậy.
    Ta chỉ nói một chữ,
    Trong khoảng năm thứ ba,
    Khối si ám tan tành.

(CXXV) Ajina (Thera. 18)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong gia đình một Bà-la-môn nghèo, và khi sanh ngài được đặt trong một tấm da dê rừng, do vậy được đặt tên là Ajina. Sống trong sự bần cùng, ngài chứng kiến uy nghi đức độ của đức Phật khi tinh xá Kỳ Viên được dâng cúng. Khởi lòng tin, ngài xuất gia và không bao lâu, chứng được pháp Thượng nhân, khi chứng được quả A-la-hán, vì nghiệp duyên quá khứ, ngài không được cung kính và biết đến. Một số Sa-di không biết khinh thường ngài, ngài làm họ dao động với bài kệ:

  1. Nếu chứng được Ba minh,
    Ðoạn tử, không lậu hoặc,
    Vị ấy vẫn có thể,
    Không được người biết đến,
    Và kẻ ngu không biết,
    Có thể sanh khinh thường.
  2. Khi người ấy nhận được
    Ðồ ăn uống cúng dường,
    Dẫu cho có ác pháp,
    Vẫn được họ kính trọng.

(CXXVI) Melajina (Thera. 19)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Benares (Ba-la-nại), trong gia đình một hoàng tộc, tên là Melajina, học giỏi và hạnh đức có tiếng khắp trong nước. Khi Thế Tôn ở Ba-la-nại, tại Isipatana (chư Tiên đọa xứ), Melajina đến nghe Ngài thuyết pháp, khởi lòng tin, xuất gia và chứng quả A-la-hán. Khi các Tỷ-kheo hỏi làm sao ngài chứng được pháp Thượng nhân, ngài rống lên tiếng rống con sư tử:

  1. Khi ta nghe Chánh pháp,
    Bậc Ðạo Sư thuyết giảng,
    Ta thắng tri nghi hoặc,
    Bậc toàn trí, toàn thắng.
  2. Ðối vị trưởng lữ đoàn,
    Với vị đại anh hùng,
    Trong các bậc đánh xe
    Bậc tối thắng vô thượng,
    Ðối con đường, lộ trình
    Ta không có nghi hoặc.

(CXXVII) Ràdha (Thera. 19)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Ràjagaha (Vuơng Xá), là người Bà-la-môn. Trong khi ngài lớn tuổi, ngài không làm được bổn phận của ngài. Không được chấp nhận, ngài đi đến Thế Tôn, nói lên những ước muốn của ngài. Bậc Ðạo Sư thấy được những điều kiện căn bản được đầy đủ, nên bảo Sàriputta chấp nhận ngài xuất gia. Không bao lâu, ngài chứng quả A-la-hán. Sau đó, ngài sống gần bên bậc Ðạo Sư, trở thành một vị thuyết giảng đột xuất nhờ những lời thuyết giảng của bậc Ðạo Sư. Một hôm, thấy rõ vì sao không khéo tự huấn luyện chế ngự khiến các dục vọng có thể sanh khởi, ngài nói lên bài kệ để khích lệ giáo giới:

  1. Như mái nhà vụng lợp,
    Mưa dễ thấm ướt vào,
    Cũng vậy, tâm vụng tu
    Tham ái được xâm nhập.
  2. Như mái nhà khéo lợp
    Mưa không thể thấm vào,
    Cũng vậy, tâm khéo tu
    Tham ái không xâm nhập.

(CXXVIII) Suràdha (Thera. 19)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm em trai của vị Ràdha, vâng theo gương của người anh, ngài xuất gia và chứng quả A-la-hán. Ðể nêu rõ sự hướng dẫn các giới luật, ngài nói lên chánh trí của mình như sau:

  1. Sanh của ta đã tận,
    Chiến thắng dạy, làm xong,
    Lưới danh được đoạn diệt,
    Gốc sanh hữu nhổ lên.
  2. Mục đích hạnh xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Ðích ấy đã đạt được,
    Mọi kiết sử, diệt xong.

(CXXIX) Gotama (Thera. 19)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Gotama. Khi còn trẻ, ngài giao du với kẻ không tốt, bao nhiêu tài sản ngài cho một kỹ nữ. Hối hận nếp sống bất chính của mình, ngài mơ thấy hình ảnh bậc Ðạo Sư đang ngồi, với tâm tư hiểu biết tâm trạng của ngài. Bậc Ðạo Sư biết được tiến bộ của ngài, sự thành tựu các nhân duyên thiết yếu, nên thuyết pháp cho ngài. Ngài khởi lòng tin, xuất gia, chứng quả A-la-hán, khi con dao đụng đến tóc ngài, khi ngài đang thọ hưởng lạc thiền định và quả giải thoát. Một cư sĩ hỏi ngài về tài sản của ngài, ngài thú nhận ngài sống không được nghiêm túc, sống phi Phạm hạnh, và với sự trong sạch hiện tại không có dục vọng, ngài nói lên chánh trí của ngài:

  1. Bậc ẩn sĩ nằm ngủ,
    Sống an lạc hạnh phúc,
    Họ không bị nữ nhân,
    Trói buộc và chi phối.
    Nữ nhân, phải luôn luôn
    Phòng hộ và chế ngự.
    Sự thật về nữ nhân,
    Thật khó được chấp nhận.
  2. Hỡi này các dục vọng,
    Ta quyết giết các ngươi,
    Nay chúng ta đối ngươi,
    Không còn gì nợ nần,
    Chúng ta nay đi đến
    Cảnh giới gọi Niết bàn,
    Ði đến tại chỗ ấy
    Không còn có sầu muộn.

(CXXX) Vasabha (Thera. 19)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Vesàli, con vị vua địa phương Licchavì. Ðược cảm hóa bởi uy nghi đức độ của đức Phật khi Ngài đến thăm Vesàli, ngài xuất gia, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Biết ơn những ai ủng hộ ngài, ngài không có từ chối những vật dụng được cúng dường và hưởng thọ các vật cúng dường ấy. Người thường dâng cho ngài thích thọ hưởng, nhưng ngài không để ý những lời phê bình ấy.

Gần ngài có một vị Tỷ-kheo giả dối, lừa gạt quần chúng bằng cách giả dối sống thiểu dục tri túc, do vậy được quần chúng tôn trọng. Rồi thiên chủ Sakka (Ðế thích) thấy được sự giả dối này, đi đến Trưởng lão Vasabha hỏi: ‘Thưa Tôn giả, kẻ giả dối kia sao lại làm vậy?’. Ngài trả lời với bài kệ, chỉ trích kẻ ác bất thiện kia:

  1. Trước nó giết tự ngã,
    Sau nó giết người khác,
    Họ khéo giết tự ngã,
    Như chim mồi, mồi chim.
  2. Không phải Bà-la-môn,
    Với dung sắc bên ngoài,
    Bà-la-môn chính thống,
    Phải dung sắc bên trong,
    Với ai, làm ác nghiệp,
    Người ấy là hắc nhân,
    Là chồng của Sujà.

Phẩm Hai

(CXXXI) Mahàcunsa (Thera. 20)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở nước Magadha (Ma-kiệt-đà), làng Nàlaka, con của nữ Bà-la-môn Rùpusàri và em trai của Sàriputta. Ngài theo gương anh, xuất gia, và sau một thời gian tinh cần tu hành, chứng đuợc quả A-la-hán. Phấn khởi với quả chứng của mình và đời sống viễn ly, ngài nói lên bài kệ:

  1. Khéo nghe, nghe tăng trưởng,
    Nghe tăng trưởng, phát tuệ,
    Nhờ tuệ biết ý nghĩa,
    Nghĩa được biết, lạc đến.
  2. Hãy trú chỗ xa vắng,
    Hãy sống, thoát kiết sử,
    Tại đấy, hỷ chưa đạt,
    Hãy sống giữa chúng Tăng,
    Tự ngã được chế ngự,
    An trú trong chánh niệm.

(CXXXII) Jotidàra (Thera. 20)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh làm con một Bà-la-môn giàu có, ở xứ Pàdiyattha, được đặt tên là Jotidàsa. Khi đến tuổi trưởng thành, một hôm, ngài thấy Tôn giả Ðại Ca-diếp (Mahà Kassapa) đi khất thực, ngài đón Tôn giả tại nhà và nghe Tôn giả thuyết pháp. Trên một ngọn đồi gần làng, ngài dựng lên một tinh xá lớn cho Tôn giả, cúng dường Tôn giả bốn vật dụng cần thiết. Bị xúc động với lời dạy của Tôn giả, ngài xuất gia và không bao lâu chứng được sáu thắng trí. Sau mười năm, ngài học ba Tạng, đặc biệt là Luật tạng, hầu hạ Tăng chúng và đi Sàvatthi cùng với một số đông Tỷ-kheo để yết kiến đức Phật. Trên đường đi, ngài đi đến vườn của một ẩn sĩ, thấy một Bà-la-môn hành trì khổ hạnh năm pháp ngài hỏi: ‘Này Bà-la-môn, sao Ông không đốt với một thứ lửa khác?’. Vị Bà-la-môn tức giận trả lời: ‘Này kẻ trọc đầu kia, ngọn lửa khác là gì?’. Trưởng lão trả lời:

Sân, tật đố, ác hạnh
Mạn, kiêu và tranh chấp,
Tham ái và vô minh,
Lòng ưa muốn tái sanh,
Những pháp này đốt cháy,
Thiêu đốt cả thân ông.

Rồi ngài thuyết pháp cho người ấy, và tất cả những người tin vào Phạm thiên xin ngài được xuất gia. Khi từ giã Sàvatthi, ngài đến thăm gia đình cũ của ngài và giáo giới các bà con như sau:

  1. Những ai dùng dây thừng,
    Hành cướp giật nhiều cách,
    Những dân họ hung bạo,
    Làm não hại người khác,
    Như vậy, họ gieo hại,
    Vì nghiệp không tiêu mất.
  2. Người nào làm nghiệp gì,
    Nghiệp thiện hay nghiệp ác,
    Họ thừa tự nghiệp ấy,
    Loại nghiệp họ đang làm.

(CXXXIII) Herannakàni (Thera. 20)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một tay sai của vua Kosala và cầm đầu bọn cướp. Khi phụ thân ngài mất, ngài thừa tự chức vụ ấy. Ðược cảm hóa khi chứng kiến lễ đức Phật tiếp nhận Jetavana (Kỳ Viên), ngài cho người em trai thế chức vụ. Ngài xuất gia, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi ngài tìm cách khuyên em ngài từ bỏ nghề cũ, và thấy em ngài thích thú nghề của mình, ngài khích lệ em với bài kệ như sau:

  1. Ðêm ngày chạy, trôi qua,
    Mạng sống bị tổn giảm
    Tuổi thọ người hủy diệt,
    Như nước dòng suối con.
  2. Kẻ ngu làm ác hạnh,
    Không hiểu việc mình làm,
    Về sau bị khổ đau,
    Khi ác nghiệp chín muồi.

Nghe lời khuyên của ngài, người em xin phép vua nghỉ việc, xuất gia và không bao lâu được giải thoát.

(CXXXIV) Somamitta (Thera. 20)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Benares trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Somamitta. Ngài trở thành một vị thông hiểu ba tập Vệ-đà, và được Trưởng lão Vimala cảm hóa, ngài xuất gia, ngài sống gần gần vị Trưởng lão, làm trọn bổn phận của mình. Nhưng vị Trưởng lão trở thành biếng nhác và ham ngủ, Somamitta suy nghĩ: ‘Ai có thể có giới đức, sống gần một người biếng nhác?’. Rồi ngài đi đến Tôn giả Mahà Kassapa (Ðại Ca-diếp) nghe thuyết giảng, phát triển thiền quán, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi ngài chỉ trích Vimala với những câu kệ như sau:

  1. Như leo trên ván nhỏ,
    Giữa biển lớn bị chìm,
    Cũng vậy đến kẻ khác,
    Người hạnh tốt cũng chìm.
    Do vậy hãy bỏ nó,
    Kẻ làm biếng làm nhác.
  2. Hãy sống gần bậc Thánh,
    Bậc viễn ly, tinh cần,
    Thiền định, thường tinh tấn,
    Bậc Hiền trí sáng suốt.

Nghe vậy, Trưởng lão Vimala rất xúc động, phát triển thiền quán, tự minh tinh tấn để được giải thoát, không bao lâu chứng đạt được mục đích.

(CXXXV) Sabbamitta (Thera. 20)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Sàvatthi, được đặt tên là Sabbamitta. Chứng kiến lễ dâng cúng tinh xá Kỳ Viên, ngài thấy được uy nghi đức độ của đức Phật, xuất gia, lựa chọn một đề tài để thiền quán, ngài sống tại một khu rừng. Sau mùa mưa, ngài đi đến Sàvatthi để đảnh lễ đức Phật, trên đường đi, ngài thấy một con nai con bị sa vào bẫy người thợ săn, con nai mẹ tuy không bị lưới chụp nhưng vì thương con nai con nên không đi xa cũng không dám đến gần cái bẫy, con nai con lăn lộn qua lại, kêu lên những tiếng thảm thiết. Vị Trưởng lão suy nghĩ: ‘Ôi, tình thương đã đem lại sự đau khổ cho các loài hữu tình!’. Ði xa hơn nữa, ngài thấy nhiều tên cướp đang lấy rơm cột vào một người chúng bắt được để đem thiêu sống. Nguời ấy la lên và vị Trưởng lão cảm thấy sầu khổ đối với hai sự việc ấy, liền nói lên bài kệ để cho các tên cướp nghe.

  1. Người trói buộc vào người,
    Người bám víu vào người,
    Người bị người làm hại,
    Và người làm hại người.
  2. Lợi ích gì người ấy?
    Hay con cháu người sanh?
    Hãy bỏ người ấy đi,
    Người làm hại nhiều người.

Nói vậy, ngài đạt đến thiền quán, chứng quả A-la-hán. Còn các tên cướp, nghe lời giáo giới của ngài, cảm thấy xúc động, từ bỏ thế tục, và thực hành Chánh pháp.

(CXXXVI) Mahàkàla (Thera. 21)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở thành Setavyà, trong gia đình một người lái buôn, được đặt tên là Mahàkàla. Khi đến tuổi trưởng thành và sống ở nhà, ngài đem theo năm trăm xe hàng hóa để buôn bán ở Sàvatthi. Khi đang nghỉ vào buổi chiều, ngài thấy các cư sĩ đem hương hoa đi đến tinh xá Jetavana (Kỳ Viên) và ngài đi theo. Tại đấy ngài nghe đức Phật thuyết pháp, khởi lòng tin xuất gia, quyết định lựa chọn nghĩa địa làm đề tài thiền quán, ngài sống ở trong nghĩa địa. Một hôm, một người đàn bà làm nghề thiêu đốt thân thể, để cho vị Trưởng lão một đề tài thiền quán, nên chặt tay và chân của một thân mới thiêu, lấy sọ đầu làm bình bát đựng sữa, sắp đặt tay chân đặt chúng gần bậc Trưởng lão để ngài có thể thiền quán và ngồi xuống một bên. Vị Trưởng lão thấy vậy liền tự sách tấn mình với những bài kệ như sau:

  1. Nữ Kàlì, đẫy đà,
    Dung sắc như quạ đen,
    Bẻ gẫy một bắp vế,
    Lại bẻ bắp vế nữa,
    Bẻ gẫy một cánh tay,
    Lại bẻ cánh tay nữa,
    Lại bẻ gẫy cái đầu,
    Như bát đựng sữa đông.
    Này Kàlì ngồi xuống,
    Với lòng tin sẵn sàng.
  2. Ai không rõ biết vậy,
    Lại tác thành sanh y,
    Kẻ ngu bước đi đến,
    Chịu khổ đau liên tục,
    Do vậy ai hiểu biết,
    Không tạo nên sanh y,
    Ta sẽ không nằm xuống,
    Với đầu bị bẻ nát.

(CXXXVII) Tissa (Thera. 21)

Trong đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), trong một gia đình Bà-la-môn, tên là Tissa và trở thành một chuyên viên về ba tập Vệ-đà. Giảng bùa chú cho hơn năm trăm Bà-la-môn trẻ, và danh tiếng đồn vang. Khi Thế Tôn đến Ràjagaha (Vương Xá), Tissa thấy uy nghi đức độ của đức Phật, khởi lòng tin, xuất gia, về sau chứng quả A-la-hán,do phát triển thiền quán. Nhờ vậy, ngài trở thành có danh tiếng nữa.

Có một số Tỷ-kheo thiên về thế lợi, thấy ngài có được trọng vọng, nên không thể chịu nổi. Ngài biết như vậy, nói lên sự nguy hiểm của danh vọng và sự thoát ly của ngài đối với danh vọng, ngang qua những bài kệ này:

  1. Vị trọc đầu, đắp y,
    Ðược nhiều kẻ thù oán
    Khi nhận đồ ăn uống,
    Vải mặc và chỗ nằm.
  2. Biết nguy hiểm như vậy,
    Biết có sợ hãi lớn,
    Trong cung kính cúng dường;
    Vị Tỷ-kheo xuất gia,
    Nhận ít, không tham đắm,
    Luôn luôn giữ chánh niệm.

(CXXXVIII) Kimbila (Thera. 21)

Ngài gặp đức Phật, xúc động, xuất gia đã được nói trong chương một, với câu kệ : ‘Như bị cảm hóa bởi sức mạnh’. Ở đây, vị Trưởng lão sống thân thiết với các bạn, các Tôn giả Anuruddha, Bhaddiya.

  1. Trong vườn trúc phía Ðông,
    Các Thích tử thân hữu,
    Từ bỏ những tài sản,
    Không phải là ít oi,
    Vui thích với những gì,
    Nhận được từ bình bát.
  2. Siêng, tinh cần, tinh tấn,
    Thường kiên trì hăng hái,
    Ưa thích lạc pháp vị,
    Từ bỏ lạc thế gian.

(CXXXIX) Nanda (Thera. 21)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu, con vua Suddhodana (Tịnh Phạn) và bà Mahàpajàpati, vì đem lại hoan hỷ cho bà con nên được gọi là Nanda. Khi đến tuổi trưởng thành, bậc Ðạo Sư chuyển bánh xe pháp đi đến Kapilavatthu, với lòng từ mẫn độ chúng sanh. Nhân có dịp trời mưa, Thế Tôn kể chuyện tiền thân Vessantara. Trong ngày thứ hai, với câu kệ: ‘Hãy đứng dậy!’. Thế Tôn giúp cho phụ thân chứng quả Dự lưu. Với câu kệ: ‘Hãy sống theo Phạm hạnh’. Thế Tôn giúp bà Mahàpajàpati cũng chứng quả Dự lưu, rồi Thế Tôn giúp phụ thân chứng thêm quả Nhất lai. Ngày thứ ba khi đi khất thực tại phòng đăng quang, lúc mọi người đang chúc mừng hoàng tử Nanda trong ngày lễ đám cưới, bậc Ðạo Sư đưa bình bát, đi theo bậc Ðạo Sư đến tinh xá và đức Phật độ cho Nanda xuất gia, dầu ngài không bằng lòng.

Từ lúc ấy, biết được Nanda không ưa thích đời sống xuất gia, bậc Ðạo Sư tiếp tục giáo hóa cho đến khi Nanda, nhờ thiền định, phát triển thiền quán và đạt được quả A-la-hán. Về sau, hưởng thọ lạc giải thoát, ngài nói: ‘Ôi tuyệt diệu thay pháp môn Phật dạy. Nhờ vậy ta thoát khỏi sa lầy vào đầm tái sanh, đứng được trên bãi cát Niết-bàn’. Phấn khởi với suy nghĩ này, ngài nói lên những bài kệ:

  1. Không như lý tác ý,
    Ta chuyên trang sức ngoài,
    Ta thô tháo dao động,
    Say đắm trong tham dục.
  2. Với phương tiện thiện xảo,
    Ta, bà con mặt trời,
    Ðược hướng về chánh lý,
    Làm ta thoát sanh hữu.

Thế Tôn, biết được quả chứng tự tu, tự luyện của ngài, tuyên bố ngài là bậc tự chế ngự đệ nhất trong các đệ tử của Thế Tôn.

(CXL) Sirimat (Thera. 21)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ), trong nhà một thị dân, được đặt tên là Sirimat, vì gia đình ngài được luôn luôn may mắn, và thành công. Em trai của ngài, tăng trưởng tài sản được đặt tên là Sirivaddha (tăng trưởng sự may mắn). Cả hai thấy được uy nghi đức độ của đức Phật khi Kỳ Viên được dâng cúng đức Phật, khởi lòng tin xuất gia, Sirivaddha dầu chưa chứng được pháp thượng nhân, nhưng được hàng cư sĩ, hàng xuất gia tôn kính hoan nghênh. Nhưng Sirimat, vì nghiệp không được tốt đẹp nên ít được cung kính, tuy vậy, luôn luôn tu tập về chỉ và quán, ngài chứng được sáu thắng trí.

Các Tỷ-kheo tầm thường và các Sa-di không biết ngài chứng được Thánh quả, tiếp tục khinh thường ngài và cung kính em của ngài. Rồi ngài đọc lên bài kệ, nói lên sự sai lầm của họ:

  1. Người khác tán thán nó,
    Kẻ tự ngã chưa định,
    Người khác khen sai lầm,
    Kẻ tự ngã chưa định.
  2. Người khác chỉ trích nó,
    Kẻ tự ngã đã định,
    Người khác chê sai lầm,
    Kẻ tự ngã khéo định.

Rồi Sirivaddha nghe bài kệ, tâm sanh dao động, phát triển thiền quán, không bao lâu đạt được chơn giải thoát; và những ai chỉ trích bậc Trưởng lão, chúng tôi xin lỗi ngài.

Phẩm Ba

(CXLI) Uttara (Thera. 22)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Sàketa, trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Uttara. Bị cảm hóa bởi thần thông song hành tại cây Gandamba ở Sàvatthi, ngài được khích lệ xuất gia, khi bậc Ðạo Sư ở Sàketa thuyết pháp tại vườn Kàlaka. Ði với bậc Ðạo Sư đến Ràjagaha (Vương Xá), ngài phát triển thiền quán, chứng được sáu thắng trí. Trở về Sàvatthi để hầu hạ đức Phật, các Tỷ-kheo hỏi ngài: ‘Thưa Hiền giả, Hiền giả đã thành tựu những gì trong sự nghiệp giải thoát?’ Ngài nói lên chánh trí của ngài với bài kệ như sau:

  1. Ta liễu tri các uẩn,
    Ta khéo nhổ tham ái,
    Ta tu tập giác chi,
    Ta đạt lậu hoặc diệt.
  2. Do liễu tri các uẩn,
    Thoát ly kẻ gài lưới,
    Tu tập giác chi xong,
    Ta sẽ nhập Niết-bàn,
    Các lậu hoặc tận diệt.

(CXLII) Bhaddaji (Thera. 22)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Bhaddiya (tại Avantì phía Ðông Magadha), con một nghị sĩ giàu có đến tám trăm triệu, ngài được đặt tên là Bhàddiya và được nuôi lớn trong sự nuông chiều sang trọng, giống như vị Bố-tát trong đời sống cuối cùng của ngài. Tập sớ kể câu chuyện của ngài chứng quả A-la-hán khi nghe đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên, chính đức Phật đích thân đến tìm ngài. Ngài đi theo bậc Ðạo Sư với hàng tùy tùng, sau một tuần đến tại Kotigàma, và đi lánh đến bờ sông Hằng, ngài nhập thiền định. Ngài chỉ xuất định, khi đức Phật đến gần và không vâng lời các vị Trưởng lão đi trước. Ðể xác minh quả chứng vô thượng của ngài, đức Phật mời ngài lên chiếc phà của Ngài và yêu cầu ngài hiện thần thông. Bhaddiya làm nổi lên cung điện bị chìm, khi ngài trú tại đấy, trong thời ngài là vua Panàda. Câu chuyện này được kể trong chuyện Jàtaka Mahàpanàda. Ngài diễn tả lâu đài bằng vàng, trong ấy ngài đã sống trong một thời gian. Rồi ngài nói về ngài khi tự ngã được đoạn diệt, như là thuộc một người khác:

  1. Pa-nà-đa là tên,
    Của vị hoàng đế ấy,
    Với trụ lễ bằng vàng,
    Ngang có mười sáu nhà,
    Tính về lượng bề cao,
    Cao hơn một ngàn lần.
  2. Có đến ngàn tam cấp,
    Với trăm nóc hình tròn,
    Trang hoàng với cờ xí,
    Với ngọc báu chói sáng,
    Ở đấy, Càn-thát-bà,
    Các tiên nữ hát múa,
    Con số lên sáu ngàn,
    Với tổng số bảy đoàn.

(CXLIII) Sobhita (Thera. 22)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Sobhita. Sau khi được nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài xuất gia, chứng được sáu thắng trí, ngài thực hành nhớ đến các đời sống quá khứ, thành tựu túc mạng thông, được đức Phật xác nhận là vị nhớ đến đời sống quá khứ đệ nhất. Cảm thấy phấn khởi trong quả chứng của mình, ngài nói lên những bài kệ:

  1. Tỷ-kheo giữ chánh niệm,
    Với trí tuệ tinh cần,
    Một đêm, ta nhớ đến,
    Có đến năm trăm kiếp.
  2. Ta tu Bốn niệm xứ,
    Bảy giác chi, Tám thánh (đạo),
    Một đêm, ta nhớ đến,
    Có đến năm trăm kiếp.

(CXLIV) Valliya (Thera. 22)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Vesàli, trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Kanhamitta. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài thấy uy nghi đức độ của đức Phật khi đức Phật đến Vesàli. Khởi lòng tin, ngài xuất gia với sự hướng dẫn của Tôn giả Mahà Kassapa (Ðại Ca-diếp). Với trí tuệ chậm chạp và mới bắt đầu tinh tấn, ngài phải dựa vào trí tuệ của các đồng Phạm hạnh đến nỗi ngài được gọi là Valliya (loài cây leo), vì loài cây này không thể tự lớn được, nếu không dựa vào một vật gì. Một hôm, ngài đi nghe Trưởng lão Venudatta giảng, ngài trở thành sáng suốt, trí tuệ chín muồi, ngài hỏi vị Thầy của ngài với những bài kệ:

  1. Những bổn phận cần làm,
    Với tinh cần tinh tấn,
    Những bổn phận cần làm
    Với người muốn giác ngộ.
    Con sẽ làm tất cả,
    Con không có thối thất,
    Hãy xem sự tinh tấn,
    Sự nỗ lực của con.
  2. Ngài hãy nói cho con,
    Con đường nhập bất tử,
    Với yên lặng thiền tư,
    Con đạt Thánh yên lặng,
    Như dòng sông Hằng Hà,
    Nhập sâu vào biển cả.

(CXLV) Vitàsoka (Thera. 22)

Trong thời đức Phật hiện tại, vào năm thứ 218, là em trai vua Dhammàsoka (A-dục), được đặt tên là Vitàsoka. Ðến tuổi trưởng thành, ngài thành tựu những đức tánh thích hợp với tuổi trẻ hoàng tộc. Rồi ngài trở thành đệ tử của Trưởng lão Giridatta và thông hiểu về Kinh tạng và Luận tạng A-tỳ-đàm.

Một hôm, khi ngài đang cắt tóc, ngài lấy gương soi, thấy một vài sợi tóc bạc. Bị dao động mạnh, ngài phát triển thiền quán, với sự nỗ lực cố gắng thiền định, khi ngài đang ngồi, ngài chứng quả Dự lưu, ngài xuất gia dưới sự hướng dẫn của Giridatta, không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Ngài tuyên bố chánh trí của ngài với bài kệ:

  1. Hãy cạo tóc cho ta
    Người cạo tóc đã đến,
    Ta cầm lấy cái gương,
    Quan sát thân thể ta.
  2. Thân được thấy trống rỗng,
    Chìm tối trong đêm đen,
    Mọi vải quấn chặt đứt,
    Nay không còn tái sanh.

(CXLVI) Punnamàsa (Thera. 23)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình vị điền chủ. Khi sanh đứa con đầu tiên, ngài xuất gia, sống gần một làng, ngài tinh tấn tu hành cho đến khi ngài chứng được sáu thắng trí. Ngài đi đến Sàvatthi đảnh lễ bậc Ðạo Sư và ở tại một nghĩa địa. Rồi đứa con ngài chết và vợ ngài không muốn tài sản bị vua tịch thu, vì không có thừa tự nên đi đến ngài với một số đông tùy tùng và yêu cầu ngài từ bỏ đời sống xuất gia. Muốn nói lên sự giải thoát thế tục và quả chứng của ngài, ngài đứng trên hư không, nói lên những bài kệ:

  1. Từ bỏ năm triền cái,
    Ðạt an ổn khỏi ách,
    Nắm giữ gương Chánh pháp,
    Biết và thấy tự ngã.
  2. Ta quán sát thân này,
    Từ trong cho đến ngoài,
    Thân được thấy trống không,
    Trong thân cả ngoài thân.

(CXLVII) Nandaka (Thera. 23)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Campà trong một gia đình thị dân, được đặt tên là Nandaka. Ngài là em trai của Bharata (sẽ được nói đến sau). Cả hai được nghe Sona Kolivisa thuyết pháp, liền xuất gia, nghĩ rằng: ‘Sona được nuôi dưỡng tế nhị còn xuất gia được, huống nữa chúng ta?’ Bharata chứng ngay sáu thắng trí, còn Nandaka, vì còn nhiều tư tưởng không trong sạch, không thể điều khiển được thiền quán, chỉ có thể thực hành. Rồi Bharata muốn giúp đỡ ngài, khiến ngài làm thị giả và cả hai người ra đi. Ngồi bên vệ đường, Bharata thuyết pháp cho ngài về thiền quán.

Có một đoàn lữ hành đi ngang qua, một con bò đực kéo xe qua đám bùn không nổi nên ngã quỵ xuống. Ngài dạy cởi con bò khỏi chiếc xe, cho nó ăn cỏ, uống nước. Con bò khỏi sự mệt nhọc lại được cột vào xe, với sức mạnh, được bồi dưỡng, con bò kéo xe qua được đám bùn, Bharata nói:

– Này em Nandaka, em có thấy hiện tượng ấy không?’.

– Thưa anh, em có thấy.

– Vậy hãy tìm hiểu ý nghĩa! Và Nandaka nói: ‘Như con bò được bồi dưỡng, lấy lại sức mạnh, ta cần phải tự lực lôi mình ra khỏi đám bùn lầy của tái sanh!’ Dùng sự kiện này là một đề tài thiền quán, ngài đã chứng được quả A-la-hán. Rồi ngài tuyên bố chánh trí của ngài cho người anh nghe với những bài kệ:

  1. Như con vật hiền thiện,
    Thuộc giống tốt, khéo luyện,
    Sau khi ngã quỵ xuống,
    Lại gượng lên đứng dậy,
    Lấy được thêm sức mạnh,
    Không bỏ kéo gánh nặng.
  2. Cũng vậy, hãy nhận con,
    Ðệ tử bậc Chánh giác,
    Con đầy đủ chánh kiến,
    Khéo tu luyện thuần thục,
    Con thật con chánh thống.
    Của đức Phật Chánh giác.

(CXLVIII) Bharata (Thera. 23)

Khi em trai Nandaka nói lên chánh trí của mình, Bharata khởi lên ý kiến hai anh em cùng đi đến yết kiến đức Phật, trình lên đức Phật biết quá trình đời sống Phạm hạnh của mình.

Rồi ngài nói với Nandaka những bài kệ như sau:

  1. Hãy đến Nandaka,
    Chúng ta hãy cùng đi,
    Ði đến bậc Giáo thọ,
    Chúng ta hãy rống lên,
    Tiếng rống con sư tử,
    Trước mặt Phật tối thượng.
  2. ẩn sĩ thương chúng ta,
    Khích lệ ta xuất gia,
    Mục đích chúng ta đạt,
    Mọi kiết sử đoạn tận.

(CXLIX) Bhàradvàja (Thera. 23)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá). Trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên theo dòng họ là Bhàradvàja. Lập gia đình, ngài có một người con trai tên là Kanhadinna. Ðến tuổi đi học, ngài gửi người con đi Takkasìla, giữa đường người con làm quen với một vị Trưởng lão, đệ tử bậc Ðạo Sư, nghe vị ấy thuyết pháp, xuất gia và sau một thời gian, chứng quả A-la-hán.

Bhàradvàja, được nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp ở tịnh xá Trúc Lâm, xuất gia và cũng chứng quả A-la-hán, Kanhadinna đến yết kiến bậc Ðạo Sư ở Ràjagaha (Vương Xá), và sung sướng thấy phụ thân mình ngồi cạnh đức Bổn Sư. Ðược biết phụ thân đã chứng quả A-la-hán, muốn phụ thân rống tiếng rống con sư tử, nên hỏi đã chứng được mục đích Phạm hạnh chưa, ngài trả lời với những câu kệ như sau:

Rống tiếng rống:

  1. Như những con sư tử
    Trong hang động núi non,
    Rống tiếng rống sư tử,
    Cũng vậy với trí tuệ,
    Bậc anh hùng thắng trận,
    Thắng ma và ma quân.
  2. Ta hầu bậc Ðạo Sư
    Ðảnh lễ Pháp và Tăng,
    Ta hân hoan vui vẻ,
    Thấy con chứng vô lậu.

(CL) Kanhadinna (Thera. 23)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Vương Xá, trong gia đình một Bà-la-môn, được đặt tên là Kanhadinna. Khi đến tuổi trưởng thành, với thiện duyên thuần thục, ngài đến Tôn giả Sàriputta, nghe pháp, khởi lòng tin rồi xuất gia. Sau khi phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán, ngài tuyên bố chánh trí của ngài.

  1. Hầu hạ bậc chân nhân,
    Luôn luôn nghe Chánh pháp,
    Nghe xong, ta sẽ bước,
    Trên con đường bất tử.
  2. Trong ta, tham hữu đoạn,
    Tham hữu không có mặt,
    Quá khứ, và vị lai,
    Không có ở trong ta,
    Hiện tại cũng không có,
    Tồn tại ở trong ta.

Phẩm Bốn

(CLI) Migasìra (Thera. 24)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Kosala, được đặt tên là Migasìra, theo ngôi sao ngày sinh. Học theo văn hóa Bà-la-môn, ngài thực hành bùa chú sọ người, khi ngài đọc lên bùa chú và lấy móng tay gõ trên sọ người, ngài tuyên bố: ‘Người này sẽ được tái sanh trong giới này…’, cho đến với những người đã chết được ba năm. Không thích thú đời sống thế tục, ngài trở thành người du sĩ, với hạnh sọ người của ngài, ngài được cung kính cúng dướng. Ði đến Sàvatthi, đứng trước mặt bậc Ðạo Sư, ngài tuyên bố sức mạnh của ngài: ‘Thưa Tôn giả Gotama, ta có thể nói chỗ tái sanh của những người đã chết’.

Ðức Phật hỏi: ‘Ông làm như thế nào?’

Ngài cho đem lại một sọ người, đọc lên bùa chú, với móng tay gõ trên sọ người, ngài tuyên bố đọa xứ v.v… là chỗ tái sanh!

Ðức Phật cho đem lại sọ người của một Tỷ-kheo, đã chứng Niết-bàn và nói: ‘Hãy nói chỗ tái sanh của người này’. Migasìra đọc bùa chú, lấy móng tay gõ trên sọ người, nhưng không thấy đầu đuôi như thế nào.

Rồi Thế Tôn hỏi:

– Này du sĩ, có phải ông làm không được?

Ngài trả lời: – Tôi cần phải xác chứng cho chắc chắn! Nhưng dù cho ngài xoay xở như thế nào, làm sao ngài biết được sanh thú của vị A-la-hán; ngài xấu hổ, toát mồ hôi, im lặng.

– Này du sĩ, có phải ông mệt mỏi?

– Vâng, tôi mệt mỏi, tôi không biết sanh tử của vị này, Ngài có biết chăng?

– Ta biết được và Ta biết nhiều hơn thế nữa! Vị này đã nhập Niết-bàn!

Vị du sĩ nói:

– Vậy nói lên cho con, bí quyết ấy?

– Vậy ông phải xuất gia! Rồi Migasìra xuất gia và được dạy cho đề tài tu định. An trú vững vàng trên thiền và thắng trí, ngài thực hành thiền quán, không bao lâu, chứng quả A-la-hán.

Rồi ngài nói lên chánh trí của ngài như sau:

  1. Từ khi ta xuất gia,
    Trong pháp bậc Chánh giác,
    Giải thoát, ta tiến lên,
    Ta vượt qua dục giới.
  2. Nhờ Phạm-chí quán sát,
    Tâm ta được giải thoát,
    Ta giải thoát bất động,
    Mọi kiết sử đoạn diệt.

(CLII) Sivàka (Thera. 24)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Ràjagaha (Vương Xá), được đặt tên Sivàka. Khi đã nhận được một sự giáo dục toàn diện, ngài theo xu hướng sở thích của mình, từ bỏ thế tục làm người du sĩ. Ðến nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài khởi lòng tin xuất gia, và cuối cùng chứng quả A-la-hán. Ngài nói lên chánh trí của mình:

  1. Vô thường, những ngôi nhà,
    Ðây đó lại dựng lên,
    Tìm kiếm người làm nhà,
    Tái sanh là đau khổ.
  2. Hỡi kẻ làm nhà kia!
    Ngươi đã bị thấy rồi,
    Từ nay, ngươi không thể,
    Lại dựng nhà lên nữa,
    Mọi tường vách đổ vỡ,
    Nóc nhà bị tan hoang,
    Tâm bị đẩy khỏi dòng,
    Ở đây, bị thổi nát.

(CLIII) Upavàna (Thera. 24)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Sàvatthi, được đặt tên là Upavàna. Thấy được uy nghi đức Phật khi Kỳ Viên được dâng cúng. Ngài xuất gia, phát triển thiền quán, chứng được sáu thắng trí.

Rồi Upavàna trở thành vị thị giả đức Phật. Bấy giờ, Thế Tôn bị đau nhức mỏi, một đệ tử cư sĩ của ngài tên là Devahita sống ở Sàvatthi cúng dường bốn vật dụng cần thiết cho ngài. Khi Upavàna đến với y và bát, Devahita biết ngài cần dùng một vật đặc biệt nên hỏi. Ngài trả lời với bài kệ như sau:

  1. Bậc ứng Cúng, Thiện Thệ,
    ẩn sĩ bị phong thấp,
    Nếu ông có nước nóng,
    Hãy cúng dường ẩn sĩ.
  2. Cúng dường người đáng cúng,
    Cung kính người đáng kính,
    Tôn trọng người đáng trọng,
    Ta mong muốn vị ấy,
    Ðược vật cúng mang đến.

Rồi vị Bà-la-môn dâng cúng nước nóng và thuốc trị bệnh. Nhờ vậy, bệnh của Thế Tôn thuyên giảm và Thế Tôn tỏ lời cảm ơn.

(CLIV) Isidinna (Thera. 24)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở xứ Sunàparanta, trong gia đình một vị chức sắc, được đặt tên là Isidinna. Khi lớn lên, ngài chứng kiến Thế Tôn hiện thần thông song hành khi ngôi nhà bằng trầm hương được dâng cúng, với tấm hân hoan đối với bậc Ðạo Sư, ngài nghe pháp, trở thành bậc Dự lưu. Dầu còn sống đời sống thế gian, một Thiên nhân khích lệ ngài như sau:

  1. Ta thấy người cư sĩ,
    Trì pháp với lời nói,
    Các dục là vô thường,
    Họ ưa thích ái luyến,
    Châu báu và vòng nhẫn,
    Họ đón chờ vợ con.
  2. Thật sự họ không biết,
    Pháp như thật là gì?
    Dầu họ có tuyên bố:
    ‘Các dục là vô thường!’
    Họ không có sức mạnh,
    Ðể cắt đứt tham ái,
    Do vậy, họ luyến tiếc,
    Vợ con và tài sản.

Khi người cư sĩ nghe vậy, ngài cảm thấy xúc động, xuất gia, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Nói lên chánh trí của ngài, ngài lập lại những bài kệ trên.

(CLV) Sambula – Kaccàna (Thera. 24)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong nước Magadha (Ma-kiệt-đà), con một thị dân thuộc dòng họ Kaccàna, tên là Sambula, ngài được biết với tên Sambula-Kaccàna. Sau khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài xuất gia rồi đi đến miền phụ cận núi Hy-mã-lạp-sơn, tu học thiền quán trong một cái hang tên là Bheravàyanà (đường đi dễ sợ).

Một hôm, một cơn giông tố trái mùa nổi lên, mây ùn ùn nổi lên trên hư không, sấm sét vang động, chớp sáng chói lòa, trời bắt đầu mưa đổ ào ào xuống. Các loài vật như gấu, dã can, trâu, voi đều la hét run sợ. Nhưng vị Trưởng lão phát triển thiền quán, không kể gì đến mạng sống của mình, không để ý đến tiếng động vang, nhưng cơn động làm cho dịu khí trời, tâm ngài được tịnh chỉ, ngài triển khai thiền quán, chứng được quả A-la-hán với sáu thắng trí. Nghĩ đến thành quả đạt được, ngài cảm thấy phấn khởi, ngài nói lên chánh trí của ngài, với những bài kệ:

  1. Mưa ào ào đổ xuống,
    Mưa ầm ầm vang động,
    Ta sống chỉ một mình,
    Trong hang động kinh hoàng,
    Dầu ta sống một mình,
    Trong hang động kinh hoàng,
    Ta không hoảng, sợ hãi,
    Không lông tóc dựng ngược
  2. Pháp nhĩ ta là vậy,
    Nên dầu sống một mình,
    Trong hang động kinh hoàng,
    Ta không hoảng, sợ hãi,
    Không lông tóc dựng ngược.

(CLVI) Khitaka (Thera. 25)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong nước Kosala, con một vị Bà-la-môn, được đặt tên là Khitaka. Ngài nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, xuất gia, sống trong rừng, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Hưởng được lạc giải thoát Niết-bàn, cảm thấy phấn khởi tinh cần, ngài đi đến các Tỷ-kheo sống trong rừng để khích lệ, làm các vị ấy phấn khởi. Ngài nói những bài kệ này, trước hết vì hạnh phúc cho các vị ấy, sau nói lên chánh trí của ngài:

  1. Tâm ái như tảng đá
    Ðứng vững, không dao động,
    Hỡi những vật khả ái,
    Tâm không có tham ái,
    Ðối vật làm dao động,
    Tâm không có dao động,
    Tâm ai tu tập vậy,
    Từ đâu, khổ sẽ đến.
  2. Tâm ta như tảng đá
    Ðứng vững, không dao động,
    Ðối những vật khả ái,
    Tâm không có tham ái,
    Ðối vật làm dao động,
    Tâm không có dao động,
    Tâm ta tu tập vậy,
    Từ đâu, khổ đến ta.

(CLVII) Sona – Potiriyaputta (Thera. 25)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), con của điền chủ Potiriya, được đặt tên là Sona. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài trở thành tướng chỉ huy quân lực của Bhaddiya, một vị vua Sakka. Nay Bhaddiya đã xuất gia, và ngài theo gương Bhaddiya cũng xuất gia, nhưng ngài biếng nhác, không có tu thiền định. Thế Tôn ở tại vườn xoài Anupiya, chiếu hào quang đến ngài, khích lệ ngài tu tập chánh niệm, với những bài kệ như sau:

  1. Thầy chớ có ngủ nữa,
    Với đêm, sao vòng hoa,
    Ðêm này, người có trí,
    Thức dậy, không có ngủ.

Nghe lời này, ngài cảm thấy dao động mạnh, thấy rõ những khuyết điểm của ngài, ngài ngồi thiền ngoài trời, tu tập thiền quán, ngài nói lên bài kệ:

  1. Khi con voi tấn công,
    Rơi từ lưng voi xuống,
    Trên chiến trường ta chết,
    Tốt hơn sống bại trận.

Nói vậy, ngài triển khai thiền quán, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi ngài lập lại bài kệ của bậc Ðạo Sư, và với bài kệ của ngài, ngài nói lên chánh trí của mình.

(CLVIII) Nisabha (Thera. 25)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong xứ các dân tộc Koliya, trong một gia đình dân tộc, được đặt tên là Nisabha. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài chứng kiến sức mạnh uy nghi đức độ của đức Phật trong trận chiến giữa dân tộc Sakka và dân tộc Koliya, khởi lòng tin, ngài xuất gia, chứng quả A-la-hán.

Thấy một Tỷ-kheo đồng Phạm hạnh dùng thời gian của mình rất là uổng phí, nên ngài dùng những bài kệ này để khuyên răn vị ấy, và nói lên ngài thực hành những điều ngài nói:

  1. Sau khi đã từ bỏ
    Năm loại dục trưởng dưỡng,
    Những vật thật khả ái,
    Khiến tâm ý thích thú,
    Với lòng tin, xuất gia,
    Chấm dứt sự khổ đau.
  2. Ta không hoan hỷ chết,
    Ta không hoan hỷ sống,
    Ta chờ đợi thời đến,
    Tỉnh giác và chánh niệm.

(CLIX) Usabha (Thera. 25)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), trong gia đình một vị vua Sakka, được đặt tên là Usabha. Khi đức Phật về thăm bà con, ngài thấy sức mạnh và sự sáng suốt của đức Phật, khởi lòng tin và xuất gia, nhưng ngài không làm các bổn phận của người tu hành, cả ngày giao du nhiều người, ban đêm thời lo ngủ.

Một hôm, với tâm tư hôn trầm phóng dật, ngài nằm ngủ, ngài mộng thấy ngài cạo đầu, đắp áo cà-sa, ngồi trên lưng voi đi vào thành để khất thực; tại đấy, thấy quần chúng tụ tập đông đảo, ngài cảm thấy xấu hổ và xuống voi không ngồi nữa. Ngài thức dậy, suy nghĩ: ‘Vì sao, đây là cơn mộng hôn trầm và phóng dật, ta thấy ta nằm ngủ với tâm ưu não’, ngài an trú thiền quán, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Như vậy lấy cơn mộng làm đề tài khích lệ, ngài dùng những bài kệ để nói lên chánh trí của ngài:

  1. Vai đắp phủ tấm y,
    Giống như màu bông xoài,
    Ngồi trên lưng con voi,
    Ta vào làng khất thực.
  2. Từ lưng voi leo xuống,
    Ta cảm nhận xúc động,
    Trước ta rất ngạo mạn,
    Nay ta thật lắng dịu,
    Ta đã chứng đạt được,
    Các lậu hoặc đoạn diệt.

(CLX) Kappata – Kura (Thera. 25)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại Sàvatthi, trong tình cảnh nghèo nàn, ngài chỉ biết tự nuôi sống, bằng cách mặc đồ rách rưới, bát ăn xin cầm tay, đi xin gạo cơm. Vì vậy ngài được tên là Kappatakura (rách và gạo). Khi lớn lên, ngài nuôi sống bằng cách bán cỏ. Một hôm, đang cắt cỏ trong rừng, ngài gặp một vị Trưởng lão, ngài đảnh lễ, ngồi xuống nghe pháp. Ngài khởi lòng tin, từ bỏ nếp sống cũ, xuất gia, cất đồ rách rưới vào một chỗ. Khi ngài cảm thấy nhàm chán với đời sống mới, ngài đi đến nhìn đồ rách rưới ấy, tâm ngài trở thành bất an. Làm như vậy, bảy lần ngài rời khỏi chúng Tăng. Các Tỷ-kheo báo cáo lên sự việc này. Một hôm, khi ngài là một Tỷ-kheo đang ngồi giữa chúng Tăng tại giảng đường, bậc Ðạo Sư giáo giới ngài với những bài kệ như sau:

  1. Ðây là đồ rách rưới,
    Của Kappata-kura,
    Y áo đang phủ đắp,
    Thật là quá nặng nề,
    Trong bình bát bất tử,
    Ðược đựng đầy Chánh pháp,
    Nhưng nó không thực hành,
    Con đường hành thiền định.
  2. Hỡi này Kappata,
    Chớ lắc qua lắc lại,
    Chớ khiến ta phải đánh,
    Các tiếng vào tai ông,
    Hỡi này Kappata,
    Chớ làm kẻ si mê,
    Ngồi lắc qua lắc lại,
    Giữa Tăng chúng hội họp.

Bị đức Phật quở trách mạnh mẽ, ngài dao động mạnh, phát triển thiền quá, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi ngài lập lại các bài kệ đã khích lệ ngài tu hành và những bài kệ này trở thành những lời tuyên bố chánh trí của ngài.

Phẩm Năm

(CLXI) Kumàra-Kassapa (Thera. 26)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), mẹ ngài là con một vị chức sắc, mẹ ngài không được cha mẹ bằng lòng cho xuất gia khi còn là thiếu nữ, lập gia đình, được chồng bằng lòng cho xuất gia, nhưng bà không biết là đang có thai. Khi các Tỷ-kheo-ni thấy hiện trạng này, liền đến hỏi ý kiến Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa), vị này cho mẹ ngài là Tỷ-kheo-ni bất chánh. Các Tỷ-kheo-ni tới hỏi ý kiến bậc Ðạo Sư, bậc Ðạo Sư giao việc này cho Tôn giả Upàli giải quyết. Upàli cho mời một số vị cư sĩ ở Sàvatthi, gồm có nữ cư sĩ Visàkhà, và giữa hội nghị, có sự có mặt của vua, Tôn giả Upàli tuyên bố vị Tỷ-kheo-ni đã có thai trước khi xuất gia, và bậc Ðạo Sư đã chấp nhận sự kiện này. Mẹ ngài nuôi dưỡng đứa con tại ngôi tịnh xá, đứa con như bức tượng bằng vàng, và vua nuôi dưỡng đứa trẻ và ngài được đưa đến cho bậc Ðạo Sư xuất gia. Vì ngài xuất gia khi còn thiếu niên, ngài được gọi là Kumàra-kassapa, dầu cho khi ngài đã lớn.

Trong khi ngài tu tập thiền quán, học lời Phật dạy, ngài ở tại rừng Andha. Rồi một Thiên nhân, đã chứng quả Bất lai, đã được làm Ðại Phạm Thiên ở Tịnh Cư Thiên, muốn chỉ cho Kumàra-kassapa phương pháp chứng được đạo quả. Vị Thiên nhân đến tại rừng Andha và hỏi ngài mười lăm câu hỏi mà chỉ có bậc Ðạo Sư mới có thể trả lời. Ngài hỏi đức Phật các câu hỏi ấy và học thuộc lòng các câu đức Phật trả lời, phát triển quán, chứng quả A-la-hán.

Ðược bậc Ðạo Sư ấn chứng cho là vị thuyết pháp lanh lợi đệ nhất, ngài nhớ lại quá trình tu hành của mình và dưới hình thức tán thán Ba ngôi báu, ngài nói lên chánh trí của mình:

  1. Ôi Phật đà, ôi Pháp!
    Ôi Ðạo Sư thành tựu!
    Ở đây, vị đệ tử,
    Chứng đạt Chánh pháp này.
  2. Trải qua vô lượng kiếp,
    Ta tác thành có thân,
    Thân này thân cuối cùng,
    Thân này hành trì xong,
    Trên con đường sống chết,
    Nay không còn tái sanh.

