Home Page by K2 Home Page by JSN PageBuilder

 MỤC LỤC

 

Phần I: NĂNG LƯỢNG TÂM

1. Năng lượng tâm và nền văn minh tự hủy

2. Lấp lánh những góc nhìn huyền diệu

Phần II: MÊ LỘ TÂM

3. Hành trình siêu ý niệm

4. Cõng nghiệp rong chơi bên bờ vực thẳm

5. Vũ điệu ý niệm trong cơn đau bản thể

Phần III: TÂM BỆNH

6. Vi rút sóng tâm chiêu cảm nghiệp

7. Thấy bệnh & thấy tánh

8. Niềm ân huệ của bệnh nan y

Phần cuối

9. TÂM HỒNG DANH CHIẾU RA MIỀN CỰC LẠC

* Trong vũ trụ có trùng trùng thế giới. Toàn Giác là bậc câu thông cùng vũ trụ, họ cùng một thể tánh với vũ trụ, thấu suốt quy luật vận hành của vũ trụ rồi “truyền thần” lại sự thấy biết đó. Để thấy rằng Đức Bổn sưkhông sáng tạo ra vũ trụ, không chế định ra luật nhân quả luân hồi, mà vũ trụ vốn sống động từ vô thỉ dù Phật có ra đời hay không.

* Đạo Phật không phải triết học, càng không phải tôn giáo. Đạo Phật là tấm gương phản chiếu quy luật vận hành của vũ trụ nhân sinh vô cùng tận nên trong nó sẵn chứa thượng tầng triết học và huyền nhiệm tôn giáo.

* Bạn và tôi nếu không học giáo lý nghiêm túc, không chọn lấy một pháp môn rốt ráo thực hành đã khởi tâm bài Phật, là khác nào vừa lội qua đầm lại muốn dò lòng đại dương. 

 

 

 

Phần I

NĂNG LƯỢNG TÂM

 

Năng lượng tâm

& nền văn minh tự hủy

Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hết hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con người là một sinh thể gần như bằng không. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, con người vốn siêu việt, câu thông với vũ trụ, chứa thông tin vũ trụ và do đó sự tồn tại của vũ trụ có liên đới trực tiếp với con người. Chân lý tối thượng này mấy ngàn năm trước từ một người bình thường như bao người khác đã phát hiện thông qua sự giác ngộ toàn triệt - đó là Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Cho đến khoảng ba mươi năm trở lại đây, ngành khoa học tiên phong Vật lý lượng tử đã phần nào nhìn ra, khiến cho lời Phật thêm phần chói sáng; chứng minh tuyệt đối kinh Phật chẳng những là triết học mà còn là nền khoa học tối cao. Cũng đi đến một kết luận đặc biệt quan trọng: Hễ ai nói chỉ tin khoa học, không tin Phật giáo, họ hoàn toàn chưa tiếp cận đến nền khoa học đỉnh cao đang dấn mình về phía hư không đầy hấp dẫn.

Từ sự thấu triệt chân tướng vũ trụ nhân sinh, Đức Phật thuyết lại không thêm bớt. Một khi các nhà thiên văn học biết vũ trụ rộng lớn nhường nào, sẽ phần nào hiểu lẽ những ẩn nghĩa siêu hình trong kinh Phật. Siêu hình ở đây là siêu quá, vượt khỏi lối kiến giải thông thường. Thử nghiệm câu trong Bát nhã Tâm kinh: “Sắc tức thị không”. Sắc, hiểu thô là vật chất; đã vật chất sao lại không? Nói như giỡn chơi. Phải đến lúc khoa học phát triển, cùng với việc chia chẻ vật chất ra điện tử, trung tử, quang tử, lượng tử, cho đến hạt cơ bản, mới hay vật chất đó chính xác là huyễn tướng (Kinh Kim Cang: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”). So với các hạt Phật nêu như sắc tụ chi vi, cực vi chi vi (hay còn gọi lân hư trần), khoa học hãy còn rất xa mới thể hội tường tận. Thông điệp “Sắc tức thị không, không tức thị sắc; sắc bất dị không, không bất dị sắc” không đơn thuần dừng lại ở sự vi diệu đó. Nó là bản thể của chân tâm mà những vị tu chứng mới phần nào thâm nhập, nghĩa là vượt ngoài sự kiến giải để sờ chạm.

Một câu quen thuộc khác trong kinh Hoa Nghiêm: “Nhất tức nhất thiết” (một là tất cả). Một cộng một bằng hai. Bây giờ một gồm thâu tất cả, nghe thật buồn cười. Điểm này một học sinh tiểu học sẽ cùng ý nghĩ với phần lớn các bậc trí. Đến thời điểm giải Nobel Lý thuyết toàn đồ(1) thực chứng, chân lý này mới thoát khỏi nỗi ám ảnh siêu hình để đưa ra luận đề mới: Con người nhỏ bé với vũ trụ bao la có mối liên hệ mật thiết; mà theo Phật pháp là một thể thông qua sóng tâm. Bản kinh Báo hiếu phụ mẫu trọng ân cách nay gần ba ngàn năm Phật đã thấu rõ "thai mang một tháng mới như hạt sương rơi trên cỏ, tụ tán mong manh. Hai tháng mới như váng sữa. Ba tháng mới như huyết đọng…". Đọc những bộ kinh khác thực sự tuôn trào cảm xúc, như chính được quay về bến bờ sau nghìn trùng lưu lạc. Những bộ kinh Vô Lượng Thọ, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, A Di Đà, Địa Tạng, Đại Bảo Tích, Quán Kinh, hay bộ kinh trọng yếu khai tuệ là Lăng Nghiêm; nghe qua tưởng như những câu chuyện bình thường, thần thoại, huyễn hoặc nhưng nó tả về một cảnh giới cao vợi, ngôn ngữ thế gian khó tường giải. Triết gia Pháp Michel Foucault (1926 - 1984), một trong “tứ trụ” của chủ nghĩa hậu cấu trúc (post-structuralism) nói rằng con người sáng tạo ra ngôn ngữ nhưng lại bị đóng khung trong cái nghĩa hạn hẹp của nó(2). Cảnh giới chư Phật đưa ra vượt khỏi những định danh của ngôn ngữ, do vậy để hiểu đúng nghĩa chân thật phải từ trong ngộ tánh thông qua quá trình hành pháp miên mật. Kinh Phật vốn vô lượng nghĩa. Hành giả suốt đời tụng một bản kinh, mỗi ngày có khi tụng trăm lần, càng tụng trí càng sáng, càng thấy ẩn nghĩa lộ diện, niềm hạnh phúc tuôn trào. Rồi một khi cảnh giới nâng thêm, kinh ấy lại tự phát sinh nghĩa thâm diệu, tức nghĩa kinh vô hình. Cho đến lúc triệt Ngộ, toàn bộ chân kinh hiện trên mặt-phẳng-Tâm. Chẳng phải từ đâu tới, mà “viên minh châu” ấy một phen được vén bụi trần. Như chính lịch sử vũ trụ đã được Đức Phật “khảo cổ” chi tiết đến hạt vi trần. Chúng ta có thể bày ra triết học, khoa học tiến bộ nhất thế gian, sẽ thấy không gì ra ngoài Tam tạng kinh điển. Kinh viết: “Vạn pháp duy tâm” (không phải duy tâm trong triết học đối lập với duy vật), là cách mà khoa học ngày nay đang tiếp cận; họ thậm chí đã nén được nước thành “dao” cắt đứt cả sắt thép. Về mặt nhân văn, Đạo Phật chính là nền tảng, là thước đo cho mỗi sinh mệnh. Ai học Phật sẽ tự xếp chỗ đứng cho mình trong xã hội và các tầng hư không. Chạm vào mấy câu Chứng đạo ca, đã thấy thi pháp thơ lừng lẫy; dẫn vài Công án thiền đã hàm dung tuyến tính truyện điệp trùng. Lại thấy những gì con người sáng tạo thật nhỏ bé ngay trong sự nhỏ bé của xác phàm. Nhưng có một bí mật. Bí mật của toàn thể bí mật. Là, vũ trụ nằm trọn trong tâm mỗi con người.  

Nhiều khoa học gia hàng đầu thế giới chiêm nghiệm, trước khi vật chất hình thành nó nằm trong tâm trí chúng ta. Đức Phật lý giải vạn vật đều từ tâm sinh khởi, theo đó dẫu là một hạt vật chất nhỏ nhất cũng hàm dung vũ trụ. Từ việc truy tìm vụ nổ Big Bang, khoa học cảm nghiệm nó không hề lớn như tưởng tượng, mà rất có thể nguyên khởi từ trên bề mặt của một sợi tóc. Điều này tương hợp với lý thuyết Hiệu ứng cánh bướm(3), với ngành khoa học sai số. Từ kết quả của sai số (như số π chẳng hạn), người ta bỗng thấy tổng hợp những sai số nối nhau kia dễ dàng gây ra một dư chấn thảm khốc. Phật giảng, Tâm mỗi người dung chứa sức mạnh toàn thể, và mỗi ý nghĩ đều loang đến vô tận. Trong Kinh A Hàm Tiểu thừa thí dụ, con chim lúc sà xuống đậu trên cây cao chót vót với con chim lúc sà xuống đậu trên nhánh cây thấp, thì bóng của nó tiếp cận mặt đất đồng nhau. Mỗi niệm của chúng ta xuyên thấu hư không giới và do đó tác động đến vũ trụ nhân sinh, nhanh hơn tốc độ ánh sáng đến không thể so sánh. Thế nên Phật bảo trong các nghiệp chúng sanh gây ra, nghiệp ý là gốc rễ. Ta không đánh đập ai song những ý nghĩ sát, trộm, dâm, dối, tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến sẽ là năng lượngđen trước hết bao vây lấy mình rồi ảnh hưởng trực tiếp đến từ trường, đến thứ năng lượng sạch ở mọi pháp giới, chiêu cảm thiên tai. Phát loại ý nghĩ xấu ác, là đang xây “ngục” cho chính mình, trong lúc chúng ta lại tưởng là lâu đài, một lâu đài ảo ảnh. Ý nghĩ có mức thu hút thứ cùng loại vô cùng lợi hại, (có thể so với khoa học Luật hấp dẫn). Trong nhà nếu bài bạc, sẽ tự động hút những người mê trò này tụ đến; còn ta dẫu lặng lẽ tụng kinh, cũng sẽ tự động thu hút những Phật tử quanh đó. Ta nghĩ xấu, nó chiêu cảm những ý nghĩ xấu sẵn giữa không trung xoáy vào tâm; nghĩ thiện thì ngược lại. Xưa nay rất nhiều người hành trì pháp niệm Phật, niệm Chú, tụng trì Kinh, quán hơi thở, thiền minh sát,… tạo nên nguồn năng lượng tịnh khiết. Ta niệm Phật ở bất cứ thời điểm nào cũng là mở cánh cửa Tâm để nguồn năng lượng thiện ùa vào. Ở mức thấp khoa học cũng kết luận trí tuệ khởi nguồn từ lòng bi, ái mẫn, tận hiến vì người.

Để phát sinh trí tuệ, Phật pháp đưa ra phương pháp chế tâm nhất xứ; như ta thắp bóng đèn hàng ngàn watt (W) dẫu sao cũng là sự sáng, còn gom vào một điểm lượng sáng đó sẽ xuyên cả sắt thép. Nó khác với sự tích lũy tri thức thế gian. Đọc càng nhiều học càng nhiều, đa phần là sự cóp nhặt thông tin; một thiền sư gọi là kiến thức ao hồ (không phải loại kiến thức lòng giếng), rồi ta sử dụng nó theo một chiều hướng gọi là phản ứng trở ra từ những kinh nghiệm. Những khái niệm được chúng ta lưu cửu thành khuôn thước dựa theo nghiệp báo và sở thích. Rồi chúng ta dùng vô số khái niệm, kinh nghiệm phủ chụp lên thế giới quanh mình. Khoa học nêu danh từ reaction, kết hợp giữa repeat, và action. Thấy ai có biểu hiện về tinh thần và thể chất giống với cái ta lưu trong đầu, liền mang ra gán ghép họ vào. Điều này hết sức tệ hại đối với việc ta không biết gì lại phán cho người mắc căn bệnh ấy bệnh kia; mà theo Tâm lý học hiện đại và Duy thức học cùng với Luật xung động, ta dễ biến từ không [bệnh], thành (4). Chúng ta càng học theo kiểu chấp giữ khái niệm, nên vạn sự vạn vật phần nhiều bị bóp méo trở nên tuyệt đối với riêng ta trên cái tương đối của pháp giới toàn chân. Sức mạnh của nguồn năng lượng sạch sẵn mọi nơi mọi lúc, mỗi người đều có thể sử dụng một khi tâm không vọng động. Sự ngáng trở Tâm nối mạng với vũ trụ chính là vọng tưởng, hiểu đơn giản là nghĩ và tưởng. Bạn hãy nhắm mắt tự răn mình không nghĩ gì sất, sẽ thấy trong đầu là dòng sông cuồn cuộn ý nghĩ. Dừng hẳn nghĩ tưởng, tâm trở về trong lặng như tờ giấy trắng là ước vọng mà Triết học đã chạm tới. Là kiến tạo lại thế giới một cách ngây thơ sau khi đã giảm trừ toàn bộ hiện tượng để tiến đến bản chất do chủ thể cấp cho sự vật; ở đây phát sinh một điều mà Husserl gọi là tương đồng tính là năng tri (noema) và sở tri (noesis)(5). Sự ngây thơ ở đây chính là tờ giấy trắng của Tâm; cũng là Đạo mà Lão Tử đã thâm nhập. Với triết học đó là mong ước rất xa vời. Trong nhà Phật, tờ giấy trắng chính là Tâm tịch mặc trên sự định thường tại dẫu cho thế giới đảo điên thế nào chăng nữa; từ đây “sanh ra vạn pháp” như cách nhìn của thiền sư Huệ Năng lúc kiến tánh. Tâm ấy cũng là tấm gương soi chiếu vũ trụ mười pháp giới.

Bậc thức giả lỗi lạc Friedrich Nietzsche (1844 - 1900)nhận định: Phật giáo là tương lai của nhân loại được nêu ra trong tác phẩm Kẻ chống Chúa (còn được biết đến với tên Kẻ phản Ki-tô). Với cái búa trong tay, ông muốn tạo ra hệ giá trị mới gần như chống lại tín điều ngáng trở tầm nhìn của con người về vũ trụ. Từ khoa học nhìn về tôn giáo, AlbertEinsteincàng thấy rõ Phật giáo là khoa học của vũ trụ bởi sự hoàn thiện cả hai mặt tự nhiên và tâm linh. Qua Thuyết tương đối, ông chứng minh tuổi thọ con người tùy thuộc vào không gian. Thí nghiệm hai người cùng tuổi, một người vẫn sống dưới đất, người kia du hành trên trời, sau mấy năm hai bên gặp lại, người sống trên trời trẻ măng còn người kia thì già nua. Tiến sĩ, Hòa thượng Chin Kung trong thời giảng kinh Hoa Nghiêm có dẫn một câu chuyện được giới khoa học phát hiện không lâu sau Đệ Nhị Thế Chiến. “Chuyện kể rằng: Có một chiếc máy bay chở hơn năm mươi hành khách, bỗng dưng bay tới một chiều không gian khác! Rất may mắn, nó lại trở về. Sau khi trở về, đáp xuống một phi trường. Sau khi hạ cánh, mọi người cảm thấy rất ngỡ ngàng: “Chúng ta chẳng đến chỗ này, vì sao lại đáp xuống nơi đây?” Lại hỏi về thời gian của chuyến bay, tra mã số chuyến bay, đúng vậy, chẳng sai, ba mươi lăm năm trước có một chiếc phi cơ chở khách như thế bị mất tích. Bỗng nhiên nó đáp xuống, họ chẳng có cảm giác lâu lắc chi cả, từ chỗ kia bay tới chỗ này, chỉ là bay sai phương hướng. Sau khi đáp xuống, mới biết trong thế gian này đã hơn ba mươi năm trôi qua! Do mọi người đều cho rằng chiếc máy bay ấy đã gặp nạn, tiền bảo hiểm đã đều đền bù cả rồi. Họ đều quay về gặp người nhà của chính mình, chính họ chẳng già nua, giống như mới lên máy bay ngày hôm qua, hôm nay quay về, người nhà đều già khọm cả rồi! Đấy là chuyện phát sanh trên địa cầu, là thật, chẳng giả! Chiều không gian khác nhau, thời gian sai biệt lớn ngần ấy, khoa học chẳng có cách nào giải thích!” Còn như cảnh giới Cực Lạc được Phật Thích Ca giới thiệu trong Kinh A Di Đà, Vô Lượng Thọ siêu vượt 28 tầng trời(6); hay câu chuyện dân gian thường kể về người lên trời ba ngày lúc trở lại trần gian đã không còn tìm thấy người thân bởi đã trôi qua ba trăm năm, thực sự có căn cứ khoa học(7). Với Nguyên lý Vũ trụ toàn ảnh, thế giới này vốn dĩ đang trong một giấc đại mộng! Hãy tưởng đến, đang giữa ban ngày bỗng cô gái thấy phía trước người yêu (đã chết từ lâu) nói chuyện với ai đó. Cô dụi mắt ào tới (để biết mình không mơ). Vòng tay giang rộng, nhưng cô gái, thật đau đớn, bởi đó là ảnh được chiếu từ bộ máy tinh vi bậc nhất hiện thời. Các nhà lượng tử chứng minh thuyết phục cuộc sống của ta đều từ [não bộ] chiếu ra; thế giới này là ảnh được chiếu từ một a-lại-da tổng thể. Phật giảng từ rất xưa: “Nhất thiết pháp hữu vi như mộng, huyễn, bào, ảnh. Đại sư Vĩnh Gia thốt lên: “Trong mộng rõ ràng có sáu cõi”; tu chứng rồi thì “không cả đại thiên”. Để thấy rằng [phàm] nhân loại đang trong giấc mộng mà Đức Phật luôn gắng đánh thức bằng ngàn vạn pháp môn, để ít nhất không lao về phía vực thẳm; để ít nhất mỗi người thấy mình với mọi người mọi vật trên thế gian đều “nối mạng” vương víu với nhau trong một vở kịch bi hài.

*

Qua lý thuyết Hồi quy vĩnh cữu (eternal recurrence), Nietzsche thừa nhận sự thay đổi và tuần hoàn của vạn vật chứ không hề mất đi. Điều này là những “phác thảo” về thuyết Luân hồi trong Kinh Phật. Khoa học đã tiến rất xa so với bộ máy cồng kềnh ì ạch của xã hội vật chất. Nhiều báo cáo uy tín trên thế giới bảo vệ mỹ mãn thuyết con người chết vốn như lật giở sang trang, theo nghiệp mà tái sanh trong một kiếp khác. Thí nghiệm ở phòng cấp cứu những bệnh viện lớn với hàng trăm trường hợp chết lâm sàng, lúc sống lại họ đã kể về việc thấy xác mình nằm dưới như thế nào, thấy lại người thân đã qua đời, thấy vô vàn hồn ma tàn ác bao vây đòi nợ báo oán,thấy thần linhv.v(8). Thuyết Hữu sinh trung tâm luận (lấy sự sống làm trung tâm) “giải thích những sự kiện kiểu như những kinh nghiệm cận tử, xuất hồn, thoát xác và thậm chí là sự đầu thai mà không cần đến quan niệm tôn giáo”. Giáo sư Stuart Hameroff ở ĐH Arizona khẳng định dứt khoát rằng “có sự hiện hữu của một linh hồn thường hằng (eternal soul)… Bộ não của con người là một máy tính lượng tử hoàn hảo và linh hồn hay ý thức đơn giản là thông tin được tích trữ ở vào cấp độ lượng tử. Linh hồn có thể được truyền đi, sau cái chết của thân xác”.“Thời khắc tử vong” tạo nên những “ấn tượng thiên đường” sâu đậm, tạo nên một thế giới lộng lẫy của sự sống đằng sau cuộc chuyển kiếp bi hùng. Báo cáo khoa học thực nghiệm của Giáo sư Stephenson, ông đã miệt mài trong hơn 40 năm chứng minh luân hồi có thật qua việc thu thập lượng bằng chứng khổng lồ, nghiên cứu tường tận 3.000 trường hợp rất điển hình. Qua đây ông từng được giới khoa học mệnh danh là “Galileo Galilei của thế kỷ 20”. Để thấy về Đầu thai chuyển kiếp, xét ở góc độ khoa học, rốt ráo mà nói, đã được chứng minh quá rõ ràng, đã hoàn thành đã xếp lại rồi. Vấn đề là ta không quan tâm không muốn chạm đến, bởi thường vẫn nghĩ “chúng” không liên quan đến cuộc sống của mình; vũ trụ rộng lớn ngoài kia không mảy may liên quan đến sự nghiệp và vận mạng của mình.

Gần đây có phát hiện chấn động về sóng hấp dẫn (gravitational wave) cách trái đất 1,3 tỉ năm ánh sáng(9). Trong Kinh Phật chẳng có gì lạ lẫm, mà sóng ấy ở ngay cạnh mỗi người từ vô thủy, chỉ là khoa học chưa thể chứng minh đó thôi. Lúc ta nghĩ về một người thân trong xóm so với nghĩ về một người thân cư trú ở nước ngoài đều thông đến nhanh như nhau. Đệ tử Phật môn, hễ vừa khởi tâm động niệm đã biết niệm kia trùm khắp vũ trụ rồi, và vũ trụ cũng đã “hồi âm” về chính họ vô vàn những niệm tương đồng. Luận từ Bồ tát xứ thai kinh, một niệm xuất ra ước khoảng 1 ngàn 6 trăm triệu phần của giây. Khoa học nếu chế ra loại đồng hồ chia một giây thành tỉ tỉ phần, mới cảm được không gian là zero. Cộng với việc thu tần sóng giữa trời đất đã phần nào biểu hiện không gian hẹp đến mức nào. Nếu thật có không gian, thì trong một sát-na sao cách cả đại dương có thể bắt được sóng? Nếu thời gian là thật sao những sự kiện xảy ra trong quá khứ, khoa học vẫn thu được vẹn nguyên trong không gian mênh mông này. Còn với những bậc đã thâm nhập cảnh giới, họ chỉ sống với thực tại, cái thực tại soi chiếu quá khứ - hiện tại - vị lai trên mặt phẳng của tâm thức như gương, vượt ngoài thời không. Điều khả dĩ, khoa học đã tìm ra mối liên hệ mật thiết giữa mỗi cá nhân với vũ trụ thông qua sóng. Dẫu khoa học còn chưa thể biết sóng này xuất phát từ Tâm, chứ không phải bộ não. Thí nghiệm của BBC cho thấy ý niệm từ tâm có trước khi tác động lên não là 6 giây! Sóng Tâm. Quá trình mắt (6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) nhìn thấy một vật (tiếp xúc với trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), được đưa vào sâu trong thức thứ 8 alaya so sánh với những thứ lưu sẵn từ kiếp này hoặc tiền kiếp rồi sanh khởi tâm thích hay ghét mới dội ngược lên não (thời gian trong khoảng 1 phần tỉ giây). Đòi hỏi người tu phải thâm nhập Thiền thâm diệu mới cảm nổi. Chẳng hạn khoa học chứng minh có một cõi sau cái chết, con người thoát xác vẫn còn đó, nhưng khoa học không nhìn thấy. Rồi tương lai khoa học nếu bảo vệ thành công thuyết có tồn tại các cõi Quỷ, Địa ngục, Thiên giới chăng nữa, cũng không thể nhìn thấy chúng sinh ở mỗi cõi đó, trừ phi họ hành Pháp đắc đạo (chứ không phải học Pháp). Sự nhìn thấy này chính là Tâm trong veo như gương, và các cảnh giới tự hiện. Nói đúng hơn, Tâm mỗi chúng sanh vốn đã là tấm gương lớn (đại viên kính trí) phản chiếu toàn vũ trụ, chỉ là tạm do nghiệp phủ mờ. Hiểu trên phương diện khoa học, mỗi người vốn có tính chất của một dạng ăng-ten thu và phát sóng không ngừng. Ai không nhận được là do tâm vọng. Việc bậc tu hành chứng ở quả vị đầu tiên rồi quả thứ hai Tư đà hàm có Tha tâm thông, biết được ý nghĩ của bất cứ người nào trên thế gian, là sự thể không quá xa vời trong hạn hữu cái biết của Lượng tử học. Tôi hồi chưa học Phật từng có duyên gặp một vị ẩn tu, mà mình vừa nghĩ gì họ đã biết, nói ra cho tôi hay, khiến tôi xấu hổ cùng tận! Chợt nghĩ tương lai khoa học sẽ sáng tạo ra máy phát hiện mọi ý nghĩ của con người, (và tai hại thay nếu nó luôn hiện trên màn hình công cộng); hẳn ai nấy sẽ tự hiểu cái hẹp hòi của tri thức không giải quyết được phiền não, nghiệp nạn nếu không thực hành chánh pháp. Ở công trình Nước kết tinh của tiến sĩ Emoto đã cho thấy ý nghĩ của con người tác động trực tiếp đến vạn sự vạn vật(10). Sự tác động ở đây nếu hiểu rộng là do tác động của ý từ Tâm mỗi người. Vật lý lượng tử xem ý thức cũng là dạng “hạt siêu vị trí”, một khi vật được tác động bởi ý sẽ đổi khác và đặc biệt tạo nên “sự dao động toàn phần”. Từ những hành vi thường tình mà xét, chưa bàn đến sự gây rối xã hội thông qua thân và khẩu, ai hàng ngày với ý nghĩ thuần thiện chính họ là “diệu hảo nhơn”, góp phần hài hòa thế giới. Ở đây xin dừng lại để cúi lạy các bậc xuất gia tu hành chân mật. Chính họ, nhờ việc nhất tâm hành trì kinh giáo phát ra năng lượng tịnh khiết cùng với lực gia trì của chư Phật và Bồ tát đã giữ cho trái đất được trường tồn, giữ cho phước mạng mỗi người không phân biệt bản tánh ra sao. Chúng ta khỏe mạnh hạnh phúc tưởng chỉ nhờ mồ hôi nước mắt của mình âu là sự thật quá đỗi lầm. Chúng ta không hiểu nên không khởi lòng tri ân ấy là lỗi lỗi quá chừng. Ai với ý nghĩ ác (vượt khỏi khuôn Thập thiện Ngũ giới) là góp phần phá hoại thế giới. A truy đuổi B, không thấy B nhưng thấy xe của B liền thả sức đập phá; là A đang xả vào không gian một nguồn nhiệt lượng ác loang mãi và đến một ngày sẽ trở về với chính A. Hoặc, Y trả thù đánh Z; việc hại người này nhiều đôi khi tội không lớn bằng lượng từ trường sân giận Y phóng vào vũ trụ. Hay đó là việc một người chỉ ở trong nhà (xem như vô hại), song luôn luôn thù hận hằn học hoặc xem đồi trụy trên internet dậy nên vô vàn ý nghĩ độc... Thử cho một giọt mực vào bể, không cần tác động, hãy để yên như vậy sáng mai ta sẽ thấy giọt mực kia hòa khắp cùng nước trong bể. Lại hỏi nước biết giận hờn chăng? Câu trả lời từ khoa học là “Biết”. Kinh Hoa Nghiêm: “Tình dữ vô tình đồng viên chủng trí”(11). Nước hiểu sâu sắc ý nghĩ con người. Loại năng lượng xấu ác từ nhân tâm đang ngày càng gia tăng, đồng nghĩa với việc nước trong đại dương sông bể ngày một giận dữ. Nhân đã có, một khi vướng duyên sẽ tạo quả, cơn giận của nước bùng lên thành sóng thần. Động đất, thiên tai địch họa xét đến cùng cũng từ nguyên lý này. Ai chứ các nhà khoa học tiến bộ thì tin, vì họ đã mãn nguyện lý thuyết này.

Con người có thể bay lượn, biến hóa như chàng Ngộ Không? Trong Phật pháp, đây là sự thường. Vấn đề ở chỗ vọng niệm trùng trùng. Lưu một kỷ niệm, nó nằm đó mãi, bởi ta mê, luôn muốn bộ não chiếu lại nhấm nháp. Không cách gì xóa. Khoa học phát triển tới đâu cũng không giải quyết nổi vấn đề này. Bởi vọng chỉ được đẩy lùi thông qua việc chọn một Pháp môn trong nhà Phật quán sát tâm thời thời khắc khắc, gần như buông bỏ vạn duyên mới mong tiếp nhập cảnh giới siêu phàm. Ta mê tài - danh - sắc - thực - thùy, bị dục lôi kéo bởi ký ức quá đậm. Người bậc thấp thì mê sắc dục - ăn uống - ngủ nghỉ; người cao hơn thì mê tài - danh, hoặc họ mê tài danh dựa trên sắc thực thùy. Đều là do tham và mạn sai sử, mà gốc là do nghi lời Thánh hiền. Nếu ta nhạt bớt tham, ngã mạn, lợi dưỡng, làm trước hết vì người, thì tài danh vô hại, tài danh cần phát huy, còn không đều nằm trong khuôn khổ tham, đều nằm trong lâu đài của ảo ảnh. Sao ta mong Tết, trong lúc tháng năm vẫn nhẹ nhàng trôi; chính bởi tàng thức lưu giữ những hoa hòe, anh em xa gần hội ngộ, ta lưu hình ảnh bữa cơm tất niên, lộc lì xì, ta lưu cữu những bài hát về mùa xuân và phút giao thừa thiêng liêng, ta lưu giữ bổng lộc và tiền thưởng hậu hĩnh. Chúng đều là nhiên liệu nghiệp thức phóng “linh hồn” vào vòng luân hồi kiếp tới. Tưởng?! Tưởng đến niềm vui nhưng không có trước mặt, liệu có phải khổ? Tưởng đến nỗi buồn liệu nỗi buồn có vơi hay nhân lên gấp bội? Những câu hỏi luôn có đáp số rõ ràng nhưng ta vẫn lao theo. Người vợ mất chồng đang tuổi xuân thì ngày đêm chiếu lại những thước phim quá khứ; xem đến hao kiệt nguồn sống, phát bệnh rồi tự kết thúc vận mạng. Chính những lúc tâm chao lộn về những thời gian vàng phủ bụi hay ngược về tưởng cảnh người chồng bỗng làm cuộc trở về trong tưởng tượng, là thân đang ngồi lại với một hiện tại bạc nhược ươn hèn. Khoa học cảnh báo tưởng về quá khứ là ném sức mạnh về quá khứ, tưởng về tương lai là ném sức mạnh về tương lai. Quả, diệu lý. Mọi huyễn tướng đều ảo ảnh nằm trong “ngũ ấm ma” như Phật đã dạy; và dĩ nhiên ta hành pháp mới dần nhạt đi huyễn giác, ai thực tu sẽ có cơ duyên ra khỏi ảo ảnh, do đó họ tuyệt đối chạm được thứ hạnh phúc thật, không ảo.Cái này nếu đem kiến giải thông thường thì đến Phật cũng oan! Rất nhiều bậc đạt trình độ giảng bất cứ bản kinh nào với lượng thông tin mênh mang như biển cũng không cần suy nghĩ, không cần chuẩn bị mảy may. Nó thuộc về quả vị Vô Học xuất thế. Thiền tông luôn khuyên nhắc hành giả phải an trú trong thực tại, thực tại của từng giây sanh diệt. Tịnh tông khuyến tấn đặt câu Phật hiệu trong tâm không gián đoạn.Sông đời luôn cuộn xoáy. Ta lao theo vọng tưởng là buông thả cùng luân hồi. “A Di Đà Phật”; ý nghĩ hình ảnh vừa khởi, ta vin lấy nó sẽ phác lộ sự an lạc ngay giữa trần lao. Câu Phật hiệu này vốn là “bí kíp” đầy trí tuệ của Phạm Công Thiện. Câu này ai không thực tu mà cầm cũng bằng mê tín, rất tầm thường; ai hạ thủ công phu thực hành là cứu cánh tối thượng.

Khoa học thực nghiệm, nếu hút hết cái không trong mỗi người thì lượng vất chất còn lại chỉ bằng một hạt bụi. Nhưng cái file chứa lượng thông tin khổng lồ trong quá trình sống lại vĩnh hằng. Chẳng hạn tương lai dữ liệu cá nhân không cần lưu trong vi tính trong các ổ đĩa nữa, mà lưu trong box đám mây, không cần mang theo bất cứ gì ta cũng lấy được chúng. Với ngành Vật lý, chỉ nói đến hạt trung tử thôi, nó đã tự tại phiêu du không chướng ngại xuyên qua tấm sắt dày hàng vạn km. Một cục sắt? Nó đâu phải vật chất, nó là sự hội tụ của hàng tỉ các hạt - đơn giản thế thôi. Có vậy các đệ tử Phật tu ở mức đưa được tâm về không, họ không còn ý niệm về một cái ta hiện hữu (nhân tướng), không ta sẽ không cảnh (ngã tướng), mới xuyên tường tự tại. Sự tiến bộ của khoa học, nhìn từ Phật pháp, quả vạn lần bội phục. Người ta có thể chụp gen của một người, rồi bằng công nghệ in 3D phun ra (như kiểu in phun lên giấy) bức tượng y hệt. Thử nghiệm “xây” cây cầu nhỏ theo dạng chất liệu phun đôi khi mắt không nhìn thấy, đã hoàn mỹ. Tương lai những ngôi nhà hẳn cũng được xây dựng theo cách phun này; rồi những công nghệ kiểu “nhân bản vô tính” chẳng có gì lạ. Nhưng đó thực là thảm họa. Một khi không ngăn được việc “copy” những con người giống hệt bằng xương thịt nhưng với một tâm hồn vô cảm sẽ sớm hại diệt hành tinh xanh. Ngành khảo cổ học đã phát hiện, khoảng 6 vạn năm trước từng tồn tại đế chế Atlantic phát triển cao siêu đến độ phương tiện giao thông không tiếng động, lấy năng lượng sạch từ không trung nên cũng không ô nhiễm; con người thì đạt đến “sự hưởng thụ điên cuồng”, đắm trong Dục! Kết quả là thảm họa bị nhấn chìm xuống đáy biển Đại Tây Dương. Trong Phật pháp cuộc sống giản đơn vẫn mang lại hạnh phúc viên mãn, ở đó giàu sang, danh vọng và sự hào nhoáng vật phẩm không liên quan. Một khi ai “phát tâm” hưởng thụ, là mở đầu cho chiến dịch tạo nghiệp (như nguồn điện năng đang cung cấp cho bóng đèn quả ớt bỗng bị cắm thêm bàn ủi, lò sưởi), phước mạng tiêu hao ngồn ngộn khiến con đường dẫn đến tai nạn, đến bệnh viện và đến nghĩa trang ngắn hơn bao giờ hết. Tất thảy mọi tài sản ta có, cho đến sự bình an nói chung, đều nhờ Phước trong Mạng. Phước như dầu trong đèn, nhưng khác là ta không biết phước còn bao nhiêu, nên cứ đốt và không nghĩ đến việc tích phước chêm dầu. Liên tưởng đến tư tưởng “hãy tận tình hưởng thụ cuộc sống đi, ngày mai khó mà đoán trước” của người dân trong kinh thành La Mã cổ đại Pompeii vào năm 79 SCN; nay các nhà khoa học tìm thấy nguyên nhân chính từ dòng chữ khắc trên vách tường với lời nhắc nhở về tội ác từ sự hưởng thụ dục lạc vật chất đã đến mức đầy ứ.

Thời đại mà thế giới đang thu hẹp trên một mặt phẳng, việc khởi ý niệm của mỗi người thật sự quá lợi hại đối với sự an nguy của địa cầu. Chuyển vào thế giới mạng một mẩu tin xấu, nó dội nghiệp thức về tác giả (nhận phần trăm) cho đến khi mẩu tin đó vĩnh viễn biến mất khỏi hành tinh ở sự tướng. Những người có ảnh hưởng lớn đến số đông, từ hành vi lời nói, cho đến sản phẩm được truyền tải qua sách báo, băng đĩa, chẳng thể không suy ngẫm. Việc nhận diện ta với vũ trụ có mối liên hệ “huyết thống” thật sự quan trọng để góp phần cứu vãn thế giới bên bờ hủy hoại mau chóng. Tại những hội nghị hòa bình, đối phó thiên tai quốc tế thời gian qua, nhiều khoa học gia không khuyên giải giáp vũ khí không khuyên chống chiến tranh, mà khuyên nhân loại mỗi người hãy ý thức việc bỏ ác hành thiện, đoan chánh tâm niệm; thật sự là đang nhìn theo luồng ánh sáng chiếu từ “lỗ đen” của vũ trụ, thật sự đang nhìn theo cái nhìn Đức Phật trong ánh hào quang của từ bi vô lượng.

 

 

----------------------

(1)Lý thuyết toàn đồ hay còn được biết đến với tên gọi Lý thuyết não bộ toàn ảnh (the holonomic brain theory), được phát triển bởi khoa học gia thần kinh Karl Pribram trong một sự kết hợp với nhà vật lý lượng tử lừng danh David Bohm; lý thuyết là mô hình về sự nhận thức của con người qua việc mô tả não bộ như là một hệ thống liên mạng tích lũy mang tính toàn ảnh (holoraphic storage network) - (Tuệ Đan hiệu đính).

(2) Michel Foucault: Nếu thử một lần tháo dỡ toàn bộ ngôn ngữ hiện có trên thế giới này thì nhân loại khi ấy chẳng còn lại gì cả. Còn với nhà triết học Pháp Jacques Derrida (1930 - 2004), cha đẻ của thuyết Giải kiến tạo (deconstructionism): Sự định danh luôn đánh mất những chân trời ý nghĩa của ngôn từ; khi một sự vật được định nghĩa như là một cái gì đó (trong từ điển chẳng hạn) thì chính lúc ấy những cách hiểu khác cũng như những cách định nghĩa khác về nó sẽ bị khép lại và bỏ qua, sự định danh vô tình làm nghèo nàn đi tính biểu tượng của ngôn ngữ. - (Tuệ Đan hiệu đính).

(3)Hiệu ứng cánh bướm (butterfly effect) quan niệm rằng những nguyên nhân nhỏ, yếu hay không quan trọng lại có thể gây ra những kết quả to lớn. Trong lý thuyết hỗn độn (chaos theory), hiệu ứng cánh bướm là sự phụ thuộc về độ nhạy dựa trên những điều kiện ban đầu, ở đó, sự biến đổi rất nhỏ trong một trạng thái của hệ thống phi tuyến tính xác định cũng có thể mang lại kết quả trong những sự khác biệt to lớn nơi một trạng thái sau đó. - (Tuệ Đan hiệu đính).

(4) Lượng tử học cho rằng một sự vật sờ sờ trước mắt, ta cũng chỉ tiếp cận được với bản chất sự thật của nó rất hạn chế, thậm chí là một phần tỉ; rất khế lý Phật pháp. Đức Phật chỉ ra bởi phía sau mỗi hành động của chúng sanh là con tàu nghiệp lực sai khiến (oan gia trái chủ từ hữu hình như các loài vật hay người bị mình giết, phá thai, từ những ý nghĩ xấu do tâm mình phóng ra, và do tập khí huân tụ từ kiếp này và tiền kiếp). Chẳng hạn một vụ án đương sự đã thú nhận với đầy đủ tang chứng vật chứng; nhưng trường nghiệp lực sai khiến thôi thúc phạm nhân kia hành ác thì chỉ có bậc tu đạt Thiên nhãn thông mới thấy. Theo đó mọi hành vi trong đời đều như một ngọn tháp vĩ đại sừng sững giữa trời với vô vàn mặt song ta chỉ thấy được một mặt hướng về phía mình. Ta, thực không thể gọi là làm chủ được mình một khi Tâm chưa gạn lọc đến mức tịnh khiết; chẳng hạn ý muốn một cái gì nổi lên liên quan đến dục lạc, liệu có cưỡng lại? rồi ý nghĩ ấy dồn dập, chiêu cảm thêm năng lượng tương đồng sẽ đẩy ta đến hành động - là lộ trình của nghiệp [karma] đi từ nhân tương tác với duyên tạo quả.

(5) Triết gia Đức Edmund Husserl (1859 - 1938) đưa ra ba giai đoạn để đạt được yếu tính thuần túy của sự vật: (1) giảm trừ triết học hiểu như là hoài nghi, gạt bỏ tất cả những gì chúng ta đã học, đã biết từ sách vở, truyền thống, tập tục, lối sống…; (2) giảm trừ bản chất, nghĩa là đóng ngoặc mọi hiện tượng (khoan vội phán đoán quy kết định danh), tiến hành tìm lại kinh nghiệm ban sơ như lúc đầu ta bắt gặp thế giới, đến giai đoạn này điều quan trọng là ta phải biết gạt bỏ “thiên khiến thế giới”; (3) giảm trừ hiện tượng học, nghĩa là kiến tạo lại thế giới một cách ngây thơ sau khi đã giảm trừ toàn bộ hiện tượng để tiến đến bản chất do chủ thể cấp cho sự vật, ở đây phát sinh một điều mà Husserl gọi là tương đồng tính là năng tri (noema) và sở tri (noesis). - (Tuệ Đan hiệu đính).

(6) Vào giữa tháng 12 năm 1993, sau khi phi hành gia người Mỹ sửa chữa lại kính viễn vọng Hubble, vỏn vẹn trong vài ngày liền xuất hiện kỳ tích, kính viễn vọng hướng về một chòm sao thiên thể xa xôi, kết quả là đã chụp lại được “Thế giới thiên quốc” tươi đẹp ở trong vũ trụ. Ngày 8 tháng 2 năm 1994, tuần báo tin tức thế giới đã lần lượt đăng tải bức ảnh này, đồng thời cũng báo cáo về phát hiện của tiến sĩ Marcia Masson. [Tiểu Thiện, dịch từ Renminbao; theo tinhhoa]. Bức ảnh “Thế giới thiên quốc” hiện có trên internet.

(7) Theo Kinh Phật: Tuổi thọ thiên nhơn ở trời Tứ đại thiên vương là 500 năm (1 ngày đêm bằng 50 năm cõi hạ giới), tương đương với 9 triệu năm cõi người; ở trời kế tiếp Đao Lợi, một ngày một đêm bằng 100 năm ở cõi người, tuổi thọ trung bình là 1.000 tuổi; cứ thế tăng lên đến cõi trời Dạ ma, Đâu suất, Hóa tự tại, Tha hóa tự tại, v.v; đến tầng trời cao nhất Phi tưởng phi phi tưởng là tám vạn đại kiếp (mỗi đại kiếp tương đương với một lần trái đất thành - trụ - hoại - không); người ở cõi trời Phi tưởng này sống hoàn toàn trong định, nhưng vẫn cứ hết phước hết thọ mạng lại “rơi xuống” luân hồi trong lục đạo (trời, người, a tu la, súc sanh, quỷ, địa ngục), chưa ra khỏi Tam giới, tức chưa chứng quả thánh đầu tiên Tu đà hoàn theo tầng bực thuộc Nhị thừa giáo; đến quả thánh thứ tư A la hán mới thoát nghiệp tử sinh; hoặc thù thắng hơn là những hành giả thuộc Tịnh độ tông tu niệm A Di Đà Phật đạt Nhất Tâm Bất Loạn cầu sanh về thế giới Cực Lạc.

(8) Người ta đặt những vật trên những cái giá đỡ sát trần khoa Cấp cứu, được thay đổi thường xuyên, không ai có thể nhìn thấy, ngay bác sĩ ở đó cũng không được biết. Khi hồn lìa xác thường ở dạng chân không nhẹ bẫng, “họ” nâng dầng lên và vô tình thấy những vật trên giá đỡ. Sau này sống lại, những người đó được phỏng vấn đã kể tường tận sự kiện bỗng nhiên thoát xác. Trong đời thường ở bất cứ quốc gia nào những chuyện tương tự đếm không xuể.

(9) Ngày 14/9/2015, Đài quan sát sóng hấp dẫn giao thoa kế laser (LIGO) bắt được tín hiệu sóng hấp dẫn từ hai lỗ đen va chạm nhau cách Trái đất 1,3 tỉ năm ánh sáng.

(10)Thuyết Bất định (uncertainty principle) của Heisenberg cho rằng cùng một lúc không thể xác định đồng thời vị trí và vận tốc của một điện tử hay lượng tử; xác định cái này thì cái kia trở nên bất định và ngược lại, bởi do tác động chủ quan từ đối tượng thí nghiệm (như dụng cụ đo, phép tính, xử lý số liệu).

Trong Thông điệp của nước, tiến sĩ Masaru Emoto, giám đốc Viện Hado ở Tokyo, Nhật Bản, đã trình bày những kết quả chụp ảnh có độ phân giải lớn từ những tinh thể nước với kích thước siêu nhỏ. Nghiên cứu được thực hiện: cho nước tiếp xúc với một tác nhân có ý thức như suy nghĩ, âm nhạc, ngôn ngữ, từ ngữ hay một yếu tố vật lý, (không gian không giới hạn, ví như đặt cốc nước ở Mỹ nhưng người tác động suy nghĩ xấu hay tốt ở Việt Nam) sau đó nhỏ giọt nước ra khay rồi đem bỏ vào tủ lạnh, hạ nhiệt độ xuống còn -0C để nước kết tinh thành băng, nhanh chóng lấy ra đặt dưới kính hiển vi có độ phân giải cao để chụp lại mẫu tinh thể của nước; phát thông tin xấu nó xấu như lá mục, phát thông tin tốt nó như hoa tuyết kim cương; với câu hồng danh “Nam mô A Di Đà Phật”, câu chú “Um ma ni bát di hồng” hay cho nước nghe Kinh thì kết tinh mỹ mãn - (Tuệ Đan hiệu đính).

(11) Loài hữu tình (con người, động vật nói chung) và vô tình (thực vật, khoáng vật…) đều chung một bản/tánh thể, đều có kiến (tánh thấy), văn (tánh nghe) giác (tánh nhận thông tin), tri, v.v. Đây vốn là [Pháp tánh] bản nhiên của muôn vật. Theo kinh Phật, chẳng phải riêng nước mà ngay cả sơn hà đại địa đều có thanh, sắc, hương, vị; đều là khởi từ chúng duyên hòa hợp mà sanh khởi (như con người) và đều có mối liên hệ với con người trong một trường sóng nhất định. 

 

 

Lấp lánh những góc nhìn huyền diệu

Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong trong việc mở hướng nhìn ra ngoài thế giới. Nhiều báo cáo đúc rút từ những công trình khám phá vũ trụ đã làm thay đổi nhận thức về vạn vật. Để kết luận nước có tri giác, hiểu được ý nghĩ con người, tiến sĩ Masaru Emoto đã thí nghiệm hàng vạn mẫu nước. Dẫu rất nông cạn, song tiếp cận với nhiều thành quả khoa học công bố mới nhất, chúng tôi thấy rất gần với Kinh điển Phật giáo.

Bầu trời chúng ta ngước nhìn, khoa học ước đếm có hàng tỉ ngôi sao. Mà trái đất chưa thể lớn bằng một ngôi sao. Phi thuyền của nhân loại mới chỉ bay đến một số ngôi sao gần nhất trong hệ ngân hà. Giáo lý Phật môn mô tả, một dải ngân hà được gọi là đơn v thế giới. Cứ một ngàn dải ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Trong vũ trụ lại có trùng trùng đại thiên thế giới như vậy. Toàn giác là bậc câu thông cùng vũ trụ, họ cùng một thể tánh với vũ trụ, thấu suốt quy luật vận hành của vũ trụ rồi “truyền thần” lại sự thấy biết đó. Để thấy rằng Đức Phật không sáng tạo ra vũ trụ, không chế định ra luật nhân quả luân hồi, mà vũ trụ vốn sống động từ vô thỉ dù Phật có ra đời hay không.

Những công trình khoa học đem đối sánh với kinh điển nhà Phật đã phần nào hé lộ chân tướng nhân sinh vũ trụ bí ẩn. Nước Mỹ từng có hai vệ tinh đặt ở bắc bán cầu và nam bán cầu để đo từ trường của trái đất. Một ngày tháng 9 năm 2001 bỗng từ trường của trái đất cong vênh. Những nhà khoa học trực tại đây chưa từng thấy hiện tượng đột biến này. Đến lúc những chiếc Boeing đâm vào tòa tháp đôi New York gây ra đại họa thảm khốc, mới vỡ lẽ. Một nhóm người ít ỏi phát ý niệm cực xấu, nguy cơ làm hại nhiều người đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến từ trường trái đất. Khoa học hiện đại kết luận, vật chất vốn không có; vật chất chỉ là sự dao động trường. Theo tiến sĩ vật lý lượng tử của Đại học Harvard John Hagelin (Giám đốc Liên Hiệp toàn cầu khoa học gia cho Hòa bình Quốc tế, là người đã phát triển lý thuyết "Trường đại thống nhất dựa trên siêu dây" của A.Einstein): “Ý niệm là dạng dao động sóng phát ra sẽ biến đổi từ trường, có thể ảnh hưởng cả một thành phố”. Còn chân tướng sự thật thì sao, theo lời dạy của các vị minh sư cũng như trong Kinh điển, mỗi ý niệm dầu nhỏ nhiệm là "nhổ một sợi lông chấn động toàn thân", nên một ý niệm của riêng mình có thể chấn động tận hư không khắp pháp giới. Năng lực của tâm quá lớn, thật ngoài sức tưởng tượng, thậm chí còn hơn cả bom nguyên tử như một thiền sư từng ví. Tâm chính là pháp giới; toàn cả vũ trụ chính là tâm mình.

Đức Phật dạy: "Tất cả các pháp từ tâm tưởng sanh". Kinh Kim Cang: “Phàm những gì có hình tướng đều hư vọng”. Đến nay ngoài những công trình vĩ đại khiến Phật pháp thêm sáng thì khoa học không thể chứng minh điều ngược lại. Một giây con người phát xuất hàng tỉ ý niệm, thì còn gì trong tam thiên đại thiên là ngoại vi của Tâm. Theo Phật Di Lặc, một giây người phàm phát xuất ra 1280 triệu ý niệm tế, cũng là điều mà khoa học đã nhìn ra. Ấy chính là vọng tưởng đảo điên. Những học giả hàng đầu thế giới khuyên người đời nên nối mạng với làn sóng từ vũ trụ. Năng lượng thiện vốn sẵn trong trời đất, ta vừa mở tâm thiện lập tức nó ùa vào. Khoa học thấy giữa người với người đều “nối mạng” tư tưởng với nhau, không ai đứng độc lập giữa vũ trụ bao giờ; nghĩ ác thì hút vào năng lượng ác, sự chiêu cảm tự nhiên này thật đáng sợ. Lòng sân hận của giống loài trên hành tinh cộng lại tạo nên sóng thần cùng bao thiên tai ác chướng. Khoa học minh chứng được mức độ biểu cảm của nước. Nếu ta hòa ái với nước, bức ảnh chụp nước kết tinh đẹp như hoa tuyết; nếu khinh khi sân hận và sử dụng nước phí phàm, kết tinh chụp được xấu như một quả thối. Cơ thể người nước chiếm từ 50-70%, là “nói” lên điều gì? Tác phẩm Vạn vật của Vũ trụ Hồng trần của giáo sư Eddington đưa ra một kết luận: “Nếu chúng ta loại bỏ hết các khoảng trống không trong thân thể con người và góp lại những chánh điện tửvàđiện tửcủa con người làm thành một khối, thì xác thân của chúng ta chỉ còn nhỏ bằng hạt bụi, phải dùng kính phóng đại mới vừa đủ thấy mà thôi”. Ngạc nhiên chưa. Nước có biểu cảm, có “kiến, văn, giác, tri”; nước hiểu sâu sắc ý nghĩ và mọi ngôn ngữ trên hành tinh. Thậm chí cốc nước đặt ở Nhật, nếu một người ở Việt Nam quán tưởng yêu thương hay hờn giận, khi đem kết tinh, chụp lại sẽ cho ra hình ảnh đẹp như kim cương hay xấu như trái thối ứng với niệm của người đã quán tưởng; có nghĩa không gian bị xóa nhòa.

Một thiền sư Ấn Độ khuyên nhủ người đời: “Nếu người đó thật sự có điều xấu mà con nghĩ, thì con đang làm cho nó mạnh hơn và nuôi dưỡng tính xấu đó; và như vậy con đang làm cho bạn con trở nên xấu xa thay vì tốt lành hơn”. Liễu nghĩa ấy, chúng ta sẽ luôn nghĩ thiện về tha nhân để họ được tốt hơn. Đó cũng chính là nước trong ta lên tiếng đòi “nhân quyền”. Nước biết được đáp án là công trình vĩ đại; tác giả là tiến sĩ Masaru Emoto, nhận xét: “Tâm của bạn tốt, vạn vật tự nhiên cũng sẽ tốt; tâm của bạn không tốt, vạn vật tự nhiên cũng sẽ không tốt”.Khám phá về đời sống thực vật, cũng vui ghét giận hờn trước thái độ đối xử của con người. Một kẻ cầm dao chặt cây, từ trường đo được méo mó chứng tỏ cây đang run sợ. Cũng cầm dao song người ấy chỉ giả bộ, từ trường phẳng lặng cho thấy cây đi guốc trong bụng người. Người ta từng tách mẹ con nhà hươu ra nhốt ở hai quốc gia xa lạ. Hễ mỗi lần đưa một hươu con ra bắn thì từ trường của hươu mẹ (ở quốc gia khác) “rùng mình”! Trong nhà Phật tuyệt đối không ủng hộ thí nghiệm này, song qua đây cho thấy ý nghĩ/ý niệm của động vật nói chung đều trong sát-na trùm phủ khắp hành tinh.

Đầy ắp những câu hỏi tại sao đời sống ngày được nâng lên, lại quá nhiều vấn nạn xã hội nảy sinh. Điển hình như ngành Y học đang phát triển tột bậc, con người vẫn mắc rất nhiều bệnh quái gở và bệnh viện mọc lên càng nhiều. Nói một cách đơn giản, là bởi con người ngày càng đánh mất nền tảng, chủ yếu về mặt tinh thần. Trước hết, nền tảng đạo đức phải được gây dựng từ nhỏ, thậm chí cần giáo dục từ lúc còn thai nhi như cái nhìn sáng suốt của bậc thánh hiền xưa. Khoa học hiện đại phần nào phát hiện ra diệu lý này, cho thấy mỗi ngày trong bào thai bằng hàng chục triệu năm tiến hóa sinh vật và trọng lượng cơ thể biến đổi tăng lên hàng tỉ lần, để thấy một ngày giáo dục thai nhi bằng rất nhiều năm trời đứa bé lúc sinh thành. Nền tảng đạo đức có từ thai nhi sẽ giúp sinh mệnh đó giữ được phẩm chất cốt tủy của đời người, luôn hướng đến hai chữ Hòa Bình từ nghĩa hẹp cho đến nghĩa rộng là đối lập với Chiến Tranh. Đức Đạt Lai Lạt Ma, bậc Thánh thời nay, với tư cách là người học trò thuần thiện của Đức Phật từng ngày khuyên mọi người bỏ ác hành thiện, hướng đến một thế giới bình đẳng bao dung, đúng như thông điệp chư đại đức từng dạy: “Chúng ta cùng là con người, không phân quốc gia, chủng tộc, tôn giáo, đều phải bình đẳng thương yêu lẫn nhau”. Ngài cũng nhắc nhở: "Những gì ông cha (tức cổ đại đức, trong đó có Đức Phật) nói với chúng ta là hoàn toàn sự thật".

Đức Phật không biện chứng sao thấy được tám vạn bốn ngàn vi khuẩn trong nước? Hồi đó người đời không tin. Phật giảng Kinh Hoa Nghiêm trong niệm (một dạng sóng), nghe vậy người người cho viễn vông. Nay khoa học bắt được sóng, sử dụng sóng khiến thế giới trở nên nhỏ hẹp. Niệm Phật trì chú, tụng kinh cũng là sóng, còn là sóng cực mạnh, cực lợi dưỡng thân tâm. Tâm vốn tạp, vốn không một khắc ngưng nghỉ sự dao động, tức luôn niệm xấu ác. Ta không tác ý nó vẫn tự niệm. Nếu tác ý niệm thiện, sẽ tạo nên tương lai thiện, tác ý niệm ác thì ngược lại. Có nghĩa, nếu ta không tác ý thì nó sẽ tự niệm theo tập khí, theo nghiệp lực từ thói quen trong kiếp này và cả từ tiền kiếp. Ta không tác ý niệm Phật, tâm sẽ tự niệm chín cõi còn lại, mà dễ vào nhất là niệm tham sân si. Mỗi giây, hàng tỉ tỉ ý niệm từ nhân loại phóng ra, thành một dạng sóng, đều ùa vào alaya mỗi cá nhân, song ta chỉ nhận biết khoảng một phần tỉ nhờ mắt tai mũi lưỡi thân ý. Thử ví dụ: một lần tôi đang nằm ngủ, mơ thấy người bạn xin số di động của Q. Tôi từ lâu đã nhớ số Q liền đọc cho họ. Mới đọc được bốn số 0914..., bỗng chuông điện thoại reo. Tôi giật tỉnh, dựng dậy chộp điện thoại; lạ không, Q đang gọi. Có nghĩa, trước lúc Q bấm gọi cho tôi, đã nghĩ về tôi, đã phóng ý niệm về tôi (lúc tôi đang ngủ); ý niệm đó liền khởi động tâm thức trở thành cơn mộng (mơ thấy tôi đang đọc đúng số điện thoại của Q cho người xin số). Trong một giây biết bao ý niệm như vậy xuyên vào alaya, ta lại không hề nhận biết. Đơn giản bởi tâm ta quá loạn. Nếu tâm trong lặng tịnh tĩnh, ai đó vừa nghĩ đến mình đã biết ngay. Còn cao hơn, chân tâm ấy sẽ như ngôi nhà không cửa, ý niệm trôi qua chẳng hề mảy may gợn sóng, nên không bị nghiệp lực chi phối (từ những ý niệm hữu/vô tình phóng qua). Hoặc đó là những người chuyên đặt tâm vào quán hơi thở, chuyên lần theo một câu chú, câu Phật hiệu, tâm lần chữ nào tai nghe rõ chữ đó, từng câu nối thành chuỗi, từng chuỗi nối nhau nên không ý/vọng niệm nào xen ngang. Gọi vọng tâm là bởi tâm ấy chứa nhiều tạp niệm. Những dòng sau đây của Lama Anagarika Govinda, nguyên là giảng viên Triết học tại Đại học Naples: “Mantra hay Hồng danh Chư Phật, hay Hồng danh Phật A Di Đà, được niệm lên với tất cả sự thành kính, được niệm lên nhiều lần, được niệm lên qua năm tháng. Ngữ điệu, âm thanh,... là những dao động. Tần số Linh thiêng này, như một nguồn cưỡng bức điều hòa, làm cho Tần số của các Chuỗi tạo nên Cơ thể, Tần số của các Chuỗi tạo nên Tâm thức, tạo nên quá trình Tâm thức của Con Người là Thọ, Tưởng, Hành và Thức; hòa nhập cùng Tần số Linh thiêng. Hiện tượng Hòa Tần số xảy ra. Tạo nên sự hòa nhập Thân, Tâm với Vụ trụ. Phật tánh Hiển lộ, Niết bàn xuất hiện”. 

Con người ngày bị bủa vây bởi thông tin, hiện tượng nghiền lướt web đã khiến Tinh Thần bị nhiễm độc, trí phán đoán sụt kém; biến mình thành một dạng đài thu phát sóng những thông tin đa phần trái với Thập thiện, khiến thời không nhiễu loạn, xã hội thêm động loạn. Là điều mà các nhà khoa học kêu gọi nhân loại hãy nghĩ thiện hành thiện để tránh thiên tai địch họa; đây là điều chưa phổ cập vì ngay cả trí giả thời thượng cũng chưa tin, rằng sóng tư tưởng còn mạnh mẽ và lợi hại vạn lần những thứ sóng kiểu như internet, điện thoại kết nối toàn cầu. Sự kết hợp giữa hai loại sóng này sẽ gây lên những căn bệnh xuyên thế kỷ, y học càng ngày càng bất lực.

Kinh điển Phật pháp là phác họa một cách chi tiết hình hài vũ trụ. “Tin thì tin không tin thì thôi” - đơn giản như một câu thơ vậy. Một cao tăng từng ví, nếu Phật pháp là ngôi nhà ba tầng thì tầng thứ nhất là Nho, tầng thứ hai là Đạo, tầng trên hết là Phật. Ai chưa vào được Phật giáo Đại thừa hãy học kỹ Nho, Đạo. Cái "Không" (không là gọi cái bản thủy trời đất) trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử rất gần với Tánh Không trong Bát Nhã. Tuy xét đến cùng, Lão Tử cũng là Bồ tát vô vi sanh tử rộng độ quần sanh. Điều nhiệm màu luôn khó tin. Ngay đến người học Phật cũng còn tồn nghi; nghi Phật giáo Đại thừa. Học Phật chưa thấm thì mặt mũi như mèo sáng sớm. Thấm rồi lúc nào cũng vui. Buồn, người ta bảo học Phật khổ sở vậy theo làm gì (tội này ai phải gánh?). Vui, mọi người nhìn vào liền bảo: ờ, học Phật quả lợi ích. Mọi pháp Phật thuyết đều bình đẳng “vô hữu cao hạ”, tùy vào căn cơ. Cùng bệnh cùng thuốc song không phải ai cũng lành là vì vậy. Một trong những thông điệp căn cốt Phật đưa ra: “Tất cả chúng sanh đều có đức tướng, trí huệ Như Lai, chỉ vì vọng tưởng chấp trướcmà không thể chứng đắc”. Hễ ai muốn thành Đạo chỉ cần buông vọng tưởng chấp trước. Khoa học chứng minh, phần nhiều năng lượng con người tiêu hao bởi vọng tưởng. Một người nằm trên giường nghỉ ngơi mà đầu óc chồng chéo cuồng loạn bao ý nghĩ (chưa nói đến ý nghĩ xấu) thì năng lượng tiêu hao chẳng thua người dốc sức bửa củi ngoài sân. Nhiều vọng tưởng cần ăn nhiều ăn bổ để bù lại sức, ít vọng tưởng cơ thể cần chút cháo cũng khỏe mạnh minh mẫn; nhiều vị sư ăn ngày một muỗng cơm chính từ nguyên lý này. Vọng tưởng ít, điều dễ nhận thấy là đêm nằm vắng dần ác mộng, mơ mộng cái đẹp cũng thưa. Vọng tưởng có thể ví như bèo tấm trên mặt hồ. Bớt vọng tưởng, bèo liền dãn ra, nước hồ nhờ vậy cũng bớt ô nhiễm. Khoa học kiểm chứng vọng tưởng là kẻ thù tiêu hao năng lượng, lại không cách gì trừ diệt. Tịnh độ tông khuyên người niệm “A Di Đà Phật”. Bất cứ lúc nào không vướng việc phải nghĩ suy, trong tâm đều vang lên câu hồng danh, một thời gian vọng tưởng khắc thưa bớt. Đây quả là điều kỳ diệu. Tỉnh giác trong mọi lúc mọi nơi. Giả như phải tham gia vào một cuộc vui. Giữa ồn ào náo nhiệt, họ tùy duyên nâng ly “khai giới” hòa đồng mà trong tâm thì niệm “A Di Đà Phật”, vậy là thiền ngay trong cuộc thị phi nhơn ngã.

 

*

Đạo Phật là tấm gương phản chiếu quy luật vận hành của vũ trụ nhân sinh vô cùng tận nên trong nó sẵn chứa thượng tầng triết học huyền nhiệm tôn giáo. Mê khoa học, ít ai ngờ chính mình lạc hậu về khoa học. Nhiều công trình chứng minh sự tồn tại của alaya đằng sau xác thân tạm bợ, và nhiều khoa học gia còn khẳng định về sự luân hồi đầu thai Phật đưa ra là hoàn toàn đúng. Nếu ai đó lấy một triết gia, một nhà văn lẫy lừng hay siêu sao làm thần tượng, bất chấp đạo lý, loay xoay cố vươn cho bằng họ để “đứng trên mọi người” thì âu là sự tụt hậu thảm hại. Phải hướng vào nội giới. Câu khắc trên ngưỡng cửa Thánh Điện Delphes: “Ngươi hãy biết ngươi rồi ngươi sẽ biết vũ trụ và các vị Thượng ĐếNếu không khám phá nội giới thì cũng bằng ta đang lấy ngao lường biển, “nhún dây tư tưởng vào cõi vô tận”. Chúng ta không hành Pháp, lại chuyên soi Phật bằng trí, dễ nhìn nhận thái tử Tất Đạt Đa và vua Trần Nhân Tông là những hiện tượng chán bỏ trần gian; thiền sẽ làm mất cảm xúc và theo đó Phật giáo phiêu du trong một cõi quá xa biệt hồng trần. Đạo Phật vốn là nền giáo dục uyên sâu. Phật là người chỉ ra “chư pháp thật tướng”. Lượng tử lực học mở ánh nhìn ra ngoài thế giới, đã thật sự ngạc nhiên bởi những khám phá vĩ đại thực ra vô tình minh chứng lời Phật thuyết ba ngàn năm trước. Ở đây không dám bàn đến những triết lý siêu việt trong Kinh điển, chỉ nói đến giáo dục nhân tâm thôi Đức Phật đã xứng danh Thầy Giáo vượt lên mọi thời đại. Nhiều vị chân sư thời hiện đại rất bội phục việc khoa học phát hiện ra ý niệm tạo cảnh giới. Người nào ngày đêm với một ý nghĩ (ước muốn) thường trực, đến quay cuồng, quy luật hấp dẫn tự nhiên theo đó sẽ tạo nên những điều kiện phù hợp để họ kiến tạo tương lai. Dĩ nhiên điều này còn phụ thuộc vào phước đức, căn mạng từng người. Một nhà khoa học từng vẽ ngôi nhà mơ ước, rồi ông xếp nó vào hộp, thời gian cứ trôi và gia đình ông chuyển đến nơi khác sinh sống. Một ngày sực nhớ bức vẽ, ông lấy ra xem bỗng giật mình: Ông đang sống trong ngôi nhà với hình dáng kể cả những sắp đặt nội thất giống y ngôi nhà mơ ước vẽ nhiều năm trước. Trong Phật pháp gọi là “duy tâm sở hiện”, hay “Phật do tâm sanh”. Càng đúng với ai đó trong cuộc sống luôn với ý nghĩ và hành động thamsânsi (nguy cơ tạo cho mình cảnh giới u tối ở kiếp sau). Đáng lưu tâm: nguyên lý trên dễ đưa con người lệch đạo. Những mơ ước vật chất đa phần người đời mong đạt để phục vụ sự hưởng thụ, gần như là con đường tắt đưa đến khổ đau và họ càng bước càng lún sâu vào đất như ý một câu trong kinh Địa Tạng. Ý niệm phát xuất liền châu biến tận hư không pháp giới. Một cá nhân với những ý niệm cực xấu hoặc cực tốt trong suốt cuộc đời đều có ảnh hưởng đến cộng đồng. Mỗi cá thể không tách biệt mà có tác động nhất định đến “tính nết” của trái đất. Thế nên việc ta đóng cửa tha hồ xấu, tha hồ phát xuất ý nghĩ yêu ma quỷ quái, thật tai hại vì nó tiếp thêm sức mạnh cho nghiệp chướng. Ngược lại, một người luôn với ý nghĩ thuần thiện, cao hơn là tâm chỉ một câu kinh mà niệm, vậy đã góp công lớn cho sự an bình của trái đất; cá thể ấy dẫu quanh năm suốt tháng không giúp đỡ ai song đó là của quý hiếm giữa trời đất rồi. Thói thường phân biệt người này tốt kẻ kia xấu, không hay nếu ta cứ nhìn sâu Phật tính trong mọi chúng sanh chẳng những họ mà chính mình cũng mở lượng từ bi và ánh sáng tâm linh rọi vào.

Trong các nghiệp, ý nghiệp nguy hiểm vô cùng. Ý niệm như những con mọt nghiền trong thớ gỗ; nhìn ngoài bóng bẩy trơn tru song khi phát hiện một chỗ hư, mới hay lòng cột đã ruỗng. Thân tâm ta cũng sẽ mục bởi nghiệp ý. Tâm khởi những ý xấu là rơi vào trận đồ của ma. Giả như đến cả ý nghĩ thiện mà ta cứ "nhấm nháp" mãi, thực ra đang bị nó xỏ mũi lôi vào mù mịt; ấy là bộ mặt của tưởng ấm ma. Niệm Phật thù thắng ở cả phương diện đời thường đến giải thoát bởi, hễ nghiệp ý khởi lên liền thay vào từng chuỗi “A Di Đà Phật” sẽ là thần dược đặc trị phiền não, tâm tự hướng đến những giá trị thanh cao thuần khiết. Chuyên tâm niệm Phật, tâm sở thiện và bất thiện được quân bình, cao nữa thì tâm sở bất thiện suy yếu. Công phu vượt thắng, niệm thiện cũng vắng nốt; là thời điểm tâm bắt đầu trong lặng rồi phát huy công năng huyền nhiệm. Tâm sáng thân sẽ ít bệnh, hoặc như gặp bệnh hiểm nghèo vẫn có thể tự chữa bằng sự việc “không biết” trong thân mình có căn bệnh. Người niệm Phật chữa lành bệnh nan y kể không hết. Bác sĩ Ihaleakala Hewlen đã học được truyền thống tâm linh cổ xưa của thổ dân Hawaii chữa cho hầu hết người bệnh tâm thần bằng việc hướng vào nội tâm, đến nỗi bệnh viện nơi ông làm việc phải đóng cửa vì không còn bệnh nhân. Nghĩa là bác sĩ không hề động chạm gì tới con bệnh mà chỉ quán thấy trong tâm, trong ý nghĩ của mình người kia hoàn toàn không có bệnh. Theo Phật lý, bệnh ấy (hay tính xấu ác của đối tượng) chỉ là tập tánh huân tụ lâu dài chứ không phải bản tánh. Lục tổ Huệ Năng: “Tự tánh hằng thanh tịnh”. Chỉ cần trở lại “không” thì dạng vọng tưởng kia dần tan. Bởi vậy một người có khối u, nếu quá nặng nề lo lắng khối u phát triển càng nhanh. Tập quên nó đi, sống vì niềm vui của người khác, chuyên niệm Phật, tiết thực. Sở dĩ người ta quên hẳn căn bệnh bởi tâm họ pháp hỉ sung mãn, bặt vọng tưởng. Bệnh chỉ là sự ghé thăm của nghiệp thức, họ làm chủ được. Hòa thượng Quảng Khâm về già có lần đau nặng. Ngài bảo thân này như ngôi nhà tranh ọp ẹp, muốn nhập Niết Bàn rồi trở lại nhân gian thay một cái nhà bê tông cốt thép chắc chắn hơn. Các đệ tử ngày đêm tha thiết “thỉnh Phật trụ thế”. Thương tình Hòa thượng gật đầu, thế là những ngày sau ngài khỏe khoắn như thường. Điều này chứng tỏ tâm tịnh sáng sẽ điều phục được thân. Chẳng những vậy tâm ấy còn điều chỉnh được cả tinh cầu. (Vấn đề này xin không đề cập thêm bởi dễ sa vào thần thông diệu dụng - điều thường khiến người tu dễ lạc trong ma đạo như Phật từng nhắc trong kinh Thủ Lăng Nghiêm. Cũng như một số nhà ngoại cảm nhìn thấu cảnh Thân trung ấm, bên cạnh cái tốt là để biết chết không phải hết, lại dễ khiến người đời hiểu sai luân hồi khi thấy “họ” vẫn ở bên mồ chứ nào có đầu thai làm con gì. Thân trung ấm chỉ là một chút xíu trong vô biên cảnh giới cao thâm khác. Hiểu một nhầm thành “chư pháp thật tướng” thì khác gì vống lên trăm nghìn hỏi sao tam thế Phật không oan cho được!).

Xét về Y học, Đức Phật cũng là Đại Y Vương, bởi Ngài biết gốc của bệnh, và đưa ra phương pháp chữa tận gốc, tức cơ bản là chữa Tâm. Bệnh xuất phát từ công việc đặc thù, từ sự tùy tiện trong ăn uống, và bệnh dĩ nhiên xuất phát trước hết từ Tâm nhiễn độc vọng tưởng trái với đạo lý. Lời Phật dạy chưa dễ tin thì nay khoa học cũng minh tường: người ăn chay luôn ít bệnh tật và minh mẫn hơn người ăn mặn. Kịch tác gia Bernard Shaw (1856-1950) Nobel văn học năm 1925; bài thơ "Những ngôi mộ sống" của ông lan truyền khắp thế giới: “Trước Trời Phật, trên nấm mộ sinh sát/ Của muôn loài vô tội ta cầu xin/ Ban ơn lành, khi Luật Đạo Đức kia/ Ta xé nát mà không hề thương tiếc/ Và như thế ta gieo nhân tội ác/ Của Chiến Tranh cho nhân loại toàn cầu”. Rất nhiều lời khuyên từ những công trình khoa học uy tín bậc nhất nằm trong chương trình phát triển của xã hội người trên thế giới, rằng ăn thịt là một sai lầm. Theo Zen và dưỡng sinh: “Ăn thịt cá nhiều quá tánh tình trở thành ồn ào, tâm trạng rất tầm thường”. Sữa động vật, thiển nghĩ cũng như một dạng hoa quả, chúng ta hái đi (cây có đau, có buồn) song không ảnh hưởng đến sự sống của cây); đã có nguyên một công trình so sánh giữa ly sữa động vật với ly sữa đậu nành. Kết quả hàm lượng dinh dưỡng của ly sữa đậu nành (mà nhu cầu cơ thể cần) gấp ba lần ly sữa động vật. Mặt khác. Khi con vật bị giết, nỗi sợ hãi tột cùng khiến chúng tiết ra một loại độc tố. Chất bổ dưỡng như thịt bò, các loại cá thịt, sữa, đường… là thức ăn chính của con ung thư; chỉ cần người bệnh khước từ những thứ đó, ăn thuần rau củ, tiết thực, con ung thư không có thức ăn sẽ yếu dần. Hay theo thực đơn Ohsawa. Gạo lứt nấu trong nồi gang, kiên trì ăn với muối mè sẽ lành bệnh như phép màu. Bây giờ khoa học hiện đại phát hiện: đường là một thảm họa của nhân loại, phá hoại não trạng và bại hoại thân thể. Loại chất độc này cũng như mì tinh đánh lừa vị giác. Sự kết hợp giữa kiên trì nhai kỹ gạo lứt muối mè kết hợp hành trì tâm linh sẽ khiến cho cái tâm vọng trở nên chừng lặng, sự dao động sóng bớt sẽ khiến thân an hòa. Tâm lý người bệnh luôn sợ chết, đây là điều chỉ có thể giải quyết ở Tâm. Mỗi ý niệm sợ chết phóng ra, con vi rút trong họ có nhiên liệu sống mãnh liệt hơn. Nếu là đạo hữu cùng hiểu đạo lý thì chẳng sao (bởi khi ta khai bệnh, họ sẽ biết xóa ngay thông tin đó); ngược lại với người không thấm nhuần Phật pháp, họ sẽ khắc chạm căn bệnh của ta vào não trạng, ngày nào cũng phát ý niệm: “gay rồi, bệnh ấy nguy rồi, khó lành, khó qua khỏi rồi…”. Ta lo sợ, bệnh càng nặng đã đành; hễ “khối u” trong ta nhiều “fan hâm mộ” nó càng có lý do sinh tồn. Mức độ xóa thông tin thuần thục, quyền năng tối thượng làm việc cực kỳ hiệu quả. Sự vui sự buồn vừa ập đến liền như tảng băng ném vào lửa. Tâm trở về bình lặng. Trong bất cứ chúng sinh nào cũng đều có chủng tử Phật, vĩnh viễn không tàn lụi dẫu trôi qua lục đạo vô lượng kiếp. Mác đã đúng một phần trong câu mang tầm triết lý nhân sinh: "Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội". Nhưng có hai điểm hạn chế lớn: thứ nhất Mác chỉ bàn đến con người; quan trọng hơn, tổng hòa các mối quan hệ xã hội chỉ tạo nên tập tánh chứ không phải bản tánh (vốn tự có sẵn trí huệ).

Con người là sự kết hợp hoàn hảo giữa vật chất/thân xác và vật lý/tinh thần. Phần Vật Chất do ăn uống sai lầm tức không tuân theo quy luật vận hành của vũ trụ vốn thống nhất trong sự tương hỗ hai mặt Âm - Dương. Đừng nghĩ ăn uống là tầm thường. Ăn uống chay tịnh đúng với trật tự vận hành của vũ trụ theo nguyên lý triết học viễn đông có thể chuyển nghiệp lực và vận mạng. Người Kogi sống theo với quy luật tự nhiên/vũ trụ, thì chính là sống đúng với đạo Pháp. Đó là biết đạo trời đất. Không gian bộ tộc Kogi sinh sống tuyệt đối an ổn. Nhưng, nếu ta đặt một phàm phu vào đó chung sống, hẳn họ lại thấy nơi đây là một thiết chế bất ổn. Vậy mới thấm câu thơ của cụ Nguyễn: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Tâm tùy cảnh chuyển. Tâm tịnh thời cõi Phật tịnh, và ngược lại… Tâm nhiễm là tâm bất định. Tâm bất định thì thân bất định. Người ấy sẽ khó sập mọi giác quan ngồi yên cho được. Còn bậc chân tu, ngũ căn thông suốt, trần cảnh không khiến tâm dao động nên họ luôn định tĩnh sáng suốt. Những tiện nghi tưởng sẽ đưa con người tới an lạc, sau một thời gian nó lại khuấy đảo tâm. Có những người xây WC rất tiện nghi và phát ngôn là nơi đưa lại cho họ sự an tĩnh. Nếu vậy, thì thiết tưởng lên núi sống một mình còn... bình an bội phần. Con người với tâm không định thì có chui vào lô cốt cũng khác chi ở chợ trời. Tâm định, công phu có được này cơ bản bắt nguồn từ việc “không nhìn lỗi thế gian”. Giới khoa học đưa ra một kết luận vô cùng quan trọng: không nên chống chiến tranh mà hãy ủng hộ hòa bình. Từ đây triển khai ra ở mọi hoạt động trong cuộc sống sẽ chuyển được cả vận mạng. Ai đó từng chống chiến tranh, không có nghĩa bây giờ phủi tay, mà dành thời gian và tâm sức đó ủng hộ hòa bình. Tại sao? Chớ hỏi, bởi quy luật vận hành của vũ trụ là như vậy.

Do tích tập từ nhỏ, tâm lý chung thích gom chuyện xấu ác. Chuyện xấu ác luôn là nhiên liệu trong các cuộc trò chuyện, đàm đạo. Chuyện xấu ác còn có tên gọi khác là rác rưởi. Một khi chuyện xấu được ta hứng khởi thuật lại nhiều lần trước đám đông, hãy xem chừng, bởi rác ấy đang lưu cửu vào tâm thức. Theo đà này, theo thời gian tâm thành một thùng rác khổng lồ. Phật từng khuyên chúng sanh trong kinh Vô Lượng Thọ: “Thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá (khéo giữ gìn khẩu nghiệp, chẳng chê bai lỗi người khác). Đạo lý này sâu xa quá đỗi. Ở mặt bằng xã hội, người ta sẽ gay gắt phản biện trước thảm kịch cái ác ngày càng lên ngôi, mà không đặt ngược câu hỏi: Nếu tất cả người trên hành tinh xanh đều không ngó lỗi nhau mà chỉ xiển dương điều thiện, thế giới sẽ ra sao? Con người là một cá thể riêng biệt - lý thuyết này khoa học hiện tại đã cười nhạo. Mỗi cá thể nhỏ bé đến mấy cũng có mối liên hệ mật thiết với vũ trụ bao la. Vạn vật đồng nhất thể. Học giả James Gleick có nhận định rất triết lý qua hình ảnh: “Một cái đập cánh của con bướm hôm nay ở Bắc Kinh sẽ tạo ra trong không khí các cuộn xoáy có thể biến thành bão tố trong tháng sau tại New York”. Sự chống đương nhiên có lợi, chỉ là lợp bất cập hại. Các vị cao tăng đại đức lúc giảng kinh thuyết pháp nhiều lúc cũng nặng nhẹ với đệ tử; kẻ trí tự cao thấy cảnh “lánh đời” sẽ gán ấy là “chống” hồng trần tươi đẹp. Đâu hay hành vi lời nói của các Ngài lưu xuất từ gương tâm trong suốt không mảy bụi trần. Còn “chống” - hành động nô lệ của ý niệm xấu từ lượng tâm ích kỷ nhỏ mọn, sẽ khiến thời-không thêm nhiễu loạn. Sự chống ấy cũng như luồng khí nóng tưởng sẽ làm cơn bão đang tiến vào suy yếu chẳng ngờ càng góp sức cho bão.

Những gì người trần mắt thịt chúng ta chứng kiến quá ư hạn hẹp; cho trên đầu không có gì càng thiển cận. Trong lúc nếu không tụt hậu tri kiến, ta sẽ biết thế giới đã có nhiều công trình khoa học nghiêm túc khẳng định luân hồi. Ngày xưa ai dám tin cả thư viện sách chứa gọn trong cái USB nhỏ xíu. Chớ tưởng con người to lớn sẽ không thể chui vào thân con kiến ở kiếp vị lai. Cũng như loài vi khuẩn nhỏ vậy, thể tánh của nó không chứa tam thiên đại thiên thế giới. Một khám phá khoa học: Tấm hình cắt đôi; đưa (một nửa) vào chiếc máy khoa học, vẫn thấy nguyên vẹn bức hình đó. Cắt tấm hình ra chục mảnh, lạ thay, mỗi mảnh như vậy vẫn đầy đủ hình tướng chụp ban đầu. Điều này minh tường một câu trong kinh Hoa Nghiêm: "Nhất tức nhất thiết" (một là tất cả). Cá thể chúng sanh có Phật tính. Vậy cái toàn giác đã có trong mỗi phàm phu. Buông vọng tưởng sẽ hoàn nguyên, trọn đủ tánh đức và trí huệ tuyệt vời.

Không học giáo lý nghiêm túc, không chọn lấy một Pháp môn rốt ráo thực hành đã khởi tâm bài Phật là vừa lội qua đầm lầy lại muốn dò lòng đại dương. 

Khi nhà thiên văn chụp được những thiên hà “hình xa luân”, “hình trụ”, “hình bầu dục”,… đúng như Phật tả về Hoa tạng thế giới thì chính là kinh điển Phật giáo lấp lánh dưới ánh sáng khoa học. Khi những khám phá làm rúng động nhận thức của loài người đơn giản chỉ là vô tình minh tường một số lá cành trong rừng kinh điển vô giá, liệu có cần đặt ra vô vàn câu hỏi trước lúc ta tin lời Đức Phật.

Không ai có đôi mắt sáng lại nhắm mắt mà đi. Tuy nhiên mắt sáng cũng không thể nhìn thấu kiếp mình nếu tâm thức mù lòa.

 

Phần II

MÊ LỘ TÂM

 

 

Hành trình siêu ý niệm

Con người có sinh lão bệnh tử, đó là quy luật vĩnh hằng; cũng như trái đất có thành trụ hoại không. Hiện thời địa cầu đang ở trong kiếp trụ, rồi nữa sẽ đến hoại để kết thúc một chu trình [đại kiếp] vận hành trong pháp giới. Theo đó mỗi cá thể người cũng đều đang tiến dần đến tàn lụi, đang mỗi bước gần hơn với sự chết. Những sinh linh tiệm ngộ chân lý này sẽ “thụt lùi”, lội ngược dòng sinh tử tìm về với thế giới Vô Lượng Thọ vĩnh viễn không già không khổ đau không chết.

Khoa học với thuật thôi miên, ban đầu là sự nhớ lại những thời gian đã mất. Cái máy lục tìm quá khứ này càng tân tiến, vô tình khiến nhiều người dự phần thực nghiệm nhớ lại một cách sống động kiếp quá khứ. Kiếp trước tôi là nam hay nữ, là lớp động vật nào, sống ở châu lục nào; vào thời điểm đó cách nay mấy ngàn năm, con người ăn mặc ra sao, dùng tiền gì, đem so sánh với khảo cổ học đều không sai trật. Thuyết luân hồi trong kinh Phật thêm lần phát sáng. Cũng không thể tính hết các luận án tiến sĩ thuộc hàng nghiêm túc trên thế giới bảo vệ thành công lý thuyết chúng sanh chết không phải hết mà có luân hồi trong sáu nẻo trần ai tùy theo nghiệp quả. Có luận án người ta thu thập nhân chứng minh bạch đến con số hàng ngàn thuộc nhiều vùng đất và quốc gia khác nhau, chứ không đơn thuần dăm ba luận cứ. Chúng ta chưa tin chỉ có thể duyên chưa tới; chiếu theo Phật lý, là nạn. Người đời có thể mỉa mai, Ông Phật “thích đùa” quá: sắc tức là không, không tức là sắc; nhất tức là nhiều,tất cảtức là một…Kinh điển - là chân lý xuyên thời gian không gian, chẳng vậy mà những lời Phật nói ấy sau ba ngàn năm, các nhà khoa học lượng tử đã cúi mình thán phục. Thì ra con người cũng như đám mây vậy, có hình tướng đó, song thực chất chỉ là duyên hợp rồi tan, gọi đúng hơn là huyễn tướng sanh ra từ huyễn giác. Ta đưa tay chạm vào đám mây [hình người] ra sao thì các Ngài chạm vào chúng ta cũng như vậy. Vật chất vốn huyễn. Một cục sắt đặc, chỉ là sự hội tụ của lượng tử, trong nó cũng trùng trùng không gian cho các hạt dao động, trong Kinh gọi là kim trần. Dễ cảm nhận hơn có thể so sánh cục sắt đặc với tổ ong; từ dưới đất nhìn lên thấy một khối đen đặc, song tới gần thì đó là sự [hội tụ] bu bám của nghìn vạn con ong đang không ngừng chuyển động. Đây là lý do tại sao bậc đại ngộ đi xuyên tường xuyên núi xuyên lòng biển; họ còn trở thành “hạt siêu vị trí” [phân thân] có mặt ở khắp các cõi trong cùng một thời điểm.

Kinh Kim cang: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Vật chất vốn giả, vậy hình tướng chúng sanh gồm người và vật sẽ tồn tại ra sao để xảy ra hiện tượng luân hồi. Chính là ý niệm, gọi đúng là thức. Hiểu thô là file alaya thâu lại tất tật mọi ý nghĩ hành vi của mỗi chúng sanh trong nhiều kiếp tương tục; lúc [thân] tướngtàn hoại, thức sẽ tự động phân tích đức và nghiệp, cộng với cận tử nghiệp để tiếp tục chui vào thân mới. Chớ nghĩ loài vật vô tri. Thì vô tri, song tình mẫu tử, tình thương, sự che chở và hy sinh vì nhau của chúng nhiều lúc vượt hẳn con người. Cơn đau chia lìa mất mát của chúng biểu lộ đến đứt ruột, bầm gan, trào nước mắt; đến nước này cũng đòi chúng phải có trí? Mỗi lần đầu thai chuyển kiếp, “người ta” sẽ tạm quên mọi đức nghiệp mình mang theo, tuy nó vẫn là yếu tố chính thúc đẩy những hành vi rồi “làm chủ” sự nghiệp của chúng sanh ấy tại kiếp này. Dĩ nhiên từ nhân đến quả phụ thuộc rất lớn vào duyên. Duyên quan trọng nhất là việc trong đời có tin Phật pháp hay không, tức tin chân lý thường hằng, muộn nhất kể cả trước lúc chết - điều ảnh hưởng rất lớn đến việc tái sanh tại kiếp sau.

Thức, dẫu sao cũng là vọng tâm. Trong đó ý niệm là điều tiên yếu tạo vô vàn nghiệp; và chính hành động, suy cho cùng cũng là nô lệ của ý niệm. Kinh Địa Tạng viết chúng sanh khởi tâm động niệm đều tội nghiệp. Nhưng đã phàm phu không ai không khởi tạp niệm, khởi tà kiến. (Bởi chúng sanh một khi sạchtà kiến, họ đã nhập vào dòng thánh). Vậy phải làm sao? Phương pháp là đoan tâm chánh niệm, tức thay hết thảy niệm ô trược thành [một] thiện niệm; đó có thể là chọn ra một câu kinh, một câu chú hay hồng danh Đức Phật để trì niệm thời thời khắc khắc, lâu dần tâm sẽ an định. Tâm con người vốn đã mang tập khí loạn động, ngày nay càng loạn động bởi thế giới phẳng mà cụ thể như lướt web, đến nghiện. Chìm trong mạng ảo sẽ khiến người ta tiêu hao đến 90% năng lượng và quá nguy hại đối với tâm hồn, quá nguy hại đối với từ trường của trái đất. Từ sự rối bời trước vô vàn ý niệm, mỗi người cần quy về, lòn vào một câu kinh siêu thiện để thanh lọc chính mình, thanh lọc không gian chung. Thí nghiệm nước minh chứng, nước nghe những câu kinh sẽ cho ra mẫu kết tinh tuyệt mỹ. Bên Mật tông có trì chú, bên Tịnh đông có niệm Phật. Thực ra câu “A Di Đà Phật” cũng là chú; còn đặc biệt mầu nhiệm ở nguyện lực cứu độ “đới nghiệp vãng sanh”. Giả như Mật và Tịnh cùng niệm (một bên niệm chú một bên niệm Phật), đều đạt công phu nhất tâm bất loạn, bên Tịnh đã sờ được tấm vé “khứ hồi” Cực Lạc thế giới. Công phu này cũng có thể so sánh với sơ thiền bên Thiền tông; dẫu sanh về phẩm thấp nhất Phàm thánh đồng cư, đã vĩnh viễn ra khỏi chín pháp giới, sánh cùng hàng Bồ tát bất thối chuyển. Đây là nguyên do Niệm Phật được xem là “nan tín chi pháp”, là “hoành siêu tam giới”, “môn dư đại đạo”,là con đường tắt nhất trong mọi đường tắt đến nước Phật; mà trước hết nó khiến cho người hành sáng suốt trong những hoạt dụng đời sống, phước tăng, trí huệ chân thật bắt đầu sự khai mở. Quá trình siêu phàm nhập thánh, không nằm ngoài việc thay thế ý niệm.

Ý niệm, hiểu trên bề mặt phàm, là mọi ý nghĩ khởi lên tự tâm. Ý nghĩ mạnh và dày đặc sẽ tạo nên cảnh giới, tức vật chất. Thật ra, ý nghĩ (ý niệm) vốn cũng là vật chất. Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách trong buổi nói chuyện tại chùa Xá Lợi năm 2013 với đề tài “Tâm linh hay mê tín” đã dùng từ rất tuyệt để gọi tên ý niệm là Thân Vật Chất, ta vừa tác ý vũ trụ đã khởi hành. Diễn theo Hoa Nghiêm áo chỉ: Ý niệm vừa khởi liền châu biến tận cùng pháp giới. Khoa học nhìn ra mỗi chúng sanh và vũ trụ đều có sự liên thông [bởi ý niệm]. Ý niệm xấu khởi lên sẽ khiến vũ trụ chao động bất ổn, dễ tạo nên tai nạn, dễ cùng với các ý niệm xấu khác sinh ra động đất sóng thần; hay ý niệm này một khi vô tình xuyên vào ai đang khởi niệm xấu, sẽ nhân lên khiến kẻ đó không chừng thành sát nhân. Phật Bồ tát và các vị Thiện tri thức với bản nhiên từ bi vô hạn đã cùng những bậc chứng ngộ giữ ý niệm thuần thiện; nếu không có loại ý niệm này, một phần của vũ trụ sẽ thành mây khói. Và nếu ta nhìn nhận thêm, trái đất vốn là hạt cát cực bé phiêu du giữa trời, thì việc so sánh nó với một bình thủy tinh mong manh dễ vỡ là không quá. Điều này dĩ nhiên là một “cú sốc”, chưa dễ tin đối với số đông, nhưng những gì khoa học lượng tử chạm tới đã phần nào giải đáp. Chẳng hạn lúc bạn chưa tu, chung vui cuộc nhậu tưng bừng, cùng nhiều người phát xuất ý niệm xấu ác, việc này các nhà khoa học đo được mức nguy hại hạng khủng. Minh chứng rõ nhất là từ trường của trái đất bị méo trong vụ 11/9 ở tòa tháp đôi New York; kiểu như nhịp tim của người đang được cấp cứu nguy kịch theo đường vạch trên màn hình. Một cao nhân lạc giữa cuộc chơi vô bổ, là họ đang phát niệm lực từ bi vô hạn. Bởi họ biết, niệm niệm khởi hồng danh bậc Toàn giác có thể cứu cả một con thuyền ma!

Vật chất vốn huyễn tướng. Huyễn tướng ấy là sự kết tinh từ ý niệm. Trong cuộc sống người đời đã xem thường và bỏ qua điều quyết yếu nắm giữ vận mạng này.Đại thừa luận tâm không luận sự. Chẳng hạn bạn ngoài đời thù người ta, ấm ức vì chưa đánh được, đêm mơ thấy mình hành hung họ; vậy bạn thực sự đã đánh họ chưa? Khẳng định là rồi. Khẳng định bạn đã mang cái nghiệp ấy. Lại tỉ dụ: từng biết đến một gia đình từ cha đến con đều phạm tội, vậy là ai cũng chạm khắc ý nghĩ, cái gia đình đó đến đời cháu chắt cũng vào tù ra tội thôi. Câu nói này, ý niệm găm sâu trong tâm này ngày một nhân lên sẽ khiến đại gia đình kia khó đổi tương lai. Tại sao ta không nghĩ ngược lại, rằng rồi sẽ có đứa học hành tử tế, thành hiền nhân, thành Phật tử... Một khía cạnh khác, lúc ta bệnh [nặng] thường khai báo với thật nhiều người. Ai hiểu sâu lý niệm họ sẽ quán tưởng, nguyện hy vọng bệnh ấy chóng tiêu tan, ngược lại người hẹp hòi chấp ngã sẽ trì giữ căn bệnh của bạn trong cốt tủy. Thử hỏi chỉ riêng bạn đã xóa nổi ý niệm về bệnh mình mang chưa (?), huống hồ người khác; liệu bạn có nhảy được vào não trạng họ xóa cái ý niệm rằng bệnh ấy thuộc nan y, sẽ mau chóng bung vỡ! Hẳn bạn chưa biết khoa học, qua những cuộc thôi miên, rất nhiều người nhớ lại, thấy trong nhiều kiếp họ vẫn chết chỉ vì ung thư. Chết, thân ung thư hoại rồi, sao đầu thai lại vẫn mang ung thư? Đúng vậy. Thân đã mất, nhưng ý niệm bị ung thư còn quá sâu sắc trong alaya của họ; khoác thân mới, cái ý niệm đó lại khởi sinh [không hay], cộng theo sự ăn uống buông thả hưởng thụ, là càng tiếp tay duyên cho tế bào xấu mạnh lên.

Trong vọng tâm chúng ta có hàng vạn chương trình được cài đặt sẵn từ vô thỉ kiếp, giống như vi rút trong ổ đĩa; lúc bạn khởi động máy tính (đâu có khởi động vi rút), song mọi vi rút đều đồng thể trỗi dậy. Con người dẫu hành thiện đến đâu, dẫu có tích đức dày hơn cả dãy Himalaya mà trong đầu vẫn ý niệm thập ác, vẫn lợi mình trước, làm thiện trước nhất mong nhiều người biết đến, mong được đền đáp, thơm danh là phước hữu lậu, không chống nổi ý niệm nghiệp thức, cuối đời u ám, lúc chết vẫn quay vòng chuyển kiếp. Các đại đức xưa nhắc nhở, làm Phật sự mà tâm không thanh tịnh chính là ma sự. Giúp người thoát cảnh túng khó là tốt, nên làm. Nhưng nếu được kết hợp khai thị Phật pháp, không chừng họ tỉnh ngộ. Niệm Phật, nếu ngại thì niệm thầm, tu “như không” vậy. Trong Kinh, Thánh nữ Bà la môn sau khi tu phước đã xả bỏ triền phược thế gian nhất tâm niệm Phật liền đắc quả Bồ tát; lập tức không những mẹ cô mà họ hàng của cô ở Địa ngục đều được siêu thăng cõi trời. Ai đó sẽ đặt câu hỏi: Nhiều người tu, sao họ vẫn nghèo và bất hạnh. Thứ nhất, người đó rõ ràng không hướng thẳng về cõi Phật. Phước đã tạo, chuyển qua những kiếp khác họ có thêm thọ mạng trong nhung lụa. Giàu sang và quyền lực luôn khiến người ta mê mất bổn tâm vốn thanh tịnh và đầy đủ trí huệ. Nếu không phát cái nguyện thật lớn về cõi Phật, nỗ lực dồn công đức và phước báu trong kiếp này, thì kết quả của Phật sự sẽ đưa ta bước trên nhung lụa của Ma vương. Nghiệp ý vô hình song quá lợi hại, khiến trong thế gian được xem là người nhân đức, chết đọa vào thai vật, là chuyện quá thường. Thế gian có những người cầm đầu cuộc chiến gây bao tang thương, kiếp trước chẳng ngờ họ từng cần mẫn tu; là trường hợp tu phước mà không tu tuệ, chưa nhập được vào dòng thánh, chuyển kiếp nhờ phước báu quá lớn làm quan làm tướng, nhúng tay vào chiến tranh, giết bao người nghiệp cũng chưa sờ tới được; hết phước nghiệp báo chồng chất ấy sẽ kéo thẳng xuống cảnh giới tối tăm để tiêu nghiệp.

Thân này có thể giữ được hành động tội lỗi nhưng đâu dễ giữ được nghiệp ý. Nghiệp ý không giữ, hay đúng hơn là không thay được bằng chân niệm, sẽ tạo nên cảnh giới xấu. Chu trình từ ý niệm tạo vật chất (nghiệp) đã được khoa học lượng tử khám phá, chứng minh tạm diễn thành công thức: Năng lượng (nhà Phật gọi Nghiệp tướng) + Tín tức (nhà Phật gọi Chuyển tướng) = Vật chất (nhà Phật gọi Cảnh giới tướng). Nhớ lần tham gia vào chầu cà phê cùng nhóm bạn, lúc tan hàng ai về nhà nấy rồi, đêm nằm ngủ tôi bỗng mơ thấy cuộc chơi đó tiếp diễn, những việc phát sinh mới lạ, lại rất hợp lẽ. Tỉnh dậy giật mình, may thay sự việc không thiện không ác. Chợt nghĩ cả chiều nếu không thầm chánh niệm trì kinh trong ồn ã, biết đâu tối này thức nó theo hướng xấu mà hành; ý tạo nghiệp (tưởng không liên can đến mình) nhưng thân vẫn phải chịu; (kiểu như con chưa đến tuổi vị thành niên ra đường phá phách gây gổ, cha mẹ lãnh nhận). Cũng dễ hiểu, bởi hàng ngày thả rông ý niệm, nó theo đó hư hỏng, ta ngủ rồi nó vẫn quậy, nghiệp này theo Phật pháp cũng là tự chuốc lấy. Giải thích tại sao có người nom bề ngoài hiền, không gây hấn với ai song nghiệp quá nặng, chính bởi chuỗi niệm hỗn này chiêu tụ. Muốn đổi căn mạng, ý niệm hễ khởi, ta liền biết và thay ngay bằng niệm thiện; như nước vừa bỏ vào tủ đông đã bị cúp điện nên chưa kịp thành đá (tạo cảnh giới xấu). Việc thay vọng niệm thế gian bằng hồng danh A Di Đà Phật là bước đầu lọc tâm phàm như kiểu ta lọc một ly nước bẩn thành trong; dần dà Phật hiệu mạnh lên, in vào tâm và tự phát vào bất cứ lúc nào, đặc biệt hơn là cả trong giấc mơ. Nhập môn, niệm thành tiếng là cách dễ, dần dà tiến đến Kim cang trì (không nghe tiếng, chỉ thấy môi mấp máy), cao hơn là mặc niệm, tức tâm khởi niệm và tai phải nghe rõ từng chữ. Một chữ “A” vang lên, ngân mãi như tiếng chuông, rồi chữ “Di” tiếp tục ngân… Hoặc như lúc kinh hành ta bước một bước là niệm “Nam”, bước nữa là “mô”, bước nữa là “A”... Đến lúc mỗi chữ hồng danh vang lên chẳng còn phụ thuộc vào nhịp chân nhịp tim hay hơi thở nữa, là lúc người ấy rời khỏi vọng tưởng của việc trì niệm, đưa câu Phật hiệu trở về chánh giác, trở lại đúng vị trí của ngôn ngữ thế gian thường gọi là Thiền. Dẫn đến việc ta có thể niệm Phật trong bất cứ sự náo loạn thế gian nào. Thiền minh sát cũng dựa trên cái biết sẵn ở sáu căn, hễ khởi tâm động niệm hành vi tạo tác cái biết ấy đều biết như mọi sự được soi vào gương. Nên các bậc thượng nhân mới khẳng định: Mọi pháp môn đều là Thiền. Tám vạn bốn ngàn pháp môn khác nhau ở tướng, còn tánh không hai. Thiền và Tịnh cũng chỉ khác nhau ở sắc, còn tánh vốn dĩ không - cái Không bao hàm vạn sự vạn vật.

Ngày nay Internet là kẻ phá hoại thế giới ghê gớm. Thế hệ trẻ hàng ngày thu vào tâm thức không đếm xuể thông tin, mà cái gì liên quan đến nghịch đạo luôn có sức hút đáng nể. Cái xấu cái ác là thức ăn chính của vọng tâm. Còn những việc nằm trong thập thiện luôn bị lướt qua mau lẹ. Tại sao ý tốt khởi lên dễ sanh cảnh giới xấu, còn tâm khởi niệm thiện vẫn chưa tạo cảnh giới tốt? (đơn cử giữ tâm thanh tịnh quán niệm tự chữa bệnh nan y). Bởi tâm ta còn uế. Hô một việc xấu, lũ tà niệm hùng hổ gấp rút hoàn thành; còn thiện niệm thì lác đác, luôn bị động, bạc nhược. Tâm vọng nó muốn nghe muốn nhìn thứ đồi trụy. Cái động luôn chi phối cái tĩnh. Định tâm trong khoảng một giờ niệm Phật đã khó. Tâm không định nổi, là thực tế cần phản tỉnh đối diện của giới tu tập theo dạng buông thả bản năng. Vọng tâm luôn muốn lượm rác, càng ngày thùng rác trong tâm càng phình ra. Chẳng những thế, phần lớn dữ liệu gom về đó luôn được hằn sâu qua mỗi lần kể lại diễn lại với người khác. Ta sống giữa sự bủa vây của các thông tin xấu, tâm ngập ngụa trong ý niệm nhiễm ô.

Các bậc chứng đắc đã nhìn thấy xung quanh mỗi người luôn có một dạng từ trường bao phủ với diện tích rất lớn. Nếu tâm luôn chánh niệm Phật pháp thì họ đang mang theo cả một tòa lâu đài nguy nga [hào quang]; người với ý niệm ngã chấp danh sắc ăn uống ngủ nghỉ, si mê sân giận, cũng sẽ mang theo “tòa lâu đài” song nó được xây bởi lửa và băng tuyết, gọi đúng là ngục - Địa Ngục hiểu thô là đây. Lúc chết, dẫu có duyên lành cũng chưa thể chui ra khỏi cái Ngục khổng lồ ấy. Điều này rõ là chẳng ai phàm phu thấy được, nhưng không xa lạ nếu soi vào Kinh điển. Một hiện tượng quá phổ biến khác, trẻ em bây giờ phần lớn mê game. Trò nào cũng đương nhiên đều không tốt, đều khuấy tâm (khiến tâm như hồ nước luôn đục); nếu game bắn nhau, trò chơi thì giả nhưng thử hỏi cảm xúc có thật? Cảm xúc thật sẽ tạo cảnh thật. Trên màn ảnh lúc hình nhân bị đạn xuyên vào cũng tóe máu, cũng gục xuống éo lên và chết. Công nghệ hiện đại còn khiến những cảnh tương tự diễn ra y thật. Có những game lập trình tái hiện nhiều trận chiến khốc liệt trong lịch sử chiến tranh thế giới, lũ trẻ vào đó cầm súng bắn nhau quên cả ăn uống. Chiếu theo khoa học ý niệm, chính thức chúng đang tham gia một cuộc chiến thậtvới đầy đủ súng ống đạn dược và ngây dại trong cơn say máu! Trong thế giới ảo chúng bắn người như ngóe; lúc ra đường, (ở những nước mà vũ khí được sử dụng tự do), chúng sẽ chỉa súng vào đám đông bóp cò tỉnh queo. Vì sao? Bởi chúng đã [vô tình] tập dượt sự lạnh lùng từ trong những cuộc chiến trên mạng. Còn biết bao trò chơi độc khác, bao phim ảnh bạo lực sẽ ùa vào tâm chúng, khiến từ quay đầu trở nên xa lạ. Sự khô kiệt tình người, sự hủy diệt của trái đất càng quay trong một quỹ đạo không phanh.

Mọi vấn nạn ảnh hưởng đến sự tồn vong của nhân loại, thực tế nguồn gốc chỉ nằm ở ý niệm thiện hay bất thiện. Ai cũng có Phật tánh, nhưng tự tánh hằng thanh tịnh đó luôn bị vọng khuất lấp. Gọi chúng sanh là bởi ta không sống bằng chân tâm với lực dụng vi diệu không mảy may huyền hoặc. Tam tạng kinh điển, không nằm ngoài việc chỉ rõ sự tung hoành của ý niệm làm chướng ngại hiển lộ chân tâm.

 

Cõng nghiệp rong chơi bên bờ vực thẳm

Kinh Hoa Nghiêm có câu: “Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất” (một là tất cả, tất cả là một). Chân lý này hơn 20 năm trước đã được nhà vật lý D. Gabo chứng minh qua Lý thuyết toàn đồ và nhờ vậy ông vinh dự nhận giải Nobel. Phật còn dạy: Một hạt vi trần chứa tam thiên đại thiên thế giới. Chúng ta thực tế hiểu chưa tới một phần tỉ chính mình. Ở mỗi người, thứcalaya lưu mọi thông tin từ kiếp này và cả muôn kiếp trước, nên đời người rất phức tạp. Ý khởi từ sâu trong vọng tâm, truyền đến mạt na thức, trí não mới bắt đầu nhận lệnh và sai sử thân tạo tác; nghiệp ấy sẽ lại dội ngược vào tàng thức, lưu cho đến khi [nhờ tu tập mà] Phật tánh hiển lộ; cảnh mộng mới biến mất. Chiếu theo khoa học hiện đại, alaya (vọng tâm) ở mỗi người ví như đài thu phát sóng siêu cấp, hút hết thảy thông tin từ vũ trụ. Nhưng chỉ những thông tin mà ngũ căn của ta nhận bắt xử lý (ước khoảng chưa tới một phần tỉ) mới thực sự sâu đậm, dễ thành chủng tử khởi sinh nghiệp trong thời gian ngắn. Cũng có nhiều trần cảnh thoáng qua tai mắt rồi vùi lấp đâu đó trong tàng thức, thậm chí qua những kiếp khác, nhờ tác động mạnh bởi duyên bên ngoài đã khởi dậy sanh nghiệp dữ. Thử xét ở một hiện tượng: Đạo Văn. Đạo ở đây, xin khoanh vùng ở sự vô tình; (những trường hợp cố ý đương nhiên không nằm trong lộ trình nghiệp này). Có người lướt qua một bài thơ trên mạng trên giấy hay thoáng nghe ai đó đâu đó, rồi quên hẳn, quên tuyệt đối, đến mức có ai hỏi từng đọc những câu thơ này chưa, cũng không nhớ. Chưa hề. Bỗng một ngày nhân sự kiện tương đồng với bài thơ mình từng đọc dội đến, nhà thơ khởi ý làm một bài thơ. Bật ra tứ. Nhà thơ mang giấy bút bắt đầu nghiêm túc nghĩ được mấy dòng, lại nghĩ, lại viết. Từng câu từng chữ đều từ óc mình vắt ra. Lúc bài thơ khá trọn vẹn, nhà thơ đọc lại, thấy vẫn còn vài chữ chưa ưng ý, lại suy nghĩ, thay từ này từ kia, đổi đến mấy lần mới chuẩn. Nhưng. (Điều không ngờ, trí thì có thể quên, song kho alaya thông qua những dạng camera tự động (như mắt), nhoáng cái đã lưu đến từng âm tiết, từng tiếng động nhỏ, kể cả những thông tin mà tai, mắt, mũi không hề tiếp xúc). Nhà thơ không ngờ, duyên tương đồng khởi hiện cũng là lúc thông tin từ alaya thức giấc, được lôi ra mà trí não không hề hay biết. Tác giả sẽ rất ngạc nhiên lúc người ta đưa đến một bài thơ của người khác giống đến khó tả. Y như cùng một khuôn. Phản đối. Đây là bài thơ tôi làm trăm phần trăm. (Dĩ nhiên). Tôi chưa hề đọc bài thơ này. Chính bài thơ này mới đạo của tôi. Thế là sôi dư luận. Người ta tị hiềm, công kích, cay nghiệt lên án. Người ta nhầm lẫn giữa chống cái xấu ác với khuếch trương bản ngã, tự cho mình cái quyền phán xử trong lúc chưa thể nhìn rõ chân tướng sự việc. Luận về nghiệp, lại càng không.Dẫu người ta lôi chứng cứ rành rành. Oan! Mà không oan. Đến đây, nhà thơ sau bao thời gian không tin nổi chuyện đã xảy ra, mới lắng tâm suy xét. Trí não bỗng kích hoạt, hình như, hình như có lần nào đó mình có lướt qua bài thơ này. Vấn đề lại ở trí não. Mà không phải trí não. Chính alaya “khởi tác dụng”.