(CLXII) Dhammapàla (Thera. 26)

Trong thời đức Phật hiện tại, khi bậc Ðạo Sư qua đời, ngài sanh ở Avanti con một Bà-la-môn, được đặt tên là Dhammapàla. Khi ngài đi từ Takkasilà về, học hành đã xong, ngài thấy một vị Trưởng lão ngồi một mình trong thảo am, được vị ấy thuyết pháp, ngài khởi lòng tin, xuất gia và chứng được sáu thắng trí.

Trong khi ngài suy tư hoan hỷ trong vị ngọt giải thoát, hai Sa-di leo cây hái trái, bị cây gẫy ngã xuống. Thấy vậy ngài lấy tay ôm đỡ hai người Sa-di, với thần thông đặt hai vị ấy xuống đất, không có bị thương. Và ngài dạy hai vị ấy với những bài kệ:

  1. Ai Tỷ-kheo trẻ tuổi
    Chú tâm hành lời Phật,
    Tỉnh thức giữa người ngủ,
    Vị ấy, đời không uổng.
  2. Do vậy, bậc Hiền trí,
    Nhớ đến lời Phật dạy,
    Chuyên tu tín và giới,
    Hoan hỷ thấy Chánh pháp.

(CLXIII) Brahmàlì (Thera. 26)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở nước Kosala, con một Bà-la-môn, được đặt tên là Brahmàlì. Khi đến tuổi trưởng thành, thúc đẩy bởi những điều kiện chín muồi, do giao hảo với bạn lành, ngài xuất gia, tu tập thiền định trong một ngôi rừng, nhờ trí tuệ chín muồi, ngài phát triển thiền quán, chứng được sáu thắng trí.

Sống trong vị an lạc giải thoát, vị Trưởng lão rất thuần thục pháp tinh tấn, một hôm sống ở trong rừng ngài nói lên những bài kệ này, thay mặt cho các Tỷ-kheo ở trong rừng, những bài kệ tán thán hạnh tinh tấn:

  1. Với những ai, các căn,
    Ðã đi đến tịnh chỉ,
    Như được khéo điều phục,
    Bởi đánh xe điều ngự,
    Kiêu mạn được đoạn tận,
    Không còn có lậu hoặc,
    Chư Thiên rất ái mộ
    Những vị có hạnh ấy.
  2. Với chính ta, các căn,
    Ðã đi đến tịnh chỉ,
    Như được khéo điều phục,
    Bởi đánh xe điều ngự,
    Kiêu mạn được đoạn tận,
    Không còn có lậu hoặc,
    Chư Thiên ái mộ ta,
    Ta thành tựu hạnh ấy.

(CLXIV) Mogharàjam (Thera. 27)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn, tên là Mogharàjam. Vị ấy tu học dưới sự lãnh đạo của Bà-la-môn Bàvariya. Cảm thấy lo âu sợ hãi, ngài trở thành một vị tu khổ hạnh. Ngài là một trong mười sáu vị, trong ấy có Ajita và những vị khác, đã được Bàvariya đưa đến yết kiến bậc Ðạo Sư. Sau khi Mogharàjam hỏi và được trả lời, ngài chứng quả A-la-hán.

Sau đó, ngài được biết đến vì ngài mặc áo thô sơ do các nhà lữ hành, các thợ may, các thợ nhuộm quăng bỏ hai bên đường. Do vậy, bậc Ðạo Sư ấn chứng cho ngài là người đệ tử đệ nhất mặc áo thô sơ. Như vậy ngài thực hiện chí nguyện từ trước của ngài.

Một thời khác, do thiếu sự săn sóc chu đáo và do nghiệp đời trước, các mụt ghẻ lở xuất hiện và sanh ra nhiều trên thân của ngài, nghĩ rằng chỗ trú ẩn của ngài đã bị ô nhiễm, ngài trải chỗ nằm của ngài trên một thửa ruộng ở Magadha, và dầu lúc ấy thuộc mùa đông, ngài vẫn ở tại đấy. Một hôm, hầu hạ bậc Ðạo Sư và đảnh lễ ngài, bậc Ðạo Sư hỏi ngài với những bài kệ như sau:

  1. Hỡi Mogharàja!
    Sống với da thô độc,
    Sống với tâm hiền thiện,
    Luôn luôn hành thiền định,
    Trong những đêm đông giá
    Thầy là một Tỷ-kheo,
    Vậy Thầy sống thế nào
    Thầy sẽ làm những gì?

Ðược hỏi vậy, ngài trả lời và giải thích cho bậc Ðạo Sư:

  1. Con có được nghe rằng:
    Ở nước Magadha,
    Ðất nước giàu thịnh vượng,
    Toàn dân sống đầy đủ,
    Những am lợp bằng rơm,
    Còn tốt đẹp hơn nhiều,
    Hơn đời sống an lạc,
    Của mọi người dân khác.

(CLXV) Visàkha, Con Của Pancàlì (Thera. 27)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở xứ Magadha (Ma-kiệt-đà), con một vị vua địa phương, được đặt tên là Visàkha. Vì ngài là con trai một công chúa con vua, về sau ngài được biết là con trai của Pancàlì.

Sau khi phụ vương mất, ngài nối ngôi vua, nhưng khi bậc Ðạo Sư đến gần chỗ ngài ở, ngài đến nghe đức Phật thuyết pháp, khởi lòng tin rồi xuất gia. Theo bậc Ðạo Sư đến Sàvatthi (Xá-vệ), ngài phát triển thiền quán, chứng được sáu thắng trí.

Với lòng từ mẫn nghĩ đến bà con, ngài viếng thăm quê hương cũ, dân chúng đến nghe ngài thuyết giảng rất đông. Một hôm có người hỏi: ‘Có bao nhiêu đức tánh cần thiết để một người trở thành nhà thuyết pháp?’. Ngài trả lời đại cương những đức tánh trong những bài kệ sau đây:

  1. Chớ có tự kiêu mạn,
    Chớ có khinh khi người,
    Không khinh, không hại người,
    Ðã đến bờ bên kia,
    Và chớ có khen mình,
    Trước mặt các hội chúng,
    Không dao động, khiêm tốn,
    Khéo nói, khéo chế ngự.
  2. Với người, thấy ý nghĩa,
    Tế nhị và kín đáo,
    Thiện xảo về trí tuệ
    Nếp sống khéo hộ trì,
    Thực hiện giới chư Phật,
    Niết-bàn đối vị ấy,
    Không gì khó chứng đạt.

(CLXVI) Cùlaka (Thera. 27)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha, con một vị Bà-la-môn, được đặt tên là Culàka. Khi ngài thấy bậc Ðạo Sư nhiếp phục con voi Dhanapàla, ngài phát khởi lòng tin xuất gia. Trong khi tu tập, ngài trú ở hang cây Indra-sàla. Một hôm ngồi trước cửa hang, nhìn xuống các thửa ruộng ở Magadha (Ma-kiệt-đà), một cơn giông tố khởi lên với những lớp mây trùng điệp ùn ùn khởi lên, sấm sét vang dậy, trời mưa ào ào đổ xuống, các đàn chim công nghe tiếng sấm sét, sung sướng kêu lên tiếng kê-la của chúng, và múa hát chung quanh. Làn gió giông tố đem lại cho ngài cảm giác dễ chịu và thỏa thích khi ngài đang ngồi trong hang, với nhiệt độ vừa phải, tâm ngài được thiền định. Ngài bước vào con đường hành trì, và nhận thức được thời gian thích hợp đã đến, ngài nói lên lời tán thán, sự tu hành của ngài với những bài kệ sau:

  1. Những chim công kêu hót,
    Mào đẹp, lông đuôi xinh,
    Với cổ, màu xanh tươi,
    Mỏ đẹp, tiếng hót hay,
    Ðất này, khéo lát cỏ,
    Nước mắt khéo thấm nhuần,
    Với khoảng trời khéo che,
    Mây mưa khéo bao phủ.
  2. Thân người khéo khỏe mạnh,
    Tâm ý tốt, thiền tu,
    Lành thay, khéo khởi tâm,
    Trong lời khéo Phật dạy.
    Hãy cảm xúc con đường
    Ðưa đến cõi bất tử,
    Ðường ấy đường vô thượng,
    Ðường trong trắng lành mạnh,
    Ðường tế nhị nhỏ nhiệm,
    Con đường thật khéo thấy.

Ngài tự giáo giới lấy mình, chứng được thiền định, và phát triển thiền quán, chứng quả A-la-hán. Ôn lại những việc đã làm, với tâm hoan hỷ, ngài nói lên những bài kệ này như là lời tuyên bố chánh kiến của ngài.

(CLXVII) Anupama (Thera. 27)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình giàu có ở Kosala, vì ngài đẹp trai nên được đặt tên là Anùpama (không thể so sánh được). Khi đến tuổi trưởng thành, ngài cảm thấy sức mạnh của các nguyên nhân, xuất gia và sống trong một ngôi rừng để tu tập thiền quán, nhưng tâm ngài chạy theo ngoại cảnh, xoay quanh những vấn đề đối tượng thiền định, ngài tự trách mình như sau:

  1. Tâm đi đến hỷ mạn
    Như bị đâm giáo nhọn,
    Nếu người sống tâm ấy,
    Như sống với giáo, gậy.
  2. Này tâm, ta gọi ngươi,
    Kẻ bẻ gãy hạnh phúc,
    Này tâm, ta gọi ngươi,
    Kẻ phá hoại đời ta!
    Bậc Ðạo Sư của ngươi,
    Khó được nay đã được,
    Chớ có dắt dẫn ta,
    Ðến chỗ có hại ta!

Như vậy ngài giáo giới tâm ngài, phát triển thiền quán, chứng quả A-la-hán.

(CLXVIII) Vajjita (Thera. 27)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Kosala giàu có, sau khi từ Phạm Thiên giới hạ sanh, ngài luôn luôn khóc trong bàn tay bà mẹ, vì ngài không chịu nổi xúc chạm của nữ nhân, ngài được gọi là Vajjita (vị từ bỏ). Ðển tuổi trưởng thành, ngài chứng kiến Thế Tôn hiện thần thông song hành, khởi lòng tin, xuất gia và chứng được sáu thắng trí. Nhớ đến đời sống quá khứ, ngài cảm thấy xúc động nói:

  1. Trong thời luân hồi dài,
    Ta trôi lăn nhiều cõi,
    Ta không thấyThánh đế,
    Ta phàm phu mù lòa.
  2. Với hạnh không phóng dật,
    Ta phá vỡ luân hồi,
    Mọi sanh thú chặt đứt,
    Nay không còn tái sanh.

Và bài kệ trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(CLXIX) Sandhita (Thera. 28)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh trong một gia đình giàu có ở Kosala, tên là Sandhita. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài nghe bài giảng về vô thường, hoảng hốt lo sợ, và xin xuất gia với trí tuệ chín muồi, ngài an trú thiền quán và chứng đạt sáu thắng trí. Nhớ đến đời sống trước của mình, sau khi đức Phật Sikhì (Thi-khí) mệnh chung. Ngài đảnh lễ tại cây Bồ-đề và nhận thức được ý nghĩa vô thường, ngài tuyên bố ngài thành đạt ý tưởng, nhờ nguyên nhân ấy với những bài kệ như sau:

  1. Dưới gốc cây Bồ-đề,
    Với ánh sáng lá xanh,
    Khi cây đang vươn lên,
    Trong sức sống lớn mạnh,
    Một tưởng về Phật hành,
    Chánh niệm ta đạt được.
  2. Ðã qua ba mốt kiếp,
    Tưởng ấy ta không chứng,
    Nay chính nhờ tưởng ấy,
    Ta đạt lậu hoặc diệt.

Chương III

-ooOoo-

Phẩm Ba Kệ

(CLXX) Anganika Bhàradvàja (Thera. 29)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh gần núi Hy-mã-lạp-sơn, trong thành phố Ukkattha, trong gia đình một Bà-la-môn phú cường và được đặt tên là Anganika Bhàradvàja. Khi ngài được học xong giáo điển và nghệ thuật Vệ-đà, ngài hướng về giải thoát. Trong khi bộ hành chỗ này chỗ khác, ngài gặp bậc Ðạo Sư khi bậc Ðạo Sư đang du hành ở vùng quê, và với tâm tư tín thành, ngài nghe bậc Ðạo Sư thuyết giảng. Từ bỏ tà khổ hạnh, ngài xuất gia, tu tập thiền quán, và sau một thời gian chứng được sáu thắng trí.

Sau khi sống tận hưởng vị ngọt giải thoát, ngài với lòng thương đối với bà con, đến thăm và dạy họ về quy y và giới luật. Rồi từ giã các bà con, ngài sống trong một ngôi rừng gần làng Kundiya của dân tộc Kuru. Khi có việc đi đến Uggàyàman, một số Bà-la-môn quen biết đến hỏi: ‘Thưa Tôn giả Bhàradvàja, do ngài thấy gì mà ngài từ bỏ giáo hội Bà-la-môn, và chấp nhận giáo hội này?’ Ngài nêu rõ, ngoài giáo hội đức Phật, không có giới thanh tịnh, ngài nói:

  1. Trong rừng ta thờ lửa,
    Truyền thống không chơn chánh,
    Không biết đường thanh tịnh,
    Theo khổ hạnh bất tử.
  2. Với lạc, ta được lạc,
    Hãy xem pháp, tùy pháp,
    Ba minh chứng đạt được,
    Lời Phật dạy, làm xong.
  3. Trước bà con Phạm chí,
    Nay ta chính Phạm chí,
    Ba minh, ta quán đảnh,
    An ổn ta đạt được,
    Thông hiểu đúng Chánh pháp,
    Thuần thục lời Phật dạy.

Khi các Bà-la-môn ấy nghe ngài nói, các vị ấy chấp nhận và từ bỏ rất là phấn khởi.

(CLXXI) Paccaya (Thera. 29)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở thành Rohi trong một gia đình hoàng tộc, và được đặt tên là Paccaya. Thọ hưởng gia tài khi phụ thân mệnh chung, ngài tuyên bố tổ chức một đàn bố thí rất lớn và một số đông người tụ họp. Trong cuộc tụ họp này, bậc Ðạo Sư ngồi trên một ngai vàng trong một ngôi nhà trang hoàng châu báu. Ðức Phật thuyết pháp, trong khi mọi người ngắm, chiêm ngưỡng ngài. Phần lớn dân chúng hiểu lời đức Bổn Sư dạy, nhưng ngài Paccaya đi xa hơn. Thúc đẩy bởi nghiệp duyên đời trước, ngài từ bỏ tài sản và xuất gia như trước kia ngài đã phát nguyện dưới thời đức Phật Kassapa, nay ngài đã phát nguyện, khi đã vào am tranh tu hành, nếu chưa giải thoát thời không ra khỏi am này và cuối cùng thiền quán được phát triển, trí tuệ được thuần thục, ngài chứng quả A-la-hán. Ðể kỷ niệm thành quả này, ngài nói lên quả chứng của ngài, ngang qua những bài kệ như sau:

  1. Năm ngày ta xuất gia,
    Hữu học, ý chưa đạt,
    Ta trú hạnh viễn ly,
    Tâm phát nguyện như sau:
  2. Ta sẽ không ăn uống,
    Không ra ngoài tinh xá,
    Ta sẽ không nằm xuống,
    Không nằm một bên hông,
    Nếu mũi tên tham ái,
    Chưa rút nhổ lên được.
  3. Hạnh ta sống như vậy,
    Hãy nhìn ta tinh cần,
    Ba minh ta đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CLXXII) Bàkula (Thera. 29)

Ngài sanh ở Kosambi, trong một gia đình có chức vụ, trước khi bậc Ðạo Sư sanh ra, và ngài được đem đi tắm ở sông Yamunà để được sức khỏe, và một con cá nuốt ngài trong tay người vú. Con cá bị người câu cá bắt được và đem bán cho vợ một vị chức sắc khác ở Ba-la-nại. Khi con cá bị mổ ra, đứa con nít nhờ phước nghiệp đời trước, nên còn sống không bị thương tích. Vợ vị chức sắc thương ngài như con đẻ, và khi bà nghe được câu chuyện của ngài, và hỏi về cha mẹ. Vua trong nước quyết định cho ngài thuộc quyền sở hữu của hai gia đình, và do vậy ngài được tên là Bàkula (hai gia đình).

Sau một đời sống giàu sang, ngài nghe đức Bổn Sư thuyết pháp, xuất gia khi tám mươi tuổi. Trong bảy ngày, ngài chưa được giác ngộ, nhưng ngày thứ tám, ngài chứng được quả A-la-hán, thông hiểu nghĩa, thông hiểu pháp.

Một hôm, khi ấn chứng vị trí tu hành cho các vị đệ tử, bậc Ðạo Sư ấn chứng cho ngài là vị đệ tử có sức khỏe đệ nhất. Về sau, khi sắp sửa mệnh chung ngài nói lên chánh trí của ngài giữa hội chúng Tỷ-kheo như sau:

  1. Với ai những công việc
    Cần phải làm từ trước,
    Về sau, vị ấy mới
    Có ý định muốn làm.
    Vị ấy tự phá hoại
    Căn cứ địa an lạc,
    Về sau, chịu khổ đau
    Trong nung nấu hối tiếc.
  2. Hãy nói điều có làm,
    Không nói điều không làm,
    Bậc Hiền trí rõ biết,
    Người chỉ nói, không làm.
  3. Niết-bàn nhiệm màu lạc,
    Bậc Chánh Giác thuyết giảng,
    Không sầu muộn là tham,
    Thật sự là an ổn,
    Tại đấy, sự đau khổ,
    Ðược đoạn diệt hoàn toàn.

(CLXXIII) Dhaniya (Thera. 29)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá) trong một gia đình thợ làm đồ gốm, được đặt tên là Dhaniya, và tiếp tục làm nghề của ông cha. Chính trong nhà của ngài, bậc Ðạo Sư giảng cho Pakkusati kinh Dhàtuvibhangasutta. Dhaniya nghe tin Pukkasati (đã thành bậc A-la-hán) mệnh chung đêm ấy. Ngài nghĩ: ‘Lời Phật dạy thật là sức mạnh lãnh đạo, chỉ có một đêm đã đủ giải thoát một người khỏi sự đau khổ tái sanh’. Rồi ngài xuất gia. Tuy vậy ngài vẫn tiếp tục nghề làm ngói lợp nhà. Bị đức Phật quở vì đã là am tranh bằng gạch, ngài quyết định sống giữa các Tỷ-kheo, và tại đấy chứng quả A-la-hán.

Về sau, nhân dịp giáo giới các Tỷ-kheo tu tập khổ hạnh và xem hạnh mình cao hơn các người khác, ngài tuyên bố chánh trí ngài như sau:

  1. Nếu muốn mong đợi lạc
    Trong đời sống Sa-môn,
    Chớ khinh y chúng Tăng,
    Chớ khinh Tăng ẩm thực.
    Nếu muốn mong đợi lạc
    Trong đời sống Sa-môn,
    Hãy sử dụng trú xứ,
    Như rắn và như chuột.
  2. Nếu muốn mong đợi lạc
    Trong đời sống Sa-môn,
    Hãy biết tự bằng lòng
    Với bất cứ việc gì,
    Và hãy cương quyết tu,
    Tu tập hạnh nhất pháp.

(CLXXIV) Con Của Màtanga (Thera. 30)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kosala, con một điền chủ tên Màtanga, và được gọi là con của Màtanga. Ngài lớn lên trong biếng nhác, và khi ngài bị quần chúng la rầy, ngài làm quen với các Tỷ-kheo, nhận thấy các Tỷ-kheo sống thật hạnh phúc. Nhưng khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài khởi lòng tin và xin xuất gia. Thấy các Tỷ-kheo sử dụng thần thông, ngài muốn chứng đạt thần thông. Và thực hành các thiền quán, ngài chứng được sáu thắng trí.

Từ đấy, ngài chỉ trích biếng nhác, tán thành sự tinh cần của ngài với những bài kệ như sau:

  1. Ôi quá lạnh, quá nóng!
    Ôi, đã quá trễ rồi!
    Ðây là lời kêu than,
    Như vậy bỏ việc làm,
    Thời sát-na quý báu
    Lặng lẽ vượt trôi qua.
  2. Ai nghĩ đến lạnh nóng,
    Không hơn loài cỏ rác,
    Làm bổn phận con người,
    Không hại đến an lạc.
  3. Cỏ dabba, ku-sa,
    Loại cỏ gai đâm ngực,
    Ta dùng ngực đẩy chúng,
    Sống tăng trưởng viễn ly.

(CLXXV) Khujja Sobhita (Thera. 30)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Pàtaliputta trong một gia đình Bà-la-môn và được gọi là Sobhita. Vì ngài hơi còm, ngài được gọi là Khujja Sobhita (còm lưng). Khi đến tuổi trưởng thành, đức Bổn Sư vừa diệt độ, ngài được Tôn giả Ananda độ cho xuất gia và chứng được sáu thắng trí.

Trong kỳ kiết tập thứ nhất, ngài được bảo mời Tôn giả Ananda đến dự đại hội. Lúc ấy, các thiên nhân cử một thiên nhân đứng ở cửa hang để chận đứng các hành vi thù nghịch của Ác ma, và khuyên Sobhita tuyên bố sự có mặt của mình cho thiên nhân ấy, với những bài kệ như sau:

  1. Giữa các vị Sa-môn,
    Sống Pàtaliputta,
    Những vị luận thuyết giỏi,
    Những vị có nghe nhiều,
    Có một vị tuổi lớn
    Ðứng ở tại cửa vào,
    Tên là Sobhita,
    Có tật, bị còm lưng.

Rồi vị thiên nhân tuyên bố cho chúng Tỷ-kheo biết sự có mặt của Khujja Sobhita:

  1. Giữa các vị Sa-môn,
    Sống Pataliputta,
    Những vị luận thuyết giỏi,
    Những vị có nghe nhiều,
    Có một vị tuổi lớn,
    Ðứng ở tại cửa vào,
    Vị ấy đã đến đây,
    Theo ngọn gió đưa đến.

Rồi chúng Tăng cho phép, vị Trưởng lão đến trước chúng Tăng và nói lên chánh trí của mình.

  1. Vị ấy khéo chiến đấu,
    Vị ấy khéo tế tự,
    Trên chiến trường chiến đấu,
    Vị ấy đã chiến thắng,
    Với Phạm hạnh tích lũy,
    Vị ấy đạt an lạc.

(CLXXVI) Vàrana (Thera. 30)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kosala, trong gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Vàrana. Khi đến tuổi trưởng thành, vị ấy nghe một vị Trưởng lão thuyết pháp trong một ngôi rừng, và với lòng tin, xuất gia. Một ngày kia đi đến hầu hạ đức Phật, ngài chứng kiến một cuộc ấu đả trong gia đình và có nhiều người bị giết. Hốt hoảng, bị dao động, ngài đi gấp đến Thế Tôn và tường thuật sự việc. Thế Tôn thấy sự tiến bộ trong tâm tư của ngài, nên nói lên bài kệ khích lệ ngài:

  1. Ai ở đời, giữa người,
    Làm hại chúng sanh khác,
    Vị ấy tự hại mình
    Ðời này và đời sau.
  2. Ai với tâm từ bi,
    Thương tưởng mọi hữu tình,
    Một người làm như vậy,
    Gặt phước đức thật nhiều.
  3. Hãy học tập khéo nói,
    Hãy hầu hạ Sa-môn,
    Sống một mình kín đáo,
    Với tâm tư tịnh chỉ.

(CLXXVII) Passsika (Thera. 30)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Kosala, thấy Thế Tôn thực hiện thần thông song hành, khởi lòng tin, xuất gia. Ngài bị bệnh trong khi học tập đời sống một ẩn sĩ, bà con săn sóc cho ngài và chữa ngài lành bệnh, khi được lành bệnh, ngài phấn khởi nên tu học siêng năng hơn và chứng được sáu thắng trí. Ngài bay trên hư không, đến thăm bà con và quy y, thọ giới cho họ. Một số bà con nhờ ngài quy y và thọ giới, khi mạng chung và được sanh lên các cõi trời. Khi Passika hầu hạ bậc Ðạo Sư, bậc Ðạo Sư hỏi về sức khỏe bà con của ngài, Passika trả lời như sau:

  1. Ðầu chỉ một mình ta,
    Có lòng tin, sáng suốt,
    Giữa các bà con ta,
    Những người không lòng tin,
    Thông hiểu được Chánh pháp,
    Ðầy đủ những giới đức,
    Vì lợi ích hạnh phúc,
    Cho các bà con ta.
  2. Những bà con bị ta,
    Vì thương họ trách móc,
    Do bà con ái mộ,
    Làm tốt đối Tỷ-kheo.
  3. Khi họ bị mệnh chung,
    Họ được lạc chư Thiên,
    Các anh và mẹ ta,
    Hoan hỷ điều họ muốn.

(CLXXVIII) Yasoja (Thera. 30)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại cửa thành ở Sàvatthi, trong một làng người đánh cá, con vị chủ hộ năm trăm gia đình đánh cá và được gọi là Yasoja. Ðến tuổi trưởng thành, một hôm ngài đánh cá với những người con các người đánh cá trên sông Aciravati, quăng lưới, ngài bắt được con cá lớn có màu sắc vàng. Họ dâng con cá lên vua Pasenadi và vua nói chỉ có đức Phật mới biết nguyên nhân, màu sắc của con cá. Ðức Phật dạy, tiền thân con cá là một ác Tỷ-kheo trong thời đức Phật Ca-diếp, nay vẫn đang sống trong cõi địa ngục. Các chị của nó vẫn sống trong địa ngục, Chỉ có anh nó là vị Trưởng lão, sống đời sống tốt đẹp, và Thế Tôn thuyết pháp về kinh Kapila. Nghe xong, Yasoja cảm thấy xúc động và xin xuất gia, và các bạn cũng xin xuất gia theo; họ đi đến tinh xá Jetavana (Kỳ Viên) để yết kiến đức Phật, nhưng khi đến họ làm quá ồn ào nên bị Thế Tôn đuổi đi. Bị đuổi, và sống trên sông Vaggumudà, Yasoja như con người thuần thục, quyết tâm quyết chí tu trì, không bao lâu chứng được sáu thắng trí. Rồi Thế Tôn cho gọi Yasoja, và ngài vì tu khổ hạnh đặc biệt, nên ốm yếu, xấu xí. Thế Tôn tán thán hạnh tu khắc khổ của ngài với những bài kệ như sau:

  1. Một người đen, gầy mòn,
    Yếu ốm đầy đường gân,
    Tiết độ trong ăn uống,
    Tâm tư không ưu não.

Yasoja được tán thán như vậy, đề cao hạnh cô độc và dạy như sau:

  1. Trong rừng núi rộng lớn,
    Bị muỗi ruồi đốt cắn,
    Như con voi lâm trận,
    Ta chánh niệm chịu đựng.
  2. Sống một, như Phạm thiên,
    Sống hai, như chư Thiên,
    Sống ba, như làng mạc,
    Nhiều hơn, như ở chợ.

(CLXXIX) Satimattya (Thera. 31)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở nước Magadha (Ma-kiệt-đà) làm con một Bà-la-môn, ngài hội đủ những điều kiện nhân duyên, xuất gia, sống với các Tỷ-kheo ở rừng, và trải qua học hỏi tu hành, chứng được sáu thắng trí. Rồi ngài giảng dạy các Tỷ-kheo, thuyết pháp cho nhiều tín đồ về quy y và các giới điều. Có một gia đình, đặc biệt ngài giáo hóa và nuôi dưỡng lòng tin. Trong gia đình này, ngài đặc biệt được chào đón, người con gái nhà này đẹp, và thường cung kính cúng dường ngài ăn uống.

Một hôm, Màra muốn phá ngài và làm ngài mất uy tín, giả dạng ngài và đi đến nắm tay cô con gái, nhưng cô con gái biết là không phải nắm tay của loài Người, liền bỏ tay ra. Nhưng người nhà thấy được và không còn tin tưởng ở ngài. Ngài không biết gì, cảm thấy có sự đổi khác trong thái độ của gia đình ấy. Biết rằng Màra đã ám hại, ngài nguyện sẽ làm tỏ rõ sự tình, người gia chủ nghe ngài giải thích liền xin lỗi ngài và tự mình xin phục vụ cho ngài. Ngài nói lên sự việc, trong những bài kệ sau đây:

  1. Lòng tin trước ông có,
    Nay không còn nơi ông,
    Của ông vẫn của ông,
    Ta không có ác hạnh.
  2. Vô thường và dao động,
    Là lòng tin của ông,
    Sự thấy là như vậy,
    Là sự thấy của ta,
    Có khi ông thương mến,
    Rồi ông lại không ưa,
    Vì sao bậc ẩn sĩ,
    Chịu héo mòn ở đây?
  3. Cơm nấu cho ẩn sĩ,
    Ít ít từng gia đình,
    Ta sẽ đi khất thực,
    Ống chân ta còn mạnh.

(CLXXX) Upàli (Thera. 31)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh trong gia đình một người cạo tóc tên là Upàli. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài xuất gia, theo gương của Anuruddha và năm vị con cháu hoàng tộc, khi đức Phật ở tại rừng Anupiyà. Khi ngài nhận một đề tài để thiền quán, ngài yêu cầu đức Phật đừng đưa ngài đi sống ra ngoài khu rừng. Ðức Phật dạy: ‘Nếu Thầy sống trong rừng, Thầy chỉ phát triển được một vấn đề, nhưng nếu Thầy sống với Ta, Thầy sẽ trở thành thuần thục cả về kinh học và thiền quán’. Ngài vâng theo lời bậc Ðạo Sư khuyên tu thiền quán và sau một thời gian chứng quả A-la-hán.

Tuy vậy, bậc Ðạo Sư dạy cho ngài cả Luật tạng. Về sau, khi Upàli được Thế Tôn khen vì Upàli đã phán quyết trong ba trường hợp về Ajjuka, về Tỷ-kheo Kurukacchaka và Kumàra-Kacapa, ngài được xem là vị hiểu biết Luật tạng.

Trong một ngày trai giới, khi ngài đang đọc giới bổn Pàtimokkha, ngài giáo giới các Tỷ-kheo như sau:

  1. Vì lòng tin ra đi,
    Mới xuất gia, tân học,
    Hãy sống với bạn lành,
    Mạng thanh tịnh, không nhác.
  2. Vì lòng tin, ra đi,
    Mới xuất gia, tân học,
    Tỷ-kheo trú giữa chúng,
    Sáng suốt, học Luật tạng.
  3. Vì lòng tin, ra đi,
    Mới xuất gia, tân học,
    Khéo biết việc nên làm,
    Và việc không nên làm,
    Hãy để vị ấy sống,
    Không để cao tôn xưng.

(CLXXXI) Uttarapàla (Thera. 31)

Sanh trong thời đức Phật hiện tại, ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn, ngài được đặt tên là Uttarapàla. Ngài thấy Thế Tôn thực hiện thần thông song hành, khởi lòng tin, xuất gia và chăm lo tu học. Một hôm, do nhớ nghĩ chuyện này chuyện khác, dục vọng tấn công ngài, và sau một thời chiến đấu tư tưởng mãnh liệt, ngài chận đứng các phiền não, và triển khai thiền quán, ngài chứng được quả A-la-hán.

Suy tư đến chiến thắng, ngài rống lên tiếng rống con sư tử:

  1. Ta thật là hiền thiện,
    Suy tư mục đích tốt,
    Bỏ năm dục trưởng dưỡng,
    Là thế giới si mê.
  2. Sanh trong giới vức ma,
    Bị tên mạnh xung kích,
    Nhưng ta giải thoát được,
    Cạm bẫy của Ma vương.
  3. Mọi dục, ta đoạn tận,
    Mọi sanh hữu, hủy hoại,
    Ðường sanh tử chấm dứt,
    Nay không còn tái sanh.

(CLXXXII) Abhibhùta (Thera. 31)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Vetthapura, đặt tên là Abhibhùta, và khi phụ thân mất, ngài thừa hưởng tài sản đất đai. Khi đức Phật đến tại thành phố, trong dịp Thế Tôn du hành, Abhibhùta đến nghe Thế Tôn thuyết pháp, và mai sáng mời Thế Tôn đến nhà. Thế Tôn cảm ơn và dạy cho ngài Chánh pháp với nhiều chi tiết. Ngài khởi lòng tin, từ bỏ gia sản, xuất gia và chứng quả A-la-hán.

Trong khi thọ hưởng vị ngọt giải thoát, các bà con, thân tín, quen biết đến than van với ngài và ngài đã từ bỏ họ, không để lại một vị lãnh đạo. Và ngài thuyết pháp cho họ nói lên lý do xuất gia của ngài:

  1. Hãy nghe mọi bà con,
    Những ai đã đến đây,
    Ta thuyết pháp cho ông,
    Tái sanh là đau khổ.
  2. Hãy tinh cần, ra đi,
    Chú tâm lời Phật dạy,
    Ðánh bại quân lực ma,
    Như voi, nhà cỏ lau.
  3. Ai trong Pháp Luật này,
    Sẽ sống không phóng dật,
    Từ bỏ dòng tái sanh,
    Sẽ chấm dứt khổ đau.

(CLXXXIII) Gotama (Thera. 32)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong dòng họ Thích-ca và chỉ được biết tên là Gotama, ngài khởi lòng tin khi đức Phật thăm viếng bà con, xuất gia, tu học thiền quán và chứng được sáu thắng trí. Khi ngài đang hưởng lạc giải thoát, bà con ngài hỏi ngài vì sao lại từ bỏ bà con đi xuất gia, ngài liền giải thích những khổ đau, ngài gặp khi phải sanh tử liên tục và hạnh phúc Niết-bàn ngài đã chứng được . Ngài nói:

  1. Ta tái sanh địa ngục,
    Liên tục đến ngạ quỷ,
    Ta sống trải nhiều ngày,
    Trong đau khổ bàng sanh.
  2. Và sống vui làm Người,
    Thỉnh thoảng sanh cõi Trời,
    Trú Giới sắc, Vô sắc,
    Phi tưởng, Phi phi tưởng.
  3. Ta khéo biết sanh hữu,
    Không cốt tủy, duyên thành,
    Dao động thường biến chuyển,
    Tác thành tự ngã ta,
    Ta đạt được tịnh tịch,
    Chánh niệm tâm an trú.

(CLXXXIV) Harita (Thera. 32)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn. Vì tự kiêu sanh trong giai cấp cao, ngài quen gọi các người khác là hạ sanh. Khi khởi lòng tin xuất gia, vì thói quen, ngài vẫn giữ tật xấu ấy. Nhưng một ngày kia, sau khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết giảng, ngài ôn lại tâm tư của mình và ngài thấy lo ngại vì lòng tự kiêu của mình. Ðoạn tận kiêu mạn ấy, ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Sau đó sống trong an lạc giải thoát, ngài chứng minh chánh trí của mình trong những bài kệ giảng dạy các Tỷ-kheo:

  1. Với ai, những công việc,
    Cần phải làm từ trước,
    Về sau, vị ấy mới
    Có ý định muốn làm.
    Vị ấy, tự phá hoại,
    Căn cứ địa an lạc,
    Về sau chịu khổ đau
    Trong nung nấu hối tiếc.
  2. Hãy nói điều có làm,
    Không nói điều không làm,
    Bậc Hiền trí rõ biết,
    Người chỉ nói, không làm.
  3. Niết-bàn khéo an lạc,
    Bậc Chánh giác thuyết giảng,
    Không sầu muộn, ly tham,
    Thật sự, là an ổn,
    Tại đấy, nỗi đau khổ,
    Ðược đoạn diệt hoàn toàn.

(CLXXXV) Vimala (Thera. 32)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Ba-la-nại trong một gia đình Bà-la-môn. Ngài xuất gia dưới sự hướng dẫn của Trưởng lão Amitta, và nhờ sự hướng dẫn này, ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Rồi ngài giảng dạy cho một Tỷ-kheo là bạn của ngài như sau:

  1. Hãy tránh xa bạn ác,
    Giao thiệp bậc thượng nhân,
    Vâng theo lời khuyến giáo,
    Hướng đến lạc bất động.
  2. Như leo trên ván nhỏ,
    Giữa biển lớn bị chìm,
    (Xem kệ 147 – 148)
  3. Cũng vậy đến kẻ nhác,
    Người hạnh tốt cũng chìm,
    Do vậy, hãy bỏ nó,
    Kẻ làm biếng, làm nhác.
  4. Hãy sống gần bậc Thánh,
    Bậc viễn ly tinh cần,
    Thiền định, thường tinh tấn,
    Bậc Hiền trí sáng suốt.

Chương IV

-ooOoo-

Phẩm Bốn Kệ

(CLXXXVI) Nàgasamàla (Thera. 33)

Sanh trong thời đức Phật hiện tại, trong gia đình hoàng tộc Thích-ca, ngài quán sát tánh vô thường của sự vật và triển khai thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Ngài chứng minh chánh trí của ngài dựa trên kinh nghiệm riêng của ngài trong những bài kệ này:

  1. Trang điểm, mặc áo đẹp,
    Ðeo vòng hoa, thơm nức,
    Mùi thơm gỗ chiên đàn,
    Giữa đám đông, đường lớn,
    Một vũ nữ đang múa,
    Múa lượn theo nhạc khí.
  2. Ta vào thành, khất thực,
    Ði ngang, ta thấy nàng
    Trang điểm, mặc áo đẹp,
    Gieo bẫy mồi thần chết.
  3. Rồi ta tự tác ý,
    Như lý khởi tư duy,
    Các hiểm nguy hiển lộ,
    Nhàm chán, ta an trú.
  4. Và tâm ta giải thoát,
    Thấy pháp nhĩ là vậy,
    Ba minh chứng đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CLXXXVII) Bhagu (Thera. 33)

Sanh trong thời đức Phật hiện tại, trong một gia đình dòng họ Sakya (Thích Ca), ngài xuất gia với Anuruddha và Kimbila, và sống gần làng Bàlakalona. Một ngày kia, khi ngài từ tinh xá ra ngoài để đối trị bịnh buồn ngủ, ngài té khi ngài bước lên đường kinh hành. Xem đấy để tự khích lệ, ngài tự chế ngự và phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Từ đấy, sống thọ hưởng an lạc giải thoát Niết-bàn. Thế Tôn đến, tán thán cô độc của ngài và hỏi: ‘Này Tỷ-kheo, sao cho đến nay, Thầy vẫn còn tinh tấn?’. Ngài trả lời, với những bài kệ như sau:

  1. Bị buồn ngủ chi phối,
    Ta ra khỏi tinh xá,
    Lại lên đường kinh hành,
    Tại đấy té xuống đất.
  2. Xoa bóp cả chân tay,
    Lại lên đường kinh hành,
    Qua lại đường kinh hành,
    Nội tâm ta định tỉnh.
    Rồi ta tự tác ý,
    Như lý khởi tư duy,
    Các hiểm nguy hiển lộ,
    Nhàm chán ta an trú.
  3. Và tâm ta giải thoát
    Thấy pháp nhĩ là vậy,
    Ba minh chứng đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CLXXXVIII) Sabhiya (Thera. 33)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong gia đình con gái một hoàng tộc, người con gái này được cha mẹ giao cho một vị du sĩ hướng dẫn để nàng có thể học giáo lý và nếp sống tu hành. Sabhiya khi lớn lên cũng trở thành một du sĩ, học hỏi nhiều kinh kệ tụng, trở thành một nhà lý luận sắc bén, không ai sánh nổi. Dựng am bên cửa thành, ngài dạy học cho con cháu các hoàng tộc, ngài nghĩ ra hai mươi câu hỏi để ngài hỏi các vị tu sĩ và Bà-la-môn. Trong khi Sabhiyasutta, có ghi là một Bà-la-môn, từ cõi Tịnh cư thiên, đã nghĩ ra các câu hỏi ấy. Thế Tôn khi đi đến Vương Xá, tinh xá Trúc Lâm, đã trả lời các câu hỏi và Sabhiya khởi lòng tin, xuất gia và chứng quả A-la-hán.

Khi ngài khuyên dạy các Tỷ-kheo đã theo phe Devadatta, ngài nói lên những bài kệ như sau:

  1. Người khác không rõ biết,
    Ta ở đây một thời,
    Tại đây, bậc có trí,
    Biết vậy sống tịnh chỉ.
  2. Khi họ không rõ biết,
    Họ làm như bất tử;
    Khi họ rõ biết pháp,
    Giữa bệnh, họ không bệnh.
  3. Ai sở hành phóng đãng,
    Cấm giới bị uế nhiễm,
    Phạm hạnh đáng nghi ngờ,
    Vị ấy chứng quả lớn,
  4. Sống giữa đồng Phạm hạnh,
    Không được trọng, tôn kính,
    Vị ấy xa Diệu pháp,
    Như trời xa đất liền.

(CLXXXIX) Nandaka (Thera. 33)

Trong thời Ðức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình có gia tộc, và được gọi là Nandaka. Ngài xuất gia, sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, và phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Sau đó khi đang sống trong an lạc giải thoát, ngài được bậc Ðạo Sư dạy thuyết pháp cho các Tỷ-kheo-ni và khiến cho năm trăm vị chứng quả A-la-hán. Ðức Phật ấn chứng cho ngài là vị khuyến giáo Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni đệ nhất.

Rồi một ngày kia, khi đi khất thực ở Sàvatthi, một nữ nhân trước kia lập gia đình với ngài, thấy ngài và cười lớn tiếng với một tâm bất chánh. Vị Trưởng lão thấy hành động của nàng liền dạy cho nàng về thân thể bất tịnh, với những bài kệ sau:

  1. Gớm thay, vật hôi thối!
    Ðầy sắc mùi hôi tanh,
    Vật sở hữu của ma,
    chảy nhiều dòng nước,
    Thân này có chín dòng,
    Luôn luôn được tuôn chảy.
  2. Chớ khinh miệt cổ nhân!
    Chớ xúc phạm Như Lai,
    Họ không tham thiên giới,
    Còn nói gì cõi người.
  3. Kẻ ngu, thiếu trí tuệ,
    Tà ý, si bao phủ,
    Kẻ ấy đầy tham đắm,
    Bị ma quăng dây trói.
  4. Những ai đã thoát ly,
    Tham, sân và vô minh,
    Ðây họ không tham đắm,
    Dây cắt, không trói buộc.

(CXC) Jambuka (Thera. 34)

Trong thời Ðức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình rất nghèo. Như trong đời trước, ngài dùng phân làm đồ ăn, và rời bỏ gia đình, làm vị tu khổ hạnh. Thực hành nhiều khổ hạnh, ăn từng hạt đậu một, được chấm trên đầu ngọn rơm. Ngài đã năm lăm tuổi khi đức Phật thấy ngài căn cơ thuần thục, như ngọn đèn đặt trong cài ghè, đi đến ngài, thuyết pháp và hóa độ cho ngài. Rồi Thế Tôn gọi: ‘Hãy đến, này Tỷ-kheo’ và cho ngài xuất gia. Rồi Jambuka phát triển thiền quán và Thế Tôn ấn chứng ngài chứng quả A-la-hán. Ðây chỉ là sơ lược, trong đoạn sớ giải các câu kệ của Dhammapàda, câu chuyện được giải thích rộng rãi từ nơi câu; ‘Ăn từng hạt đậu một, với ngọn rơm chấm đậu. Khi đến giờ mệnh chung, ngài nói lên rằng: dầu một lần sống theo tà hạnh, nhưng nếu dựa vào đức Phật tối thượng, ngài cũng có thể chứng quả như các đệ tử khác. Ngài nói lên những bài kệ:

  1. Trải năm mươi lăm năm,
    Thân đầy những bụi bặm,
    Ăn cơm tháng một lần,
    Tóc râu ta nhổ sạch.
  2. Ta đứng chỉ một chân,
    Ta không dùng giường nằm,
    Ta ăn phân phơi khô,
    Ta không nhận lời mời.
  3. Sở hành ta nhiều vậy,
    Dẫn ta đến ác thú,
    Bị nước lớn cuốn trôi,
    Cho đến khi quy Phật.
  4. Hãy nhìn Phật ta quy
    Hãy nhìn Pháp, pháp nhĩ
    Ba minh ta đạt được
    Lời Phật dạy làm xong

(CXCI) Senaka (Thera. 34)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình, con trai người chị của Trưởng lão Kassapa ở Uruvela, và được đặt tên là Senaka. Khi học về văn hóa Vệ-đà Bà-la-môn, ngài ở với gia đình. Trong thời ấy dân chúng tổ chức hàng năm vào tháng Thaggumà (tháng ba) một lễ quán đảnh một bến nước, lễ ấy được gọi là Gayà melà (hay ngày trai giới Gayà).

Thế Tôn vì lòng thương tưởng đến những người có thể giáo hóa, ở lại gần bờ sông. Và khi quần chúng tụ họp lại, Senaka cũng đến, nghe bậc Ðạo Sư thuyết giảng được cảm hóa xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Sau đó, suy tuởng đến sự thắng trận của mình, ngài cảm thấy hân hoan, và ứng khẩu nói lên những bài kệ này

  1. Thật tốt lành cho ta,
    Khi ở thành Gayà,
    Trong tháng lễ mùa xuân,
    Tháng tên Phagguna,
    Ta thấy bậc Chánh Giác,
    Thuyết Chánh pháp tối thượng.
  2. Bậc có hào quang lớn,
    Là Ðạo Sư hội chúng,
    Ðạt được vị tối thắng,
    Bậc lãnh đạo nhiếp chúng,
    Chiến thắng giới Trời, Người,
    Bậc thấy khó cân lường.
  3. Ðại long tượng, đại hùng,
    Ðại quang minh, vô lậu,
    Mọi lậu hoặc đoạn tận,
    Ðạo Sư, không sợ hãi.
  4. Lâu nay ta uế nhiễm,
    Bị tà kiến trói buộc,
    Nay chính Thế Tôn ấy,
    Giải thoát Senaka,
    Thoát khỏi mọi buộc ràng,
    Ðược tự tại , giải thoát.

(CXCII) Sambhùta (Thera. 34)

Trong thời Ðức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình có giai cấp, và sau khi bậc Ðạo Sư tịch diệt, ngài được Ananda giáo hóa, xuất gia và chứng quả A-la-hán. Ngài sống trong an lạc giải thoát, cho đến khi một trăm năm sau khi đức Phật nhập diệt, các Tỷ-kheo Vajjì đề xướng mười tà pháp bị Trưởng lão Niyasa và các Tỷ-kheo Kàlanndaka chống lại và một kỳ kiết tập được tổ chức với bảy trăm vị A-la-hán. Ngài Sambhùta, bị xúc động bởi hành động xuyên tạc Pháp và Luật, nói lên những bài kệ này và tuyên bố chánh trí của ngài:

  1. Ai khi phải từ từ
    Lại lội qua gấp gấp,
    Ai khi phải lội gấp,
    Lại từ từ lội qua,
    Kẻ ngu thiếu chánh lý,
    Ði đến cảnh khổ đau.
  2. Lợi ích bị tổn giảm,
    Như trăng vào thời đen,
    Gặp phải sự ô nhục,
    Chống đối các bạn bè.
  3. Ai khi phải từ từ,
    Lội qua rất từ từ,
    Ai khi phải lội gấp,
    Lội qua thật gấp gáp,
    Kẻ trí có chánh lý,
    Ði đến cảnh an lạc.
  4. Lợi ích được viên mãn,
    Như trăng vào thời sáng,
    Ðược danh tiếng vinh dự,
    Không chống đối bạn bè.

(CXCIII) Ràhula (Thera. 35)

Ngài là con của đức Phật và công chúa Yasodhàra, và được nuôi dưỡng với các hoàng tử khác. Trường hợp ngài xuất gia đã được ghi trong tập Khandhaka. Nhờ những lời dạy trong nhiều bài kinh, trí tuệ ngài thuần thục và phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Suy tư đến sự thắng trận của mình, ngài nói lên chánh trí:

  1. Nhờ ta được đầy đủ,
    Hai đức tánh tốt đẹp,
    Ðược bạn có trí gọi,
    ‘Ra-hu-la may mắn’
    Ta là con đức Phật,
    Ta lại được Pháp nhãn.
  2. Các lậu hoặc ta đoạn,
    Không còn có tái sanh,
    Ta là bậc La-hán,
    Ðáng được sự cúng dường.
    Ba minh ta đạt được,
    Thấy đuợc giới bất tử.
  3. Bị dục làm mù quáng,
    Bị lưới tà bao trùm,
    Khát ái làm màn che,
    Bao trùm che phủ kín.
    Do phóng dật trói buộc,
    Như cá mắc mắt lưới.
  4. Ta vượt qua dục ấy,
    Cắt đứt ma trói buộc,
    Nhổ lên gốc khát ái,
    Ta mát lạnh tịch tịnh.

(CXCIV) Candana (Thera. 35)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài tái sanh trong một gia đình giàu có và đặt tên là Candana, ngài sống một đời sống gia đình cho đến khi ngài được nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp. Và chứng quả Dự Lưu. Khi ngài sanh được một người con, ngài xuất gia, chọn lựa một đề tài thiền quán và sống ở trong rừng. Ði đến Sàvatthi để yết kiến bậc Ðạo Sư, ngài ở trong một bãi tha ma, vợ ngài nghe tin ngài đến, liền trang điểm, đem con theo, nghĩ rằng: ‘Với nhan sắc nàng có thể khiến ngài từ bỏ xuất gia’. Ngài thấy nàng từ xa đi đến nghĩ cách để thoát khỏi bị nàng cám dỗ, phát triển thiền quán và chứng được sáu thắng trí. Ngài thuyết giảng cho nàng, khiến nàng qui y và thọ các giới. Rồi ngài trở lui ở chỗ cũ của ngài. Khi các Tỷ-kheo bạn hỏi ngài: ‘Các căn của bạn chói sáng, bạn đã chứng sự thực gì?’. Ngài nói lên quả chứng của mình, và với những bài kệ này, chứng minh chánh trí của mình.

  1. Với vàng che phủ kín,
    Chúng nữ tỳ vây quanh,
    Mang theo đứa con thơ,
    Người vợ đến với ta.
  2. Thấy mẹ của con ta,
    Từ xa đang đi đến,
    Khéo trang điểm đẹp đẽ,
    Như ma gieo bẫy mồi.
  3. Rồi ta tự tác ý,
    Như lý khởi tư duy,
    Các hiểm nguy hiển lộ,
    Nhàm chán, ta an trú.
  4. Và tâm ta giải thoát,
    Thấy pháp nhĩ là vậy,
    Ba minh chứng đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CXCV) Dhammika (Thera. 35)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Kosala, tên là Dhammika. Khi Jetavana (Kỳ Viên) được dâng cúng, ngài khởi lòng tin, và xuất gia. Sống tại một tinh xá ở làng, ngài cảm thấy bất mãn và khó chịu đối với các công việc các Tỷ-kheo đến tinh xá. Do vậy các Tỷ-kheo đều bỏ đi và ngài làm chủ một mình một ngôi tinh xá. Một cư sĩ báo cáo sự việc lên bậc Ðạo Su, bậc Ðạo Sư cho gọi ngài lên để giải thích. Theo lời các Tỷ-kheo yêu cầu, ngài nói lên những bài kệ như sau:

  1. Pháp che chở hộ trì,
    Người hành trì Chánh pháp,
    Pháp đem lại an lạc,
    Cho người khéo hành pháp,
    Ðây là những lợi ích,
    Khi pháp khéo hành trì,
    Người hành trì Chánh pháp,
    Không đi xuống ác thú.
  2. Cả hai pháp, phi pháp,
    Kết quả không giống nhau;
    Phi pháp, dẫn địa ngục,
    Pháp đưa đến cõi lành.
  3. Do vậy, đối Chánh pháp,
    Khởi ý muốn hành trì,
    Tâm tư sanh hoan hỷ,
    Khéo thiện lai như vậy.
    Vững trú trên Chánh pháp,
    Ðệ tử bậc Thiện Thệ,
    Sáng suốt tiến bước lên,
    Quy y bậc tối thượng.
  4. Phá vỡ cội ung nhọt,
    Nhổ lên lưới ái triền,
    Luân hồi được đoạn tận,
    Không còn có sanh y,
    Như trăng vào ngày rằm,
    Trong đêm thanh trong sáng.

Khi Thế Tôn dạy ba bài kệ trên, Dhammika trên chỗ ngồi phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Ðể nói lên quả chứng của mình cho bậc Ðạo Sư rõ, ngài nói lên bài kệ cuối cùng để nói lên chánh trí của ngài.

(CXCVI) Sabbaka (Thera. 35)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn, ngài nghe Thế Tôn thuyết pháp, khởi lòng tin và xuất gia. Lựa chọn một đề tài để thiền quán, ngài đi đến tinh xá Lonagiri, trên bờ sông Ajakaranì và tại đấy, sau một thời gian chứng quả A-la-hán. Ði đến Sàvatthi để yết kiến bậc Ðạo Sư, ngài ở lại một thời gian và được bà con đón tiếp. Sau khi khuyên các bà con quy y và giữ giới, ngài muốn trở về chỗ cũ. Các bà con yêu cầu ngài ở lại để được bà con cúng dường, nhưng ngài nói cho họ rõ vì sao ngài đến đây, và sự ưa thích đời sống độc cư. Ngài nói lên bài kệ tán thán trú xứ của ngài:

  1. Khi ta thấy con cò,
    Trương đôi cánh trắng tinh,
    Sợ hãi đám mây đen,
    Tìm chỗ kín ẩn nấp;
    Khi ấy chính con sông,
    Ajakaranì,
    Ðem hoan hỷ cho ta.
  2. Khi ta thấy con cò,
    Trương đôi cánh trắng sạch,
    Sợ hãi đám mây đen,
    Tìm hang để ẩn nấp,
    Nhưng tìm không có thấy.
    Khi ấy chính con sông,
    Ajakaranì,
    Ðem hoan hỷ cho ta.
  3. Ai lại không thích thú,
    Khi thấy ở tại đây,
    Trên cả hai dãy bờ,
    Có hàng cây Jambu,
    Làm chói sáng bờ sông,
    Sau lưng cái hang lớn.
  4. Hãy nghe những con nhái,
    Khéo thoát những đàn rắn,
    Kêu lên niềm hoan hỷ,
    Với tiếng kêu nhẹ nhàng:
    Nay không phải là thời,
    Buông thả với suối rừng,
    Thật an ổn con sông
    Ajakaranì,
    Thoải mái và yên lành,
    Thật an vui thích thú!

Rồi các bà con thuận để ngài đi. Vì ngài thích sống nhàn tịnh, đây trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(CXVII) Mudita (Thera 36)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình thường dân và được đặt tên là Mudita. Khi ngài đến tuổi trưởng thành , dòng họ ngài vì một vài nguyên nhân, bị vua chống đối Mudita, quá sợ vua nên bỏ chạy, đi vào rừng và sống gần trú xứ của một Trưởng lão đã chứng quả A-la-hán. Vị này thấy ngài quá sợ hãi, bảo ngài chớ có sợ. Ngài hỏi cần phải bao nhiêu thời gian mới khỏi tai nạn, vị A-la-hán nói cần phải bảy hay tám tháng, ngài nói ngài không thể đợi lâu như thế nên xin xuất gia. Vị Trưởng lão cho phép ngài được xuất gia. Ngài xuất gia, học đạo, khởi lòng tin, không còn sợ hãi nữa, và tu tập thiền quán. Chưa chứng được quả A-la-hán, ngài nguyện không rời khỏi tinh xá cho đến khi chứng quả và cuối cùng ngài đã thành công. Sau đó, ngài sống trong an lạc giải thoát, các Tỷ-kheo đồng Phạm hạnh hỏi ngài làm sao ngài thành đạt được chí nguyện, ngài nói lên kinh nghiệm của ngài trong những bài kệ như sau:

  1. Ðể cứu mạng sống ta,
    Ta xuất gia tu hành,
    Ta được thọ đại giới,
    Nhờ vậy được lòng tin,
    Ta kiên trì tinh tấn,
    Hăng hái ta tiến bước.
  2. Dầu thân này hủy hoại,
    Từng miếng thịt tiêu mòn,
    Ðầu khớp xương hai gối,
    Ống chân làm ta ngã.
  3. Ta sẽ không ăn uống,
    Không ra ngoài tinh xá,
    Ta sẽ không nằm xuống,
    Không nằm một bên hông,
    Nếu mũi tên tham ái,
    Chưa được rút nhổ lên.
  4. Hạnh ta sống như vậy,;
    Hãy nhìn ta tinh cần,
    Ba minh ta đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

Chương V

-ooOoo-

Phẩm Năm Kệ

(CXCVIII) Ràjadatta (Thera. 37)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình của những người lữ hành, cha mẹ gọi ngài là Ràjadatta (Vua ban cho), vì rằng sinh được ngài là nhờ cha mẹ cầu nguyện Vesavana, một vị thiên thần hư không. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài một lần dẫn năm trăm cỗ xe hàng hóa đến Ràjagaha (Vương Xá); tại đấy ngài tiêu tất cả tiền, tiêu một ngàn đồng cho một kỹ nữ đẹp, đến nỗi ngài hết cả tiền, không có đủ ăn, phải đi lang thang trong đói khổ. Rồi ngài đến tinh xá Trúc Lâm (Veluvana) với các cư sĩ khác, tại đấy bậc Ðạo Sư đang thuyết pháp với một thính chúng rất lớn. Rồi Rajadatta, ngồi ở phía ngoài thính chúng nghe, khởi lòng tin và xuất gia. Thực hành hạnh đầu đà, ngài sống trong một nghĩa địa.

Rồi một nhà lữ hành khác cũng tiêu hết một ngàn đồng cho người kỳ nữ, nhưng trên tay người này có một chiếc nhẫn rất có giá trị và người kỹ nữ thèm muốn lấy chiếc nhẫn. Nàng cho người đánh cắp. Nhưng người hầu hạ của người lữ hành tin cho cảnh sát biết, đến lục soát nhà nàng giết nàng và quăng thân nàng trong nghĩa địa.

Trưỏng lão Rajadatta, đang đi tìm một đối tượng để quán tưởng, thấy được thi hài của người kỹ nữ. Ngài tập trung tư tưởng, nhưng các phần thi hài nàng chưa bị chó hay chó rừng ăn, làm ngài dao động và chi phối ngài. Ngài lấy làm ảo não buồn phiền, lánh xa đi một lúc rồi lại bắt đầu tự mình khích lệ, tu thiền, phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán.

Rồi suy tư trên thành công của mình, cảm thấy hoan hỷ phấn khởi, ngài nói:

  1. Một Tỷ-kheo đi đến
    Tại một bãi tha ma,
    Thấy thân một đàn bà,
    Bị quăng tại chỗ ấy,
    Vất bỏ trong nghĩa địa,
    Làm mồi cho sâu ăn.
  2. Có kẻ sinh nhàm chán,
    Thấy thân chết khốn nạn,
    Trong ta, dục tham hiện,
    Như mù, ta bị trói.
  3. Mau hơn cơm sôi trào,
    Chỗ ấy, ta đi thoát,
    Chánh niệm, ta tỉnh giác,
    Ta đến, ngồi một bên.
  4. Rồi ta tự ý tác,
    Như lý khởi tư duy,
    Các hiểm nguy hiển lộ,
    Nhàm chán ta an trú.
  5. Và tâm ta giải thoát,
    Thấy Pháp nhĩ là vậy,
    Ba minh chứng đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CXCIX) Subhùta (Thera. 37)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình thường dân ở Magadha, tên là Subhùta, ngài không thể sống trong gia đình, nên bỏ nhà làm nguời du sĩ. Không thấy trong bộ phái của mình cái gì là chân lý và thấy Upatissa, Kolita, Sela sống hạnh phúc hoan hỷ sau khi tu hành, ngài khởi lòng tin giáo lý đức Phật và xin xuất gia. Sau khi lấy được cảm tình các vị giáo thọ sư và truyền pháp sự, ngài vào nhập thất với một đề tài thiền quán. Nhờ phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán.

Rồi ngài tuyên bố chánh trí của ngài bằng cách ôn lại sự đau khổ khi tu hành và sự hoan hỷ khi ngài được tu thiền, ngài nói lên bài kệ:

  1. Ðặt mình vào tại chỗ,
    Không được cho thích đáng,
    Một người muốn làm việc,
    Nhưng không được thành tựu
    Như vậy công việc ấy,
    Ðược xem bị thất bại.
  2. Nếu từ bỏ phần thắng,
    Gốc khổ được rút lên,
    Nó giống kẻ đánh bạc,
    Vận rủi quăng con bài,
    Nếu nó quăng tất cả,
    Nó chẳng khác người mù,
    Không nhìn thấy con đường,
    Bằng phẳng, không bằng phẳng.
  3. Hãy nói điều có làm,
    Không nói điều không làm,
    Bậc Hiền trí rõ biết,
    Người chỉ nói không làm.
  4. Như bông hoa tươi đẹp,
    Có sắc nhưng không hương,
    Cũng vậy lời khéo nói,
    Có làm, có kết quả.
  5. Như bông hoa tươi đẹp,
    Có sắc lại không hương,
    Cũng vậy lời khéo nói
    Không làm không kết quả.

(CC) Girimànanda (Thera. 38)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Ràjagaha (Vương Xá) con trai của vị cố vấn nghi lễ cho vua Bimbisàra (Tần-bà-sa-la). Ngài thấy uy lực và uy nghi của đức Phật khi đức Phật dự hội ở Ràjagaha, và xin xuất gia. Trong thời kỳ học tập, ngài sống trong một thời gian tại một ngôi làng rồi trở lui lại thành phố để đảnh lễ Ðức Phật. Vua Bimbisàra nghe tin ngài tới, đến yết kiến ngài và nói ngài hãy ở lại đây, vua xin lo liệu tất cả. Vì vua nhiều việc nên quên đi lời hứa, và ngài phải sống giữa trời. Và thần mưa không mưa sợ làm ngài ướt. Rồi vua Bimbisàra, thấy trời hạn hán nên xây dựng một am thất cho ngài. Và ngài sống trong am thất ấy cố gắng tu hành tinh tấn, quyết tâm nỗ lực, tu tập thiền định, thiền quán, chứng được quả A-la-hán. Rồi hoan hỷ với sự kiện này, ngài nói lên lời chánh trí của ngài trong khi trời bắt đầu đổ mưa.

  1. Trời mưa như bài ca,
    Khéo hát với nhạc điệu,
    Ta ngồi trong am thất,
    An lạc, được che chở,
    Tại đấy ta an trú,
    Thoải mái và an tịnh,
    Thần mưa, nếu ngươi muốn,
    Hãy mưa, hãy mưa đi.
  2. Trời mưa như bài ca
    Khéo hát với nhạc điệu,
    Ta ngồi trong am thất,
    An lạc, được che chở.
    Tại đấy ta an trú,
    Tâm tư thật tịnh chỉ,
    Thần mưa, nếu ngươi muốn,
    Hãy mưa, hãy mưa đi.
  3. Trời mưa như bài ca,
    Khéo hát với nhạc điệu,
    Ta ngồi trong am thất,
    An lạc, đuợc che chở.
    Tại đấy ta an trú,
    Tâm tư, ly tham ái,
    Thần mưa nếu ngươi muốn,
    Hãy mưa, hãy mưa đi.
  4. Trời mưa như bài ca,
    Khéo hát với nhạc điệu,
    Ta ngồi trong am thất,
    An lạc được che chở.
    Tại đấy ta an trú,
    Tâm tư ly sân hận,
    Thần mưa nếu ngươi muốn,
    Hãy mưa, hãy mưa đi.
  5. Trời mưa như bài ca,
    Khéo hát với nhạc điệu,
    Ta ngồi trong am thất,
    An lạc, được che chở.
    Tại đấy ta an trú,
    Tâm tư ly si mê,
    Thần mưa nếu ngươi muốn,
    Hãy mưa, hãy mưa đi.

(CCI) Sumana (Thera. 38)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình thường dân, ở Kosala, tên là Sumana, ngài lớn lên trong hoàn cảnh may mắn. Anh mẹ ngài trở thành vị A-la-hán, sống ở trong rừng, và khi Sumana đến tuổi trưởng thành, cậu ngài cho ngài xuất gia và trao cho ngài đề tài để thiền quán về phía giới hạnh. Cuối cùng, khi Bốn thiền và Năm thắng trí đã chứng được, vị Trưởng lão chỉ cho ngài phương pháp thiền quán, và nhờ vậy ngài chứng quả A-la-hán. Khi đi đến người cậu của ngài, ngài được hỏi về sự thành công và ngài nói lên chánh trí của ngài như sau:

  1. Ðiều giáo thọ sư muốn,
    Tôi biết trong chánh pháp,
    Với tôi mong bất tử,
    Ðiều phải làm, làm xong.
  2. Pháp tôi đạt, tự chứng,
    Không phải chỉ nghe suông,
    Trí tôi được thanh tịnh,
    Không còn có nghi ngờ,
    Mong tôi đứng gần ngài,
    Nói lên điều xác chứng.
  3. Tôi biết các đời trước,
    Thiên nhãn tôi thanh tịnh,
    Mục đích tôi đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.
  4. Học tập, không phóng dật,
    Khéo nghe lời ngài dạy,
    Mọi lậu hoặc, tôi đoạn,
    Nay không còn tái sanh.
  5. Ngài giảng tôi thánh giới,
    Từ mẫn ngài hộ trì.
    Ngài dạy, không vô ích,
    Tôi đệ tử học ngài.

(CCII) Vaddha (Thera. 38)

Sanh trong đời đức Phật hiện tại, tại thành Dhamkaccha trong một dòng họ thường dân, ngài được đặt tên là Vaddha. Khi lớn lên, mẹ ngài cảm thấy âu lo vì vấn đề tái sanh và chết, giao con lại cho bà con, rồi bà xuất gia giữa các Tỷ-kheo-ni. Sau bà trở thành một vị A-ha-hán. Con bà, cũng xuất gia dưới sự hướng dẫn của Veludanta, học lời dạy đức Phật, trở thành một pháp sư giỏi có tiếng. Một hôm, suy nghĩ đến trách nhiệm của mình, ngài nghĩ: ‘Nay ta sẽ đến thăm mẹ ta một mình và không đắp y ngoài’. Rồi ngài đi đến trú xứ các Tỷ-kheo-ni. Mẹ ngài thấy ngài vậy, chỉ trích ngài sao đi đến trú xứ Tỷ-kheo-ni một mình và không đắp y ngoài. Ngài nhận thấy mình có lỗi, trở về tinh xá, ngồi trong phòng thiền định và chứng quả A-la-hán. Ngài nói lên chánh trí của ngài, nhờ lời chỉ trích của mẹ ngài:

  1. Lành thay, bà mẹ ta,
    Kích thích, khích lệ ta,
    Nghe lời dạy của bà,
    Ðược dạy bởi bà mẹ,
    Ta tinh cần, tinh tấn,
    Chứng Bồ-đề vô thượng.
  2. Ta xứng được cúng dường,
    Ba minh, thấy bất tử.
    Ta chứng quả La-hán,
    Xứng đáng được cúng dường,
    Ba minh đã chứng đạt,
    Thấy được quả bất tử,
    Chiến thắng quân Ma vương,
    Ta sống, không lậu hoặc.
  3. Các lậu hoặc, nội, ngoại,
    Trước đã có trong ta,
    Tất cả bị nhổ sạch,
    Không còn khởi tên nữa.
  4. Bà chị tâm nhu thuận,
    Nói lên ý nghĩa này,
    Trong con và trong ta,
    Cỏ rừng không còn nữa.
  5. Khổ đã được chấm dứt,
    Thân này thân cuối cùng,
    Ðường sanh tử đứt đoạn,
    Nay không còn tái sanh.

(CCIII) Nadikassapa (Thera. 39)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Magadha (Ma-kiệt-đà), là anh của Kassapa. Ngài thiên hẳn đời sống xuất gia, không ưa thích đời sống gia đình, và ngài trở thành một ẩn sĩ. Với ba trăm đồ chúng, ngài sống một đời sống ẩn sĩ trên bờ sông Neranjarà (Ni-liên-thiền), và do vậy ngài được biết và được gọi là Kassapa ở bên sông (Nadi-Kassapa). Ngài được Thế Tôn giáo hóa cùng với hai anh em, như đã được ghi trong Luật tạng. Sau khi Thế Tôn thuyết kinh Lửa Bốc Cháy, ngài chứng quả A-la-hán. Sau đó, suy tư trên thiền chứng, ngài nói lên chánh trí của mình, bằng cách nhổ lên các sai lầm:

  1. Thật lợi ích cho ta
    Ðức Phật đến tại đây,
    Ðến con sông tên gọi
    Sông Nê-răn-ja-ra,
    Ta nghe pháp ngài giảng
    Ðoạn tận các tà kiến
  2. Ta hành lễ tế tự,
    Ðọc cao lời tế lễ,
    Ta đốt lên lửa thiêng,
    Ðổ cúng dường vào lửa,
    Nghĩ rằng ta thanh tịnh,
    Ta thật mù, phàm phu.
  3. Lang thang rừng tà kiến,
    Bị giới cấm, mờ mắt,
    Không tịnh, nghĩ thanh tịnh,
    Mù lòa, ta không thấy
  4. Ta đoạn tận tà kiến,
    Mọi sanh hữu phá tan,
    Ta đốt lên ngọn lửa,
    Xứng đáng được cúng dường,
    Ta cúi mình đảnh lễ,
    Bậc Như Lai Ðiều Ngự.
  5. Mọi si mê, ta đoạn,
    Hữu ái được phá hủy,
    Ðường sanh tử đoạn tận,
    Nay không còn tái sanh.

(CCIV) Gayà-Kassapa (Thera. 39)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn, câu chuyện ngài giống như câu chuyện của Nadì-Kassapa, chỉ khác ngài chỉ có hai trăm đệ tử và sống ở Gayà, ngài nói lên chánh trí bằng cách tán thán tẩy sạch các điều ác như sau:

  1. Buổi sáng, trưa, buổi chiều,
    Ba lần trong một ngày,
    Ta xuống dòng Gà-yà,
    Sông Ga-ya-phay-gu.
  2. Các điều ác, ta làm
    Trong các đời sống trước,
    Nay đây ta rửa sạch,
    Xưa ta tin là vậy.
  3. Nghe lời nói khéo giảng,
    Con đường đủ pháp nghĩa,
    Với ý nghĩa chân thật,
    Ta như lý quán sát.
  4. Ta tắm sạch mọi ác,
    Ta không uế, trong sạch.
    Ta trong sạch thuần tịnh,
    Thừa tự bậc trong sạch,
    Ta chính là con trai,
    Con chính tông đức Phật.
  5. Lặn vào dòng Tám chánh,
    Ta gột sạch mọi ác,
    Ba minh ta đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CCV) Vakkali (Thera. 39)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một dòng họ Bà-la-môn và được gọi tên Vakkali. Khi đến tuổi trưởng thành, và học xong ba tập Vệ-đà, trở thành thuần thục trong những thành tích Bà-la-môn, ngài thấy bậc Ðạo Sư, ngài nhìn không chán thân hình tuyệt vời của đức Phật, và ngài đi theo bậc Ðạo Sư. Khi ngài trở về nhà, ngài nghĩ nếu ở lại nhà, ngài sẽ không có dịp luôn luôn thấy được đức Phật. Do vậy, ngài xuất gia, và từ khi ăn uống và tắm rửa, ngài để toàn thì giờ để chiêm ngưỡng đức Phật. Bậc Ðạo Sư, chờ đợi thiền quán của ngài được chín muồi, nên trong một thời gian dài, đức Phật không nói gì. Một hôm đức Phật hỏi: ‘Này Vakkali, thân bất tịnh này mà Thầy thấy, đối với Thầy như thế nào? Ai thấy Pháp người ấy tức thấy Ta. Vì rằng thấy Pháp tức là thấy Ta, và thấy ta tức là thấy Pháp’. Nghe lời nói đức Phật, ngài không chiêm ngưỡng thân đức Phật nữa, nhưng ngài chưa bỏ đi xa được. Bậc Ðạo Sư nghĩ rằng: ‘Tỷ-kheo này, nếu không được xúc động mạnh, sẽ không thức tỉnh’, nên vào cuối ngày an cư mùa mưa, đức Phật nói: ‘Này Vakkali, hãy đi đi’. Nghe bậc Ðạo Sư nói vậy, ngài tự nghĩ ngài phải đi, nhưng nghĩ rằng đời ngài có ý nghĩa gì, nếu không được gặp bậc Ðạo Sư, nên ngài có ý định leo lên núi Linh Thứu để gieo mình xuống vực núi tự tử. Ðức Phật biết được Vakkali có ý định như vậy, nên sợ ngài phá hoại những điều kiện chứng được thánh quả, nên hiện ra trước mặt ngài và đọc lên bài kệ:

Tỷ-kheo nhiều hân hoan,
Tịnh tín giáo pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tịnh,
Các hạnh an tịnh lạc.

Ðức Phật đưa tay và nói: ‘Hãy đến, này Tỷ-kheo!’ Vakkali rất lấy làm sung sướng được nghe lời Phật dạy, thấy được điều gì mình đang làm, đứng trên hư không suy tư đến lời Phật dạy, chứng quả A-la-hán với sự hiểu biết về nghĩa và về pháp. (Ðây là những tài liệu được tập sớ của bộ Anguttara Nikàya và tập sớ của Dhammapaca ghi chép lại).

Theo những tài liệu khác, Vakkali chưa chứng quả A-la-hán, sau khi nghe lời dạy của bậc Ðạo Sư, ngài ở trên núi Linh Thứu, phát triển thiền quán. Thế Tôn cho ngài một đề tài tu tập, nhưng vì quá đói và bị tê liệt nên ngài không chứng quả được. Biết vậy, Thế Tôn nói với ngài như sau:

  1. Bị bệnh gió chi phối,
    Thầy sống trong rừng sâu,
    Chỗ khất thực hạn chế,
    Thân gầy mòn ốm yếu,
    Tỷ-kheo sẽ làm gì?
    Với thân thể như vậy?

Vị Trưởng lão nói lên sự hân hoan thường xuyên của mình, nhờ được sự an lạc siêu nhân:

  1. Thân con được tràn ngập,
    Với hỷ lạc tỏa rộng,
    Dầu có bị gầy ốm,
    Con sẽ sống trong rừng.
  2. Tu tập Bốn niệm xứ,
    Năm căn và Năm lực,
    Tu tập các Giác chi,
    Con sẽ sống trong rừng.
  3. Con thấy bạn đồng tu,
    Sống hòa hiệp, dõng mãnh,
    Luôn kiên trì tinh tấn,
    Con sẽ sống trong rừng.
  4. Tùy niệm Phật thiền định,
    Bậc Tối thượng Ðiều Ngự,
    Ngày đêm không biếng nhác,
    Con sẽ sống trong rừng.

Khi nói vậy, ngài phát triển thiền quán và ngay khi ấy chứng quả A-la-hán.

(CCVI) Vigitasena (Thera. 39)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ra trong một gia đình huấn luyện voi ở nước Kosala, và được đặt tên là Vigitasena. Những người cậu bên ngoại, Sena và Upasena cả hai đã xuất gia và chứng quả A-la-hán. Vigitasena sau khi đã thuần thục nghề của mình, thấy thần thông song hành của bậc Ðạo Sư khởi lòng tin, và theo bản năng tự nhiên, xin xuất gia dưới sự hướng dẫn của các người cậu. Nhờ các người cậu giảng dạy, ngài đạt đến thiền quán, nhưng tâm trí ngài thiên về lý luận chạy theo những vật bên ngoài, nên ngài giảng dạy cho tâm trí ngài như sau:

  1. Ta sẽ chế ngự ngươi,
    Như cửa khóa ngăn voi,
    Ta sẽ không thúc ngươi,
    Này tâm trong điều ác,
    Ngươi chính là lưới dục,
    Ngươi do thân sanh ra.
  2. Chế ngự ngươi không đi,
    Như voi, không cửa mở,
    Này tâm, kẻ phù thủy,
    Dầu ngươi cố gắng mãi,
    Ngươi không còn lang thang,
    Ưa thích làm điều ác.
  3. Như người cầm câu móc,
    Ngăn mãi voi chưa thuần,
    Như người dùng sức mạnh,
    Cải hóa kẻ không muốn,
    Cũng vậy đối với ngươi,
    Ta sẽ cải hóa ngươi.
  4. Như bánh xe tuyệt hảo,
    Khéo huấn luyện ngựa hay,
    Cũng vậy ta điều ngươi,
    Dựa lên trên Năm lực.
  5. Ta sẽ cột chặt ngươi,
    Với chánh niệm vững chắc,
    Tự mình đã chế ngự,
    Ta sẽ chế ngự ngươi,
    Nhờ sức nặng tinh tấn,
    Ngươi được ta áp lực,
    Do vậy, hỡi này tâm,
    Ngươi sẽ không xa ta.

(CCVII) Yasadatta (Thera. 40)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong dòng họ vua Malla, được đặt tên là Yasadatta, ngài được học ở Takkasilà. Sau khi đi du hành vói du sĩ Sabhiya, cả hai đến Sàvatthi, tại đây hỏi Thế Tôn một số câu hỏi. Yasadatta ngồi nghe những câu trả lời, ý muốn ưa chỉ trích: ‘Ta sẽ nêu lên những khuyết điểm trong những câu trả lời của Sa-môn Gotama’. Thế Tôn hiểu tâm tư của Yasadatta, nên sau khi nói kinh Sabhiya, Thế Tôn giáo huấn Yasadatta như sau:

  1. Với tâm, muốn chỉ trích,
    Kẻ ngu nghe lời dạy
    Của bậc đã thắng trận,
    Người ấy, thái độ vậy,
    Rất xa vời Chánh pháp,
    Như đất xa bầu trời.
  2. Với tâm muốn chỉ trích,
    Kẻ ngu nghe lời dạy
    Của bậc đã chiến thắng,
    Người ấy thái độ vậy,
    Tổn giảm xa Chánh pháp,
    Như trăng nửa tháng đen.
  3. Với tâm muốn chỉ trích,
    Kẻ ngu nghe lời dạy
    Của bậc đã chiến thắng,
    Người ấy thái độ vậy,
    Khô cạn trong diệu pháp,
    Như cá mắc nước cạn.
  4. Với tâm muốn chỉ trích,
    Kẻ ngu nghe lời dạy
    Của bậc đã chiến thắng,
    Người ấy thái độ vậy,
    Không lớn trong diệu pháp,
    Như giống thối trong ruộng.
  5. Ai tâm tư thỏa mãn,
    Nghe bậc Thánh giảng dạy,
    Từ bỏ mọi lậu hoặc,
    Chứng ngộ không dao động,
    Ðạt tịch tịnh tối thượng,
    Chứng Niết-bàn vô lậu.

(CCVIII) Sonakutikanna (Thera. 40)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở xứ Avanti, trong một gia đình rất giàu có, và được đặt tên là Sona. Vì đeo một bông tai đắt giá, ngài cũng được gọi là Koti hay Kutikanna (người có lỗ tai đắt giá). Lớn lên, ngài trở thành một điền chủ, và khi Trưởng lão Mahà Kaccàna ở gần bên nhà, ngài cung cấp các vật dụng nhu yếu, nghe Chánh pháp, cuối cùng cảm thấy dao động, xin xuất gia với Trưởng lão Kaccàna. Rủ thêm mười người một cách khó khăn, ngài xin phép vị Trưởng lão đi đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn. Ðược phép ngủ đêm trong chái phòng đức Phật, và buổi sáng được mời tụng đọc, ngài được khen khi đọc mười sáu Athaka. Khi đọc đến câu: ‘Thấy sự nguy hiểm của một đời thế tục’, ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán.

Khi ngài được đức Bổn Sư bằng lòng về ba vấn đề mà vị Trưởng lão Mahà Kaccàna giao cho ngài hỏi, ngài trở về chỗ cũ và thưa lại với bậc giáo thọ sư của mình (Sự kiện này được ghi chép đầy đủ trong tập Udàna và tập sớ Anguttara, nhưng ở đây lại nói ngài chứng quả A-la-hán khi còn học tập với vị giáo thọ sư của mình).

Rồi, trong khi sống, thọ hưởng an lạc giải thoát, ngài ôn lại sự thanh đạt của mình, và với tâm hoan hỷ, ngài nói lên những bài kệ như sau:

  1. Ta thọ được đại giới,
    Ta giải thoát vô lậu,
    Thế Tôn, ta được thấy,
    Ta sống chung tinh xá.
  2. Thế Tôn, trải nhiều ngày
    Sống ngay ở ngoài trời,
    Ðạo Sư khéo an trú,
    Rồi mới vào tịnh xá.
  3. Trải y Tăng-già-lê
    Gotama nằm xuống,
    Như sư tử hang đá,
    Ðoạn tận mọi sợ hãi.
  4. Khéo lựa lời tốt lành,
    Ðệ tử bậc Chánh Giác,
    Trước đức Phật tuyệt hảo,
    Sona thuyết diệu pháp.
  5. Liễu Tri Năm thủ uẩn,
    Tu tập con đường Thánh
    Ðạt an tịnh tối thượng,
    Chứng Niết-bàn vô lậu.

(CCIX) Kosiya (Thera. 41)

Trong thời Ðức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Magadha và được đặt tên là Sona. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài hay đến nghe Trưởng lão Sàriputta thuyết pháp, tin tưởng ở nơi giáo lý, xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi ôn lại quá trình giải thoát của mình, ngài tán thán đức hạnh và sức mạnh quyết định hành thiện của các bậc Thánh với những bài kệ sau đây:

  1. Ai hiểu những lời dạy
    Của các bậc Ðạo Sư,
    Bậc trí sống an trú,
    Phát sanh lòng ái niệm,
    Bậc trí có lòng tin,
    Biết thù thắng trong Pháp.
  2. Vị khi nạn lớn khởi,
    Suy tư không tê liệt,
    Bậc trí có kiên trì,
    Biết thù thắng trong Pháp.
  3. Ai vững trú như biển,
    Không dục, trí tuệ sâu,
    Thấy rõ chân nghĩa lý,
    Tế nhị và vi diệu,
    Bậc trí trú bất động,
    Biết thù thắng trong Pháp.
  4. Bậc nghe nhiều, trì Pháp,
    Hành pháp và Tùy pháp,
    Bậc trí gọi như thị,
    Biết thù thắng trong Pháp.
  5. Ai hiểu nghĩa lời nói,
    Biết nghĩa, hành như thật,
    Bậc trí gọi nội nghĩa,
    Biết thù thắng trong Pháp.

Chương VI

-ooOoo-

Phẩm Sáu Kệ

(CCK) Uruvelà Kassapa (Thera. 42)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm anh cả trong ba anh em một gia đình Bà-la-môn tên Kassapa, và cả ba đều học thông ba tập Vệ-đà. Ba anh em có đến năm trăm, ba trăm và hai trăm thanh niên đệ tử vì không tìm được chân lý trong kinh điển của họ, chỉ tìm thấy những vấn đề thế tục, nên họ từ bỏ gia đình và trở thành những ẩn sĩ. Cả ba được đặt tên tùy theo chỗ ở của mỗi vị, và ngài được gọi là Uruvelà Kassapa vì ngài ở Uruvelà. Một số sự kiện đã xảy ra, vị Bồ-tát xuất gia, chuyển Pháp luân, năm vị Trưởng lão chứng quả A-la-hán, năm mươi bạn đứng đầu là Yasa được hóa độ, sự xuất phát của vị A-la-hán để thuyết pháp độ sanh, sự hóa độ ba mươi người bạn giàu có, bậc Ðạo sư đi đến Uruvelà. Khi Thế Tôn hiện ra nhiều thần thông bắt đầu với sự nhiếp phục con rắn, Kassapa khởi lòng tin và xuất gia, hai người em cũng bắt chước người anh cả. Thế Tôn giảng kinh AAdittapariyàya cho ba anh em Kassapa với một ngàn đệ tử và khiến mọi người chứng quả A-la-hán.

Uruvelà Kassapa ôn lại sự thành quả của mình, nói lên chánh trí với những bài kệ như sau:

  1. Thấy được các thần thông
    Gotama danh tiếng,
    Nhưng ta chưa thần phục,
    Bị ganh, mạn lừa dối.
  2. Bậc Ðiều Ngự loài Người,
    Biết được tâm tư ta,
    Chất vấn ta hốt hoảng,
    Kỳ diệu lông dựng ngược.
  3. Xưa ta thuộc bện tóc,
    Thần thông ta nhỏ mọn,
    Ta xem chúng vô dụng,
    Ta xuất gia đầu Phật,
  4. Xưa bằng lòng tế tự,
    Xem dục giới hàng đầu,
    Sau ta nhổ tận sạch
    Cả tham, sân và si.
  5. Ta biết các đời truóc,
    Thiên nhãn ta trong sạch,
    Thần thông biết tâm nguòi,
    Thiên nhĩ, ta đạt được.
  6. Do đích gì xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Ðích ấy ta đạt được,
    Mọi kiết sử tận diệt.

(CCXI) Tekicchakàrì (Thera. 42)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một Bà-la-môn tên Subuddha. Ngài được các nhà giải phẫu cứu sống khi ngài mới sanh, vì vậy ngài được đặt tên là Tekicchakàrì (người được các bác sĩ cứu sống). Ngài lớn lên học các nghệ thuật và học thuật của giai cấp mình. Phụ thân ngài vì trí tuệ và chánh sách của mình, nên bị vua Candagotta, vua Bà-la-nại ganh ghét và bỏ tù. Tekicchakàrì nghe vậy, sợ hãi bỏ trốn, lánh mình tại tinh xá của một vị Trưởng lão, và tường thuật cho vị ấy biết nỗi khó khăn của mình. Vị Trưởng lão cho ngài xuất gia, chọn cho ngài một đề tài tu tập và ngài trở thành một Tỷ-kheo sống ngoài trời không kể gì lạnh nóng, hoàn toàn chú tâm vào tu tập cho được thành quả. Ác ma sợ ngài thoát khỏi sự chi phối của mình nên muốn phá rối vị Trưởng lão, đến gần dưới hình thức một người mục đồng, khi gặt hái đã xong, muốn cám dỗ ngài nên nói như sau:

  1. Lúa đã gặt thâu xong
    Gạo đã được đập, giã,
    Nhưng một miếng, không có,
    Ta sẽ làm gì đây?

Vị Trưởng lão nghĩ rằng: ‘Người này nói đến tình cảnh của nó. Nhưng ta cần phải giáo huấn ta! Không phải phần việc để ta thuyết giảng’. Như vậy, vị Trưởng lão khuyên mình nên thiền quán trên ba quy y:

  1. Hãy niệm Phật vô lượng!
    Tâm hân hoan thoải mái,
    Thân thấm nhuần hỷ thọ,
    Luôn luôn cảm phấn chấn.
  2. Hãy niệm Pháp vô lượng!
    Tâm hân hoan thoải mái,
    Thân thấm nhuần hỷ thọ,
    Luôn luôn cảm phấn chấn.
  3. Hãy niệm Tăng vô lượng!
    Tâm hân hoan thoải mái,
    Thân thấm nhuần hỷ thọ,
    Luôn luôn cảm phấn chấn.

Rồi Ác ma, muốn ngài không sống hạnh viễn ly, làm như muốn lo cho ngài được hạnh phúc, nói rằng:

  1. Ngài sống giữa ngoài trời,
    Những đêm này giá lạnh
    Chớ để lạnh hại ngài!
    Hãy vào trong tịnh xá,
    Có cửa đóng then gài.

Vị Trưởng lão, nêu rõ ở trong nhà là một trói buộc và ở ngoài trời là giải thoát, nên trả lời:

Ta sẽ cảm thọ được,
Với bốn tâm vô lượng,
Ta sẽ sống an lạc
Với những tâm tư ấy,
Giá lạnh không hại ta,
Ta sống không dao động.

Nói vậy, vị Trưởng lão phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán.

Vì rằng vị Trưởng lão sống trong thời vua Bindusàra, các bài kệ này cần được hiểu là được tụng đọc vào kỳ kiết tập thứ ba như là thuộc Kinh tạng.

(CCXII ) Mahà-Nàga (Thera. 43)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh tại Sàketa, con trai một Bà-la-môn tên Madhu Vàsettha và được đặt tên là Mahà-Nàga. Ngài thấy thần thông do Trưởng lão Gavampati thực hiện trong khi Thế Tôn sống trong rừng Anjana, và khởi lòng tin, ngài xuất gia dưới sự hướng dẫn của vị Trưởng lão, và chứng quả A-la-hán nhờ vị này giáo huấn.

Ngay khi ngài an trú trong an lạc giải thoát, Trưởng lão Mahà-Nàga thấy sáu Tỷ-kheo thường hay không cung kính các vị đồng Phạm hạnh, và ngài giáo huấn họ với những bài kệ như sau, những bài kệ này trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài:

  1. Ai đối đồng Phạm hạnh,
    Không có sự cung kính,
    Chúng thối giảm diệu pháp
    Như cá mắc nước cạn.
  2. Ai đối đồng Phạm hạnh,
    Không có sự cung kính,
    Không lớn trong diệu pháp,
    Như giống thối trong ruộng.
  3. Ai đối đồng Phạm hạnh,
    Không có sự cung kính,
    Chúng xa rời Niết-bàn,
    Trong lời dạy Pháp vương.
  4. Ai đối đồng Phạm hạnh,
    Thật có sự cung kính,
    Không thối giảm diệu pháp,
    Như cá được nước nhiều.
  5. Ai đối đồng Phạm hạnh,
    Thật có sự cung kính,
    Lớn mạnh trong diệu pháp,
    Như giống tốt trong ruộng.
  6. Ai đối đồng Phạm hạnh,
    Thật có sự cung kính,
    Họ đến gần Niết-bàn,
    Trong lời dạy Pháp vương.

(CCXIII) Kulla (Thera. 43)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ) trong gia đình một điền chủ tên là Kulla, ngài được cảm hóa với lòng tin và được bậc Ðạo Sư độ cho xuất gia. Nhưng ngài thường bị tham dục chi phối. Bậc Ðạo Sư biết yếu điểm này của ngài, cho ngài một đề tài bất tịnh và khuyên ngài thiền quán trong một nghĩa địa. Khi tu tập này chưa được kết quả bậc Ðạo Sư đi với ngài và yêu cầu ngài theo dõi tiến trình thối nát và tiêu diệt của vật bất tịnh. Khi Kulla đã được tự tại thoát ly, Thế Tôn phóng hào quang, khiến ngài nhớ lại bài học, chứng Sơ thiền và từ đấy phát triển thiền quán, chứng được quả A-la-hán.

Ôn lại kinh nghiệm, ngài thốt ra những câu kệ sau đây, trước nói về ngài, rồi nhắc lại lời dạy của bậc Ðạo Sư, cuối cùng lại nói về ngài:

  1. Kulla đến nghĩa địa,
    Thấy bỏ một đàn bà,
    Vất ném trong nghĩa địa,
    Làm mồi cho sâu ăn.
  2. Kulla, hãy nhìn thân,
    Bệnh hoạn nhớp hôi thối,
    Nước ứ chảy, rỉ chảy,
    Ðược kẻ ngu thích thú.
  3. Sau khi nắm gương pháp,
    Ðạt được chánh tri kiến,
    Ta quán sát thân này,
    Trống rỗng cả trong ngoài.
  4. Ðây thế nào, kia vậy,
    Kia thế nào, đây vậy,
    Dưới thế nào, trên vậy,
    Trên thế nào, dưới vậy.
  5. Ngày thế nào, đêm vậy,
    Ðêm thế nào, ngày vậy,
    Trước thế nào, sau vậy,
    Sau thế nào, trước vậy.
  6. Người vậy không ưa thích,
    Cả năm loại nhạc khí,
    Khi đã được nhất tâm,
    Chơn chánh thiền quán pháp.

Những kệ này là lời tuyên bố chánh trí của ngài.

(CCXIV) Màlunkyaputta (Thera. 43)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con một vị chuyên môn đánh giá cho vua Kosala, và mẹ là Màlunkyya, nên ngài được gọi là Màlunkyaputta (con bà Màlunkyà). Khi đến tuổi trưởng thành, tánh ưa thích đời sống xuất gia, ngài trở thành một du sĩ ngoại đạo. Khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, ngài xin xuất gia trong Pháp và Luật của Thế Tôn, và sau một thời gian, ngài chứng được sáu thắng trí. Khi ngài về thăm nhà vì lòng từ mẫn đối với bà con, các bà con chào đón ngài rất niềm nở và muốn kéo ngài trở về với đời sống gia đình thế tục, nói rằng với tài sản của ngài, ngài có thể lập gia đình và làm các thiện sự. Nhưng ngài nói lên chí nguyện cuả ngài như sau:

  1. Có người sống phóng dật,
    Ái lớn như cây leo,
    Sống trôi nổi luân chuyển,
    Ðời này qua đời khác,
    Như con khỉ trong rừng,
    Thèm muốn các trái cây.
  2. Khát ái khốn nạn này
    Thấm độc cả thế giới,
    Khi đã chinh phục ai,
    Khiến sầu muộn tăng trưởng,
    Chẳng khác giống cỏ rừng,
    Lan tràn và lớn mạnh.
  3. Ai nhiếp phục được ái,
    Khốn nạn, khó chinh phục,
    Sầu rơi khỏi vị ấy,
    Như giọt nước trên sen.
  4. Các ông đã đến đây,
    Ta thuyết điều lành ấy,
    Hãy đào rễ khát ái,
    Như tìm rễ ngon ngọt,
    Loại cỏ u-sì-ra,
    Chớ để Ma, dòng nước,
    Tàn phá ông cây lau.
    Liên tục vậy mãi mãi.
  5. Hãy hành lời Phật dạy,
    Chớ để Sát-na qua,
    Sát-na qua, sầu khổ,
    Thọ quả trong địa ngục,
  6. Phóng dật như bụi bặm,
    Bụi nhơ, do phóng dật,
    Không phóng dật, minh trí,
    Nhổ mũi tên khỏi ta.

(CCXV) Sappadàsa (Thera. 44)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), con của vị cố vấn tế lễ của vua Suddhodhana, và được đặt tên là Sappadàsa. Khi đức Phật viếng thăm bà con, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Bị chi phối bởi những tập tục xấu, những tánh tình tâm lý không tốt đẹp, ngài không sao được thiền định và nhất tâm. Sự kiện này khiến ngài quá sầu não đến nỗi ngài gần tự tử, nhưng bỗng ánh sáng nội tâm chói sáng lan rộng thình lình, ngài chứng quả A-la-hán, nói lên chánh trí của mình, ngài nói:

  1. Ðã được hăm lăm năm,
    Từ khi ta xuất gia,
    Nhưng đến một búng tay,
    Ta không đạt tâm tịnh.
  2. Nhứt tâm không đạt được,
    Bị dục tham chi phối,
    Khoa tay, ta than khóc,
    Bỏ tịnh xá, ta đi.
  3. Ta sẽ đem dao lại,
    Sự sống ta, nghĩa gì?
    Học tập bị tước bỏ,
    Như ta, chết tốt hơn.
  4. Rồi ta cầm con dao
    Ta vào chỗ giường nằm,
    Con dao được rút ra,
    Ðể cắt cổ của ta.
  5. Rồi ta tự tác ý,
    Như lý, khởi tư duy,
    Các hiểm nguy hiển lộ
    Nhàm chán, ta an trú
  6. Và tâm ta giải thoát,
    Thấy Pháp nhĩ là vậy,
    Ba minh chứng đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CCXVI) Kàtiyàna (Thera. 45)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Sàvatthi, con của một Bà-la-môn thuộc dòng họ Kosiya, nhưng được gọi là Kàtiyàna, theo gia đình của bà mẹ. Thấy bạn của mình là Sàmannakàni trở thành một Trưởng lão, ngài cũng xuất gia. Khi ngài học tập, ngài cương quyết đối trị nằm ngủ ban đêm. Trong khi đi qua lại trên con đường kinh hành, ngài quá buồn ngủ nên té xuống. Bậc Ðạo Sư thấy vậy, đi đến đứng truớc ngài và gọi: ‘Này Kàtiyàna!’. Ngài liền đứng dậy, đảnh lễ, và đứng một bên, bị dao động mạnh, rồi Thế Tôn thuyết pháp cho ngài như sau:

  1. Này Ka-tiya-na,
    Hãy thức dậy, ngồi lên,
    Chớ có ngủ quá nhiều,
    Hãy tự mình thức tỉnh,
    Này bà con phóng dật,
    Kẻ thụ động biếng nhác
    Chớ để cho thần chết,
    Lường gạt, chiến thắng ông.
  2. Như sóng tràn biển lớn,
    Cũng vậy sanh và già,
    Tràn ngập chôn lấp ông,
    Hãy tự làm cho ông,
    Một hòn đảo an toàn,
    Vì rằng không ai khác,
    Phục vụ giúp đỡ ông,
    Như là chỗ nương tựa.
  3. Ðạo Sư lập con đường,
    Ðường vượt qua trói buộc,
    Vượt qua sự sợ hãi,
    Của sanh và của già,
    Trước đêm và sau đêm,
    Hãy sống không phóng dật,
    Chú tâm cố kiên trì,
    Trong nỗ lực chuyên tâm.
  4. Từ bỏ triền phược trước,
    Mặc áo Tăng-già-lê,
    Ðầu cạo trọc trơn láng,
    Ăn đồ ăn khất thực,
    Chớ có ưa chơi giỡn,
    Chớ đam mê ngủ nghỉ,
    Hãy nỗ lực thiền định,
    Hỡi Ka-ti-ya-na!
  5. Hãy thiền tu, chiến thắng,
    Hỡi Ka-ti-ya-na!
    Hãy thiện xảo con đường,
    An ổn các khổ ách;
    Hãy đạt cho kỳ được,
    Sự thanh tịnh tối thượng.
    Ông sẽ chứng Niết-bàn,
    Như nước làm tắt lửa.
  6. Ánh sáng được tạo ra,
    Hào quang còn yếu ớt,
    Chẳng khác như cây lau,
    Gió thổi nằm rạp xuống,
    Hỡi bà con Tu-đa,
    Như vậy, chớ chấp thủ,
    Hãy tẩn xuất Ác-ma,
    Ly tham mọi cảm thọ,
    Chờ đợi thời của ông!
    Tại đây ông mát lạnh.

(CCXII ) Migajàla (Thera. 45)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con của nữ cư sĩ nổi tiếng Visàkhà, và hay đi đến tinh xá để nghe pháp. Cuối cùng, ngài xuất gia, và sau một thời gian chứng quả A-la-hán, khi nói lên chánh trí của mình, ngài nói:

  1. Khéo giảng bậc có mắt,
    Hào quang còn yếu ớt,
    Mọi kiết sử vượt qua,
    Mọi luân chuyển hoạt diệt.
  2. Pháp hướng dẫn, hướng thượng,
    Làm khô héo ác căn,
    Chặt đứt gốc nọc độc,
    Diệt ác, đạt tịch tịnh.
  3. Phá vỡ gốc vô trí,
    Chấm dứt nghiệp sanh hữu,
    Trí kim cang đánh nát,
    Mọi chấp trì của thức.
  4. Cảm thọ được phơi bày,
    Chấp thủ được giải thoát,
    Hữu như hố than hừng,
    Ðược tùy quán bởi trí.
  5. Vị lớn, khéo thâm sâu,
    Chận đứng già và chết,
    Con đường Thánh tám ngành,
    Tịnh chỉ khổ, vận tốt.
  6. Biết được nghiệp là nghiệp,
    Biết nghiệp quả là quả,
    Như thực soi, quán chiếu,
    Các pháp do duyên sanh,
    Ðưa đến đại an ổn,
    Tịch tịnh, cứu cánh thiện.

(CCXVIII) Jenta (Thera. 45)

Trong thời đức Phật hiện tại , ngài sanh ra làm con của vị cố vấn tế tự cho vua Kosala và được đặt tên là Jenta. Khi lớn lên, ngài trở thành kiêu mạn với những quyền lợi về sanh, tài sản, địa vị, khinh bỉ những gì đáng phải kính trọng và cứng cỏi trong kiêu hãnh. Một hôm, ngài đến gần bậc Ðạo Sư đang thuyết pháp cho một số đông, nghĩ rằng: ‘Nếu Sa-môn Gotama nói với ta trước, ta sẽ nói, ta không tự ý nói với Sa-môn Gotama!’. Thế Tôn không nói với Jenta, và Jenta vì lòng kiêu mạn cũng không nói. Sau cùng ngài nêu rõ lý do vì sao ngài đến và Thế Tôn nói với ngài như sau:

An trú triền kiêu mạn,
Thật sự là không tốt,
Hỡi này Bà-la-môn,
Nên an trú lợi ích.
Ðiều thiện ông tầm cầu,
Khi ông đến tại đây,
Chỉ trên đấy mà thôi,
Ông hãy nên an trú.

Jenta nghĩ rằng: ‘Thế Tôn đã biết tư tưởng của ta, cảm thấy xúc động mạnh và đảnh lễ chân Thế Tôn’. Rồi ngài thưa với bậc Ðạo Sư:

Với ai, không nên kiêu?
Với ai, cần cung kính?
Với ai, phải tôn trọng?
Cung kính ai là thiện?
Thế Tôn trả lời:
Với cha và với mẹ,
Với anh cả, với thầy,
Với các Bà-la-môn,
Với Sa-môn áo vàng,
Với những vị như vậy,
Nên cung kính tôn trọng,
Cung kính các vị ấy,
Là việc làm tốt lành.
Với các bậc La-hán,
Tịch tịnh và hữu học,
An tịnh, không cấu uế,
Mọi kiêu mạn chấm dứt,
Khi đạt đến mục tiêu,
Hãy tôn trọng vị ấy.