Quy cho cùng, đó cũng là Nghiệp. Dẫu vậy, trong họa có phúc. Giả như ta dư nghiệp, ắt gặp hoạn nạn. Nạn đến (thông qua sự mất mát về tiền tài, danh vọng, bệnh tật), tức ta đang thẩy khỏi mình một ít nghiệp. Ta tạo ác, cõng nghiệp, mà nạn chưa sờ tới, một là vẫn còn phước đỡ giùm (phước đỡ từng nào đương nhiên dễ phát sinh thêm nghiệp), hai là, mạng chung!, nhẹ hơn cũng dật dờ sống không bằng chết. Đây cũng là một vòng quay mới của nghiệp. Nhờ sự chết còn hơn sống, nhờ sự bất đắc kỳ tử này, [hồn/thức] ấy qua bên kia sẽ nhẹ gánh, dễ được lôi vào một thân tướng khá ổn như thân người hoặc trời (không đọa xuống tam ác đạo); còn người ấy với số phận như thế nào lại là một chu trình nghiệp khác nữa tùy vào duyên khởi và chính sự tin hiểu mức nào về chân lý.

Thức alaya đã được khoa học hiện đại chứng minh. Nó, như một file lưu giữ thông tin kiếp người. Càng minh chứng điều hễ trong không gian này có một tỉ thông tin, thì nó đều tiếp nhận và lưu kỹ, song những thông tin được tai mắt kiểm soát mới dễ kích động kích hoạt. Hãy so sánh với ông Google. Lúc ta để trong ngoặc kép một dòng tên nhân vật nổi tiếng hay một địa danh, một sự kiện, chưa tới một giây có khi ông Google cung cấp hàng triệu thông tin liên quan. Trên Youtube cũng vậy. Chẳng hạn search về bốn chữ “A Di Đà Phật”, liền hiện ra hàng loạt clip. Tắt máy, mai ta mở lại Youtube, trên màn hình đã tự hút thêm về những tin tức mới nóng về “A Di Đà Phật”. Đáng nể. Một cỗ máy do con người sáng chế đã làm được nhiệm vụ thu thông tin một cách tự nhiên như vậy, huống hồ chính bản thân con người. Alaya thức của ta chứa hầu như mọi thông tin thế gian (tính cả tiền kiếp). Tại kiếp này, ví như tác giả nọ muốn viết về đề tài X., lập tức trí não sẽ tự lôi mọi thông tin ta lưu trữ, quan trọng nhất vẫn là lượng thông tin “vô hình” được lưu sâu trong tàng thức, nó sẽ tuôn ra như suối nhờ tánh giác khiến ta ngạc nhiên đến sửng sốt. Từ Phật pháp mà nhìn, chỉ cần con người khởi ý về Z., mọi thông tin liên quan đến Z sẽ được quy tụ; là người có tâm lực mạnh, nhất là người với công phu hành pháp cao, những thông tin “mật” độc đáo dưới dạng từ trường, sóng, năng lượng sẽ được hút về, tác động lên não bộ. Những vị sư thâm hậu, họ giảng một bộ kinh hết mấy ngàn giờ, mà không hề chuẩn bị. Cứ đến là giảng, xong vài tiếng thì gấp lại làm việc khác (đã sắp kín thời gian trong ngày), mai giở ra giảng tiếp rất tự tại. Điều này thật sự vi diệu. Đây mới là trí huệ chân thật, không phải tri thức (thuộc vọng tâm). Trí huệ là cái sẵn có trong bổn tánh, giải quyết mọi chướng ngại trong đời.

Trong vọng tâm mà mỗi chúng ta tự thiết lập phủ lên tánh giác, bất thiện luôn lấn át sở thiện, ý nghĩ xấu thường nhiều gấp bội tốt. Một người trú trong ngôi biệt thự, hầu như không có nhu cầu ra ngoài, ngập chìm trong chiếc điện thoại nối mạng, suốt ngày xâm nhập thế giới đồi trụy, nghiện bạo lực và sex đến mờ mắt vẫn còn mê; là người tạo nghiệp nặng khôn kể đối với thế giới và vũ trụ. Nghĩ xấu, vô vàn ý niệm tương đồng khắp mọi phương sẽ chiêu tụ về trong khoảnh khắc, tạo thành một trường lực tăm tối bao quanh. Chưa nói đến thiền vốn rất siêu tuyệt, ngay những người tu khí công cao họ đã nhìn thấy vầng ánh sáng/ màu quanh mỗi người, nếu chỗ nào lõm khuyết tức bệnh. Trong nhà Phật, bậc chứng thiền sẽ nhìn thấy sắc màu ở từng người, dao động theo tâm ý. Những kẻ sát nhân đôi khi đơn giản khởi niệm xấu, bỗng chiêu niệm ác, thế là sát khí tăng gấp bội, gấp tỉ lần. Ta đứng xa thấy người này đánh người kia, phân định phải trái rõ ràng, song dẫu sao đó cũng là cái nhìn thấy một phần tỉ nguyên nhân; đằng sau người khởi sự đánh ấy là con tàu nghiệp lực hàng vạn toa chở vô số oan gia trái chủ hùa với người kia tạo nghiệp, gọi chung là ma lực sai sử. Những bậc đắc quả thánh còn thấy hàng trăm kiếp mình từng trải như lật lại hồ sơ lưu giữ sống động quá trình họ trôi nổi luân hồi.

Mọi thông tin trên trái đất này đều có trong tàng thức mỗi người, mấu chốt là ta chưa thể biết có, nhưng cũng dễ cảm nhận. Ai một lần du lịch nước ngoài hay đến vùng đất lạ trong nước, họ đứng ngẩn ra, ô sao nơi này quen, thân thiết quá, muốn ở lại luôn; đơn giản bởi những kiếp nào đó họ từng sống nơi đây. Ta yêu hay ghét một sự vật, trước hết là: căn (nhãn, nhĩ, tỹ…) tiếp xúc với trần (sắc, thanh, hương, vị…); mắt tiếp xúc với sắc; mũi tiếp xúc với thanh; lưỡi tiếp xúc vị, tâm sẽ khởi lên sự thích hay không. Sắc hương vị ấy ví như thông tin, thông tin phải qua người lính gác cổng ý thức; ý thức chuyển thông tin vào mạt na; thức này mới đưa thông tin ấy dâng lên ông-vua-tàng-thức (alaya); nếu thông tin từng được lưu lại như một kỷ niệm đẹp trong quá khứ, nó sẽ thích. Thích, alaya liền gật đầu với mạt na, mạt na báo ra với tên-lính-ý-thức, ý thức bây giờ mới tác động lên trí não để sai khiến thân làm nô lệ. Vòng quay từ lúc căn tiếp xúc với trần rồi đến vua, vua gật đầu chuyển ra ngoài sự yêu hay ghét chỉ trong sát na, có thể là một phần tỉ giây. Hoàn toàn trí não không kiểm soát nổi. Lại tỉ dụ. Sau một tuần công tác về, ta tới quán gọi ly cà phê. Nhấp một ngụm, nhăn mặt. Không ngon. Không ngon không hẳn ly cà phê lúc đó không ngon, mà nó không ngon đúng như ký ức ta lưu về một ly cà phê trước đây. Ăn cũng vậy, nó dở trước hết bởi không giống như ta từng ăn món này được nấu rất ngon. Ký ức [tham] lưu toàn vẹn sự ngon đó một cách sâu sắc. Nghe bản nhạc. Cô này hát dở. Dở là chính ta đang so sánh với ca sĩ khác hát trong quá khứ, trong tiền kiếp với dòng nhạc tương tự; rồi nếu bài này được gắn với một kỷ niệm tình thì ký ức đạt đỉnh. Nhạc sến có cần? Một nhạc sĩ thiên tài nhiều lúc họ vẫn lắng nghe một bài nhạc sến. Họ lục ký ức, hồi đó từng ngồi với nàng nghe bài này rồi chia tay… nàng đã khóc. Bài nhạc sến trở thành món đặc sản tinh thần của ông. Nói xa hơn, hiện tượng đồng tính nếu xét ở nhân quả nghiệp báo cũng không khó hiểu. Anh [là đàn ông] bây giờ, kiếp trước mang thân nữ. Kiếp này đàn ông song ký ức lưu giữ về một cá tính nữ quá mạnh, quá trỗi vượt, nên kiếp này [đầu thai] mang thân nam, những cá tính lưu trong alaya là nữ ấy cứ chỗi lên như viên sỏi ném vào tro bếp. Anh [với tính nữ] chỉ muốn yêu một người nam. Nghiệp này, nỗi “oan” này đến trời cũng không cảm thông nổi.

Làm sao chế ngự nghiệp lực. Duy chỉ con đường: Hành pháp. Mục tiêu là khiến tâm định. Rồi mới tiến đến mức Vô Trụ - Phát tuệ. Mục đích tối cùng của việc học Phật là đắc huệ. Huệ mới giải quyết được phiền não, mới khiến cuộc sống của chúng ta an bình, không dao động bất an, ám ảnh. Chúng ta đọc nghìn vạn cuốn sách, thành học giả được cả thế giới ngưỡng mộ, nhưng một khi nạn nghiệp, bệnh tật, bất trắc ập đến mà nghìn vạn cuốn sách đó không giúp gì được thì phải cần hiểu bởi nó chỉ là tri thức, không có trí tuệ. Một học giả hàng đầu thuộc ngành gì trước hết cũng nên hiểu mặt tin thần tâm linh chiếm hơn chín mươi phần trăm con người mình. Để khi bệnh đến ta không giao một trăm phần trăm sinh mạng cho những bác sĩ chỉ chữa được có mười phần trăm con người mình. Tri thức có thể sanh ra trí tuệ, song thứ “trí tuệ” không khiến chúng ta bình lặng trước biến cố cuộc đời thì đó vẫn là tri thức. Chúng ta “thế trí biện thông”, lúc gặp người phỉ báng coi khinh liền trằn trọc ăn không ngon ngủ không yên; gặp nghịch cảnh, gặp chuyện không vừa cái tham liền sân nộ. Thử hỏi lúc ta sân nộ có nguy cơ tàn hoại thanh danh và thân mạng (của ta và người), lúc ấy kiến thức của trăm vạn cuốn sách ở đâu rồi? Lúc ấy có phải người đời gọi chúng ta là mất trí. Thực tế không phải mất trí, mà từ lâu chúng ta nhầm thứ tri thức thuộc tài danh ngã mạn ấy là trí tuệ. Thực hành chánh pháp mới mang lại cho tâm ta an định; có định sẽ sinh trí tuệ. Thế nên giữa Phật học và học Phật là cả một đại dương không mấy ai dễ đủ sức bơi qua. Học Phật, có thể đó là ngồi quán hơi thở vô ra, sự phồng xẹp của bụng, có thể là nhiếp tâm tụng kinh, trì chú, niệm Phật, thiền vipassana. Trì chú tụng kinh hay niệm Phật đều phải tâm khởi (dẫu là khởi thầm) tai luôn nghe rõ, gọi là tánh nghe; giống như ta tưởng đến một tiếng chuông và nghe trọn vẹn nó vậy. Như vậy mới hầu mong hòa giải vọng niệm, cảm hóa vọng niệm, dần vào định, dần tiến đến có niệm mà không niệm. Vọng niệm cũng như một cơn cảm cúm, đến rồi sẽ tự trôi, không nhất thiết phải dùng thuốc. Mỗi khi cơn giận khởi, chỉ nên “cười trừ”. Trong những thứ “đồ giả” bất chợt ùa tới, cũng có thể xem là cao nhân đang thử tâm mình. Mối quan hệ giữa ta với bà hàng xóm từ lâu vẫn hiền hòa, tự dưng một ngày bà vu ta thế này thế kia; nên hướng ngay vào nội giới, tâm lần theo câu chú hay hồng danh Phật. Mỗi chữ đều mạnh mẽ như tiếng chuông vỡ trong khuya, loang dần trong huyết quản; phiền não sẽ tan như sương dưới nắng mai chan hòa.

Tu là sửa mọi hành vi cho đúng với sự vận hành của vũ trụ. Sống trong giới luật nhà Phật, chính là không vi phạm pháp luật vũ trụ. Một niệm có thể trùm khắp không gian vượt khỏi giải ngân hà. Chúng ta tin hay không thì điều này vẫn tồn tại. Chúng ta tin chết không phải hết hay không?, tin chết rồi thức có thực đầu thai vào một trong các nẻo lục đạo hay không?, tin địa ngục hay không?; tin hay không tin nó vẫn tồn tại. Dẫu bạn theo bất cứ tôn giáo nào cũng không nằm ngoài quy luật vũ trụ. Quy luật vũ trụ luôn thông dự vào cuộc đời ta trong từng ý niệm. Là sản phẩm của một gia đình - ta đang tự hạn chế mình. Là sản phẩm của một nước - ta đang tự hạn chế mình. Là sản phẩm của toàn cầu - ta cũng đang tự hạn chế mình. Bởi, con người là sản phẩm của nghiệp thức trầm mình muôn kiếp trong vũ trụ bao dung; và hơn hết con người vốn là thể tánh “có mặt” ở khắp vũ trụ.

 

Vũ điệu ý niệm trong cơn đau bản thể

Loài thỏ khoái cà rốt, nhưng nhiều lúc chúng vẫn ăn nhầm củ cải trắng bởi đeo kính màu. Khoa học cũng đưa ra hiện tượng “mù màu” khi con người nhìn về vũ trụ; bắt đầu bằng những báo cáo về cấu tạo mắt của động vật. Mỗi loài, qua sự lồi lõm tròng mắt sẽ quy định cái nhìn khác nhau. Ngay trong cùng loài, mắt nhìn sự vật như qua cái kính lồi, chỉ cần xê dịch chút xíu hiện tượng đã biến đổi. Để thấy, mỗi người đều nhìn sự vật qua con mắt của riêng mình không ai hoàn toàn giống ai. Năm đứa con đều thấy mẹ mình tốt nhất, song sâu xa trong mỗi đứa đều lưu một hình ảnh mẹ khác xa. Công án Thiền về Tô Đông Pha. Sở dĩ họ Tô nhìn sư Phật Ấn ngồi thiền như một đống phân, đơn giản vì ngay lúc đó tâm thi sĩ này nhơ đục; còn sư Phật Ấn nhìn Tô Đông Pha giống Phật, bởi tâm của sư tịnh sáng. Ở tầng cấp cao hơn, kinh Lăng Nghiêm mô tả về loài quỷ chạy bên bờ sông Hằng vẫn kêu gào khát cháy, vì ở cảnh giới của chúng nơi mênh mông nước ấy lại là sa mạc. Vấn đề đặt ra: Liệu ta đã hiểu rõ về đối tượng mà mình có thói quen phán xét? Dĩ nhiên, không. Vợ chồng sống gắn bó từ lúc cưới đến đầu bạc nói hiểu nhau chân tơ kẻ tóc, thực tế họ chỉ hiểu phần tảng băng nổi. Khoa học cho biết mắt người chỉ thấy [hiểu] được 2000/400 tỉ = 1/200 triệu tức 0,0000005% thực tại. Tiến sĩ khoa học Joseph Dispenza: “Chúng ta chẳng biết gì về thực tại cả và tất cả cảm nhận về cái gọi là thực tại ngoài kia đều đã được sàng lọc qua các giác quan của con người. Não bộ xử lý 400 tỉ bit thông tin trong 1 giây nhưng chúng ta chỉ nhận biết được 2000 bit trong số đó”. Phật pháp dạy, ta chỉ cảm được phần tướng, còn tánh muốn thấy phải chứng ngộ, ngoài ra không còn cách nào khác.

Tánh là Tâm Phật. Tâm Phật vốn thâu toàn pháp giới vạn thể. Về mặt tinh thần, chúng ta đang sử dụng vọng chứ không phải chân. Vọng tâm như sóng trên mặt biển không ngừng dao động, và nghiệp lực là dòng cuồng lưu phía dưới, nó dễ hợp với duyên (gió, bão) tạo nên sóng thần. Còn thể xác chúng ta trên địa cầu, nhỏ đến mức không thể so sánh với một hạt cát trong vũ trụ. Vọng tâm lại biến hiện ra vô lượng cảnh giới khôn lường. Chỉ lúc người tu đại ngộ mới thoát vọng tâm, trở về chân tâm, hiểu sơ đẳng giống như một người đang giữa trận cuồng phong tàn phá kinh hoàng, bỗng trời yên biển lặng. Như trong cơn ác mộng thức giấc, mồ hôi còn đầm đìa. Bỗng à lên, thì ra mơ. Sợ. Khiếp quá. Đây không phải so sánh, mà thật. Đại ngộ là tỉnh mộng. “Trong mộng rõ ràng cósáu cõi, tỉnh mộng rồi không cả đại thiên” (Đại sư Vĩnh Gia). Chúng sanh đều đang trong một giấc mộng lớn. Hãy kiểm thảo, hiếm ai trong mơ lại biết mình đang mơ. Vậy chúng ta đi đứng nằm ngồi, chúng ta véo mình thấy đau, sao gọi là mơ. Điều này Duy Thức Phật giáo giải thích cặn kẽ, hiện thời còn được ngành vật lý lượng tử minh tường. Chẳng hạn bóng đèn nê-ông bật sáng, dưới ánh nhìn khoa học, ấy là sự tắt và đỏ của liên tục các điện tử nối tiếp. Trong Kinh còn nêu thí dụ, quay tròn ngọn đuốc, ta thấy một vòng lửa, thật ra đó là sự tương tục của vô vàn điểm nối ngọn đuốc với nhau, nhanh quá nên mắt thường không nhận ra. Trong phim nhân vật bước một bước, đó là sự nối ghép của 24 hình/1 giây. Một giây, 24 hình tương tự [nối nhau] ẩn hiện đã lừa được nhục nhãn; huống hồ trong một giây vọng tâm phát xuất hàng tỉ ý niệm vi tế. Sự tiếp nối đó tạo nên vạn vật chuyển động. Chuyển động sinh năng lượng. Năng lượng sinh vật chất. Vẫn là mộng. Lúc ai nằm mơ, là mộng trong mộng, thậm chí trong mộng của mộng lại có mộng nữa. Địa ngục chính là những cơn ác mộng nối nhau không ngừng; nó là sự phản chiếu của nghiệp lực ta gây trong kiếp trước và kiếp này. Sự công bằng của con tạo khiến người đời không thể tin nổi. Tin, chính ở phước duyên sâu dày chủ yếu nhờ đời trước đã gieo nhân thiện, đã có tu.

Ta đều đang nhìn thấy một phần nhỏ chân lý tối thượng mà thôi. Trái đất lớn bằng ngôi sao, thì dải ngân hà có hàng tỉ ngôi sao; con người đã biết được mấy sao theo kiểu cưỡi ngựa xem hoa (như chân ướt chân ráo đặt lên sao Hỏa); nói gì đến trong vũ trụ có tỉ tỉ dải ngân hà. Ta thiển cận về toàn thể vũ trụ như thế nào thì thiển cận với nhân sinh như vậy. Ngay đến thiên tài, họ cũng mới sử dụng những tài năng phàm tình trong kho tàng vi diệu tự tánh. Mỗi ta đều có Phật tâm, cả vũ trụ hiện trong ấy, ta sẽ không hề chạm tới được nếu chẳng thực tu hành. Alaya thức chúng ta tích lũy vô vàn nghiệp thiện ác, dẫu qua bao nhiêu kiếp đầu thai đều y nguyên. Một lượng thông tin, nghiệp lực “nếu có hình tướng sẽ đầy cả hư không”, gặp duyên sẽ hiện cảnh quá lợi hại. Phật giảng: không ân oán, không đền nợ trả nợ đời trước sẽ không trở thành vợ chồng con cái trong kiếp này. Là sự hút nhau tự nhiên như một dạng sóng cùng tần số. Trả nợ thì con hiếu thuận, đòi nợ ắt bất hiếu; thậm chí còn trường hợp, con ngoan hiền song ốm yếu bệnh hoạn, cha mẹ bán hết gia sản đến mạt vận, cũng là một cách đòi nợ! Hướng vào Phật pháp mới chuyển được nghiệp bất hiếu [từ kiếp trước] thành có hiếu [trong đời này]. Rồi nữa, một ngày bỗng gặp người lạ giúp đỡ mình, ngược lại lần đầu tiên gặp mặt người đã muốn đẩy ta đến đường cùng, đích thị duyên nợ tiền kiếp. Ta không nhận ra trước đã gây nhiễu gì cho họ; họ cũng không hề biết, song nghiệp lực trong tàng thức vốn “có mắt”, biết nhận dạng do đó nó thôi thúc họ trả thù. Dẫu vậy, sự đòi nợ thường rất ít, gần như qua kiếp này oan gia chỉ đòi phần lãi (xóa phần nợ gốc). Đòi lãi, ta [do chẳng tin nhân quả] nên tìm cách trả đũa mạnh bạo hơn, thành dư báo! Chính ý nghĩ đòi lại “công bằng” là đầu mối của lục đạo, phần nhiều luân hồi trong cõi quỷ, bàng sanh. Người giàu sang danh vọng, trước hết là nhờ sự quy đổi từ phước nhiều đời; ngỡ nhờ tài năng của mình nên phồng bản ngã mặc sức tiêu pha, mặc sức coi khinh những người yếu hèn nghèo đói... Tiêu tiền thụ hưởng, vốn là tiêu phước. Phước mỏng dần nghiệp báo sẽ hiện, mà tai nạn, bệnh tật luôn là thước đo. Một nhân vật lừng danh, bỗng thân liệt trí mờ, bấn loạn mộng mị triền miên; giữa lúc ngoài kia sản phẩm dán mác của họ vẫn ngồn ngộn đẻ ra tiền. Họ chìm vào cõi cô đơn cùng tận cho tới lúc hồn dứt khỏi xác đau như “rùa sống lột mai”. Thân mất, thức ấy không chịu quy định bởi vật chất thế gian nữa mà quy định bởi phước đức. Hãy tưởng đến cảnh thân vừa mất, ta thấy ngay xác mình nằm đó dần thối rữa. Ta biết mọi sự diễn ra, thấy họ hàng thân quyến đó lại bất lực trao đổi bất lực sờ chạm. Ta đói không ăn được đồ cúng kiếng ngon lành bốc khói; ta lạnh được cúng áo ấm đốt lửa vẫn lạnh, ta nóng [hồn] chui vào tủ đông vẫn nóng. Và nếu [hồn] vẫn chấp trước về quan tài đắt tiền, nấm mồ sang trọng, cái ngãsẽ giữ họ ở lại trong thân trung ấm chịu khổ bội bội lần thảm cảnh cuối đời.

Phật vô ngã. Chúng sanh sở ngã. Cái Ngã to đùng và nó không ngừng lớn mạnh theo chút tài bé mọn. Ngã chấp càng lớn vô minh càng dày, càng che khuất phần minh tuệ. Cống cao ngã mạn nhờ nói lưu loát vài thứ tiếng? Xin phép gạn ra lớp váng mê tín dị đoan để nêu sự thật: một người nông dân lúc lên đồng, vong nhập vào liền tuôn ra trôi chảy nhiều ngoại ngữ. Lúc hồn kia xuất lập tức họ trở về sự thể ban đầu là người một chữ tây cắn đôi không biết! Đó dẫu sao vẫn là tục đế. Xét về chân đế, người chứng quả Thánh đầu tiên đã có thiên nhãn thông, nhìn thấu cảnh trời và địa ngục; chứng thêm nhị, tam, tứ quả liền thấu suốt ý nghĩ của bất cứ ai, rồi đắc Thần túc thông, khởi ý niệm muốn tới đâu liền có mặt ở đó. Người Niệm Phật đạt nhất tâm bất loạn có thể “tiền trạm” tới cõi Cực Lạc, thế giới của Vô Lượng Thọ muốn bất cứ gì liền có nấy. Nhưng trong nhà Phật không phải khuyên tu để đạt những thứ ấy lòe thiên hạ. Những vị chứng càng cao, chúng ta sẽ càng không thể biết! Người được xem và tự cho mình thông minh tỉnh táo hơn các bậc đại đạo sư, cho mình luôn làm chủ bản thân, họ nhầm. Khiến tự ngã thêm lớn. Một khi ta không ít nhất sai khiến được tập khí phiền não, đơn giản và cụ thể như không hóa giải nổi cơn nóng giận là đang sống trong sự lôi dẫn của nghiệp lực. Sống thuần vọng tâm, con người gọi đúng là con rối của nghiệp lực.

Chúng ta có mặt trên đời bởi sự hội tụ kết tinh nghiệp từ tiền kiếp. Có những đứa trẻ mở mắt sống chưa bao lâu đã nhận ngay nghiệp dữ quá khứ; lý do khiến người đời thường gọi “trời không có mắt” gây oan giá họa. Thực tế nhân quả tơ hào không sai. Lộ trình từ nhân tới quả luôn biến hóa; quả có thể méo mó dị dạng khiến ta không nhận ra, tuy nhiên hiển nhiên nhân ác đã gieo, không sớm thì muộn quả xấu sẽ đến. Thường tội lỗi [nhân đời trước] chưa hiện, ta lớn dần theo cái nhìn và ý nghĩ của gia đình; lớn thêm bị quy định bởi tâm thái nhìn nhận của bè bạn, xóm làng; với những người nổi tiếng họ còn “nối mạng tư tưởng” với rất nhiều người trên địa cầu. Ý niệm câu thông, còn mạnh hơn bất kỳ loại sóng nào khoa học từng khám phá. Ý niệm là yếu tố tiên quyết làm nền móng tương lai mỗi sinh mệnh. Lúc thai nhi hình thành phải được thai giáo. Người mẹ chẳng những nên sống trong một không gian nền nếp không có tạp âm mà ngay đến ý nghĩ của mình cũng luôn thiện lương hòa ái. Ý niệm là mấu chốt gieo nên nghiệp lực [xấu ác] mạnh mẽ nhất. Tin nhân quả là bước đầu làm chủ vận mạng. Nhân quả phải là bài học đầu tiên và xuyên suốt đời người. Được giáo dục về nhân quả, đứa trẻ sẽ không nghĩ không nói xấu ác ai, sẽ không trộm cắp thứ không phải của mình, lớn lên sẽ không sa đà nghiện ngập rượu chè hút chích, sẽ không tà niệm với kẻ ngoài vợ mình. Đứa trẻ từ nhỏ được dạy không sát hại động vật kể cả côn trùng muỗi kiến, ngược lại còn yêu thương mèo chó trong nhà đến loài vật hoang trong rừng, làm sao chúng có thể khởi ý niệm hại [giết] người cho được. Nhân quả cũng giống như giới luật. Sống trong nhân quả tức đang sống trong một không gian thanh tịnh. Ta chưa hề thấy cố nội, qua ảnh cũng không, nhưng chắc chắn tin có cố nội. Có cố mới có ông, có ông mới có cha… Nhân quả đời trước cũng vậy, ta không thấy song phải tin sâu sắc. Phật dạy nhân quả xuyên ba đời. Tin chắc tất cả mọi sự việc không như ý gặp phải tuyệt đối chẳng ngẫu nhiên, mà do nhân đời trước, phải tin và quán, và quán như thế mới không khởi tâm oán hận người đã phiền hà mình, không khởi tâm trả đũa. Người kia gây hại dù lớn đến đâu sẽ có nhân quả vũ trụ quản lý, sẽ bị báo ứng trừng trị chẳng sớm thì muộn, chớ bao giờ khởi niệm "thay trời hành đạo", muốn chỉnh sửa, giáo huấn, trừng trị lại. Khởi ý niệm này nguy hiểm vô cùng, trước hết là tự hủy phước báu, nữa là khiến cho mạng lưới nhân duyên cộng đồng cũng bị tổn hại và chính ta lúc mạng chung sẽ lọt vào đọa xứ. Chưa hết, khởi loại ý niệm này các oan gia trái chủ vô hình trong nhiều đời sẽ có dịp thuận tiện càng tác ý giúp thêm cho ý niệm xấu của ta mãnh liệt. Mỗi người cơ bản đều có số lượng lớn oan gia trái chủ từ vô lượng kiếp âm thầm theo sát; nhờ phước ta còn dày, họ chưa thể làm gì; không tu, phần đông nghiệp sẽ nhào tới lúc lâm chung. Nhớ hồi học đại học, tôi luôn mua thức ăn của một dì bán thịt heo. Bẵng đi rất lâu, một ngày hay tin dì bị ung thư. Dì nói thường thấy ai cầm dao băm chặt dưới chân... Những ngày cuối đời dì được đạo hữu gần đó khuyên niệm Phật; lúc tôi đến thăm dì còn bảo đọc Chú Đại Bi. Có người khác, cận kề cái chết đã thấy rành rành oan gia, sợ đến biến dạng mặt mày lật mình xuống giường, mà nào có trốn được. Pháp gọi hiện tượng này là hoa báo; hoa báo hiệu cho quả phía bên kia đời. Lúc sống, ai từng vùng mình khỏi cơn ác mộng (như bị truy đuổi chém giết, bị tra tấn hành hạ…), sẽ cảm được chút ít về địa ngục. Hơn thế, trí não ta chỉ mới tưởng đến cảnh hành lạc, tưởng đến cảnh sẽ phương hại người như thế nào, vào địa ngục cũng hiện lên như vậy để thọ nhận. Bạn trong đời không đánh đập ai, song đã từng giết cá hay bất kỳ loài vật nào như thế nào, lúc mất thân, hồn vào địa ngục sẽ [hiện] chịu lại nỗi đau như thế; chủ tâm giết tổ kiến từng con từng con, vào hỏa đồ nhận y xì. Ở đời cắt xẻ thịt động vật, vào địa ngục ta buộc phải “diễn lại”. Đây chỉ là điểm xuyến thoáng qua cảnh tượng nhân quả điệp trùng Phật thuyết trong kinh. Đau đớn đến trời đất cũng ứa máu! Biết làm sao. Thân động vật từ người đến loài vật nói chung đều có 27 chi pháp(trong sắc pháp) hệt nhau; trong danh pháp chúng cũng có tâm vui buồn tham sân. Bình đẳng. Nhưng ta đã gây nghiệp bất bình đẳng! Nghiệp ấy tự tạo tự chịu, không ai quy định cả. Đó là quy luật vĩnh hằng trong vũ trụ, người phát hiện ra chính là Đức Phật. Ngài chỉ nói lên sự thật trong vũ trụ. Một sự thật quá thảm, sự thật vượt khỏi lối suy niệm thông thường, nên nó trở thành hoang đường. Nhưng cái hoang đường đó vẫn thường ngày sống động trong nhân sinh thế tục, sống động tuyệt đỉnh trong mắt của bậc chân tu.

Nhân quả hữu hình đã vậy, nhân quả vô hình quả đáng sợ biết báo - đó là Ý Niệm. Ý niệm cũng có đồng minh bè phái. Ý niệm xấu khởi ra, lập tức chiêu cảm cùng loại cuộn về như lốc tố, chiêu cảm ác niệm từ ác thần ác quỷ, la sát. Ngược lại ta khởi tâm lành, nhẫn nhục, tha thứ cho đối phương thì nghiệp chướng tiêu nhanh, sức khỏe ngày càng kiện khang trường thọ. Trong nhiều buổi giảng cho Phật tử và giới trí thức, tiến sĩ Nguyễn Tường Bách cũng đặc biệt nhấn mạnh điều này. Các bậc đại đức hiện thời thì kết hợp với những khám phá của khoa học để hướng người đời cứu thế giới bằng việc giữ ý niệm thiện, thay thế và loại trừ tà niệm. Ai không tin có thể đặt hai bát cơm, hai bát nước, hai loại trái cây hay bất cứ “vật vô tri” nào ở hai căn phòng, một nghĩ xấu về nó, một phát ý nghĩ yêu thương, thời gian sau sẽ thấy chúng biến đổi tươi ngon hay thối úng. (Chỉ phát ý niệm thiện hay ác là đủ, không cần ra tiếng chưởi rủa hay lời yêu thương). Những loại “vô tri” trên sẽ [bắt sóng] hiểu và biến đổi theo ý niệm của chúng ta. Ý niệm chính là nhiên liệu tạo nên bản chất mỗi người. Nếu ý niệm không thể hiện ra chân tay miệng, bề ngoài trong đời sống y không làm hại ai song chớ nhầm tưởng y thiện lương. Trong tâm y mang ý niệm sân hận, luôn muốn người ấy người kia sớm thân bại danh liệt mau già mau chết; và bởi góp vào vũ trụ loại từ trường cực xấu, chẳng những y hại một người mà còn [góp phần] hại đến cả nhân loại. Thầy Tuệ Hải trong một buổi giảng về Nhân Quả có đoạn: “Theo kinh Địa Tạng, chúng ta chỉ cần tác ý liền có nhân quả. Mỗi khi mình nghĩ tốt, sẽ tạo một dạng sóng trường tốt đưa ra vũ trụ, nghĩ xấu sẽ tạo sóng trường xấu mang theo một dạng màu. Nghĩ thiện lành sẽ cho ra màu trong sáng, êm ái nhẹ nhàng, đi hoài trong không gian không mất, thứ hai cái sóng trường thanh bình đó sẽ chạm tới các cõi có chúng sanh đau khổ, khiến được mát dịu; ta được nhận ngay phước. Nhưng mỗi lần sân si nghĩ xấu, sẽ tạo một sóng trường bất an mang theo khí xấu, mang theo sự khó chịu cho người, khiến ta tổn phước. Thử lắng tâm nghĩ xấu đến ai, là họ cảm giác khó chịu khi nghĩ tới mình liền… Trong Kinh nói nhất niệm xuyên tam giới là sự thật. Một ý niệm chúng ta đi khắp tam giới chứ không phải chỉ tới một vài người bình thường; và trong khoảng cách từ mình đến đối phương còn có rất nhiều cõi, nhiều loài chạm phải, thì đã có nghiệp, có quả báo dành cho ta rồi”. Nên nghĩ tốt về người. Loại ra những điều xấu của người và thay bằng những lời nói, cử chỉ tốt của họ. Hành giả Tịnh tông, không cứ thiện ác, cứ phát tâm từ ái niệm “A Di Đà Phật” ắt lợi đôi đường cả Đời lẫn Đạo. niệm Phật (dẫu là niệm thầm) tai không nghe là miệng niệm chứ không phải tâm niệm, mà tâm thực đang nhảy múa vũ điệu tập khí trần ai. Niệm Phật tai không chịu lắng nghe câu mình niệm là chỉ ngửi mùi chứ không thực ăn. Niệm Phật như vậy miệng niệm nhưng tâm vẫn nhìn lỗi thế gian. Lục tổ Huệ Năng khuyến “bậc chân tu không nhìn lỗi thế gian”. Người nào còn tin Ngài, với lời khai thị này hẳn phải chạm khắc vào máu huyết. Còn nhìn lỗi thế gian, nên hiểu ngay lúc đó chưa phải chân tu! Khoa học lượng tử lúc thấu tỏ lý này quả thực thấy… đau đầu; cuối cùng đưa ra hướng giải quyết thật khế hợp với tinh thần kinh điển: Thay vì chống chiến tranh, hãy ủng hộ hòa bình.

Tu, trước nhất ở Tâm; là sự thay thế ý niệm, khiến mọi vọng niệm thế gian quy về chân niệm. Mức thấp nhất, hễ nghĩ ác nghĩ xấu lập tức biết để thay vào những ý nghĩ thiện. Ý nghĩ chuyển, hành vi mới chuyển. Người lo chuyển hành vi lại không chuyển ý niệm là gãi ngứa ngoài dày. Nên hướng vào nội giới, hướng vào kiểm thảo từng ý niệm tung hoành tạo tác trong tâm. Nên nhìn lỗi mình sửa lỗi mình, chớ nhìn lỗi người sửa lỗi người trong lúc mình soi gương tạo dáng nhiều lại nhìn bản tâm quá ít. Hễ thấy anh kia rượu chè phè phỡn là chê bai bại hoại, lại không nhìn mình đóng cổng tà hạnh. Thấy bà kia nhiều chuyện lại không thấy mình nịnh nọt bợ đỡ. Thấy kẻ tham ăn lại không thấy mình tham ngủ nghỉ, tham danh. Thấy người gặp nạn liền cho chắc hắn ở cơ quan sống chẳng ra gì, lại không nhìn nhân xấu mình thường gieo và ngay vừa khởi cái ý niệm hả hê đó... Quán sâu sắc chân lý, rằng ta chỉ hiểu người được một phần tỉ, không dễ khởi ý niệm phê bình. Thế gian chẳng thiếu hàng Bồ tát, những vị Phật thị hiện tướng “phàm” tùy duyên độ cho những chúng sanh đặc biệt, ta không biết nên cứ mặc nhiên phạm thượng các ngài. Một vị Tổ khuyên xem tất cả chúng sanh đều là Phật, ngoại trừ ta [là phàm phu].

Bậc chân tu thường ngày vẫn miên mật hạ thủ công phu lấy đó hồi hướng cho những người như tôi và bạn, mà Đức Phật từ bi gọi là “đáng thương xót”, nhưng dẫu sao vẫn là cứu vãn tình thế, trong lúc gốc bệnh của chúng ta không ngừng gia tăng thông qua cấp số nhân của ý niệm bất chánh. Đây, là nguyên nhân sâu xa khiến ngay đến bậc triệt ngộ với năng lực vô biên cũng không thể ngày một ngày hai cứu vãn trong lúc chúng ta không chừng đã dật dờ trên trần thế như một bóng ma!

 

 

 

 

 

 

 

Phần III

TÂM BỆNH

 

Vi rút sóng tâm chiêu cảm nghiệp

Vũ trụ tồn tại bởi ý niệm. Nói theo khoa học là vật chất tồn tại từ các hạt lượng tử. Vật chất đó vốn huyễn. Tốc độ ánh sáng từ mặt trời đến trái đất mất khoảng 8 phút; còn ý niệm từ tâm khởi sẽ biến khắp vũ trụ. Nhiều thứ mùi tỏa trong nhà, ra ngoài sân ta ngỡ chúng tan mất rồi; trong lúc cá heo có thể bắt sóng âm thanh ở xa 25 km. Trăn định vị được hang ổcách hàng chục km. Loài dơi vốn “mù”, nhưng chúng dùng tần sóng bay trong rừng cây dày đặc chẳng gì chướng ngại. Kinh viết “Niệm niệm thành hình”. Niệm khởi là sóng. Sóng như gió vô hình, gộp lại thành bão [hữu hình]. Nhiều người từ chối sống dưới điện cao áp, đài phát sóng tần suất lớn, sợ ảnh hưởng sức khỏe. Đúng. Họ lại chưa tin sự thật là từ trường ý niệm còn có sức hủy hoại mạnh hơn rất nhiều. Mới đây khoa học đưa ra kết luận ban đầu về việc lạm dụng điện thoại nối mạng có nguy cơ dẫn đến ung thư như những nguyên nhân khác. Có quốc gia tiên tiến, pháp luật quy định trẻ em dưới 15 tuổi không được sử dụng internet, là giàu đạo lý. Giao điện thoại nối mạng cho trẻ, ngập chìm trong đó sẽ hao tàn thể xác và tâm hồn vấy bẩn đến không thể tẩy rửa. Xem ti vi nhiều, nhất là ti vi bây giờ cũng liên mạng, là tiêu tán sản mạng quá oan uổng.

Giữa bệnh viện với một không gian nhiều cây cối núi đồi thảo nguyên xanh mướt, chỗ nào đáng ở hơn, chỗ nào sẽ mang lại an bình? Những đứa trẻ suốt ngày chúi mặt vào màn hình, dẫu có núp trong phòng kín, chúng cũng đang sống giữa một không gian đen kịt trường năng lượng xấu. Mang theo internet lên rừng xanh núi thẳm cũng là đang giữa ồn ào náo nhiệt và thứ từ trường ấy không ngừng nhiễm độc tâm. Một vụ án máu me được tung lên cộng đồng mạng; làn sóng hận thù tập thể lan truyền vô tận, làm biến dạng từ trường và theo đó nhân lên không ngừng, nó len lỏi vào ngõ ngách tâm hồn, khơi lên mầm u tối trong thế hệ x. Chúng lướt web hễ gặp việc thiện nguyện liền bị phẩy qua mau chóng, phanh lại ở trang sát trộm dâm dối, giật gân khiêu khích; những x những z tiếp thêm nhiên liệu. Hoặc như một cuốn sách bạo lực nằm yên trong tủ không sao nhưng ai đó lôi ra đọc, ý niệm cuốn theo từng con chữ, từ trường cuồng loạn loang xa.

Trái đất ít thiên tai chính là do niệm thiện nhiều (nhờ công phu hành trì Phật pháp), niệm ác ít. Không thể so sánh, song việc chúng ta thải ra không gian lượng từ trường xấu cũng như trong một hồ nước người người xuống tắm gây ô nhiễm; còn chánh Pháp là cái máy lọc thầm lặng. Niệm ác nhân lên sẽ biến đổi từ trường chung, chiêu cảm thiên [nhân] tai. Nếu ta vi phạm quy/pháp luật vũ trụ, vận mạng sẽ méo. Câu hỏi đặt ra: vậy ta có vi phạm quy luật vũ trụ? Ở đây không bàn đến người xấu, chỉ lấy người được xem khá mực thước đức độ để xét. Mười trọng giới trong nhà Phật (thập thiện), chỉ cần nói ngũ giới; lại muốn rút lại một giới tà dâm, đã phạm quá đà. Chưa bàn tác ý hay có hành vi với vợ người; giữa vợ chồng với nhau nếu bày trò quá mức, là tà! Xem hình, phim đồi trụy - là tà dâm. Lạm nghĩ, nói, viết về tính dục - là tà. Mây mưa trong ngày Phật đản, trong ngày rằm, mồng một, trong những ngày vía đức Phật và Bồ tát, trong những ngày giỗ kị tang ma thân quyến, là tà. Thử so sánh, những ngày vía chư Phật và Bồ tát, đối với Phật tử xét về nhân đức phải xem giống như ngày giỗ của ông bà cha mẹ; lẽ nào ta phá rào?! Với lúc sấm chớp mây đen, là thời khắc trời đất lâm vào tăm tối, ta  tức phóng ý niệm tà góp phần làm gãy từ trường chung. Đây không những phạm giới, còn là gieo nhân trực tiếp cảnh giới xấu trong tương lai. Nhưng trước hết, tinh - khí - thần sẽ tổn, phước hao, đoản mạng. Theo đó vận hạn, bệnh sẽ sờ gáy.

Chúng ta sống phần lớn bởi nghiệp lực lôi kéo, bởi không dễ làm chủ tâm. Ta nổi nóng. Tại sao nổi nóng rồi liền ân hận, sao tôi có thể nói vậy làm vậy nhỉ. Đó không phải con người tôi. Đúng rồi. Tâm một khi không được “thuần dưỡng”, thân chỉ là nô lệ của nghiệp. Nó giấu mặt, lạnh lùng, nó sai khiến tôi không thể trì lại. Trong một cuộc nhậu, vài ba người bỗng gây gổ, người đứng dựng dậy vỗ ngực đấm đá, so với người bình tâm với nét mặt không biến sắc, ai mới xứng trượng phu? Chớ nhìn vào hình tướng thô lậu để đánh giá sự tiến bộ mỗi cá nhân.

Chớ nhìn vào sự phát triển của vật chất mà nhầm tưởng xã hội phát triển không ngừng. Phật pháp vi diệu nhiều nơi bị đánh đồng với thần, với quan tham để người đời hối lộ xỏ xin đủ điều. Con cái chửi mắng cha mẹ thành chuyện thường; học trò không kính cẩn chào thầy cô, đồng tiền lên ngôi “hành đạo”. Có đáng ngại không khi bệnh viện mọc lên càng nhiều lại xem đó là sự phát triển. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện từng nói: “Nếu chúng ta đóng cửa một nhà chùa thì phải xây thêm một bệnh viện”. Bệnh viện đương nhiên tốt, song không thể tốt bằng một ngôi chùa. Tin sâu nhân quả, sẽ thấy nếu phước còn thì mạng còn; thọ mạng hết, dẫu đến bệnh viện tốt nhất thế giới cũng bó tay. Có người ân hận không kịp đưa người thân đến bệnh viện trung ương, vì bệnh quá nặng phải mổ ở một nơi xoàng, ca mổ không tốt khiến tử vong; thử nghĩ, đó chẳng phải do phước họ không đủ để tới bệnh viện tốt hơn chăng? Hoặc ai đó tới được bệnh viện lớn, sự lành một phần nhờ duyên hội từ gặp bác sĩ giỏi, từ tinh thần tốt nhờ thân nhân bè bạn con cháu động viên, từ niềm hy vọng sống mãnh liệt; từ việc tổn hao tiền tài, từ sự khổ sở của bản thân cũng tiêu đi một lượng nghiệp để đưa đến sự lành. Còn rốt ráo mà nói, nếu ta không nhuyễn trong giới luật mà vẫn khỏe mạnh sống lâu trong sự kiêu căng ích kỷ, cũng phải suy ngẫm, bởi đó chính là hưởng phước từ tiền kiếp, và tâm “tham” kia đang chiêu hút, vay mượn, “vơ vét” phước của mình trong tương lai, trong kiếp kế tiếp.

Nền tảng của con người phải bắt đầu từ việc giáo dục Nhân-Quả từ trong thai nhi, từ bé thơ, từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Một khi Phật pháp dẫu sơ đẳng được đưa vào giảng dạy, con người từ việc nhận diện việc nào tốt việc nào ác theo nguyên lý của khoa học lượng tử hiện thời, sẽ cải biến hành theo; gây dựng nên phần Tâm Lý sâu chắc; phần Vật Lý, ai học Phật sẽ tự biết ăn chay rất tốt cho cơ thể. Sinh - lão - bệnh - tử, không ai ngược lại quy luật này nếu không chân thật tu hành. Sự phát triển của khoa học, (từ đây mới có bom nguyên tử, vũ khí sinh học, internet truyền vi rút ý niệm xuyên không/thời gian) v.v, cũng là yếu tố chính góp sức cho quá trình hoại diệt trở nên mau chóng. Nghệ thuật nấu nướng phát triển, món ăn ngon hơn cốt lõi nhờ các loại gia vị hóa chất kích độ ngọt gấp trăm lần mì tinh; hóa chất tràn vào bất cứ loại đồ ăn thức uống nào. Điều này, sự phát triển này giúp con người ngày càng trẻ khỏe hay mau bệnh mau chết?

Giàu lên phải đi đôi với an lạc, ít bệnh, đó mới là hạnh phúc. Người an lạc là người biết giữ thân, ít đến viện nhất (nhờ lối sống thiện lương thiểu dục tri túc). Ai bỏ ít thời gian nghiêm túc nghiên cứu rồi theo phương pháp Thực Dưỡng giản tiện, có thể tự ăn uống điều chỉnh bệnh kể cả bệnh hiểm nghèo; bởi chính như cha đẻ của y học phương Tây từng nói “Thức ăn (thuần chay) chính là thuốc”. Tại sao rất nhiều người ăn gạo lứt muối mè đã lành ung thư? Từ chỗ ăn mặn, họ trở về ăn uống thuần tịnh hơn cả chay, và nếu ăn với tâm từ sám hối, xét ngay ở nguyên lý này đã đúng, đã thấy họ xứng đáng nhận được sự gia ân của nghiệp. Với trường hợp xả bỏ duyên trần chuyênniệm “A Di Đà Phật” khiến những khối u quái ác biến mất là quá hiển nhiên, không cần bàn tới nữa, nó đúng hoàn toàn về mặt khoa học chữa bệnh bằng “sóng-từ-tâm”. Họ biết đổi ý niệm (từ ác qua thiện), từ tạp niệm quy về hồng danh Đức Phật, hay trì chú, tụng kinh. Tất thảy pháp môn đều đưa đến đích tâm thanh tịnh, định lực. Trí sáng, tâm an, lúc nào nhìn mặt họ cũng như trẻ thơ. Khoa học cho hay, bộ não con người là bộ máy phát sóng phát điện hoàn hảo của cơ thể; cũng là bộ máy truyền thông tin hoàn hảo đến hàng trăm tỉ tế bào có trên cơ thể. Ý niệm khởi từ tâm sẽ được não bộ phát đi khắp. Ta nghĩ xấu thì mọi tế bào chuyển xấu, nghĩ thiện nghĩ về pháp thì ngược lại. Đối với khối u, một khi tế bào cơ thể ta nhận thông tin xấu (từ ý nghĩ lo sợ) nó sẽ tạo nên áp lực, chẳng những các tế bào ung thư tệ đi mau chóng mà những tế bào khỏe mạnh cũng dao động theo chiều hướng đó. Một khối u hình thành đôi khi chỉ trong vòng vài tiếng; khối u tan mất đôi khi cũng như phép màu. Những công trình nghiên cứu y học mới nhất cho thấy phần lớn con người đều từng có tế bào ung thư xuất hiện. Từ tế bào đến hiện khối u/ung là một quá trình khởi động của duyên. Nếu duyên không đủ tế bào ấy sẽ như bèo dạt đến rồi trôi đi mất. Giờ đây ngành y vừa sáng chế loại máy siêu phát hiện ung thư. Giả như tế bào ung thư vừa tung tăng lội qua cơ thể ai đó bỗng bị cái máy ấy chộp được; cụm từ “có tế bào ung thư” sẽ chóng phát thành khối u chính bởi nỗi ám ảnh từ kết quả vừa lãnh nhận, và dĩ nhiên là đối với người tâm vọng động, sợ hãi, tâm tham đắm thân mạng trong lúc không hành pháp. Hoặc giả một người đau quặn, cứ nghĩ mình bị ruột thừa, bị u, mỗi mỗi phút giây lao theo ý niệm đó, Năng Lượng Tâm không đủ trì níu lại nên nhân duyên sẽ hội tụ ngay thành cái điều mà “tâm họ muốn”. Họ nhập viện cấp cứu, chụp phim. Phim ấy liền định danh đóng khung khối u lại; cơ hội năng lượng tâm hóa giải khối u xem như mất. Cũng có thể đó là Pháp khảo nghiệm Tâm lực của hành giả, hoặc cũng không ngoại trừ oan gia trái chủ đến quậy. Ai là Phật tử thuần thiện dễ được Hộ pháp hay một vị La hán nào đó trợ cứu; dĩ nhiên Hộ pháp đó biết hành giả này có hy vọng cho Phật môn, còn không cũng đành “bó tay” mặc họ trả nợxưa vậy. Chưa dám bàn đến ma vương Ba Tuần, chỉ nói oan gia thôi đã đủ để ta phản tỉnh. Bậc có Thiên nhãn thông thấy quanh mỗi chúng sanh đa phần luôn có “chủ nợ” theo riết. Có người đến hàng trăm con vật (họ giết) bám vào thân khiến sanh bệnh hiểm. Đi khám, việc y khoa kết luận rành rành nguyên nhân, xét ở khoa học lượng tử, chỉ là cái nhìn của một phần tỉ vấn đề. Thế nên muốn trị bệnh phải bắt đầu từ hai việc: sám hối nghiệp chướng và tinh tấn công phu. Trọng tu hồi hướng. Phật pháp dĩ nhiên bất khả tư nghì. Song, như kinh đã viết: Chúng sanh nghiệp báo cũng bất khả tư nghì! Chưa trọn vẹn nguyện tu về cõi Tịnh, sẽ rất dễ sa lưới nghiệp chướng ở cõi Trược. Thường khi niệm Phật một thời, nay có bệnh thì buông xả thế gian tăng thời khóa lay chuyển những rễ độc từ vọng tâm đang bám quá sâu quá chặt Ta bà. Thường khi vẫn sanh tâm ngã mạn bởi tài danh vốn có, kể cả việc mình tự thấy tu hành cũng khá, thì nay chí tâm hướng đến Vô Ngã để có được sự gia trì của chúng thánh. Thường khi còn loanh quanh ngoài giới luật thì nay đứng hẳn trong vòng Ngũ giới Thập thiện.

Sống trong khuôn khổ thập thiện, vì người mà sống; sống trong phẩm hạnh tri ân tất thảy phụng sự tất thảy và giữ vững thời khóa công phu, bệnh ắt được đẩy lùi (bắt đầu từ việc chuyển đổi ý niệm). Nếu xóa được ý nghĩ về căn bệnh trong ta thì bệnh lành từ 30% đến 90%. Bác sĩ lừng danh Hew Len từng dùng phương pháp xóa thông tin về bệnh trong bệnh nhân và đưa tâm mình trở về Không, đã chữa lành cho hàng ngàn người. Từng có thí nghiệm khoa học cho hai người bệnh tương đương cùng uống thuốc, trong đó một người uống thuốc giả; (với điều kiện ngay bác sĩ đưa thuốc cho bệnh nhân cũng không hay gì, chỉ biết và truyền đến bệnh nhân thông tin đây là loại thuốc mới cực kỳ hiệu nghiệm), kết quả hai người kia đều lành. Khoa học gọi hiện tượng này là giả dược. Tây y từng đưa củ sâm vào nghiên cứu, họ thấy chất bổ dưỡng không là bao. Là bởi, củ sâm vốn trở thành biểu tượng của thần dược, ai cũng với ý nghĩ này nên đã kết tinh dưỡng chất [ý niệm] cho nó; đặc biệt là ai uống sâm đều với tâm niệm mình chắc chắn khỏe. Y học dẫu chế tạo ra một viên thuốc với đầy đủ các chất như củ sân, lúc người đau uống vào đương nhiên sẽ không bằng củ sâm. Chính nhờ ý niệm. Cũng cần thêm, thời nay ý niệm tốt về củ sâm có phần nhạt hơn, (do vọng tưởng về sự tốt từ nhiều loại thuốc ngoại khác) nên năng lực cứu bệnh của nó hẳn không bằng xưa. Phàm phu khác Phật ở vọng tưởng chấp trước. Thế nên, mọi thứ đến với ta không phải là vấn đề, vấn đề ở chỗ tâm ta đang vọng loạn về vấn đề ấy. Ai một khi mắc bệnh, cái ý niệm về bệnh cơ bản họ không xóa được, mỗi lần hơi đau là ý niệm hằn sâu, lại thêm phần kinh hãi; người có công phu thì ngược lại, họ sẽ hóa giải cái ý niệm đó như bao vọng tưởng khác.

Phương pháp thôi miên cũng đem lại hiệu quả khi người bệnh nhắm mắt tĩnh tâm quán tưởng về một trường năng lượng sạch từ từ kết tụ, huy động hệ thống miễn dịch làm lành bệnh. Đó có thể là tưởng đến một bàn tay đang thu hút năng lượng, nhẹ nhàng xoay vòng lên chỗ bệnh, ý niệm được đặt ở đó, năng lượng tụ về càng nhiều, vết đau đang được xoa dịu, đang lành dần lành dần. Nghĩ về một trái chanh được vắt hay cắt trái xoài làm ta chảy nước miếng; nghĩ về năng lượng cũng vậy, cơ thể sẽ tự tiết “thần dược”. Làm chủ được tâm tức làm chủ vọng niệm. Bước đầu làm chủ vọng, ta mới có năng lực huy động năng lượng. Năng lượng luôn biết lắng nghe và thực hiện ý niệm từ tâm; tuy đòi hỏi người đó phải đạt tịch tĩnh. Nói cụ thể hơn, chỉ với tâm trong lặng thuần khiết (nhờ hành thiền thông qua việc trì giới), thân thể sẽ luôn hài hòa năng động và tươi trẻ. Bởi, thân bệnh là do tâm nghiệp. Tinh tấn tu sẽ tẩy được nghiệp; nghiệp tan dĩ nhiên bệnh lùi. Ý niệm chuyển cảnh giới - thực đây mới là chân lý khế hợp quy luật nhân quả, tức sự vận hành của vũ trụ; song tu chưa đủ lực, quả ngọt đó ta không được dự phần. Tu vài ba năm, ngay đến chấp trước, nóng giận cũng chưa thuyên giảm, nói gì đến xóa bệnh. Không làm chủ được tâm, sao dễ làm chủ thân. Chưa thấu lý quanh mình vẫn nhiều lắm những chúng sanh ta từng gây hại từ đời trước và đời này, thì đến lúc đột ngột lâm bệnh tâm ấy sẽ run rẩy, niệm Phật niệm Pháp nhòa vào niệm đau niệm bệnh. Vẫn biết Tâm chuyển được vạn vật. Năng lượng tâm có thể chuyển mọi bệnh nan y, song điều này đâu dễ. Chẳng hạn như bản thân tôi việc tu trì trệ, chẳng may gặp bệnh cũng phải cậy đến bệnh viện, hết lòng kính trọng bác sĩ. Dẫu biết Y khoa và Y đức so với Phật pháp tường giải và so với ngành Thực Dưỡng vẫn nhiều hạn chế.

Bậc chứng thánh, bậc chân tu thực sự có công phu, sống trong tịnh pháp, phần lớn đều là những người vô bệnh. Xin mở ngoặc, Phật có bệnh, một số vị chứng quả có bệnh, chỉ là sự thị hiện thân xác vô thường. Hay đúng hơn, bệnh có song không khiến họ khổ. Đã sống trong giới luật tinh nghiêm, ăn uống đạm bạc theo nguyên lý mẹ thiên nhiên, bệnh nếu có sẽ nhắc nhở nên quán thân vô thường. Bệnh ấy âu cũng là “giới” để họ không thừa sức mà tạo nghiệp (như rượu chè, hút chích, mê dục). Họ còn xem bệnh như bạn, ngày ngày tâm tình với bệnh. Không phải tất cả, song những hành giả thực sự có công phu phần lớn đều nhờ định chuyển bệnh, hoặc “chung sống” với bệnh một cách tự tại trọn đời không phiền đến người thân, thậm chí chẳng ai biết họ mang bệnh. Tinh tấn tu thấy bệnh tiêu dần, thân ấy âu cũng là sự hưởng lợi từ ánh sáng vô lượng đang tràn vào tự tâm.

 

Thấy bệnh & thấy tánh

Con người từng luân hồi hàng ức kiếp, gây vô số tội. Đời sống hiện đại, không chỉ từ thân khẩu tạo tác trái với pháp tánh, trái với luân lý đạo đức, khiến cơ thể mất cân bằng tâm/ sinh lý dẫn đến bệnh tật, mà còn từ phương diện ý nghiệp. Khoa học lượng tử cho biết mỗi ý niệm đều phóng ra như làn sóng điện, có thể khiến môi trường thiên nhiên, con người, sự vật kết tinh theo tần số của ý niệm đó. Nếu là tích cực, hoàn cảnh sẽ chuyển tốt; nếu là tiêu cực như tham lam, sân giận, ganh ghét, đố kỵ, oán trời trách người, không những khiến chính mình lâm bệnh mà còn làm cho người chung quanh nhuốm theo, tương lai u ám. Đây là lý “vạn vật đồng nhất thể” mà Lão giáo, Ấn Độ giáo và Phật giáo nói từ nhiều nghìn năm trước. Người hiện thời thường không tin, cho là mê tín, cho mình giỏi hơn người xưa, vậy thì các bậc vĩ nhân đại diện cho 3 nền văn minh trên là Lão Tử, Krishnamurti, Ramakrishna, Phật Cồ Đàm… đều không bằng mình rồi!

Nguyên nhân gây bệnh chính tự ta chiêu cảm. Sự chiêu cảm nghiệp lực, cội gốc ở tâm. Thế nên dĩ nhiên phải từ tâm mà trị liệu, mà chuyển hóa. Trong nhà Phật, sự chuyển này là chuyển Tham Sân Si thành Giới Định Tuệ. Và còn hai điều quan trọng nữa là Mạn và Nghi. Kiêu mạn bất cứ ở lĩnh vực nào kể cả việc hành thiện, đó cũng là độc! Nghi, là hoài nghi lời dạy của Thánh hiền và chư Tổ sư Đại đức. Chúng ta có năm thứ độc ấy trong người, không bệnh mới lạ. Năm độc càng nhẹ, bệnh càng nhẹ. Ai kết hợp với hành trì tâm linh như thiền định hay hành đúng chánh pháp, không tà, không mê, ngay đến bệnh nan y cũng chuyển thành không. Hoặc ít ra bệnh thuyên giảm, thuyên giảm ngay ở ý niệm về bệnh do đó họ không đau khổ và thậm chí an vui sống với bệnh rồi thanh thản nhẹ nhàng ra đi.

Chúng ta do quá chấp thân vật chất, hầu như chẳng màng đến tinh thần tâm linh, sự chữa trị thuần vật lý sẽ dẫn đến những hậu họa. Nếu so sánh với y học hiện đại, việc chữa trị theo phương pháp thực dưỡng xem ra an toàn và gần hơn với đạo lý trời đất; cũng xem như người ta vô tình được chữa trị cả thân lẫn tâm, và điều này cũng hợp với tuyên ngôn của vị Tổ ngành Tây y Hippocrate; ông nói “không có cái bệnh để chữa, mà phải chữa con người bệnh”.

Không thể phủ nhận công lao to lớn của nền y học hiện đại. Nhờ sự phát triển của khoa học, y học đã có máy móc tân tiến, chế thành công nhiều phương thuốc quý phục vụ hiệu quả việc chữa lành rất nhiều chứng bệnh. Tuy nhiên với bệnh nan y, y học vẫn tỏ ra lúng túng.

Không phủ nhận sự phát triển của khoa học với nhiều phát kiến khiến loài người được hưởng lợi về đời sống vật chất (thân), nhưng người ta quên phần tinh thần (tâm), quên thế giới tâm linh nên sự sáng tạo chủ yếu phục vụ vật chất đẩy đến bất lực trước thảm họa. Y học một khi thuần phát triển theo hướng vật lý thì loài người vẫn “tiến lùi”. Một bệnh nhân dẫu gặp thuốc tiên mà không soát lại lỗi lầm sám hối nghiệp chướng, hướng về tâm linh cúi đầu (và ngước đầu) trước vô vàn bí ẩn màu nhiệm thì vẫn là nước đã vào thuyền lại khoanh tay đứng nhìn sự đắm.

*

Thường thì chúng ta không chú ý điều cơ thể cần mà chỉ quan tâm miệng mình muốn ăn gì, khiến cho “bộ máy hoàn thiện” sớm hư hoại. Theo đó thứ miệng đòi hỏi đều đánh đồng là tốt. Người hiểu biết hơn họ sẽ tìm đến loại thực phẩm được chứng nghiệm bổ dưỡng. Đây là thói quen phần nhiều mang tính áp đặt, tra tấn cơ thể. Điều quan trọng trước hết, là mỗi con người cần hiểu cơ chế hoạt động của cơ thể, hiểu giá trị thực phẩm, hiểu những thứ đưa vào cơ thể lợi hại hại như thế nào. Thực tế nếu chỉ kiêng kị đã chữa cơ bản căn bệnh; bởi nguyên lý cao nhất là, cơ thể vốn tự điều hòa, cái chính là chúng ta do ăn uống sai lầm, do thỏa mãn khẩu vị nên không cho cơ thể cơ hội tự điều hòa bệnh tật mà thôi.

Theo y học phương Đông, cơ thể có sự cố là do không điều hòa Âm - Dương. Hiểu thêm về Âm - Dương trong mình sẽ khiến cơ thể khỏe mạnh và đẩy lùi bệnh tật. Rất ngạc nhiên, từ nửa thế kỷ trước Oshawa từng khuyến cáo về tác hại khủng khiếp của đường: “Đường hóa học của kỹ nghệ và thương mại, là thức sát nhân có một không hai trong lịch sử loài người”; “nó chính thật nguồn gốc của sự tai vạ văn minh của kỹ nghệ tân thời”. Và ông còn đưa ra một kết luận quan trọng: “Nguyên nhân chính yếu của ung thư luôn luôn do sự quá thặng Âm ở thức ăn nhiều bánh ngọt, cà phê ngọt và sữa ngọt”. Trước đó một nhóm nghiên cứu ở phương Tây đã phát hiện tai hại của đường song do mức lợi nhuận quá lớn nên thông tin này với nhiều lý do đã không trở thành đáng tin cậy. Ngày nay khoa học cũng thừa nhận mức độ nguy hiểm của đường, trong khi nó ăn sâu vào tiềm thức nhân loại. Đường dưới bất cứ hình thức chế biến nào và cả trong trái cây đều đi ngược lại với phương pháp thực dưỡng bởi nó tạo nước từ các thực phẩm đưa vào cơ thể khiến tế bào trương nở, gây nên mức độ âm nặng, làm cơ sở cho nhiều căn bệnh hiểm nghèo và cả nan y. Hồi ấy Oshawa có thể chưa lường đến những nguyên nhân gây ung thư khác như môi trường ô nhiễm nặng, sóng từ; hay cụ thể hơn là dùng bia rượu vô độ; thuốc lá, thịt nướng - thứ chủ yếu do tác dụng của hóa chất. Xin mở ngoặc, thuốc lá nguyên gốc không quá độc hại như ta nghĩ; người dân tộc đa phần quấn lá thuốc hút từ nhỏ, hút lúc nhàn rỗi cũng như suốt thời gian cuốc rẫy, về già vẫn không sao. Còn thuốc lá đóng gói do sử dụng chất bảo quản và nhiều thứ khác trong quá trình chế biến là tác nhân của bệnh ung thư. Đường và sữa độc hại chính bản chất nó Âm tính. Thống kê gần đây cho thấy, những nước dùng sữa với số lượng nhiều thường có người mắc bệnh loãng xương rất cao. Một tài liệu quan trọng từ bệnh viện trường đại học Johns Hopkins, nằm ở Baltimore, Maryland, nổi tiếng nhất trên thế giới 17 năm liên tiếp được phân loại ở vị trí đầu tiên trong bảng xếp hạng của các bệnh viện tốt nhất tại Hoa Kỳ, được tác giả Xuân Phong dịch từ bản tiếng Pháp cho hay: Thức ăn của con ung thư là “Đường: Không ăn đường là cắt bỏ một trong những nguồn quan trọng nhất của các tế bào ung thư. Sữa: Làm cho cơ thể sản xuất chất nhầy, đặc biệt là trong đường ruột. Tế bào ung thư ăn chất nhầy. Loại bỏ sữa và thay thế bằng sữa đậu nành, các tế bào ung thư không có gì để ăn, vì vậy nó sẽ yếu và chết”. Tiếp theo danh sách tai hại này là các loại thịt đỏ. Hippocrate đã đưa ra tuyên ngôn: “Thực phẩm là thuốc men. Thuốc men là thực phẩm”.

Nhiều nguồn nghiên cứu khoa học khác cũng đã lột mặt nạ của đường, kẻ thù của tim mạch và các bệnh khác. Những tờ báo uy tín trong nước khái quát: Đường qua tinh chế sẽ loại bỏ hầu hết các chất dinh dưỡng tự nhiên vốn có như vitamin, khoáng chất, đạm, chất xúc tác; ảnh hưởng tuyến tụy và làm cạn kiệt nguồn crom trong cơ thể; làm mất vitamin B, làm cho tóc, xương, máu và răng thiếu canxi; nó lên men trong dạ dày và làm ngưng sự tiết dịch vị, làm ức chế sự tiêu hóa của dạ dày. Bác sĩ Hồ Ngọc Minh (người từng làm nghiên cứu về bệnh hiếm muộn, và các bệnh ung thư của phụ nữ tại National Cancer Institute trực thuộc National Institutes of Health) viết trong một báo cáo: “Tình trạng “ghiền đường” mà vị ngọt của đường là một loại ma túy nguy hiểm có thể giết người trong thầm lặng”. Một thí nghiệm khác, người ta lấy một trăm cc máu rồi cho vào một muỗng đường, lúc sau thấy toàn bộ hồng cầu trong đó bị diệt! Thế nên khi đường vào cơ thể nó sẽ phá hoại theo cách khác.

Con người hoàn toàn không cần đường (kể cả trong trái cây); đường vốn tự có trong gạo, trong nhiều loại thực phẩm như ngũ cốc, rau củ. Quan sát cho thấy trẻ em dùng bánh kẹo thường xuyên sẽ “bị sâu ăn răng”; nhiều đứa nguyên hàm răng vẹt mất một nửa, là hệ lụy của đường. Một khi cơ thể không cần mà ta vẫn đưa vào, nó sẽ phải làm việc rất mệt nhọc. Khoa học cảnh báo lúc ta uống sữa ăn thịt sẽ làm máu tăng độ axit, do vậy cơ thể phải rút canxi trong xương để trung hòa; gây bệnh loãng xương. Nếu Dương tính quá nhiều cũng khiến cơ thể mất cân đối, phát bệnh, nhưng thường chúng ta ít tìm hiểu nên bao giờ cũng thu nạp quá nhiều Âm tính. Theo đó, các loại thức ăn thạnh âm cần tránh hoặc chế biết giảm bớt lượng âm bằng bằng lửa và muối.

Bí quyết trường thọ Đông phương, cũng như qua nghiên cứu của khoa học dinh dưỡng hiện đại, ăn thịt động vật là bước thụt lùi trong tư duy nhận thức về nhân sinh và vũ trụ quan. Nếu ai áp dụng ăn chay, nói không với đường sữa, những gì dính dáng với đường sữa, hạn chế dùng trái cây, ăn các loại rau có tính dương, uống ít nước, hạn chế tối đa thức ăn làm sẵn, đồ hộp, đồ nướng, đồ xào nhiều dầu mỡ và các thực phẩm vỉa hè đường phố, cộng với ý hướng thiện lành nương vào tâm linh chánh pháp, kiêng sát sanh hại vật hại người, trong chừng một tháng sẽ thấy cơ thể nhẹ nhõm sảng khoái hẳn. Ăn chay không những bản thân, người chung quanh được thiện hưởng mà còn khiến môi trường chung trong sạch. Ăn chay thực dưỡng là minh triết sống. Y học Viễn Đông kết hợp với hành trì tâm linh chính là hiểu cội gốc cơ thể mình do vậy bệnh được chữa ở gốc; đồng nghĩa người đó trở thành bác sĩ cho chính mình. Cách lập luận của Ohsawa rất gần giáo lý “tự nhiên”, “tự do” tuyệt đối của Đức Phật. Ông thường nhắm vào khái niệm “giải thoát”; hay triết thuyết: “Nếu bạn cho ai một phần nhỏ hay lớn tài sản của mình thì điều này không phù hợp với nguyên lý Đông phương của chúng tôi: “cho, rồi cho, rồi cho đến vô cùng”, bởi vì bạn diễn tả cái nguyên tắc của Tây phương: “cho ra rồi lấy lại”… Philip wollen (sinh năm 1950), nguyên là phó chủ tịch của Citibank và cũng là Tổng giám đốc điều hành Citicorp trong một báo cáo đã dẫn ra: “Đại học Cornell và Harvard đã chứng minh lượng thịt lí tưởng nên tiêu thụ để đạt được chế độ ăn khỏe mạnh là hoàn toàn 0!”; “Những tầng đất giữ nước từng mất hàng triệu năm để hình thành nay đang dần cạn kiệt; vậy mà cần đến 50 nghìn lít nước mới có thể sản xuất được một kí thịt bò”. Trong lúc “thịt là một loại thuốc độc mới, nguy hiểm hiểm chết người hơn cả thuốc lá”. “Thịt là nguyên nhân của hàng loạt căn bệnh ung thư và bệnh tim. Liệu họ có thể nêu tên bất kì loại bệnh nào gây ra bởi chế độ ăn chay?”.

Theo tinh thần Đạo Phật, một nguyên nhân nữa của bệnh là do nghiệp lực dẫn nguồn từ tham, sân, si. Nhiều người tham ăn theo bản năng. Đa phần người mập đều muốn ăn nhiều thịt, nhiều trái cây, nhiều đường. Đó là thói quen trượt đà rất khó ghìm cương. Với sân. Khoa học chứng minh, lúc ta sân giận, uất ức, căm thù, các tế bào sẽ mau chóng chuyển đổi từ tốt (khỏe) qua xấu (yếu). Một cơn giận dữ nhiều khi tiết ra lượng độc tố tương đương ta bị rắn độc cắn. Ta không chết là nhờ ý nghĩ không phải rắn cắn, và nhờ cơ thể không chịu áp lực từ ý niệm đó, nó thản nhiên làm việc cật lực để lọc độc tố, nên chúng ta mới sống. Hiểu điều này để chúng ta không thể xem thường cơ chế tự điều hòa của cơ thể. Chúng ta càng không thể xem thường ý niệm tác động trực tiếp đến cơ thể như thế nào. Cơ thể hoàn toàn có thể lọc được độc tố của loài rắn cắn ta, song ý niệm (tâm) sợ hãi đã đánh bại cơ chế vật lý (thân). Trên thực tế có vị sư bị rắn độc cắn, họ điều tâm trở lại bình lặng và do đó thân tự lọc độc hoàn toàn. Ta hãy tưởng đến một người uống rượu quá mức, đến tình trạng tương đương ngộ độc, nhưng họ vẫn thản nhiên nằm ngủ, qua đêm thấy “lành”. Nhưng cũng tình trạng như vậy từ cơn bệnh sinh, ta quá lo âu sợ hãi, nghĩ nếu không đến bệnh viện nhanh sẽ chết; cái ý niệm đó khiến cơn bệnh được khuếch đại lên trăm ngàn lần. Điều này không có gì huyễn hoặc khi ta so sánh với hai người đang nói cười với nhau, chỉ một cơn giận nhân lên gấp trăm lần, đã giết đối phương.

Thí nghiệm nước của tiến sĩ người Nhật Masaru Emoto, ta hòa ái với nước thì nước kết tinh đẹp đẽ như kim cương; ta chửi thì nước kết tinh xấu xí. Cao hơn nữa, lượng tử lực học còn khám phá nước có ký ức, hiểu được ý nghĩ con người. Phật pháp giải thích: không chỉ nước mà hết thảy vật chất đều có ký ức, hiểu ý nghĩ con người, phản ứng và kết tinh theo ý niệm con người phóng ra. Một người đàn ông nước ngoài hết chữa ở bệnh viện, nắm chắc cái chết, đã phát nguyện nghe theo tăng sĩ ở ngôi chùa gần nhà, nhịn đói và cùng họ niệm Phật trong 11 ngày đã chuyển biến phần lớn tế bào ung thư. Trường hợp này được truyền hình quay cặn kẽ suốt ngày đêm. Cư sĩ Lưu Tố Vân ở miền Đông Bắc Trung Quốc mắc chứng Hồng Ban Tánh Lang Sang (Systemic Lupus Erythematosus: Việt dịch là bệnh lao da, được xem là nặng hơn ung thư), là một giáo viên và là quan chức cấp cao, bị bệnh viện trả về “thu vén”; cơ duyên tiếp cận với Phật pháp, bà thâm tín nhân quả, chuyên tâm niệm “A Di Đà Phật”, đã lành hẳn. Cơ thể chúng ta phần nhiều là nước, chính là nằm trong quy luật này, đâu có gì khó hiểu huyền bí. Còn hiểu theo chuyên môn y học, ấy là chữa bệnh bằng sóng; một dạng sóng âm siêu thiện, lọc tâm thông qua việc chấp trì danh hiệu của Đấng Toàn Giác. Trong một cuốn sách Oshawa bàn về thuật trường sinh được dịch qua tiếng Việt năm 1973, viết: “Nhược điểm duy nhất mà tôi có thể khiển trách y học Tây phương là chỗ thiếu mất đức hạnh và tinh thần. Họ muốn tìm cho kỳ được những “viên đạn thần” để diệt trừ tất cả những triệu chứng bệnh dù phải hy sinh đức hạnh và tinh thần. Với thuốc đương thời và trang bị đầy đủ tất cả kỹ thuật ngoại khoa tối tân, người ta có thể gây ra bất cứ tai hại nào, vi phạm luật thiên nhiên caoquí tức là sự tổchức và chân khái niệm của vũ trụ”. Thời nay vẫn còn những bộ tộc như Kogi sống trên dãy núi Sierra Nevada, Colombia, khước từ khoa học kỹ thuật, y học hiện đại, họ sống an hòa với thiên nhiên, tôn trọng tự nhiên: ăn thuần rau cỏ, không sát sanh; tuổi thọ trung bình của họ trên 100.

Lúc bệnh lên tiếng, lúc tai ương nạn nghiệp ập đến, là lúc người tu cần phản tỉnh nhìn lại, xem cách ăn uống, thái độ ứng xử ra sao. Bí quyết chữa bệnh của thổ dân người Hawaii là yêu thương bệnh, xin lỗi bệnh, mong bệnh tha thứ, cám ơn bệnh, tĩnh tâm. Người hành trì theo Tịnh độ tông thường niệm hồng danh “A Di Đà Phật” thay cho lời xin lỗi và tạo dựng mối thân tình với bệnh. Cùng với sự chỉnh sửa ăn uống và công khóa nhất tâm trì niệm, bệnh dần lui. Đó là cách trị bệnh tận gốc. Chữa ngọn thì ngược lại, một khi bệnh nổi lên liền xem đó là kẻ thù, phải mau chóng trừ diệt. Ý niệm và hành động quyết liệt đối đầu đó sẽ khiến tế bào bệnh trỗi dậy mạnh hơn. Khả dĩ trường hợp nếu thuốc có thể khiến ta khỏe lại, cũng nên lưu ý bởi đó chỉ tạm thời dìm bệnh chứ bệnh ấy không mất hoàn toàn, hoặc nó sẽ biến thái thành những loại bệnh khác; chẳng hạn chữa khớp “đớp tim”, hoặc uống thuốc tây trường kỳ thường có đích chung là đau dạ dày và phát nhiều bệnh khác do cơ thể không điều hòa nổi hóa chất tổng hợp trong thuốc. Nhiều người mắc ung thư muốn cầm giữ sự sống nên lạm dụng hóa chất trị liệu, nên nỗi có trường hợp suy sụp trước khi tế bào ung thư tạm thời được phong tỏa. Ung thư, cũng giống như người kiệt sức vẫn phải trèo qua một ngọn núi chất ngất. Chỉ người hy vọng mãnh liệt về sự sống, với nội lực phi thường, họ vượt qua một cách nhẹ nhàng nhờ thực dưỡng. Bỗng nhớ trường hợp đôi vợ chồng ở quê. Người vợ bị ung thư, đã chọn phương pháp dưỡng sinh Ohsawa. Động viên vợ, chồng ăn cùng. Người vợ sau đó lành hẳn và điều bất ngờ là cả hai không dứt được gạo lứt muối mè nữa. Theo Ohsawa: “Những món trường sinh là những thức ăn ngon nhất”.Điều quan trọng lúc ăn mà hầu như ai cũng bỏ qua là nhai kỹ, ngậm miệng nhai ra nước, thấy ngọt mới nuốt. Nhai càng nhiều lần, tuyến nước bọt sẽ hòa quyện như sữa, tạo năng lượng nhờ nội lực tự sinh, miếng cơm trở thành biệt dược. Ohsawa khuyên: “Nếu, vào lúc đầu, bạn không thể tìm thấy hương vị, thì hãy nhai mỗi búng (cơm gạo lứt muối mè) một trăm lần hay hơn. Bạn sẽ thấy nó một cách chắc chắn. Càng nhai, người ta càng thấy ra hương vị đích thực. Tất cả món nào thấy ngon lúc đầu, nhưng trở nên càng lúc càng ít ngon đi khi người ta nhai thì không phải là một món ăn tốt. Tất cả món gì làm tăng cường sức khỏe thì lúc đầu có một hương vị bình thường nhưng trở nên càng lúc càng ngon miễn là cứ nhai và tiếp tục nhai mỗi ngày thì các bạn sẽ không bao giờ mệt mỏi, dẫu cho có ăn món ấy suốt đời. Nếu muốn hiểu hơn lời tôi nói, hãy nhai một miếng thịt một trăm lần, bạn sẽ nhận ra càng nhai càng gớm”. Đây chính là nguyên lý: Tạo điều kiện tốt nhất cho cơ thể tự điều hòa bệnh.

Nguyên lý Tự thực nhận giải Nobel y sinh học 2016: “Các tế bào và protein trong chúng ta có khả năng tái sinh (recycling). Nói cách khác, trong điều kiện thiếu thốn, các protein tự chúng tái sinh để đáp ứng đủ khối lượng protein mà cơ thể cần thiết”. Phát hiện này thực ra quá cũ so với phương pháp thực dưỡng cổ xưa, tuy thời nay sẽ “giúp chúng ta hiểu tại sao trong thời kì đói khát, cơ thể có thể duy trì sự sống một thời gian khá lâu; và tại sao cơ thể chúng ta có thể tự sửa chữa những tổn hại”. Một giáo sư uy tín người Nga bằng việc nhịn ăn dài ngày đã đưa ra kết luận, trong quá trình nhịn, cơ thể sẽ tự ăn những “đồ tồn kho” (như mỡ máu chẳng hạn), và hầu như tất cả mọi chỉ số đều tạm hạ xuống, duy trí tuệ là tăng lên.

Xin điểm thêm về phương pháp Tuyệt thực, gọi đúng hơn là khoa học nhịn đói, sẽ kích thích sự tái tạo sinh lý, dẫn tới việc đổi mới và làm trẻ lại các mô, tế bào và phân tử cùng thành phần hóa học của cả cơ thể, dễ dàng quét sạch mọi độc tốc, a xít, thứ có thể gây bệnh tật. Nhịn mỗi tháng một vài ngày là phương cách khả dĩ thải khỏi cơ thể các mầm bệnh và giữ sự quân bình cho cơ thể. Tiên sinh nói: “Chúng ta tham ăn và thường ăn quá độ, cho nên nhịn ăn là lối thoát duy nhất mở rộng cho mọi người để nhờ đó mà mọi người vào chiêm ngưỡng và thưởng thức toàn cảnh nguy nga của thế giới đức tin”. Như có lần Jésus dạy: “Cầu nguyện và nhịn ăn trị nhẹ bệnh nan y nhất”. Bên cạnh đó việc này giúp chúng ta giảm sự tham/chấp đắm vào thức ăn, đặc biệt nó tăng ý chí trong công việc cũng như khiến người tu thêm tinh tấn. Đức Phật luôn khuyên môn đồ mỗi ngày nên chỉ ăn một bữa. Hạnh khổ này rất cần đối với hành giả bất cứ thời nào giúp hướng vào nội tâm, xoay tri giác vào tánh giác lần tìm hạnh phúc đích thực. Cũng có người lấy hạnh phúc từ tàidanhsắcthựcthùy. Không hẳn xấu. Nhưng hạnh phúc dựa vào đó, lúc mất đi phía trước có khi là ngõ cụt. Thứ hạnh phúc này chắc chắn bị tước sạch ở bên kia thế giới; còn niềm hạnh phúc có từ hành trì tâm linh sẽ theo ta xuyên được vào mọi cảnh giới. Vẫn nghĩ các vị sư trong núi là khổ hạnh ép xác, chân thật học Phật mới thấy niềm hạnh phúc của họ vô biên (dẫu một ngày chỉ ăn lưng chén cơm, nhiều vị cả tháng trời nhịn, lấy hạnh đó hồi hướng cho chúng sanh bệnh khổ). Ở Vạn Phật Thánh Thành, Hòa thượng Tuyên Hóa nêu ba nguyên tắc cho những ai muốn bước vào; một trong đó là "mỗi ngày chỉ ăn một bữa". Phương pháp nhịn đói một ngày, là tuyệt đối không ăn bất cứ thứ gì kể cả một hạt mè, chỉ uống chút nước trong, nhịn khô thì càng tốt. Sáng hôm sau uống ly nước lọc để làm sạch thành ruột, sau đó ăn chút hồ, cháo, trưa cũng ăn loãng, nhai kỹ, tối ăn bình thường, không no. Do bởi lúc nhịn các chất độc sẽ được tiết ra theo tuyến mồ hôi, nên sau đợt nhịn cần tắm sạch, chúng ta sẽ thấy thân tâm sảng khoái, và nó còn giữ cho cơ thể nhẹ nhàng trong rất nhiều ngày. Với những người bệnh mãn tính thì nhịn từ 5 đến mười ngày; bệnh ung thư thì nhịn dài ngày hơn, có khi hàng tháng. Nhiều người lành bệnh nan y như một phép màu! Nguyên tắc của sự nhịn dài ngày là hoàn toàn không ăn, chỉ uống chút nước ấm; tắm rửa cũng phải có phương pháp riêng. Nhịn mà vẫn ăn trái cây, các loại thực phẩm kiêng, uống sữa, nước chanh, đường, thì cơ thể sẽ dựa vào chút ít đó mà không tiêu năng lượng dư thừa trong cơ thể; chưa nói những thứ ăn kiêng trên toàn là âm tính, có những thứ cực âm. Người nhịn do vậy luôn trong tình trạng bị cơn đói tra tấn; chỉ xét về mặt tinh thần đã bị đánh gục. Nhịn ăn hoàn toàn sẽ khổ nhọc mấy ngày đầu, sau đó cơn đói tự giảm có khi hàng tháng trời; lúc đói dữ dội trở lại tức phải tạm kết thúc đợt nhịn. Trước đây bên phương Tây có một những trung tâm nhịn đói rất hiệu quả, song rồi bị đóng cửa với lý do: nếu theo phương pháp hiện đại, đa phần bó tay thì chẳng sao, (nan y mà!); còn nhịn đói hay thực dưỡng, mười người vào, phần nhiều khỏi bệnh nhưng một vài người không qua khỏi liền bị lên án. Họ cho điều này không khoa học, mà thực tế là khoa học bậc cao. Nghỉ ăn chữa bệnh, cần lưu ý là phải thực hành ở những Trung tâm uy tín, có chuyên gia dày dạn kinh nghiệm hướng dẫn, theo dõi. Hoặc đương sự cần nghiên cứu kỹ, khi nó thành một niềm tin vững chắc và gần như là một xúc tác đam mê rồi mới thực hành, ngừng ăn trên tinh thần tự nguyện vui vẻ; phải tự do tuyệt đối và xem khoảng thời gian đó ta đang thực hành ân huệ dành cho chính cơ thể mình. Ngược lại nếu sự nhịn duy trì trong bực tức, trong nỗi bị tước đoạt miếng ăn sẽ khiến cơ thể kích hoạt các tế bào ứng phó theo chiều hướng xấu. Tôi có anh bạn đồng tu mỗi năm nhịn vài đợt, mỗi đợt ít nhất một tuần, nhờ vậy trẻ khỏe, minh mẫn, an lạc.

Giáo sư Ohsawa từng nhịn ăn 2 tháng và hỏi: Các bạn nhịn được bao ngày?

Chính là nghị lực của người bệnh.

Việc chữa lành nan y thông qua Đông y kể trên ai chưa tìm hiểu nghe có vẻ khôi hài. Cũng như nếu ta nói tôi nhịn đói một vài ngày, họ sẽ bảo "để mà chết à!" Oshawa có lần từng than: “Nếu có một vị Jésus xuất hiện ở xã hội và dựa vào đức tin, trị nhẹ tất cả các bệnh thì nhất định Ngài sẽ bị bắt, giam cầm và trừng phạt do luật pháp đã bảo vệ y khoa chuyên chế”. Việc khuyên uống vài lít nước một ngày cũng là một ước tính không thực tế. Uống nước nhiều đòi hỏi thận làm việc quá công năng, lại khiến người ta tiểu tiện nhiều lần trong ngày - một dấu hiệu không ổn. Cơ địa mỗi người mỗi khác, tùy trọng lượng, tuổi tác và sức khỏe. Bác sĩ khuyên chúng ta uống nước nhiều và nhất là đối với con bệnh nhằm rửa thận, đào thải vôi và sỏi; theo Tiên sinh, “họ thuộc về giai đoạn thứ hai của trí phán đoán”, và “đó là tâm trạng và sự hiểu biết của những người văn minh”. Mỗi lít máu/nước thận lọc gần hai trăm lần trong ngày; nếu uống trên một lít nước là buộc thận phải làm việc thêm rất mệt nhọc. Giới khoa học khảo nghiệm: hầu như thứ khô khan nào đem ép đều có nước, kể cả cục than, vậy nên thường ta ăn gì cũng quá nhiều nước rồi. Thận đã suy, uống nhiều nước thì kiệt. Kinh nghiệm của ông: mỗi ngày nếu không ăn canh, cơ thể chỉ cần chưa tới 1 lít nước. Đối với người đang trị bệnh nặng thì “hoàn toàn không uống nước và tất cả những gì lỏng (ít nhất trong một hoặc hai tuần, hay nhiều hơn nếu có thể)”.

Nhìn ở quy luật vận hành từ vũ trụ nhân sinh, như có nêu ở trên, bệnh trước hết là do nghiệp chiêu cảm. Bệnh là nghiệp nên nhiều trường hợp dẫu đủ khả năng đến bất cứ bệnh viện tối tân nào vẫn phải nhận lãnh cái chết. Chẳng hạn nghiệp đa dâm tổn thọ mà trong nhà Phật gọi là tà dâm, hiểu ở hai nghĩa, nặng nhất là quan hệ ngoài vợ chồng, điều này cũng như ta tự ngắt bớt thọ mạng (và tài danh lợi dưỡng) của mình nhưng trước hết nó đóng vai trò chính gây những căn bệnh hiểm (một sự chiêu cảm nghiệp tự nhiên); thứ đến là bày trò quá đáng giữa vợ chồng và thực hành ngay trong những ngày đáng phải kiêng như tang gia gỗ chạp hay đặc biệt là vào các ngày lễ trọng liên quan đến chánh tín tâm linh. Một khi đang bệnh, không quán chiếu thân bất tịnh ở những lỗ tiết sự nhơ uế từ cơ thể để tránh vướng sắc dục, là thiêu thân. Đây là yếu tố chính khiến âm dương trong cơ thể lệch chuẩn, còn ở triết lý tối thượng là sự phá hủy nghiêm trọng lý nhân duyên vận hành theo quy luật đạo trời đất trong vũ trụ, quả chiêu cảm rất thảm khốc.

Triết lý y học Đông phương cho rằng, cơ thể có sự cố là do không điều hòa Âm - Dương, tức là tính đến cái “quả” sinh ra từ “nhân” từ những hành vi sai quấy; và như chúng ta đang bàn ở đây là ăn uống sai lầm. Phương pháp thực dưỡng dựa trên dịch lý và thông qua việc nghiên cứu các bộ tộc trường thọ, đối trị với hầu hết các bệnh, được chứng nghiệm trên thế giới nên nhờ đó nhiều người bước ra từ cõi chết. Người bị ung thư xem như chạm tay tới bản án khốc liệt. Nếu ăn gạo lứt muối mè hiệu suất lành rất cao. Ohsawa qua nghiên cứu, chữa bệnh trong hơn 40 năm, đã kết luận: nếu theo đúng thực dưỡng, nan y thuộc hàng dễ chữa, và ông đã chữa lành hẳn cho hàng ngàn bệnh nhân ung thu trên thế giới. Ohsawa rất hiếm khi chữa lần thứ hai cho ai, bởi người bệnh đã qua tay ông sẽ lành hẳn. Điều này chứng minh cho việc những bệnh nhân của ông trong sự kiện bom nguyên tử ở nước Nhật, họ không bị nhiễm phóng xạ trong lúc rất nhiều người quanh đó chết. Hay Tiên sinh cũng từng uống một dạng thuốc độc trước lúc thuyết giảng để minh chứng trước đại chúng về phương pháp tối ưu này, đặc biệt là minh chứng cho sự bình lặng của tâmtạo điều kiện cho thân tự lọc độc.

Chúng ta thử lập sơ đồ cuộc chiến với bệnh, tức giữa “ta” và “địch”: Đường, sữa, thịt cá bổ dưỡng vốn là thức ăn của con ung thư, (xem đó là lương thực của kẻ thù). Tổ Y học phương Tây khẳng định: “Nếu cơ thể không được làm sạch (như nhịn ăn hoàn toàn trong một hoặc nhiều ngày) thì càng cho ăn càng làm hại nó thêm”, nhất là những thực phẩm được chỉ định là thức ăn chính của loài vi rút mà người bệnh đang mang. Mặt khác, hệ thống miễn dịch (ví như quân đội) sẽ tăng mãnh liệt nhờ ăn gạo lứt muối mè và nhờ cắt các nguồn thực phẩm khác thuộc đường sữa, thuộc động vật và thực vật âm tính. Ngược lại nếu chữa theo cách hiện đại, nhất là đưa hóa chất vào cơ thể, con bệnh được uống sữa, đường, trái cây và ăn thịt cá (tức cung cấp lương thực cho kẻ thù); trong lúc thuốc men và hóa chất vào người hệ miễn dịch dần bị tiêu diệt (quân đội mất hết khả năng chiến đấu). Bệnh thường phát xuất từ sự ăn uống, và hành vi gồm cả thân, khẩu, ý sai lầm (một dạng nhân xấu); nó như nguồn sông tách ra các nhánh (các loại bệnh); nhiều loại thuốc đắt giá hiện thời chỉ chặn nhánh chứ không có khả năng cắt nguồn. Chuyên gia về phương pháp tự chữa bệnh tuyệt thực G. P. Malakhov gọi nó là “nuôi bệnh”; tạm hiểu là dìm vi rút xuống sâu hơn trong tế bào, hoặc loài vi rút đó sẽ chạy qua nhánh sông khác sinh sống. Phương pháp dưỡng sinh gạo lứt + muối mè hay nhịn đói chính là cắt ở nguồn sông, nhờ vậy tất cả mọi nhánh của sông tự cạn.

*

Chúng ta biết các bậc đạo sư chân tu thường ăn uống rất ít, nom gầy gò nhưng thân tâm luôn sảng khoái, bộ óc mẫn tuệ và đôi mắt sáng ngời. Những tấm gương vĩ đại trong giới tu hành được Phật tử khắp thế giới ngưỡng vọng đều sống quá ư đạm bạc, thường là một ngày một bữa hay nhịn hàng tháng như HT Hư Vân, HT Quảng Khâm, HT Tuyên Hóa, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, HT Tịnh Không… Ở Việt Nam cũng có rất nhiều bậc tôn túc, như HT Thích Thiền Tâm, HT Thích Trí Tịnh,... Có vị Hòa thượng ở chùa Đậu sống đúng như hai bậc đạo sư chứng đạo để lại toàn thân xá lợi là Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường. Tất cả họ đều sống thọ, ngày ngày giảng kinh thuyết pháp lợi lạc cộng đồng. Họ vui với đời sống thanh đạm, lấy đó nâng cao ý lực, và lượng tâm vô biên được trải ra cùng vạn vật.

Không tham chấp sức khỏe, để rồi rơi vào thân kiến mà Đức Phật đã cảnh tỉnh. Tuy nhiên nếu thân bệnh sẽ không hoàn thành công việc thường ngày, nhất là rất khó trong thực hành chánh pháp, cầu giải thoát trước khi quá muộn. Người tu luôn biết phòng bệnh song lại không mấy để ý đến bệnh, còn xem bệnh là bạn. Người tu thành tâm sám hối tội chướng, tinh tấn chánh định, nguyện lực cứu độ chúng sanh, họ chẳng những trừ được bệnh nan y mà còn chuyển được cả cảnh giới, đổi uế độ thành tịnh độ. Hiểu cơ thể mình, rồi mới hiểu tha nhân và vũ trụ. Khỏe mạnh để tu chứ không phải tu để khỏe mạnh mà hưởng thụ. Không khỏe mạnh, hành giả sẽ không đủ thời gian giành tấm vé lên nước Phật. Nhưng, nếu không bệnh kẻ sơ cơ khó giải ngộ xác thân vốn vô thường hư huyễn, chấp chặt thân kiến, tăng thượng mạn, bám cõi trược, lu mờ con đường giải thoát. Nếu không thấy bệnh hành giả sẽ khó xả bỏ tứ đại trần ai hầu mong thấy tánh. Hiểu vật chất chỉ mới là bước đầu con người có thể hiểu phần tinh thần. Kho báu trong mỗi sinh mệnh chính là Như Lai Tạng, tiếc là mấy ai đủ duyên nhận ra. Một khi thân xác tan theo mây, thức sẽ lôi dẫn chúng ta theo nghiệp mình tạo tác đi đầu thai. Ai tu tập đúng đạo Pháp thì thân dẫu chưa hết bệnh tật nhưng Tâm đã lìa bệnh hoạn, hạnh phúc gì bằng.

 

Niềm ân huệ của bệnh nan y

Nhiều khám phá về y học hiện đại cho thấy, bệnh nan y thực ra không đáng ngại như ta nghĩ. Hiểu nguồn gốc bệnh và đưa ra cách chữa trị hữu hiệu, những căn bệnh từng ám ảnh bao trùm nhân loại sẽ được dỡ bỏ. Sự phát triển của y học hiện đại, thật sự thú vị bởi nó “quay lại” tương hợp với triết lý Cực Đông từ xa xưa, cụ thể là phương pháp Thực Dưỡng.

Ngày nay con người quá lệ thuộc vào Tây y, xem nhẹ triết lý Cực Đông, đã tự hạ thấp tinh hoa trí tuệ. Bác sĩ Vivien Newbold, giảng viên Trường Y sĩ Cấp Cứu ở Mỹ qua nghiên cứu và từ kinh nghiệm bản thân đã rút ra: “Kiến thức dinh dưỡng hiện đại có thể giúp người ta vượt qua nhiều bệnh, nhưng ăn uống theo phương pháp Thực Dưỡng là cách dinh dưỡng duy nhất đảm trách số lớn trường hợp chữa lành nhiều bệnh, trong đó có những bệnh Tây y bó tay”! Thực Dưỡng, là một lối sống lành mạnh không riêng cho bản thân người thực hành mà còn thiện hưởng đến cộng đồng; nó còn là nghệ thuật về chất lượng sống đưa con người đến an lạc. Theo Tiên sinh Ohsawa: “Trên nguyên tắc thì không cần phải có một kiến thức nào khác hơn Âm Dương để lèo lái con tàu sinh mạng”. Bởi trong sự điều hòa Âm Dương theo thực dưỡng, người bệnh sẽ được điều hòa cả thân lẫn tâm, đây là yếu quyết. “Âm và Dương đang vận hành bất tuyệt. Con người phải tỉnh thức để cảm nhận cuộc chơi biến dịch linh đình và thú vị của chúng”. Chỉ cần điều chỉnh ăn uống, điều hòa âm dương trong cơ thể, sự cận chết sẽ dần hồi sinh. Nguyên Lý Vô Song của Thực Dưỡng, là “triết lý rất dễ hiểu đối với những ai sinh hoạt theo lẽ tự nhiên, chưa bị ‘khai hóa’ nhiều”. Y học phương Đông xem Thiên Nhiên chính là người mẹ vĩ đại, là đấng cứu chữa toàn năng. “Bệnh hoạn và khổ đau, cũng như tội ác và hình phạt đều xuất phát từ cách sống sai lầm, nghĩa là cách ăn ở vi phạm Trật tự Vũ trụ”. Trong cách ăn do chúng ta quá nặng về Tham, nên bất chấp, đã phạm vào luân lý đạo đức của trời đất, phạm vào phần tâm linh mênh mông huyền diệu mà cái chúng ta thấy chỉ chưa đầy một phần tỉ. Một khi bệnh gõ cửa, chính là nhắc nhở bản thân người đó đang lệch chuẩn với Thiện; phía trước là vực thẳm. Ăn uống cảm tính sẽ dẫn tới tình trạng máu xấu, chua máu, bệnh từ đó khởi sinh. Khuếch đại một khối u ác tính, sẽ thấy quanh nó hàng tỉ tỉ mao mạch. Kết quả nghiên cứu mới của đại học-bệnh viện lừng danh John Hopkins: Gần như mọi người đều có tế bào ung thư. Nhưng chúng chỉ được phát hiện chừng nào phóng đại lên gấp vài tỉ lần. Ăn uống đúng, tế bào ung thư không có cơ hội phát triển; ăn uống và lối sống lệch với Thiện là tiếp tay cho tế bào ung thư “phóng đại”.

Thời nay người đời thường áp dụng ăn theo tiêu chuẩn phân tích vitamin A, B C; cái gì “bổ dưỡng” liền được lựa chọn. Kiểu ăn uống “thượng lưu” này, hệ thống miễn dịch sẽ không đủ sức phong tỏa và tiêu diệt các mao mạch xấu, tế bào ung thư sẽ trương nở, lần mò đến các mao mạch tốt, theo thời gian lưu chuyển tới nhiều bộ phận khác, tức di căn. Thức ăn công nghiệp, đóng gói, thức ăn sẵn sử dụng nhiều hóa chất, thức ăn bán ở vỉa hè vốn nhiều màu mè gia vị độc hại; các thực phẩm bị phun thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng; bia rượu, thuốc lá, cần sa ma túy, cà phê chủ yếu sản xuất bằng hóa chất v.v, dùng thường xuyên là tiếp “thức ăn” cho tế bào ung thư hủy hoại chính mình. Cách ăn uống khôn ngoan nhất là theo đúng quy luật Âm Dương, sẽ đưa con người đến sự an toàn và chữa lành gốc bệnh. Nếu vậy cần hiểu thức ăn gì là Âm, thức uống gì là Dương, thức ăn ấy có sạch không, và nữa là cách chế biến sao để thức ăn có thể bớt âm tăng dương hay ngược lại. Đa phần, sự bành trướng của tính âm tạo nên cái gọi là nan y. Nhưng gọi đúng tên, chúng chỉ là triệu chứng, những triệu chứng (quả) khác nhau song bắt nguồn từ cái nhân trong ăn uống. Điều cần nắm trong cách ăn thực dưỡng phải phát xuất từ tâm thiện. Trước hết chúng ta cần nhận ra sự sai lầm về chính ta, tức hiểu cái cơ thể cần chứ không phải thỏa mãn miệng. Thứ đến tránh phạm vào luân lý đạo đức, bởi ý niệm bất thiện, theo khoa học sẽ sinh đủ thứ bệnh hiểm. Chúng ta nên nắm điều quan yếu nhất, là bất cứ phương pháp nào dẫu tốt đến mấy, nếu không nhận ra chân lý trong nó, không thực hành với sự hào hứng tự nguyện, đều chẳng thể phát huy hiệu quả như mong muốn.

Không truy cội gốc, ung thư vĩnh viễn là căn bệnh gieo nỗi kinh hoàng khắp thế giới. Pháp sư Đạo Chứng, người thuần thành niệm Phật từng nói: Không lý nào có vài thanh niên xấu (tế bào ung thư) một ngày đến làng nọ rồi giết chết tất cả thanh niên khỏe mạnh nơi đó. Mấy năm trước tôi được đọc cuốn sách Niệm Phật chuyển hóa tế bào ung thư, nay nghe đọc trên mạng lần nữa vẫn thấy xúc động và cảm ân sâu xa, đã chia sẻ với nhiều người. Tác giả của nó, Bác sĩ Đạo Chứng, chuyên khoa Ung Thư; cô bác sĩ này lại mang bệnh ung thư, và nhờ học Pháp và niệm Phật đã chuyển hóa triệt để cho mình và rất nhiều người. Cuốn sách rất nổi tiếng trên thế giới, được ngay các giáo sư ngành Y khoa hưởng ứng. Đây là một tác phẩm mà ai cũng nên đọc/nghe để hiểu tinh thần có thể vực dậy mọi khổ đau trong cuộc sống mà con người khó tránh khỏi, để hiểu thêm về vùng mênh mông vi diệu trong trời đất và trong chính ta. Nhờ là một bác sĩ giỏi trong ngành ung bướu, nên tác giả Đạo Chứng hiểu rõ bệnh ung thư và cách chữa trị... Phần phụ lục còn là lời tâm sự của một số bác sĩ đầu ngành Y khoa mắc ung thư (!), khi hiểu nguyên lý đã tự chuyển hóa, xem như không chữa trị mà lành. Tôi cũng được xem bộ phim tư liệu Y học rất khoa học Nĩa thay vì Dao có trên internet, đã vun thêm niềm tin về phương pháp mình đang dụng công học tập và sẻ chia. Nhiều bác sĩ, tiến sĩ Y khoa nghiên cứu về thực dưỡng từng lên tiếng: “Thuật ngữ ‘bất trị’ là ảo tưởng của y khoa hiện đại. Nó là chân lý đặc sắc của các chuyên gia ung thư. Họ tạo nên nỗi ám ảnh về ung thư, hay một sự ‘sợ hãi cộng đồng’”. “Ngăn chặn triệu chứng mà không xử lý gốc rễ nguyên nhân căn bệnh nên chỉ làm cho bệnh thêm trầm trọng” (Bác sĩ Morishita). Hãy hình dung bệnh nan y như một nhóm maphia sống trên ốc đảo, với đầy đủ sức mạnh và phương tiện di chuyển. Trừ diệt hiệu quả nhất là cắt đứt liên lạc, cắt lương thực; khi đó lẽ nào chúng sẽ ăn đất và không khí để tồn tại? Điều này tương hợp với nguyên lý “bỏ đói tế bào ung thư” mà y học phương Tây nêu ra và áp dụng rất hiệu quả ở nhiều bệnh viện uy tín.

Đối chiếu vào Thực Dưỡng, ta phải cắt các nguồn thực phẩm âm tính; rồi dương hóa, điều hòa cơ thể bằng gạo lứt muối mè; Trợ phương: áp nước gừng, dán cao khoai sọ, uống hơi nước hấp cách thủy lá trinh nữ hoàng cung trong nồi đất, v.v. Tiêu chuẩn tối yếu trong Thực Dưỡng trị bệnh là nhai kỹ cơm lứt, phải thành nước mới nuốt, tức khoảng trên một trăm lần nhai. Người viết từng tiếp xúc với một hành giả niệm Phật; ăn mỗi chén cơm gạo lứt muối mè thời gian không dưới hai mươi phút. Ông bảo nhai một lần liền khởi niệm “Nam”, thêm lần nữa là “Mô”, thêm nữa là “A”, “Di”, “Đà”, “Phật”. Niệm một lượt mười câu tức miếng cơm đó được nhai 60 lần; thường ông niệm vài ba lượt mới nuốt. Thức ăn được nhai kỹ sẽ hút toàn vẹn dưỡng chất, điều mà nhai dối không có; tuyến nước bọt tiết ra từ hàm và mang tai sẽ giúp dạ dày đỡ tiêu hóa, nó còn là “bửu bối” của sức khỏe, giúp ngừa và trị bệnh (dưỡng thân); nhai kỹ còn tạo cảm giác thư thái, dưỡng tâm. Nhiều người khác vừa nhai cơm lứt vừa nghe kinh, pháp. Chúng ta từng biết đến Thiền trong nghệ thuật bắn cung (tác giả Eugen Herrigel), Thiền trong hành động (Meditation in action - tác giả Chogyam Trungpa), và cách nhai cơm lứt chữa bệnh ở trên chính là Thiền trong ăn uống.

Điều nan giải: hiếm ai tin và đủ nghị lực theo Thực Dưỡng ngay từ lúc bệnh được phát hiện. Thiển nghĩ bàn về Thực Dưỡng trong việc đẩy lùi nan y, cũng khó như nói chân lý giải thoát luân hồi với người quá cố chấp. Nói vậy ai cũng dễ gay gắt phản pháo. Họ sẽ mỉa mai, rằng chính bạn đang ảo tưởng. Âm Dương - triết lý tinh tế và thâm thúy trở thành “một cái gì đó dị đoan, thần bí”. Họ sẽ giơ ra nào tri thức, tiền tài. Họ nhớ đến những bệnh viện lớn. Và hơn hết, họ cần hưởng thụ trong quá trình điều trị. Stop sự khoái khẩu trở thành bóng ma ám ảnh. Nhai gạo lứt muối mè cũng đòi chữa căn bệnh ở thời kỳ con người đã lên thấu mặt trăng?