Với lời dạy này, Jenta chứng được quả Dự Lưu, xuất gia và sau một thời gian, chứng quả A-la-hán. Nói lên sự thành công, ngài tuyên bố chánh trí của ngài:

  1. Ta say đắm tự kiêu,
    Với sanh chủng, tài sản,
    Kể cả với quyền lực,
    Ðịa vị và dung sắc,
    Ta sống kiêu mạn vậy.
    Tham dắm và mê say.
  2. Ta quá sức kiêu hãnh.
    Xem không ai bằng ta,
    Si mê, quá tự hào,
    Kiêu căng và cống cao.
  3. Mẹ cha và người khác,
    Ðược cung kính tôn trọng,
    Ta không lễ một ai,
    Kiêu hãnh, không lễ phép.
  4. Thấy lãnh đạo đệ nhất,
    Tối ưu Ðiều Ngự Sư,
    Như mặt trời sáng chói,
    Cầm đầu chúng Tỷ-kheo.
  5. Gạt bỏ mạn, kiêu hãnh,
    Với tâm thật an lành,
    Với đầu ta đảnh lễ,
    Bậc tối thượng chúng sanh.
  6. Quá mạn, ty liệt mạn,
    Từ bỏ, nhổ tận gốc,
    Ngã mạn được chặt đứt,
    Mọi loại mạn tận diệt.

(CCXIX) Sumana (Thera. 46)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong gia đình một cư sĩ, làm vị hộ trì cho Tôn giả Anuruddha. Từ trước, con cháu của người cư sĩ này chết trẻ. Khi sắp đẻ đứa con, người cha nghĩ nếu là con trai thời sẽ cho xuất gia với vị Trưởng lão. Sau mười tháng, đẻ được đứa con trai, vị cư sĩ này cho xuất gia khi đứa trẻ lên bảy tuổi. Do căn tánh thuần phục, không bao lâu ngài chứng được sáu thắng trí trong khi đang hầu hạ bậc Truởng lão. Cầm được cái bình để xách nước, Sumana với thần thông, đi đến hồ Anotatta, một con xà vương ác độc, phồng mang ngưỡng đầu lên không cho ngài lấy nước. Rồi Sumana hóa thành con chim Garuda (Kim xí điểu) nhiếp phục con rắn và mang nước bay về vị Trưởng lão. Rồi bậc Ðạo Sư, ngồi tại vườn Jetavana, thấy ngài bay về, liền gọi Sàriputta cùng xem, và tán thán ngài với bốn câu kệ. Sunmana để nêu lên chánh trí của mình cộng thêm những bài kệ của mình như sau:

  1. Khi người mới xuất gia,
    Từ sanh, mới bảy tuổi,
    Với thần thông ta điều,
    Con xà vương thần lực.
  2. Từ hồ nước to lớn,
    Tên A-no-tat-ta
    Ta đem nước hồ về,
    Cho bậc giáo thọ sư,
    Thấy vậy bậc Ðạo Sư,
    Nói về ta như sau:
  3. Này Sà-ri-put-ta!
    Xem đứa trẻ này đến,
    Tự bưng cầm ghè nước,
    Nội tâm khéo định tĩnh.
    Với nhiệm vụ khả ái,
    Cử chỉ rất thuần thiện.
  4. Người đệ tử Sa-di,
    Của Anuruddha,
    Có thần thông uy lực,
    Thuần thục và điêu luyện.
  5. Thuần lương nhờ giáo dục,
    Do vị đại thuần lương,
    Thiện hạnh nhờ giáo dục,
    Bởi bậc khéo thiện hạnh.
    Nhờ Anuruddha,
    Khéo huấn luyện điều phục,
    Ðược học tập giảng dạy,
    Làm xong việc phải làm.
  6. Ðạt được tịnh tối thắng,
    Chứng đắc, không dao động,
    Sa-di Sumana,
    Muốn: ‘Không ai biết ta’.

(CCXX) Nhàlaka – Muni (Thera. 46)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), trong gia tộc Bà-la-môn, được giáo dục trong văn chương Vệ-đà, ngài được biết là vị đã đậu cấp bực Nhàlaka (cấp bực tắm rửa). Trở thành một ẩn sĩ, ngài sống trong một khu rừng cách xa Vương Xá khoảng ba do-tuần, sống với lúa hoang và thờ lửa.

Ðức Thế Tôn, thấy được điều kiện trở thành một vị A-la-hán chói sáng trong tâm ngài, như ánh sáng trong một cái ghè. Thế Tôn đến tại am thất của ngài, ngài vui vẻ đón tiếp đức Phật, thỉnh đức Phật dùng cơm ngài nấu và như vậy ba ngày trôi qua. Ngày thứ tư, Thế Tôn nói: ‘Ông hết sức yếu ớt, làm sao ông sống với đồ ăn như thế này?’. Rồi đức Phật giảng về hạnh biết đủ và thuyết pháp cho ngài. Và từ quả Dự Lưu ngài chứng quả A-la-hán. Thế Tôn xác chứng quả vị cuả ngài và ra đi, ngài vẫn ở tại chỗ cũ, nhưng rồi bị đau vì tê liệt. Bậc Ðạo Sư lại đến thăm và hỏi ngài về sức khỏe:

  1. Bị bịnh gió chi phối,
    Ông sống trong rừng sâu,
    Chỗ khất thực hạn chế,
    Thân gầy mòn ốm yếu.
    Tỷ-kheo sẽ làm gì,
    Với thân thể như vậy.
  2. Thân con được tràn ngập,
    Với hỷ lạc tỏa rộng,
    Dầu có bị gầy ốm,
    Con sẽ sống trong rừng.
  3. Tu tập Bảy giác chi,
    Năm căn và Năm lực,
    Ðầy đủ thiền tế nhị,
    Con sống, không lậu hoặc.
  4. Thoát khỏi các kết sử,
    Tâm tịnh, không uế nhiễm,
    Thường hằng, khéo quán sát,
    Con sống không lậu hoặc.
  5. Mọi lậu hoặc nội ngoại,
    Trước có mặt trong con,
    Tất cả bị chặt đứt,
    Thông dư, không khởi nữa.
  6. Năm uẩn được liễu tri,
    Chúng đứng, rễ chặt đứt,
    Khổ diệt đã đạt được,
    Nay không còn tái sanh.

(CCXXI) Brahmadatta (Thera. 46)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con vua nước Kosala, tên là Brahmadatta, ngài chứng kiến uy nghi của đức Phật nhân ngày lễ dâng cúng Jetavana, khởi lòng tin, xuất gia và sau một thời gian chứng sáu thắng trí với lòng tin và hiểu biết về nghĩa, bởi lòng tin và hiểu biết về Pháp.

Một hôm ngài đi khất thực, một Bà-la-môn nhiếc mắng ngài, ngài im lặng nghe và tìếp tục đi, Bà-la-môn ấy lại chửi mắng ngài, và dân chúng phê bình sự im lặng của ngài; ngài giảng dạy cho dân chúng như sau:

  1. Từ đâu phẫn nộ khởi,
    Với người không phẫn nộ,
    Với người được nhiếp phục,
    Sống nếp sống thăng bằng.
    Với vị trí giải thoát,
    Phật an tịnh như vậy.
  2. Với ai bị chửi mắng,
    Lên tiếng chửi mắng lại,
    Người ấy tệ ác hơn,
    Người đã chửi mắng trước.
    Với ai bị chửi mắng,
    Nhưng không chửi mắng lại,
    Người ấy được chiến thắng,
    Trên cả hai mặt trận.
  3. Sở hành của người ấy,
    Vừa lợi mình lợi người,
    Biết người khác phẫn nộ,
    Chánh niệm, tự lắng dịu.
  4. Là thầy thuốc cả hai,
    Cho mình và cho người,
    Quần chúng nghĩ là ngu,
    Không khéo hiểu Chánh Pháp.

Rồi Bà-la-môn chửi mắng ấy nghe những lời này, cảm thấy ưu não và hoan hỷ rồi xin lỗi ngài. Ðược xuất gia với sự hướng dẫn của ngài, được dạy đề tài quán từ bi, như vậy ngài dạy cho phương pháp để đối trị phẫn nộ:

  1. Nếu phẫn nộ nổi lên,
    Hãy nghĩ dụ cái cưa,
    Nếu tham vị khởi lên,
    Hãy nghĩ dụ thịt con.
  2. Nếu tâm ngươi chạy theo,
    Theo dục, theo sanh hữu,
    Hãy gấp nắm với niệm,
    Như nắm con vật ác,
    Ði vào trong ruộng lúa.

(CCXXII) Sirimanda (Thera. 47)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sunsumàragira trong một gia đình Bà-la-môn. Khi được nghe Thế Tôn thuyết pháp ở rừng Bhesakalà, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Một hôm, nhân ngày lễ trai giới, trong khi giới bổn Pàtimokkhà đang được đọc, đến phần cuối phần giới thiệu nói về một lỗi bị phạm được nhẹ đi nếu phát lộ sám hối, ngài nghĩ đến lợi ích phát lộ sám hối các lỗi đã được giấu đi, và do vậy ngài phấn khởi hoan hỷ nói lớn tiếng: ‘Ôi, thật là hoàn toàn trong sạch, giới luật của bậc Ðạo Sư!’. Rồi phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Ôn lại con đường đã trải qua, với tâm phấn khởi, ngài dạy các vị đồng Phạm hạnh:

  1. Mưa rất là nặng hạt,
    Trên tội được che giấu.
    Mưa không có nặng nề,
    Trên tội được phát lộ,
    Ðâu có phát lộ tội,
    Như vậy, mưa không nặng.
  2. Ðời bị chết áp đảo,
    Bị giải tỏa, bao vây,
    Bị mũi tên ái đâm,
    Thường bị dục huân tập.
  3. Ðời bị chết ấp đảo,
    Và bị già bao vây,
    Thường bị hại, không yên,
    Như cướp với gậy dao.
  4. Chúng đến như đống lửa,
    Cả ba, chết bệnh già,
    Không sức nào địch nổi,
    Không nhanh nào chạy thoát.
  5. Chớ để ngày trống rỗng,
    Hãy làm ít hoặc nhiều,
    Ðêm càng bị bỏ phí,
    Mạng sống càng rút ngắn.
  6. Vậy hoặc đi hay đứng,
    Hoặc ngồi hay nằm xuống,
    Ðêm cuối đi đến gần,
    Ngươi không thời phóng dật.

(CCXXIII) Sabbhakàma (Thera. 47)

Trong thời đức Phật hiện tại, sau khi đức Phật nhập diệt, ngài sanh ở Vesàli, thuộc gia đình quý tộc và được đặt tên là Sabbhakàma. Khi đến tuổi trưởng thành, thuận theo chí hướng xuất ly, ngài xuất gia dưới sự hướng dẫn của Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất). Trong khi đi học tập, ngài trở về Vesàli với bậc y chỉ sư của mình và về thăm gia đình. Vợ ngài lúc trước, buồn khổ, gầy mòn, áo xiêm không săn sóc, nước mắt chạy quanh, chào ngài và đứng một bên. Thấy vợ cứ như vậy, lòng thương hại khởi lên, và quên mất chí hướng xuất trần, ngài để cho dục vọng nổi lên. Như con ngựa khéo luyện tập bị roi đánh, ưu não khởi lên và ngài đi đến nghĩa địa để quán bất tịnh. Thiền định được chứng đạt, thiền quán được triển khai, ngài chứng quả A-la-hán. Rồi nhạc phụ của ngài dắt vợ cũ của ngài đến, trang điểm thật đẹp mắt, và với một số tùy tùng đông đảo, đi đến tinh xá để gặp ngài và kéo ngài trở lui với đời sống gia đình; nhưng ngài tuyên bố với mọi người là ngài đã từ bỏ các dục vọng như vậy, với những bài kệ như sau:

  1. Con vật hai chân này,
    Bất tịnh và hôi thối,
    Ðầy các loại tử thi,
    Từ đấy, nước rỉ chảy.
  2. Nai trốn, dùng bẫy sập,
    Với cá dùng câu móc,
    Với khỉ, dùng hầm hố,
    Phàm phu bị bắt vậy.
  3. Sắc, tiếng, vị, hương, xúc,
    Khả ái và thích ý,
    Năm dục trưởng dưỡng này,
    Ðược tiếng trong nữ sắc.
  4. Phàm phu tâm say đắm,
    Chạy theo hưởng nữ sắc,
    Tăng nghĩa địa hãi hùng,
    Chất chứa sự tái sanh.
  5. Ai tránh né nữ sắc,
    Như chân tránh đầu rắn,
    Chánh niệm, vượt qua được,
    Kẻ đầu độc thế giới.
  6. Thấy nguy hiểm trong dục,
    An ổn trong viễn ly,
    Thoát khỏi tất cả dục,
    Ta đạt lậu hoặc tận.

Chương VII

-ooOoo-

Phẩm Bảy Kệ

(CCXXIV) Sundara-Samudda (Thera. 49)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một người trong hội đồng thành phố giàu có, ở Ràjagaha (Vương Xá) và được đặt tên là Samudda. Vì ngài rất đẹp trai nên được gọi là Sundara-Samudda, khi ngài còn trẻ, ngài thấy được uy nghi đức Phật, khi có cuộc lễ đón rước đức Phật đến Ràjagaha, với lòng tin và với thiên tánh tự nhiên, ngài xuất gia. Ðược giao cho một đề tài thiền quán, ngài đi từ Ràjagaha đến Sàvatthi, ở với một người bạn và tu tập thiền quán. Mẹ ngài ở Vương Xá, thấy các người con của các đại biểu hội đồng thành phố khác với những người vợ trang sức thật lộng lẫy vui chơi trong những ngày lễ, bà mẹ buồn, nhớ con và khóc; một kỹ nữ thấy vậy liền dỗ bà và tự nguyện đi đến Sàvatthi để đem con bà về. Bà mẹ hứa rằng, nếu con bà chịu cưới nàng, bà sẽ cho nàng làm chủ gia đình và tặng nhiều tặng phẩm. Với một số tùy tùng, nàng đi đến Sàvatthi và dừng lại ngôi nhà ngài thường hay đến hằng ngày để khất thực; nàng hết sức săn sóc cho ngài. Nàng ăn mặc lộng lẫy và mang dép vàng; một hôm nàng để đôi dép nàng tại ngưỡng cửa, đảnh lễ ngài với hai tay chấp lại, khi ngài đi qua với cử chỉ muốn cám dỗ ngài. Và ngài một tư tưởng thế tục thoáng qua, ngài cương quyết nỗ lực cuối cùng đứng tại đấy thiền định, thiền quán và chứng được sáu thắng trí. Ngài diễn đạt quả chứng của ngài như sau:

  1. Trang sức mặc áo đẹp,
    Ðeo vòng hoa trang điểm,
    Chân bôi sơn màu đỏ,
    Một kỹ nữ đi dép.
  2. Chân rút ra khỏi dép,
    Chấp tay, hướng phía trước,
    Nàng với giọng nhẹ dịu,
    Mở đầu nói với ta;
  3. Chàng trẻ tuổi xuất gia,
    Hãy dừng, lãnh vực em,
    Thọ hưởng năm dục vọng,
    Em cho chàng phương tiện,
    Em hứa chàng sự thật,
    Em đem chàng lửa thề.
  4. Khi chàng em đều già,
    Cả hai đều chống gậy,
    Cả hai cùng xuất gia,
    Hai phần được vận may.
  5. Thấy người kỹ nữ ấy,
    Chấp tay lời van xin,
    Trang sức, mặc áo đẹp,
    Như thần chết gieo mồi.
  6. Rồi ta tự tác ý,
    Như lý khởi tư duy,
    Các hiểm nguy hiển lộ,
    Nhàm chán ta an trú.
  7. Và tâm ta giải thoát,
    Thấy Pháp nhĩ là vậy,
    Ba minh chứng đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.

(CCXXV) Lakuntaka-Bhaddiya (Thera. 49)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình giàu có, được đặt tên là Bhaddiya, nhưng vì ngài rất thấp, nên được biết với tên là Lakuntaka Bhaddhiya (Bhaddiya người lùn). Nghe bậc Ðạo Sư giảng, ngài xuất gia, trở thành một nhà học giả và biện tài, ngài dạy cho các người khác với một giọng nói rất dịu ngọt. Một hôm, nhân ngài đang lễ, một phụ nữ đi xe với một Bà-la-môn, thấy ngài và cười lên, để lộ hàm răng của nàng. Vị Trưởng lão, lấy hàm răng ấy như một đề tài để thiền quán, khởi lên thiền định và trên căn cứ ấy, phát triển thiền quán và trở thành một vị Bất Lai. Về sau nhờ Tôn giả Sàriputta dạy tu thân hành niệm, ngài chứng quả A-la-hán, ngài nói lên chánh trí của ngài:

  1. Ra ngoài các khu vườn,
    Tên Ambàtaka,
    Trong rừng với lùm cây,
    Ái, ái căn từ bỏ,
    Bhaddiya ngồi thiền,
    Bậc may mắn hạnh phúc.
  2. Một số người ưa thích,
    Trống, sáo và trống nhỏ,
    Còn ta, dưới gốc cây,
    Ta thích lời Phật dạy.
  3. Nếu Phật ban ân huệ,
    Ta được ân huệ ấy,
    Ta trì thân hành niệm,
    Thường hằng ở mọi giới.
  4. Cười chê, ta vì thân,
    Ai theo ta vì tiếng,
    Chúng không biết được ta,
    Vì dục tham chi phối.
  5. Không biết được phần trong,
    Không thấy được phía ngoài,
    Chận bốn phía, người ngu,
    Bị tiếng nói lôi cuốn.
  6. Không biết được phần trong,
    Quán thấy được phía ngoài,
    Chỉ thấy quả phía ngoài,
    Cũng bị tiếng lôi cuốn.
  7. Quán trí được phần trong,
    Quán thấy được phía ngoài,
    Thấy không bị chướng ngại,
    Không bị tiếng lôi cuốn.

(CCXXVI) Bhadda (Thera. 50)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong gia đình một vị lớn trong hội đồng thành phố, làm con một gia đình cha mẹ trước đây không có con, dầu đã có cầu khẩn thần linh nhiều lần vẫn chưa có con. Họ đi đến bậc Ðạo Sư và nói: ‘Nếu chúng con có được đứa con, chúng con sẽ dâng lên cho ngài để làm thị giả!’. Khi được sinh Bhadda, chúng mặc áo đẹp nhất cho ngài, đưa ngài đến bậc Ðạo Sư và nói: ‘Bạch Thế Tôn, đây là đứa con chúng con sanh ra, sau khi yết kiến Thế Tôn, chúng con xin dâng hiến cho Thế Tôn’. Thế Tôn bảo Ananda cho Bhadda xuất gia và đi vào hương phòng. Ananda giảng dạy cho ngài và căn cơ ngài quá thuần thục đến nỗi trong khi đang học, vừa lúc mặt trời mọc, ngài phát triển thiền quán và chứng được sáu thắng trí.

Thế Tôn biết được những gì xảy ra và gọi: ‘Hãy đến này Bhadda!’ Ngài đến, chấp tay đảnh lễ bậc Ðạo Sư. Ðó là lễ xuất gia của ngài, đó là lễ xuất gia do đức Phật chủ trì. Và bậc Trưởng lão nói lên chánh trí của ngài:

  1. Ta là con độc nhất
    Ðược cha thương mẹ thương,
    Do nhiều hạnh giới cấm,
    Van vái mới được ta.
  2. Vì lòng thương xót ta,
    Muốn ta được hạnh phúc,
    Cả cha và mẹ ta,
    Dẫn ta đến đức Phật
  3. Ðược đứa con trai này,
    Thật trải nhiều khó khăn,
    Nuôi dưỡng rất tế nhị,
    Ðược nuông chiều săn sóc,
    Chúng con kính dâng Ngài,
    Kính thưa bậc cứu độ,
    Ðể làm người thị giả,
    Hầu hạ bậc chiến thắng.
  4. Bậc Ðạo Sư nhận ta,
    Nói A-nan như sau:
    Hãy cho nó xuất gia,
    Nó sẽ thành thuần lương.
  5. Sau khi bậc Ðạo Sư,
    Bảo xuất gia cho ta,
    Xong rồi bậc chiến thắng,
    Bước vào trong tinh xá,
    Khi mặt trời chưa mọc,
    Tâm ta được giải thoát.
  6. Rồi bậc Ðạo Sư ta,
    Ðể chấm dứt công việc,
    Từ yên lặng thiền tịnh,
    Ngài đứng dậy gọi ta:
    Này Bhadda hãy đến,
    Ta thọ Ðại giới vậy.
  7. Từ sanh, đến bảy năm,
    Ta được thọ Ðại giới,
    Ba minh ta đạt được,
    Ôi pháp, thiện pháp tánh!

(CCXXVII) Sopàka (Thera. 50)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh từ vợ một người cùng đinh, và do thọ sanh, ngài được gọi là Sopàka (người cùng đinh). Có người nói ngài là con một thương gia. Sự kiện này không được tập Apadàna chấp nhận:

Khi ta chứng được,
Tái sanh cuối cùng,
Ta vào bào thai,
Của Sopàka.

Bốn tháng sau khi sanh, cha ngài mệnh chung, và được người cậu nuôi dưỡng. Người cậu, do người con hay nóng giận của mình xúi giục, muốn giết ngài. Nó đem ngài đến bãi tha ma, trói hai tay ngài cột vào cổ một thây ma, nghĩ rằng các con chó rừng sẽ ăn thịt ngài. Nó không thể giết ngài vì ngài tái sanh lần cuối cùng. Ban đêm các con chó rừng và các con thú khác đến, và đứa con nít kêu khóc:

Thế nào là định mệnh,
Ðược để dành cho ta.
Ai là người bà con,
Của đứa trẻ mồ côi!
Giữa nghĩa địa kinh hoàng,
Ta bị cột, trói chặt!
Ta sẽ tìm được ai,
Là người bạn của ta!

Bậc Ðạo Sư trong lúc ấy đang nhìn xem ai là người đáng cứu độ, thấy trong đứa trẻ, những nhân duyên chứng quả A-la-hán được chói sáng trong tâm của đứa trẻ, liền chiếu sáng hào quang và nói:

Hãy đến, Sopaka,
Người đừng có sợ hãi,
Hãy nhìn đến Như Lai,
Chính Ta sẽ cứu con!
Như mặt trăng thoát khỏi,
Hàm răng của Ràhu.

Với sức mạnh của đức Phật, đứa trẻ bứt đứt dây trói, và cuối bài kệ đứng dậy, trở thành một bậc Dự lưu và đứng trước hương phòng của đức Phật! Mẹ ngài tìm ngài hỏi người cậu, nhưng người cậu im lặng không nói gì. Mẹ ngài đi đến đức Phật, nghĩ rằng đức Phật biết tất cả, quá khứ, hiện tại, vị lai. Bậc Ðạo Sư, dùng thần thông giấu đứa con. Bà thưa với Thế Tôn: ‘Bạch Thế Tôn, con không thể tìm thấy đứa con. Nhưng Thế Tôn biết được con tôi đang làm gì?’. Thế Tôn trả lời:

Các người con không phải,
Là chỗ y, nương tựa,
Cả cha cũng là vậy,
Kể cả các bà con.
Với kẻ bị mệnh chung,
Dầu bà con huyết thống,
Cũng không thể nương tựa!

Và như vậy, Thế Tôn thuyết pháp cho bà, bà nghe xong chứng quả Dự lưu, nhưng đứa trẻ chứng quả A-la-hán. Rồi Thế Tôn rút lại thần thông và bà mẹ sung sướng thấy được người con. Ðược biết con mình đã chứng quả A-la-hán, bà bằng lòng để con xuất gia và bà ra về.

Rồi ngài đến đảnh lễ bậc Ðạo Sư, khi bậc Ðạo Sư đang đi dưới bóng mát của hương phòng và đi theo Thế Tôn. Thế Tôn muốn thế độ cho ngài liền hỏi ngài mười câu hỏi, bắt đầu bằng câu: ‘Thế nào là một pháp?’. Ngài hiểu được ý Thế Tôn liền trả lời: ‘Các chúng sanh được nuôi dưỡng bằng thức ăn…’, với trí sáng suốt của mình. Bậc Ðạo Sư thỏa mãn với những câu trả lời của đứa trẻ, thọ giới cho ngài. Do vậy ngài có được tên là: ‘Ðặt trẻ với những câu hỏi’. Ngài nói lên chánh trí của mình, thuật lại những sự việc đã xảy ra, với bài kệ như sau:

  1. Thấy bậc Tối thượng nhân,
    Kinh hành dưới bóng lầu,
    Tại đấy, ta đi tới,
    Ðảnh lễ bậc Tối thượng.
  2. Ðắp y một bên vai,
    Chấp hai tay đưa lên,
    Ði theo bậc Vô cấu,
    Tối thượng trên mọi loài.
  3. Ngài hỏi ta câu hỏi,
    Khéo biết đặt câu hỏi,
    Ta trả lời Ðạo Sư,
    Không run, không sợ hãi.
  4. Ðức Như Lai tùy hỷ,
    Câu trả lời câu hỏi,
    Nhìn chúng Tỷ-kheo Tăng,
    Ngài nói ý nghĩa này:
  5. Lợi ích thay, dân chúng,
    Ăng-ga, Magadha,
    Cúng dường cho vị ấy,
    Y dược thuốc sàng tọa,
    Biết cung kính thích nghi,
    Thật lợi ích cho chúng,
    Bậc Ðạo Sư nói vậy,
  6. Bắt đầu từ hôm nay,
    Hỡi này Sopaka,
    Hãy đến yết kiến Ta,
    Như vậy, Sopaka,
    Ông thành tựu Ðại giới,
    Ðược an lành tốt đẹp.
  7. Bảy năm từ khi sanh,
    Ta được thọ Ðại giới,
    Ta mang thân cuối cùng!
    Ôi pháp, thiện pháp tánh.

(CCXXVIII) Sarabhanga (Thera. 50)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại Ràjagaha (Vương Xá), con của một Bà-la-môn, ngài có thể được đặt tên, độc lập hay không độc lập với truyền thống gia đình, ngài không có đặc điểm gì để đặt tên. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài trở thành một ẩn sĩ, tự dựng một thảo am, làm bằng cọng cây lau mà tự ngài bẻ gãy, và từ đấy ngài được biết với tên là Sara-Bhanga, (người bẻ gãy cọng cây lau). Thế Tôn với Phật nhãn nhìn quanh thế giới, thấy được nơi ngài những điều kiện để thành vị A-la-hán. Thế Tôn đi đến thuyết pháp cho ngài. Và ngài khởi lòng tin, trở thành một vị xuất gia, sau một thời gian trở thành vị A-la-hán, ngài vẫn tiếp tục ở thảo am. Thảo am dần dần hư nát và sụp đổ xuống, dân chúng hỏi ngài sao không dựng thảo am lại, ngài trả lời, khi thảo am được dựng lên, ngài còn ẩn sĩ. Nhưng nay ngài không thể làm được như vậy nữa. Rồi ngài nói lên toàn bộ vấn đề như sau:

  1. Tay bẻ những cây lau,
    Ta làm am ta ở,
    Do vậy, được tên tục:
    ‘Người bẻ gãy cây lau’.
  2. Nay không còn thích hợp,
    Tự tay bẻ cây lau,
    Theo học giới giảng dạy,
    Gotama danh xưng.
  3. Chính Sara-bhanga,
    Từ trước chưa từng thấy,
    Thấy chứng bệnh toàn diện,
    Một cách thật đầy đủ.
    Bệnh ấy nay được thấy,
    Do lời bậc siêu thiên.
  4. Chính đường ấy đã đi,
    Vibassì, Sikhi,
    Kể cả Vessabhu,
    Với Kakusandha,
    Konàgamana.
    Chính với con đường ấy,
    Gotama đã đến.
  5. Ly ái, không chấp thủ,
    Bảy Phật chứng Niết-bàn,
    Pháp này được thuyết giảng,
    Bởi các vị chứng Pháp.
  6. Vì từ mẫn chúng sanh,
    Bốn sự thật được giảng,
    Khổ, khổ tập, con đường,
    Diệt, chấm dứt khổ đau.
  7. Trong đời sống liên tục,
    Khổ luân chuyển không dứt,
    Khi thân này bị hoại,
    Khi mạng sống cáo chung,
    Tái sanh khác không còn,;
    Ta thật, khéo giải thoát,
    Giải thoát mọi sanh y.

Chương VIII

-ooOoo-

Phẩm Tám Kệ

(CCXXLX) Mahà-Kaccàyana (Thera. 52)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại Ujienì trong gia đình của vị cố vấn nghi lễ cho vua Candapajjota. Ngài học ba tập Vệ-đà, khi ngài lớn và khi phụ thân mất ngài kế tiếp chức vụ của cha. Ngài được biết với tên là Kaccàna theo dòng họ. Nhà vua được nghe tin đức Phật xuất hiện, ngài đi mời đức Phật, ngài đi với bảy người, được bậc Ðạo Sư thuyết pháp, sau buổi thuyết giảng, cả ngài với bảy người đều chứng quả A-la-hán, với hiểu biết về nghĩa và về pháp. Rồi Thế Tôn đưa tay nói: ‘Hãy đến các Tỷ-kheo!’, cả tám vị được cắt tóc, đầy đủ với bát và y.

Khi ngài đã được giải thoát, ngài mời đức Phật đến Ujjenì để thuyết pháp cho vua. Ðức Phật nói Kaccàna tự mình đi về, thực hiện sứ mệnh ấy. Kaccàna theo lời khuyên, đi với cả bảy vị, thuyết pháp cho vua, khiến vua khởi lòng tin rồi trở lại với bậc Ðạo Sư.

Một hôm, nhiều Tỷ-kheo sau khi bỏ một bên các bổn phận của mình, tìm thú vui trong các vui thế tục và xã hội, đang sống một đời sống phóng dật. Vị Trưởng lão trong hai câu kệ, khuyên răn các vị ấy, và với sáu bài kệ tiếp, giảng dạy cho vua:

  1. Chớ làm quá nhiều việc,
    Tránh quần chúng đua tranh,
    Người siêng tham đắm vị,
    Bỏ đích đem an lạc.
  2. Ta cảm là ‘đống bùn’,
    Cung kính các gia đình,
    Là mũi tên nhỏ nhiệm,
    Thật khó được rút ra,
    Tôn trọng khó từ bỏ,
    Ðối với kẻ không tốt.

Lời cho vua:

  1. Hành động của con người,
    Không phải là độc ác,
    Tùy thuộc vào người khác,
    Người khác nói hay làm,
    Tự mình chớ có làm,
    Vì người, bà con nghiệp.
  2. Không vì người khác nói,
    Con người thành ăn trộm,
    Không vì người khác nói,
    Con người thành bậc Thánh.
    Như mình tự biết mình,
    Chư Thiên biết mình vậy.
  3. Người khác không biết được,
    Ðây ta sống một thời,
    Những ai biết được vậy,
    Bậc trí sống lắng dịu.
  4. Chỉ bậc trí sống mạnh,
    Dầu tài sản đoạn tận,
    Nếu không được trí tuệ,
    Có tiền như không sống,

Với vua hỏi về cơn mộng:

  1. Với tai nghe tất cả,
    Với mắt thấy tất cả,
    Kẻ trí bỏ tất cả,
    Như không thấy không nghe,
  2. Có mắt, như kẻ mù,
    Có tai như kẻ điếc,
    Có trí, như kẻ ngu,
    Có sức, như kẻ yếu,
    Ðể việc lành khởi lên,
    Nằm như kẻ chết nằm.

(CCXXX) Sirimitta (Thera. 52)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con của một điền chủ giàu có, được đặt tên là Sirimitta; mẹ ngài là chị của Sirigutta. Nay Sirimitta, cháu của Sirigutta tìm được lòng tin đối với bậc Ðạo Sư nhiếp phục con voi Dhanapàla. Rồi ngài xuất gia và sau một thời gian chứng quả A-la-hán.

Một hôm, từ chỗ ngồi đứng dậy để tụng học giới bổn Pàtimokkha, ngài cầm một cái quạt có sơn màu, rồi ngồi xuống, ngài thuyết pháp cho các Tỷ-kheo, và làm như vậy, ngài làm nổi bật những đức tánh khác như sau:

  1. Không phẫn nộ, không hận,
    Không gian, không hai lưỡi,
    Vị Tỷ-kheo như vậy,
    Ðời sau, không ưu sầu.
  2. Không phẫn nộ, không hận,
    Không gian, không hai lưỡi,
    Tỷ-kheo thường hộ căn,
    Ðời sau không ưu sầu.
  3. Không phẫn nộ, không hận,
    Không gian, không hai lưỡi,
    Tỷ-kheo giữ thiện giới,
    Ðời sau, không ưu sầu.
  4. Không phẫn nộ, không hận,
    Không gian, không hai lưỡi,
    Tỷ-kheo thiện bằng hữu,
    Ðời sau không ưu sầu
  5. Không phẫn nộ, không hận,
    Không gian, không hai lưỡi,
    Tỷ-kheo thiện trí tuệ,
    Ðời sau, không ưu sầu.

Sau khi thuyết giảng về phẫn nộ, hận… ngài nói đến con đường siêu thoát, diễn tả thái độ chơn chánh của từng cá nhân, như vậy chứng nhận chánh trí của mình:

  1. Với ai tin Như Lai,
    Không dao động, thiện trú,
    Với ai, nếp giới hạnh,
    Ðược thiện nhân tán thán,
    Ðược bậc Thánh tùy hỷ.
  2. Với ai, có tín thành,
    Ðối với chúng Tăng già,
    Có tri kiến chánh trực,
    Họ nói về người ấy:
    Vị ấy không nghèo đói,
    Ðời sống không trống rỗng.
  3. Vậy nên bậc Hiền trí,
    Hãy chú tâm tín, giới,
    Tịnh, tín, thấy đúng pháp;
    Vào cốt tủy lời Phật.

(CCXXXI) Mahà-Panthaka (Thera. 53)

Khi bậc Ðạo Sư đi đến Ràjagaha, chuyển bánh xe pháp, Panthaka, con đầu lòng của con gái một nhân viên giàu có trong Ủy ban thành phố, và một trong những người nô tỳ của phụ thân của người con gái, cả hai thường đi đến ông ngoại để nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, khởi lòng tin với thiền quán. Sau khi xuất gia, ngài trở thành thiện xảo trong lời dạy của bậc Ðạo Sư và trong bốn thiền, và sau một thời gian, chứng quả A-la-hán. An trú trong an lạc thiền quán và quả chứng, ngài hồi tưởng lại sự thành công của mình, và sung sướng rống tiếng rống con sư tử như sau:

  1. Khi đầu tiên ta thấy,
    Bậc Ðạo Sư vô úy,
    Xúc động khởi nơi ta,
    Thấy được người Tối thượng.
  2. Ai cả tay cả chân,
    Cầu khẩn thần may đến,
    Với cử chỉ như vậy,
    Khiến Ðạo Sư hoan hỷ,
    Vị ấy không thể đạt,
    Như sở nguyện của mình.
  3. Còn ta đã từ bỏ,
    Vợ con, tiền, lúa, gạo,
    Sau khi cạo râu tóc,
    Ta xuất gia không nhà.
  4. Học, sinh hoạt đầy đủ,
    Các căn khéo chế ngự,
    Ðảnh lễ bậc Chánh giác,
    Ta trú, không khuất phục.
  5. Rồi ta khởi ước nguyện,
    Tâm an trú tha thiết,
    Ta quyết không ngồi nữa,
    Dầu chỉ là một phút,
    Cho đến khi rút được,
    Rút mũi tên tham ác.
  6. Ta an trú như vậy,
    Hãy xem nhờ nỗ lực,
    Ba minh ta đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.
  7. Ta biết được đời trước,
    Thiên nhãn được thanh tịnh,
    Ta xứng được cúng dường,
    Giải thoát khỏi sanh y.
  8. Như đêm trở thành sáng,
    Khi mặt trời mới mọc,
    Mọi khát ái khô kiệt,
    Ta vào, ngồi kiết-già.

Chương IX

-ooOoo-

Phẩm Chín Kệ

(CCXXXII) Bhùta (Thera. 54)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại ngoại thành Sàketa, con một hội viên giàu có trong Hội đồng thành phố, ngài là con út và người con độc nhất được sống sót, các người con khác bị một con Dạ-xoa thù nghịch ăn thịt. Ngài được canh gác cẩn mật, và con Dạ-xoa bận lên hầu Vessavana nên không về nữa. Khi đến tuổi đặt tên, ngài được đặt tên là Bhùta, vì do nguyện cầu được sanh ngài: ‘Mong rằng các hàng phi nhân có lòng từ hộ trì cho đứa trẻ’. Nhờ công đức của mình, ngài lớn lên không bị tai nạn gì, được nuôi dưỡng trong ba lâu đài như Yasa. Khi bậc Ðạo Sư đến Sàketa, ngài cùng với các cư sĩ khác đến tịnh xá nghe thuyết pháp. Sau khi xuất gia, ngài sống trong một hang động, trên bờ sông Ajakaranì. Tại đấy, ngài chứng quả A-la-hán. Sau đó ngài về thăm các bà con vì lòng từ mẫn và ở trong rừng Anjana. Khi các bà con yêu cầu ngài ở lại, vì lợi ích chung cho các bà con và cho ngài, ngài nói ngài ưa thích đời sống xuất gia và nói lên những bài kệ như sau, trước khi từ biệt các bà con:

  1. Khi bậc trí thấy được,
    Già chết là đau khổ,
    Tại đấy, kẻ phàm phu,
    Không thấy, chấp thủ khổ.
    Sau khi liễu tri khổ,
    Chánh niệm, tu thiền định,
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ưu việt hơn lạc này.
  2. Khi đoạn tận được ái,
    Ái đem khổ, độc hại,
    Tạo hý luận trói buộc,
    Ðẩy mạnh đến đau khổ,
    Sau khi đoạn tận ái,
    Chánh niệm, tu thiền định,
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ưu việt hơn lạc này.
  3. Khi với tuệ, thấy được,
    Con đường lành vô thượng,
    Gồm hai lần bốn phần,
    Tịnh trừ mọi phiền não,
    Sau khi thấy với tuệ;
    Chánh niệm tu thiền định,
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ưu việt hơn lạc này.
  4. Khi tu tập con đường,
    Không sầu, không cấu uế,
    Vô vi, an tịnh đạo,
    Tịnh trừ mọi phiền não,
    Chặt trói buộc kiết sử,
    Chánh niệm, tu thiền định,
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ưu việt hơn lạc này.
  5. Khi trên trời vang rền,
    Tiếng trống mây giông tố,
    Khắp con đường chim bay,
    Dòng mưa dày đặc đổ,
    Tỷ-kheo đi đến hang,
    Tu tập, ngồi thiền định,
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ư u việt hơn lạc này.
  6. Khi trên những bờ sông,
    Những vòng hoa rừng núi,
    Nở lên và chói sáng,
    Với nhiều màu nhiều sắc,
    Với tâm tư thoải mái,
    Ngồi thiền trên bờ sông,
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ưu việt hơn lạc này.
  7. Khi nửa đêm, rừng vắng,
    Trời đổ trận mưa rào,
    Loài có ngà có nanh,
    Ðang sống đang gầm thét,
    Tỷ-kheo đến triền núi,
    Ngồi yên lặng tọa thiền,
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ưu việt hơn lạc này.
  8. Khi tầm tứ chế ngự
    Giữa núi, trong hang động
    Thoải mái tự ngồi thiền,
    Không sợ không chướng ngại
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ưu việt hơn lạc này.
  9. Khi ngồi được hỷ lạc,
    Không uế chướng, không sầu,
    Không tù túng, thoát ái,
    Không bị mũi tên đâm,
    Mọi lậu hoặc chấm dứt,
    Vị ấy ngồi tọa thiền,
    Không tìm thấy lạc nào,
    Ưu việt hơn lạc này.

Chương X

-ooOoo-

Phẩm Mười Kệ

(CCXXIII) Kàludàyin (Thera. 56)

Ngài sanh cùng ngày với đức Phật trong gia đình con vị Bộ trưởng của vua ở Kapilavatthu. Bảy vị cùng sanh một lần trong ngày, Vị Bồ-tát, cây Bồ-đề, mẹ của Ràhula và bốn vật báu: roi báu, con ngựa Kanthaka, Channa và Kàludàyin. Khi đến ngày đặt tên, ngài được gọi là Udàyin, và vì ngài da đen nên được gọi là Kàludàyin. Ngài lớn lên làm bạn trẻ đồng chơi với vị Bồ-tát. Rồi Thế Tôn xuất gia, giác ngộ, và ở tại Trúc Lâm (Veluvana), chuyển bánh xe Chánh pháp, vua Suddhodana nghe vậy, cử một vị Bộ Trưởng với một ngàn người tùy tùng, bảo đem con của vua về. Vị Bộ trưởng cùng cả ngàn tùy tùng, nghe đức Phật giảng và chứng quả A-la-hán. Ðức Phật đưa tay nói: ‘Hãy đến, này các Tỷ-kheo’… và tất cả sống giữa các vị Hiền Thánh, không chuyển thông điệp của vua. Các vị sứ giả khác cũng lâm vào cảnh tương tự. Cuối cùng vua sai Kàludàyin với một ngàn người tùy tùng và Kàludàyin hứa thế nào cũng đưa vị Bồ-tát về dầu có xuất gia. Ngài đi đến nghe pháp, trở thành vị A-la-hán, nhớ đến sứ mạng của mình, chờ cho mùa mưa xong, khi trên con đường về, hoa đã trổ bông, ngài mới nói lên những bài kệ mời bậc Ðạo Sư về và tán thán vẻ đẹp cuộc hành trình:

  1. Thế Tôn, nay là thời,
    Các cây nở hoa đỏ,
    Từ bỏ chòm lá cũ,
    Tìm đến thời sai quả.
    Chúng như ngọn lửa hừng,
    Chói sáng và rực sáng,
    Bạch đấng Ðại anh hùng,
    Nay là thời hưởng vị.
  2. Những cây nở hoa đẹp,
    Khắp phương tỏa hương thơm,
    Bỏ lá, vọng sanh quả,
    Nay là thời lên đường,
    Từ bỏ địa phương này,
    Kính thưa bậc Anh hùng.
  3. Không quá lạnh, quá nóng,
    Thế Tôn thời tiết đẹp,
    Hãy để hai dân tộc,
    Thích-Ca, Ko-li-ya,
    Nhìn Ngài mặt hướng Tây,
    Vượt sông Ro-hi-ni.
  4. Trong hy vọng, ruộng cày,
    Trong hy vọng, giống gieo,
    Trong hy vọng, thương gia,
    Vượt biển đem tiền về.
    Hy vọng con kiên trì,
    Mong con, hy vọng thành.
  5. Người tiếp tục gieo giống,
    Trời lại tiếp tục mưa,
    Người nông tiếp tục cày,
    Thóc gạo tiếp tục đến,
    Ðến nhiều cho quốc gia.
  6. Ăn xin tiếp tục xin,
    Thí chủ tiếp tục cho,
    Thí chủ tiếp tục cho
    Tiếp tục lên Thiên giới.
  7. Bậc anh hùng tiếp tục,
    Cho đến bảy thế hệ
    Gia đình ấy được sanh,
    Bậc trí tuệ rộng lớn,
    Con nghĩ Ngài có thể,
    Là Thiên chủ chư Thiên,
    Trong Ngài đã được sanh,
    Bậc ẩn sĩ chân danh.
  8. Phụ vương đại ẩn sĩ,
    Tên gọi Tịnh Phạn vương,
    Còn mẹ bậc Chánh giác,
    Danh xưng là Ma-da,
    Bà mang thai Bồ-tát,
    Thân hoại, hưởng thiên giới.
  9. Gô-ta-mi, mạng chung,
    Từ đấy, sau khi chết,
    Ðược hưởng thọ đầy đủ,
    Các dục lạc cõi trời,
    Vui hưởng năm món dục,
    Ðược Thiên nữ đoanh vây.

Rồi Thế Tôn được thỉnh mời, thấy rằng mình đi sẽ cứu độ cho nhiều người, nên đã ra đi với hai mươi ngàn vị A-la-hán, mỗi ngày đi bộ một do-tuần. Còn vị Trưởng lão, dùng thần thông đi đến Kapilavatthu trước mặt ông vua. Vua không biết ngài là ai, nên ngài mới xưng ngài là con vị Bộ Trưởng, được vua sai đi đến Thế Tôn và nói lên bài kệ:

  1. Ta là con đức Phật,
    Ngài thắng bậc bất thắng,
    Bậc An-gi-ra-sa,
    Bậc không ai sánh được,
    Vua dòng họ Thích-ca,
    Phụ thân của cha tôi,
    Vua dòng Go-ta-ma
    Là bậc Tổ phụ tôi,
    Ðúng pháp là như vậy.

(CCXXXIV) Ekavihàriya (Tissa Kumàra) (Thera. 57)

Ngài sanh ra, sau khi đức Phật đã nhập Niết-bàn là con trai nhỏ nhất của vua Dhammàsoka. Vua Asoka, đến năm thứ 218 sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, đã thống nhất toàn thể Ấn Ðộ trong một đế quốc. Vua phong em trai thứ ngài là Tissa làm Phó vương, và vận động em ngài ủng hộ cho Giáo hội.

Còn ngài trong khi đi săn thấy Trưởng lão Mahà Dhammarakkhita ngồi dưới gốc cây, cảm xúc rất mạnh, tự mình muốn sống trong rừng. Khi ngài chứng kiến Trưởng lão hiện thần thông, ngài trở về lâu đài, và nói với vua Asoka ngài muốn từ bỏ cuộc đời thế tục. Vua Asoka không thể làm ngài thay đổi sự quyết định của mình. Tha thiết sống đời sống một ẩn sĩ, ngài nói lên những bài kệ như sau:

  1. Khi trước mặt sau lưng,
    Không có một người nào,
    Như vậy an lạc lớn,
    Sống một mình trong rừng.
  2. Ta sẽ đi một mình,
    Ðến ngôi rừng Phật khen,
    Hưởng an lạc đã được,
    Vị Tỷ-kheo thọ hưởng,
    Nhờ sống đời tinh tấn,
    Sống riêng chỉ một mình.
  3. Ta sẽ gấp vào rừng,
    Một mình, sống lý tưởng,
    Ngôi rừng được loài voi,
    Cuồng loạn sống tự do,
    Trú xứ đem hoan hỷ,
    Cho ẩn sĩ thiền định.
  4. Trong ngôi rừng Sì-ta,
    Với núi hang nước mát,
    Sau khi rửa tay chân,
    Ta kinh hành một mình.
  5. Sống một, không sống hai,
    Trong rừng lớn đẹp đẽ,
    Ta sẽ sống tại đấy,
    Việc xong, không lậu hoặc.
  6. Như vậy, ta muốn làm,
    Mong ước nguyện thành tựu,
    Ta sẽ có lòng tin,
    Không ai làm ai được.
  7. Ta cột áo giáp lại,
    Sẽ vào trong rừng sâu,
    Ta không ra khỏi rừng,
    Nếu chưa đạt lậu tận.
  8. Trong khi gió nhẹ thổi,
    Mát lạnh, thơm mùi hương,
    Ta ngồi trên chỏm núi,
    Ta sẽ phá vô minh.
  9. Trên tấm thảm hang động,
    Trải đầy những hoa rừng,
    Ta hưởng lạc giải thoát,
    Tại vòng đai núi rừng.
  10. Chí nguyện ta viên mãn,
    Giống như mặt trăng rằm.
    Mọi lậu hoặc tận trừ,
    Nay không còn tái sanh.

(CCXXXV) Mahà Kappina (Ma-ha Kiếp-tân-na) (Thera. 58)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở biên địa, tại thành phố tên Kukkuta, trong gia đình một vị vua và được đặt tên là Kappina. Khi phụ vương mất, ngài thừa tự ngôi vua với tên là Mahà-Kappina. Ðể tăng trưởng sự hiểu biết, ngài sai sứ giả mỗi buổi sáng đi ra khỏi bốn cửa thành, giữ lại các vị học giả và tin cho ngài biết. Thời ấy bậc Ðạo Sư đã ra đời và đang ở Sàvatthi. Các thương gia của thành phố Sàvatthi đem đồ đến Kukkutta bán, đem quà dâng vua. Vua hỏi tình hình ở Sàvatthi và dân chúng theo tôn giáo nào. Các thương gia thưa không trả lời cho vua được, vì chưa được súc miệng. Sau khi vua bảo đem nước súc miệng xong, các thương gia chấp tay và thưa: ‘Ở đất nước chúng tôi, Phật báu đã ra đời’. Khi nghe nói đến chữ Phật, vua cảm thấy hân hoan thoải mái, bảo thương gia nói lại ba lần, và thưởng chúng một trăm ngàn đồng tiền vàng. Các thương gia cũng nói đến Pháp báu và Tăng báu, và vua tặng thưởng gấp ba lần. Rồi vua từ bỏ thế tục và xuất gia. Các vị Bộ trưởng cũng theo gương vua. Rồi tất cả cùng đi tìm đức Bổn Sư và đi đến sông Hằng. Rồi họ tuyên bố, nếu có bậc Ðạo Sư, có đức Phật tối thượng thời móng chân các con ngựa không bị thấm ướt! Rồi họ đi ngang qua con sông ấy và qua một con sông khác nữa, sông Candabhàgà.

Hôm ấy, bậc Ðạo Sư dậy sớm khi rạng đông, với lòng từ bi, dùng Phật nhãn xem xung quanh thế giới và thấy Mahà Kappina đã từ bỏ vương quốc và đi đến với một số tùy tùng lớn để xuất gia. Bậc Ðạo Sư trước hết đi vào Sàvatthi khất thực với một số Tỷ-kheo, rồi Ngài bay đến bờ sông Candabhàgà, và ngồi xuống kiết-già, đối diện với bến nước và phóng hào quang. Mahà Kappina và các tùy tùng thấy được các hào quang liền đến đảnh lễ đức Phật. Thế Tôn thuyết pháp cho họ và tất cả đều chứng quả A-la-hán. Và xin trở thành Sa-môn. Ðức Phật nói: ‘Hãy đến, các Tỷ-kheo’, và như vậy là lễ thọ giới của họ. Rồi Thế Tôn đem toàn thể về Jetavana ngang qua hư không.

Một hôm Thế Tôn hỏi Mahà Kappina có thuyết pháp cho đại chúng không, và khi được trả lời không. Thế Tôn cho gọi Mahà Kappina và khuyên Mahà Kappina thuyết pháp cho đại chúng. Mahà Kappina vâng lời dạy của Thế Tôn và trong buổi thuyết pháp đầu tiên độ cho hơn ngàn Sa-môn chứng quả A-la-hán. Rồi đức Phật xác nhận Mahà Kappina là vị thuyết pháp đệ nhất cho chúng Tăng.

Một hôm, ngài giảng cho các Tỷ-kheo-ni như sau:

  1. Ai thấy sớm sự việc,
    Trước khi sự việc đến,
    Và biết được cả hai,
    Có lợi hay có hại,
    Thù hay bạn người ấy,
    Không thấy được sơ hở,
    Dầu quan sát kỹ càng.
  2. Với ai khéo tu tập,
    Niệm thở vào thở ra,
    Tiếp tục hành viên mãn,
    Như lời Phật thuyết giảng,
    Sẽ chói sáng đời này,
    Như trăng thoát vùng mây.
  3. Tâm ta thật trắng bạch,
    Vô lượng, khéo tu tập,
    Thấu triệt, chế ngự vững,
    Chói sáng khắp mọi phương.
  4. Bậc có tuệ vẫn sống,
    Dầu tài sản kiệt tận,
    Không có được trí tuệ,
    Có tiền, như không sống.
  5. Tuệ phê phán điều nghe,
    Tuệ tăng trưởng danh xưng,
    Ở đời người có tuệ,
    Ðược vui trong đau khổ.
  6. Pháp này thuộc hiện tại,
    Không vi diệu hy hữu,
    Ðâu có sanh, thì chết,
    Ðây không gì hy hữu.
  7. Sanh đã không gián đoạn,
    Sống có chết thường hằng,
    Sanh sanh, chết tại đấy,
    Pháp hữu tình là vậy.
  8. Ðiều lợi cho kẻ sống,
    Không lợi cho kẻ chết,
    Than khóc cho kẻ chết,
    Không danh, không thanh tịnh,
    Không được hàng Sa-môn,
    Bà-la-môn tán thán.
  9. Than khóc hại thân, mắt,
    Dung sắc, lực và trí,
    Nếu tâm tư, hoan hỷ,
    Các phương cũng hân hoan,
    Dầu hạnh phúc đi tìm,
    Không có gì an lạc.
  10. Do vậy các cư sĩ,
    Muốn nhận trong gia đình,
    Chỉ những người có trí,
    Và những người nghe nhiều,
    Với sức mạnh trí tuệ,
    Họ làm tròn nhiệm vụ,
    Như chiếc thuyền vượt qua,
    Con sông nước tràn đầy.

(CCXXXVI) Cùla-Panthaka (Thera. 59)

Câu chuyện của ngài đã được kể trong chương VIII. Phần còn lại được kể trong tập sớ Cùlasetthi-Jàtaka. Trong một trường hợp khác ngài nói lên những bài kệ như sau:

  1. Ta chậm chạp, tiến chậm,
    Trước ta bị khinh miệt,
    Anh ta đuổi ta đi:
    Nay, ngươi hãy về nhà.
  2. Ta bị đuổi như vậy,
    Tại cửa chính Tăng xá,
    Sầu khổ, đứng tại đấy,
    Vọng luyến lời Phật dạy.
  3. Tại đấy, Thế Tôn đến,
    Ngài rờ trên đầu ta,
    Với cánh tay, nắm ta,
    Dắt ta vào Tăng xá.
  4. Ðạo Sư thương xót ta,
    Cho ta khăn lau chân;
    Hãy an trú tâm tư,
    Vào vật thanh tịnh này.
    Và ngồi xuống một bên,
    Tâm tư khéo an trú.
  5. Ta nghe lời Ngài dạy,
    Sống hân hoan Chánh pháp,
    Ta thực hành thiền định,
    Ðể đạt đích tối thượng.
  6. Ta biết được đời trước,
    Thiên nhãn ta thanh tịnh,
    Ba minh đã đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.
  7. Pan-tha-ka hóa hiện,
    Dưới hàng ngàn hình thức,
    Ngồi vườn xoài xinh đẹp,
    Chờ đợi thời phát hiện.
  8. Rồi Ðạo Sư giữ ta,
    Một sứ giả báo thời,
    Ðúng thời được báo hiệu,
    Ta đến, ngang hư không.
  9. Ðảnh lễ chân Ðạo Sư,
    Một bên ta ngồi xuống.
    Biết ta đã ngồi xuống,
    Bậc Ðạo Sư chấp nhận.
  10. Bậc nhận đồ tế vật,
    Cả toàn thể thế giới,
    Là phước điền loài Người,
    Ngài chấp nhận cúng dường.

(CCXXXVII) Kappa (Thera. 59)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong vương quốc Magadha, làm con một vua bản xứ, kế vị ngôi vua, nhưng rơi vào hưởng thụ các dục vọng. Khi bậc Ðạo Sư với lòng từ bi, nhìn thế giới để xem ai xứng đáng được cứu độ. Bậc Ðạo Sư thấy ngài, nghĩ rằng Kappa có thể tu tập quán bất tịnh, xuất gia và chứng quả A-la-hán. Thế Tôn đi trên hư không đến Kappa, và nói với ngài với những câu kệ như sau:

  1. Ðầy nhiều loại uế vật,
    Chỗ chưa còn phần uế,
    Như vũng nước đọng lâu,
    Ung nhọt vết thương lớn.
  2. Ðầy những máu và mủ,
    Chìm đắm, trong hố phân,
    Thân ứ nước rỉ chảy,
    Luôn chảy nước bất tịnh.
  3. Trói bởi sáu mươi gân,
    Trét dùng thịt làm hồ,
    Mặc áo giáp bằng da,
    Thân hôi thúi vô dụng.
  4. Nối thành dây xúc xương,
    Cột lại với dây gân,
    Do chúng nhiều hợp sức,
    Tác thành những uy nghi.
  5. Thường tiến đến sự chết,
    Ðến gần cảnh tử thần,
    Ở đấy, bị quăng bỏ,
    Con người đi theo dục.
  6. Thân bị vô minh che,
    Trói bởi bốn trói buộc,
    Thân chìm trong bộc lưu,
    Mắc vào lưới tùy miên,
  7. Hệ lụy năm triền cái,
    Ám ảnh bởi tâm tư,
    Ði theo gốc khát ái,
    Che trùm bởi màn si.
  8. Thân này luân chuyển vậy,
    Dẫn đi bởi xe nghiệp,
    Khi thành công, khi bại,
    Chịu đựng nhiều ái sanh.
  9. Ai nghĩ ‘thân của tôi’,
    Là phàm phu ngu muội,
    Tăng mộ phần đáng sợ,
    Chấp chặt sự tái sanh.
  10. Ai tránh né thân này,
    Như tránh rắn dính phân,
    Họ bỏ gốc sanh hữu,
    Chứng Niết-bàn, vô lậu.

Kappa nghe lời dạy bậc Ðạo Sư, về thân phận các thân dưới nhiều hình ảnh, sợ hãi và nhàm chán thân mình, hốt hoảng xin xuất gia. Bậc Ðạo Sư giao cho một Tỷ-kheo làm lễ xuất gia. Kappa nhận mười đề tài tu tập và chứng quả A-la-hán. Ngài đi đến bậc Ðạo Sư, đảnh lễ, ngồi xuống một bên và nói lên chánh trí của mình với những bài kệ trên. Do vậy các bài kệ này trở thành bài kệ của ngài.

(CCXXXVIII) Upasena, Con Của Vanganta (Thera. 60)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở làng Nàlaka, làm con của nữ Bà-la-môn Rùpasàrì và đặt tên là Upasena (anh của Sàriputta). Khi đến tuổi trưởng thành và học ba tập Vệ-đà. Ngài xuất gia sau khi nghe đức Phật thuyết pháp. Sau một năm thọ giới, ngài nghĩ làm tăng trưởng hột giống Thánh chủng, độ cho một Tỷ-kheo và với Tỷ-kheo này, ngài đi đến bậc Ðạo Sư, bậc Ðạo Sư nghe được việc này, chỉ trích cử chỉ hấp tấp của ngài. Rồi Upasena suy nghĩ: ‘Nếu nay, vì có một đệ tử, ta bị bậc Ðạo Sư quở trách. Nay cũng nhân lý do này, ta sẽ được Ðạo Sư tán thán’. Rồi tu tập thiền quán. Ngài chứng được quả A-la-hán. Ngài chấp nhận lối sống hạnh đầu đà và khuyên các vị khác thực hành theo, và lời khuyên của ngài rất có kết quả khiến cho Thế Tôn chấp nhận ngài là đệ tử rất được nhiều người biết đến.

Một Tỷ-kheo hỏi ngài cần phải làm gì khác khi các Tỷ-kheo ở Kosambi tranh cãi nhau và có nạn phá hòa hợp Tăng. Upasena dạy Tỷ-kheo ấy như sau:

  1. Xứ viễn ly, không ồn,
    Chỗ thú rừng thường trú,
    Tỷ-kheo dọn sàng tọa,
    Tu học hạnh tịnh cư.
  2. Từ những đống rác rưới,
    Từ một phần, xa lộ,
    Làm Y Tăng-già-lê,
    Mang áo cũ sờn mòn.
  3. Với tâm tư hạ mình,
    Tiếp tục đi từng nhà,
    Tỷ-kheo sống khất thực,
    Căn hộ, khéo chế ngự.
  4. Bằng lòng món ăn thô,
    Không tìm nhiều vị khác;
    Nếu tham đắm các vị,
    Ý không vui tu thiền.
  5. Ít dục và biết đủ,
    Ẩn sĩ sống viễn ly,
    Không thân cận cả hai,
    Tại gia và xuất gia.
  6. Như kẻ ngu, người câm,
    Hãy tỏ mình như vậy,
    Bậc trí giữa chúng Tăng,
    Chớ có giảng quá dài.
  7. Chớ có chỉ trích ai,
    Hãy tránh làm hại ai,
    Chế ngự trong giới bổn,
    Tiết độ trong ăn uống.
  8. Khéo nắm giữ các tướng,
    Thiện xảo tâm diễn khởi,
    Chú tâm vào tịnh chỉ,
    Ðúng thời tu thiền quán.
  9. Ðủ tinh tấn nhẫn nại,
    Luôn chuyên chú bổn phận,
    Chưa đạt được khổ diệt,
    Kẻ trí tin tưởng tiến.
  10. Tỷ-kheo muốn thanh tịnh,
    Sống nếp sống như vậy,
    Mọi lậu hoặc đoạn tận,
    Chứng được tối tịch tịnh.

Như vậy vị Trưởng lão, trong khi giảng dạy vị Tỷ-kheo, nêu rõ quả chứng của mình và nói lên chánh trí.

(CCXXXIX) Gotama (Thera. 61)

Sanh ở Sàvatthi trước khi đức Phật ra đời, trong một gia đình Bà-la-môn từ Udicca. Ngài lớn lên, rất giỏi các tập Vệ đà và là một vị hùng biện vô địch.

Rồi Thế Tôn ra đời, chuyển bánh xe pháp sau khi hóa độ Yasa với các người bạn, đã đi đến Sàvatthi theo lời mời khẩn thiết của Anàthapindika (Cấp-cô-độc) Bà-la-môn Gotama thấy Thế Tôn, nghe pháp và xin xuất gia. Theo chỉ giáo của bậc Ðạo Sư, ngài được một Tỷ-kheo độ cho xuất gia, và được chứng quả A-la-hán trong khi đang cạo tóc. Sau khi sống một thời gian dài ở nước Kosala, ngài trở về Sàvatthi. Nhiều bà con của ngài, một số Bà-la-môn nổi tiếng đến viếng ngài và hỏi ngài những giáo lý chỉ đạo nào là phổ thông mà ngài nghĩ là cần phải thực hành. Ngài nói với họ như sau:

  1. Hãy biết hạnh phúc mình,
    Quan sát lời nghe giảng,
    Ðây cái gì thích hợp,
    Sa-môn hạnh mình theo.
  2. Bạn kẻ thiện trong đạo,
    Hành học pháp rộng lớn,
    Khéo nghe bậc Ðạo Sư,
    Ðây hợp Sa-môn hạnh.
  3. Với tâm kính chư Phật,
    Trọng Chánh pháp như thật,
    Và mến quý chư Tăng,
    Ðây hợp Sa-môn đạo.
  4. Giữ uy nghi, đi lại,
    Mạng sống tịnh, không chê,
    Tư tưởng khéo ổn định,
    Ðây hợp Sa-môn đạo.
  5. Ðiều làm hay không làm,
    Uy nghi được ái kính,
    An trú tăng thượng tâm,
    Ðây hợp Sa-môn đạo.
  6. Sàng tọa tại rừng núi,
    Xa vắng ít ồn ào,
    Thân cận bậc Mâu-ni,
    Ðây hợp Sa-môn đạo
  7. Giới hạnh và học nhiều,
    Như thật nghiên cứu pháp,
    Thiền quán những sự thật,
    Ðây hợp Sa-môn đạo.
  8. Tu quán trên vô thường,
    Tưởng vô ngã, bất tịnh,
    Không ưa thích tục sự,
    Ðây hợp Sa-môn đạo.
  9. Tu tập các Giác chi,
    Thần túc, căn là lực,
    Thu Chánh đạo Tám ngành,
    Ðây hợp Sa-môn đạo.
  10. Mâu-ni bỏ khát ái,
    Ðập tan gốc lậu hoặc,
    Hãy an trú giải thoát,
    Ðây hợp Sa-môn đạo.

Như vậy, ngài tán thán các hạnh thích hợp với đời sống một ẩn sĩ, đề cao khả năng của Tăng chúng, và chỉ rõ sự bất lực của một ẩn sĩ không theo Chánh pháp.

Rồi các Bà-la-môn ấy hoàn toàn chấp nhận giới luật, được an trú trong Chánh pháp.

Chương XI

-ooOoo-

Phẩm Mười Một Kệ

(CCXL) Sankicca (Thera. 62)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn nổi tiếng. Mẹ ngài chết khi sanh ngài, và ngài được cứu sống, chưa bị đốt cháy trên giàn hỏa. Vì rằng sự sống của một hữu tình trong đời sống cuối cùng không thể chết được, trước khi chứng quả A-la-hán, dầu cho có rơi từ núi Sineru (Tu-di). Khi lên bảy tuổi, được nghe mẹ ngài chết khi sanh ngài; ngài cảm thấy xúc động và phát nguyện xuất gia. Ngài được đưa tới gặp Tôn giả Sàriputta, và ngài chứng được quả A-la-hán, khi tóc ngài đang bị cạo. Ngài dâng đời sống ngài cho các tên cướp như thế nào để ba ngàn Tỷ-kheo được nói đến trong tập sớ Dhammapàla.

Rồi một cư sĩ muốn hầu hạ ngài, yêu cầu ngài sống gần chỗ vị ấy đang ở, nói như sau:

  1. Lợi ích ngài là gì,
    Ở rừng sâu, mùa mưa,
    Như U-ju-hà-na,
    Hỡi này ngài thân mến!
    Hang gió đẹp cho ngài,
    Sống một mình, tu thiền.

Rồi vị Trưởng lão, để nêu rõ vẻ đẹp của núi rừng và sự thật khác, trả lời như sau:

  1. Như gió mùa thổi mây,
    Trong thời tiết mùa mưa,
    Tưởng ta bay tràn khắp,
    Tưởng dung hòa viễn ly.
  2. Quạ đen, từ trứng sinh,
    Lấy nghĩa địa làm nhà,
    Khiến ta khởi lên niệm,
    Viễn ly đối với thân.
  3. Người kẻ khác không hộ,
    Người không hộ kẻ khác,
    Tỷ-kheo, sống an lạc,
    Không kỳ vọng các dục.
  4. Tảng đá có nước trong,
    Chỗ hội họp quy tụ,
    Các loài vượn mặt đen,
    Các loài nai nhút nhát,
    Dưới màn hoa nước chảy,
    Tảng đá ấy ta thích.
  5. Ta sống trong rừng núi,
    Trong hang động khe đá,
    Tại trú xứ xa vắng,
    Chỗ thú rừng qua lại.
  6. Hãy hại chúng, giết chúng!.
    Hãy làm khổ hữu tình,
    Ta không biết niệm ấy,
    Phi Thánh liên hệ sân,
    Ðạo Sư, ta hầu hạ,
    Lời Phật dạy làm xong,
    Gánh nặng đặt xuống thấp,
    Gốc sanh hữu, nhổ sạch.
  7. Vì đích gì, xuất gia,
    Bỏ nhà sống không nhà,
    Mục đích ấy, ta đạt,
    Mọi kiết sử tận diệt.
  8. Ta không thích thú chết,
    Ta không thích thú sống,
    Ta chờ thời gian đến,
    Như thợ làm việc xong.
  9. Ta không thích thú chết,
    Ta không thích thú sống,
    Ta chờ thời gian đến,
    Tỉnh giác, giữa chánh niệm.

Chương XII

-ooOoo-

Phẩm Mười Hai Kệ

(CCXLI) Sìlavat (Thera. 63)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con của vua Bimbisàra (Tần-bà-ta-la), và được đặt tên là Sìlavat. Khi đến tuổi trưởng thành, anh ngài là Ajàtasattu làm vua, muốn giết ngài, nhưng không giết được, vì ngài sống đời sống cuối cùng và chưa chứng quả A-la-hán. Rồi Thế Tôn, biết sự việc đã xảy ra bảo Mahà Maggallàna đi mời ngài đến. Hoàng tử Sìlavat xuống voi, thích nghi giáo lý với tâm tánh của ngài, ngài khởi lòng tin, xuất gia, và sau một thời gian, chứng quả A-la-hán. Rồi ngài ở Kosala, và khi Ajàtasattu sai những người đến giết ngài, ngài dạy cho những người ấy, hóa độ và những người ấy xuất gia học đạo. Và ngài giảng cho họ như sau:

  1. Ở đây hãy học giới,
    Khéo học tập ở đời,
    Giới thành đạt toàn diện,
    Ðưa đến mọi thành công.
  2. Bậc trí hãy hộ giới,
    Nếu kỳ vọng ba lạc,
    Ðược danh xưng tài sản,
    Sau chết, hưởng thiên lạc.
  3. Người trì giới, tự chế,
    Ðược nhiều người bạn tốt,
    Kẻ ác giới, hành ác,
    Mất mát các bạn bè.
  4. Người ác giới chỉ được,
    Ác danh, không tài sản,
    Bậc trì giới luôn được
    Khen danh xưng, tán thán.
  5. Khởi đầu, an trú giới,
    Giới là mẹ thiện pháp,
    Giới đứng đầu mọi pháp,
    Vậy hãy trong sạch giới.
  6. Giới hạn chế, phòng ngự,
    Làm sáng chói tâm tư,
    Là đầu bến chư Phật,
    Vậy hãy trong sạch giới
  7. Giới sức mạnh vô song,
    Giới, binh khí tối thượng,
    Giới, trang sức đệ nhất,
    Giới áo giáp hy hữu.
  8. Giới, đầu cầu cường dại,
    Giới, hương thơm vô thượng,
    Giới, hương thoa đệ nhất,
    Nhờ giới, bay bốn phương.
  9. Giới, tư lương cao nhất,
    Giới, hành trang tối thượng,
    Giới vận tải, đệ nhất,
    Nhờ giới, đi bốn phương.
  10. Ðây, kẻ xấu bị trách,
    Sau chết sanh đọa xứ,
    Kẻ ngu không định giới,
    Ưu tư khắp các chỗ.
  11. Ðây bậc tốt được khen,
    Sau chết sanh thoát giải,
    Kẻ trí khéo định giới,
    Hân hoan, khắp các chỗ.
  12. Ở đây, giới tối cao,
    Nhưng trí tuệ, tối thượng,
    Giữa loài Người, loài Trời,
    Bậc giới tuệ thắng lợi.

(CCXLII) Sunìta (Thera. 63)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình đổ rác, và sống với nghề đi quét đường, không đủ tiền để sống khỏi đói. Trong canh một Thế Tôn khởi lòng từ mẫn nhìn khắp thế giới và thấy trong tâm của Sunìta, có đủ điều kiện để chứng quả A-la-hán, chói sáng như ngọn đèn trong cái ghè. Khi trời đã mới sáng, Thế Tôn dậy, đắp y cầm y bát, với một số Tỷ-kheo tùy tùng, đi đến Vương Xá để khất thực và tìm đến con đường Sunìta đang quét dọn. Sunìta đang quét các đống rác gom lại từng đống, đổ vào thúng rồi gánh mang đi. Khi ngài thấy bậc Ðạo Sư đi đến với đoàn tùy tùng, ngài cảm thấy hoan hỷ xúc động không tìm được chỗ để ẩn núp, ngài đứng sát như mắc dính vào vách tường và chấp tay vái chào. Khi đức Bổn Sư đến gần, đức Phật với lời rất dịu ngọt hỏi ngài sao cam phận sống đời sống khổ sở như vậy, và có thể xuất gia được không? Ngài hoan hỷ chấp nhận và được đức Phật độ cho xuất gia với câu: ‘Hãy đến này các Tỷ-kheo!’. Bậc Ðạo Sư đưa ngài về tịnh xá, dạy cho ngài một phương pháp thiền quán. Ngài chứng được tám thiền chứng và năm thắng trí. Phát triển thiền quán, ngài chứng được thắng trí thứ sáu. Rồi Sakka và các Phạm thiên đến đảnh lễ ngài đã được ghi như sau:

Rồi bảy trăm chư Thiên,
Huy hoàng đi đến gần,
Tùy tùng đấng Phạm Thiên,
Và Thiên chủ Ðế Thích,
Họ sung sướng đảnh lễ,
Trưởng lão Sunìta,
Bậc chiến thắng cao sang,
Vượt qua già và chết!

Thế Tôn thấy ngài được chư Thiên đoanh vây, Thế Tôn mỉm cười và khen ngài, thuyết giảng cho ngài với câu kệ: ‘Với giới sống Phạm hạnh’ (kệ số 631). Rồi nhiều Tỷ-kheo, muốn rống tiếng con sư tử hỏi ngài sanh ra từ gia đình nào, vì sao lại xuất gia, làm thế nào để chứng quả, ngài trả lời cho họ với những bài kệ như sau:

  1. Ta sanh nhà hạ tiện,
    Nghèo khổ không đủ ăn,
    Nghề ta rất hèn hạ,
    Ta kẻ quét hoa rơi.
  2. Ta bị người nhàm chán,
    Miệt thị và khinh bỉ,
    Hạ mình xuống thật thấp,
    Ta kính lễ quần chúng.
  3. Rồi ta thấy đức Phật,
    Thượng thủ chúng Tỷ-kheo,
    Bậc Ðại Hùng vào thành,
    Magadha tối thượng.
  4. Ta quăng bỏ đòn gánh,
    Ðến gần để đảnh lễ,
    Với lòng thương xót ta,
    Bậc Thượng nhân đứng lại.
  5. Lễ chân Ðạo Sư xong,
    Ta đứng liền một bên,
    Ta xin được xuất gia,
    Bậc tối thượng mọi loài.
    Bậc Ðạo Sư từ bi,
    Từ mẫn khắp thế giới,
    Nói: ‘Hãy đến Tỷ-kheo’,
    Ðại giới, ta thọ vậy.
    Rồi ta sống trong rừng,
    Một mình không biếng nhác,
    Ta theo lời Ðạo Sư,
    Như bậc chiến thắng dạy.
    Trong đêm canh thứ nhất,
    Ta nhớ các đời trước,
    Trong đêm canh chặng giữa,
    Thiên nhãn ta thanh tịnh,
    Trong đêm canh cuối cùng,
    Ta phá khối si ám.
    Khi đêm vừa mở rộng,
    Rạng đông, trời ló rạng,
    Ðế Thích, Phạm Thiên đến,
    Chấp tay đảnh lễ ta,
    Ðảnh lễ bậc Thượng sanh!
    Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!
    Ngài đoạn tận lậu hoặc,
    Ngài xứng đáng cúng dường.
    Bậc Ðạo Sư thấy ta,
    Ðứng đầu chúng chư Thiên,
    Nở ra một nụ cười,
    Nói với ta nghĩa này.
    Nhờ khổ hạnh, Phạm hạnh,
    Nhờ tự chế, điều phục,
    Nhờ vậy, là Phạm chí,
    Ðây, Phạm chí tối thượng.

Chương XIII

-ooOoo-

Phẩm Mười Ba Kệ

(CCXLIII) Sona-Kolivisa (Thera. 65)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại Campà, trong gia đình một hội viên của Hội đồng thành phố nổi tiếng. Từ khi ngài sắp được sanh, tài sản lớn của phụ thân được tăng trưởng, và khi ngài được sanh, cả thành phố tổ chức hội lễ lớn. Vì ngài bố thí cúng dường cho một vị Ðộc giác Phật trong đời trước, nên đời này ngài có một thân hình như bằng vàng mịn và đặc biệt mềm mại, và ngài được gọi là Sona (vàng). Dưới chân và trên bàn tay của ngài có lông mịn màu vàng mọc lên, và ngài được nuôi dưỡng trong giàu sang xa hoa, có đến ba tòa lâu đài thích hợp cho từng mùa.

Khi bậc Ðạo Sư giác ngộ và chuyển bánh xe Pháp ở Ràjagaha (Vương Xá). Vua Bimbisàra cho mời Sona đến, ngài đến với một số đông tùy tùng, nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, khởi lòng tin và được phép cha mẹ cho xuất gia. Ngài nhận từ bậc Ðạo Sư một đề tài tu tập, nhưng không thể định tâm vì có liên lạc với đông người khi sống ở trong rừng. Ngài nghĩ rằng thân ngài quá được cung dưỡng để đạt được hạnh phúc, và đời sống ẩn sĩ làm thân mệt mỏi, ngài vượt lên trên những đau đớn vì chân ngài bị sưng khi ngài tập đi kinh hành, nhưng dầu ngài hết sức tinh tấn, ngài chưa thành đạt được quả chứng. Ngài nghĩ: ‘Ta không thể thành đạt con đường và quả vị thì sống xuất gia để làm gì? Tốt hơn ta hoàn tục và làm các công đức!’. Thế Tôn biết được tâm tư ngài, dạy cho ngài bài học của cây đàn, phải làm lắng dịu nhiệt lực với tu tập tịnh chỉ. Ðược chỉ dạy, ngài đi đến núi Linh Thứu và sau một thời gian, ngài chứng quả A-la-hán. Suy nghĩ trên thành tựu của mình, ngài tuyên bố chánh trí ngài như sau:

  1. Người xưa, cao trong nước,
    Phục vụ vua Ăng-ga,
    Nay lại cao trong pháp,
    So-na vượt đau khổ.
  2. Năm được cắt, năm bỏ,
    Năm thượng pháp tu tập,
    Tỷ-kheo vượt năm gút,
    Ðược gọi vượt bộc lưu.
  3. Tỷ-kheo tánh kiêu ngoa,
    Phóng dật, ưa vị ngoài,
    Giới, thiền định, trí tuệ,
    Không đi đến viên mãn.
  4. Việc phải làm, quăng bỏ,
    Không phải việc, lại làm,
    Kẻ kiêu ngoa phóng dật,
    Lậu hoặc được tăng trưởng.
  5. Những ai khéo tinh cần,
    Thường tu tập niệm thân,
    Không phải việc, không làm,
    Kiên trì việc nên làm.
    Bậc chánh niệm tỉnh giác,
    Lậu hoăc đi đến diệt.
  6. Trên đường thẳng được thuyết,
    Hãy bước, chớ quanh co,
    Hãy tự mình trách mình,
    Hãy đem Niết-bàn lại,
  7. Khi tinh cần nỗ lực,
    Căng thẳng, vượt mức độ,
    Thế gian, Vô Thượng Sư,
    Dùng ví dụ chiếc đàn,
    Bậc pháp nhãn, có mắt,
    Ngài thuyết pháp cho ta.
  8. Ta nghe lời Ngài giảng,
    Lạc trú lời giảng dạy,
    Bình tĩnh, ta thực hành,
    Ðể đạt đích tối thượng,
    Ba minh ta đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.
  9. Ai chuyên nhất xuất ly,
    Tâm tư hướng viễn ly,
    Ai chuyên nhất vô sân,
    Diệt trừ các chấp thủ.
  10. Ai chuyên nhất ái diệt,
    Tâm tư không si mê,
    Thấy sanh khởi các xứ,
    Tâm được khéo giải thoát.
  11. Vị Tỷ-kheo tâm tịnh,
    Ðược giải thoát chơn chánh,
    Không chất chứa việc làm,
    Ðiều phải làm không có.
  12. Như một hòn đá tảng,
    Không bị gió lay động,
    Cũng vậy toàn bộ phận,
    Sắc, vị, thanh, hương, xúc.
  13. Pháp ái bất khả ái,
    Không động, người như vậy,
    Tâm trú, không hệ lụy,
    Tùy quán, sự hoại diệt.

Chương XIV

-ooOoo-

Phẩm Mười Bốn Kệ

(CCXLIV) Revata (Thera. 67)

Các bài kệ của vị Trưởng lão này đã được đề cập trong phẩm một các bài kệ trước (XLII). Khi đến già, một hôm ngài đi đến yết kiến đức Phật và trú ở Sàvatthi, trong một ngôi rừng. Cảnh sát đến, đuổi bắt kẻ trộm, kẻ trộm quăng đồ ăn trộm gần ngài rồi bỏ chạy, các cảnh sát chạy đến, thấy đồ ăn trộm, liền bắt ngài dẫn đến vua Pasenadi. Vua truyền thả ngài và hỏi có phải ngài đã lấy trộm đồ? Ngài thuyết pháp nói lên sự kiện ngài không có thể làm một sự việc như vậy và nói những bài kệ như sau:

  1. Từ khi xa xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Ta không biết tư duy,
    Phi thánh, liên hệ sân.
  2. Hay làm hại, sát hại,
    Hay làm khổ hữu tình,
    Ta không biết tư duy,
    Trong thời gian dài này.
  3. Và ta biết lòng từ,
    Vô lượng khéo tu tập,
    Ta thứ lớp tích lũy,
    Như lời đức Phật dạy.
  4. Là bạn thân tất cả,
    Từ mẫn mọi hữu tình,
    Ta tu tập tâm từ,
    Luôn vui, không sân hận.
  5. Ta thích thú với tâm,
    Không động, không dao động,
    Ta tu tập Phạm trú,
    Ðược bậc thiện hành trì.
  6. Ta đạt được vô tầm,
    Ðệ tử bậc Chánh giác,
    Với im lặng bậc Thánh,
    Ta trực diện đạt được.
  7. Như núi đá không động,
    Ðứng vững khéo an trú,
    Cũng vậy là Tỷ-kheo,
    Ðạt được si mê diệt,
    Vị ấy như ngọn núi,
    Không gì làm dao động.
  8. Con người không uế nhiễm,
    Luôn tìm sự trong sạch,
    Tội nhẹ như đầu tóc,
    Xem nặng như mây khói.
  9. Như thành trì biên địa,
    Phòng hộ cả trong ngoài,
    Hãy phòng hộ tự ngã,
    Sát-na không bỏ qua.
  10. Ta không thích thú chết,
    Ta không thích thú sống,
    Ta chờ thời gian đến,
    Như thợ làm việc xong.
  11. Ta không thích thú chết,
    Ta không thích thú sống,
    Ta chờ thời gian đến,
    Tỉnh giác, giữ chánh niệm.
  12. Ðạo Sư, ta hầu hạ,
    Lời Phật dạy làm xong,
    Gánh nặng, đặt xuống thấp,
    Gốc sanh hữu, nhổ sạch.
  13. Vì đích gì xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Mục đích ấy, ta đạt,
    Mọi kiết sử diệt tận.
  14. Nỗ lực, chớ phóng dật,
    Ðấy lời ta giáo giới,
    Ta sẽ nhập Niết-bàn,
    Ta thoát mọi sanh y.

(CCXLV) Godatta (Thera. 67)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình lữ hành và đặt tên là Godatta. Sau khi cha chết, ngài sắp đặt nhà cửa, đem theo năm trăm cỗ xe hàng hóa, đi chỗ này chỗ khác, sống bằng nghề buôn bán. Một hôm, một con bò ngã qụy xuống đường, trong khi kéo xe, và các người làm công của ngài không thể đỡ con bò đứng dậy được, ngài tự đi đến đánh con bò rất nặng. Con bò tức giận vì sự tàn bạo của ngài nói lên giọng người: ‘Này Godatta, đã lâu ta đem tất cả sức lực ta kéo gánh nặng cho ông, nhưng nay ta không đủ sức kéo nên phải ngã quỵ xuống, ông đánh đập ta tàn nhẫn. Vậy chỗ nào ông tái sanh, ta cũng sẽ sanh làm kẻ thù của ông để làm hại ông!’. Ngài nghe vậy rất lấy làm xúc động, tự nghĩ: ‘Sao lại sống làm hại các loài hữu tình như vậy?’ Rồi ngài từ bỏ tất cả tài sản, xin xuất gia với một vị Trưởng lão, và sau một thời gian chứng quả A-la-hán.

Một hôm, khi ngài đang hưởng thọ sự an lạc giải thoát, ngài thuyết pháp cho chúng xuất gia và tại gia về các pháp thế gian:

  1. Như con bò giống tốt,
    Ðược huấn luyện tốt đẹp,
    Bị cột vào gánh nặng,
    Mang gánh nặng kéo đi,
    Bị áp đè quá nặng,
    Không lật đổ gánh nặng.
  2. Cũng vậy, ai nhiều tuệ,
    Như nước ở trong biển,
    Không khinh miệt người khác,
    Thánh pháp là như vậy,
    Ðối với các hữu tình.
  3. Sống trong vòng thời gian,
    Bị thời gian hàng phục,
    Hữu, phi hữu chi phối,
    Loài Người chịu đau khổ,
    Con cháu họ sầu ưu,
    Chính ngay trong đời này.
  4. Hân hoan, khi được lạc,
    Gặp khổ lại chán chường,
    Kẻ ngu bị não hại,
    Chi phối cả hai đường,
    Không thấy được như thật.
  5. Những ai giữa khổ lạc,
    Người dệt không chi phối,
    Ðứng vững như cột cửa,
    Không hân hoan chán chường
  6. Ðối với được hay mất,
    Với danh với không danh,
    Ðối với chê hay khen,
    Với khổ hay với lạc.
  7. Chúng tôi dính chỗ nào,
    Như giọt nước trên sen,
    Bậc anh hùng mọi chỗ,
    Ðược lạc, không bị bại.
  8. Người đúng pháp không được,
    Người được, không đúng pháp,
    Ðúng pháp nhưng không được,
    Hơn được không đúng pháp.
  9. Người có danh, ít trí
    Người có trí, không danh,
    Không danh nhưng có trí,
    Hơn ít trí, có danh.
  10. Ðược khen bởi kẻ ngu,
    Bị chê bởi kẻ trí,
    Ðược kẻ trí chê bai,
    Hơn được người ngu khen.
  11. Lạc do dục đem lại,
    Khổ do viễn ly sanh,
    Khổ do viễn ly sanh
    Hơn lạc do dục sanh.
  12. Làm phi pháp để sống,
    Làm đúng pháp, có chết,
    Làm đúng pháp, có chết,
    Hơn sống, làm phi pháp.
  13. Ai đoạn dục phẫn nộ,
    Tâm tịnh hữu, phi hữu
    Sống ở đời, không ái,
    Không thương yêu ghét bỏ.
  14. Sau khi tu Giác chi,
    Các căn và các lực,
    Ðạt tịch tịnh tối thắng,
    Chứng Niết-bàn vô lậu.

Chương XV

-ooOoo-

Phẩm Mười Lăm Kệ

(CCXLVI) Anna-Kondanna (Thera. 69)

Sanh trước Thế Tôn tại làng Donavatthu, không xa Kapilavatthu bao nhiêu, trong một gia đình Bà-la-môn rất giàu có, ngài được gọi với tên gia tộc là Kondanna. Lớn lên, ngài biết ba tập Vệ-đà và giỏi về đoán tướng. Khi bậc Bồ-tát mới sanh, ngài là một trong tám vị Bà-la-môn được mời đến đoán tướng. Dầu ngài mới học nghề, ngài thấy các tướng của bậc Ðại nhân trên đứa bé và nói, vị này sau sẽ thành Phật. Rồi ngài sống, chờ đợi vị Bồ-tát xuất gia. Khi vị Bồ-tát xuất gia, lúc hai mươi chín tuổi, Kondanna được nghe tin, liền xuất gia với bốn vị Bà-la-môn đoán tướng khác, như Vappa v.v… và trong sáu năm sống ở Uruvelà, gần vị Bồ-tát, khi vị Bồ-tát đang tu khổ hạnh. Lúc vị Bồ-tát không tu khổ hạnh nữa, các vị này chán chường bỏ đi đến Isipatana (chư Tiên đọa xứ). Rồi đức Phật đến Isipatana, thuyết kinh Chuyển Pháp Luân cho họ, và Kondanna cùng hàng vạn Phạm Thiên chúng chứng được Sơ quả. Ðến ngày thứ năm, nhờ bài kinh ‘Vô Ngã Tướng’, Kondanna chứng quả A-la-hán. Bậc Ðạo Sư trong buổi họp Tăng chúng ở tinh xá Kỳ Viên, đã xác chứng ngài là bậc Ðệ nhất trong các hàng Tăng chúng Tỷ-kheo (Xem. Ang. i. 26). Và trong một trường hợp khi Kondanna giảng về Bốn sự thật, đề cập đến ba tướng: Vô thường, Khổ, Vô ngã, với những phương pháp sai biệt, dựa trên Niết-bàn và giảng với sự lưu loát của đức Phật. Bài giảng ảnh hưởng mạnh mẽ đến Sakka (Ðế Thích) khiến vị này thốt lên những bài kệ:

  1. Ta bội phần hân hoan,
    Ðược nghe pháp vị lớn,
    Pháp được giảng ly tham,
    Hoàn toàn không chấp thủ.

Trong một trường hợp khác, thấy tâm tư của một số người còn bị chi phối nặng nề bởi tà kiến, nên ngài nói lên bài kệ như sau:

  1. Trên thế giới đất tròn,
    Nhiều màu sắc hình tướng,
    Làm say đắm tâm tư,
    Ta nghĩ là như vậy,
    Tướng tịnh rất hấp dẫn,
    Liên hệ đến tham dục.
  2. Như gió thổi tung bụi,
    Ðược mây trấn áp xuống,
    Các tư duy lắng dịu,
    Khi thấy, với trí tuệ.
  3. Mọi hành là vô thường
    Khi thấy với trí tuệ,
    Vị ấy nhàm chán khổ,
    Ðây con đường đến tịnh.
  4. Mọi hành là đau khổ,
    Khi thấy với trí tuệ,
    Vị ấy nhàm chán khổ,
    Ðây con đường đến tịnh.
  5. Mọi pháp là vô ngã,
    Khi thấy với trí tuệ,
    Vị ấy nhàm chán khổ,
    Ðây con đường đến tịnh.

Rồi ngài nêu rõ, ngài đã chứng được thiền quán ấy, và nói lên chánh trí, ngài nói rằng:

  1. Trưởng lão Kondanna,
    Giác ngộ bởi giác ngộ,
    Ðã sắc bén thoát ly,
    Ðoạn tận sanh và chết,
    Và đời sống Phạm hạnh,
    Ðược hoàn toàn viên mãn.
  2. Hoặc bộc lưu, bẫy mồi,
    Hoặc cột trụ vững chắc,
    Ngọn núi khó phá hoại,
    Sau khi chặt phá xong,
    Cột trụ và bẫy mồi,
    Chặt tảng đá khó phá,
    Hành thiền, vượt bờ kia,
    Thoát khỏi Ma trói buộc.
  3. Tỷ-kheo hoảng hốt động,
    Ði đến các bạn ác,
    Chìm trong bộc lưu lớn,
    Bị sóng lớn ngập tràn.
  4. Bậc trí không hoảng hốt,
    Không dao động, thận trọng,
    Các căn khéo chế ngự,
    Làm bạn với kẻ thiện,
    Bậc trí tuệ như vậy,
    Có thể đoạn đau khổ.
  5. Một người đen, gầy mòn,
    Yếu ốm, đầy đường gân,
    Tiết độ trong ăn uống,
    Tâm tư không ưa não.
  6. Trong rừng núi rộng lớn,
    Bị muỗi ruồi đốt cắn,
    Như con voi lâm trận,
    Ta chánh niệm, chịu đựng.
  7. Ta không thích thú chết,
    Ta không thích thú sống,
    Ta chờ thời gian đến,
    Như thợ làm việc xong.
  8. Ta không thích thú chết,
    Ta không thích thú sống,
    Ta chờ thời gian đến,
    Tỉnh giác, giữ chánh niệm.
  9. Ðạo Sư, ta hầu hạ,
    Lời Phật dạy, làm xong,
    Gánh nặng, đặt xuống thấp,
    Gốc sanh hữu, nhổ sạch.
  10. Vì mục đích xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Mục đích ấy, ta đạt,
    Ta cần gì ở rừng.

(CCXLVII) Udàyin (Thera. 69)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Kapilavatthu, trong một gia đình Bà-la-môn. Ngài thấy được uy lực của đức Phật khi đức Phật thăm gia đình ngài. Ngài khởi lòng tin, xuất gia và sau một thời gian, ngài thành bậc A-la-hán. Nay có đến ba vị Trưởng lão Udàyin: con một Bộ trưởng, tên là Kàludàyin (xem CCXXXIII), vị Bà-la-môn này và Ðại Udàyin. Khi kinh Ví dụ con voi được thuyết giảng, trong kinh này, con voi Sela của vua Pasenadi được tán thán, ngài Udàyin này cảm thấy phấn khởi khi nghĩ đến đức Phật, nghĩ rằng các người này chỉ tán thán một con vật, còn ta sẽ tán thán các đức tánh tốt đẹp của một con voi tuyệt diệu, tức là đức Phật. Rồi Ngài nói lên những bài kệ như sau:

  1. Ðức Phật, sanh làm người,
    Tự điều phục thiền định,
    Uy nghi Phạm thiên đạo,
    Hoan hỷ trong tâm tịnh.
  2. Loài người đảnh lễ Ngài,
    Bậc đạt được bờ kia,
    Ðối với hết thảy pháp,
    Chư Thiên đảnh lễ Ngài,
    Như vậy ta được nghe,
    Ta là A-la-hán.
  3. Vượt qua mọi kiết sử,
    Từ rừng đến Niết-bàn,
    Vui thoát ly các dục,
    Như vàng thoát khoáng sản.
  4. Vị ấy thật như voi,
    Tuyệt luân đẹp rực rỡ
    Ðứng trên đỉnh núi cao
    Dãy trường sơn Hi-mã,
    Trong mọi danh Nàga,
    Ngài chân danh Vô thượng.
  5. Rồi ta sẽ tán thán,
    Nàga này cho người,
    Nàga không làm ác,
    Nên được gọi Nàga,
    Từ tốn, không làm hại,
    Là hai chân Nàga.
  6. Chánh niệm và tỉnh giác,
    Hai chân khác Nàga,
    Voi Nàga là tín,
    Ngà màu trắng là xả
  7. Chánh niệm là cổ họng,
    Trí tuệ chỉ cho đầu,
    Suy tầm với cái vòi,
    Chỉ cho tư duy pháp.
    Hòa trú là bụng pháp,
    Viễn ly ví đuôi voi.
  8. Tu thiền, thở vô lạc,
    Nội tâm, khéo định tỉnh,
    Nàga đi, định tỉnh,
    Nàga đứng, định tỉnh.
  9. Nàga nằm, định tỉnh,
    Nàga ngồi, định tỉnh,
    Trong tất cả tình huống,
    Nàga sống chế ngự
    Ðây thành tích Nàga.
  10. Ăn đồ ăn không tội,
    Ðồ có tội không ăn;
    Ðược đồ ăn, y phục,
    Từ bỏ, không tích trữ.
  11. Kiết sử tế hay thô,
    Chặt đứt mọi trói buộc,
    Chỗ nào vị ấy đi,
    Bước đi, không kỳ vọng.
  12. Như sen sanh trong nước,
    Lớn lên được tăng trưởng,
    Không có dính nước ướt,
    Thơm ngát, rất khả ái.
  13. Cũng vậy bậc Chánh Giác,
    Sanh và trú ở đời,
    Không có dính sự đời,
    Như sen không dính nước.
  14. Như đống lửa cháy đỏ,
    Không củi tự tắt dần,
    Trong than tro lắng dịu,
    Ðược gọi lửa diệt tận.
  15. Ví dụ, bậc trí thuyết,
    Ðể nêu rõ ý nghĩa,
    Ðại Nàga sẽ hiểu,
    Những gì về Nàga,
    Do Nàga ấy giảng.
  16. Vô tham và vô sân,
    Vô si, không lậu hoặc,
    Nàga từ bỏ thân,
    Sẽ diệt độ Niết-bàn,
    Không còn có lậu hoặc.

Chương XVI

-ooOoo-

Phẩm Hai Mươi Kệ

(CCXLVIII) Adhimutta (Thera. 71)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh là con người chị của Trưởng lão Sankicca. Ngài xuất gia dưới sự hướng dẫn của cậu ngài, và khi còn là Sa-di, đã chứng quả A-la-hán. Sống hưởng an lạc giải thoát, ngài muốn thọ Ðại giới và đi về nhà để xin phép bà mẹ. Khi ngài đi, ngài bị các kẻ cướp bắt ngài và muốn dâng ngài để tế thần. Các tên cướp tấn công ngài nhưng ngài đứng, không khuất phục. Tên tướng cướp lấy làm ngạc nhiên, tán thán ngài và nói:

  1. Vì mục đích tế đàn,
    Hoặc vì đích tài sản,
    Những người chúng tôi giết,
    Từ trước cho đến nay,
    Không ai không sợ hãi,
    Họ run sợ, rên xiết.
  2. Nhưng ngài không khiếp sợ,
    Dung sắc càng hòa duyệt,
    Vì sao ngài không than,
    Trong đại nạn như vậy.

Adhimutta trả lời:

  1. Chủ cướp! Tâm không khổ,
    Với người không kỳ vọng,
    Mọi sợ hãi vượt qua,
    Với người kiết sử đoạn.
  2. Nhờ đoạn nhân sanh hữu,
    Pháp được thấy như thật,
    Ðối chết, không sợ hãi,
    Nhờ gánh nặng đặt xuống.
  3. Phạm hạnh ta khéo hành,
    Con đường khéo tu tập,
    Ta không có sợ chết,
    Khi bệnh hoạn được diệt.
  4. Phạm hạnh ta khéo hành,
    Con đường khéo tu tập,
    Hũu được thấy không ngọt,
    Như bỏ độc dược uống.
  5. Bờ kia đến, không thủ,
    Việc làm xong, vô lậu,
    Bằng lòng, thọ mạng diệt,
    Như thoát lò sát sinh.
  6. Pháp tánh đạt, tối thượng,
    Ở đời, tuyệt sở hữu.
    Như thoát ngôi nhà cháy,
    Trong chết không sầu muộn.
  7. Phàm có vật tụ họp,
    Ðược sanh hữu chỗ nào,
    Tuyệt đường mọi xuất ly,
    Ðại ẩn sĩ nói vậy.
  8. Ai hiểu rõ như vậy,
    Như đức Phật đã thuyết,
    Không còn nắm sanh hữu,
    Như hòn sắt cháy đỏ.
  9. Quá khứ ta không có,
    Tương lai, hiện tại không,
    Các hành không thực hữu,
    Ở đây, than khóc gì?
  10. Thanh tịnh pháp sanh khởi,
    Thanh tịnh hành tiếp tục,
    Bậc thấy được như thật,
    Không sợ hãi, thưa ngài.
  11. Với tuệ, thấy thế giới,
    Giống như cỏ, thân cây,
    Không có tánh ngã sở,
    Không sầu muộn, không ngã.
  12. Ta nhàm chán thân sắc,
    Không ham có sanh hữu,
    Khi thân này hoại diệt,
    Sẽ không có thân khác.
  13. Với thân ta, ngươi làm,
    Hãy làm như ý muốn,
    Ta không vì duyên ấy,
    Sẽ khởi lên sân, ái.
  14. Kẻ ấy nghe nói vậy,
    Hy hữu, lông dựng ngược,
    Quăng bỏ cả đao kiếm,
    Thanh niên nói với ta.
  15. Tôn giả hành hạnh gì,
    Ai Ðạo Sư Tôn giả,
    Ngài theo lời ai dạy,
    Ðược tánh không sầu não?

Adhimutta:

  1. Bậc toàn trí, toàn kiến,
    Thắng giả, giáo sư ta,
    Ðại từ bi Ðạo Sư,
    Y vương toàn thế giới.
  2. Pháp này vị ấy giảng,
    Ðưa đến đạt vô thượng,
    Theo lời dạy vị ấy,
    Ðược tánh không sầu não.
  3. Kẻ cướp nghe đại sĩ,
    Khéo thuyết giảng như vậy,
    Chúng liền quăng vất bỏ,
    Ðao gươm và vũ khí,
    Một số bỏ nghề chúng,
    Một số xin xuất gia.
  4. Sau khi chúng xuất gia,
    Trong giáo pháp Thiện Thệ,
    Họ tu tập Giác Chi,
    Năm lực, thành bậc trí.
    Tâm hân hoan, ý mãn,
    Các căn cảm xúc được,
    Niết-bàn đạo, vô vi.

(CCXLIX) Pàràpariya (Thera. 72)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Sàvatthi, làm một con Bà-la-môn nổi tiếng, và khi lớn lên ngài được gọi theo tên gia tộc Pàrapara là Pàràpariya. Ðược khéo giáo dục về văn hệ Bà-la-môn, một hôm ngài đi đến tịnh xá Jetavana trong khi Thế Tôn đang thuyết pháp, và đến ngồi nghe, gần phía bên ngoài hội chúng. Bậc Ðạo Sư, nhận xét tâm tánh ngài, dạy kinh ‘Căn tu tập Indriyabhàvanà’, nghe xong, ngài khởi lòng tin, xin xuất gia. Sau khi học kinh này thuộc lòng, ngài suy tư trên ý nghĩa, nghĩ rằng: ‘Trong những bài kệ, ý nghĩa được xuất hiện như thế này, thế này’. Sau khi suy tư về vấn đề các căn cảm thọ, ngài phát triển thiền quán và sau một thời gian, ngài chứng quả A-la-hán. Về sau, ngài nói lên thiền định của ngài với những bài kệ như sau:

  1. Khi Tỷ-kheo tên là,
    Pàràpariya,
    Ngồi độc cư một mình,
    Viễn ly, tu thiền định,
    Những tâm tư như sau,
    Ðược khởi lên nơi ngài:
  2. Có gì là thứ lớp,
    Là giới cấm, động tác?
    Con người làm phận mình,
    Không làm hại một ai?
  3. Các căn của loài Người,
    Làm lợi ích, làm hại,
    Không hộ trì, làm hại,
    Có hộ trì, làm lợi.
  4. Người chế ngự các căn,
    Nguời phòng hộ các căn,
    Người làm bổn phận mình,
    Không làm hại một ai.
  5. Con mắt đi đến sắc,
    Không chế ngự ngăn chận,
    Không thấy các nguy hiểm,
    Vị ấy không thoát khổ.
  6. Lỗ tai đi đến tiếng,
    Không chế ngự ngăn chặn,
    Không thấy sự nguy hiểm,
    Vị ấy không thoát khổ.
    732. Không thấy sự xuất ly,
    Thọ hưởng các mùi hương,
    Vị ấy không thoát khổ,
    Vì tham đắm các hương.
  7. Nhớ chua ngọt tối thượng,
    Nhớ vị đắng tối thượng,
    Bị ái vị nô lệ,
    Tâm không thể giác tỉnh.
  8. Tưởng nhớ các cảm xúc,
    Ðẹp đẽ và khoái cảm,
    Ðam mê, duyên tham ái,
    Gặp nhiều loại đau khổ.
  9. Ý đối các pháp này
    Tất cả là năm pháp,
    Không có thể phòng hộ,
    Khổ đi theo vị ấy.
  10. Phần lớn các thân xác,
    Ðầy tràn mủ và máu,
    Do người thù thắng làm,
    Thành hộp đẹp tô màu.
  11. Cay đắng như vị ngọt,
    Khổ do khả ái buộc,
    Như dao bén dính mật,
    Kẻ tham đâu có biết.
  12. Ai tham đắm nữ sắc,
    Nữ vị, nữ xúc chạm,
    Ai mê say nữ hương,
    Gặp nhiều loại đau khổ.
  13. Mọi dòng từ nữ nhân,
    Năm loại tràn năm xứ,
    Người có tinh tấn lực,
    Có thể ngăn chận chúng.
  14. Người có đích, trú pháp,
    Người thiện xảo, sáng suốt,
    Hoan hỷ làm nghĩa vụ,
    Liên hệ đến pháp, nghĩa.
  15. Chìm trong việc lợi tạm,
    Hãy bỏ việc không lợi,
    Nếu nó nghĩ việc ấy,
    Không phải việc nên làm,
    Vị ấy không phóng dật,
    Sáng suốt thấy rõ vậy.
  16. Nếu là việc làm tốt,
    Hân hoan hành đúng pháp,
    Hãy nắm việc làm ngay,
    Ðấy thật lạc tối thượng.
  17. Với phương tiện cao thấp,
    Lừa dối các người khác,
    Ðánh giết, làm sầu khổ,
    Hung bạo, áp đảo người.
  18. Như người mạnh đẽo gỗ,
    Dùng nêm đánh bật nêm,
    Cũng vậy là kẻ thiện,
    Dùng căn đánh bật căn.
  19. Tu tập tín, tấn, định,
    Huấn luyện niệm, trí tuệ,
    Dùng năm đánh đổ năm,
    Không tỳ vết bước tới.
  20. Là vị Bà-la-môn,
    Người có đích, trú pháp,
    Làm theo giáo huấn Phật,
    Làm toàn diện, toàn lực,
    Người ấy hưởng an lạc.