Theo xu thế phát triển của ngành công nghiệp, bệnh chủ yếu do thặng Âm gây ra; bệnh do thặng Dương ít hơn. Trong phân loại Âm Dương, không có loại gì thuần âm và ngược lại. Nói âm tức là âm hơn; dương tức dương hơn. Giữa thức ăn động vật và thực vật, thì thực vật là âm, động vật là dương. Tại sao bệnh nan y do phát âm lại ăn thứ âm. Chính là nguyên lý: lấy dương trong âm, cơ thể mới được điều hòa ở mức toàn triệt; trong đó không gì sánh nổi gạo lứt + muối mè, hay đơn giản nhất cũng là ăn chay với gạo lứt nhai thật kỹ.

Ohsawa từng bị dương quá trong mấy mươi năm, dẫn đến cơn đau dữ dội suốt tháng trời. Rồi cuối cùng ông cũng phán đoán ra. Thuốc là gì? Thật khó tin, ấy là một ít rượu whisky nguyên chất và ông sảng khoái uống lai rai cả ngày. Lành hẳn. Đây là trường hợp thật đặc biệt, và chỉ ông mới dám tự chữa như vậy. Ngược lại Tiên sinh từng chữa một người bệnh do âm nặng. Được đưa vào bệnh viện mổ, nhưng tình thế càng tồi tệ, mười ngày sau mạng sống của ông ta nguy cập. Các bác sĩ lắc đầu ái ngại, “nhường” cho Thực Dưỡng chữa. Liều thuốc Ohsawa kê chỉ là 7 viên mơ muối ba năm (vừa thặng dương vừa đáp ứng được sự cân bằng âm dương trong cơ thể đang trầm trọng “|lệch chuẩn” do hóa chất từ thuốc men). Kết quả: mười tiếng đồng hồ sau sự sống con bệnh trỗi dậy, và lành sau đó. Dĩ nhiên bây giờ đã khác so với thời đại Thực Dưỡng được khám phá, thịnh hành. Chẳng hạn sẽ khó kiếm loại lúa trồng không lạm dụng thuốc trừ sâu và bón phân hóa học; và rau củ có còn sạch? Kinh nghiệm của người ăn thực dưỡng chữa bệnh, hiện chỉ tin tưởng một số loạn như: quả mít non mua lúc người ta chưa gọt vỏ ngâm vào thau [có chất tẩy trắng], hoặc trái vả, trái chuối xanh, chiên lên cho vào một ít tương Tamari hoặc tương cổ truyền (tương đậu nành để từ hai ba năm trở lên), không dùng mì tinh và bột nêm. Hoặc ăn rau hoang, loại không chịu bất kỳ tác động nào của con người, nó sống mãnh liệt giữa thiên nhiên, sẽ truyền tinh chất và tinh thần đó vào cơ thể người ăn. Đừng nghĩ đây là cách ăn khổ hạnh. Ai từng theo Thực Dưỡng một thời gian, vị giác sẽ khôi phục năng lực, chỉ ăn rau luộc chấm tương không cũng rất ngon; còn nếu bỏ thêm mì tinh họ sẽ thấy quá “ngọt”, rất lợm. Đây cũng là yếu tố đo lường sức khỏe. Người từng ăn chay trường nhiều năm sau nâng lên ăn chay-Thực-Dưỡng, dẫu có mang đến món chay chế biến đạt mức “sơn hào hải vị” họ cũng thấy quá bình dân.

Thời @ bệnh nhân chỉ cần lên Google gõ người chữa lành nan y bằng Thực Dưỡng, hay những danh sách dài ghi kèm sau một số quyển sách (trong khoảng 300 cuốn sách) của Ohsawa, gọi điện nhờ tư vấn. Họ sẽ giúp bạn nhiệt tình đầy hứng khởi. Vì sao? Bởi họ đã nhận được điều màu nhiệm, đã thấy ánh sáng từ cõi mù mịt, sẽ rất hân hạnh trợ giúp. Ai do dự, nên xin ở lại nhà những người vẫn theo Thực Dưỡng cùng ăn cùng sống với họ, cùng thực hành tâm linh với họ. Lúc đó không phải ai khác mà chính bạn chữa bệnh cho bạn. Ý chí. Nghị lực. Tất cả đều sẵn trong mỗi người. Nhưng sức ỳ qua năm tháng, sự giải đãi, chấp chặt tri kiến và vật chất luôn trì níu ta. Giả như bạn không nhập được Thực Dưỡng, chưa đắm mình vào không gian nghệ thuật sống này, mắc bệnh cứ nên “trì giới” nhai gạo lứt muối mè một cách máy móc, đã tốt lắm. Lúc này rõ ràng chúng ta phải nghĩ đến những điều vi diệu nằm ngoài sức tưởng tượng, do vậy việc tiếp cận với Phật pháp là con đường sáng. Còn, bệnh nhân nan y đứng bên vực chết, lại không thể tiết thực (theo lời khuyên và tinh thần của tổ ngành Tây y Hippocrate, của Chúa Giêsu, của Thánh Gandhi, của Đức Phật), và thuần ăn gạo lứt muối mè hoặc ăn chay-Thực-Dưỡng, sẽ hiểu sâu sắc câu nói của Napoleon “chiến thắng một vạn quân không bằng chiến thắng bản thân mình”, và thấm thía nhường nào lời dạy của bậc Toàn Giác: “Kẻ thù lớn nhất đời người là chính mình”. Bất lực với chính mình, cái chết bắt đầu ám ảnh. Nỗi ám ảnh về bệnh nan y sẽ tạo nên một siêu bệnh: ung thư ý chí

Giáo sư Ohsawa là một tấm gương. Ông từng tuyệt thực hai tháng ròng; từng hiến thân cho tế bào ung thư xâm nhập rồi chữa lành làm minh chứng cho Vô Song Nguyên Lý. Với ông: “Ý chí chúng ta là ý chí của toàn vũ trụ. Càng thấu hiểu vũ trụ này vĩ đại, lộng lẫy và vô cùng vô tận thay thì ý chí của chúng ta càng trở nên lớn lao”. Bị ung thư lúc còn thanh niên, Ohsawa chẳng những tự chữa lành cho mình, sau này còn chữa cho hàng nghìn người cùng mắc căn bệnh này. Qua châu Âu, ông đến nhiều bộ tộc chữa miễn phí. Những cộng đồng người bao đời sống yên bình, cho đến lúc văn minh phương Tây du nhập với những thức ăn đóng chai đóng hộp nhiều hóa chất và hơn thế là đường sữa, người dân bắt đầu lâm bệnh. Chính Ohsawa cũng mắc căn bệnh u sang nhiệt đới mà y học vùng đó từ lâu tránh xa. Ông bình thản ở lại chịu chung số phận với dân, bắt đầu chữa cho mình trong thời gian rất ngắn, nhằm khuyên mọi người chỉ cần sống đúng Âm Dương, bệnh sẽ âm thầm rời bỏ chúng ta như một cuộc chia tay không vướng mắc hận thù. Đây là cách đối xử hoàn hảo với bệnh, một lối trị liệu đầy nhân nghĩa. Rồi Osawa đến gặp vị bác sĩ giỏi nhất vùng mong tiếp thu Thực Dưỡng, hợp tác giúp người. Vị này không dám thừa nhận mình yếu kém. Lắc đầu! Nguyên lý đơn giản trở nên “rất khó hiểu đối với những người đầy ắp định kiến chuyên nghiệp”. 

Lòng tự cao của một số bác sĩ Tây y càng tăng trưởng khi được sự hỗ trợ của phương tiện tân tiến. Trong 7 nấc thang của bệnh, Ung Thư chỉ được Ohsawa xếp thứ 3, thời đó nhiều người lành hẳn trong vài tuần. Mức cao/nặng nhất xếp thứ 7 là bệnh Kiêu Căng Ngạo Mạn, theo ông phải mất hàng chục năm trời mới có thể chữa khỏi. Như vậy Kiêu căng ngạo mạn ở đây cũng xem là bệnh vật lý cần kê đơn bốc thuốc chứ không đơn thuần tâm lý nữa. Bác sĩ Anthony J. Sattilaro, mắc bệnh ung thư; đương chức giám đốc một bệnh viện lớn ở Philadelphia (Hoa Kỳ) nhưng bất lực, nhìn thấy ngõ cụt cuộc đời. Có người giới thiệu gạo lứt muối mè, ông liền cho đó là “lối ăn uống điên khùng”. Nhưng trước đường cùng, Anthony J. Sattilaro cũng thử đọc một cuốn sách xem thực hư Thực Dưỡng có mang lại điều như người ta ngợi ca. Vẫn hồ nghi, không chịu thực hành. Ông đang muốn ném cuốn sách vào sọt rác, chợt thấy dòng tên của một bác sĩ... Hai chữ “bác sĩ” bước đầu dẫn đường ông. Vẫn có bác sĩ Tây y tin Thực Dưỡng? Đằng nào thì cũng “hoặc là chết hoặc là phải thử một cái gì đó khác với những cái mà tôi đã thử”. Câu chuyện này được Anthony J. Sattilaro kể lại, lan tỏa trên toàn cầu. Và đây là lời chia sẻ tận đáy lòng của ông: “Chỉ với sự từ bỏ óc vị ngã cố chấp, buông xả sức cưỡng trì cải đổi và mở lòng đón nhận những tặng phẩm mà thiên nhiên ban cho cuộc đời, chúng ta mới hưởng được ân huệ đích thực”.

Từ năm 1972, trong Luận án Tiến sĩ Y khoa, bác sĩ Nguyễn Văn Thụy đã viết: “Nếu y học hiện đại không thay đổi chiều hướng thì bệnh ung thư sẽ trở thành chứng bệnh hiểm nghèo không những cho con người, mà còn cho cả nền y học vì những ảnh hưởng tai hại của nó trên toàn xã hội. Chính vì vậy mà bệnh ung thư có một sứ mệnh lịch sử cho thế kỷ này, cái sứ mệnh sửa sai nền y học hiện đại”. Một cuốn sách về chữa bệnh nan y xuất bản cuối năm 2013, cho biết một bệnh viện ung thư hàng đầu thế giới ở Mỹ qua nhiều năm điều trị ung thư đã đưa ra những kết luận đáng chú ý. Họ cho rằng điều trị theo hướng thuần sử dụng hóa chất, các tia phóng xạ trong khi tiêu hủy các tế bào ung thư cũng đốt cháy gây theo hoặc làm tổn thương các tế bào khỏe mạnh, các mô và các bộ phận cơ thể khác; đồng thời có thể làm nguy cơ dẫn tới bệnh ung thư máu.

Máu, là thành tố tối quan trọng, theo y học phương Đông nó lưu chuyển đến mọi tế bào trong mọi ngóc ngách của cơ thể. Ăn uống chủ yếu ngũ cốc nhai kỹ sẽ cho ra loại máu tốt. Ngược lại dẫu được thần y chữa trị, người bệnh vẫn ăn uống theo hướng trái với nguyên lý Thực Dưỡng làm máu xấu, bệnh đó không thể nào trị lành tuyệt đối; cũng như ta chỉ chặt cây chứ không bứng rễ, vừa uống thuốc cai rượu lại vừa uống rượu.

Không tìm rõ nguồn cơn của bệnh, dẫn tới sự “đè nén lò xo” các loại tế bào; chúng không tận diệt lại còn bật lên bệnh khác và cứ thế phân chia mãi ra. Dễ nhận thấy, ai đến bệnh viện đều mua sữa thăm người đau. Phương Tây từ rất lâu rồi đã chỉ mặt đường sữa là kẻ thù của sức khỏe. Nhất là với bệnh ung thư. Người mắc bệnh nan y, đường sữa cần cắt đầu tiên, sau đó là các sản phẩm từ thịt động vật. Đưa sữa vào, xương phải tiết can xi để trung hòa, gây bệnh loãng xương. Sữa đường chứa hóa chất, nhiều a xít lại có “công năng” tạo nước (rất âm) còn góp sức phá hủy não trạng, lục phủ ngũ tạng, làm con người ù lì mụ mị. Ở đây không ai muốn lên án đường sữa, song việc mê tín đường sữa, thổi phồng giá trị của nó đã khiến vấn đề thêm nghiêm trọng. Nghiên cứu của nhóm khoa học người Anh và Đức cảnh báo nếu uống sữa nhiều sẽ có nguy cơ tử vong cao. Mặt khác cũng cần hiểu, trí tuệ phần lớn được khởi sinh từ Thiền định, niệm Phật, từ lòng bi mẫn lợi người, từ tâm thanh tịnh không ô nhiễm, từ sự lắng lòng trước mọi bể dâu, chứ không quá đơn giản là sự tẩm bổ tân thời phi Thực Dưỡng. Hẳn ít ai cãi lại việc cứ nóng là uống nước đá giải nhiệt; với cơ thể (luôn ở khoảng 37 độ), đó chẳng khác một khuôn mặt đang tươi vui rạng rỡ bỗng bị tạt gáo nước lạnh. Vận động viên thể dục thường ra nhiều mồ hôi, mất muối, tức cơ thể đang Dương suy Âm thịnh, lẽ ra nên uống nước ấm pha muối biển nguyên chất vốn khá Dương và nhiều khoáng chất, lại uống nước ngọt sản xuất kỹ nghệ và nước đá (vốn rất Âm)? Kinh nghiệm của Ohsawa, “một người mắc bệnh thạch huyết, hoặc bần huyết (âm) mà cho nước hoặc nước đá là những thứ âm vào người thì họ có thể chết”.

Lắng nghe cơ thể, sẽ hiểu đau mắt có thể gốc nằm ở gan; đau tai đau lưng gốc có thể ở thận; thoa dầu và dùng cao dán lưng dài ngày thận phải tiết một loại chất để điều hòa khiến nó cạn dần nhựa sống (như ta đưa nhiều đồ ngọt vào cơ thể); uống nước nhiều cũng khiến thận ngập nước, mệt phờ, không còn đủ sức lọc ra loại máu tốt; lạm ăn măng, cà, giá, nấm, bánh kẹo, trái cây lệch mùa và phun bón hóa chất, những thứ âm này tích đường tạo nước, sẽ khiến cơ thể không điều hòa nổi. Lúc bệnh gõ cửa, không cần biết nguyên nhân, điều người ta nhớ ngay là thuốc tây. Cùng đau dạ dày, song người thì chóng mặt buồn nôn, người kia lại đầy hơi khó thở; gan thận nóng hay lạnh? chẳng lẽ cứ giơ ra một loại/liều thuốc. Chúng ta dễ thấy cùng một bệnh có khi hàng trăm loại thuốc; như vậy cơ bản sự lành đâu phải do thuốc, mà do căn mạng, thể chất, hay đúng hơn là phước đức và duyên nghiệp. Khá nhiều căn bệnh buộc phải uống thuốc trường kỳ. Câu hỏi đặt ra: họ phải dùng thuốc đến bao giờ? Câu trả lời: đến chết, (có thể lắm!). Nói ngược lại, không ăn uống đúng để giảm dần lượng thuốc rồi đi đến cắt khẩu phần của con bệnh, nguy cơ họ phải nuôi bệnh đến hết đời, là dễ hiểu. Con cái hễ ho hen cha mẹ liền đưa đi khám, mua một mớ thuốc bắt uống bằng hết. Rồi họ còn dựng cả tủ thuốc trong nhà; chiếu theo tư tưởng ý niệm làm chủ trong Đạo Phật hay thuyết niệm lực trong vật lý lượng tử, ấy là sự đầu hàng con bệnh sớm nhất. Cơn ho dẫu là kinh niên nếu ăn gạo lứt muối mè, thêm vài muỗng bột hạt sen rang cộng chút muối nấu lên ăn là ổn. Một cơn nóng sốt ọe nôn, một cơn cảm nặng nếu tỉnh táo chỉ cần vài muỗng bột sắn dây (nguyên chất), một muỗng tương lâu năm, một quả mơ muối, vài lát gừng khuấy đều nấu lên uống rồi đắp chăn tránh gió, đợi mồ hôi toát ra thì lau sạch người bằng khăn ấm, vấn đề đã được giải quyết. Đơn giản nhất là dùng mơ muối lâu năm. Hoàn toàn không có tác dụng phụ, còn khiến cơ thể được tẩm bổ đúng. Ohsawa cũng từng cứu một bệnh nhân chín phần chết một phần sống chỉ với vài thứ “lặt vặt” kiểu như trên. Người có định lực tâm linh, cách chữa của họ là tĩnh giác rải tâm từ đến muôn loài mà trước hết là với loài virus và các “chủ nhân” đang gây ra sự đau đớn cho cơ thể. Điều này không khó hiểu, khi khoa học hiện thời kết luận: Con ung thư sợ nhất là chữ Ái (yêu thương, từ bi…).

*

Chữa bệnh theo Tây y hoặc Đông y hay thuần Thực Dưỡng đều tốt, tùy vào mức độ của bệnh, vào hoàn cảnh thực tại, tùy thể trạng và duyên, nghiệp người bệnh. Không nên quá chấp vào Thực Dưỡng để rồi nhất nhất tuyệt đường tới Bệnh Viện. Sự phát triển của khoa học y thuật thật sự cần thiết, đã đẩy lùi nhiều căn bệnh, tạo nên tính năng động của xã hội. Một người dẫu là tín đồ của Nguyên Lý Vô Song, trong trường hợp cần thiết cũng nên theo Tây y hay đến Đông y bổ thuốc. Điều thiết yếu tạm thời là biết điều chỉnh trong quá trình chữa trị nên và không nên dùng thứ gì. Đó cũng là biểu hiện của sự hợp tác hiệu quả và vô cùng ý nghĩa giữa Tây và Đông y trong thời đại khoa học kỹ thuật đang lấn lướt. Điều trọng yếu bao giờ cũng là Tâm Thiện không tham sân si mới khiến thân được khinh an, bởi Tâm luôn làm chủ thân. Tâm ta vọng động với tài danh lợi dưỡng, làm điều gì bề ngoài cao siêu, bề ngoài dán mác thiện song tâm ý nằm gọn trong lợi mình trước nhất, sẽ khiến tâm ô nhiễm, bệnh sinh là lẽ thường. Bên cạnh vật chất, mặt tinh thần cũng có âm dương. Ta nghĩ xấu nghĩ ác, nghĩ theo hướng chia rẽ bè phái,… là Âm. Ngược lại lối suy nghĩ (hành động) theo hướng thiện là Dương. Thế nên nhiều người cầu nguyện, tu Niệm Phật đã lành bệnh nan y, thật không có gì lạ.

Đã có những bệnh viện và trung tâm lớn hiện đang chữa rất hiệu quả bệnh nan y mà nếu so với phương pháp Thực Dưỡng, nó gần như trùng khít. Sự kết hợp giữa Tây y, Thực Dưỡng và Tâm Linh trên cơ sở Tâm Thiện bao dung hào ái với mọi người mọi loài sẽ là năng lượng cho bước tiến dài của ngành Y học thế giới. Hoài nghi, tẩy chay chân lý được gạn lọc qua nhiều ngàn năm, là một dạng bệnh; và một khi niềm tin vẫn lui sụt trước vô vàn minh chứng sinh động về những chân lý thường hằng, là căn bệnh xuyên thế kỷ không thánh thần nào chữa khỏi. 

 

Phần cuối

TÂM HỒNG DANH CHIẾU RA MIỀN CỰC LẠC

Hãy tưởng đến cảnh, tôi ngang qua ngọn núi, thấy một tượng Phật liền dừng chân chiêm bái. Lễ xong tới gần, chạm tay vào, bỗng giật mình. Hư không. Tìm hiểu mới hay tượng Phật cổ này vốn bị kẻ ác phá hủy, những nghệ sĩ đích thực tiếc nuối liền cúng dường bằng cách dùng ánh sáng 3D chiếu ra một hình tượng Phật [ảo] y như cũ.

Tôi và bạn đã đốt hết chín mươi phần trăm thời gian vô ngần quý giá để tạo nên những lâu đài cát. Công sức biển trời của con dã tràng trong một giây bị sóng nghiệp lực xóa sạch. Lòng sân hận của giống loài trên hành tinh cộng lại tạo nên sóng thần cùng bao thiên tai ác chướng. Con người cũng đang liên tục phát xuất ý niệm [chiếu ra] từ vọng tâm, chiếu vào nhau, “mặc định” tính cách cho nhau. Cho đến một ngày vọng tâm vụt tắt, họ an trú trong bổn tánh và do đó trước mắt chúng sanh đều mất, mà ai ai đều cùng một Thể. Điều đơn giản nhất cũng là thâm mật. Sao phải hành trì chánh pháp; học pháp cốt để hành hành, chứ không phải học cho có tri thức. Hành pháp mới chính ta đang dần làm chủ nghiệp lực, làm chủ vận mạng. Còn không chúng ta sống bởi sự hội tụ của tất cả ý niệm từ vô vàn người quen; kể cả những người thân nhất - cũng đang làm hại ta! Hiển nhiên. Một đứa con hư, ta liền chì chiết đồ bất hiếu nghịch tử, lúc nào cũng ý nghĩ này, và câu này sẽ phát ngay hễ nó phạm một lỗi khác. Một kẻ phạm tội ăn trộm vào trại giam, được ân xá về quê; anh ta thay đổi hoàn lương, song đến nhà bạn, bạn có đề phòng?, có cất ngay ví tiền và những đồ quý trước lúc xuống nhà dưới. Tâm đề phòng xuất phát từ ý nghĩ đen, rằng hắn, kẻ ăn trộm. Tên ăn trộm, hãy đề phòng! Ý niệm này đã xuyên vào bản thể anh ta khơi dậy hạt giống nhòm ngó tài vật của người. Bỏ qua đức tính tốt của người, cứ chăm chăm nhìn lỗi, ý nghĩ xấu này sẽ góp phần bồi đắp lỗi thành bản chất, và dĩ nhiên nó sẽ phương hại chính mình. Từ trường ý niệm chẳng khác lúc ta hét vào một hang động, rồi nó sẽ dội lại. Cứ tưởng đến cảnh hốt rác vứt qua hàng xóm, sẽ biết ngay tay mình dơ trước; hay đó là cảnh ngậm máu phun người theo cách diễn của triết lý dân gian, sẽ hiểu. Tâm chao đảo, nhân loại trên trái đất và cảnh giới hiện từ cõi mê chao đảo. 

Vũ trụ chuyển động không ngừng, trái đất chuyển động không ngừng, tâm ta cũng không ngừng vọng động. Ai đó hãy thử ngồi xuống nhắm mắt cố tĩnh tâm, cố gắng không nghĩ gì mới biết thế nào là tạp niệm. Tâm ta nghĩ quá nhiều, mà phần lớn đều bất thiện. Kinh viết: Vạn pháp duy tâm hiện. Thực chất chúng sanh trên trái đất là do vọng tâm ta chiếu [ảnh] ra mà có. Người kia báng Phật, trong ta có chủng tử này, chỉ là nhờ công phu nên không khởi hiện. Mụ B độc ác - trong vọng tâm ta có chủng tử này; anh X hiền lương nhẫn nhịn - vọng tâm ta có đức tính này; cô hàng xóm hay xỏ xiên ganh tị - vọng tâm ta cũng chứa mẫu hình này, v.v. Bởi là hàng xóm, không thân thích lắm với ta nên ảnh hưởng cũng không nhiều đến bản mệnh của ta. Ta tác ý đến đối tượng, đối tượng liền thay đổi. Điều này khoa học đã chứng minh: ta tác ý xấu đến nước, nước chuyển độc, và ngược lại. Ta tác ý đến người, người biến đổi chăng? Có. Bởi cơ thể người đa phần là nước, là từ vô vàn phân tử cấu thành. Tác ý đến cục đá, cục đá biến đổi chăng? Có. Bởi cục đá là duyên hội tụ của lượng tử. Các hạt siêu nhỏ ấy không ngừng dao động song mắt thường nào có thấy. Tiến sĩ Chin Kung nói gạch ngói và kim cương đều cùng một nguyên liệu, khác là do “công/tâm thức” chẳng đồng. Thật siêu tình đạt lý. Nghệ sĩ nhiếp ảnh, chưa nói họ chụp cảnh động, chụp tĩnh vật cùng một góc, sẽ có sự khác nhau. Là do mỗi người tác ý vào tĩnh vật ý niệm không đồng. Chẳng những người, cục đá, nước bị ảnh hưởng theo ý nghĩ, mà cả vũ trụ đang biến đổi theo ý niệm tác khởi từ tâm muôn loài trong các cõi.

Cái tạo nên bản tính cố hữu của ta lại chính là sự cộng gộp của những người ít nhiều có mối liên hệ (thông qua lục căn) với ta. Chẳng hạn Z hay rượu chè, thiếu trách nhiệm với gia đình và cơ quan. Ban đầu chỉ là thói quen, nhưng làng xóm hễ thấy Z hoặc nghe đến tên Z liền khởi ý nghĩ: ờ, gã ấy nát rượu, bê trễ lắm; họ giữ chặt ý nghĩ này. Hỏi trong tất cả những người quen thân Z, mấy người có cái nhìn tiến bộ. Kể đến những người mới quen Z, nghe qua liền nắm ngay ý nghĩ [mang tính “chân lý” đám đông] đó, vậy là Z nhận thêm từ trường xấu. Điều này nghiêm trọng. Z không biết đang sống bởi sự quy định nghiệp xấu từ cảm quan [“vô thức tập thể”] quanh mình. Ý niệm tạo vật chất, tạo cảnh giới, bởi xét đến cùng ý niệm cũng là loại vật chất vi tế. Sự hội tụ của ý niệm sẽ kết thành năng lượng siêu nhiên dẫn dắt tương lai của chúng sanh. Hồi tôi ở Thủy Dương, có hai mẹ con. Mỗi lần đứa con gây gổ với ai hay rượu chè be bét, bà liền tung câu: “Ôi Ch. ơi tau chết theo mi. Tau chết theo mi liền Ch. ơi”. Rồi tối đó Ch. tông xe vào cột điện. Đưa xác Ch. vào nhà độ nửa tiếng, bà mẹ nom vẫn tỉnh táo; lúc mua nhang về, bỗng hét ôi Ch. ơi... Và chết! Hai quan tài đặt song song trong ngôi nhà nhỏ. Quá thảm. Xưa nghe câu cửa miệng của bà mẹ trên đến mỏi tai, chả để ý, bây giờ học Phật, nhớ lại chuyện này tôi không phải giật mình, mà rùng mình!

Trở lại với Z, y cứ thế nát rượu, cứ thế thiếu trách nhiệm với gia đình xã hội, để rồi chút ý chí mong manh không thể chống lại “trường năng lượng” chung quanh. Rõ hơn, ta có thể xem Z như một tác phẩm tượng mới hơi hướm hình dạng, được trưng diện để mọi người cùng tô đắp, đa phần sẽ theo hình dạng hiển lộ ban đầu. Mỗi người góp vào một bay hồ, Z lần một hiện rõ hình dạng và nhân cách. Bây giờ hãy nghĩ khác. Rằng Z chuyển đến nơi xa xôi, (tốt nhất gần thiên nhiên), tạm thời không gặp không liên lạc với những người quen cũ. Lâu dần họ sẽ quên Z. Z tới vùng đất mới với những người mới, họ có cái nhìn khác về Z. Cốt yếu là ngay từ lúc gặp hàng xóm, Z phải chỉnh sửa thân tâm, gieo ấn tượng tốt. Người ta nhìn Z khác đi, đẹp đẽ sinh khí hơn, có ích hơn, một lan ra mười người… cứ thế Z tự nhiên được bao bọc bởi một trường năng lượng sạch. Nhưng đây chưa là cứu cánh, chưa thể nói Z nhận được tương lai xán lạn, mà tùy tâm lực của chính Z có thuần thiện và hành pháp đến mức nào.

Làm sao thoát khỏi vòng nghiệp lực, cải đổi vận mạng? Muốn làm chủ nghiệp lực, dĩ nhiên phải Tu, chân thành hướng về Phật, sẽ được sống trong vầng hào quang tịnh khiết. Ý dẫn đầu các pháp. Cải đổi vận mạng, phải từ gốc cải đổi ý niệm, từ bất thiện qua thiện, từ thiện niệm quy về một câu chú, câu Phật hiệu, quy về “một hơi thở”, từ có [niệm ấy] trở về vô niệm. Tâm rỗng rang. Tuy, niệm Phật, không hẳn ai cũng biết cách. Đơn giản nhất cũng phải nghe rõ chữ mình niệm, từng câu nối nhau không đứt, và phải có lực. Hơn thế, nếu cứ duy trì tâm niệm này dễ rơi vào tâm đề phòng [vọng niệm], khởi bực lúc niệm xấu xem vào, theo đó niệm ác bị coi khinh, bị đè nén; là ta đã đặt vào đó một “người quan sát”, để tạo nên hoặc tiếp nguồn năng lượng cho cái gọi vọng tâm. Ban đầu ta khởi ý diệt trừ vọng ác thay bằng vọng thiện; lúc thiện niệm đã tăng, một niệm ác khởi sẽ làm ta khó chịu hơn trước. Điều mật yếu là phải chân thành, cung kính hành pháp, ngây thơ trong sáng hành pháp với mục đích thiện hưởng đến tha nhân.

Trong nhà Thiền thường nghe câu: Chân tâm vô niệm! Một bậc chân tu từng khai thị: “Chớ nghĩ không có một niệm gì mới được gọi chân tâm, đấy chỉ là cảnh giới vô tưởng thiên, ở đây vô niệm cần phải hiểu là không tà niệm, không có niệm phân biệt thiện ác, chẳng dính hai bên, trung đạo cũng không lập, khi đó thì niệm niệm đều tuôn chảy tương ứng với tự tánh bất nhị, đấy là cái theo Ngài Huệ Năng gọi là Đạo tự nhiên, theo Krishnamurti thì là trạng thái sáng tạo khi không còn người quan sát - vốn khi không tự dựng ra để tự triền phược mình, xung đột với chính mình, nhưng đấy chẳng phải là chỗ kẻ sơ cơ có thể sờ đến được; trong kinh Hoa Nghiêm gọi là vô công dụng đạo, chính là cảnh giới sơ trụ Bồ Tát. Kẻ sơ học tưởng chỉ nên biết qua thôi còn chỗ dụng công của mình phải nên y pháp của Thần Tú mới là đắc lực: Ngày ngày thường lau chùi chớ để dính bụi nhơ”.

Cũng từ lý Kinh “phiền não tức bồ đề”, chân vọng vốn không hai. Lúc vào tu, Phật pháp sẽ soi thấy mình xấu, vậy là người quan sát liền bê về một người tốt đòi thay vào bằng được. Giống như ta thừa tiền [phước] nên thuê một người về gác cổng nhà mình; từ đây tạo nên tâm phân biệt, tâm đề phòng lúc nào không hay. Bên trong luôn đề phòng niệm xấu ác, rồi đề phòng bất cứ niệm gì ngoài Kinh; bên ngoài thì đề phòng kẻ trộm, nhà lúc nào cũng khóa, đồ vật hở chút là sợ mất. Lý này tưởng ngược thiền, song là cần thiết tham khảo đối với những người đã, tạm gọi vào được công phu. Quán niệm, ta phải phân định thiện hay bất thiện, cái nào giữ cái nào không, dần dà mới vượt lên niệm thiện niệm ác. Niệm Phật thì ngay từ lúc nhập môn đã không cần phân biệt niệm thuộc loại gì, giữ hay không, cứ mặc nhiên luồn vào câu Phật hiệu [theo dòng vọng tâm không thể cưỡng]. Hễ khởi niệm là quay về “A Di Đà Phật”; thay vào một cách nhẹ nhàng; kết hợp có hình ảnh xấu hiện lên, ta luồn ngay vào khuôn mặt Phật Bồ tát hoặc tổ sư đại đức thờ phụng trong nhà. Sự luồn vào này dĩ nhiên niệm vọng không biết [đã bị thay]; “người quan sát” cũng không biết, nên dần dà  thành thừa, tự khắc tự sa thải.

Tâm đạt chuyên nhất tinh ròng niệm câu hồng danh “A Di Đà Phật”, mới mong có ngày về Cực Lạc. Ta lạc vào một nơi có trường lực xấu, có sao khi trong tâm niệm Phật. Ta phải sống trong ngôi nhà trái phong thủy hay ngôi miếu được cho nhiều ma trơi chướng khí, có sao khi niệm Phật. Sóng phát từ câu “A Di Đà Phật” là siêu thiệu, ta vô nhiễm lại thanh lọc được cả không gian rộng lớn. Tâm giống như dòng nước tuôn chảy không ngừng, việc của ta là gửi vào câu Phật hiệu, gửi càng lúc càng dày, đến một lúc sông không [còn] thấy nước cũng không thấy rác, mà toàn “A Di Đà Phật”. Thể tánh của sông vốn là nước, giờ thể tánh của sông là “hồng danh”. Dòng sông tâm thức A Di Đà Phật mênh mông sáng rực không bờ bến, ào ạt chảy về cõi Phật. Người dừng được tất thảy vọng niệm, chỉ khởi một câu kinh, dần dần pháp đó cũng mờ, mất dần, trả lại sự trong lặng tuyệt tĩnh, họ có thể ngồi như vậy hàng ngày, hàng tháng, hàng năm, thậm chí nhiều thế kỷ, gọi là cảnh giới Niết Bàn, muốn tác ý “sống” trở lại thì sống, muốn về cõi Phật thì về, muốn để lại nhục thân bất hoại thì để. An nhiên cùng cực.

Bởi là tâm phóng chiếu, người tu thực sự đạt định thì nhìn đâu cũng yên bình. Hành giả Tịnh tông nhìn ai cũng thấy [tâm họ] là A Di Đà Phật. Bởi là tâm phóng chiếu, nhỡ có bị chửi thì với họ người kia thực đang niệm A Di Đà Phật, đang chiếu ra hào quang từ hồng danh thâm diệu vậy. Trong một xã hội động loạn, mỗi người chúng ta cũng bị cuốn theo như thác đổ. Chúng ta bị cuốn theo thậm chí không hay biết, đến lúc tóc bạc mới sững sờ bởi những ngọn núi nghiệp thức, bệnh tật chắn ngang thọ mạng. Một câu kinh đưa vào tâm chuyên niệm có thể cứu vãn huệ mạng cho chính mình, còn tạo sóng trường thanh tịnh hòa vào pháp giới.

Thế gian nhiều hành giả niệm Phật biết trước thời điểm được về cõi Phật ba ngày, trước ba tháng, trước nhiều năm. Đúng ngày giờ Phật hẹn (mà trước đó đương sự đã thông báo với đại chúng), hành giả không bệnh tật, tỉnh táo mà đi, để lại thân tướng sáng rỡ. Sự này, không lời tôn vinh nào đủ xứng đáng, đành phải dùng cụm từ “Không thể nghĩ bàn”.

Chết là một chuyến đi dài. Sợ chết bởi ta quá nhiều ham muốn dính mắc không thể dứt mà lại chẳng có “lộ phí” dắt lưng - ấy là đức và 6 chữ hồng danh nằm lòng. Gom đủ hành trang rồi, chết được chuyển lên cõi trang nghiêm vạn hạnh; ở đó ta nhìn thấy người thân, nhìn thấy chúng sanh bạc phước hơn và trong khả năng có thể, giúp đỡ được họ. Còn không chúng ta với họ là một, cùng lấm bết trong dương trần, trong cõi âm hay lạc vào ác đạo thì có chung nhau một nhà cũng chẳng thể nhận ra; lại sân hận giết chóc nhau, tiếp tục tơ tướp trong nhiều nhiều kiếp nữa và mong chi gặp Phật.

Cõi nhân gian như một giấc mộng lớn. Nhưng chúng ta từ mê lại tạo thêm nhiều cảnh mê hoan lạc. Tôn vinh xướng họa phần con, nhấn dìm phần người. Nên tồn tại có đời người mà tích nghiệp cho muôn đời không ra khỏi mê lộ của tâm.

-----------------o00-----------------

 

PHÍA SAU VĂN BẢN ĐỜI NGƯỜI

- Nhụy Nguyên -

MỤC LỤC

Phần I: CÁI ĐUÔI VÔ MINH

- Ai đi trong cõi ta bà

- Hạt của Chúa và chủng tử Phật

- Học Phật từ trong thai tạng

Phần II: TÂM THỨC MÙ LÒA

- Đốm lửa soi tâm

- Thi nhân và thiền nhân

- Kinh điển và căn mạng đời người

- Phía sau văn bản đời người

- Con người giấu cái đuôi ở đâu?

Phần III: THƯ GỬI BẠN

- Nơi hoang vu phận người

- Thuyền trôi trên sa mạc

* Cuộc đời trôi như chiếc bóng, cái được mất tưởng của ta song xét cho cùng đều nằm giữa mênh mông biển người. Vẫn biết cuộc đời luôn biến hoại theo quy luật tạo hóa nào đâu dễ cưỡng. Vẫn biết con người mỗi bước đi là gần hơn với hố thẳm. Vẫn biết cuộc đời vô thường như chiếc lá, từ lúc nhú mầm là như chích vết đau vào hư không. Nhưng mấy ai chẳng nuối tiếc cuộc vui này mà bình an buông xuống lụy phiền nhân thế.

* Nếu chúng ta gạn khỏi “bể khổ” lớp váng vô minh và không nhìn Phật pháp qua lăng kính màu của mê tín, của chính trị và quyền lực thì miền huyền nhiệm trong mỗi người sẽ tự thắp sáng sau những bể dâu.

Phần I

CÁI ĐUÔI VÔ MINH

 

Ai đi trong cõi ta bà

Không nhiều người tin trước nền văn minh chưa đạt tới viên mãn của trái đất, có những nền văn minh khác đạt đến “cực thịnh” và đã tàn lụy. Ngành khảo cổ học tìm thấy nhiều hiện vật minh chứng cho một trình độ siêu việt, có niên đại trước lúc trái đất hình thành. Theo chu trình phát triển (hay thụt lùi theo quy luật thành - trụ - hoại - không), điều đó thường hằng diễn ra trong tam giới.

Nhiều nữa nền văn minh đã là sự nuối tiếc khôn nguôi của nhân loại. Văn minh do con người trong tiến trình can dự vào thiên nhiên mà tạo nên. Một thế giới muốn yên bình và trường tồn chỉ có thể nương dựa vào thiên nhiên. Thiên nhiên luôn cần được tôn trọng và gìn giữ như chính những loài cây cỏ trang trí trong ngôi nhà của mỗi chúng ta. Nhưng sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đang hành xử ngược lại, thực sự đã rút ngắn tuổi thọ của hành tinh này.

Đa phần những người tu họ biết dựa vào tất cả những gì tạo hóa ban, biết tập đi trên con đường hàng ngàn năm trước Phật đã vạch (mà nay ít nhiều bị xâm hại bởi sản phẩm công nghiệp kể cả rác do người máy thải ra). Họ xem như ngược chiều với dòng đời cuồn cuộn như một cơn lốc mang bộ mặt giận dữ của nước. Họ không nuối tiếc những thành phố cực thịnh bão cát vùi lấp, không tiếc nuối những con thuyền đầy lụa là châu báu chìm dưới đại dương nay vẫn chưa dấu vết. Người tu không muốn gặp tứ đại mỹ nhân đã hóa thành cát bụi, thành một dạng vật chất vi quan vô xứ. Người tu cảm phục những ai từng vạch đường cho nhân loại trở về với bản chất thật của mình, không còn bám vào vòng quay luân hồi trước lúc bị hất xuống tầng sâu tăm tối.

Địa ngục trên mặt đất, là lúc người nô lệ bị ruồng rẩy hơn loài súc vật bệnh hoạn; địa ngục tồn tại trong xã hội thời Trung cổ; địa ngục vẫn còn tồi tại đâu đó lúc chúng ta đang ca hát nhảy múa, đang sung sướng đến điên rồ mà cạnh bên vẫn có người tột cùng đau đớn! Niềm hạnh phúc và nỗi thống khổ là hai mặt khác biệt đối với người thường. Với những ai ngộ đạo, nó là một. Một đại đức, sự cho là niềm ân phước dành cho bản thân, gã keo kiệt phải chia phần của cải thì dằn vặt khổ sở. Đau khổ là tấm gương phản chiếu sự sung sướng. Chúng ta đào xới niềm vui sâu bao nhiêu, hố đau khổ phản chiếu sâu hơn thế ấy. Đau khổ dẫu chưa xuất hiện đồng thời với cái gọi hạnh phúc song lúc hội đủ duyên sẽ trỗi lên dìm con người từng khoét sâu sự hưởng thụ dục lạc xuống như là cú đảo ngược cái phản chiếu trong gương tâm vọng động. Bởi chúng ta trong cõi mê, bị vọng tâm điều khiển. Một bộ óc uyên bác cũng có thể sinh ra hành động thấp hèn, nhưng tuyệt không niệm độc nào sai khiến được Tâm đã triệt ngộ. Thay vì sử dụng tánh giác bổn nhiên sẵn trí tuệ và đức năng, càng sử dụng bộ não ta càng lệch tần số thế giới tâm linh mầu diệu.

Sự vô minh là lớp màng che mờ tầm mắt nhận diện chân tướng sự thật. Khoa học thời nay thừa nhận trái đất chỉ là một hạt cát trong vũ trụ, nhiều bộ óc vĩ đại vẫn lấy con người làm trung tâm. Sự ngạo mạn khiến họ dùng kính thiên văn khuếch đại nhìn bốn phương rồi kết luận: Không hề thấy thần thánh! Ở Tây Tạng, nhà tu hành chân chính không hề dám vung tay quá trán theo nghĩa đen, vì họ biết trên đầu mình là ai. Đoàn các nhà khoa học hàng đầu của Hoàng gia Anh từng thị sát miền đất thánh trong chuyến Hành trình về phương Đông. Những gì họ tai nghe mắt thấy làm chấn động châu Âu một thời. Nhưng dường như ai từng thấm nhuần pháp nhũ vẫn thật mau quên những gì khoa học chưa và không thực nghiệm được. Một số cao tăng đại đức giảng giải tận cùng lý lẽ: chúng ta bật kênh Hà Nội thì kênh Huế “biến mất”, và còn hàng trăm kênh khác nữa, vậy không có nghĩa kênh Huế không tồn lại. Cũng vậy, chúng ta hiện chỉ bật “kênh cõi dương”; những kênh khác thì chập chờn nhiễu sóng, có chăng chúng ta sẽ tiếp nhập những cảnh giới ấy ở kiếp sau!

Một ngày nào đó, có thể, khoa học sẽ chế tạo ra loại kính đeo vào liền nhìn thấy linh hồn, thấy được thế giới bên kia đang tồn tại trong không gian này cùng chúng ta; dĩ nhiên những cảnh giới thâm sâu vi diệu khác luôn nằm ngoài khả năng của loài người. Nhiều vị đắc đạo có thần thông song họ chẳng sử dụng, bởi ma cũng có chút xíu thần thông, sẽ khiến con người lẫn lộn ma và thánh. Mục Kiền Liên - đệ tử thần thông số một của Phật Thích Ca chịu bị đánh đến chết; Đạt Ma sơ tổ mấy lần bị đầu độc; Chúa Giêsu dang tay nhận đóng đinh trên cây Thập tự; Đức Phật thì “hòa mình” vào quy luật sinh tử dạy bài học cuối cùng: ngay cả xác thân cũng chẳng nghĩa lý để mang theo.

Người trần hết thảy đều là những con nợ. Ai sống dài lắm chỉ hơn trăm năm, bằng cái nháy mắt nơi thượng giới. Ngắn vậy mà nhiều người khất món nợ mình chưa trả, trong lúc lại muốn chắp cánh bay vào cõi thuần tịnh. Những lỗi lầm từ quá khứ riêng kiếp này đã chất chồng, nói gì đến kiếp trước, hàng ức kiếp người trần mắt thịt không thể minh giải. Tôi từng tâm niệm kiếp này đội lốt người đã quá may mắn. “Thượng đế” và nghiệp dĩ cấp cho thân người để tịnh hóa, trở về với uyên nguyên tánh giác. Trần ai cõi tạm. Ngộ ra điều này chắc đã muốn tu?; Tu, hỏi mấy ai… xuống núi.

Sống là nháp, tu là viết lại đời mình. Tu là chỗ dựa duy nhất của đời người. Ngôi nhà có cao sang đến mấy cũng chỉ che mưa nắng; quan trọng ở chỗ có nơi thanh tịnh để học Phật và đọc sách thánh hiền giá rẻ nằm lăn lóc ở những quầy sách cũ. Tu là một quá trình rũ bỏ. Loài người chỉ cao phước hơn loài vật thôi. Tổ chức Peta có lần bày 4 chiếc khay lớn đựng 4 người trần truồng nằm gọn, bọc ni lông như món ăn trong tủ lạnh siêu thị, đề “human meat”. Đấy là hình ảnh gây sốc bởi dám nhắc nhở: con người cũng là động vật! Giết chóc sẽ chiêu cảm nghiệp lực, chiêu mộ thêm oan gia trái chủ theo mình. Giữ mạng cho loài vật là góp phần giữ trọn bổn phận người, giữ phước để có một cái kết an lành cuối đời, để có được chút tư lương bước qua thế giới khác với sự chào đón của trăm vạn khó khăn không nơi nương tựa. Lời Đức Phật lúc được chép lại có 500 vị A la hán làm chứng. Lời trong Kinh Không gì chuyển hướng, Kinh Trung Bộ số 60: “Vì rằng có đời sau, nếu có quan điểm nào nói không có đời sau, thời đó là một cái thấy sai lầm. Vì rằng có đời sau, nếu ai có suy tư rằng không có đời sau, thời đó là suy nghĩ sai lầm. Vì rằng có đời sau, nếu có ai nói không có đời sau thì tự mâu thuẫn đối nghịch với các vị Alahán đã biết được có đời sau”.

Tôi bỗng nhớ văn hào F. Kafka với tác phẩm Hóa thân, tư tưởng trong đấy còn tươi nguyên, và có thể xem là lõi thép tâm linh trong tâm thức thời đại. Sự phi lý ngày xưa nghiễm nhiên chính lý trong xã hội ngày nay. Đấy là nền tảng, là cái móng quá vững khiến lâu đài văn chương của Kafka không bão tố nào quật ngã. Hóa thân cho thấy một nhà văn có tầm vóc “quá khổ”. Kafka đã khai thác quặng kim cương ở kênh thiên tài, tức ông đã mở được cảm quan nghệ thuật bằng trực giác tâm linh.

Có thể tóm tắt Hóa thân bằng câu mở đầu: “Một sáng tỉnh giấc băn khoăn, Gregor Samsa nằm trên giường thấy mình biến thành một côn trùng khổng lồ”. Độc giả đủ tưởng tượng ra được “con người” này sẽ gặp muôn vàn khó khăn và phiền phức gì. Song chung quy, thân phận của Gregor phải đối mặt với 3 điểm mà hầu như con vật nào cũng gặp: (1) - Bị xem thường: Bà giúp việc “thậm chí còn gọi anh đến gần với những lời lẽ mà hẳn nhiên bà cho là thân thiện, chẳng hạn như: “Nào, lại đây nào, con bọ hung kia!” hay “Nhìn cái con bọ hung này mà xem!”; (2) - Phải nhận đồ ăn dơ: Em gái thân yêu của Gregor sau một thời gian ngắn đã “không còn nghĩ đến việc mang vào cho anh những gì có thể làm anh hài lòng nhất, mà thay vào đó, mỗi sáng mỗi trưa, hai lần trước giờ đi làm, cô hấp tập dùng chân đẩy vào phòng anh bất cứ thức ăn nào vớ được”; (3) - Có nguy cơ bị giết: “Gregor sững sờ khi nhìn thấy kích thước vĩ đại của hai đế giày ông bố”; nếu không có sự can thiệp kịp thời của mẹ, anh đã bẹp dí.

Gregor nghiễm nhiên bị xem là loài vật gớm guốc, bẩn thỉu. Nhưng con vật đó vẫn nhìn thấy người thân ruột rà của mình, vẫn nghe và hiểu sâu sắc lời nói của người. Loài vật nằm ở tầng mà con người nếu không sống thật tốt sẽ phải trôi lăn vào đó. (Thuyết đầu thai đã được khoa học hiện đại chứng minh toàn triệt; có luận án tiến sĩ gom thâu lên tới 3 ngàn chứng cớ xác thực thuộc nhiều nước trên thế giới). Sau một đêm Gregor bị hóa thân thành con bọ hung; cũng khác gì một người tạo nghiệp ác, (sau đêm ngủ ngon) chết thì lập tức (tỉnh dậy) thấy mình đã là con vật mới mở mắt trong chính gia đình mình. Con vật thấy, nghe, hiểu mọi sự; hiểu con người đối xử thậm tệ với “đồng loại của nó” như thế nào. Thử đặt vấn đề có thể rất chủ quan: Kafka không hề nghĩ tới, nếu viết theo kiểu người chết - bị đầu thai làm vật nuôi - bị ngược đãi, bị chính con cháu làm thịt, hẳn nhiên người đọc sẽ không phục, sẽ cho nhà văn sùng tín, mượn văn chương truyền đạo gượng ép. Nhưng khi Kafka sử dụng thủ pháp phi lý, thì ông đã dựng nên một tháp ngà văn chương. Nhờ lõi thép tâm linh này, Hóa thân sẽ sống mãi trong tâm thức thời đại, nếu như những tác phẩm khác của Kaffka có nguy cơ tụt lại. Chẳng hạnVụ án dự đoán về sự phi lý, cũng là suy đồi của xã hội; nhưng khi sự suy đồi đó trở nên hiển nhiên, trở lên chai sần, thì những quan tòa sẽ nghĩ ra một “vụ án” khác để tiêu khiển. Rất nhiều nhà văn nhận sự ảnh hưởng từ Kafka. Vùng vẫy để thoát khỏi cái bóng dềnh dàng này luôn là hành động cần thiết, bức thiết và dũng cảm trước những phi lý đang ngày một phình to của xã hội loài người.

Không ai muốn kéo dài đời mình trong sự khổ não, cũng chẳng ai rút ngắn cuộc đời trong giàu sang. Nhưng, ví như tôi muốn tiêu hủy sự sống thông qua chu trình tận hưởng và gọi đó là Thiên Đường, thì tạm hiểu mình đã chết lâu lắm rồi. Tôi cũng từng sống trong cảnh địa ngục do chính mình dựng lên không hay biết. Địa ngục hiển nhiên tồn tại trên trái đất này, thiên đường cũng vậy. Thiên đường của người trần tục là một cuộc sống tràn đầy hoa thơm cỏ lạ, mỗi bước chân đều có bàn tay nâng đỡ, là cuộc phiêu du trên cánh đồng dục vọng vô biên, là niềm khát khao những nấc thang danh vọng tưởng sẽ thấu trời nếu tuổi thọ nối thêm vài kiếp. Đó là một thiên đường ảo tích trữ nghiệp khổng lồ vô hình tướng song đau khổ là sự thật. Với người tu thiên đường vụt hiện khi đài nước tự tâm phun trào trong thời nhập định. Thiên đường bung nở trong mỗi hình hài bất động với khuôn mặt thuần khiết. Thiên đường theo bước chân hành thiền và lúc người tu cúi xuống hòa vào bể khổ.

Xưa kia xứ Ấn có một hoàng tử đã che mắt không nhìn ngai vàng chói lóa, lần theo đường đạo rồi chứng Vô thượng Bồ đề. Ở Việt Nam hơn ngàn năm sau cũng có vị vua nhường lại cuộc sống không thiếu thứ gì, lên núi nương mình dưới ánh hào quang Đức Phật. Hiếm ai từng bước qua hai thiên đường như vậy và nhận ra thiên đường nào thật thiên đường nào là ảo.

Mỗi thời mỗi khác, xã hội nhân loại đang biến chuyển càng ngày li viễn với chân lý của vũ trụ. Cục vàng nằm ở đâu cũng bị moi móc, đôi khi người ta còn xới tung mồ mả tìm cho ra; Phật pháp ở trước mắt là châu ngọc lại không nhiều người để mắt. Người thấy pháp là người có duyên, tại những kiếp trước từng huân tu. Tu là một khái niệm chung cho tất cả người muốn trở lại nơi tự mình lưu đày rồi lạc lối. Ngay những người tu, ai bảo không lẫn lộn lối về? Nếu năm mươi người cùng hướng về Tây Trúc thì con đường đó vẫn là sự độc hành của một trăm dấu chân không trùng khớp. Và nếu ai đó vén được bức màn vô minh, cũng xem như đã nhìn thấy Miền Cực Lạc dẫu còn xa vời giữa mây khói mong manh.

 

Hạt của Chúa & chủng tử Phật

Những nhà thờ đạo Thiên Chúa thường được xây cao lộng, để mỗi lần bước vào ta cảm giác mình nhỏ bé. Đây là triết lý chứ không đơn thuần sự phô diễn quyền năng siêu nhiên. Nếu ta ngước mắt nhìn trời, nhất là nhìn ra vũ trụ, thì tòa kiến trúc nhắn nhủ con người vốn nhỏ bé kia thực còn khiêm tốn.

Nguyên văn câu trong kinh Hoa Nghiêm (Phật thuyết vào thời điểm mới chứng ngộ): "Ưng quán Pháp-giới tánh, Nhất thiết duy tâm tạo". (Nên quán tánh của pháp giới, tất cả do tâm tạo). Diễn rộng (để khỏi hiểu nhầm): TÂM này không phải theo nghĩa giản đơn như tâm tình, tâm tưởng... mà là bản thể của vũ trụ, như ngôn ngữ của các nhà vật lý lượng tử gọi: Trường Thống nhất, Trường Siêu dây, Trường Hợp nhất. Đã gần 1 thế kỷ, Max Plank (Nobel vật lý 1918 - thầy của A. Einstein) từng phát hiện: "Vũ trụ này vốn không có cái gọi là vật chất, vật chất thật ra là hiện tượng do ý niệm tích lũy tạo thành". Ngày nay đồng nghiệp của ông đã chứng minh một cách thuyết phục, nó trái ngược với lối suy nghĩ nhìn nhận thông thường:“Trong phần lớn vũ trụ, kể cả vật chất, là rỗng không” (Stuart Hameroff). Tuy nhiên lượng tử học mới phát hiện vũ trụ ảo do VỌNG TÂM (alaya biến hiện), còn cách khoảng rất xa với CHÂN TÂM của Phật giáo. Một cục sắt đặc, trên sự chứng nghiệm khoa học, trong nó vẫn có khoảng trống để các hạt dao động không ngừng. Nếu ta chẻ cục sắt đó ra, ra mãi, sẽ tạo nên các loại hạt như proton, neutron, electron, hạt quark, “hạt của Chúa” (Hạt Higgs, được tìm thấy vào tháng 3 năm 2013). Gần ba ngàn năm trước, Thích Ca Mâu Ni Phật đã thấu suốt những “tiểu quang tử” với cách gọi và hình ảnh biểu hiện khác nhau. Bắt đầu là Ngưu mao trần (hạt bụi ở trên đầu lông trâu); Ngưu mao trầnchia làm bảy phần sẽ được Dương mao trần (hạt bụi trên lông dê); chia làm bảy thì sẽ được Thố mao trần (hạt bụi trên lông thỏ); chia tiếp làm bảy thì thành Thủy trần (bụi trong nước), nhục nhãn không thể thấy, tức trong nước cũng có khoảng không của các hạt; Thủy trần tiếp tục chia làm bảy sẽ thành hạt Kim trần - loại hạt dao động trong cục sắt đặc ta lấy thí dụ ở trên. Kim trần phân làm bảy sẽ là Vi trần; phân tiếp làm bảy là Sắc tụ cực vi; phân tiếp làm bảy thì gọi là Cực vi chi viLân hư trần. Đây là áo mật trong kinh Hoa Nghiêm được Master ChinKung - tiến sĩ, giáo sư danh dự ở hai trường đại học danh tiếng Queensland và Griffith đưa ra giảng giải, khuyên người tin nhận giáo lý Phật pháp.

Nhỏ đến hạt Sắc tụ cực vi, chỉ bậc A la hán mới thấy được. Xét ở hạt Kim trần, Sắc tụ cực vi đã cho thấy vật chất vốn là sự giả hợp từ không. Điều này khế hợp với Bát Nhã TâmKinh: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Không - không có nghĩa là không có. Sắc - không có nghĩa là có. Cũng như lúc ta nhìn mây thấy hình người và muôn vật rõ ràng, nhưng lên tới gần sẽ thấy là sự hội tụ lượng tử. FredAlan Wolf: “Không phải vật chất sản sinh vật chất khác, nhưng chính ý tưởng, quan niệm, thông tin tạo ra vật chất. Từ góc độ Phật pháp, hết duyên, thân tứ đại (đất, nước, gió, lửa), đất trở về với đất, nước lại về với nước; nhưng “thẻ nhớ” là alaya và Phật tánh (chưa hiển lộ) thì vẫn nguyên vẹn, rồi tùy vào duyên sẽ khoác lên mình một thân/kiếp mới... Duyên cũng có vô vàn. Quy luật nhân quả vận hành trong vũ trụ mà Đức Phật phát hiện, nhân xấu tạo ra quả xấu và ngược lại. Điều này còn phụ thuộc vào duyên, giáo lý gọi “trùng trùng duyên khởi”. Nhân ác nếu chưa hội đủ duyên sẽ chưa trổ quả; có loại nhân tốt song kẻ thừa tự vẫn gặt quả xấu mọc từ nhân quá khứ. Hiểu điều này sẽ không còn thấy rằng, con người ngay lúc sinh ra (lành lặn, đui què mẻ sứt, trong gia đình giàu sang hay bần cố) là bất công. Nhiều người do cái nhìn “1 đời” sẽ không thể tin nhân quả. Nhưng, tin hay không thì quy luật đó vẫn vận hành. Giả như ai muốn bóp méo chân lý này, đúng ra họ đang tự bóp méo vận mạng, còn cái bị “bóp méo” dĩ nhiên vẫn thường hằng bất biến. John Hagelin: “Cơ học lượng tử thực sự là cuộc chơi và trình diễn thông tin, cuộc chơi và trình diễn tiềm năng, sóng thông tin, sóng tiềm năng electron. Và thật là quan trọng, thế giới tiềm năng, đó không phải là thế giới electron mà là thế giới tiềm năng electron. Nhưng bạn phải hỏi câu này: Sóng thực sự là của cái gì? Trường là gì mà có dạng như sóng? Nó có phải là đại dương không? Không, nó là đại dương vũ trụ, một đại dương thuần túy tiềm năng, một đại dương trừu tượng có tiềm năng hiện hữu, chúng tôi gọi nó là Trường Thống nhất hay Trường Siêu dây. Và đó là cái đã làm ra chúng ta”.

Con người là một dạng vật chất giả hợp (huyễn tướng). Cái tạo nên vật chất chính là ý niệm được huân tập, tích tụ trong tàng thức (alaya); lúc lìa xác theo cách gọi của đạo Nho là du hồn bồng bềnh trôi dạt. Trừ những (thần thức) người có lực tu, còn lại gọi đúng là mê hồn, mê nên không có quyền tự quyết tương lai cho kiếp kế tiếp mà tùy vào nghiệp dẫn. Dạng “vật chất” mắt trần không nhìn thấy này nhà Phật gọi chung là thầnthức (“thần thức đi đầu thai”). Còn thức mà khoa học đang bàn, họ gọi là “sóng lượng tử chức năng”, “sóng tư tưởng”, vô hình. Giáo sư Amit Goswami: "Chúng ta có thể ý thức về thế giới chỉ khi chúng ta xây dựng nền tảng của thế giới trên Thức"; "Thức là cái nó chọn lựa một vài tần số sóng cụ thể từ sóng khả năng vô hạn của Trường và tải chúng xuống não người để tạo ra kinh nghiệm toàn ảnh của nó". Theo Kinh điển, con người khi lục căn (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý) tiếp xúc với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), sẽ tạo nên trường ý niệm đem vào “so sánh” với những gì có trong tàng thức (gom thâu từ nhiều đời), nếu tương hợp với cái có trong alaya sẽ tạo nên cảm giác thích thú, bám víu; và ngược lại... Ý niệm tạo cảnh giới - là chân lý trong giáo lý nhà Phật. Vũ trụ nhận sự ảnh hưởng từ ý niệm của vô số loài trong trời đất có mối liên hệ mật thiết với nhau. Mối liên hệ vô hình này được các nhà vật lý học gọi là "tính đồng biến". Xin trích lời dẫn từ phim khoa học What the bleep do we know?: “Trong những góc nhỏ của không gian và thời gian các nhà khoa học đã khám phá một nguồn năng lượng vô tận và những bí ẩn gây chấn động. Nó cho thấy rằng tất cả chúng ta đều có mối liên hệ với nhau và cái vũ trụ vật chất bản chất lại là phi vật chất. Thời gian và không gian chỉ là những khía cạnh tạo nên tính phi vật chất”. Thượng sư Kim cang Hoàng Niệm Tổ (từng là Giáo sư vật lý đại học) trong tuyệt tác chú giải kinh Phật thuyết Đại thừaVô Lượng Thọ Trang nghiêm Thanh tịnh Bình đẳng Giác đã viết: “Ta nên biết: thời gian sanh từ chuyển động. Xét về cội gốc, chuyển động phát sanh từ ý niệm. Do vọng niệm tiếp nối nên có thời gian”. Giáo sư ChinKunglúc giảng cuốn chú giải này lại dùng hình ảnh một tấm lưới vĩ đại trong vũ trụ mà mỗi mắt lưới là một sinh mệnh. Theo đó khi cá thể đọa lạc, nó sẽ kéo mắt lưới ấy xuống, làm ảnh hưởng đến cả tấm lưới. Mới hay không cứ tại gia hay xuất gia, ai giữ tâm trong lặng chính là giữ cho “tấm lưới nhân sinh” trụ ở cõi thanh tịnh, là ân nhân của muôn loài. Hàng ngày con người thoải mái phát xuất ý niệm, không hề có một sự kiểm soát nào trừ phi họ muốn xoay chuyển đề tài hoặc không gian đột ngột thay đổi. Ngay cả khi nghỉ ngơi, vô số ý niệm tiếp tục được phóng ra. Theo khoa học ý niệm là “hạt siêu vị trí” - cùng một thời điểm có mặt ở vô vàn vị trí khác nhau. Bạn gọi điện cho tôi, nhưng thông tin ấy sẽ có khắp địa cầu, bất cứ ai có vệ tinh tần số cao đều bắt được. Hoặc nếu bạn tha thiết một lòng phát ý niệm liên tục đến tôi, tần số dao động bao trùm tận hư không chỉ trong sát na. Trường thông tin này có tên gọi khoa học là tín tức, còn danh từ Phật học là chuyển tướng của alaya. Nếu là ý niệm tiêu cực, nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến không những không gian quả địa cầu mà phủ trùm Tam giới. Nhà khí tượng học Edward Norton Lorenz nêu lên “Hiệu ứng cánh bướm” khiến giới khoa học ngạc nhiên tột độ, tuy nhiên cái nhìn này còn cạn. Cội gốc của bão tố chủ yếu phát xuất từ ý niệm xấu ác trong tâm chúng sanh. Xã hội càng phát triển, những cơn bão lại đột ngột tăng cường độ gió? Phật giáo lý giải ấy là do niệm lực xấu ác hận thù của các loài bị oan khuất đọa đày tăng lên. Dạng ý niệm ấy phát xuất từ những cái đầu lạnh, máu lạnh và trái tim băng giá cùng chuỗi hành động sau đó như khí thải độc hại, tàn hoại môi trường rừng biển sẽ là nhiên liệu chiêu cảm bão tố, sóng thần, động đất. Thế nên thiên tai, cũng chính là nhân tai

Siêu sóng từ tâm ý con người nếu ai nhận diện được cũng ở dạng thô phù. “Đã có rất nhiều nghiên cứu chứng tỏ rằng khi chúng ta bắt đầu di chuyển hay chuẩn bị nói điều gì đó, các tế bào thần kinh ở não đã thật sự hoạt động ngay cả trước khi chúng ta thật sự ý thức mình sắp làm gì” (Andrew Newberg). Khoảnh khắc trong đầu ta vụt hiện một ý tưởng, thực tế nó đã biến dạng, chuyển đoạn thành hiện thực. Như ta đang xây nhà, từ điểm phát xuất cho đến hình thành dự án thiết kế, chỉnh sửa v.v, nó trải qua vô số ý niệm vi tế; cũng như thời gian từ đơn vị giây được chia thành một phần trăm, một phần nghìn giây. Khoa học gia Joseph Dispenzaphát hiện:“Lượng thông tin vô tận não bộ xử lý trong mỗi giây cho chúng ta biết về thế giới nhiều hơn gấp bội những gì chúng ta nhận thức được. Tuy vậy mỗi phút giây chúng ta lại chìm đắm trong những trải nghiệm từ các giác quan đem lại: nhìn, ngửi, nghe, cảm giác… và thế là chúng ta chìm đắm trong thực tại của mình, chúng ta chẳng biết gì về thực tại cả và tất cả cảm nhận về cái gọi là thực tại ngoài kia đều đã được sàng lọc qua các giác quan của con người. Não bộ xử lý 400 tỷ bit thông tin trong 1 giây nhưng chúng ta chỉ nhận biết được 2000 bit”. Trong kinh Bồ Tát Xử Thai có chép cuộc đối thoại: Thế Tôn hỏi trong một niệm có mấy niệm vi tế, Bồ tát Di Lặc trả lời trong một khảy móng tay có "ba mươi hai ức trăm ngàn niệm". Dựa vào đơn vị đo lường ở mức thấp nhất thời đó, tính ra trong một giây có hàng ngàn tỉ ý niệm. Cảnh giới này chỉ bậc A la hán, Bồ tát trở lên mới bắt được. Câu “Bồ tát sợ nhân” chính là cái nhân ý niệm này. Chúng sanh không bắt được ý niệm, để ý niệm kết thành cảnh giới, tức ý niệm sai khiến thân tạo nghiệp. Bồ tát biết xóa ngay ở ý niệm vi tế, không để ý niệm đề khởi, do đó chân tay miệng sẽ không trở thành nô lệ. Dễ hình dung hơn, ta lấy máy ảnh làm thí dụ. Lúc chụp ở tốc độ chậm, nếu vật di chuyển, bức ảnh sẽ bị nhòe; còn chụp ở tốc độ nhanh, dẫu vật di chuyển ống kính vẫn bắt được rõ ràng. Viên đạn với tốc độ lên tới hàng nghìn mét trên giây mà ống kính với công nghệ nanô vẫn chụp được viên đạn (bay ra từ nòng sung) không bị nhòa; đó tạm hiểu là tâm bắt được ý niệm vi tế. Thiền chỉ chính là kiểm soát tất cả mọi ý niệm móng khởi. Quán chiếu mà không bám víu, tạm hiểu là Thiền Minh Sát. Có một dạng thiền vi diệu khác, bên Mật tông hành giả trì niệm lục tự đại minh chân ngôn Án ma ni bát di hồng(Aum mani padme hum); bên Tịnh tông trì niệm lục tự hồng danh Nam mô A Di Đà Phật. Tỉnh thức trong từng giây phút. Một khi tâm khởi ý niệm, hành giả lập tức niệm niệm nối tiếp ba câu, năm câu, mười câu kết lại thành khối khiến loạn niệm bị phân ra không có cơ hội kết tinh. Tỉ như ai đó vừa muốn chửi mắng đánh đập kẻ khác, họ lập tức trì niệm hồng danh Đức Phật, niệm câu nào tai nghe rõ câu đó (dẫu là niệm thầm), tâm và khẩu hợp nhất, ai từng thực hành thuần thục, cơn bực sẽ lắng dịu, cảnh giới xấu biến mất. Miệng niệm Phật, trì chú, tai nghe rõ từng âm tiết tức tâm tạo sóng siêu thiện lan truyền, làm lợi lạc quần sanh. Ngược lại miệng niệm tai không nghe tâm sẽ loạn. Chẳng hạn lúc ta chăm chú xem thời tiết hòng sắp xếp việc đại sự ngày mai, nhưng thời tiết qua rồi lại không có một mẩu thông tin. Chăn trâu để trâu lạc mất. Như vậy điều tối yếu của con người nằm ở Tâm, chứ không phải Thân. Niệm Phật mà tâm nghĩ tham sân si mạn, dĩ nhiên đang tạo nghiệp, chiêu dụ ma chướng. Niệm Phật tâm khẩu hợp nhất tức hành giả thời khắc đang tạo nên cảnh giới Phật an lành, công phu cao như niệm thành khối thành phiến, niệm nhất tâm, tam muội, là họ an trú trong sự tuyệt tĩnh. Ở đời, cũng như lúc ta nghe một bài hát qua loa không ấn tượng, nó là một dạng “trung tính”, còn nếu tâm ta dội lên niềm thương cảm qua âm thanh và lời ca thì lập tức tần sóng thiện ấy được cộng hưởng dao động. Xem phim đồi trụy, bạo lực, tâm “lên máu” với cảnh tượng trong phim, loại từ trường xấu này nhân lên, góp phần khiến thiên tai thêm khủng khiếp. Xem cảnh giả nhưng lại tạo nghiệp thật. Rất nhiều diễn viên nổi tiếng thế giới lãnh tội giết người, đâm xe cùng nhiều cảnh tượng ghê rợn khác; giống như họ đang “kết tinh” các trường đoạn mà họ từng đóng trong phim. Điều này theo cách gọi khoa học là tín tức (ý niệm) chuyển thành cảnh giới tướng (vật chất). Nhiều thiên tài và triết gia trở nên điên loạn hoặc tìm đến cái chết cũng vì quá tự tin sự hiểu biết hữu hạn của mình so với vô tận thế giới. Xin dẫn lời Dean Radin: “Trong môi trường này, những gì tôi nghĩ và cách tôi hành xử sẽ gây ra những tác động lớn hơn, không chỉ cho chính bản thân mà ảnh hưởng phần còn lại của cả thế giới hơn hẳn so với quan điểm trong thế giới truyền thống. Vì thế, theo cách nhìn cơ bản nhất về đạo đức và luân lý, những suy nghĩ của tôi sẽ tác động đến thế giới, vì vậy thay đổi thế giới quan là rất quan trọng”. Câu “A Di Đà Phật” như than hoạt tính (lọc nước đục thành trong), nếu được đưa vào tâm “cài đặt” thành công rồi tịnh niệm tiếp nối, sẽ có năng lực hút tất thảy bụi bặm trần ai, trả lại tánh giác vốn dĩ. Tịnh độ tông vốn rất thù thắng, thậm thâm. Cái gì vi diệu thường đơn giản, dễ hành, song chính vậy nó không dễ tin. 

Tâm lắng đọng mới tạo nên điều vi diệu cho toàn pháp giới, mà trước hết tạo nên không gian thuần thiện. Cảnh giới Niết Bàn trước hết là trạng thái tâm an lạc; tâm ấy trụ trong cõi uế trược cũng là Niết Bàn. Khoa học đã minh định lý thuyết trong kinh Phật, rằng con người tiêu hao năng lượng chủ yếu do tâm quá nhiều vọng tưởng. Do vậy nếu một vị sư ngưng bặt vọng tưởng, năng lượng trong cơ thể ít bị tiêu hao, họ sẽ chẳng cần ăn vẫn minh mẫn khỏe mạnh hàng tháng, hàng năm trời. Lạm xét về mặt y học: Bắt đầu là ý niệm về bệnh, sau đó đi khám biết mình có khối u, ý niệm về nỗi lo dồn dập, được phát liên tục khiến khối u thêm lớn và nguy hại. Người tu có định lực sẽ xé toang ý niệm về khối u bằng công khóa miên mật; rất nhiều hành giả lành bệnh nan y chỉ với việc hành trì “đơn giản” là niệm Phật. Loại âm thanh/từ trường siêu thiện này là một dạng sóng hóa giải nghiệp lực và bệnh, điều này khoa học lượng tử rất dễ chứng minh. Tác động của tập thể luôn ảnh hưởng nghiêm trọng đến cá nhân, nhất là với con bệnh. Càng nhiều người phát ý niệm vô phương cứu chữa, con bệnh càng ít cơ hội lành. Dẫu rành rành máy móc chẩn đoán về căn bệnh giai đoạn cuối, bác sĩ cũng không nên với ý niệm bệnh này hết chữa, vì như vậy nó sẽ dội ngược lại mình. Nghĩa là, khi ta phán điều xấu tệ đến với ai, thì ý niệm đó đã lưu giữ trong alaya, tương đương với việc mình tự gieo một nhân xấu cho bản thân. Mở ra niềm hy vọng trước cửa tử của bất cứ ai không bao giờ là thừa. Lý thuyết này không được thực hành sẽ thật dễ hiểu khi sác xuất bác sĩ chuyên về bệnh (nan y) nào sẽ có nguy cơ mắc bệnh đó khá cao! Từ đây có thể nhìn nhận ra mọi phương diện đời sống. Khoa học đã “giải ngộ” bí mật: “Quan sát của chúng ta tác động trực tiếp tới thế giới của ta”. Nhưng họ không tìm ra cách khiến tư tưởng tập trung, tụ lại, hay cao hơn là vắng bặt vọng tưởng, gọi theo nhà Thiền là định tâm. Điều này ngoài Phật pháp ra, không gì thay thế! Lời khai thị của một vị Hòa thượng đương thời: “Thân thể này giống như một đài phát xạ vậy, đem ý niệm chúng ta phát ra bên ngoài, đồng thời cũng là đài tiếp thu. Tin tức của toàn bộ vũ trụ, chúng ta đều nhận được, nhận được tại sao chúng ta không biết? Phiền não làm chướng ngại. Nếu phiền não nhẹ, tâm địa thanh tịnh, họ có thể tiếp thu được, càng thanh tịnh nhận được càng nhiều”. Phiền não chính là do con người tư lợi, kể cả làm thiện thì đa phần ý nghĩ phát xuất đầu tiên (và mục tiêu cuối cùng) vẫn là có lợi cho mình. Theo Duy thức (được xem là môn Tâm lý học Phật giáo): trong 52 tâm sở thì tâm sở thiện chỉ 11, tâm sở bất thiện chiếm 26; cho thấy nếu không giữ chánh niệm (tiến tới quân bình hai dạng tâm sở, rồi tâm sở thiện vượt lên xóa sạch tâm sở bất thiện), nghiễm nhiên sẽ gây tội nghiệp dẫu người ấy chưa động chân tay. Ai cũng có chân tâm (chủng tử Phật hay còn gọi hạt giống Bồ đề) bị vùi sâu trong vọng tâm. Nếu nghĩ xấu thì ý nghĩ ấy lập tức làm nhiễu loạn thời không và đó chính là nghiệp lực mạnh mẽ nhất lại không dễ được thừa nhận. William Tillerlý giải,nếu tính giải phóng lượng năng lượng tiềm tàng ở trong một nguyên tử Hydro, việc nó tạo ra vụ nổ Big Bang chỉ là chuyện cỏn con.Có thể ví ý niệm xấu như ngọn lửa hàn xì, nhìn chỉ thấy chân không nhưng nó kết tinh múi hàn sẽ khó mà gỡ, khó lòng cứu vãn. Trong nhà Phật, hành giả chuyên tu xuất thế gian, họ chỉ ủng hộ cái thiện chứ không chống cái ác, hành động này mới được gọi là chánh kiến. Tham sẽ chiêu cảm cảnh giới ngạ quỷ ở kiếp sau, sân hận chiêu cảm địa ngục, si (trước hết không tin nhân quả) sẽ chiêu cảm cảnh giới loài vật. Ai tìm cách thoát khỏi vòng cương tỏa của danh vọng tiền tài, chuyên niệm hồng danh A Di Đà Phật sẽ nắm cơ hội lên Tây phương thế giới muôn phần vượt trỗi Ta bà sau cõi uế trược này. (Các thế giới mà Đức Phật từng nêu lên giới thiệu: Hoa tạng thế giớiCực Lạc thế giới duy chân tâm tạo; Thập pháp giớiLục đạo luân hồi duy vọng tâm tạo; Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh duy "sân tâm, tham tâm, si tâm" tạo). Chớ bao giờ nghĩ con người nhỏ bé. Đức Phật từng nói trong kinh Hoa Nghiêm: “Tất cả chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng Như Lai”. Phật thấu triệt về vũ trụ. Chúng sanh nào cũng có năng lực này, chỉ do vọng tưởng quá nhiều như mặt nước gợn sóng không thể soi trăng viên mãn. Những gì phát xuất từ tâm một cá nhân thật không ngờ ảnh hưởng đến toàn vũ trụ, rồi nó trả về nghiệp hoặc phước tùy theo ý niệm thiện hay ác. Phật dạy “nhất tức nhất thiết” (một là tất cả), câu này được khoa học thực nghiệm bằng tấm ảnh cắt ra trăm mảnh, mỗi mảnh vẫn chứa nguyên hình ảnh gốc ban đầu. Hay có thể dẫn thêm lý thuyết của nhà vật lý David Bohm: Cục nam châm đập vỡ thành nhiều mảnh, mảnh nào cũng có hai cực âm và dương. Có người lại bảo, tin điều này làm gì, có ảnh hưởng gì đến cuộc sống của tôi! Đúng vậy, có thể do “biệt nghiệp” trong căn mạng nên nó chưa ảnh hưởng đến đời sống của họ lúc này và trong đời này, nhưng đã ảnh hưởng đến toàn vũ trụ. Rồi lúc phước tồn lưu trong mạng bị họ tiêu xài phung phí, dung nhan xuống cấp, thân thể suy kiệt, ấy là lúc nghiệp tìm đến.

Có lẽ đến một lúc khoa học sẽ sáng chế ra loại máy soi chiếu được mọi ý nghĩ khởi sinh trong đầu chúng ra rồi khuếch đại thành nội dung in ra giấy, và từ đó người ta sẽ đo được mức độ của ý niệm làm ô nhiễm thời không, làm biến hoại từ trường trái đất khiến chiêu cảm thiên tai như thế nào. Điều này không khó với khoa học hiện đại, và đây là một tất yếu, sự tất yếu của chu trình “đi xuống” của nền văn minh kỹ trị theo quy luật thành trụ hoại không. Chẳng hạn ý niệm trong một cuộc rượu, trong sòng bài, trong quán game, trong những nơi công cộng, ở những sô diễn hay đó là trong một gia đình, trong phòng riêng của hai người với hai sở thích khác nhau, giữa người tu và phàm nhân, không gian ở chùa chiền v.v, sẽ cho ra kết quả về sự ô nhiễm thời không như thế nào, có tác động như thế nào đến cuộc sống và thọ mạng… có vậy người ta mới thừa nhận sự đóng góp của Phật pháp và người hành Phật pháp để có được tâm thanh tịnh khiến cho không gian nơi họ cư trú được thanh tịnh.

Khi khoa học khám phá ý niệm tạo cảnh giới, chân lý tối thượng bao trùm bởi mê tín và thần quyền lên Đức Phật được phần nào gỡ bỏ. Đạo Phật xét ở cội gốc, một tí cũng chẳng dính đến tôn giáo. Những ai ngày nay hiểu và hành đúng giáo lý của Ngài cũng thấy rõ điều này. Từ lâu ngay cả danh từ tôn giáo cũng bị người đời hiểu lệch. Một vị cao tăng giảng rõ nguyên ủy của từ này gồm những nghĩa: Giáo dục điều trọng yếu nhất; Giáo huấn điều tôn quý nhất; Giáo hóa điều chánh yếu nhất (chánh ở đây là không ). Tiếng Pháp chữ tôn giáo religion (tiếng Anh cũng từ này) hẳn có nguồn với động từ relier, nghĩa là nối liền, kết nối, hợp nhất v.v, chẳng hề liên quan đến thần thánh. Mở Kinh Phật ra toàn thầy giáo dạy học trò. Thích Ca Mâu Ni Phật đã gửi đến xã hội hiện đại thông điệp trọng yếu về giáo dục: “Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong Kinh điển hay sách vở; chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết”. Ngài muốn mọi người hãy áp dụng sự học vào thực tế rồi chứng nghiệm; như cách mà khoa học đang làm.

Khoa học lượng tử hé lộ chân tướng vũ trụ, cũng là điều Đức Phật nhìn thấy hàng ngàn năm trước. Đó là sự gặp gỡ giữa Phật và các nhà khoa học. Dẫu vậy, cái biết của Phật dựa trên sự chứng ngộ, còn cái biết của khoa học thông qua tri kiến. Một bên là chân lý hiện lên trong Tâm thanh khiết (thấy Tánh), một bên thông qua luận giải và máy móc. Sự biết của một số ít nhà khoa học và các bậc tri thức trên thế giới cũng là sự biết của rất nhiều những người tu hành theo Chánh pháp (dẫu chưa đắc Đạo). Còn sự biết của Phật chỉ có thể có ở những vị chứng quả thánh bên Tiểu thừa, tức từ quả Tu đà hoàn lên đến A la hán, và hàng Bồ tát bên Đại thừa. Kinh Kim Cang có câu: “Nhất thiết pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh”. Ngày nay giới khoa học có cụm từ tương ưng gần như trùng khít: “Vũ trụ toàn ảnh”, tức toàn thể vật chất đều là sự phóng chiếu cái thật từ một alaya tổng thể. "Thực tại hữu hình của cuộc sống đời thường của chúng ta, thực sự giống như một toàn ảnh. Phía dưới nó là một trật tự sâu hơn của hiện hữu, một mức độ rộng lớn và cơ bản hơn của thực tại, nó làm phát sinh tất cả sự vật và hiện tượng của thế giới vật chất trong cách thức rất giống một cuốn phim toàn ảnh sản sinh ra một hình toàn ảnh" (David Bohm). Như thật. Ai từng xem cổ vật qua công nghệ 3D sẽ biết: người ta chiếu vật thật ra hình ảnh, nếu không sờ tay vào không ai nghĩ đó là ảnh. Vũ trụ này cũng vậy, nó được chiếu ra từ vọng tâm. Cái biết của Phật đã hoàn toàn ra khỏi khổ não luân hồi; cái biết của khoa học vẫn nằm trong lục đạo; muốn được an lạc họ phải quay lại từ đầu trên đường Đạo, từ con số không tròn trĩnh! Hãy thử hỏi, nếu nhân loại thọ trì được 50% trong 5 giới Đức Phật chế ra (không: sát, trộm, dâm, dối, rượu), có phải đã là một xã hội văn minh lý tưởng? Một giới sát thôi, nếu trẻ em từ nhỏ đã được dạy không sát sanh và hãy yêu thương loài vật; đến loài vật nó không hại, lấy gì hại người và lấy cội gốc ở đâu để sanh tâm chiến tranh? Nhân quả là điều cần yếu giáo dục đối với con người, giáo dục ngay từ trong thai nhi. Bởi nhân quả là chân lý tối thượng thường hằng bất biến. Dẫu trái đất có đi đến hủy diệt chăng nữa thì con người vẫn luôn bị chi phối bởi nhân quả. Những giới Đức Phật chế ra vốn nhằm giữ gìn thọ mạng và huệ mạng cho con người, nhưng chúng ta tưởng đó là rào cản của tự do nên tìm cách phá rào. Giới chính là trí tuệ. Đắc giới là đắc trí tuệ để ân hưởng được điều vi diệu nằm ngoài sự hiểu thế gian. Giữ giới chính là gìn giữ phước mạng cho chính mình. Nhìn lại ở Y học, thực ra bệnh nan y đã được tìm ra nguyên lý hoạt động của tế bào xấu ác và phương pháp trị hoàn hảo từ cả trăm năm trước theo phương pháp thực dưỡng rồi; nhưng thực tế mà nói chúng ta không làm được; vì đa phần chúng ta vướng bệnh thèm ăn thèm uống, mà những thứ thèm đó là thức ăn của tế bào ung thư! Để thấy khi chúng ta bước đi tìm chân lý, là đã gạt chân lý qua một bên. Con người có phần tâm linh/tinh thần, có khi chiếm 90%; và phần này bị chi phối bởi nghiệp; chúng ta không hiểu nghiệp và hiểu tâm linh, sao dễ dàng chữa lành bệnh được. Chúng ta chỉ chữa một phần con người mình sao có thể lành?

Phật có 84 ngàn pháp môn nhằm hợp với căn cơ từng người nhưng cùng mục đích khôi phục, tìm lại bổn tánh; là trạng thái tâm vắng bặt vọng tưởng, đạt định, sinh trí huệ, giải thoát khỏi sanh tử. Pháp môn vốn hợp căn, song nếu chiếu theo “di chúc” của Phật, thì thời nay pháp dễ thành tựu nhất là Tịnh độ tông, còn gọi là pháp môn Niệm Phật (Thời mạt Pháp, Tịnh độ thành tựu). Chiếu theo khoa học, đây là con đường sáng nhất, ngắn nhất đưa mỗi vận mạng đến với Chân Lý Tối Thượng. Một vị cao tăng dùng hai ngọn đèn làm thí dụ, ngọn đèn của Đức Phật sáng chói và ngọn đèn phàm phu tắt lịm. Học Phật là làm sao dùng ánh sáng từ ngọn đèn Đức Phật thắp sáng ngọn đèn của mình, chứ không phải chúi đầu dùi mài kinh sử đến độ hỏi đâu biết đó nhưng tuyệt không có công phu hành Pháp, ấy là học Thiền mà không tọa thiền, học Tịnh lại không niệm Phật, học Mật cũng không trì chú; công phu ít cũng dăm năm trở lên và nhận thấy rõ lợi ích mới có thể bàn đến, còn không chỉ là lời nói suông sáo rỗng.

Con người hiểu ở nghĩa vật chất, đã là một bộ máy hoàn thiện. Dẫu vậy nếu một ngày dần tàn hoại, liệu có ai hy vọng về một tương lai khác thông qua “vật chất, năng lượng, tín tức” - là 3 hiện tượng duy nhất của vũ trụ được các nhà khoa học bước đầu phát hiện, tương đương với 3 tế tướng của alaya thức trong Phật pháp, gồm “cảnh giới tướng, nghiệp tướng, chuyển tướng”. Ngước đầu nhìn Phật là dõi theo “ngón tay chỉ trăng”, mới là Phật học; cúi đầu chiêm nghiệm và sống với tâm thuần thiện để chạm đến bổn tánh mới là học Phật. Hai sự này cách nhau cả đại dương.

----------------------

Những nhà khoa học đã trích dẫn trong bài viết:

 

John Hagelin (Ph.D): Tiến sĩ, nhà Vật lý lượng tử; Giáo sư vật lý Đại học Maharishi; Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Quốc gia toàn cầu của hòa bình thế giới.

Stuart Hameroff: Bác sĩ, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu ý thức tại Đại học Arizona.

Andrew Newberg (Ph.D): Tiến sĩ, Giám đốc Trung tâm Thần học và Khoa học thần kinh, Đại học Pensylvania.

Dean Radin (Ph.D): Tiến sĩ, Giám đốc của viện Khoa học thần trí (Noetic), California; Giáo sư Trường Tốt nghiệp Saybrook, San Francisco.

William Tiller (Ph.D): Tiến sĩ, Giáo sư danh dự đại học Stanford.

Fred Alan Wolf (Ph.D): Tiến sĩ Vật lý lý thuyết tại UCLA; tác giả "Ứng dụng Bước nhảy lượng tử và Vũ trụ song song".

Amit Goswami: Giáo sư danh dự môn Vật lý lý thuyết tại đại học Oregon; học giả lão thành cơ hữu tại Viện Khoa học Tâm linh.

Joseph Dispenza (D.C): Bác sĩ chỉnh hình học tại Đại học Life ở Atlanta, Georgia.

David Bohm (Ph.D): Tiến sĩ, Giáo sư Đại học Princeton, phát triển lý thuyết lượng tử mang tên De Broglie-Bohm.

 

Học Phật từ trong thai tạng

Phật vốn xem thể tánh của mình đồng đẳng như bao chúng sinh. Phật không cho lời mình là khuôn vàng thước ngọc mà đòi hỏi người nghe phải tự chứng kinh điển.

Thiền sư Hắc Thủy Thừa Cảnh bên Trung Hoa có hai câu thơ tuyệt cú: “Rổng rinh vô hạn trùm trời đất/ Ẩn hiện sương mù nắng Phật lên” (Quách nhiên thản đấng châu sa giới/ Trước vụ tiềm dung Phật nhật huy). Thi nhãn nằm ở “nắng Phật”; ý của ngài: “Đất lớn che không hết, mặt trời ấy lồ lộ khắp mọi nơi”. Phật pháp vô biên trùm khắp cõi nhân gian, không gì không bao hàm song không phải khẳng định sự cao vời mà thấm nhuần ánh sáng đến mọi ngách tối thế gian. Đạo Phật chính là phụng sự. Thế nên bảo đạo Phật chối bỏ, xa lánh, phủ nhận nhân gian là hết sức sai lạc! Lời đúc kết vàng ròng của giáo sư lỗi lạc Phương Đông Mỹ: “Học Phật là sự thọ hưởng tối cao của đời người”.

Đạo Phật, và cả khoa học ngày nay cũng thừa nhận: con người được cấu thành từ vật chất (thân xác, sự dung hợp của tứ đại) và phi vật chất (tâm, ý/thức...). Một hành động của thân bao giờ cũng xuất phát từ tâm (ý) rồi mới dẫn lên trí, trí sẽ phát lệnh chân tay miệng tạo tác. Một câu trong Đại học: “Bậc quân tử nhất định phải khiến cho ý niệm của bản thân mình được chân thành”. Con người, nhất là những người đắc quả bây giờ là chu trình tiếp nối các đời trước, mọi “dữ liệu” được tồn lưu ở thức thứ tám alaya. Và, chỉ tính trong hiền kiếp này, trước Phật đã có 3 vị Phật xuất thế… Sau Thích Ca Mâu Ni Phật, theo kinh Thủ Lăng Nghiêm: hiện nay tuổi thọ của loài người ở trong kiếp giảm, khi giảm xuống còn 10 năm rồi lên đến 84000 tuổi, thì Phật Di Lặc sẽ xuất hiện tiếp tục khẳng định và hoằng truyền Kinh điển.

Đạo Phật là nhằm tu Thân. Tu để sống tốt hơn trong kiếp này và cứu cánh hướng tới Niết bàn. Đạo Phật là con đường giác ngộ đưa chúng sanh ra khỏi lục đạo, vĩnh viễn thoát khổ. Hễ chừng nào còn luân hồi, nguy cơ vào ba đường ác thường nhiều hơn ba nẻo thiện; phần Phật thuyết về đạo hạnh làm người có thể gọi là Triết lý Nhân sinh. Con người trang bị các triết lý khác rồi mới quay trở lại trang bị triết lý nhân sinh là vòng vèo, nhiều khi lạc mất đường về rồi biết đâu chẳng còn thời gian? Phật nói “Biển khổ mênh mông quay đầu là bến”; đời biến thành câu thông dụng "Quay đầu là bờ" để chỉ người sai lầm, sớm tỉnh ngộ viết lại cuộc đời.

Đạo làm người ai không trọng chữ Hiếu. Nàng Kiều trọng hiếu mới bán mình vào lầu xanh chuộc cha. Cổ nhân dạy: “Vạn ác dâm làm đầu, trăm thiện hiếu trước tiên”. Từ Nho giáo đến đạo làm người ngày nay chữ Hiếu vẫn luôn được tính điểm cao nhất. Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật dạy Hoàng hậu Vi Đề Hy (mẹ vua A Xà Thế) chánh nhân vãn sanh là Tịnh nghiệp tam phước, còn là chánh nhân của mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai. Câu đầu tiên trong Tịnh nghiệp tam phước: “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng”; chữ hiếu vẫn làm đầu. Trong nhiều kinh Phật khác đều tôn hiếu đạo; Địa Tạng kinh còn gọi với một tên khác là Hiếu kinh. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, một trong ba người được xếp hàng thánh nhân của thế kỷ thứ 20 (cùng với thi hào Tagore và Mahatma Gandhi) - "bậc thầy tâm linh vĩ đại của nhân loại" đã nói: "Chúng ta sanh ra và tái sanh trong vô số kiếp. Có thể mỗi chúng sanh đã từng là cha mẹ của chúng ta trong một đời này hay đời khác". KinhĐại báo phụ mẫu trọng ân: Một lần Đức Phật dừng lại bên đống xương khô và lạy, đệ tử hỏi nguyên do, Ngài nói đây là cha mẹ ta các đời trước; rồi giảng, xương to và trắng là của người cha, xương nhỏ và thâm là đàn bà bởi mẹ đã vắt kiệt sữa và máu cho con...

Đọc kinh này ai không nước mắt thấm vào trong!

Ở đời thấy người tu rời đại gia đình, rời cha mẹ lên chùa hay nương tịnh thất riêng cho là... bất hiếu. Người tu họ hiểu nếu không thành tựu nghiệp đạo, sẽ không thể giúp ai có thân người ở kiếp sau nói chi về nước Phật. Phần lớn cha mẹ đều để lại gia sản (khổng lồ), nhưng khi qua cõi Thân trung ấm (bardo) chịu nghiệp quả từ việc kiếm số tiền đó cho con, mong con trích ra một phần trăm làm thiện hồi hướng cho mình - là điều hoang tưởng. Bởi, con đâu có học Phật, đâu biết cha mẹ cần con tạo công đức chứ không phải là đồ hàng mã! Đạo Nho được đề cao xưa nay cũng nhờ một chữ Hiếu to đùng treo nơi trịnh trọng mỗi gia thất. Tinh thần hiếu đễ ấy nếu soi vào Đạo Phật khiêm tốn hơn nhiều. Ca dao từng đúc kết: “Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu”. Chẳng những thờ, kính, đạo Phật còn có hẳn mùa Vu lan báo hiếu. Thờ, kính mới chỉ ở đời này, mà chưa chắc đã trọn. Đạo Phật còn thôi thúc mỗi người tu tinh tấn; nếu mình chưa có nổi tâm cầu giải thoát thì mong chi báo hiếu mẹ cha nơi cõi khác. Hiếu trần ai mới là hiếu ở cấp độ thấp. Hiếu trần ai với thứ vật chất thô lậu thảy gần như vô nghĩa ở bên kia núi. Nhiều người bây giờ lớn lên trôi tuột theo dòng đời kiếm tiền dung dưỡng xác thân; tưởng về xây cho cha mẹ ngôi nhà lớn, thuê người cung phụng hàng ngày của ngon vật lạ - là hiếu. Thử nhìn nhận, một người mang danh đạo đức song tới đâu cũng bị người ta chửi mắng (tất nhiên là chửi mắng có lý do), ấy chẳng phải Đại Bất Hiếu? Thậm chí còn bất nghĩa với tổ tông dòng tộc. Ngược lại, một người sống chân thành, luôn giúp đỡ động viên mọi người không phân biệt thân sơ..., chẳng phải cha mẹ nở mày nở mặt, chẳng phải là Đại Hiếu. Mục Kiền Liên - người đệ tử đắc quả, thần thông bậc nhất của Phật nhờ nương vào mười phương chư tăng nhất tâm chú nguyện mới cứu mẹ thoát cảnh bưng chậu máu đứng trên bàn chông dưới địa ngục. Nên mới có câu niệm: “Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát ma ha tát”.

Để có Hiếu và Đạo, ngoài “nhân chi sơ tánh bổn thiện”, đòi hỏi mỗi người phải tu, tức thanh tẩy thân tâm. Trước hết lạm bàn đến câu nói của Mạnh Tử ở phương diện Đạo Phật. Tam tự kinh: “Nhân chi sơ tánh bổn thiện”. Pháp ngữ của Thiền sư Sùng Sơn đời thứ 78 từ Đức Phật Thích Ca (01.08.1927 - 30.11.2004): “Thân các bạn khác nhau, nhưng tâm các bạn giống nhau.” Kinh Phật thuyết: “Viên mãn bồ đề vi vô sở đắc”, nghĩa là tất cả có trong tự tánh; tu là khôi phục (nới rộng) lượng tâm. Hay: “Chúng sanh và Phật vốn không hai”; “Tất cả chúng sanh vốn là Phật” (Kinh Hoa Nghiêm). Bộ kinh quan trọn nhất trong vườn kinh điển Đại Thừa là Pháp Hoa cũng viết: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” (Chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật). Một đứa trẻ sinh ra tâm như tờ giấy trắng. Lúc tích lũy nghiệp chưa thức giấc, nếu gặp môi trường tốt (lớn lên ở chùa từ nhỏ hoặc trong gia đình mộ đạo, Phật tính sẽ nẩy mầm. Còn gặp môi trường không tốt, các chủng tử sẽ bám rễ vào vỏ bọc vô minh. Trẻ em đương thời mấy tuổi đầu đã không thể rời máy tính và thích chơi di động, tâm vọng loạn với muôn trò gồm cả vũ khí hiện đại tối tân. Mười đứa trẻ đang ăn thứ gì, ta thử ngửa tay xin chúng miếng nhỏ, bao đứa sẽ cho, bao đứa khư khư giữ chặt và hét lên? Có thể những kiểu như vậy rất bình thường, nhưng nếu so với bàn cân của Đạo thì thật nghiêm trọng. Nếu cha mẹ từ nhỏ dạy trẻ cho thì lớn lên, trừ hao chí ít chúng cũng không lấy của ai. Khoa học ngày nay cùng lý với Phật pháp, rằng thông minh trí tuệ được sinh ra từ nền tảng Hiếu kính, Đạo đức, Từ bi. Ngày xưa cha mẹ thường thuần thục rồi làm mẫu mực cho con học theo Đệ Tử Quy, nên con cái lợi lạc cả 3 nền tảng ấy. Phương pháp giáo dục này cũng khá đơn giản, mà hiệu quả không ngờ! Cứ vài ngày cha mẹ lại cùng con học một điều, thuộc rồi hành, hành nhuyễn mới học tiếp câu khác. Lúc cha mẹ vừa thấy con đang không nghe lời chẳng hạn, liền nhẹ nhàng hỏi "cha mẹ gọi... thì sao con nhỉ?"; và nó sẽ đọc ra "Cha mẹ gọi, lập tức vâng/ Cha mẹ sai, phải làm ngay". Lúc đã thực hành nhuyễn, câu đầu tiên trong Đệ Tử Quy này trở thành đức tính, rất hiệu quả mà cha mẹ chẳng nhọc công gì với con cả; bởi chính lúc đứa trẻ đọc ra là tự câu đó đã giáo huấn nó, cộng với “niệm lực” thánh nhân này sẽ tự có sức nhiếp phục đứa trẻ. Hay những câu khác trong Đệ Tử Quy: Cha mẹ dạy, cung kính nghe/ Cha mẹ trách, phải thừa nhận; Thân bị thương, cha mẹ lo/ Đức hạnh kém, cha mẹ tủi; Cha mẹ bịnh, nếm thuốc trước/ Thường chăm sóc, không lìa khỏi; Khi nói năng, trước tín nhiệm/ Không lừa gạt, không nói dối; Phàm là người, đều phải thương/ Chung một cõi, một địa cầu”, v.v. Các bậc Thánh là những người thấy đến ý nghĩ của ta vừa khởi sinh trong tâm, các Ngài thông minh gấp triệu lần người phàm chúng ta nên tuân theo lời họ mà dạy con dĩ nhiên lợi lạc vô biên. Song cha mẹ nào kiên trì dạy con như vậy khi chính họ không làm được, thế nên sự dạy con cũng ngang bằng tội lừa dối, đứa trẻ sớm muộn cũng thấy nên sự tuân phục của nó chỉ bằng mặt mà không bằng lòng; những thói hư của cha mẹ lớn lên nó sẽ học theo cho đúng như vậy, thậm chí còn vượt xa. Thật ra “dạy con từ thuở lên ba” đã là muộn. Thánh nhân xưa khuyên dạy từ trong thai nhi, thai giáo. Điều này người đời nay khó tin, may có khoa học chứng minh mới vớt vát được phần nào. Dạy con từ trong thai là trọng yếu. Bởi thai nhi biết ghi nhận, sự ghi nhận sâu sắc nhất, ấn tượng nhất và gần như nó tạo nên lực làm nền, thôi thúc nó trọn đời. Thai nhi được nghe thiện, tánh thiện vốn sẵn trong nó sẽ được khai dẫn. Quý nhất là thường nghe nhạc đạo, nghe pháp, nghe niệm Phật, nghe giảng kinh; đây là chủng tử khai tuệ giác và từ bi, sẽ khiến đứa trẻ từ trong thai đã học được chân lý tối thượng, rất khó lầm lạc và khổ não về sau. Do chậm lụt sở kiến mà đứa con khởi ý học Phật hay hơn thế là muốn lên chùa, cha mẹ nghĩ mất con bèn giằng lại bằng được. Thật muôn trùng lầm lẫn! Bởi họ không biết rằng Phật là thầy, thầy của ba cõi khắp trời người; là Đức bổn sư mà đến những nhà khoa học và triết gia vĩ đại nhất cũng bái Ngài làm thầy.

Kinh Hoa Nghiêm: “Tất cả chúng sanh đều có trí huệ, đức tướng Như Lai”; “Như tâm, Phật cũng vậy - Như Phật, chúng sanh đồng - Tâm, Phật, và chúng sanh - Cả ba không sai khác”. Điều cốt yếu là mạch ngầm ấy có được khơi dòng. Một đứa trẻ lên ba đã thấy chúng bắt đầu nhiễm ô, huống hồ ba chục tuổi. Người tu tẩy vết nhơ ăn sâu cho đến khi tâm nguyên sơ trong trắng như… đứa trẻ mới hầu mong thấy tánh. Trong Đạo Đức kinh Lão Tử luận: “Trở về ngây thơ, đức vĩnh viễn không sai lạc”. Nước luôn được lấy để minh thị về Phật và chúng sanh không hai khác. Chân tâm tự tánh là Phật (nước trong), phàm là mê lầm chấp trước (nước đục). Nước nào cũng có thể lọc nên trong. Điều quan trọng là người ta có muốn/chịu lọc, bằng cách hành theo trước nhất là mười điều thiện.

Thời đại bây giờ để sống tốt phải vùng vẫy, phải thiệt thòi, khổ và khiêm ái. Ấy là tu thân. “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bổn”. (Từ vua đến dân đều phải lấy việc tu thân làm gốc). Phật giảng: “Thắng một vạn quân không bằng chiến thắng bản thân”. Ai ai đều tự tu để cứu mình. Em trai của Phật là A Nan cũng như bao đồ môn khác, việc tu tập phải tự nương ở chính mình. Trên dòng cuồng lưu của nghiệp thức, nếu con người không biết đời thọ khổ, không tin tâm vô thường, pháp vô ngã, sẽ bị cuốn trôi đến tận cuối nguồn dâu bể. Cuộc đời - dòng chảy không ngừng của nghiệp thức ấy hòa vào máu huyết căn mạng. Đức Phật nói: “Dòng nước sông Hằng phút trước và phút sau đã khác nhau. Ta của ngày hôm qua đã khác với ta của ngày hôm nay”; thật gần với một câu được xếp hàng biện chứng kinh điển của Héraclitos: "Không ai tắm hai lần trên một dòng sông". Tu thân là bơi ngược dòng nghiệp thức, chỉ cần lơ đãng buông lơi tỉnh thức, phước đức sẽ sụt giảm. Ngạn ngữ Pháp: “Đừng ngủ quên trên chiến thắng”. Trong giấc thiền có từ “hôn trầm”; cần phải “mở to mắt ra”. Đạt được chút Phật quả nhỏ xíu, đã tưởng mình bậc giác ngộ. Hư Vân thiền sư từng căn dặn lúc tham thiền: “Ngay cả thấy Phật Thích Ca đến dùng tay xoa đầu thọ ký, quý vị cũng chớ để ý đến, hay khởi tâm vui mừng”. “Không khởi tâm thánh, tức gọi là cảnh giới lành” (Kinh Lăng Nghiêm).

Nhân sinh triết học của Lão Tử khuyên người nên “đem thân vì thiên hạ”. Người tu chân chính trong cõi Phật không ai tu cho mình cả. Ước nguyện của họ chính là Đắc Đạo - Tái Sinh - Giảng Pháp; vòng tròn ấy liên tục từ kiếp này đến kiếp khác, như Đạt Lai Lạt Ma với 14 lần tái sinh và thật nhiều Bồ tát nữa. Phật Thích Ca thành Phật từ vô thỉ. Từ Bồ tát lên Phật không xa, song họ vẫn muốn là Bồ tát để trở lại cõi nhân hóa độ. Phật Địa Tạng giương cao tấm bảng: “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật” (Địa ngục chưa trống, tôi thề không thành Phật). Hiểu thô nhất là chúng sanh chưa hết đau khổ, Bồ tát chưa hưởng niềm vui.

Để thấy người tu nếu chưa giúp được gì ít ra cũng không đụng chạm đến quyền lợi của ai, không phiền nhiễu. Phật dặn các Thiện nam tử trong lúc giảng Kinh Vô Tự Bảo Khiếp: “Điều gì mà Bồ tát không muốn đến với mình chớ nên bảo người khác làm”. Khổng Tử: “Việc gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác” (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhơn). Những điều mình không muốn ở đây là sự chán ghét, khó chịu hiển nhiên và có tính phổ quát. Một bữa tiệc thịnh soạn thì khoai, sắn, cháo trắng là những món mình và người khác không ưa. Gần hơn, trong bữa cơm có vài món (dẫu ngon) song đã ngán, ta mới nảy ý bưng qua cho hàng xóm nghèo để lấy lòng. Thực tế hành động này tạo nghiệp. Miếng ăn ấy đến chiều sẽ phải đổ cho vật; còn không cho vật nhà giàu sẽ đổ vào hố rác - vô tình gây nghiệp… Lý ra nhà giàu phải cảm ơn người nghèo thay vì tự đắc mình người tốt. Bởi nhờ có nhà nghèo, nhà giàu mới khởi được lòng thương hại, mới phát tâm bố thí, nhờ đó nhà giàu được phước, góp phần tăng thọ mạng và tẩy trừ chướng nạn. Phật dặn: “Các vị nên biết điều không muốn đến với mình, chớ nên cho người khác”. Là con của Phật sao có thể đẩy khó khăn về người khác; ngược lại nhận về mình cái dở, cái khó, cái nặng nề ô uế. Phật Thích Ca Mâu Ni độ người đầu tiên là Kiều Trần Như vốn đời trước đã “lăng trì” mình, để… trả ơn.

Ra đường gặp người dưng giúp đỡ ta còn hơn cả anh em ruột rà, không hay ấy là ân nhân đời trước. Biết khiêm nhu, chớ khoe khoang việc thiện (ngoại trừ lấy để làm gương), phước của họ sẽ cấp số nhân. Quá coi trọng phần vật chất ắt bỏ quên phần tinh thần. Cõi trần được tạo dựng trên nền vật chất, con người bởi thế chỉ tin những gì hiện hữu. Gửi một trăm ngàn vào ngân hàng sẽ còn đó, cũng số tiền ấy “gửi” vào việc thiện chúng ta ngỡ mất. Việc khoa học sáng chế ra máy thu âm và hình ảnh quá khứ đã phần nào cho thấy không gì biến mất khỏi không gian này. Nghiệp thức là chiếc camera ghi lại tất cả ý nghĩ và hành động của mỗi người để từ đó tạo nên thân gì ở kiếp khác. Sự khoe khoang hãnh diện sẽ trừ phần trăm số đức ta làm được. Người đời thường sợ thiên hạ không biết đến thiện nghiệp của mình nên mới vậy, đó là lối suy nghĩ khủng hoảng thừa, thiểu trí. Kinh Hoa Nghiêm chép, đại ý, nếu các quốc độ đều nghiền ra bụi thì Bồ tát cũng đếm được. Chính vậy trong Kinh Dịch, quẻ Khiêm được xếp tốt nhất, và bao giờ cũng thuộc hàng đầu đối với người muốn nghiên cứu. Nhẫn được đề cao trong nghiệp tu. Người có sẵn Khiêm nhu từ nhỏ khá hiếm; người sơ cơ tu Khiêm, thì phải bước qua Nhẫn. Chữ Nhẫn ở trên có bộ Đao, dưới là Tâm; động niệm (ác) thì dao rơi xuống xuyên tim! Nhẫn trong Đạo Phật có thể ví như hạnh của Đất (hiền như đất), người dội nước sạch và cũng có kẻ hắt nước bẩn vào.

Học trò có lần hỏi chết là gì, Khổng Tử dạy: “Chưa hiểu cuộc sống làm sao hiểu được cái chết”. Câu này bàn sâu, là một hạn chế. Bàn nghĩa gần là ưu việt. Kinh Phật thường nói về luân hồi kiếp và các cõi thánh cao thanh, tuy điều trọng yếu tu tập phải luôn an trú trong hiện tại. Tu lại tưởng về quá khứ vọng về vị lai dễ lạc vào ma đạo. Người tu Thiền hay Tịnh độ, đích vẫn là giữ tâm tịch tịnh, không phóng tạp niệm. Tạp niệm quá dày quá đậm sẽ tạo nên cảnh giới để ta thọ nhận. Chỉ ý niệm thôi, chưa nói biến thành hành động, ý niệm thiện hay bất thiện sẽ hướng cuộc đời chúng ta về phía đó.