(CCL) Kelakàni (Thera. 298)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trước đức Phật ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn và đặt tên là Kelakàni. Quá kinh nghiệm về những vấn đề quá khứ, ngài chán nản dục vọng và xuất gia làm người du sĩ ngoại đạo.Tìm sự giải thoát tinh thần, ngài giao du nhiều chỗ, nghĩ rằng ai ở đời này đã đến được bờ bên kia. Ngài hỏi rất nhiều Sa-môn và Bà-la-môn nhưng không được trả lời thỏa đáng. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đã ra đời, đang chuyển Pháp Luân, đem lại hạnh phúc cho chúng sanh. Một hôm, Kelakàni nghe đức Phật thuyết pháp, khởi lòng tin, được xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Một hôm, ngồi với các Tỷ-kheo, nhớ đến sự khó nhọc tìm đạo và chứng đạo của mình, ngài tuyên bố với chúng Tỷ-kheo như sau:

  1. Lâu ngày, đầy nhiệt tình,
    Ta suy tư Chánh pháp,
    Hỏi Sa-môn, Phạm chí,
    Nhưng tâm không an tịnh.
  2. Ở đời, ai đã đến,
    Ðến được bờ bên kia,
    Ai đã chứng đạt được,
    Lặn sâu vào bất tử,
    Pháp ai ta chấp nhận,
    Pháp thông đệ nhất nghĩa.
  3. Mắc lưỡi câu bên trong,
    Như cá ăn mồi tục,
    Ta bị bắt, bị trói,
    Chẳng khác A-tu-la,
    Tên Vê-pa-xi-li,
    Bị lưới Ðế Thích trói.
  4. Ta kéo lê xiềng xích,
    Không sao thoát sầu bi,
    Ai cởi trói cho ta,
    Giúp ta chứng Chánh giác.
  5. Sa-môn, Phạm chí nào,
    Nói cách hủy hoại chúng,
    Pháp ai ta chấp nhận,
    Giúp từ bỏ già chết,
  6. Bị nghi hoặc trói buộc,
    Bị hăng say chi phối,
    Khiến tánh tình phẫn nộ,
    Khiến tâm tư cứng rắn,
    Bị xâu xé cắt đứt,
    Bởi lòng tham mạnh mẽ.
  7. Bị cung ái bắn trúng,
    Ba mươi kiến trói buộc,
    Xem sức mạnh ngực ta,
    Bị áp đè, vẫn vững,
  8. Các tùy kiến không đoạn,
    Các tư niệm dao động,
    Bị chúng đâm, ta run,
    Như lá bị gió thổi,
  9. Khởi lên từ nội tâm,
    Ðốt cháy nhanh ngã sở,
    Thân với sáu xúc xứ,
    Ngã hữu từ đấy sanh.
  10. Ta không thấy lương y,
    Rút mũi tên cho ta,
    Dùng cách khác dò tìm,
    Không dùng dao thăm dò.
  11. Có vị lương y nào,
    Không dao, không vết thương,
    Không hại đến tay chân,
    Rút mũi tên cho ta,
    Mũi tên đã đâm vào,
    Trong nội tâm của ta,
  12. Bậc Pháp chủ tối tôn,
    Loại trừ thuốc độc hại,
    Khi ta rơi vực sâu,
    Ðưa tay giúp đỡ ta,
    Tới đất liền an toàn.
  13. Ta lặn sâu trong hồ,
    Ðầy bụi bùn không thoát,
    Ðầy man trá, tật đố,
    Căng thẳng và hôn ám.
  14. Sấm trạo cử nổ vang,
    Mây kiết sử bao phủ,
    Thác nước tà tư duy,
    Liên hệ đến tham dục,
    Chúng lôi cuốn trôi ta,
    Vào đại dương tà kiến.
  15. Khắp nơi, dòng suối chảy,
    Cây leo đứng, đâm chồi,
    Ai chận đứng dòng ấy?
    Ai chặt đứt cây leo?
  16. Tôn giả hãy làm đê,
    Ngăn chận những dòng suối,
    Chớ có để dòng nước,
    Do ý sanh cuốn ngài,
    Như dòng nước cuốn gấp,
    Trôi cây chảy theo dòng.
  17. Cũng vậy ta sợ hãi,
    Bờ này tìm bờ kia,
    Khi ấy bậc Ðạo Sư,
    Có Thánh chúng hầu hạ,
    Với binh khí trí tuệ,
    Chờ y chỉ cho người.
  18. Ðưa ta, đang chìm đắm,
    Chiếc cầu thang, khéo làm,
    Phật thanh tịnh, vững chắc,
    Làm bằng lõi Chánh pháp,
    Rồi ngài nói với ta,
    Chớ có sợ hãi gì!.
  19. Leo lên lầu niệm xứ,
    Từ đấy ta quán sát,
    Loài Người ưa thân kiến,
    Trước đây, ta tự hào.
  20. Khi ta thấy con đường,
    Con thuyền cần leo lên,
    Ta không trú tự ngã,
    Vì thấy bến tối thượng.
  21. Mũi tên khởi tự ngã,
    Sanh do nhân sanh hữu
    Ngài dạy đường tối thượng,
    Chấm dứt các pháp ấy.
  22. Cột gút đã lâu ngày,
    ẩn nằm, trú trong da,
    Ðức Phật cởi, quăng đi,
    Loại bỏ mọi độc hại.

(CCLI) Ratthapàla (Thera. 75)

Trong thời Ðức Phật hiện tại, ngài sanh ra ở nước Kuru, trong thành phố Thullakotthita, con của một hội viên hội đồng thành phố tên Ratthapàla và được gọi theo tên gia tộc, ngài được sống trong nhung lụa, lớn lên được gả vợ và sống như một thiên thần. Khi đức Phật đến thuyết pháp ở Thullakotthila, Ratthapàla đến nghe giảng, khởi lòng tin, xin cha mẹ được xuất gia rất khó khăn. Ði đến bậc Ðạo Sư, ngài được thọ giới với một Tỷ-kheo theo lời giới thiệu của đức Phật, tu học rất tinh tấn, phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Rồi ngài được phép về thăm cha mẹ, đi đến Thullakotthita và đi khất thực từng nhà. Ðến nhà cha mẹ, ngài nhận được cơm chua đã lâu ngày nhưng ngài vẫn ăn như là đồ ăn bất tử. Ngày sau, theo lời mời của người cha, ngài đến thăm nhà và các người vợ trước của ngài, ăn mặc rất đẹp đẽ, hỏi ngài, vì những thiên nữ nào, ngài đã xuất gia. Ngài thuyết pháp cho họ về vô thường v.v… từ khước những hành vi cám dỗ của họ:

  1. Hãy xem bóng trang sức,
    Nhóm vết thương tích tụ,
    Bệnh hoạn, nhiều tham tưởng,
    Nhưng không gì trường cửu.
  2. Hãy nhìn sắc trang sức,
    Với châu báu, vòng tai,
    Bộ xương, da bảo phủ,
    Sáng chói nhờ y phục.
  3. Chân sơn với son, sáp,
    Mặt thoa với phấn bột,
    Chỉ mê hoặc kẻ ngu,
    Không mẹ bậc cầu giác.
  4. Tóc được uốn tám vòng,
    Mắt xoa với thuốc son,
    Chỉ mê hoặc kẻ ngu,
    Không mê bậc cầu giác.
  5. Như hộp thuốc mới sơn,
    Uế thân được trang điểm,
    Chỉ mê hoặc kẻ ngu,
    Không mẹ bậc cầu giác.
  6. Thợ săn bày lưới sập,
    Nai khôn không chạm lưới,
    Ăn mồi xong, ta đi,
    Mặc kẻ bắt nai khóc.
  7. Bẫy thợ săn bị cắt,
    Nai khôn không chạm lưới,
    Ăn mồi xong, ta đi,
    Mặc kẻ săn nai sầu.

Rồi Ratthapàla đi ngang qua hư không đến vườn nai của vua Koravya và ngồi trên một phiến đá. Người cha của ngài cho đóng chốt then cài cả bảy cái cửa, và cắt người giữ ngài không cho đi, lại lấy chiếc y vàng của ngài và choàng vào ngài y trắng của người cư sĩ. Do vậy ngài phải đi ngang qua hư không. Rồi vua Koravya, nghe ngài đã đến vườn nai, liền chào ngài và hỏi: ‘Thưa Tôn giả, ở đời người ta xuất gia vì một vài tai họa, như bệnh hoạn, như tai họa từ nhà vua, về tài sản, về gia đình. Ngài không có một tai họa gì, sao ngài lại xuất gia?’. Vị trưởng lão trả lời: ‘Thế giới là vô thường, không có gì trường cửu. Thế giới không có nơi nương tựa, thiếu thốn, không có thỏa mãn, làm nô lệ cho khát ái’. Rồi ngài nói lên những bài kệ như sau:

  1. Ta thấy người đời giàu,
    Ðược tiền, si không cho,
    Vì tham, cất chứa tiền,
    Chạy theo dục càng nhiều.
  2. Vua dùng lực chiếm đất,
    Chiếm ở đến bờ biên,
    Biên bên này chưa thỏa,
    Còn muốn biên bờ kia.
  3. Vua và rất nhiều người,
    Ai chưa chết, đã chết,
    Tái sanh, bị thiếu thốn,
    Chúng từ bỏ thân này,
    Nhưng ở đời lòng dục,
    Không bao giờ thỏa mãn.
  4. Bà con than khóc nó,
    Tóc xõa, rối tơ vò,
    Chúng nói: Ôi chúng ta,
    Không có được bất tử,
    Thân trùm vải, chúng mang,
    Dựng giàn hỏa, chúng thiêu.
  5. Bị cây đâm, cây thọc,
    Nó bị thiêu bị cháy,
    Chỉ với một tấm vải,
    Từ bỏ mọi tài sản,
    Kẻ chết không nương tựa,
    Bà con, bạn láng giềng.
  6. Kẻ thừa tự mang đi,
    Tài sản gia nghiệp nó.
    Riêng con người phải đi,
    Theo chỗ, nghiệp nó tạo,
    Tài sản không có đi,
    Ði theo người đã chết,
    Không con trai, không vợ,
    Không tài sản, quốc độ.
  7. Tài sản không làm sao,
    Mua được tuổi trường thọ;
    Phú quý nào có thể,
    Tránh khỏi được già suy.
    Bậc có trí nói rằng:
    Mạng sống này ít ỏi,
    Thật sự là vô thường,
    Luôn luôn bị biến hoại.
  8. Giàu, nghèo đều cảm xúc,
    Ngu, trí đồng cảm thọ,
    Kẻ ngu bị ngu đánh,
    Ngã quỵ, nằm dài xuống.
    Còn bậc trí không sợ,
    Ðối với mọi cảm xúc.
  9. Do vậy tuệ thắng tài,
    Nhờ tuệ đạt viên mãn,
    Chưa đạt được cứu cánh,
    Ðối với hữu, phi hữu,
    Kẻ ngu làm các nghiệp,
    Ác độc và bất thiện.
  10. Nhập thai, sanh đời khác,
    Luân hồi, tiếp tục sanh,
    Kẻ ít trí, tin tưởng,
    Nhập thai, sanh đời khác.
  11. Như kẻ trộm bị bắt,
    Quả tang, khi ăn trộm,
    Do nghiệp tự chính nó,
    Bị hại theo ác tội,
    Cũng vậy sau khi chết,
    Quần chúng trong đời sau,
    Do nghiệp tự chính nó,
    Bị hại theo ác tội.
  12. Các dục thật đẹp đẽ,
    Vị ngọt và khả ái,
    Chúng làm tâm đắm say,
    Với sắc và phi sắc,
    Do thấy sự nguy hiểm,
    Trong các dục công đức,
    Do vậy tôi xuất gia,
    Như vậy thưa Ðại vương,
  13. Như trái cây rụng xuống,
    Cũng vậy tuổi thanh niên,
    Lớn lên và già yếu,
    Rồi thân hoại mạng chung,
    Thấy vậy tôi xuất gia,
    Như vậy thưa Ðại vương,
    Ðời sống Sa-môn hạnh,
    Chơn thật, tốt đẹp hơn.
  14. Tín tâm tôi xuất gia,
    Vào giáo hội bậc thánh,
    Tôi xuất gia không tội,
    Không nợ, tôi thọ thực.
  15. Thấy dục như lửa hừng,
    Thấy vàng như dao đâm,
    Xem nhập thai là khổ,
    Họa lớn trong địa ngục.
  16. Thấy nguy hiểm như vậy,
    Ta cảm thấy hoảng sợ,
    Khi bị đâm, bị thương,
    Ta đạt được tịch tịnh,
    Và ta tận diệt được,
    Cả ba loại lậu hoặc.
  17. Ðạo Sư, ta hầu hạ,
    Lời Phật dạy, làm xong,
    Gánh nặng, đặt xuống thấp,
    Gốc sanh hữu, nhổ sạch.
  18. Vì đích gì xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Mục đích ấy ta đạt,
    Mọi kiết sử tận diệt.

(CCLII) Màlunkyaputta (Thera. 77).

Ðời sống của ngài được ghi trong chương VI (CCXIV) khi bậc Trưởng lão đã chứng quả A-la-hán, nói lên bài kệ để dạy cho các bà con về con đường. Nhưng trong những bài kệ này, bậc Trưởng lão chưa chứng quả A-la-hán, hỏi Thế Tôn về giáo lý vắn tắt, và được Thế Tôn trả lời:

– Này Màlunkyaputta, Ông nghĩ thế nào? Những pháp mà Ông chưa bao giờ thấy nghe, ngửi, nếm, cảm xúc, và nhận thức, hiện tại Ông không có lãnh thọ và đối với chúng, Ông cũng không muốn có cảm thọ và suy tưởng, vậy Ông có ước muốn, tha thiết được chúng hay không?’.

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Ở đây, này Màlunkyaputta, khi Ông không có cảm thọ, cảm tưởng chúng,Ông chỉ có thọ và tưởng thuần túy. Nếu là như vậy, thời Ông không có tham, sân, si. Do vậy, ở đây hay tại chỗ nào, hay đời sau chính như vậy, như vậy là sự chấm dứt đau khổ. Rồi Màlunkyaputta, nêu rõ ngài đã thâu nhận giáo lý được giảng dạy này, ngài nói lên trong những bài kệ như sau:

  1. Thấy sắc, niệm say mê,
    Nếu tác ý ái tưởng,
    Tâm tham đắm cảm thọ,
    Tâm nhập và an trú.
  2. Thọ người ấy tăng trưởng,
    Nhiều loại, do sắc sanh,
    Tham, hại tâm lớn mạnh,
    Chúng gia hại tâm nó,
    Khổ chất chứa như vậy,
    Rất xa vời Niết-bàn.
  3. Nghe tiếng, niệm say mê,
    Nếu tác ý ái tưởng,
    Tâm tham đắm cảm thọ,
    Xâm nhập và an trú.
  4. Thọ người ấy tăng trưởng,
    Nhiều loại, do tiếng sanh,
    Tham, hại tâm lớn mạnh,
    Chúng gia hại tâm nó,
    Khổ chất chứa như vậy,
    Rất xa vời Niết-bàn.
  5. Ngửi hương, niệm say mê,
    Nếu tác ý ái tưởng,
    Tâm tham đắm cảm thọ,
    Xâm nhập và an trú.
  6. Thọ người ấy tăng trưởng,
    Nhiều loại do hương sanh,
    Tham, hại tâm lớn mạnh,
    Chúng gia hại tâm nó.
    Khổ chất chứa như vậy,
    Rất xa vời Niết-bàn.
  7. Nếm vị, niệm say mê,
    Nếu tác ý ái tưởng,
    Tâm tham đắm cảm thọ,
    Xâm nhập và an trú.
  8. Thọ người ấy tăng trưởng,
    Nhiều loại do vị sanh,
    Tham, hại tâm lớn mạnh,
    Chúng gia hại tâm nó,
    Khổ chất chứa như vậy,
    Rất xa vời Niết-bàn.
  9. Cảm xúc, niệm say mê,
    Nếu tác ý ái tưởng,
    Tâm tham đắm cảm thọ,
    Xâm nhập và an trú.
  10. Thọ người ấy tăng trưởng,
    Nhiều loại, do xúc sanh,
    Tham, hại tâm lớn mạnh,
    Chúng gia hại tâm nó,
    Khổ chất chứa như vậy,
    Rất xa vời Niết-bàn.
  11. Biết pháp, niệm say mê,
    Nếu tác ý ái tưởng,
    Tâm tham đắm cảm thọ,
    Xâm nhập và an trú.
  12. Thọ người ấy tăng trưởng,
    Nhiều loại do ý sanh,
    Tham, hại tâm lớn mạnh,
    Chúng gia hại tâm nó,
    Khổ chất chứa như vậy,
    Rất xa vời Niết-bàn.
  13. Không tham nhiễm các sắc,
    Thấy sắc, giữ chánh niệm,
    Tâm không tham cảm thọ,
    Không xâm nhập, an trú.
  14. Thấy sắc như thế nào,
    Như vậy có cảm thọ,
    Từ bỏ không tích lũy,
    Chánh niệm, hành trì vậy.
  15. Như vậy, không chứa khổ,
    Ðược gọi gần Niết-bàn,
    Không tham nhiễm các tiếng,
    Nghe tiếng, giữ chánh niệm,
    Tâm không tham cảm thọ,
    Không xâm nhập an trú.
  16. Nghe tiếng như thế nào,
    Như vậy có cảm thọ,
    Từ bỏ không tích lũy,
    Chánh niệm, hành trì vậy.
    Như vậy không chứa khổ,
    Ðược gọi gần Niết-bàn.
  17. Không tham nhiễm các hương,
    Ngửi hương, giữ chánh niệm,
    Tâm không tham cảm thọ,
    Không xâm nhập an trú.
  18. Ngửi hương như thế nào,
    Như vậy, có cảm thọ,
    Từ bỏ, không tích lũy,
    Chánh niệm, hành trì vậy,
    Như vậy, không chứa khổ,
    Ðược gọi, gần Niết-bàn.
  19. Không tham nhiễm các vị,
    Nếm vị, giữ chánh niệm,
    Tâm không tham cảm thọ,
    Không xâm nhập, an trú.
  20. Nếm vị như thế nào,
    Như vậy, có cảm thọ,
    Từ bỏ, không tích lũy,
    Chánh niệm, hành trì vậy.
    Như vậy không chứa khổ,
    Ðược gọi, gần Niết-bàn.
  21. Không tham nhiễm các xúc,
    Cảm xúc giữ chánh niệm,
    Tâm không tham cảm thọ,
    Không xâm nhập, an trú.
  22. Cảm xúc như thế nào,
    Như vậy, có cảm thọ,
    Từ bỏ, không tích lũy,
    Chánh niệm, hành trì vậy.
    Như vậy không chứa khổ,
    Ðược gọi, gần Niết-bàn.
  23. Không tham nhiễm các pháp,
    Biết pháp, giữ chánh niệm,
    Tâm không tham cảm thọ,
    Không xâm nhập, an trú.
  24. Cảm xúc như thế nào,
    Như vậy, có cảm thọ,
    Từ bỏ, không tích lũy,
    Chánh niệm, hành trì vậy.
    Như vậy, không chứa khổ,
    Ðược gọi, gần Niết-bàn.

Rồi vị Trưởng lão đứng dậy, đảnh lễ bậc Ðạo Sư, rồi ra đi không bao lâu sau đó, phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán.

(CCLIII) Sela (Thera. 78)

Ðược sanh trong thời đức Phật hiện tại ở Anguttaràpa, trong một gia đình Bà-la-môn, tại một làng Bà-la-môn ở Apana, ngài được đặt tên là Sela. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài sống ở đấy, rất giỏi về ba tập Vệ-đà và về nghệ thuật Bà-la-môn, dạy các Mantrà (thần chú) cho ba trăm thanh niên Bà-la-môn. Trong khi ấy Thế Tôn rời bỏ Sàvatthi, đang du hành ở Anguttaràpa với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỷ-kheo. Biết được tám tánh thuần thục của Sela và các đệ tử của ngài, đức Phật dừng lại tại một khu rừng. Rồi ẩn sĩ Keniya, sau khi mời bậc Ðạo Sư với chúng Tỷ-kheo dùng cơm vào ngày sau, đang sửa soạn rất nhiều món đồ ăn. Rồi Sela với ba trăm đệ tử đến thăm am thất và hỏi có phải Keniya đang sửa soạn để đón mừng vị Ðại thần của vua. Khi Keniya trả lời là sửa soạn thức ăn để mời đức Phật, Sela cảm thấy hết sức xúc cảm với chữ đức Phật, đi đến gặp ngay đức Phật với các thanh niên đệ tử của mình. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm, ngài chiêm ngưỡng các tướng tốt đức Phật và nghĩ rằng: ‘Một vị có những tướng tốt như vậy, một là sẽ thành vị Chuyển luân Thánh vương, hai là sẽ thành Phật’. Một vị Phật khi nghe tán thán về mình sẽ lộ rõ chân tướng Phật của mình. Còn nếu chưa thành Phật, khi nghe tán thán về đức Phật sẽ cảm thấy khó chịu và bất mãn. Ngài quyết định nói lên lời tán thán đức Phật như sau:

  1. Thân trọn đủ, chói sáng,
    Khéo sanh và đẹp đẽ,
    Thế Tôn sắc vàng chói,
    Răng trơn láng, tinh cần.
  2. Ðối với người khéo sanh,
    Những tướng tốt trang trọng,
    Ðều có trên thân Ngài,
    Tất cả Ðại nhân tướng.
  3. Mắt sáng, mặt tràn đầy,
    Cân đối, thẳng, hoàn mỹ,
    Giữa chúng Sa-môn Tăng,
    Ngài chói như mặt trời.
  4. Vị Tỷ-kheo đẹp mắt,
    Da sáng như vàng chói,
    Với hạnh Sa-môn Ngài,
    Cần gì sắc tối thượng.
  5. Ngài xứng bậc Ðại vương,
    Chuyển luân, xa luân chủ,
    Chiến thắng khắp bốn phương,
    Bậc chúa tể Diêm phù.
  6. Vương tộc, hào phú vương,
    Là chư hầu của Ngài,
    Là vua giữa các vua,
    Là giáo chủ loài Người,
    Hãy trị vì quốc độ,
    Tôn giả Gotama!

Thế Tôn vâng theo ý muốn của Sela, trả lời:

  1. Sela, Ta là vua!
    Bậc Pháp vương, Vô thượng,
    Ta chuyển bánh xe pháp,
    Bánh xe chưa từng chuyển.

Phạm chí Sela nói:

  1. Ngài tự nhận giác ngộ.
    Bậc Pháp vương, Vô thượng,
    Ta chuyển bánh xe pháp,
    Gotama nói vậy.
  2. Ai sẽ là tướng quân?
    Là đệ tử Tôn giả?
    Ai theo giữ truyền thống,
    Xứng đáng bậc Ðạo Sư?
    Sau Ngài ai sẽ chuyển,
    Pháp luân Ngài đã chuyển?

Tôn giả Sàriputta đang ngồi bên phải Thế Tôn, đầu chói sáng đẹp đẽ như một đống vàng. Thế Tôn chỉ Sàriputta và nói:

  1. Thế Tôn: Này Sela,
    Ta chuyển bánh xe pháp,
    Bánh xe pháp vô thượng,
    Chính Sàriputta,
    Chuyển bánh xe Chánh pháp,
    Thừa tự Như Lai vị.
  2. Cần biết, Ta đã biết,
    Cần tu, Ta đã tu,
    Cần đoạn, Ta đã đoạn,
    Do vậy, Ta là Phật,
    Hỡi này Bà-la-môn.
  3. Còn gì nghi ở Ta,
    Hãy gác bỏ một bên,
    Hãy giải thoát khỏi chúng.,
    Hỡi này Bà-la-môn.
  4. Thấy được bậc Chánh Giác,
    Thật thiên nan vạn nan,
    Bậc Chánh Giác ra đời,
    Thật thiên nan vạn nan,
    Ta là bậc Chánh Giác,
    Bậc Y vương Vô thượng,
    Hỡi này Bà-la-môn.
  5. Là Phạm thiên khó sánh,
    Nhiếp phục các Ma quân,
    Hàng phục mọi đối nghịch,
    Ta hân hoan không sợ.

Bà-la-môn Sela hoàn toàn tin tưởng vào Thế Tôn, muốn xuất gia và thưa rằng:

  1. Chư Tôn giả hãy nghe!
    Như bậc có mắt giảng,
    Bậc Y vương Ðại hùng,
    Sư rử rống trong rừng!
  2. Thấy Phạm thiên vô tỷ,
    Nhiếp phục các Ma quân,
    Ai lại không tín thành,
    Cho đến kẻ hạ tiện.
  3. Ai muốn, hãy theo ta,
    Không muốn hãy đi ra,
    Ở đây ta xuất gia,
    Với bậc Tuệ tối thượng.

Các thanh niên Bà-la-môn, vì đã đạt được những điều kiện cần thiết, trả lời:

  1. Nếu Tôn giả tín thành,
    Giáo pháp bậc Chánh Giác,
    Chúng con cũng xuất gia,
    Với bậc Tuệ tối thắng!

Sela hoan hỷ thấy các thanh niên Bà-la-môn san sẻ chí nguyện của mình, đưa chúng đến trước mặt Thế Tôn và xin được xuất gia:

  1. Ba trăm Phạm chí ấy,
    Chấp tay xin được phép,
    Chúng con sống Phạm hạnh,
    Do Thế Tôn lãnh đạo.

Rồi Thế Tôn, thấy được Sela trong các đời quá khứ, Sela cũng đã dạy cho ba trăm đệ tử này trông các giống phước và nay trong đời cuối cùng, đã tạo được tuệ quán cho mình và cho các đệ tử, thấy rằng chúng đã thuần thục để xuất gia:

  1. Thế Tôn đáp: Sela,
    Phạm hạnh được khéo giảng,
    Thiết thực ngay hiện tại,
    Vượt khỏi thời gian tính,
    Ở đây sự xuất gia,
    Không uổng công, hoang phí,
    Với ai không phóng dật,
    Tinh tấn chuyên tu học.

Thế Tôn nói: ‘Hãy đến, Tỷ-kheo!’ Rồi với thần lực của Bổn sư, tất cả đều có y và bình bát, đảnh lễ đức Phật, bắt đầu học thiền quán và chứng quả A-la-hán vào ngày thứ bảy.

Rồi các vị ấy đến đức Phật, nói lên trí giác của mình, và Sela thưa:

  1. Kính bạch bậc Pháp nhãn,
    Cách đây trước tám ngày,
    Chúng con đã đến Ngài,
    Xin phát nguyện quy y,
    Thế Tôn trong bảy đêm,
    Ðã nhiếp phục chúng con,
    Ðã chế ngự chúng con,
    Trong giáo lý của Ngài.
  2. Ngài là bậc Giác giả,
    Ngài là bậc Ðạo Sư,
    Ngài là bậc Mâu-ni,
    Ðã chiến thắng quân ma,
    Sau khi đã đoạn trừ,
    Vượt qua biển sanh tử,
    Ngài giúp quần sanh này,
    Cùng vượt qua bể khổ.

840 Sanh y Ngài vượt qua,
Lậu hoặc Ngài nghiền nát,
Ngài là sư tử chúa,
Không chấp, không sợ hãi.

  1. Ba trăm Tỷ-kheo này,
    Ðồng chấp tay đứng thẳng,
    Ôi anh hùng chiến thắng,
    Hãy duỗi chân bước tới,
    Hãy để các đại nhân,
    Ðảnh lễ bậc Ðạo Sư.

(CCLIV) Bhaddiya kàligodhàyaputta (Thera. 80)

Sanh trong thời đức Phật hiện tại, ở Kapilavatthu, trong một dòng họ Sàkya, ngài được đặt tên là Bhaddiya. Khi đã trưởng thành, ngài từ bỏ gia đình, cùng với Anuruddha và bốn vị hoàng tộc khác, khi bậc Ðạo Sư đang ở trong vườn xoài, tại Anupiy. Khi xuất gia, ngài chứng được quả A-la-hán. Ngài được đức Phật xác chứng là đệ nhất trong những Tỷ-kheo thuộc về hoàng tộc. Mỗi khi ngài hưởng lạc giải thoát, lạc Niết-bàn trong lúc ở trong rừng, dưới một gốc cây, trong cảnh rừng tịch tịnh, ngài thường thốt ra lời: ‘Ôi hạnh phúc làm sao! Ôi, hạnh phúc làm sao!’ Ðược đức Phật hỏi vì sao ngài thốt ra lời ấy, ngài trả lời khi ngài trị vì quốc độ của ngài, dầu ngài được bảo vệ chặt chẽ, ngài vẫn cảm thấy sợ hãi, hoảng hốt. Nhưng nay ngài đã từ bỏ tất cả, ngài không còn trong trạng thái sợ hãi nữa. Rồi trước mặt Thế Tôn, ngài rống lên tiếng rống con sư tử:

  1. Khi ta ngồi cổ voi,
    Mang đồ mặc tế nhị,
    Ăn gạo thật ngon thơm,
    Với món thịt khéo nấu.
  2. Nay hiền thiện, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  3. Áo lượm rác, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  4. Thường khất thực, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  5. Mặc ba y, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  6. Ði từng nhà, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  7. Ăn một bữa kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  8. Ăn trong bát, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  9. Không ăn thêm, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  10. Sống trong rừng, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  11. Ngồi gốc cây, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  12. Sống ngoài trời, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  13. Trú nghĩa địa, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  14. Tùy xứ trú, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  15. Sống thường ngồi, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  16. Ham muốn ít, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  17. Sống biết đủ, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  18. Hạnh viễn ly, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  19. Không giao du, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  20. Sống tinh cần, kiên trì,
    Vui đồ ăn đặt bát,
    Thiền tư, không chấp trước,
    Là con của Gô-dha.
  21. Từ bỏ bát quý giá,
    Bằng vàng, bằng nhựa quý,
    Ta lấy bát bằng đất,
    Ðây quán đảnh thứ hai.
  22. Vòng thành cao bảo vệ,
    Vọng lâu, cửa kiên cố,
    Với lính tay cầm gươm,
    Ta đã sống sợ hãi.
  23. Nay hiền thiện, không sợ,
    Bỏ run sợ kinh hãi,
    Thiền tư, vào rừng sâu,
    Là con của Gô-dha.
  24. An trú trên giới uẩn,
    Chánh niệm, tu tuệ quán,
    Thứ lớp ta đạt được,
    Mọi kiết sử đoạn diệt.

(CCLV) Angulimàlà (Thera. 80)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một Bà-la-môn tên Bhaggava, giữ chức cố vấn tôn giáo cho vua nước Kosala. Trong đêm ngài sanh, các binh khí trong thành phố rực sáng, các binh giáp của vua cũng rực sáng, thành thử khi vua nằm trên giường thấy như vậy nên không thể ngủ được, thao thức và sợ hãi. Vị cố vấn nghi lễ tìm hiểu các vì sao và kết luận con mình đã sanh trúng đám sao ăn trộm. Sáng sớm, ông đến chầu vua và hỏi vua ngủ có an giấc không? Vua trả lời vua ngủ không an giấc được, vì cả đêm thấy áo giáp chói sáng và hỏi điềm ấy là điềm gì? Vị cố vấn trả lời là do mình sanh đứa con, áo giáp cả thành phố đều chói sáng, và khi được biết đứa con sau này có thể trở thành tên tướng cướp độc thân có thể chế ngự được, nên vua tha cho khỏi bị giết.

Vì ngài sanh, làm tâm vua phiền muộn nên được gọi là Himsaka, và sau không thấy ngài làm hại ai nên được gọi là Ahimasaka. Do nghiệp đời trước, ngài có sức mạnh của bảy con voi. Khi ngài học với vị giáo sư đầu tiên ở Takhasilà, ngài hầu hạ rất thành kính vị giáo sư và bà vợ, nên thường được thấy ngài bên cạnh vị giáo sư và bà vợ trong những bữa ăn, vì vậy khiến các thanh niên Bà-la-môn khác ganh ghét, và xúi vị giáo sư chống lại Ahimsaka. Vì học trò mình có sức mạnh phi thường, vị giáo sự tìm một kế để ám hại học trò mình bằng cách bảo Ahimsaka trả tiền học phí cho mình bằng một ngàn ngón tay phải, nghĩ rằng nếu Ahimsaka đem lại một ngón tay thời cũng đủ làm hại đệ tử mình rồi. Lòng hung ác đè nén của Ahimsaka được nổi dậy, ngài mặc áo giáp, đi vào rừng Jàlinì ở Kosalu núp trên một đồi núi, theo dõi người đi đường, và khi nào thấy người đi qua, liền chạy xuống, chặt ngón tay họ, treo trên một cây cho đến khi các loài diều hâu rứt ăn hết thịt. Rồi dùng các ngón tay làm một vòng hoa, ngài đeo nơi cổ và từ đó được gọi là Angulimàlà (kẻ đeo vòng hoa bằng ngón tay). Khi vì hành động ấy, đường sá trở thành vắng người, ngài đi vào trong làng và làng trở thành trống không. Vua bèn sai một lực lượng quân đội đi bắt Angulimàlà. Mẹ của Angulimàlà khuyên chồng nên đi để bảo Angulimàlà hãy chấm dứt hành động như vậy, nhưng người chồng từ chối, không muốn liên hệ với một người con như vậy nên để mặc nhà vua làm. Bà mẹ vì thương con, khi thấy chồng từ chối liền soạn đồ lương thực và đi tìm Angulimàlà để ngăn chận không cho làm điều ác.

Rồi Thế Tôn suy nghĩ rằng, nếu Angulimàlà gặp mẹ, sẽ giết mẹ cho đủ một ngàn ngón tay; nay là đời sống cuối cùng của Angulimàlà, nếu đức Phật không can thiệp thời sẽ có thiệt hại lớn. Sau bữa ăn đức Phật đi trên con đường dẫn đến rừng Jàlinì dầu có nhiều người ngăn cản. Khi Angulimàlà thấy mẹ, ngài tính lấy ngón tay của mẹ cho đủ số một ngàn ngón tay, thời đức Phật đến và đi giữa Angulimàlà và người mẹ, Angulimàlà liền bỏ ý định giết mẹ và quyết định giết vị Sa-môn cho đủ túc số. Angulimàlà liền rút gươm đuổi theo đức Phật, nhưng dầu ngài cố gắng thế nào cũng không làm sao đuổi kịp, dầu đức Phật vẫn đi khoan thai nhẹ nhàng. Angulimàlà yêu cầu đức Phật đứng lại, đức Phật trả lời đức Phật đã đứng rồi, chính Angulimàlà cần phải đứng lại. Câu trả lời làm Angulimàlà khó hiểu, tin rằng các Sa-môn bao giờ cũng nói thật nên ngài hỏi đức Phật:

  1. Này Sa-môn, Ngài đi,
    Lại nói: ‘Ta đứng rồi’.
    Ta đứng, Ngài lại nói:
    ‘Sao nhà ngươi chưa đứng?’
    Sa-môn, ta hỏi Ngài,
    Về ý nghĩa việc này,
    Sao Ngài đã đứng lại,
    Còn ta lại còn đi.

Thế Tôn trả lời:

  1. Angulimàlà,
    Ta luôn luôn đã đứng,
    Với tất cả chúng sanh,
    Ta từ bỏ gậy trượng,
    Còn ông đối hữu tình,
    Chưa có tự chế ngự,
    Do vậy Ta đã đứng,
    Còn Ông thời chưa đứng.

Trong khi đức Phật đứng như vậy, chói sáng đức hạnh của mình, Angulimàlà nhớ lại những gì mình được nghe về đức Phật, tuệ quán đạt đến mức thuần thục, hoan hỷ thấm nhuần toàn thân, như một làn nước dâng trào toàn thế giới. Tự nói với mình: ‘Thật lớn thay, tiếng rống sư tử này. Chắc đây là Sa-môn Gotama đã đến đây để cứu độ ta’. Ngài nói:

  1. Ðã lâu con tôn kính,
    Bậc vĩ đại Tiên nhân,
    Nay bậc Sa-môn này,
    Ðã bước vào Ðại lâm,
    Con nay sẽ sẵn sàng,
    Từ bỏ ngàn điều ác,
    Sau khi nghe kệ Ngài,
    Liên hệ đến Chánh pháp.
  2. Nói xong, tên tướng cướp,
    Liền quăng bỏ cây kiếm,
    Quăng bỏ cả khí giới,
    Xuống vực núi thâm sâu.
    Tên tướng cướp đảnh lễ,
    Dưới chân bậc Thiện Thệ,
    Chính ngay tại chỗ ấy,
    Xin đức Phật xuất gia.
  3. Ðức Phật đại từ bi,
    Là bậc đại Tiên nhân,
    Ðạo Sư cả nhân giới,
    Cùng với cả thiên giới,
    Nói lên những lời này:
    Hãy đến, thiện Tỷ-kheo,
    Như vậy, đối vị ấy,
    Thành tựu Tỷ-kheo tánh.

Angulimàlà sau khi xuất gia tu hành, chứng quả rồi nói lên quả chứng của mình:

  1. Ai trước sống phóng dật,
    Sau sống không phóng dật,
    Chói sáng thế giới này,
    Như trăng thoát mây che.
  2. Ai trước làm nghiệp ác,
    Nay lấy thiện chận lại,
    Chói sáng thế giới này,
    Như trăng thoát mây che.
  3. Ai Tỷ-kheo còn trẻ,
    Chuyên tâm hành Phật dạy,
    Chói sáng thế giới này,
    Như trăng thoát mây che.

Như vậy, sống trong hạnh phúc giải thoát, ngài đi vào thành khất thực. Có người ném đá vào ngài, có người lấy gậy đánh vào đầu ngài, và ngài về tịnh xá với bình bát bị bể. Ðức Phật khuyên ngài nên nhẫn nại chịu khổ, vì nghiệp quả của ngài đáng phải thiêu sống ở địa ngục, nay chỉ chịu khổ như vậy thôi. Rồi ngài phát tâm từ bi đối với tất cả chúng sanh.

  1. Mong rằng kẻ thù ta
    Ðược nghe lời Chánh pháp,
    Mong rằng kẻ thù ta
    Chuyên tâm lời Phật dạy,
    Mong rằng kẻ thù ta
    Thân cận với những người
    Ðã đạt được an tịnh,
    Sống thọ trì Chánh pháp.
  2. Mong rằng kẻ thù ta,
    Thời thời được nghe pháp,
    Thuyết giảng về nhẫn nhục,
    Tán thán về nhu hòa,
    Và sở hành của họ,
    Phù hợp với Chánh pháp.
  3. Vị chúng sanh như vậy,
    Không có ám hại ta,
    Hay cũng không ám hại,
    Một người khác nào hết.
    Người ấy sẽ đạt được,
    Sự an tịnh tối thượng,
    Sẽ bảo vệ hộ trì,
    Người mạnh và kẻ yếu.
  4. Người trị thủy dẫn nước,
    Kẻ làm tên nắn tên,
    Người thợ mộc uốn gỗ,
    Bậc trí nhiếp tự thân.
  5. Có kẻ được điều phục,
    Bởi gậy, móc và roi,
    Vị ấy điều phục ta,
    Không dùng gậy, dùng kiếm.
  6. Ta được tên Vô Hại,
    Trước có tên Làm Hại,
    Nay ta tên Chân Thật,
    Ta không hại một ai.
  7. Trước ta là tên cướp,
    Lừng danh ‘vòng ngón tay’,
    Chìm đắm dòng nước lớn,
    Cho đến khi quy Phật.
  8. Trước tay ta lấm máu,
    Lừng danh, ‘vòng ngón tay’,
    Hãy xem, ta quy y,
    Nhổ lên gốc tái sanh.
  9. Làm xong nhiều nghiệp vậy,
    Dẫn đến sanh ác thú,
    Cảm thọ nghiệp dị thục,
    Thoát nợ, ta thọ thực.
  10. Những kẻ ngu vô trí
    Ðam mê sống phóng dật,
    Kẻ trí không phóng dật,
    Như bảo vệ vật báu.
  11. Chớ đam mê phóng dật,
    Chớ say đắm dục lạc,
    Không phóng dật, thiền tư,
    Ðạt được lạc tối thượng.
  12. Ðến ta điều tốt đẹp,
    Không tốt đẹp, không đến,
    Lời khuyên bảo cho ta,
    Không có gì không tốt,
    Trong các pháp phân biệt,
    Có mặt ở trên đời,
    Pháp gì tối thượng nhất,
    Ta chọn, ta chứng đạt.
  13. Ðến ta, điều tốt đẹp,
    Không tốt đẹp, không đến,
    Lời khuyên bảo cho ta,
    Không có gì không tốt,
    Ba minh ta đạt được,
    Lời Phật dạy, làm xong.

887.Trong rừng, dưới gốc cây,
Hay trên núi trong hang,
Tại chỗ ấy, ta trú,
Tâm tư thật hứng khởi.

  1. Thật an lạc, ta nằm,
    Thật an lạc, ta dậy,
    Tâm tư thuần an lạc,
    Là nếp sống của ta,
    Thoát khỏi cạm bẫy Ma,
    Ôi, Ðạo Sư từ mẫn!
  2. Trước ta sanh Phạm chí,
    Hai hệ, dòng họ cao,
    Nay ta con Thiện Thệ,
    Ðạo Sư, bậc Pháp vương.
  3. Ái ly, không chấp thủ,
    Căn hộ trì, chế ngự,
    Ðoạn bỏ gốc tà ác,
    Ta đạt lậu hoặc diệt.
  4. Ta hầu hạ Ðạo Sư,
    Lời Phật dạy làm xong,
    Gánh nặng đã đặt xuống,
    Gốc sanh hữu nhổ sạch.

(CCLVI) Anuruddha (Thera. 83)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Kapilavatthu, trong nhà dòng họ Sakya Amitodana và được đặt tên là Anuruddha.Anh của ngài là Thích-ca Mahànàma, con người cậu của đức Phật. Ngài được nuôi dưỡng rất tế nhị, mỗi mùa ở mỗi nhà khác nhau, có các vũ nữ vũ sư đoanh vây, thọ hưởng sự giàu sang thần tiên. Khi được gọi làm người bảo vệ cho bậc Ðạo Sư, ngài đi đến đức Phật, trong rừng xoài ở Anupiyà, thọ giới xuất gia, và trong mùa an cư mùa mưa, ngài chứng Thiên nhãn. Nhận được đề tài thiền quán từ ngài Xá-lợi-phất. Ngài đi đến rừng trúc ở phương Ðông, hành thiền quán, và chứng được bảy tư duy của một vị Ðại nhân, nhưng chưa chứng được tư duy thứ tám. Bậc Ðạo Sư nhận thấy vậy liền dạy cho ngài quá trình tu chứng của bậc Thánh. Nhớ lại lời dạy này, Anuruddha phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán cùng với thắng trí và vô ngại giải thù thắng. Ngài được Thế Tôn xác nhận là bậc Thiên nhãn đệ nhất. Và ngài sống trong an lạc giải thoát. Một hôm ôn lại quá trình tu chứng của mình, ngài hoan hỷ phấn khởi, và nói lên bài kệ sau đây:

  1. Bỏ cha mẹ, bà con,
    Bỏ anh em, chị em,
    Bỏ năm dục trưởng dưỡng,
    A-na-luật tu thiền.
  2. Sống hệ lụy múa, ca,
    Dạy với tiếng xập xỏa,
    Sống vậy không đạt được,
    Cảnh giới đạo thanh tịnh,
    Vì rằng ta ưa thích,
    Trong giới vực của Ma.
  3. Và ta vượt tất cả,
    Vui thích lời Phật dạy,
    Vượt mọi loại bộc lưu,
    A-na-luật tu thiền.
  4. Sắc, thanh, vị, hương, xúc,
    Hấp dẫn, rất thích ý,
    Vượt qua tất cả chúng,
    A-na-luật tu thiền.
  5. Ði khất thực trở về,
    Ðơn độc, vị ẩn sĩ,
    Tìm vải từ đống rác,
    A-na-luật đạt được,
    Không còn các lậu hoặc.
  6. ẩn sĩ thâu, lượm lấy,
    Giặt, nhuộm, và đắp mặc,
    Các vải từ đống rác,
    Sáng suốt, A-na-luật,
    Không còn các lậu hoặc.
  7. Nhiều dục, không biết đủ,
    Ưa giao du, tháo động,
    Những pháp này có mặt,
    Thuộc tà ác, uế nhiễm,
  8. Chánh niệm và ít dục,
    Biết đủ, không não loạn,
    Thích viễn ly, hân hoan,
    Thường tinh cần tinh tấn.
  9. Những pháp này có mặt,
    Thuần thiện Bồ đề phần,
    Vị ấy không lậu hoặc,
    Bậc Ðại tiên nói vậy.
  10. Biết tâm tư ta vậy,
    Thế gian Vô Thượng Sư,
    Với thân do ý tạo,
    Thần thông đến với ta.
  11. Tùy theo ta nghĩ gì,
    Ngài thuyết rõ tất cả,
    Phật không ưa hý luận,
    Ngài thuyết không hý luận.
  12. Ngộ pháp ta hoan hỷ,
    Trú trong giáo pháp Ngài,
    Ba minh chứng đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.
  13. Suốt năm mươi lăm năm,
    Ta không bao giờ nằm,
    Trong hai mươi lăm năm,
    Ðoạn dứt được ngủ nghỉ.
  14. Không thở vô thở ra,
    Bậc như vậy trú tâm,
    Không tham dục, tịch tịnh,
    Bậc có mắt Niết-bàn.
  15. Với tâm không dao động,
    Sống cảm thọ cuối cùng,
    Như ngọn lửa diệt tắt,
    Tâm Ngài được giải thoát.
  16. Nay chính những pháp này,
    Là những pháp cuối cùng,
    Những cảm xúc thứ năm,
    Của bậc Ðại Mâu-ni,
    Sẽ không còn pháp khác,
    Bậc Chánh giác Niết-bàn.

Rồi một Thiên nhân, trước kia là người hầu cận ngài, thấy ngài già và ốm, vì lòng thương ngài, yêu cầu ngài tái sanh ở chư Thiên. Ngài trả lời như sau:

  1. Nay không còn tái sanh
    Trong thế giới chư Thiên,
    Này kẻ gieo cạm bẫy.
    Dòng sanh tử, đoạn tận,
    Nay không còn tái sanh.

Rồi vị Tỷ-kheo khác, không thấy vị Thiên nhân, không hiểu bậc Trưởng lão nói với ai. Ðể nói lên thần thông của mình, ngài nói câu kệ:

  1. Ai trong thời gian ngắn
    Biết thế giới ngàn cõi,
    Vị ấy thật xứng đáng,
    Ðược sống giới Phạm thiên,
    Nhưng nay Tỷ-kheo ấy,
    Ðầy đủ thần thông lực,
    Thấy được thời gian nào,
    Chư Thiên chết và sanh.

Rồi ngài nói lên nghiệp trước của ngài:

  1. Ðời trước ta đã sống,
    Tên Annabhara,
    Bần cùng, phải làm lụng,
    Lo nuôi sống tự thân,
    Rồi ta đến cúng dường,
    Bậc Sa-môn danh tiếng,
    Sa-môn với xưng danh,
    Ngài Uparittha.
  2. Rồi ta được sanh trưởng,
    Trong dòng họ Thích-ca,
    Ta được biết với tên,
    Là Anuruddha,
    Sống hệ lụy múa ca,
    Dạy với tiếng xập xỏa.
  3. Ta thấy bậc Chánh giác,
    Bậc Ðạo Sư vô úy,
    Tín tâm khởi nơi Ngài,
    Ta xuất gia không nhà.
  4. Ta biết các đời trước,
    Trước ta sống chỗ nào,
    Giữa cõi Ba mươi ba,
    Ta sanh làm Ðế Thích.
  5. Bảy lần làm Nhân chủ,
    Ta trị vì quốc độ,
    Ta chinh phục bốn phương,
    Làm chúa châu Diêm phù,
    Không dùng gậy dùng gươm,
    Trị vì với Chánh pháp.
  6. Từ đây bảy bảy lần,
    Mười bốn lần luân hồi,
    Ta biết được đời sống,
    Khi ta trú thiên giới.
  7. Trong thiền định năm chi,
    Tâm an tịnh nhất tâm,
    Tâm ta được khinh an,
    Thiên nhãn ta thanh tịnh.
  8. Ta biết sanh và chết,
    Chỗ đến đi hữu tình,
    Ðời này và đời khác,
    Ta trú thiền năm chi.
  9. Ta hầu hạ Ðạo Sư,
    Lời Phật dạy làm xong,
    Gánh nặng đã đặt xuống,
    Gốc sanh hữu nhổ sạch.
  10. Tại làng Vê-lu-va,
    Giữa dân tộc Vajji,
    Ta đi đến đoạn diệt,
    Chấm dứt dòng sanh tử,
    Dưới bóng của khóm trúc,
    Ta sẽ nhập Niết-bàn,
    Không còn có lậu hoặc.