Tận kiếp này ai rồi cũng phải qua con sông rộng, ở đấy không một con đò nào, cũng không ai đủ sức bơi, vấn đề là phải chuẩn bị cái phao. Chọn trong những pháp môn được Phật truyền giảng, xem điều kiện và duyên mình hợp với Mật, Thiền hay Tịnh độ, hiển giáo hay mật giáo; từng ngày một bơm khí vào phao; phao căng thì cái chết trở nên nhẹ tựa lông hồng. Đức như “tiền”, nếu luôn sẵn tiền trong túi chẳng ai còn lo dạt về đâu; dĩ nhiên phải rời kiếp này, tiền là rác, Đức mới là giấy thông hành.

Tôi và bạn sinh ra được gọi con người. Nhưng nền tảng làm người nhiều lúc bạn và tôi chưa hẳn có, nên cái thân của chúng ta nhiều lúc đứng trên sự ảo tưởng không hay. Đạo Phật rốt ráo và đầy biện chứng giúp mỗi người có thể tạo chỗ đứng vững vàng cho mình trong đời này và đời sau. Đạo Phật đối với đời này không một tông phái nào đầy đủ và cặn kẽ hơn, đã chỉnh lại toàn bộ thân tâm kiếp người mà bất cứ đạo học nào cũng chỉ là nội hàm. Tâm bao giờ cũng cao hơn Trí. Trí là thuyền để vượt sông ô trược cập bờ tâm nhiên. Kinh Thủ Lăng Nghiêm có nhắc đến quả vị Vô Học tức đoạn trừ vô minh đạt tối thượng Bát nhã trí huệ. Thiểu trí dĩ nhiên khó tiếp cận tri thức; nhưng bát nhã vốn “vô tri”, song “vô sở bất tri” - chẳng gì không thấu triệt.

 

Phần II

TÂM THỨC MÙ LÒA

 

Đốm lửa soi tâm

Tôi nhớ mình có quen một người. Phần cốt lõi nhất ông lặp lại khá dày trong nhiều lần giảng pháp với từng nội dung khác nhau, ấy là thời gian. Ông giảng cho tôi nghe (có thể từ trong... giấc mơ): 

Nếu chúng ta giải quyết gọn ghẽ thời gian, mọi sự sẽ thay đổi; cái nhìn về tâm linh của bạn cũng thay đổi, đó mới chính là bước tiến bộ trong mỗi phần người. Sở dĩ nhiều người không muốn chạm vào miền tâm linh vì họ thấy cuộc đời này dài mấy trăm năm, nên sống và hưởng thụ đã, gần cuối đời chạm tay vào miền tâm linh cũng chưa muộn. Ai đảm bảo cho việc bạn sẽ sống đến trăm tuổi. Ai đảm bảo, rằng bạn sẽ không rời khỏi không gian này khi chưa hiểu đủ về đời sống vật chất. Tại sao có những đứa trẻ mới mở mắt chào ánh sáng đã phải quay lại nơi nó xuất phát cách 9 tháng mười ngày trước đó? Tại sao bạn không dựa vào linh cảm và trực giác của bạn - đấy là kho tư liệu vô tận mà bạn đã tích lũy từ rất nhiều kiếp, và nó đã bật mở nhiều lần vào những lúc bộ óc của bạn mệt lả? Những phát minh, những câu thơ đoạn nhạc xuất thần, những ý tưởng vụt sáng như ngôi sao băng... đều xuất phát từ bộ óc thông minh của bạn ư? Khoa học đã chế ra máy chụp hào quang sự vật hiện tượng, máy thu thứ âm thanh đã “mất” trong không gian nhiều thế kỷ trước, máy chụp lại thời điểm xẩy ra vụ tai nạn mặc dầu nó đã trôi qua; khoa học chế tạo ra kính viễn vọng nhìn thấu các thiên hà, rồi biết đâu khoa học cũng sẽ chế tạo ra kiếng nhìn thấy cõi ma quỷ. Sao chúng ta không dùng trực giác nhạy cảm của mình dẫn đường tới miền tâm linh? Không gian tâm linh có ngay nơi bạn ngồi, nhưng bạn không muốn tiến nhập vào. Khoa học đóng vai trò quan trọng trong việc chứng minh cho con người thấy vùng sáng mà que diêm xoẹt lên trong bầu trời tâm linh bí ẩn và... “tăm tối”.

Thời gian thăm thẳm trong vũ trụ rộng lớn với hàng tỉ hành tinh lớn hơn trái đất này, và thời gian chúng ta đang sống, chỉ là điểm dừng chân nghỉ mát trên chặng đường mà con tàu tâm linh chạy với vận tốc thấp nhất 299 992km/s, như vậy bạn đã mờ ảo nhận diện được thời gian rồi; như vậy có nghĩa bạn đã thừa nhận một trăm năm cho cuộc đời, cho chặng đường mà bạn phải đi, chỉ là chớp mắt trong dải ngân hà. Sự tiến bộ trong bạn đã khởi hành. Có nghĩa lúc bạn không (hoặc may mắn) chết đi, bạn đâu còn phải lần mò để tiếp tục bước ở thế giới siêu hình (như lúc bạn sinh ra ở thế giới hữu hình này). Có nghĩa, ngay lúc này, bạn phải chuẩn bị cho mình sự chết.

Chuẩn bị sự chết, đương nhiên không phải, nếu vợ bạn còn trẻ, bạn tìm cho cô ta một người tình đủ tin cậy; không phải nếu bạn có quá nhiều tiền, bạn phải gửi vào ngân hàng sinh lợi. Bạn hoàn toàn không mang theo được gì cả ngoài Đức và Nghiệp. Nếu bạn có đức, như vậy bạn đã có hành trang; nếu bạn tích nghiệp, bạn cũng phải mang theo qua bên kia, không cất giấu hay biển thủ đi đâu được. Vậy chuẩn bị cho sự chết là chúng ta chuẩn bị những gì? Bạn hãy tưởng tượng, bạn (lúc chết) là một người cô đơn trong một căn phòng, đang xem truyền hình trực tuyến từ nước ngoài, phát sóng cảnh vợ bạn tình tứ với người ta; hay cảnh tài sản của bạn cất giấu kỹ nay con cháu bè bạn trộm cắp chia chác, mà bạn không hề can thiệp; chỉ có hành trang bạn chuẩn bị lúc sống, là bạn không tiếc nuối, không ghen tuông, con đường phía trước của bạn còn quá xa, tâm bình mà bước; khi ý niệm đó chuyển thành hành động, thánh thần song hành cùng bạn.

Vẫn biết bạn sẽ chưa tin kiểu xem vô tuyến đó, bạn còn phải chờ khoa học chế tạo ra một loại máy phân tích mỗi cử chỉ, ý niệm, hành vi ra đức và nghiệp. Bằng chứng khoa học về sự tái sinh tràn ngập trên internet, trong các hiệu sách uy tín và trong các thư viện lớn, bạn vẫn nghi ngờ. Bạn không tin đầu thai, và có ai đó “cãi” rằng ông nội họ mất mấy trăm năm vẫn còn ngoài mồ. Nhà ngoại cảm đã trò chuyện với ông? Đấy, tôi đang quay lại vấn đề nan giải mà bạn nên giải quyết: thời gian. Bạn đã tin ông nội bạn còn “sống” ngoài mồ, chỉ là bạn không nhìn thấy ông. Vì sao? Vì ông nội bạn đang ở không gian khác dẫu ngay cạnh bạn. Không gian khác, thời gian dĩ nhiên cũng khác, nói gì đến mỗi người duyên khởi khác nhau. Tại sao bạn không tự xét, có nhiều người vừa mới qua thế giới bên kia, nhà ngoại cảm đã không thấy họ đâu nữa? Họ đã trở lại không gian của bạn rồi, có khi là ân nhân qua đường, là hàng xóm của bạn, và không ngoại trừ họ là con của bạn, là chim trong lồng, gà heo trong chuồng nhà bạn, cũng có thể họ đang giữ nhà cho bạn; bạn cho nó ăn hay để nó đói rét, hay bạn vỗ béo để làm món nhậu. Và rồi như một đứa trẻ, bạn đang vẽ từng nét thú lên chân dung mình ở kiếp tương lai.

*

Tình cờ đọc tác phẩm của một văn hào Nobel, Mù lòa; mươi trang đã biết ông này bịa, vậy mà như thật. Cảm giác giống ngày bé nghe chuyện ma; ngô nghê quan niệm, ma làm gì có thật, song nghe kể thì há hốc mồm nuốt từng chi tiết, sợ. Nhà văn José Saramago đã “xỏ mũi” người đọc theo từng trang sách. Chuyện bắt đầu từ một người đàn ông đang giữa phố chợt không nhìn thấy gì nữa; sau, từ ông, bệnh mù trắng đó lây lan thành dịch, người chưa mù chẳng may nhìn vào mắt người mù thì mù luôn. Họ bị nhốt cách ly vào một nhà thương điên bỏ hoang; đúng hơn, chính quyền lùa họ vào đó như lùa bầy gia súc, tự “đấu tranh sinh tồn”. Họ giằng xé nhau từng miếng ăn; những người phụ nữ thì phải lần theo dây đến trao thân cho bọn cơ hội để đổi lấy cơm cho lũ đàn ông. Họ lại phải tự tay mò mẫm đào hố chôn thây. Và khi họ được thả tự do, cũng là lúc bệnh dịch lan tràn khắp đất nước, chính quyền bó tay, y học bó tay. Trên từng nẻo đường góc phố, người người dắt díu nhau kiếm ăn. Những nhân mạng đói rục bên đường bị lũ chó xông vào xé từng miếng thịt thỏa mãn cơn đói. Một người đàn bà mù đã ăn thịt sống những con thỏ và bầy gà trong khu vườn của ngôi nhà không phải của bà... Bao cảnh tượng thê lương, kiệt cùng bi đát, rùng rợn.

Tôi trộm nghĩ José Saramago đã làm một cuộc dự báo về tương lai của loài người, khi trái đất này đã chứa quá nhiều tội lỗi, khi con người phá rào thập thiện để sống với mười điều bất thiện. Nhưng lấy bản thân mà chứng nghiệm, lại thấy tôi chính là kẻ đang nghênh ngang giữa trần gian bằng sự mù lòa của đôi mắt sáng.

 

Thi nhân và thiền nhân

Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng. Còn thơ thiền chính là lúc kẻ phàm phu nhón tay vốc được linh tự nơi chân như khi vọng tưởng bỗng nhiên chừng lặng.

Daisetz Teitaro Suzuki - người cố giải mã công án trong 3 tập Thiền luận nói rằng “Thông thường thiền sư cũng là thi sĩ”. Theo ông, "văn học Thiền hưng khởi từ thời Huệ Năng (638 - 713) và nay còn giữ đủ, vẫn đáng cho các nhà thông thái và người tìm chân lí bỏ công nghiên cứu". Có khoảng 1.750 công án mà Thiền giả thường tham cứu như một hấp hực của hậu nhân học Phật. Công án thuộc hàng khó giải nhất có nội dung: “Ý chỉ của Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn sang Tàu là gì?” Riêng luận về cuộc Đông du của Tổ này, Suzuki đã dẫn ra nhiều lời giải của các thiền sư dưới dạng gần như thơ, ví như hai câu của Đại Đồng Tế đậm đầy thi hứng:

Ta nghe gió rì rào qua khóm

Biết bao ngàn ngọn trúc đong đưa.

Ở Nhật, nhiều thiền sư sáng tác thơ haiku. Thơ haiku là sản phẩm của tâm thiền, là thơ thiền đúng nghĩa. Suzuki thử dẫn bài thơ của Basho: “Một vũng lầy hiu hắt/ Một con ếch nhảy vào/ Và tiếng nước; ôi chao!”; và luận: “Đấy là cái tiếng thức tỉnh đạo lý của Phật giáo Thiền tông. Kinh nghiệm tự nó không thể tỏ bày bằng cách khác, thế nên bài thơ hài cú chỉ mô tả cơ duyên, không tâm tình, không biện giải”. Suzuki nhận xét chuẩn xác hồn cốt của thể loại haiku; đáng lưu ý là mấy chữ “không tâm tình, không biện giải”. Tuy nhiên ở bài thơ này, có thể do người dịch nên nó đã rơi vào “biện giải”. “Ôi chao!” là một dạng thán từ, tiếng reo, một cảm xúc ứ trào, thì chính “tâm tình”. Phật thuyết Kinh Viên Dung Thuần Khiết: “Cái không còn ý nghĩ phân biệt là cái không thể nắm bắt được. Vì sao? Bởi vì trạng thái không có ý nghĩ phân biệt, dù ngay cả tâm cũng đã không thể nắm bắt được, huống chi là những hoạt động tâm sở. Trạng thái tâm không nắm bắt được đó gọi là không thể nghĩ bàn”.

Một bài thơ khác:

Ngày ngày trên lá sen

Giọt sương rơi xuống

Nát tan hình hài

Ở đây tuyệt nhiên vắng bóng tâm tình và biện giải, nghĩa là hoàn toàn vắng cái “ngã”, cái “tôi” tác giả, chỉ có hình ảnh những giọt sương “nát tan hình hài” khi gieo xuống lá sen, trong sự cô đơn và nhẫn nhịn tuyệt vời! Hình ảnh cứ đeo bám, ám ảnh người đọc, nó khơi lòng từ bi, nó “mắc nợ” vào người đọc. Chính đó là tâm trạng của thể haiku; hay nói ngược lại, với bậc thoát lụy trần, tâm thanh tịnh mới gửi được cái vi diệu không sắc vào thể thơ kiệm lời bậc nhất này.

Có một câu chuyện thiền tường minh mối tương giao giữa thơ thiền và thiền thơ. Tiền thân của Tô Đông Pha vốn là Giới Diễn thiền sư, tu đến độ có thể tự tịch. Một hôm cùng với sư huynh Quang Huệ ngồi thiền; giữa thời, Giới Diễn bỗng khởi niệm ái sắc. Lúc xuất thiền sư huynh mới hỏi xéo “lúc nãy đệ nghĩ gì vậy”? Biết sư huynh đi guốc trong bụng, hổ thẹn quá Giới Diễn nhắm mắt tịch luôn. Quang Huệ tự vấn: "Bạn ta trong khi thiền định có niệm sắc ái, sau tất lụy về sắc; vì phiền ta mà thị tịch... lỗi ấy một phần do ở nơi ta". Thế nên Quang Huệ cũng tịch mà đuổi theo hóa độ. Tô Đông Pha - hóa thân của sư Giới Diễn, sau này ông là nhà thơ trứ danh đời Tống. Cư sĩ Tô Đông Pha kết thân với nhiều nhà sư, trong đó có sư huynh của mình ở kiếp trước là thiền sư Phật Ấn. Một hôm để chứng tỏ công phu tu tập, ông làm một bài thơ tứ tuyệt; câu luận: Bát phong xuy bất động, ("Tám gió" tung hoành không lay động), ý nói tám ngọn gió thế gian không thể lay động được tâm ông. Tấm tắc ngâm ngợi suốt ngày, rồi họ Tô gửi lên chùa Kim Sơn cho thiền sư Phật Ấn. Sư xem xong phê dưới "đồ đánh rắm", nhờ tiểu đồng mang trả lại. Tô Đông Pha thấp thỏm đợi chờ lời khen, ai dè..., liền nổi giận chèo thuyền bạt gió qua sông. Mới bước đến cổng chùa ông thấy dòng chữ treo sẵn: “Tám ngọn gió không lay chuyển được mi/ [Thế nhưng] một cái đánh rắm cũng đủ thổi mi sang đến bờ bên này”.

Mới hay tâm còn ngã chấp tiểu kiến, dẫu vi tế, thơ vắt ra không thể là thơ thiền, dẫu mỗi mỗi chữ đều khoác áo thiền. Đánh bóng chữ dán mác thơ thiền, đâu hay thơ thiền không dễ sinh từ trí mà chảy từ suối tâm. Cũng như nếu đem trí để soi Đạo chẳng những không thấy trời đêm ngàn sao mà dưới mặt nước (tâm) động kia vầng trăng cũng lấp lóa mờ nhòa. Xưa, sư Trí Bảo tự thấy mình dốt Đạo đã rời chùa tìm lối vượt thoát sanh tử. Cơ duyên gặp được thiền sư Đạo Huệ khai ngộ liền thốt lên chứng đạo ca:

Không nhờ gió cuốn mây trôi sạch

Đâu thấy trời xanh muôn dặm thu.

Khi thuyết pháp, Phật, Bồ tát và thiên nhân thường diễn ý thành kệ. Xuất khẩu thành kệ. Kệ ấy, ở mức độ mờ/nhòa nghĩa của ngôn ngữ, cũng xem là thơ. Bài Cư trần lạc đạo của Trần Nhân Tông, theo tinh thần “thiền đạo”, nó là kệ nhưng bây giờ nghiễm nhiên thành một bài thơ. Kinh Thi có ba trăm bài; Bộ Hoa Nghiêm kinh nguyên khởi có hơn một trăm ngàn câu kệ; Trường Bộ Kinh được Giới lạc Mai Lạc Hồng chuyển thể thơ 3 tập với 1500 trang theo thể song thất lục bát; Cuốn luận về Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajna Paramita Çastra) của Bồ tát Long Thọ (tổ Thiền thứ 14 của Ấn Độ, cũng là vị tổ trong Tịnh độ tông) in ra làm 3 bản; trong đó con số ước lượng, một bản gồm hàng trăm ngàn câu kệ; Kinh Pháp Cú nhắc người đời: "Tụng trăm câu kệ vô nghĩa/ Chẳng bằng một câu Pháp cú". Kinh này cũng được tác giả Tịnh Minh dịch thành Thi kệ pháp cú kinh. Thử tụng câu 85:

Xem trong đám nhân quần

Ít người đến bờ kia

Còn bao nhiêu người khác

Quanh quẩn tại bờ này

Nghe qua có vẻ bình dân, song ai bước vào rừng kinh điển mới thấu lý bờ này, bờ kia, bao nhiêu người, quanh quẩn… Người sáng tạo thơ thiền thường phải khắc khắc nghiền ngẫm, vật lộn cùng chữ nghĩa. Luôn luôn trong tình trạng “nghi án”; và lạ thay, lúc người ấy thả lỏng mình trở về trạng thái vô nghiệm thì thơ thiền phát lộ. Có một đệ tử của ngài Qui Sơn Linh Hựu là Linh Vân, loanh quanh bên đời mãi vẫn đường đạo mịt mù, một lần chợt thấy hoa đào mà ngộ; liền làm thơ: “Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu/ Trực chí như kim bất cảnh nghi”. Hoặc như tổ Hoàng Bá từng viết bài kệ với hai câu kết:

Không chịu trời lạnh thấu xương

Hương thơm hoa mai sao tỏa!

Thiền sư Hư Vân thuyết về thành quả hành trì của người tu đã có nhắc: “Hoa mai nở bông vào mùa đông lạnh giá chớ không nở trong tiết xuân ấm áp, tràn đầy ánh nắng hồng. Hoa tâm khai nở không phải ở nơi vui buồn, thương ghét, hay đúng sai giữa mình và người”.

Thiền quan sách tấn chép về Mông Sơn Đức Dị (thuộc dòng Thiền của Ngũ Tổ Sơn Pháp Diễn) đã trải qua quá trình ngộ đạo hết sức gian nan. Ông ôm nghi tình chữ  hàng chục năm không khai tỏ, có đến hai năm ròng chỉ tu ngồi. Thỉnh giáo biết bao cao nhân, một lần gặp thầy Kỉnh, “thầy hỏi: “Ai đến đây?” Đáp: “Chẳng phải ta chẳng phải người”. Thầy bảo: “Chẳng phải ta chẳng phải người, thế là cái gì?” Đáp: “Đói thì ăn mệt thì ngủ”.

Đây là tinh thần thiền đạo của những bậc đã hòa vào cảnh giới an lạc tự tại. Chúng ta nhớ đến Cư trần lạc đạo củaPhật hoàng. Ý này chúng ta cũng có thể tìm thấy trong cuộc hội thoại của gia đình cư sĩ cùng chứng quả Bàng Uẩn. Chồng: “Khó! Khó! Khó! Đem hạt mè để trên đỉnh cây thật khó”; Vợ: “Dễ! Dễ! Dễ! Ý Tổ sư trên trăm đầu ngọn cỏ”. Con gái Linh Chiếu: “Không khó cũng không dễ. Đói thì ăn. Mệt ngủ liền”. Hoặc như với Tế Công Hòa thượng: “Người bảo Ngài điên, Ngài chẳng điên/ Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền”. Trần Nhân Tông thấm đẫm diệu lý “tùy duyên” từ Thiền tông: Người tu đạo chân chính là “sống với mọi cơ duyên của cuộc sống trần gian này. Buổi sáng, y lặng lẽ thức dậy, vận y phục và ra ngoài làm việc. Khi muốn đi dạo, y liền đi dạo, khi muốn ngồi, y liền ngồi. Y không làm Phật, không nghĩ tưởng xa vời. Sao lại có thể thế? Cổ nhân nói, nếu bạn chuyên tâm tinh tấn cần cầu Phật quả, Phật của bạn thực tình là căn nguyên của luân hồi” (Tổ Lâm Tế). Lý này khiến rất nhiều người đời sau tưởng dễ nhảy vào, buông thả sống, khiến thân còn sống mà tâm đã bị đọa đày trong tầng tâm linh ngột ngạt, mờ mịt, bán rẻ tương lai tiêu xài vào cơn mộng lợi danh siêu thoát. Đạt đến tùy duyên là Nhìn thấu - Buông xả - Tự tại - Tùy duyên; nghĩa là hết thảy vật tài, thân quyến cho đến vọng tưởng, chấp ngã mê lầm đều không dính mắc. Cái lý này với đời chừng như ngược, với đạo là xuôi. Xuôi theo đạo ấy mới là việc khó, nhân thế mấy ai!

Mãn Giác thiền sư cũng là người sống kỹ trong Đạo và học kỹ ngón thiền của các Tổ. Bài thơ nổi tiếng của ông, hai câu đầu: “Xuân khứ bách hoa lạc/ Xuân đáo bách hoa khai” (Xuân đi trăm hoa rụng/ Xuân đến trăm hoa nở), ta nhớ đến Sử Quảng Phúc Đam Chương trả lời một thiền tăng tham vấn về tâm pháp của Đạt Ma: “Xuân đến, cây cối trổ hoa” (Xuân lai hoa tự phát); “Thu đến, lá lay rơi rụng” (Thu chí diệp tiên điêu). Và hai câu sau: “Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua sân trước một cành mai”, cũng là trên tinh thần lời Phật (thuyết kệ trong kinh Lăng Nghiêm): “Vi vi, thì không sinh, không diệt - Chẳng thật hư hoa đốm hư không”. Hoa nở hoa tàn ấy là “hoa đốm hư không”, do vọng tưởng hư diệu tạo thành, thực tế nhành mai là sự bất diệt của vạn pháp, là tự tánh trọn đủ hạt giống trong khiết; mai rồi lại nở vào những xuân sau.

Đức Thích Ca bảo “chúng sanh đều có trí tuệ, đức tướng của Như Lai”. Kinh điển chính là Phật. Người Tu mức cao sẽ thấy những câu kinh ấy vốn sẵn nơi chân tâm. Bậc triệt ngộ thì cả Đại tạng kinh cũng phơi ra như báu vật bao nhiêu kiếp vùi trong vọng tưởng chấp trước. Kinh Lăng Nghiêm: “Nếu chuyển được vật, tức đồng Như Lai”. Tu lại để tạp niệm làm chủ tức vật chuyển mình, vật lôi kéo, giật dây thành rối. Chân như tức tâm chuyển cảnh. Lúc đó muôn hoa nước trời cùng vươn nở chào mừng nói chi vạn vật nhân gian. Mối tương ưng giữa Phật và chúng sanh, là chân tâm. Thủ kiến dễ khiến người đời “giương án” cho những thiền sư làm thơ (và pháp sư thuyết pháp) - điều mà xưa nay trong giới chân tu chưa hề bỏ ra nửa lời. Thiền nhân hoát ngộ đề thơ chính là thi nhân, còn thi nhân một phen lạc thăng hoa tiết ra thơ thiền cũng chưa thể gọi họ là thiền nhân được; dẫu Thơ và Thiền muốn viên mãn phải đánh đổi danh lợi giữ tâm ý sáng trưng như kẻ phong lưu bước trên băng mỏng vậy.

 

Kinh điển và căn mạng đời người

Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”. Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật.

Vì sao nói lời nào đều phải liên hệ với kinh điển? Nếu kinh điển không mang sinh khí thời đại, không trực tiếp dẫn nguồn vào cuộc sống liệu có còn là kinh điển. Những kinh điển lạc lõng giữa dòng đời bất tuyệt là kinh điển khô nhắc chết cứng, không còn tự bảo vệ được mình trước những phát triển của văn minh nhân loại, trước những phát hiện khoa học về con người và bản thể vũ trụ. Kinh điển ấy… lỗi thời. Kinh điển phải luôn gắn với đời sống; nhất cử nhất động của con người đều có thể soi vào mà chỉnh sửa, ấy là chân kinh.

Thế kỷ XXI được xem là thời đại khoa học công nghệ. Những phát minh, khám phá của khoa học làm chấn động nhân loại. Một trong những công trình đó là khám phá ra biểu cảm của nước (cũng như trước đó khoa học phát hiện bản tánh của thực vật). Một thí nghiệm ở Nhật với hơn một trăm vị sư ngồi tụng niệm yêu thương nước trước hồ Tỳ Bà ô nhiễm rộng mênh mông, sau một buổi hồ nước dần trong trở lại. Thân thể người do tứ đại hợp thành, trong đó nước chiếm khoảng 70%, vậy ra bệnh tật có nguồn từ sân hận, chấp trước, phân biệt, tự lợi, xan tham, mê đắm, tật đố, ngã mạn…, những thứ khiến cho nước trong thân thể nhiễm ô. Nhiều ngôi chùa nhận chữa cho những người bệnh mà y học đã bó tay với điều kiện: ở lại chùa ăn chay, nghe giảng pháp… Chính là chùa chữa Tâm (thanh tịnh, trong sáng) chứ ít chú trọng chữa thân, vì thân vật lý chiếm tỉ lệ rất nhỏ so với mặt tinh thần trong chỉnh thể người. Người mà bệnh viện trả về, tức bị dồn vào bức mành mong manh cuối cùng ngăn cách sống chết. Yêu cầu ăn chay niệm Phật, nghe kinh, lạy Phật sám hối mà họ cũng lắc đầu, trong lúc chùa không chút vụ lợi; đủ thấy ở họ chấp chặt sự thiên lệch về vật chất. Đại sư Buddhadasa người Thái Lan trong cuốn "Cốt lõi của cội Bồ đề" (Hoang Phong dịch) gọi đây là "bệnh tâm linh" - "là một căn bệnh không cho phép mình quán thấy được sự thật tối hậu của mọi sự vật đúng thật với những gì là như thế. Do đó bệnh ấy là một thứ bệnh liên quan đến vô minh, hay là sự hiểu biết sai lầm, và nếu đã là một sự hiểu biết sai lầm thì tất nhiên là nó sẽ đưa đến những hành động sai lầm và từ đó phát sinh ra khổ đau”. Và "Phương thuốc giúp chữa khỏi chính là tánh không. Hơn nữa tánh không chẳng những là một phương thuốc mà còn là cả một sự giải thoát có thể làm triệt tiêu tất cả mọi thứ bệnh tật, bởi vì phía sau tánh không sẽ chẳng còn lại gì cả". Hiểu được lý vô thường chúng ta sẽ không chấp điều lớn nhất: thân này là ta (mà chỉ là của ta như áo quần). Khoa học chứng minh cho thấy những người “chết giả”, hồn họ tạm lìa xác và họ thấy được xác mình, họ thấy được những người từng chết trước đó, thậm chí thấy cả những vị thánh. Một khi có họ đứng nhìn xác mình, dĩ nhiên các xác ấy không phải mình rồi, hay hiểu đơn giản là chết không phải hết. Chết vẫn còn ta, vậy sao ta không mảy may tìm hiểu cảnh giới sau cái chết, và cái gì sẽ giúp ta lúc bỏ thân này.

Khám phá về nước nói riêng làm lay chuyển nhận thức loài người, khoa học gia phải mất vô lượng thời gian, đâu hay đã vô tình chứng minh một vài câu kinh Phật. Còn vô vàn kinh điển nữa đều đang chờ khoa học soi chiếu. Nhưng có điều sợ muộn màng, sợ đến lúc chúng ta có chứng cứ trong tay e hành tinh xanh đã hoang hóa. Khoa học thấy Phật pháp là bậc thầy của khoa học. Nhưng nhiều người vẫn chỉ “sử dụng” những câu kinh đã được thực chứng, thế nên một pháp sư gọi hiện tượng này là “mê tín khoa học”!

Kinh điển Phật giáo là kim chỉ nam của bất cứ người nào muốn trả lời hai câu hỏi: “Ta từ đâu đến?” và “Ta sẽ về đâu?” (Ở đây xin không hiểu theo danh hiệu của các Phật: Như Lai - không từ đâu đến, không đi về đâu - Kinh Kim Cang: “Vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ”). Lời Hòa thượng Tuyên Hóa: “Đối với người tu hành chân chính, lúc chết tâm họ rất sáng suốt, biết mình từ đâu tới và sẽ đi về đâu”. Biết đâu chúng ta đến hồng trần này từ bên châu Phi; biết đâu chúng ta từ cõi ngạ quỷ đầu thai thăng lên hay từ cõi trời “rớt” xuống; và (nếu thành tựu trong Tịnh độ), chúng ta sẽ biết chắc mình sẽ về Cực lạc thế giới khi thân giả tạm này mất. Học Phật nhất thiết phải bám sát kinh điển, vừa học vừa hành. Phật nhập diệt, ngón tay chỉ trăng bây giờ chính là kinh điển và những vị được giới chân tu xem là chứng quả, Bồ tát thị hiện. “Các con hãy lấy Pháp của ta làm đuốc”! (Kinh Pháp Cú). Không nương theo kinh là không tin lời Phật: “Những kẻ không tin lời Như Lai nói là những kẻ mãi mãi thọ khổ”. Một người đời nay không thể không biết - pháp sư ChinKung. Ngài bảo những “người cúi lạy Phật mà không hiểu Phật, không học Phật chính là mê tín”. Thế nên học Phật không hành (ví như học Mật tông lại không trì/nghe chú, học Thiền tông lại không tham thiền, quán chiếu và sống với thực tại tánh giác, học Tịnh độ lại không chuyên niệm Phật đến lịm) thì khác nào bám phần nổi của tảng băng phiêu dạt trên biển. Theo Phật mà xa rời kinh điển dễ mập mờ giữa chánh và tà. (Tuy nhiên), cổ Đức nói: “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly Kinh nhất tự tức đồng ma thuyết”. Có một ví dụ rất tuyệt: ly sữa bổ dưỡng là Phật pháp, nhưng thêm vào một giọt độc thôi, hỏi ly sữa còn dùng được? Y giáo phụng hành là lẽ căn cốt của người học Phật. Người không tu, không phải vì thế mà khinh khi Phật pháp, đứng trước cửa Không khua chuông đánh trống; không phải vì thế mà ung dung ngoài luật nhân quả, kể cả người theo các tôn giáo khác. Bởi nhân quả vốn thường hằng bất biến, tin hay không thì từng giây phút bất cứ chúng sanh nào cũng bị chi phối bởi nhân quả. Từng giây phút phước họa chiêu cảm từ ý niệm và hành vi của ta đều chi phối đến vận mạng của ta.

Hành vi thì đương nhiên ảnh hưởng đến thọ mạng chúng ta, nhưng khoa học lượng tử đã chứng minh (kinh điển), là những suy nghĩ của chúng ta chẳng những ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của ta mà còn ảnh hưởng đến toàn thể thời không trong vũ trụ. Bản thân tôi từng sản sinh nhiều quan điểm lệch lạc về Phật pháp. Có câu có lời đã được chính thống hóa trong các ấn phẩm, sách xuất bản, sự ảnh hưởng lan rộng, người viết ra nó sẽ nhận về phần nghiệp càng nặng; có câu mới chỉ là ý niệm - những ý nghiệp hằn sâu trong tâm thức trước ngày đến với Phật. Mới hay không nương vào lời Phật thì nhất cử nhất động, nhất tâm nhất ý đều dễ gây nghiệp. Có khi buông ra một câu song (do mức ảnh hưởng) cả cuộc đời không trả hết nghiệp, ai không biết nguyên lý này đương nhiên thường trách trời sao tôi khổ, sao tôi không tạo ác với ai lại khổ thế này.

Từ gia đình bước ra xã hội, tôi gặp nhiều cảnh đời tăm tối. Con người bị dồn vào đường cùng bi đát, con người kêu gào trời Phật, nhưng trời Phật dường như không thấy; nên nghe câu “Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người”, tôi tin. Thiển nghĩ trời Phật không có, vậy mình nhìn lên trời làm gì? Hãy cứ bám chân trên đất mà đi. Phật có nêu quy luật nhân quả luân hồi, và Phật thần thông quảng đại sao không đưa loài người thoát khỏi Bể Khổ. Thế nên lần đầu tiên tiếp xúc với chữ Không, tôi xem đó là sự phủ nhận trần gian.

Cơ duyên sao giáo lý nhà Phật vẫn cuốn hút. Học thêm được chút ít, mới hay nghiệp ý về chữ Không thật sự nghiêm trọng. “Không hay Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong triết lý Đại thừa”. Luận về Triết học và Tôn giáo, Suzuki cũng viết: “Đừng lẫn lộn không với không chi; cũng đừng tưởng rằng có một đối tượng của tư tưởng được gọi là không, vì ý tưởng này đi ngược hẳn với bản chất đích thực của Không. Không nên xác định nó như là tương đối tính, như một số học giả quan niệm. Chính Bát Nhã dạy rằng các pháp hiện hữu tương quan liên hệ như là những kết quả của những tập hợp duyên sinh và do đó chúng là không (…). Chính trí Bát Nhã soi thấy tất cả những hàm ngụ của Tánh Không”.

Một Hòa thượng người Việt Nam ví Không như con số không (0). Nó vốn không là gì song thiếu số 0 thì mọi tính toán trên tiểu học đều tắc tị. “Vì có nghĩa Không này - Tất cả pháp được thành - Nếu không có nghĩa Không - Tất cả bèn chẳng thành” (Trung Luận - Long Thọ). Không gần như là trung tâm luận Phật giáo. Nếu tôi cho Không là sự phủ nhận trần gian thì cũng khác chi nói Phật giáo phủ nhận nhân gian. Kinh Pháp Hoa có một câu rất đặc biệt: “Các đức Phật chỉ vì một việc trọng đại duy nhất mà ra đời, đó là vì khai ngộ cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật”; "Bồ Tát nếu có thể tùy thuận chúng sanh, thì chính là tùy thuận cúng dường các đức Phật. Còn tôn trọng và thừa sự chúng sanh thì chính là tôn trọng và thừa sự các đức Như Lai. Nếu làm cho chúng sanh vui mừng thì chính là làm cho tất cả Như Lai vui mừng." (Trích Mười nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát); "Nếu cần hiện thân Tỳ Kheo độ thì hiện thân Tỳ Kheo, nếu cần hiện thân Tỳ Kheo Ni độ thì hiện thân Tỳ Kheo Ni, nếu cần hiện thân cư sĩ độ thì hiện thân cư sĩ". (Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn); “Không những tự điều phục mình mà còn điều phục cho kẻ khác, không những dứt phiền não cho mình mà còn dứt phiền não cho kẻ khác. Không những tự mình qua đến bờ giác giải thoát, mà còn độ cho người khác đến bờ giác giải thoát”. Dẫu vẫn có người chứng được sơ quả liền “chán bỏ” thế gian, ngồi thiền chìm đắm, quên hóa độ chúng sinh. Thế nên Đức Phật giảng cho những đệ tử đầu tiên chứng đạo: “Hãy lên đường, này các Tỳ kheo, vì lợi ích cho số đông, vì an lạc cho số đông, vì thương tưởng thế gian, vì lợi ích và an lạc của chư thiên và nhân loại”; Đức Đạt Lai Lạt Ma căn dặn: “Đã tự xem mình là người noi theo gót chân Phật thì phải luôn tự xét chính mình, tự xét tâm nguyện của mình, và phải luôn giữ gìn nguyện vọng muốn giải thoát tất cả mọi người mọi loài ra khỏi khổ nạn luân hồi”. Kinh Hoa Nghiêm khuyên nhắc bậc chứng Bồ đề phải “vì người mến thích cảnh giới mà nói pháp vô sở hữu. Vì người mến thích chỗ tịch tịnh mà nói pháp phát thệ nguyện lớn khắp lợi ích tất cả chúng sanh”.

“Vạn pháp giai không, duyên sanh như huyễn”. Bàn về Không thực tế không bờ mé: bất khả thuyết, bất khả luận, bất khả tư nghì. Ở cấp độ phàm phu, chỉ sờ mó và chấp nhận đưa ra một khái niệm tạm thời chứ không thể xuyên qua bản thể của nó được. Khoảng một phần tư giây là một khảy móng tay, trong một khảy móng tay có hàng trăm triệu lần sinh diệt, mức cực vi tế. Một lão pháp sư giảng: một giây trên màn hình là sự ghép lại của 24 hình, tức 24 lần sinh diệt, nhưng mắt chúng ta chỉ thấy một bước chân người đi chứ đâu thấy được 24 hình ghép lại. Mức sinh diệt quá nhanh nên nhục nhãn bị lừa.

Con người hợp từ tứ đại, cũng như một đám mây mà ta chỉ thấy đám mây với nhiều hình dạng, chứ đâu thấy hợp tan. Sắc tức thị không không tức thị sắc (Bát Nhã Tâm Kinh). Mỗi người khi sống chính là có hình tướng, lúc chết thì tan rã trở về không (hình tướng). “Ngay cả khi sắc được phân ra thành các phân tử cực kỳ vi tế, hoặc các đặc tánh của nó được phân ra thành các hiện tượng giới chẳng hạn như mùi vị, sự nhận biết về bản tánh của sắc vẫn tồn tại”. (Bảo tàng tri kiến, Thế Thân). Không ấy đâu phải là không. Chính là còn linh hồn (theo cách gọi dân gian; thực tế khái niệm Linh Hồn không có ở pháp Chân đế); gọi đúng là thần thức, hay thức alaya. Tam giới duy tâm. Tâm chứng thì hết thảy mười phương khắp pháp giới hiển bày. “Thế giới này được dẫn đạo bởi tâm tư, thế giới này bị quét sạch bởi tâm tư, thế giới này dưới sức mạnh của tâm tư” (Kinh Samytta Nikàya, I, tr. 39).

Sách Truyền đăng lục chép công án “Con chó của Triệu Châu”: Có người hỏi Thiền sư Triệu Châu: - “Con chó có Phật tánh không? Triệu Châu đáp: “Không”. Phật bảo tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, sao con chó lại không. Không, “cái không có này không phải là làm cho không có mà bản tánh của tất cả các pháp vốn là Không” (Kinh Viên Giác). Và nữa, không là “vô”. “Vô” là vô nhị tướng. Nếu bậc chân tu miên mật, họ chẳng những hòa cùng tạp niệm bất thiện mà cả niệm thiện, để đạt đến, định trong động, tức thường tại định.

Quay lại với ý nghiệp ban đầu. Lúc nghĩ oan cho cái Không, thì hàng loạt suy nghĩ sau đó nối đuôi nhau “nhúng chàm”. Từng đọc một tác phẩm văn học, ý nói Phật tuy lớn khôn cùng song đã “rủ” loài người đi quá xa hồng trần. Cõi mà Phật muốn con người vươn tới gần như ảo tưởng. Cho nên Phật dẫu là Đại Lương Y sợ rằng sẽ ban phát thứ thuốc ru ngủ sự tuyệt vọng mà mình vì tài hèn nên không đạt được.

Nói đạo lộ của Phật vốn ảo tưởng, là bóp méo kinh điển. Kinh chính là Phật. Phật chính là Kinh. Những người đắc đạo hiện thời và các Bồ tát được ấn chứng rất nhiều. Họ chính là kinh điển sống. Ở Việt Nam có Bồ tát Thích Quảng Đức; có Tuệ Trung Thượng Sĩ, Phật hoàng Trần Nhân Tông, Hòa thượng Từ Đạo Hạnh, v.v. Nước ngoài có các tổ sư thuộc Thiền và Tịnh, trong đó như Ngài Huệ năng lưu lại thân xá lợi đến bây giờ. Thời hiện đại có Đức Đạt Lai Lạt Ma; rất nhiều vị chứng quả Thánh, nhiều vị tu niệm Phật đạt Tam muội, và nhiều vị biết trước ngày giờ vãng sanh về thế giới Cực Lạc, lúc đi còn để lại toàn thân xá lợi vàng ròng bất hoại trước thời gian. Một giáo sư uyên bác thỉnh giảng khắp thế giới với số giáo án hạn hẹp, lâu lâu không xem lại thì quên. Một pháp sư xứ Ấn xem đó là kiến thức ao hồ (tạo một cái hồ rồi tát nước của thiên hạ vào), lâu ngày nước không cạn cũng đục. Bậc đắc đạo giảng pháp suốt đời không lặp chủ đề. Có vị riêng giảng bộ kinh Hoa Nghiêm đến 17 năm; lần giảng thứ hai chưa được một phần 5 bộ đã lên tới ba vạn giờ. Có vị suốt ba mươi năm không xem thời sự báo đài nhưng hỏi đến đâu đều tường tận. Đó chính là trí huệ ba la mật, mỗi lời đều như suối mát tuôn chảy.

Có một thực tế, nhiều người bị cuộc đời đánh cho ra “xơ mướp” mới cầu đến Phật. Họ xem Phật ngang với hàng thần linh. Phật là bậc minh bạch, hiểu rõ chân tướng vũ trụ nhân sinh, nên lời Phật đều là nói về bản thân con người và hoàn cảnh sống; có xa rời thực tế bao giờ. Phật chỉ con đường thấu tỏ cuộc đời vốn bể dâu, cực khổ. Họ phải học và hành theo đúng lời Phật dạy. Thân tâm an lạc, cuộc sống thanh tịnh chính là cực lạc. Nếu chặt phăng các kiếp quá khứ và vị lai, chỉ giữ lấy một khúc ngắn là cuộc sống tại cõi trược này, dĩ nhiên quan niệm của họ không sai. Học Phật chính là phá mê; “mê” trước nhất là đập bức tường ngăn cách với các kiếp trước sau tương tục. Muốn vậy phải soi mình vào đức hạnh và giáo lý của Phật. Thập thiện chính là máy “phát hiện cái giả” trong mỗi người. Nếu Tứ diệu đế, Tứ chánh cần, Thập thiện, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên, Lục độ… là những liều thuốc ru ngủ những người tuyệt vọng, thì có lẽ bây giờ chính là thời… Diệt Pháp, Mạt Kiếp - hết thảy nhân loại đều được thay bằng người máy! Cũng được biết rất nhiều học giả, nhà khoa học tầm cỡ trên thế giới sau chặng đời “loanh quanh” đã quay về nghiêm túc học Phật, tôn đạo Phật làm Thầy. Tương lai hòa bình thế giới, thực sự Phật pháp đóng một vai trò trọng yếu nếu biết nương vào, biết trì giữ giới luật của Phật để ai cũng được ân hưởng từ quy luật vũ trụ nhờ ý nghĩ và hành vi tương hợp với tánh chân thiện của vũ trụ.

Trong văn học, tôi từng sản sinh nhiều câu chữ khiến bây giờ đọc lại mới thấm tội đã gieo. Trong một truyện ngắn, sau khi khen đạo hạnh của vị sư nọ, tôi liền nhét vào mồm nhân vật ấy những lời: “đâu như cha thầy chùa hay tới nhà con mệ đầu xóm này này… Năm ngoái cha tới tìm mua đất, nói xây cái am tịnh tâm. Tịnh đâu chả thấy…”. Bây giờ mới hiểu để kịp sửa lại: “Chứ mô như thằng cha giả cạo đầu làm sư hay tới nhà con mệ đầu xóm này…”. Tuy chỉ đính chính được vài nơi; nhiều cuốn sách được in, nhiều trang web “mặc định” hoặc google lượm lặt, không thể sữa chữa ngoài việc sám hối, chuyển tâm về với Phật, dùng chánh kiến hóa giải tà kiến.

Những dòng trên, dân gian nhìn vào họ sẽ nói: “À, thầy tu là như vậy đó, Phật giáo là như vậy như vầy, rồi “quy kết” Mạt Pháp. Thực tế Pháp thì vẹn nguyên. Phật Thích Ca bảo, đến thời Diệt Pháp (sau khoảng 9000 năm nữa) Pháp chỉ còn “Nam mô A Di Đà Phật”. Người chuyên sâu Tịnh tông đã thấy, ấy là vạn pháp được nén vào 6 chữ (hoặc 4 chữ A Di Đà Phật). Thoát luân hồi phải là mục tiêu căn cốt nhất trong kiếp người. Không nhắm đến mục tiêu này, “duyên” rơi vào tuyệt lộ dễ như bỡn. Chúng sinh là danh từ dùng chung cho tất cả sinh linh trong tam đồ. Bể Khổ cũng chính là Tam giới (Kinh Pháp Hoa ví là ngôi nhà lửa - Tam giới như hỏa trạch). Con người không nhìn thấy ngạ quỷ và chúng sinh trong địa ngục, không chịu tin mình cũng có duyên vào đó dạo chơi nên không tin đời Bể Khổ, cũng dễ hiểu (!).

Trong sự gọi “Mạt Pháp”, ở tôi góp thêm tội nghiệp. Kinh chép, thuyết giảng cho ngài Trừ Cái Chướng xong, lúc bấy giờ Đức Phật bảo ngài A Nan: "Nếu ai khinh mạn chư Tăng Ni, thì người này sẽ sanh trong gia đình bần cùng hạ tiện. Ở mọi nơi sanh ra, các căn đều chẳng hoàn chỉnh, gù lưng, lùn và xấu xí. Lúc xả báo thân đó, thì khi sanh ở đời sau sẽ chịu nhiều bệnh tật, gầy ốm héo hon, chân tay co quắp, có máu mủ ứa ra và nhiểu khắp trên thân thể...”. Chưa nói kiếp sau, mà với quả báo nhỡn tiền, tôi đã chứng kiến cơn bệnh trầm kha của nhiều người coi trời bằng vung, không chút tín tâm về miền huyền diệu, thỏa sức tạo nghiệp, thỏa sức kiêu mạn và đang tâm sát hại, tổn hại người và vật, khiến quãng cuối đời thực sự là địa ngục đối với họ.

Bước đầu tiên vào cửa Phật, đã thấy được sức hút của Phật học về các tầng trời, các cảnh giới, tôi vẫn có một sự so sánh kỳ cục. Một nhân vật không thể cưỡng sức hút ghê gớm của đàn bà, nhân vật ấy ví sức hút đó cao hơn sức hút của Đạo, từ đó bẻ gãy mầm Phật pháp. Sức hút tinh thần chính là sức hút từ cõi thiêng vốn sẵn trong mình. Tinh thần ở đây có thể hiểu là Tâm. Tâm là đích tu mà đạo Phật nhắm tới. Tâm như “hạt minh châu” bị cơn lốc cuốn theo mọi tạp nhơ; vạn duyên buông xuống, tay không sẽ thõng vào hư không pháp giới. Còn sức hút ghê gớm của người đàn bà là sức hút của mê. Mê quá sâu cái hạ tiện! Hòa thượng Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng đã nhắc kẻ đương cơ, dâm chính là hổ, chưa hàng phục được dâm chính là chưa hàng phục được hổ. Vạn ác dâm làm đầu; mê sâu dục lạc sẽ khiến con người bỏ lại phía sau tâm hiếu kính khiêm hạ vốn là nền tảng là thước đo giá trị kiếp người, với người chuyên tu thì khó lòng nhấc chân khỏi mặt đất. Bởi mê quá sâu cái thấp hèn nên trí tuệ bị che mờ. Giới của người chuyên tu luôn xem trọng tránh sa vào cái thấp hèn, vì nó là nghiệp dẫn đầu khiến tâm không định, tâm không định sẽ không sanh trí tuệ, không sanh trí tuệ sẽ không soi chiếu trở lại thứ ánh sáng khiến người ta bước lên một tầng thanh cao, để hưởng pháp vị vượt lên mọi dục thế gian.

Ở tác phẩm khác chưa công bố, mô tả cảnh người người đổ xô về chùa tìm chốn nương thân lánh nạn, tôi phán họ xuất thế gian chạy đi tìm Cực lạc. Những nhân vật không có chút khiêm hạ, không có lòng tự trọng, trốn tránh việc thế gian trong thời tao loạn chạy lên chùa xài đồ chùa mà phán là tìm Cực lạc! Thực tế trong trăm ngàn người, để thấy người chân thật trì giới tu Tịnh độ nguyện sanh về nước Phật, phải tìm mờ mắt. Bậc đại đức, tài sản của họ chỉ vài bộ y, mỗi ngày ăn đạm bạc không thể đạm bạc hơn, bữa ăn của “hộ nghèo”; họ không nắm tiền, hết thảy vật cúng dường dành làm từ thiện, ấn tống kinh điển hoằng pháp lợi sanh… Kinh ví một hạt gạo cúng dường nặng tựa núi Tu Di, người tu nhận rồi phải vắt chân đêm ngày mau chóng viên thành chánh quả, thực hiện ước nguyện lớn nhất: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Hòa thượng Tuyên Hóa, trong một buổi giảng Kinh năm 1969 có dặn: “Đừng nói là người tại gia, ngay cả tôi tuy là kẻ xuất gia, song hễ đến trú ở bất cứ Thường Trụ nào, tôi đều có cúng dường. Nếu quý vị quả thật là không có tiền thì không sao, nhưng nếu có tiền thì chớ nên xâm tổn của Thường Trụ; cho dù là người xuất gia cũng không nên xâm tổn của Thường Trụ. Bởi Thường Trụ là ví như đại địa, là nơi trú ngụ của đại chúng; nếu quý vị phá hoại, phung phí của Thường Trụ, khiến cho đại chúng bị thiếu thốn, không đủ ăn, thì quý vị có tội rất lớn”. Thế nên dòng người chạy đến chùa chiền xâm hại ở trên tội thực không nhỏ. Tam bảo là nơi dành cơ hội duy nhất cho con người thoát khỏi sự lầm mê. Chúng ta xâm lại Tam bảo cũng bằng tự che mắt thánh làm điều sai quấy. Kinh Đại thừa trang nghiêm bảo vương nêu chi tiết những ai phương hại, chiếm đoạt Thường Trụ lãnh quả báo ở địa ngục nhiều kiếp thật khủng khiếp, sau đó mới thác sanh vào trong một gia đình bần cùng hạ tiện với hình hài dị tật.

Một vấn đề rất cũ, và cũng đã được cắt nghĩa: Phật không phải thần thánh. Dĩ nhiên, người chứng sơ quả tức siêu phàm nhập thánh. Quả vị cao hơn như Sơ trụ Bồ tát họ đã đầy mình thần thông. Song không bao giờ có chuyện họ thị hiện. Do chúng sanh cần tự ngộ; hiển bày thần thông chẳng khác đưa “mồi” dụ dỗ (vốn có ở Ma), đánh mất cơ hội giác ngộ của người tu. Không ngộ dẫu có tu được chút thần thông cũng chẳng thể lên nước Phật. Đây là chân lý của Đạo. Bước biến chuyển sai lầm của tôi bắt đầu: Lúc gặp người kêu oan “vô vọng”, tôi không cho rằng có Phật; chập chững theo Phật, lại cho “ông” là bậc siêu nhiên. Bây giờ mới lờ mờ hiểu cái lý Phật “không phải” thánh thần. Tin thần thánh là tín đồ tôn giáo (trong khi gốc Đạo Phật không phải tôn giáo). Phật chỉ vào mỗi người và bảo: Phật tánh (chứa đầy đủ phước báu và trí huệ) có sẵn trong tâm vọng kia, hãy tin ở chính mình, trọn làm theo lời ta sẽ đến bờ giác ngộ); ai tin và hành theo Giới - Định - Tuệ mới chính là con Phật. Ngài từng căn dặn: “Nếu con coi ta là Phật, con sẽ không bao giờ thấy được Phật. Nếu con lắng nghe giáo Pháp của ta mà coi là Pháp, con sẽ không bao giờ thấu đạt được chân Pháp.” Gyalwang Drukpa XII gọi đó là "thông điệp vĩ đại”. Kinh Kim cang Bát nhã Ba la mật: "Nếu như vị A la hán nghĩ thế nầy: Ta chứng được quả vị A la hán, thời chính là còn chấp trước tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả". Nên có đạo lý: hễ ai phát ngôn chứng thánh (dẫu là quả Tu đà hoàn), người ấy sẽ bị tước bỏ. Lúc ấy họ chẳng phải từ đọt tre rơi xuống mặt đất mà chính là từ trên trời rơi thẳng xuống... hố đen. Nhà Phật có treo khẩu hiệu ngầm: hễ hôm nay để lại thân phận hoặc bị lộ mình là Phật hay Bồ tát tái lai, ngày mai họ sẽ rời nhân gian: (Bố Đại hòa thượng (Phật Di Lặc), Hàn Sơn, Thập Đắc (Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền), Vĩnh Minh thiền sư (Phật A Di Đà),… Chuyện về tổ Ấn Quang thời hiện đại (được xem là Bồ tát Đại Thế Chí tái lai) là một minh chứng điển hình.

Ngôn ngữ vốn dừng lại ở mức gọi tên cái đã có tên (siêu ngôn ngữ), với Thiền, ngôn ngữ chỉ tạm gọi tên điều bất khả (“Nếu pháp rốt ráo thì pháp tánh của tự tánh chẳng phải là tự tánh. Pháp thí dụ không thể thuyết. Nếu dùng danh tự cũng không thể thuyết. Đây là một pháp mà Như Lai giác ngộ” (Kinh Vô Tự Bảo Khiếp; đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh - Lão Tử). Chúng ta thường dịch Thiền là suy tư mặc tưởng (Méditation). Nhưng thiền vốn rỗng Không, vốn là thực tại nhi nhiên, trong sáng đến… ngây thơ. “Lập thiền” thì nhiếp tâm theo dõi mọi biến thái chạy qua tâm mà không dùng lý trí, không tâm tùy cảnh chuyển. Hoặc có thể thiền Tứ niệm xứ; đầu tiên là quán (tạm xem là suy tư mặc tưởng) về thân bất tịnh: từ lúc còn trong bụng mẹ, sinh ra bùng nhùng nhau thai nhuốm máu, quán đến những chỗ bẩn nhất trên cơ thể, quán trong mình chứa thứ hôi thối, quán bệnh tật mụt nhọt ghẻ lở, quán lúc chết nằm trong quan tài rữa nát… Đến một lúc hành giả sẽ định lại ở một mảnh người nào đó. Cao nhất là Thiền tự tánh thuộc Đại thừa, nghĩa là Tánh vốn định, đi đứng nằm ngồi đều ở trong định. Tôi từng được thân cận với người niệm Phật mà như không niệm, là tâm niệm, họ đứng hay ngồi hay nằm đều có thể định được.

Đời nay vẫn có nhiều bậc trì giới một cách nghiêm ngặt. Lấy giới làm Thầy theo “di chúc” của Phật. Nhưng lắm người nhìn vào lại phản bác sự “khổ hạnh” đó. Họ không cần biết giới luật là mạng sống của Phật pháp, ở đâu không có giới luật ở đó không tồn tại Phật pháp. Giới luật vốn là nền móng, không có nền móng là xây nhà giữa hư không, vin vào một niềm tin ảo tưởng. Phật đưa ra lối tu trung đạo (hành theo Bát chánh đạo). Tuy nhiên cần hiểu sâu hơn. Một hành giả chân chính phải ngày vài ba lần tham thiền, hoặc vài ba lần tụng kinh niệm Phật, lạy Phật, ở chùa thì ai nấy 3 giờ sáng là đã thức dậy chuẩn bị công phu. Đối với các bậc thượng căn thì mức độ hành trì còn “khủng khiếp” hơn nhiều. Hòa thượng Quảng Khâm một mình lên núi bế quan, ăn rau củ tự kiếm, nhiều lúc thiếu thốn suýt mất mạng. Ngài Hư Vân “tam bộ nhất bái” xuyên mưa gió bão bùng, đồi núi, một mình băng băng. Tâm không vững thì dẫu là thân sắt cũng gục ngã. Nghị lực phi thường đó nhiều lần kéo thiền sư khỏi cõi chết nhập thánh duyên. Luyện tâm là khó nhất trong mọi sự luyện (luyện thân, luyện trí, luyện đan, luyện gang thép…). Không nhẫn nhục khổ ải thì cái vé lên nước Phật rẻ rúng quá sao? Bậc minh sư đưa ra hai phương án: đời này chịu khổ chút chút để có Vô lượng thọ, ngược lại truy tìm cái sướng giả ảo một kiếp để nhận lãnh vô lượng nghiệp trong ác đạo, tùy chọn.

Nhớ hồi đọc Thiền luận, tôi gán yếu tố “cơ hội”, “ăn may” trong việc đốn ngộ. Kinh Pháp hoa: “Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng Nam Mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo”. (Nếu người tâm tán loạn, đi vào trong tháp Phật, niệm một lần ‘Mô Phật’, cũng đủ thành Phật đạo). Sự “thành Phật đạo” này hiểu là "sẽ thành" như Phật nói: "Ta là Phật đã thành chúng sanh là Phật sẽ thành"; còn thành lúc nào thì chưa biết được. Nhiều người nhờ nhân lành trong đời trước, phút lâm chung hội đủ nhân duyên, nên chỉ “mười niệm” vào thời điểm cận tử liền được tiếp dẫn lên thế giới thanh tịnh của Phật A Di Đà. Câu chuyện chép trong kinh: một ông già đến quy y với Phật, rồi đắc quả; các đồ đệ ngạc nhiên vì họ nhìn trong nhiều đời quá khứ của ông không thấy có nhân. Phật mới nói: các ông chỉ nhìn thấu suốt tám mươi vạn kiếp lại đây còn trước đó các ông không thấy; có kiếp ông ta là một tiều phu, lên rừng bỗng dưng gặp hổ, ông trèo lên cây, ngửa mặt lên trời "Nam mô Phật" cứu độ. Đấy là câu niệm Phật bằng cả máu huyết. Nhân lành ấy gieo, sau hơn tám mươi vạn kiếp mới viên mãn Bồ đề. Để thấy có người niệm vạn câu Phật hiệu vẫn không rút ngắn kiếp nào trên đường dài tiến hóa căn mạng, có người hành thiện suốt đời vẫn không tích được bao nhiêu phước đức, có người tu theo kiểu gieo nhân, nên mãi vẫn phàm.

Cũng như bản thân lạm bàn về giáo pháp thật vô cùng hổ thẹn. Phật học là đại dương, tôi chỉ có vốc nước soi khuôn mặt nhớp nháp của mình. Phóng con tàu hạnh nghiệp quá sớm lúc chưa đủ sức đuổi theo, những dòng thô mộc là mong người đọc ghi nhận ở tôi lời sám hối chân thành.

 

Phía sau văn bản đời người

Phật pháp là ngôi nhà chung của nhân loại. Nhưng những ai theo cuộc sống tạm bợ trần ai vẫn còn ngại ngùng bước vào. Một bài viết pha chút giáo lý nhẹ nhàng, người ta tạm gật đầu; thêm về thuyết nhân quả luân hồi người đọc hoài nghi; sâu thêm vào các tầng trời cõi Phật, về Tam giới liền bị chối. Cũng như một người bỗng đâu ai đó ngồi bên tỉ tê nghiệp quả phước báo, nghe chút thì vui vui gật gật, thêm nữa liền kêu đủ rồi.

Cuộc sống vật chất luôn tích trường nghiệp lực che lấp phần minh tuệ. Ấy nên Jesus mới phản tỉnh: Người giàu muốn vào nước Chúa cũng khó như con lạc đà chui qua lỗ kim. Nói vậy dễ bị quy kết con người đi thụt lùi, xã hội không phát triển. Về con người, hãy làm một phép so sánh mối quan hệ trong gia đình, mối quan hệ thầy trò và họ hàng làng xóm ngày xưa với đời nay thì rõ nhất ở mặt hiếu - lễ - kính. Về mặt xã hội, người ta cũng sẽ bảo Tây Tạng là vùng đất lạc hậu chậm tiến. Sự lạc hậu chậm tiến đó nay cả nền khoa học triết học thế giới đổ về nghiên cứu khám phá, học và hành.

Tâm lý học Phật giáo Duy thức đã giải phẫu tỉ mỉ con người ở Tâm lý học và cả Y học hiện đại cũng thán phục. Kiếp trước kiếp sau cũng là sự thật hiển nhiên theo cái nhìn khoa học. Thời điểm cuốn Tử Thư Tây Tạng ra đời từ thế kỷ thứ VIII, nó “giấu mặt” suốt 6 trăm năm để người đời đủ thời gian tỉnh táo tiếp nhận. Nhưng tác giả cũng không ngờ là cho đến nay, khi được dịch ra nhiều thứ tiếng nó vẫn nằm bụi bặm ở các quầy sách lớn trên thế giới. Người ta hoài nghi, e dè kiêng kị, sợ chạm vào nó kiểu như chạm vào xác chết. Mà đâu ai tránh được cái chết. Ngay cả tỉ phú đủ tiền mua một thành phố, vẫn chết rất trẻ. Nếu con người điều khiển được quy luật nhân quả, hẳn nhiên các tỉ phú là người sống thọ nhất. Khi cái chết chiếm lấy thân, giống như ta (không hay) được trang bị thở bình ô xi rồi nước dâng lên quá đầu… ta mới à lên thì ra sự sống vẫn tiếp diễn. Sự tu tập sẽ có cơ may sau khi người ấy trải vòng luân hồi hắc ám trong các nẻo. Phủ nhận nhân quả luân hồi là phủ nhận khoa học hiện đại; phủ nhận hành trì tâm linh, dẫu là thiên tài chết đi “thiên tai” sẽ phủ trắng những gì ta có. Trôi lăn khổ não qua nhiều kiếp, phải ăn mày từng câu kinh mong được siêu thăng. Người ta vẫn thường xây lăng mộ cho người thân và xem đó là ơn đức. Thay vì xây lăng mộ, nên dùng tiền đó giúp kẻ bần khó, phóng sanh hành thiện may ra người thân bên kia mới như cánh diều được cắt dây. Còn không họ chỉ chia nghiệp dữ từ việc phung phí tiền của vào lăng mộ cho mình. Nhiều nhà ngoại cảm ra nghĩa trang thấy vô vàn người đứng ngồi san sát. Hầu hết còn bị nghiệp trì níu. Những vong hồn ấy như vô vàn quả bóng. Việc cứu chuộc không đơn giản dùng kim chích vào cho nổ tan. Họ chỉ biết mình đang chịu nghiệp (đứng đó), không biết bao giờ mới được độ nếu thân nhân không ngày đêm tích phước hồi hướng. Người ta lại sẽ thốt lên, xưa xa đến nay ông bà tổ tiên nội ngoại bao người đã sống và chết đi có ảnh hưởng gì đến sự sốngngười dương? Nhưng, chúng ta có biết và có tìm hiểu những người đã mất họ giờ ở đâu, là ai? Hẳn ta không dám biết? Phật pháp với lòng tư bi vô hạn đã giấu giùm chúng ta.

Người Ai Cập linh cảm được “điều gì đó” sau cuộc đời nên xem cõi này tạm bợ, mới xây Kim tự tháp; dĩ nhiên đây lại là một bước sai lầm, bởi để chuẩn bị cho kiếp sau chỉ xây cho mình một nấm mộ lớn thì quá đơn giản. Dân gian có câu “sống gửi thác về”. Thần Chết là một mãnh hổ từ nhỏ sống trong rừng sâu địa thẳm, sa bẫy. Người ta do vật chất che mờ nên không biết Thần ấy đã được thuần dưỡng, nên chẳng bao giờ dám thân cận vuốt ve. Người ta nhìn Thần Chết với ánh mắt lạnh lùng, để rồi Thần Chết đối với người đó khô kiệt tình người, ác tâm dần dần khôi phục.

Sống trong vòng tay của Đạo, con người sẽ an bình tự tại. Chấp dùng vật chất làm thần hộ mạng chẳng khác ta tự tù đày cuộc sống của mình. Từ cái mũ bảo hiểm nhỏ, người ta kiếm cho bằng được tiền tậu cái “mũ bảo hiểm lớn”, tậu danh vọng rồi sanh tâm kiêu ngạo. Con người có đại ngã thì trên đầu họ không phải bầu trời mà là cái vung! Ai cũng có quyền hưởng thụ. Có tiền, ai cũng có quyền ăn uống xả láng nếu trên hành tinh xanh không còn vô vàn người chết đói; ai cũng có quyền xả nước sạch ào ào, tắm bồn hàng ngày nếu trên trái đất này như ở vùng châu Phi không còn người dật dờ bước hàng chục km để được uống một hớp nước; ai cũng có quyền thắp ánh sáng suốt đêm (mà chẳng để làm gì) và phung phí các thiết bị xài điện vô ích khác nếu như một phần của trái đất không chìm trong bóng tối. Nếu như những vùng nghèo đói thiếu điện thiếu lương thực thiếu nước, thiếu đủ thứ ấy được dời đến gần thành phố chúng ta… Không cần ống nhòm hay kính viễn vọng; nhìn bằng con mắt của đạo, tất thảy nỗi đau đều bên cạnh chúng ta.

Sự tích nghiệp dường như vô tình và nằm ngoài sự kiểm soát sẽ khiến con người cõng đá bước trong đầm lầy ở bên kia núi. Hay nghiệp ấy sẽ là trùng trùng đất đá tấp lên thân xác... Ví cái chết như thay áo, chưa đủ. Ta tích nghiệp, kiểu như một con rắn oằn oại lột da. Quá nặng nghiệp thì gần như chính ta lột da mình. Cái đau rên xiết ấy sẽ thấm dài vô tận. Người đời vẫn dạy con cháu sống cho xong kiếp này hẵng tính. Có thể ví sự sống như một viên kim cương luôn bất ly thân, và rồi tên trộm (thần chết) sẽ nhón đi bất cứ lúc nào bạn lơ đễnh. Nếu có ông thầy bói cực giỏi xem chính xác số mạng, liệu ai có dám đối diện với thông tin kinh hoàng đó. Hay, ai cũng vô tình “muốn” cái chết đến bất ngờ.

Cái chết dẫu đến bất ngờ chăng nữa, thì nó cũng không quan trọng nhiều nếu phía sau đó là số 0. Thử tưởng cái chết đến với ta... hay ngược lại cái chết đến với người thân; ta tiễn họ lên con tàu về vô xứ. Họ không có gì mang theo, trong lúc ta chẳng có một đồng (phước đức) dúi vào tay họ; ứa nước mắt trước cảnh họ lầm lụi trong mù mịt, vừa lê bước vừa xin ăn, rồi bao tai ương chướng ngại như thác lũ... Thầy Drakpa Gyaltsen có nói: “Loài người trải qua suốt cả đời để chuẩn bị hết việc này tới việc khác chỉ để thình lình bắt gặp đời sau mà họ hoàn toàn không chuẩn bị”. Nếu biết tin sau sự sống này là một sự sống khác vô tận với biết bao trầm luân, với biết bao kiếp nữa phải kinh qua hẳn con người đã không tranh giành giẫm đạp nhau chạy theo xa hoa. Nếu an tu tự tại, một bữa ăn vài món rau cỏ, người ta vẫn vui so với bữa đại tiệc mà kẻ dự phần vẫn thấy món này nấu chưa đạt, món kia còn thiếu một vài hương vị... Nhiều người băn khoăn sao nhà sư phải tự rước khổ, đâu biết họ quá ư hoan hỉ. Vật chất không thể là thước đo an lạc. Thật nghịch lý khi cha mẹ tích trữ tiền bạc đến cả đời con sống vương giả thỏa thuê. Những đứa trẻ đó sẽ chỉ chú tâm vào việc tiêu tiền và tích nghiệp. Kho tàng mà chúng ta để lại cho con cháu không nên vàng bạc châu báu mà nên là kho tàng tâm. Từ nhỏ một đứa trẻ đã bị gánh nghiệp. Với một gia đình có mức sống khá, trong dăm năm đầu chúng đã không thiếu thứ gì, nhất là khoản ăn mặc. Từ nhỏ chúng không nếm khổ. Nhiều cha mẹ còn ép con dùng thịt và hải sản thay cơm. Chúng sẽ chịu hai loại nghiệp: Về tâm linh là nghiệp sát do ăn mặn; về khoa học chúng sẽ mang bệnh do thừa chất. Bệnh vốntừ nghiệp tích tụ trong tâm. Tâm là ngọn đèn của thân. Đèn sáng thì thân vô nhiễm. Rồi sự chiều chuộng, vun vén vị kỷ... Cha mẹ cũng hại con? Đúng, bởi họ không biết mình đang bơi ngược dòng minh triết.

Phật pháp không phải là miếng mồi giơ ra để con người nổi tham chụp lấy. Trong kinh Phật lý giải tiến trình khám phá chân lý phải theo nguyên lý Tín - Giải - Hành - Chứng. Người phàm chúng ta bởi luôn bị điều động bởi Tham - Sân - Si - Mạn nên nếu không thực hành tâm pháp, cao lắm chỉ đạt mức Tín và Giải, tức “thế trí biện thông” - một trong tám nạn ngăn chặn sự tiến hóa vận mạng. Đại diện của khoa học đến như nhà bác học Albert Einstein chứng nghiệm thành tựu trọn đời đã phát biểu: "Chỉ tri thức và kỹ năng thôi không thể dẫn dắt loài người đến một cuộc sống hạnh phúc và có phẩm giá được. Những người khai sinh ra các chuẩn mực và giá trị đạo đức cao quý luôn xứng đáng được nhân loại đề cao hơn những người khám phá ra chân lý khác quan…. Những gì nhân loại chịu ơn những nhân cách như Đức Phật, Moses và Jesu đối với tôi còn cao hơn tất cả thành tựu của những bộ óc khám phá và phát minh". Tin khoa học, nên tin điều khoa học đã chứng minh trước nền văn minh chúng ta từng có những nền văn minh tột đỉnh khác đã hủy diệt. Khoa học cho biết loài người tiến hóa từ khỉ là phi lý, song trong đầu ta lúc nào cũng mặc con khỉ nhảy múa trêu đùa!

Con người hiện hữu trên trái đất do duyên nghiệp từ các kiếp trước. Đức còn, nghiệp chưa sờ đến. Đức vơi, là lúc nghiệp đánh hơi, tâm rối, tướng mạo bắt đầu mất dần sắc khí. Nhiều người tiền bạc phủ phê; cũng như các dòng tộc sống ác vẫn còn chút bình an là bởi phước họ quá nhiều, một đời xài chưa hết. Dấn thêm vào đời sau hoặc sau nữa họ sẽ lâm nguy và có khi nghìn vạn kiếp chưa thấy mặt trời. Tất cả những điều này nói ra sẽ là viễn vông đối với những ai không tin Đức Phật là bậc đại trí huệ. Người Tây Tạng có nghi lễ: vẽ bức tranh tuyệt mỹ bằng một dạng màu như cát. Mandala. Họ vẽ trong chánh niệm, trong cõi thiền tuyệt tĩnh mất hàng tuần mới xong. Đỉnh cao nghệ thuật. Mê hồn. Song vừa lúc bức họa hoàn thành liền bị xóa đi. Đời người cũng như vậy. Bòn rút thời gian tô vẽ trau chuốt, đẹp như bức tranh kia cũng trong một giây thôi. Có thông điệp nào thâm thúy đến vậy. Tử thư Tây Tạng, xem là chìa khóa mở mở một góc nhìn về kiếp khác, bắc cầu đến ánh đạo vàng. Để nhận chân sự hiện hữu của chúng ta mong manh như mây mùa thu như lời Phật. Để biết mình sẽ phải đi về đâu. Để biết đạo Phật đã thấm vào căn cốt của người Tây Tạng từ hàng chục thế kỷ trước nên ở họ luôn toát ta đức khiêm cung và hương bát nhã.

Tạng thư sống chết của Sogyal Rinpoche viết:

“Nếu ước muốn sâu xa nhất của chúng ta quả là sống và tiếp tục sống, thì tại sao ta lại cả quyết một cách mù quáng rằng chết là hết chứ? Ít nhất cũng nên thử thám hiểm xem có thể có đời sau hay không đã chứ? Nếu quả thực chúng ta có óc thực nghiệm như ta tuyên bố, thì tại sao ta không khởi sự tự đặt câu hỏi cho mình một cách nghiêm chỉnh: “Tương lai thực sự của ta nằm ở đâu?” Chung quy, chẳng có mấy ai sống lâu trên trăm tuổi. Và sau thời gian đó là cả một thời gian vô tận trải dài, không được giải thích...”.

“Nếu bây giờ chúng ta không chịu chấp nhận cái chết trong lúc ta đang sống, thì chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt suốt cuộc đời, vào lúc chết, và sau khi chết. Hậu quả sẽ là, ta tàn phá cả cuộc đời này và tất cả những đời sắp tới. Ta sẽ không thể sống cuộc đời mình một cách viên mãn, ta sẽ cứ bị giam hãm trong cái phần phải chết của ta. Sự vô minh này sẽ cướp đi của ta cái căn bản của cuộc hành trình tiến đến giác ngộ”.

Biết về sự sống sau cái chết, chắc chắn ai cũng lo chuẩn bị cái chết. Tức hành trang về cõi chết luôn sẵn trong tâm. Nhiều người suốt đời chuẩn bị cho cái chết vẫn chưa đủ tự tin để chết, huống hồ chỉ lo đến tờ di chúc và những gì bày biện dưới cái rạp tang. Trong ngàn vạn pháp môn làm phương tiện cho người thoát bể khổ, Tịnh độ tông chủ trương niệm "A Di Đà Phật", niệm đến nhất tâm khi chết sẽ từ cõi Cực Khổ bay về Cực Lạc trang nghiêm thanh tịnh. Nhưng ai đã niệm Phật mới hiểu không dưng chưa hề gội rửa bằng thiện nghiệp lại có thể định tâm. Tương đương với việc cuộc sống của họ phải như nhiên không hề nhúng tay vào cấu uế, và trong đầu hễ không phải lo việc thế gian thì luôn luôn "A Đi Đà Phật", lúc ngủ cũng như thức đều sống với câu hồng danh khai trí tuệ và huệ mạng này. Trong tâm họ luôn có "A Di Đà Phật", và cái chết dẫu đột ngột viếng thăm thì xem như nắm được vạt áo của Đức Quán Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí tiếp dẫn về cõi Tịnh. Chuẩn bị cho cái chết, nó đâu ảnh hưởng gì đến cuộc sống của ta. Nó chỉ “cướp đi” sự ích kỉ hẹp hòi trong mỗi ta thôi. Phú quý sinh lễ nghĩa. Chúng ta quá sa vào lễ nghĩa. Lễ dành cho cái chết thật ra chỉ quan trọng khoảng một giờ trước lúc người ta tắt thở và sau đó khoảng 9 tiếng yên tĩnh ngoại trừ lời khai thị giúp họ bước qua cánh cửa màu đỏ. Sau đó cái xác... vô dụng. Thế nên ở Tây Tạng mới có tục Thiên táng (để xác trên núi cao "cúng dường" cho lũ kền kền có được bữa no).

 Hiểu Đạo Phật không khó. Khó là ta chỉ hiểu mà không chịu hành; không mang thai nghi tình nên chẳng thể nào khai phóng bản thể. Học rồi hành rồi soi trở lại những điều mình học, sẽ cảm được niềm vui khôn tả. Ta hiểu thiền là meditation (suy tư mặc tưởng...), lúc hành thiền sẽ nhận ra ngôn ngữ không thể diễn đạt linh nghĩa Thiền và diệu lý của Tịnh. Lời Phật vang đến ngàn sau: "Cái thế giới của sinh tử mà ta đang sống là một biển khổ vô biên không thể nào chịu nổi. Chỉ có một con đường duy nhất ra khỏi vòng sống chết bất tận đó là con đường giải thoát49 năm thuyết pháp, trước lúc nhập diệt Phật Thích Ca lại bảo “Ta chưa nói điều gì”. Là sao? Bởi: (1) Ngài bảo ta chỉ hoàn toàn thuật lại lời dạy cổ Phật (như Khổng Tử nhận mình nói lại lời cổ thánh không thêm bớt không sáng tạo - thuật nhi bất tác); (2) Lời Phật như thuốc trị bệnh; Ngài sợ đời sau chấp văn tự là chân lý - như uống nhầm thuốc, nên “ngón tay chỉ trăng” phải rụng; (3) Theo lý Bát nhã, mọi lời nói của Phật đều tuôn chảy từ Tự Tánh, nên nói mà không nói, ấy là nghĩa Vô Trụ; ai chấp lời nói thành ra Có Trụ mất rồi; (4) Một lời trong kinh điển gồm vô lượng nghĩa. Đời sau dựa trên mặt ngữ nghĩa diễn dịch theo ý mình thì đã phần nào sai biệt (Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan/ Ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết); (5) Phật muốn mỗi người “hãy tự thắp đuốc mà đi, đừng dựa vào ai khác; hãy y vào chánh pháp” soi đường.

Nếu ta không tự đập bức tường ngăn giữa hai cõi sống - chết; chúng ta không tin nhận lời Phật dạy, ban phát tâm từ đến tha nhân gắng sống một đời phạm hạnh thì sẽ không ai cứu được. Dẫu Phật ngậm tiếng hàm oan bỏ mặc muôn loài.

 

Con người giấu cái đuôi ở đâu?

Có thể, khi minh định được loài người thoát thai từ đâu, hẳn đó là giai đoạn đầu của sự hủy diệt, bởi chúng ta quá chậm tiếp cận những chân lý mầu diệu. Nhân loại bằng tiến bộ vượt bậc của khoa học, những bí mật lớn về tâm linh đã rọi ra tia hy vọng cứu rỗi giống loài. Nỗ lực vén bức màn vô minh thấu cảm chân tướng vũ trụ sẽ vô vọng nếu không dựa vào khoa học huyền bí.

Chúng ta biết, trái đất từng trải qua thảm họa Đại hồng thủy cuốn sạch người Át-lan; riêng đỉnh Himalaya và Tây Tạng nước không vươn tới, nên hiển nhiên nó được đoán định là nơi cất giấu hạt giống loài người. Ngành khảo cổ học cũng tìm thấy trong các hang động cổ xưa hình vẽ mô tả các loại máy móc về Y học, hiện đại hơn cả bây giờ; xem là nền văn minh tiền sử bị lấp vùi. Việc phát hiện ra các bích họa tuyệt mỹ ở dãy núi Alps; những dấu chân hóa thạch có niên đại cách nay mấy trăm triệu năm đã cho thấy người tiền sử từng sinh sôi, rực rỡ vượt xa nền văn minh chúng ta. Rồi giới khảo cổ còn tìm thấy các di vật cách hàng tỉ năm, khi mà vỏ trái đất chưa thật hoàn thiện... Nên biến cố “trùng tang” giữa các hành tinh, có nguy cơ gây nên bão từ không gì lạ. Nhiều năm trước có một hội nghị khoa học khám phá ở Sydney, trọng tâm bàn về tương lai ảm đạm của trái đất. Bản tổng kết không báo động cũng không đảm bảo sự an toàn cho loài người. Tuy điều đáng lưu ý, họ hy vọng cư dân trên địa cầu từ nay "bỏ ác dương thiện, cải tà quy chánh, đoan chánh tâm niệm” để cứu rỗi đại họa. Bởi tư tưởng và ý niệm bất thiện của loài người (chưa bàn tới hành động) có thể “kết tinh” thành sóng thần và bão lụt và nhiều tai ương khác.

Nền văn minh càng phát triển, người người chạy theo lối sống vật chất, nhân tâm khô cằn hoang hóa. Một số cường quốc tự hào về việc chế tạo các loại vũ khí tối tân, tự hào việc tìm ra các hành tinh mới mà không mấy để ý đến những khám phá tâm linh mang tính quyết định cho tương lai hoàn cầu. Mundasep - Gs Y học, Giám đốc Trung tâm phẫu thuật mắt Liên bang Nga, ông đã hành trình qua Tây Tạng chụp những “con mắt thứ ba” trên các đền đài cổ, dùng kỹ thuật hiện đại dựng lại hình dáng của một loại người có tên Xô ma chi. Người Xô ma chi đã rời thế gian hoặc vẫn ngụ trong lòng các ngọn núi, như là sự di truyền hạt giống cho nền văn minh hậu trái đất; trong đó Himalaya, Tây Tạng được xác định là trung tâm quỹ gen của nhân loại. Qua tiếp xúc với các Lạt ma, Gu ru, khám phá của Mundasep là kho tư liệu quý giá về phương Đông khó có so với khoa học nghiên cứu tâm linh trước ông.

Bây giờ khái niệm linh hồn không còn xa lạ tại Việt Nam. Viện Tiềm năng con người hiển nhiên là cầu nối thông tin giữa cõi sống và cõi chết, dẫu cho sự biết đó rất hạn hẹp ở bề thấp trong cõi Trung giới và giai đoạn Thân trung ấm của đời người. Linh hồn là cách gọi dân gian thô tục, thực tế trong Kinh Phật giải ở một tầng rất thâm sâu, gọi là thần thức, là tàng thức (alaya) lưu chủng tử và chủng tử nào mạnh nhất sẽ cơ bản quyết định cho sự đầu thai tái sanh của một người. Khoa học gia Mundasep, lúc qua Tây Tạng mới làm quen được khái niệm Từ Bi, rồi trong thời gian ngắn ông khám phá thêm các thức sau kiếp người. Ai cũng có cơ hội đến bờ giải thoát trầm luân, có thể trong chúng ta “đang là” đây sẽ cán đích trong kiếp này hoặc nhiều kiếp nữa, cũng có thể trôi trong lục đạo cả A Tăng Kỳ kiếp. Một người nông dân ngộ Đạo, nếu tính trên mặt bằng cõi nhân, họ tiến bộ hơn nhiều một trí thức xem thường Phật pháp. Danh giá bây giờ, song họ phải nhận thêm nhiều kiếp nữa để tiến hóa vận mạng như người nông dân kia.

Không nhất thiết lật lại vụ nổ Big Bang, cũng không cần soi lại thuyết Tiến hóa. Mundasep bước đầu cảm nhận chủ nhân của các Kim tự tháp là người Át-lan có tuổi thọ 78.000 năm (trong lúc nếu là của người Ai Cập mới chỉ khoảng 4 - 5000 năm). Vậy các Pharaông từng được xem là xác ướp, có thật? Giả thuyết: đó có thể là những Xô ma chi tạm thời gửi xác trong các “tháp mộ”; thời điểm loài người hủy diệt, (hồn) họ sẽ quay lại nhập vào xác duy trì giống người. “Học thuyết bí ẩn” của học giả người Nga E.P. Bờ-la-vát-cai-a xuất bản năm 1937, xin phép dẫn lại từ sách Con người thoát thai từ đâu: “Tại nơi bây giờ là hồ nước mặn và những sa mạc cằn cỗi hoang vu, đã từng có một biển cả nội địa rộng lớn, trải dài từ dãy núi Himalaya hiên ngang và các nhánh phía tây qua Trung Á đến phương Bắc. Trên đó có một hòn đảo đẹp vô song là nơi cư trú của những người còn lại cuối cùng của Chủng tộc trước chúng ta”.

Xô ma chi cũng gần với trạng thái “nhập định viên mãn” trong Thiền Nguyên thủy. Người tu đắc quả La hán, tế bào của họ sẽ được thay bằng năng lượng thanh cao, có thể đưa xác lên cõi khác hoặc xác ấy để lại trần gian mãi mãi không hư hoại (một dạng như 2 vị chân tu để lại nhục thân xá lợi ở chùa Đậu). Trường hợp Xô ma chi tạm thời gửi xác trong hang đá, trong lòng đất hoặc cũng có thể dưới đại dương; họ sẽ trở lại lấy xác hoặc không, bởi chính (thể tánh) họ, bằng năng lực siêu nhiên hoàn toàn tạo được một thân hình vừa ý khác. Ở Tây Tạng có người Xô ma chi mật tu trong các hang động; người đời không được phép vào trừ những ai thực sự tịnh hóa thân tâm hoặc người xin vào với sứ mệnh lớn lao thức tỉnh nhân loại. Điều này lô gích với số người thiệt mạng tại hầm mộ Pharaông trong các Kim tự tháp. Hiểu cách khác, xác ướp ấy được gửi lại trần gian theo kiểu Xô ma chi. Đó có thể là một phần trong quy luật của vũ trụ, vĩnh viễn bất khả tri với “người thường” dẫu có sáng chế ra kính thiên văn nhìn thấu thiên hà.

Người đạt trạng thái Xô ma chi xuất hồn gửi xác hàng triệu năm, thì họ hoàn toàn chủ động kiếm phần xác thích hợp khác hay tự tạo ra phần xác cho mình để sinh ra một giống người mới trên trái đất sau thảm họa... Chúng ta cần suy ngẫm khái niệm Nghiệp. Nghiệp là “bộ máy” tinh vi phân tích nhân tạo quả chi phối xuyên không gian và thời gian. Trong giới động vật, mỗi loài đều do quy định của nghiệp quả. Vũ trụ có vô số cảnh giới khác nhau được tạo ra để phân loại cho giới loài sinh sống. Danh sư Di Pama chui được xuống đất song khi lên người ướt rượt, để thấy ở cảnh giới bà thâm nhập, mặt đất không phải đất mà là nước. Trong kinh Hoa Nghiêm mô tả: “Ở bờ sông Hằng, có trăm ngàn ức vô lượng ngạ quỷ lõa lồ đói khát, khắp mình lửa cháy. Những quạ, kên kên, chó sói đua nhau rượt bắt. Các ngạ quỷ này vì quá khát muốn tìm nước uống, nhưng dầu ở bên sông mà chẳng thấy nước. Cũng có kẻ thấy sông nhưng lại thấy khô cạn. Tại sao vậy? Vì các ngạ quỷ này bị nghiệp chướng sâu nặng che mờ”. Cũng như trong ngôi nhà rỗng của chúng ta, nhìn thì trống không, thực tế có cảnh giới cõi âm, “người” vẫn tồn tại (trong cảnh giới của họ). Thấp hơn là cõi ngạ quỷ, địa ngục... và nhiều cảnh giới nữa vẫn “tận dụng” không gian của loài người mà xem ra chẳng ảnh hưởng đến nhau. Loài tinh tinh thông minh, khoa học giải mã bộ gen của nó gần trùng khớp với người. Cũng yêu ghét giận hờn, sẻ chia vui buồn, cũng tham sân như ai, nhưng tí chút khác biệt chính là cái nghiệp khiến nó phải là con tinh tinh trọn kiếp!

Để phá Mê khai Ngộ, con người phải đánh đổi mọi tục lụy tầm thường trải qua sự huân tu lâu dài mới mong hưởng được pháp lạc. Kinh Phật vẫn từng nhắc đến rất nhiều vị La Hán, Bồ Tát thần thông quảng đại, dời chuyển không gian. Ngài Mục Kiền Liên xuống địa ngục thăm mẹ, xem Đề Bà Đạt Đa bị đọa như thế nào; Chân sư Di Pama có thể quay về nhiều ngàn năm trước ngồi chung với các tỳ kheo nghe Phật giảng Tứ thánh đế; Thiên Thai Trí Giả đại sư trong định ngồi nghe Phật Thích Ca giảng kinh Pháp Hoa ở núi Linh Thứu; ấy là “thế gian tướng thường trụ”… Người chứng Đạo hầu như có thần thông. Vậy tại sao tất thảy họ không tiêu trừ hết khổ đau cho nhân loại? Đâu dễ. Nghiệp ai tạo nấy mang. Như tên giết người đêm nào cũng nằm mơ bị rượt đuổi báo oán, sống trong ác mộng, điều này là tự chuốc lấy như chính lúc họ bước qua kiếp khác mà hậu quả còn khủng khiếp trăm vạn lần. Nghiệp tự chiêu tự cảm. Con người rớt xuống cõi này đều do lãnh nghiệp từ tiền kiếp, đòi hỏi phải hóa giải, tự tháo gỡ; Phật chỉ cho lối thoát và ai nấy tự thắp đuốc mà đi; cũng như lương y bốc thuốc, người bệnh không tin không uống đành chịu! Nếu khả năng kỳ diệu (do đắc Pháp mà có) phơi lộ trước mặt, chúng ta sẽ nổi tham; đã nổi tham liền gặp chướng ngại, nói chi đến ngộ đạo. Nếu ai đem huyền năng khoe khoang trục lợi, phô bày bản ngã, chắc chắn sẽ bị rút phép thông công.

Thật nghiêm trọng nếu nghĩ đạo Phật chỉ dành cho một bộ phận người, ai không theo không cần giữ giới. Thực tế Phật pháp dành chung cho nhân loại. Cõi người là tầng rất thấp trong Tam giới. Chúng ta “rớt” xuống đây xem như cõng nghiệp, duy trì thân mạng cốt tạo phước hầu trả nghiệp tiêu nghiệp, nhẹ gánh mà bay lên. Muốn tìm lại đúng con đường về cõi Cực lạc, không ngọn đèn nào soi tỏ ngoài ánh hào quang của Phật. Chúng ta không nên học Phật qua “tảng băng nổi” mà phải học bằng Tâm ở phía sau văn bản, tức chặt đứt “ngón trăng”. Cho dù “triết học Kinh Phật là nền triết học cao nhất của triết học thế giới” (như nhận định của Giáo thọ Phương Đông Mỹ) thì sau sở học là hành. Là tẩy nghiệp, thắp lên những ngọn đèn trong tâm thức mờ mịt. Cao nhân Phật pháp, họ cũng chỉ nhận mình là hành giả chứ không gắn mác học giả bao giờ. Nếu cảm Phật bằng Tâm, chúng ta sẽ không mất quá nhiều thời gian chờ đợi ngành vật lý lượng tử chứng minh bí mật của vũ trụ mà Đức Phật đã nói gần ba ngàn năm trước.

Giữa một xã hội ngày càng thực dụng, động loạn, Phật pháp cũng mềm dẻo hòa vòng dòng sống để thanh lọc tâm người, càng tối thắng khi chúng ta được chư Bồ tát hóa hiện “làm người thường” len lỏi vào nhân gian hóa độ như trong kinh Hoa Nghiêm dự báo. Từ Phật giáo Tiểu thừa (Nguyên thủy) đến Phật giáo Đại thừa (Phát triển) là một quá trình biến đổi lớn về tư duy hành đạo. Ta vẫn có thể “trà trộn” vào dòng đời, lấy đời làm trường tu, nhiếp phục tâm làm hiển lộ tánh giác. Khi miếng ăn bị xâm hại, nếu ta biết đặt sự nhường nhịn lên trên hẹp hòi ích kỷ thì xem như đã vượt qua một trong số cửa ải tử sinh. Khi biết chịu thiệt về mình để ban phát tình thương lên vạn vật thì nỗi sợ hãi và nghiệp nạn sẽ khó chạm được vào cánh cửa tử sinh kế tiếp. Nếu trái đất bị đảo chiều suy biến, khi đó tâm từ mà ta luyện thành sẽ là nơi an trú viên mãn. Có thể chưa nhiều người tin, (trừ các nhà khoa học lượng tử tiến bộ), tương lai nếu ai cũng chọn cho mình một câu chú (như bên Mật tông), một đoạn kinh hay thường nhớ niệm hồng danh “A Di Đà Phật”, là đang góp phần thanh lọc từ trường trái đất, góp phần thiết yếu đẩy lùi nạn nghiệp của nhân loại.

Nếu trái đất không lâm đại nạn như nhiều “tiên đoán”, hoặc cộng nghiệp sai số hàng chục, hàng trăm nghìn năm thì tương lai gần của loài người cũng không sáng sủa cho lắm. Đạn nạn và tận thế chính là khi chúng ta bị đời sống vật chất che đi chân lý vĩnh hằng. Đại nạn chính là lúc con người không còn màng đến giáo thuyết về chân tướng của vũ trụ từng giờ phút tác động lên cuộc sống của chúng ta. Ngày tận thế chính là lúc cái chết đang sờ gáy mà chúng ta hoàn toàn mù tịt về một đời sống bên kia núi trong lúc khoa học hiện đại đã chứng minh xong chuyện chết không phải hết. Còn nhìn ở sự tướng trong tương lai, đại thế chiến tiền ẩn. Bom nguyên tử chờ kích hoạt… Sự lệch quỹ đạo trái đất sẽ tạo nên địa chấn, đại dương trồi lên và phần đồng bằng đồi núi lún xuống. Điều này lý giải nguyên do chúng ta tìm thấy những thành phố chìm dưới đáy đại dương. Thời điểm nền văn minh vật chất “lên đỉnh”, thời điểm các cường quốc “chơi cờ người” phục vụ cơn ngông cuồng của nhóm người băng hoại đạo đức, biết đâu sẽ có bàn tay thiên tượng (vốn là nghiệp quả chung từ ý niệm xấu ác của nhân loại kết tinh mà thành) xóa bàn cờ thế sự tạo nên một nền văn minh mới. Sẽ chẳng có bất công khi tất cả cùng lâm nạn song người xấu xuống địa ngục còn người tốt lên cõi thiên; người bị đầu thai vào lớp động vật bậc thấp còn lớp người thuần thiện hưởng phước tại các cõi Vô sắc giới, và hơn hết là các bậc chân tu luôn bình tâm trước những đảo điên.

Nếu chúng ta gạn khỏi “bể khổ” lớp váng vô minh và không nhìn Phật pháp qua lăng kính màu của mê tín, của chính trị và quyền lực thì miền huyền nhiệm trong mỗi người sẽ tự thắp sáng sau những bể dâu.

 

Phần III

THƯ GỬI BẠN

 

Nơi hoang vu phận người

Mình không biết bắt đầu cuộc chuyện với bạn từ đâu lại không phảng phất hình bóng của K. K - tên nhân vật bạn đặt cho vợ trong một truyện ngắn gần đây, người con gái tưởng đã chết lặng từ lâu trong ký ức mình. Nhưng mình đã nhầm. Hẳn bạn sẽ rất giận bởi mình từng nghĩ, bạn không bảo đảm cho K một cuộc sống tốt. Và để trả đũa cho sự hiểu nhầm đáng tiếc về mình và K, cộng với sự kiêu mạn của một người sung mãn tiền tài, bạn đã buộc K rời công sở. Cho đến một sớm, vẫn góc quán cà phê ấy, mình thấy chiếc ô tô mới toanh đậu trước nhà bạn, K bước xuống với một con người khác hẳn những gì mình lưu giữ; lối sống vương giả đã khiến tâm hồn trong trắng kia gợn đục, mình thoáng nghĩ đã mất K rồi. Và tin K bị ung thư lượn lờ trên mạng, càng khiến mình tin bạn chẳng những không đưa lại cho K những gì tốt đẹp nhất mà đang buông K trôi vào cõi khác.

Mình đã đọc hết những cuốn sách của bạn. Đó thực sự là một cố gắng, có lẽ cốt nhặt nhạnh thông tin về K trong không gian sống bạn dựng lên thành tác phẩm. K gần như bị nhốt giữa một đời sống thượng lưu không nhận ra những đám mây gợn đục trong đôi mắt trong veo mây trời. Nhớ lần mình bắt con ve sầu, K không nhận và bảo: “Tha cho nó đi anh”. Mình đã nhìn rất sâu vào đôi mắt ấy, mê dụ đến bàng hoàng. Mình đọc được ẩn ngữ từ trái tim của K và dường như muốn quỵ xuống bởi hình ảnh thoáng qua: trong một ngôi nhà cao sang K đứng trên sân thượng u sầu nhìn về hun hút đồng quê xanh mát này. Lại nhớ mấy năm trước mình tặng bạn cuốn Hiểu về trái tim, cuốn sách được những học giả tiếng tăm ấn chứng, đạt kỷ lục về lượng phát hành ở Việt Nam 100 ngàn bản trong năm đầu tiên; tưởng đến cảnh bạn đọc bài đầu sách “Đau khổ” liền mừng vui đưa K xem để băng qua số phận ngặt nghèo. Rồi hơn năm sau mình chuyển đến bạn đường link file diễn đọc cuốn sách này, nhưng bạn đã làm lơ. Bởi bạn nghĩ cái hiểu của bản thân vượt lên những thứ đó rồi. Bạn nghĩ tác phẩm của bạn in ra sẽ vượt con số 100 ngàn bản trong năm phát hành đầu tiên, và bạn nghĩ mình sẽ háo hức ra mua cuốn sách mới ra lò ấy về lăn lê đọc rồi trang trọng đặt lên giá như một vật thờ? Thú thực mấy năm nay mình không sờ tới một tác phẩm văn học, dẫu nó thuộc về giải Nobel. Mình đã có một kênh khác để “sạc pin”. Hồi xưa mình nghĩ đọc nhiều ông lớn mới viết tốt, bây giờ khác. Bạn biết chăng, đôi khi ngồi xuống tịch mặc thanh lọc nội tâm cũng là nguồn năng lượng hơn cả ngàn trang sách. Nói vậy không hẳn mình ngưng việc đọc. Cái sự đọc của mình giờ cũng lạ. Dạo K tặng cuốn Chuông nguyện hồn ai, mình mang về chưa kịp đọc thì vướng việc gia đình. Lần gặp sau K hỏi đọc chưa? Như một phản ứng tức thời mình bảo, rồi. Bạn biết không, mình mới chỉ đọc cái tên sách. Chuông nguyện hồn ai, mấy chữ đó thôi đã thấy quá đủ; mình đọc được cả thế giới nội tâm Hemingway, mình đọc được tầm vóc của Hemingway trên căn nền của thứ triết học nhuần nhị. Bạn tôn sùng Henry Miller nhưng bạn chỉ hiểu một phần nhỏ trong sự nghiệp của nhà văn này mà ở đấy sự tung hô đã khiến ông ta thấy cần cúi mặt (trước những chân lý siêu nhiên đang rọi vào góc khuất cuộc đời ông). Đứng ngoài miền tâm linh, bạn lại lấy Phạm Công Thiện làm thần tượng và đắm vào mấy cuốn triết gia viết thời nông nổi, và dĩ nhiên bạn bỏ qua những tác phẩm tinh túy sau này cùng rất nhiều bài thuyết giảng Phật pháp của Phạm Công Thiện trên hành trình giải thoát (tri kiến) mà ở đấy quá khứ về một Ý thức hệ chết hẳn.

Đôi lúc mình nghĩ bạn đã hiểu chính bạn chưa? Bạn đã hiểu K? Cảm nghĩ những gì mình đọc trong tác phẩm của bạn là một con người đeo mặt nạ thu lu trong góc tối trước màn hình vi tính lường gạt ngay từ những con chữ vô tội. Bạn có biết K buồn tủi lắm trước vô số mặt nạ bạn thay đổi thường xuyên trong cuộc nhập lưu vào một xã hội lắm sự đãi bôi phờ phỉnh. Bạn hiểu gì về cỗ máy cơ thể bạn, chưa nói đến tâm hồn K và con bạn nữa. Bạn luận thế sự nhiều trong lúc chưa biết cội gốc nguyên nhân. Đã bao giờ bạn ngẫm câu hỏi rất cũ: Tại sao đời sống vật chất càng nâng cao bệnh tật càng bùng phát và nhiều thêm những bệnh nan y? Có biết vì sao bệnh viện mọc lên ngày một nhiều (?), bạn lại tung hê thái quá sự tụt hậu đó trong tiến trình phát triển của loài người. Có thể bạn đã trang bị cho mình nền tảng thông qua giá sách triết học, nhưng mình nghĩ chắc bạn còn mù mờ về triết lý nhân sinh. Con người được cấu thành bởi hai phần vật chất và tinh thần; mới chiếu theo khoa học lượng tử thôi, đã thấy phần tinh thần chiếm quá nửa, còn hiểu theo khoa học huyền bí đôi khi phần tinh thần chiếm trọn, thế nên rất nhiều hành giả Phật giáo tiêu bệnh nan y mà không dùng đến thuốc. Mình lại tự hỏi: Với trách nhiệm của một người cầm bút trước vấn nạn xã hội, Bạn hiểu gì vềUng Thư? Căn bệnh bị hiểu lệch là án chung đang từng ngày bóp nghẹt tuổi xuân của K? Bạn xoãi tay truyền thông tin rồi đây người dân sẽ đại trà được máy siêu phát hiện ung thư rà soát. Bởi bạn chưa thực hiểu về ung thư, và một khi không chữa gốc mà chữa ngọn sẽ sinh ra vô vàn cành lá. Những nghiên cứu mới nhất cho thấy hầu hết mỗi người trong đời đều từng xuất hiện tế bào ung thư, nhưng nó phát triển hay không trọng yếu phụ thuộc vào ăn uống. Hôm nay bạn không có tế bào ung thư, ngày mai phát hiện có là sự thường, và những tế bào không được mã hóa này sẽ không phát thành u nếu bạn ăn thuần chay kết hợp thực hành tâm linh hay ít nhất bỏ ra ngoài sự ấu trĩ về đạm từ thịt, trứng và đường sữa. Chỉ những người nội lực thâm hậu mới không hề lo lắng nếu mắc bệnh nan y. Tế bào ung thư có trong K là điều bình thường; bởi không hiểu nó bình thường, người đời sẽ nhầm với một khối ung, rồi âu sầu như đang chạm vào cái chết. Chính sự lo ấy là nhiên liệu để tế bào xấu phát triển thành u theo quy luật cảm xúc “tâm sở hiện” đã được minh tường trong những báo cáo khoa học.

Mình đang nghĩ đến K, như với những bệnh nhân khác từng ngày nuôi lớn tế bào ung thư bằng nguồn thức ăn bẩn. Bạn đừng đổ lỗi cho môi trường như trong tùy bút đăng báo vừa qua. Bạn có biết loại thức ăn nào là bẩn, chứa mầm bệnh nan y và loại thức ăn nào sạch chẳng những thanh tẩy thể xác đến sự phát tuệ? Thức ăn vốn quyết định vận mạng con người. Thức ăn thuần khiết xét ở hai mặt vật chất và đạo đức trong mối tương quan sinh tồn của muôn loài sẽ khiến Trí sáng. Các nhà dinh dưỡng Âu Mỹ cũng thích đeo kính màu, chưa thấy rõ con người ăn lộn thực phẩm xét trên nguyên lý cơ thể học, nên những gì thêm bớt về sau càng khiến cho vấn đề thêm lệch lạc. Bạn tin họ, tin đám đông và tin quảng cáo. Mình cũng từng bị các nhà sản xuất nhuộm não từ lúc biết xem truyền hình. Ngay đây mình muốn bỏ trang viết lao tới đưa K khỏi ngôi nhà cao sang ấy. Hãy nghĩ về tương lai những đứa con của bạn (?) với ai-phôn ai-pát nối mạng. Bạn có biết sự nhiễm độc tâm hồn từ thông tin xấu và sóng sẽ khiến chúng dễ mắc bệnh hiểm nghèo. Nếu miệng bạn chọn lựa thức ăn tốt thì mắt tai cũng có quyền như vậy; còn hơn thế bởi tinh thần chiếm phần lớn tạo nên một chỉnh thể người và chiếm phần lớn sự gây ra bệnh. Nguồn dữ liệu bẩn nhập qua tai mắt sẽ tạo nên Trường Sóng làm nhiễm ô trầm trọng bầu trời; và chiếu theo nghiệp ý, nó góp phần tạo nên những thiên tai mà trước hết dội về ngay chính người gieo rắc. Nhớ năm ngoái mình chuyển đến bạn những thông tin như là niềm ân huệ dành cho bệnh nan y; bởi mình luôn nghĩ về K đang tuyệt vọng, với khôn nguôi hy vọng K tiếp xúc với những khám phá về cách chữa những căn bệnh xuyên thế kỷ nhờ nguồn thực phẩm xanh. Như ông tổ của ngành Y học phương Tây Hipprocrates (một người ăn trường chay) từng nêu chân lý: “Thức ăn là thuốc”. Rồi hôm kia mình gửi link bộ phim khoa học NĨA thay vì DAO, nhưng bạn phẩy đi. Bạn vẫn tiếp tục nạp thêm hóa chất vào thân hình mong manh củaK, tiếp tục cho K uống sữa và bồi bổ bằng thức ăn đắt tiền. Mấy năm trước, bệnh viện danh tiếng Johns Hopkins chuyên về bệnh ung thư đã công bố gây chấn động: thức ăn chính của ung thư là đường, sữa, thịt đỏ và thịt động vật nói chung. Văn bản này may thay có sẵn trên google để ai cũng dễ tiếp cận, còn K thì không! Giá K có vài ngày nghiên cứu Thực Dưỡng thôi, sẽ tự chữa ung thư; K dùng số tiền dư hành thiện, làm một ân huệ trong đời? Phước đối với mạng người như ngọn đèn cần dầu. K dốc sức hành thiện và tiếp cận tâm linh, tiếp cận thực dưỡng lẽ nào không cảm động thần minh. Hàng ngày bạn đang cố thúc lớn con ung thư trong người K. Bạn đánh tế bào ung thư nhưng cung cấp tuyệt đối thức ăn cho chúng, ngược lại còn tự làm suy kiệt K bằng hóa chất; trong lúc khoa học hiện đại đã tha thiết kêu gọi phải “bỏ đói tế bào ung thư”. Còn dùng đường, sữa và thịt động vật, việc chữa lành ung thư là khá ảo tưởng. Đường - hiểm họa của nhân loại, hàng trăm năm trước ngành Thực Dưỡng đã cảnh báo, và hàng nghìn triệu năm trước tổ tiên chúng ta ít bệnh nhờ không có đường. Còn sữa? Ngay đến một loại sữa hàng đầu được WTO chứng nhận, được các bác sĩ khuyên bệnh nhân uống, cũng là sự tổng hợp của nhiều loại hóa chất kể cả thuốc trừ sâu và dĩ nhiên cũng như nhiều loại nước ngọt khác, luôn có chất gây nghiện để thu nhiều lợi nhuận một cách thông minh. Bạn có muốn biết về những con bò luôn bị tiêm thuốc thụ tinh nhân tạo (để tiết sữa) và nhiều loại thuốc độc hại nhằm bảo đảm bầu sữa bự; bê con sinh ra chưa hề nhận giọt sữa nào đã bị vứt vào lò mổ, còn mẹ nó phải đứng suốt ngày cung cấp sữa cho K và con bạn uống? Hãy tưởng đến K thay vì đủ sữa cho con bú, nay bầu sữa phình gấp chục lần, thì đó chẳng phải là một loại nước quái đản? Một ngày mấy chục lít từ bò mẹ, là một dạng nước nhờn nhợt trộn máu mủ cùng độ dư của tân dược và với độc tố được tiết ra từ chính sự điêncủa con bò luôn phải đứng và bị hành hạ, sau nốt là quá trình khử trùng (bằng hóa chất), và cũng chỉ hóa chất để khỏa lấp các dinh dưỡng tự nhiên của sữa, rồi bịp bạn bằng sự nhảy múa vui tươi của đàn bò sạch sẽ trên những thảo nguyên xanh mướt. Cơ thể người là một bộ máy điều hòa hoàn hảo, một khi đưa sữa hoặc đường (hoặc thịt) vào, nó phải huy động kháng thể điều hòa, với sữa thì tiết can xi trong xương ra gây loãng xương. Những quốc gia dùng đường sữa đứng đầu thế giới người dân luôn mắc bệnh loãng xương nhiều nhất thế giới và kéo theo nhiều bệnh cấp thời; các nước dùng sữa xếp sau danh sách bệnh luôn tỉ lệ thuận - là những kết quả khoa học không chối cãi, nhưng bạn vẫn không chịu nhìn nhận giúp K vượt bể khổ.

Bạn nghĩ người ta tinh luyện mười củ sâm thành một viên thuốc, thì viên thuốc ấy tốt hơn củ sâm? Con người bạn vắng bặt xúc cảm? Gạo lứt tốt nên các nhà dinh dưỡng sẽ tinh chất để chữa lành ung thư như hàng ngàn người đã kiên nhẫn ngồi nhai gạo lứt với muối mè để hạ một lúc rất nhiều bệnh? Bạn chưa hiểu nguyên lý của cơ thể trong sự tương tác với thiên nhiên, với ánh nắng với không khí và thậm chí với hư không huyền diệu nữa. Bạn thử cho K ăn theo một chế độ tiến bộ nhất của phương Tây, rồi nhốt K trong căn phòng không ánh sáng không mặt trời trăng sao, chuyện gì sẽ xảy ra? Tại sao cũng một miếng gạo lứt với muối mè nếu K không nhai ra nước mới nuốt thì chẳng có hiệu quả chữa bệnh ngoài sự bổ dưỡng? Bạn có thể không theo Thực Dưỡng để chữa bệnh, rằng Khó, như bao người khác, điều này dễ hiểu và rất bình thường, nhưng bạn không thể tự rào đường đến Chân Lý. Hay bạn sợ Chân Lý sẽ đánh sập sự Sai Lầm bạn sở hữu như một thứ trang sức thượng lưu?!

Mình luôn thái phục Tây y, mình luôn cúi đầu tri ân mọi bác sĩ, y tá và điều dưỡng bởi mình không tuyệt đường đến bệnh viện; người thân của mình và rất nhiều người cần bệnh viện và đã được bệnh viện cứu. Nhưng với K, bệnh viện hứa sống bao lâu? Trong lúc bạn có tính hết số người lành bệnh nan y đơn giản nhờ ăn uống? Mình đang đưa đến K những nghiên cứu thuyết phục nhất của Y học hiện đại; thật ngạc nhiên, nó tương hợp kỳ lạ với ngành Thực Dưỡng của tổ tiên chúng ta, vậy thôi. Cuộc đời không hề có ngõ cụt, và đó chính là nguyên nhân thôi thúc mình đưa phương pháp này đến với K để dựng dậy sức sống. Nhưng bạn xem những thứ mình giới thiệu là cổ hủ, là phương pháp lang băm không chút minh triết. Một thí nghiệm khoa học của BBC cho thấy, tâm thức xử lý và hoàn thành một quyết định rồi phát lên não bộ con người 6 giây, nghĩa là qua máy thí nghiệm người ta biết bạn sẽ nhấn cái nút màu xanh hay đỏ trước 6 giây; quá rõ Tâm mới là nguồn phát lên não rồi não sai khiến thân thực thi. Để muốn nói, lá thư này gửi tới bạn không phải của mình; đây chỉ là việc Tâm mình xử lý nguồn dữ liệu tiến bộ theo một sự thôi thúc của nghiệp dĩ. Nhưng mình vẫn ký tên phía dưới, không dám cầu lời khen mà để chịu trách nhiệm nếu lỡ bị ném đá thôi. Bạn chưa hiểu về Sóng Tâm nên thản nhiên truyền rộng rãi K mắc ung thư. Các nhà lượng tử giải thích, nếu Tâm không đủ Lực, thêm một người phát ý niệm “K hết chữa rồi, K tận số rồi”, là K như tấm bia chịu thêm một ý niệm xấu như mũi tên xuyên vào tâm thể, ôm thêm một mối lo. Nỗi lo dễ dàng hạ gục người khỏe mạnh chỉ sau một đêm. Lại hỏi bạn Ung Thư sợ gì? Bằng chứng khoa học hiển nhiên:  sợ nhất chữ Ái. Là yêu thương, hòa ái, không hờn giận, không ích kỷ tự lợi và luôn hướng về tha nhân phụng sự; Ái là lòng từ tràn ra muôn loài. Với chữ Ái này thôi đã đủ khiến những tế bào xấu nhất dần dà chuyển hóa trở lại thành tế bào tốt. Mình đọc được chữ Ái trong K ngày ấy khi K bảo mình tha cho con ve tội nghiệp. Mình đọc được chữ Ái trong K vào một chiều ở cửa Tư Hiền K chắp tay cảm ơn hoàng hôn đang dần xuống và mặt biển chói lòa sắc đỏ... Mình bỗng nhớ Thông điệp từ Nước. Rằng nước hiểu ý nghĩ mọi người, hiểu mọi ngôn ngữ và chữ Ái luôn cho ra kết tinh đẹp nhất như một bông tuyết lóng lánh. Ngành vật lý tiên phong hướng ánh nhìn ra vũ trụ khẳng định mỗi cá nhân đều đang nối mạng với vũ trụ bằng sóng tâm, sóng tư tưởng. Thế giới này sẽ không thể trở lại được thời Phục Hưng khổng lồ với những nghệ sĩ khổng lồ. Bởi thời đại ấy, sao nhỉ: không có tivi và internet. Tia sáng (laser) có thể xuyên sắt thép (?), bởi nó hội tụ. Tâm bạn muốn hướng về mục đích viết một tiểu thuyết đỉnh, thì bạn phải học nhà văn Marcel Proust tuyệt dứt với thế giới bên ngoài để tìm lại những thời gian đã mất. Bây giờ với dụng cụ nối mạng trên tay bạn chuyển kênh liên tục như một cái tủ đông mươi phút lại bị ngắt điện khiến đá không thể đông. Năng lượng tâm loãng với đủ nguồn tin khiến tác phẩm luôn thiếu chiều sâu và vắng hoàn toàn chân lý tối thượng. Những thứ bạn viết dẫu văn nuột nà rốt cục cũng bị cơn lốc của thông tin cuốn phăng, đoản thọ. Thử hỏi, sao kinh điển Phật giáo sau gần ba ngàn năm vẫn lấp lánh và càng chói sáng khi khoa học soi vào. Các nhà lượng tử tính từ Albert Einstein và Niels Bhor cho đến nay với những phát hiện đột phá về thời không đều “cũ”, bởi Đức Phật đã thuyết từ xa xưa rồi. Sóng hấp dẫn cách trái đất hàng tỉ năm ánh sáng nhưng ai đã tin Sóng Tâm phủ trùm vũ trụ ngay trong một phần tỉ giây. Sự liên mạng tư tưởng này khiến mình hễ phát xuất ý niệm xấu là góp phần nhiễm ô từ trường trái đất, chưa bàn đến chuyện hàng giờ ai đó đưa lên Facebook toàn những thứ khiến người người sân giận, tị hiềm và bế tắc trong sự thỏa thuê Bản Ngã. Xét ở mức độ nghiêm xác nhất của lượng tử lực học đối với sự tồn vong của địa cầu, mình nghiện game, nghiện lướt web mức nguy hại còn hơn cả nghiện ma túy. Một cơn giận nhẹ, đã khiến cơ thể tiết ra lượng độc tố phải mất từ 8 tiếng đến 3 ngày mới tiêu hết. Nhờ đâu? Là cơ thể rút nguồn năng lượng quý báu ra để điều hòa. Bạn đã biết chuyện một người vợ cho con bú lúc sân nộ với chồng, để rồi đứa con ấy chết. Do cơn giận tiết độc và đứa con uống độc từ dòng sữa mẹ. Oan không? Những con vật bị giết, hận thù dâng lên đôi mắt rần máu, nghĩa là độc tố tăng muôn lần so với cơn giận khiến đứa trẻ trên phải chết. Con người cũng là động vật; loài động vật thông minh nhất hành tinh. Thực tế chưa hẳn. Bạn cũng biết mình vẫn thường ăn xác chết động vật. Rồi một ngày mình tự hỏi, nếu thông minh, thay vì xây bệnh viện cho bản thân, trước hết mình phải vận động xây bệnh viện cho loài vật. Những con vật phải được ăn sạch uống sạch, phải được khám thường xuyên để xem có bị tiểu đường, tim mạch, có bị nhiễm dịch và đặc biệt có ung thư hay không rồi mình và bạn và K dùng thịt chúng. Ngay cả khi con vật được săn sóc để cho ra loại thịt sạch (như cách các đại gia tự sản xuất rau sạch), thì nguồn thức ăn từ động vật nói chung theo những thống kê công phu kéo từ lịch sử thế chiến đến thời nay đều kết luận chứa mầm bệnh quá nguy hiểm, bởi nó tạo nên môi trường a xít trong cơ thể cho tế bào “ác” sinh sôi. Hơn 80 năm trước nhà bác học Otto Heinrich Warburg đã dày công nghiên cứu về ung thư và nhận giải Nobel Y học khi đưa ra nguyên lý: “Ung thư không thể sống nổi trong môi trường kiềm và giàu ô xi nhưng lại thăng hoa và phát triển như nấm trong môi trường a xít và ít ô xi”.

Bạn còn hạnh phúc khi những đứa con xa dần vòng tay của mẹ? Bạn còn hạnh phúc khi hình dáng của K với cái đầu trọc vì hóa chất và khuôn mặt xanh xao? Bạn vẫn nghĩ nguồn vật chất ùa về để có một cuộc sống cao sang nhưng duyên nghĩa vợ chồng đang mong manh, là hạnh phúc? Bạn từng nghĩ K ngồi trong bữa tiệc đủ món sẽ hạnh phúc hơn người ăn rau luộc chấm tương? Bạn đang biến K thành một con ve sầu, khản kêu vô vọng! Hẳn bạn sẽ đờ ra khi biết ở Mỹ mức lợi nhuận từ vũ khí không nhằm nhò so với Thuốc Tây. Nhà văn minh lớn Hoa Kỳ, người dân tin tưởng số một Viện Dinh dưỡng, nhưng họ không ngờ phía sau những cơ quan đáng kính ấy là các tập đoàn lợi nhuận như bóng ma phủ bóng lên quá nửa địa cầu; để rồi hầu hết người dân bị thừa cân, và từ đó mang đủ thứ bệnh hiểm như ung thư, tim mạch, huyết áp, đột quỵ, tiểu đường, loãng xương. Trẻ em châu Phi thiếu đói đến chết, là một nỗi đau lớn; còn xu hướng những nước được cho văn minh đang phát bệnh bởi thừa mứa cá thịt trong mọi bữa ăn - ấy là tội lỗi. Chớ phũ phàng với chân lý, với chính mình và nhất là với căn bệnh của K. Việc lựa chọn thức ăn chính là đẳng cấp sống của con người. Thức ăn thuần khiết từ thảo mộc sẽ dựng lập hòa bình thế giới. Điều này không phải mình nói mà từ thiện khẩu những bậc thức giả lỗi lạc nhất hành tinh. Bạn sẽ không thể so sánh nổi niềm hạnh phúc của một người chay tịnh hân hoan thức dậy lúc mờ sương với một người ăn uống nặng nề lúc nào cũng uể oải sau giấc ngủ chìm trong mê loạn và bất an bởi cái bóng nghiệp thức luôn ẩn sau gáy.

Bạn có biết trong quá khứ K bao dung mạnh mẽ nhường nào không? Còn nay K đang héo dần với sự bất lực của những người xem thường y lý tồn tại trăm nghìn năm vững chãi. Mình từng đọc được trong mắt K sự nhiệm màu, nhưng nó đang mờ dần bởi lòng ghen tị và ganh tị của bạn, bởi sự tôn sùng nền văn minh kỹ trị lại quá xem thường sức mạnh tinh thần vi diệu ở mỗi người. Chuông đang nguyện hồn bạn đấy. Bạn sẽ nghĩ mình bỗng dưng đến quậy, cái thằng này đang đứng ra gây hấn với bạn? Ừ, tùy thôi. Nhưng bạn nên nhớ, không bàn đến K, chỉ riêng bạn thôi mãi là một hình bóng linh thiêng trong cõi mình, dẫu cho một ngày K nhận ra khuôn mặt thật của bạn và khước từ chung sống với bạn để trở về miền xa xăm chăng nữa.

 

Thuyền trôi trên sa mạc

Bạn ơi…

Người nào lại viết một bức thư tay thời @ nhỉ? Lật xem tên ai ở trang cuối. Không có đâu. Bạn hãy bình tâm ngồi xuống buông vọng tưởng, hãy vùi bức thư này lại cho đến lúc bạn thảnh thơi hẵng đọc. Rất nhiều lần mình muốn tâm sự với bạn, chỉ đơn giản ngồi vào bàn phím gõ chữ rồi thêm cái nhấn chuột… Viết rồi lại xóa. Nói chuyện với bạn rất dễ, ngặt nỗi mình chẳng biết bắt đầu từ đâu. Sáng nay ngồi vào bàn chép kinh, mình thảo luôn bức thư này.

Mình đã tu. Bạn ạ. Bất ngờ lắm? Giật mình phải không. Tu rồi mới hiểu. Lâu nay mình chấp thủ dựng lô cốt tự nhốt mình lại. Học Phật nghe pháp rồi bỗng sinh “nghi”. Đời người trăm tuổi là bao so với hàng tỉ năm tồn tại của trái đất; còn dõi thêm ra các dải ngân hà chẳng khác ta nhìn vòng đời của một chú kiến. Bạn hãy đặt con kiến lên quả địa cầu nhựa rồi thử quay một vòng xem nó có rơi không? Con kiến nhỏ đến mức nó không cảm nhận được sự quay của trái đất ấy kia mà. Sao chúng ta nhỏ bé đến tội nghiệp, lại có bản ngã lớn vậy nhỉ. Không ai nhanh hơn ai tính tại thời điểm nhắm bờ giác ngộ lướt biển vô minh.

Niệm gì khởi lên trong tâm bạn lúc này? Có phải bạn nghĩ mình chưa già đã lẩm cẩm. Sống mới một phần ba cuộc đời đã lo tu. Mình biết, bạn sẽ không xua đuổi mình đâu, nhưng bạn sẽ… tránh. Bạn nghĩ nếu gặp mình nhẽ ra hàn huyên chuyện cũ, dự phóng tương lai lại bàn về nghiệp thức nhân quả… nghe rất “chối” phải không. Giống như ngày xưa cha mẹ hay nhắc nhở đủ thứ. Đến như ăn xong liền nằm xuống mẹ đã “ngồi dậy kẻo đau dạ dày đó”. Mình thề mẹ không hề biết đến thứ kiến thức đó, mẹ chỉ linh cảm và răn con cái. Bây giờ mình bỗng nhớ những thuận ngôn nghịch nhĩ. Phật cũng dạy trong kinh Cú pháp: “Được sinh làm người là khó, được sống trọn đời còn khó hơn, được nghe Chánh pháp là khó”. Khó ở đây cũng là khó nghe bạn ạ. “Tín huệ văn pháp nan trung nan”. Nói vậy nghĩa là đang tự nhắc nhở. Đến mình chưa dạy được mình mà. Nếu mình dạy được mình, mình nghe theo mình, hàng phục mình không thuận với rất nhiều xan tham, thì mình đã an lạc trước mọi nghịch cảnh! Chưa chiến thắng thuần hóa được tâm nên mình chưa thể dứt dục lạc. Bạn cảm thấy “ngán” chứ gì. Chưa bao giờ bạn đọc một bức thư kiểu như thế này mà. Ừ. Mình… khác rồi. Nhưng đừng bỏ mình bạn nhé. Mình luôn nhớ đến bạn, kiểu như trước đây mình từng gây lỗi với bạn; mình muốn sám hối, xin bạn hãy đừng xa lánh. Mình đang “luyện” trở thành một người hoàn toàn vô hại với mọi loài. Tâm bạn dịu hơn rồi thì phải. Bạn đã xích lại bên mình thêm một tí, song nom mặt còn khó chịu. “Mà tu để làm gì”. Cứ cho là có kiếp sau. Thì đã sao. Ừ, chẳng sao cả. Chỉ là mình không muốn chết liền phải đầu thai làm động vật bậc thấp thôi. Có tham lam gì cho cam. Mình đọc kinh, nghe Phật hứa nếu xả bỏ uế trược, chú tâm niệm Phật sẽ được tiếp dẫn lên cõi Tịnh độ; ở đó có thể “mặc áo giáp” trở lại trần gian trợ duyên cho thân nhân… Không đùa đâu bạn. Nhiều khoa học gia hàng đầu thừa nhận: Những khám phá vĩ đại của chúng ta chỉ minh định kinh điển Phật giáo. Mà kinh Phật cũng không chép sai câu nào. Ai vào tu tức có ngộ. Sự ngộ đó tự khắc kiểm định đúng sai lời Phật. Nếu bạn gom hết bể học nhân loại, bạn vẫn thiếu một môn là Phật pháp. Đạo Phật không phải chứa hết thảy tri thức khác song nếu bạn chỉ học và hành theo Phật pháp mà chưa cần học thêm bất cứ điều gì, vẫn đủ. Cho đến nay Kinh Dịch là món chưa một nhóm học giả nào chinh phục được. Có bậc chứng thánh phát biểu Kinh Dịch do tiền thân của một Hòa thượng bên Trung Hoa viết ra. Thế nên giả như có ai phá được hết các quẻ Dịch thì vẫn… bế tắc, vẫn không giải thoát được bản thể. Vẫn là một sinh mệnh ngơ ngác giữa trần gian chẳng rõ sẽ về đâu.

Bạn biết không, đêm qua mình mơ thấy đang chen lấn giữa đám đông, nghẹt thở. Rất nhiều người từ già đến trẻ nhỏ trong thành phố đều tập trung tại sân vận động nghe “lời phán xử”. Trên cao. Trong sự tĩnh lặng hiếm hoi, Ngài nhẹ nhàng nói, “Con người sinh ra từ bào thai, nhưng kẻ ác thì đọa vào địa ngục”. Bạn ạ, trong số phàm nhân chúng ta, nếu chiểu theo nhân quả, may ra chỉ có mấy người (chết đi) sẽ được về cõi Tịnh độ trang nghiêm. 3% trong số người còn lại lên được cõi Trời. 60% trong số người còn lại đầu thai vào ác đạo. 50% trong số người còn lại tiếp tục được nhận thân người. Số còn lại xuống địa ngục. Cõi nhân gian khó cưỡng phù hoa giả tạm, khó cưỡng danh sắc huống hồ lên cõi trời nữ nhân đẹp vạn lần… nên mê mờ hưởng hết phước chắc chắn thẳng xuống tầng thấp lãnh nghiệp báo. Bạn có biết so với chục năm trước, trước nữa, bây giờ mực nước biển dâng lên bao nhiêu không? Ấy là do hiệu ứng nhà kính, do tầng ô dôn bị chọc thủng, nên lửa mặt trời rọi trực tiếp khiến băng tan,địa cầu nóng lên. Đạo đức nhân loại ngày nay cũng dần tan chảy giống băng vậy đó. Hiệu ứng nhà kính biểu hiện cho tiện nghi vật chất, tầng ô dôn biểu thị cho phước đức bị lòng tham tàn hoại. Bạn biết khi công an thẩm vấn một đứa trẻ giết người, nó trả lời sao? “Cháu thích rứa”. Chẳng cần theo dõi truyền hình báo chí bạn cũng hay chuyện người ta dùng cả thai nhi làm món lẩu, tẩm bổ cho sự si ám. Thú hoang trong rừng giết nhau theo bản năng của cái đói, con người thì có thêm trí tính toán và thanh toán, để quét sơn lên tội ác.

Ừ, mình đã tu bạn à. Tu đơn giản trước nhất là sửa từ thập ác thành thập thiện, chẳng biết đến bao giờ viên mãn. Bắt đầu là một bữa ăn chay. Từ đó đến giờ… (Mình xa nhau mấy năm rồi nhỉ?). Chắc nhờ ai đó trợ duyên, chứ mình biết tập ăn chay khó lắm. Nói điều này chắc tổn phước quá. Gia đình mình vẫn còn người ăn mặn, nhưng mừng là không còn mua đồ sống nữa. Những người chưa thể ăn chay mình đều tôn trọng… Mình đang tập hòa đồng ở mức có thể. Bạn biết không, có một ông sư ở chùa Từ Hiếu, mẹ đau nên sư ra chợ mua cá về nấu cháo; dọc đường nhận tiếng oan “sư mà cũng ăn cá à!”

Cùng là động vật cơ mà. Công nghệ chăn nuôi bây giờ, bạn thấy, các trang trại nuôi hàng triệu con mỗi lứa vẫn hết vèo. Chúng sống tự nhiên với chu trình sinh diệt, sẽ chẳng ảnh hưởng đến con người mà còn lợi nhiều lắm cho sinh thái môi trường… Nhân loại bước đến thời điểm này không thể quay lại được nữa bạn ơi. Có người dấm dẳn, nếu ai cũng ăn chay niệm Phật thì xã hội “chết tại chỗ” à? Vậy là nói bừa rồi. Thêm một người vào tu, thêm một người thôi bắt con này giết con nọ, thôi hành hạ dã man động vật là chuyện hiếm rồi, lấy đâu ra chuyện “ai cũng…”. Mới vừa báo đưa tin một ngư dân bắt được con cá lạ: vây rắn, hình thù kỳ quái, lâu lâu lại khẹc khẹc như người. Bạn sẽ không tin ai đó do chẳng tin nhân quả, vung tay nên luân hồi thành… hải sản. Hễ cứ nhắm mắt định tâm, mình lại nhớ trước đây từng róc vảy cá cắt cổ gà, từng bắn chim giết thú, từng chặt đầu lũ chàng hương ếch nhái… mà rùng mình toát lạnh mồ hôi. Thì chỉ biết hy vọng thôi, chỉ biết ngày ngày cúi đầu sám hối mong được an trú dưới ánh hào quang của Phật suốt phần đời còn lại.

Bạn vẫn chưa biết mình là ai đúng không? Lục trong trí nhớ, bạn sẽ chẳng tìm ra ai ngày trước có “Phật tính”. Mình bây giờ cũng chẳng tin mình theo Phật nữa là. Nhắc chuyện này chắc bạn nhớ. Thời đại @ đang tiến đến 100% người biết sử dụng điện thoại di động đều sở hữu ít nhất một. Thật bất tiện khi bạn mang trong mình đến hai ba điện thoại, vậy nên nhà sản xuất mới cho ra đời loại có nhiềm sim và nhiều tính năng tiện ích. Tương tự, bây giờ bạn hãy (phải) xem nghiệp là một cục đá. Vì sao lại cục đá, vì nghiệp là thứ vô dụng, lại nặng nề, nó khiến người ta bực dọc muốn quẳng đi mà không thể trừ phi chúng ta thành tâm cúng dường, pháp thí, phóng sanh… (Bạn và mình chưa cần tính đến phần cực trọng nghiệptích lũy nghiệp tồn lưu từ quá khứ, hãy tính ngay khi bạn đọc dòng chữ này). Sáng ấy trước lúc tới công sở, chúng ta tạt vào quán cà phê; mình gọi một ly chanh nóng, đứa chạy bàn nghe lộn nên mang ra chanh đá, tức thì mình nhăn nhó. Bạn nhớ ra chưa? biết mình là ai rồi chứ. Ừ. Nhưng bạn đừng cố hồi tưởng lại khuôn mặt dạo ấy và nó bây giờ tròn méo ra sao. Chỉ nên biết, hành vi của mình vừa đó khiến phải nhận ngay một cục đá. Mình lại còn nhằn đứa chạy bàn là “đồ lảng tai” trước mặt nhiều người, liền nhận thêm những cục đá nữa. Nó bưng ly nước chanh vào, chủ chặn lại dọa nếu chốc nữa không ai gọi chanh nóng sẽ trừ vào tiền lương của nó (mình nhận thêm cục đá nữa; tất nhiên chủ quán cũng bị nghiệp nhét vào những cục đá). Uống cà phê thấy không ngon. Chúng ta đứng dậy sau đó không lâu, vào phòng làm việc. Hôm đó trời rất mát, mình vẫn bật điều hòa (để nhận lấy những cục đá), rồi mình để mặc điều hòa và quạt tỏa hơi lạnh ngắt, cả màn hình máy tính không ở chế độ tiết kiệm điện; ta chuyện phiếm đủ thứ trên đời… Chưa tính khẩu nghiệp qua đề tài phiếm luận. Bạn còn nhớ không, mình khoe tuần trước “bồ” cho mấy tờ đô… Đồng tiền chúng ta có được cũng nhờ duyên phước. Làm giàu từ nghề chánh mạng không có tội. Ví dụ bạn mở quán chay, bán với mức giá vừa phải; đông khách là biểu hiện của “may mắn”. Nhưng bỗng đâu có người lạ vào ăn một bát lại vui lòng biếu thêm tiền. Người ta cho dĩ nhiên không phải trả, có điều bạn ạ, tiền ấy sử dụng không khéo sẽ quy ra những “cục đá”… Ấy là mình đang hoàn toàn được xem người tốt. Chứ chưa bàn đến người xấu kẻ ác. Hôm nay thứ bảy bạn ạ, mình không đi làm nên chợt nhớ lại khung cảnh này, sẵn thời gian nhẩm xem tích khoảng bao nhiêu cục đá trong nửa buổi sáng đẹp trời ấy. Rồi trưa tan tầm mình ghé chợ, cố mua bằng được những con còn tươi giãy. Nghĩ mình không mua thì người khác cũng mua, chúng cũng chết; mà không hay chúng bị bắt, còn sống là “việc của chúng”, mình mua và giết nó khắc nhận nghiệp! Chừng ấy cục đá cho vào bao, liệu bạn có vác nổi về nhà? Thật may, cũng thật nghiệt ngã là nghiệp ấy vô hình. Vô hình mà hữu hình và nó ở lại với chúng ta. Thế đấy, nghiệp sao giống “chuyện vặt” vậy? Phải, chúng ta chỉ cần gom chuyện vặt mà không nhất thiết phải ôm “chuyện lớn”, đến lúc bao trắc trở tụ về, hoặc sẽ từ vô vàn những cục đá hóa thành chướng nạn bệnh tật, là lúc chúng ta đang ghé lưng vào ngọn núi khổng lồ!

Bạn với mình, về cuộc sống gia đình không hơn thua nhau nhiều. Mình cũng có công việc khá ổn, cứ đến tháng nhà nước trả lương. Đời sống tùng tiệm xem như xuôi. Vậy tu làm gì? Phải. Mình tu cho kiếp sau bạn ạ. Kiếp này vậy tạm đủ rồi. Mình không có ý nghĩ phấn đấu làm nhà hay sắm sửa tiện nghi này nọ. Không tích trữ. Người ta có thể chửi nhưng mình vẫn sẽ nói những gì Phật dạy. Bạn vẫn nghĩ chết rồi cũng sẽ được đầu thai lại làm người phải không? Thật không dễ vậy. Nếu suối đời bạn giúp người hành thiện chăng nữa mà không nương Phật, không thiền định và niệm “A Di Đà Phật” thì phước báu lắm chỉ lên được cõi Trời. Sau kiếp sống ở thiên giới sẽ về đâu? Cái gì không nhìn thấy và không sờ thấy người ta thường phủ nhận. Mình sẽ không giải minh giữa mình với một người hành nghề sát sanh, ai đúng ai sai. Họ có “triết lý” sống của họ. Họ tuyên bố giết một con vật là “hóa kiếp” giùm nó. Thôi cứ vậy. Hoàn toàn do ngộ tính thôi bạn. Mình đồng nghĩa với loài vật. Mong rằng họ sẽ hóa kiếp giùm “đồng loại” của mình bằng cách cho nó uống một loại thuốc làm tê liệt mọi đau đớn trước lúc nó thọ quả báo đời trước lỡ gieo. Nếu người ta hành hạ một con vật đến chết rồi ăn mà vỗ ngực xưng đại nhân anh hùng thì mình nghi ngờ hết những con người đó. Phật nói "còn sát hại chúng sanh, đâu được xưng là Thánh hiền". Và nhiều bậc thánh nữa, những người xưa nay ta rạp mình nể phục, nhưng nếu giơ ra một câu họ nói về phương diện con người tự chạy theo lối sống của loài vật, thật tội lỗi, không chừng bạn và mình sẽ nhìn họ với ánh mắt hờn giận.

Bạn là một nhan sắc hồng trần. Lật Kinh mình hiểu đẹp nhường ấy phải phước báu nhiều lắm ở đời trước, hoặc là rớt xuống từ cõi trời. Danh và Sắc nhiều lúc dễ khiến người ta kiêu mạn. Từ kiêu mạn sẽ khởi ý mình xứng đáng được chiều chuộng hưởng thụ, xứng đáng người đời hầu hạ. Đó là lý do khiến hậu vận của người đẹp, kiếp sau thua thiệt ngàn lần so với người bình thường. Những trường hợp “sao” tương tự chắc bạn cũng dễ liên tưởng…  

Thôi nhé, chắc bạn mệt mỏi lắm rồi. Mấy trang thư có khi khiến bạn ngán đến độ tối nay không ngủ được cũng nên. Nhưng mà nếu bạn thao thức trằn trọc, thì mình đội ơn trời Phật… Mong bạn nghe mình: hãy chuyên niệm “A Di Đà Phật”. Hãy thôi nghĩ mông lung bằng thói quen chú tâm niệm Phật trong suốt ngày đêm. Bạn thân mến ơi, chính đó là con zhuyền chở ta qua sa mạc xuôi dòng tâm linh miên viễn.

-----------------o00-----------------

 

MỘNG THOÁT LUÂN HỒI

- Nhụy Nguyên -

MỤC LỤC

1. Lành thay nếu được là học trò của Đức Phật

2. Nghĩa kinh ứa lệ

3. Hướng tâm về miền sáng

4. Mộng thoát luân hồi

5. Diệu pháp trong thời mạt

6. Mở mắt lại thấy chiêm bao…

7. Sen nở giữa vườn hoa Phật pháp

8. Nhân mùa an cư nghĩ về lòng từ bi với loài vật

9. Ngôi chùa niệm Phật

 

Phật pháp là đại dương. Tôi chỉ có một vốc nước soi khuôn mặt nhớp nháp của mình. Phóng con tàu hạnh nghiệp quá sớm lúc chưa đủ sức đuổi theo; những dòng thô mộc trong cuốn sách nhỏ này âu là cóp nhặt từ luận giải của Tổ sư Cao tăng Đại đức và bậc Thiện tri thức, cúi mong quý bạn đọc nhận ở tôi lời xin lỗi và sám hối chân thành.

 

Lành thay

nếu được là học trò của Đức Phật

Giả như có một lần úp mặt vào lòng bàn tay suy ngẫm, ta sẽ thấy con người ngay từ lúc thoát thai đã bất công: người rạng ngời tướng tốt ủ yên trong gấm vóc lụa là, kẻ đui què câm điếc lại còn sinh trong gia đình bần tiện. Xét ngang đây (tức cái nhìn trong một đời) thì bất cứ nỗi oan khuất đến với cá nhân trưởng thànhnào trên quả địa cầu đều không đáng gì. Đâu hay tất cả đều là sự công bằng tuyệt đối khi soi vào nhân duyên nghiệp báo không chỉ ở kiếp này mà từ những kiếp quá khứ và vị lai được Đức Phật giải thích cặn kẽ.

Nếu bảo con người sống trên trái đất, là chưa đúng. Trái đất cũng chỉ là một hành tinh lơ lửng giữa trời, nên con người cũng đang trụ giữa hư không - mới đúng. Con người thực chất đang lơ lửng giữa trời. Nghĩa là con người ở TRÊN trời, chứ không phải DƯỚI đất để rồi bảo trời cao xa quá. Trên 28 tầng trời là cõi Phật. Trời, dĩ nhiên cao xa khôn lường. Nhưng chân tâm mỗi người vốn trọn đủ tam thiên đại thiên thế giới. Tâm càng sáng bí mật “tối tăm” của vũ trụ càng hiển lộ quang minh. Con người là một cá thể riêng biệt - lý thuyết này khoa học hiện tại đã cười nhạo rồi. Mỗi cá thể nhỏ bé đến mấy cũng có mối liên hệ mật thiết với vũ trụ bao la. Vạn vật đồng nhất thể. Học giả James Gleick có nhận định rất triết lý qua hình ảnh: “Một cái đập cánh của con bướm hôm nay ở Bắc Kinh sẽ tạo ra trong không khí các cuộn xoáy có thể biến thành bão tố trong tháng sau tại New York”. Ngày xưa bão giật cấp 12, 13 đã ghê gớm lắm. “Siêu bão”, danh từ gọi những cơn bão có mức giật từ khoảng cấp 14 trở lên, mới chỉ xuất hiện thời gian gần đây. Cấp giật của những cơn bão tăng lên, động đất nâng độ dư chấn, sóng thần dữ dội, là sự gia tăng của niệm lực xấu ác từ chúng sanh ở nhiều cảnh giới khác nhau. Sự chống đương nhiên có lợi, chỉ là lợp bất cập hại. Các vị cao tăng đại đức lúc giảng kinh thuyết pháp nhiều lúc cũng “nặng nhẹ” với chúng sinh; kẻ trí tự cao nghe qua hẳn sẽ gán đấy cũng là sự chống hồng trần tươi đẹp. Đâu hay lời ấy phát từ gương tâm trong suốt không mảy bụi trần. Còn “chống” - hành động nô lệ của ý niệm xấu từ lượng tâm ích kỷ nhỏ mọn, sẽ khiến thời-không thêm nhiễu loạn. Sự chống ấy cũng như luồng khí nóng tưởng sẽ làm cơn bão đang tiến vào suy yếu chẳng ngờ càng góp sức cho bão.

Ân sư của tôi dạy, kinh điển là tấm gương để chúng ta soi tâm hàng ngày. Con người tin sâu kinh điển gắng công tu tập sẽ nhận ra quy luật tự nhiên vi diệu. Kinh xét cho cùng đều lưu xuất từ tự tánh. Nếu Kinh điển tam sao thất bổn, các vị chứng đạo đắc quả đã lên tiếng. Hoài nghi lời Phật chẳng khác tự ta dập tắt ngọn đuốc trên con đường dẫn về Niết Bàn giữa đêm trường tăm tối. Lành thay khi tôi gặp được đức Phật. Tôi tin đức Phật như tin ông bà cố mình trên bàn thờ (chưa một lần gặp mặt); họ truyền ngôn lại cho cha mẹ và giờ đây tôi tin hết thảy những di giáo đó. “Phật” là một từ trong vô số ngôn ngữ; cũng không hẳn là một cái tên. Khi ai đó nhìn thấu triệt về chân tướng vũ trụ nhân sinh, hậu thế phải tìm danh từ bao hàm nghĩa đó, nên chọn Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (Phật). Ngày xưa nhà thắp đèn dầu, chỉ soi sáng những trang sách tôi căng mắt đọc. Khi điện kéo về làng, tôi nghĩ đó đã là ánh sáng siêu việt. Nhưng có lần mẹ tôi kể, thời xưa máy bay Mỹ thả những quả pháo sáng, cả xóm hiện ra như ban ngày, đến cái kim trong nhà cũng thấy. Tôi cũng chỉ lờ mờ tin. Được tiếp cận Kinh điển, tôi nhớ lời mẹ, cảm nhận bước đầu về Vô Lượng Quang thường hằng chiếu rọi khắp các cõi. Bởi phiền não nghiệp chướng sâu dày nên chưa thể tiếp nhập hào quang Như Lai, nhưng tôi tin chắc điều đó - nó sẵn trong tâm mình như viên minh châu (bị bọc trong bùn nhơ đen đặc).

Học Phật không phải đọc hiểu bằng trí mà cần trải nghiệm. Trừ những vị Phật hay Bồ Tát trở lại cõi này “biểu diễn” hóa độ chúng sanh, còn thảy người tu, chưa ai đọc hết sách Phật trên địa cầu mà đại ngộ bao giờ. Mức thấp nhất để hiểu Phật cũng phải cậy vào công phu chứ hoàn toàn không nương vào trí dẫu đó là một bộ óc siêu thường. Mỗi sinh mệnh chào đời đã bị ấm nghiệp lập trình sẵn tương lai. Muốn rẽ về miền sáng điều trước tiên phải hạ thủ hành trì phá ngũ uẫn. Đào sâu vào kiến/tư hoặc mới hay chẳng những ta mê sắc ấm là mình; sắc ấy còn nối dài sự chấp trước bởi thọ ấm; rồi thọ làm nền cho tưởng như mặt biển ngỡ lặng sóng bình yên mà phía dưới lòng sâu cuồn cuộn dòng hải lưu nghiệp thức của hành và thức ấm, cuốn ta quay mãi hoài trong luân hồi khổ não. Không cứ tu theo pháp môn nào, hễ người có công phu chí ít cũng phá lớp sóng thô vọng tưởng chấp trước phá một phần sắc thọ và “tạm dừng” tưởng ấm. Có một điều ngỡ một song hoàn toàn khác biệt, đó là: thay vì diệt vọng tưởng, chỉ nên chú tâm vào câu Phật hiệu. Diệt vọng tưởng là ảo tưởng, còn chú tâm vào Phật hiệu tự khắc vọng tưởng sẽ héo. Hành giả thuộc Tịnh tông chuyên niệm Phật, đến giai đoạn hễ ý niệm, hình ảnh nào trồi lên ngay lập tức câu “A Di Đà Phật” từng chuỗi mạnh mẽ vang lên dứt khoát, tưởng ấm do vậy sẽ hoạt động một cách yếu ớt. Cũng xem như câu Phật hiệu được gắn sẵn trong tâm, tự nó vận hành mạnh mẽ.

Người ta vẫn thắc mắc: ngày nay phi thuyền đã bay thấu trời xanh vẫn không thấy cõi Cực Lạc ở đâu. Thực tế, chúng ta nhìn mặt trăng mặt trời to bằng quả bóng thì ngược lại, ở mặt trăng trái đất cũng nhỏ như vậy. Nếu phi thuyền bay ra ngoài không gian thì trái đất chưa lớn bằng một hạt bụi. Con cá ở đại dương mênh mông, dĩ nhiên nó sẽ phán chuyện con người chỉ thở bằng không khí là hoang đường. Cũng như nhiều người khó thể tin cùng không gian ở trái đất, lại “dung chứa” vô vàn cảnh giới khác nhau; các cảnh giới đan lồng, chồng lên nhau song cảnh giới này không phương hại cảnh giới khác. Cũng như trong ti vi bật kênh này là đại dương dội sóng, kênh khác lại đang phát cảnh núi lửa phun trào, và hàng trăng cảnh giới khác cùng tồn tại (trong “cái hộp” ấy) mà ti vi vẫn như như bất động. Khoa học phát hiện không gian đa chiều, dẫu sao vẫn mang tính lý thuyết, chưa thể thâm nhập. Tu đạt tâm tuyệt tĩnh, chính người đó câu thông với vũ trụ, thấy, biết và có thể sống ở bất cứ không gian nào. 

Hiện bày chân tướng của vũ trụ, Phật pháp không hạn hẹp trong Kinh điển, trong chùa chiều và trong bản thân các vị chân tu. Hễ điều gì tương ưng với chân tướng vũ trụ ấy chính là Phật pháp (dẫu toàn thể bản chất của nó không hẳn là chánh pháp). Đạo Phật bao hàm hầu hết kiến trúc thượng tầng của xã hội loài người. Từ đạo đức, mỹ học, kiến trúc, văn học, tâm lý học, triết học, khoa học, nhân tướng học, y học v.v. Hiện giờ khoa học lượng tử đã giải mã được những bí mật tự nhiên, còn khiêm tốn song cơ bản có thể sửa đổi “giáo trình” triết thuyết về vũ trụ nhân sinh. Thật ngạc nhiên ấy là những điều Phật đã thuyết giảng. Vậy xem như đỉnh cao của khoa học hiện đại vẫn tụt hậu gần ba ngàn năm; nếu không muốn nói là tụt hậu vĩnh viễn, bởi khoa học (chỉ dụng Trí nên) không thể “chứng quả” - thấu triệt về vũ trụ.

*

Không ai có đôi mắt sáng lại nhắm mắt mà đi, tuy nhiên mắt sáng cũng không thể nhìn thấu kiếp mình nếu tâm thức mù lòa. Cõi Cực Lạc xa vạn ức trình thăm thẳm, lại có ở ngay trong chính mỗi cá thể một khi tin nhận và hành đúng lời Phật dạy hiển lộ tự tánh. Không ngọn đèn nào soi tỏ vùng bí mật dưới chân nó; không lý gì ta cứ phải nhìn thấu gầm trời mới bước đi. Học Phật là học định tâm phát tuệ, nên thậm chí có thể nhắm mắt bịt tai mà hành. “Bịt tai” để nghe diệu âm Như Lai trong vũ trụ, và “nhắm mắt” để thấy hào quang Đức Phật rọi vào nơi tối-tăm-vi-diệu nhất của đời mình.

Có một nỗi day dứt khôn nguôi: tại sao Đức Phật dang tay đón tôi? Một người si mê bao nỗi, từng đi ngược lại ý hướng thuần thiện nhân bản, cũng từng hành theo tà đạo lại tưởng là pháp tối thượng. Nhân duyên gặp được pháp đức Phật mới hay, Ngài không bỏ một ai, luôn chắt chiu từng cơ hội nhỏ hướng tha nhân về miền sáng tinh khôi của sự an lạc. Hẳn đây là câu nói quan trọng nhất của Đức Phật: “Tất cả chúng sanh đều có trí huệvà đức tướng Như Lai, do vì vọng tưởng chấp trước nên không thể chứng đắc”. Thông điệp này vượt lên tất cả mọi giáo lý tâm linh. Một khi (vốn dĩ) có Phật tánh, bất cứ ai lâm vào ngõ cụt, lâm vào hố thẳm cũng đều có cơ may nhìn thấy ánh sáng của sự giải thoát. Ý nghĩ này vụt hiện, điều ngáng trở ta thành đạo là: vọng tưởng và chấp trước. Ở đây xin đề cập đến vọng tưởng, bởi hễ vọng tưởng ít đi, chấp trước sẽ tự giảm bớt, dẫu rằng vọng tưởng và chấp trước đang bàn chỉ ở dạng thô phù và chưa phải hướng đến pháp nhất chân. Trên lý nhất tâm trong Tịnh độ, vọng tưởng có thể được định nghĩa: khi ta trụ lại ở câu hồng danh “A Di Đà Phật”, thì mọi ý nghĩ hình ảnh chạy qua đầu đều là vọng tưởng. Ai từng hành thiền hay niệm Phật mới thấu, để quét sạch vọng tưởng, gần như là... vô vọng. Thế nên, thay vì điều phục, diệt trừ, đè nén vọng tưởng, hành giả chỉ việc chú tâm vào câu Phật hiệu. Công phu tối thiểu là tâm tự khởi câu hồng danh vào bất cứ lúc nào đầu óc không suy nghĩ công việc, sau đó thì niệm thành chuỗi 5 câu, 10 câu để kết thành phiến, thành khối. Phật hiệu được nuôi lớn khỏe mạnh, vọng tưởng sẽ héo tàn một cách tự nhiên như cỏ dại bị rút kiệt nguồn sống. Buông vọng tưởng chấp trước như ta vô tình làm rơi vỡ một viên ngọc quý giá vô ngần mà tâm không móng khởi luyến tiếc. Vọng tưởng ít chân tâm càng hiển lộ. Chân tâm chưa tỏa rạng quang minh, vạn sự vạn vật ở trong và ngoài thân đều huyễn ảo mịt mờ.

Bản thân thật quá xấu hổ khi đứng trước Đức Phật. Hiểu Phật, tôi không hề cầu mong bất cứ điều gì. Lạy Phật, niệm Phật cũng không hề có ý nghĩ cầu cho mình sức khỏe sống lâu, không nhờ đó mà cầu danh vị tiền tài. Nó ngược với chân tâm, ngược với bổn hoài ba đời chư Phật. Kinh điển khai tâm mở não cho tôi thấy trên đời hết thảy chỉ là một giấc mộng lớn, đều hoại diệt bất cứ lúc nào kể cả xác thân bất tịnh. Một khi nhận ra trong tôi có Phật tánh (bình đẳng như mọi người), cũng là lúc tôi biết tất cả chúng sanh ở Nam diêm phù đề đều phải cung kính như đối diện với Phật. Do thói quen huân tập lâu ngày trở thành “bản chất”, đâu ngờ bổn tánh ở mỗi chúng sanh vẫn không hề nhuốm bụi trần ai. Đó sao có thể gọi là kẻ xấu ác cho được. Người cha dẫu suốt đời phương hại chúng sanh thì trong sâu thẳm đứa con ông ta vẫn là người nặng nghĩa ơn sâu. Càng cảm thương đối với những người tạo ác nghiệp. Họ đã chịu thiệt thòi đóng vai phản diện. Cuộc đời là một vở tuồng kinh điển. Xem tuồng, không lý tôi lại thù hận diễn viên trong vai kẻ “sát nhân”... Ba tôi, một người hiền lành nhân hậu, suốt đời dạy dỗ bao thế hệ học trò thành đạt, lại phải nằm rất lâu trước lúc từ giã cõi đời. Tôi nghĩ nếu để chịu đựng một ngày lâm bệnh của ba thôi cũng khó. Nhưng ba đã đổi lấy sự đau đớn tột cùng, đổi lấy thọ mạng ngắn ngủi để dạy bài học vô thường vĩnh viễn, để tôi biết mau chóng quay về nẻo thiện. Vai diễn của ba quá đạt, khiến tôi cảm sâu hơn về lời dạy của Phật, khiến tôi hiểu ai cũng nên gắng tu như lửa cháy trên đầu, như ma đuổi sau lưng và phía trước là hố thẳm.

Đức Phật từng hàng ngàn lần âm thầm trở lại cõi Ta bà trong vai những chúng sanh lạc lối, tỉnh ngộ mà giác ngộ. Và mãi mãi về sau Ngài vẫn không mệt mỏi sắm vai trên sân khấu ác trược buông xuống vạn duyên thẳng về bờ giác để mong một ngày ai đó sẽ lần theo những dấu chân ấy ra khỏi nguồn mê. Thật tự hào nếu được là học trò của Phật Thích Ca - một vị Thầy thấu tỏ, siêu việt mười pháp giới, đã thiết nguyện khuyến nhủ muôn người hướng về Cực Lạc thế giới. Nghẹn ngào thay khi xưng tụng hồng danh Đức Từ Phụ. Tên của Ngài chính là căn mạng đời tôi. Thật tự hào nếu mỗi ngày mở mắt lại được niệm “A Di Đà Phật”. Tha thiết niệm. Niệm đến ứa nước mắt kiệt cùng huyết máu. Chính lúc đó tôi không cô đơn buồn tủi, không chạy trốn khỏi chiều thời gian hạn hữu kiếp người.

 

Nghĩa kinh ứa lệ

Kinh vốn vô lượng nghĩa. Vô lượng trước hết hiểu nghĩa từ cạn đến sâu, từ thấp lên cao. Phật giảng diệu lý, song đều tùy căn cơ chúng sanh mà nén năng lượng vào. Lời Đức Đạt Lai Lạt Ma: “Nếu không có cái nhìn tổng thể, có thể đôi khi người thực hành sẽ thấy giáo pháp, những phương pháp thực hành mà Đức Phật ban có nhiều điểm mâu thuẫn”. Nghĩa kinh cao một trượng, người có công phu cao một thước sẽ hiểu một thước, người công phu cao nửa trượng sẽ hiểu tương ứng, cho đến người công phu vượt hơn trượng, thì nghĩa kinh vẫn tự lớn để tiếp tục hành trình khai ngộ. Dẫu vậy, như một bậc chân tu từng nói: “Từ bậc Đẳng Giác trở xuống, hễ nói điều gì mâu thuẫn với kinh Phật thì chẳng đáng để tuân theo”.

Đức Cồ Đàm lúc chưa triệt ngộ dĩ nhiên là phàm nhân; lúc Ngài chứng đạo, thì tướng ấy vẫn là một người thường, gần gũi chúng ta như cha mẹ hết lòng vì con cái. Đúng chăng? Dĩ nhiên đúng. Lại nói Đức Phật là thần, thánh, là một vị từ cõi Tịnh đầu thai làm người thị hiện tướng thành đạo, khó nhọc tu tập từng bước, lúc đạt tứ thiền bát định, thấy vẫn chưa ra khỏi luân hồi lại tiếp tục tu cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đúng chăng? Nếu cho rằng sai tức ta phủ nhận Phật nương thuyền từ trở lại cõi Uế độ sanh, cùng vô vàn Bồ tát dẫu đã “dìm thuyền” qua bờ kia vẫn tiếp tục trở lại “nhập vai” giáo hóa, kể cả vai ác (độ cho hàng đặc biệt). Giờ lại hỏi, Đạo Phật có phải tôn giáo? Đương nhiên đúng. Còn Đạo Phật không phải tôn giáo? Điều này quá đúng. Đạo Phật là khoa học, triết học? Rõ ràng. Còn là khoa học, triết học đỉnh cao. Nói Đạo Phật không phải tôn giáo? Quá đúng, vì nguyên gốc Đạo Phật vốn phơi bày chân tướng vũ trụ, Đức Phật thấy và tìm cách hướng dẫn chúng sanh sửa thân khẩu ý để vận mạng chuyển từ ác qua thiện, từ mê qua ngộ, trở về chân nguyên tự tánh. Nếu hiểu đúng gốc của từ tôn giáo (giáo dục điều trọng yếu), lại càng đúng. Chẳng vậy mà ta thường ngày vẫn gọi Bổn sư. Còn hiểu tôn giáo ở nghĩa tôn sùng Phật như thánh, sao không đúng cho được. Bậc chứng Sơ quả đã có thần thông, đến như Phật thì pháp lực vô biên, chẳng phải là vị “thần” cao nhất trong các vị thần đó sao. Đức Phật vốn tùy căn chúng sanh mà thuyết nên kinh điển có những điều tưởng ý trái ngược. Thời nay có cao tăng giảng kinh, nếu nghe loáng thoáng ta cũng sẽ nhầm vị này tự mâu thuẫn. Chẳng hạn lúc thì bảo “hữu cầu tất ứng”, học Phật chân chính muốn cầu tiền tài liền có, cầu danh vọng có danh vọng; giảng thêm thì Ngài bảo tuyệt không tham cầu nghiệp thế gian, triệt buông vạn sự. Rồi nữa là “pháp thượng ưng xả…”. Chỗ này Ngài nói phải chuyên ròng niệm Phật; lúc cần rốt ráo lại bảo niệm Phật phải có nền tảng Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo, Thập thiện; không có nền tảng đó niệm Phật cũng chỉ deo duyên mà thôi! Các sư bên Nam tông thường vẫn quán xác chết để cảnh tỉnh: Sau một hơi thở là thân này mất hẳn. Còn có vị lập ra Thiền kinh tởm, xem hình người chết không toàn thây, xem mổ tử thi tạo nên những “cú sốc”, khuyên vừa xem vừa trì chú, niệm Phật; cũng là nằm trong lý vô thường. Bỏ nền tảng Tiểu thừa, tức dối lời Đức Thích Ca: Không tu tiểu thừa màtu Đại thừa không phải đệ tử ta. Bỏ nền tảng, tâm vẫn khởi cầu về cõi Phật, song cầu mình sẽ sống thêm ngày tháng thì mãnh liệt bội phần. Niệm Phật không quán vô thường, đến lúc hấp hối vẫn tiếc thân này, một câu Phật hiệu tự mình niệm không nổi trong an nhiên, nói gì đến mười câu hay trăm vạn câu.

Đạo Phật không tham. Nhưng, tham có cần? Có. Thực ra là chuyển công năng của tham. Tập khí vốn tham, giờ tu thì chuyển tham trần cảnh thành tham pháp. Chẳng như thấy B ngồi thiền đạt định mấy tiếng, ta bèn “tham”, muốn bằng; mỗi ngày một thời công phu nay tăng lên hai thời, rồi ba, niệm niệm cũng cố đoan chánh hơn. “Tham” để tiếp nhập cảnh giới, có cảnh giới cao mới xả tham buông tham được. Tâm vốn động, ban đầu phải dẫn sự động đó quay về chân niệm; từ nhiều chân niệm quy về một niệm. Từ một [chân niệm] trở về không thì dễ buông hơn. Đạo Phật không mê tín. Vậy mê tín cần chăng? Có. Chẳng như một người lâm đường cùng, không còn hy vọng nữa họ bỗng hướng về tâm linh. Ông thầy khuyên, thôi con niệm Phật đi, sẽ mở ra đường sáng. Người kia không thấy, nhưng tin “ông thần Phật” sẽ cứu mình, đó là một thứ mê tín, song là phương tiện dẫn đạo, nên cần. Cứ để họ mê tín. Rồi ông thầy đưa cho người kia Phật pháp, bảo con về đọc về nghe, kết hợp niệm Phật, Phật sẽ ứng. Người kia làm theo, nghe, đọc, chợt hiểu té Phật “không thể” cứu mình, Phật chỉ là chỉ ra cách giúp mình cải nghiệp nạn, giải thoát. Và trên con đường vượt bể khổ đó có ngũ giới thập thiện. Trước sát sanh giờ bỏ, trước vọng ngữ đôi chiều giờ bỏ, trước tà dâm giờ triệt cái sự mê. Niệm Phật. Một thời gian tâm sáng chuyển được cảnh tối tăm. Niềm tin trước kia mù quáng, bây giờ niềm tin thanh sạch. Thế là mê tín có giá trị. Dùng trí duy vật học duy tâm, dùng tâm duy vật tu duy tâm sẽ thành ra thế nào chắc không cần bàn nhiều. Ngôn ngữ vốn có tính làm thước đo tri thức, song chính nó cũng góp phần cản trở việc giải ngộ. Sở tri chướng. Nói thời mạt pháp Kinh điển diệt hết, nếu hiểu ở nghĩa đen là cạn, không còn gì để bàn thêm! Kinh diệt là ý người đời sẽ giảm dần niềm tin tâm linh, kinh càng cao siêu [về trí tuệ] càng trở nên xa vời, họ tin sự hưởng thụ vật chất. Rồi nữa, thời mạt pháp chỉ còn Lục tự hồng danh, là bởi cuộc sống vồn vã, vật chất bao phủ từng giờ từng phút, đến ngồi xuống ăn cơm cũng chẳng kịp, nên hành giả tu Niệm Phật là tiện lợi, chẳng gì khó hiểu. Thời nay, thử hỏi số Phật tử theo Tịnh tông nhiều hay theo các pháp môn khác nhiều, cũng đã rõ. Trần gian tính không hết người tu định (niệm Phật) trong động (cuộc sống phàm tục) đã thành tựu viên mãn! Ngôn ngữ luôn bị bó hẹp và hạn chế, ngữ nghĩa nhiều khi chết cứng. Một tác phẩm hay cũng đọc dăm ba lần là chán, phim đoạt giải thế giới cũng chỉ xem lần thứ hai là cùng. Kinh thì nghe đi nghe lại, càng nghe càng thấm càng tươi mới. Câu Phật hiệu niệm hoài mãi, càng niệm càng hoan hỷ; mới nhập môn hơi khó chịu, khép mình vào thời khóa cũng tạm khả dĩ, song hàng xóm nhỏ to thì tâm lao theo trần cảnh; Phật hiệu thêm sâu thì thấy an lạc, nhạc nhẽo quán xá cà phê gần cũng không ảnh hưởng đến sự nghe “A Di Đà Phật” khởi từ tâm. Bên kia đám cưới hò hét ầm ào, ngồi trong nhà âm thanh rung vách tường, vẫn không ảnh hưởng việc niệm Phật của ta. Tâm khởi chữ nào tai nuốt trọn chữ đó, cứ thế mà an nhiên.

Huy động ngôn ngữ thế gian cũng khó thông được diệu lý “A Di Đà Phật”. Ngay đến bình phẩm thế tục, ngôn ngữ cũng không thể bao hàm hết ý nghĩa thâm sâu. Chẳng hạn Cô đơn, từ này thiển nghĩ xuất phát từ phương Tây, lúc cái đích của con người là bước trên thảm nệm vinh hoa chứ không chịu đi trên lưỡi dao sự thật. Vũ trụ vô biên, một khi con người đứng trên sự tung hô là lúc họ sắp “đội trần”. Trong dòng phim kiếm hiệp có cụm từ “cao thủ cô đơn” như Độc Thủ Đại Hiệp, Độc Cô Cầu Bại. Xét trên bình diện xã hội, đây là ưu điểm. Nhược điểm là sự cô đơn ấy luôn đối diện với bế tắc, ngõ cụt. Một khi ai đó tiệm cận chân lý tối thượng chính là họ lội ngược dòng đời tìm bản lai diện mục, đối diện “cô đơn”. Nhưng sự cô đơn này dung chứa hỉ lạc. Lùi xa với dòng đời thấy trời cao biển rộng. Càng hỉ lạc càng cô đơn, càng cô đơn càng hỉ lạc, con đường phía trước càng mở ánh sáng khôn cùng. Người niệm Phật biết trước ngày giờ vãng sanh, tự tại mà vút đi (như lão cư sĩ Ngụy Quốc Hưng); người niệm Phật vãng sanh, để lại xá lợi toàn thân vàng ròng làm chứng cho pháp môn tối thắng (như cụ Hoàng Ngọc Lan); chính là những người “cô đơn”. Họ cô đơn với số hành giả tu Niệm Phật chỉ niệm khơi khơi bề ngoài và nhất là không khép mình vào giới luật đoạn tham sân si mạn, không quán Tứ niệm xứ để phá thân kiến vô thường. Họ cô đơn với những người thiển cận về Tịnh tông, với những người báng niệm Phật và không tiếp nhận Đại thừa. 

Thời nay nhiều người không tin nổi Niệm Phật. Không tin thì cứ tin lấy pháp mình đang hành (Thiền chẳng hạn), nhờ đó tăng trưởng công phu, nếu dự được vào dòng Thánh rồi phản bác cũng chưa muộn. Đáng buồn họ lại sớm dụng trí so lường diệu pháp. Nhiều người thấy giới niệm Phật bèn cho đây là hành động của tôn giáo cầu may, so sánh niệm Phật với niệm thiên. Họ dùng tam đoạn luận kiểu như: muốn lên Thiên đàng hãy niệm thiên; muốn lên Cực Lạc hãy niệm Phật; như vậy niệm Phật cũng là tôn giáo. Ý họ muốn kéo Phật A Di Đà xếp hàng cùng chư Thiên. Họ đã hiểu ở nghĩa thấp nhất tinh thần kinh điển. Phật Thích Ca giảng điều trọng yếu: Mười pháp giới đều do tâm tạo. Tâm mỗi chúng sanh đều chứa trọn mười pháp giới. Tâm bạn nếu thời thời khắc khắc chỉ nghĩ [niệm] thiên, cảnh giới thiên sẽ được tạo dựng nguy nga trong tâm ấy, lúc mạng chung thức dễ có cơ hội bay về thiên. Điều này không lạ lắm. Chuyện đời từng có một chủ trang trại ngựa, suốt ngày nghĩ đến ngựa, ăn với ngựa ngủ với ngựa, đi đứng nằm ngồi đều tưởng [niệm] ngựa, trước lúc ngủ, chợp mắt, lúc vừa tỉnh đều nghĩ ngựa. Ngựa và ngựa. Trong tâm người ấy chỉ có ngựa mà thôi. Một hôm bà vợ vào nhà thấy con ngựa đang nằm ngủ trên giường, chính là chồng bà do tâm [ngựa] hiện tướng ngựa. Dĩ nhiên người ấy chỉ thành ngựa trong thời khắc nhất định. Nhưng để thấy tâm chuyên nghĩ gì sẽ tạo nên cảnh ấy. Tâm [niệm] tham là đang xây “lâu đài” quỷ. Tâm luôn [niệm] sân thì mở đường về A tu la. Niệm thiên và niệm Phật đều giống nhau ở chỗ niệm, khác ở đối tượng được niệm. Tâm chuyên niệm ngựa thì thành ngựa, tâm chuyên niệm thiên, tưởng cảnh thiên, lúc mạng chung sẽ hướng thiên mà bay. Người chuyên niệm Phật sẽ về cõi thanh tịnh của chư Phật. Tâm vốn tạp, vốn không một khắc ngưng nghỉ sự dao động, tức luôn niệm. Ta không tác ý nó vẫn tự niệm. Nếu tác ý niệm thiện, sẽ tạo nên tương lai thiện, tác ý niệm ác thì ngược lại. Nếu ta không tác ý thì nó sẽ tự niệm theo tập khí, theo nghiệp lực từ thói quen trong kiếp này và cả từ tiền kiếp. Ta không tác ý niệm Phật, tâm sẽ tự niệm chín cõi còn lại, mà dễ vào nhất là niệm tham sân si (tương ứng với tam đồ). Đây là điều Đại sư Triệt Ngộ từng khai thị thấu đáo. Ngay cả bậc thiền, nếu chỉ dựa vào thời khóa công phu mỗi ngày vài thời, mỗi thời vài ba tiếng chăng nữa, lúc xả thiền, ra đường dạo mát hay làm Phật sự, nếu không thực sự thực hành thiền minh sát, tỉnh giác trong ý niệm dấy lên khắc khắc, thì tập khí phiền não dễ khởi như cốc nước vừa lắng đục lại khuấy. Người niệm Phật thì ngoài thời khóa, câu Phật hiệu đã thuần thục, dẫu có chạy xe trên đường hay ở bất cứ nơi ồn ào, tâm họ vẫn khởi niệm Phật [tai nghe] rõ ràng. Điều này tối thắng. Nó khiến công phu được kéo dài, ngân dài một cách an nhiên không gắng gượng. Dĩ nhiên niệm gì cũng trước hết phải nghiêm trì thập thiện, phải quán vô thường, khổ, vô ngã để phá tà kiến; trong đó quan trọng là thân kiến mới có thể không dính mắc thân, tâm, cảnh ở cõi Ta bà (nếu muốn sanh về Tịnh độ). Tu pháp môn nào cũng phải nằm trong giới luật. Không tu trong giới luật tức đang dạo trên đường biên Phật pháp. Thiền, niệm Phật, niệm chú không trên nền giới luật và tâm cung kính cũng gần như xây lâu đài trên cát. Người niệm Phật có hành trì ngày đêm tám tiếng chăng nữa, nhưng không khép mình trong thập thiện, không quán đời hư huyễn công phu sẽ khó thăng tiến, rõ nhất là niệm vẫn niệm mà tập khí vẫn dấy, vẫn sân giận vẫn phân biệt vẫn vọng tưởng, rốt cùng là tâm không thể định. Tu Niệm Phật (vốn động, trước hết là ở miệng), nhưng niệm thành phiến thì chuyển vào tâm niệm, tâm niệm sâu thì vào định. Đó là cách tỉnh giác trong từng giây phút; tỉnh thức là quán. Gọi đúng là quán câu Phật hiệu. Từ quán trở về không, niệm như chẳng có ai niệm, niệm tức là nghe và nghe tức là niệm.

Không cần truy đến đời các tổ sư trong Tịnh tông (dẫu trong tổ của Tịnh có nhiều vị là thiền sư, cũng là tổ của Thiền và nhiều tông môn khác); chúng ta hãy nhìn vào tấm gương của một số đại đức cận hiện đại sẽ rõ. Hòa thượng Tuyên Hóa, người niệm Phật đạt công phu tột đỉnh, đến thỉnh Hòa thượng Hư Vân, được ấn chứng. Sau này ngài Tuyên Hóa đã tự nhận nhiệm vụ nặng nề qua phương Tây hoằng pháp. Người Tây vốn dụng trí, tin khoa học, nên ngài lấy Thiền làm căn bản. Ngài là bậc “chân truyền”, ngày ăn một bữa, giới luật tót vời, lưng không dính chiếu. Về lực thiền, việc Hòa thượng nhập định một tháng hay ròng suốt 49 ngày, điều này không là thông tin xa lạ trong giới tu tập. Bây giờ ta thử đặt câu hỏi nho nhỏ: Người chân tu, sống đúng phạm hạnh của Đức Phật Thích Ca, bao người ngồi định được vài ba ngày? (Ở đây xin phép không bàn tới các bậc chân tu đang ẩn mình; và cũng không dám bàn đến định tự tánh). Để nói rằng, ai chưa định tâm được vài ba ngày, liệu có phê phán bậc đại sư Tuyên Hóa; người đã giảng những gì? Ngài đặc biệt coi trọng và giảng kinh Địa Tạng. Và căn dặn: chớ đụng vào một chữ trong bộ kinh này, tức chớ nghi ngờ một chữ (dẫu đó là chữ dịch chưa sát nghĩa), chứ nói gì đến nghi ngờ không phải Phật thuyết. Ngài lại giảng kinh A Di Đà, rằng “có một khắc niệm Phật thì có một khắc không vọng tưởng, cho đến từ sáng đến tối niệm niệm không lìa Phật, thì ngày ấy không vọng tưởng. Vọng tưởng không nổi lên tức là Diệu Pháp”. Trong pháp hội giảng bộ kinh này, ngài từng so sánh với Thiền. Ta tin chắc ngài đã nhập vào các cảnh giới thiền thâm sâu, nên lời ngài là nói ra cái sự đã chứng, chứ không đơn thuần hợp theo ý kinh ý Tổ. Và đây là cảnh giới Thiền của ngài: “Sơ Thiền có thể không còn thở nữa, không có sự hô hấp. Ở cảnh giới này tuy không còn hô hấp nhưng vẫn có một niệm động, một khi phát sanh niệm động này thì hô hấp sẽ trở lại”. “Mạch ngừng lại, khi hô hấp không còn nữa thì mạch cũng ngừng luôn, giống như người chết. Tuy mạch ngừng đập nhưng không phải chết. Đó là cảnh giới của Nhị Thiền”. Rõ ràng, những quý vị hành thiền, cũng nên đặc biệt tham khảo, để làm mốc phấn đấu. Bởi đến tóc bạc vẫn chưa vào được Sơ Thiền, chí ít là đắc định (chưa bàn đến đắc quả), thì kiếp này khó thay!

Ngài Hư Vân, bậc thiền lỗi lạc. Công phu thiền của ngài thật đáng ngưỡng vọng. Có lần ngang qua một cây cầu, ngài vịn tay vào thành cầu rồi định luôn, bất động như bức tượng đứng đó suốt ba ngày đêm mưa gió tuyết phủ. Nhưng, khá nhiều đệ tử của ngài, ngài khuyên niệm Phật và nhờ đó họ biết trước ngày giờ về Cực Lạc. Có lần cao tăng Hư Vân viết thư trả lời một Phật tử nhờ ngài siêu độ cho con, có câu: “Ngay hôm nhận được lời căn dặn, bèn vì lệnh lang niệm Phật hồi hướng ba ngày, chắc là đã nương theo Phật quang tiếp dẫn”. Bàn về bậc chân tu thiền lỗi lạc khuyến người niệm Phật, còn phải kể đến lão Hòa thượng Quảng Khâm. Ngài có quãng thời gian dài ở rừng, miên man trong định đến râu tóc dài phủ thân. Rồi được thỉnh về chùa độ sanh, ngài là một khuôn mẫu chân chính bậc nhất của đệ tử Đức Phật, sống gần như theo hạnh đầu đà, chuyên ngủ ngồi. Pháp môn ngài truyền giảng là gì?: Niệm Phật. Ngài từng nói: Ngoài sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật ra, ta không còn gì để giảng thêm.

Những ai từng không tin: niệm Phật có thể nhập vào đại định chứng Niết Bàn, hẳn người đó phải đạt công phu tương đương hoặc vượt xa ba vị thượng nhân kể trên. Hoặc là họ vì chưa hành tới bến nên chưa thể hiểu. Khó trách. (Anh hiểu tôi anh sẽ không nói vậy). Thực tế ai tu thiền nếu chưa ngồi định được hàng ngày, hàng tuần hàng tháng trở lên, giảng về thiền, sự giảng đó vẫn là bằng những gì học được từ sách vở, từ tổ sư đại đức, rất y kinh, làm lợi lạc quần sanh, song e vẫn còn miễn cưỡng. Đó là chưa dám bàn đến thường tại định, cái định có cả trong đi đứng nằm ngồi nhờ niệm Phật mà nhiều người đã tiếp nhập được. Để thấy, ai chưa niệm Phật đến công phu thành phiến, nhất tâm (công phu này theo các Tổ đã vào được định, dẫu định chưa sâu), nếu chỉ cần khởi ý bài xích, trước hết sẽ là lỗi lầm quá lớn quá lớn đối với pháp giới. Phật từng nói, những gì ta giảng như lá trong nắm tay, những gì ta chưa giảng [về vũ trụ] như lá trong rừng. Phàm nhân sẽ hoàn toàn mù mờ về cảnh giới của người chứng quả Thánh; Tu đà hoàn không thể biết đến cảnh giới của nhị quả Tư đà hàm,... Theo đó mà lên, Bồ tát không thể thấu hiểu cảnh giới của Phật. Soi đến tấm gương của Ngài Thiên Thân từng viết 500 bộ luận phê phán Đại thừa, sau này tu cao lên mới ngộ mình quá lầm, nguyện xin được cắt lưỡi sám hối với Phật, mới giật mình.

Là một người hành pháp tồi, nghiệp dày đức mỏng, ngã mạn sân hận chất ngất, tưởng được làm Phật tử ngon lành rồi, đâu ngờ lâu nay tôi vẫn phạm giới quá nặng, phước đức tổn hao không kể xiết. Đứng đầu là nghiệp ý. Theo khoa học lượng tử, mỗi giây con người thu vào hàng tỉ thông tin, trong lúc ta chỉ thực sự nhận biết một phần. Điều này đã lý giải nguyên lý vũ trụ mà Đức Phật giảng rõ trong kinh. Mỗi người là tiểu vũ trụ, song tiểu đó chứa đại vũ trụ; tức tướng có nhỏ to sai khác song tánh đồng thể. Sau này có vị đại sư đưa nguyên lý, mỗi người như bọt nước trên biển, không biết và bị chướng ngại để biết rằng lúc bọt nước ấy vỡ tan, thì chính nó là biển cả. Mỗi giây, hàng tỉ tỉ ý niệm từ nhân loại phóng ra, thành một dạng sóng, đều ùa vào alaya thức mỗi cá nhân, song ta chỉ nhận biết khoảng một phần tỉ nhờ mắt tai mũi lưỡi thân ý. Có thể ví dụ: một lần tôi đang nằm ngủ, mơ thấy người bạn xin số di động của Q. Tôi từ lâu đã nhớ số Q liền đọc cho họ. Mới đọc được bốn số 0914..., bỗng chuông điện thoại reo. Tôi giật tỉnh, dựng dậy chộp điện thoại; lạ không, Q đang gọi. Có nghĩa, trước lúc Q bấm gọi cho tôi, đã nghĩ về tôi, đã phóng ý niệm về tôi (lúc tôi đang ngủ); ý niệm đó liền khởi động tâm thức trở thành cơn mộng (mơ thấy tôi đang đọc đúng số điện thoại của Q cho người xin số). Trong một giây biết bao ý niệm như vậy xuyên vào alaya, tôi lại không hề nhận biết. Đơn giản, bởi tâm tôi quá động loạn. Nếu tâm trong lặng tịnh tĩnh, ai đó vừa nghĩ đến mình đã biết ngay. Còn cao hơn, chân tâm ấy sẽ như ngôi nhà không cửa, ý niệm trôi qua chẳng hề mảy may gợn sóng, nên không bị nghiệp lực chi phối (từ những ý niệm hữu/vô tình phóng qua). Hoặc đó là những người chuyên đặt tâm vào quán hơi thở, chuyên lần theo một câu chú, câu Phật hiệu, tâm lần chữ nào tai nghe rõ chữ đó, từng câu nối thành chuỗi, từng chuỗi nối nhau thành khối, khiến vọng quyện lại làm nền cho chân tâm hiển lộ như gương. Gọi vọng tâm là bởi tâm ấy chứa nhiều tạp niệm, kể cả tạp niệm về Phật pháp. Tạp niệm nhiều cũng giống như một lễ hội với đủ mặt người dự phần. Lễ hội thì luôn vui, càng vui càng vời gọi người tham dự. Nếu trong lễ hội tưng bừng, ta gặp một người, ngồi với chỉ một người ấy nói chuyện hệ trọng, ta chăm chú bắt từng câu từng chữ của cuộc chuyện, và dẫu giữa ồn ào song thực chất không hề ảnh hưởng đến kết quả của cuộc hội thoại giữa ta và người. Bây giờ ta đang sống bằng vọng tâm với vô vàn tạp niệm, nếu thực hành niệm Phật, lần theo từng chữ, như vậy ta đang lần trở về chân tâm. Lâu ngày đoạn tháng, từ niệm ra tiếng chuyển vào mặc niệm, tâm dính chặt vào câu niệm; Phật hiệu như được khắc vào tâm, sẽ đạt từ định cạn đến định sâu. Sâu thì ngoài Phật hiệu ra không hề thấy vọng niệm. Tính ra cũng phải nhờ khép mình trong ngũ giới thập thiện chuyên trì niệm mỗi ngày ít nhất vài thời công phu, mỗi thời ít nhất một tiếng; ngoài ra, trừ hoạt động trí não việc thế gian, làm Phật sự, hễ rỗi chút là Phật hiệu lại vang. Các tổ sư và cao tăng Tịnh tông hiện thời đều cho rằng nếu đạt công phu thành phiến sẽ có cơ hội về cõi Cực Lạc (ở các phẩm phương tiện). Còn so với thành tựu cao nhất của Tịnh tông, thì công phu thành phiến vẫn được xếp vào mức cạn. Công phu sâu là từ hữu niệm trở thành vô niệm, niệm mà không có sự niệm, rỗng không, tức lý nhất tâm, sẽ dần nhập đại định. Tâm ấy là Tánh, là vũ trụ, niết bàn.

Thiển nghĩ chúng ta tu pháp môn nào cứ thế mà hành. Hành để chứng, chứng một phần tỉ cũng là chứng, đó mới là điều tối quan trọng. Hành để cho/thấy mình cao thâm là chấp trước sâu nặng, lúa cao cỏ cũng cao, công phu tăng ngã cũng lớn thêm. Bậc chân tu không nhìn lỗi thế gian. Lỗi phàm tình còn không nhìn, huống hồ lỗi ở tà giáo; huống hồ nhận cả những pháp môn mình chẳng hành đến đầu đũa tự ban quyền phán xét.

Nhìn chúng sanh khổ, là từ cái chủng tử khổ [chưa đoạn được] trong tâm mình phóng ra. Nhìn Phật tử mê lầm, cũng chính là chủng tử ấy từ vọng tâm ta phóng chiếu mà thôi.

 

Hướng tâm về miền sáng

 

 

Pháp và cái giống Pháp

Lúc Phật sắp nhập Niết bàn đã khuyên đệ tử dựa vào 4 y cứ để liễu thoát sanh tử, trong đó đầu tiên phải “y pháp bất y nhân”. Pháp chính là Kinh điển. Kinh điển cũng hiểu rộng ra là lời giảng và khai thị của các bậc triệt ngộ. Không dựa vào kinh điển tu tập, người ấy có nguy cơ đi lệch đường đạo.

Không thâm nhập kinh điển, có chút công phu dễ nhầm mình chứng đạo. Tầng trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ người ta “sống trong định” bèn tưởng mình nhập Niết bàn, chẳng ngờ hết phước lại rớt xuống hạ giới như thường. Nói gì đến những vị ở hạ giới tĩnh tọa hàng tháng trời lại tưởng mình đã ra ngoài Tam giới. Ngay ở xứ Ấn và bên Tây Tạng, người người tham thiền đến râu tóc phủ kín mặt song đa phần giống như cốc nước để lâu nên lắng, lúc xả thiền tiếp xúc với nghịch duyên trần cảnh thì lớp cặn phiền não lại chỗi lên. Nhiều vị nhập định sâu, sanh tâm tự mãn liền rơi vào ấm ma; ma tạo cảnh giới ảo và họ tha hồ vi vu khoái lạc, gieo rắc nghiệp chướng. Đau xót nhất là hiện tượng tuyên bố mình chứng quả. Xưa nay trong nhà Phật, ai chứng quả đều không hé lộ. Do duyên cơ nào đó “bị lộ”, họ sẽ bỏ xác phàm rời nhân gian. Cũng có trường hợp “khai” mình chứng quả, liền nhập diệt. Đây gần như là nguyên tắc chưa có ngoại lệ. Cho nên để nhận diện một ông Phật giả thật không quá khó. Trong kinh Đại Bảo Tích, Đức Phật hỏi đệ tử: Nếu như có một người cướp hết sản vật của chúng sanh Nam Diêm Phù Đề, tội ấy có nặng không? Đệ tử trả lời rất nặng. Phật bảo: nếu người nào chưa chứng ngộ lại xưng mình đắc Tu đà hoàn, tội kia không bằng. Thế mới biết gieo nhân này ắt xuống địa ngục thọ quả.

Dẫu biết còn xa thẳm, nhưng Phật tử nào chẳng mong ngày Phật Di Lặc giáng thế. Kinh Vô Lượng Thọ nói rõ tương lai Ngài vẫn sẽ truyền giảng Tịnh độ - pháp môn được Phật Thích Ca nhắc nhở: thời Mạt Pháp tu niệm Phật mới diệu dụng. Khá nhiều trường hợp thuộc hàng ngu phu nhưng phát đại nguyện sanh về Tây phương Cực lạc; sống và làm bất cứ điều gì đều cốt “trang nghiêm Phật tịnh độ”, ngày đêm chuyên tâm niệm Phật đẩy lùi vọng tưởng - phân biệt - chấp trước, họ đã nhẹ nhàng đới nghiệp vãng sanh, viên thành Phật đạo. Thế mới gọi Pháp môn này “hoành siêu tam giới”. Chính sự “đi tắt” này nên dễ khiến đại chúng nghi ngờ. Không dễ tin chỉ nắm vững câu Phật hiệu, một lòng hướng nguyện trở về “bản quán” lại thành đạo; trong lúc các bậc chân tu muôn vàn khổ công vẫn chưa thể nhập dòng thánh sở quả. Hòa thượng Quảng Khâm (bậc chân tu đại ngộ được cả giới tu Thiền và Tịnh kính ngưỡng) bảo không nhất thiết phải học Kinh điển, chỉ cần tâm không rời câu “A Di Đà Phật”. Ý muốn nói, một khi tin sâu cõi Cực lạc, buông luyến thế sự chuyên trì danh hiệu cầu vãng sanh thì ngàn kinh vạn luận với họ đều... thừa.

Nhiều bộ óc thông hiểu sâu sắc kinh giáo, vẫn... không tu, vẫn chỉ đứng ngoài cửa không. Đó là “sự lạ”. Thế mới biết học Phật phải học bằng Tâm, xem Kinh như Phật. Một khi trong tâm “chưa có Phật” thì hết thảy Kinh chỉ là triết học, sách quý; hết thảy hình họa, tượng Phật, Bồ tát chỉ là tác phẩm thuần túy. Một khi tâm Phật hiển lộ thì với tượng Phật liền một lòng cung kính như Phật bằng da bằng thịt trước mặt. Đó chính là cái bên trong tương ưng với sự bên ngoài. Rộng hơn, mọi chúng sanh kể cả động vật đều là “Phật vị lai”, ta đều với tâm chí thành mà phụng sự. Người đời chửi mắng, trách móc, chê bai chính là đang dạy mình tu pháp nhẫn nhục. Từ đó xoay ý niệm ghi ơn, hồi hướng thiện lương về họ. Vị tiên vốn là kiếp trước của Phật Thích Ca phát nguyện độ người “tùng xẻo” mình là tấm gương chói sáng nhất. Chưa vượt qua ải nhẫn nhục, tâm còn ngã kiến, biên kiến, còn có ý niệm đối lập với người khi dễ ta, là biểu hiện của tâm luân hồi. Tâm luân hồi thì thân luân hồi.

Giấc mơ, nhất là ác mộng không hẳn “giả”, đó là sự dồn nén hiện thực, dẫn nguồn từ hiện thực, hoặc một hiện thực mà nhục nhãn không thể nhìn thấy; hay nói đúng hơn là sự chiêu cảm nghiệp lực chưa được hóa giải. Có một ni sư đêm mơ thấy mình tát người, sáng ra đã quán tưởng người đó mà sám hối, lễ hồi hướng. Một người cha có con thuộc hàng maphia chém giết tù tội, gây cho ông muôn đau khổ. Ông đã nghe theo lời dạy của thầy trụ trì, về dán ảnh đứa con trong phòng ngày nào cũng âm thầm lễ lạy. Một thời gian lâu chưa thấy chuyển biến, thầy trụ trì khuyên tiếp tục lễ. Cuối cùng đứa con “tự nhiên” chuyển tâm như một phép màu. Mối oan oan tương báo giữa cha con từ đời kiếp nào và một phần trong kiếp này được hóa giải. Chẳng những vậy, ngay cả đến những cao tăng cũng lễ lạy người “vô cớ vô sự” ganh ghét, oán thù mình, huống hồ người đời nghiệp chướng sâu dày. Hễ oan gia trái chủ “đối đầu” mà ta chưa hề biết thì thôi, chứ nếu sờ sờ trước mắt dẫu chỉ một người luôn khiến ta bực dọc, khiến dấy lên cái suy nghĩ “giá không có người này”, chừng đó nguy cơ ta ở lại với họ trong lục đạo là rất thực tế. Dẫu lý thuyết kinh giáo trang bị đầy mình, chưa đủ niệm/định lực lúc gặp sự cố chúng ta vẫn bủn rủn. Những chướng ngại, phiền não hoặc đến như đi đứng vấp ngả, cảm bệnh... đều là khảo nghiệm tâm tính, đều là đề thi của Phật và Bồ tát, ta cứ lần lữa và nộp bài với điểm trung bình ắt khó được “lên lớp” học với Phật. Khảo nghiệm tâm theo cách này cũng khá thú vị: Giả như niềm vui đến mà trên đường phóng xe về nhà hoặc lâu hơn ta vẫn lâng lâng (niệm Phật không vô hoặc quên luôn Phật hiệu), chính là tâm khí bao chao. Vui mà tâm không thanh tịnh, thì lúc nỗi buồn ập tới cũng khiến ta ưu sầu, mất thăng bằng và, sụp đổ. Cho nên luyện tâm, trước hết phải bình lặng ở sự thành đạt hanh thông. Bởi những điều đó chung quy đều hướng chúng ta vào “ma sự”.

Tà giáo” hay kẻ thù đều là những sinh mệnh lầm đường lạc lối. Người Phật tử tu theo tinh thần kinh điển chính là đang đi trên con đường sáng với đôi mắt sáng, thì phải phát tâm dẫn dắt người mê mờ vào chánh đạo, sao lại đối lập, đẩy họ sâu thêm vào ngõ tối. Ai kiếp này có học đạo pháp (kể cả những tôn giáo gần với tinh thần của Phật), phần nhiều trong số đó chắc kiếp trước đã tu. Do sự thôi thúc của nghiệp quá khứ, kiếp này “mở mắt” chưa có cơ duyên gặp Phật, lại thấy cái gì na ná Phật pháp là chộp liền, mắc kẹt luôn trong đó. Thậm chí cho cái mình theo là phương tiện đệ nhất, không ngó vào Kinh điển đối sánh. Bảo Kinh điển là “cổ tích”, không còn phù hợp với thời đại, mong họ cũng nên xem qua, lúc lâm nạn nên đưa ra soi xem thế nào. Còn không chính họ đang mua một cái vé giả. Có thể ta trễ tàu, có thể tàu hoãn chuyến, nhưng trong tay trước hết phải nắm chắc vé thật. Phải học đúng Pháp chứ không thể theo “cái giống Pháp” để rồi biết về đâu giữa mù tăm dâu bể. 

Hướng về miền Tịnh độ

Pháp của Phật vốn “bình đẳng, vô hữu cao hạ”; “không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm”. Nhưng ở thời Mạt, Tịnh độ tông là diệu dụng. Mục đích tối thượng đạt giải thoát, tâm phải vô nhiễm thanh tịnh. Các tổ sư xưa và những pháp sư được xem là Bồ tát tái lai hiện thời hầu hết đều giảng về Tịnh độ. Lời Phật: Thời Chánh pháp người ta nhờ giới luật mà thành tựu, trong thời Tượng pháp người ta thành tựu pháp thiền định; trong thời Mạt pháp, người ta thành tựu pháp môn Tịnh độ. Ngài cũng tiên liệu, đến thời Diệt pháp chỉ còn lại 6 chữ “Nam mô A Di Đà Phật”. Người tu bước vào vườn Kinh điển Đại thừa từng biết câu: “A Di Đà Phật uy thần quang minh, tối tôn đệ nhất, thập phương chư Phật sở bất năng cập”. Phật Thích Ca còn tôn A Di Đà Phật là “Phật trung chi vương”. Thế nên đến Bồ tát Văn Thù cũng cầu sanh về cõi Cực Lạc. Trong 13 tổ Tịnh độ tông, có đến 7 vị từng là tổ của các pháp môn khác; đặc biệt Ngài Long Thọ được tôn làm tổ của 8 pháp môn mà chặng nước rút cuộc đời cũng hướng về Tây phương thế giới. Phật Di Lặc hiện tại Đâu Suất nội viện tương lai đến Ta bà hóa độ cũng không ngoài lục tự hồng danh mà truyền giảng.

Tây phương Cực lạc, tầng thấp nhất mà người sơ cơ may mắn lên được là “Phàm thánh đồng cư”, tức mới là học sinh tiểu học của Phật. Nhưng điều tối thắng là ở đấy có vô lượng thời gian để tiếp nhập thêm các tầng cao hơn, không bị trôi lăn vào sáu nẻo luân hồi. Có thể so sánh với các nấc thang trong trò chơi. “Ai là triệu phú”, khi trả lời đúng năm câu hỏi, hoặc mười, nếu có sai tiếp cũng không rơi xuống (hưởng lợi) ở câu số 6 hoặc câu số 1. Cũng chính vì nghĩ tu niệm Phật cũng chỉ là “học sinh tiểu học” nên nhiều người nhầm cho pháp môn này dễ dãi, không theo.

Dễ hay không phải hành mới rõ. Yếu chỉ quan trọng lúc niệm Phật là phải nghe rõ từng chữ đã niệm, dẫu là mặc niệm. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật cho đánh một tiếng chuông và hỏi A Nan có nghe không. A Nan trả lời có; bấy giờ Phật không cho đánh chuông, lại hỏi có nghe không. A Nan bảo không. Phật giảng: không phải không nghe, mà là nghe cái không nghe nhờ tánh nghe. Chấp vào căn mới thấy âm thanh sanh diệt song tánh nghe không sanh diệt. Niệm Phật là pháp khiến hành giả biết xoay cái nghe vào trong đển nhận ra tánh giác bổn nhiên. Tham khảo thêm Trường Trung Đạo của Bồ tát Long Thọ: “Nếu Thực Thể không có thì Phi Thể lấy gì mà được gọi là Phi Thể chứ?” Lúc ta niệm Phật không ra tiếng nhưng chú tâm sẽ nghe được; nghe rõ ràng, câu niệm Phật ấy mới được tính điểm. Ban đầu thử thực hành niệm (nghe được) ba lần nối nhau mà không ý niệm tốt xấu xen lộn, rồi thực hành lên năm lên mười niệm một lần. Tiến tới nối nhau câu niệm Phật không vọng tâm, đến lúc không còn biết đến niệm nữa mà chỉ nghe “A Di Đà Phật” nối nhau vô tận. Câu Phật hiệu hòa vào tánh giác nghe để nhận lấy cái vĩnh hằng, buông thân huyễn tâm vọng. Niệm Phật ai cũng có thể công phu suốt ngày đêm: đi đứng nằm ngồi, hễ không phải dùng trí não thì Phật hiệu tự động bật lên. Niệm đến nhất tâm bất loạn, đạt Tam muội thì Tây phương Cực Lạc thế giới hiện bày. Trần gian có xảy ra đại nạn cũng không mảy may tác động đến mình; sanh tử do ngã bất do thiên.

Chết là một chuyến đi dài. Sợ chết bởi ta quá nhiều ham muốn dính mắc không thể dứt mà lại chẳng có “lộ phí” dắt lưng - ấy là đức và 6 chữ hồng danh (hoặc 4 chữ A Di Đà Phật) nằm lòng. Gom đủ hành trang rồi, chết được chuyển lên cõi trang nghiêm; ở đó ta nhìn thấy người thân, nhìn thấy chúng sanh bạc phước hơn và giúp đỡ họ. Còn không chúng ta với họ là một, cùng lấm bết trong dương trần, trong cõi âm hay lạc vào ác đạo thì có chung nhau một nhà cũng chẳng thể nhận ra; lại sân hận giết chóc nhau, tiếp tục tơ tướp trong nhiều nhiều kiếp nữa và mong chi gặp Phật. Chẳng gieo thiện căn, cái sự thiếu nhân duyên này, có người đứng bên hố địa ngục được Bồ tát nhắc hãy niệm Phật giải bớt nghiệp họ cũng thà gieo vào chảo dầu sôi. Thời gian ngắn ngủi, đời người như bọt biển, “như mộng huyễn bào ảnh”, trong mắt của chư Phật Bồ tát ta thực đang bén lửa. Không nhanh nhanh chuyên trì niệm Phật sẽ hóa “linh hồn”. Bởi ta chấp cái thân huyễn và tâm vọng là thật, nên chết mới có “linh hồn”. Phật nương vào thế pháp mà thuyết trong kinh Phạm Võng: “Linh hồn đi đầu thai từ loài nầy qua loài kia xuyên qua tất cả những hình dạng từ đá sỏi, thảo mộc, cầm thú, và những người tính tình khác nhau”. “Có tất cả bao nhiêu chúng sanh, nào sinh trứng, nào sinh thai, nào sinh nơi ẩm ướt, nào hóa sinh, nào có hình sắc, nào không hình sắc, nào có tưởng, nào không có tưởng, nào chẳng phải có tưởng, nào chẳng phải không có tưởng…” (kinh Kim Cương Bát Nhã). Hiếu thắng sẽ nghiêng về A tu la, si muội nghiêng về bàng sanh, tham tài vật ăn uống nghiêng về ngạ quỷ. Kinh ví như cái cây, lúc cây (người) bị chặt (chết) ắt đổ về phía đã nghiêng sẵn ấy. Trải qua hàng ức kiếp, lội qua vô số loài không ngoại trừ địa ngục mới thấy hào quang phóng chiếu cuối đường hầm.

Tôi và nhiều người đã đốt hết chín mươi phần trăm thời gian vô ngần quý giá để tạo nên những lâu đài cát. Công sức biển trời của con dã tràng trong một giây bị sóng nghiệp lực xóa sạch. Lòng sân hận của giống loài trên hành tinh cộng lại tạo nên sóng thần cùng bao thiên tai ác chướng. Khoa học từng đo được mức độ biểu cảm nhạy bén của nước. Nếu ta hòa ái với nước, bức ảnh chụp nước kết tinh đẹp như hoa tuyết; nếu khinh khi sân hận, kết tinh xấu như một quả thối. Cơ thể người nước chiếm từ 50 - 70%, là “nói” lên điều gì? Tác phẩm Vạn vật của Vũ trụ Hồng trần của giáo sư Eddington đưa ra một kết luận: “Nếu chúng ta loại bỏ hết các khoảng trống không trong thân thể con người và góp lại những chánh điện tửvàđiện tửcủa con người làm thành một khối, thì xác thân của chúng ta chỉ còn nhỏ bằng hạt bụi, phải dùng kính phóng đại mới vừa đủ thấy mà thôi”. Ngạc nhiên chưa. Hiểu bản thể của nước, con người sẽ trân trọng bản thân mình hơn, yêu thương mình và yêu thương mọi người hơn. Chúng ta không bắt cái thân giả tạm này luôn bị tra tấn bởi bia rượu quá liều, không phải lơ ngơ trong các chất gây nghiện như ma túy cần sa. Yêu bản thân không phải tỉa tót, chăm chút từng milimet da thịt, không phải tô son điểm phấn và không được phép ai vấy bẩn lên mình. Biết yêu bản thân là giữ tâm trong sạch, “chư ác mạc tác chúng thiện phụng hành”, ngày đêm tưởng nhớ Phật, lạy Phật, niệm Phật, ngày đêm nguyện nếu mất thân này sẽ được sanh về Cực lạc. Thể tướng từ đó đẹp ra, thân vô bệnh, phúc vào nhà; lấy tướng ấy phúc ấy tiếp tục hành thiện trong lặng lẽ, vun đức thành núi. Phước ấy cộng với sự buông bỏ cùng triệt, chuyên trì niệm Phật, cửa Không đã mở đón họ ngay tại ngũ trược ác thế.

Cõi nhân gian như một giấc mộng lớn. Nhưng chúng ta từ mê lại tạo thêm nhiều cảnh mê hoan lạc. Tôn vinh xướng họa phần con, nhấn dìm phần người. Nên tồn tại có đời người mà tích nghiệp cho muôn đời không ra khỏi mê lộ của tâm. Tìm lại chân như trước nhất biết yêu người khác và mở rộng đến cả loài vật. Một đạo sư Ấn Độ trong tác phẩm rất ngắn nhưng quan trọng đã khuyên nhủ người đời: “Nếu người đó thật sự có điều xấu mà con nghĩ, thì con đang làm cho nó mạnh hơn và nuôi dưỡng tính xấu đó; và như vậy con đang làm cho bạn con trở nên xấu xa thay vì tốt lành hơn”. Đó chính là nước trong ta lên tiếng đòi “nhân quyền”. Nước biết được đáp án là công trình tiến bộ vĩ đại; tác giả là tiến sĩ Masaru Emoto, nhận xét: “Tâm của bạn tốt, vạn vật tự nhiên cũng sẽ tốt; tâm của bạn không tốt, vạn vật tự nhiên cũng sẽ không tốt”.Được vậy chính tâm phàm có cơ duyên khế hợp với tâm Phật như lời Tổ Ấn Quang: “Ngoài ta ra tất cả đều là Phật”. Có gì lạ khi một đứa trẻ không học lại thông thạo các thứ tiếng Anh, Đức, Pháp, hay là một thiên tài âm nhạc. Có gì lạ khi nhân loại tìm thấy những thành phố chìm dưới đại dương. Một cơn đại hồng thủy có thể sẽ bóp méo trái đất, chỗ cao lún xuống chỗ trũng trồi lên. Cộng nghiệp của nhân loại càng gia hạn, “lãi” càng cao, con người càng khó có cơ hội “trả nợ”. Tịnh tâm niệm Phật khắc khắc ngày nối đêm không lui sụt, tức ta đang bắt sóng với nước Phật; càng chuyên tâm tinh tấn sóng ấy càng mạnh, càng không nhiễu loạn. Một khi tin sâu luân hồi nhân quả, 4 chữ kim cương “A Di Đà Phật” niệm ngay lúc đã thấy này mà không gác lại đến hôm mai sẽ vớt ta sanh về cõi Tịnh.

Nếu ai đó lấy một triết gia, một nhà văn lẫy lừng hay siêu sao làm thần tượng, bất chấp đạo lý loay xoay cố vươn cho bằng họ để “đứng trên mọi người” thì âu chỉ là sự tụt hậu vĩnh viễn. Tất cả vũ trụ nằm trong tâm. Phải hướng vào nội giới. Câu khắc trên ngưỡng cửa Thánh Điện Delphes: “Ngươi hãy biết ngươi rồi ngươi sẽ biết vũ trụ và các vị Thượng đếNếu không khám phá nội giới thì cũng bằng ta đang lấy ngao lường biển, “nhún dây tư tưởng vào cõi vô tận”. Không muốn hành đạo mà chuyên soi Phật pháp bằng trí, dễ nhìn nhận thái tử Tất Đạt Đa, vua Trần Nhân Tông là những hiện tượng chán bỏ trần gian; thiền sẽ làm mất cảm xúc và theo đó Phật giáo phiêu du trong một cõi quá xa biệt hồng trần. Không xa nữa rồi chúng ta, đều sẽ chết! Ta nhìn lại xác thân mình từng ngày thối rữa, con mắt nở ra lồi ra rồi nổ bụp, mới thực sự sáng mắt giữa cái cảnh giới đang đứng trở nên mù mịt lạ lùng thay!  

 

Mộng thoát luân hồi

Ta bà vốn cõi mộng, do thức biến. Người đang tu chưa thể hiểu thấu, chỉ biết tin và hành theo lời Phật để mong một lần tỉnh mộng. Cơ duyên biết mình đang mơ, tự hỏi tại sao không mơ giấc mơ vĩ đại: Siêu thoát luần hồi.

1. Nhìn từ cõi buồn cùng tận

Vượt bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ Buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông phiền não, âu là lộ trình vật vã.

Có hai câu chuyện ngược nhau. Một ông già ăn xin, một lần có người bỏ vào bát tờ bạc, vô tình rơi chiếc vòng kim cương vào đó; ông tìm chủ nhân trả lại. Nếu ông bán chiếc vòng, biến đến nơi xa xôi sống trong xa hoa, thì nghiệp lực của sự tham này sẽ đeo bám ông suốt tháng ngày còn lại, đến tận những kiếp sau. Sau khi câu chuyện được kể rộng trên truyền thông, người ta đã góp tiền cho ông vượt cả giá của chiếc vòng. Hẳn không nên bình luận gì thêm. Chuyện thứ hai là một tỉ phú, ông chỉ giữ khoảng mười phần trăm số lãi để lo gia đình, còn chín mươi phần trăm dùng vào việc từ thiện. Lẽ ra ông chủ này theo thời gian sẽ dần tụt lại trong danh sách tỉ phú thế giới, “nghèo” đi. Nhưng không. Gia sản của ông ngày càng lớn. Người càng cho sẽ càng giàu; vế tiếp, càng giàu càng cho, đây là vòng trôn ốc hướng lên mãi. Phước tuồn về nhờ ta mở rộng lượng tâm. Muốn trí tuệ, muốn thành đạt giàu sang, tất cả đều có kim chỉ nam Phật pháp. Những khoa học gia hàng đầu cũng khuyên người đời nên nối mạng với làn sóng từ vũ trụ. Năng lượng thiện vốn sẵn trong trời đất, ta vừa mở tâm lập tức nó ùa vào; nghĩ ác thì hút năng lượng ác, sự chiêu cảm tự nhiên này thật đáng sợ. Phật dạy hễ ta có gì hãy bố thí rộng khắp với lòng chân thành, bằng niềm thương lợi lạc tha nhân trước hết, đó là nguyên lý của giàu có, trí tuệ và sức khỏe. Một khi tâm người hướng thiện, muốn tạo nên một sản phẩm (để làm giàu) thì trước hết nó phải lợi ích thiết thực cho bản thân, cho người thân của mình; ta luôn nghĩ về việc muốn giới thiệu sản phẩm này đến thật nhiều người. Chẳng hạn khoa học cảnh báo tác hại của đường sữa; với lòng trắc ẩn, bạn chế tạo một loại sữa không đường không chất bảo quản từ thực vật sạch trồng theo kỹ thuật nhà nông xưa. Bạn phát khởi lòng từ quyết đưa sản phẩm này ra thị trường lớn. Đây cũng là cách thực hành bố thí đem lại lợi lạc cho mình. Muốn giàu có hãy bố thí tài vật (ngoại tài và nội tài); muốn trí tuệ phát khởi hãy bố thí sự hiểu biết và bí quyết làm nên tài giỏi của mình; muốn hướng đến vô bệnh hãy tuyệt việc sát hại kể cả muỗi kiến, thực hành ăn chay, phóng sanh. Nguyên lý này vĩnh viễn đúng, vĩnh viễn là đỉnh cao tót vời chiêu gọi những người dám bước về cõi thuần tịnh.

Con người được sinh ra từ chỗ hạ tiện nhất, nhưng con người cũng vốn thanh cao bởi con người liên thông với vũ trụ bằng sóng tâm. Mỗi ý niệm, mỗi cử chỉ hành vi cá nhân đều ảnh hưởng trực tiếp đến vũ trụ, trước hết là với trái đất. Kinh Địa Tạng: “Chúng sanh khởi tâm động niệm không gì không tội nghiệp”; sẽ phải được nhìn nhận một cách tỉnh táo nhất trên tiến trình cải đổi vận mạng. Hành giả mà hiểu câu này như bao học giả thì sự chê bai xem thường phải lường đến mức độ nghiêm trọng. Chúng ta tự hỏi, tại sao những bản kinh “đơn giản dễ hiểu” thường bị quy ngụy tạo lại qua mặt được bao tổ sư đại đức trải mấy ngàn năm? Kinh ấy vẫn được các bậc chứng ngộ đặc biệt quý trọng, thậm chí xem là nền tảng của Phật pháp? Rồi ngẫm thêm tại sao Phật cúi lạy đống xương khô (?) mà theo Ngài là cha mẹ mình từ nhiều kiếp. Tại sao chỉ cha mẹ là Phật đặt cao hơn bậc chứng ngộ như mình? Không cứ ai dẫu sự học uyên thâm, thử đọc Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ sẽ thấy sao giống chuyện cổ tích. Nhưng so với câu kinh kể trên còn đỡ phi lý hơn nhiều. Rồi nữa, trong nhà Phật có câu “Niệm Phật một câu phước sanh vô lượng”; lại có câu: Trong những quả báo của việc niệm Phật có quả báo xuống địa ngục. Song cả hai đều đúng tuyệt đối. Sai hay đúng do ở cách thấy, ở góc nhìn ở hệ quy chiếu và tầm nhận thức của mỗi hành giả. 

Người học rộng biết nhiều, ngay đến học kinh mà không hành, tất thảy cái họ có chỉ là thông tin, trong nhà Phật chưa gọi trí huệ. Thông tin gọi sang hơn là tri thức. Từ tri thức tới nhận thức cũng hãy còn xa. Nhận thức, ngoài nhận thức về xã hội về nhân loại nói chung còn phải mở cái nhìn về vũ trụ, về những quy luật thường hằng bất biến vốn liên quan mật thiết đến mỗi con người. Nói vũ trụ quá rộng lớn không liên quan đến nồi cơm của ta, không liên quan đến hơi thở, giấc ngủ, đến những ý nghĩ của ta là mới chạm phía ngoài nhận thức. Từ đó đến trí huệ lại là một bước chuyển phi thường. Những điều nhỏ nhặt, chẳng hạn ta vô tư mời bè bạn nhậu nhẹt chơi bời ngót tiền trăm tiền triệu, lại không bố thí nổi mươi ngàn cho kẻ ăn xin; ở tiêu chuẩn của Đạo mà nhìn, là dại khờ hết đỗi. Ta toàn phóng tâm ra ngoài nhìn lỗi thế gian, thấy ai cũng lỗi, còn mình thì không. Ta thành tựu sự nghiệp được người đời tán dương, làm ra tiền, lâu lâu tự dưng lại có bổng lộc tưởng như từ trời rơi xuống; ta tự hào, nghĩ mình đáng được tán thán đáng kiêu. Rồi có lần ta gặp nạn, lâm bệnh. Ta oán trời trách người. Thuận cảnh thì duy khẳng định bởi tôi thông minh. Nghịch cảnh lại phủ nhận lỗi ở mình. Trong nghịch duyên không nhìn thấy bản chất vốn là thuận giúp ta nhìn lại, nâng cao nhẫn lực, là chưa phát trí. Trong thuận duyên, ta không dụng trí tỉnh táo nhìn nhận sẽ rước họa sự thường. Thuận cảnh nghịch cảnh vốn không hai. Ngả về đằng nào tùy ở cách dụng tâm. Nhưng thường với chân nhân, đa phần nghịch mới là cơ hội rèn dũa tâm; còn thuận duyên chỉ tham khảo ngó qua vui chút chút. Một câu nói đôi khi như cái dùi dộng vào tim, khiến ta đau đến ngất. Ta phải “rùng mình” tỉnh trí, đặt câu nói đó lên cái bệ thật sang như đặt một cái bình cổ, ta đi quanh ngắm nghía, rồi thốt lên “Tuyệt!” 

Suy cho cùng, nghịch hay thuận cảnh đều do tâm chiêu cảm, xuất phát từ nguyên nhân sâu xa Thập thiện. Bởi ta không nằm trong khuôn khổ của đại giới này. Phật chế Ngũ giới không phải cho người tu, mà dành cho mọi người. Điều mỗi ai cũng muốn là vô bệnh, trường thọ; nhưng họ lại sát sanh (kể cả giết hại gián tiếp và kể cả ý nghĩ sát hại) - Trong vũ trụ không có chân lý này. Ta muốn hạnh phúc, muốn vợ tuyệt đối không ai sờ đến lông tơ, nhưng ta bồ bịch, tưởng đến bóng hồng - Trong vũ trụ cũng không có đạo lý này. Nó ngược chân tánh thiện lương, nó nhiễm ô từ trường sạch trong trời đất. Ta giấu giếm lỗi mình. Ta bực dọc với ai ngó lỗi mình, nhưng ta hứng khởi xả năng lượng bêu xấu, hạ thấp kẻ khác. Là hành động ác. Bởi ta thoát ra ngoài thập thiện, lọt vào mười ác, vi phạm luật thường hằng, tổn phước hao tài, trí mờ thân bệnh. Thử một lần vào khoa Hồi sức Cấp cứu, với những con bệnh cứt đái vương vãi, hôn mê sâu, sâu đến vĩnh viễn. Nhiều người vẫn còn biết suy nghĩ nhưng không nói không ra hiệu, cứ thế họ không được nằm đó thở mãi mà bị đưa về rút ô xi kết thúc sự sống để chấm dứt tình trạng họ quá phiền hà người thân. Sẽ thấy cuộc đời quá chừng nghiệt ngã! Chết rồi do nghiệp thức tạo tác trong đời, linh hồn hút vào thai các loài thấp thua vạn lần cõi người, phải vào địa ngục thì so với những tra tấn thời Trung Cổ chẳng nhằm nhò. Rồi ta so sánh với những người chân tu, về già trí sáng, tâm bình an giữa muôn nghịch trần. Họ thậm chí biết trước ngày giờ về nước Phật. Tự tại mà đi. Đứng mà vãng sanh. Vẫy tay trần thế mỉm cười mà về với cõi Phật A Di Đà. Để lại thân toàn xá lợi vàng ròng. Ngồi mà dùng lửa tam muội thiêu cái xác phàm mới thanh thoát phiêu cùng chúng thánh ở nước Cực Lạc vi diệu đến không tài nào tả xiết.

Bởi ta không quán thân vô thường, ta chấp chặt vô thường, bám víu lấy vô thường biến hoại trong lúc có ai sống mãi. Ta dầm mình trong cõi buồn cùng tận. Là người chủ trương thuật trường sinh, song giáo sư Ohsawa thực tâm chú trọng chất lượng sống chứ không thiên về số lượng. Linh giác ông thấm thía cõi tạm. Cuộc đời dẫu sao cũng chỉ là cuộc chơi ngắn giữa vô thường, nhỏ nhoi và hư ảnh. Những chúng sanh tin lời Phật, theo đó dũng mãnh tinh tấn trên hành trình vượt thoát lục đạo thật hiếm sao!

 

2. Gian nan bào mòn tự ngã

Tự ngã, cần bứng từ gốc rễ kiêu mạn. Đến như một người tầm thường nhất thế gian, tàn ác đến đâu, trong đời họ vẫn có một cái gì đó vượt ta. Chắc chắn. Ở đây không thiên lệch chuyện hơn thua, cái chính nếu thực sự thấy ai cũng dường như là Phật và Bồ tát tái sanh đóng đủ loại vai hóa độ, trí tuệ và phước báu của ta ắt tăng trưởng. Thấy mình hơn người, hơn ở một lĩnh vực nào là chưa thực sự thấu lý kinh. Một nhà thơ giỏi và một nhà thơ tầm tầm, cả hai đều vắt óc làm thơ, theo Luật hấp dẫn, họ đều chiêu cảm năng lượng vũ trụ, nhưng người chắt ra câu thơ hay, người kia thì tàm tạm, điều này phụ thuộc vào duyên tác động đến phước báu, và chủ yếu phụ thuộc tâm thanh tịnh khiến sự tướng hiện trong tánh minh giác vốn sẵn đủ. Phước lớn chiêu vời được cái hay cái đẹp cái sâu sắc triết lý, phước nhỏ chỉ đổi được thứ bình phàm. Có nhiều tác phẩm nổi tiếng, tác giả bảo chữ cứ tuôn trào đến viết không kịp. Nó từ đâu ra? Những con người lọt lòng chưa có cơ hội vẫy vùng tạo nghiệp, sao đã dị tật méo mó? Nguyên nhân từ đâu? Những thân súc vật với cái đầu người; những người khoác mảng da của vật; vật đẻ ra người v.v, nó từ đâu ra? Những đứa trẻ thông tường Phật pháp, những người nhớ lại tiền kiếp; những vị Lạt ma hơn chục lần tái sanh với đầy đủ vật chứng. Những thiên tài lúc còn trẻ nhỏ, tác phẩm ấy từ đâu ra? Người kia chẳng hay tưởng mình giỏi, sanh tự mãn. Có ngã chắc đã có sự xem thường đối phương. Không chỉ trong cùng ngành nghề, ta nên quán rộng. Mình viết cuốn sách cũng khác gì người chế tạo một nông cụ. Thấy mình hơn người ngủ đầu đường xó chợ, hãy thử qua đêm dưới gầm cầu xem sao. Ta hơn kẻ ăn mày, sao không một lần thử ăn mặc rách rưới hành nghiệp cái bang. Khó thay. Bởi ngã. Ta là kẻ trí thức đường hoàng. Ta được đào tạo bài bản. Ta có học hàm học vị. Ta là nghệ sĩ là ông chủ là tổng quản. Ta là tầng lớp bậc cao trong xã hội. Ta nổi danh thiên hạ. Ngồi đầu này nghe bàn cạnh bên nhắc tên mình liền lắng xem họ nói xấu gì không. Cái tên nhạy cảm số một. Cái tên này phải được đặt ở nơi trang trọng. Cái tên này hễ nhắc đến nhiều người đều nể. Ta ... Một khi xã hội cấp cho danh vị, chính là ngã rồi. Dẫu ngắt được chữ  thì vẫn còn chữ ta lù lù đó. Ta ta ta. Cái Ta luôn chìa ra trước lúc đưa tay bắt người, trước lúc ta cúi mình trước một nghĩa cử cao đẹp, thậm chí trước lúc ta lễ Phật. Mà lễ Phật dẫu phước báu vô lượng, ở mức độ chuyên môn tu tập xem ra còn dễ hơn lễ một chúng sanh bình phàm, bởi bao giờ ta cũng nghĩ mình hơn họ nên không thể cúi xuống và buông xuống ngã chấp.