(CCLVII) Pàràpariya (Thera. 84)

Ðời sống của ngài đã được nói đến phẩm CCXLIX. Các kệ trước được nói lên khi đức Bổn Sư còn sống. Khi ngài chưa chứng quả A-la-hán, về vấn đề sáu lực (năm căn và ý). Những bài kệ sau đây được nói lên khi đức Bổn Sư đã viên tịch và khi ngài sắp sửa mệnh chung. Trong những bài kệ này, ngài nói lên tương lai của các Tỷ-kheo khi họ theo tà pháp.

Câu kệ đầu do các vị chép sớ đặt vào:

  1. Ðây là những tư tưởng
    Của một vị Sa-môn,
    Tại rừng gọi Ðại lâm,
    Khi rừng đang trổ hoa,
    Ngài ngồi chỉ một mình,
    Viễn ly, tâm thiền định.
  2. Khác thay, những uy nghi,
    Của những vị Tỷ-kheo,
    Khi bậc Tối thượng nhân,
    Bậc Thế Tôn còn sống,
    Còn nay điều được thấy,
    Thật sai khác đi nhiều.
  3. Y để ngăn gió lạnh,
    Ðể che điều xấu hổ,
    Họ thọ dụng tiết độ.
    Biết đủ, từ đâu đến.
  4. Vị ngon hay vị dở
    Ðược ít hay được nhiều,
    Họ thọ dụng món ăn,
    Chỉ cần nuôi mạng sống,
    Tâm không có tham lam,
    Cũng không có say đắm.
  5. Các đồ vật để sống,
    Hay các loại dược phẩm,
    Họ không quá tha thiết
    Như đối lậu hoặc diệt.
  6. Dưới gốc cây trong rừng,
    Hay trong hang trong động,
    Chuyên tâm tu viễn ly,
    Sống lấy vậy cứu cánh.
  7. Sống khiêm tốn giản dị,
    Nhu hòa, ý kham nhậm,
    Với cử chỉ tao nhã,
    Không nói năng quàng xiên,
    Tâm tư hướng lợi ích
    Cho mình và cho người.
  8. Do vậy sở hành họ,
    Thật dễ thương tốt lành,
    Khi họ đi, họ ăn,
    Khi họ thọ dụng gì,
    Cử chỉ uy nghi họ,
    Như dòng dầu trơn mướt.
  9. Mọi lậu hoặc đoạn tận,
    Ðại thiền, đại thiện lợi,
    Nay những Trưởng lão ấy,
    Ðã hoàn toàn Niết-bàn,
    Ngày nay thật ít vị,
    Giống như các vị ấy,
  10. Do thiện pháp, trí tuệ,
    Bị hao mòn tiêu diệt,
    Lời dạy bậc chiến thắng,
    Tổng hợp mọi tối thượng,
    Về dự án hình thức,
    Bị sụp đổ hao mòn.
  11. Các pháp thuộc tà ác,
    Thời đại bị uế nhiễm,
    Ðối với họ những vị,
    An trú trong viễn ly,
    Hy vọng được chứng ngộ.
    Các diệu pháp còn lại.
  12. Uế nhiễm họ tăng trưởng,
    ảnh hưởng xấu nhiều người,
    Họ hình như chơi giỡn,
    Với những kẻ ngu si,
    Như bọn quỷ La-sát,
    Ðùa giỡn với kẻ điên.
  13. Bị uế nhiễm chinh phục,
    Chạy theo nhiễm này nọ,
    Ðối với vật uế nhiễm,
    Họ như người la to,
    Những đồ vật lấy được.
  14. Từ bỏ chân diệu pháp,
    Họ cãi lộn với nhau,
    Họ chạy theo tà kiến,
    Họ nghĩ: ‘Ðây tốt hơn’.
  15. Từ bỏ, xoay lưng lại,
    Tài sản, con và vợ,
    Do nhân muổng đồ xin,
    Họ làm việc không xứng.
  16. Họ ăn đến đầy bụng,
    Họ nằm phơi ra ngủ,
    Sau khi thức, họ nói,
    Ðiều bậc Ðạo Sư trách.
  17. Mọi mỹ nghệ thủ công,
    Họ tôn trọng học tập,
    Nội tâm không an tịnh,
    Bỏ mặc hạnh Sa-môn.
  18. Ðất, dầu, các loại bột,
    Nước, chỗ ngồi, cơm ăn,
    Họ tặng cho cư sĩ,
    Hy vọng được nhiều hơn.
  19. Cây tăm để xỉa răng,
    Loại trái Ka-pit-tha
    Lá hoa để nhai ăn,
    Ðồ khất thực đầy đủ,
    Cùng các loại trái xoài,
    Và trái A-ma-lặc.
  20. Với các loại dược phẩm,
    Họ giống như thầy thuốc,
    Họ làm các công việc,
    Chẳng khác người thế tục,
    Họ trang sức y phục,
    Giống như các kỹ nữ.
    Họ tự tỏ quyền uy,
    Chẳng khác người hoàng tộc.
  21. Giả dối và lừa đảo,
    Ngụy chứng và man trá,
    Với rất nhiều thủ đoạn,
    Ðể thọ hưởng tài vật.
  22. Sử dụng cách lường gạt,
    Chạy theo những mưu chước,
    Dùng phương tiện sinh sống,
    Kéo về nhiều tài sản.
  23. Họ quy tụ hội chúng,
    Vì nghề, không vì pháp,
    Họ thuyết pháp quần chúng,
    Vì lợi , không vì nghĩa.
  24. Những người ngoài Tăng đoàn,
    Lại tranh luận cãi nhau,
    Về quyền lợi Tăng đoàn,
    Không tàm quý liêm sỉ,
    Họ tự mình nuôi sống,
    Với quyền lợi kẻ khác.
  25. Một số thiếu tín thành,
    Dầu đầu trọc đắp y,
    Mong muốn được kính trọng,
    Ham quyền lợi danh vọng.
  26. Như vậy, như hiện nay,
    Nhiều việc đã đọa lạc,
    Thật không còn dễ dàng,
    Như thời lúc trước nữa,
    Hoặc cảm xúc chứng đắc,
    Ðiều chưa được xúc chứng,
    Hoặc gìn giữ duy trì,
    Ðiều đã được xúc chứng.
  27. Như người không mang giày,
    Ði trên chỗ có gai,
    Luôn luôn giữ chánh niệm,
    Cũng vậy vị ẩn sĩ,
    Khi đi vào trong làng,
    Cần gìn giữ chánh niệm.
  28. Nhớ vị tu đời trước,
    Nhớ nếp sống của họ,
    Dầu nay thời hậu lai,
    Vẫn có thể xúc chứng,
    Con đường đạo bất tử.
  29. Như vậy vị Sa-môn,
    Trong rừng cây Sàla,
    Các căn có tu tập,
    Nói lên lời như vậy,
    Phạm chí nhập Niết-bàn,
    ẩn sĩ đoạn tái sanh.

Chương XVII

-ooOoo-

Phẩm Ba Mươi Kệ

(CCLVIII) Phussa (Thera. 87)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một vị vua trị vì một tỉnh, được đặt tên là Phussa, và được giáo dục trong mọi tài năng của thanh niên hoàng tộc. Nhưng ngài có tâm hướng khác thường, không thiên về thế tục, nên khi nghe một vị Trưởng lão thuyết pháp, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Tu tập thiền định, ngài phát triển thiền quán và sau một thời gian, chứng được sáu thắng trí.

Một hôm, một ẩn sĩ tên Pandara-gotta nghe ngài thuyết pháp, thấy xung quanh có một số Tỷ-kheo giới đức nghiêm minh, tu tập, chế ngự thân và tâm, vị ẩn sĩ suy nghĩ: ‘Hệ thống này thật đáng tin tưởng, mong rằng hệ thống này được tồn tại!’. Rồi vị ấy hỏi ngài về tương lai sự tiến bộ các Tỷ-kheo như thế nào? Ngài trả lời với những bài kệ như sau, riêng bài kệ 949 do các nhà kiết tập đặt thêm vào:

  1. ẩn sĩ Pan-đa-ra,
    Thấy nhiều vị thành tín,
    Tự ngã có tu tập,
    Khéo hộ trì chế ngự
    Ngài mới đặt câu hỏi,
    Với vị tên Phussa.
  2. Trong thời gian tương lai,
    Sẽ có ước muốn gì?
    Sẽ có chí nguyện gì?
    Sẽ có cử chỉ gì?
    Mong ngài hãy trả lời,
    Câu hỏi của chúng tôi.
  3. ẩn sĩ Pan-đa-ra,
    Hãy nghe lời ta nói,
    Hãy thọ trì cẩn thận,
    Ta sẽ nói tương lai.
  4. Phẫn nộ và hiềm hận,
    Che đậy và cứng đầu,
    Nhiều lừa đảo ganh tị,
    Tương lai nhiều loại vậy,
  5. Họ tự cho có trí,
    Pháp sâu, chỉ đến bờ,
    Họ khinh nhờn Chánh pháp,
    Họ không kính trọng nhau.
  6. Nhiều nguy hiểm ở đời,
    Sẽ xảy ra tương lai,
    Pháp được khéo giảng này,
    Kẻ ngu làm uế nhiễm.
  7. Trong Tăng chúng, những vị,
    Có đức hạnh hạ liệt,
    Họ thường hay tuyên bố,
    Có tự tín, không sợ,
    Kẻ không học, lắm lời,
    Sẽ đứng vào thế mạnh.
  8. Trong Tăng chúng, những vị,
    Có giới hạnh tốt đẹp,
    Khi họ có tuyên bố,
    Tuyên bố đúng sự thật,
    Họ thường ở thể yếu,
    Hổ thẹn thiếu nhiệt thành.
  9. Bạc, vàng và đồng ruộng,,
    Ðất đai, dê và cừu,
    Nô tỳ nữ và trai,
    Kẻ ngu si vô trí,
    Sẽ thâu nhận tất cả,
    Trong tương lai là vậy.
  10. Kẻ ngu dễ nóng giận,
    Không định tĩnh trong giới,
    Kiêu ngạo, đi đó đây,
    Như thú ưa đánh nhau.
  11. Họ trở thành tháo động,
    Thường đắp y màu xanh,
    Lừa đảo và ngoan cố,
    Lắm mồm, ăn nói giả,
    Họ bắt chước giả bộ,
    Như bậc Thánh thời xưa.
  12. Với tóc bôi dầu láng,
    Dao động, mắt vẽ xanh,
    Ðắp y màu trắng ngà,
    Họ qua lại trên đường.
  13. Y vàng được khéo nhuộm,
    Lá cờ bậc La-hán,
    Ðược các bậc giải thoát,
    Ðắp mang không nhàm chán,
    Còn họ chán y vàng,
    Ái luyến đắp màu trắng.
  14. Họ trở thành tham lợi,
    Biếng nhác, ít tinh cần,
    Khó sống rừng hoang vu,
    Thích sống gần xóm làng.
  15. Những ai sợ được lợi,
    Luôn luôn ưa tà mạng,
    Họ học đòi người ấy,
    Thân cận, không tự chế.
  16. Những ai không được lợi,
    Họ không trọng không kính,
    Bậc khả kính, Hiền trí,
    Họ không có thân cận.
  17. Khinh cờ hiệu của mình,
    Ưa thích màu ngoại sắc,
    Có kẻ mang y trắng,
    Lá cờ hiệu ngoại đạo.
  18. Không kính y màu vàng,
    Thời ấy họ là vậy,
    Chờ đợi màu y vàng,
    Không phải của Tỷ-kheo.
  19. Bị đau khổ chinh phục,
    Bị quặn đau tên đâm,
    Chờ đợi đại khủng bố.
    Voi ta không nghĩ nghì.
  20. Khi bậc sáu ngà thấy,
    Cờ La-hán khéo nhuộm,
    Voi nói lên những kệ,
    Liên hệ đến mục đích.
  21. Ai sẽ mặc cà-sa,
    Tâm chưa rời uế trược,
    Không tự chế, không thực,
    Không xứng áo cà-sa.
  22. Ai rời bỏ uế trược,
    Khéo định trong giới luật,
    Tự nhiếp phục chơn thực,
    Thật xứng áo cà-sa.
  23. Phá giới, trí hạ liệt,
    Không tự chế, tham dục,
    Tâm loạn, thiếu phấn chấn,
    Không xứng áo cà-sa.
  24. Ai đầy đủ giới hạnh,
    Ly tham, có định tĩnh,
    Tâm tư thật trinh bạch,
    Vị ấy xứng áo cà-sa.
  25. Ai kiêu ngạo phóng đãng,
    Ngu si, không giới hạnh,
    Xứng đáng mặc áo trắng,
    Làm gì có cà-sa.
  26. Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni,
    Tâm uế, không tin kính,
    Tương lai sẽ ức hiếp,
    Ðối vị có tâm từ.
  27. Kẻ ngu mang y áo,
    Dầu được Trưởng lão dạy,
    Liệt trí sẽ không nghe,
    Không tự chế, tham dục.
  28. Kẻ ngu dầu dạy vậy,
    Không có kính trọng nhau,
    Sẽ không có vâng lời,
    Lời dạy giáo thọ sư,
    Giống như ngựa bất kham,
    Ðối với người đánh xe.
  29. Như vậy, thời tương lai,
    Hành tung sẽ là vậy.
    Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni,
    Khi thời tối hậu đến,
    Hãy ôn hòa thân ái,
    Hãy cung kính lẫn nhau.
  30. Ðại nạn ấy chưa đến,
    Trước khi đại nạn đến,
    Hãy ôn hòa thân ái,
    Hãy cung kính lẫn nhau.
  31. Hãy có tâm từ bi,
    Khéo chế ngự trong giới,
    Chuyên tinh tấn nỗ lực,
    Thường kiên trì phấn chấn.
  32. Thấy nguy hiểm phóng dật,
    Không phóng dật an ổn,
    Hãy tu Tám Thánh đạo,
    Giác chứng đạo bất tử.

Như vậy vị Trưởng lão nói với Tăng chúng của mình. Các bài kệ này là lời nói chánh trí của ngài.

(CCLIX) Sàriputta (Thera. 89)

Ðời của ngài và đời của Moggallàna gắn liền với nhau. Trong thời đức Phật tại thế, Sàriputta sanh tại thành Upatissa, không xa Vương Xá (Ràjagaha) bao nhiêu, mẹ là Rùpasàri; còn Moggallàna sanh ở thành Kolita, không xa thành Vương Xá (Ràjagaha) bao nhiêu, mẹ là Moggali. Vì cả hai là con của vị gia trưởng nên được đặt tên là Upatissa và Kolita. Cả hai đứa trẻ được nuôi dưỡng trong giàu sang và thiện xảo mọi khả năng.Trong một hội chợ lớn ở Vương Xá (Ràjagaha) vì tâm tư thuần thục, cả hai đều thấy tất cả quần chúng hội một trăm năm sau, sẽ bị thần chết mang đi, nên cả hai lo âu đi tìm con đường giải thoát. Cả hai xuất gia dưới sự chỉ đạo của Sanjaya, hẹn nhau ai chứng quả bất tử trước, sẽ nói cho người kia biết.

Dưới sự chỉ đạo của Sanjaya, cả hai không tìm được đạo giải thoát, và sau khi tìm hỏi các Sa-môn, Bà-la-môn gặp được Assajì và nhờ Assajì, gặp được Thế Tôn, cả hai đều xin xuất gia và được đức Phật độ cho làm Tỷ-kheo với câu: ‘Thiện lai Tỷ-kheo’.

Chứng được quả Dự lưu nhờ Assajì tóm tắt câu kệ, Moggallàna, bảy ngày sau khi xuất gia, tại làng Kallavàla ở Magadha, sau khi nhiếp phục được hôn trầm thụy miên, nhờ lời Thế Tôn khích lệ, sau khi nghe lời dạy về tu các giới, chứng được quả A-la-hán. Còn Sàriputta, nửa tháng sau khi xuất gia khi ở cùng đức Bổn Sư tại hang Sukarakhata ở Vương Xá (Ràjagaha) cũng được chứng quả A-la-hán. Về sau, tại Jetavana Thế Tôn xác chứng Sàriputta là đệ tử đệ nhất về trí tuệ và thiền quán, và Sàriputta sau khi được tôn làm nguyên soái Chánh pháp, một hôm nói lên chánh trí của mình, trước các đệ tử:

  1. Ai tùy theo năng lực,
    Có giới, tịnh, chánh niệm
    Không phóng dật hành trì,
    Sở hành đúng tư duy,
    Thích hướng nội, khéo định,
    Ðơn độc, biết tri túc,
    Với sở hành như vậy,
    Vị ấy gọi Tỷ-kheo.
  2. Ăn đồ ướt hay khô,
    Không ăn quá thỏa mãn,
    Bụng trống, ăn tiết độ,
    Tỷ-kheo trú chánh niệm.
  3. Ăn bốn, năm miếng xong,
    Rồi hãy uống nước uống,
    Thật đủ trú thoải mái,
    Với Tỷ-kheo tinh cần.
  4. Nhận lấy đồ hợp pháp,
    Y áo đáp nhu cầu,
    Thật đủ trú thoải mái,
    Với Tỷ-kheo tinh cần.
  5. Khi ngồi thế kiết-già,
    Ðầu gối phải mưa ướt,
    Thật đủ trú thoải mái,
    Với Tỷ-kheo tinh cần.
  6. Ai xem lạc là khổ,
    Ai xem khổ như tên,
    Ðứng chặng giữa cả hai,
    Do đâu, đời nắm được?
  7. Không cho ta ác dục,
    Biếng nhác tinh cần kém,
    Ít nghe, không tín kính,
    Do đâu, đời nắm được?
  8. Nghe nhiều, có hiền trí,
    Khéo định tĩnh trong giới,
    Chuyên chú an chỉ tâm,
    Hãy đứng lên trên đầu.
  9. Ai chuyên tâm hý luận,
    Như thú ưa hý luận,
    Rơi khỏi, trật Niết-bàn,
    Vô thượng, thoát khổ ách.
  10. Ai từ bỏ hý luận,
    Thích đạo phi hý luận,
    Ði đến được Niết-bàn,
    Vô thượng, thoát khổ ách.

Rồi vị Trưởng lão, một hôm thấy được chỗ ở của người em Revata (XLII, CCXLIV) đang ở, một khu rừng không nước đầy gai góc, ngài tán thán người em và nói:

  1. Tại làng hay trong rừng,
    Thung lũng hay đồi cao,
    Chỗ nào La-hán trú,
    Ðất ấy thật khả ái.
    992. Khả ái thay núi rừng,
    Chỗ người phàm không ưa,
    Vị ly tham sẽ thích,
    Vì không tìm dục lạc.

Rồi vị Trưởng lão,với lòng từ mẫn đối với Ràdha một Bà-la-môn bất hạnh, giúp Ràdha xuất gia tu hành. Về sau, khi đang du hành, ngài khích lệ Ràdha, bằng lòng với cử chỉ khiêm tốn của Ràdha:

  1. Như người chỉ của chôn,
    Cũng vậy, người thấy lỗi,
    Nói điều người trí trách,
    Hãy gần người trí vậy.
    Thân cận người như vậy,
    Chỉ tốt hơn, không xấu.

Một hôm, bậc Ðạo Sư không đi đến để giải tán nhóm Tăng chúng của Assaji-Runabbasu được tổ chức ở đồi Kità, Sàriputta được cử đi cùng với Moggallàna và các đệ tử của mình. Khi lời khuyên của Sàriputta không được nghe theo, ngài nói như sau:

  1. Cần phải khuyên, phải dạy,
    Phải ngăn chặn bất thiện,
    Làm vậy, người thiện thương,
    Người bất thiện không ưa.

Khi các Tỷ-kheo nói rằng chính du sĩ Dìghanakha, được Thế Tôn giảng dạy, được sửa soạn bởi hành động quá khứ, có thể làm nhiệm vụ ấy, Sàriputta can thiệp, nói rằng không phải:

  1. Thế Tôn, bậc có mắt,
    Thuyết pháp cho người khác,
    Khi pháp được thuyết giảng,
    Ta lắng tai nhiệt tình.
  2. Ta nghe, không uổng phí,
    Giải thoát không lậu hoặc,
    Không cần biết đời trước,
    Không cần được thiên nhãn.
  3. Ta không có phát nguyện,
    Chứng được tha tâm thông,
    Biết chúng sanh sống chết,
    Hay nhĩ giới thanh tịnh.

Ba câu kệ tiếp được nói lên về ngài, khi Sàriputta trú ở tinh xá hang bồ câu, không có bị thương khi bị quỷ Dạ-xoa đánh:

  1. Ngồi dưới một gốc cây,
    Ðầu trọc, đắp đại y,
    Trưởng lão tuệ đệ nhất,
    U-pa-tis tu thiền.
  2. Ðầy đủ thiền vô tầm
    Ðệ tử bậc Chánh giác,
    Với im lặng bậc Thánh,
    Ngay lúc ấy, đạt được. 

1000. Giống như ngọn núi đá, 

Không động, khéo vững trú, 

Cũng vậy, vị Tỷ-kheo, 

Ðã đoạn diệt si ám, 

Vị ấy như ngọn núi, 

Không có bị dao động.

Một hôm, bậc Trưởng lão không chú tâm, để tấm y rơi xuống. Một Sa-di nói: ‘Thưa Tôn giả y cần phải đắp xung quanh thân mình’. Tôn giả tán thán lời nói của người Sa-di và đắp lại tấm y trên thân. Và nói lên điều lỗi của mình, ngài nói bài kệ:

1001. Người không có uế nhiễm,

Luôn tầm cầu thanh tịnh,

Ác nhẹ như đầu lông,

Xem nặng như mây trời.

Rồi ngài nêu rõ sự xả ly của ngài đối với vấn đề sống chết.

1002. Ta không hoan hỷ chết, 

Ta không hoan hỷ sống

Ta sẽ bỏ thân này,

Tỉnh giác và chánh niệm.

1003.Ta không hoan hỷ chết

Ta không hoan hỷ sống,

Ta sẽ bỏ thân này,

Như thợ làm việc xong.

Rồi khi thuyết pháp, ngài nói lên những bài kệ:

1004.Cả hai chết, không chết,

Sau đời hay trước đời,

Hãy dấn thân tiến bước,

Chớ để hư, uổng phí,

Dầu một khắc, sát-na,

Chớ để uổng phí qua.

1005. Như ngôi thành biên địa,

Ðược bảo vệ trong ngoài,

Như vậy, hộ tự ngã,

Chớ để phí sát-na,

Sát-na qua, sầu muộn,

Chịu khổ trong địa ngục.

Rồi một hôm, thấy Tôn giả MahaKotthita, ngài nói lên ba câu kệ, tán thán khả năng tốt đẹp của MahàKotthita.

1006. Ðạt tịch tịnh, chỉ tức,

Ðọc chú, không cống cao,

Quét sạch các ác pháp,

Như gió quét lá cây.

1007. Ðạt tịch tịnh, chỉ tức,

Ðọc chú, không cống cao,

Gạt ngoài các ác pháp,

Như gió quét lá cây.

1008. Ðạt tịch tịnh an lặng,

Ý trong sáng không nhiễm,

Bậc trì giới trọn lành,

Có thể dứt đau khổ.

Câu kệ tiếp nói về các Tỷ-kheo xứ Vajjì tin tưởng ở Devadatta và chấp nhận giáo lý của Devadatta:

1009. Có người không ai tin,

Tại gia hay xuất gia,

Những ai trước là tốt,

Về sau trở thành xấu,

Hoặc trước là người xấu.

Sau trở thành người tốt.

1010. Hạng Tỷ-kheo tham dục,

Sống hôn trầm thụy miên,

Trạo cử và nghi ngờ,

Tâm đủ năm phiền não.

1011.Với ai, đối cả hai,

Ðược trọng, không được trọng,

Thiền định, không dao động,

An trú không phóng dật.

1012. Thiền tư luôn kiên trì,

Tuệ quán, kiến tế nhị,

Ưa thích chấp thủ diệt,

Vị ấy gọi chân nhân.

Ðể phân biệt sự sai khác, lấy Bổn Sư và mình làm thí dụ, ngài nói lên những bài kệ như sau:

1013. Biển lớn và đất lớn,

Núi và các phương trời,

Không ví dụ sánh được,

Phật, giải thoát thù thắng.

1014. Trưởng lão chuyển pháp luân,

Bậc đại trí, thiền định,

Như đất, nước và lửa,

Không tham không ghét bỏ.

1015. Ðạt được tuệ tối thắng,

Ðại giác, đại Mâu-ni,

Không chậm, tỏ chậm chạp

Thường sống thật thanh lương.

Ðể nêu rõ bổn phận của ngài đã làm xong, ngài nói:

1016. Ta hầu hạ Bổn Sư,

Lời Phật dạy làm xong,

Gánh nặng đã đặt xuống,

Gốc sanh hữu nhổ sạch.

Và khi ngài sắp nhận Niết-bàn, ngài giảng dạy các Tỷ-kheo đang họp xung quanh ngài như sau:

1017. Tinh cần, chớ phóng dật,

Ðây lời giáo huấn ta!

Ta sẽ nhập Niết-bàn,

Ta thoát mọi sanh y.

(XXLX) Ananda (Thera. 91)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh trong gia đình Thích-ca Amitedana. Vì các bà con nói ngài sanh đem hoan hỷ cho gia đình, nên được đặt tên là Ananda (Khánh Hỷ). Khi lớn lên, các sự kiện xuất gia, giác ngộ, chuyển Pháp luân được diễn ra, và sau khi Thế Tôn viếng thăm Kapilavatthu, ngài xuất gia với Bhaddiya và các người khác và được Thế Tôn thế độ cho. Sau khi nghe bài thuyết pháp của Punna Mantàni, ngài chứng được Sơ quả.

Trong hai mươi năm đầu, Thế Tôn không có thị giả riêng, khi thì Nàgasamàla, khi thì Nàgita, khi thì Upavàna, Sunakkhatta, Sa-di Cunda, Sàgata, Meghiya. Thế Tôn không có lựa chọn ai làm thị giả đặc biệt. Sau Thế Tôn khi đã năm mươi sáu tuổi, gợi ý muốn có một thị giả thường trực, có Tỷ-kheo đề nghị Ananda và Ananda chỉ nhận lời nếu Thế Tôn chịu từ chối bốn việc và chấp nhận bốn việc. Từ chối không cho Ananda, y, đồ ăn, một phòng riêng và mời ăn, vì nếu không từ chối thời Ananda bị hiểu lầm là hầu hạ Thế Tôn để được y, đồ ăn khất thực, phòng xá và mời ăn. Chấp nhận cho Ananda bốn việc là nếu Ananda được mời ăn, Thế Tôn bằng lòng đi dự; Thế Tôn bằng lòng gặp những người từ xa đi đến và do Ananda giới thiệu; Thế Tôn chấp nhận cho Ananda yết kiến nếu Ananda gặp phân vân khó xử; Thế Tôn sẽ giảng lại những giáo lý ngài dạy khi Ananda vắng mặt. Nếu Thế Tôn không chấp nhận bốn điều này, thời sự hầu hạ của Ananda không đem lại thiện quả gì. Thế Tôn chấp nhận điều Ananda yêu cầu.

Từ hôm ấy, Ananda hầu hạ Thế Tôn, đem nước, đem tăm xỉa răng, rửa chân, đi theo Thế Tôn, quét phòng cho Thế Tôn. Ban ngày, Ananda ở một bên đức Phật, nhắc nhở những điều cần làm; ban đêm cầm đèn và gậy. Ananda đi xung quanh phòng đức Phật sẵn sàng đáp ứng nếu Thế Tôn có gọi. Thế Tôn tại Jetavana, xác chứng Ananda là vị Tỷ-kheo đệ nhất về năm phương diện: Ða văn, tâm tư cảnh giác, sức mạnh đi bộ, lòng kiên trì và sự hầu hạ chu đáo. Như vậy, Ananda sau khi Thế Tôn nhập diệt vẫn chưa chứng quả A-la-hán, và đêm trước khi kỳ kiết tập thứ nhất được tổ chức, ngài phát tâm tinh cần tinh tấn, thiền quán suốt đêm, trong mái hiên nhưng chưa có hiệu quả. Rồi ngài vào phòng ngồi trên giường, muốn nằm xuống và khi đầu chưa đụng chiếc gối, chân chưa rời khỏi đất, trong khoảng thời gian ấy, ngài chứng được quả A-la-hán. Rồi ngài bước vào phòng kiết tập.

Các câu kệ của ngài được góp thâu lại và để vào trong tập Trưởng lão Tăng Kệ, khi Khuddaka Nikàya (Tiểu bộ kinh) được tụng đọc.

Những bài kệ đầu được nói lên, khi ngài khuyên các Tỷ-kheo thường thân cận với kẻ theo Devadatta:

1018. Hai lưỡi và phẫn nộ,

Xan tham, thích phá hoại,

Bậc trí không giao du,

Kẻ ác bạn kẻ xấu.

1019. Với bậc tin, dễ thương,

Vói bậc trí, nghe nhiều,

Bậc Hiền trí, giao du,

Kẻ thiện bạn chân nhân.

Các bài kệ sau được nói lên khi nữ cư sĩ Uttarà, vì nàng đẹp nên thiên về dục vọng và được nói lên để nàng thấy sự mỏng manh của thân nàng. Có người nói các bài kệ này nói lên cho những ai đắm say Ambapàli:

1020. Hãy xem bóng trang sức,

Nhóm vết thương tích tụ,

Bệnh hoạn nhiều tham tưởng,

Nhưng không gì trường cửu.

1021. Hãy nhìn sắc trang sức,

Với châu báu vòng tai,

Bộ xương, da bao phủ

Sáng chói nhờ y phục.

Hai câu kệ tiếp được vị Trưởng lão nói lên khi chứng quả A-la-hán, đêm ấy trên giường của mình:

1022. Nghe nhiều, diễn thuyết giỏi,

Thị giả bậc Giác giả,

Gánh nặng đã đặt xuống,

Ràng buộc được thoát ly,

Bậc họ Gotama,

Ðặt lưng nằm xuống nghỉ.

1023. Các lậu hoặc đoạn tận,

Ràng buộc được thoát ly,

Mọi chấp trước vượt qua,

Khéo đạt được thanh lương,

Gánh vác thân cuối cùng,

Ðến bờ kia sanh tử.

1024. Pháp an trú trong ấy,

Phật bà con mặt trời,

Trên đường đến Niết-bàn

Gotama an trú.

Một hôm Moggallàna người chăn bò, hỏi ngài lời dạy của đức Phật là gì, có bao nhiêu giáo lý tất cả. Vị Trưởng lão trả lời:

1025.Ta nhận từ đức Phật,

Tám mươi hai ngàn pháp,

Còn nhận từ Tỷ-kheo,

Thêm hai ngàn pháp nữa,

Tổng cộng tám tư ngàn,

Là pháp ta chuyển vận.

Một hôm, vị Trưởng lão nói cho một người sống bê tha phóng đãng sự nguy hiểm của một đời sống không giáo dục văn hóa:

1026. Người ít nghe ít học,

Lớn già như con bò,

Những thịt nó lớn lên,

Trí tuệ nó không lớn.

Những bài kệ tiếp nói cho vị Tỷ-kheo khinh khi những người ít học thua mình:

1027. Người học nhiều khinh miệt,

Kẻ học ít về học,

Như người mù mang đèn,

Ta có ý là vậy.

1028. Hãy kính người nghe nhiều,

Chớ hại điều sở học,

Ðấy cội gốc Phạm hạnh,

Do vậy, hãy trì pháp.

1029. Biết câu trước câu sau,

Biết nghĩa, giỏi từ cú,

Nắm giữ điều khéo nắm,

Suy tìm trên nghĩa lý.

1030. Chính nhờ đức kham nhẫn,

Sở nguyện được tác thành,

Sau khi đã tinh tấn,

Vị ấy lại cân nhắc,

Ðúng thời, ra nỗ lực,

Nội tâm khéo định tĩnh.

1031. Nghe nhiều, thọ trì pháp

Có tuệ, đệ tử Phật,

Chờ đợi thức tri pháp,

Nên thân cận vị ấy.

1032. Nghe nhiều thọ trì pháp,

Hộ tạng Ðại ẩn sĩ,

Cặp mắt, toàn thế giới,

Hãy lễ vị nghe nhiều.

1033. Ưa pháp, vui thích pháp,

Luôn suy tư Chánh pháp,

Tỷ-kheo nhớ niệm pháp,

Diệu pháp không tổn giảm.

Một hôm, ngài đốc thúc vị Tỷ-kheo dao động, biếng nhác như sau:

1034. Thân ích kỷ nặng chăng,

Không có ưa hoạt động,

Thời gian mòn mỏi qua,

Không thể đứng dậy sao?

Tham đắm theo thân lạc,

Từ đâu, Sa-môn lạc?

Những câu kệ sau, Trưởng lão Ananda đọc lên khi nghe tin Sàriputta mệnh chung:

1035. Mọi phương đều mờ mịt,

Pháp không khỏi nơi ta,

Người bạn tốt đã đi,

Tối tăm lan tràn khắp.

1036. Người bạn đã đi qua,

Ðạo Sư đã đi qua,

Bạn như vậy không còn,

Như quán thân hành niệm.

1037. Các vị xưa đã qua,

Vị mới ta không hạp,

Nay một mình ta thiền,

Như chim, khi mưa đến.

Câu kệ tiếp là của bậc Ðạo Sư. Câu tiếp là của Ananda, hoan hỷ làm theo lời vị Ðạo Sư:

1038. Từ các địa phương khác,

Nhiều người yết kiến Ta,

Chớ ngăn họ nghe pháp,

Nay thời họ gặp Ta.

1039. Từ các địa phương khác,

Quần chúng đến yết kiến,

Bổn Sư cho họ dịp,

Ðể được yết kiến Ngài;

Bậc có mắt không có,

Từ chối ngăn chận ai.

Năm câu kệ tiếp nêu rõ ngài là bậc thị giả đệ nhất:

1040. Trải hai mươi lăm năm

Ta chỉ là hữu học,

Dục tưởng không khởi lên,

Hãy xem pháp, pháp tánh.

1041. Trải hai mươi lăm năm,

Ta chỉ là hữu học,

Sân tưởng không khởi lên,

Hãy xem pháp, pháp tánh.

1042. Trải hai mươi lăm năm,

Ta hầu hạ Thế Tôn,

Với thân nghiệp từ hòa,

Như bóng không rời hình.

1043. Trải hai mươi lăm năm

Ta hầu hạ Thế Tôn,

Với khẩu nghiệp từ hòa,

Như bóng không rời hình.

1044. Trải hai mươi lăm năm,

Ta hầu hạ Thế Tôn,

Với ý nghiệp từ hòa,

Như bóng không rời hình.

1045. Khi đức Phật kinh hành,

Ta đi theo sau lưng,

Khi pháp được thuyết giảng,

Trí khởi lên nơi ta.

1046. Ta vẫn còn là người,

Có việc cần phải làm,

Ta chỉ là hữu học,

Tâm ý chưa chứng đạt,

Ðạo Sư nhập Niết-bàn,

Ai sẽ từ mẫn ta.

1047. Như vậy thật khủng khiếp

Như vậy thật kinh hoàng,

Khi bậc toàn tuyệt hảo,

Bậc Giác ngộ Niết-bàn.

Ba câu kệ tiếp, do các vị dự kỳ kiết tập thêm vào để tán thán Trưởng lão Ananda:

1048. Nghe nhiều, thọ trì pháp,

Hộ tạng Ðại ẩn sĩ,

Cặp mắt toàn thế giới,

Anan nhập Niết-bàn.

1049. Nghe nhiều, thọ trì pháp,

Hộ tạng Ðại ẩn sĩ,

Cặp mắt toàn thế giới

Ðoạn ám chỗ tối tăm.

1050. Ngài là bậc ẩn sĩ,

Với hành vị tuyệt hảo,

Với chánh niệm tuyệt hảo,

Với kiên trì tuyệt hảo,

Thọ trì chân diệu pháp,

Là Trưởng lão A-nan,

Là kho tàng sống động,

Ðầy châu báu ngọc ngà.

Câu kệ này được Ananda nói lên khi nằm trên giường, trong giờ phút cuối cùng:

1051. Ta hầu hạ Bổn Sư,

Lời Phật dạy làm xong,

Gánh nặng đã đặt xuống,

Gốc sanh hữu nhổ sạch.

Chương XVIII

-ooOoo-

Phẩm Bốn Mươi Kệ

(CCLXI) Mahà-Kassapa (Thera. 94)

Bậc Ðạo Sư đã ra đời, đang chuyển pháp luân và ở tại Ràjagaha (Vương Xá), khi ấy tại làng Bà-la-môn Mahàtittha ở Ràjagaha, ngài ra đời tên Pippali-mànava, con bà vợ chính của Bà-la-môn Kapila. Pippali-mànava, không chịu lập gia đình, xin ở nhà để hầu hạ cha mẹ, sau khi cha mẹ chết, sẽ xuất gia. Ðể làm cho bà mẹ bằng lòng, ngài cho làm tượng một thiếu nữ trẻ đẹp, mặc áo đỏ và đeo đồng trang sức, và nói với bà mẹ rằng nếu bà tìm cho được một thiếu nữ như vậy, ngài sẽ chịu lập gia đình. Bà mẹ sai các người Bà-la-môn đem theo tượng ấy và tìm cho được một thiếu nữ giống như vậy. Họ đến Sàgala, đặt tượng trên bờ sông và ngồi xuống xa bức tượng. Người vú của Bhaddà, sau khi tắm cho Bhaddà lại xuống sông tắm cho mình, thấy bức tượng, tưởng là Bhaddà và nói Bhaddà sao lại thiếu giáo dục như vậy, đánh nàng nơi má và biết được đó không phải là Bhaddà mà chỉ là một bức tượng bằng vàng. Các Bà-la-môn được đưa về nhà, được thấy Bhaddà, nhận Bhaddà giống như bức tượng và đưa tin về Kapila. Nhưng cả hai Pippali-mànava và Bhaddà đều không muốn lập gia đình, nên cả hai viết thư cho nhau nói rõ quyết định của mình. Hai người đưa thư gặp nhau giữa đường, đưa thư cho nhau coi, đánh tráo hai bức thư khác, và do vậy đám cưới được cử hành. Nhưng đêm tân hôn, hai người nằm cách nhau với một giấy hoa. Khi cha mẹ mệnh chung, cả hai quyết định cùng nhau xuất gia.

Hai người cùng mặc áo vàng, cắt tóc, mang bình bát, trước cùng đi với nhau, sau thấy bất tiện nên từ giã nhau, Pippali-mànava đi phía mặt, Bhaddà đi phía đường bên phía trái. Trước giới đức như vậy, quả đất rung động, và Thế Tôn biết được nguyên nhân nên ra ngồi giữa đường từ Nalandà đến Ràjagaha. Gặp Thế Tôn Mahà Kassapa đảnh lễ Thế Tôn, tôn Thế Tôn là bậc Thầy, tự nhận mình làm đệ tử. Cả hai về lại Magadha và Mahà Kassapa tu tập mười ba hạnh đầu đà. Ðến ngày thứ tám, ngài chứng quả A-la-hán. Bậc Ðạo Sư tuyên dương ngài là đầu đà thứ nhất. Và ngài nói lên kinh nghiệm của mình để giáo huấn các vị Tỷ-kheo.

Thấy các Tỷ-kheo ưa sống với quần chúng, và hay đến các nhà cư sĩ, ngài nói:

  1. Chớ du hành đi đầu,
    Do quần chúng tôn xưng,
    Tâm ý bị loạn động
    Thiền định khó tu chứng,
    Quần chúng tụ là khổ,
    Thấy vậy, tránh quần chúng.
  2. Bậc ẩn sĩ không đi,
    Ði đến các gia đình,
    Tâm ý bị loạn động,
    Thiền định khó tu chứng,
    Ai hăng say tham vị,
    Bỏ đích đem an lạc.
  3. Ðảnh lễ cúng dường này,
    Xuất phát từ gia đình
    Nên biết họ thực sự,
    Là đám bùn sa lầy.
    Như mũi tên tế nhị
    Rất khó rút ra khỏi,
    Kẻ xấu rất khó lòng.
    Từ bỏ sự cung kính.

II

Một lời khuyên các Tỷ-kheo hãy biết đủ với bốn vật dụng cần thiết:

  1. Từ trú xứ bước xuống,
    Ta vào thành khất thực,
    Ta cẩn thận đến gần,
    Một người cùi đang ăn.
  2. Với bàn tay lở loét,
    Nó bỏ vào một muỗng,
    Khi bỏ vào muỗng ấy,
    Ngón tay rời rơi vào.
  3. Dựa vào một chân tường,
    Ta ăn miếng ăn ấy,
    Ðang ăn và ăn xong,
    Ta không cảm ghê tởm.
  4. Miếng ăn đứng nhận được
    Xem như thuốc tiêu hôi,
    Chỗ nằm dưới gốc cây,
    Và y từ đống rác,
    Ai thọ dụng chúng được,
    Ðược gọi người bốn phương.

III

Về sau, khi được hỏi, sao ngài già như vậy, lại có thể hằng ngày leo lên đồi núi, ngài trả lời:

  1. Khi họ leo núi đá,
    Một số bị mạng chung,
    Thừa tự bậc Giác ngộ
    Tỉnh giác và chánh niệm,
    Dựa trên sức thần lực
    Kassapa leo núi.
  2. Ði khất thực trở về
    Ca-diếp leo tảng đá,
    Ngồi thiền, không chấp thủ,
    Ðoạn sợ hãi kinh hoàng.
  3. Ði khất thực trở về,
    Ca-diếp leo tảng đá,
    Ngồi thiền, không chấp thủ,
    Ðã đốt cháy, thanh lương.
  4. Ði khất thực trở về
    Ca-diếp leo tảng đá
    Ngồi thiền, không chấp thủ,
    Xong việc, không lậu hoặc.

IV

Sau khi được hỏi thêm, vì sao khi lớn tuổi ngài vẫn ở trên núi rừng? Trúc Lâm hay các tịnh xá không làm cho ngài thích ý chăng? Ngài trả lời:

  1. Khu đất thật khả ái,
    Với những vòng tràng hoa,
    Hoa tên Ka-rê-ri,
    Trải rộng ra cùng khắp,
    Với voi rú khả ý,
    Ðồi núi ấy ta thích
  2. Những hồ nước trong mát,
    Tuyệt đẹp, màu mây xanh,
    Che kín bởi loài bọ,
    Tên ‘kẻ chăn In-đa’
    Những ngọn núi đá ấy,
    Làm tâm ta thích thú.
  3. Giống đồi mây xanh biếc,
    Ví tháp đẹp lâu đài,
    Với vượn hú khả ý,
    Ðồi núi ấy, ta thích.
  4. Ðất bằng thật khả ái,
    Ðược mưa ướt thấm nhuần,
    Ðồi núi được ẩn sĩ,
    Làm thành nơi trú xứ.
    Vang lên tiếng chim công,
    Ðồi núi ấy ta thích.
  5. Vừa đủ ta chánh niệm,
    Hăng hái muốn tu thiền,
    Vừa đủ ta Tỷ-kheo
    Hăng hái muốn phước lợi.
  6. Vừa đủ ta Tỷ-kheo,
    Hăng hái muốn an lạc,
    Vừa đủ ta Tỷ-kheo,
    Hăng hái tu Du-già.
  7. Tràn đầy hoa cây gai,
    Như trời phủ làn mây,
    Ðầy mọi loài chim chóc,
    Ðồi núi ấy ta thích.
  8. Không đông chúng gia chủ
    Chỗ trú xứ đoàn thú,
    Ðầy mọi loài chim chóc,
    Ðồi núi ấy ta thích.
  9. Dưới tảng đá, băng đá,
    Có nước suối trong chảy,
    Có khỉ và có nai,
    Lai vãng sống gần bên,
    Cỏ cây bao trùm nước,
    Ðồi núi ấy ta thích.
  10. Người vậy không ưa thích,
    Cả năm loại nhạc khí,
    Khi đã được nhất tâm,
    Chơn chán thiền quán pháp.

V

Khi khuyên bảo các Tỷ-kheo thích thú các tục sự, và tham các vật cúng dường cần thiết cho sự sống, ngài nói:

  1. Chớ làm quá nhiều việc,
    Tránh quần chúng đua tranh,
    Người siêng tham đắm vị,
    Bỏ đích đem an lạc.
  2. Chớ làm nhiều công việc,
    Tránh việc không lợi này,
    Thân cực nhọc mệt mỏi,
    Người khổ không an chỉ.

VI

Các câu kệ sau được nói lên để khuyên bảo trong một vài trường hợp:

  1. Chỉ lắp bắp cái môi,
    Không thấy được tự ngã,
    Cổ cứng đờ nó đi,
    Nó nghĩ: ta tốt hơn.
  2. Không hơn nghĩ tốt hơn,
    Kẻ ngu nghĩ tự ngã,
    Bậc trí không tán thán,
    Người có trí cứng đờ.
  3. Ta tốt hơn, hay là
    Ta không được tốt hơn,
    Hay ta là dở hơn,
    Ta cũng tốt như vậy,
    Ai không có dao động
    Trong các loại mạn này.
  4. Có tuệ, nói như thật,
    Khéo định tĩnh trong giới,
    Ðạt được tâm an chỉ,
    Người ấy kẻ trí khen.
  5. Ai giữa đồng Phạm hạnh
    Không được có kính trọng,
    Vị ấy xa diệu pháp,
    Như đất xa bầu trời.
  6. Những ai có tàm quý,
    Thường chơn chánh an trú,
    Phạm hạnh được tăng trưởng,
    Họ đoạn được tái sanh.
  7. Tỷ-kheo cống cao động
    Dầu đắp y đống rác,
    Như con khỉ đội lốt,
    Với da con sư tử,
    Người vậy không có thể,
    Chói sáng nhờ y ấy.
  8. Không cống cao, không động,
    Thận trọng, căn chế ngự,
    Chói sáng với tấm y
    Ðược lượm từ đống rác,
    Chẳng khác con sư tử,
    Trong hang động núi rừng.

VII

Khi thấy chư Phạm thiên đảnh lễ ngài Sàriputta, và thấy Trưởng lão Kappina mỉm cười, ngài nói:

  1. Rất nhiều chư Thiên này
    Có thần thông, lừng danh,
    Cả mười ngàn chư Thiên,
    Tất cả Phạm hạnh chúng thiên.
  2. Ðứng đảnh lễ, chấp tay
    Ðối ngài Xá-lợi-phất,
    Vị tướng quân Chánh pháp
    Sáng suốt, đại thiền định.
    Ðảnh lễ bậc Thượng sanh,
    Ðảnh lễ bậc Tối thượng.
  3. Dựa vào gì, thiền tu,
    Chúng tôi không thắng trí.
  4. Kỳ diệu thay chư Phật,
    Hành xứ ngài thâm sâu,
    Chúng con không nghĩ được
    Dầu chúng con hội đủ
    Tài nghệ người bắn cung,
    Có thể chẻ sợi tóc.
  5. Khi thấy Xá-lợi-phất
    Xứng đáng được đảnh lễ,
    Ðược Phạm thiên chúng ấy,
    Ðảnh lễ, kính như vậy,
    Tôn giả Kappina,
    Liền mỉm cười vui vẻ.

VIII

Trưởng lão Kassapa rống lên tiếng rống sư tử của mình:

  1. Trong đám ruộng đệ tử
    Những vị theo đức Phật,
    Ngoại trừ bậc Tối tôn,
    Ðại ẩn sĩ Mâu-ni,
    Ta ưu việt Ðầu đà.
    Không ai bằng ta được.
  2. Ta hầu hạ Bổn Sư,
    Lời Phật dạy làm xong,
    Gánh nặng đã đặt xuống,
    Gốc sanh hữu nhổ sạch.
  3. Không nhiễm dính y phục
    Chỗ nằm và đồ ăn,
    Không thể trắc lường được
    Là con bậc Gotama!
    Như hoa sen trong sạch,
    Không thể dính nước vào,
    Ý thiên về xuất ly,
    Thoát ly cả ba giới.
  4. Với bậc Ðại ẩn sĩ,
    Cổ dựng trên niệm xứ,
    Tay dựa trên đức tin,
    Với đầu là Trí tuệ
    Bậc Ðại trí luôn luôn,
    Hành trì thật thanh lương.

Chương XIX

-ooOoo-

Phẩm Năm Mươi Kệ

(CCLXII) Tàlaputta (Thera. 97)

Trong thời gian đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình kịch sĩ, trở thành thiện xảo trong nghề diễn kịch thích hợp với người trong gia tộc và trở thành lừng danh khắp Ấn Ðộ, như nhà lãnh đạo một ban hát với năm trăm nữ nhân, với sự huy hoàng của nghề kịch, ngài dự các lễ ở làng, ở thị trấn, ở cung điện vua, và rất được sủng ái và danh tiếng. Khi ngài trình diễn ở Ràjagaha với nhiều thành công, ngài đến yết kiến đức Phật và hỏi có phải một kịch sĩ khi trên sâu khấu giả danh sự thật, làm cho khán giả ưa thích, vui cười, người ấy sau khi chêt được sanh vào chư Thiên hay cười. Ðức Phật ban đầu không trả lời. Ðến khi hỏi lần thứ tư, đức Phật trả lời những ai khiến cho con người thiên về tình dục, tiêu cực tâm tư hoang mang khiến người ta mất nhiệt tình, người như vậy sau khi chết sẽ sinh vào địa ngục. Nhưng nếu có tà kiến thời bị sanh vào địa ngục và súc sanh. Tàlaputta khóc không phải vì đức Phật nói chỗ tái sanh, chỉ vì bị các kịch sĩ xưa lừa dối nói rằng kịch sĩ sẽ được sanh trong một đời sống hạnh phúc.