Sự hơn thua là do thức hoạt động, hoàn toàn không có phần của trí. Thức luôn phân biệt, chấp trước, Trí thì bình đẳng. Trang Tử trong Đạo gia từng nghiệm: trời người, vạn vật và ta vốn cùng một thể. Phật thấy tánh (“của mình”) bình đẳng với mọi chúng sanh. Chấp ngã, ta luôn thấy hơn người. Nhớ một lần con chó hàng xóm nằm xoãi trước hiên, đi ngang nó liếc mắt ơ hờ, đi lại nó chỉ chuyển cái tròng; những người khác qua nó vẫn vậy; liền “ô” lên tự biện đến khi nào tâm tôi được như con chó kia. Nó như đang thiền. Tôi có hơn nó lúc này chăng. Rồi tôi liệu có hơn loài quỷ, mới nghĩ gì chúng đã biết. Tôi tham dục trong bóng tối cũng đâu qua mắt quỷ. Hổ thẹn nhường nào đến ma quỷ cũng khinh mình lại đòi Phật rước. Lại nghe có hành giả tu đến nhập định cả ngày, không khéo chỉ mới đủ để ma trêu chọc chứ chưa đủ mức để ma quấy phá, cản trở đường tới Phật, tức “ra đề” khó hơn hầu ta thăng nhẫn lực. Sao Ma cao vậy? Bởi ma biết, sức định của hành giả kia có nhưng sâu xa vẫn mê cõi tạm; khởi tâm được về với Phật ngay lúc đó hành giả bỗng vội vàng xuất định; hay đó là công phu tăng trưởng theo cái Ngã; Ngã ấy khiến Hộ pháp khước từ, để ma đi guốc trong bụng nên ma túm chuôi dao. Cao hơn ma đã khó; hoặc giả ta có cơ duyên tu thành Phật, thì bao người khác cũng thế. Lúc ta và họ đều thành Phật, chẳng lẽ ta còn tu được cao hơn quả vị Phật để hơn thua?

Tôi có duyên lành thân cận với một vị hiện đang ẩn tu. Bởi thấy mình tu quá tệ, tuổi tác so với họ lại không lệch nhiều nên cái sự xưng hô rất ái ngại; gọi ngang tên chỉ là xin cái tướng, còn với tánh sợ mắc tội bất kính. Có lần gửi email hỏi pháp, nửa đùa nửa thật tôi có đặt hai chữ Sư phụ ở đầu, liền bị quở: “Trong tam giới ai có thể làm sư phụ? Là bậc từ A la hán trở lên các đại Bồ tát, Như Lai quả địa. Còn mình ngay quả Tu đà hoàn chưa với nổi, thậm chí bậc thiện nhơn thế gian cũng không bằng thì sao làm sư phụ đây. Được người gọi sư phụ mà chẳng xứng thì tổn phước biết bao. Trong các bản kinh Đại thừa, thường nghe Phật gọi các vị đại Bồ tát Đẳng giác như Văn Thù, Phổ Hiền là "này Phật tử", các đại Bồ tát còn là đệ tử, nếu ta làm sư phụ thì các Ngài ấy gặp ta phải chân mỏi gối chùn ư? Lại luận theo thật tướng bình đẳng, chư Phật thấy trong chúng sanh đều có ông Phật khổng lồ; riêng sư thừa của tổ truyền là mô hình giáo dục. Ngay Krishnamurti đương thời cũng được gọi là vị sư phụ luôn xua đuổi đệ tử như đuổi tà, ông không công nhận khái niệm sư - đệ như truyền thống sư thừa Á đông; ngài nói các vị nhận làm đệ tử thường hay hủy hoại ông thầy!! Còn nói như Đạt Lai Lạt Ma ‘phải làm đệ tử tất cả chúng sanh’ là tinh thần Bồ tát đạo, cũng là tu hạnh lễ kính của Phổ Hiền. Những ai làm đệ tử của tất cả chúng sanh mãn 3 đại a tăng kỳ kiếp, công phu dồi dào thâm hậu rồi thì mới có thể... có thể làm gì đây? Vừa cảm thấy mình không tệ, mới cảm thấy tư cách sư phụ trỗi dậy thì Địa Tạng Bồ tát liền trao cho cái kính "chiếu yêu", người đó nhìn vào gương thì thấy gì? Thấy hiện ra gương mặt hồng hào quắc thước, tiên phong đạo cốt, sắp sửa mỉm cười tự hào thì bỗng ngước nhìn lên, bóng của ma vương Ba Tuần đang phủ chụp! Cho nên các vị tu Bồ tát đạo mãi mãi là đệ tử, cho đến quả vị Bồ Tát vẫn còn vô lượng vô biên sư phụ có thể dạy bảo mình là chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai. Ai thực học kinh Hoa Nghiêm vĩnh viễn chẳng dám làm thầy người”.

Tôi thầm xin phép trích ra nguyên văn như trên cũng là để thấy mình đáng thương xót xiết bao! Mộng siêu xuất tam giới còn đưa cán cân thế gian đo lường tự ngã. Chợt nghĩ cái thằng Bờm nếu biết Phật pháp chắn chẳng ngại một phen đại ngộ. Đã thành phú ông rồi, thấu lý nhân quả sao còn không quay lại học cho thành thằng Bờm. Sao tôi không ngu ngu như Bờm được nhỉ. Thấm thấu kinh điển phải là người mà tự ngã bị đánh sập. Bước ra đường nhìn ai cũng thấy là ân nhân. Phật dạy mọi người từ vô thỉ đều từng làm cha mẹ ta. Có lại thân người ta phải nặng mang ơn. Trách IS ác, sao tôi không lập trình lại ý niệm khởi lòng thương đến những kẻ đã gây tội nghiệp quá nặng để trong kiếp này hoặc kiếp khác họ sẽ nhận quả báo thảm sầu. Khoa học đã thấy giữa người với người đều “nối mạng” tư tưởng với nhau, không ai đứng độc lập giữa vũ trụ bao giờ. Lên án IS, sao không biết mỗi ngày tôi cũng đang phát ý niệm “thập ác” góp phần gia tăng động đất sóng thần bão tố hại vô số tha nhân. Ta chống IS là chống ngay bản tánh lương thiện trong mình. Ai đó nói, bảo đừng chống chiến tranh hãy ủng hộ hòa bình, vậy chúng nó ác thế không tiêu diệt sao. Ừ, với người đã thuần tâm cầu giải thoát, hãy đừng chống lại sự chống IS, là đã góp ý niệm thiện vào từ trường vũ trụ. Ta đến đời này để trả ơn nghĩa; trả ân nhưng ta nhận lại phước báu, tăng trí huệ qua việc nhìn thấu muôn mặt nhân sinh cùng với mình ‘đồng thể đại bi’. Một nụ cười, một ánh mắt tin cẩn, một miếng ăn chia sớt, cùng ấm áp chỗ nằm trong hành lang bệnh viện giữa người nhà các bệnh nhân, nhường một chỗ ngồi trên xe bus chật chội; nấu thêm chút cơm âm thầm cho những con chó bị chủ bỏ đói v.v, đều là trả ân.

Sống trong nỗi cảm ân là đang hướng về tha nhân, đang nhẹ dần tiếng tăm lợi dưỡng, là bào mòn dần Tự Ngã. Ngũ dục lục trần buông bao nhiêu ta sẽ nhìn thấu bấy nhiêu. Thấu thêm một phần, ánh sáng trong tự tánh thêm rọi chiếu chan hòa. Buông rồi sờ tới pháp môn nào cũng dễ chứng dễ ngộ như nhau. Buông không nổi thì tụng kinh bái sám, tham thiền niệm Phật cho đến trì chú suốt ngày đêm tâm ấy vẫn trơ như núi. Bởi ta vẫn tham vọng tưởng. Bởi ta phân biệt chấp trước, tham sân. Tâm hiện cục đá, ta không thấy bản tánh nó như như, lại để mắt soi mói, khởi ý cục đá này cần đẽo thế này tạc thế kia cho đặng. Rồi cứ thế bỏ chân theo vọng lấy cớ mê đắm cõi trần kết thêm nhiều duyên mới biến hiện trong cảnh giới của ma vương, trong lâu đài của vũ điện luân hồi ai oán.

 

 

3.Hòa giải vọng tưởng đảo điên

Lời một vị Chân Tu tại gia: Nếu thâu Phật pháp vào một chữ thì đó là Tâm. (Tâm vốn hàm dung vũ trụ, Tâm sanh vạn Pháp). Nếu thâu Phật pháp vào hai chữ, đó là Buông Xả. Những vị sư chứng quả thánh, có thiên nhãn, đã nhìn thấy một số đứa trẻ nằm trong nôi khóc ngặt, tay không ngừng khua khoắng, chính vì ma quỷ hiện trước mắt. Tại sao một đứa trẻ thấy được còn người lớn thì không? Bởi tâm nó còn trong veo; lớn thêm chút bắt đầu nhiễm các tập khí thế gian, tấm gương sáng nhuốm bụi; người thực dụng vật chất, mê mờ tin “không có quả báo thiện ác đời này, đời sau; không có A la hán”, “không ưa bố thí, không giữ giới luật” gương ấy càng dày bụi đến không thể soi rõ vật gì, Phật gọi là hạng người “trước khổ, sau khổ”. Vô Minh, một từ không có gì xấu, đơn giản là chưa đủ cơ duyên tin nhận chân lý siêu hình. Không tin nổi chính bản thân vật chất của họ cũng là hư giả. 

Thân người vốn huyễn tướng, còn “cái tâm suy nghĩ” là vọng; chỉ bổn tánh mới thật. Không níu vào cái chân lại theo cái giả, lúc thân hoại sẽ trắng tay. Ở trong ngôi nhà, lại tưởng ngôi nhà là ta, ngày ngày tô điểm trang trí rực rỡ trước thiên hạ, còn ta ở trong đó thì héo tàn. Đến ngày ngôi nhà hư hoại theo quy luật vô thường, ta đau đớn khổ sở, chụp bắt hư không. Thử tưởng đến một thời điểm ta nhận nhiệm vụ canh gác tối quan trọng, lại buồn ngủ, ta cố trương mắt đứng dậy đi lại nhảy nhót, nhưng vừa trở lại thế đứng gác lại ríu mắt. Chống mi lên tự răn ngủ quên sẽ mất mạng. Tiếp tục gắng, vẫn rụi xuống. Rồi ta buông xuôi, thiu thiu. Giật tỉnh. Than ôi, thấy mình đã khoác một thân mới của loài động vật bậc thấp. Đây là thí dụ nhẹ nhàng. Câu hỏi: Con người từ đâu đến và chết về đâu? Một bậc sư tôn kính trả lời: Con người từ lục đạo (trời, người, A tu la (tam thiện đạo) súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục (tam ác đạo)) theo nghiệp mà tới, chết phần nhiều về lục đạo; thực chất mà nói, chết trở về ác đạo, rồi một số sinh linh chịu hết nghiệp báo từ Tam đồ có cơ may đầu thai làm người. Bởi ta bị rối giữa vọng tâm, không nhận ra chân tâm thanh cao minh tuệ đầy đủ phước báu và trí tuệ. Tự tánh thuần như gương, thô hơn thì tạm hiểu như tờ giấy trắng. Ta sống mỗi ngày là chấm mực vẽ vời lung tung lên đó. Ai xả nhẹ thân kiến, vẫn vẫy vùng trong vô vàn những chấm đen và vạch xóa đủ thứ trần ai. Một khi trí sáng, hành giả từ vọng vẫn có thể nhìn thấy phần giấy trắng tinh phía dưới, dần dần tách bóc (không xóa) những thứ trên tờ giấy đó. Tức không diệt mà lìa vọng. Chuyển vọng quy chân.

Bậc đại đức muôn lần căn dặn: ‘Không thiểu dục tri túc thì ma nạn trùng trùng’. Nguyện tu về nước Phật, công phu đắc lực hơn thì chuyển qua đoạn dục khử ưu. Không bào mòn tâm mê dục, nhất là ái dục thì luôn như trong nhà lửa, lánh chốn nào tâm cũng xao động như khỉ chuyền cành. Ly ái dục, người kia dẫu thờ Phật nơi đâu thì đó là Đại hùng bảo điện. Cuộc đời vốn dĩ giấc mơ buồn thảm. Chúng ta, nhiều lúc ẩn mình dưới thú. Chúng ta nhiều lúc đeo mặt nạ người bao biện cho thú tính bản năng. Tham, sân hận, kể cả vỗ ngực làm bộ anh hùng cũng dễ lấp ló mặt thú dưới cái gọi hình nhân. Giới tà dâm còn kể đến việc không được tự thỏa mãn, rõ việc đoạn ái phải từ gốc mê, tức rút năng lượng của cái vọng niệm ấy, mắt và tai tuyệt giao với sắc thanh, kể cả giữa phu thê. Một khi ý dâm vừa xoẹt liền ngay cảnh tỉnh, tưởng đến sự phanh đó khiến ta cũng đang đứng trước vực thẳm, chới với suýt lao xuống toi mạng. Giả như lỡ tưởng thảm cảnh quan hệ, lại quán thân nữ là cái xác bệu bạo tanh tưởi da dẻ xám ngoét, quán sự hôi thối từ miệng từ chỗ dơ dáy như hầm phân; không ngớt nghĩ dục là than là lửa, lửa thiêu rụi công đức nhọc nhằn có được, dừng lại vẫn còn kịp; riết ráo thâu vọng niệm khiến trở về lần theo từng chữ từng câu Phật hiệu; hằng ngày cầu mong chư Phật và Bồ tát gia trì ly dục. Chưa đoạn nổi ít ra cũng “thiểu dục”, xem như ăn khoai sắn qua bữa; hành thì phải là ban đêm trong bóng tối với tâm hổ thẹn tận cùng, hổ thẹn đến muôn loài súc sanh ngạ quỷ. Rồi luôn phát nguyện không bao giờ tưởng đến một cảnh dục trong quá khứ. Bởi, chúng chỉ là ảo ảnh, là những chiếc bóng như sương khói. Hễ cảnh vừa dựng liền xóa, liền niệm “A Di Đà Phật”. Những cảnh quá khứ không tưởng lại, cảnh mới trong tương lai không tưởng đến, tâm hiện tại sao chẳng an? Đang tĩnh tọa bỗng khởi niệm, liền biết, như một bông hoa dần bung nở rồi héo tàn rũ xuống. Tưởng đến dục, tưởng những thứ liên quan đến ngã, là niệm tà vạy số một trong các tà vạy. Nhất khoát phía trước là hố thẳm. Là trầm luân bể khổ không bến quay về. 

Gốc rễ của ưu phiền là vọng, là tưởng. Nhưng liệu ta có nên chống lại tưởng. Hành giả Tịnh độ, giai đoạn đầu đương nhiên phải gắn bằng được câu Phật hiệu vào tâm. Ta có thể chống lại vọng tưởng, tuyên chiến với vọng tưởng; như ngăn nước đổ bằng được một khối bê tông xuống đáy sông. Lúc Phật hiệu tự khởi, ở đó rồi, thì bốn bề đều là hàng xóm đều ân nhân, ta phải hài hòa hết thảy. Chưa nói việc mất lòng ra mặt, hễ trong lời nói bỗng cảm nghiệm thấy vướng mắc, nên tưởng ngay đến họ trước mặt, tưởng ngay đến mình đang cúi lễ thành tâm mong họ thứ lỗi. Vọng tưởng cũng đồng nghĩa với oan gia luôn vây quanh chúng ta giờ giờ khắc khắc, chống lại họ là tự rào đường về cõi Tịnh. Theo lý bát nhã (hàng sơ cơ như tôi không dám sờ tới), thì thiện và ác, vọng và chân là hai mặt của bàn tay; trừ ác, diệt vọng, là chặt đứt bàn tay. Lấy ví dụ vọng tưởng là muỗi, ta ngồi chúng tới. Đuổi, nó bay một vòng lại vu vu. Phải làm gì. Giết nó? Tự xem mình Phật tử chân chính, bạn đừng nói vậy bởi sẽ chẳng ai tin đâu. Ngay đến ý nghĩ bực cũng chớ khởi. Ta có thể cúng dường nó một phần tư giọt máu, chẳng sao; lắng tâm sẽ cảm nhận được những chân muỗi đậu lên da mình, rồi cái vòi chích vào hơi nhói, sau đó ngưa ngứa đến lúc muỗi no tròn thì nó tự bay. Tạm biệt. Vọng tưởng chính là vậy. Nên nghĩ mình nợ nó nên giờ vui vẻ trả thôi. Oan gia nên giải không nên kết. Nỗ lực sám hối, nỗ lực thấy mình tội lỗi tràn hư không vẫn may sao có được thân người, may sao gặp chánh pháp, ta phải tận lòng lễ Phật niệm Phật hồi hướng mong có ngày hòa giải với mọi vọng niệm thế gian để chân tâm dần hiển lộ mở lối về Cực Lạc. Ở đó mới là nhà mới là quê hương.

Ta muốn trở về bản quán lẽ dĩ nhiên không vọng niệm nào cản nổi. Vọng khởi lên mở bài câu chuyện, chưa kịp thân bài và kết luận ta liền biết. Vừa biết liền mỉm cười [trong tâm] và tự nói, “này, ta biết mi rồi nghe”, kiểu như bọn trẻ chơi trốn tìm ngày xưa; ta biết mi ở bụi nọ bụi kia. Chà, mới ngồi đây đã phóng [tâm] đến chợ rồi à. Rỗi nhỉ, tham gia cả vào chuyện thế sự nữa. Rồi là: nghĩ à tưởng à. Ai bắt? Ai bắt mi phải tưởng chứ? Nghĩ để làm gì? Tưởng để làm gì? Ta phải tưới mát tâm bằng chút hài hước. Lâu lâu nó hơi quậy, cũng cần nghiêm nghị tí xíu: Này, đủ rồi nghe, đừng để mất lòng nhau đó nghe. Cứ thế, một khi vọng niệm được gạn đục, câu Phật hiệu vốn vẫn niệm nay trỗi lên. Bây giờ hãy nghĩ, thân ta như ngôi nhà, trong nhà có cái máy niệm Phật suốt ngày đêm; do quanh xóm có trẻ con nô đùa, có nhà này hát ka-ra nhà kia nhậu nhẹt, nhưng hễ mọi âm thanh ngưng thì tiếng niệm Phật từ máy trong nhà vỗng lên trong vắt; chứ thực ra máy niệm Phật (trong tâm) chưa bao giờ dừng. Như vậy giai đoạn thứ nhất là khiến tâm luôn niệm Phật, tập thành thói quen thành phản xạ vô điều kiện. Hoặc nếu bạn chuyên mặc niệm, cứ niệm một chuỗi ấn định bao câu Phật hiệu, rồi ngưng lại quan sát xem có vọng nào khởi lên. Như ai đó trong rừng thẳm, bước một đoạn liền đứng xem có người có vật thoáng qua không. Không có, lại niệm một chuỗi nữa. Cốt yếu là niệm từng chữ, tánh của tai nghe rõ từng chữ; như là bạn chỉ niệm cho duy nhất cái tai nghe vậy. Thời điểm quan trọng là trước lúc ngủ, tập niệm Phật đến ngủ quên, giấc ngủ chỉ mang duy nhất Phật hiệu. Ngay đến chợt tỉnh thì tâm tự khởi đầu tiên phải là A Di Đà Phật.

Chưa dám mơ đến loại công phu sự nhất tâm, lý nhất tâm; công phu thành phiến là ta có thể tin chắc mình có vé lên Cực Lạc thế giới. Phải sập mọi giác quan không dễ dàng để duyên trần lôi đi, nói không với ti vi không xem đến một phút, không rờ tới internet nếu không phải để nghe kinh đọc pháp, tránh tham gia lễ hội tránh la cà và tránh xa các trang mạng dẫu chỉ vờn qua khoảnh khắc nhục dục. Giờ giờ khắc khắc nên luôn trong tư thế quán sát tâm. Đi đứng nằm ngồi cho đến làm việc gì tâm cũng không ngơi nghỉ việc hòa giải vọng niệm, nhẹ nhàng gạn vọng niệm như cần gạt mưa trước kiếng. Hở việc áo cơm liền quay lại với Phật hiệu, rỗi thêm thì nghe giảng kinh giải chú sớ, đọc luận và học theo cách sống của chư tổ đại đức. Chúng ta có thể nghe Pháp thâu đêm suốt sáng và đừng bao giờ nghĩ đế sự ngủ. Một khi tâm hút vào sự nghe vi diệu ấy, sức khỏe không hề bị tiêu hao. Sự thật vẫn có trường hợp niệm Phật còn tạp, nhưng do xả vạn duyên ta bà tha thiết về Quê Hương trong nỗi nhớ quay quắt, cũng dễ toại nguyện. Nên xét đến cùng, mọi pháp môn đưa đến mọi thứ bậc công phu chưa hẳn là vấn đề, vấn đề ở sự buông xả. Buông thân huyễn tâm vọng, buông sự đối lập không còn vướng víu gì nữa rồi, câu Phật hiệu mới chính thức vang đến cõi Tịnh nơi Tâm của mình. Ai hành trì dăm mười năm tâm vẫn bị cuốn theo lục trần như trâu bị xỏ mũi, cầu về Cực Lạc không khéo đang chơi trò oẳn tù tì trước mặt chư Phật.

 

4. Pháp liễu nghĩa và bước nhảy vô hồn

Niệm Phật là pháp Đại thừa, cũng cao thâm như lý bát nhã; nó có tính phá chấp nên ngoại trừ những người thượng căn xả bỏ thân kiến và ngã kiến thiết nguyện cầu vãng sanh, trong một thời gian ngắn dễ gặp được bè giác ngộ, nhận lời hứa tiếp dẫn về cõi Tịnh từ Phật A Di Đà; những căn cơ còn lại, thiết nghĩ cần tu vững căn bản, lấy Tiểu thừa làm nền.

Lẽ ra Phật giáo không có sự phân chia Tiểu thừa và Đại thừa, nhưng điều này đã trở thành lịch sử, cũng không nên bận tâm. Ai tu Đại thừa mà không tu Tiểu thừa không phải đệ tử ta. Lời kinh này tối quan trọng. Theo bậc minh sư, có thể xem Tiểu thừa là móng, Đại thừa là nhà. Cụ thể móng ở đây là giới luật. Nhà không móng là nhà giữa hư không. Ở cõi ta bà mà nói, ngôi nhà ấy rất dễ là ảo ảnh! Dĩ nhiên người tu Đại thừa có thể vừa tu vừa bồi đắp căn nền Tiểu thừa, cách này thật sự khôn ngoan. Nếu không học kỹ Tứ niệm xứ, quán thân vô thường, tâm vô ngã để lung lay gốc rễ của Ái và Thủ vốn bám chặt cõi trược nghìn vạn rễ độc, sẽ không phá nổi Sắc, Thọ, Tưởng, sự niệm Phật chờ Phật rước lúc lâm chung, thực tế cũng khá phiêu.

Không thấy sự vô thường của thân xác đâu dễ bước về ánh sáng vô lượng. Hình dung về cái máy niệm Phật được giấu trong đống rơm, mọi người ngang qua đều trầm trồ “đống rơm đang niệm Phật kìa”; thế rồi đống rơm tưởng mình là máy niệm Phật. Nó xuôi theo lời khen tiếng chê, rồi mê thất bổn tánh đến không còn biết cái máy vẫn vốn dĩ không ngừng niệm A Di Đà Phật; bởi vọng tưởng duyên theo trần cảnh đành chờ một nhân duyên đặc biệt, xoay cái nhìn xoay cái nghe vào trong, cứ thế yên lặng và yên lặng cho đến từng mảng an lạc bừng vỡ. Con đường tu đạt đến sự trong lặng đòi hỏi hành giả phải buông ráo riết. Một con đường dài vô tận song không quá xa vời. Khoa học cũng khuyên, mỗi người đều có năng lực lũy thừa khả năng. Từ 7 + 7 = 14, ta có thể thực hiện phép 7 x 7 = 49 sự thành tựu. Tại sao người tu không tự lũy thừa khả năng chứng ngộ của mình.

Xưa nay chúng ta hiếm thấy người đốn ngộ trong một đời, nhưng người cầu vãng sanh về Cực Lạc thành Phật khó tính đếm hết - là một cách hiểu khác của đắc đạo. Vấn đề ta có muốn buông? Ta nắm cái điện thoại giá trị, chấp vào nó, ngày ngày sợ cả trầy xước; cái ngoài thân buông chưa nổi thì thân này sao đành. Ta không muốn, Phật cũng tạm thời bó tay. Do thói quen, do ấn tượng sâu sắc về những gì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý lưu giữ cẩn mật trong vọng thức; ta đưa nó ra ngắm nghía từng ngày, đưa so sánh với những thứ mới tiếp xúc rồi phân tích đánh giá, luận bàn, phán xử; hơn 90% năng lượng tiêu hao vào đó. Cho đến lúc thân rã rời ngả lưng thư giãn, tâm vẫn tiếp tục tưởng đến thị phi nhơn ngã, vẫn không chịu nương vào câu “A Di Đà Phật”, để tiếp tục tiêu hao 90% của 10% còn lại. Ta như “thầy đồ liếm mật” ngoạm bên này ngoạm bên kia, đem bóng tối chiếm dần sự minh tuệ. Tưởng đến câu chuyện đẹp, ta cũng không thể gạt khỏi dòng nghiệp thức những câu chuyện xấu xa tội lỗi. Người thân yêu mất, ta luôn tưởng lại họ trong mọi cử chỉ hành động gắn chặt cùng mình, rồi tâm bệnh sinh thân bệnh chết dần mòn. Nghĩ về họ chẳng những ta buồn đau mà họ buồn đau gấp bội. Sự nghĩ tưởng là tham thuộc hạng hàng đầu. Ta không muốn buông sự tham đó. Nghĩ về một lần được vinh danh giữa đám bạn, nghĩ về một kỷ niệm đẹp, nghĩ về dục vọng, ôi, thật điên đảo cái tâm này. Ôi! - tôi thường quán cái chữ này thật sắc và thật diễu nhại; “ôi, vọng tưởng cũng trói được ta trong lục đạo ư?!”

Không quán thân vô thường, ta niệm Phật đôi khi khiến mây ngũ dụcmây ngũ ấm càng kéo về dày đặc. Không thấy đời vô thường, ta vừa niệm Phật vừa tìm đường thoát khỏi Ngũ giới Thập thiện để rồi lạc vào cái gọi phá chấp vốn chỉ dành cho người đang hàng thâm pháp vô ngã. Vô ngã là gì? Là hạng người mà áo quần gọn gàng mặt mày sáng sủa vừa bước ra đường bất ngờ bị người ta tạt phân vào mặt, họ vẫn chỉ… cười thôi. Ta có ngã, có phân biệt và đầy mình chấp trước, niệm Phật dĩ nhiên sợ vãng sanh. Ta chưa thấu hai chữ vãng sanh nên cứ nghĩ nó là một cách diễn đạt khác của chết. Phật gia trì thọ mạng mỗi mỗi chúng sanh không hết lại ngắt bớt tuổi thọ của ai bao giờ. Ta sợ đạt công phu thành phiến, là điều kiện cần Phật tiếp độ. Ta sợ một ngày niệm Phật được nhất tâm tức là không còn nghĩ tưởng thế gian, sợ “chán” ta bà. Ta sợ đến một ngày không bè bạn không điện thoại, không tivi không internet ru rủ một mình. Ta cầu vãng sanh nhưng lúc nào cũng sợ “chứng”, sợ phải rời bỏ chốn dung thân có cây bồ đề tỏa bóng trước hiên nhà, bạn bè thân quyến và biết bao cuộc hẹn bao dự định dở dang nữa. Ta đang phát cái nguyện giả. Thực tâm không muốn thoát bể khổ. Ta không muốn ra khỏi chốn lấm bết bùn lầy. Bởi ta chưa nhìn thấu nó bùn lầy uế trược. Bởi ta chấp xà phòng thơm nước hoa ngoại ngày ngày thoảng trên tấm thân đáng tội này. Ta nhăn mặt bịt mũi nhổ dãi vén áo quần là lượt khi vào đại tiện, lại không quán mình khác chi cái nhà xí di động chứa hầm phân và nghĩa địa chúng sanh. Ta vẫn muốn già muốn bệnh và muốn hấp hối đảo điên đã mới muốn cầu về nước Phật. Ta không muốn biết chính cõi này cũng là Cực Lạc. Chính ở cõi này nhiều vị tu chứng nhìn thấy chúng ta vàng ròng trong suốt, thấy vạn vật đều trang nghiêm thanh tịnh. Nhiều vị âm thầm sống trong niềm hỷ lạc vô biên khôn tận, âm thầm cứu rỗi linh hồn của vũ trụ. Chính do con mắt phàm của ta nhìn thế gian lắm nỗi. Chính do tâm vọng ta làm rối loạn tối tăm cảnh trần. Lúc gặp pháp niệm Phật lại tưởng mình cao sang không cầu hòa giải lại đối lập phân biệt với mọi người mọi sự mọi vật.

Chẳng xem nhẹ thân này, chẳng xem nhẹ dục lạc, chẳng thấm triết lý hết thảy chỉ là phương tiện như rau cháo qua ngày thì tu song dưới bề sâu tâm thức chẳng muốn ra ngoài tam giới; vẫn thấy cuộc đời này thật và còn rất tươi đẹp trong lúc mình vẫn thanh xuân. Vẫn công khóa đều đặn ngày vài thời, đi đứng nằm ngồi vẫn nhớ niệm Phật nhưng vẫn còn ẩn giấu cái ý nghĩ cũng phải nhìn thế gian ngả màu thời gian đã rồi tính đến vãng sanh chưa muộn. Bởi chấp thân. Thân này lại chấp tài sản gia quyến. Ngay đến xả vật “của ta” vốn ở ngoài thân đã quá khó nói chi đến xả thân quý báu nô lệ nó hết mực này. Xả được tài, ít nhất bạn phải có ý nghĩ đang đi bỗng thấy từ trên ngôi nhà cao tầng tung xuống cả núi tiền, người người ùa tới đua tranh xô đẩy dẫm đạp nhau nhặt nhạnh, bạn sẽ đắm trong nỗi hân hoan như thấy trước mắt là người trẻ đang nô đùa tắm táp dưới một cơn mưa rào bất chợt. Phật từng bảo nếu thân này của ta sao không thể khiến nó trẻ mãi. Chấp thân là ta cũng như nhân viên ngân hàng chấp lượng tiền đếm mỗi ngày là của mình. Cái thân này, là nơi ẩn náu của tâm vọng; nó chỉ là đống rơm còn ta là “máy niệm Phật” giấu trong đó. Còn hơn thế, thân chẳng những không là của ta như áo quần đang mặc, mà thân này cũng không phải của ta nốt. Nó thuộc về hư không. Ta mượn cái hư huyễn trú ngụ, niệm Phật cầu trở về Cực Lạc mà thôi.

Dựng lập những ý niệm này vững chãi thật chẳng dễ mấy ai: Con đã xong mọi chuyện thế gian. Vợ con, nhà cửa danh vọng đó song con đã sắp xếp ổn thỏa không lưu luyến; con muốn về cõi Tịnh bất cứ lúc nào Phật cảm ứng. Con muốn tu chứng ngay bây giờ ngay ngày mai; song hành với công phu niệm Phật tương tục, thành phiến. Niệm Phật, vấn đề ở chỗ tai có nghe rõ từng chữ hay không. Nghe chữ thứ nhất trọn vẹn, ta phải níu lấy những vang động của A đó rồi nối vào chữ Di, chữ Đà, chữ Phật tiếp theo; nhất là khi tan mình trong mật âm của chữ Phật đang ngân vang, thì ta lại tiếp tục trở lại với chữ A. Đây là mức đầu tiên để ghép từng chuỗi lại với nhau, ba chuỗi, năm chuỗi; để một lúc nào đó câu Phật hiệu tương tuch quyện lại giữa không gian. Nhược bằng ta niệm Phật mà tai không chậm rãi nghe rõ, dẫu niệm nhanh niệm chậm, dẫu niệm bao nhiêu thời gian, vọng niệm sẽ cuốn “A Di Đà Phật” đi thật dễ dàng. Ở đây cần một điều tối quan trọng: Đã qua giai đoạn bất chấp vọng niệm để gắn bằng được “máy niệm Phật” vào tâm, qua tiếp giai đoạn hòa giải vọng niệm, rồi khá nhuần việc phẩy qua chuyện thế tục dẫu hấp dẫn hay oan nghiệt đến đâu lội qua tâm trí; bây giờ với vọng niệm cần hơn cả hòa giải, là CảmHóa. Phiền não tức Bồ đề, Tham Sân Si tức Giới Định Tuệ. Chẳng như đoạn Si, không có nghĩa ta bứng gốc Si rồi trồng vào đó gốc Tuệ, mà ngay nơi si kia vừa mất chính là tuệ hiện tiền, không có trước không có sau. A Di Đà Phật dội vào, vọng niệm ẩy ra, cứ lấn qua lấn về không chừng đối kháng. Người ta đã “buông dao”, bạn còn ở đó trui rèn giáo mác mà thánh chiến với vọng tưởng! Vọng rốt cùng cũng là “sinh mệnh”; niệm Phật với tâm từ bi vô hạn tự khắc Vọng sẽ được cảm hóa, sẽ gộp vào A Di Đà Phật như lá lay bụi bặm cuốn theo cơn lốc xoáy. Người nước ngoài chưởi ta, ta không biết tiếng nước họ sẽ không khởi sân giận. Chính vì ta lầm chấp vào tướng nội dung của nó. Tánh của vạn pháp là Không; pháp vọng niệm tánh của nó cũng Không. Nên chính vọng niệm cũng là “A Di Đà Phật”. Các Tổ giảng niệm đến Sự/Lý nhất tâm thì hồng danh không còn tướng danh tự, niệm mà không niệm. Phật hiệu như con thuyền hoàn thành nhiệm vụ đưa vọng tâm trở về tự tánh mênh mang.

Ấy là điều khó. Nên trước hết trở về niệm Phật với tâm thiết tha được về cõi Tịnh, với lòng cảm ân sâu xa mười phương chư Phật - điều này đôi khi quan trọng chẳng thua việc trì niệm. Căn nền vẫn ở chữ Buông. Buông mới mong thể nhập nghĩa chân thật kinh điển, sẽ không còn thấy gì trong thế gian hấp dẫn nữa. Cái cảm giác được trở về làm rung động sâu xa tâm khảm. Một danh sách dài dặc những người từng gặp, từng biết dẫu thoáng qua danh vị, như cái máy dò tìm thấy không dừng lại ở dòng tên nào khởi lên vướng mắc. Ta bắt đầu chuỗi ngày thấy ai cũng đã “trở về” với mình như sự hội ngộ trong một ngày xuân tươi mới. 

Thử vẽ ra một con sông, bên này cõi uế, bên kia cõi Tịnh. Có Buông nghĩa là ta một mình đứng ở bờ bên này sẵn sàng qua sông. Là lúc đã thấm thía Khổ Không Vô Thường hành qua Tứ niệm xứ. Bỗng thấy giữa sông có những chỗ tiền trạm, bắt đầu là cái chòi có oan gia trái chủ ẩn nấp, rồi đến túp lều có ma vương đang thưởng trà, tiếp đến là chỗ các bậc tổ sư đại đức. Nếu theo Bát Nhã tức phải một cú nhảy vọt qua hết thảy đến thẳng trước mặt Phật bên kia bờ. Nghĩa là trước đó ta đã một mình lầm lụi quãng đường rất xa từ ngôi làng thân thương đến chỗ đang đứng, chứ không phải dắt theo vợ con cháu chắt bè bạn và rất nhiều đồ đoàn đến đó. Ý muốn ra ngoài cõi khổ, ý muốn gặp Phật A Di Đà bừng cháy trong ta. Bấy giờ, hãy thực hiện cú nhảy. Còn không ta mới tiền trạm ở cái chòi đầu tiên đã bị các “chủ nợ” quẳng xuống nước (chướng duyên, lâm bệnh ngặt nghèo, tai nạn, hễ ngồi xuống thì vọng tưởng trào sôi cuốn phăng chánh niệm, cuốn phăng câu Phật hiệu lúc nào chẳng hay; thì ta phải trở về tu lại Lục hòa kính, Thập thiện, Ngũ giới, Tứ chánh cần, Tứ niệm xứ, tu kỹ Lục độ và hơn hết là tu Hiếu thân tôn sư, tu hạnh nguyện Sám hối nghiệp chướng. Đến lúc ra đường gặp ai kể cả loài vật ta cũng chừng muốn bật khóc, cũng có cảm giác muốn cúi lạy. Rồi thỏng tay vào chợ. Với ta lúc này sở học thế gian bụi bám, bể học thánh hiền rêu phong, đến cả Phật pháp nửa chữ cắn đôi cũng Không nốt; ta mãi miết dạo “trên lối mòn thỏ chạy” cho tới khi người người đoan quyết, ồ cái tướng ấy trông khờ khờ làm sao, cái tướng ấy trông hao hao Bờm quá; giữa rừng dục phấp phới ta không còn lung lay bởi tám gió. Vậy xem như Buông rồi, tự tại hướng về bờ sông để thực hiện lại bước nhảy cuối cùng. 

 

Diệu pháp trong thời mạt

Trong sáu nẻo luân hồi, nếu không tinh tấn tu luyện hẳn nhiều người còn phải “ghé vào” ở các kiếp kế tiếp. Phật thấy được quá khứ vị lai, thấy được tương lai của Pháp mình đã giảng sẽ còn lại những gì. Phật thấy sự suy đồi nhân tâm. Thấy một bộ phận người (trong đó có tôi) sẽ dùng lý trí để phân tích, thậm chí thẩm định lời Phật, hiểu lệch và hiểu cạn. Phật Pháp vốn đại quang minh tạng; sáng hay tối tùy thuộc và sự hiểu và hành ở mức độ nào của mỗi sinh mệnh. Thời còn tại thế Phật dạy đệ tử: “Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, Này Ananda là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.” (Kinh Trường Bộ, bài Kinh Đại Niết Bàn). Đức Phật từng chia mốc thời gian của Pháp như sau: thời Chính Pháp (1.000 năm) - Tượng Pháp (1.000 năm) - Mạt Pháp (10.000 năm)... Theo lịch Đông phương, thời Mạt Pháp đã qua một ngàn năm đầu tiên.

Thực chất Pháp mạt là dosự vô minh thông qua thân, khẩu và ý nghiệp đã khiến lời Đức Thích Ca truyền giảng bị “sử dụng” lệch chuẩn. Kỳ thực dưới hào quang tỏa rạng của Pháp, vô lượng chúng sinh vẫn miệt mài trực chỉ nhân tâm, chân trần vững bước qua biển mê.

Nếu ánh quang minh của Phật qua gần 3 ngàn năm nay đã mờ, sao vẫn sản sinh ra rất nhiều những vị Sư đắc đạo. Thời Lý - Trần được xem là hưng thịnh nhất của Phật giáo Việt Nam. Dưới triều Lý có Thiền sư Từ Đạo Hạnh (1072 - 1116); với minh chứng rõ ràng cho thấy vua Lý Thần Tông chính là hóa thân của ông. Thời Trần có Phật hoàng Trần Nhân Tông, con người thứ 2 sau Phật đưa ra một thông điệp ngàn đời: áo bào không thể cao quý hơn tấm cà sa; ngay cả vua, người ngồi trên đống vàng, trên thiên hạ, người ngồi trên mọi sự hưởng lạc, là người tiêu xài không thiếu thứ gì song khó thể… tiêu nghiệp. Chưa nói đến chuyện, vua, cũng là người có nguy cơ tạo nhiều nghiệp nhất. Viên mãn hơn là 2 sư đắc đạo để lại toàn thân xá lợi ở chùa Đậu. Rồi chúng ta còn có vị Bồ tát khiến nhân loại “quỳ gối” trước trái tim vĩ đại - đó là Thích Quảng Đức. Nhìn ra thế giới, Giáo sư Alexander Berzin (người từng là thông dịch viên cho Đức Đạt Lai Lạt Ma) cho biết, có khoảng một nghìn dòng lạt ma hóa thân đã được xác định. Những vị hóa thân, một phần ra được ngoài Tam giới, tức họ đã nhập Niết Bàn và nay nguyện trở lại cứu vớt chúng sinh. Nói cách khác, họ là những đệ tử chân truyền xuất sắc của Phật, nối dài thêm vào danh sách một vạn hai ngàn năm trăm vị đắc quả La hán thời Phật còn tại thế. Kinh Hoa Nghiêm dạy rất rõ ràng về vô số những vị Bồ tát hóa thân làm “người thường” có mặt ở các ngành nghề trong xã hội thuộc mọi thời đại âm thầm và “tuyệt mật” độ cho những chúng sanh có cơ duyên. Chính họ là những minh chứng xương thịt cho thấy: Phật Pháp vẫn nguyên xưa. Ngay đến thời Diệt Pháp, Phật cũng tiên liệu Pháp chỉ còn 4 chữ “A Di Đà Phật”. Nhưng 4 chữ ấy chính là sự “gói gọn” của Pháp giới. "Niệm A Di Đà Phật đến thuần thục thì những giáo lý chí cực của Tam Tạng mười hai bộ kinh cũng đều nằm trong ấy cả. Một ngàn bảy trăm công án, mấu chốt hướng thượng cũng nằm trong ấy cả. Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, Tam Tụ Tịnh Giới đều nằm trong ấy cả" (Ngẫu Ích đại sư Pháp ngữ). Vậy nên,“Đạo Phật cần những cá nhân Phật tử biết suy tư, biết phân tích, biết tự tìm hiểu rồi xác nhận sự hiểu biết của mình, ngang qua sự hành trì, kinh nghiệm cá nhân. Đạo Phật không cần đến những đoàn người theo đạo Phật, theo một cách ồ ạt mù quáng, theo một cách thụ động nhắm mắt, hay tự mình bóp méo xuyên tạc đạo Phật theo tà kiến dục vọng của mình”; “đạo Phật là đạo đến để mà thấy, chứ không phải đạo đến để nhờ người thấy hộ, đạo của người có mắt (Cakkhumato), không phải đạo của người nhắm mắt, đạo của người thấy, của người biết (Passato Ajànato), không phải là đạo của người không thấy, không biết (Apassato Ajànato)”. (Chánh pháp và hạnh phúc - HT Thích Minh Châu). 

Phật Pháp thấm nhuần khắp vạn vật cỏ cây, không gì không bao hàm. Bất cứ con người làm gì, nghĩ gì đều nằm trong Pháp; nếu nằm ngoài chính là mê lầm đang dẫn lối. Con người đó dẫu tốt đến mấy, sâu sắc đến mấy, bất quá cũng chỉ là một công dân hạng bét trong quá trình “tiến hóa” thành Phật. Tiền tài danh vọng, tham dục là quả bóng vàng luôn bày sẵn trước nhục nhãn. Với người tu họ sẽ quán đến khi quả bóng ấy thành bóng bay, trương phình và nổ. Cái không. Bình lặng lần trở về chân Tâm. Người không tu sẽ kiễng chân tìm cách với tay nắm bằng được; ngay sau đó liền xuất hiện thêm quả bóng vàng khác to hơn nặng hơn, đặt cao hơn, tiếp tục mê dụ người đời.

Hãy thử nghĩ: có một người tốt chuyên giúp đỡ kẻ khác. Kẻ được giúp đỡ thoát nghèo, rồi kha khá, rồi giàu, trong suốt giai đoạn phát đạt tịnh tiến ấy hầu như tuần nào cũng đến xin xỏ, người tốt có bực mình? Đương nhiên. Người tốt sẽ, một là đuổi kẻ lợi dụng lòng tốt đó, hai là tự dời chỗ khác. Dõi vô chùa chiền. Không phải tất cả song phần lớn người cúng dường đều muốn xin một cái gì đó lớn hơn số vật chất họ cúng, xin thứ mà tiền không mua được (ví như nghiệp nạn họ phải gánh chịu do tự thân tạo tác). Hoặc giả người trắng tay, đến chùa chỉ để quỳ trước tượng Phật xin thoát cảnh bần hàn, xin được trúng số, vân vân. Thiết nghĩ, nếu khoa học chế tạo ra bộ máy đặt phía sau tượng Phật thâu âm những lời nguyện; số người xin có được mái nhà khỏi dột để an tâm học Phật, xin được khỏe mạnh để giúp người khác, nguyện cho kẻ thù bớt hại người, thuần tâm dưỡng tính, xin cho không có chiến tranh… sẽ chiếm tỉ lệ quá khiêm tốn so với người xin trăm nghìn thứ liên quan đến thụ hưởng - cái mà Phật không thể đáp ứng ngoại trừ chỉ ra con đường họ phải đi để thoát nghiệp. Thế nên nếu kẻ nguyện không chân thành, không hiểu đúng bản chất của Phật, thì “ông Phật” trong họ là giả. Nếu họ hiểu Phật, thay vì xin xỏ hãy làm đúng theo lời kinh răn dạy, nghĩ đến người khác trước lúc nghĩ đến lợi ích của mình thì tự khắc Phật tánh xuất hiện. Chúng ta biết, ngay đến đệ tử giỏi thần thông bậc nhất của Phật là ngài Mục Kiền Liên, khi thấy mẹ đội chậu máu đứng trên bàn chông cũng không thể phá rào nhân quả mang mẹ khỏi địa ngục. Mà ông phải quay về dương gian - theo lời Phật dạy: nương nhờ thánh lực của 10 phương tăng cộng trú vào ngày lễ Tự tứ đồng lòng cầu nguyện, mẹ ông mới được sanh lên cõi trời Đao Lợi.

Thời mạt quá trọng nghi lễ, khiến cho việc hành chuyên môn giảm xuống. Không ai muốn phủ nhận việc thi hành một số lễ trước lúc người quá cố về chín suối. Người đạo lực cao, họ có thể hướng dẫn linh hồn vững tin bước vào con đường sáng ở kiếp sau. Việc tụng kinh sẽ động viên hương linh thêm phần chánh niệm. Đến là Phật nếu siêu độ thì người được nhận cũng chỉ sinh lên cõi trời Đao Lợi là cùng. Như tôi chưa hề soi thấu kiếp mình, thì việc tụng kinh sám hối giùm ai với tâm vọng động ngã chấp không chừng lại khiến linh hồn thêm phần hoang mang lầm lạc. Suốt đời tâm hiểm, lúc chết đâu dễ “nhờ ai” có thể giải nghiệp! Có chăng ở phút hấp hối, nếu họ nhận diện lỗi lầm, hồi hướng nương theo Hương bát nhã, tịnh niệm Phật và được nhiều người cùng hộ niệm may ra Phật lực hút khỏi Ta bà. Ở Tây Tạng hiện vẫn tồn tại tục điểu táng, có khi họ chặt khúc người chết cho chim ăn; ở sông Hằng có tục thủy táng (để người tu thấy được sự vô thường của xác thân). Hợp vệ sinh môi trường và nhân văn hơn, trong Di chúc, Bác Hồ cũng mong muốn nước ta có nhiều lò thiêu thay vì địa táng. Ngay trong nước, cùng sự chết song ở một số nơi thuộc miền Bắc thường đưa đám trong vòng ba ngày kể cả ngày mất, còn ở phía Nam có nơi người chết để vài tuần, thối rữa… trên mặt đất! Phật giáo đã khai thị chí lý điều này: chỉ cần thật yên tĩnh trước, trong và sau lúc mất ít nhất 8 tiếng, sau đó mới đụng chạm đến người quá cố; tốt hơn thì trước lúc mất khuyên họ đừng tơ vương cõi trần quyến thuộc mà trụ tâm niệm Phật cầu vãng sanh về Cực lạc. Làm trọn điều này còn lo chi đến ngày giờ tốt xấu. Tại sao khổ chủ đợi cho kỳ được ngày giờ tốt nhất mới táng người quá cố thân yêu. Trong lúc người dương hoàn toàn có thể giúp bằng cách làm thật nhiều việc thiện rồi nguyện dành cho người âm. Đó là điều có ích nhất mà họ sẽ nhận được từ chúng ta.

Cúng bái là "trò chơi" cuồng tín trong xã hội phong kiến Ấn Độ. Nguyên thủy Phật không đề xướng đi cúngmà chỉ đến giảng pháp, thọ trai tại gia nếu được mời. Phát sinh việc này cũng không hẳn sai. HT Thích Trí Quảng từng dạy: “Thầy cúng cũng có cái hay của họ, khi có người qua đời, hay có người bất an, tất nhiên cũng phải nhờ đến thầy cúng. Tôi quý trọng thầy cúng khi thấy họ chịu cực tụng kinh dẫn vong trong các tang lễ”. Cái sai ở người thực hiện. Để yên lòng người chết (hay yên lòng người sống), nếu là một gia đình nghèo, có khi không đủ kinh phí cúng cấp. Ngày xưa Đức Gô Ta Ma nhận đệ tử ở bất cứ đẳng cấp xã hội nào. Bình đẳng tuyệt đối. Ăn không phân biệt thứ gì được cúng dường, ngủ bất cứ nơi đâu trong rừng hay trên núi. Đoàn giáo sĩ hàng ngàn người của đức Buddha xưa hoan hỷ an cư trong khu rừng của hoàng tử Jeta xứ Kosala trao tặng. Nay có chùa lớn lại chỉ an trú dăm người, ít mở Pháp hội, nên không tránh khỏi chùa ấy trở thành nơi “thờ Phật” chứ không phải “học Phật”. Việc này đặt lên vai những nhà chuyên tu trong chùa đó gánh nặng nghìn vạn cân, khi không những tu cho chính mình mà còn hồi đức cho các thí chủ. Lão Hòa thượng Quảng Khâm, người gần như chỉ ngủ ngồi; là một minh chứng sinh động cho việc liễu thoát sanh tử, một tấm gương ngọc bích không tì vết, là bậc thầy tâm linh vĩ đại của bất cứ người tu thuộc pháp môn nào, đã nói: “Phật pháp không có mạt pháp, mà “người” thì có mạt pháp - Người không biết kính Phật trọng pháp. Người già thì đặt Phật pháp tại chỗ mạt nhứt của các sinh hoạt - đặt sau tiền tài, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghê, lại đặt sau “trà dư tửu hậu”, đặt sau “nhân tình thù tạc”. Người mà đem tính trọng yếu của việc học Phật đặt vào chỗ tối mạt là người của thời đại mạt pháp. Nếu là người kính trọng Phật, trọng pháp thì mãi mãi là người của thời đại pháp!”

Đạo Phật là hiển bày chân tướng vũ trụ nhân sinh. Trên không gian địa cầu có nhiều cảnh giới khác nhau cùng tồn tại. Đơn cử không gian của người âm. Con người là trung tâm. Vậy điều trọng yếu ta phải trang bị là gì nếu trước hết không phải triết lý nhân sinh. Triết lý nhân sinh chính là phần nền tảng trong đạo Phật, nêu ra một cách chi tiết và sinh động về các tầng không gian tâm linh. Có xa vời chăng? Có hay không cõi âm? Đất nước chúng ta có hẳn một viện nghiên cứu về vấn đề này. Một nhà ngoại cảm uy tín, bằng khả năng có được “từ cõi chết trở về” đã nói chuyện với hơn mười nghìn liệt sĩ, những tưởng thừa lý do đục bỏ ba chữ “chết là hết” cùng một dấu chấm than chạm khắc trên tấm bia chấp thủ của bao người. Gần đây, nhà ngoại cảm qua sự tiếp xúc với người âm đã thấy sự nhiệm màu: sống không tu tập, chỉ có đạo Phật là bè cứu sinh. Trong một đại lễ cầu siêu, nhà ngoại cảm thấy Thượng Dương hoàng hậu do sân hận với Nguyên Phi Ỷ Lan nên sau ngàn năm vẫn chưa “siêu thoát”, còn chen lấn cùng chúng sinh bốc cháo cùng đồ vãi cúng.

Để người âm được siêu thoát, người trụ lễ cầu siêu nhất thiết phải là minh tu, là Hòa thượng, bậc đắc đạo chứng quả… Siêu thoát ở đây, thiết nghĩ phải bỏ trong ngoặc kép, bởi siêu thoát đúng nghĩa phải là thoát luân hồi ra ngoài Tam giới. Có thể ví sự siêu thoát trên như một cán bộ tại cơ quan nọ trước làm việc trong căn phòng tối tăm chật hẹp, ẩm mốc, nay được chuyển tới gian phòng thoáng đãng hơn; đó cũng có thể là tầng trời thấp! Mỗi cảnh giới có thời gian khác nhau. Chúng ta biết các liệt sĩ được tiếp chuyện với nhà ngoại cảm, sau mấy chục năm họ vẫn ở “tuổi hai mươi”, vẫn không già. Biết đâu ở cõi ấy, một năm chỉ bằng một ngày ở cõi dương. Đời Hán có Lưu Thần và Nguyễn Triệu một lần lên núi Thiên Thai hái thuốc gặp tiên nữ, phải lòng liền cưới làm vợ. Nửa năm (ở cõi trời) chợt nhớ trần gian da diết nên quyết định xuống thăm bà con họ hàng, đâu ngờ chẳng còn ai. Ngẩn ngơ hỏi han mới biết người thân giờ thành thiên cổ bao đời. Thượng Dương hoàng hậu sau hàng ngàn năm, nhà ngoại cảm cũng thấy bà “như cũ”. Như vậy có thể người âm sau nhiều năm (ngồi chưa ấm chỗ) họ vẫn chưa đến thời điểm chịu nghiệp quả tạo tác ở đời hoặc họ đã nhận chịu sự thống khổ vô biên nhưng “bất khả lộ”, hay họ chưa phải đầu thai vào các nẻo trong lục đạo. Gần giáo lý Phật hơn, chính là do chấp nê thân mình; đó chỉ là sự tác động của thần thức, là “ảo”. Còn trong bổn tánh không có linh hồn; thấp hơn thì chết rồi chúng ta sẽ bị thức/nghiệp dẫn đầu thai; lại chấp một thân mới, sống và chết đi; nếu (hồn) họ chịu tới chùa nghe kinh nghe pháp, chịu niệm Phật khắc sẽ thâm nhập vào một cõi nào đó không tệ, rút ngắn thời gian cập bờ Tịnh độ. Các nhà ngoại cảm nói chung chưa thể nhìn thấy cảnh giới của địa ngục, ngạ quỷ, a tu la… (phải người chứng Đạo mới thấy). Họ chỉ mới thấy cảnh giới Thân trung ấm và “những vấn đề xung quanh”. Điều này cũng là hạn chế lớn khi soi vào định luật nhân quả, rộng hơn là không tránh khỏi khiến nhiều người hiểu sai chân Pháp; ngay cả người thân của Phật cũng không ngoại lệ. Vào thời điểm xảy ra chiến tranh, Ngài Mục Kiền Liên xuống trần gian hốt dòng họ Thích vào bát mang lên trời lánh nạn. Cuộc chiến chấm dứt, Ngài xuống lại trần gian đổ bát ra thì thấy… toàn máu!

Đạo Phật hàng ngày nhắc nhở nhân loại hãy thức tỉnh. Bộ óc con người thật vĩ đại, ai uyên bác không chừng nạp được hết thảy kiến thức liên mạng; chỉ trừ Phật pháp. Mức độ nghiêm trọng hơn, nhân loại gán cho đạo Phật là tôn giáo. (Chữ giáo gắn sau Phật phải mang nghĩa giáo dục mới đúng, chứ không phải giáo thuyết. Đạo Phật không mang nghĩa giáo chủ thần quyền! Kinh Nền Tảng Đức Tin viết:(1) Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở; (2) Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết. Phật chỉ giảng ra những gì mình thấy lúc đại triệt đại ngộ. Ai nghe rồi hãy hành trì và tự chứng xem có đúng không? Không đủ duyên thì tự bỏ Phật, không văn bản nào ràng buộc. Từ thời điểm 500 vị chứng quả A la hán đầu tiên do tổ Ca Diếp tập hợp làm chứng cho việc chép lời Phật thành Kinh, (hễ một trong 500 vị ấy bảo lời này không đúng của Phật lập tức phải bỏ ra) cho đến nay đã rất nhiều người “giấu mặt’ chứng Thánh quả, vẫn chưa ai “giải thiêng” một câu Kinh. “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành” - câu nói của thầy giáo Thích Ca Mâu Ni nhẹ như mây khiến những người tu cúi lạy vạn lần còn mang ơn trọng.

Mỗi cảnh giới gần như là sự đặc định từ vũ trụ. Nếu cõi người không cần pháp luật trị ác nhân thì vũ trụ cũng đâu cần tạo ra các tầng cấp để ân sủng Phật. Phật thấy chúng sinh quằn quại trong địa ngục, nhớp nhúa quăng quật trong cõi bàng sanh, giằng xé nhau trong cõi ngạ quỷ và ganh đua tham đắm trong cõi người nên đã cùng các Bồ tát xuống cứu vớt. Nếu thấy được công ơn vô lượng của các Ngài, sẽ không một ai lại kêu “sao cuộc đời lắm bất công oan trái!” Con người không chịu tu để vói tay “lên trời” nên cứ đinh ninh “nho còn xanh quá”. Một người nông dân nghèo họ thường ăn cơm vào buổi sáng lấy sức làm lụng, cơ may được lên phố nhận việc công sở lương bổng kha khá thì chuyển qua dùng bún cháo. Sau một thời gian dư dả họ lại tìm đến những quán ăn xa xỉ, dẫn đến tình trạng tìm kiếm “cảm hứng” cho vị giác. Một người tu, nhờ năng lượng từ thiền định thanh lọc tâm tịnh sáng, một thời gian họ thấy không còn nhu cầu điểm tâm sáng; chuyên tâm miên mật hơn người tu nhập thất hàng tháng hàng năm trời không ăn uống. Người nông dân (trở thành cán bộ) kia sẽ không hề chạm tay được vào niềm hạnh phúc vô bờ của người tu (trở thành thiền sư) khi gần như dứt cái sự ăn uống. Từ Thú tánh họ tập chuyển về sống với Pháp tánh, Phật tánh; niềm an lạc sanh từ dứt phiền não, ngũ dục lục trần - những thứ mà người phàm càng cố khoanh vùng hưởng thụ càng thấy bất lực khi thời gian dành cho sự tỉnh thức dần ráo cạn.

Con người - chủ nhân của trái đất lẽ nào lại phớt lờ căn cốt triết lý nhân sinh?! Không tin có đời sau là không muốn biết căn cốt triết lý nhân sinh. Không tin nhân quả báo ứng là không muốn biết căn cốt triết lý nhân sinh. Không tin luân hồi sinh tử là không muốn biết căn cốt triết lý nhân sinh. Không tin nếu tu tập đúng theo lời dạy của Phật sẽ trọn vẹn hết khổ đau là không muốn biết đến cốt tủy triết lý nhân sinh, v.v. Con người lẽ nào muốn trang bị tất cả những triết lý khác trước rồi mới trang bị triết lý nhân sinh? 

Con Người tin sâu triết lý nhân sinh nghĩa là tin sâu lời Phật, sẽ không còn nghĩ ác, không còn hành vi bất thiện, dẫu cho sự nghĩ và hành vi ấy không ai nào biết đến. Kinh Hoa Nghiêm, phẩm mười hai có chép: “Đại hải Long Vương lúc làm mưa/ Có thể phân biệt đếm từng giọt/ Ở trong một niệm biết rõ ràng”. Hàng ngày ta vẫn giấu những việc xấu - gọi là nghiệp, và khoe khoang việc tốt, những việc liên quan đến từ thiện - gọi là đức. Mới chỉ Đại Hải Long Vương thôi trong một niệm đã thấu rõ bao giọt mưa trong trận mưa, huống hồ. Phật trong một niệm biết bao nhiêu lá rụng trong rừng. Tựa như lúc ta đóng ngoặc kép dòng tên một người nổi tiếng cho vào google rồi enter, trong một giây cho ra hàng triệu kết quả. Phật thấu suốt đức nghiệp của hết thảy chúng sinh. Những việc xấu ngay cả mới khởi ý niệm vi tế thôi đã có trung tâm xử lý nhân quả ghi lại.

Sau 7 ngày thiền định dưới cội Bồ đề, Phật chứng quả đầu tiên Túc mạng minh - thấu tỏ những đời quá khứ vị lai. Cuộc đời một sinh mệnh trong Tam giới như sợi dây giăng ngang trời với vô vàn nút thắt, mỗi nút đánh dấu một kiếp, quãng giữa các nút dài ngắn tùy thuộc vào số mạng. Con người nói chung phải bám vào quả địa cầu quay tít mù và luôn trong cảm giác lo sợ run tay mỏi gối văng vào các nẻo thấp thua. Đệ tử của Đức Phật, nhiều cư sĩ đều có một gia đình cần lo lắng, một số nợ cần trả, một sự nghiệp (đã lỡ mang vào) cần hoàn thành ở mức tương đối... Làm việc, âu cũng rất cần thiết cho sự khảo nghiệm tâm tính. Đời là trường tu. Xã hội loài người đang phát phì bởi tích quá nhiều nghiệp. Ta còn nhúng tay vào việc đời ắt còn có nguy cơ làm tổn hại đến nhiều người. Người tu chân chính, ít nhất họ sẽ không đụng chạm đến lợi ích của ai, đã là quý lắm rồi. Người ta làm việc có lương cao, lại chi cho bản năng hưởng thụ mất quá nửa. (Mà, hưởng thụ là tạo nghiệp). Một người tu lương tháng ít ỏi song bản thân cần chút ít đã sống tốt sống khỏe, dư dả giúp đỡ người khác mà bản thân lại ít tích nghiệp. Không ít người tu tại gia, khi đến con cháu chơi, mang nào chén bát xoong nồi; trong lúc nếu thật tâm đoạn cá thịt, chỉ cần chén bát rửa sạch cũng được. Người tu nên biết chấp vào cái gì dẫu là sở đắc, cái đó sẽ trở thành chướng ngại; và ở phương diện này đòi hỏi người không tu cũng nên có cái nhìn rộng lượng hơn. Một gia đình ăn chay trường, đã bị hàng xóm dè bỉu “giả bộ ăn chay để che đậy keo kiệt”; rồi là “chắc chúng gây tội quá nặng nên mới ăn chay trường”. Có người cứ gì ăn nấy không khen ngon cũng chả chê dở, liền bị rủa “đã ăn chay còn thèm mặn ngọt", kỳ thực người này đạt đến tâm không phân biệt, một trình độ tâm linh không tồi. Lại không chừng có những vị Bồ tát hóa thân trước mặt chúng ta lại chẳng biết, đem lòng khinh khi thật lỗi trùng trùng.

Tu là cốt giải thoát luân hồi sinh tử, đạt Niết Bàn. Người không học Phật cứ cứng nhắc Niết Bàn ở tít tận mây xanh. Niết Bàn - từ tia nhìn gần và thô là đạt đến Tâm Bình Lặng giữa xô bồ trần tục. Ai sinh ra, hữu ý hay vô tình đều đã nhờ vào ánh sáng mặt trời mà lớn lên như chính niềm ân sủng vô biên của Phật Pháp. 

 

Mở mắt lại thấy chiêm bao…

Giới khoa học đã khám phá được bí mật: thời gian vốn giả. Lúc giảng hai chữ “nhất thời”trong kinh, Tiến sĩ, Hòa thượng Tịnh Không đưa ra minh chứng: Tổ thứ tư của Tịnh tông là Pháp Chiếu đại sư trong định từng nhập vào pháp hội hơn một vạn người trên núi Ngũ Đài đang được Bồ tát Văn Thù giảng kinh. Nhiều vị sư khác thời cận đại còn thông dự pháp hội ba ngàn năm trước của Phật Thích Ca. Chứng tỏ thời gian có hay không phụ thuộc vào tâm tịnh hay nhiễm. Tại sao một ngày ở cõi trời thấp nhất bằng 50 năm ở trần gian, phước đức của ai càng lớn càng được lên các tầng trời cao hơn. Ở thế giới Cực Lạc là vô lượng thọ, vĩnh viễn không có già chết, tức không có thời gian. Không gian cũng không nốt vì người nước ấy chỉ cần khởi niệm đã có mặt tại một nơi cách hàng “thập vạn ức trình”. Nhục nhãn phải nhờ đến kính hiển vi xem vi khuẩn; Pháp nhãn của Phật thì thấy rõ hạt vi trần nhỏ gấp mấy triệu lần so với hạt bụi. Một ý niệm thiện khởi lập tức trùm khắp vũ trụ. Ý niệm ác thì ngược lại, sẽ góp phần tàn hại sự tồn vong của hành tinh. Mới biết, nếu không có sự gia trì của Phật và Bồ tát, nhân thế chẳng thể tồn tại. Một nửa lượng người trên thế gian cùng đồng thanh tương ứng nhất niệm “A Di Đà Phật” chẳng những đẩy lùi thiên tai đại họa, còn giúp trái đất tăng vọt tuổi thọ.

Nghiệp thức từ thân, khẩu, ý chuyển hóa hàng ngày sẽ tạo nên cảnh giới trong tương lai. Gây nghiệp quá nặng, sống hả hê trên nỗi đau của con dân song đêm đêm triền miên ác mộng, ấy là dấu hiệu của địa ngục. Ta ngủ gặp ác mộng, tên sát nhân cầm dao truy đuổi từ trong nhà vào phòng ngủ. Từ phòng ngủ ta đu dây trụt xuống tầng trệt, hắn vẫn ráo riết đuổi. Ta thộc vào nhà người khác, hắn vẫn bám riết, giết cả người che chở ta... Giật tỉnh, “à, té ra mơ”. Địa ngục trước hết là do nghiệp lực tích tụ chiêu cảm ra cảnh giới tương tự. Giấc mơ khủng khiếp ấy, “cảnh giả” ấy nối với ác mộng không một giây ngưng nghỉ thì có phải thật? Kẻ sát nhân sẽ bị ác mộng bủa vây, cùng cực khổ sở; mơ mà vẫn máu chảy đầu rơi, vẫn mồ hôi đầm đìa, kêu gào vùng vẫy. Lại với kẻ giết mổ súc vật, cứ là . Hãy tưởng tượng, cái vảy con cá bị gỡ khỏi thân chẳng khác người ta nhổ móng tay mình. Nỗi thống khổ, niềm đau vô hạn của những con vật sẽ hiện lên trong “mê hồn” của chính họ. Cảnh giới kinh hoàng này chính là “duy tâm sở hiện” chứ thần thánh nào đặt ra. Kinh miêu tả người tự tử (với bất cứ lý do nào), xuống dưới đó cứ một tuần cảnh tượng vật vã kia tái diễn. Phật dạy: "Tất cả các pháp từ tâm tưởng sanh" - đây là sự thật khoa học. Nghiệp thức sinh ra ác mộng. Ác mộng nối nhau thành chuỗi trường đoạn thọ hình không một phút tỉnh thức, chính là thật. Những bậc đoạn dứt kiến tư phiền não, tâm lặng phắc, khế nhập đại định đã thấm thía giấc mộng lớn hồng trần.

Kinh Kim Cang: “Phàm những gì có hình tướng đều hư vọng”. Lão Tử thấu triệt điều này mới than: “Ta có một mối lo là có thân này”. Biết thân này vốn không phải là ta, thân này sẽ che mất minh tuệ. Biết thân vốn huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người mê dục lạc thế gian. Trong cách phân chia luân xa trên cơ thể người, ba luân xa phía dưới thuộc tầng thú tánh; luân xa thuộc tầng cao nhất trong thú tánh là mê tài danh. Dẫu thú tánh nặng, vẫn có nhiều người sử dụng được chút ít tâm tánh, Phật tánh (thuộc các luân xa phía trên), nên cuộc đời cũng bớt nghiệp bệnh tai ương. Nương vào lời Phật mà hành mới tự có thể chuyển mệnh. Đời nay thật nhiều người quở Phật, rằng Ngài vô biên pháp lực, từ bi trải rộng muôn nơi sao thế thái nhân tình lâm ly quá đỗi. Vậy họ đã thực hành Ngũ giới và Thập thiện? Phật dạy bố thí, khởi tâm động niệm đều lợi người, Phật dạy đừng sát sanh, Phật dạy đừng tà dâm dối trá, đừng siểm nịnh xan tham, đừng tật đố, đừng cống cao ngã mạn, đừng ác khẩu lưỡng thiệt; Phật dạy hãy yêu thương tất cả mọi người và mọi loài, bởi hiếm ai đời này và hiếm con vật nào trong quá khứ lại không là anh em bà con của mình. Chúng ta làm được bao phần trăm lời Phật? Khoa học vốn nặng tính duy vật và… bảo thủ, đến nay ngoài những công trình vĩ đại khiến Phật pháp thêm sáng thì chưa dễ chứng minh điều ngược lại. Một giây con người phát xuất hàng tỉ ý niệm, thì còn gì trong tam thiên đại thiên là ngoại vi của Tâm. Mấy tỉ người phát xuất trùng trùng ý niệm bất thiện thì sao không tạo đại nạn cho được. Thời nay Phật gọi là Ác trược (thập ác và ngũ trược), là lời tiên tri vĩ đại?

Theo Phật Di Lặc, một giây người phàm phát xuất ra 1280 triệu ý niệm tế. Ấy chính là vọng tưởng đảo điên. Muốn định tâm cách hữu hiệu là niệm Phật. Tốt nhất là lúc ngồi thiền hoặc vừa lạy Phật vừa chánh niệm, câu "A Di Đà Phật" phải sắc bén, nhuần nhuyễn, phải thật thà buông xuôi thế sự mà niệm. Không cứ lúc nào, hễ buồn vui tốt xấu ập đến, điều tiên quyết là niệm Phật, nhắc nhở tâm luôn tỉnh giác. Niệm Phật theo vòng, mỗi vòng năm đến mười câu nối nhau tai nghe thấu tâm nhận rõ ấy là thậm thâm thượng diệu thiền, vọng niệm sẽ dần được đẩy lùi, dần tự tan. Lúc xuống núi, thõng tay vào chợ, lục căn tiếp xúc với sắc thanh hương vị, tâm không còn móng khởi là sống trong cảnh giới thuần tịnh. Bậc Chánh đẳng Chánh giác chưa cần nói một lời tự thân và thần thái đã toát ra từ trường giáo hóa, đến sát nhân vừa gặp cũng buông dao. Nhiều vị lên núi tịnh tâm, vào nhầm hang hổ nhưng chúng đã nhường lại kiếm chỗ khác nương náu. Lượng từ bi nhỏ hẹp, tâm bấn loạn gặp thú dữ khắc thành miếng mồi tươi sống. Ta chuyên ăn thịt gì, thân thể sẽ nhiễm mùi và khí huyết của loài đó. Người ghiền thịt cầy đến đâu chó cũng tranh nhau sủa tới bến. Nếu khoa học chứng minh được rằng loài vật không hề đau đớn, không hề có lòng oán hận nên không hề quý tiếc mạng sống thì việc người ăn vật hoàn toàn không tạo nghiệp dữ. Tham, si, sân, lượng tâm hẹp hòi, con người chết đi dễ chuyển thành loài khác. Khoác thân vật, “linh hồn” ấy sẽ mang nỗi oán hận với người giết nó. Hết phước, người ốm yếu què quặt chính là lúc nghiệp báo hiện tiền. HT. Tuyên Hóa Khai thị về ăn chay:Trong Hán ngữ chữ nhục (thịt) có bộ khẩu với hai chữ nhân, ý chỉ người ăn người.

Có người hỏi: "Nếu ai cũng không giết mổ thì lấy thịt đâu mà ăn, và như vậy thú rừng tràn cả vào thành phố, con người bị diệt vong sao?" Câu hỏi chưa vào nội dung đã lầm. Nhân loại hàng tỉ người, chỉ trong năm phút thôi liệu có suy nghĩ và hành động đúng như một bậc chân tu hay không. Năm phút với nửa số nhân loại không đạt đến từ bi hỷ xả ngang bậc chân tu thì làm gì có nếu ai cũng. Tào Tháo gây nghiệp, đến hơn ngàn năm sau; một người dân mổ heo thấy trong gan nó khắc hai chữ "Tào Tháo". Vậy ra nhân vật “nổi tiếng” này đã khoác thân súc sanh vô số lần. Khoa học đang có trong tay “phép” thôi miên. Chiếc máy vi diệu này không ngờ khiến một người nhớ lại nhiều kiếp quá khứ như cuốn phim sống động. Bậc đắc quả A la hán thấy được hàng trăm kiếp trước, đến quả vị Bồ tát thì lội ngược về hàng vạn đại kiếp. Để thấy không gì mất đi trong vũ trụ này.

Cho đến nay chưa lý thuyết chính thống nào có thể bác bỏ: đạo Phật là triết học cao tột của mọi triết học, là khoa học cao tột của mọi khoa học. Phần đông con người có trí song lại thiếu phước tin sâu điều này. Thế nên chẳng ngạc nhiên trong Kinh lại viết: Ai trong đời không gặp được Phật pháp chính là đại nạn. Theo đó kể cả cái chết oan khuất nhất cũng là tiểu nạn hay đúng hơn là hậu quả của đại nạn trên. “Học Phật là sự thọ hưởng tối cao của đời người”; triết gia Phương Đông Mỹ từng nói vậy. Hành theo đúng lời Phật chẳng những xoay chuyển được vận mạng tại cõi trần mà còn có cơ hội làm hiền thánh được trời người quỷ thần kính nể.

Giới khoa học cảnh báo lượng người hiện giờ phải cần đến 3 trái đất mới đủ sinh sống. Lời các đạo sư: con người đã bóc lột trái đất cùng tận; con người kết oán với loài động vật quá sâu nặng. Cảm tưởng sẽ có một cuộc thanh tẩy. Nhác nhìn vũ trụ nhân sinh, nhác soi vào gương Phật; không muốn trở thành một nhân tố thật sự tốt lại tìm mọi cách bứt khỏi ngũ giớithập thiện, chính tôi sẽ có nguy cơ lọt vào ác đạo quay vòng muôn nghìn kiếp. Chúng sanh gồm hết thảy loài hữu tình (động vật) và vô tình (thực vật, khoáng vật). Để biết rằng loài người vô cùng ít. Cơ hội làm người vô cùng khó. Chúng sanh cao hay thấp phụ thuộc vào lượng tâm: tâm quảng đại từ bi sẽ là Bồ tát; lượng tâm hẹp hòi thì thành dun dế... Không phải ngẫu nhiên mà Phật trong Kinh đưa ra đến ba thí dụ về thân người khó gặp. (1) con rùa mù dưới đáy sâu một ngàn năm mới trồi lên, liệu có chạm được bọng cây trôi lờ phờ vô định trên mặt biển; (2) vốc một nắm cát rồi buông tay xem cát trong móng tay còn lại bao nhiêu so với vốc cát đã rơi; (3) đứng trên núi Tu Di thòng sợi chỉ xuống chân núi xâu qua một đồng xu...

Phật pháp sờ sờ song ít người chịu nghe? Kinh Pháp Cú: “Thân người khó gặp Phật pháp khó nghe”. Một minh sư cảnh tỉnh: “Phá giới còn cứu được, phá kiến thì hết cứu”. Người ta phá chân lý về sự thật trong vũ trụ. Ấy chính là bản chất của vòng luân hồi. Khoa học đang phát triển tột bực, rốt cục những khám phá vẫn “quẩn quanh” trong mấy câu Phật thuyết gần ba ngàn năm trước. Khoa học đâu đã chặn được lũ lụt, hạn hán, bom nguyên tử, các nhà máy điện hạt nhân từng gây đại họa cho không chỉ một quốc gia? Nhìn cơn sóng thần cao chục thước ập vào nhấn chìm cả một thành phố, mới hay loài người chẳng hơn một tổ kiến bị tạt nước. Phật pháp dạy quay trở về chân tâm, trong đó bình lặng và không hề chịu tác động khổ đau của mọi trần duyên bên ngoài; lúc chết đi liền sanh về nước Phật vi diệu vạn lần cõi trời (thần thông biết hóa tự tại).

Thâm nhập vào ngôi nhà của Phật đã là thượng duyên. Không phải sinh mệnh nào cũng có cơ hội làm người, không phải ai cũng có cơ hội gặp Phật; số gặp Phật không phải ai cũng có duyên gặp pháp môn Tịnh độ; trong ngàn người niệm Phật, lúc mạng chung mấy người được tiếp độ vãng sanh về cõi Tịnh? Hãy xem thần thức (vĩnh viễn tồn tại) chính là sim, thẻ nhớ (tàng thức/alaya); điện thoại chỉ là xác thân, lại chấp nó chính là ta - nó hư ta cũng tiêu. “Có học thức” dễ gạt phăng Phật pháp, không tin. Giả như ai bịt tai bịt mắt mà tâm không động thì đúng chẳng cần tu nữa; Pháp còn xả, quả vị ấy thật không nhỏ chút nào. Đằng này tâm như khỉ vượn nhảy nhót lung tung ngay cả lúc ngủ; nhầm tưởng những cái trong đầu đều do thể trí, đâu hay đó chỉ là vọng tâm. Tham danh tài, tham lời ngợi khen (cái hư huyễn) dễ thành con giã tràng xe cát, bỏ mất việc tối quan trọng đời người: Giải Thoát. Chớp mắt thôi. Giả như ngồi xem thời tiết chuẩn bị cho sự vụ quan trọng ngày mai, ta căng mắt nhưng dự báo trôi qua lúc nào. Nếu nhìn từ cõi Phật, đời người ở Ta bà cũng ngắn ngủi như thế; cũng như chờ xem thời tiết - nhoáng chút phóng tâm tất cả tiêu tan bọt bóng. Lại chui vào địa ngục, lại sánh vai cùng yêu ma ngạ quỷ, giỏi lắm thì nương náu trên các tầng trời, hưởng hết phước lại rớt xuống hầm sâu. Biết bao giờ ra khỏi Tam giới nếu không đổ hết tri kiến tủn mủn hẹp hòi xuống biển sâu?

Tất cả sở học, vũ trụ nhân sinh có sẵn trong chân tâm, chỉ cần “sập giác quan” trước mọi hoạt cảnh và biến cố, không gian thâm nghiêm sẽ hiển lộ. Tất thảy ác nghiệp chúng sanh tạo hiện tiền trên khắp địa cầu, hãy xem đó như ta mở được thần nhãn “chứng kiến” lại mọi hành vi trong vô vàn đời quá khứ đã gieo. Kinh giảng: tài vật là của thủy, hỏa, đạo tặc, oan gia trái chủ, ân nhân đời trước... Nếu biết dùng tiền hành thiện, không Phật nào để ai đói; còn hẹp hòi tích tiền phòng bệnh, sau này không bệnh mới là chuyện lạ. Bệnh xuất phát từ tâm. Tâm hòa ái không dính mắc, không sân hận đố kỵ, không tham danh không ngã mạn tị hiềm, thân đâu dễ có cớ mang trọng bệnh ngoại trừ những bậc thị hiện sự vô thường để cảnh tỉnh chúng sanh. Hòa thượng Chinkung nói (từ lúc 40 tuổi, nay đã gần 90): ông không thể có bệnh bởi tiền chữa bệnh đã cho hết rồi. Xuất phát vào đời chỉ cần sai một ly, cứ một bước sẽ lệch với Đạo một thước, trăm bước lệch ngàn trượng... cuối đời không chừng vẫn tự phong người tốt.

Xưng là người tốt thật sự, vậy tôi đã giúp đỡ ai (chưa nói giúp nhiều người) mà không khoe khoang?; là người tốt, ta đã từ bỏ việc sát sanh, đã ăn chay?, hoặc ăn mặn theo Tam tịnh nhục? Người tốt, vậy tôi đã tiết kiệm từng gáo nước, từng phút điện thoại, từng chút điện năng của nhà nước? Tự hào tốt, vậy tôi đã mừng vui đồng nghiệp thành công? hoặc đã biết hổ thẹn sau khi nói xấu người khác? Dân gian đúc kết: ngậm máu phun người miệng mình dơ trước. Đạo lý này trong Kinh còn sâu hơn: nói xấu người chẳng những ta tích nghiệp mà đối phương cũng thêm xấu. Xem Linh sơn là kiệt tác của kiệt tác; giả như có một đại hội Nobel Văn chương thì tác phẩm này vẫn đầy đủ tư cách ngồi riêng một chiếu. Tâm niệm vậy nên tôi bị nó ám ảnh, phóng tâm khắp địa cầu rốt cuộc vẫn là kẻ cư lưu trong nỗi mơ hồ bất tận về kiếp người. Hướng vào nội giới, Linh sơn ở trong đó còn tìm đâu? Tâm động thì đến Phật, Bồ tát cũng méo mó. Người xấu chính là tấm gương trong suốt đang soi chiếu cái bẩn thỉu trong tôi.  Sống một đời vài trăm tuổi đi nữa mà ngu ngơ mù mịt không biết sẽ về đâu, không cần biết sau bức tường cao vợi kia ra sao là đoạn kiến,thật quá phũ phàng với trời đất.

Tổ Tịnh độ tông thứ 13 khuyên hãy xem thân người có được ở đời này là lần cuối cùng thoát khỏi lục đạo. Tôi phải xem gặp được Phật pháp trong đời là chuyến xe cuối cùng, để không ở lại bầu bạn với thú trong rừng xanh vĩnh viễn! Cái che mất tự tánh chính là ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) và ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), là ngã chấp pháp chấp. Thân xác mà thần thức đang mượn kia giả tạm, lại để nó đánh lừa đồng nhất một khối. Chăm sóc chiều chuộng thân thái quá ắt bị lôi giữa sình lầy áctrược. Hóa thân của Phật Di Lặc là Hòa thượng Bố Đại, có người hỏi Đạo là gì?, Ngài thả cái bao trên lưng rớt xuống. Đạo ở đây là vậy, một chữ Buông. Hướng về Phật mà không buông, ấy là tu giả. Tham chấp thế gian, lấy điều kiện gì đòi về nước Phật. 

Bất cứ ai, không cứ tôn giáo nào dưới gầm trời đều không thoát nhân quả luân hồi. Là thiên tài liệu có cứu được mình? Trong lúc dòng tộc họ hàng, anh em, quyến thuộc dưới kia đang hết lòng trông mong ta thành tựu gửi công đức hồi hướng cho họ. Có chút tài danh chắc có ngã mạn. Muốn qua sông chỉ cần hai hào trả cho người lái đò, mắc chi bỏ cả cuộc đời thu lượm sở học thế gian mà vẫn mù lòa bên kia thế giới; mắc chi không học Phật ghép bè đáo bỉ ngạn. Các bậc đạo sư từng bảo, việc lấy viên “trân châu” vốn sẵn trong mình người ngu dốt cũng làm được mà, bởi họ đâu chấp nê. Lõm bõm Phật một tí, Chúa một tí, các triết gia một tí, siêu nhiên siêu hình một tí rồi giơ lòe thiên hạ nào hay quỷ thần cũng nhịn không được mà cười sặc cả cơm.

Trong mỗi người ý nghiệp luôn làm chủ. Chẳng cần tính chửi bới, phỉ báng người (khẩu nghiệp), chưa cần đấm đá người (thân nghiệp), ta đã thê thảm lắm vào cuối đời. Tích nhiều nghiệp, tâm dĩ nhiên tạo nên cảnh giới xấu cho cuối đời và kiếp sau. Kinh dạy tham ăn uống là gieo nhân làm ngạ quỷ. Hình thù của chúng: bụng to, yết hầu nhỏ, suốt ngày kiếm ăn và ăn mà luôn bị cái đói hành hạ. Chỉ cần nghĩ đến lúc thoát xác thôi, do tập khí không buông bỏ nên cứ quanh quẩn trong gia thất, bên những người thân bên mộ phần mà không sờ mó kêu than với ai được...

Mê khoa học, mà chẳng hay chính mình là người “lỗi mốt” và lạc hậu về khoa học. Nhiều công trình chứng minh sự tồn tại của kho chứa mọi dữ liệu đời người đằng sau xác thân tạm bợ, và nhiều khoa học gia còn khẳng định về sự luân hồi đầu thai Phật đưa ra hoàn toàn có căn cứ. Tâm niệm tạo cảnh giới tốt xấu là hoàn toàn thuyết phục. Phật không biện chứng sao thấy được tám vạn bốn ngàn vi khuẩn trong nước. Hồi đó người đời không tin. Phật giảng kinh Hoa Nghiêm trong niệm (một dạng sóng), nghe vậy người người cho viễn vông. Nay khoa học bắt được sóng, sử dụng sóng khiến thế giới trở nên nhỏ hẹp. Niệm Phật cũng là sóng, còn là sóng cực mạnh, cực lợi dưỡng thân tâm. Niệm Phật tức “điện tín” gây dựng một chỗ náu vĩnh cửu sau kiếp này. Những dòng sau đây của Lama Anagarika Govinda, nguyên là giảng viên Triết học tại Đại học Naples: “Mantra hay Hồng danh Chư Phật, hay Hồng danh Phật A Di Đà, được niệm lên với tất cả sự thành kính, được niệm lên nhiều lần, được niệm lên qua năm tháng. Ngữ điệu, âm thanh,... là những dao động. Tần số Linh thiêng này, như một nguồn cưỡng bức điều hòa, làm cho Tần số của các Chuỗi tạo nên Cơ thể, Tần số của các Chuỗi tạo nên Tâm thức, tạo nên quá trình Tâm thức của Con Người là Thọ, Tưởng, Hành và Thức; hòa nhập cùng Tần số Linh thiêng. Hiện tượng Hòa Tần số xảy ra. Tạo nên sự hòa nhập Thân, Tâm với Vụ trụ. Phật tánh Hiển lộ, Niết bàn xuất hiện”. Trì danh hiệu Phật cầu sanh Cực Lạc quốc, lên đó sẽ có tất cả những gì ước muốn, lên đó sẽ chia hóa thân xuống trần gian cứu độ những người ta yêu thương. Niệm Phật ngoài thành tâm, yếu chỉ: niệm thầm hay ra tiếng tai đều nghe rõ "A Di Đà Phật". Trước lúc ngủ thử tập niệm 5 câu một lần không gián đoạn, xong một lượt liền quay lại niệm vòng khác, tâm buông lung chút đã biết quay về trụ ở câu Phật hiệu. Ai nói gì mặc, cứ nhẫn nhục và thầm cảm ơn họ đã tiêu bớt nghiệp cho mình. Đi đứng nằm ngồi, trước lúc ngủ, nửa đêm chợt tỉnh, sáng sớm mở mắt..., lúc nào cũng niệm Phật, nhớ Phật, nguyện được sanh về Tây phương nếu lỡ mạng chung.

Phật tuyệt nhiên không nói lời hư dối. Trần gian là biển khổ mênh mông, người không chịu bám vào chiếc phao Phật pháp, tất nhiên, càng bơi càng kiệt sức. Những là ngạ quỷ, ma, thiên nhân, những là Phật, Bồ tát; những là nhục nhãn không thấy đều thật. Cuộc đời đã đánh tráo khái niệm, nhồi sọ cái lý thuyết chỉ tin những gì mắt thấy tai nghe. Mà mắt phàm tôi nào thấy vi khuẩn?, và tai tôi nào có nghe diệu âm chân kinh từ ngàn năm vẫn hiện tồn trong không gian trùng trùng những nhiệm màu cảnh giới.

 

Sen nở giữa vườn hoa Phật pháp

Đạo Phật dùng hoa sen làm biểu pháp: sống trong bùn nhơ vẫn thanh sạch và nở những đóa tinh khôi nhất. Hoa sen là “quốc hoa” ở Tây phương Cực lạc. Kinh thuộc Tịnh độ tông đặc biệt miêu tả khung cảnh trang nghiêm tịnh khiết cõi này. Phật A Di Đà đưa ra lời đại nguyện, nếu ai tinh ròng niệm danh hiệu của Ngài tương lai sẽ được sanh về nước đó. Hễ ai phát tâm niệm Phật, trong ao sen báu ở Cực lạc quốc sẽ nở một bông hoa. Nhất hướng chuyên niệm nương vào lực của Thập thiện nghiệp, hoa sen càng lớn và rực rỡ; người tu đến lúc lâm chung, chí hướng “mười niệm” sau rốt liền được hóa sanh từ hoa sen, vĩnh viễn thoát khổ hưởng lạc, thoát luân hồi sáu cõi trừ phi người ấy phát nguyện trở lại Ta bà rộng độ chúng sanh.

Kinh Pháp Hoa chép câu chuyện về người tiều phu gieo nhân lành chỉ với một câu “Nam mô Phật”, mãi tới hơn năm trăm kiếp sau hạt giống này mới nẩy mầm và ông đã vượt thoát sanh tử. Câu hồng danh A Di Đà Phật được niệm bởi tín tâm và với sự thấu hiểu sâu sắc chánh Pháp, nó mãi là chủng tử dẫu người ấy trôi qua vô số kiếp. Cũng vậy, sen một khi vắng bặt hương và sắc màu sự sống, cội rễ tưởng tan trong bùn đất một ngày đẹp trời bỗng lại vươn lên những mầm xanh tươi bất diệt tại hồng trần.

Tết năm ngoái tôi về thăm ba mẹ. Quê đã vắng nhiều những mái nhà tranh. Về vội đi vội, không biết rằng quê mình đang dần hình thành một mái ấm viên mãn. Hôm nay có người bạn gọi điện, bảo tớ đang ở quê, về chơi cho vui, ta viếng chùa. Một ngôi chùa. Niềm vui dâng ngập. Cái tin khiến con tim tắc nghẹn, muốn ứa nước mắt. Nơi quê xa có ba mẹ, họ hàng, bà con lối xóm... những người ngày đêm tôi chỉ mong một điều duy nhất là ai cũng sẽ đến với Phật, sớm nhận chân Bể Khổ.

Quê nhà đang có một vườn hoa Phật pháp. Hoa nở rộ quanh năm không héo tàn như chính trong khu vườn ở Cực Lạc thế giới. Những bông hoa từ bi trí tuệ khiến tâm trở nên bình lặng trước dòng đời cuộn chảy. Tôi bỗng nhớ quê. Nhớ cái vùng chiêm trũng nghèo khó nay được khoác tấm áo mới. Quê đã bớt bao gia đình lầm lũi “ăn nước đái muối” vẫn không đủ tiền chu cấp cho con đến trường. Anh đầu tôi ngày xưa cũng nghỉ học đi buôn cùng ba mẹ chèo chống qua cơn bĩ cực. Nhiều bạn tôi nay thành đạt ngoài sức tưởng tượng. Có đứa sắm cả ô tô chạy quanh đường làng chật hẹp, cha mẹ nở mày nở mặt. Nào hay cuộc đời không gặp Phật pháp thảy đều phù vân. Thời xưa mắc bệnh đậu mùa là hết chữa. Người ta trầm trồ nhờ nền Y học phương Tây phát triển hóa giải nhiều căn bệnh nan y, mà không tự hỏi thời nay loài người đã khống chế được nhiều bệnh quái gở khác? Bao người từng đứng bên bờ vực chết, Y học loại khỏi danh sách chữa trị, họ chuyên tâm một lòng tin Phật niệm Phật chẳng những trở về từ cõi chết mà còn sống lâu sống khỏe. Tịnh tông khuyên người niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, thực hành suốt ngày đêm. Nếu lúc nào cũng nhớ niệm Phật thành tâm, người ấy tiêu tai miễn nạn. Phật luôn nhắc phải tin ở mình. Phải tin, chính mình là Phật chưa thành và sẽ thành. “Tâm tác tâm thị A Di Đà Phật” (Tâm này làm Phật, tâm này là Phật). Tin Phật trong mình là sự thật. Nhẹ nhàng với mọi thứ, không tham đắm không dính mắc, tập bớt nóng giận chấp trước phiền não, tập yêu thương mọi người và loài vật, Phật tánh mới có cơ duyên hé lộ.

Tin trong ta có Phật tánh, là tin Phật trên cao. Nếu chưa tin trong ta có Phật mà hướng lên cao lạy lục cầu xin ấy là mù quáng, là ảo tưởng hướng ngoại tìm cầu. Đạo Phật phải mang danh tôn giáo cũng chính bởi những người còn thiếu duyên như vậy. Cần phá bức tường kiếp trước kiếp sau. Khư khư giữ mỗi kiếp này, chúng ta nhìn đời dường như bất công. Nhân quả ba đời (không hẳn từ ông đến cháu, mà có khi ta gieo phước đời này mãi đến ba kiếp, có khi hằng chục hàng trăm kiếp sau mới nhận được ơn báo). Phật đưa ra những định giới đo lường một người tốt thật sự như Ngũ giới, Thập thiện. Ta lại thường nuông chiều bản năng nhảy khỏi khuôn vàng đó. Bậc Cao tăng Chinkung; người được nhiều đại học danh tiếng như Griffith, Queensland tặng 4 bằng Tiến sĩ Danh dự, lúc giảng kinh Địa Tạng có nêu tiêu chuẩn được thân người kiếp sau trước hết phải dựa vào phước thứ nhất trong Tam Phước trong Quán Kinh: “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập thiện nghiệpKhông làm được thì phước lớn đến mấy có ở đời này chỉ hưởng trong tam đồ ở kiếp sau. Trong một buổi giảng kinh Vô Lượng Thọ, Hòa thượng còn nhắc lại: Tu theo Thập thiện ít nhất đạt 80%, kiếp sau mới có được thân người. So với tiêu chuẩn Phật ví trong kinh, cánh cửa này hãy còn rộng. Thập ác đối nghịch với Thập thiện, gồm: sát sanh, trộm cắp, tà dâm (thân nghiệp), vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ (khẩu nghiệp), tham, sân, si (ý nghiệp). Trừ một giới không uống rượu, còn lại Thập thiện đã bao hàm Ngũ giới. Trong Tịnh tu tiệp yếu, cư sĩ Hạ Liên Cư (được xem là Bồ tát tái lai) soạn trên tinh thần kinh Vô Lượng Thọ, có đoạn dành cho người tu tụng đọc hàng ngày: “Vạn đức hồng danh năng diệt chúng tội. Quả năng nhất hướng chuyên niệm, tự nhiên cấu chướng tiêu trừ, bất đản đạo tâm thuần thục, thả khả phước huệ tăng trưởng, lâm mạng chung thời thánh chúng hiện tiền, từ bi gia hựu, linh tâm bất loạn, tiếp dẫn vãng sanh Tây phương Cực lạc thế giới”.

Trong Tam giới có Tam thiện đạo và Tam ác đạo. Chúng sanh trong Tam thiện đạo có ba hạng: thiên nhân, người và loài phi thiên nhân. Trong đời ai phước báu lớn lắm mới lên được cõi trời. Đứng ngoài khuôn khổ Thập thiện, dẫu phước lớn, chết rồi dễ đầu thai trong ác đạo chịu khổ luân phiên dễ hơn trở bàn tay. Kinh Pháp Cú viết Phật pháp bao giờ cũng khó nghe. Nên Lão Tử mới thấy "kẻ hạ sĩ nghe nói đến Đạo thì cả cười". Đạo thì đứa lên tám cũng nhớ cũng hiểu mà đến ông già tám mươi chưa chắc làm nổi. Phật luôn dạy hãy biết đứng về phía thiện giúp đời, một lòng cống hiến làm lợi chánh Pháp. Nhiều cuộc đời chỉ là một canh bạc đỏ đen bất tận. Đến lúc nợ nần chồng chất, ái biệt ly khổ, tuyệt đường máu mủ tìm đến cái chết hòng tránh nghiệp quả, không hay hành động ấy tội lãnh tương đương giết một sinh mạng. Qua bên kia mới sáng mắt, nhưng đã muộn! Người biết niệm Phật lạy Phật nghiệp đã không nặng đến vậy, ít ra nghiệp sẽ được chia thành từng gói nhỏ. Nhân duyên nghiệp báo quay vòng.

Là Bồ tát “đầu thai” xuống trần gian hóa độ, thì họ cũng với nghị lực phi thường nhẫn đến những điều người đời không thể nhẫn, khổ đến những điều khó ai vượt qua. Đó là “niềm cảm hứng” cho đời sau soi mình tinh tấn hành Pháp, gỡ khỏi xác thân thô uế danh văn lợi dưỡng. Cái tồn tại vĩnh viễn hết đời này qua đời khác sao ta không trân trọng lại chăm sóc cái tạm bợ? Thập ác làm tâm ô nhiễm nghiêm trọng; tâm bệnh thì thân bệnh. Phật lúc rời nhân gian có để lại Kinh điển - chính là dược liệu. Tôi đọc kinh không hiểu liền nghe giảng, nghe thấu rồi tập buông bỏ; ai từ bi hơn thì tự giác giác tha, xả kỷ vị nhân. Lời vị đại sư Tây Tạng Tsongkhapa: "Tinh thần lợi tha là thái độ thông minh nhất chúng ta có thể có được để đáp ứng toàn bộ nhu cầu của chính mình". Bớt chạy theo Ta bà, tâm dần bình lặng, còn lo gì đến thân bệnh? Ra ngoài Thập thiện tức ta không chịu uống thuốc đắng giã tật, ai uống thay ta cũng đâu lành bệnh. Phật muốn chúng ta tự ngộ, học rồi hành, tự khám phá linh tâm, tất cả đức tướng trí tuệ sẵn có trong ấy. Ngài Huệ Năng lúc chứng ngộ đã reo lên: "Nào ngờ tự tánh vốn trọn đủ"; khế hợp với kinh điển: “Phật do tâm sanh, tâm tùy Phật hiện, tâm ngoại vô cảnh, toàn Phật thị tâm”. Hướng ngoại tìm cầu chẳng khác khom lưng sửa bóng mình. "Con người không cần phải bận tâm lo lắng đến vận mệnh thế giới, vì đó không phải là vấn đề của hắn, mà chỉ lo giải quyết vấn đề riêng tư của chính mình, tức là vấn đề giải phóng, giải thoát”. (Henry Miller, Phạm Công Thiện dịch). Lục tổ Thiền tông nhắc nhở: “Bậc chân tu không thấy lỗi người”. Hành Thập thiện đến tâm sáng trưng mới có thể sửa người. Sửa mình, người tự khắc sẽ tốt. Sửa tâm đến cả những con sóng ngầm ý nghiệp cũng biết gục đầu sám hối thì Phật nào chẳng muốn xoa đầu thọ ký.

Ta cõng nghiệp từ muôn kiếp, muốn tiêu trừ không gì hơn niệm Phật lạy Phật. Một người hy sinh lợi ích của mình cho kẻ khác, có đáng cúi lạy?; còn Phật cứu khổ muôn loài trong Tam giới lẽ nào không xứng lễ lạy suốt đời. Cúi mình lễ Phật, cái ngã, cái tham sân và si mạn ắt nhẹ bớt. Thanh sạch lạy Phật niệm Phật; đêm nằm dứt hẳn mọi sự, quyết nắm câu “A Di Đà Phật” trôi vào giấc ngủ kỳ thôi. Từ đêm qua ngày từ ngày sang đêm ta quên tịnh niệm, lúc gặp ma chướng sẽ không còn nhớ Phật là ai. Tu để có được một cái chết thảnh thơi an lạc, cao hơn là được chúng thánh và Phật hiện thân tiếp dẫn chính là bảo vệ thành công mỹ mãn Luận án Cuộc đời. Chỉ từ một đến mười niệm lúc lâm chung, song có được phước báu vô lượng đó đòi hỏi phải trì niệm hồng danh và hành Thập thiện suốt đời không buông lung. Hành đến mức tự niệm, không khởi ý mà trong tâm cứ vang vang “A Di Đà Phật”, là thời khắc của cực lạc bắt đầu. Chợt nhớ Thái tử Tất Đạt Đa từ trong nhung lụa vương quyền nhận ra cái hữu hạn đời người liền buông trọn thế sự tu hành quyết ra khỏi Tam giới, chứng Vô thượng Bồ đề. Đi qua những ao sen cuối hạ, nhìn những đóa sen rụi tàn mới thấm “nỗi đau” của chư Phật Bồ tát nguyện vì chúng sanh mà trở lại bể khổ trầm luân...

 

Nhân mùa an cư

nghĩ về lòng từ bi với loài vật

Mùa an cư được gây dựng trên tinh thần “sống chung hòa hợp của chúng tăng tại một trú xứ”, “giúp tu sĩ trưởng thưởng về mặt tâm linh”, “tạo cơ hội để truyền chánh pháp”, “tránh giẫm đạp lên cây cỏ non, côn trùng”… Ngẫm về ý nghĩa mùa an cư cũng là ngẫm về lòng từ bi của Đức Phật trải rộng đến muôn loài.

Nhà tôi có một căn gác nhỏ, lợp bia-rô rất nóng, dành đựng đồ vật không thường dùng. Lần tôi lên tìm cuốn sách cũ, ngạc nhiên tột độ. Một cái ổ nhỏ xinh ngay thành cửa sổ, và hai chú chuột nằm gọn trong đó ngủ ngon lành. Tôi không muốn nhúc nhích, sợ chúng sẽ thức giấc vụt chạy. Lũ chuột thính tai thế mà không hay tôi đang đứng bên và có thể dùng thứ gì đó phương hại chúng. Tôi xuống kể lại câu chuyện này với người nhà, gọi chúng là đôi vợ chồng. Bẵng đi thời gian lâu, tôi quên luôn chuyện này, lên lại căn gác thấy cái ổ cũng biến đâu mất. Tôi không hề làm ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng, thật lạ là trong nhà chuột không sinh sôi thêm, không phá phách gì.

Một chuyện khác, từ người hàng xóm. Cô kể. Sáng ấy đi thể dục (đúng hơn là hành thiền niệm Phật), về đến nhà cô liền múc nước tưới vạt rau trước hiên chỉ vài mét vuông. Lạ. Sao thấy cụm đất cứ trồi lên hụp xuống như con gì đang thở. Lấy cái que khơi, giật mình, một con ba ba lớn bằng hai bàn tay. Điều đầu tiên là cô nhìn quanh, nhìn ra đường xem có ai không. Nhanh chóng, cô cho chú ba ba vào chậu bỏ trong nhà tắm. Rất hồi hộp. Cô đứng đường nghe ngóng. Thường mỗi sáng hai gia đình hàng xóm trước mặt nhà đều dậy quét dọn; cô ra nói chuyện nhằm dò xét có ai kêu mất con ba ba. Không. Đến trưa cô cũng dạo qua nhà họ uống nước, hỏi tình hình chợ búa thế nào, trưa nay có mua gì ngon? Không thấy ai nhắc đến con ba ba trị giá. Về, cô chững lại nhận định. Nhà cô nằm giữa mấy ngôi nhà liền kề đều tường cao; chỉ có hai nhà trước mặt là không, còn những nhà khác thì xa. Vậy con ba ba này từ đâu tới? Hay nó thoát ra khỏi quán nhậu ngoài quốc lộ, đã bò cật lực suốt đêm để làm một cuộc giải thoát ngoạn mục. Nhưng tại sao nó không tạt vào nhà nào, lại rẽ ngang vào nhà cô - vốn là một Phật tử thuần thành duy nhất ở xóm. Hay ngẫu nhiên nó bò vào đây; và đã được cô chủ âm thầm mang đi phóng sanh.

Dĩ nhiên con người không cần phải hiểu ngôn ngữ của loài vật mới hiểu chúng. Bồ tát thương loài vật như mẹ thương con. Phật xem hết thảy chúng sanh đều là quyến thuộc của mỗi người từ vô thỉ. Hại vật chính là hại quyến thuộc, là chưa hiểu chính mình cũng có Phật tánh đồng đẳng. Đức Phật luôn khuyên mọi người không hại vật và nếu có thể thì ăn chay để mở lượng từ bi vốn sẵn trong chân tâm bổn tánh.

Lạm bàn vào vấn đề ăn chay, thiết nghĩ chúng ta cần giải quyết mối tương quan giữa Con Người và Con Vật. Người là động vật bậc cao, vật là động vật bậc thấp. Giữa hai loài này khác trước hết ở chữ “cao” và “thấp” song đều là động vật, không nên tàn hại nhau. Con vật do trí óc kém phát triển, sống theo bản năng tăm tối là điều dễ hiểu. Con người với trí thông minh vượt trội, lại có quá nhiều người sống dựa vào bản năng nên tâm tánh dễ nổi sân, tham và kiêu mạn.

Đức Phật không bảo người tu tại gia phải tuyệt đối ăn chay, mà trước hết khuyên nên ăn theo Tam tịnh nhục: ăn thịt của con vật khi không giết nó, không thấy nó bị giết và không nghe tiếng nó kêu cứu khi bị giết. Tuy nhiên nếu một lòng hướng về Phật, một lòng nguyện được về cõi thuần Tịnh thân cận cùng mười phương chư Phật thì việc ăn chay rất cần thiết. Trường trai sức khỏe có đảm bảo? Khoa học chứng minh ăn mặn sức khỏe tăng nhanh so với ăn chay, song mầm bệnh nhiều hơn ăn chay gấp bội; ăn chay dẻo giai và ít bệnh. Xét về nghiệp lực: ăn mặn trái với đạo, ăn chay ngược lại. Ấy là chưa bàn đến vấn đề ý niệm: ăn chay đạm bạc với tâm vui vẻ thì thức ăn ấy là thuốc dưỡng sinh. Trước mặt đủ sơn hào hải vị, ta ăn với tâm tham sân chúng sẽ tiết độc tố. Dễ hiểu hơn, ai thực hành viên mãn Thập thiện, chỉ vài cọng rau cũng khỏe. Những người vừa nhai cơm vừa thầm niệm Phật, thức ăn sẽ thành bổ dưỡng, mọi tế bào trên thân nhận sóng âm từ bi này sẽ tự chuyển hóa. Thường niệm “A Di Đà Phật” sẽ đẩy lùi vọng tưởngChấp trướclớn nhất là xem thân này đồng với ta (thật ra chỉ là “của ta” như áo quần), từ đó không tin nhân quả. Phân biệt lớn nhất là cho con người thuộc hàng tối cao trong trời đất. Từ đó xem thường, đối xử tàn tệ với loài vật mà không hay trong các đời quá khứ chúng ta cũng từng khoác vô số thân các loài khác nhau.

Con người hơn loài vật nhưng không thể tự thân sống dưới nước và bay trên bầu trời. Thừa nhận người cao hơn người cốt nơi trái tim chứ không ở cái đầu, nhưng người lại phủ nhận tình thương vô hạn của vật. Bởi chúng cũng trào nước mắt lúc bị lôi vào các lò mổ; chúng cũng xả thân cứu người; chúng cũng đứt ruột mà chết khi nhìn con bị sát hại... Việc các nhà ngoại cảm nhìn thấy người chết sau bao nhiêu năm vẫn còn ở ngoài mồ, đã khiến nhiều người hoài nghi về luân hồi. Các vị Bồ tát ứng thân từng dạy: Con người không tu tập, lúc mất đều theo nghiệp lực kéo vào lục đạo; việc họ còn ngoài mồ chỉ là tác dụng của “cái bóng” thần thức, không phản ánh đúng cảnh giới xấu họ đang phải chịu nhận. Công phu tu tập của hành giả thể hiện ở lượng từ bi rộng hẹp. Theo tinh thần kinh điển: vạn vật đều cùng một tự tánh câu thông khắp hư không trọn pháp giới. Tổn người hại vật chính là hại mình.

Bàn về ăn chay, là cũ lắm. Bàn thêm là bởi từ sát sinh (dẫu là bất khả kháng) đi tới ăn chay, “sự kiện” đó, theo cách nói của văn hào David Thoreau, can dự một cách quan trọng vào vấn đề vận số của con người. Quá nhiều công trình khoa học chứng minh sự khác nhau giữa loài người và loài vật. Và để thật sự phân chia đẳng cấp vượt trội của mình, họ phán loài vật không có tư duy, không có ngôn ngữ. Suy nghĩ đơn giản: loài người ở nhiều nơi trên thế giới, khi mới xuất hiện cũng “không có” ngôn ngữ, chưa hoàn thiện ngôn ngữ mà phải dùng ký hiệu hoặc nút thắt ghi sự kiện, tháng ngày. Loài cá hồi cứ 5 năm một lần, bất kể đang ở nơi đâu trên đại dương, đã dùng tín hiệu cùng nhau lũ lượt hành hương về nơi chúng sinh ra, bất chấp chặng đường dài và khi đến nơi số lượng sống sót quá ít ỏi. Lũ chó nghe được động đất rồi nháo nhào sủa trước cả máy dò tín hiệu, trước những phát minh ưu việt của con người. Có loài tinh tinh, phân tích cho thấy giống đến 99% so với con người. 1% đó có cách lý giải nào khác do “quy định” của nghiệp? Trong một tác phẩm xuất sắc về chiến tranh ở Việt Nam, tác giả mô tả cảnh con vật khi bị cạo long, bầu vú “hiện ra” y hệt phụ nữ. Trên mặt báo cũng từng đưa tin về người thợ săn sắp bóp cò, điều bất ngờ xảy ra: con khỉ mẹ quay mình che chở cho con. Khỉ, loài chúng ta vẫn thường gọi tổ tiên của người (đến nay sau bao nhiêu quá trình tiến hóa vẫn chưa rụng đuôi), hễ chủ quán cầm dao làm thịt liền quỳ xuống lạy xin tha mạng. Nhiều con trâu mới chỉ được dắt đến buộc ngoài lò mổ, mắt chúng đỏ ngầu nước mắt. Những con ếch và chàng hương ở các quán nhậu bị đè lên thớt đã cố dùng hai chân trước trì lại, trụt cổ vì chúng biết lưỡi dao đang lia xuống. Những con chó lạc chủ, sau mười năm gặp lại vẫy đuôi rối rít vui mừng được “tái ngộ”. Con chó khác khi chủ mất, liền tuyệt thực lên mộ nằm đến chết! Lại có con nghe sắp bị bán liền vào “khóc” trước chủ ngầm xin giữ lại. Nhiều con mèo nằm trên mái nghe chủ bàn với khách mai làm món nhậu, liền biến mất tăm. Ngược lại, là con người, anh em ruột thịt vẫn xách dao chém giết nhau. Con ngược đãi bố mẹ như với tù nhân. Thêm một chuyện thật một trăm phần trăm: cha đẻ ép quan hệ con gái trong thời gian dài mới bị vợ phát giác. Rồi những con người đường bệ ăn mặc gọn gàng, miệng dùng toàn mỹ từ đạo đức, song luôn có những hành động “bậc thầy” của loài vật, những chiêu thức mà loài vật (do chưa được công nhận là có ngôn ngữ) chưa nghĩ ra. Loài vật ăn thịt theo bản năng của cái đói. Còn động vật bậc cao, lịch sử còn ghi vết nhơ của toán quân mổ người làm thức ăn kiểu như đoạn được mô tả ở truyện Thủy Hử, Tam Quốc. Ở một góc nào đó của thế giới chúng ta không cần biết địa chỉ rõ ràng, từng có nhà hàng phục vụ món lẩu bào thai trẻ em. Thánh Mohanda Gandhi dạy: “Chúng ta không nên sai lầm chạy theo lối sống của các loài thú nếu tự coi mình cao thượng hơn chúng”.

Và thật nhiều những di ngôn thánh thiện, như của văn hào Nobel năm 1978 Isaac Bashivis Singer, Léon Toltoi, thi hào Percy Bysshe Shelley; kịch tác gia Bernard Shaw Nobel văn học năm 1925, trước cơn thập tử nhất sinh vẫn quyết ăn chay. Bài thơ "Những ngôi mộ sống" của ông lan truyền khắp thế giới: “Trước Trời Phật, trên nấm mộ sinh sát/ Của muôn loài vô tội ta cầu xin/ Ban ơn lành, khi Luật Đạo Đức kia/ Ta xé nát mà không hề thương tiếc/ Và như thế ta gieo nhân tội ác/ Của Chiến Tranh cho nhân loại toàn cầu”. Rất nhiều lời khuyên từ những công trình khoa học uy tín nằm trong chương trình phát triển của xã hội người trên thế giới, rằng ăn thịt là một sai lầm nghiêm trọng. Theo sách Zen và dưỡng sinh: “Ăn thịt cá nhiều quá tánh tình trở thành ồn ào, tâm trạng rất tầm thường”. Có một công trình so sánh giữa ly sữa động vật với ly sữa đậu nành, hàm lượng dinh dưỡng của ly sữa đậu nành (mà nhu cầu cơ thể cần) gấp ba lần ly sữa động vật. Mặt khác lúc con vật bị giết, nỗi sợ hãi tột cùng khiến chúng tiết ra một loại độc. Hơn thế hầu hết thịt đến tay người tiêu dùng có khi lên tới 6 tháng, chưa kể tẩm hóa chất duy trì sự tươi. Chúng ta tới nhà thương, thấy người người quằn quại kêu van, chúng ta chỉ xót xa trên bề mặt cảm xúc, chứ đâu có đau như họ; chỉ những bậc đắc đạo mới cảm nhận nguyên vẹn nỗi đau của người bệnh. Người Việt đa phần nuôi chó. Có chú chó được tắm rửa hàng ngày bằng xà bông thơm, được ngủ giường nệm với chủ, được ăn uống sung sướng hơn một công chức trung lưu, ốm đau có thú y. Chó ta một ngày bị bắt, người chủ khóc sưng húp mắt. Thương tận đáy lòng. Trong xã hội còn rất nhiều con chó được chủ thương như vậy. Chó chết, chủ khóc lóc rồi chôn cất tử tế. Nhưng rồi họ vẫn đến quán “Cờ Tây”. Dẫu, họ sẽ không ăn thịt con chó cưng của mình nếu nó vô tình bị ai đó giết thịt. Nhưng họ sẽ ăn thịt những con chó (cưng) khác của những người chủ thương chó khác. Chưa bàn đến chuyện, những con chó bị phanh thây trong các quán cầy hầu hết đói khổ, ghẻ lở bên thềm lạnh. Chúng nhẽ ra đáng thương hơn những con chó cưng, cần được cứu vớt hơn. Chó là loài vật gần gũi nhất với người; lúc đánh nó lẽ ra ta phải đặt câu hỏi: A, chó cũng biết đau? Nó cũng đau như người. Vậy, khi chúng ta nện búa vào đầu chó để làm món cầy hoặc treo lên chọc tiết, chó giãy giụa chết từ từ, liệu nó có đau đớn từ từ không? Câu trả lời khó quá, phải cần một công trình khoa học để chứng minh sự đau đó (!). Rồi cắt tiết gà, lột da rắn, đánh toát mồ hôi loài dê, cột trâu đâm đến chết... tất thảy cần phải được khoa học chứng minh sự đau?? Phật từng khuyên: “Hết thảy chúng sinh đều sợ hình phạt, sợ tử vong và đều yêu quý mạng sống; hãy lấy mình làm ví dụ để không giết hại hay khiến người khác giết hại”.

Nhiều người còn lấy nỗi đau của vật làm thú vui. Khỉ, bịt miệng cạo trọc đầu, trói dưới một cái bàn, chỉ lồi cái “đầu hói” lên trên. Lưỡi dao sắc bén lia ngang, “éo!”. Khỉ nhắm mắt, và nhắm mắt vĩnh viễn dưới bàn, còn trên bàn nhậu hả hê tay muỗn tay nĩa múc óc còn nóng ăn trong niềm phấn khích. Con khỉ sắp bị giết quỳ lạy, đồ tể cầm dao chỉ chỏ: xem kìa, mọi người đến xem con khỉ lạy hay chưa kìa... Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 phát biểu trong Ngày Từ Bi Thế giới năm 2013: “Tôi không phải là người ăn chay cho đến khoảng năm thập kỷ trước, nhưng khi tôi nhìn thấy con gà mái bị hành hạ trong một trại nuôi động vật, tôi quyết định trở thành người ăn chay". Một người trong tổ chức bảo vệ ngược đãi thú vật đưa ra sáng kiến, mọi lò mổ giết gia súc nên che kính, để mọi người ngang qua thấy cảnh giết rùng rợn đó, khởi bi thương mà bớt hại vật. Nghĩ ngược lại, không khéo người kéo tới vòng trong vòng ngoài xem cảnh máu me. Tệ nhất là trẻ em chưa nhận thức đầy đủ sẽ hân hoan trước những cú giật điện hàng loạt trâu bò lợn đổ nhào xuống như loài không xương, hay cảnh một người lực lưỡng giơ cao búa tạ nện xuống đầu trâu, nó gục, đầu lắc lư, quài hai chân trước đứng dậy lưng chừng thì, nhát búa thứ hai giáng xuống, mắt tóe ra... Riêng về trường hợp như nhà vô địch quần vợt Peter Burwash là hiếm: “Khi tôi rời khỏi lò sát sanh, sự tội nghiệp đã giày vò lương tâm. Tôi thầm nhủ sẽ không bao giờ có đủ can đảm đi sát hại một con vật dù lớn dù nhỏ. Tôi hiểu rằng có những nhân vật lỗi lạc trên thế giới họp nhau để bàn cãi về các vấn đề vật lý, kinh tế và môi trường. Cũng có một số người tán đồng với chủ thuyết ăn chay. Song điều làm cho tôi chọn lấy con đường chay lạt không phải chạy theo chủ thuyết này hay chạy theo chủ thuyết nọ mà chính vì những cảnh dã man mà con người đã đối xử một cách tồi tệ với các loài vật không phương tự vệ”. Việc thi thoảng truyền hình tìm ra một vài trường hợp không cần ăn uống vẫn sống khỏe mạnh, đấy chẳng có gì lạ. Những người không ăn vẫn sống rất nhiều trên dãy Himalaya, ở trong các hang động mà họ tự bịt cửa tu luyện. Năng lượng tâm linh còn có thể hiểu là “thức ăn”, những người tu đạt tầng cao cảnh giới đều sử dụng được loại năng lượng sạch ấy. Khoa học thường đưa ra một menu thức ăn, trong mỗi bữa phải thịt này cá này đầy đủ dinh dưỡng. Nếu vậy chỉ cần đưa ra vài trường hợp trường chay đạm bạc rau cỏ cũng đủ bỏ qua công trình dinh dưỡng trên. Nhà Nobel vật lý năm 1921 Albert Einstein nhắn gửi: “Không gì có lợi cho sức khỏe của con người để có cơ hội sống lâu trên quả địa cầu này bằng cách ăn chay”. Với người tu, chỉ vì sức khỏe mà ăn chay, chưa phải chân tu.

Nhân vật chương trình Phật Pháp Nhiệm Mầu kỳ 31 tại chùa Hoằng Pháp là Phật tử Nhật Trung, người vô cùng sáng tạo trong việc kinh doanh các món nhậu tươi sống cho những vị khách thích khoái lạc được tận mắt chứng kiến con vật bị giết trước khi ăn. Vốn chưa từng biết ghê tay, bản thân cũng là một kẻ “khát” cảm giác tra tấn, hành hạ các con vật để thỏa mãn hiếu kỳ, Nhật Trung tạo rất nhiều cách giết: trói khỉ vạt đầu lấy óc tại chỗ; rưới từng gáo nước sôi lên mèo để lông tự bung mà không cần nhổ; trói bò chặt đuôi (ăn thân thể con vật khi còn sống), v.v. Quả báo hiện tiền: trong 2 năm 6 người thân trong gia đình chết bất đắc kỳ tử; bản thân anh đau đầu dữ dội, luôn phải đập vào tường cho đỡ, người nổi ngứa mọc từng vảy sừng có hình con vật lạ, con gái ốm yếu, vàng vọt, mọc lông ở lưng. Cũng may, nhờ căn lành nhiều đời, Nhật Trung đã gặp nhiều thiện tri thức, đặc biệt được đại đức Thích Thiện Thanh khai ngộ. Chuyện tương tự vô vàn, kể xuyên đêm thấu sáng chẳng hết. Người trực tiếp giết hại động vật gánh nghiệp nặng đến nhường ấy, người ăn thịt sao không chịu phần trăm cho được. Quy luật vũ trụ vốn phân minh. Có tòa nhà sụp đổ lúc hàng trăm ngàn người đang làm việc, vẫn có người được Nghiệp “lập trình” cho sống. Một người giàu có lịch thiệp, buổi chợ nọ dẫn đầu bếp theo, chỉ mua con này con kia còn giẫy, xong trả tiền phủi tay. Về giao đầu bếp làm thịt rồi lên giũa móng, nghĩ mình không sát sinh? Nghiệp lãnh từ con vật bị giết, phần lớn người chủ gánh. Người ăn thịt thường mang trong mình nghiệp nặng, nhất là về cuối đời khi phước hao tổn, cạn kiệt. Nghiệp ấy sẽ “cản trở” những điều may mắn lẽ ra đáng được hưởng, sẽ “điều khiển” họ nhảy vào những cuộc chơi vô bổ, những cuộc “thăng hoa” mà hậu họa rõ nét nhất là bệnh, tâm lạnh lùng vô cảm trước nỗi đau của loài vật và của loài người.

Đạo Jainism được thành lập hơn 2000 năm do Mahavira, một vị hoàng tử từ bỏ cung vàng điện ngọc vào rừng tu hành và đắc đạo; giáo lý: mở rộng lòng thương (Ahimsa). Ahimsa dạy các tín đồ phái này không được sát sinh, không ăn thịt cá và ngay trong nhà cũng không được chứa một thứ gì do sự giết chóc. Các giáo sĩ đạo Jain mặc toàn đồ trắng trên mặt bịt một miếng vải thưa chừa đôi mắt, để tránh loài ruồi, muỗi khỏi bay lọt vào mũi, miệng. Không những thế, các giáo sĩ đạo Jain mỗi năm phải nhập nhất một lần trong suốt ba tháng hè vì thời gian đó côn trùng sinh sản nhiều sợ giẫm lên chúng. Đạo Phật nguyên sơ không cấm ăn mặn. Nhưng việc đó “tiếp tay” cho sự giết hại sinh linh, nên ăn chay đã sớm trở thành ước nguyện trọn đời của người tu. Người trần có ý hướng đến cõi thuần tịnh ngoài việc tự nguyện ăn chay tùy thời điểm, còn lại chủ yếu ăn chay ngày mồng một và ngày rằm. Chỉ hai ngày trong tháng song là việc khó. Nhiều gia đình tang gia húy kỵ dọn chay, đến giờ mời cơm thì vắng tanh, người được mời về quá nửa, hoặc ngồi vung đũa sơ sài sợ mất lòng khổ chủ. Ăn chay là nghĩa cử, là thực hành một việc tốt; ăn trong trạng thái bực bội coi rẻ đồ chay, tâm vọng động thịt cá là mắc tội. Nếu hiểu lâu lâu “đổi món” là ăn chay, thì những người nông dân nghèo khổ ở các vùng quê hẻo lánh, là “trường chay” đáng nể. Một người bạn ở Hà Nội, bảo ở ngoài này quán chay hiếm. Chay là đặc sản. Người ta ăn chay như một thú vui, lạ miệng. Để biết ăn chay, việc tốt này không dễ hành. Đức Gôtama một lần ngang qua khu rừng, thấy mẹ con nhà hổ đói quá, nảy sinh ý nghĩ hiến thân để chúng qua bữa. Có những việc nguyên gốc đúng, thì nay, do sự “phát triển” của xã hội nên thành sai. Ăn chay nay người đời cho là thiếu khoa học. Trong Kinh Lăng già, Đức Phật “quan sát thấy tất cả thịt mà chúng sanh ăn đều là thịt người thân của họ”. Với tôi tập ăn chay là đang tự nhắc nhở: Tôi, đồng nghĩa với loài vật.

 

Ngôi chùa niệm Phật

Mỗi lần về phố cổ Bao Vinh thăm chùa Thiên Giang, cảm tưởng như được trở về mái nhà xưa thân thương nghỉ tạm để tiếp thêm nghị lực hướng về cõi Tịnh.

Thiên Giang tự xem như dấu son trên hình hài phố cổ. Cuốc bộ dọc phố cổ, lội vào chợ rồi trở ra trước bến đò ngang cũ nay chỉ còn trong trong ký ức của mấy người già luôn ngồi sâu trong những ngôi nhà rường cổ kính. Những ngôi nhà ngủ sớm. Hơn chín giờ phố đã vắng; còn chăng là mấy người đàn ông sau khóa niệm Phật ở lại nhâm nhi trà nói chuyện đạo Pháp. Ngày chưa có cầu, người dân làng Hải Dương cách mười lăm cây số, khổ hơn là lụi hụi qua đò Ca Cút, mưa gió cũng đến bằng được ngôi chùa đặc biệt này niệm Phật đều đặn. Câu đối ghi trên một trụ biểu chùa: “Nam hải liên hoa cửu phẩm hương/ Tây phương lục trúc thiên niên thúy”. Tây phương là cõi Cực lạc lại gắn với lục trúc (loài cây ở cõi trần). Còn Nam hải (ngụ ý Ta bà) lại gắn với liên hoa (“quốc hoa” ở Tịnh độ). Câu đối có thể hiểu theo hướng khác, song thiết nghĩ tác giả muốn gửi gắm cái triết lý: cõi Phật và cõi Trần đều “Phàm thánh đồng cư”, khác ở tâm người tịnh hay nhiễm. Một vị tổ sư thí dụ sâu sắc: trăng tượng trưng cho Phật/Pháp, Tâm tượng trưng cho nước. Hễ đâu có nước sẽ hiện trăng. Nhưng nếu tâm vọng động (nước ấy không trong lặng), trăng nhấp nhóa mờ nhòa. Tâm càng trong trăng càng hiện rõ.

Thiên Giang tự nguyên là một thảo am. Rồi thành chùa làng. Dấu hiệu rõ nhất ở việc vừa thờ Phật (bức hoành bên phải từ trong chùa nhìn ra: Từ hàng tế độ) vừa thờ những con người phi phàm hoặc có công với nước (thể hiện qua bức hoành bên trái Thiên cổ vĩ nhân). Vóc dáng Thiên Giang tự mang kiến trúc thời Lý Trần. Trong chùa còn bức tượng Phật bằng đất nung với khuôn mặt rất thuần Việt. Bên phải chùa có miếu Thành hoàng, bên trái là miếu Âm linh. Tích truyền, một ngày vua Tự Đức dong thuyền rong chơi, gặp mưa nên ghé chùa trú, và đặt tên chùa là Thiên Giang. Điều này có lý bởi thời vua chúa, nếu không là bậc đế vương mấy ai dám đặt tên sự vật gắn với chữ “Thiên”. Ba chữ “Thiên Giang Tự” được khắc nổi ở chuông. Chuông không lớn, âm thanh trong và vang. Một số người cao tuổi vẫn truyền lại câu chuyện, rằng chuông do thứ phi của vua Quang Trung là bà Lê Hữu Tí dâng tặng. Gặp cảnh vua Gia Long quét sạch những gì còn vương lại từ tiền triều, chuông được dân làng chôn giấu, mãi sau này mới đào lên… Có lẽ người dân quá quý trọng vị anh hùng áo vải nên phần nào thêu dệt, chứ thực ra trên chuông ghi rõ “Gia Long nhị niên, trọng thu nguyệt, nhị thập tam nhật” (Gia Long năm thứ 2 - 1803, ngày 23 tháng trọng thu”, và còn khắc tên một số công tử nữa.

Chùa quay mặt về hướng đông. Vào sáng có cây bồ đề và cây sứ đỏ tỏa bóng xanh mát. Chiều về gió từ mặt sông lùa vào, mặt trời lấp lóa từ phía sau tạo nên một không gian trầm lặng yên bình. Chùa gần chợ mà không đông, không nhiễm “văn minh” chợ. Dân quanh đây nhiều người hướng Phật, ý tứ giữ gìn nên qua bao nhiêu năm chùa “vẫn thế”. Cuộc sống có thể phát triển, từ cơ sở hạ tầng đến văn hóa lai tây tàu nhưng lối tu tập của người Phật tử vẫn cứ tối lại có vài ba chục người đủ giai tầng đến chùa niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Trí thức có, tiểu thương, người khuyết tật có, đến chùa không phân biệt giàu nghèo gần xa đều gắng nhiếp tâm. Văn bản của làng ghi rõ: Chỉ mở cửa chùa niệm Phật. Điều này cũng gần giống với tinh thần của Ấn tổ Tịnh độ tông: đạo tràng khoảng vài chục người, mỗi một việc niệm Phật cầu sanh Cực Lạc; tứ chúng cúng dường thì dùng tiền đó in kinh sách. Vào ngày vía Phật Di Đà, có hành giả Việt kiều gửi tiền, áo quần giúp con em học sinh của Gia đình Phật tử. Người trong đạo tràng đặt lệ “hũ gạo tiết kiệm”, cuối tháng góp chung tại chùa hỗ trợ người nghèo. Bên cạnh chút ít vật chất, điều quan trọng là hàng ngày mỗi người Phật tử đều nhớ đến người nghèo hơn mình; mỗi lần sớt lại nắm gạo chính là khơi dậy lòng từ bi sâu thẳm.

Khi sương còn giăng phủ, người ngủ ở chùa đánh chuông lúc chuyến đò ngang đầu tiên vừa cập bến. Ai cũng có thể ghé chùa, chánh niệm uống trà ngẫm về cõi đời ngắn ngủi trước vũ trụ bao la. Một đêm trăng treo trước cửa chùa, mấy người sau thời khóa công phu quây lại bên hiên chánh điện luận bàn đạo pháp. Ông trưởng ban hộ tự ngoài tám mươi vẫn bảo nếu có ốm đau cũng gắng đến chùa niệm Phật. Làm gợi nhớ đến ni sư Đạo Chứng, nguyện thà lễ Phật mà chết còn hơn chết ở trên giường.

Hơn mười năm trước chùa Thiên Giang đóng cửa thường niên ngoại trừ dịp tế miếu Âm linh và Thành hoàng làng, (hai ngôi miếu nhỏ nối ngay cạnh chùa theo tín ngưỡng dân gian xưa). Một số cư sĩ nhiệt tâm đã vận động làng cho mở cửa chùa khuyến chúng tu tập. Biên bản được ký giữa ba bên gồm Ban Hộ tự, Ban Quản lý làng và chính quyền xã; có những điều khá quan trọng như: không điệp sớ, không xem ngày bói toán, không đốt giấy tiền vàng mã. Từ chục năm nay chuyện đó không một lần xảy ra. Nhiều nhà hảo tâm cúng dường cái này cái khác muốn được đốt vàng mã, đã bị từ chối. Đây là điều kiện căn cốt, nhờ đó phá được nạn mê tín dị đoan, cầu phước mua may. Chùa lâu ngày đóng cửa, không gian ẩm thấp bề bộn, dơi vô số ẩn cư trong chánh điện, bên ngoài thì cỏ mọc um tùm. Thời gian đầu sợ người vô ra rắn cắn, Ban Hộ tự thay nhau đến làm cỏ mãi mới xong, rồi dựng lại tường rào. Sau này được thân nhân các thành viên trong đạo tràng hỗ trợ, chùa xây hậu liêu, thuận tiện cho phục vụ khách khứa vào dịp lễ trọng. Tiếp đến có người cúng tôn tượng Quán Thế Âm Bồ Tát khiến bộ mặt chùa khang trang hơn. Đa phần Phật tử mỗi lúc vào chùa đều lễ Bồ Tát như một bà mẹ nhân từ luôn chở che những chúng sanh một lòng hướng Phật lúc hoạn nạn. Chùa đêm nào cũng niệm Phật, kể cả tối giao thừa. Ban Hộ tự hầu hết đều có thể thỉnh chuông, đưa mõ. Có dạo họ còn thay nhau đánh chuông u minh lúc 4 giờ sáng. Có người dẫu đường xa, lạnh lùng rét mướt vẫn kiên nhẫn đến chùa, vì họ biết một khi tiếng chuông vang lên cùng với câu Phật hiệu, biết bao nhiêu chúng sanh chờ nương vào giảm bớt nỗi khổ trần lao. Tầm 3 giờ sáng đã có người tới nấu nước chế trà, nhấp ly trà cho tỉnh táo rồi vào thời khóa. Tiếng chuông hòa cùng tiếng mõ âm vang cho đến lúc mờ sáng, hiện rõ chuyến đò ngang đầu tiên, rồi mặt trời loang trên sông phố cổ; mùa thu thì khói sóng phủ mờ u huyền tịch tĩnh.

Ban Hộ tự thấu hiểu pháp môn Tịnh độ vi diệu, chung ý nguyện với làng: chỉ mở cửa chùa niệm Phật, ngoài ra không tu xen tạp gì thêm. Chuyên tinh mới có tấn. Tin Phật, niệm Phật là nguyên cớ duy nhất để đạo tràng tồn tại. Chùa chưa nghỉ tối nào. Có chăng những hôm đám tang mời trợ niệm, mọi người đến thẳng nhà đám niệm Phật, thời gian cũng tương đương với khóa ở chùa. Lễ khá đơn giản trong dăm mười phút, toàn bộ thời gian dành niệm Phật. Xem đây là dịp gieo duyên lành, trợ giúp tang gia song trước hết là giúp mình, Ban Hộ tự không nhận lễ vật từ khổ chủ. Với tấm lòng thành, cầu mong hương linh sớm cảnh tỉnh hướng cõi thiện, những người đến hộ niệm tinh tấn niệm Phật có khi còn nhất tâm hơn ở chùa. Vào các ngày lễ lớn, Ban Hộ tự cùng nhau dựng đài sen, trang trí từ trong chùa ra ngoài khuôn viên, tăng tín tâm với những ai đến chùa. Lễ Vu lan Báo hiếu có năm được sự cúng dường của những đạo hữu, chùa tổ chức phóng sanh, thuê thuyền rồng đưa đạo tràng từ bến đò Bao Vinh ngược lên Ngả ba Sình, trên dọc hành trình vẫn có thời khóa niệm Phật gần một giờ râm ran cả lòng sông, rồi thả hoa đăng, cầu nguyện bình an, kết thúc bằng lời ca Phật hiệu về đến ngôi Tam bảo.

Bắt đầu từ tháng 9 âm lịch năm 2013, chùa ấn định ngày vía Phật Di Đà (17 - 11) mời quý Phật tử mọi nơi cùng về niệm Phật trọn ngày. Ý tưởng xuất phát từ đôi vợ chồng; họ cúng dường suất ăn trưa cho mọi người đến dự khóa. Buổi sáng 8 giờ là bắt đầu thời thứ nhất khoảng một tiếng, thời thứ hai ít hơn, rồi dùng bữa, nghỉ ngơi, 1 giờ đến 3 giờ 30 thêm hai thời nữa, là kết thúc ngày chuyên niệm Nam mô A Di Đà Phật. Buổi tối vẫn như thường lệ; như vậy để nhớ ân Đức Từ Phụ cõi nước Cực Lạc, ngày 17 hàng tháng có 5 thời niệm Phật. Người sát nách chùa, người ở xa được con cháu chở đến, ai không có phương tiện thì bỏ tiền thuê xe thồ, người nghèo hơn lọ mọ cuốc bộ, đường xa thậm chí chưa kịp ăn cơm tối. Phật tử từ làng Hải Dương cách chùa mười lăm cây số mươi người góp tiền thuê xe ô tô cùng lên. Một số người khác bỏ công sức chạy xe tới chùa niệm Phật vào các ngày rằm, mồng một. Những đêm rét mướt, trong làng cùng lúc có nhiều đám, đạo tràng cần nhân lực, người ở xa không quản khổ lên chùa lo Phật sự, lúc về lầm lũi khuya khoắt đường mưa trơn trượt, cứ một lòng nắm vững câu Phật hiệu mà đi… 

-----------------o00-----------------

 

SỰC NHỚ QUÊ HƯƠNG LÀ CỰC LẠC

- Nhụy Nguyên -

MỤC LỤC

1. Nghĩ về nghiệp khi thân còn nặng nghiệp

2. Mê ở Ta Bà, sực nhớ quê hương là Cực Lạc

3. Phá giới, phá chấp và phá kiến

4. Những bước chân quá khổ

5. Đầu năm hướng về Tam bảo

6. Hoài nghi lời Phật, hành giả đi về đâu?

7. Con khỉ lại thức trong mỗi giấc thiền

8. Phía trước là hố thẳm…

Phật pháp là đại dương. Tôi chỉ có một vốc nước soi khuôn mặt nhớp nháp của mình. Phóng con tàu hạnh nghiệp quá sớm lúc chưa đủ sức đuổi theo; những dòng thô mộc trong cuốn sách nhỏ này âu là cóp nhặt từ luận giải của Tổ sư Cao tăng Đại đức và bậc Thiện tri thức, cúi mong quý bạn đọc nhận ở tôi lời xin lỗi và sám hối chân thành.

                                                        

 

Nghĩ về nghiệp khi thân còn nặng nghiệp

Hỏi thế gian bao người gặp được Phật pháp, để hiểu cuộc đời vốn tràn ngập những đau khổ không thể tránh ngoại trừ dụng tâm lực và trí tuệ tiếp nhận ở một phương diện bình thản nhất. Thân người quá hiếm hoi có lại, đời người mong manh nay sống mai chết và chết rồi ta có nguy cơ rơi vào cõi khổ trăm vạn lần. Đời người là sự chi phối gần như toàn triệt của nhân quả nghiệp báo và chết không phải hết trong nghĩa luân hồi vốn dĩ thường hằng dẫu chúng ta có tin hay không. Ta ăn uống đúng, nói đúng, trải tình cảm đến mọi người đó mới là cách hưởng thụ chân chính. Ta gặp được Pháp là gặp chân lý, là hưởng thụ chân chính. Phật luôn dạy thọ mạng và danh vị tiền tài ta có hôm nay đều từ phước chủ yếu gieo từ kiếp trước. Phước như dầu trong đèn; một khi phước vơi tức thọ mạng lâm nguy. Những người vướng bệnh hiểm mà cứu được chính nhờ họ “bất chợt” tin điều này; trước án-luật-vô-tình, họ nỗ lực tích phước, nỗ lực sám hối những bất thiện, đặc biệt trong ý nghĩ từng vướng mắc, ác cảm với người; cho đến khi tự thấy mình yêu thương người kể cả loài vật vốn yếu đuối nhỏ bé sẽ khiến phước tăng, dầu được chêm để đèn tiếp tục sáng. Những trường hợp chữa lành ung thư nhờ chuyển đổi ý niệm, nhờ tích phước, niệm kinh…, trên thế giới tính không xuể. Điều nghiêm trọng ở chỗ người phàm chúng ta không ai biết phước trong mạng mình nhiều hay ít, dầu trong đèn còn bao nhiêu. Lời ân sư, cuộc sống hưởng thụ chính là tiêu phước (mà người đời thường hiểu nhầm thành hưởng phước). Thế nên đứng vào khuôn khổ của giới luật vốn là bờ rào an toàn để mỗi người không sa xuống hố thẳm của nghiệp. Tôi và bạn cũng như đứa trẻ lên ba chập chững, hoàn toàn không biết phía trước có hầm hố, nên người Mẹ phải giăng một hàng rào trước hết giữ mạng cho nó. Chúng ta lại ngỡ Phật “làm khó”, trói buộc tự do, và khi văn hóa phương Tây tràn vào, nhiều người bị ma lực của ảo giác hưởng thụ cuốn hút thôi thúc đã tìm mọi cách gở bỏ làm nảy sinh tai chướng khôn lường. Đương nhiên không phải ai đụng nghiệp cũng là thoái đọa, không phải già bệnh và cái chết sờ gáy mới là thoái đọa, mà thực tế nhiều người nhốt trong thứ hạnh phúc ảo  đang sống trong cảnh giới của tam đồ rồi lại chẳng hay. Nhờ còn tấm thân dật giờ nên chưa thật sự nhập không gian (mình đã thọ nhận) ở kiếp sau. Tôi và bạn chưa chạm tới công phu chuyên môn, chỉ là từ cái hiểu tri thức mà lạm bàn, cũng tự thương chính mình thay! 

Con người chết song không phải thực chết; chết chỉ bỏ lại cái thân, còn hồn/thức vẫn quanh quẩn trong cõi thân trung ấm nhận chịu khổ đau từ nghiệp quả. Cái thời khắc này khiến hành giả dễ nổi sân và không còn tin Phật pháp, bởi từ lâu họ ảo tưởng mang cái tâm tham sân vượt khỏi biển vô biên nghiệp chướng. Ý niệm cho Phật không ứng linh đối với nghiệp tu, hành giả dễ liền rơi vào ác đạo! Vẫn có tín tâm và nhận ra những lầm lỗi khiến ta vẫn âm u trong thân trung ấm, là may mắn lắm vậy. Lúc sống ta có tiền đổi được cái ăn uống. Chết đi vả chăng được ăn uống là nhờ lúc sống tích phước; không có phước dĩ nhiên qua bên họ hoàn toàn trắng tay, còn khổ sở hơn một người ăn xin. Nói điều này hơi đau xót. Nhiều người tu lâu năm cũng không màng tới những chuyện “cỏn con” trong gia đình lúc có hậu/họa sự, do đó họ xem thường luôn việc dành phước (nhờ tâm thanh tịnh trong đời sống) cho giờ phút lâm chung, bởi điều này thể hiện rất rõ công phu hành chánh pháp của một chúng sanh. Ngoài công đức và phước đức, nghiệp dữ là điều thứ hai người ta mang theo. Có phước và nghiệp hay không chúng ta dễ biết về một người mà lúc sống họ biết bố thí tài sản, bố thí lòng từ ái, nhiệt huyết giúp người, bố thí sự yêu thương đến cả loài vật; phước đức lớn nhất là học và hành theo Phật, chuyên niệm Phật, tụng kinh hành thiền (trước hết tạo từ trường/sóng tư tưởng siêu thiện góp phần thanh lọc thời không ô nhiễm), cúng dường Tam bảo, kính Tăng, thật tâm buông xuống ta bà). Phước dĩ nhiên trước hết được tạo từ việc bất cứ người nào có giữ giới (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm tà hạnh với ai ngoài vợ kể cả trong suy tưởng, không rượu bia say sưa và các chất kích thích gây nghiện, không nói dối, không tham sân si, ngã mạn, không hoài nghi kinh điển và lời tổ sư, thánh hiền).

Nghiệp là sự tích hợp những hành vi, lời nói, ý nghĩ của chúng ta làm ảnh hưởng đến người khác và vạn vật kể cả ở thế giới vô hình; là lộ trình từ nhân tới quả và ngược lại.

Hành động, lời nói thì quá rõ. Nhưng còn ý nghĩ, xét đến cùng, nó gây nghiệp nặng nhất, “vô tư” nhất. Bởi ta không “nghe”, không sờ thấy, không nhìn thấy nên nghiệp ý an nhiên tung hoành, cũng không mấy ai nhận thức được sự tai hại của ý nghiệp mà kiểm soát, chưa nói tới liệu kiểm soát được không. Một vị thiền sư từng ví, nếu não bộ chúng ta trổ một cửa sổ bằng kính trong suốt, để ai cũng nhìn thấy vô vàn những ý nghĩ của ta... sẽ hổ thẹn nhường nào. Nhưng nghiệp bí ẩn. Đời người từ khi sinh thành cho tới ngày hoại diệt đều có sẵn một file trong vũ trụ, tất thảy mọi hành động lời nói ý nghĩ sẽ được save lại. Đức trong đó và nghiệp cũng tại đó. Khỏi bàn nếu chúng ta bước qua thế giới khác. Tên tội phạm có thể chối bay máy thăm dò nói dối hiện đại song hành động của hắn lọt vào một thước phim lập tức cúi đầu nhận tội. Người tu chân chính, họ không cần camera cũng dừng bước lúc đèn đỏ bật. Người chân tu, camera theo dõi họ là sự tỉnh thức. Ta thông dự vào cuộc sống trần tục, nếu không thật vững tâm thì đụng vào đâu cũng dễ gây nghiệp. Không ít lần tôi bị oan. Cũng tức. Nhưng cố giấu, rồi tìm lời khuyên. Bạn đồng tu bảo nên tác động sự cảm thông, niềm hòa ái đến người đó qua ý nghĩ.

Lời nói là biểu hiện rõ thứ hai của sự nghiệp. Hằng ngày miệng chúng ta luôn gây nghiệp. Vậy mới có tu khẩu, tịnh khẩu. Nhiều bậc trí thức, nguồn của khẩu nghiệp do tâm tật đố ganh tị người khác. Biểu hiện: nói xấu. Ai giàu hơn, tài hơn, đẹp hơn, quyền chức hơn... nói xấu, thậm chí muốn nhổ người ta khỏi mặt đất này. Tiếp xúc một người trong nhiều năm, nhận thấy hễ ngồi với ai ở đâu, không nói xấu thì không chịu nổi và rốt cục người đó tìm đến chỗ khác để nói xấu (một ai đó). Nghĩa là (trường hợp phổ biến) nếu muốn hơn một người, thay vì mình cao đối thủ cũng cao, anh ta phải moi móc đối thủ, hạ đối thủ, phải gìm đạp đối thủ xuống để được cao. Do tích tập từ nhỏ, tâm lý chung thích gom chuyện xấu ác. Chuyện xấu ác luôn là nhiên liệu trong các cuộc trò chuyện, đàm đạo. Chuyện xấu ác còn có tên gọi khác là rác rưởi. Một khi chuyện xấu được ta hứng khởi thuật lại nhiều lần trước đám đông, hãy xem chừng, bởi rác ấy đang lưu cửu vào tâm thức. Theo đà này, theo thời gian tâm thành một thùng rác khổng lồ. Tu trước hết cần biết tẩy/xóa lỗi người ngay khi thông tin ấy xâm nhập. Lỗi thế gian, nghe mà như không nghe, thấy như không thấy. Một người vẫn thường nhận phong bì bất chính lại quyết liệt chống tham nhũng, xét về mặt đạo lý, là dối, vọng ngữ. Phật từng khuyên chúng sanh trong kinh Vô Lượng Thọ: “Thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá (khéo giữ gìn khẩu nghiệp, chẳng chê bai lỗi người). Đạo lý sâu xa quá đỗi. Trong một xã hội động loạn, người ta sẽ gay gắt phản biện trước thảm kịch cái ác ngày càng lên ngôi, mà không đặt ngược câu hỏi: Nếu tất cả người trên hành tinh xanh đều không ngó lỗi nhau mà chỉ xiển dương điều thiện, thế giới sẽ ra sao? Trong bàn nhậu, nói xấu người vắng mặt đã trở thành niềm hứng khởi vô tận cho những bàn tay cùng dơ ly cụng. Sự tiếp tay của tràng cười rú lên tựa hồi còi chói óc của con tàu nghiệp lực nặng nề chuyển bánh trong cuộc hành trình đến miền tối.

Hẳn sẽ nghịch lý khi nói hành động gây nghiệp ít nhất so với ý nghĩ và lời nói. Tức giận một người, ta không dám đánh, trong lúc lại sau lưng nói xấu người ấy bao lần và sản sinh nhiều ý nghĩ độc, nguyền rủa người ta bị thế này thế nọ. Lời nói xấu từ A đến tai B, B truyền lại với C, D… Ở đây dĩ nhiên B và C sẽ nhận nghiệp dẫu ít hơn A, còn A lãnh nghiệp phần trăm theo số người truyền lại điều xấu đó. Đôi lúc cùng một hành động song mức độ gây nghiệp hoàn toàn khác nhau. Giả dụ tôi tới cơ quan bật điện hành Pháp, mức độ gây nghiệp sẽ nhẹ hơn nhiều so với: một sớm tôi thấy điện ở phòng đồng nghiệp sáng, nghĩ chiều qua họ quên tắt; gặp hỏi, hết sức ngỡ ngàng khi họ tỉnh bơ: "Tối qua tới cơ quan lấy cuốn sách, tắt điện đi ra thì tối quá…". Chưa đầy một phút ngợp bóng tối mà đồng nghiệp vô tư để điện đỏ suốt đêm. Nhiều thì hai ngàn chứ mấy. Vấn đề không phải chỗ đó. Hành vi ấy nếu quy ra nghiệp, ta chưa hẳn đủ khả năng trả. Bây giờ chùa nhiều, việc cúng dường của đại gia phần lớn bỏ tiền để cầu sự bình an, mua thêm giàu có. Chúng ta ra đường rồi trở về thường nhẩm xem mình tiêu hết bao tiền mà quên soát sau một ngày tích được điều thiện gì; lời đức hay lỗ nghiệp lòi ra ngay. Buông xuôi, thì câu nói này của một học giả tôi quên tên là chính xác: Mỗi người ra khỏi nhà mỗi sớm và trở về mỗi tối như những con côn trùng sặc sỡ trở về vùng đầm lầy. Rồi đến việc cúng dường thời nay cũng mang nhiều sự tướng, nặng hữu lậu. Có lần tôi tới Phú Thọ, ghé vào ngôi chùa mới được trùng tu. Trước sân có hồ rộng, bên phải từ ngoài vào trồng cây bồ đề nhỏ. Dưới gốc ai đó cúng dường hòn non bộ đá tổ ong trắng rất đẹp. Đẹp mà không đẹp. Những chỗ trơn tru nhẵn thín của hòn non bộ cao khoảng mét đó tên vợ tên chồng, cả tên con đều được khắc lên. Sẽ chẳng sao nếu hòn non bộ thật cao lớn, để cho mấy dòng họ và tên kia khách viếng thăm phải vòng quanh mới vô tình thấy. Sát tường bao của ngôi chùa này, bên trái là mái che dài chừng 10m, nơi đặt các bia công đức. Tấm bia lớn nhất, kích cỡ khoảng 7m x 1,2m, họ tên và số tiền được khắc đầy đủ, người ít nhất hai trăm ngàn, người nhiều vài ba triệu. Thử làm một phép tính, tổng số tiền, thật bất ngờ, nó khoảng 15 triệu, đủ mua tấm bia và trả công thợ chạm. Tức họ cúng dường chỉ để dựng tấm bia đó ghi tên mình vào… lịch sử! Giữa năm 2011 có Đại lễ cầu siêu anh hùng liệt sĩ ở Quảng Trị được rất nhiều vị sư và quan chức tham dự; rất nhiều doanh nghiệp lớn chung tay tài trợ. Một việc tri ân ý nghĩa như vậy nhưng đến giờ chót nghe tin Ban tổ chức dẫu tìm nhiều cách vẫn không có truyền hình trực tiếp theo như kịch bản, một vài Mạnh thường quân nổi cồ yêu cầu rút lại tiền tài trợ. Vậy ra cái sự cúng dường kia là kinh doanh thương hiệu chứ tâm nguyện gì đâu! Thu nhỏ lại, không ít cá nhân tung tiền làm từ thiện với mục đích đẹp mặt mình trên tivi, chưa tính chuyện tiền của họ có trong sạch? Nếu là tiền mồ hôi nước mắt, việc từ thiện ấy do trừ đi khoản mua danh lên tivi, họ vẫn được phần trăm đức; nếu tiền không chánh mạng, không ngoại trừ họ còn tích thêm nghiệp. Tinh thần Phật pháp nêu rõ: làm Phật sự mà tâm không thanh tịnh dễ thành ma sự. Chúa Giêsu từng phán trong Bài giảng trên núi (Kinh Tân Ước): “Khi con làm phúc của gì, chớ cho tay trái biết việc tay phải làm”.

Trong buổi giảng pháp tại Thiền viện Vạn Hạnh, Đà Lạt (29-31/3/2010), Đức Gyalwang Drukpa có nói: “Cúng dường giúp bạn tích lũy công đức. Chúng ta nghèo đói bởi vì chúng ta không cúng dường; chúng ta chỉ không ngừng khư khư giữ cho mình, bởi vậy chúng ta nghèo khó”. Nghe qua có vẻ không hợp lý, nó đồng nghĩa với việc những người tích cóp thật nhiều tiền phòng bệnh tật nhưng nếu vô tư cho đi phần lớn số tiền đó, bệnh tật sẽ không gõ cửa thân thể vật lý của họ nữa. Hay cũng như một người chỉ lo chế biến bữa ăn hàng ngày nào thịt cá nào rau sao cho đủ chất dinh dưỡng, trong lúc họ không dám ăn chay, ăn dưỡng sinh đạm bạc và không cần biết đến menu khoa học vẫn khỏe mạnh. Đức Gyalwang Drukpa cũng phân chia ra những hình thức cúng dường: “Cúng dường cũng không chỉ nhất thiết là những phẩm vật mà bạn cúng dường lên Thượng sư, chư Phật, chư đại Bồ tát hay lên Tăng già, có thể thậm chí cúng dường lên cả chúng sinh”. Tôi xin mạn phép nói rộng thêm nữa: Ngoài sự cúng dường tốt thắng thuộc về Tam bảo, nếu có thể hãy thành tâm bá thí cho súc vật. Giả như giữa một người nghèo chưa đói và con chó hàng xóm bị gia chủ thường niên bỏ đói, đêm đông phải nằm ngoài thềm lạnh, tôi sẽ chọn cúng dường cho con chó tội nghiệp kia. Một kênh truyền hình tỉnh nọ có chương trình “Nối nhịp nghĩa tình”, những gia cảnh được phát quả bi đát. Ai chưa giúp được, hãy nên hạ khẩu phần ăn của mình xuống. Bình dân. Đó có thể hiểu là cúng dường vi tế. Tôi nhớ hồi còn nhỏ, thời mới ra loại mì tôm Tân Bình vỏ bằng giấy. Nhà bảy thành viên, anh trai tôi đi buôn góp nhóp trong mười ngày mới mua nổi 6 gói để chia ăn cùng một lúc. Bây giờ không ít người đoạn tuyệt với mì tôm để chuyển qua bún cháo cho buổi sáng. Người biết cúng dường không nên chê bát mì tôm suông trong lúc có được mì tôm ăn sáng vẫn là mơ ước của rất nhiều con người phải nhịn đói hoặc ăn khoai sắn, cơm nguội để đến trường và lao động. Bởi vậy không phải ngẫu nhiên mà đức Chúa “rất lấy làm tiếc” cho người giàu muốn lên Thiên đàng.

Không nên nghĩ việc nhỏ thì nghiệp nhỏ. Hả hê với việc mình cúng dường bạc triệu, mà xem ra mỏng đức hơn xới một chén cơm trân trọng dâng người ăn mày đói khát. Ở thành phố, cảnh thương tâm gặp nhiều là tại nạn giao thông. Một người nằm sấp sát lề đường, trước chiếc xe tải… Mấy chục người vây quanh ồn ả: “Chở họ đi viện cái”; “Còn thở kìa”; “Để nguyên hiện trường!”; “Sắp chết rồi còn chở đi đâu nữa”. Rất nhiều ta-xi cách hiện trường vài trăm mét liền quay đầu bỏ chạy. Cái chết càng tiến gần người bị nạn. Trường hợp khác. Cặp tình nhân lúc người ta năn nỉ chở nạn nhân tới bệnh viện, cô gái đã thúc tay lia lịa vào chàng trai - chiếc xe máy rù ga. Bỏ qua cơ hội tích đức. Tình yêu của họ mang theo sự vô tâm vô cảm! Giả thử người yêu lâm vào hoàn cảnh đó, cô nàng không lạy lục người ta đưa tới viện thật nhanh, quả nhiên đó là chuyện lạ. Lại thí dụ: người sắp chết đuối, không ai dám nhảy xuống cứu vì sợ Long vương bắt thế mạng. Ngược lại, trong cơn lũ năm 2004, một thanh niên người huyện Phú Lộc nhảy xuống dòng nước xiết cứu cùng lúc hai cô gái. Bệnh là nghiệp. Nạn nghiệp tự chiêu, nhưng khoanh tay đứng nhìn người hoạn nạn cũng đồng tích ác nghiệp.

Bản thân từng than van đang phải sống trong một môi trường bất an, thực chất do chính tôi bất an. Một khi cá nhân bất an thì không thể có xã hội bình an. Có một “bộ tộc thiểu số tên là Kogi, nguồn gốc từ nền văn minh Tairona. Bộ tộc này trú ngụ trên dãy núi Sierra Nevada, Colombia, nơi quanh năm mây mờ bao phủ”. Không tích trữ, họ sống tự tại ngày ba bữa và không xích mích tị hiềm với ai. Chỉ ăn chay mà họ không bệnh tật và tuổi thọ trung bình hơn 100. Không dính dáng đến khoa học kỹ thuật, họ lại “biết tuốt” về những khám phá vĩ đại. Điều đáng lưu ý: họ không có tôn giáo.

Đạo Phật nguồn gốc vốn cũng không phải tôn giáo, người Kogi sống theo với quy luật tự nhiên/vũ trụ, thì chính là sống đúng với đạo Pháp. Đó là biết “mệnh trời”. Không gian bộ tộc Kogi sinh sống tuyệt đối an ổn. Nhưng, nếu ta đặt một phàm phu vào đó chung sống, hẳn họ lại thấy thiết chế nơi đây bất ổn. Vậy mới thấm câu thơ của cụ Nguyễn: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Tâm tùy cảnh chuyển. Tâm tịnh thời cõi Phật tịnh.

Tâm nhiễm là tâm bất định. Tâm bất định thì thân bất định. Người ấy sẽ khó sập mọi giác quan ngồi yên cho được. Ngược lại một bậc chân tu, ngũ căn thông suốt song trần cảnh không khiến tâm dao động nên họ ngồi thiền hàng giờ hàng ngày. Những tiện nghi tưởng sẽ đưa con người tới an lạc, sau một thời gian nó lại khuấy đảo tâm. Có những người xây WC rất tiện nghi và phát ngôn là nơi đưa lại cho họ sự an tĩnh. Nếu vậy, thì thiết tưởng lên núi sống một mình còn... bình an bội phần. Con người với tâm không định thì có chui vào lô cốt cũng khác chi ở chợ trời. Tâm định, công phu có được này cơ bản bắt nguồn từ việc “không nhìn lỗi thế gian”. Giới khoa học đưa ra một kết luận vô cùng quan trọng: không nên chống chiến tranh mà hãy ủng hộ hòa bình. Từ đây triển khai ra ở mọi hoạt động trong cuộc sống sẽ chuyển được cả vận mạng. Ai đó từng chống chiến tranh, không có nghĩa bây giờ phủi tay, mà dành thời gian và tâm sức đó ủng hộ hòa bình. Tại sao? Chớ hỏi, bởi quy luật vận hành của vũ trụ là như vậy. Sống trái với quy luật ấy đồng nghĩa vi phạm “pháp luật” vũ trụ, vận mạng cá nhân dĩ nhiên méo mó.

Nhớ lời của một ông bạn: “Anh cảm thấy em mang cái nghiệp hơi nặng. Có người có xu hướng tìm sự giản đơn để được bình an; có người lại vô tình hoặc cố ý làm cho đời sống mình rối ren hơn, xáo trộn và bất ổn...”. Bây giờ chợt ngẫm: Người ta chỉ có thể xoay được mệnh khi sống tốt hơn, có ích hơn, gần hơn với Phật pháp. Tôi mơ hồ cảm thấy mình đang cố vùng vẫy sống tốt hơn. Còn nghiệp không đơn giản ở kiếp này mà còn tích lại từ những kiếp trước. Nghiệp bất khả tư nghì, có tránh cũng không dễ ngoại trừ thật thà niệm Phật và giao phó vận mạng cho nguyện lực độ tận chúng sanh của chư Phật.

Tạo nghĩa cử đẹp mà mong được đáp đền, đã là tiền trao cháo múc; nghiệp lành trả xứng đáng, đồng nghĩa người ấy "trắng tay". Là con người, hiển nhiên chúng ta đang mang nghiệp. Nói cách khác, trừ một số bậc xuống đầu thai hóa độ, đã mang thân người là mang nghiệp. Không tu thoát khỏi vòng luân hồi hắc ám, nghiệp đôi khi chúng ta phải trả ở kiếp sau nữa, và đức tích hằng ngày đôi khi cũng không được hưởng tại kiếp này. Đó chính là sự "bất công" mà con người trong đó có tôi, thật tội nghiệp lại chưa thật tin vào cán cân diệu kỳ của vũ trụ.

 

Mê ở Ta Bà, sực nhớ quê hương là Cực Lạc

Giải quyết sự khổ trong đời này (nhẹ lòng trước mọi chướng ngại) và an lạc, giải thoát khỏi luân hồi ở đời sau, ngoài Phật pháp ra không gì có thể thay thế.

Giả như không có niệm lực gia trì của chư Phật và Bồ tát, chư thánh và một phần nhờ ý niệm từ chính lớp người hiểu, hành và sống theo Chánh pháp, sự sống ở các hành tinh sẽ chóng tàn hoại. Tiếc là ý niệm siêu thiện từ việc trì niệm hồng danh quá ít so với tạp âm, tà âm tràn ngập hư không. Thử tính trong một xóm làng, thành phố hay quốc gia, tỉ lệ người phát sóng siêu thiện bao phần trăm so với chiều ngược lại? Hậu quả của ý niệm thiện hay bất thiện không những ảnh hưởng các mối quan hệ xã hội, mà theo tiến sĩ vật lý lượng tử của Đại học Harvard John Hagelin (Giám đốc Liên Hiệp toàn cầu khoa học gia cho Hòa bình Quốc tế, là người đã phát triển lý thuyết "Trường đại thống nhất dựa trên siêu dây" của A.Einstein), ý niệm là dạng dao động sóng phát ra sẽ biến đổi từ trường, có thể ảnh hưởng cả một thành phố. Còn chân tướng sự thật thì sao, theo lời dạy của các chân sư cũng như trong Kinh điển, mỗi ý niệm dầu nhỏ nhiệm là "nhổ một sợi lông chấn động toàn thân", nên một ý niệm của riêng mình có thể chấn động tận hư không khắp pháp giới. Năng lực của tâm quá lớn, thật ngoài sức tưởng tượng, thậm chí còn hơn cả bom nguyên tử như một thiền sư từng ví. Tâm chính là pháp giới; toàn cả vũ trụ chính là tâm mình. Cũng là ví dụ của các bậc cổ đức giác ngộ: trong mộng thấy có ta và thế giới; do đâu mà có, không phải là tâm của ta biến ra sao. Thế giới trong mộng là do tâm ta trong mộng biến hiện, thế giới ngoài đời cũng do tâm vọng của chúng sanh trong mười pháp giới biến hiện. Còn thế giới Cực Lạc là do chân tâm của Phật và Thánh chúng tạo nên. Cho nên trở về Cực Lạc mới thật là trở về quê hương của chân tâm tự tánh.

Phật độ khắp mười phương, nhưng chớ hiểu nhầm hai chữ “tha lực”; rằng Phật sẽ đưa tay “bốc” chúng sanh từ Ta Bà đặt lên Cực Lạc. Phật làm vậy đã không còn ai cùng khổ trên quả địa cầu nữa. Nhân quả luân hồi là quy luật vận hành của vũ trụ chứ không phải do Phật bày ra. Ta Bà bể khổ, đâu đâu cũng khổ, chỉ cần “chán” trần ai, ngày đêm thiết nguyện sanh Cực Lạc, Phật sẽ đến lúc ta lâm chung (hay lâm nạn). Điều đáng trách là ta bịt mắt trước cảnh vi diệu mô tả trong “ngũ kinh, nhất luận” nên thấy cõi ác trược này tươi đẹp quá chừng; niệm Phật ngày đêm song chưa hề có tâm thế về với Phật, cứ hẹn rày hẹn mai, hẹn đến lúc thân xác tàn hoại vẫn bám chặt lấy “ngôi nhà” tứ đại, bám ngũ dục lục trần, tài danh lợi dưỡng. Thương xót chúng sanh, Phật mở con đường thoát cảnh lầm than. Phật chỉ ra tâm Phật trong mỗi chúng sanh, và do vậy bất kể ai cũng có cơ hội lên nước Phật. Trôi lăn từ vô thỉ, thậm chí có người kiếp trước có tu, kiếp này vẫn phàm phu không hề tin Phật, đều là sự thể hiển nhiên. Chớ tưởng ta đời này theo Phật sẽ an ổn dong buồm cập bờ giác. Trong alaya mỗi sinh mạng chứa quá nhiều chủng tử xấu. Nghiệp lực trong một người thôi, kinh viết nếu có hình tướng sẽ đầy cả hư không. Dẫu tu tập tinh tấn, lúc mạng chung lỡ nhân xấu trồi lên sẽ rơi vào tam đồ vạn năm không ra được, cũng là sự thường.  

Vẫn biết ai rồi cũng chết, nhưng sự thật có muôn vàn cái chết thảm thương. Có một Phật tử tu tập khá chuyên cần, ngày sắp mất đạo tràng đến hộ niệm, đứa con tự dưng “từ trên trời rơi xuống” ngăn cấm triệt để, bà uất nghẹn trợn mắt mà chết. Chứng kiến cảnh một người nằm liệt giường bao nhiêu năm trời đến thối thịt, con cháu mỗi lần bước vào lau rửa liền ói mửa, sẽ thấm thía sự chết không đơn giản. Chưa nói chứng đắc cao xa, chỉ cần có một cái chết nhẹ nhàng, một cái chết an lành trong chánh niệm và có đạo hữu trợ niệm tiễn đưa đã khó lắm. Tổ Ấn Quang từng khuyên người hãy dán chữ tử trên trán là vậy. Bậc giác giả khuyên người đời mỗi đêm lên giường nên lắng tâm niệm Phật. Nếu chuyên chú lâu ngày, ta sẽ thấy được trạng thái rất gần giấc ngủ; xem như sắp trôi vào cõi chết. Ấy là lúc ta nắm được cận tử nghiệp. Chứng đắc lên thẳng Cực Lạc là khó; dùng thường nghiệp (ngày nối đêm xuyên qua mọi công việc) và bám cận tử nghiệp để lên nước Phật sẽ nhiều hy vọng hơn.

Hành giả nào suốt đời do dùng tâm phàm niệm Phật, và do không huân tập “Phật tiếp dẫn”, phút lâm chung miệng niệm tâm loạn động, sống chưa tương ưng với từ ái bao dung thì đâu có ai xuất hiện. Phật sẽ đến tiếp dẫn nếu tâm người đó tương ưng với thiết nguyện, cung kính và tràn đầy bao dung cõi trần ô trược. Phật bên ngoài chính là do tâm (Phật) trong ta cảm ứng. Ngược lại, một người không hề sợ ma, lúc nào cũng chỉ biết niệm Phật, thì dẫu có bước giữa nghĩa địa cũng không thể gặp ma. Nói theo ý của Hòa thượng Tuyên Hóa, tâm Phật chính là từ tâm ma quỷ tu thành. Tâm ma quỷ, hiểu ở mức thô tức tâm quá nhiều vọng tưởng đảo điên, luôn toan tính lợi mình hại người và vạn vật. Mỗi ý niệm phát xuất, dẫu là vi tế nó đều tồn tại như một dạng vật chất. Dẫu thoáng nghĩ xấu về người, thì ý nghĩ đó đã xuyên vào đối tượng mình nghĩ và còn “sát thương” vô số trên đường bay của nó đến tận cùng pháp giới. Ta có thể ngăn được chân tay song cực khó để ngăn ý niệm xấu ác. Đa phần nghiệp lực là do ý niệm tạo thành. Ý niệm chồng chéo lên nhau tại kiếp này và từ nhiều kiếp trước. Tại sao bỗng thấy ghét một người trong lúc họ không can hệ đến ta? Có thể do ta có vướng mắc thù oán với họ từ thuở xa xôi nào trước lúc cha mẹ sinh thành hoặc đời này do ta hay “ngó lỗi người”. Ý niệm giận ghét nhau sẽ tạo nên một loại từ trường, nếu có máy chụp lại sẽ cho màu sắc tối xám; nhiều thiền sư chứng thiên nhãn đã nhìn thấy loại màu sắc này. Thí nghiệm nước kết tinh cũng đã chứng minh, tuy chỉ phản ánh "sắc". Kinh điển cho biết ý niệm tích lũy đều phát sanh loại từ trường có đầy đủ "sắc thanh hương vị xúc". Truyền thống Thực dưỡng Oshawa khuyên khi người hay cáu giận không nên nấu ăn và cũng không nên bưng soạn đồ ăn cho người khác, vì ý niệm vô hình (hữu hình đối với người có thiên nhãn) đã phóng vào làm biến đổi đồ ăn, người dùng dễ đau bụng hay nặng hơn có thể ngộ độc...

Mỗi một hình ảnh lọt vào mắt sẽ được lưu giữ dẫu bao lâu vẫn trỗi dậy quấy phá tâm như một loại vi rút hạng nặng. Câu Phật hiệu khởi lên, là phương pháp tối ưu thanh lọc phiền não. Hiện tượng bỏ vợ theo bồ bởi ta không chịu xóa cái ấn tượng mạnh mẽ ban đầu; không bỏ được thói phàm ăn bởi ghi khắc quá sâu đậm về những món ngon… Lúc tâm chưa kịp lưu một khuôn mặt đẹp, một món ăn ngon, một bài hát hay, câu hồng danh đã thực hiện chức năng hóa giải. Niệm Phật mà không nghe rõ từng chữ, những hình ảnh sẽ mạnh hơn và tất nhiên vọng tưởng làm chủ. Tha thiết niệm hồng danh bằng cả máu huyết, đến một lúc nó sẽ rút năng lượng bất cứ loại vọng tưởng nào.

Người chỉ dùng miệng niệm Phật mà không dùng tâm; xưng là đệ tử Phật trong lúc hành vi trái hẳn lời Phật dạy, luôn chực nhảy khỏi khuôn khổ ngũ giớithập thiện khác gì với tay vào hư không đánh đu vọng tưởng. Người học Phật đều biết nhân quả, vẫn ít người ngờ đến mức độ tàn phá thân tâm từ vọng tưởng. Tưởng hành vi xấu (nhất là hành vi giữa bàn dân thiên hạ) mới đưa lại hậu quả; tưởng nghĩ xấu chút sẽ chẳng hại ai, đâu ngờ đó mới chính là tế bào “ung thư”. Tôi đã và đang phóng vô vàn ý niệm xấu, như một dạng “dáo mác” có mức độ “hủy diệt” khủng khiếp. Hành vi này nếu tiếp tục nhân lên, lúc có những ý nghĩ/hành động/hình ảnh tương tự trước mắt, nó như mồi được châm lửa hủy hoại công đức. Điều này giải thích tại sao có những vụ ly hôn hay vụ án lớn đơn thuần xuất phát từ những chuyện nhỏ nhặt. Bởi quá khứ họ phát xuất ý niệm xấu đến nhau, không tập dùng Phật hiệu hòa giải; những ý niệm đó nén lâu ngày thành khối u nằm im lìm trong tâm (tưởng yên bình), chực chờ cơ hội đánh gục những đôi chân hướng về cõi giác.

Nếu tâm lúc nào cũng với ý niệm thiện, hay trong trường hợp chướng ngại trái chiều nào ta cũng khởi tâm niệm Phật, nhẹ nhàng thanh thoát cho nó trôi đi như rác rến trên dòng sông, tâm ấy tịnh sáng và sẽ “cho ra” một thân thể khỏe mạnh, đủ thời gian giúp ta có được tấm vé lên Cực Lạc. Tại ngôi chùa Thiên Giang ở phố cổ Bao Vinh, trong đạo tràng ít nhất có 3 trường hợp bệnh viện kết luận là “K”; tin Phật, đêm nào họ cũng niệm Phật đã đẩy lùi ung thư, có người hai năm vẫn bình thường, có người hai mươi năm rồi vẫn như chưa có sự cố nào xảy ra trong đời, thực tế phải gọi là lành bệnh hiểm. Trở về với thí nghiệm nước nhờ âm thanh thiện tác động đã chuyển từ nhơ bẩn qua trong sạch, sẽ thấy niệm Phật có thể chữa lành bệnh nan y. Điều quan trọng ở đây là người bệnh có niệm thuần thành hay chỉ niệm với tâm ích kỷ và mục đích duy nhất cốt lành bệnh để tiếp tục sống những tháng ngày lầm mê. Liên đới việc hộ niệm lúc lâm chung, nếu mười người hộ niệm mà tâm vẩn vơ đâu đâu bất quá chỉ hơn chút xíu máy niệm Phật với vai trò nhắc nhở khổ chủ tỉnh giác. Lúc hộ niệm phải nhất tâm như ngồi giữa đạo tràng dự khóa công phu mới đem lại lợi ích lớn cho người được hộ niệm và chính bản thân mình; dĩ nhiên việc có vãng sanh hay không là chuyện lớn, không thể qua sự tướng bình thường mà bàn cho được.

Vọng tưởng luôn mạnh mẽ bởi nó được sản sinh vô số mỗi ngày và được nuôi dưỡng bằng sự buông thả của hành giả. Lúc ta nằm trên giường tiếng là thư giãn, song trong đầu có những cuộn phim chiếu qua tâm thức một cách sống động; tâm rong ruổi cũng như đứa trẻ với đống đồ chơi thả cái này chụp cái kia. Thay vì để tâm tham dự bữa tiệc vọng tưởng cho đến khi mệt lả trôi vào giấc ngủ lúc nào không hay, ta buộc tâm duy nhất vào câu “A Di Đà Phật” kết thành từng chuỗi miên mật; ban ngày cũng với phương pháp này đối đãi vạn sự vạn vật, lâu ngày sẽ nhận được sự thanh thản thư thái, tỉnh táo trước biến cố. Một ả hàng cá chửi (dẫu họ sai chăng nữa) mà ta sân lại thì trong lúc đó ta không bằng họ. Chớ bận tâm nhiều đến những lời khen, quyết niệm Phật mỗi khi ai đó trái ý thích của mình, cho đến lúc tự cảm thấy họ chính là thầy, là thiện tri thức, cảm thấy thương yêu họ, chừng đó ta thực đang trong tiến trình liễu thoát.

*

Một bậc chân tu từng ví: tập tánh xấu của chúng ta cũng như rất nhiều chương trình được cài đặt sẵn trong máy vi tính; hễ khởi động máy, những chương trình ấy cùng đồng loạt “nổi loạn”. Trong quá khứ, có thể có những sợi dây liên hệ bất hảo với ai đó, nếu tình trạng này được lặp lại nhiều lần, tâm ta sẽ lưu vào ký ức thành một loại "ác dữ liệu"; khi gặp lại người đó, dữ liệu này tự động nhảy ra ngoài tầm kiểm soát, và như vậy mỗi lần gặp dữ liệu càng thêm đậm nét. Ta lại cho tình trạng này là thật, cũng gần giống như hiện tượng tự kỷ ám thị hay "nhìn dây thừng tưởng lầm con rắn" mà sợ toát mồ hôi. Có khi đương sự đã thay đổi hẳn, nhưng ta vẫn nhìn người đó với hình ảnh cũ, đó chỉ là cái bóng cũ do chính ta phóng hiện. Nhiều loại bệnh tật cũng từ đó phát sinh, nếu biết thì chỉ ít ngày đã có thể hóa giải, còn không hiện tượng này sẽ lặp lại cho đến không cùng, lại càng có cơ hội "oán trời trách người", tội nghiệp sẽ càng thêm nặng, phước thọ tổn giảm nghiêm trọng.

Theo diễn giải của Bồ tát Di Dặc còn vi tế hơn: hàng tỉ ý niệm phát xuất trong một giây. Tu thiền định để có thể vượt Tam giới phải dứt sạch ý niệm đoạn hoặc chứng chân; tính theo tiêu chuẩn này trên trái đất được bao người đủ căn cơ? Với pháp môn Tịnh độ, điều quan trọng trước hết là có đầy đủ niềm tin về Cực Lạc quốc; tin rồi có thiết nguyện vãng sanh; quảng đại phát nguyện rồi mức độ hành trì niệm Phật chuyên nhất không? Người tu có chịu buông Ta Bà vào bất cứ lúc nào để về với Phật như lòng mong muốn của một người tù được trả tự do, như đứa con xa quê bao nhiêu năm mong một lần trở về?? Lưu lạc trong vô số kiếp trần ai khổ não. Ai mà chẳng có cội nguồn. Ai không ước trở về nguồn cội. Cái khó là ta cứ nghĩ nguồn cội ở đây, sống trên đất mà chết cũng trên mặt đất này.

Quê hương của chúng ta - là Cực Lạc.

Con người ai cũng từng rơi vào trạng thái “sực nhớ”. Lúc ta cố lục lọi trí nhớ lại không tìm ra điều muốn nhớ, nhưng một lúc nào đó lại “sực nhớ”. Thực tế đó thường là những lúc ta thả lỏng thân tâm. Trí không căng thẳng, tâm bớt vọng động ấy là lúc quyền năng tối thượng phát huy tác dụng. Những người nhập thiền tự dưng nhớ lại những chuyện xa xưa hồi nhỏ; bậc chứng quả Thánh thì nhớ hàng trăm kiếp trước của mình và của mọi người, đều nằm vào “lý thật tướng” này. Sở dĩ quyền năng tối thượng không phát huy tác dụng bởi tâm chứa quá nhiều rác, từ đó dồn tất cả công việc vào trí nhớ. Có thể nêu thí dụ: ngày mai hoặc ngày kia ta phải làm việc ấy, cứ sợ quên, thế là ép trí nhớ vận dụng công năng liên tục. Rốt cuộc vẫn quên. Vẫn có trường hợp ta sực nhớ, song cuộc hẹn đã qua hoặc chưa đến, tức nhỡ việc. Ngược lại, luôn biết xóa mọi thông tin để làm sạch tâm; đến lúc cần làm việc ấy việc kia vào thời điểm đó, chỉ cần phát thông tin rồi “không thèm nhớ nữa”, đúng thời điểm quyền năng tối thượng sẽ nhắc ta một cách hoàn hảo! Lý này chính là nương vào cái không mà trụ. Cũng như ngài Huệ Năng khi nghe đến “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (nên sinh tâm mình vào nơi không có chỗ trụ) liền hoát ngộ. Thời hiện đại có bác sĩ Hew Len đã “phát hiện” và chứng nhập diệu lý thâm sâu trong kinh Phật này, và chính ông chữa lành rất nhiều bệnh nhân chỉ với việc xóa thông tin căn bệnh của đối tượng khỏi tâm mình.

Không luyến tiếc thân mạng, song người tu phải gìn giữ thân mạng quý giá để có đủ thời gian hành trì trước lúc quả đạo kịp chín. Biết gìn giữ thọ mạng của muôn loài chúng sanh là giữ thọ mạng cho chính mình. Gìn giữ thân mạng theo chánh pháp khác với những người ngày nào cũng với ý nghĩ khám chữa bệnh, ngày nào cũng chọn lọc đồ ăn thức uống cầu kỳ. Lời Phật dạy chưa dễ tin thì nay khoa học cũng minh tường: người ăn chay luôn ít bệnh tật và minh mẫn hơn người ăn mặn. Ở đây không nên nhầm lẫn: người lao động trí óc đơn thuần hay người tu tập cần ít năng lượng lại ăn với chế độ của lực sĩ. Một tài liệu của Pháp được công bố cho hay, bệnh ung thư cũng có thể chữa mà không cần thuốc. Chất bổ dưỡng như thịt bò, các loại cá thịt, sữa, đường… là thức ăn chính của con ung thư; chỉ cần người bệnh khước từ những thứ đó, ăn thuần rau củ, tiết thực, con ung thư không có thức ăn sẽ ra sao. Hay theo thực đơn Ohsawa. Gạo lứt nấu trong nồi gang, kiên trì ăn với muối mè sẽ lành bệnh. Bây giờ khoa học hiện đại phát hiện: đường là một thảm họa của nhân loại, phá hoại não trạng và bại hoại thân thể. Loại chất độc này cũng như mì tinh đánh lừa vị giác, người tu những tưởng dần dần cũng nên giảm dùng ở mức tối đa, tiến tới loại khỏi danh sách thực đơn. Bệnh xuất phát từ công việc đặc thù, từ sự tùy tiện trong ăn uống, bệnh cũng xuất phát từ tâm đen tối mê mờ. Và đặc biệt quan trọng là ý niệm lo sợ cái chết theo kiểu “tôi giàu có, tôi phải hưởng thụ, tôi không thể chết khi còn quá nhiều tiền của”. Mỗi ý niệm sợ chết phóng ra, con vi rút trong họ có nhiên liệu sống mãnh liệt hơn. Chỉ điều này thôi cũng cho thấy Phật là một đại danh y. Nếu là đạo hữu cùng hiểu đạo lý thì chẳng sao (bởi khi ta khai bệnh, họ sẽ biết xóa ngay thông tin đó); với người không học Phật, họ sẽ khắc chạm căn bệnh của ta vào não trạng, ngày nào cũng phát ý niệm: “gay rồi, bệnh ấy nguy rồi, khó lành, khó qua khỏi rồi”. Ta lo sợ, bệnh càng nặng đã đành; hễ “khối u” trong ta nhiều “fan hâm mộ” nó càng có lý do sinh tồn.

Mức độ xóa thông tin thuần thục, quyền năng tối thượng làm việc cực kỳ hiệu quả. Sự vui sự buồn vừa ập đến liền như tảng băng ném vào lửa. Tâm trở lại bình lặng. Trong bất cứ chúng sinh nào cũng đều có chủng tử Phật, vĩnh viễn không tàn lụi dẫu trôi qua lục đạo vô lượng kiếp. Mác đã đúng một phần trong câu mang tầm triết lý nhân sinh: "Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội". Nhưng có hai điểm hạn chế: thứ nhất Mác chỉ bàn đến con người; quan trọng hơn, tổng hòa các mối quan hệ xã hội chỉ tạo nên tập tánh chứ không phải bản tánh. Bản chất của chúng sanh muôn loài là tự tánh-Phật. Giống như một bãi đất trắng, sau một thời gian hội các nhân duyên như nước, gió, không khí, hạt giống, sẽ tạo nên rừng cây rậm rạp đủ loài, nhưng dưới lớp đất thênh thang kia vẫn chứa hạt giống Bồ đề. Người tu là người biết phát quang tạp cây để hạt giống đó nẩy mầm tỏa bóng. Rừng cây kia dẫu đổi được cả khối vàng song không bao giờ là bản chất; hạt giống Bồ đề mới chính là xạ hương, là tinh hoa của con người. Ai những kiếp trước thiếu duyên với Phật pháp kiếp này phải dụng Trí để nhận diện chân giả, bước về miền sáng. Tín là chìa khóa mở ngôi nhà Phật pháp. Nhiều người cầm chìa khóa lại chấp nó là ngôi nhà, cứ thế trang hoàng đánh bóng, mong người đời nhìn vào ngưỡng mộ trầm trồ ngợi ca. Điều này chẳng khác mình trú trong thân tứ đại lại ngỡ thân chính là... nhà. Đến lúc nhà cháy lao ra mới tròn mắt trước cảnh giới tối sầm!

Chư Phật không thể xóa nghiệp như ông chủ hào phóng xóa nợ cho kẻ bần cùng. Phật A Di Đà chỉ mở lượng hồng ân cho phép mỗi người gói ghém nghiệp cũ, tinh tấn dụng tâm trì niệm hồng danh Ngài, phát đại nguyện lên Cực Lạc thế giới. Mang nghiệp cũ, thử lấy ra một món độc là sân. Lúc ta nóng giận, câu niệm Phật phải ngay lập tức dũng mảnh hàng phục được khiến tâm lắng xuống không sai sử chân tay miệng tạo tác. Ở tham, si, mạn cũng vậy. Còn ta bị các thứ độc đó nổi lên sai khiến như trâu bị xỏ mũi, câu niệm Phật vẫn nhớ niệm song thật yếu ớt, thì việc vãng sanh khó rồi! Nếu chúng ta không dụng tâm mà chỉ dùng miệng niệm Phật, dẫu đến bạc tóc đường về Tịnh độ vẫn là “quá khó quá khó”. Trở lại ví dụ ma. Ai đêm nằm một mình bỗng sợ ma, cứ thế ý niệm sợ ma mới chồng lên ý niệm cũ, lúc mở mắt sẽ rùng mình trước con ma ngay trước mặt. Dẫu sợ ma, người đó cứ bám vào câu Phật hiệu, lần theo từng chữ “A Di Đà Phật”, niệm chữ nào nghe rõ chữ đó, niệm chuỗi nào rành mạch chuỗi đó, cảnh giới xấu trở về không. Từ đây mới thấu yếu chỉ của niệm Phật chính là nghe rõ câu mình niệm và gắng kết chuỗi thành phiến. Giữa đạo tràng hàng trăm người, ta vẫn điềm nhiên nghe lấy câu hồng danh mình niệm nối nhau bất tận; còn không dễ chừng rơi vào tình trạng lên giọng cho đúng tông và khi đó ta trở thành một “con hát” của dàn hợp xướng trong lúc vọng niệm lôi tâm khắp hồng trần. Biết lắng tâm và lắng nhĩ căn lúc niệm Phật thì dẫu ta giữa chợ vẫn có thể điềm nhiên an lạc. 

Ta Bà cõi tạm, như cái thang ải mục ta đang đứng cheo leo và sẽ gãy đổ bất cứ lúc nào. Để có cớ gọi tên sự chứng ngộ phải bắt đầu từ việc niệm Phật hóa giải mọi ý niệm xấu ác khởi sinh. Dụng tâm niệm Phật để “sực nhớ” những kiếp trước ta từng với tay gần chạm vào Đức Phật, và bây giờ chùm nho nơi vườn Cực Lạc đã không còn xanh nữa.

 

Phá giới, phá chấp và phá kiến

Phá giới

Đạo Phật ngày nay đang hưng thịnh và phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người vốn bảo thủ đã sớm giác ngộ hướng vào nội giới tìm con đường giải thoát theo như lời dạy của đức Bổn ư. Gặp được Phật pháp chính là cơ hội lớn nhất, may mắn nhất trong mỗi đời người. Một câu “A Di Đà Phật” lọt vào tai rồi sẽ thành chủng tử Bồ đề, người ấy có cơ hội thoát khổ vĩnh viễn trong những kiếp vị lai một khi được sanh về Cực Lạc.

Hoan hỷ niệm, quên thời gian không gian, một lòng hướng về cõi Tịnh trên nền tảng trì giới là những bước chân vững chắc trên đường Đạo. Người niệm Phật ba ngày thành tựu, đã có. Người niệm ba tháng, ba năm gặp Phật ấn chứng ngày vãng sanh, trường hợp này cũng nhiều; sự thật được ghi hình thâu âm rõ ràng. Người niệm Phật biết trước ngày giờ, lúc thiêu hiện xá lợi, gần đây có vị còn lưu toàn thân xá lợi vàng ròng như hổ phách bất hoại, khắp thế giới chứng nghiệm bằng kỹ thuật hiện đại nhất và trở thành báu vật trong nhà Phật, đó cũng là sự hiển nhiên không có gì lạ.

Tu đúng, hoàn cảnh gia đình cũng sẽ chuyển theo hướng tốt đẹp, càng ngày người tu càng tinh tấn, thêm thời khóa và thời gian trong từng khóa cũng tăng theo, cho đến tương tục ngày qua đêm kể cả trong giấc ngủ. Năm ngoái sân giận đố kỵ, còn ngủ nhiều ăn nhiều, còn tham công tiếc việc nhân gian, năm sau và sau nữa nhẹ bớt, tâm từ nới rộng, là biểu hiện của sự tu đúng. Ngược lại niệm Phật nhiều năm thói hư tật xấu không giảm, tiếng là đệ tử Phật cũng nên nhìn lại. Sai đường bắt đầu từ phá giới, rồi phá kiến trong lúc chưa phá được vọng tưởng về sự “ăn may” cứu độ.

Mãi mãi về sau, tiêu chuẩn để làm một Phật tử vẫn phải dựa vào giới luật. Một đệ tử tại gia dẫu chưa tròn Thập thiện song cần luôn gắng khép mình vào khuôn khổ này. Khuôn khổ nghe ra chật hẹp, song đó đích thực là hành giả đang tập đi vào thế giới vô biên của lượng tâm. Người tu thường nghĩ đơn giản, rằng cứ tham thiền niệm Phật là đủ. Rồi khi gặp hoạn nạn lại trách Phật không gia hộ. Chẳng hạn sau thời khóa công phu, trên đường từ chùa về hành giả ghé vào quán nhậu làm một chầu, tuôn trào tạp thoại đủ chuyện trên trời dưới đất, nhất là những mặt hạn chế của bậc “đầu tròn áo vuông” theo kiểu không phải gió động phướn động mà tâm động; thần nào sẽ hộ pháp cho? Hộ pháp nghĩa rốt ráo vẫn là sự tương ưng, tức khi tâm thuần thiện; còn lúc ta rong ruỗi ta bà, mê say dục lạc, sự gia hộ đó lập tức biến mất một cách tự nhiên. Có người thậm chí mặc cả áo tràng ngồi nhậu; người dân ngang qua thấy vậy lên tiếng chê bai luôn Phật pháp, tội này hỏi có nặng? Khoác trên mình chiếc áo cà sa, áo tràng chính là hình ảnh chân nhân; lại với hành vi xấu ác dĩ nhiên Phật pháp liên lụy, bị rớt điểm trước mắt đại chúng, nhất là trước tầm nhìn của những tôn giáo khác. 

Giữ giới tưởng chỉ dăm điều ít ỏi song, đại giới Thập thiện có biên độ rộng lớn, khó niệm nào ra khỏi. Giữ giới thuần thục, họ không bị bó buộc mà luôn tự tại. Tự biết. Tự ngộ ra những gì không nên làm. Với ý nghĩ chưa kịp thành hình đã được lọc qua câu hồng danh để soát xem nếu xuất ra miệng sẽ có tác dụng tốt không. Một ly nước sôi họ không thể tự tiện hắt đi bởi biết bao chúng sanh nhỏ bé sẽ bị luộc chín. Không ít người có tật chiều nào cũng gom rác và đốt, vô vàn sinh linh bị thiêu. Ở thế giới của chúng lúc đó khác gì muông thú trong một khu rừng cháy, khác gì nhiều quả bom nguyên tử ném xuống một thành phố. Mà chưa nói chuyện “nhỏ nhặt” ấy, ngay đến đại sự công đức như xây chùa dựng tượng Phật, ấn tống Kinh cũng chẳng dễ. Chùa xuống cấp đương nhiên cần được trùng tu, xây mới, còn không chưa đạt công phu cao, chưa có đạo quả đã hăng hái xây chùa không khéo phạm vào giới xem thường mạng chúng sanh (trong quãng thời gian thi công); điều này vốn các đại đức xưa căn dặn. Có cư sĩ lúc ấn tống sách Pháp, đạo hữu hỏi sao bìa 4 trắng trơn không đưa thêm ảnh Phật vào cho đẹp, họ trả lời: Tôi phước mỏng, nhiều lúc người ta lỡ đặt cuốn sách giữa chiếu cũng đỡ lãnh phần trăm nghiệp. Thật là một ý nghĩ xuất phát từ tâm thành kính.

Những người thợ làm hàng chưa nói; người Phật tử thêu tranh Phật, mỗi lúc giở ra thêu liền rửa tay, thanh sạch thân tâm. Từng nghe một nữ tu bảo, "thêu đến khuôn mặt Phật, toát mồ hôi hột". Trong câu nói này hàm rõ ý cung kính hết mực với Phật. Việc không có tâm cung kính, tỉ lệ thuận sẽ là tự cao ngã mạn. Có người được ngõ ý mời đến đạo tràng dự khóa, liền nói: Ở đây công khóa mấy chục phút quá ít, tui ở nhà niệm hơn tiếng đồng hồ cơ. Người khác: tui dạo này mỗi ngày niệm ba bốn thời... Điều này quá tốt, nhưng ẩn sau đó, kiêu mạn đã tăng trưởng, như lúa càng mọc cỏ cũng xanh tốt theo. Càng tu ngã càng lớn, càng muốn được người đời cung phụng, là hiện tượng chẳng hiếm. Nó không những làm mờ nhòa công phu thăng tiến về cõi Phật của riêng ta lại còn ảnh hưởng đến đại chúng, khiến bộ mặt Đạo Phật thiếu hòa ái từ bi, đôi khi nó trở thành bức tường vô hình ngăn cách giữa chúng sanh và Phật.

Chắc hẳn với hàng sơ tu, lòng thành kính chư Phật và Bồ tát trọng yếu nhất. Cái gọi phá chấp đã ảnh hưởng sâu ở nhiều Phật tử một cách tự nhiên đến khó hiểu. Không ít người đưa cả Kinh vào phòng ngủ, treo ảnh Phật khắp tường. Giả như cá nhân chỉ có một căn phòng, thì sự này tạm chấp nhận, còn với gia đình có hai phòng thì dứt khoát không nên đưa Kinh, ảnh Phật vào. Đặc biệt với phòng the vợ chồng càng tuyệt đối. Chẳng lẽ những người ấy thay quần áo trước mặt Phật, trước Kinh luận? Rồi liệu chuyện gì xảy ra nữa, thật không dám nghĩ thêm. Đây là nhân cực xấu cần tránh gieo. Tôi ngày xưa cũng từng phạm tội đọc Kinh rồi để luôn trong phòng ngủ uế trược, sau nghe được lời khai thị của thượng nhân Tuyên Hóa mới giật mình choàng tỉnh, vội sám hối. Tổ sư đại đức xưa mỗi lúc xem Kinh xong thì trân trọng để trở lại kệ sách ở phòng thanh sạch. Có vị mặc cà sa xem Kinh, lúc vệ sinh thì cởi, sạch sẽ tay chân thân thể rồi vào mặc lại trang nghiêm mới tiếp tục học. Không hành nếp sống này, hành giả vô tình tự xem mình hơn cả cao tăng!

Trong Niệm Phật tông yếu của Pháp Nhiên đại sư và Thán dị sao của Ngài Thanh Loan, đọc qua thấy “đơn giản”, nhưng chưa dễ tiếp nhận, dẫu lợi ích tăng trưởng niềm tin về nguyện lực cứu độ vô biên chúng sinh của Phật A Di Đà. Người chưa hề biết Phật pháp, nghĩ tu khó, khi đọc sách này dễ mang lại nhân duyên thù thắng. Nhưng qua đây cũng khiến nhiều người quá xem trọng tha lực, niệm Phật là đủ, niệm ít niệm nhiều cũng giống nhau, người giữ giới niệm Phật cũng không khác người không giữ giới niệm Phật, người có chồng vợ (mặn nồng quá phạm tà dâm) với người không chồng vợ niệm Phật đều như nhau v.v; chẳng cần biết đến sát trộm dâm vọng, phá rào lâm vòng tục lụy, dấn thêm vào đầm lầy. Đây là lý rất thâm sâu, mang tầm vóc tư tưởng phá chấp nhằm “trực chỉ nhân tâm”. Nhưng chỗ “vô ngã” này không dễ nhảy vào; giao phó toàn mạng cho Bổn Nguyện thực tế hành giả chỉ thấy núi, còn chạm tới núi và đều phải hành từ những bước chập chững đầu tiên của giới định. Nói vậy không phải chẳng ai vào được, song khi mà tâm mỗi chúng sanh chứa cả núi vọng tưởng và luôn bị tham sân si mạn ngầm sai sử thì việc giao mình cho Phật đôi khi không tưởng. Taitetsu Unno luận về Tịnh độ Chân tông trong Sông lửa sông nước: “Tự lực không phủ định nỗ lực cần thiết để tiến bộ trên con đường thức tỉnh. Tiềm ẩn trong cái gọi là con đường dễ dàng của Phật giáo Tịnh Độ là truyền thống lớn “tu thân” trong truyền thống Á châu. Tu thân điều phục thân và tâm, xây dựng tính cách và sức mạnh bên trong, kiềm chế dục vọng, và làm hiển lộ tiềm năng trọn vẹn nhất của một con người”. Tác giả của cuốn sách thuộc hàng kinh điển về văn học Phật giáo này cũng cho biết Ngài Pháp Nhiên luôn khuyến khích hành giả “thường hằng niệm Danh Hiệu; và ngài cũng đã niệm sáu mươi hoặc bảy mươi ngàn lần mỗi ngày”. Với con số niệm này nếu tính ra sẽ thấy người niệm Phật sẽ chẳng còn thời gian để mà vọng tưởng, cũng chẳng còn thời gian nghĩ về giới luật, mà câu hồng danh đã nhuốm lên hết thảy. Song với sự hình thành của Chân tông đã khiến pháp Niệm Phật trở nên vi diệu, sống động, và Danh Hiệu trở thành ngọn đuốc soi đường trong sự khát ngưỡng tâm linh cùng tận đối với bất cứ chúng sanh nào còn hồ nghi và tự ti về sự giải thoát khỏi bể trầm luân của chính mình.

Kinh A Di Đà, Phật thuyết khi thiện nam tử thiện nữ nhân niệm Phật từ một đến bảy ngày (âu vẫn là con số ước lệ), niệm đến “nhất tâm bất loạn”, (tức chí ít cũng niệm câu Phật hiệu thành phiến thành khối, ban đầu thì tập trì từng chuỗi mười câu, rồi lại mười câu quay vòng tai nghe rõ ràng ít lẫn tạp niệm), lúc lâm chung Phật và chư Thánh sẽ hiện tiền gia hộ... khiến tâm bất điên đảo. Đoạn kinh có hai ý tối quan trọng. Thứ nhất là chữ thiện (trong thiện nam tử, thiện nữ nhân). Bậc đại sư lúc chú giải Kinh đã nêu rõ chữ thiện này chính là Thập thiện, tức người nữ người nam nằm trong khuôn của Thập thiện. Rất nhiều người niệm Phật vạn câu, niệm Phật hàng chục năm vẫn không thăng tiến công phu, bởi từ chối đặt mình vào Thập thiện. Điểm thứ hai cần lưu ý, đoạn Kinh cho biết thiện nam tử thiện nữ nhân niệm Phật chí ít phải đạt thành phiến, thành khối (nhất lâm bất loạn), sau đó “A Di Đà Phật dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền”. Chứng tỏ phải có tự lực trước, Phật mới cảm ứng, nghĩa là hành giả trước hết đủ niệm lực chống với khoảng 50% nghiệp tham sân si mạn. Ngài Pháp Nhiên trước lúc biết đến pháp môn Niệm Phật đã tu các pháp môn khác, đạt đến ngưỡng trong đêm tối đọc kinh hào quang chiếu ra không cần đèn, tức tâm đã rất định; công phu đó tiếp xúc với Niệm Phật liền tiếp nhập cảnh giới vi diệu. Hơn thế, đại sư cách nay hơn 7 trăm năm, thời điểm nhân tâm con người ít vọng động hơn bây giờ rất nhiều, nhất là đối với người Nhật thấm sâu phong vị thiền.

Tịnh độ Chân tông phá chấp, trước hết là phá cái Ngã. Người niệm Phật thường chấp vào số lượng câu Phật hiệu và thời khóa công phu, chẳng hạn ta niệm mỗi ngày nhiều hơn ông nọ bà kia, dĩ nhiên sẽ được vãng sanh còn họ thì không; mỗi ngày ta chuyên trì ba bốn thời, họ chỉ một hai thời, thời gian công phu lại ngắn sao có thể bì với sự vãng sanh của ta. Đó dẫu sao vẫn là cái chấp dễ nhìn thấy. Hễ đã trì niệm, dẫu đạt đến vô niệm tự niệm thì vẫn còn đó cái Ngã đang niệm Phật. Tịnh độ Chân tông, biểu hiện rõ nhất trong Niệm Phật tông yếu hướng vào tha lực là ý muốn hành giả chỉ biết tinh tấn niệm Phật, còn vãng sanh là việc của Phật A Di Đà; cái Ngã vô tình sẽ bị phá mà hành giả không hay. Để thấy điều thâm sâu lại ẩn sau cái tưởng bình thường.

 

Phá chấp

Giữa phá giới và phá chấp luôn có mối liên hệ mật thiết. Phá chấp lúc công phu hành trì chưa nhuần nhuyễn sẽ khiến người tu phá giới; từ đó dễ chừng phá kiến, lạc đường tà.

Người Việt Nam tu theo Pháp môn Tịnh độ khá nhiều, đây là điều đáng mừng, đúng như lời khuyên của Phật Thích Ca và chư Tổ. Tịnh độ Chân tông Nhật Bản và Tịnh độ ở Trung Quốc ít nhiều ảnh hưởng sâu rộng trong giới tu Tịnh độ nước ta. Đã chánh pháp, cao nhất đều là một. Ngài Pháp Nhiên (Nhật Bản) vốn nhận được khai thị về thế giới Cực Lạc từ Thiện Đạo đại sư (Tổ thứ hai của Liên Tông chư Tổ) qua Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ, trên cốt tủy này lập nên Tịnh độ ở Nhật Bản; vậy có gì khác nhau. Hễ bất cứ ai ở bất cứ quốc gia nào, nếu họ là cao tăng đại đức, là thượng nhân, là chư tổ, là người chứng quả, là người được Phật ấn chứng vãng sanh rõ ràng, chính là “sứ giả” của Phật, chính là thiện tri thức của giới Phật tử. Pháp ở họ có khác chăng là do không gian, tính cách con người và hoàn cảnh mỗi quốc gia có chút sai biệt, (nên Pháp đó cũng như bốc thuốc Bắc, cần tăng thêm chút này giảm chút kia). Một trong những cuốn Pháp tiêu biểu hợp với người Việt có lẽ là Tuyển Tập Pháp Niệm Phật của Thượng Nhân Pháp Nhiên, hay Sông lửa sông nước của Taitetsu Unno. Còn với người Việt, thiết nghĩ tinh thần Tịnh độ Chân tông như Niệm Phật tông yếu hay Thán dị sao khó thể áp dụng đại trà. Có vị sư còn so sánh Thán dị sao với Công án Thiền.  

Mà công án phải dùng công phu để hiểu, không thể dùng trí suy lường; bởi bản chất công án là bất khả tư nghì! Những công án là phương tiện thiện xảo của các Tổ dành cho kẻ đương cơ; Tổ biết trò đến mức đó rồi, liền tung ra cú đòn đích đáng, kiểu như chặt đứt ngón tay, đánh bằng tích trượng để trò hoát ngộ. Đây là độc chiêu, Tổ chỉ dùng với mức trò đã ở mức có thể so sánh như Huệ Năng trở lên và chỉ dành riêng với 1 trò duy nhất, khó thể dùng chiêu đó với trò khác.

Trong nhà Thiền các Tổ rất sợ trò rơi vào ấm ma. Diễn theo kinh điển, nhất là tinh thần kinh Thủ Lăng Nghiêm, thường lúc đạt được chút xíu định, thiền sinh sẽ sanh tâm hoan hỷ, ấy là lúc ma lợi dụng mở ra tòa lâu đài khiến kẻ sơ cơ tha hồ vùng vẫy (trong hố thẳm). Thậm chí chúng hiện ra hình Phật xoa đầu tán thán... Kinh Địa Tạng cũng đề cập việc oan gia trái chủ hiện thân quyến thuộc của kẻ lâm chung để dẫn họ vào cảnh giới xấu báo oán. Việc của hành giả là mau quay lại chánh niệm; trong Tịnh tông liền chú tâm ngay vào từng chữ “Nam mô A Đi Đà Phật” (niệm câu nào nghe rõ câu đó). Ở thế gian nghĩ thiện sẽ hơn nghĩ ác; nhưng muốn xuất thế gian đương nhiên đến nghĩ thiện cũng dần dà dứt luôn, bởi nghĩ gì cũng là vọng. Có vọng sẽ mở lối cho luân hồi lục đạo. Câu hồng danh sẽ phải bén như lưỡi gươm trước tất thảy niệm ác lẫn thiện, dần dà sẽ quyện lại khiến vọng tưởng mất dần năng lượng; còn thù thắng hơn ở những người tập sống với tánh giác, khiến vọng tưởng như soi mình trong chiếc gương tánh giác ấy.

Nhiều người trích dẫn câu: "Phật là que cứt khô", là sai hoàn toàn ý Tổ. Công án như sau: Trò hỏi: Phật là gì? - đáp: Que cứt khô (thiển nghĩ không có 2 chữ Phật là). Đây không hề là lời đáp cho câu hỏi, mà cốt hướng tâm của hành giả ra khỏi "mạng lưới tư tưởng" lúc ấy; dù "tư tưởng" ấy là Phật thì cũng chẳng phải Phật thật, tức nếu đáp Phật là gì gì đó đều không thật nghĩa. Là câu Tổ như buột miệng nói ra, có thể lúc Tổ nhìn xuống đất và thấy que cứt khô, liền khai thị cho hành giả trực nhận sát na hiện tiền - là Phật; không phải lời nói - tư tưởng. 

Một trường hợp: Phạm Công Thiện (PCT), người hẳn đã có cảnh giới thuần tịnh của riêng mình. Có lẽ quá hiếm những thiên tài như PCT, “lâm vào” công án lại thoát khỏi, phá được chấp ngã đi xuyên vào nhận tánh. Nhưng. Ai say mê đọc tác phẩm của PCT thời ông chủ yếu dụng Trí mà không đọc PCT dụng Tâm giảng giải kinh A Di Đà và nguyên lý Phật học Đại thừa giai đoạn sau này, khác gì bất chấp hố thẳm cắm đầu mà đi. PCT từng miêu tả: “Đối với tuổi trẻ, đối với sự khủng hoảng hiện nay (thời điểm PCT viết tác phẩm xuất bản năm 1970), chỉ có những lối thoát sau đây: 1. lao vào đời sống và tự tạo trách nhiệm; 2. tự tử; 3. lao vào trụy lạc trác táng; 4. điên; 5. đi tu”.Những đoạn văn của PCT như trên sẽ ít nhiều khiến độc giả hiểu chưa đúng về ông. Nhất là với một PCT đã sống trọn trong Pháp quãng về già, cuối đời, ở đấy quá khứ gần như bị phủ nhận và chết hẳn. 4 tiêu chí trên, PCT không có ý xếp thứ tự điều nào đầu (trọng nhất), điều nào cuối (nhẹ nhất). Nhưng nó tác động mạnh về mặt xã hội. Thử làm phép loại trừ để định hướng giới trẻ bây giờ (ở khía cạnh nếu ảnh hưởng nặng PCT, họ sẽ chọn lựa gì? Đi tu? - chắc chưa đủ duyên. Điên? - Bùi Giáng ư, sao đủ nội lực theo? Tự tử - thật khùng nếu chưa thực sự là “thiên tài” nhiễm chủ nghĩa hiện sinh, hư vô. Chỉnh chu hơn chút, thử “lao vào đời sống và tự tạo trách nhiệm” (chữ trách nhiệm tức có ích với xã hội, cũng hiếm). Điều còn lại (lao vào trụy lạc trác táng) sẽ dễ được lựa chọn. Hoặc cũng có người chọn cùng lúc vài ba điều hoặc hết thảy).

PCT còn viết: “Đối với tôi danh từ quê hương chẳng có ý nghĩa gì cả”; thấy rõ PCT ảnh hưởng đậm nét nhà văn Henry Miller và hơn nữa là Thiền sư Krishnamurti - đó là sự phá bỏ chủ nghĩa quốc gia. Tuy nhiên sự phá bỏ của Krishnamurti là xuất thế gian pháp; còn ở trong thế pháp lại đòi phá bỏ là ngược với tinh thần Đạo Phật. H. Miller về sau cũng như PCT, đều trên Chánh đạo, và càng tiệm cận với con đường của Đức Phật họ càng nhận ra nhiều lầm lẫn trong quá khứ. Thế nên có lần H. Miller nói đại ý, tôi bây giờ không phải tác giả của những cuốn sách đang được tôn vinh trước đây. Còn PCT giai đoạn về sau sống với pháp môn Tịnh độ, “trở về sự im lặng”; trở về “chuyển động toàn diện của tâm thức trong ánh sáng bất tận của Phật A Di Đà”. PCT lúc này, “đọc bao nhiêu kinh điển Phật giáo trong mấy chục năm trời liên tục thì cũng không bằng chỉ mỗi sớm mỗi chiều niệm Phật xưng danh: Nam Mô A Di Đà Phật”. Thấu chân lý, PCThọc Phật chứ không Phật học nữa. Là bước chuyển mình vĩ đại từ Phật học (sở tri) qua học Phật (hành trì). “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” (Namo Amitàbhàya Buddhàya) trở thành tiếng kêu của kẻ Giác Ngộ, một kẻ buông thả tất cả mọi sự, buông bỏ thiện và ác, buông thả sự giác ngộ và vô minh, buông thả thiên đường và địa ngục. Niệm Phật xưng danh Phật cho đến chỗ Nhất Tâm Bất Loạn là pháp môn huyền diệu nhất để phá tan tất cả nghiệp lực, để được Vãng sinh Tây phương Cực Lạc”.

Trong giới tu hành tinh thần phá chấp là một vấn đề then cốt, nên thận trọng vẫn hơn. Chớ “cầm nhầm” chuyện các Tổ đại đức nhổ nước bọt vào tượng Phậtgiết mèochẻ tượng Phật v.v, đều là những món không dành cho bất cứ ai ngoại trừ kẻ được Tổ dùng để khai ngộ). Nhắc lại sự phá chấp trong Chân tông Nhật Bản; có Thầy bảo trò, nếu con không ăn chay được thì ăn mặn mà niệm Phật; nếu con ở chùa không niệm Phật được thì về nhà lấy vợ mà niệm Phật, v.v. Lời khai thị mang tinh thần phá chấp ấy chỉ dành cho trò ấy, ở căn cơ ấy mà thôi.

Tiếp xúc với những công án Thiền quá sớm sẽ mang hậu quả khó lường. Tinh thần phá chấp thấm vào tâm không được công phu hỗ trợ dễ khiến người tu hiểu lệch. A Di Đà Phật là Vô Lượng Quang, dĩ nhiên không nơi nào không soi thấu. Nhưng hiểu theo kiểu đâu cũng có Phật, không cần kiêng dè cung kính, nghiễm nhiên đưa cả hình ảnh Phật, kinh kệ vào phòng ngủ vốn nhơ nhớp, sẽ trực tiếp gieo chủng tử thảm khốc. Phật từ bi nào có giận, nói chi đến lôi ai vào ác đạo. Nghiệp lực tự gieo sẽ tự chiêu cảm lấy, nhất là nghiệp có tính làm hoen ố Phật pháp trước đại chúng. Từ đây chỉ phác lộ ra hai con đường: một là lên Cực Lạc, hai là xuống Địa Ngục. Tịnh độ là pháp môn đặc thù, vô cùng thiện xảo, có đới nghiệp. Mang nghiệp quá nặng liệu có nhẹ nhàng thăng tiến? Trên tinh thần đó các hiện tượng như bày tiệc rượu thịt, bài bạc ngay trong gian thờ Phật trở nên “không can gì”, lây lan phổ biến. Lại có những vị Phật được vẽ, khắc chạm chỉ có cái đầu không; đó là chuyện của nhà chế tác, xem như hình tượng nghệ thuật, ở đời khó thể trách, miễn sao gieo được thiện căn với người xem. Còn với người tu không thể thờ Phật với chỉ cái đầu. Nếu ai cho điều này bình thường, hãy thử in mỗi cái đầu của ông bà cha mẹ đặt lên bàn thờ xem có ổn không? Kiểu phá chấp kiểu trên nếu lan rộng sẽ là rào cản vững hơn núi lửa ngáng trở hành giả trở về chân tâm rỗng lặng trong kiếp này.

Pháp môn Tịnh độ, phá chấp rốt cùng là phá cái ta đang niệm Phật để tâm trở về nguyên bản rỗng rang khơi nguồn tự tánh, luôn phải thực hành lúc giới luật đã được người tu một lòng hòa nhập, nó như thành trì cuối cùng mở ra cảnh giới lộng lẫy tuyệt cùng.

Phá kiến

Những gì Đức Phật thuyết trong suốt cuộc đời là chân tướng vũ trụ; với cõi Ta bà trước hết là chân lý về kiếp người, ai nương vào tu hành sẽ thoát khổ đau. Phật giảng với rất nhiều căn cơ, nhiều cảnh giới, thậm chí có cảnh giới trong định cho hàng Bồ tát và chư Thiên, nên số kinh vô lượng, nghĩa cũng vô lượng. Ngay cả với một bộ kinh, lúc này giảng cho căn cơ thấp sẽ khác với hàng căn cơ cao hơn. Đơn cử đều khuyến tu lên Cực Lạc, pháp hội này Phật nói ngoại trừ ngũ nghịch thập ác, ở thời khác Ngài lại bảo hạng người này cũng được độ sanh. (Thực tế đã có minh chứng cụ thể; càng chứng tỏ túc nghiệp vô cùng quan trọng, càng củng cố thuyết tái sanh trong sáu nẻo). Không hiểu sẽ cho Phật nói thế nào cũng được. Là do người ta dùng trí phàm soi Tâm Phật, lấy ngao lường biển. Giáo sư triết học Tây phương Phạm Công Thiện giai đoạn sau này lúc giảng kinh Đại Thừa đã đề cập chuyện nhiều học giả rất thích tranh luận chữ nghĩa; cãi lộn chữ nghĩa; biết chữ nghĩa để rồi bôi mất chữ nghĩa, chẻ chữ làm năm làm ba làm cho đại chúng rối bù. Rất nguy hiểm. Còn ông sống trong kinh điển, chìm trong kinh điển rồi rút ra mật ngôn: Tất cả bí ẩn, diệu thường nằm trong sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật. Không tin pháp môn mà bao người đã hiện tướng thành tựu viên mãn, là một kiểu phá kiến đầy tai hại.

Một khi không dụng công nhìn Pháp, lại dụng trí soi xét rốt cùng dùi tới kéo lui trong vòng luẩn quẩn. Rồi còn cho kinh này cao, kinh kia thấp. Thiển nghĩ, Phật giảng, kinh nào cũng cao nhất. Tịnh độ tông vi diệu, Thiền và các pháp môn khác cũng vậy. Pháp là chân lý vũ trụ sao có hơn thua. Pháp bất biến, nhưng nhân tâm luôn biến đổi, ngày càng loạn, thế nên mỗi thời có những phương tiện thiện xảo; (như thời Chánh pháp Giới luật thành tựu, thời Tượng pháp Thiền thành tựu, thời Mạt pháp Tịnh độ thành tựu). Bởi tâm quá nhiều vọng niệm ứng với xã hội nhiễu nhương, nói thời nay hành thiền khó thành tựu hơn niệm Phật không có nghĩa tu thiền không chứng. Người thiện căn sâu dày, từ nhỏ được gia huấn bởi Đệ tử quy, lớn lên đã nằm trong Thập thiện, giới luật nghiêm minh giữa môi trường thuần tịnh, dĩ nhiên hành thiền hay nhập không tông tánh tông vẫn là cứu cánh. 

Ngàn vạn pháp môn suy cho cùng cũng là phương tiện. Chân lý nếu không có phương tiện sẽ không hoàn mãn cứu độ. Chân lý là con đường nhưng đến đích lại cần phương tiện. Căn tánh mỗi người mỗi khác, ngay cả với những người tu cùng một pháp môn. Tịnh độ tông đích của hành trì là tâm thanh tịnh. Niệm Phật kết thành phiến, vọng niệm khó sinh khởi, sẽ sinh định phát huệ. Một người bắt chân kiết già tĩnh tọa, tuyệt đối bất động, chỉ có tâm là “động” với A - Di - Đà - Phật, từng chữ một rõ ràng, theo chuỗi nối nhau. Thì đấy chính là Thiền. Giữa Phật giáo Nguyên Thủy và Phật giáo Phát triển có gì khác nhau? Có Hòa thượng chuyên hoằng dương Tịnh độ vẫn khuyên người tu nếu không học Tiểu thừa nhất thiết phải lấy đạo Nho và đạo Giáo làm nền tảng cho Thập thiện nghiệp đạo, Sa Di luật nghi. Nhiều vị cao tăng khác thuộc Đại thừa lại khuyên quán Tứ niệm xứ chế ngự lậu hoặc, không chấp thân này (vốn như bình quý đựng phân, là túi da hôi thối).

Một khi tâm khá nhuần nhuyễn câu Phật hiệu, tức không khởi tâm mà hồng danh cứ vang lên từng chuỗi nối nhau bất tận bất kể ngày đêm, thậm chí trong mơ; người tu không nhất thiết phải nghĩ đến thế giới Cực Lạc, không nhất thiết Phải nghĩ đến Phật A Di Đà. Về đâu, nhập vào cõi nào trong mười phương là tùy duyên, chưa phải chuyện của hành giả đang niệm Phật. Đó là phá cái ta đang niệm Phật, phá cái ngã cuối cùng, là bước chân đầu tiên trong hành trình tiến đến tánh chân như. Tu tịnh hiểu thiền, cội gốc ở đây. Còn người không niệm Phật đến mất mình miên man an lạc, nên tu thiền chưa hiểu tịnh, cội gốc cũng là đây. Những thiền sư lỗi lạc như HT Tuyên Hóa hay Ngài Quảng Khâm, những bậc đạt đến công phu Thiền cao thâm khó thể luận bàn cảnh giới đã một lòng khuyên người niệm Phật; sao quá nhiều người tu thiền chưa đạt đến ngưỡng này không nhìn lại mình? Vạn Phật Thánh Thành ở Mỹ quốc (một đạo tràng thuần khiết nghiêm tịnh bậc nhất dựa trên tiêu chuẩn của Phật thời tại thế như tăng sĩ ăn ngày một bữa, hành trì từ 4 giờ sáng đến khuya…), trong công khóa của một người tu vẫn có trì chú, thiền và niệm Phật. Sự kết hợp này thật vi diệu. Ai đó đời này thuộc hàng thiểu trí chăng nữa song đời trước căn duyên sâu dày, tin Phật niệm Phật, tụng kinh bái sám, nên hiển nhiên thành đạo quả. Còn dẫu là đạo sư (tu các pháp môn khác) không tin “niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng” làm nhân tố tối thắng thành chánh giác, cũng là điều hết sức bình thường; đáng trách là bài bác, làm tổn hại chánh Pháp, đồng nghĩa làm chướng ngại con đường giải thoát luân hồi của vô số chúng sanh.