Rồi Tàlaputta nghe lời đức Phật thuyết pháp, khởi lòng tin, xuất gia và sau một thời tu tập, chứng quả A-la-hán. Rồi nêu rõ với nhiều chi tiết, như thế nào ngài chế ngự và làm cho trong sạch tâm tư, đi đến chỗ giác ngộ thâm sâu, ngài nói lên những câu kệ như sau:

I

  1. Khi nào ta sẽ đến,
    Một mình, không có hai,
    Ở trong những hang động,
    Của các loại núi rừng,
    Ta quán mọi sanh hữu,
    Tất cả là vô thường,
    Nay ta là như vậy,
    Khi nào ta sẽ vậy?
  2. Khi nào ta sẽ là,
    ẩn sĩ mang y vá,
    Mang y vải màu vàng,
    Không của ta, không ái,
    Ðoạn trừ, diệt tham tâm,
    Ðoạn luôn cả sân, si,
    Ta đi đến khu rừng,
    Sẽ trú trong an lạc.
  3. Khi nào ta thấy được
    Thận này là vô thường,
    Bị chết già áp bức,
    Ổ giết chóc, bệnh tật
    Ta sẽ trú trong rừng,
    Một mình, quán vô úy
    Khi nào sẽ là vậy?
  4. Khi nào ta sẽ lấy
    Gươm sắc bén trí tuệ,
    Chặt dây leo khát ái,
    Với nhiều dây chằng chịt,
    Sanh khởi lên sợ hãi,
    Mang đến sự khổ đau.
    Khi nào sẽ là vậy?
  5. Khi nào ta sẽ là,
    Có sức mạnh rút gươm,
    Gươm do tuệ tạo thành,
    Là lửa sáng ẩn sĩ;
    Với sức mạnh đập tan
    Ác ma với Ma quân
    Trên chỗ ngồi sư tử,
    Khi nào sẽ là vậy?
  6. Khi nào ta sẽ được
    Hội tụ với bậc thiện,
    Ðược thấy giữa các vị,
    Ðảm nhận các trọng pháp,
    Tinh cần với các vị,
    Thấy sự vật như thật,
    Chiến thắng được các căn
    Khi nào sẽ là vậy?
  7. Khi nào nhác đói khát
    Gió, nóng, trùng bò sát,
    Sẽ không não hại ta,
    Ở Gi-ri-bhaje,
    Ðang lo đến tự ngã,
    Khi nào sẽ là vậy?
  8. Khi nào ta có thể
    Chánh niệm, gã định tĩnh
    Hiểu được với trí tuệ,
    Bốn sự thật khéo giảng,
    Bởi bậc Ðại ẩn sĩ,
    Khi nào sẽ là vậy?
  9. Khi nào ta sẽ chuyên
    Chú tâm vào an chỉ,
    Thấy được với trí tuệ,
    Sắc, thanh, hương, vị, xúc,
    Các pháp vô thường này,
    Như lửa cháy hừng đỏ,
    Khi nào ta sẽ vậy?
  10. Khi nào ta bị nói,
    Với lời nói thô ác,
    Không vì lý do ấy,
    Tâm trí bị thất vọng.
    Khi được lời tán thán,
    Không vì lý do ấy,
    Tâm tư được thỏa mãn.
    Khi nào ta sẽ vậy?
  11. Khi nào nhiều như củi,
    Cỏ, cây leo, thân cây,
    Ta cân nhắc bình đẳng,
    Những pháp vô lượng này,
    Nội pháp và ngoại pháp,
    Khi nào ta sẽ vậy?
  12. Khi nào mây đem mưa,
    Với nước mới trong rừng,
    Làm ướt y áo ta,
    Ta đi trên đường ướt,
    Con đường ẩn sĩ đi.
    Khi nào sẽ là vậy?
  13. Khi nào nghe trong rừng,
    Tiếng kêu của loài chim,
    Chim công, có mào đầu.
    Trong hang động núi rừng,
    Ta an trú suy tư,
    Ðể đạt quả bất tử,
    Khi nào ta sẽ vậy?
  14. Khi nào với thần thông,
    Ta có thể vượt qua,
    Không chìm, không sợ hãi,
    Sông Hằng, Yamunà,
    Sông Sarasvati,
    Với cửa sông hãi hùng,
    Với nước ào vực sâu,
    Khi nào sẽ là vậy?
  15. Khi nào, như con voi,
    Trên chiến trường tấn công,
    Ta sẽ phá tan tành,
    Lòng dục đối dục cảnh,
    Chuyên chú trong thiền định,
    Từ bỏ mọi tịnh tướng,
    Khi nào sẽ là vậy?
  16. Khi nào như người nghèo
    Mắc nợ chưa trả được,
    Bị kẻ giàu thúc bách,
    Tìm ra được của chôn,
    Ta sẽ được thoải mái,
    Họ được lời giảng dạy,
    Của vị Ðại ẩn sĩ,
    Khi nào sẽ được vậy?

II

  1. Nhiều năm ta được ngươi,
    Yêu cầu làm như sau:
    Như vậy là vừa rồi,
    Ngươi sống đời gia đình,
    Nay ta đã xuất gia,
    Do vậy, hỡi này tâm,
    Do vì lý do gì,
    Ngươi không có chuyên tâm?
  2. Này tâm, phải chăng ngươi,
    Yêu cầu ta như sau:
    Tại Giribbaje
    Loài chim có lông sáng,
    Ðón chào với tiếng kêu,
    Sấm của Ðại In-da.
    Hãy làm vị ấy vui,
    Ðang tu thiền trong rừng.
  3. Trong gia đình, bạn bè,
    Người yêu và bà con,
    Các du hí ở đời,
    Các đối tượng của dục,
    Tất cả đều từ bỏ,
    Ta chấp nhận thế này.
    Hỡi này tâm, ngươi không
    Bằng lòng với ta chăng?
  4. Việc này chỉ vì ta,
    Ðây không vì người khác,
    Khi đến thời vũ trang,
    Sao lại còn than khóc?
    Thế giới này toàn động,
    Chờ đợi là như vậy.
    Nên ta đã ra đi,
    Tìm cầu đạo bất tử.
  5. Vị nói điều khó nói,
    Tối thượng loài hai chân,
    Bậc Y vương vĩ đại,
    Ðánh xe điều ngự người,
    Với tâm không tham dục,
    Ngài khéo chế ngự được,
    Người khó lòng chế ngự,
    Chế ngự được tâm người,
    Vọng động như con vượn.
  6. Các dục có nhiều vẻ.
    Dịu ngọt, rất khả ý,
    Ở đây, hàng phàm phu,
    Vô trí, bị trói buộc.
    Họ muốn chịu đau khổ,
    Khi họ tìm tái sanh,
    Dắt dẫn bởi tâm họ,
    Họ chết trong địa ngục.
  7. Trong khu rừng vang lên,
    Tiếng chim công, chim cò,
    Chỗ trú xứ ưu tiên,
    Của loài beo, loài cọp,
    Ngươi sống tại chỗ ấy,
    Chớ chờ đợi về thân,
    Chớ có quá đam mê,
    Này tâm, hãy khích lệ,
    Hãy khuyên ta như trước,
  8. Hãy tu thiền, căn, lực
    Hãy tu định giác chi,
    Hãy giác chứng ba minh,
    Trong lời dạy đức Phật,
    Này tâm, hãy khích lệ,
    Hãy khuyên ta như trước.
  9. Hãy tu tập con đường
    Ðể đạt được bất tử,
    Ðường đưa đến thể nhập,
    Chỗ đoạn diệt mọi khổ.
    Con đường có tám ngành,
    Rửa sạch mọi uế nhiễm.
    Này tâm, hãy khích lệ,
    Hãy khuyên ta như trước.
  10. Hãy như lý quán sát,
    Các uẩn là đau khổ,
    Hãy từ bỏ xa ngươi,
    Những nguyên nhân đau khổ.
    Ngay trong thời hiện tại,
    Hãy chấm dứt đau khổ,
    Này tâm, hãy khích lệ,
    Hãy khuyên ta như trước.
  11. Hãy như lý tuệ quán,
    Là vô thường, là khổ,
    Là không, là vô ngã,
    Là tà ác, sát hại,
    Hãy chế ngự tâm ngươi,
    Chớ để nó chạy loạn.
    Này tâm, hãy khích lệ,
    Hãy khuyên ta như trước.
  12. Trọc đầu và xấu sắc,
    Ði đến bị nguyền rủa,
    Khi khất thực gia đình,
    Tay cầm hình đầu lâu,
    Nay ngươi có chú tâm,
    Vào lời dạy Bổn Sư,
    Vào lời Ðại ẩn sĩ,
    Này tâm, hãy khích lệ
    Hãy khuyên ta như trước.
  13. Hãy đi trên con đường,
    Tự ngã khéo chế ngự,
    Giữa các nhà, tâm ý
    Không ái luyến các dục,
    Như trăng vào tháng tròn,
    Không có bợn mây mù.
    Này tâm, hãy khích lệ,
    Hãy khuyên ta như trước.
  14. Hãy sống trong rừng núi,
    Ăn đồ ăn khất thực,
    Sống tại chỗ nghĩa địa,
    Mặc y lượm đống rác.
    Chỉ có ngồi không nằm
    Luôn vui hạnh Ðầu-đà,
    Này tâm, hãy khích lệ,
    Hãy khuyên ta như trước.
  15. Như người đã trồng cây,
    Liền tìm cho được trái,
    Nay ngươi ước muốn trái,
    Há chặt rễ cây sao?
    Này tâm, thật giống như,
    Ví dụ ngươi đã làm,
    Khi ngươi khích lệ ta,
    Trong vô thường dao động.
  16. Ngươi, vô sắc, cô độc,
    Kẻ lữ hành từ xa,
    Nay ta sẽ không làm,
    Theo lời nói của ngươi.
    Các dục là khổ đau,
    Cay đắng, sợ hãi lớn,
    Tâm hướng vọng Niết-bàn,
    Ta sẽ bước, đi tới.
  17. Ta đi tới xuất gia,
    Không phải vì bất hạnh,
    Không đùa vô liêm sỉ,
    Không vì duyên tâm hứng,
    Không bị đày đi xa,
    Không vì nhân mạng sống,
    Khi ta đã bằng lòng,
    Này tâm, đối với ngươi.
  18. Ít dục được tán dương,
    Bởi những bậc chân nhân,
    Kể cả đoạn giả dối,
    Và an tịnh đau khổ.
    Như vậy, hỡi này tâm,
    Khi ngươi khích lệ ta,
    Còn nay ngươi đi ngược,
    Ðiều ngươi trước quen làm.
  19. Khát ái và vô minh,
    Ðáng thương và đáng ghét,
    Sắc đẹp và lạc thọ,
    Dục trưởng dưỡng hấp dẫn,
    Tất cả đã quăng bỏ,
    Ta không có cố gắng,
    Ði đến một lần nữa,
    Những đồ đã quăng bỏ.
  20. Này tâm, khắp mọi nơi,
    Ta làm theo lời ngươi,
    Trải qua nhiều đời sống,
    Ngươi không tức giận ta,
    Và thân nội sanh này,
    Là lòng ngươi biết ơn!
    Trên đường luân hồi dài,
    Khổ do chính ngươi tạo.
  21. Này tâm, chính ngươi làm
    Tác thành con người ta,
    Chính ngươi làm, ta thành,
    Thành một Bà-la-môn,
    Thành vua chúa hoàng tộc,
    Một ngày là người buôn,
    Ngày kia thành nô tỳ,
    Hoặc thành loại chư Thiên.
    Tất cả đều do ngươi,
    Chính do ngươi tác thành.
  22. Chính do nhân nhà ngươi,
    Chúng ta thành Tu-la,
    Chính do ngươi tác thành,
    Ta rơi đáy địa ngục;
    Một thời thành súc sanh,
    Một thời thành ngạ quỷ,
    Tất cả đều do ngươi,
    Chính do ngươi tác thành.
  23. Ngươi sẽ không lừa ta,
    Nhiều lần, nhiều thời nữa,
    Như những người phù thủy,
    Bày các trò ảo thuật,
    Ngươi chơi lừa phỉnh ta,
    Như chơi với người điên,
    Này tâm, hãy nói ta,
    Chỗ nào ta lỗi lầm.
  24. Trước tâm này lang thang,
    Chạy chỗ này chỗ khác,
    Chạy chỗ nó ưa thích,
    Chạy chỗ nó vui sướng,
    Nay ta chế ngự tâm,
    Với như lý tư duy,
    Như câu móc chế ngự,
    Nhiếp phục con voi rừng.
  25. Với ta, bậc Ðạo Sư,
    Xác định đời vô thường,
    Ðời không có trường cửu,
    Ðời không có kiên thực.
    Này tâm, hãy đẩy ta,
    Nhảy vào lời Phật dạy,
    Khiến ta vượt bộc lưu,
    Rất khó được vượt qua.
  26. Ta nay đã xuất gia,
    Trong pháp Ðại ẩn sĩ
    Những người giống như ta,
    Không chấp nhận tổn thất.
  27. Rừng, biển, sông, đất liền,
    Bốn phương, phụ trên dưới,
    Tất cả là vô thường,
    Ba hữu là hoạn nạn,
    Này tâm, hãy đi đâu?
    Ngươi sẽ hưởng an lạc.
  28. Kìa, kìa, hỡi này tâm,
    Ðích ta thật vững chắc,
    Người sẽ làm được gì,
    Khiến ta phải quay lại,
    Này tâm, ta đâu còn,
    Tùy thuộc thế lực ngươi,
    Không ai chịu xúc chạm,
    Cái bị có hai miệng,
    Gớm ghiếc thay cái vật,
    Ðầy chín dòng chảy nước.
  29. Ôi, ngươi sẽ ưa sống,
    Trên đảnh sườn núi cao,
    Chỗ ở đàn heo nai,
    Hay cảnh đẹp thiên nhiên,
    Hay trong núi rừng sâu,
    Thấm mát mưa nước mới,
    Tại đấy ngươi sẽ thích,
    Ngươi lấy hang làm nhà.
  30. Loài chim lông cổ đẹp,
    Với mào đẹp, cánh đẹp,
    Với lông nhiều màu sắc,
    Ðón chào tiếng sấm vang,
    Với tiếng kêu dịu ngọt,
    Chúng sẽ làm ngươi thích,
    Ngươi tu tập thiền định,
    Trong núi rừng thâm sâu.
  31. Khi trời đổ mưa xuống,
    Trên đám cỏ bón phân,
    Và trong rừng nở hoa.
    Với đầu hoa như mây,
    Giữa rừng, ta sẽ nằm,
    Chẳng khác gì khúc cây,
    Ðối ta, rất mềm dịu,
    Thật giống như giường bông.
  32. Như vậy, ta sẽ làm,
    Giống như người chủ nhà,
    Những gì ta nhận được,
    Ta xem là vừa đủ,
    Như thợ da không nhác,
    Khéo làm cho nhuần nhuyễn,
    Cái bị bằng da mèo.
  33. Như vậy ta sẽ làm,
    Giống như người chủ nhà,
    Những gì ta nhận được,
    Ta xem là vừa đủ,
    Tinh tấn ta dẫn ngươi,
    Rơi vào thế lực ta.
    Như voi say bị nài,
    Khéo dùng móc chế ngự.
  34. Với ngươi khéo nhiếp phục,
    Khéo an trú vững vàng,
    Như người huấn luyện ngựa,
    Với con ngựa thuần thục,
    Ta có thể dấn bước
    Trên con đường an lành,
    Con đường được những vị
    Hộ trì tâm thường dùng.
  35. Ta sẽ trói chặt ngươi,
    Vào đối tượng cần thiết,
    Như con voi bị dây
    Trói chặt vào cây cột.
    Ta khéo hộ trì ngươi,
    Khéo luyện với chánh niệm.
    Nhờ vậy, ngươi sẽ thành,
    Không dựa mọi sanh hữu.
  36. Với tuệ, chặt tà đạo,
    Với lực, chận, hướng chánh
    Thấy tập khởi, diệt sanh,
    Ngươi sẽ là thừa tự
    Bậc phát ngôn tối thượng.
  37. Này tâm, ngươi dẫn ta,
    Ðến ngôi làng thô lỗ,
    Khiến trú vào thế lực
    Của bốn tưởng điên đảo,
    Hãy đến, theo vị ấy
    Vị chặt đứt kiết sử,
    Bậc có tâm đại bi,
    Bậc Mâu-ni vĩ đại.
  38. Như loài thú tự do,
    Trong ngôi rừng đẹp đẽ.
    Ngươi vào núi xinh đẹp
    Có mây làm vòng hoa,
    Tại đấy, không có người,
    Trong rừng ngươi sẽ thích,
    Nay tâm, chắc chắn vậy
    Ngươi sẽ đến bờ kia.
  39. Những ai còn rơi vào,
    Thế lực ý muốn ngươi,
    Nam nhân và nữ nhân,
    Hưởng an lạc ngươi cho
    Không trí, bị rơi vào
    Trong thế lực Ác-ma,
    Ai ưa thích sanh hữu,
    Sẽ là thuộc hạ ngươi,
    Hỡi này tâm của ta.

Chương XX

-ooOoo-

Phẩm Sáu Mươi Kệ

(CCLXIII) Mahà-Moggallàna (Thera. 104)

Ðời ngài được kể với đời ngài Sàriputta (CCLIX). Sau khi xuất gia một tuần, ở gần làng Kallavàla tại Magadha, trong khi du hành ngài bị hôn trầm thụy miên và được Thế Tôn dạy: ‘Này Moggallàna, biếng nhác không giống với im lặng của bậc Thánh’. Ngài liền tinh tấn chế ngự sự yếu đuối của mình. Khi chỉ nghe đề tài về các giới do đức Phật giảng dạy, ngài chứng được quả A-la-hán. Một thời, Thế Tôn ở tại Jetavana, xác chứng ngài là bậc thần thông đệ nhất. Các bài kệ của ngài được kiết tập thứ nhất.

I

Khích lệ các Tỷ-kheo:

  1. Chúng ta người ở rừng,
    Sống đồ ăn khất thực,
    Bằng lòng với miếng ăn
    Ðược bỏ rơi trong bát,
    Phá nát ma, ma quân,
    Nếu nội tâm khéo định.
  2. Chúng ta người ở rừng,
    Sống đồ ăn khất thực,
    Bằng lòng với miếng ăn,
    Ðược bỏ rơi trong bát,
    Dẹp sạch ma, ma quân,
    Như voi, nhà bằng lau.
  3. Chúng ta ở gốc cây,
    Nhẫn nại, tâm kiên trì,
    Bằng lòng với miếng ăn,
    Ðược bỏ rơi trong bát,
    Phá nát ma, ma quân,
    Nếu nội tâm khéo định
  4. Chúng ta ở gốc cây,
    Nhẫn nại, tâm kiên trì,
    Bằng lòng với miếng ăn,
    Ðược bỏ rơi trong bát,
    Dẹp sạch ma, ma quân,
    Như voi, nhà bằng lau.

II

Với một kỹ nữ muốn cám dỗ ngài:

  1. Với am, sườn bằng xương,
    May dính với gân thịt,
    Gớm thay, đầy hơi thối!
    Mang tay chân người khác,
    Làm thân thể của mình!
  2. Cái bị đựng đầy phân,
    Ðược da bao bọc lại,
    Ôi con Quỷ cái kia!
    Với vú bị ung nhọt,
    Thân Ngươi, chín dòng nước
    Luôn luôn được tuôn chảy.
  3. Thân Ngươi chín dòng nước
    Hôi thối, tạo trói buộc,
    Tỷ-kheo tránh thân ấy,
    Như kẻ sạch tránh phân.
  4. Nếu người khác biết Ngươi
    Như ta biết được Ngươi,
    Người ấy tránh xa Ngươi,
    Như khi mưa tránh phân.

Người đàn bà ấy cảm thấy hổ thẹn, đảnh lễ vị Truởng lão rồi thưa:

  1. Thật là vậy, Ðại hùng,
    Như Sa-môn, ngài nói:
    Ở đây, có kẻ đắm,
    Như bò già trong bùn.

Bậc Trưởng lão:

  1. Ai nghĩ có thể nhuộm,
    Bầu trời với màu nghệ,
    Hoặc với màu sắc khác
    Kẻ ấy chỉ thất bại.
  2. Tâm ta giống trời ấy,
    Nội tâm khéo định tĩnh,
    Chớ đem ác tâm đến
    Như chim rơi đống lửa.
  3. Hãy xem bóng trang sức
    Nhóm vết thương tích tụ,
    Bệnh hoạn nhiều tham tưởng
    Nhưng không gì trường cửu.

III

Khi được tin Trưởng lão Sàriputta viên tịch:

  1. Ôi, thật hãi hùng thay!
    Ôi! Lông tóc dựng ngược,
    Bậc đủ nhiều đức tánh,
    Xá-lợi-phất nhập diệt.
  2. Các hành là vô thường
    Có sanh phải có diệt,
    Sau khi sanh, chúng diệt,
    Nhiếp chúng là an lạc.

IV

Nói về Trưởng lão Tissa:

  1. Những ai thấy năm uẩn,
    Là khác, không phải ngã,
    Quán thấu vật tế nhị,
    Như tên đâm mũi tóc.
  2. Những ai thấy các hành,
    Là khác, không phải ngã,
    Chúng thấu triệt tế nhị,
    Như têm đâm mũi tóc.

V

Nói về Trưởng lão Vaddhamàna
1163. Như bị kiếm chém xuống,
Như bị lửa cháy đầu,
Vị Tỷ-kheo xuất gia,
Chánh niệm, đoạn tham dục.

  1. Như bị kiếm chém xuống,
    Như bị lửa cháy đầu,
    Vị Tỷ-kheo xuất gia,
    Chánh niệm, đoạn tham hữu.

VI

Tuyên bố liên hệ đến kinh Pàsàdakamma:

  1. Ðược khuyên bảo bởi vị,
    Ðã tu tập tự ngã,
    Mang thân này tối hậu,
    Với ngón chân ta làm,
    Rung chuyển cả lâu đài,
    Migàramàtu.

VII

Nói liên hệ với một Tỷ-kheo:

  1. Không với nhu nhược này,
    Không với ít lực này
    Có thể chứng Niết-bàn,
    Giải thoát mọi buộc ràng.
  2. Vị Tỷ-kheo trẻ này,
    Con người tối thượng này,
    Chiến thắng ma, ma quân,
    Mang thân này tối hậu.

VIII

Về đời sống viễn ly của mình:

  1. Giữa đồi Vebhàra,
    Giữa đồi Pandava,
    Sét đánh vào hang động,
    Con bậc Vô tỷ ấy,
    Ðã đi vào hang núi,
    Ðang ngồi nhập thiền định.

IX

Ði vào Ràjagaha (Vương Xá) để khất thực, ngài khuyến giáo người cháu của Sàriputta, một Bà-la-môn có tà kiến, người này thấy ngài Ðại-ca-diếp, cảm thấy ghê tởm, như thấy được một nữ thần bất hạnh.

An tịnh và thoải mái,
Ẩn sĩ trú vùng xa,
Thừa tự Phật tối thắng,
Ðược Phạm thiên tán thán.

  1. Hỡi này Bà-la-môn,
    Hãy đảnh lễ Ca-diếp,
    Ngài là con thừa tự,
    Bậc Giác Ngộ tối thắng,
    Ẩn sĩ trú vùng xa
    An tịnh và thoải mái.
  2. Vị trải trăm đời sống,
    Ðều thuộc dòng Phạm chí,
    Học giả, giỏi Vệ-đà,
    Sanh tiếp tục làm người.
  3. Dầu là bậc giáo sư,
    Thấu triệt ba Vệ-đà,
    Ðảnh lễ vị như vậy,
    Chỉ giá một mười sáu.
  4. Vị ấy trước bữa ăn,
    Thấy được tám giải thoát.
    Thuận hướng và nghịch hướng.
    Rồi mới đi khất thực.
  5. Chớ có đến tấn công
    Một Tỷ-kheo như vậy,
    Hỡi này Bà-la-môn,
    Chớ có đào tự ngã,
    Hãy khởi ý tín nhiệm
    Vị La hán như vậy,
    Chấp tay đảnh lễ gấp,
    Chớ để đầu ông hỏng.

X

Khi khuyến giáo một Tỷ-kheo tên Potthila:

  1. Người không thấy diệu pháp,
    Dẫn đầu về luân hồi,
    Chạy theo hướng tà đạo,
    Ðường cong không nên đi.
  2. Như con sâu dính phân,
    Say mê theo các hành,
    Ðắm sâu vào lợi danh,
    Trống rỗng, hỡi Pôt-thi.

XI

Tán thán Tôn giả Sàriputta:

  1. Hãy xem Tôn giả này
    Xá-lợi-phất đẹp sắc,
    Giải thoát cả hai phần,
    Nội tâm khéo định tĩnh.
  2. Không bị tên khát ái,
    Các kiết sử đoạn tận,
    Ba minh đã đạt được,
    Sát hại xong thần chết,
    Ðáng được người cúng dường,
    Là ruộng phước vô thượng.

XII

Do ngài Sàriputta nói lời tán thán Moggallàna:

  1. Có nhiều chư Thiên này,
    Có thần lực danh xưng,
    Ðến mười ngàn chư Thiên
    Tất cả Phạm phụ Thiên.
    Họ đứng chấp hai tay
    Ðảnh lễ Mục-kiền-liên.
  2. Ðảnh lễ thượng sanh nhân!
    Ðảnh lễ vô thượng nhân!
    Lậu hoặc ngài đã đoạn,
    Ngài xứng được cúng dường.
  3. Ðược trời người đảnh lễ,
    Ðã sanh, bậc thắng chết,
    Như sen không dính nước,
    Ngài không dính các hành.
  4. Vị trong một sát-na,
    Biết đời, dưới ngàn cách,
    Chẳng khác Ðại Phạm Thiên,
    Tỷ-kheo ấy Thiên tử
    Ðầy đủ thần thông lực,
    Thấy được những thời cơ
    Chết sống của mọi loài.

XIII

Mahà-Moggàllàna nói lên, xác nhận khả năng của mình:

  1. Xá-lợi-phất với tuệ,
    Giới hạnh, an tịnh tâm,
    Tỷ-kheo đến bờ kia,
    Vị ấy thật tối thượng.
  2. Nhưng ta ngay giây phút
    Ðến trăm ngàn triệu lần,
    Biến hóa tự thân được,
    Ta thiện xảo biến hóa,
    Thuần thục với thần thông.
  3. Dòng họ Môg-gal-la,
    Sống thiền định trí tuệ
    Ði đến bờ bên kia,
    Không ái giáo pháp đạt.
    Hiền trí, các căn tịnh,
    Chặt đứt các trói buộc,
    Như voi bựt đứt ngang,
    Dây leo đã mục nát.
  4. Ta hầu hạ Bổn Sư,
    Lời Phật dạy làm xong,
    Gánh nặng đã đặt xuống,
    Gốc sanh hữu nhổ sạch.
  5. Sanh của ta đã tận,
    Chiến thắng dạy làm xong,
    Lưới danh được đoạn diệt,
    Gốc sanh hữu nhổ lên,
    Mục đích hạnh xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Ðích ấy đã đạt được,
    Mọi kiết sử diệt xong.

La mắng Màra đã vào và ra khỏi bụng ngài:

  1. Ðịa ngục ấy thế nào,
    Dù si bị nấu sôi,
    Vì đánh Vidhura,
    Ðệ tử Kà-kùsandha.
  2. Có trăm loại cọc sắt,
    Tự cảm thọ riêng biệt,
    Ðịa ngục là như vậy,
    Dù si bị nấu sôi,
    Vì đánh Vidhura,
    Ðệ tử Kakusandha.
  3. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
    Hiểu biết rõ như vậy,
    Vì người đánh Tỷ-kheo,
    Kanha chịu khổ thọ.
  4. Dựng lên giữa biển cả,
    Cung điện trải nhiều kiếp,
    Bằng ngọc chói lưu ly,
    Huy hoàng cùng chiếu diệu,
    Tiên nữ múa tại đây,
    Trang sức màu dị biệt.
  5. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
    Hiểu biết rõ như vậy,
    Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
    Kanha chịu khổ thọ.
  6. Ai Thế Tôn khuyến khích,
    Chúng Tỷ-kheo chứng kiến,
    Với ngón chân rung chuyển
    Lầu mẹ Migàra.
  7. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
    Hiểu biết rõ như vậy,
    Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
    Kanha chịu khổ thọ.
  8. Với ngón chân rung chuyển,
    Lầu Vi-ja-yan-ta,
    Ðầy đủ thần thông lực,
    Chư Thiên cũng hoảng sợ.
  9. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
    Hiểu biết rõ như vậy,
    Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
    Kanha chịu khổ thọ.
  10. Ai hỏi vị Sakka,
    Tại lầu Vijayan,
    Hiền giả, ngươi có biết,
    Ái tận được giải thoát?
    Sakka đã chân thành,
    Trả lời câu được hỏi.
  11. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
    Hiểu biết rõ như vậy,
    Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
    Kanha chịu khổ thọ.
  12. Ai từng hỏi Phạm thiên
    Tại hội chúng Thiện Pháp:
    Hiền giả nay vẫn chấp,
    Các tà kiến thuở xưa,
    Có thấy cảnh huy hoàng
    Phạm thiên cảnh thiên giới.
  13. Brahmà đã chân thành,
    Tiếp tục đáp câu hỏi:
    Tôn giả tôi không chấp
    Các tà kiến thuở xưa.
  14. Tôi thấy sự huy hoàng
    Phạm thiên cảnh thiên giới,
    Sao nay tôi nói được,
    Tôi thường hằng thường tại?
  15. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
    Hiểu biết rõ như vậy,
    Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
    Kanha chịu khổ thọ.
  16. Ai với sự giải thoát,
    Cảm xúc Cao Sơn đảnh,
    Rừng đông Videha
    Và người nằm trên đất,
  17. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
    Hiểu biết rõ như vậy.
    Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
    Kanha chịu khổ thọ.
  18. Thật sự lửa không nghĩ:
    ‘Ta đốt cháy kẻ ngu’,
    Kẻ ngu đột kích lửa,
    Tự mình bị thiêu cháy.
  19. Cũng vậy này Ác-ma,
    Ngươi đột kích Như Lai,
    Tự đốt mình cháy mình,
    Như kẻ ngu chạm lửa.
  20. Ác ma tạo ác nghiệp,
    Do nhiễu hại Như Lai,
    Ngươi nghĩ chăng Ác-ma,
    Ác quả không đến ta.
  21. Ðiều ác Ác ma làm,
    Chất chứa đã lâu rồi,
    Ác-ma, hãy tránh Phật,
    Chớ vọng tưởng Tỷ-kheo.
  22. Tỷ-kheo chống Ác ma,
    Tại rừng Bhe-kalà,
    Vị Dạ-xoa thất vọng,
    Biến mất tại chỗ ấy.

Như vậy, Tôn giả Mahà-Moggallàna nói lên những bài kệ.

Chương XXI

-ooOoo-

Phẩm Bảy Mươi Mốt Kệ (Ðại Tập)

(CCLXIV) Vangìsa (Thera. 109)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Vangìsa và được dạy ba tập Vệ-đà. Ngài được trọng vọng cúng dường, nhờ gõ trên sọ người và biết được kiếp trước của người ấy. Các Bà-la-môn thấy Vangìsa là một nguồn lợi dưỡng nên đem ngài đi chỗ này chỗ khác. Trong ba năm, Vangìsa đoán kiếp trước trên các sọ người được mang đến, và lấy tiền khoảng một trăm, một ngàn, Kahapana (đồng tiền vàng) mỗi đầu người. Ngài nghe danh tiếng của Thế Tôn, muốn đến yết kiến Thế Tôn, nhưng các Bà-la-môn ngăn lại.

Vangìsa không nghe đi yết kiến đức Phật. Khi đức Phật hỏi Vangìsa biết được nghề gì, ngài trả lời có thể đoán được sọ người, bằng cách lấy móng tay gõ trên sọ người và đoán được số mệnh người ấy trong ba năm. Thế Tôn bảo Vangìsa đoán sọ người sanh vào địa ngục, vào loài Người, hàng chư Thiên và một vị giải thoát. Vangìsa có thể đoán số mạng ba hạng người kia nhưng đối với vị đã giải thoát thời không thể nói được gì. Cuối cùng, ngài yêu cầu Thế Tôn và được trả lời như sau:

Ai biết thật hoàn toàn,
Sự sanh diệt chúng sanh,
Không tham trước, Thiện Thệ,
Giác ngộ đạt Chánh giác,
Vị ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn,
Thiên, Nhân, Càn-thát-bà,
Không biết chỗ sở thú,
Lậu hoặc được đoạn trừ,
Bậc Ứng Cúng, La-hán,
Vị ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
(Kinh Tập, kệ 643-644 – Trung Bộ kinh II, 196M)

Sau khi nghe xong, Vangìsa yêu cầu đức Phật dạy cho con đường đạt đến đích ấy, xin xuất gia và đức Phật bảo Trưởng lão Nigrodhakappa độ cho xuất gia rồi dạy cho quán ba mươi hai bộ phận của thân và tuệ quán. Cuối cùng ngài chứng quả A-la-hán, từ bỏ các Bà-la-môn cũ, dùng nhiều câu tán thán Thế Tôn (Si, 185) và đức Phật xác chứng ngài là vị Tỷ-kheo đệ nhất về thuyết pháp. Những điều ngài nói lên trước và sau khi chứng quả A-la-hán được kiết tập bởi ngài Ananda và các vị khác trong kỳ kiết tập thứ nhất như sau:

I

Khi còn là Sa-di, sau khi bị ảnh hưởng vì thấy nhiều thiếu nữ mặc áo đẹp, ngài nói lên những cảm thọ được nhiếp phục của ngài:

  1. Với ta đã xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Tư tưởng này chạy loạn,
    Khởi lên từ hắc ám.
  2. Nhà bắn cung thiện xảo,
    Thượng sanh giỏi cung pháp,
    Ngàn người bắn khắp phía,
    Không nao núng chút nào.
  3. Nếu phụ nữ có đến,
    Dầu nhiều hay đông hơn,
    Sẽ không dao động ta,
    Vì ta trú Chánh pháp.
  4. Chính ta từng được nghe,
    Phật dòng họ Mặt Trời,
    Giảng đạo hướng Niết-bàn,
    Ở đây ý ta thích.
  5. Như vậy ta an trú,
    Ác ma, ngươi có đến,
    Ta sẽ làm như vậy,
    Ngươi không thấy đường ta.

II

Ðược nói khi nhiếp phục các cảm thọ của mình như sân hận v.v…

  1. Ta bỏ lạc bất lạc,
    Mọi tâm tư gia sự,
    Không tạo một chỗ nào,
    Thành cơ sở tham dục,
    Ai thoát rừng, ly tham,
    Mới ứng danh Tỷ-kheo.
  2. Phàm địa giới, không giới,
    Cả sắc giới trong đời,
    Ðều biến hoại vô thường,
    Hiểu vậy, sống liễu tri.
  3. Chúng sanh thường chấp trước,
    Ðối với các sanh y,
    Ðối vật họ thấy nghe,
    Họ xúc chạm suy tư,
    Ở đây ai đoạn dục,
    Tâm tư không nhiễm ô.
    Không mắc dính chỗ này,
    Vị ấy danh Mâu-ni.
  4. Ðối sáu mươi tám kiến,
    Thuộc phàm phu phi pháp,
    Không học phái tà chấp,
    Vị ấy chân Tỷ-kheo.
  5. Vẹn toàn, tâm thường định,
    Không dối trá thận trọng,
    Ly ái, vị Mâu-ni,
    Chứng đạt đường an tịnh,
    Tùy duyên nhập Niết Bàn,
    Vị ấy chờ thời đến.

III

Nói đến khi ngài nhiếp phục cử chỉ của ngài về khả năng nói dễ dàng của mình:

  1. Ðệ tử Gotama,
    Hãy từ bỏ kiêu mạn,
    Trên con đường kiêu mạn,
    Hãy tránh né hoàn toàn,
    Ham mê đường kiêu mạn,
    Sẽ hối trách dài dài.
  2. Bị lừa bởi lừa dối,
    Bị hại bởi kiêu mạn,
    Loài Người rơi địa ngục,
    Chúng sầu khổ lâu dài,
    Bị hại về kiêu mạn,
    Họ phải sanh địa ngục.
  3. Không bao giờ sầu muộn,
    Tỷ-kheo chiến thắng đạo,
    Chơn chánh dấn thân bước,
    Hưởng danh dự an lạc,
    Như thật được tên gọi,
    Là bậc đã thấy pháp.
  4. Do vậy ở đời này,
    Không thô lậu, không kiêu,
    Ðoạn triền cái, thanh tịnh,
    Ðoạn kiêu mạn, không dư,
    Với minh, tâm an tịnh,
    Bậc đoạn tận khổ đau.

IV

Khi còn là Sa-di, ngài hầu Tôn giả Ananda, khi Tôn giả được một vị đại thần của vua mời đến thăm Tôn giả và ngài được vây quanh với những nữ nhân trang sức đẹp đẽ, những người này kính lễ Tôn giả, hỏi thăm và nghe Tôn giả thuyết pháp. Nhưng Vangìsa lại bị kích thích và tham dục khởi lên. Ngài nghĩ như vậy là không tốt cho hiện tại và tương lai của ngài. Ngài nói lên tâm trạng của mình cho Tôn giả Ananda:

  1. Dục ái đốt cháy tôi!
    Tâm tôi bị thiêu cháy,
    Lành thay Gotama,
    Vì lòng từ nói lên,
    Pháp tiêu diệt lửa hừng.

Và Tôn giả Ananda trả lời:

  1. Chính vì điên đảo tưởng,
    Tâm ông bị thiêu đốt,
    Hãy từ bỏ tịnh tướng,
    Hệ lụy đến tham dục.
  2. Nhìn các hành vô thường,
    Khổ đau, không phải ngã,
    Dập tắt đại tham dục,
    Chớ để bị cháy dài,
    Hãy tu tâm bất tịnh,
    Nhứt tâm, khéo định tĩnh,
    Tu tập thân hành niệm,
    Hành hạnh nhiều yếm ly.
  3. Hãy tập hạnh vô tướng,
    Ðoạn diệt mạn tùy miên,
    Nhờ quán sân kiêu mạn,
    Hạnh ông sẽ an tịnh.

V

Ðược nói lên sau khi Thế Tôn dạy kinh về ‘Sự vật được khéo nói’, tán thán Thế Tôn:

  1. Ai nói lên lời gì,
    Lời ấy không khổ mình,
    Lời không làm hại người,
    Lời ấy là thiện thuyết.
  2. Ai nói lời ái ngữ,
    Lời nói khiến hoan hỷ,
    Lời nói không ác độc,
    Lời nói là ái ngữ.
  3. Lời chân, lời bất tử,
    Thường pháp xưa là vậy,
    Thiện nhân trú trên chân,
    Trên nghĩa và trên pháp.
  4. Lời đức Phật nói lên,
    Ðạt an ổn Niết-bàn,
    Chấm dứt mọi khổ đau,
    Thật nói lời tối thượng.

VI

Nói lên để tán thán Tôn giả Sàriputta:

  1. Trí tuệ thâm, trí giả,
    Thiện xảo đạo, phi đạo,
    Xá-lợi-phất đại trí,
    Thuyết pháp chúng Tỷ-kheo.
  2. Ngài giảng cách tóm tắt,
    Ngài cũng thuyết rộng rãi,
    Như tiếng chim Sà-li,
    Tiếng ngài được nói lên.
  3. Lời ngài giảng tuôn trào,
    Tiếng ngài nghe ngọt lịm,
    Với giọng điệu ái luyến,
    Êm tai và mỹ diệu,
    Họ lắng tai nghe pháp,
    Tâm phấn khởi hoan hỷ.

VII

Nói lên sau khi Thế Tôn thuyết trong kinh Pavàranà (Tự Tứ):

  1. Nay ngày rằm thanh tịnh,
    Năm trăm Tỷ-kheo họp,
    Bậc Thánh đoạn kiết phược,
    Vô phiền, dứt tái sanh.
  2. Như vua chuyển luân vương
    Ðại thần hầu xung quanh,
    Du hành khắp bốn phương,
    Ðất này đến hải biên.
  3. Như vậy các đệ tử,
    Ðã chứng được Ba minh,
    Sát hại được tử thần,
    Những vị này hầu hạ,
    Bậc thắng trận chiến trường,
    Vô thượng lữ hành chủ.
  4. Tất cả con Thế Tôn,
    Không ai là vô dụng,
    Xin chí thành đảnh lễ,
    Bậc nhổ tên khát ái,
    Xin tâm thành cung kính
    Bậc dòng họ Mặt Trời.

VIII

Nói lên tán thán Thế Tôn khi Thế Tôn đang thuyết pháp cho các Tỷ-kheo về vấn đề Niết-bàn:

  1. Hơn một ngàn Tỷ-kheo
    Hầu hạ bậc Thiện Thệ,
    Ngài thuyết vô cấu pháp
    Niết-bàn vô bố úy.
  2. Họ nghe pháp rộng lớn
    Bậc Chánh giác thuyết giảng;
    Bậc Chánh giác chói sáng,
    Chúng Tỷ-kheo vây quanh.
  3. Bạch Thế Tôn, Thiện Thệ,
    Ngài thật bậc Long tượng
    Bậc ẩn sĩ thứ bảy,
    Trong các vị ẩn sĩ,
    Ngài trở thành mây lớn,
    Mưa móc ban đệ tử.
  4. Con từ nghỉ trưa đến,
    Muốn yết kiến Ðạo Sư,
    Ôi bậc Ðại anh hùng,
    Con là đệ tử Ngài,
    Con tên Vangìsa,
    Ðảnh lễ dưới chân Ngài.

Rồi Thế Tôn hỏi:

– Này Vangìsa, những bài kệ này của Ông, có phải Ông suy nghĩ từ trước hay được khởi lên tại chỗ?

– Bạch Thế Tôn, những bài kệ này của con, không phải suy nghĩ từ trước chính được khởi lên tại chỗ.

– Vậy này Vangìsa, hãy cho nhiều bài kệ nữa, không suy nghĩ từ trước, được khởi lên tại chỗ.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn, Tôn giả Vangìsa vâng đáp Thế Tôn, nói lên những bài kệ tán thán Thế Tôn, những bài kệ không suy nghĩ từ trước:

  1. Thắng Ác ma tà đạo,
    Ngài sống chướng ngại đoạn,
    Hãy thấy bậc giải thoát,
    Thoát ly mọi hệ phược,
    Không y trước phân tích,
    Thành từng phần rõ ràng.
  2. Ngài nói lên con đường,
    Nhiều pháp môn khác biệt,
    Giúp mọi người vượt qua,
    Dòng bộc lưu nguy hiểm,
    Chính trên pháp bất tử,
    Ðược ngài thường tuyên thuyết
    Chúng con bậc pháp kiến,
    Vững trú, không thối chuyển.
  3. Bậc tạo dựng quanh mình,
    Ngài thâm nhập các pháp,
    Thấy được chỗ vượt qua,
    Tất cả mọi kiến xứ,
    Sau khi biết và chứng,
    Ngài thuyết tối thượng xứ.
  4. Pháp như vậy khéo giảng
    Ai có thể phóng dật,
    Khi được biết pháp ấy,
    Pháp khéo giảng như vậy,
    Do vậy trong giáo pháp,
    Ðức Thế Tôn, Thiện Thệ,
    Luôn luôn không phóng dật,
    Hãy đảnh lễ, tu học.

IX

Nói lên để tán thán Tôn giả Annà Kondannà (An-nhã Kiều-trần-như):

  1. Sau đức Phật hiện tại,
    Trưởng lão được Chánh giác,
    Chính là Kondannà,
    Nhiệt tâm và tinh cần,
    Chứng được an lạc trú,
    Sống viễn ly liên tục.
  2. Thực hành lời sư dạy,
    Ðệ tử chứng được gì,
    Tất cả ngài chứng được,
    Nhờ tu học tinh tấn.
  3. Ðại uy lực ba minh,
    Thiện xảo tâm tư người,
    Phật tử Kondannà
    Ðảnh lễ chân Ðạo Sư.

X

Nói lên để tán thán Tôn giả Moggallàna, trước mặt Thế Tôn, khi Tôn giả Moggallàna nhận thấy tâm của năm trăm vị La-hán, hội họp tại Hắc Sơn, trên sườn núi Isigili, tại Rajagaha đều giải thoát khỏi tái sanh:

  1. Cao trên sườn đồi núi
    Những vị chứng Ba minh,
    Những vị đoạn tử thần,
    Các đệ tử hầu hạ,
    Bậc Thánh giả Mâu-ni,
    Ðã vượt qua đau khổ.
  2. Ðại thần lực Mục-liên,
    Quán tâm các vị ấy
    Biết họ được giải thoát
    Không còn có sanh y.
  3. Như vậy họ hầu hạ,
    Gotama Mâu-ni
    Ngài vượt qua đau khổ,
    Mọi sở hành đầy đủ,
    Mọi đức tánh vẹn toàn.

XI

Nói lên để tán thán Thế Tôn, chói sáng với dung sắc và huy hoàng của mình, khi Thế Tôn được chúng Tăng và cư sĩ bao vây xung quanh tại hồ sen Gaggara ở Campà:

  1. Như mặt trăng giữa trời
    Mây mù được quét sạch,
    Chói sáng như mặt trời,
    Thanh tịnh không cấu uế,
    Cũng vậy Ngài thật là,
    Ðại Mâu-ni Hiền thánh,
    Danh xưng ngài sáng chói,
    Vượt qua mọi thế giới.

XII

Nói lên khi ngài mới chứng quả A-la-hán, suy tư trên kinh nghiệm của mình và về Bổn sư:

  1. Thuở trước ta mê thơ,
    Bộ hành khắp mọi nơi,
    Từ làng này thành này,
    Qua làng khác thành khác,
    Ta thấy bậc Chánh giác
    Ðạt bờ kia mọi pháp.
  2. Nghe pháp ta tín thành
    Tín khởi lên nơi ta.
  3. Ta nghe lời Ngài dạy,
    Về uẩn, xứ và giới,
    Sau khi biết, xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà.
  4. Vì hạnh phúc số đông,
    Như Lai sanh ở đời,
    Ngài tạo ra giải pháp,
    Cho nữ nhân, nam nhân.
  5. Vì hạnh phúc của họ,
    Mâu-ni chứng Bồ-đề,
    Ngài thấy luật chi phối
    Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni.
  6. Vì lòng thương chúng sanh,
    Bốn sự thật khéo thuyết,
    Bởi vị có con mắt
    Phật, bà con Mặt Trời.
  7. Ngài thuyết Khổ, Khổ tập
    Sự vượt qua đau khổ,
    Con đường đạo Tám ngành,
    Ðưa đến khổ an chỉ.
  8. Như vậy là những điều
    Ðược nói lên như thật,
    Và ta được thấy họ
    Ðúng như thật là vậy,
    Ta đạt được mục đích,
    Lời Phật dạy làm xong.
  9. Thật tốt thay cho ta!
    Ðược sống gần đức Phật,
    Trong các pháp phân tích,
    Pháp tối thượng, ta đến.
  10. Ðại thắng trí tuyệt đích,
    Thế giới được thanh tịnh,
    Ðạt Ba minh, thần lực,
    Thiện xảo biết tâm người.

XIII

Hỏi giáo thọ sư của mình là Nigrodha Kappa có nhập Niết-bàn khi mệnh chung:

  1. Con hỏi bậc Ðạo Sư,
    Bậc trí tuệ tối thắng
    Tại Aggàlava
    Tỷ-kheo đã mệnh chung,
    Có danh vọng danh xưng
    Nhập Niết-bàn tịch tịnh.
  2. Nigrodha Kappa
    Chính là tên vị ấy,
    Chính Thế Tôn đặt tên,
    Cho vị Phạm-chí ấy!
    Vị ấy đảnh lễ cầu Ngài,
    Sống tầm cầu giải thoát,
    Tinh cần và tinh tấn,
    Kiên cố thấy Chánh pháp.
  3. Bạch Thích-ca, chúng con
    Ðệ tử Ngài tất cả,
    Chúng con đều muốn biết,
    Thưa bậc Nhãn biến tri!
    An trú tai chúng con,
    Sẵn sàng để được nghe,
    Ngài Ðạo Sư chúng con
    Ngài là bậc Vô thượng.
  4. Hãy đoạn nghi chúng con,
    Hãy nói con vị ấy,
    Ðã được tịch tịnh chưa?
    Bậc trí tuệ rộng lớn!
    Hãy nói giữa chúng con,
    Bậc có mắt cùng khắp,
    Như Thiên chủ Ðế Thích,
    Lãnh đạo ngàn chư Thiên.
  5. Phàm những cột gút gì,
    Ở đây, đường si ám,
    Dự phần với vô trí
    Trú xứ cho nghi hoặc,
    Gặp được đức Như Lai,
    Họ đều không còn nữa,
    Mắt này mắt tối thắng,
    Giữa cặp mắt loài người.
  6. Nếu không có người nào,
    Ðoạn trừ các phiền não,
    Như gió thổi tiêu tan,
    Các tầng mây dưới thấp,
    Màn đêm tức bao trùm,
    Tất cả toàn thế giới,
    Những bậc có hào quang,
    Không có thể chói sáng.
  7. Bậc trí là những vị,
    Tạo ra những ánh sáng,
    Con xem ngài như vậy
    Ôi bậc trí sáng suốt.
    Chúng con đều cùng đến,
    Bậc tu hành thiền quán,
    Giữa hội chúng chúng con,
    Hãy nói về Kappa!
  8. Hãy gấp, phát tiếng lên,
    Tiếng âm thanh vi diệu,
    Như con chim thiên nga,
    Giương cổ lên để hát,
    Phát âm từng tiếng một,
    Với giọng khéo ngân nga,
    Tất cả bọn chúng con,
    Trực tâm nghe lời ngài.
  9. Vị đoạn tận sanh tử,
    Không còn chút dư tàn,
    Vị tẩy sạch phiền não,
    Con cầu ngài thuyết pháp,
    Kẻ phàm phu không thể,
    Làm theo điều nó muốn,
    Bậc Như Lai làm được
    Ðiều được ước định làm.
  10. Câu trả lời của ngài,
    Thật đầy đủ trọn vẹn,
    Ðược chơn chánh nắm giữ,
    Bậc chánh trực trí tuệ,
    Hãy chấp tay cuối cùng,
    Con khéo vái chào ngài,
    Chớ làm con si ám,
    Bậc trí tuệ tối cao!.
  11. Sau khi đã được biết,
    Thánh pháp thượng và hạ,
    Chớ làm con si ám,
    Bậc tinh tấn tối cao,
    Như vào giữa mùa hè,
    Nóng bức khát khao nước
    Chúng con ngóng trông lời,
    Hãy mưu sự hiểu biết!.
  12. Kappa sống Phạm hạnh,
    Nếp sống có mục đích,
    Phải chăng sống như vậy,
    Là sống không uổng phí!
    Vị ấy chứng tịch tịnh,
    Hay còn dư tàn lại,
    Ðược giải thoát thế nào,
    Hãy nói chúng con nghe.

Thế Tôn:

  1. Vị ấy trên danh sắc
    Ðã đoạn tận tham ái,
    Thế Tôn ở nơi đây,
    Ðã trả lời như vậy,
    Vượt qua được già chết,
    Không còn có dư tàn,
    Thế Tôn nói như vậy,
    Bậc tối thắng thứ năm.

Vangìsa:

  1. Nghe vậy, con tịnh tín,
    Với lời nói của ngài,
    Bậc ẩn sĩ thứ bảy!
    Và lời hỏi của con,
    Không phải là vô ích!
    Và vị Bà-la-môn,
    Không có lừa dối con.
  2. Nói gì thời làm vậy,
    Thật xứng đệ tử Phật,
    Chặt đứt lưới rộng chắc,
    Của thần chết xảo quyệt.
  3. Ôi Thế Tôn, Kappa,
    Thấy căn nguyên chấp thủ,
    Thật sự đã vượt qua,
    Thế lực của Ma vương,
    Thế lực thật khó vượt.
  4. Ngài lớn hơn chư Thiên,
    Con đảnh lễ kính Ngài!
    Con đảnh lễ con Ngài!
    Bậc tối thượng hai chân
    Bậc Hậu duệ, Ðại hùng!
    Bậc Long tượng đích tôn.

Như vậy, Tôn giả Vangìsa nói lên những câu kệ của mình.

Lịch sự kiện trong tháng

Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5 Thứ 6 thứ 7 Chủ nhật
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30

Tủ sách Bảo Anh Lạc

Thư viện

Pháp âm