Trong nhà Phật từ xưa có tiền lệ: ai tuyên bố hoặc “bị lộ” mình triệt ngộ, liền nhập diệt. Nếu không, người nào chớm định sơ thiền tưởng đang trong cảnh giới Niết Bàn liền sanh ngã mạn, Phật tử tôn sùng họ quá mức kiểu như Phật tái lai không chừng cùng nhau trôi vào ác đạo. Lại nữa ma cũng có thần thông; chúng sanh theo ma ắt loạn! Đức Phật từng đạt tứ thiền song Ngài tỉnh táo biết mình chưa thật sự giải thoát, mới tìm con đường ra khỏi thập pháp giới khổ não. Thiền tức tỉnh giác trong từng niệm móng khởi. Thiền sinh nhập môn thường lấy một đối tượng nào đó quán tưởng, cột tâm. Vọng tưởng yếu dần ít dần là biểu hiện công phu tiến triển. Cách niệm Phật hữu hiệu chư tổ gạn lọc qua thời gian là niệm từng chuỗi “A Di Đà Phật” mười câu một: 3 câu, rồi 3 câu tiếp, rồi thêm 4 câu nữa; hết chuỗi liền quay lại từ đầu. Đang niệm bỗng tự hỏi câu thứ mấy, tức biết ngay tạp niệm xem vào, nên xóa ngay vòng đó niệm lại chuỗi khác, tâm sẽ ngày một lặng. Người hạ thủ công phu ngày đêm sẽ tĩnh tọa thầm niệm trong tâm nhiều giờ liền rất an lạc. Đó là trạng thái của định. Để nói rằng nếu hiểu và hành rốt ráo Tịnh tông, người ta sẽ thấy niệm Phật là phép thiền, còn là thiền thậm thâm. Nên người đắc Thiền sẽ không hề xem thường Tịnh, và người niệm Phật có công phu cũng không chê Thiền bởi hai sự này chẳng khác nhau. Bậc chân tu còn dạy niệm Phật khiến hành giả chóng thấy tánh.

Nhiều người tu theo kiểu gieo duyên, bảo niệm thần niệm thiên cũng như niệm Phật. Là cạn lý. Niệm Phật tâm phải tương ưng với tâm Phật (tức hành giả trước hết lấy Thập thiện, ngũ giới làm nền). Niệm Phật là niệm sâu trong tâm, tâm niệm chứ không đơn thuần miệng niệm. Chớ nhìn vào hiện tượng bề nổi niệm Phật lơi khơi rồi cho Tịnh tông là pháp cầu may cầu phước cầu hộ trì chứng quả, một pháp tu dễ dãi yếm thế. Lời khai thị của cổ đại đức: “Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn/ Đau mồm rát họng cũng uổng công”; “Niệm Phật có một trăm loại quả báo. Quả báo thứ nhất chính là đọa địa ngục” (là hạng vừa niệm Phật vừa hành lạc, hành thập ác, bất kính Tam bảo…). Ngày xưa Đạo Phật rất thịnh hành ở Ấn Độ. Một số tôn giáo vốn thờ đa thần ganh tị, không bài bác nổi nên dùng độc chiêu “bắt tay” đưa Phật vào cùng thờ chung với nhiều vị thần khác. Là một nguyên nhân thâm sâu khiến Đạo Phật một thời mất dần vị thế ở Ấn Độ. Việc niệm thần/thiên và niệm Phật tương đồng cần được nhìn nhận tỉnh táo để không đánh mất cơ hội giải thoát đối với chúng đồ thuộc tôn giáo khác, bởi bất cứ ai trên trái đất đều có thể nhận Phật Thích Ca làm Thầy một khi họ tin vào hạnh nguyện cứu độ, đánh thức Phật tánh trong mình.

Xưa nay trong Tịnh tông đếm sao hết người nương vào niệm Phật, được Phật hẹn trước ngày giờ vãng sanh. Còn gì đáng ngờ? Người cầu vãng sanh Cực Lạc một khi không buông nổi uế trược (ở nghĩa vật chất và tâm tưởng), sẽ về đâu nếu không lòng vòng trong lục đạo. Bây giờ tham sân vẫn có thể hối lỗi, bù đắp, bởi cậy còn thân này; lúc thân hoại mạng chung thức ấy bồng bềnh chao liệng như chiếc lá khô, khởi sân hận tà niệm liền bay vèo vào địa ngục hoặc nhận thân rắt rết, khởi niệm tham liền đọa làm loài quỷ đói. Tâm vọng như dòng chảy luân hồi điên đảo bất tận không lúc nào ngưng. Tâm ấy được “cài” vào chánh niệm hồng danh mạnh mẽ lấn lướt tạp niệm Ta bà; vào thời điểm cận tử nghiệp, thần thức sẽ tự bị hút về cõi thanh cao? Có bậc tôn túc cảnh tỉnh, lâm chung lại tơ hào bám víu, dẫu như sợi tơ nơi ngó sen thôi cũng dễ ở lại sân ga cuộc đời. Tổ Thiện Đạo trước lúc thị hiện vãng sanh đã dặn, đại ý: trừ Phật tái sanh nói đừng tin có Cực Lạc, còn đến như Bồ tát có bảo niệm Phật là lầm lạc cũng chớ tin. Thuần dụng trí, không thực hành như lửa cháy trên đầu người tu sẽ chấp chặt tà kiến không có chuyện Phật xuống rước người lâm chung. Đành rằng Phật không phải thần, nhưng Phật cao hơn trời người, là thầy của khắp trời người, trước hết sao không thể gọi là thần, hơn nữa Ngài còn có ứng, hóa thân. Chứng quả thánh trong cõi trần ai, thực chất chưa dễ ra khỏi Thập pháp giới, nên phải có không gian quá độ rồi từ đó tiến thẳng chứ không một bước lùi, Phật mới thả thuyền từ đưa người qua biển mê. Là về cõi Cực Lạc.

Pháp môn nào cũng là phương tiện hướng chúng sanh đạt tâm thanh tịnh. Tâm càng tịnh tự tánh càng hiển lộ, càng gần gũi với chữ PHẬT. 

 

Những bước chân quá khổ

Đầy ắp những câu hỏi tại sao đời sống ngày được nâng lên, lại quá nhiều vấn nạn xã hội nảy sinh. Điển hình như ngành Y học đang phát triển tột bậc, con người vẫn mắc rất nhiều bệnh quái gở và bệnh viện mọc lên càng nhiều. Nói một cách đơn giản, con người ngày càng đánh mất nền tảng, gồm cả vật chất lẫn tinh thần. Trước hết, nền tảng đạo đức phải được gây dựng từ nhỏ, thậm chí cần giáo dục từ lúc còn thai nhi như cái nhìn sáng suốt của bậc thánh hiền xưa. Khoa học hiện đại phần nào phát hiện ra chân tướng này, cho thấy mỗi ngày trong bào thai bằng hàng chục triệu năm tiến hóa sinh vật và trọng lượng cơ thể biến đổi tăng lên hàng tỉ lần; để thấy một ngày giáo dục thai nhi bằng rất nhiều năm trời đứa bé lúc sinh thành. Nền tảng đạo đức có từ thai nhi sẽ giúp sinh mệnh đó giữ được phẩm chất cốt tủy của đời người, luôn hướng đến hai chữ Hòa Bình từ nghĩa hẹp cho đến nghĩa rộng là đối lập với Chiến Tranh. Đức Đạt Lai Lạt Ma, bậc Thánh thời nay, với tư cách là người học trò thuần thiện của Đức Phật từng ngày khuyên mọi người bỏ ác hành thiện, hướng đến một thế giới bình đẳng bao dung, đúng như thông điệp chư đại đức từng dạy: “Chúng ta cùng là con người, không phân quốc gia, chủng tộc, tôn giáo, đều phải bình đẳng thương yêu lẫn nhau”. Ngài cũng nhắc nhở: "Những gì ông cha (tức cổ đại đức, trong đó có Đức Phật) nói với chúng ta là hoàn toàn sự thật".

Một đứa trẻ, nền tảng dĩ nhiên phải là hiếu đễ. Chữ hiếu trong nhà Nho đã lớn, chữ Hiếu trong nhà Phật còn trang trọng sáng chói hơn. Kinh Địa Tạng là Hiếu kinh, kể về một thánh nữ nhất tâm niệm Phật nhờ đó xuống được Địa ngục cứu mẹ; Kinh Vu Lan thuật chuyện đại đệ tử của Phật là Mục Kiền Liên nương vào Pháp Hội chư tăng để cứu mẹ thoát cảnh hỏa đồ. Khi đứa con ra đời, toàn bộ tinh túy máu huyết của người mẹ tiết ra sữa nuôi lớn nó từng ngày; chừng đó thôi suốt đời ta đã không trả hết. Phật có lần thấy một vị Tỳ kheo đến cúng dường mình bát cơm bèn hỏi: Mẹ ngươi ăn chưa?, vị Tỳ kheo lắc đầu. Ngài bèn nói, hãy đưa bát cơm này về, vì mẹ ngươi xứng đáng ăn hơn ta. Trong Quán kinh Phật cũng dạy câu thiết yếu đầu tiên: “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập thiện nghiệp”. Người Việt ta có thành ngữ: “Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy” là trên ý nghĩa này. Tiêu chuẩn làm người trước hết phải Hiếu (với cha mẹ); sau đó là Nghĩa (với thầy). Ngày xưa trò cung kính thầy hết mực, con với phụ mẫu nghĩa nặng ân sâu; anh em họ hàng bè bạn lấy chữ tín làm đầu, xã hội nhờ đây an ổn. Trong triều đình, bộ Học bao giờ cũng được xem trọng. Thế nên khi mọi người đặt Kinh tế lên trên, hậu quả về một sự đổ vỡ trong gia đình kéo theo hệ lụy đến cộng đồng sẽ khó tránh khỏi. Trẻ em bây giờ từ nhỏ đã được hầu hạ, chỉ lo việc học. Nhưng cái chúng không được học là đạo lý nền tảng làm người. Càng lớn, có chút tài danh tâm kiêu mạn sẽ nổi, khinh khi ngay cha mẹ thầy tổ; và đây là xuất phát của một tương lai u ám, làm hại đến người thân và xã hội. Ngay chữ giàu chúng ta đã hiểu sai. Giàu tình cảm, giàu sức khỏe, giàu bè bạn, giàu tinh thần v.v, tiền tài chỉ là một phần nhỏ trong sự giàu. Hễ nhìn thấy ai có nhà lầu xe hơi liền phán họ giàu; cái nhìn ấy lệch lạc. Thật dễ hiểu khi vấn nạn người người đội cả mâm heo gà lên chùa, dúi tiền vào tay Phật “hối lộ” cầu may trong lúc không hiểu về giáo lý thâm sâu; đó là sự biến tướng, sự bóp méo lời Phật, dẫn đến “Thời Mạt Pháp”, mà thực chất Pháp Bảo vẫn tinh ròng.

Sụp nền tảng đạo lý hiếu kính cha mẹ thầy tổ, từ tâm tu Thập thiện Nghiệp sẽ khiến mỗi người như khối nam châm hút về bao tai chướng nghiệp bệnh. Chỉ một món nghiện gêm thôi đã đủ bật mầm ác thụ trong mỗi đứa trẻ. Sát nghiệp luôn nung nấu trong chúng và chúng sẵn sàng cãi và thậm chí đánh ngay cha mẹ mình rất tự nhiên. Sự lạnh lùng ngay trong tình người, khiến chúng càng đào sâu hố thẳm tình người, càng đào sâu tình thương giữa con người và con vật (mà không ngờ con người cũng là động vật). Chính nghiệp lực là nguyên nhân của sự phân chia các loài, các loại người và loại vật. Không nên so sánh người và vật. Tuy nhiên một điều dễ nhận thấy: rất nhiều con vật được sống sạch sẽ tươm tất hơn nhiều người, lại cũng có người sống không bằng kiếp vật. Tình thương của Đức Phật như dòng nước tràn về miền sa mạc; chỗ thấp ví như con người nước thấm trước hết, sau đó nước từ bi tràn lên thấm nhuần hết thảy cõi vật và các loài. Quý mạng sống của vật, cũng là một cách tích đức, khiến tâm an trí sáng. Hoặc giả chúng ta có thể kết thúc mạng con heo bằng thuốc ngủ thay vì chọc tiết dí điện. Hãy một lần chứng kiến cảnh con vật bị lôi vào lò mổ đủ biết chúng không hề có ý cúng dường thân xác cho người. Sống trượt ngoài Đạo lý dễ chìm vào thú tính. Khó thể tin có kẻ sát nhân rồi còn móc ruột lôi gan, chặt khúc; người chết rồi còn quật mồ phơi xác. Trong sự quay vòng của muôn trùng kiếp, con người hẳn ít nhiều “lai” dung mạo và tâm tính. Thương yêu loài vật (sau khi đã thương yêu con người), sống bao dung người đó nhiều cơ hội tiếp tục nhận thân người ở kiếp sau. Người không hành chánh pháp, để chống lại sự cô đơn thử cùng số người thân như vợ con chẳng hạn, rồi kéo nhau vào rừng sống khoảng một tháng, không mang theo kem đánh răng, son phấn, xà phòng, giấy vệ sinh… sẽ nhận ra con thú trong mình. Vô vàn sản phẩm công nghiệp người ta sử dụng hàng ngày đó, chính là bình phong che đậy ngã chấp, che đậy thiện căn; cũng là những thứ con người “giấu giếm” phiền não, “gia hạn” khổ đau. Bậc Giác giả đã mở thiên nhãn, huệ nhãn, dĩ nhiên họ nhìn thấy “con thú” ẩn sau lớp màn vô minh nơi mỗi chân tâm. Phàm nhãn chúng sanh, ai thấm đạo cũng có thể nhìn thấy khuôn mặt thú ẩn hiện trên mặt người… Thử chụp lại những khuôn mặt người trong cơn giận giữ, lúc say máu hay trong cơn ăn ngấu nghiến cồn cào cái đói sẽ nhận ra những méo mó đáng sợ của nét người. Một cô gái đẹp với tâm địa đen tối, sống trong nhung lụa lại coi khinh kẻ khác; coi khinh động vật bậc thấp và luôn muốn thỏa mãn khẩu vị bằng nỗi đau của loài vật, khuôn mặt đẹp ấy theo thời gian hao sinh khí, vô hồn. Một tên sát nhân, lần đầu tiên vô tình bắt gặp sao rợn cả mình! Một đạo sư, người sống với tâm từ vô lượng, khuôn mặt dẫu không đẹp sao vẫn hòa ái gần gũi biết bao ở lần đầu tiếp kiến. Quanh mỗi người đều có trường năng lượng sạch-nhơ; những gì khoa học chưa sáng chế ra loại kính nhìn thấy đức và nghiệp ấy, chẳng nên phủ nhận.

Không nên hiểu sinh lão bệnh tử một cách thô thiển. Giai đoạn bệnh đến tử là một hố thẳm không đáy. Rất nhiều người không thể chết, kể cả việc muốn tự tử. Một ông già đang khỏe mạnh, cú ngã khiến bệnh viện bó tay, chỉ nhúc nhích được cái đầu nằm đến thối thịt. Thương con thương cháu ứa nước mắt, muốn dứt mệnh khỏi phiền hà cũng chịu nốt bởi đến răng cũng chẳng còn để cắn lưỡn. Vung tay quá trán ắt chạm đến thánh thần. Có trường hợp khác bị xơ gan nằm gần một năm, yếu dần. Lúc đau quá anh kêu trời, hỏi sao từ nhỏ tới lớn không làm hại đến ai giờ nghiệp nặng như vầy. Người em vợ bèn thừa cơ nói pháp rồi mua tặng một đầu đĩa kèm VCD giảng kinh. Anh nghe hai ngày liền gật đầu thanh thản, bảo bây giờ mới hiểu mức độ tinh vi và nguy hiểm của nghiệp. Từ hôm đó anh bắt đầu lắng nghe để làm hành trang cho cuộc hành trình dài sau cái chết.

Ấy, dẫu sao cũng là trường hợp muộn quay đầu về bờ. Liệu chúng ta có thể gia hạn cái chết. Có thể có. Có người hơn một năm trước đã linh cảm vận mệnh của mình. Đầu năm nay một hôm đau dữ dội, anh gọi cả nhà lên ngồi quanh trăn trối. Người nhà tính đưa cấp cứu, anh khăng khăng để con đi, đây là nghiệp đòi, phải trả. Nói được vậy chứng tỏ người này căn tính sâu. Gọi điện một người tu quen biết, rồi đưa điện thoại cho anh nghe. Người tu khuyên, bạn hiểu đạo, nên từ nay quyết bỏ đường trần, thành tâm niệm “A Di Đà Phật”, thân này xin giữ lại để trả nghiệp. Nếu có niềm tin tuyệt đối về đường đạo phía trước, bạn cứ để gia đình đưa lên viện, rồi dùng thân đó hành thiện hoàn bồi nghiệp lực. Giờ anh thường ăn chay, học đạo, tâm thế an vui. Hiện tượng này không hi hữu, ai cũng có thể làm được nếu chuyển tâm về ngõ sáng. Nghiệp đến đòi, là nợ từ lúc nào không hay; nợ nhỏ nạn nhỏ, nợ lớn nạn lớn. Người ta đến đòi mạng, ta xin trước chư Phật được giữ lại thân này tu tập. Là thiện hạnh, ắt được cảm ứng, gia hộ. Nhưng giữ mạng rồi, khỏe mạnh rồi lại dùng thân hưởng thụ, tạo nghiệp, hậu quả sẽ thảm khốc.  

Gặp nạn ai chả vác chân lên đầu mà chạy, ai kêu chi dạ nấy. Phổ biến vẫn là cúng sao giải hạn. Nhiều người nông quê ít học cũng nhận thức được điều vô lý: sao có thể cắt cổ gà chọc tiết lợn để cầu xin cho sự bình an của bản thân?! Cũng như trong một đám tang cúng đồ mặn, giết mổ ngay tại nhà lại mời Thầy về siêu độ; bất đắc dĩ ở lại, thiết nghĩ các Thầy chỉ an ủi, siêu độ cho những con vật bị khổ chủ giết, chứ chắc gì đã đến lượt vong linh. Cúng bông ba hoa quả, ấy là tấm lòng thành. Còn giết chóc cúng giải hạn, tương đương với tích thêm lượng nghiệp. Cậy nhiều tiền bạc thả cửa giết mổ cúng quảy xỏ xin quá lắm chỉ vời được các thần và yêu ma. Chúng vẫn có thể dời nghiệp, nhưng nạn ấy sẽ nặng hơn những lần sau. “Lúc bệnh mà tin theo những thuyết họa phước vu vơ của bọn tà ma ngoại đạo, yêu nghiệt trong đời, sanh lòng rúng sợ không còn tự chủ đối với sự chơn chánh, đi bói khoa để tìm hiểu mối họa rồi giết hại loài vật để tấu với thần minh, vái van cùng vọng lượng để cầu xin ban phước, mong được sống lâu, nhưng rốt cuộc không thể nào được. Bởi si mê lầm lạc, tin theo tà kiến điên đảo nên bị hoạnh tử, đọa vào địa ngục đời đời không ra khỏi” (Kinh Dược Sư). Bất cứ lúc nào ta tiêu xài, hễ ý nghĩ tiết kiệm khởi lên nên trích ra làm thiện. Nghiệp nạn, thay vì dồn một cục lớn, bằng thành tâm sám hối, phát tâm phóng sanh và tác thiện ráo riết, sẽ được chia ra tiêu trừ. Thường một lễ cúng tốn rất nhiều tiền. Thiết nghĩ chỉ nên trích ra khoảng 10% phần trăm lễ lượt đó mua hương hoa cúng thánh. 90% còn lại, trích ra một phần cúng dường Tam bảo, giúp đỡ người nghèo, phóng sanh. Như vậy ai cũng tiết kiệm được ít nhất phân nửa trong lúc còn tích được nhiều đức.  Tu thiện đồng thời nên tu tuệ, nếu không thiện nghiệp đời này sẽ tạo ác nghiệp ở đời sau không chừng. Đã con người luôn phải dành tâm sức và trí tuệ lao động cống hiến cho lợi ích chung. Ngẫu nhiên họ trở thành giàu có. Giàu có cả về vật chất lẫn tâm hồn. Thì cứ tích lũy. Nhưng thử tham khảo đề xuất này: Nếu làm ăn lương thiện, người người cứ làm giàu, dự trữ phòng tuổi già bệnh tật, nhưng khi con cái đã có công ăn việc làm, nên viết di chúc để lại cho chúng một phần nhỏ gia sản, số còn lại dành cho việc từ thiện. Như vậy, người giàu đã chuyển hóa tiền vào ngân hàng đức, và hẳn nhiên đây là cách họ dùng thẻ đa năng rút được đức ấy ngay lúc thoát xác và ở kiếp sau.

Đạo Phật vốn là nền giáo dục uyên sâu, uyên sâu ở những hoạt dụng đời sống bình phàm nhất. Phật là người chỉ ra chân tướng của vũ trụ nhân sinh (chư pháp thật tướng); trượt trên đà thực dụng, những gì khoa học chưa chạm đến người đời liền xem đó mê tín. Nhưng quá nhiều người trong ngành khoa học vẫn tụt hậu; trong lúc Lượng tử lực học mở ánh nhìn ra ngoài thế giới đã thật sự ngạc nhiên bởi những khám phá vĩ đại thực ra vô tình minh chứng lời Phật thuyết ba ngàn năm trước. Ở đây không dám bàn đến những triết lý siêu việt trong Kinh điển, chỉ nói đến giáo dục nhân tâm thôi Đức Phật đã xứng danh Thầy Giáo vượt lên mọi thời đại. Có vị cao tăng kiệt xuất thời nay xem Đạo Nho là một trong những nền tảng của Phật học; đối sánh Ngũ thường: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín với Ngũ giới Đức Phật chế: Không sát sanh (là Nhân), không tà dâm (là Lễ), không trộm cắp (là Nghĩa), không uống rượu (là Trí), không nói dối (là Tín). Đơn cử, cha mẹ không sát sanh và dạy con không làm hại bất cứ con vật nào kể cả muỗi kiến, dạy chúng yêu thương, lớn lên đứa trẻ sẽ khiến người thân và môi trường chung quanh lợi lạc. Tôi từng được xem bộ phim “Thiên hạ phụ tử” 7 tập, về đứa trẻ lên năm tuổi đã biết làm mọi việc trong nhà trên nền tảng hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng theo Đệ Tử Quy của bậc Thánh nhân soạn. Cũng thật đáng khen người mẹ đã tạm rời căn nhà cao sang tìm thuê căn phòng nhỏ ba chục mét vuông, bỏ hết công việc ở nhà dạy con làm hết mọi việc nhỏ, đứa trẻ thuần thục như một người đầu bếp. Đặc biệt nhất sáng nào hai mẹ con cũng đi nhặt rác làm sạch chung cư, rồi ra chợ nhặt rau củ thừa về nấu ăn, mọi bữa ăn đều không tốn xu nào, dành tiền làm việc thiện. Đứa trẻ hiểu có được miếng ăn không hề đơn giản. Đây là cách tu Giới trong nhà Phật; đứa trẻ cộng với việc chuyên nghe một vị thầy giảng Đệ Tử Quy hàng ngày, niệm Phật cùng mẹ hàng ngày nên tâm được an định, từ đây học thuộc liền hàng chục bộ kinh. Nó giải quyết mọi việc nhanh chóng, ngăng nắp, chính sách, hoạt bát, vui vẻ, khỏe mạnh, từ ái, yêu thương hiếu đễ với cha mẹ hết mực. Nền tảng làm người sau một năm rưỡi đã được vun đắp. Tu Giới trong nhà Phật có diệu dụng như vậy, vì có giới sẽ phát trí tuệ. Cao thêm bậc nữa, Thập thiện là tiêu chuẩn của người con Phật. Bàn riêng cái miệng thôi (không vọng ngữ, không ác khẩu, không nói lời thêu dệt (ỷ ngữ) dụ dỗ nịnh bợ, không nói đôi chiều hai lưỡi), sẽ thấy chúng ta hễ rỗi rảnh ngồi với nhau là “phạm giới”, ngôn ngữ nhà Phật gọi tạp thoại. Một người lấy tiêu chuẩn của ngũ thường, ngũ giới, thập thiện làm khuôn khổ sống, thật đáng quý lắm sao! Thời nay, chưa bàn đến giúp đỡ kẻ khác, ai không tranh giành, ganh tị, đoạt lợi, tự tư, nghĩa là không “tham, sân, si, mạn”, đã là người quá tốt rồi, góp phần cho sự an định của xã hội rồi.

Chợt nhớ có người dịch bài viết của một học giả người Việt từ tiếng Pháp qua tiếng Việt đã làm lệch ý tối quan trọng ban đầu: “ý thức phong kiến” dịch thành “chế độ phong kiến”. Vài nhân vật được lấy làm điển hình cho xã hội, khi họ bại hoại, liền truy gốc rồi phán Đạo Nho làm mục ruỗng xã hội, cần bài trừ tận gốc. Khi luồng tư tưởng Tây âu tràn vào với bao mới lạ, như một người nông quê lần đầu tiên lên phố, không có nền tảng sẽ đặt sự hưởng thụ lên đầu, sớm chạy theo tài danh sắc dục. Lễ giáo gia đình là nấc cuối cùng trong hệ tư tưởng Nho gia; lúc Đạo bị “phá rào” bởi cái gọi là văn minh, “cương vực” của nó bị thu hẹp, bị “cững bức”, nhà Nho mới dùng Lễ làm “cương” để gìm lại dục vọng người đời. Cũng như nguyên xưa Đạo Phật khá “tự do trong khuôn khổ”, nhưng lúc hành giả lung lay trước “ngũ dục lục trần”, Phật mới chế định giới luật. Thời nay giới cũng không nhất thiết đòi hỏi người tu chấp chặt, chấp trước. Chẳn hạn nếu phải tham dự một bữa tiệc, cư sĩ cũng có thể khai giới uống ly bia hòa đồng, không say sưa, không ảnh hưởng đến người khác và nhất là không vọng động tâm thức; ngược lại giới “không uống rượu” cũng được mở rộng ngăn ngừa bất cứ thứ gì liên quan đến nghiện ngập như thuốc lá, cần sa ma túy… Thật ra giới là phạm vi giáo hóa của thánh nhân xưa, không theo tôn giáo mà âm thầm khiến bá tánh được tu hành mà tự họ không biết, chỉ có thế phiền não, vọng tưởng đảo điên mới được đè phục; nhân dân giữ Lễ thì trời đất "kết tinh" tốt đẹp, thiên hạ thái bình, nào có phải là ràng/trói buộc ai. Nếu có chính là do mình tự mua xiềng neo vào quả địa cầu mà thôi. Học Nho học Phật nhiều học giả thực chất không bám được nền tảng, ấy là Đệ tử quy. Quy tắc của một người con, một người trò rành rẻ từng điều tưởng đơn giản một đứa trẻ lên ba cũng thuộc nhưng đến tóc bạc chưa chắc làm nổi. Cha say sưa rượu chè, mê game mê gái, ăn nói thô lỗ nóng giận, làm ở công sở mà tiếng xấu dội về đến nhà, làm sao dạy con? Đệ Tử Quy thời nay mỗi người lớn nên học, và nếu chúng ta xem bộ phim kể trên sẽ thực sự thấy xấu hổ với mình, xấu hổ với sự sai lệch trong nhận thức giáo dục nền tảng làm người tối yếu.

Lý thuyết không thời gian, không suy niệm, không chủ đích của một thiền sư lỗi lạc xứ Ấn được kẻ trí cậy vào tài năng lại mù mờ về quy luật vũ trụ đòi phá bỏ mọi thứ để sáng tạo ra con đường riêng. Trong sự phá hủy họ hiểu bao gồm lời thánh hiền, và đương nhiên cả kinh điển Phật giáo. Chuyện chàng khỉ có 72 phép thần thông biến hóa cũng không ra khỏi bàn tay Phật, huống hồ phàm nhân lại muốn nhắm mắt bịt tai chế ra thế giới cho riêng mình! Lý Tánh Không vi diệu tột cùng trôi qua tâm thì sáng chói, trôi qua trí thì lem nhem.

Con người là sự kết hợp hoàn hảo giữa vật chất/thân xác và vật lý/tinh thần. Phần Vật Chất do ăn uống sai lầm tức không tuân theo quy luật vận hành của đạo trời đất vốn thống nhất trong sự tương hỗ hai mặt Âm - Dương. Đừng nghĩ ăn uống là tầm thường. Ăn uống chay tịnh theo nguyên lý triết học viễn đông có thể chuyển nghiệp lực và vận mạng. Bệnh tật chính yếu là do dư Âm (đường, sữa, trái cây, các thức ăn nhân tạo như mì tinh, bia rượu...), một phần khác do lệch Dương và nghịch Âm, Dương. Mặt khác, con người ngày bị bủa vây bởi thông tin, hiện tượng nghiền lướt web đã khiến Tinh Thần bị nhiễm độc, trí phán đoán sụt kém; biến mình thành một dạng đài thu phát sóng những thông tin đa phần trái với Thập thiện, khiến thời không nhiễu loạn, xã hội thêm động loạn. Là điều mà các nhà khoa học lượng tử phát hiện và kêu gọi nhân loại hãy nghĩ thiện hành thiện để tránh thiên tai địch họa; đây là điều chưa phổ cập vì ngay cả trí giả thời thượng cũng chưa thể tin nổi, rằng sóng tư tưởng còn mạnh mẽ và lợi hại vạn lần những thứ sóng kiểu như internet, điện thoại kết nối toàn cầu.

Phật pháp là nền giáo dục toàn vẹn hướng con người quy nẻo thiện. Mức giáo hóa thấp nhất có thể chỉnh lại những bất ổn trầm trọng trong xã hội. Một gia đình biết giáo dục con ngay trong bào thai, biết tìm hiểu quy luật Âm Dương để đảm bảo cho một cơ thể khỏe mạnh minh mẫn; đứa trẻ biết nói thì áp dụng Đệ tử quy; lớn thêm chút thì dạy Ngũ giới Thập thiện; tránh tối đa tiếp xúc với thông tin mạng, rồi nếu có thể thì niệm Phật tĩnh tâm để phát huy trí tuệ, khơi nguồn linh giác vốn sẵn trong căn mạng. Đó có thể xem là “công thức” căn bản cho ra những thần đồng, những công dân mẫu mực mà cơn lốc tha hóa không thể cuốn họ đi được! Người suốt đời không phương hại đến ai song bỏ qua Phật pháp, vẫn giết chóc, vẫn một cuộc sống vun vén hưởng thụ trong gia đình của mình; nếu đa phần những người như vậy chết đi đều được tái sinh làm người, những tưởng không cần phải Tu. Giá ai cũng biết có được thân người vô cùng khó như con rùa mù dưới đáy đại dương hàng trăm năm trồi lên một lần mà vô tình tròng bộng cây trôi trên mặt biển; nếu ai cũng tin rằng con người cũng phải “khoác áo” bàng sanh nếu không tránh việc ác; nếu ai cũng biết nghe lời Phật, thì trái đất này đã không tổn thọ ghê gớm khiến nguy hại đến sự tồn vong của loài người.

 

Đầu năm hướng về Tam bảo

Đầu năm, lộc non nhú trên những cành cây tưởng đã khô mục, như là biểu tượng cho sức nhẫn nhục tuyệt vời lấp lánh dưới bầu trời Phật pháp. Chan hòa sự sống với vạn vật để lắng tâm nghe sơn hà đại địa cỏ cây hoa lá cất tiếng chào mừng giữa không gian tràn đầy ánh sáng. Chánh điện sáng trưng, mai bung hoa rực rỡ, bên ngoài cây cối đâm chồi non lộc biếc, dãy đèn lồng và cờ phấp phới. Phật tọa trên bục cao với ánh nhìn từ bi cứu độ.

Không gian chùa trở nên nền nã thanh thoát. Phật tử và người dân cố xứ đến chùa tạ ơn Tam bảo gieo duyên lành. Sự khởi đầu cho một vòng quay của trái đất, là sự khởi đầu cho một vòng đời. Đầu năm, đào mai đua nở, lộc non nhú trên những cành cây tưởng đã khô mục, biểu tượng cho sức nhẫn nhục tuyệt vời lấp lánh dưới bầu trời Phật pháp. Hãy đừng phương hại một con vật dẫu nhỏ nhất, hãy đừng làm gãy một nhành cây. Hãy chan hòa với sự sống vạn vật. Hãy lắng tâm nghe sơn hà cỏ cây hoa lá cất tiếng chào mừng giữa không gian tràn đầy ánh sáng.

Tôi vẫn thường dẫn các cháu lên chùa vào những ngày Tết thay vì đến các điểm vui chơi rầm rộ. Chúng ta bây giờ đã bỏ qua một giai đoạn quan trọng trong đời người là “Thai giáo”. Thật diệu kỳ biết bao khi thai nhi ngày đêm được nghe hồng danh đức Phật, được nghe kinh Địa Tạng tẩy trừ bớt nghiệp chướng trong đời quá khứ. Một đứa trẻ vừa lớn lên, được mẹ cha thường dẫn lên chùa sẽ là vốn quý vô ngần. Đứa trẻ không được giáo dục tinh thần của đạo Nho và hơn nữa là Phật pháp sẽ khó hoàn thiện mình trong tương lai. Câu “A Di Đà Phật” gieo vào tâm là mầm giống quan trọng nhất đời người. Hạt giống ấy sẽ có một ngày tách vỏ hướng về ánh hào quang của Phật như một mầm xuân mụ mẫn giữa đất trời.

Chùa chính là mái hiên vĩnh cửu che chắn mỗi phận đời trong thăm thẳm. Đầu năm được gặp Phật lễ Phật, được gặp quý Thầy nghe giảng pháp thì không phước nào lớn hơn. Nhiều gia đình ở ngay bên chùa song Phật pháp vẫn là một món gì đó rất xa lạ. Bởi duyên của họ ở tiền kiếp quá mỏng, cũng là do nghiệp che mờ. Con thỏ nếu phải đeo kính râm thì củ cải nào cũng là cà rốt. Tin hay không tin có thế giới Cực lạc đang chào đón bất cứ ai thiết nguyện sanh về, chính là thể hiện người ấy đời trước gieo thiện căn cạn hay sâu. Niềm tin của chúng ta cạn thì năng đến chùa nghe pháp nhiều thêm, năng niệm Phật lạy Phật. Ta lạy Phật mà tâm chỉ xoay vòng câu “A Di Đà Phật” từng chuỗi, thật khó cách tu nào thù thắng hơn.

Lễ Phật ở chùa hay lễ Phật tại gia là nét văn hóa tâm linh viên mãn. Lạy Phật để xả bớt cái ngã chất ngất. Lên chùa không phải để cầu xin. Phật sẽ không cho chúng ta thứ gì ngoài phương tiện cứu cánh đệ nhất. Chúng ta cầu xin Phật mà không rốt ráo làm theo lời Phật cũng chẳng khác tín đồ ngoại đạo. Khi một ai dơ tay lên cầu xin thì Ngài sẽ cười và cầm bàn tay của người đó quay về phía họ: “Phật là con sao còn cầu”. Trong mỗi người đều có Phật tánh. Trong chúng ta cũng có ma tánh, quỷ tánh và vân vân tánh. Chúng ta dùng câu Phật hiệu kết lại thành phiến để phủ lên; lâu ngày loài “giặc phiền não” sẽ héo, tâm hiện trí tuệ chói ngời.

Lạy Phật - Niệm Phật, bởi từ lâu ta cứ tưởng mình thông minh tài giỏi; từ lâu cứ tưởng mình hơn người, nắm trọn tri thức nhân loại, mà thực chất toàn vọng tưởng. Lạy Phật để thấy mình sao quá u mê. Nay từ trong lầm lạc được Phật chỉ ra con đường sáng, thật muôn lần đội ơn sâu dày. Ở Vạn Phật Thánh Thành, ai muốn trở thành đệ tử của Hòa thượng Tuyên Hóa, trước hết phải lễ Phật đủ một vạn. Nếu tâm vẫn sân hận, vẫn ganh ghét hơn thua, vẫn gồng mình lên trước những trái khoáy, vẫn chạy theo ta bà thị phi, dẫu tu đến đầu bạc răng long Phật cũng không thể ban cho ta Vô Lượng Thọ để tự tại phiêu du trong dòng thời gian bất tuyệt. Và mỗi mùa xuân đến, khác gì ta bước gần hơn cái hố sâu thăm thẳm mong chi được cứu rỗi.

Mùa xuân, hoa cỏ đua nhau khoe sắc. Con người cũng khoác lên mình những bộ cánh tinh tươm, góp phần tô điểm cuộc đời tươi đẹp. Các đại lão hòa thượng khuyên nhủ: Chúng ta có thể dùng thành quả chân chính dâng lên chư Phật. Nhưng quý giá nhất vẫn là cúng dường Tam bảo công phu tu tập của mình.Những khám phá vĩ đại bậc nhất của khoa học đã khiến nhân loại kinh ngạc. Càng kinh ngạc hơn khi phần lớn trong số đó vô tình chứng minh lời Phật. Con người sẽ thực sự lớn khi nâng tầm nhận thức về vũ trụ và nhân sinh, trong đó liễu thoát sanh tử là quan trọng nhất. Con người thật nhỏ bé, và sẽ biến mất nếu không nương mình dưới ánh hào quang của Phật.

Hãy quên năm cũ với bao phiền muộn. Chúng ta dẫu đứng cao nhất trong loài người thì cũng nên biết một ngày không xa quả địa cầu này sẽ tàn hoại. Những bước chân đầu tiên của năm hướng về Tam bảo, là rút ngắn con đường hướng về nước Phật. Tiếng chuông chùa vẫy gọi, Tâm Kinh đang vẫy gọi những ai mở kho tàng tự tánh dung chứa tất thảy những gì có trong vũ trụ. Hướng về Tam bảo chính là nhận diện đúng nhất giá trị kiếp người giữa hư không tận pháp giới.

Có một vị sư từng đưa ra ý tưởng mở khóa tu “ngày ba mươi tết”, để xem Phật tử có thật tu trong bận rộn. Đó cũng là thông điệp “ba mươi tết của cuộc đời”, chúng ta sẽ phải bỏ lại mọi thứ dẫu quý giá vô ngần lật qua một trang đời khác. Cái lý cao tột trong Tịnh tông là chúng sanh có đủ nguyện lực và niệm lực (niệm Phật) cầu sanh về Cực Lạc? Có trăm ngàn lý do khiến ta lấy khổ làm vui; có Phật tử còn bảo: mong Phật thư thư để con ở lại Ta bà làm Phật sự, hàng năm tổ chức lễ tết cho Phật; dẫu sao đây cũng là một lý do dễ thương. Tâm còn bám chấp bể khổ, biết yêu thương mọi người, khuyến người hướng về nẻo thiện cũng là một “pháp môn” vậy.

Tôi may mắn được “gặp Phật” ở một ngôi chùa làng ấm cúng, đêm đêm cùng đạo tràng niệm Phật thanh lọc ưu phiền. Có lẽ không nhất thiết phải nêu tên chùa; cái tên chỉ để gọi chứ không phải danh vị cao sang. Đạo tràng nơi đây thật đặc biệt. Mấy chục năm ròng tháng ba mươi ngày tối nào cũng niệm Phật với đủ giai tầng xã hội. Riêng điều này đã rất hiếm so với hàng trăm ngôi chùa khác ở chốn Thiền kinh.

Ước mong gieo thiện duyên với người dân mỗi lần ngang qua chùa và nhất là đón quý Phật tử gần xa, cả đạo tràng lên kế hoạch dựng lễ đài từ trước tết hàng chục ngày. Ai đều vất vả kiếm sống; người làm ra càng nhiều tiền nghỉ ngày nào tiếc ngày đó song đều phát tâm năng nổ phụng sự. Từ gã thợ mộc, tay thợ điện, anh thợ vi tính, người cắm hoa cho đến kẻ lao công, tất thảy đều hướng thượng với tấm lòng thành kính. Chợt nhớ câu chuyện trong Kinh: Thời đức Phật ở tinh xá Kỳ hoàn, vua A Xà Thế theo lời khuyên của quần thần đã đem rất nhiều đèn cúng dường, nhưng không bằng công đức của một bà lão ăn xin cúng năm tiền dầu. Đây là sự cúng dường với tâm thuần thành gần như cả gia sản của bà lão; còn vua A Xà Thế cúng vô vàn đèn song tính ra chỉ một phần nhỏ xíu trong gia sản, và quan trọng là tâm không thuần thiện. Việc cúng dường trước hết phải từ sự rung động trước ân sâu của chư Phật, việc bố thí phải từ tâm thương yêu kẻ nghèo và chúng sanh trong các đường khổ mới viên mãn phước đức. Đã người tu ai chẳng hành thiện, song hành thiện chưa hẳn là người tu. Rất nhiều người đến chùa cúng dường bằng đồng tiền không sạch lại với mục đích cầu lợi trong lúc không chịu nghe và hành theo lời Phật dạy về thập thiện, ngũ giới, xem Phật như thần thánh quan tham...

Ngôi chùa làng tôi may mắn kết duyên, qua thời gian ngắn mới thấm thía nguyện lực từ bi của Phật. Kể cả tà ma ngoại đạo cũng là đối tượng cứu độ của Ngài. Ý của Hòa thượng Tuyên Hóa: phần lớn tâm Phật chính là từ tâm ma quỷ mà tu thành. Anh em Phật tử trong chùa vẫn đùa nhau, rằng chỉ ở đây mới tiếp đãi những cá nhân quá đặc biệt. Một người được xác định “vướng âm” khiến gia đình đau đầu nhức óc. Lần ấy tạt vào chùa uống trà, thế là dính luôn, không đêm nào vắng, lặng lẽ đến, xong thời công phu lại lặng lẽ về. Ít nhất có 4 trường hợp bệnh viện xác định “K”, họ kiên trì đến chùa niệm Phật cùng đạo tràng, một thời gian bệnh thuyên giảm và có người lành được hai mươi năm tính cho đến nay! Lại có trường hợp “ma men” quậy từ nhà ra chợ, công an cũng bó tay. Lần mần sao một hôm “đi lạc” vào chùa. Thời gian đầu chẳng ai dám ngồi gần, mà có phải ngồi gần cũng không thể nhiếp tâm niệm Phật bởi gã quá hôi… Giờ con người ấy khác nhiều. Sân chùa sạch sẽ một phần nhờ anh quét dọn, lúc chùa đụng sự thì khỏi nói đến mức độ năng nổ.

Mỗi đêm cứ đúng 7 giờ, tiếng chuông và mõ vang lên, sau bài sám hối là câu Phật hiệu nối nhau nhấp nhô dội sóng. Thời nay ngành vật lý đo được sóng âm dao động trong vũ trụ; thí nghiệm cho thấy câu Nam mô A Di Đà Phật mỗi lần được niệm (niệm thầm hay ra tiếng đều phải lắng tâm nghe rõ), sóng âm loang xa vô tận sẽ khiến không gian trở nên nhuần nhị, thanh lọc thân và tâm bệnh hoạn. Nếu ai chuyên chú niệm Phật ít năm sẽ trở thành một con người hoàn toàn khác, tương ưng với tánh đức bởi chúng sanh vốn dĩ có Phật tánh.

Ngày đầu tiên bắt tay vào trang trí chùa thật ý nghĩa. Sáng đó một đạo tràng viên chiêu đãi cà phê. Bên hiên chùa, mọi người thưởng thức hương vị thơm ngát của loại cà phê rang xay thứ thiệt không pha trộn; sau đó nhấp ly trà đậm. Việc quan trọng là làm sạch chánh điện. Bụi bám ở các tấm kính đặt tượng, mạng nhện; các đồ thờ, lọ hoa được phía nữ nhẹ nhàng đưa xuống lau rửa sạch. Những tượng Phật, Bồ Tát sẽ được phái nam lau riêng bằng những chiếc khăn mới, tay làm miệng niệm Phật giữ tâm thanh tịnh. Thứ đến là bệ đặt tượng Phật trước sân chánh điện. Mấy năm trước có một người dỡ nhà thay kèo cột, anh em Phật tử ngỏ lời xin và họ vui vẻ cúng dường; đạo tràng nhờ thợ mộc làm bệ đánh dấu kỹ lưỡng từng bộ phận. Trong hoàn cảnh khó khăn, một thanh niên đề xuất ý tưởng mua rá nhựa úp hai cái lại một, thêm hai viền rua rồi luồn đèn quả ớt vào trong, giảm chi phí đáng kể so với đèn lồng mà vẫn sinh động.

Cây mùa xuân là điểm nhấn trước sân chánh điện. Một cây kiểng đẹp được cắt tỉa nghệ thuật, sau đó gắn lên những phong bì chúc tết có hình Phật Di Lặc cười, bên trong là tờ bạc mới kèm theo câu kinh/kệ hay lời khai thị ngắn ngọn nhẹ nhàng. Ví như “Niệm Phật một câu phước sanh vô lượng/ Lạy Phật một lạy tội diệt hằng sa”. Đức Phật từng dạy, tội lỗi của chúng sinh tích từ vô thỉ, nếu có hình tướng sẽ đầy cả hư không. Lạy Phật, niệm Phật, phóng sanh, bỏ ác tích thiện là phương pháp tối ưu tiêu trừ vọng tưởng, tiêu bớt nghiệp chướng, sớm nhẹ gót phiêu du. Đầu năm hướng về Tam bảo, quang cảnh ở chùa dẫu quá khiêm tốn so với Cực Lạc, song cũng khiến lòng người thanh thoát…

Lúc kết thúc công việc trang hoàng, cũng là buổi tất niên. Những chiếc chiếu sạch sẽ trải ra. Trà, bánh và hoa quả. Ông trưởng Ban Hộ tự lễ tạ ân đức chư Phật rồi chung vui cùng đạo hữu, ôn lại những ngày đầu gian khổ đến nhận chùa từ ban quản lý của làng. Hồi đó cỏ dày đặc tốt ngang người. Rồi bao rắc rối chưa giải quyết thấu triệt, kinh tế chùa eo hẹp. Nhưng rồi trời ngày một sáng. Những đêm cuối năm nhiều Phật tử đến ngủ lại chùa, ngồi với nhau bên chén trà khuya. Đêm giao thừa anh em còn được các o chiêu đãi bữa chay thịnh soạn. Bếp chùa ở hậu liêu đủ mươi người cùng nhau phục vụ những hôm đại lễ vài trăm suất ăn. Nhìn cảnh Phật tử từ trẻ đến già quây quần bên bếp lửa củi làm lụng chuyện trò ngỡ mình được trở lại quê nhà trong một buổi gặp đặc biệt của đại gia đình.

Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến Phật ngợi khen. Người rỗi tới chùa dự khóa thường lệ, người bận việc thì đến vào tầm mười một giờ hơn. Ai nấy áo tràng trang nghiêm, chắp tay hướng về chánh điện, lễ bắt đầu bằng hồi trống chuông Bát nhã. Chuông vang, trống dồn hòa theo tiếng mõ trầm ấm, nhắm mắt bỗng thấy lâng lâng huyền nhiệm. Vào phút giao thời, cả đạo tràng nguyện đem công đức hồi hướng về khắp tất cả chúng sanh và đệ tử an lạc, âm siêu dương thái. Mọi người cùng lễ Phật và an tọa niệm hồng danh Đức Từ Phụ. Tiếng niệm kết thành sóng âm loang xa xô dạt chướng khí, dọn đường cho một ngày mới tinh khôi.

 

Hoài nghi lời Phật, hành giả đi về đâu?

Trong giới tu hành vẫn nhiều người cho kinh Đại thừa không phải Phật thuyết mà do người đời sau sáng tác. Trong nhà Phật, chữ Tín tối quan trọng. Kinh Hoa Nghiêm: “Tín là nguồn đạo, mẹ công đức, có thể sanh ra hết thảy các thiện căn”Luận Đại trí độ cũng viết: "Đại tín là đại trí"; "Phật pháp như kho báu, người không có tín cũng như không có tay, sẽ chẳng lấy được gì". Càng học càng thấy mình ngu. Trộm nghĩ, dẫu tự xét bộ kinh nào ngụy tạo chăng nữa, ai đó đợi đến lúc chứng quả dẫu nhỏ mọn hẵng bài bác cũng đâu có muộn. Bởi lúc ấy nếu có nhận quả đắng họ sẽ biết trước mình về đâu lãnh nghiệp; còn hơn là trong vô minh mà đọa xứ. Kinh điển là lưu xuất Tự tánh thanh tịnh viên minh. Những vị chứng quả xưa nay rất nhiều, chưa ai dám sửa 1 chữ trong kinh Đại thừa; hạng “phàm phu lè tè sát đất” (theo cách gọi của thầy Ấn Quang) lại đòi hoài nghi? Nếu tu, không tin Phật thì tin bất cứ ai trên đời cũng dễ lầm đường lạc lối. Nghi ngờ các kinh: Địa Tạng, Vô Lượng Thọ, A Di Đà, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Đại Bảo Tích, Lăng Nghiêm v.v, là nghi ngay chính mình không có Phật tánh, bởi kinh Đại thừa cơ bản nói về điều này (“Hết thảy chúng sanh đều có đức tướng và trí huệ Như Lai”). Đây là điều trọng yếu của bất cứ ai tu bất cứ Pháp môn nào.

Tịnh độ tông do Phật Thích Ca truyền giảng. Bộ Vô Lượng Thọ, đương cơ thọ nhận là A Nan và Bồ tát Di Lặc; Quán Vô Lượng Thọ giảng cho Hoàng hậu Vi đề hy; kinh A Di Đà, đương cơ là đệ nhất trí huệ Xá Lợi Phất. Ngay trong kinh Tăng nhất A-hàm thuộc Nguyên thủy Đức Phật đã có bài giảng về pháp niệm Phật: “Hãy tu hành một pháp, hãy truyền bá rộng rãi một pháp. Tu hành và truyền bá rộng rãi một pháp rồi sẽ có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều lành đầy đủ, được hưởng vị cam-lồ, đến được chỗ vô vi, sẽ thành tựu thần thông, trừ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn. Thế nào là một pháp? Nghĩa là niệm Phật”. Nhìn xa hơn về thời Mạt Pháp lắm nhiễu nhương, Phật giới thiệu đến chúng sanh cõi nước Cực Lạc trên cơ sở cần chuyên nhất niệm danh hiệu một vị Phật, chuyên nhất về một hướng Tây phương. Chính Ngài đã khuyên cha mẹ cầu sanh Cực Lạc. Nếu nghi ngờ tức tự cho mình tỉnh táo vượt lên hết thảy đại đức, cao tăng, các bậc tôn túc và hàng vạn triệu người đang ngày đêm tinh tấn và thành tựu nhờ niệm Phật. Trong Quán kinh huyền nghĩa, Thiện Đạo đại sư từng khuyên: "Tuy tín tâm có gián đoạn, nhưng không được hoài nghi, báng bổ đối với tất cả Kinh, Luận của Đại thừa. Nếu khởi tâm nghi ngờ, phỉ báng thì dẫu có một ngàn Đức Phật đi quanh thân mình cũng không cách gì cứu vãn được!” Người tu Thiền lẽ nào không tin chuyện Ngài Huệ Năng từng giảng kinh Pháp Hoa, và nhiều vị tổ Thiền đồng thời là tổ Tịnh độ. 

Kinh Phật uyên áo bao hàm vũ trụ nhân sinh. Sự nghi ngờ Tịnh tông phần lớn có ở những bậc trí thức và người tu ở một số pháp môn khác, cho Niệm Phật là pháp dành cho những ông bà ít học, kẻ độn căn chờ vận may. Không hay 4 chữ hồng danh “A Di Đà Phật” nếu dành trọn đời bạc tóc cũng chỉ mới nhìn thấy tảng băng nổi lập lờ trên biển. Có điểm đáng lưu ý: người thông Tịnh ắt dễ hiểu Thiền, còn thông Thiền chưa chắc đã hiểu Tịnh. Bởi đã có nhiều người niệm Phật đắc định, đắc nhất tâm bất loạn, thấy trước mắt mình rỗng không một vật, liền phần nào hiểu Thiền; còn đến như người đắc định vẫn không chấp nhận niệm Phật đến cả hàng Bồ tát cũng cầu về Cực Lạc; những người học Mật niệm chú sẽ dễ thấu suốt nguyện lực Di Đà hơn. Phần nhiều do sở học duy lý ngăn ngại. Ngoài đời, nhà triết học nào tự đắc thông tuệ, nhưng nếu họ chịu khó đọc vài cuốn do các “triết gia” Phật giáo trước tác như Thành duy thứcĐại trí độ (của Bồ tát Long Thọ), Triết học Thế Thân, hay cuốn Chú giải Phật thuyết Đại thừa Vô Lượng Thọ trang nghiêm thanh tịnh bình đẳng giác kinhcủa cụ Hoàng Niệm Tổ, hay đó là bộ giảng kinh mấy ngàn tập của pháp sư Tịnh Không sẽ thấy rõ thâm thúy. Với người luôn tự cho mình giỏi, các cao nhân luôn xiển đề học vấn (có vị Hòa thượng nhận đến 4 bằng Tiến sĩ), để giới trí thức thấy cần học hỏi; khi quen nhau rồi các Ngài mới dơ Phật pháp diễn hóa. Còn như độ những người đã có căn duyên tiền kiếp thì dễ hơn; dẫu không biết chữ song khuyên tin nhân quả luân hồi, họ tuyệt không hoài nghi, chuyên tâm niệm "A Di Đà Phật". Nhưng không có cái lý càng học cao càng dễ chứng. Ngay Lão Tử cũng nói: “Vi Đạo nhật tổn, tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi” (Theo Đạo thì ngày một giảm, lại càng giảm, giảm cho đến vô vi). Đạo là trạng thái đưa tâm trở về Không, trong lặng, không nhiễm ô. Lúc đó cái họ sở đắc là trí HUỆ (có thể câu thông với vũ trụ vạn vật), chứ không phải trí thông minh thế gian (dạng kiến thức cóp nhặt). Không ngẫu nhiên mà bậc Thượng nhân khuyên hãy học Phật chứ đừng Phật học. Đạo Phật trọng thực chất, xem nhẹ hình thức. Nhiều người rất tinh thông giáo pháp lại hành đạo kém, khiến con đường giải thoát gập ghềnh. Phật học dẫu sao chỉ là sự thu lượm khối kiến thức khổng lồ dường như không có bờ bến, còn học Phật là quyết chí sống theo giới luật cộng với sự hành trì tụng kinh, trì chú, niệm Phật để Tâm an định, từ đó phát huệ chiếu rọi con đường trở về bờ Giác. Ai Phật học bất quá cũng là người thợ chữ trần ai. Còn học Phật là đang hướng về cõi hiền thánh. Hiểu sâu sắc và thuyết giảng trôi chảy giáo lý âu mới là thế gian pháp. Hành theo giáo lý Đức Phật đó là pháp xuất thế. Giá trị của con người là hành chân lý tối thượng chứ không phải ở việc hiểu chân lý tối thượng.

Vạn pháp quy nhất. Pháp môn vốn không cao thấp. Cái chính là hợp căn hợp thời. Ngày xưa con người căn tánh trội hơn. Bây giờ tập khí đầy giẫy hư không, ùa ạt vào tâm. Hàng ngày các trò giải trí tăng thêm tính ảo và thực dụng, nội ti vi thôi người tu đã quá vất vả chế ngự vọng niệm. Một khi internet toàn cầu hóa, thế giới trở thành ao hồ trong mỗi người, khiến vọng tưởng mặc sức sinh sôi. Vọng tưởng ở trong Tịnh tông có thể định nghĩa: Ngoài câu “A Di Đà Phật” ra, hết thảy những ý niệm khởi lên đều là chính nó. Vọng tưởng xét đến cùng là giả; chống vọng tưởng cũng bằng biến mình thành vọng tưởng. Lúc thiền, tưởng tượng, trong đêm tối một cánh cửa mở và ánh sáng xuyên ra. Ta cứ ngồi trong phòng, ai ngang qua cũng biết song tâm không động, không gọi tên, không níu kéo. Theo lý của một Thiền giả xứ Ấn thì giống như ông già ngồi xem đám trẻ nô đùa trong khu vườn; xem mà như không xem. Thực hành việc này cực khó, bởi lũ trẻ tinh quái thường lôi tâm cùng rong chơi, rồi nó dẫn vào mê cung lúc nào không hay… Bên Tịnh độ chỉ cần chú tâm vào Phật hiệu, vọng tưởng “kệ nó”, tức không khởi tâm bám chấp, xua đuổi, chỉ biết mình đang niệm, nghe từng chữ danh hiệu nối nhau kết thành chuỗi thành phiến. Hễ ai còn giương khẩu hiệu chống cái này cái kia, kể cả chống cái ác, người đó chưa thể gọi chánh tri chánh kiến. Thay vào đó họ chú ý mỗi nguồn thiện từ đối tượng. Do vậy để xét một giáo phái có phải Chánh hay không, soi vào vấn đề này cũng rõ. Có những thuyết lập ra rất gần với giáo lý Đức Phật, người chưa tiếp cận Kinh điển rất dễ nhầm, chấp chặt, xem giáo chủ đó trên cả Phật, hoặc là Phật tái lai. Chủ trương “diệt trừ tà ác”, theo đó phủ nhận luôn chân tâm tạm lấp vùi trong cái ác, đó không phải là Phật pháp. Thật dễ hiểu, bởi rốt cùng tà ma ngoại đạo đều được Phật rủ lòng thả thuyền từ cứu độ.

Cư sĩ nào từng dự khóa thiền sẽ phải thức đến nửa đêm, sáng 3 giờ đã dậy tụng kinh, tọa thiền, biết mình chẳng thể theo nổi, có nghĩa cả đời khó đạt tới tứ thiền nói gì bát định. Thiền đòi hỏi phải là bậc thượng căn với nghị lực phi thường, bền gan vững trí. Đời nay tu Thiền, nhiều người chỉ tạm đối phó với căng thẳng trước sức ép xã hội, gọi là phàm phu Thiền, còn theo Thiền tông như cổ đại đức, mấy ai tu nổi? Nên dễ khiến hành giả quán gì đều đối trọng với vọng tưởng, đều lấy vọng tưởng là kẻ thù cần tận diệt, khiến vọng tưởng như con đĩa càng chặt khúc càng nảy nở. Ngài Lý Bỉnh Nam căn dặn: “Chưa được minh sư [chỉ dạy] mà đã dám tự tiện tĩnh tọa, đó là coi nhẹ Thiền quá sức!” Các Tổ thường khuyên học Thiền phải có sư thừa là vì thế. Ở ta thấy người vào định là chuyện lạ, còn bên xứ Ấn và Tây Tạng, ở các nước Phật giáo Nguyên thủy, người miên man nhập định khá phổ biến. Vào được tứ thiền bát định thì vẫn mới chạm đến cõi trời Phi tưởng, nào dễ gì ra khỏi tam giới. Có thể lấy một ly cà phê đá làm tỉ dụ cho Tâm. Nếu để ly cà phê một lúc, phía trên cùng sẽ có lớp nước trắng trong, (tạm gọi chút thanh tịnh nhờ niệm Phật); còn phần lớn cà phê phía dưới vẫn đen kịt, ví như hoặc nghiệp. Người tu Thiền đòi hỏi phải đoạn kiến tư hoặc khiến toàn ly cà phê trở nên trong suốt. Người tu Tịnh tông nhờ vào lớp nước trắng phía trên (nhất là trong thời khắc lâm chung trì niệm từ một đến mười câu Phật hiệu), lớp nước trắng dần dà quyện đặc phủ lên khiến vọng tưởng phía dưới tạm thời không sai sử thân ý tạo ác nghiệp, liền được rước về Cực Lạc thế giới theo bổn nguyện của Phật A Di Đà. Dẫu sao, đó vẫn là công phu thuộc hàng thấp. Công phu cao là những người biết trước ngày giờ, tự tại vãng sanh; vãng sanh cả khi còn sống. Điều này xưa nay rất nhiều. Rất nhiều.

Tu về Cực Lạc chẳng những hợp với bậc độn căn mà đến Bồ tát cũng cầu dự vào hàng bất thối ấy. Hạng bình phàm bất cứ lúc nào rỗi trí đều có thể niệm Phật, sự động thân va chạm ngoài đời không hề trở ngại việc tịnh tâm. Ai chuyên tu, sau một vài năm đã thấy rõ lợi ích. Tịnh độ được mười phương chư Phật gia trì; niệm một danh hiệu Phật cũng bằng niệm mười phương chư Phật. Người không tin nhận pháp Niệm Phật cũng như không tin sức gia trì của chư Phật đối với bất cứ hành giả thuộc pháp môn nào, cũng bằng vỗ ngực: Không dám phiền Phật, tự con đủ sức tìm đường tới Niết bàn!

 

Thường tâm không Phật, chúng ta niệm những gì?

Phật là bậc giác ngộ toàn triệt, nhìn thấu chúng sanh cơ bản do vọng tưởng che lấp bổn tánh, nên giới thiệu pháp môn Niệm Phật cho thời mạt. Đó là di ngôn tối thượng, căn bản nhất dành cho hậu thế. Chúng sanh vốn sống trong vọng tưởng, Phật khuyên niệm Phật để từ tướng mà lìa tướng, dần dà Phật hiệu “đồng hóa” vọng tưởng một cách lặng lẽ diệu kỳ. Theo cách nói của Tổ Thiện Đạo: “Rời tướng mà cầu hoàn thành sự việc thì cũng chả khác gì người không có chú thuật, thần thông lại đi làm nhà, xây lầu giữa hư không!”

Xưa nay để chọn ra bộ kinh quan trọng nhất trong sự nghiệp giảng Pháp của Phật Thích Ca, giới tu hành phần lớn xem kinh Hoa Nghiêm trọng yếu. Một vị cao tăng đúc kết: tinh hoa kinh Hoa Nghiêm là kinh Vô Lượng Thọ; tinh hoa kinh Vô Lượng Thọ là kinh A Di Đà; tinh hoa kinh A Di Đà là 48 lời đại nguyện; tinh hoa 48 đại nguyện là lục tự hồng danh. Phật dự liệu sau thời Mạt Pháp hết thảy kinh đều dần dà bị diệt, vẫn còn danh hiệu “A Di Đà Phật” truyền khẩu trong dân gian, ai tin sâu, nương vào trì niệm sẽ nhận được trợ lực giải thoát. Cổ đức mới dạy: “Vạn pháp tinh hoa lục tự bao”. Nam mô A Di Đà Phật với thần lực vô biên và sẽ khởi tác dụng viên mãn. Tam tạng kinh điển được gói gọn trong đó; một khi người tu chí thành, khẩn thiết niệm ngày đêm, Danh Hiệu sẽ in sâu, tự tâm phát khởi như tiếng chuông ngân vang, thăm dò, đánh thức bản tánh ẩn sâu dưới vô minh phiền não.

Nếu là Tịnh độ nói về Tịnh độ có thể chưa tin, nhưng thiền sư lỗi lạc giảng về Tịnh độ rất nhiều. Bậc đạo sư thông Thiền, Mật, họ vẫn khuyến tấn mọi người hướng về Cực Lạc. Từ Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền cho đến Tổ sư Long Thọ; Đại sư Pháp Chiếu vốn chuyên tu Thiền, sau nhờ Đức Phổ Hiền khai thị mới quay về Tịnh nghiệp, rồi trở thành Tổ; Hòa thượng Hư Vân tu Thiền đắc định, khuyên học trò niệm Phật và đã thành tựu viên mãn; Hòa thượng Tịnh Không, bậc Thượng nhân hiện thời chuyên hoằng dương Tịnh độ vốn là học trò ruột của Đại sư Chương Gia bên Mật tông. Đã ngoài 90, Hòa thượng vẫn ngày ngày giảng bản chú giải kinh Vô Lượng Thọ của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Cụ Hoàng vốn là Kim Cang A Xà lê của Mật tông, lại từng tham học Thiền tông với đương đại Thái Sơn bắc đẩu Hư Vân, mà 6 tháng cuối đời 1 ngày niệm 14 vạn danh hiệu Phật cầu sanh Cực Lạc; Hòa thượng Quảng Khâm tu thiền nhập định hàng tháng trời, kim chỉ nam truyền pháp của Ngài vẫn chỉ vỏn vẹn “sáu chữ”; Hòa thượng Tuyên Hóa lúc còn trụ thế ở Mỹ quốc dành hết tâm sức giảng Thiền nhưng ai đọc cuốn sách “Quê hương Cực Lạc” mới hiểu thấu pháp môn Ngài đã nương vào làm nền tảng. Bồ tát Di Lặc đương lai ứng Phật dương gian cũng dựa trên kinh Vô Lượng Thọ mà gây dựng lại thời Chánh pháp.

Câu Phật hiệu đầy đủ năng lực gom tâm chuyên trụ vào một chỗ như mũi khoan xuyên vào bức màn vô minh dày đặc. Thường niệm "Nam mô A Di Đà Phật" cũng chính là hành thiền. Lúc nào đi đứng nằm ngồi ta đều niệm Phật (niệm câu nào nghe rõ câu đó), ấy là tỉnh giác. Nếu ai chuyên tĩnh tọa, lúc xả thiền hòa vào dòng đời làm Phật sự rất khó giữ chánh niệm. Người tịnh niệm tiếp nối thành chuỗi tâm lúc nào cũng tỉnh thức. Như vậy, Niệm Phật thật sự là phép thiền vi diệu. Không cứ dựa vào pháp môn nào, điều trọng yếu đều phải đạt được tâm thanh tịnh. Không thể lấy cái gọi là công năng đặc dị lại đòi bay lên nước Phật. Tu - là giữ tâm trong lặng, hòa ái, trải lòng với muôn loài; ý nghĩ hành động đều nghĩ về người trước. Trong suốt thời gian đó câu Phật hiệu luôn in sâu trong tâm như được khắc chạm, vậy cũng xem là "tu chuyên nghiệp". Dẫu sự tu này nhiều lúc không ai biết (do niệm thầm danh hiệu Phật); sự tu đó làm lợi cho mọi người và hoàn cảnh xung quanh chứ nào ảnh hưởng đến ai. Từ đây xả bỏ dần tri kiến thế gian, xả bỏ sự bon chen, ghanh ghét, đối kị, tham lam sân hận, ngã mạn hẹp hòi, nhìn nhận về tất cả mọi người đều là quyến thuộc của mình, chuyên trì niệm và sống theo hạnh bồ đề, trí huệ sẽ sáng dần và phát lộ bản tánh Phật. Chợt nhớ lời khai thị của Đại sư Triệt Ngộ: “Phàm đã có tâm thì không thể vô niệm. Nếu chẳng thuận cảnh Phật mà niệm cảnh Phật thì liền niệm chín cõi; chẳng niệm Tam Thừa thì liền niệm Lục Phàm; chẳng niệm cõi trời người thì liền niệm Tam Đồ; chẳng niệm ngạ quỷ, súc sanh thì liền niệm địa ngục”. Điều này được gói trong một câu của kinh Địa Tạng: “Chúng sanh Nam diêm phù đề khởi tâm động niệm không gì không tội, không gì không nghiệp”. Từng xem qua Duy thức và tham cứu về tâm sở đa phần bất thiện, đọc đến đây lẽ nào không run sợ.

Tịnh độ Chân tông Nhật Bản thường trên tinh thần phá chấp, dựa vào nguyện thứ 18 mười niệm vãng sanh của Phật A Di Đà, đã ảnh hưởng nhiều đến giới tu hành Tịnh tông ở Việt Nam. Khá nhiều người dễ dãi quá nương cậy vào Phật lực. Trước hết phải cắt nghĩa sự tiếp dẫn. Lúc ta trì mười lượt hồng danh, khoảng thời gian đó phải tương ưng với tâm thanh tịnh. Ta niệm Phật tức ta niệm tâm Phật, chứ không phải niệm với tâm loạn lại chờ Phật phóng quang; sự chờ đó chính là cầu Phật bên ngoài. Chiếc radio hay ti vi, ta muốn nghe muốn xem phải rà đúng sóng kênh ấy mới rõ ràng, còn không sẽ chẳng rõ tiếng mà hình cũng nhảy giật, là lúc nhiễu sóng cảnh giới ma quỷ, khó thể vãng sanh. Chúng sanh vốn mang theo cả vũ trụ nghiệp, vọng tưởng đảo điên nhất là lúc bệnh nặng và cận tử. Một đến mười niệm là đang nói đến thời điểm cận tử nghiệp, khoảng thời gian vừa đủ để Phật tiếp dẫn. Mười niệm nối nhau dễ không? Nhiều người niệm Phật mấy chục năm trời song bảo thử nhắm mắt khởi mười niệm không vọng tưởng xen ngang, đã khó. Quen với miệng niệm tâm nghĩ gì tùy thích càng trượt đà, lúc lâm chung sẽ khó ứng với tâm Phật. Hiện giờ thân thể khỏe mạnh, tâm thế phấn chấn, ngồi niệm một cây hương, hỏi có mấy lần được thanh tịnh mười niệm kết chuỗi? Huống hồ lúc thân đau đớn quằn quại, nếu không cũng tâm thần bấn loạn ngổn ngang, oan gia trái chủ tìm đến thanh toán nợ nần, nghiệp lực thừa cơ trỗi dậy. Hành giả nào để ý việc này, cứ thực hành từ 3 câu thanh tịnh nối tiếp, cho đến 5, rồi nâng lên mười (theo cách 3 - 3 - 4, 5 - 5, 4 - 6) hay chú tâm trong một hơi, xếp lại, rồi tiếp tục hơi khác, dần dà mười niệm thuần thục thành phiến. Tha lực trước hết phải có ngay ở đây và bây giờ. Những bậc chuyên tu cho biết một khi hành giả quyết buông thế sự, chuyển tâm giữ giới; chính sự giữ giới sẽ cảm ứng Phật lực và điều này họ phải ít nhất tự linh cảm thấy. Dẫu biết công hạnh niệm Phật để đến với cõi nước An Lạc có nhiều cách hành trì, song thiết nghĩ nếu niệm Phật mà mặc tâm làm màn hình chiếu phim cho alaya, sẽ chẳng khó hiểu khi nhiều sinh mạng vẫn trách Phật A Di Đà lỡ hẹn. Tôi từng được đọc cuốn sách Sông lửa Sông nước, tác giả Taitetsu Unno đưa ra cụm từ “danh hiệu kêu gọi”; và dẫn câu chuyện một người bị lạc khỏi đoàn người trong một thung lũng núi non và trời thì sắp tối với tiếng thú hoang tru lên man rợ. Chúng ta thử đặt mình vào hoàn cảnh nảy, sẽ thấy cái đói thúc bách chăng nữa cũng không còn tâm trí nghĩ đến chuyện ăn dẫu để có sức để cất lên tiếng gọi thao thiết cứu mạng. Cô cứ gọi, và bỗng từ xa có tiếng gọi đáp của những người đi tìm cô. Người niệm Phật cầu vãng sanh phải như cô gái này, ngày nối đêm không còn tâm trí nghĩ đến bất cứ việc gì ngoài “danh hiệu kêu gọi”, nghĩa là buông sạch sẽ thế gian như một cú chết đi để một lòng cầu sanh về.

Phật Thích Ca từng khẳng định trong kinh A Di Đà, rằng chúng sanh lâm chung nếu thiết nguyện sẽ được chư thánh hiện tiền, khiến tâm bất điên đảo. Ở đây có một điểm trọng yếu là niềm Tin. Vào thời khắc đó, hành giả phải tin sâu, tin chắc Phật A Di Đà sẽ đến. Chưa chế ngự được tà niệm, song niềm tin vững, một lòng chí thiết đợi Phật, phiền não ắt lắng xuống; cộng với năng lực gia trì giữa một không gian đầy ắp từ trường siêu thiện và hào quang tỏa rạng, hành giả dễ chừng hóa sanh về Cực Lạc.

Đến đây mới hiểu tại sao pháp môn niệm Phật không lấy chữ Hạnh làm đầu (hạnh niệm Phật) lại xem Tín bậc nhất trong ba món tư lương. Bằng niềm tin sâu chắc, hành giả dẫu không đạt nhất tâm trong mười niệm vẫn nhiều cơ hội lách qua khe cửa hẹp tử sanh. Nhất Tâm trong niệm Phật bước đầu nên hiểu là tức thì khởi niệm Giác. Hễ vọng tưởng nổi nên ngay lập tức “A Di Đà Phật” khởi động. Suối đời hành niệm Phật cốt yếu xoáy vào việc niệm theo từng chuỗi mười câu; đang niệm bỗng tự hỏi không biết niệm thứ mấy rồi, liền bỏ ngay vòng đó niệm lại từ đầu. Hồng danh Đức Phật là hạt giống, hành giả chăm sóc nẩy mầm, lớn lên vươn cành tỏa bóng, cây bồ đề thành cổ thụ. Từ miệng niệm đến tâm niệm rồi thần niệm, câu Phật hiệu từ ngoài nghe vào nay từ tâm phát ra, là lúc hành giả xoay được sự nghe vào trong, xoay cái nhìn vào bổn tánh. Có người một mình niệm Phật mà ngỡ trăm người cùng niệm, rầm rập như sóng vỗ bờ; như hàng trăm bước chân nhịp nhàng hùng dũng tiến đến. Có người ngồi niệm mà như đang trụ giữa hư không, dàn đồng ca “A Di Đà Phật” vang vang dội xuống. Những người khác lại vô niệm mà niệm, niệm mà tâm tuyệt tĩnh yên vắng. Lại có người khởi được Phật hiệu cả trong giấc mơ để đánh tan ác mộng…

Bản thân tôi chưa thực hành được chút xíu so với những loại công phu đó. Vốn học mót ân đức chư tổ và bậc chân tu lặng lẽ giấu mình chờ thời hóa độ, những lời viết ra chỉ là cảnh tỉnh bản thân đang ở trong vòng nguy hiểm luôn có nguy cơ bị đọa vào ác đạo mà thôi.

 

Phía trước là hố thẳm…

Gặp được Phật pháp là phước báu duyên phận nhiều đời, “trăm nghìn vạn kiếp nan tao ngộ”. Ân sư của tôi dạy rằng có thân người trong đời này như là đi du lịch, hết thọ mạng lại trở về ác đạo và đó chính là quê nhà của những người có cơ hội gặp Phật pháp lại không buông xả thế gian dụng tâm cầu giải thoát. Hàng trí thức cho thấy họ đã tích thiện nghiệp từ rất nhiều kiếp, bởi sở tri chướng che tánh linh vi diệu của căn mạng nên không tin mình đang trôi theo nghiệp lực. Ngược lại nhiều người bị xem khờ khạo, đời nay nghe khuyên theo Phật liền tận tâm buông xả thế gian niệm Phật cầu về Cực lạc. Thượng hay hạ căn, kẻ sang hay hèn phải dò vào Phật pháp mới thấu. Học pháp hàng ngày tức ta sống trong Pháp. Phật dạy gì nghe nấy, gắng phụng hành bằng cả tâm sức và lòng kính ngưỡng. Những bài giảng kinh của bậc cao tăng người tu đọc nhiều lần, mỗi lần sẽ giúp chiêm nghiệm thêm điều mới - là nét kỳ diệu của Phật pháp. Chúng ta chưa cảm được niềm hạnh phúc tột cùng lúc thành Đạo, chưa hình dung ra cảnh giới vi diệu ở Cực Lạc, hơn thế sống giữa trần gian từ nhỏ nên cuộc đời này vẫn luôn có sức hút ghê gớm khó cưỡng. Nhìn xuống sẽ thấy loài vật chỉ biết đến không gian nhớp nhúa; chúng vẫn thấy “hạnh phúc” trong sự khốn cùng oan nghiệt ấy. Con chó biết rằng phân dơ thì chúng đã không ăn! Càng xem nhẹ tài danh, sắc dục, ăn uống, ngủ nghỉ sẽ càng gần Phật tánh hơn. Những gì thuộc thế gian đều huyễn mộng. Thân tứ đại là thật, song già cả hết nhân duyên thì đất nước gió lửa ấy tan rã bốn đường, chỉ còn thần thức tồn lưu trong sự xiềng xích của mọi ham muốn, tùy vào nghiệp lực đưa vào các nẻo luân hồi thống khổ.

Người trẻ tu không tinh tấn dụng công không chừng muộn, nói chi đến người nghỉ hưu rồi vẫn còn mông lung Phật pháp quả không gì đáng tiếc hơn. Sự Đời lúc mất rồi, nhiều khi con càng “có hiếu”, mẹ cha nơi chín suối càng chịu đọa đày. Đám tang to, nhiều chúng sinh bị giết hại. Nghiệp ấy chắc chắn họ phải nhận một phần bởi lúc chết không tin Phật, không khuyên con cháu đừng hại vật, không khuyên con cháu ăn chay, làm đám chay và phục thiện. Rồi thay vì tụng kinh niệm Phật, phóng sanh vào 7 ngày “thất”, chúng lại mổ heo bò khuếch trương sự “hiếu”. Cái hiếu đó chính là... bất hiếu; cha mẹ “cộng nghiệp” bị đọa xuống cảnh giới thấp hơn. 

Tránh nghiệp Tam đồ, trước nhất phải khuôn mình vào Thập thiện. Ân sư tôi bảo đây là tiêu chuẩn thấp nhất trong nhà Phật, không có nấc thấp hơn nữa. Cần cố viên thành cho được 80% như lời của Thiện tri thức nhắc nhở; không phải làm 8 điều còn 2 điều gác lại. Trái với Thập thiện là Thập ác, không có cái "ở giữa". Ta phạm sát sanh như cố ý giết một con kiến, đã là "nhất ác" rồi. Ta mua năm con cá sống, dẫu ăn một và phóng sanh bốn cũng “ác” nữa rồi. 80% của “thiện” đầu tiên có thể chấp nhận được khi ta ăn mặn(nguyên ủy là ăn mạng) theo Tịnh nhục: không giết vật để ăn, không thấy nó bị giết và không nghe tiếng nó kêu khi bị giết; tập ăn chay trong những ngày rằm, mồng một, nâng lên 4 ngày, 8 ngày, 10 ngày, nửa tháng. Đức Phật dạy Ngài A Nan và đại chúng Tỷ khưu trong kinh Lăng Nghiêm, ngay đến “năm thứ tịnh nhục, thịt kia đều do thần lực tôi hóa sanh ra, vốn không có mạng căn. Xứ Bà la môn các ông, đất đai phần nhiều nóng bức, lại thêm cát đá, rau cỏ không sanh được; tôi dùng sức đại bi gia bị, nhân sức đại từ bi, giả gọi là thịt và các ông cũng nhận được cái vị như thịt; làm sao, sau khi Như Lai diệt độ, người ăn thịt chúng sanh, lại gọi là Phật tử”. Ngài còn dạy: “Muốn thế gian này vĩnh viễn không còn kiếp đao binh, chẳng có chiến tranh thì trừ phi chúng sanh không ăn thịt”.

Trong alaya thức mỗi người chứa quá nhiều ấn tượng, là những “âm bản” của hết thảy sự vật hiện tượng thâu vào qua sáu căn, là chủng tử dữ liệu trì níu khiến những kiếp sau ta khó thể thăng lên được. Thập thiện nghiệp là nấc thang cơ bản xác định một sinh mệnh có thể tiến hay lùi trong hành trình tiến hóa tâm linh. Trong kinh Địa Tạng tả cảnh Thánh Nữ Bà la môn lúc niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, xuống “âm” thăm mẹ mình vừa mất, Quỷ vương hỏi mẹ cô trước có bài Phật báng Pháp không liền biết hiện thọ báo ở tầng địa ngục nào. Quả chưa nhỡn tiền chính vì họ còn phước; họ đang vét phước, đang vay phước để sống. Ngân hàng phước đức vô tận, cứ tự nhiên lấy dùng không cần một thế chấp giấy tờ nào ngoài sự phải trả ở Tam ác đạo và hơn thế còn “liên đới” cháu con còng lưng gồng gánh đến bạc tóc. Người hành chánh pháp chẳng dại vay mượn phước đức sống hoài sống phí để rồi thọ khổ muôn đời sau. Ở đời, nếu như người thân hoặc bất cứ ai cho mình tài vật (là cho chứ không mượn); cho nghĩa là họ sẽ không lấy lại. Họ không lấy song họ còn nhớ, còn... tiếc; họ còn nhớ tiếc, mình còn nợ, sẽ phải trả cho người khác, hoặc nợ ấy được chuyển hóa thành bệnh tật, nạn nghiệp, trừ phi ta hành thiện bố thí (tài vật, Pháp và bố thí vô úy). Trong Lục độ, bố thí ba la mật: không có người cho, không có vật cho và không có người được nhận. Ta giúp ai điều gì quên ngay lúc đó, (sẽ không khởi ý niệm khoe), mới trọn phước. Ai mượn gì, trả cũng tốt, không trả cũng hoan hỷ... Soi thêm vào Bát chánh đạo càng rõ mình hơn. Học Phật thấu đáo là người rốt ráo chỉnh lại những gì chưa đúng trong cuộc sống, với cư sĩ nhất là nghề mưu sinh. Quán nhậu (sát nghiệp), nghề phục vụ sự sa đọa... Con người giàu có thường nghĩ đến hưởng lạc. Tụ điểm ăn chơi càng cao cấp, số chúng sanh bậc thấp khổ nạn càng lớn. Thay vì một con vật bị giết, món gan phải dùng đến rất nhiều sinh mạng. Trên thế giới thật không ngẫu nhiên thiên tai địch họa từng ập vào những nơi thác loạn và nơi gieo rắc bi ai cho nhân loại.

Cuộc sống chúng ta căn bản ngụp lặn trong phiền não. Phiền não như rác rưởi người ta vứt vào nhà; thay vì vất ngược trở ra, ta tận dụng "tái chế" sử dụng. Không gì là vô nghĩa. Phật tánh vĩnh viễn chẳng mất ở bất cứ ai. Lúc chịu hết nghiệp tội, chó cũng sẽ chuyển kiếp và giác ngộ... Các bậc Đại sư ví dụ: ti vi có rất nhiều kênh thì trong người ta cũng có tâm Phật (chân tâm), tâm quỷ, tâm a tu la, tâm súc sanh (vọng tâm). Ta chỉ có thể bật và xem được một kênh mà thôi. Bật kênh Sài Gòn thì các kênh khác đều lặn; cũng như bật kênh Phật thì các kênh khác trong người sẽ chìm. Một kẻ sát nhân tức kênh ác quỷ mà thỉnh thoảng hắn vẫn khởi tâm thương người, ấy là hiện tượng "nhiễu sóng" qua kênh Bồ tát; đích thị đời hắn vẫn bật kênh tà đạo.

Nhớ một hôm qua thăm ông hàng xóm đã hom hem, ông tâm sự hai năm nay thấy cảnh người chết mà rụng cả tóc. Đang yên đang lành bỗng nằm liệt đến thúi thịt thúi xương mới chết nổi. Người thì suốt ngày than sao từ nhỏ đến lớn không gây nghiệp lại bi đát nỗi này. Tôi bảo đời người kiếp này nối kiếp khác trùng trùng vô tận, có lên được cõi Phật mới hết sinh lão bệnh tử. Chết là sự kiện quan trọng nhất đời người. Bây giờ ông không lo dặn dò con cháu thì lúc qua bên kia cứ là nhận thêm nghiệp chúng “gửi” xuống. Ông hỏi là sao? Tôi bảo, ví như bây giờ ông dặn con cháu, đám của ba tuyệt đối không sát sanh, nếu như sau này chúng mổ heo gà thì ông ít tội; còn giờ không dặn dò, mai sau chúng sát sanh cúng kiếng giỗ kị lo ráng đỡ. Ông gật gù, nhưng vẫn bảo mấy đứa con cứng đầu lắm. Tôi bảo: Vậy để con viết cho một tờ giấy, ông cứ cất trong túi, lúc biết mình yếu thì lòi ra, bảo đây là “di chúc”, đứa mô không nghe theo xem như bất hiếu!

Tôi viết: “Lời dặn của ông B. với con cháu. Đời người ai rồi cũng chết. Cha giờ tuổi cao, nghĩ về cái chết rất thoải mái. Cha ngày đêm luôn cầu Phật được ra đi nhẹ nhàng, không đau đớn và mong có chút phước siêu sanh cõi Tịnh. Các con nghe lời cha dặn như sau: Nếu thấy cha yếu thì tắm rửa thay quần áo, để cha nằm yên, con cháu không được vây quanh thương tiếc. Lúc cha đi rồi con cháu không được chạm vào người cha trong vòng ít nhất 9 tiếng đồng hồ; phải giữ yên lặng và tuyệt không than khóc. Trước đó nên mời quý sư đạo hữu về niệm Phật giúp cha, hoặc các con vây quanh niệm Phật; cha sẽ cùng niệm “A Di Đà Phật” cầu sanh Cực Lạc. Cha mất rồi con cháu không nên sát sanh trong suốt 49 ngày, kiêng cữ, làm nhiều việc thiện, cúng dường Tam bảo, phóng sanh; tốt nhất là động viên nhau niệm Phật hồi hướng...”.

 

Dưới chân Ngài Địa Tạng

Một chiều ngang qua vùng Hải Lăng - Quảng Trị, tôi dừng chân viếng tượng Địa Tạng. Địa Tạng - kho tàng Tâm, nơi sinh ra các Pháp. Địa Tạng - cuốn hiếu kinh trong đạo Phật được mười phương chư Phật tới dự thính ghi lại nội dung quan trọng: khi Phật nhập diệt đã phó thác cho Bồ tát Địa Tạng giáo hóa cõi ta bà (gồm tam thiên đại thiên thế giới). Bồ tát nguyện cứu vớt hết thảy chúng sinh nơi địa ngục (Địa ngục vị không thệ bất thành Phật). Bây giờ tôi đang ngồi dưới chân Ngài, nghĩ về cái chết.

Người ta sẽ đặt câu hỏi: Người trẻ, nghĩ đến cái chết bây giờ có quá sớm? Câu trả lời: Không quá muộn song chẳng còn sớm nữa. Cái chết đến với chúng ta bất cứ lúc nào. Không ai dám khẳng định người đang hấp hối sẽ chết trước một thanh niên khỏe mạnh. Cái chết sẽ đến thình lình, chóng vánh. Nó khiến chúng ta không kịp trở tay, không kịp nói những điều cần nói và làm những điều cần làm. Tần Thủy Hoàng thời thịnh trị dễ chừng xoay được cả trái đất nhưng việc tìm thuốc trường sinh thất bại. Cuối cùng cái chết thảm thương đến với ông ngoài dự liệu. Không ai sống mãi trừ các vị tu chứng, các vị niệm Phật đạt nhất tâm thành phiến, chư Phật và Bồ tát. Người thường ai chẳng đi đến cái chết. Nhận thức biết mình sẽ chết, sao không chuẩn bị? Đời người, phần lớn có mấy chục năm, người ta lại dùng lượng thời gian đó sống vì dục lạc lợi dưỡng ngược chiều với Đạo. Chuẩn bị cái chết mà chỉ viết tờ di chúc phân chia của cải, lo trước đám tang mình là hết sức cạn nghĩ.

Dượng tôi là giảng viên đại học môn Lý; một người hiền lành, sống giản dị, cần kiệm; dượng không tin thế giới tâm linh. Nghỉ hưu trên chục năm dượng phát hiện ung thư; mổ lần thứ hai, bệnh viện trả về. Thời gian chưa đầy tháng, ông còn tỉnh táo lo việc chung gia đình và lên kế hoạch đám tang. Sợ phiền đến con cháu và mọi người, ông dặn không được để dài ngày...

Nhờ duyên phước, con ông mời các cô ở chùa về niệm A Di Đà Phật cầu tiếp dẫn. Các cô không phiền gì gia đình, đến cả bữa cơm cũng tự mua lấy, thay nhau trì niệm từ 7 giờ sáng đến 6 giờ tối. Vài người trong nhà không hiểu bắt đầu khó chịu, bảo dượng bị “ép” nghe A Di Đà Phật nên không muốn đi. Tội nghiệp, các sư cô đến niệm Phật những giờ phút cuối dượng tôi an lòng về bên kia, ai ngờ dượng vẫn còn... khỏe. Hiểu ý vài người thân của dượng, các cô lặng lẽ ra về. Sáng hôm sau nữa ông mới mất; nghe tin các sư cô lật đật tới liền. Ngoài đời có ai tự nguyện giúp vô tư như vậy? Chỉ có tấm lòng hướng nguyện của người tu mới làm được thế. Các cô dặn ít nhất để dượng tôi nằm yên, tuyệt đối không ai chạm vào trong vòng 8 tiếng, và các cô niệm Phật trong suốt thời gian đó. Thêm một nguyên cớ để số ít người nhà dượng tôi bằng mặt mà không bằng lòng.

Đạo Phật giải thích rất thỏa đáng: khi một người ngừng thở, phải cần từ 8 đến 12 tiếng tạm đủ để thần thức người có duyên lành rời hẳn thân xác. Người vừa ngừng thở như nồi nước sôi nhấc khỏi lửa, khoảng vài phút thì “lặng sóng”; lúc đó ai đụng vào liền đau đớn chẳng khác ta nhúng tay vào nồi nước nóng, (trong kinh ví như rùa sống lột mai). Người cố chấp cứng nhắc cho đạo Phật dành cho những ai tu, mình không tu cớ gì thực hành như trên. Truyền giảng giáo Pháp, Phật Thích Ca không phân biệt đẳng cấp thứ bậc, màu da, Ngài chỉ nói chân tướng nhân sinh vận hành tự nhiên trong vũ trụ. Cái chết cũng là sự chung, chẳng riêng ai. 

Trong đám tang của dượng, có một người đến cùng vẫn muốn thấy linh hồn tròn méo thế nào mới tin. Tôi hỏi, có phải tất cả kiến thức có trong đầu anh hầu hết do học. Anh gật. Vậy anh đã đọc về sự sống sau cái chết? đã đọc phía bên kia cõi sống? đã “xem” cảnh giới thân trung ấm? cụ thể hơn là thế giới người âm từ các nhà ngoại cảm. Anh lắc. Vậy sao lúc người ta đem ra trước mặt các loại sách quý đó do các vị tu chứng hóa thân, các vị từ cõi âm, từ cõi Phật trở lại viết ra, sao anh không ngó qua.

Vẫn biết không phải cứ thông minh uyên bác là thẩm thấu nhân quả luân hồi, bởi Phật pháp vào mỗi người bằng đường Tâm. Đạt Lai Lạt Ma 14 lần đầu thai hóa độ chúng sanh với đầy đủ minh chứng được cả thế giới thừa nhận. Ngài Karmapa Pagshi được chính các đệ tử tuyên nhận tái sinh của Karmapa Dusum Khyenpa, dựa trên chính những chỉ dẫn được để lại cho đệ tử bởi vị tiền nhiệm ấy”. Đại sư Gedun Drub thị thịch vào năm 1474 ở tuổi 84. Hai năm sau, người ta buộc phải tuyên nhận đứa trẻ Sangye Chophel ra đời vào năm 1476 tại Tanak ở vùng Tsang bởi những gì đứa trẻ đó nói ra không chút sai trật về cuộc đời trong quá khứ”. Tại Việt Nam: đứa bé khoảng mươi tuổi giảng pháp không thua một vị tu học suốt nửa đời người. Hay một trường hợp thật khác: người mẹ trên mình có hình xăm, con vừa lọt lòng cũng có hình xăm y chang; khoa học sao có thể giải thích.

Đạo Phật thừa nhận việc người đã mất vẫn nhận được ý nguyện của người sống; điều này cũng áp dụng được giữa người sống với nhau nếu có nội lực tâm linh. Ai đó căm thù ta nhưng ta luôn luôn cảm thương, một lòng nguyện cho họ tốt hơn, lúc gặp tự dưng sự ghét và căm thù đó phần nhiều được hóa giải. Sóng tâm ấy không hạn định thời không.

Dượng tôi may phước vừa được các cô niệm A Di Đà Phật suốt 8 tiếng, lại có con cháu nguyệnsinh. Riêng tôi luôn luôn “nhắn nhủ” ông hãy buông mọi bám luyến chuyên niệm Phật; duyên quá sâu sẽ được tiếp dẫn, theo các Ngài chứ không theo bất cứ ai, kể cả người thân. Kinh Địa Tạng viết, lúc lâm chung oan gia trái chủ sẽ biến hiện làm quyến thuộc “rủ” họ vào ác đạo báo thù xưa. Nam mô A Di Đà Phật hướng về vùng sáng. Vừa qua núi, linh hồn trở thành... mê hồn - hoang mang, đức lại mỏng nên thường sợ hãi chạy qua vùng đen - dễ nghiệp sinh, lâm vào tam đồ. Cho dù không tu, con người hấp hối và suốt nhiều giờ các thức rời khỏi, A Di Đà Phật cứ dội vào tâm não; cầm duy nhất câu đó qua bên kia đã thật nhiều hy vọng sanh cõi lành. Người sắp chết với vô vàn ý nghĩ về con cháu, vợ chồng, bè bạn, của cải, danh vọng; ý nghĩ nào quá mạnh trong thời khắc tắt thở sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc tái sanh. Người sắp chết nhập tâm A Di Đà Phật, sác xuất tạp niệm len vào những giây cận tử càng ít, cơ hội Phật độ hoặc sanh vào tam thiện đạo càng lớn.

Chẳng rõ dượng tôi đã tới đâu, song ít ra ông ít đau trong khoảng thời gian các thức chưa rời hẳn. Đó là niềm an ủi lớn khiến tôi đỡ ân hận khi dượng đau yếu lại không có bên an ủi.

Ai cũng sẽ hao hụt người thân. Hiểu đúng về phía bên kia cõi chết, chúng ta sẽ bớt đau khổ. Chính sự khóc lóc thương xót người sắp về nơi vĩnh hằng là mang trọng tội bởi họ sẽ luyến níu không bước nổi về vùng sáng mà chui vào màn tối hoặc bị ngạ quỷ, bị âm binh sai khiến hoặc đơn giản ở lại “sống” bên mồ mả của chính họ. Đa phần những linh hồn (còn ngoài mộ) là những “người” đánh mất nhiều cơ hội giải thoát trước hết trong 49 ngày. Các nhà ngoại cảm từng trò chuyện với nhiều trường hợp chết đã mấy trăm năm. Không dứt được cái tình, họ ở lại quanh quẩn bên người thân, chẳng ngờ trượt đà chứng kiến cảnh con cháu chít chắt nối nhau về trời, mình vẫn còn đứng đó.

Chuẩn bị cái chết đúng nghĩa, là sống đời thanh đạm không tham ái, không để tám ngọn gió thế gian (lợi dưỡng - không lợi dưỡng, danh vọng - không danh vọng, vui - buồn, khen - chê) cuốn theo dòng uế nhiễm của xã hội; là bào mòn tham sân si mạn, thanh lọc thân tâm, phá chấp bản ngã. Chuẩn bị cho cái chết, chúng ta sẽ không còn sợ hãi cái chết nữa. “Nếu bạn thương yêu những cái cây, mặt trời hoàng hôn, những con chim, chiếc lá rơi; nếu bạn nhận biết được những người đàn ông và phụ nữ đang rơi nước mắt, những người nghèo khổ, và thực sự cảm thấy tình yêu trong quả tim của bạn, liệu bạn sẽ sợ hãi chết? (Cuộc đời trước mặt - Krishnamurti).

Dải ngân hà có hàng trăm tỉ vì sao. Trái đất thậm chí còn nhỏ hơn cả chấm sáng dày đặc trên bầu trời? Con người trên trái đất, bé xíu biết bao! Khoa học đã tìm ra sự sống trên sao hỏa. Điều đó cho ta mường tượng về cuộc sống của lớp người nào đó từng tồn tại cho tới lúc sao hỏa khô kiệt bởi văn minh công nghiệp, họ đã di trú tới một hành tinh khác (như trái đất chẳng hạn). Sau bao nhiêu thời gian, (vùng đất hoang hóa) sao hỏa hồi sinh, trong lúc trái đất đang già cỗi... Cuộc sống trần ai chỉ là lát cắt đồng đại trong thăm thẳm chiều thời gian vũ trụ. Nếu ta chỉ tính “cái chớp mắt” này mà không muốn hiểu con người còn phải trằn qua hàng tỉ kiếp trước và hàng trăm nghìn kiếp kế tiếp nếu không hành Đạo, sẽ thấy rất nhiều bất công oan trái. Chưa thể nhìn xa, cũng nên sáng suốt nghĩ về sự chết; xem đây như một môn học rất bình đẳng với các loại kiến thức khác chúng ta đã nạp vô não mình. Giác, bắt đầu bằng việc giữ tâm thanh tịnh mọi hoàn cảnh vui buồn. Nương vào "A Di Đà Phật" như ta đi trong đêm tối, câu “vạn đức hồng danh” chính là đuốc; để vọng tưởng phiền não xen tạp xem như đánh mất ánh sáng. Nhuần nhuyễn rồi Phật hiệu thành máu huyết căn mạng, thành kim chỉ nam dắt ta thoát khỏi rừng người chằng chịt nhân duyên đổ bóng về miền cực lạc.

 

Con khỉ lại thức trong mỗi giấc thiền

Trong Hoàng Bá truyền tâm pháp yếu có ghi lại lời Sơ tổ Đạt Ma: “Hết thảy chúng sinh vốn là Phật, không cần nhờ tu mà nên. Nay chỉ cần nhận biết bổn tâm mình, thấy bổn tính mình, đừng cầu tìm chi khác nữa. Làm sao nhận biết tâm mình? Chính cái ‘đang nói năng đây’ là tâm”. Đến như Nhị tổ Huệ Khả xưa từng chặt đứt cánh tay thể hiện ý hướng cầu đạo; khi Sơ tổ bảo “đưa tâm ta an cho thì lắc đầu: “Con kiếm mãi mà chẳng thấy tâm đâu”. Yếu chỉ của Đạt Ma khi sang du hóa ở Trung Hoa nước Ngụy vào năm 520 sau TL hẳn là “Trực chỉ nhân tâm”.

Trực chỉ nhân tâm, tức đã biết có tâm, đã nắm được tâm? Cần quay lại câu hỏi ban đầu: “Làm sao nhận biết tâm mình?” Nhiều người cứ quen miệng Phật tại tâm, thực chất họ chưa biết tâm. Con người được sinh ra vốn có thân và tâm. (Dĩ nhiên là thân huyễn và tâm vọng; chân tâm tự tánh như Tổ chỉ thì chúng ta chưa nhận được). Hầu như ai cũng biết đến thân, chăm sóc chiều chuộng. Họ dùng mỹ phẩm, thời trang, dùng tiền vuốt ve thái quá. Nên tâm bị bỏ quên. Một không gian lãng mạn với những lời hoa mỹ, những nốt nhạc ru tình; họ đến chốn thơ mộng thưởng thức nhiều món ngon với cả thị giác lẫn vị giác... tất cả những thứ ấy khiến con người nhầm tưởng đã có một cuộc sống tràn đầy [nội] tâm, tưởng nắm được tâm.

Cũng một miếng ăn, nhưng ta biết ta đang ăn, đang cảm thấy ngon hay dở, lòng rộn sướng vui hay bực tức, mới chính là khoảnh khắc bắt đầu nhận diện được tâm [tham]. Cũng một lời nói tưởng rất tình cảm là nhắc đến X ra giữa mọi người, nhưng biết sự nhắc đó chỉ để người khác nói hùa sai sót của X; nếu lấy làm xấu hổ, lúc đó ta thực đang biết đến tâm. Cũng một hành động móc tiền cho người ăn xin, nhưng biết chỉ để nở mặt với người ngồi bàn bên, biết ngay bao phần trăm tính cơ hội trong việc thiện đó, chính là tâmđang lên tiếng. Vân vân. Tâm chính là viên ngọc, thân chỉ là cái hộp đựng. Chăm sóc thân, tâm dễ lu mờ tì vết. Biết tâm và chăm sóc, tâm sẽ phát sáng.

Nhận biết tâm trong cuộc sống đã khó, giữ được tâm bình lặng lúc Thiền định càng nan giải khôn cùng. “Không có hiện tượng nào lướt đi nhanh chóng như cái tâm. Khó mà tìm được một sự so sánh nào để diễn tả được sự lướt đi nhanh chóng của tâm” (Kinh Anguttara Nikàya). Đức Phật dạy rằng: “Giống như một con khỉ chuyền từ cây nầy qua cây khác, nó nắm lấy một cành cây rồi chỉ buông tay ra khi nó nắm được một cành cây khác, con người cũng như thế, tư tưởng, tâm hoặc ý thức của họ phát sinh và biến mất liên tục, không ngừng suốt ngày đêm”.Học trò của Bổn sư, ngài Tịnh Danh cũng từng ví “tâm như khỉ vượn”, rất khó chế ngự, rất khó điều phục. Kinh Samyutta Nikàya, II: “Giống như một con khỉ bay nhảy trong rừng sâu khi thì chụp cành này, rồi buông bỏ lại chụp cành khác, rồi chạy chụp cành khác nữa. Trong “Con đường dẫn đến Phật quả”- Những Giáo lý về Pháp Bảo của sự Giải thoát, ngài Gampopa cũng tự vấn: “Có bao giờ bạn nhìn thấy bức tranh tuyệt đẹp minh họa các giai đoạn của thiền định? Bạn thấy một con voi, một con thỏ, một con khỉ, và một người đàn ông. Con voi là tâm ta, con thỏ là sự hôn trầm, con khỉ là sự xao lãng và người đàn ông là sự chú tâm. Ở cuối trang giấy, con khỉ đang dùng một sợi giây để kéo con voi đến nơi nào nó muốn”. Hòa thượng Quảng Khâm suy nghiệm: “Xuất gia là để trị cái tâm lăng xăng như khỉ”; Hư Vân thiền sư tự thuyết, lúc trẻ ông cũng “tâm nhiều tham cầu, như khỉ vượn nhảy nhót hái trái cây”.

Trong rất nhiều từ ngữ dùng chỉ mức độ nghiêm trọng của tâm: điều tâm, nhiếp phục tâm, khai phá tâm,… thì thuần hóa tâm thiết nghĩ chuẩn xác và đắc địa. Ngày xưa những loài vật hoang ở rừng rú, hung tợn và độc ác, con người bắt về nhốt lại rồi lên kế hoạch thuần hóa, đến lúc chúng sống bên người mà không làm hại đến [tính mạng] ta, lúc đó mới tạm ổn. Tâm người không tu tập tập từ nhỏ, lớn rồi chẳng khác ngựa hoang, hay như bò tót mà đấu sĩ cưỡi trong các lễ hội ở Tây Ban Nha. Nó lồng lộn, vừa nhảy vừa xoay sao hất bằng được người cưỡi rơi xuống, rồi thừa thắng hung hãn lao tới húc. Mức độ quấy nhiễu còn tệ hơn, ấy là lúc ta đối mặt với con khỉ. Khi Thiền, tâm chúng ta như khỉ chuyền cành không ngừng nghỉ. Tính dữcủa [tâm] bò tót đã lặng, nhưng tâm-con-khỉ lại có vũ khí rất lợi hại. Một clip về động vật hoang dã quay cảnh con khỉ cứ bám nhành cây mà bớp tai đấm vào đầu con hổ đang cố ngủ dưới bóng cây. Mỗi lần bị bợp, hổ vùng dậy tức tối xem chừng có thể xé tan khỉ nhưng chịu không làm gì được; nhoáng cái khỉ đã ở trên cao.

Nhắc lại câu chuyện Thiền: một người nài nỉ xin bằng được vị sư câu thần chú. Sư bằng lòng cho, chỉ dặn: Lúc niệm thần chú này đừng nghĩ đến con khỉ. Người kia mừng rỡ đầy tự tin đáp: Tưởng gì chứ không nghĩ đến con khỉ, quá dễ. Thế nhưng mỗi lần người này niệm câu thần chú, con khỉ cứ xuất hiện quấy nhiễu. Anh càng xua đuổi, khỉ càng bay nhảy quấy nhiễu câu thần chú. Đã biết “tâm như khỉ vượn” thì nên tìm cách thân thiện với những biến thái của tâm chứ ngăn chận có chăng là ảo tưởng. Carolyn Rose Gimian từng viết: “Trong truyền thống Phật giáo, người ta thường dùng sự so sánh tương đồng giữa kinh nghiệm tự ngã với một con khỉ bị kẹt trong một căn nhà trống. Con khỉ ích kỷ và tự mãn nhảy bổ vào tường rồi dội ra, cảm thấy bị nhốt và cố gắng để thoát ra. Nó nghĩ nó bị giam trong ngôi nhà và không hề biết rằng chính nó đã tạo ra nhà giam này. Nó cũng không hề ý thức được rằng nó như vậy là thực sự ổn rồi. Bạn và tôi có thể không khác gì mấy anh chàng khỉ đó”.

Hãy tưởng tượng đến một vùng tối, cánh cửa nhà ai đột nhiên mở và ánh sáng chiếu ra; ngồi thiền, lúc ấy tâm quan sát những ai ngang qua vùng sáng, như một camera hồn nhiên, không dùng lý trí phân tích can dự. Tổ Hoàng Bá truyền tâm pháp cho một học trò: “Vừa kiến chấp thấy Phật, liền bị Phật ngăn ngại; vừa kiến chấp thấy chúng sinh, liền bị chúng sinh ngăn lại. Hễ có kiến chấp phân biệt phàm thánh, sạch dơ, liền bị các kiến chấp ấy ngăn ngại. Vì những thứ ấy ngăn ngại tâm ông, nên ông cứ luân chuyển mãi, loay hoay như con khỉ, buông cái này chụp cái kia không lúc nào ngưng”. Những tiếng guốc, những giọng nói, những tiếng động, những sự việc quá khứ vị lai sẽ thầm lặng lướt qua tâm, hãy để chúng trôi đi và không kiểm soát dẫu rằng tâm đang canh gác nghiêm mật. Rất nhiều kiểu quán trong thời Thiền. Tứ Niệm Xứ gồm quán Thân [bất tịnh], Thọ [khổ], Tâm [vô thường], Pháp [vô ngã]. Thêm 16 phép quán trong Quán Vô Lượng Thọ kinh. Người tu lúc thiền cũng có thể niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Dòng niệm nối nhau không ngừng nghỉ trong sự ngưỡng vọng ơn cao dày Đức Phật, trong nỗi khao khát tột đỉnh được trở về “bản quán” Cực Lạc. Ấy tạm gọi là Thiền-Tịnh song tu. Pháp ngữ của Thiền sư Hư Vân: “Nếu như niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, thì có khác gì với tham thiền! Tham thiền đến độ cả hai năng và sở đều mất thì có khác gì với thật tướng niệm Phật! Thiền tức là Thiền trong Tịnh độ. Tịnh độ tức là Tịnh độ trong Thiền. Thiền và Tịnh độ vốn tương trợ lẫn nhau”. Thiền không chỉ ngồi thiền. Thiền phải có ở hầu như mọi hành động suốt ngày đêm của ta. Người tu trước lúc ngủ nhất tâm niệm “A Di Đà Phật” đến ngủ quên; thực hiện thành nếp, hễ cứ nằm xuống ngủ là tự động câu Phật hiệu bật lên trong tâm; nửa đêm lỡ tỉnh dậy lại niệm, tuồng như tánh giác vẫn niệm lúc ý thức tạm ngưng hoạt động; âu cũng là cách dụi cái bóng con khỉ chìm xuống đáy vọng tâm.

Con khỉ trong thuyết Tiến hóa, đến nay các nhà khoa học vẫn chưa giấu được cái đuôi vào đâu. (Cũng như Ngộ Không chạy trốn Nhị Lang thần, lúc biến thành túp lều vẫn để lộ... cột cờ). Loài người không là quá trình tiến hóa từ loài khỉ, nhưng nếu ai khởi niệm tu giải thoát, thì con khỉ đã sẵn trong tâm rồi.

Lịch sự kiện trong tháng

Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5 Thứ 6 thứ 7 Chủ nhật
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31

Tủ sách Bảo Anh Lạc

Thư viện

Pháp âm